Tác giả:
Antoine
Galland
Mục sách
:
Văn học
nước ngoài
Văn học
kinh điển
Kỳ Ảo
"Nghìn
lẻ một đêm" được tạo nên qua một quá trình kéo dài nhiều thế kỷ. Tác phẩm
hoàn chỉnh vào thế kỷ 15 nhưng những phần cốt yếu như truyện nền, các truyện kể
chính đã hình thành trong khoảng thời gian từ trước thế kỷ 9 cho đến thế kỷ 12.
Dấu vết của Nghìn lẻ một đêm được tìm thấy trong văn bản viết sớm nhất vào
khoảng thế kỷ thứ 9 trong một cuốn papyrus. Ngay trong cuốn papyrus này đã có
sự đề cập đến tựa đề Sách về các câu chuyện từ Một nghìn đêm và tên của hai
nhân vật là nữ Dinazad và Shirazad - sau này trở thành Dunyazad và Shahrazad.
Khoảng một thế kỷ sau đó, một tác giả ở Baghdad, sử gia al-Mas‘ûdî (896-956)
cũng nói về tác phẩm gồm các câu chuyện được kể trong các đêm với các nhân vật
trong truyện nền là hoàng đế, quan tể tướng, con gái tể tướng và cô nữ tỳ trong
sách Bãi vàng (Murûj adh-dhahab) của mình.
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
1: Nàng Scheherazade
Sử sách
thời Sassanides, thời của những ông vua quốc gia Ba Tư cổ xưa, đất nước có biên
cương mở rộng tới tận Ấn Độ và các đảo phụ thuộc lớn nhỏ, trải ra tới phía bên
kia sông Hằng và phần đất rộng lớn của Trung Quốc bao la, chép lại rằng ngày
xưa có một ông vua của cái quốc gia hùng mạnh đó, nổi tiếng là một đấng quân
vương anh minh, đức độ.
Ông vua
này chẳng những được các thần dân tôn sùng kính mến vì tài năng và tính cẩn
trọng mà còn được các quốc gia lân bang nể sợ vì uy danh có một đạo quân thiện
chiến và kỷ luật. Đức vua có hai hoàng tử. Hoàng tử anh tên là Schahriar có đầy
đủ đức tính như cha, xứng đáng là người sẽ được kế tục ngôi báu. Hoàng tử em là
Schahzenan cũng chẳng thua kém gì anh về mọi mặt.
Sau một
thời gian dài trị vì trong vinh quang và thịnh vượng, đức vua cha già yếu thăng
hà. Schahriar, hoàng tử anh lên ngôi. Theo luật của đất nước này, hoàng tử em
Schahzenan không được xẻ chia quyền hành, đành phải sống như một dân thường.
Không có một chút gì bất đồng đố kị, Schahzenan còn ra sức giúp đỡ anh làm cho
anh lúc nào cũng vui vẻ hài lòng.
Schahrlar
vốn đã rất yêu quí em, nay lại thấy rõ thái độ vô tư của chàng nên lại càng mến
trọng. Trong niềm xúc động hân hoan đó, Schahrlar quyết cắt đất Đại Tartarie và
phong cho em làm vua quốc gia rộng lớn này. Hoàng tử em Schahzenan bèn từ biệt
vua anh và lên đường nhậm chức. Chàng chọn Samarcande làm thủ phủ của đất nước.
Đã mười
năm rồi, hai vị vua anh em đó xa nhau, khi vua Schahriar nảy ra ý muốn tha
thiết được gặp lại em. Ông quyết định cử một sứ thần đi triệu em về triều. Thế
là vị đại thần đầu triều cầm đầu sứ bộ cùng với cả một đoàn tuỳ tùng lên đường
ngay. Khi tới gần thủ phủ Samarcande, vua Schahzenan được tin, đã cùng với các
đại thần của triều đình mình, phẩm phục chỉnh tề ra nghênh đón. Vua xứ Tartarie
tỏ ra hết sức vui mừng, trước hết thăm hỏi tình hình của đức vua anh. Sau khi
thoả mãn yêu cầu của quốc vương xứ Tartarle, ngài tể tướng mới trình bầy mục
đích của sứ bộ. Schahzenan vô cùng cảm động. Quốc vương bảo:
- Tể
tướng, đức vua anh ta đã làm cho ta thật là vinh hạnh, ý muốn của Người đã làm
ta vui sướng khôn cùng. Người muốn gặp lại ta, ta cũng rất nóng lòng được thấy
mặt Người. Thời gian đã chẳng làm giảm đi tình nghĩa anh em của Người, thì ta
cũng vậy, tình nghĩa anh em của ta đối với Người vẫn luôn luôn sâu đậm. Quốc
gia ta luôn an bình, ta chỉ cần khoảng mười hôm để chuẩn bị và sẵn sàng lên
đường cùng với nhà ngươi. Như vậy nhà ngươi cũng chẳng cần vào thành làm gì với
khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy. Nhà ngươi cứ hạ trại tại đây, ta sẽ cho
mang tới đầy đủ các thứ vật dụng và lương thực, thực phẩm cho ngươi và cho cả
đoàn sứ bộ. Tất cả đều được mau chóng thực hiện.
Nhà vua
vừa về tới Samarcande thì các thứ ùn ùn đưa tới: thức ăn, đồ uống với số lượng
lớn lại thêm bao nhiêu là những tặng vật quí có giá trị cao.
Trong
lúc đó, vua Schahzenan chuẩn bị lên đường, xử lý mau chóng các sự vụ còn tồn
đọng, thành lập một hội đồng để cai trị đất nước trong thời gian đi vắng và đặt
một vị đại thần tin cậy đứng đầu hội đồng đó. Trong vòng mười ngầy, mọi việc
xong xuôi, nhà vua tạm biệt hoàng hậu, rời Samarcanđe vào buổi chiều cùng với
cả đoàn các quan hộ giá, đến nghỉ tại hành cung cạnh những chiếc lều trại của
quan tể tướng. Nhà vua cùng vị sứ thần đàm đạo tới khuya. Rồi, muốn một lần nữa
nói lời tạm biệt với hoàng hậu mà chàng hết lòng yêu thương, nhà vua một mình
quay lại cung điện. Chàng đi thẳng tới hậu cung. Hoàng hậu không ngờ nhà vua
lại trở về bất ngờ như thế nên trước đó đã đón tiếp trên giường mình một viên
quan hầu hạng bét trong nội cung. Chắc hẳn chúng đã nằm với nhau rất lâu rồi
nên lúc này chúng ngủ say như chết.
Nhà vua
nhẹ bước đi vào, rất thích thú là sẽ làm cho hoàng hậu mà nhà vua cho là yêu
thương mình rất mực phải ngạc nhiên về sự trở về của mình. Nhưng biết bao sửng
sốt, khi dưới ánh sáng những bó đuốc chẳng bao giờ tắt trong đêm tối ở những
ngôi nhà của các ông hoàng bà chúa, nhà vua nhìn thấy một tên đàn ông nằm gọn
trong cánh tay hoàng hậu. Ông đứng lặng người một lát không dám tin vào những
gì mình thấy. Nhưng, chẳng còn nghi ngờ gì nữa.
- Sao? -
Chàng tự nhủ - Ta vừa mới ra khỏi cung điện, và hãy còn ở dưới chân thành
Samarcande mà người ta đã đám làm nhục ta? A, quân khốn kiếp. Tội ác của các
ngươi không thể không bị trừng phạt! Là vua, ta phải trừng trị những sai trái
xảy ra trong đất nước; là người chồng bị phản bội, ta phải xé xác ngươi để hả
lòng căm giận chính đáng của ta.
Và rồi,
vị vua bất hạnh này, không kìm được cơn giận xung thiên, rút kiếm ra, tiến đến
gần chiếc giường ngự, chỉ bằng một nhát, đưa đôi gian phu dâm phụ từ giấc ngủ
đến cái chết nhục nhã. Rồi lần lượt chàng thẩy xác chúng qua cửa sổ, rơi xuống
hào sâu bao bọc xung quanh.
Trừng
trị xong lũ đốn mạt, chàng ra khỏi kinh thành, lặng lẽ cũng như lúc về và lui
vào hành cung. Rồi ngay lập tức chàng ra lệnh cuốn lều trại lên đường. Chuyện
vừa xảy ra, chàng chẳng nói với một ai. Tất cả đều đã sẵn sàng, trời chưa sáng
rõ, đoàn người khởi hành trong tiếng trống chiêng rộn rã làm toàn dân náo nức,
trừ nhà vua. Vị hoàng đế này, đầu óc luôn bị cái cảnh phản bội của hoàng hậu ám
ảnh, suốt trong cuộc hành trình luôn âu sầu phiền muộn.
Khi gần
tới kinh thành đất nước Ấn Độ, nhà vua thấy hoàng đế Schahriar thân chinh cùng
cả triều thần ra đón. Làm sao tả được niềm vui gặp gỡ của hai vị vua anh em
này! Họ đều nhảy xuống ngựa để ôm chầm lấy nhau và sau khi đã thể hiện muôn
ngàn dấu hiệu của tình cảm thương mến đậm đà họ lại lên ngựa và cùng đi vào
thành trong những tiếng hoan hô vang dội của dân chúng tập trung đông vô kể.
Hoàng đế dẫn nhà vua tới tận biệt điện đã chuẩn bị sẵn đành cho vua em. Cung
điện này thông sang cung điện của hoàng đế Schahriar qua một mảnh vườn chung
dùng làm nơi tổ chức các hội lễ, các cuộc vui chơi của triều đình. Và nhân dịp
này khu vườn còn được trang trí thêm nhiều thứ vô cùng tráng lệ.
Schahriar
hãy tạm chia tay với quốc vương xứ Tartarie để chàng tắm rửa và thay áo quần,
nhưng ngay sau đó, hoàng đế đã tìm gặp lại em. Hai người cùng ngồi trên tràng
kỷ, những cận thần đều kính trọng lùi ra xa. Hai vị quốc vương gắn bó với nhau
không những vì tình cảm thân thương mà còn vì cùng huyết thống, được tự do dốc
bầu tâm sự cho bỏ thời gian dài xa cách. Hai anh em cùng nhau dùng bữa tối rồi
lại tiếp tục chuyện trò mãi đến lúc Schahrlar thấy đêm sắp tàn mới rút về hậu
cung để em được nghỉ ngơi.
Vị vua
em bất hạnh đi nằm. Nhưng lúc cùng vua anh đàm đạo, nỗi buồn có nguôi ngoai đôi
chút thì lúc này lại khơi dậy mạnh mẽ. Lẽ ra phải thoải mái nghỉ ngơi để phục
hồi sức khoẻ thì tâm trí chàng lại bị giày vò dữ dội. Hình ảnh phản bội bẩn
thỉu của hoàng hậu hiện lên rõ mồn một trong trí nhớ làm tâm can chàng sôi sục.
Rồi, không sao ngủ được, chàng ngồi lên, chìm đắm trong những ý nghĩ đau buồn.
Nét ủ rũ của chàng hiện rõ trên khuôn mặt khiến vua anh trước đó cũng nhận thấy
phải tự hỏi: “Quốc vương Tartarie làm sao thế nhỉ? Kẻ nào đã làm cho chú ấy phải
rầu lòng? Phải chăng ta đã đón tiếp chú ấy không được chu đáo? Không, ta đã coi
chú ấy như một người em mà ta vô cùng yêu mến, về khoản này thì ta thấy ta
chẳng có gì đáng chê trách. Có thể em ta vì tạm xa cách đất nước và hoàng hậu,
vợ chú ấy mà có tâm trạng nhớ nhung chăng? Ồ, nếu có phải vì thế mà em ta buồn
thì ta sẽ trao ngay những tặng phẩm đã đành cho chú ấy, để bất cứ lúc nào muốn
là chú ấy có thể lên đường trở về Samarcande!". Và ngay ngày hôm sau ông
gửi cho chàng một phần những tặng vật đó gồm những đồ quí hiếm thật độc đáo.
Ngoài ra, hàng ngày, nhiều trò du hí được tổ chức để làm cho chàng nguôi vơi
buồn nhớ. Nhưng những cuộc vui huy hoàng nhất, tráng lệ nhất cũng chẳng làm
chàng khuây khoả mà lại càng như khơi gợi mối u buồn sâu sắc.
Một hôm
hoàng đế Schahriar hạ lệnh mở một cuộc săn lớn trong một vùng có nhiều hươu nai
cách kinh thành hai ngày đường. Quốc vương Schahzenan xin cho được miễn tham
gia, viện cớ không được khoẻ. Hoàng đế chiều lòng để cho vua em được tự do, rồi
cùng với cả triều thần lên đường giải trí. Sau khi vua anh đi rồi, quốc vương
xứ đại Tartarie còn lại một mình, lui vào phòng riêng khép kín cửa lại. Chàng
ngồi bên cửa sổ trông ra vườn ngự uyển. Khu vườn tráng lệ đầy tiếng chim hót
này đáng lẽ làm cho chàng vui thích nếu còn có khả năng cảm thụ, nhưng luôn bị
vò xé vì cái kỷ niệm não lòng về hành vi thất tiết của hoàng hậu nên chàng
chẳng chú ý gì đến khu vườn mà luôn ngước mắt nhìn lên cao để than thầm cho số
phận.
Nhưng,
dù bị nỗi đau chi phối tới bao nhiêu, chàng cũng không sao không để mắt tới một
sự kiện khác thường nó thu hút tất cả sự chú ý của chàng. Một cánh cửa bí mật
bên cung điện của hoàng đế bỗng mở toang và từ đó lần lượt đi ra hai mươi người
phụ nữ, giữa họ là hoàng hậu mà cung cách đi đứng làm ta rất dễ nhận biết.
Hoàng hậu cho là quốc vương xứ Đại Tartarie cũng đã cùng đi săn với hoàng đế
chồng mình nên đã bước đi một cách thật mạnh dạn tới tận gần cửa sổ phòng riêng
của quốc vương em chồng. Quốc vương vì tò mò muốn biết cái gì sẽ xảy ra nên đã
lui vào một chút để không bị nhìn thấy nhưng mình thì vẫn trông rõ mồn một cảnh
ngoài vườn. Chàng nhận thấy bọn người tháp tùng hoàng hậu bắt đầu bỏ các tấm
mạng tới lúc đó vẫn còn che mặt và cởi cả những áo dài khoác bên ngoài những bộ
y phục ngắn. Nhưng chàng vô cùng kinh ngạc thấy đám người mà chàng tưởng toàn
là phụ nữ thì lại có mười người con trai da đen, mỗi người ôm lấy người tình
của mình. Về phần hoàng hậu cũng chẳng muốn chờ đợi lâu vội vỗ mạnh bàn tay và
gọi to: “Masoud! Masoud!”. Và ngay lập tức một tên đàn ông da đen khác tụt từ
trên một cây cao xuống, vội chạy đến với nàng.
Sự
ngượng ngùng không cho phép ta kể lại tất cả những gì đã xảy ra giữa những
người đàn bà và lũ đàn ông da đen này, đó là những chi tiết chẳng đáng quan
tâm, chỉ biết là Schahzenan, mắt nhìn thấy cơ sự đó, nhận ra là hoàng đế anh
mình cũng bất hạnh chẳng kém gì mình. Cuộc hoan lạc của đám người dâm loạn này
kéo dài mãi tới nửa đêm. Cả bọn còn nhảy xuống cái hồ lớn vốn rất sạch đẹp
trong vườn ngự uyển để tắm táp rồi sau đó mặc lại quần áo và biến mất sau cánh
cửa bí mật của hoàng cung. Còn Masoud từ bên ngoài trèo qua tường để vào vườn
thì lại đi ra bằng lối đó.
Vì tất
cả những cảnh trên đây đều diễn ra trước mắt vị quốc vương xứ Đại Tartarie nên
làm cho chàng suy nghĩ rất nhiều: “Ta thật là nông nổi - Chàng tự bảo - Đã cho
là mình vô cùng bất hạnh? Đó chẳng qua là số mệnh khó lòng tránh khỏi của tất
cả những ông chồng, ngay cả hoàng đế anh ta, vua của biết bao nhiêu quốc gia,
chúa tể của toàn thiên hạ cũng còn không tránh khỏi kia mà. Đã là số mệnh thì
can chi ta lại quá yếu đuối mòn mỏi trong phiền não u sầu? Thế là xong: hồi ức
của một sự bất hạnh riêng từ nay không thể lũng đoạn cuộc sống yên bình của
ta.”. Quả vậy, từ lúc đó chàng chẳng còn thấy quá khổ đau phiền muộn. Chàng đã
chẳng thiết gì ăn uống nếu không được mục kích tất cả những gì xảy ra dưới cửa
sổ phòng mình; lúc này chàng đòi ăn và ăn ngon miệng hơn cả kể từ ngày rời
Samarcande, và còn lấy làm thích thú nghe những lời ca điệu nhạc du dương hoà
tấu trong bữa ăn của chàng.
Những
ngày tiếp theo, chàng hoàn toàn bình thản và khi biết hoàng đế anh từ cuộc đi
săn đã trở về, chàng đi tới vui vẻ chúc mừng. Thoạt đầu, Schahriar chưa chú ý
gì đến sự thay đổi này mà chỉ phàn nàn tiếc là quốc vương em đã bỏ lỡ cuộc săn
thú vị và không để cho em kịp thanh minh, ông khoe đã săn bắt được một số lượng
lớn hươu nai và các con thú khác cùng với sự vui thích được hưởng trong cuộc
săn. Schahzenan chăm chú nghe rồi bắt đầu lên tiếng. Vì không còn nỗi buồn rầu
ám ảnh làm thui chột cả trí thông minh sắc sảo, chàng nói năng thật hoạt bát
lanh lợi và đầy tính trào lộng.
Đinh
ninh em mình vẫn ủ rũ như lúc tạm chia tay để lên đường đi săn, hoàng đế vô
cùng hài lòng thấy chàng thật vui vẻ. Ông bảo:
- Em ạ,
ta cảm tạ trời đất đã làm cho em thay đổi tốt lành trong lúc ta không có mặt ở
nhà. Ta thật là vui sướng, nhưng ta có một yêu cầu đối với em mong là sẽ được
em đáp ứng.
- Em lại
có thể từ khước anh một điều gì ư? - Nhà vua xứ Tartarie đáp - Với Schahzenan
này, anh có đủ quyền lực. Anh nói đi, em đang nóng lòng muốn biết anh muốn em
phảị làm gì.
- Từ khi
em tới triều đình ta - Schahriar nói - Ta thấy em luôn luôn sầu muộn mà ta đã
cố gắng xua đuổi bằng bao nhiêu trò vui chơi giải trí. Ta đã nghĩ là sự sầu
muộn của em là do xa nhà, xa đất nước; ta cũng nghĩ là tình yêu chiếm phần lớn.
Hoàng hậu ở Samarcande mà em đã lựa chọn ắt phải có một sắc đẹp tuyệt trần, có
lẽ đó là nguyên nhân. Không biết là ta có bị nhầm trong sự suy đoán không,
nhưng cũng phải thú thực là cũng vì thế mà ta chẳng muốn gặng hỏi sợ làm em
chẳng vừa lòng. Thế mà, chưa một chút nhọc công nào chăm sóc, khi trở về ta lại
thấy em vui vẻ nhất trần đời và tinh thần như đã được giải toả mọi nỗi ưu tư,
nó đã làm vẩn đục cả vẻ vui tươi khoái hoạt của em. Hãy vui lòng nói cho ta rõ
vì sao em hết sầu não buồn đau?
Nghe vua
anh nói vậy, quốc vương xứ Đại Tartarie trầm lặng một lát như để suy nghĩ lời
đáp. Rồi chàng nói:
- Anh là
hoàng đế và cũng là người chủ của em, xin anh hãy miễn cho việc phải đáp ứng
điều anh đòi hỏi, em van xin anh đấy.
- Không,
em của ta - Hoàng đế nói - Em phải chiều ta. Ta mong muốn như vậy, chớ khước từ
ta nữa.
Schahzenan
không thể cưỡng lại sự gặng hỏi của Schahriar, đành nói:
- Vậy
thì, anh của em? Vì anh đã ra lệnh, em đành phải làm theo ý muốn của anh thôi.
Rồi
chàng kể lại sự phản bội, thất tiết của hoàng hậu Samarcanđe. Kể xong, chàng
nói:
- Đó là
nguyên nhân nỗi buồn đau của em. Phải chăng là em đã sai lầm khi để cho nỗi
buồn đó chi phối?
- Ôi, em
của tôi? - Hoàng đế kêu lên bằng giọng nhuốm vẻ thông cảm với nỗi buồn giận của
quốc vương xứ Tartarie - Câu chuyện em vừa kể ta nghe mới khủng khiếp làm sao?
Phải kiên nhẫn tới chừng nào ta mới nghe được tới cuối câu chuyện! Ta khen ngợi
em đã trừng trị thích đáng những tên phản trắc đã xúc phạm em thật nặng nề.
Không ai có thể trách cứ hành động đó: em đã xử sự thật công minh. Còn ta, thú
thực nếu ở địa vị của em, có lẽ ta sẽ chẳng được chừng mực như thế đâu: Cắt đi
mạng sống chỉ của một người đàn bà, đối với ta chưa đủ đâu. Ta nghĩ là có thể
hàng ngàn đứa phải mất đầu trong cơn điên giận của ta kia. Ta không ngạc nhiên
về nỗi buồn của em; nguyên nhân thật quá đắng cay, quá tủi nhục lẽ nào chẳng
làm cho em ta suy sụp. Trời! Thật là đa đoan! Không, ta tin là chuyện đó chẳng
còn có thể xảy ra với ai như đã xảy ra với em. Nhưng ta cũng phải đội ơn Thượng
đế là đã cho em niềm an ủi mà ta tin là có căn cứ vững chắc. Vậy thì em hãy vui
lòng cho ta biết đi, hãy cùng ta cạn dòng tâm sự.
Schahlenan
thấy vô cùng khó khăn đáp ứng điều này hơn điều đã nói về mình vì đây lại liên
quan tới người anh, nhưng cũng đành phải nhượng bộ vì những lời khẩn thiết của
ông.
- Em xin
phục tùng - Chàng nói - Vì anh đã kiên quyết muốn biết rõ nguyên nhân. Em sợ là
sự phục tùng của em sẽ gây cho anh nhiều phiền muộn mà trước đây em đã phải chịu.
Nhưng anh chỉ tự trách được mình thôi vì chính anh đã buộc em phải tiết lộ ra
một chuyện mà em đang muốn chôn vùi trong lãng quên vĩnh viễn.
- Điều
em nói đó - Schahriar ngắt lời em - Lại càng làm ta háo hức muốn biết. Hãy mau
hé mở cho ta tấm màn bí mật đó đi, muốn ra sao thì ra.
Vua xứ
Tartarie không còn đất để lùi nữa, đành phải thuật lại tất cả những gì chàng
trông thấy về sự cải trang của những tên da đen, về sự dâm loạn của hoàng hậu
và các thị nữ của bà và chàng không quên nói đến cái tên Masoud.
- Sau
khi chứng kiến tất cả những cảnh xấu xa nhơ bẩn đó - Chàng nói tiếp - em nghĩ
là tất cả đàn bà đều như thế cả thôi, họ khó có thể cưỡng lại được dục vọng. Em
như được cảnh tỉnh, thấy ra là: đối với một trang nam nhi thật là quá hèn yếu
nếu để cho sự an bình của mình phụ thuộc vào lòng chung thuỷ của họ: ý nghĩ này
đưa em đến nhiều suy tư khác và cuối cùng em thấy là không gì tốt hơn là tự
mình an ủi mình. Khó khăn thật đấy, nhưng em đã thành công. Nếu tin em thì anh
hãy làm như em vậy.
Mặc dù lời
khuyên đó thật là khôn ngoan đúng mực, nhưng hoàng đế không thể chấp nhận mà
còn nổi giận đùng đùng:
- Sao? -
Ông thét lên - Chánh cung hoàng hậu của đất nước Ấn Độ rộng lớn mà lại sa đoạ
tới mức đê nhục đó ư? Không, em ạ - Ông thêm - Ta không thể tin được những gì
em đã nói nếu ta không được nhìn thấy tận mắt. Chắc là em đã nhìn nhầm đấy
thôi. Sự việc nghiêm trọng đáng để cho ta phải tự mình khẳng định.
- Anh ạ
- Schahzenan nói - Nếu anh muốn mục kích cũng chẳng có gì khó khăn lắm đâu. Anh
chỉ việc tổ chức một cuộc đi săn mới. Khi chúng ta đã ra ngoài kinh thành cùng
với các triều thần cả của anh và của em, chúng ta sẽ dừng lại ở hành cung và
đến đêm cả hai anh em ta sẽ trở về nơi biệt điện dành cho em. Em đoán chắc là
ngày hôm sau anh sẽ thấy tất cả những gì em đã thấy.
Hoàng đế
tán thành kế hoạch đó và lập tức ra lệnh tổ chức một cuộc đi săn mới, vì vậy
các lều trại lại được dựng lên nơi đã được qui định.
Ngày
hôm đó cả hai vị vua lên đường cùng với cả hai đoàn tuỳ giá. Họ tới nơi đã định
trước và ở đó cho tới đêm. Lúc bấv giờ Schahriar cho đòi tể tướng tới và chẳng
cần cho biết ý đồ của mình, ra lệnh cho ông này tạm quyền và không được để bất
cứ người nào ra khỏi trại với bất cứ lý do gì. Ra lệnh xong, quốc vương xứ Đại
Tartarle cùng với hoàng đế lên ngựa, bí mật rời khỏi trại, đi về kinh thành,
tới hoàng cung, vào cung điện dành cho Schahzenan. Họ đi ngủ và ngày hôm sau,
sáng tinh mơ, họ tới ngồi kín đáo bên cửa sổ, nơi mà quốc vương Tartarie đã
nhìn thấy cảnh bọn đa đen giở trò dâm loạn. Họ cùng hưởng một lát không khí mát
mẻ của buổi ban mai vì lúc đó mặt trời chưa lên; và vừa khẽ trao đổi chuyện trò
vừa thi thoảng liếc mắt sang chiếc cửa bí mật bên kia khu vườn ngự uyển. Cuối
cùng, cửa mở và chuyện xảy ra tương tự, hoàng hậu xuất hiện cùng đám thị nữ với
mười tên da đen cải trang; mụ kêu tên Masoud và hoàng đế nhìn thấy tất cả những
gì đã làm nên nỗi nhục nhã và sự bất hạnh của mình.
- Ôi
Thượng đế! - Ông kêu lên - Nhục nhã biết chừng nào! Kinh tởm biết chừng nào! Vợ
của một ông vua như ta đây sao lại có thể sa đoạ đê tiện tới mức ấy? Sau sự ô
nhục này, còn có vị hoàng đế nào dám khoe khoang là mình hạnh phúc hoàn toàn
nữa không? Ôi, em của ta! - Ông ôm lấy quốc vương Tartarie và nói tiếp - Chúng
ta hãy từ bỏ tất cả các thứ trên thế giới này, thiện tâm thiện ý đâu còn; xu
nịnh đi đôi với phản trắc. Hãy từ bỏ tất cả đất đai sông núi và tất cả sự phù
hoa hào nhoáng quanh ta. Chúng ta hãy cùng đi tới những xứ sở xa lạ kéo dài một
cuộc sống tối tăm và giấu biệt đi nỗi bất hạnh khổ ải của chúng ta.
Schahzenan
không đồng tình với quyết định đó nhưng chàng chẳng dám đấu tranh vì thấy anh
mình còn đang trong cơn nóng giận sục sôi.
- Anh
của em - Chàng nói - Em cũng không có ý kiến gì khác anh đâu. Em sẵn sàng đi
theo anh bất cứ nơi nào anh muốn, nhưng xin anh hãy hứa với em là chúng ta sẽ
trở về nếu được gặp một người nào đó còn khổ sở hơn cả chúng ta nữa.
- Anh
hứa - Hoàng đế đáp - Nhưng ta nghĩ là chúng ta sẽ chẳng tìm thấy một ai như thế
cả đâu.
- Em
chưa đồng tình với anh ở chỗ đó - Quốc vương Tartarie phản bác - Có thể là
chúng ta chẳng phải đi lâu đâu.
Rồi họ
bí mật rời hoàng cung và đi bằng con đường khác với lúc đi về. Họ đi, đi mãi
chừng nào ánh sáng còn cho họ thấy rõ con đường, và đêm đầu tiên họ ngủ dưới
bóng cây. Dậy từ sáng sớm, họ lại tiếp tục đi cho đến lúc tới một bãi cỏ xanh
rờn bên bờ biển mà ở đó từng quãng từng quãng một có những cây to cành lá rậm
rạp. Họ ngồi dưới một trong các cây đó để nghỉ ngơi và hóng mát. Sự bội phản và
thất tiết của các hoàng hậu lại là đề tài của cuộc chuyện trò tâm sự.
Chưa
được bao lâu thì chợt họ nghe thấy ngay cạnh họ một tiếng động khủng khiếp về
phía biển và tiếp theo đó là những tiếng kêu thất thanh làm họ run sợ. Mặt biển
bỗng mở ra và dâng lên một cái cột đen khổng lồ cao chạm đến các tầng mây. Cái vật
lạ này làm cho họ kinh hoảng khiếp vía, vội bật đậy, lanh lẹn leo lên cây, trèo
thật cao, theo họ thì đó là chỗ ẩn nấp thích hợp nhất. Vừa mới lên vị xong, họ
ngoảnh lại nơi vừa phát ra tiếng động làm cho mặt biển như mở ra đó liền thấy
cái cột đen từ từ rẽ nước tiến vào bờ. Lúc đầu họ không thể phân biệt được đó
là cái gì, nhưng chẳng mấy chốc đã trông thấy rõ ràng.
Đó là
một trong các hung thần tinh ma độc ác, là những kẻ tử thù của loài người. Hắn
đen đủi và xấu xí, có thân hình của một người khổng lồ cao to lừng lững, đội
trên đầu một cái hòm thuỷ tinh có nắp đóng lại bằng bốn chiếc khoá thép. Hắn đi
vào bãi cỏ và đặt cái hòm đúng chỗ gốc cây, cái cây mà hai anh em nhà vua vừa
trèo lên nấp. Hai anh em cảm thấy nguy hiểm cùng cực, tưởng là phen này thì đi
đứt.
Tuy vậy
hung thần chỉ từ từ ngồi xuống cạnh chiếc hòm, rút chùm chìa khoá dắt ở thắt
lưng lần lượt mở hòm ra bằng bốn chiếc chìa. Ngay tức thì từ trong hòm bước ra
một người đàn bà y phục lộng lẫy, thân hình thanh tú, đẹp tuyệt trần. Lão hung
thần đặt nàng ngồi bên cạnh, say sưa ngắm người đẹp và nói.
- Phu
nhân của ta, một người đẹp hơn tất cả những người đẹp được mọi người chiêm
ngưỡng ơi! Con người duyên dáng mà ta đã cướp đi giữa ngày hôn lễ, người mà ta
luôn mãi yêu thương, nàng hãy cho ta ngủ một lát bên nàng; chính vì ta rất buồn
ngủ nên đã tới đây để nghỉ ngơi một chút.
Nói
xong, hắn ngả cái đầu nặng nề của hắn lên đùi của nàng thiếu phụ. Rồi, duỗi
thẳng đôi chân chạm tới mép biển, hắn ngủ tức thì. Tiếng ngáy của hắn vang dội
cả một vùng biển.
Người
thiếu phụ tình cờ ngước mắt nhìn lên, trông thấy hai nhà vua tít trên gần ngọn
cây, liền dùng tay ra hiệu bảo hai người xuống và đừng gây tiếng động. Hai
chàng vô cùng sợ hãi khi thấy mình bị lộ. Cũng bằng dấu hiệu tay, họ xin miễn
cho việc phải trèo xuống. Nhưng mà nàng, sau khi nhẹ nhàng nâng đầu lão hung
thần trên đùi mình xuống đất, đứng lên khẽ bảo họ giọng sôi nổi:
- Xuống
đi nào! Nhất thiết các chàng phải xuống đây với em.
Hai anh
em gắng sức làm cho nàng ta hiểu, cũng bằng những cử chỉ, là rất sợ lão hung
thần.
- Nào
thôi xuống đi! - Cũng vẫn bằng giọng khẽ khàng và sôi nổi, nàng nói như ra lệnh
- Nếu các chàng không nghe lời em ngay, em sẽ đánh thức hắn đậy và tự em sẽ bảo
hắn giết các chàng.
Câu nói
làm cho hai nhà vua sợ hãi, vội vàng nhưng rất thận trọng tụt xuống để khỏi làm
lão hung thần thức giấc. Khi họ đã ở trên mặt đất, thiếu phụ nắm lấy tay hai
người kéo đi và khi đã xa xa một chút, dưới hàng cây, nàng ta trơ trẽn bắt họ
phải lần lượt chiều mình. Mới đầu hai người khước từ nhưng bị bắt buộc và đe
doạ đủ điều nên đành phải làm theo. Sau khi đã được thoả mãn theo ý muốn, nhìn
thấy các chàng đều có một chiếc nhẫn ở ngón tay, nàng ta đòi lấy. Khi đã nắm
hai chiếc nhẫn trong tay, nàng ta lấy ra một cái hộp trong túi đựng đồ trang
sức, kéo ra một sợi dây buộc những chiếc nhẫn khác đủ các loại, các kiểu, chỉ
cho hai người và hỏi:
- Các
chàng có biết các nhẫn này có ý nghĩa gì không?
- Không
- Họ đáp - Nhưng chắc là nàng sẽ cho chúng tôi biết chứ.
- Đó là
những chiếc nhẫn của tất cả những người đàn ông đã cùng em ân ái - Nàng thản
nhiên nói - Đã có chín mươi tám chiếc đã đếm kỹ mà em giữ làm kỷ niệm. Em đòi
nhẫn của hai chàng cũng là với ý ấy và để cho tròn một trăm. Như vậy - Nàng nói
tiếp - Tính tới hôm nay là em đã có tròn một trăm tình nhân, dù có sự canh giữ
ráo riết và sự đề phòng cẩn mật của cái lão hung thần xấu như ma kia lúc nào
cũng giam riết lấy em trong cái hòm thuỷ tinh khoá kín, nhưng dù có cất giấu em
dưới đáy biển, em vẫn thoát được ra ngoài sự kiểm soát của lão. Các chàng hẳn
thấy rõ là khi một người đàn bà đã có một ý định gì thì không một người chồng
nào, một tình nhân nào có thể ngăn cản được. Tốt hơn là người đàn ông chẳng
nên ép buộc và cưỡng bách đàn bà, có thế thì người đàn bà mới có thể trở nên
người tiết hạnh.
Nói
đoạn, người thiếu phụ xâu hai chiếc nhẫn vào cùng một dây với những chiếc nhẫn
khác. Rồi nàng ngồi vào chỗ cũ, nhẹ nhàng nâng đầu lão hung thần vẫn ngủ say
lên đùi mình, rồi ra hiệu cho hai chàng đi.
Hai nhà
vua trở lại con đường đã đi tới và khi khuất tầm nhìn của người thiếu phụ và
lão hung thần, Schahriar bảo Schahzenan:
- Này
em? Em nghĩ gì về chuyện vừa xảy ra với chúng ta? Phải chăng lão hung thần đã
có một cô tình nhân thật là chung thuỷ? Và em có công nhận với anh là không gì
có thể sánh được với sự tinh ma quỉ quái của đàn bà?
- Thưa
anh, đúng như vậy - Quốc vương xứ Đại Tartarie đáp - Và chắc anh cũng phải nhất
trí với em là lão hung thần thật đáng được phàn nàn vì còn bất hạnh hơn cả
chúng ta. Vậy là chúng ta đã thấy điều đang muốn tìm kiếm. Hãy trở về thôi anh
ạ và chuyện này cũng chẳng có gì ngăn cản chúng ta trong hôn phối. Với em, em
đã biết cách giữ trọn niềm tin của mình như thế nào. Lúc này, em chưa muốn nói
ra đây nhưng rồi anh sẽ biết tin và chắc chắn là anh cũng sẽ làm theo như em.
Hoàng đế
tỏ vẻ đồng tình và tiếp tục cùng em rảo bước. Họ về tới nơi hạ trại vào cuối
đêm thứ ba kể từ ngày đi.
Tin
hoàng đế trở về được loan báo, các đại thần tề tựu từ sáng sớm trước hành cung.
Nhà vua với họ vào, vui vẻ tiếp đón họ khác hẳn ngày thường và tặng thưởng cho
tất cả mọi người. Sau đó nhà vua tuyên bố chẳng muốn đi xa hơn nữa, lệnh cho họ
lên ngựa, và chẳng mấy chốc về tới hoàng cung.
Vừa đặt
chân xuống đất, hoàng đế lập tức đến hậu cung bắt trói ngay hoàng hậu, trao cho
tể tướng đem đi xứ giáo. Viên đại thần nầy lập tức thi hành cũng chẳng hỏi xem
bà ta đã phạm tội gì. Vị hoàng đế đang cơn giận dữ không chỉ bằng lòng có thế,
ông tự tay mình chặt đầu tất cả những thị nữ của hoàng hậu. Sau sự trừng phạt
nghiêm khắc đó, đinh ninh là trên đời này chẳng có một người đàn bà nào tiết
hạnh, nhà vua quyết định mỗi tối lấy một vợ, ngủ với người đó và sáng ra thì
đem đi thắt cổ để tránh cho người đàn bà này khỏi có hành động phản bội, thất
tiết với mình. Đặt ra cái luật ác độc nghiệt ngã đó rồi, hoàng đế thề là sẽ thi
hành ngay sau khi quốc vương Tartarie lên đường về nước. Chẳng bao lâu vua em
cũng từ biệt anh lên đường mang theo nhiều tặng vật quí hiếm và sang trọng.
Schahzenan đi rồi, Schahrlar tức thì lệnh cho tể tướng đưa đến cho mình cô con
gái của một trong các võ tướng của triều đình. Tể tướng tuân lệnh. Hoàng đế ngủ
với cô gái đó và sáng hôm sau trao lại cho tể tướng mang đi xử tử, đồng thời
truyền cho kiếm một cô gái, con một vị đại thần khác cho tối tiếp theo. Dù bất
bình và khổ tâm đến đâu khi phải thi hành những mệnh lệnh như thế, tể tướng vẫn
phải nhắm mắt phục tùng. Ông đưa tới cho hoàng đế con gái của một võ quan cấp
dưới mà hôm sau người ta lại đưa đi hành quyết. Sau cô gái này đến lượt con gái
của một nhà giàu trong kinh thành và cứ như vậy mỗi ngày có một trinh nữ lấy
chồng và một người vợ đi sang thế giới bên kia.
Tiếng
đồn của hành động tàn bạo chưa từng có đó đã gây nên một sự kinh hoàng khắp
chốn kinh thành. Vang lên khắp nơi tiếng kêu la, than khóc: nơi này là một
người cha chan hoà nước mắt trong tuyệt vọng vì mất đứa con gái yêu; chỗ kia là
những bà mẹ hiền lành, rên rỉ thảm thiết sợ con gái mình rồi cũng sẽ rơi vào số
phận bi thương như thế. Vì vậy, thay vào những lời ngợi ca và chúc phúc mà vị
hoàng đế thường nhận được từ trước đến nay là những tiếng trách oán của muôn
dân.
Vị tể
tướng mà chúng ta đã biết, ngoài ý muốn của mình đã phải thi hành một lệnh bất
công khủng khiếp.Ông này cũng có hai cô con gái: cô chị là Scheherazade và cô
em là Dinarzade.
Tài sắc
cô em cũng chẳng thua kém gì chị, nhưng lòng can đảm của cô chị thì vượt hơn
hẳn mọi người và trí thông minh thì vô cùng sắc sảo. Nàng đọc sách rất nhiều và
có một trí nhớ lạ kỳ. Tất cả những gì đã đọc đều ghi sâu trong óc. Nàng đặc
biệt có năng khiếu về các lĩnh vực triết học, y học, sử học và mỹ thuật. Nàng
làm thơ có hồn hơn cả các nhà thơ nổi tiếng đương thời. Ngoài ra, nàng còn có
một sắc đẹp lộng lẫy và một đức hạnh kiên trinh bao trùm lên tất cả những tài
hoa đó.
Tể tướng
yêu thương rất mực người con gái thực xứng đáng với tình cảm cao đẹp của mình.
Một hôm, trong cuộc chuyện trò của hai cha con, nàng nói:
- Cha
ơi, con có một điều muốn cầu xin. Con thiết tha mong được cha cho phép.
- Cha
chẳng bao giờ từ chối con điều gì - Ông nói - Miễn là điều con cầu xin phải
chính đáng và hợp lẽ phải.
- Là
chính đáng - Scheherazađe thưa - Thưa cha, không có gì chính đáng hơn. Cha có
thể xét nguyên cớ nó bắt con phải cầu xin cha. Ý đồ của con là muốn ngăn chặn
hành vi man rợ của hoàng đế đối với các gia đình trong kinh thành này. Con muốn
làm tiêu tan nỗi lo chính đáng mà bao bà mẹ đang chịu đựng là mất con gái mình
một cách bi thảm.
- Con
gái ơi, ý định của con thật vô cùng đáng khen - Tể tướng nói - Nhưng tai hoạ mà
con muốn hoá giải thì cha thấy có thể là vô phương con ạ. Con định liệu thế nào
để có thể làm được đến nơi đến chốn?
- Cha ạ
- Scheherazade nói - Vì qua sự sắp đặt của cha mà hoàng đế mỗi ngày lại làm một
cuộc hôn nhân mới, con xin cha, với tấm lòng yêu thương con gái, cha hãy tạo
cho con cái vinh hạnh được hầu hạ đức vua...
Vị tể
tướng không sao ngăn được sự kinh hãi khi nghe những lời trên đây của con gái.
- Ôi
Chúa ơi? - Ông giận dữ ngắt lời con - Con điên rồi hay sao đấy? Sao con lại có
thể cầu xin ta một điều dại dột nguy hiểm như vậy? Chắc con cũng biết là nhà
vua đã thề độc là chỉ ân ái một đêm với chỉ một người đàn bà rồi sẽ giết đi
ngay ngày hôm sau, thế mà con còn xin cha cho được làm vợ Người ư? Con có nghĩ
là sự nông nổi bộp chộp sẽ đưa mình đến đâu không?
- Có,
thưa cha - Cô gái đức hạnh đáp - Con biết tất cả sự hiểm nguy mà con dấn thân
vào, nhưng con chẳng sợ. Nếu con chết đó là cái chết vinh quang và nếu thành
công thì con đã phục vụ cho đất nước một công tích quan trọng.
- Không
- Tể tướng nói - Dù con có cố sức trình bày để ta mềm lòng cho phép con dấn
thân vào vòng hiểm nguy ghê gớm này, đừng tưởng rằng ta bằng lòng đâu nhé. Khi
hoàng đế ra lệnh cho ta phải cắm mũi dao nhọn sắc vào tim con, than ôi! Nhất
định ta phải tuân theo rồi: đau đớn sao cái công việc của một người cha! Ôi!
Nếu con không chút nào sợ cái chết, thì ít nhất cũng tránh cho cha nỗi đau xé
ruột khi thấy bàn tay mình nhuốm máu con gái yêu thương của chính mình.
- Một
lần nữa, thưa cha - Scheherazade nói – Xin người hãy gia ân đáp ứng lời cầu xin
của con.
Cuối
cùng, người cha trước sự kiên quyết của con gái, đành phải nhượng bộ trước
những lời khẩn cầu tha thiết của cô. Và hết sức não lòng vì không làm được cho
con gái từ bỏ một quyết định khốc hại, ông tới bệ kiến Schahriar và tâu cho nhà
vua biết đêm sau ông sẽ đưa tới cho Người nàng Scheherazade, con gái ông.
Hoàng đế
vô cùng ngạc nhiên về sự hy sinh của vị đại thần thân cận của mình. Ông bảo:
- Làm
sao mà nhà ngươi lại có thể quyết định đưa chính con gái ngươi đến cho ta?
- Tâu bệ
hạ - Tể tướng đáp - Chính con gái thần đã tự nguyện. Số phận bi thảm chờ nó
cũng chẳng làm cho nó sợ hãi, mà chỉ muốn trong đời vinh dự được có một đêm làm
vợ đấng Chí tôn.
- Nhưng,
Tể tướng, mong nhà ngươi cũng chớ có nhầm tâm - Hoàng đế nói - là sáng mai, lúc
trao trả Scheherazade vào trong tay nhà ngươi, ta muốn là ngươi phải giết nàng.
Nếu làm sai, ta thề là sẽ tự tay ta xử tử nhà ngươi.
- Tâu bệ
hạ - Tể tướng lại nói - Lòng thần chắc chắn là xót đau vô hạn khi phảl tuân
lệnh vua. Mặc dù vậy tấm lòng trung thành này với Người vẫn không hề bị chuyển
lay.
Schahriar
nhận sự dâng hiến của tể tướng và bảo ông cứ đưa con gái tới khi nào cũng được.
Vị quan
đại thần này đưa tin về cho Scheherazađe. Nàng vui mừng đón nhận như một điều
hạnh phúc nhất đời Nàng cảm ơn cha đã hết lòng ưu ái đối với nàng và khi thấy
cha ảo não khổ đau, nàng nói để an ủi cha là ông sẽ không phải hối tiếc là đã
gả nàng cho hoàng đế, ngược lại ông có thể lấy đó làm niềm vui hưởng thụ cho
đến hết đời.
Nàng chỉ
còn nghĩ đến việc phải sửa soạn thật chu đáo để ra mắt đấng quân vương. Nhưng
trước khi rời nhà để vào hoàng cung, nàng gọi riêng Dinarzađe ra và nói với em:
- Em
thân yêu của chị, chị cần sự giúp đỡ của em trong một vụ việc vô cùng quan
trọng, chị xin em chớ có chối từ. Cha chúng ta sắp đưa chị vào hoàng cung để
làm vợ nhà vua. Mong là tin này không làm em khiếp sợ. Hãy lắng nghe chị nói
nhé. Khi chị đã vào trong cung, trước mặt hoàng đế chị sẽ xin Người cho em cũng
được vào cung và ở cùng phòng để chị em mình được cùng nhau sum họp một đêm
cuối cùng. Nếu được sự ân sủng như chị mong muốn đó thì em nhớ là sẽ đánh thức
chị dậy vào lúc chỉ độ còn một tiếng đồng hồ nữa là trời sáng và nói với chị
như thế này: “Chị của em ơi, nếu chị không ngủ nữa thì em xin chị, trong lúc
chờ mặt trời lên chắc cũng chẳng còn bao lâu nữa, chị hãy kể cho em nghe một
trong những câu chuyện thật hay mà chị biết”. Thế rồi chị sẽ kể cho em nghe một
chuyện. Và chị tin rằng bằng cách này chị sẽ giải thoát cho toàn dân tình trạng
kinh hoàng như hiện nay. Dinarzade trả lời chị là nàng sẽ vui lòng làm tất cả
những gì mà chị nàng yêu cầu.
Cuối
cùng giờ ngủ đã tới. Ngài tể tướng đưa Scheherazade vào hoàng cung và rút lui
ngay sau khi đã dẫn nàng tới tẩm phòng. Lúc nhà vua thấy chỉ còn mình với nàng,
liền bảo nàng bỏ mạng che mặt. Nhà vua sững sờ say đắm thấy nàng quả là chim sa
cá lặn, nhưng thấy nàng đầm đìa nước mắt bèn hỏi nguyên nhân.
- Tâu bệ
hạ - Scheherazade thưa - Thần thiếp có một em gái mà thiếp vô cùng yêu quí và
cũng được em thiếp yêu quí như vậy. Thiếp mong ước là em thiếp cũng được qua đêm
nay trong phòng ngự này để chị em được trông thấy nhau và để thiếp được nói với
em một lần nữa lời vĩnh biệt. Bệ hạ có đồng ý cho thiếp có niềm an ủi bằng việc
thể hiện với em lần cuối cùng tình chị em thân thiết đó không?
Schahriar
chấp thuận và cho đi tìm Dinarzade. Cô em mau chóng tới ngay. Hoàng đế cùng với
Scheherazade nằm ngủ trên một cái bệ rất cao theo cung cách của các vua chúa
phương đông. Còn Dlnarzade thì nằm trên một chiếc giường được đặt dưới thấp kê
ngay bên bệ.
Một
tiếng đồng hồ trước khi trời sáng, Dinarzade thức giấc, không quên điều chị
nàng căn dặn:
- Chị
thân yêu của em - Nàng khẽ kêu - Nếu chị không còn ngủ nữa thì em xin chị,
trong lúc chờ mặt trời chẳng mấy chốc nữa sẽ nhô lên, hãy kể cho em nghe một
trong những chuyện thật hay mà chị biết. Than ôi? Có thể đây sẽ là lần cuối
cùng mà em có được niềm vui sướng đó.
Scheherazade
đáng lẽ trả lời em thì lại nói với hoàng đế:
- Tâu bệ
hạ, đấng chí tôn có vui lòng cho phép thần thiếp được thoả mãn lời yêu cầu của
em thiếp chăng?
- Ta vui
lòng - Hoàng đế đáp.
Thế rồi
Scheherazađe bảo với em gái hãy lắng nghe và quay lại với Schahriar, nàng bắt
đầu câu chuyện như sau...
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
2: Ông lão đánh cá
Tâu bệ
hạ, ngày xưa có một ông lão đánh cá già nua, nghèo khổ đến nỗi không sao có thể
nuôi sống được gia đình gồm một vợ và ba con nhỏ.
Hàng
ngày lão ra đi từ sáng sớm để đánh cá và tự đặt ra cái lệ là mỗi ngày chỉ quăng
lưới bốn lần thôi.
Một sáng
còn rất sớm, trăng chưa lặn, lão đã ra tới bờ biển. Lão cởi áo ngoài và quăng lưới
lần thứ nhất. Khi kéo lưới vào bờ, lão cảm thấy nặng tay. Chắc là có cá to đây,
lão đã thầm phấn khởi, nhưng lát sau, tưởng lưới đầy cá, ngờ đâu đó chỉ là bộ
xương của một con lừa. Lão vô cùng buồn bã...
Tới đoạn
này, Scheherazade ngừng lời vì nàng thấy trời đã rạng sáng.
- Chị
của em - Dinarzade nói - em phải thú thật là đoạn đầu câu chuyện này làm em
thật thích thú, em chắc là đoạn tiếp theo sẽ rất hay.
- Không
gì đặc sắc hơn là chuyện ông lão đánh cá - Hoàng hậu nói - Em sẽ thấy vào đêm
sau, nếu hoàng đế gia ân để chị còn sống.
Vua
Schahriar, tò mò muốn biết lão đánh cá đã kéo lưới được gì những lần sau nên
chưa muốn hành quyết Scheherazade hôm đó. Vì thế ông đứng lên và chưa phát ra
cái lệnh ác độc đó.
- Chị
thân yêu - Ngày hôm sau, vào giờ thường lệ, Dinarzade bảo chị - Trời đã sắp
sáng, xin chị kể nốt cho em nghe chuyện ông lão đánh cá? Em muốn nghe quá đi
mất.
- Chị sẽ
chiều em, em ạ - Hoàng hậu đáp.
Và đồng
thời nàng xin hoàng đế cho phép. Được nhà vua gật đầu rồi, nàng kể tiếp chuyện
lão đánh cá như sau:
- Tâu bệ
hạ, buồn bã vì mẻ lưới hẩm hiu, sau khi vá lại những chỗ bị cái bộ xương lừa
kia làm rách, lão quăng lưới lần thứ hai. Lúc kéo lên lão lại thấy khá nặng,
tưởng như đầy một lưới cá nhưng buồn thay, đó chỉ là một cái thúng to chứa đầy
bùn đất và sỏi đá. Lão buồn nản vô cùng. Lão kêu lên thảm thiết:
“Ôi đấng
thần tài? Hãy bớt nổi giận với ta và cho nên hành hạ một kẻ khốn khổ đã cầu xin
Người khoang dung! Ta từ nhà đến đây kiếm sống mà Người lại muốn ta phải chết.
Ta chẳng còn nghề nào khác ngoài nghề chài lưới để tồn tại và mặc dù đã hết
lòng gắng công gắng sức ta cũng chẳng làm sao mà đáp ứng được những nhu cầu
khẩn thiết của vợ con. Nhưng trách oán Người có thể ta đã sai lầm. Vì cái thói
được hành hạ những người lương thiện và dìm họ vào trong bóng tối dày đặc là ý
thích của Người. Mặt khác Người dung túng cho bao kẻ ác và đề cao những kẻ mà
đức hạnh chẳng có gì đáng tin cậy".
Than vãn
xong, lão quẳng mạnh cái thúng đi, rửa sạch bùn đất bám vào lưới và quăng nó
xuống nước lần thứ ba. Nhưng lão cũng chỉ kéo lên được nào là gạch đá, vỏ trai
ốc, nào là rác rưởi. Không sao nói lên được niềm thất vọng của lão, chỉ chút
nữa là lão có thể phát điên lên. Tuy nhiên, vì mặt trời cũng vừa ló rạng, lão
không quên quỳ xuống cầu nguyện như một tín đồ ngoan đạo của Hồi giáo. Lão khấn
nguyện thêm thế này:
- Hỡi
Thượng đế, Người đã biết rằng con chỉ quăng lưới bốn lần mỗi ngày. Con đã quăng
ba lần rồi nhưng chẳng mang lại kết quả gì. Chỉ còn một lần cuối cùng, con xin
được Thượng đế phù hộ trợ giúp cũng như Người đã trợ giúp Moise vậy.
Khấn cầu
như vậy xong, lão đánh cá quăng lưới lần thứ tư. Khi đoán là đã có cá vào lão
kéo lên và cũng như các lần trước thấy khá nặng tay. Chẳng có con cá nào nhưng
lão thấy một chiếc bình bằng đồng thau chắc là chứa cái gì đó nên nó rất nặng.
Lão nhận thấy nút chiếc bình được niêm phong bằng chì có mang dấu ấn. Cái đó
làm lão thấy vui vui, thầm nhủ:
- Ta sẽ
đem bán cho thợ đúc và tiền bán được ta sẽ mua một đấu lúa mì.
Lão ngắm
nghía chiếc bình, lắc lắc để nghe xem có tiếng gì của vật chứa bên trong không.
Chẳng nghe thấy gì cả và trong trường hợp này, với dấu ấn trên chiếc nắp bằng
chì lão nghĩ là chiếc bình này tất là phải chứa đầy vật quí. Để cho mọi việc rõ
ràng, lão cầm lấy con dao và chẳng khó khăn gì, lão mở được nắp bình. Lão
nghiên miệng bình xuống mặt đất, nhưng chẳng thẩy có gì lăn ra, điều này làm
cho lão hết sức ngạc nhiên. Lão đặt cái bình trước mặt và trong lúc chăm chú
ngắm nhìn thì từ miệng bình, một làn khói đầy đặc phụt lên khiến lão phải lùi
ra sau hai ba bước.
Làn khói
này vươn cao chạm tới mây và lan toả ra trên mặt biển và bờ biển làm thành một
đám lớn sương mù. Ta có thể tưởng tượng được cảnh tượng này đã làm cho lão đánh
cá vô cùng sửng sốt. Khi tất cả làn khói đã thoát ra khỏi chiếc bình, nó tụ lại
thành một khối hiện hình thành một hung thần to cao gấp đôi tất cả mọi người
khổng lồ. Thấy hiện ra trước mắt mình một quái vật to lớn khủng khiếp lão đánh
cá muốn sải chân chạy nhưng vì quá kinh hoàng, lão không thể nhích chân được
một bước.
- Salomon
- Hung thần kêu lên - Salomon, đại tiên tri của Thượng đế. Xin tha lỗi, xin tha
lỗi. Chẳng bao giờ ta làm trái ý Người. Ta sẽ tuân theo tất cả mệnh lệnh của
Người...
Scheherazade
thấy ngày đã rạng bèn bỏ dở câu chuyện.
Thế là
Dinarzade nói:
- Chị
của em! Quả là chị chẳng sai lời. Câu chuyện này chắc hẳn là kỳ lạ hơn tất cả
những câu chuyện khác.
- Em ạ -
Hoàng hậu đáp - Em sẽ được nghe những chuyện làm cho em còn hào hứng hơn nữa
nếu hoàng đế, chúa của chị cho phép kể em nghe.
Vua
Schahriar rất muốn nghe nốt đoạn cuối chuyện ông lão đánh cá câu chuyện đã làm
ông thích thú. Vì vậy ông lại cho lùi cái chết của hoàng hậu đến ngày hôm sau
nữa.
o O o
Dinarzade,
đêm hôm sau, đến giờ, lại gọi chị:
- Chị
của em, nếu chị không ngủ thì xin chị hãy kể nốt cho em nghe chuyện lão đánh cá
trong lúc chờ trời sáng.
Hoàng
đế, về phía mình, cũng nóng lòng muốn biết có gì xảy ra giữa Salomon với tên
hung thần này. Vì vậy Scheherazade tiếp tục câu chuyện về lão đánh cá:
- Tâu bệ
hạ, lão đánh cá vừa nghe thấy những lời tên hung thần thốt ra đã thấy đôi chút
yên tâm. Lão hỏi: “Này, vị thần cao ngạo kia! Ngài nói gì vậy? Salomon, tiên
tri của Thượng đế đã không còn tới nay là một ngàn tám trăm năm và chúng ta
đang ở vào hồi tận cùng các thế kỷ. Hãy cho ta biết câu chuyện của Ngài. Vì sao
lại bị nhốt trong cái bình này?”.
Nghe lão
đánh cá hỏi vậy, hung thần nhìn lão đầy vẻ kiêu căng, đáp:
- Hãy ăn
nói với ta cho có lễ độ. Mi dám cả gan gọi ta là vị thần cao ngạo ư?
Lão đánh
cá cãi lại:
- Vậy
thì để ăn nói với ngài cho có lễ độ, phải chăng tôi phải gọi ngài là con cú may
mắn?
- Ta đã
bảo mi - Hung thần gắt - Phải nói năng cho có lễ độ trước khi ta giết mi.
- Này,
tại sao ngài lại muốn giết tôi - Lão đánh cá vặn lại - Phải nhớ là tôi vừa cứu
sống ngài.
- Không,
ta không quên - Hung thần nói - Nhưng cái đó không ngăn ta giết mi và ta chỉ
chiếu cố cho mi một điều duy nhất.
- Đó là
điều gì vậy? - Lão đánh cá hỏi.
- Là mi
chọn cái chết như thế nào ta sẽ chiều mi cho chết như thế - Hung thần đáp.
- Nhưng
tôi đã làm gì ngài nào? Có phải đó là cách ngài trả ơn người đã làm điều tốt
cho ngài chăng?
- Ta
không thể làm khác được - Hung thần nói - Và để cho mi tin, hãy lắng nghe câu
chuyện của ta:
“Ta là
một trong các thần linh đối kháng lại ý chí của Thượng đế. Tất cả các vị thần
khác đều công nhận Salomon vĩ đại đấng tiên tri của Thượng đế và phục tùng
Người. Duy nhất chỉ có Sacar và ta không muốn làm cái trò hèn hạ đó. Để trả
hận, vị đế vương hùng mạnh này lệnh cho Assaf, con trai Barakhia, tể tướng đầu
triều của ông đến bắt ta và điều ta đến trước ngai vàng, trước chúa tể của hắn.
Salomon, con trai David, bắt ta rời bỏ cách sống riêng, công nhận uy quyền và
chịu sự chỉ huy của ông ta. Ta hiên ngang không chịu, thà phải hứng tất cả sự
thù ghét giận dữ còn hơn là phải thề thốt tuyệt đối trung thành và phục tùng vô
điều kiện mà ông ta bắt buộc. Để trừng trị ta, ông ấy đã nhốt ta vào trong
chiếc bình bằng đồng này. Và để chắc chắn là ta không thể phá vỡ để thoát ra,
ông đã tự mình đóng niêm trên nắp chì dấu ấn khắc rõ đại danh Thượng đế. Xong,
ông trao cho một vị thần được tin cậy với lệnh là ném ta xuống biển. Việc đó đã
được thi hành với sự vô cùng nuối tiếc của ta. Suốt trong thế kỷ đầu trong
chiếc bình tù ngục, ta đã nguyền nếu có ai đó giải thoát được ta, ta sẽ làm cho
kẻ đó giàu có suốt đời, giàu có cả đến sau khi chết. Nhưng thế kỷ đầu trôi qua,
chẳng có ai giúp ta cả. Sang thế kỷ thứ hai, ta thề là sẽ mở tất cả các kho của
cải trên trái đất tặng cho người nào đem tự do đến cho ta, nhưng chẳng có may
mắn gì hơn thế kỷ trước. Sang đến thế kỷ thứ ba, ta hứa là sẽ làm cho người nào
giải thoát ta trở thành một đế vương hùng mạnh và luôn luôn ở bên cạnh, ta ban
cho người đó mỗi ngày ba điều ước để có bất cứ cái gì. Nhưng thế kỷ này lại
trôi qua như hai thế kỷ trước và ta thì vẫn cứ nguyên như thế. Cuối cùng ta hết
sức hoang mang thất vọng hay đúng ra là phát điên lên vì bị tù hãm quá lâu, ta
thề là sau này có kẻ nào giải thoát ta thì ta sẽ giết không thương tiếc và
chẳng ban cho một ân huệ nào ngoài việc được chọn loại chết mà ta sẽ dành cho
hắn. Vì vậy, ngày hôm nay mi đã tới đây, mi đã giải thoát cho ta, bây giờ mi
hãy chọn theo ý thích cách mà ta sẽ giết mi”.
Lão đánh
cá vô cùng buồn bã:
- Khốn
khổ cho cái thân ta! - Lão kêu lên - Đến cái chỗ này làm gì để làm ơn cho một tên
vô ơn bạc nghĩa? Hãy xem xét lại sự bất công của nhà ngươi đi và hãy huỷ bỏ đi
cái lời thề phi lý đó. Tha thứ cho ta thì Thượng đế cũng sẽ tha thứ cho nhà
ngươi; rộng lượng cho ta được sống, thì Người sẽ che chở cho nhà ngươi khỏi mọi
mưu mô ám hại cuộc sống của nhà ngươi.
- Không,
nhất định mi phải chết - Hung thần nói – Mi chỉ còn được chọn ta sẽ giết mi
cách nào mà thôi.
Lão đánh
cá nhận thấy là tên hung thần kiên quyết lấy đi mạng sống của mình, nên đau
lòng vô hạn không phải vì mình mà vì ba đứa trẻ sẽ không khỏi sa vào cảnh đói
khổ khi lão bị hung thần giết hại.
- Than
ôi - Lão tiếp tục - Phải rủ lòng thương ta mới phải chứ, hãy xem lại những gì
ta đã làm cho nhà ngươi.
- Ta đã
nói rồi - Hung thần lại bảo - Chính vì thế mà ta buộc phải lấy mạng sống của
mi.
- Thật
cũng khác đời đấy - Lão đánh cá phản bác - Nhà ngươi lại cứ nhất định muốn lấy
oán để trả ân. Tục ngữ có câu: Làm ơn cho những kẻ không xứng đáng được hưởng
thì bao giờ cũng được đền đáp lại bằng sự bạc bẽo vô ơn. Thú thực ta đã tưởng
thế là sai: quả thật điều đó ngược với lẽ phải và lệ luật của xã hội. Thế mà
lúc này ta đau xót thấy cái đó thật hoàn toàn chính xác.
- Chớ để
mất thời gian nữa - Hung thần cắt ngang - Tất cả những lý lẽ của mi cũng chẳng
làm ta đổi ý. Hãy mau nói mi muốn ta giết mi như thế nào.
Cái khó
làm ló cái khôn, lão đánh cá nghĩ ra một mẹo:
- Vì nhà
ngươi nhất định muốn giết ta - Lão bảo hung thần - Ta đành thuận theo ý Thượng
đế. Nhưng trước lúc ta chọn một cái chết như thế nào, ta xin ngươi, vì uy danh
của Thượng đế đã được khắc trên dấu ấn của đấng tiên tri Salomon, con trai
David, hãy nối rõ sự thật về một vấn đề ta hỏi ngươi đây.
Khi nghe
thấy lời cầu khẩn nhân danh Thượng đế. hung thần buộc lòng không thể khước từ,
hắn thấy thầm run sợ, bảo lão đánh cá:
- Nào mi
muốn gì hãy nói đi, mau lên?
Trời vừa
rạng sáng, Scheherazade ngừng lại ở đoạn này.
- Chị
của em - Dinarzađe nói - Phải công nhận là chuyện chị kể càng lúc càng hay,
nghe rất thích. Em mong rằng hoàng đế, chúa tể của chúng ta, không bắt chị phải
chết trước khi Người được nghe nốt câu chuyện rất hay về lão đánh cá.
- Hoàng
đế là chúa tể - Scheherazade tiếp lời em - Tất cả điều gì Người thích đều phải
được như nguyện.
Vua
Schahrlar cũng muốn được nghe đoạn cuối của câu chuyện như Dinarzade nên đã lui
lại ngày hành quyết hoàng hậu.
o O o
Schahrlar
cùng với hoàng hậu qua đêm cùng nhau cũng như các đêm trước, và trước khi trời
sáng, Dinarzade đánh thức họ dậy bằng câu nói sau đây với Scheherazade:
- Chị
ơi, chị kể tiếp chuyện lão đánh cá!
- Rất vui
lòng - Scheherazade đáp - chị sẽ làm em được thoả mãn, với sự chuẩn y của Hoàng
đế.
- Hung
thần - Nàng nói tiếp - Sau khi hứa là sẽ nói rõ sự thật, thì lão đánh cá bảo
hắn:
- Ta
muốn biết có thực là nhà ngươi đã nằm trong chiếc bình kia không? Nhà ngươi có
dám nhân đại danh của Thượng đế mà thề không?
- Dám
chứ - Hung thần đáp - Ta nhân đại đanh của Người thề rằng ta đã ở trong chiếc
bình và đó hoàn toàn là sự thật.
- Thật
lòng mà nói - Lão đánh cá bảo - Ta không sao mà tin được. Cái bình này chưa chắc
đã chứa nổi một bàn chân ngươi còn nói chi đến việc tất cả con người nhà ngươi
nằm được trong đó?
- Thế mà
ta thề với mi - Hung thần tức mình bảo – Là ta đã ở gọn trong đó như mi đã thấy
đấy. Sau lời thề thật là trịnh trọng đó mà mi vẫn chưa tin ta ư?
- Chưa
tin được, thật vậy đó - Lão đánh cá nói – Ta chưa thể tin nhà ngươi chừng nào
ta chưa được tận mắt nhìn thấy.
Thế là
cả cơ thể hung thần bỗng tan ra thành khói, lan toả ra khắp mặt biển và trên
bờ, rồi tụ lại, bắt đầu chui vào bình, cứ thế đều đều chầm chậm cho đến lúc
chẳng còn gì ở bên ngoài cả. Rồi ngay lúc đó một tiếng nói từ trong bình thoát
ra bảo lão đánh cá:
- Thế
nào, lão đánh cá đa nghi kia, ta đang ở trong bình rồi đấy. Bây giờ mi đã tin
ta chưa?
Lão đánh
cá đáng lẽ trả lời hung thần thì lại cầm lấy cái nắp bằng chì đậy nhanh lên
miệng chiếc bình và kêu to:
- Hỡi
hung thần? Đến lượt ngươi cầu xin ta làm phúc. Ngươi hãy chọn xem ta xử tử
ngươi cách nào đây.
Nhưng
không, tốt hơn cả là ta lại ném ngươi xuống biển đúng ở cái chỗ mà ta đã vớt
ngươi lên. Rồi ta sẽ dựng một cái chòi trên bờ này để ở và để báo cho tất cả
những người đánh cá đến thả lưới ở đây là cần phải chú ý đề phòng kẻo lại vớt
lên một tên hung thần như ngươi, kẻ đã thề là sẽ giết người nào giải phóng cho
hắn.
Nghe
những lời nói xúc phạm ấy, hung thần nổi giận vùng vẫy hết sức để mong thoát ra
khỏi chiếc bình nhưng không thể được vì dấu ấn của đấng tiên tri Salomon, con
trai của David đã ngăn cản y lại. Thế là, thấy lão đánh cá đang có lợi thế hơn
mình, hung thần đành phải nén cơn giận mà đấu dịu:
- Này,
lão đánh cá - Bằng giọng dịu ngọt y nói - Chớ có vội làm như điều lão vừa nói
đó. Chẳng qua là ta đùa lão một chút thôi mà, lão chớ vội cho đó là điều nghiêm
chỉnh nhé.
- Hỡi
hung thần - Lão đánh cá đáp - Chỉ mới lúc nãy thôi, ngươi to lớn biết bao và
lúc này ngươi lại là bé nhất trong tất cả các thần linh, phải biết rằng những
lời lẽ dối trá chẳng giúp gì được cho ngươi đâu. Ngươi sẽ được trả về cho biển
cả. Nếu ngươi đã ở được dưới đó từng ấy thời gian mà ngươi đã kể với ta thì
ngươi cũng có thể ở dưới đó cho đến ngày phán xét cuối cùng. Ta cầu xin ngươi
nhân danh Thượng đế để cho ta được sống, ngươi đã chẳng đếm xỉa gì tới những
lời cầu khẩn của ta. Ta phải đối xử với ngươi cũng như vậy.
Hung
thần không còn tiếc gì nữa để cố gắng làm cho lão đánh cá động lòng:
- Hãy mở
nắp bình ra đi - Y nói với lão - Hãy giải phóng cho ta, ta cầu xin mi. Ta hứa
là mi sẽ được thoả mãn mọi bề.
- Ngươi
chỉ là một tên phản trắc - Lão đánh cá bảo - Ta sẽ phải mất mạng nếu ta còn dại
dột đặt lòng tin vào ngươi. Rồi ngươi sẽ chẳng ngần ngại gì mà đối xử với ta
chẳng khác gì cung cách mà một ông vua Hi Lạp nào đó đối xử với thầy thuốc
Douban. Đó là câu chuyện mà ta muốn kể cho ngươi nghe đó. Hãy lắng tai mà nghe:
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
3: Nhà vua Hi Lạp và thầy thuốc Douban
Ngày xưa
ở xứ Zouman quốc gia Ba Tư có một ông vua mà thần dân vốn là gốc người Hi Lạp.
Ông vua
này bị bệnh phong. Những ngự y sau khi đã dùng đủ các loại thuốc để chữa trị
cho vua của họ nhưng không đem lại kết quả gì cả. Đang trong khi lúng túng thì
Douban, một thầy thuốc danh tiếng tới triều đình.
Người
thầy thuốc này đã nghiên cứu sâu về y khoa trong các sách Hi Lạp, Ba Tư, Thổ
Nhĩ Kỳ, Ả Rập, La Tinh, Syrie và Hébreux. Ngoài kiến thức sâu rộng về lĩnh vực
triết học, ông còn hiểu biết rất thông thạo về tính năng tác dụng của tất cả
các loại cây cỏ làm thuốc chữa bệnh. Khi ông được biết nhà vua bị bệnh mà các
ngự y đều đã chịu bó tay, ông bèn ăn vận sạch sẽ chỉnh tề và tìm cách để ra mắt
đức vua.
- Tâu bệ
hạ - Ông trình vua - Thần biết là các ngự y của triều đình không thể chữa được
bệnh phong mà Người đang mắc phải. Nhưng nếu bệ hạ đặc ân chiếu cố tới tài mọn
này thì thần xin cam đoan chữa lành bệnh cho Người mà chẳng cần phải thuốc
uống thuốc xoa gì hết.
Nghe lời
tâu trình đó, nhà vua rất hài lòng, ông bảo:
- Nếu
nhà ngươi có tài làm được như lời ngươi nói thì ta sẽ làm cho ngươi thật giàu
sang cho đến đời con đời cháu, không kể đến những món quà quí tặng riêng cho
ngươi và ngươi sẽ là một sủng thần của ta. Vậy là nhà ngươi cam đoan chữa cho
ta khỏi hủi mà chẳng cần phải có một thứ thuốc nào cả bên trong lẫn bên ngoài?
- Tâu bệ
hạ, đúng như vậy và chắc là với sự phù trợ của Thượng đế, thần sẽ thành công.
Ngay từ ngày mai, thần sẽ bắt đầu cuộc thử nghiệm.
Sau đó, ông
thầy thuốc trở về nhà mình, làm một chày gỗ, khoét rỗng chuôi chỗ tay cầm và
bỏ vào trong đó những vị thuốc mà ông đã tính toán phải sử dụng. Xong rồi, ông
làm một quả tròn theo ý mình, và với những vật dụng đó, ngày hôm sau ông xin
được bệ kiến. Ông quỳ xuống bên chân vua, hôn mặt đất...
Tới đoạn
này, Scheherazade nhận thấy trời đã hửng sáng. Nàng báo cho vua Schahriar và
thôi kể.
- Chị ơi
- Dinarzade bảo chị - Đúng là em thật ngạc nhiên không biết là chị lấy đâu ra
biết bao cái đẹp đẽ hay ho đó.
- Em sẽ
còn được nghe bao nhiêu cái hay cái đẹp nữa vào ngày mai, nếu hoàng đế chúa của
chúng ta mở lượng hải hà còn để cho chị sống.
Schahriar
cũng chẳng kém gì Dinarzade, rất muốn nghe đoạn tiếp câu chuyện về người thầy
thuốc Douban nên ngày hôm đó chưa ra lệnh đưa hoàng hậu đi hành quyết.
o O o
Đêm đó
đã khuya lắm, khi Dinarzade thức giấc, kêu lên:
- Chị
ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị hãy kể nốt câu chuyện rất hay về ông
vua Hi Lạp và thầy thuốc Douban đi.
- Được
thôi em ạ - Scheherazade đáp.
Rồi nàng
kể tiếp như sau:
- Tâu bệ
hạ, lão đánh cá vẫn kể tiếp với hung thần đang bị giam lại trong bình như thế
này: “Thầy thuốc Douban đứng dậy và sau một vái dài, tâu với nhà vua ông ta
thấy là lúc này nhà vua nên cưỡi ngựa và ra bãi chơi bóng chày. Nhà vua làm
theo và khi tới bãi bóng, ông ta tới gần đưa cho nhà vua cái chày và nói: “Tâu
bệ hạ, xin Người hãy dùng cái chày này đánh quả bóng này cho đến lúc cảm thấy
bàn tay cầm chày và toàn thân mồ hôi nhễ nhại. Khi chất thuốc mà thần chứa
trong cái chày này được bàn tay của bệ hạ làm cho nóng lên thì chất thuốc đó
sẽ ngấm vào toàn thân của Người. Vậy lúc Người ra mồ hôi thật nhiều thì chấm
dứt cuộc chơi vì lúc đó thuốc đã phát huy tác dụng. Trở về cung, bệ hạ vào
buồng tắm rửa và kỳ cọ thật mạnh tay, rồi đi ngủ. Thức dậy vào sáng hôm sau, bệ
hạ sẽ thấy lành bệnh hoàn toàn”.
Nhà vua
cầm lấy chiếc chày, giục ngựa đi tới gần quả bóng vừa ném xuống. Ông dùng chày
đánh vào quả bóng. Những viên quan cùng tham gia lại đẩy quả bóng về cho ông,
ông lại đánh cho bật ra xa và cứ thế ông đánh bóng bằng chiếc chày nắm chặt
trong bàn tay cho đến lúc bàn tay ra mồ hôi nhơm nhớp, rồi toàn thân ông cũng
nhễ nhại mồ hôi. Thế là, chất thuốc chứa trong chỗ tay nắm của chiếc chày đã
ngấm vào toàn thân nhà vua qua cán chày như viên thầy thuốc đã nói. Nhà vua
ngừng cuộc chơi, trở về cung, đi vào buồng tắm rửa, làm đúng như lời căn dặn
của thầy thuốc Douban. Ông thấy vô cùng khoan khoái. Hôm sau, thức giấc, ngạc
nhiên và mừng rỡ, ông thấy mình đã khỏi bệnh, toàn thân nhẵn nhụi đường như
chưa từng bao giờ ông bị hủi, cái bệnh hầu như vô phương cứu chữa đó.
Khoác
vội vã long bào, ông ra ngự triều rất sớm vì muốn cho cả triều đình biết hiệu
quả mầu nhiệm của bài thuốc mới. Khi thấy nhà vua hoàn toàn khỏi bệnh, tất cả
các quan lại trong triều đều vui mừng khôn xiết.
Thầy
thuốc Douban tới sụp quì trước ngai vàng, đầu cúi sát đất. Nhà vua nhìn thấy,
vời ông lại, cho ngồi bên cạnh mình, giới thiệu với cả triều đình và không ngớt
nói những lời khen ngợi mà ông thật xứng đáng. Nhà vua không dừng lại ở đó, ông
cho tổ chức tiệc mừng thật linh đình và thầy thuốc Douban được đặc ân ngồi ăn
cùng mâm với vua...”.
Tới đây,
Scheherazade thấy trời hửng sáng, bèn ngừng lời.
- Chị
ơi! - Dinarzade nói - Em chẳng biết rồi câu chuyện sẽ kết thúc ra sao, nhưng
đoạn đầu thật vô cùng hấp dẫn.
- Đoạn
tiếp theo sau đây còn hay hơn nhiều – Hoàng hậu Scheherazade đáp lời em - Và
chị tin là em sẽ thấy rất thích thú, nếu hoàng đế vui lòng cho phép chị được kể
tiếp vào tối mai.
Vua
Schahriar đồng ý và đứng đậy, rất hài lòng với phần câu chuyện vừa nghe.
o O o
Quá nửa
đêm hôm sau, Dinarzade lại nói với hoàng hậu Scheherazade:
- Chị
thân yêu, nếu chị đã thức, thì chị kể nốt chuyện nhà vua Hi Lạp và ông thầy
thuốc Douban cho em nghe đi.
- Chị sẽ
thoả mãn tính hiếu kỳ của em với sự chuẩn y của hoàng đế, chúa của chúng ta.
Rồi nàng
tiếp tục câu chuyện như sau:
- Nhà
vua Hi Lạp - Lão đánh cá tiếp tục kể - Ngoài việc để cho viên thầy thuốc Douban
ăn chung mâm với mình, vào cuối ngày, nhà vua còn ban cho Douban một áo triều
phục lộng lẫy giống như áo của các đại thần mặc trong những buổi chầu và hai
nghìn đồng sequins. Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo, viên thầy thuốc còn
nhận được rất nhiều ân tứ. Cuối cùng, vị quốc vương này cảm thấy không sao có thể
đền đáp lại cho thật đầy đủ công lao của viên thầy thuốc giỏi giang của mình
nên hàng ngày ban phát cho ông không thiếu gì những của ngon vật lạ.
Nhưng,
nhà vua lại có một viên tể tướng đầu triều keo kiệt, tham lam và tất nhiên là
với tính cách ấy thì thật dễ dàng phạm tội ác. Ông ta vô cùng khó chịu thấy
những quà tặng quí giá trút cho viên thầy thuốc mà sự nổi tiếng đã bắt đầu làm
cho ông ta ghen tức. Ông ta quyết định là phải làm cho hình bóng viên thầy
thuốc biến đi khỏi tâm trí của nhà vua. Để thực hiện ý đồ đó, ông ta xin được
bệ kiến và tâu riêng với nhà vua mình có một ý kiến cực kỳ quan trọng xin được
bẩm báo. Được nhà vua cho phép, ông ta khúm núm tâu:
- Tâu bệ
hạ, thật vô cùng nguy hiểm cho một đấng quân vương là đã đặt lòng tin vào một
con người mà tấm lòng trung trinh chưa được thử thách. Bệ hạ sủng ái và ban cho
biết bao lộc hậu, bệ hạ có biết đâu đó là một tên phản nghịch trà trộn vào
triều đình chỉ để thừa cơ mưu sát Người.
- Điều
mà ngươi dám tâu trình với trẫm đó là để ám chỉ ai vậy? - Vua nói - Nên nhớ là
ngươi đang nói với trẫm chứ chẳng phải ai khác và ngươi tưởng là ta dễ tin lắm
sao?
- Tâu bệ
hạ - Thừa tướng nói - Những điều thần dám mạo muội tâu trình cùng bệ hạ thần
đều thấu hiểu cặn kẽ. Xin bệ hạ chớ nên đặt lòng tin vào một kẻ vô cùng nham
hiểm. Xin bệ hạ hãy tỉnh giấc mê vì kẻ hạ thần xin một lần nữa nhắc lại là tên
thầy thuốc Douban là một kẻ hạ tiện từ tận cùng xứ sở Hi Lạp đi tới kinh thành,
tìm cách lọt vào triều đình của bệ hạ để thực hiện cái ý đồ khủng khiếp mà thần
đã nói.
- Không,
không, thừa tướng - Vua ngắt lời - Trẫm tin chắc người mà nhà ngươi cho là một
tên phản nghịch xảo trá thì lại là một người đức hạnh và có tấm lòng nhân ái
hơn tất cả mọi con người. Không có một ai trên đời này làm ta yêu quí hơn ông
ta. Ngươi hãy nghĩ xem, bằng môn thuốc nào hoặc đúng hơn là bằng phép màu gì mà
ông ta đã chữa khỏi được bệnh phong cho trẫm. Nếu muốn hại trẫm thì tại sao ông
ta lại ra sức cứu trẫm? Ông ta chỉ việc bỏ mặc trẫm cũng chẳng thoát khỏi chết
mà cuộc sống của trẫm đang chỉ còn treo trên sợi tóc. Nhà ngươi hãy thôi đi,
đừng gieo vào lòng trẫm những sự nghi hoặc bất công nữa. Thay vì nghe theo, ta
báo cho nhà ngươi biết là ngay từ hôm nay ta hạ lệnh cấp cho người thầy thuốc
vĩ đại này mỗi tháng một ngàn sequins cho đến hết đời. Dù cho ta có chia sẻ với
ông ta tất cả của cải thậm chí cả non sông đất nước nữa cũng chưa đủ đền đáp
lại những gì ông ấy đã làm cho ta. Ta đã hiểu rõ chính đạo cao đức rộng của ông
ta đã làm khơi dậy lòng đố kị của nhà ngươi, nhưng chớ tưởng là vì lời sàm tấu
của nhà ngươi mà ta thôi sủng ái con người đáng trọng này. Ta làm sao mà quên
được chuyện một viên tể tướng đã nói gì với vua của ông ta là Sindbad để ngăn
cản nhà vua đừng giết con mình là hoàng tử....
- Nhưng,
tâu bệ hạ - Scheherazade nói - Trời lại đã sáng rồi, thần thiếp chẳng còn nói
tiếp được nữa.
- Em
thật cảm phục nhà vua Hi Lạp, đã cương quyết bác bỏ sự vu cáo của viên tể tướng
- Dinarzade nói.
- Hôm
nay em khen ngợi thái độ cương quyết của ông vua đó, nhưng ngày mai em sẽ phải
chê trách sự hèn yếu của ông ta - Scheherazade bảo - Nếu hoàng đế muốn chị kể
nốt câu chuyện này.
Schahriar
cũng tò mò muốn biết sự hèn yếu của nhà vua Hi Lạp thể hiện ra sao nên lại lui
ngày hành quyết hoàng hậu thêm hôm nữa.
o O o
- Chị ơi
- Dinarzade gọi chị khoảng lúc gần tàn đêm hôm ấy - Nếu chị không ngủ nữa, để
chờ trời sáng hẳn. Chị hãy kể nốt chuyện ông lão đánh cá đi. Đã tới chỗ ông vua
Hi Lạp bênh vực thầy thuốc Douban bảo vệ sự trong sạch vô tội của ông ta.
- Chị
nhớ rồi - Scheherazade nói - Em sẽ được nghe đoạn tiếp theo đây - Rồi nàng
ngoảnh về Schahrlar nói với ông:
- Tâu bệ
hạ, điều ông vua Hi Lạp vừa nói về quốc vương Sindbad làm khơi dậy trí tò mò
của viên tể tướng.
- Tâu bệ
hạ - Ông ta nói - Xin bệ hạ tha tội nếu thần mạnh bạo xin Người cho biết là
viên tể tướng đã nói gì với Sindbad, vua của ông ta để vị quốc vương này không
giết con trai của mình.
Nhà vua
Hy Lạp sẵn lòng thoả mãn y:
- Viên
tể tướng này - Ông nói - Sau khi trình tâu với quốc vương Sindbad về sự vu cáo
của một bà mẹ ghẻ, ông ta đã cảnh báo nhà vua là có thể ngài sẽ phải hối hận
với hành động của mình. Tể tướng kể cho quốc vương câu chuyện sau đây.
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
4: Người chồng và con vẹt
“Một
người đàn ông chất phác có một người vợ đẹp mà anh ta yêu say đắm chẳng muốn
lúc nào rời.
Một hôm
vì có những công việc khẩn thiết buộc anh ta phải đi xa, anh bèn tìm đến một
nơi có bán đủ các loài chim. Anh chọn mua được một con vẹt không những biết nói
thạo mà còn biết và nhớ tất cả những gì xảy ra trước mắt nó. Anh đem lồng chim
về nhà, bảo vợ treo lồng chim trong buồng mình và chú ý chăm sóc con vật trong
thời gian anh vắng nhà. Sau đó, anh lên đường...
Khi trở
về, anh ta không quên hỏi con vẹt tất cả những gì đã xảy ra và con chim kể lại
cho anh nghe chẳng thiếu một điều gì. Cũng vì vậy nên chị vợ bị một trận trách
mắng nặng nề. Chị vợ ngờ cho bọn đầy tớ mách lẻo nhưng cả bọn đều thề thốt luôn
trung thành với bà chủ của chúng và đều nhất trí cho là chính con vẹt đã ton
hót với ông chủ. Tin vào lời bọn đầy tớ, chị vợ nghĩ cách làm sao xua tan đi
mối nghi ngờ của chồng đồng thời trả thù con vẹt. Dịp may đã tới. Chồng chị
phải đi vì công việc trong một ngày. Chị ta ra lệnh cho một con ở đặt một cái
cối xay tay dưới ngay lồng chim và quay ầm ầm trong đêm, con ở thứ hai được
lệnh vẩy nước liên tục phía trên lồng chim giả làm mưa, còn con thứ ba thì được
lệnh cầm một chiếc gương chiếu bên nọ rồi bên kia chiếc lồng chim dưới ánh sáng
của một ngọn nến. Lũ đầy tớ đã làm công việc do cô chủ trao cho trong suốt một
phần đêm và hoàn thành thật tốt.
Ngày hôm
sau, người chồng trở về lại hỏi vẹt những gì đã xảy ra ở nhà, con chim trả lời:
- Thưa
ông chủ, sấm chớp và mưa gió đã làm tình làm tội tôi suốt đêm, tôi không biết
nói với ông chủ là tôi khổ sở tới mức nào.
Người
chồng, biết rất rõ là đêm hôm đó chẳng có sấm chớp cũng không mưa gió, cho là
con chim đã nói láo và chắc là nó cũng đã nói sai về vợ mình. Bởi vậy, bực
mình, anh ta lôi con vẹt ra khỏi lồng và đập chết. Thế nhưng, về sau, anh biết
qua những người hàng xóm là con vẹt chẳng hề nói sai về hạnh kiểm của vợ mình,
anh vô cùng hối hận là đã giết oan con vật...”.
Đến đây
Scheherazade ngừng lời vì thấy trời đã sáng. Dinarzade vội nói:
- Tất cả
câu chuyện chị kể thật phong phú và hấp dẫn. Em nghĩ thật khó có thể có chuyện
hay hơn.
- Chị
muốn tiếp tục làm em vui thích – Scheherazade nói - Nhưng chẳng rõ là hoàng đế,
chúa của chị có còn cho chị thời gian nữa không.
Schahriar
chẳng kém gì Dlnarzade cũng còn rất thích nghe hoàng hậu kể chuyện nên đứng lên
và ngày hôm đó cũng chưa ra lệnh cho tể tướng đưa nàng đi xử.
o O o
Cũng như
những đêm trước, rất đúng giờ Dinarzade đánh thức Scheherazade:
- Chị
ơi? Nếu chị không còn ngủ nữa, thì em xin chị kể cho em nghe một trong các
chuyện rất hay mà chị biết để chờ trời sáng rõ.
- Em ạ -
Hoàng hậu Scheherazade đáp - Chị sẽ chiều em ngay đây.
- Hãy
khoan - Hoàng đế ngắt lời - Khanh hãy kể nốt câu chuyện ông vua Hi Lạp với viên
tể tướng đã xử sự như thế nào với thầy thuốc Douban rồi sau đó khanh hãy kể
tiếp chuyện ông lão đánh cá với hung thần.
- Xin
tuân lệnh, tâu bệ hạ - Scheherazade nói và vào chuyện như sau:
"-
Khi nhà vua Hi Lạp - Lão đánh cá bảo hung thần - Kể xong chuyện con vẹt, ông
bảo viên thừa tướng:
- Còn
nhà ngươi, vì đố kỵ với thầy thuốc Douban, người chẳng làm gì hại ngươi, ngươi
đã muốn ta giết người đã cứu ta. Nhưng ta sẽ không làm việc đó vì sợ là sẽ phải
hối hận suốt đời như người chồng đó đã giết oan con chim vẹt.
Viên tể
tướng độc ác rất muốn loại trừ ông thầy thuốc Douban nên chẳng muốn ngừng lại
tại đó. Ông ta cố ngụy biện:
- Tâu bệ
hạ, cái chết của một con chim thì có gì là quan trọng, và thần chắc là chủ nó
cũng chẳng hối tiếc lâu la gì. Nhưng sao chỉ vì sợ đàn áp lầm người vô tội mà
bệ hạ lại không ra tay xử tử người thầy thuốc đó! Bị tố cáo là có âm mưu ám hại
bệ hạ chẳng lẽ chưa đủ để Người lấy đi mạng sống của y đi sao? Khi phải bảo vệ
sinh mạng của một ông vua thì chỉ một thoáng nghi ngờ thôi cũng phải coi như đã
là đích thực. Hi sinh một người vô tội còn hơn là bỏ sót một kẻ thủ phạm.
Nhưng, tâu bệ hạ, đây là chuyện không còn phải nghi ngờ gì nữa: viên thầy thuốc
Douban muốn ám sát Người. Không phải tính đố kỵ xui thần chống lại y mà duy
nhất chỉ vì tấm lòng trung đã khiến thần phải ra sức bảo vệ bệ hạ, đưa ra một
lời khuyến cáo vô cùng quan trọng. Nếu sai lầm, thần xin chịu hình phạt mà xưa
kia một vị tể tướng đã phải hứng chịu.
- Vị tể
tướng đó đã làm gì - Quốc vương Hi Lạp hỏi - Để phải chịu hình phạt như vậy?
- Thần
sẽ kể lại bệ hạ nghe - Viên tể tướng đáp - Nếu Người vui lòng muốn biết, tâu bệ
hạ.
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
5: Viên tể tướng bị trừng phạt
- Ngày
xưa có một ông vua - Vị tể tướng kể - Có một hoàng tử rất ham mê săn bắn.
Nhà vua
cho phép chàng được đi săn luôn luôn nhưng lệnh cho tể tướng là phải theo sát
và không lúc nào được rời mắt quan tâm chăm sóc chàng. Trong một ngày săn,
những tuỳ tùng sục sạo lùa ra được một chú hoẵng. Hoàng tử rượt ngựa đuổi theo,
vẫn tưởng là tể tướng luôn ở sát bên mình nên chẳng cần suy nghĩ mà cứ phóng
tâm theo miết con mồi. Sự hào hứng đã đưa chàng đi quá xa, và lúc này trơ trọi
chỉ còn một mình. Chàng ngừng lại, nhận thấy mình đã lạc đường. Chàng muốn quay
lại chỗ viên tể tướng chắc là chậm chân nên không theo kịp mình. Quay hết ngả
này sang ngả khác cũng chẳng tìm được đường về. Đúng là chàng đã bị lạc. Bỗng
chàng thấy một thiếu phụ xinh đẹp đứng bên lề đường khóc lóc thảm thiết. Chàng
kìm cương ngựa hỏi nàng là ai, làm gì một mình ở cái chốn vắng vẻ này và có cần
giúp đỡ gì không. Nàng ngừng khóc, đáp:
- Thiếp
là con gái quốc vương Ấn Độ. Cưỡi ngựa đi dạo vùng thôn dã, thiếp đã ngủ gật và
bị ngã ngựa. Con ngựa đã lồng lên và chạy mất, thiếp chẳng biết bây giờ nó ở
đâu nữa.
Hoàng tử
trẻ động lòng trắc ẩn, sẵn lòng để nàng cưỡi ngựa cùng mình. Nàng nhận lời.
Họ đi
ngang qua một túp lều, thiếu phụ tỏ ý muốn xuống vì một việc cần thiết gì đó.
Hoàng tử dừng ngựa đỡ nàng xuống và chính chàng cũng xuống ngựa, cầm cương dắt
con vật tới sát túp lều. Kinh ngạc xiết bao khi chàng nghe tiếng người thiếu
phụ ở bên trong nói như thế này: "Hãy vui lên các con, ta đã đưa về cho
các con một chàng trai đẹp đẽ và thật béo tốt”, và những tiếng khác đáp ngay:
“Nó đâu nào, mẹ ơi? Phải ăn thịt nó ngay mới được, chúng con đang đói ngấu
đây!”.
Không
phải nghe thêm câu nào nữa, hoàng tử đã thấy ngay mình đang trong vòng nguy
hỉểm. Chàng thấy rõ là người thiếu phụ tự nhận là công chúa Ấn Độ chỉ là một
con nữ quái, vợ của một trong những tên quỉ man rợ được mệnh danh là yêu quái
khổng lồ chuyên ăn thịt người. Chúng trú ẩn ở những nơi hoang vắng và dùng muôn
phương nghìn kế để lừa bắt những khách qua đường đem về làm thịt. Hoảng hốt
rụng rời, chàng phốc nhanh lên mình ngựa. Con nữ yêu giả danh là công chúa từ
túp lều bước ra thấy âm mưu của mình đã bị lộ, vội kêu: “Này, đừng sợ! Chàng là
ai? Chàng tìm gì vậy?" – "Tôi bị lạc - Hoàng tử đáp - Và tôi tìm
đường" - "Nếu bị lạc đường thì hãy cầu xin Thượng đế, Người sẽ giúp
chàng thoát khỏi sự bối rối kinh hoàng”.
Nghe
vậy, hoàng tử ngẩng đầu lên cao...
- Nhưng
tâu bệ hạ - Tới đây, Scheherazade nói - Thiếp buộc phải tạm ngừng câu chuyện.
Ánh sáng bình minh đã bắt thiếp phải im rồi.
- Chị
ơi? Em lo quá, không biết rồi chàng hoàng tử đó ra sao. Em run cho chàng đấy
chị ạ.
- Sáng
mai, chị sẽ làm cho em hết lo nếu Thánh thượng còn cho chị được sống đến lúc
đó.
Schahriar
cũng tò mò muốn biết câu chuyện sẽ kết thúc ra sao, nên chưa bắt tội hoàng hậu
Scheherazade vội.
o O o
Dinarzade
rất muốn nghe đoạn cuối chuyện chàng hoàng tử trẻ nên đêm nay nàng thức giấc
sớm hơn mọi khi. Nàng nói với chị:
- Chị
của em, nếu chị không còn ngủ nữa thì chị hãy kể nốt cho em nghe câu chuyện chị
đã bắt đầu ngày hôm qua. Em rất quan tâm tới số phận của chàng hoàng tử trẻ. Em
sợ chết đi được nếu chàng bị mụ yêu quái và lũ con của mụ ăn thịt.
Schahriar
thấy là mình cũng cùng lo sợ như thế.
- Vậy
thì, tâu bệ hạ - Hoàng hậu nói - Thiếp sẽ giải toả cho bệ hạ nỗi lo đó ngay bây
giờ.
“- Sau
khi công chúa Ân Độ giả bảo chàng hoàng tử trẻ khẩn cầu Thượng đế, vì chàng
không tin lời mụ nói là thành thực mà vẫn coi mình là miếng mồi ngon của mụ nên
chàng giơ cao hai tay lên trời và cầu khấn:
- Thượng
đế tối cao và đầy quyền lực, xin Người hãy soi xét và cứu con ra khỏi bàn tay
của kẻ thù này!
Nghe
thấy thế, vợ tên yêu quái vội rút vào trong lều, còn chàng hoàng tử trẻ cũng
phóng ngựa thật nhanh. May thay tìm thấy đường đi, chàng an toàn trở về với vua
cha và thuật lại tỉ mỉ mối hiểm nguy vừa trải qua vì lỗi của viên tể tướng. Nhà
vua tức giận, ngay lập tức ra lệnh treo cổ viên quan đại thần.
- Tâu bệ
hạ - Viên tể tướng của nhà vua Hi Lạp nói tiếp - Để trở lại với thầy thuốc
Douban, nếu bệ hạ không cảnh giác thì sẽ vô cùng tai hại nếu đặt trọn niềm tin
vào hắn. Thần biết chắc chắn là kẻ thù của bệ hạ đã phái hắn tới đây để chờ
thời cơ ám sát Người. Hắn đã chữa cho bệ hạ khỏi bệnh, có phải thế không ạ,
nhưng ồ, ai mà dám chắc? Có thể chỉ là tạm thời chứ không phải là căn bản. Ai
biết được là môn thuốc đó, với thời gian, không để lại di chứng có hại?
Quốc
vương Hi Lạp, cũng như mọi ông vua, trí tuệ thường hạn chế, không đủ trí thông
minh để nhận thấy ác ý của viên tể tướng cũng không đủ tính quyết đoán để kiên
trì tình cảm đầu tiên của mình. Những lời nói của hắn làm cho nhà vua dao động.
Ông nói:
- Tể
tướng ạ, nhà ngươi có lý. Đúng là có thể hắn cố tình tới đây để ám hại ta. Hắn
hoàn toàn có thể giết ta chỉ bằng một loại độc dược nào đó. Bây giờ cần phải
làm gì đây?
Viên tể
tướng thấy nhà vua đã ngả nghiêng như ý mong muốn:
- Tâu bệ
hạ - Y nói - Cách thức chắc chắn và nhanh chóng nhất để bảo đảm cuộc sống yên
bình của Người là cho tìm ngay thầy thuốc Douban tới và chặt đầu hắn không chậm
trễ.
- Đúng
là - Vua nói - Phải như thế thì mới kịp thời ngăn chặn được ý đồ của hắn.
Nói
xong, nhà vua truyền cho một võ quan lệnh triệu ngay viên thầy thuốc tới. Ông
này không rõ vua đòi mình có việc gì, vội tới ngay cung điện.
- Nhà
ngươi có biết - Vua nói khi nhìn thấy ông - Trẫm cho đòi nhà ngươi tới đây để
làm gì không?
- Tâu bệ
hạ, thần chưa rõ - Douban đáp - Mong được Người dạy bảo.
- Trẫm
đòi ngươi tới - Vua lại nói - Để ta được giải thoát và cho nhà ngươi sang thế
giới bên kia.
Không
sao tả được sự kinh ngạc bàng hoàng của viên thầy thuốc khi nghe nhà vua tuyên
án tử hình mình.
- Tâu bệ
hạ - Ông nói - Vì lý do gì mà Người bắt thần phải chết? Thần đã phạm tội gì?
- Ta
được biết rõ ràng - Nhà vua bảo - Ngươi là một tên gian tế tới đây để tìm cách
ám hại ta. Nhưng để nhà ngươi không thực hiện được ý đồ đen tối đó, ta phải
giết người. Hãy bắt lấy hắn - Nhà vua bảo đao phủ cũng có mặt tại đó - Và hãy
chặt ngay đầu tên vô lại này đã lọt vào cung đình chỉ để ám sát ta.
Nghe cái
lệnh ác độc tàn nhẫn này, viên thầy thuốc hiểu ra là tất cả những vinh dự và
của cải mà ông ta được hưởng đã làm dấy lên sự đố kỵ của kẻ thù và ông vua hèn
yếu này đã bị những lời xúc xiểm lôi cuốn. Ông hối hận là đã chữa lành bệnh hủi
cho nhà vua, nhưng đó là một sự hối hận muộn màng.
- Có
phải đó là cách mà bệ hạ ban thưởng cho thần sau khi đã tận tâm phục vụ Người?
Nhà vua
không nghe và ra lệnh lần thứ hai cho đao phủ phải thi hành bản án. Viên thầy
thuốc đành phải cầu cứu đến sự khẩn nài:
- Ôi! Bệ
hạ - Ông ta kêu lên - Xin hãy để thần được sống. Thượng đế cũng sẽ kéo dài sự
sống của Người. Đừng bắt thần phải chết kẻo rồi Thượng đế cũng sẽ xử sự giống
như thế với Người ?
Đến
quãng này thì lão đánh cá ngừng lời để bảo hung thần:
- Này,
này linh thần! Nhà ngươi thấy đấy, những gì xảy ra giữa quốc vương Hi Lạp với
thầy thuốc Douban cũng chẳng khác gì chuyện xảy ra giữa hai chúng ta.
- Quốc
vương Hi Lạp - Lão đánh cá nói tiếp - Đáng lẽ phải suy nghĩ về lời khẩn cầu của
người thầy thuốc nhân danh Thượng đế thì lại bằng giọng cay nghiệt bảo ông:
"Không,
không ! Bắt ngươi phải chết, đó là việc vô cùng khẩn thiết. Nhà ngươi có thể
bất ngờ lấy đi mạng sống của ta chẳng khác gì ngươi đã chữa cho ta khỏi bệnh
hủi vậy".
Người
thầy thuốc khóc ròng, kêu than thảm thiết vì thấy mình bị đối xử thật bất công
bạc bẽo; hết lòng hết sức phục vụ nhà vua để bây giờ phải nhận lấy cái chết đền
ơn.Tên đao phủ bịt mắt, trói hai tay ông ta lại và từ từ rút gươm ra khỏi vỏ.
Tất cả
các quan đại thần có mặt tại đó đều vô cùng xúc động, quỳ xuống xin ân xá cho
người thầy thuốc, cam đoan ông ta không phải là thủ phạm và bảo lãnh cho sự vô
tội của ông. Nhưng nhà vua không lay chuyển, khăng khăng một mực xử tử người
thầy thuốc khiến các quan chàng dám nài xin.
Người
thầy thuốc vẫn quì, mắt bị băng kín, sẵn sàng nhận lưỡi gươm oan nghiệt, tâu
một lần nữa với nhà vua Hi Lạp:
- Tâu bệ
hạ, v ì Người đã quyết không thu hồi lại lệnh tử hình đối với thần, xin Người
hãy rộng lóng cho phép thần được trở về nhà dặn dò về việc tang ma cho thần,
vĩnh biệt gia đình lần cuối, phân phát của bố thí và bàn giao những sách quí
của thần cho những người có khả năng sử dụng tốt. Trong số sách đó thần có một
cuốn mà thần muốn dâng lên bệ hạ. Đó là một cuốn sách đặc biệt quý vô giá, đáng
được giữ trong kho của triều đình.
- Này,
cuốn sách đó vì sao lại quý tới mức như nhà ngươi nói đó ? - Vua tò mò hỏi.
- Tâu bệ
hạ - Người thầy thuốc nói - Vì nó chứa đựng vô vàn những điều kỳ lạ mà điều lạ
nhất là khi người ta đã chặt đầu thần, nếu bệ hạ hạ cố mở cuốn sách ra đến
trang thứ sáu và đọc dòng thứ ba của trang sách bên tay trái, cái đầu của thần
sẽ trả lời tất cả những câu hỏi mà bệ hạ đặt ra với thần.
Nhà vua,
tò mò muốn chứng kiến một sự kiện vô cùng kỳ lạ, bằng lòng lui lại cái chết của
ông thầy thuốc sang ngày hôm sau và cho thị vệ dẫn ông ta về nhà dưới sự canh
gác cẩn mật.
Người
thầy thuốc, trong lúc đó, sắp xếp nhà cửa, ổn định lại trật tự. Tiếng đồn lan
rộng là sẽ xảy ra một điều kỳ diệu chưa từng có sau cái chết của người thầy
thuốc khiến cho các tể tướng, các đại thần các võ quan túc vệ, tóm lại! à toàn
triều đình nô nức kéo đến cung điện để được mắt thấy tai nghe.
Chẳng
mấy chốc mọi người thấy thầy thuốc Douban đi tới gần ngai vàng với một quyển
sách lớn trong tay. Ông đòi mang tới một cái chậu to, đặt tờ bọc sách vào trong
chậu và đưa cuốn sách cho nhà vua, nói:
- Tâu bệ
hạ, xin Người cầm lấy quyển sách này và khi đầu thần đã bị chặt, bệ hạ cho đặt
nó ngay trên tấm bìa sách đặt trong chậu. Ngay tức thì, máu sẽ thôi chảy, lúc
đó bệ hạ sẽ mỏ sách ra và tất cả những yêu cầu của Người sẽ được đáp ứng. Nhưng
muôn tâu - Ông nói thêm - Một lần nữa thần van. xin Người hãy mở lượng hải hà,
Thượng đế chứng giám cho thần là thần hoàn toàn vô tội.
- Dù nhà
ngươi có cầu xin thế nào - Nhà vua nói - thì cũng vô ích mà thôi. Và để nghe
cái đầu nhà ngươi nói sau khi ngươi đã chết, ta càng muốn nhà ngươi phải chết.
Nói
xong, nhà vua cầm lấy quyển sách trong tay người thầy thuốc rồi ra lệnh cho đao
phủ làm nhiệm vụ.
Cái đầu
được chặt thật khéo, rơi ngay vào trong chậu, và vừa được đặt trên tấm bìa thì
máu ngừng chảy. Thế rồi, dưới sự vô cùng ngạc nhiên của nhà vua và tất cả những
người có mặt, cái đầu mở mắt ra và nói:
- Tâu bệ
hạ, xin Người hãy mở sách.
Nhà vua
nghe theo. Và thấy tờ sách thứ nhất như muốn dính vào tờ sách thứ hai. Để mở
cho dễ, nhà vua đưa ngón tay lên miệng dấp nước bọt vào và cứ làm thế cho đến
trang sách thứ sáu, nhưng chẳng thấy trang nào có chữ. Nhà vua nói với cái đầu:
- Này
thầy thuốc! Chẳng có chữ viết nào cả.
- Bệ hạ
hãy giở thêm vài tờ nữa xem? - Cái đầu bảo.
Nhà vua
tiếp tục giở hết trang nọ đến trang kia và vẫn đưa tay lên miệng dấp nước miếng
như thế cho đến khi thuốc độc đã được tẩm vào mỗi trang giấy phát huy hiệu quả,
vị quốc vương này thấy toàn thân ớn lạnh, mắt mờ đi rồi ngã lăn xuống cạnh ngai
vàng, cơ thể co quắp và rung lên bần bật...”.
Đến đây,
Scheherazade thấy trời đã sáng liền tâu hoàng đế rồi ngừng lời...
- Ôi!
Chị thân yêu - Dinarzade nói - Thật là bực mình mà chị không còn thời gian để
kể hết chuyện này! Em sẽ không sao nguôi được nếu hôm nay chị không còn nữa.
- Em ơi?
- Hoàng hậu Scheherazade nói - Điều này còn phụ thuộc vào hoàng đế, nhưng chúng
ta hãy hy vọng là Người rộng lượng lui cái chết của chị đến ngày mai.
Đúng như
vậy, vua Schahriar, không những không ra lệnh cho hành quyết nàng ngày hôm đó,
mà còn nóng lòng đợi đêm sau để được nghe nốt đoạn cuối câu chuyện nhà vua Hi
Lạp và đoạn tiếp theo của câu chuyện người đánh cá và lão hung thần.
o O o
Dù rất
tò mò muốn nghe nốt câu chuyện về ông vua Hi Lạp, Dinarzade cũng không sao thức
dậy được sớm như mọi đêm. Thậm chí trời đã rạng sáng khi nàng bảo hoàng hậu:
- Chị
thân yêu, xin chị kể tiếp câu chuyện kỳ thú về nhà vua Hi Lạp đi, mau lên chỉ
vì chẳng còn mấy chốc nữa mà trời sáng rõ rồi.
- Tâu bệ
hạ - Nàng nói - Khi thầy thuốc Douban hay đúng hơn là cái đầu của ông thầy
thuốc thấy là độc dược đã phát huy tác dụng và nhà vua chỉ còn sống một thời
gian ngắn nữa thôi nên nói lớn:
- Hôn
quân! Ngươi đã hành động như tất cả bọn vua chúa bạo ngược, cậy quyền thế hãm
hại những người vô tội. Không sớm thì muộn ,Thượng đế cũng sẽ trừng trị chúng
vì tội bất công và độc ác.
Cái đầu
chỉ vừa dứt lời thì tên vua hung ác đã lăn ra chết hẳn, chấm hết sự thoi thóp
từ nãy tới giờ. “Tâu bệ hạ - Scheherazade tiếp - Đó là cái chết của quốc vương
Hi Lạp và thầy thuốc Douban. Bây giờ phải quay trở lại chuyện người đánh cá và
lão hung thần. Nhưng trời đã sáng hắn rồi”.
Vua
Schahriar, giờ giấc đều đã được vạch sẵn không thể nghe thêm được nữa nên đứng
dậy. Và thấy cần phải nghe tiếp câu chuyện người đánh cá và lão hung thần, ông
lệnh cho hoàng hậu chuẩn bị kỹ để kể cho ông nghe vào đêm sau.
o O o
Dinarzade
bù cho đêm trước, đậy khi còn rất lâu trời mới sáng, gọi Scheherazade:
- Chị
ơi! Nếu không còn ngủ nữa thì em xin chị hãy kể nốt chuyện người đánh cá và lão
hung thần cho cả hoàng đế và em nghe đi vì chị biết đấy cả Người cũng đang nóng
lòng muốn biết câu chuyện sẽ ra sao đây.
- Được
em ạ - Hoàng hậu nói - Chị sẽ thoả mãn trí tò mò của Người cũng như của em.
Rồi quay
sang vua Schahriar, nàng nói:
“Tâu bệ
hạ, ngay sau khi kể xong chuyện nhà vua Hi Lạp và thầy thuốc Douban, lão đánh
cá liền bảo hung thần vẫn bị nhốt trong bình:
- Nếu
nhà vua Hi Lạp để cho người thầy thuốc được sống thì Thượng đế cũng để cho nhà
vua được sống nhưng ông ta đã chẳng thèm đếm xỉa gì đến những lời khẩn cầu hết
sức tha thiết của ông thầy thuốc nên đã bị Thượng đế trừng phạt. Ngươi hãy lấy
đó làm gương, hỡi hung thần? Nếu ta có thể làm cho ngươi mủi lòng và được nhà
ngươi chiếu cố thì lúc này đây ta sẽ rủ lòng thương tình trạng nhà ngươi, nhưng
vì mặc dầu ta đã thi ân cực kỳ lớn là giải phóng cho ngươi khỏi cuộc sống tù
hãm hàng ngàn năm, nhưng nhà ngươi đã lấy ân làm oán vẫn kiên trì muốn giết ta
vì vậy đến lượt mình, ta cũng phải tỏ ra tàn nhẫn không chút thương hại đối với
nhà ngươi. Nhà ngươi vẫn phải ở trong chiếc bình này và ta sẽ đem ném ngươi
xuống biển cho nhà ngươi nằm trong đó đến ngày tận thế. Đó là sự trả hận của ta
đối với nhà ngươi.
Lão đánh
cá, bạn của ta? - Hung thần vội vã nói - Một lần nữa, ta xin nhà ngươi chớ nên
làm chuyện ác độc như vậy. Chẳng hay ho gì chuyện trả thù mà ngược lại nên lấy
ân trả oán thì tốt hơn. Chớ nên đối xử với ta như ngày xưa Imama đối xử với
Ateca.
Thế
Imama đã làm gì Ateca? - Lão đánh cá hỏi.
- Ôi!
Nếu ngươi muốn biết chuyện đó - Hung thần nói - Thì hãy mở cái nắp bình này cho
ta ra ngoài. Nhà ngươi cho là ta nằm trong cái nhà tù chật hẹp này mà hào hứng
kể chuyện cho nhà ngươi nghe sao? Ta sẽ kể bao lâu cũng được khi nhà ngươi cho
ta ra khỏi đây.
- Không
- Lão đánh cá nói - Ta sẽ không thả nhà ngươi đâu, đừng có nhiều lời. Ta sẽ dìm
nhà ngươi xuống tận đáy biển.
- Hãy
nghe ta nói đã, lão đánh cá ơi? - Hung thần hoảng hốt kêu lên - Ta hứa sẽ không
làm hại nhà ngươi một tí nào. Ngược lại, ta sẽ bày cho nhà ngươi cách để trở
nên giàu có nứt đố đổ vách.
Hy vọng
thoát ra khỏi cảnh nghèo khổ làm cho lão đánh cá dịu đi một chút.
- Ta có
thể nghe ngươi - Lão nói- Nếu lời ngươi nói có gì đó ích lợi. Nhà ngươi hãy
thề, nhân danh Thượng đế tối cao, là lời ngươi nói xuất phát từ thiện ý thì ta
sẽ mở nắp bình cho ngươi ra. Ta không tin là ngươi dám táo gan để bước qua lời
thề như vậy.
Hung
thần cất lời thề và lão đánh cá liền mở nắp bình. Lập tức khói tuôn ra và hung
thần lấy lại vóc dáng của mình giống như lần trước. Việc đầu tiên lão ta làm là
giơ chân đá chiếc bình lăn xuống biển. Hành động này làm người đánh cá hoảng
hốt:
- Hung
thần? Thế là nghĩa làm sao? Ngươi không muốn giữ lời mà ngươi vừa thề ư? Và
liệu ta có phải nói như người thầy thuốc đã nói với quốc vương HI Lạp: “Hãy để
cho thần sống và Thượng đế sẽ cho bệ hạ trường thọ?”
Sự sợ
hãi của người đánh cá làm hung thần bật cười, vội đáp:
- Không!
Lão hãy yên tâm! Ta hất cái bình đi chỉ để đùa vui thôi và cũng để xem nhà
ngươi có hoảng sợ không mà thôi. Và để chứng tỏ là ta giữ lời hứa, nhà ngươi
hãy vác lưới đi theo ta.
Nói
xong, hung thần bước đi trước, còn lão đánh cá vội vã vác lưới lên vai bước
theo sau, trong bụng vẫn còn nghi ngờ. Họ đi qua thành phố, trèo lên đỉnh một
ngọn núi và xuống rồi xuyên qua một bình nguyên rộng dẫn tới một cái hồ lớn
giữa bốn ngọn đồi.
Khi tới
bờ hồ, hung thần bảo lão đánh cá:
- Nhà
ngươi buông lưới và vớt cá lên đi!
Lão đánh
cá chẳng nghi ngờ là không vớt được cá vì lão trông thấy cá lúc nhúc trong đầm
nhưng điều làm lão hết sức ngạc nhiên là mỗi con cá đều có màu sắc khác nhau,
tất cả có bốn màu: trắng, đỏ, xanh và vàng. Lão buông lưới và vớt lên được bốn
con, mỗi con một màu như đã nói trên. Vì chưa từng bao giờ được thấy như vậy
nên lão không ngừng ngắm nghía và ước lượng là sẽ bán được rất nhiều tiền,
trong lòng mừng vui khôn xiết.
- Nhà
ngươi hãy đem những con cá này về - Hung thần bảo - Và đưa dâng hoàng đế,
Người sẽ cho tiền, nhà ngươi tiêu suốt đời chưa hết. Nhà ngươi có thể hàng ngày
tới hồ này đánh cá, nhưng báo cho ngươi biết là môi ngày chỉ được thả lưới một
lần, nếu không thì sẽ mang hoạ đấy, phải cẩn thận. Đó là điều ta khuyên ngươi.
Nếu ngươi làm theo thì tất cả đều tốt.
Nói xong
hung thần dậm mạnh chân, mặt đất mở ra và lại khép kín ngay lại khi hung thần
đã thụt xuống.
Lão đánh
cá quyết làm theo từng điểm một những lời khuyên của hung thần. Không bao giờ
buông lưới hai lần trong ngày. Lão trở lại đường vào thành phố, hài lòng với mẻ
cá và suy nghĩ lan man về chuyện vừa xảy ra. Lão đi thẳng tới cung điện hoàng
đế để phô bày những con cá vừa đánh được...”
- Nhưng,
tâu bệ hạ - Scheherazade thưa - thần thiếp đã thấy mặt trời lên, thiếp phải
dừng lại ở đoạn này thôi.
- Chị
ơi! - Dinarzade nói - Sao mà những chi tiết cuối cùng chị vừa kể ly kỳ đến vậy!
Em thấy khó mà tin được là từ đây trở đi chị lại có thể kể được những chuyện
khác ly kỳ hơn.
- Em
thân yêu! - Hoàng hậu Scheherazade nói - Nếu hoàng đế, chúa của chị còn để cho
chị đến ngày mai thì chị chắc là em sẽ thấy đoạn tiếp theo chuyện lão đánh cá
còn ly kỳ hơn đoạn đầu và hấp dẫn không có gì so sánh được.
Schahriar
tò mò muốn biết đoạn kết chuyện lão đánh cá có đúng như lời hoàng hậu đã hứa
hẹn không, nên lại lui ngày thi hành điều luật tàn khốc mà chính ông đã soạn
thảo đến hôm sau.
o O o
Vào cuối
đêm, Dinarzade gọi hoàng hậu và nói với nàng:
- Chị
ơi? Nếu chị không ngủ nữa, chờ trời sáng xin chị kể tiếp chuyện lão đánh cá đi?
Em đang rất nóng lòng muốn nghe.
Scheherazade,
được phép của hoàng đế, liền tiếp tục câu chuyện như sau:
- Tâu bệ
hạ, thần thiếp, dành cho bệ hạ suy nghĩ về sự ngạc nhiên của vị quốc vương đó
khi nhìn thấy bốn con cá mà người đánh cá vừa mang lại. Ông cầm hết con nọ đến
con kia lên để ngắm nghía khá lâu. Sau đó, ông bảo viên tể tướng: “Nhà ngươi
đem mấy con cá này trao cho người đầu bếp giỏi mà quốc vương Hi Lạp triều cống.
Ta tin rằng chúng đẹp như thế thì thịt phải rất ngon”. Viên tể tướng tự mình
đem đến nhà bếp trao cho người đầu bếp bảo: “Đây là bốn con cá đặc biệt người
ta vừa đem dâng hoàng đế, Người lệnh cho nhà ngươi phải nấu nướng cho thật ngon
lành”. Xong việc, viên tể tướng trở về gặp nhà vua và được lệnh đem thưởng cho
lão đánh cá bốn trăm đồng tiền vàng. Tể tướng tuân lệnh ngay. Lão đánh cá chưa
bao giờ được nắm trong tay, chỉ một lần, khoản tiền lớn như vậy nên hết sức
mừng rỡ, và coi như đó chỉ là một giấc mơ. Nhưng sau đó mới dần thấy hoàn toàn
là thật vì khoản tiền đó đã đáp ứng quá đủ cho những nhu cầu của gia đình.
- Nhưng
mà, tâu bệ hạ - Scheherazade nói tiếp – Sau khi đã nói về người đánh cá, chúng
ta cũng phải nói tới người đầu bếp của nhà vua mà lúc này đang trong tình trạng
vô cùng lúng túng. Sau khi đã làm cá sạch sẽ, bà ta bỏ vào chảo, cho mỡ vào
rán. Khi thấy một bên đã rán kĩ, bà lật cá lên để rán nốt nửa bên kia thì... ồ,
một điều kỳ lạ phi thường? Tường nhà bếp nứt rộng và từ đó bước ra một thiếu
phụ trẻ xinh đẹp ăn vận lộng lẫy kiểu Ai Cập với những hoa tai, vòng cổ và vòng
tay vàng cẩn hồng ngọc. Nàng cầm trong tay một chiếc đũa. Nàng tới gần cái chảo
rán cá trong sự ngạc nhiên kinh hoàng của bà đầu bếp lúc đó đang đứng ngây ra
như một bức tượng, gõ đầu đũa vào một con cá và nói: “Cá, cá, mi có sẵn sàng
làm bổn phận không?”. Con cá không nói gì cả, nàng nhắc lại câu đó và tức thì
cả bốn con cá đều ngóc đầu liên và đồng thanh rành rọt: “Vâng, vâng, nếu các
người đếm, chúng tôi cũng đếm; nếu các người trả nợ của các người, chúng tôi
cũng trả nợ của chúng tôi; nếu các người chạy trốn, chúng tôi sẽ thắng và chúng
tôi thật hài lòng”. Khi lũ cá dứt lời, thiếu phụ hắt đổ cái chảo và lại thụt
vào chỗ kẽ tường nó khép lại ngay và bức tường lại y nguyên như cũ.
Bà đầu
bếp mà tất cả cảnh tượng kỳ lạ đó làm cho kinh hãi, đã lấy lại được hồn vía,
tới bếp để lật chiếc chảo gắp những con cá đã rơi cả vào trong bếp than hồng
lên thì thấy chúng đã đen xì hơn cả than không sao ăn được nữa. Hoảng sợ và đau
khổ, bà ta khóc rống lên: “Than ôi? Biết làm sao bây giờ? Liệu nhà vua có tin
không khi tôi kể với Người tất cả những gì đã chứng kiến. Chắc chắn là Người sẽ
không tin và sẽ trút giận vào tôi như thế nào đây?”
Trong
lúc bà đầu bếp hoang mang buồn khổ như thế thì tể tướng đi vào và hỏi món cá đã
xong chưa? Bà ta kể tất cả những gì đã xảy ra cho tể tướng nghe và chúng ta
cũng thừa biết là ông đã kinh ngạc như thế nào. Nhưng chưa tâu bẩm gì với đi
hoàng đế, ông bịa ra một chuyện gì đó làm cho nhà vua tin, đồng thời ông cho
tìm lão đánh cá tới.
- Này,
lão đánh cá - Ông bảo - Hãy mang lại đây ngay cho ta bốn con cá khác giống như
những con trước vì đã có một vài trở ngại xảy ra nên đã không làm được món ăn
đó dâng lên hoàng đế. Người đánh cá không cho tể tướng biết lời dặn của hung
thần nhưng mượn cớ là đường xa nên chỉ có thể đưa cá tới vào sáng hôm sau.
Người
đánh cá ngay trong đêm đó đã phải vác lưới lên đường và đến thẳng nơi có hồ cá.
Ông ta buông lưới, kéo lên và thấy trong lưới đúng bốn con cá cũng như những
con lần trước, mỗi con mang một màu khác nhau. Ông quay ngay trở về và mang cá
trao cho tể tướng đúng thời gian như đã hứa. Vị đại thần nầy tự mình đem bốn
con cá tới nhà bếp và ở luôn tại đó với bà đầu bếp. Bà này bắt đầu làm sạch mấy
con cá, cho vào chảo mỡ, đặt lên bếp than như lần trước. Khi cá đã chín một
phía bà đùng đũa lật lên và lại cũng như lần trước bức tường nhà bếp nứt dọc ra
và một thiếu phụ trẻ xuất hiện với chiếc đũa trong tay. Nàng tới gần cái chảo,
gõ đầu đũa vào một con cá, nói với chúng cũng những câu như lần trước và lũ cá
ngóc đầu lên trả lời y như thế. Nhưng, tâu thánh thượng - Scheherazade nói -
Kìa trờl hửng sáng đã không cho thần thiếp kể tiếp nữa. Những chi tiết mà thần
thiếp vừa kể, thực ra, thật rất kỳ lạ, nhưng nếu còn được sống đến ngày mai,
thần thiếp sẽ kể tiếp những chi tiết còn rất đáng được Người chú ý nghe. Vua
Schahriar, cảm thấy đoạn tiếp tục của câu chuyện hẳn là phải vô cùng kỳ lạ nên
quyết định sẽ nghe tiếp đêm sau.
o O o
- Chị
thân yêu của em - Dinarzade theo thường lệ gọi chị - Nếu chị đã thức thì xin
chị kể nốt câu chuyện rất hay về người đánh cá đi?
Hoàng
hậu chẳng muốn để cô em phải cầu xin đến lần thứ hai, nên ngoảnh về phía nhà
vua và tiếp tục kể như sau:
- Tâu
chúa thượng, sau khi các con cá đã trả lời, người thiếu phụ lại lấy đầu chiếc
đũa hất đổ cái chảo rồi lại rút vào kẽ nứt của tường bếp, nơi mà nàng bước ra,
tường lại liền lại như cũ. Viên tể tướng được chứng kiến tất cả những gì đã xảy
ra lẩm bẩm:
- Cái
này thật kỳ dị quá và khác thường quá, không thể giấu giếm nhà vua được. Ta
phải tâu lại Người cái sự việc phi thường này.
Và ông
đi tìm nhà vua, tâu lại hoàn toàn sự thật.
Hoàng đế
hết sức ngạc nhiên, nóng lòng muốn tận mắt mình nhìn thấy chuyện kỳ diệu này.
Muốn vậy, ông cho đi tìm lão đánh cá tới bảo:
- Này
anh bạn của ta! Ngươi có thể lại đem cho ta bốn con cá nữa với các màu khác
nhau không?
Lão đánh
cá xin với nhà vua trong ba ngày ông ta sẽ làm cho Người hài lòng. Được chấp
thuận, lão đánh cá tới hồ lần thứ ba. Và cũng chẳng kém may như hai lần trước,
ngay mẻ lưới đầu tiên, lão đã vớt lên được bốn con cá với bốn màu khác nhau.
Lão vội vã đưa về dâng vua. Vua mừng lắm vì không ngờ lại có được cá sớm như
vậy. Người lại lệnh cho tể tướng ban cho lão đánh cá bốn trăm đồng tiền vàng.
Trước
hết, nhà vua cho đem cá vào ngự phòng với tất cả những gì cần thiết để nấu
nướng. Ở đó tự thân viên tể tướng làm cá sạch sẽ, cho vào chảo mỡ và đặt lên
bếp đun. Khi cá đã chín một phía tể tướng đùng đũa lật lên. Thế là bức tường
của ngự phòng mở hé ra, nhưng thay vì thiếu phụ trẻ là một người đàn ông da đen
bước ra. Tên da đen mang đồng phục nô lệ to cao lực lưỡng và mang trong tay một
cái gậy lớn màu xanh. Hắn tiến đến gần cái chảo, lấy gậy đụng vào một con cá và
thét lên ghê gớm: “Cá, cái Mi đã sẵn sàng với bổn phận chưa?”. Nghe câu đó, lũ
cá ngước đầu lên đáp: “Vâng, vâng, chúng tôi sẵn sàng; nếu người đếm, chúng tôi
cũng đếm; nếu người trả nợ của người, chúng tôi cũng trả nợ của chúng tôi, nếu
người chạy trốn, chúng tôi thắng và hài lòng”.
Lũ cá
vừa nói xong thì tên da đen hất cái chảo ra giữa ngự phòng và đất cháy lũ cá
thành than. Xong việc hắn kiêu hãnh rút lui vào kẽ nứt và bức tường khép lại
phẳng như cũ. Nhà vua nói với viên tể tướng:
- Sau
những gì ta vừa chứng kiến tâm trí ta chẳng sao còn yên ổn được nữa. Những con
cá này có một cái gì đó thật kỳ dị bí hiểm mà ta muốn được sáng tỏ.
Ông cho
đi tìm người đánh cá; lão được dẫn đến, nhà vua bảo:
- Này
lão đánh cá? Những con cá ngươi mang đến đây gây cho ta nhiều lo lắng. Người đã
đánh được chúng tại đâu vậy?
- Tâu
hoàng thượng - Lão đáp - Tôi đã đánh được chúng trong một cái hồ nước ở giữa
bốn ngọn đồi phía bên kia quả núi mà ở đây cũng trông thấy.
- Nhà
ngươi có biết cái hồ nước đó không? - Nhà vua hỏi tể tướng.
- Thưa
không - tể tướng đáp - Thần cũng chưa từng nghe nói đến, dù là tới sáu chục năm
nay thần đi săn ở phía bên kia ngọn núi đó.
- Nhà
vua hỏi lão đánh cá cái hồ nước đó cách hoàng cung bao xa. Lão đánh cá quả
quyết là đi bộ chỉ mất độ trên ba tiếng đồng hồ. Nghe vậy và thấy trời còn
sáng, có thể tới đó trước khi màn đêm buông xuống, nhà vua hạ lệnh cho cả triều
đình lên ngựa, lão đánh cá làm nhiệm vụ dẫn đường.
Cả đoàn
người trèo núi và khi xuống hết sườn núi bên kia, họ sửng sốt thấy một vùng
bình nguyên rộng lớn mà tới lúc này không ai ngờ tới. Cuối cùng họ tới hồ nước,
thấy đúng là lọt vào giữa bốn ngọn đồi như người đánh cá đã tâu trình. Nước hồ
trong vắt, họ trông thấy từng đàn cá bơi lượn và mang các màu như những con cá
lão đánh cá dã man về cung điện.
Nhà vua
dừng lại trên bờ hồ và, sau một lúc nhìn ngắm đàn cá đầy vẻ ngưỡng mộ, ông hỏi
các quan tuỳ tùng có đúng là họ chưa từng nhìn thấy hồ nước này không khi nó
cách không xa kinh thành là bao. Họ tâu là chưa từng nghe thấy nói đến cái hồ
nước này bao giờ cả. Nhà vua bảo họ:
- Vậy là
tất cả các ngươi đều thổng nhất chưa từng nghe nói và ta cũng chẳng kém ngạc
nhiên về sự kiện mới mẻ này, ta quyết định là sẽ không trở về cung điện chừng
nào chưa biết rõ nguyên do vì đâu mà lại có cái hồ nước này tại đây, và tại sao
lại chỉ có những con cá bốn màu trong đó.
Nói
đoạn, nhà vua lệnh cho hạ trại và ngay tức thì hành cung và các lều được dựng
ngay trên bờ hồ nước.
Vào chập
tối, nhà vua rút vào hành cung nói riêng với tể tướng, ông bảo:
- Tể
tướng ạ, tâm trí ta lúc này đắm chìm trong một mối lo kỳ lạ: cái hồ nước từ đâu
chuyển dịch tới đây, tên da đen xuất hiện trong ngự phòng, những con cá biết
nói này... Tất cả những cái đó khơi dậy trí tò mò mà ta không sao ngăn được sự
nóng lòng mong mỏi được thoả mãn. Vì vậy ta nghiền ngẫm một ý đồ mà ta muốn
thực hiện bằng được. Ta sẽ rời trại này một mình, ngươi phải giữ tuyệt đối bí
mật sự vắng mặt của ta, hãy ở tại trong hành cung của ta và sáng mai, các quan
văn võ tới chầu, ngươi sẽ bảo họ giải tán với lý do là ta khó ở và muốn được
một mình nghỉ ngơi. Những ngày sau nhà ngươi cũng bảo họ như thế cho đến ngày
ta về.
Viên tể
tướng hết lời can ngăn để nhà vua rời bỏ ý đồ đó: nào là dấn thân vào nơi nguy
hiểm, nào là sự mệt nhọc của một cuộc vi hành mà có thể chẳng mang lại một kết
quả nào. Nhưng bao lời lẽ hùng biện của tể tướng cũng không làm cho nhà vua
thay đổi, vẫn sửa soạn vi hành. Ông vận bộ quần áo thuận tiện cho việc đi bộ,
mang theo mình một thanh kiếm, và khi thấy trong trại tất cả đều yên ắng, ông
liền nhẹ nhàng cất bước, chẳng có một người nào tháp tùng.
Nhà vua
đi tới một trong bốn quả đồi, trèo lên không mấy khó khăn. Lúc xuống lại càng
thấy dễ và khi tới cánh đồng rộng, ông tiếp tục đi cho đến lúc mặt trời mọc.
Trông thấy xa xa một toà lâu đài đồ sộ, ông phấn khởi hy vọng có thể tìm thấy ở
đó những gì muốn biết. Khi tới gần, ông nhận thấy đó là một cung điện lộng lẫy
hay đúng hơn là một lâu đài kiên cố xây bằng đá cẩm thạch đen nhẵn bóng, giát
thép ròng long lanh như một tấm gương. Khoan khoái vì đã lâu không được thấy gì
xứng đáng để thoả mãn tính hiếu kỳ, ông dừng lại trước mặt tiền toà lâu đài và
chăm chú ngắm nhìn.
Rồi ông
đi tới tận chiếc cổng có hai cánh cửa mà một cánh mở toang. Dù ông có thể tự do
bước vào, nhưng cẩn thận ông vẫn giơ tay gõ. Cú gõ nhẹ nhàng và ông chờ một lát
nhưng chẳng thấy có ai ra, ông cho là chắc chủ nhân không nghe thấy. Vì vậy ông
gõ lần thứ hai mạnh hơn, nhưng vẫn chẳng nhìn thấy, chẳng nghe thấy ai đi ra,
ông gõ mạnh hơn, nhưng vẫn chẳng thấy có bóng người nào. Ông vô cùng kinh ngạc
vì không ai có thể ngờ là một cái lâu đài được bảo vệ, giữ gìn như thế mà lại
bị bỏ hoang. “Nếu không có người nào cả - ông tự nhủ - thì ta chẳng có gì mà
ngại, nếu có người nào đọ, ta cũng đã có vũ khí để tự vệ rồi”.
Cuối
cùng, nhà vua mạnh dạn bước vào, và vừa đi trong tiền sảnh vừa kêu to: “Có ai ở
đây không? Có ai đế tiếp một người khách lạ đi qua đang cần có chỗ nghỉ ngơi và
giải khát?” Ông nhắc đi nhắc lại như thế hai, ba lần nhưng dù lớn tiếng vẫn
chẳng có ai đáp lại. Sự vắng lặng này càng làm nhà vua ngạc nhiên hơn. Ông đi
tới một cái sân rất rộng, nhìn khắp xung quanh xem có phát hiện ra một người
nào không, nhưng chẳng nhìn thấy bất cứ một sinh vật nào...
- Nhưng,
tâu bệ hạ - Đến đây, Scheherazade nói – ánh sáng ban ngày tới bắt thần thiếp
phải im tiếng rồi!
- Ôi!
Chị của em - Dinarzade nói - Chị dừng lại giữa chỗ hay nhất!
- Đúng
vậy - Hoàng hậu đáp - Nhưng, em ơi, cần phải vậy. Còn phụ thuộc vào hoàng
thượng lãnh chúa của chị, là em có được nghe tiếp vào ngày mai hay không.
Chẳng
phải chỉ vì muốn làm cho Dinarzade vui lòng Schahriar lại để cho hoàng hậu sống
thêm một ngày nữa, mà chính hoàng đế cũng muốn được thoả mãn tính hiếu kỳ ,muốn
biết có gì đã xảy ra trong lâu đài đó.
o O o
Dinarzade
không quên đánh thức hoàng hậu vào cuối đêm nay:
- Chị
thân yêu - Nàng nói - Nếu chị không còn ngủ nữa, thì chị hãy kể xem có gì xảy
ra trong cái lâu đài tráng lệ mà chị bỏ lại hôm qua, trong lúc chờ đợi trời
sáng, chắc chẳng còn bao lâu nữa.
Scheherazade
liền kể tiếp, luôn hướng về vua Schahriar:
- Tâu
hoàng thượng, vị quốc vương đó vậy là chẳng thấy một ai trong sân nên ông bước
vào các đại sảnh mà thảm chùi chân bằng lụa quí, những bục bệ và tràng kỷ đều
phủ vải La Mecque, các cửa sổ đều treo điềm bằng những thứ vải quý Ản Độ óng
ánh sợi vàng sợi bạc. Rồi ông bước vào một phòng khách lộng lẫy chính giữa là
một chiếc bể lớn mà mỗi góc đặt một tượng sư tử bằng vàng. Bốn con sư tử nhả
nước qua miệng chúng vào bể và những tia nước đó khi rơi xuống làm thành những
hạt kim cương và ngọc trai. Ở giữa bể lại có một vòi phun nữa, tia nước vọt lên
chạm vòm trần chạm trổ những hoa văn sặc sỡ.
Ba phía
của toà lâu đài là vườn cây và những luống hoa, những hồ nước, những cụm cây và
hàng ngàn những vật trang trí... đều làm tôn lên vẻ đẹp của ngôi nhà uy nghi đồ
sộ. Và cái làm cho chốn này càng thêm tuyệt diệu là vô vàn chim chóc cất lên
những tiếng hót du dương, tràn đầy khoảng không gian tĩnh mịch.
Nhà vua
dạo bước khắp nơi, từ phòng này sang phòng khác, thấy tất cả đều lớn lao đẹp
đẽ. Khi thấy thấm mệt vì đi nhiều, ông ngồi nghỉ trong một căn phòng có cửa mở
ra vườn, nhớ lại tất cả những gì đã thấy và lúc này đang trông thấy, ông suy
nghĩ lan man về mọi khía cạnh các sự vật khác nhau, bỗng vẳng đến tai một tiếng
rên kèm theo là những tiếng kêu than thảm thiết. Ông lắng tai và nghe rõ ràng
tiếng nói nhuốm vẻ đau buồn không sao nhầm được: “Ôi! Số mệnh trớ trêu! Nếu
ngươi không thể cho ta hưởng lâu dài một cuộc sống hạnh phúc, muốn biến ta
thành một con người bất hạnh nhất thế gian, thì hãy thôi hành hạ ta và tới đây
bằng một cái chết mau chóng, chấm dứt nỗi đau của ta đi. Than ôi? Sao ta lại
vẫn còn sống sau bao nhiêu đòn tra tấn hành hạ mà ta phải hứng chịu? Có thể như
thế được không?”.
Xiết bao
xúc động nghe những lời kêu than thảm thiết như vậy, nhà vua đứng lên và đi về
phía phát ra những lời nói đó. Tới trước một gian phòng lớn, ông mở cửa và nhìn
thấy một thanh niên khôi ngô tuấn tú ăn vận sang trọng ngồi trên một cái ngai
cao hơn mặt đất một chút. Vẻ buồn khổ hiện lên khuôn mặt. Nhà vua đi tới gần và
nghiêng người chào. Người thanh niên chào lại cúi đầu rất thấp, và vẫn cúi đầu
như thế, chàng nói: !'Thưa ngài, đáng lẽ ra tôi phải đi tới để tiếp rước ngài
với tất cả tấm lòng kính trọng mới xứng đáng với ngài, nhưng vì vấp phải một
trở ngại vô cùng to lớn, mong được ngài thể tất cho”. Nhà vua vội đáp: “Thưa
ngài, tôi vô cùng biết ơn lời nói tốt đẹp ngài đã nói về tôi. Còn về việc ngài
chẳng tiện đứng lên thì dù vì lý do nào đi nữa, tôi cũng rất vui lòng chấp
nhận. Chú ý vì những lời than vãn, thông cảm với nỗi khổ đau của ngài nên tôi
tới để mong được giúp ngài. Nếu Thượng đế dạy tôi phải đem đến sự an ủi cho nỗi
khổ đau của ngài, tôi sẽ làm hết sức mình. Tôi mong là ngài sẽ vui lòng kể lại
cho tôi hay nỗi bất hạnh của ngài. Nhưng xin làm ơn, trước hết hãy cho tôi biết
về cái hồ nước ở gần ngay đây mà trong đó người ta thấy những con cá có bốn màu
khác nhau là thế nào. Còn cái lâu đài này là thế nào, tại sao ngài lại ở đây và
nguyên cớ vì sao lại chỉ có một mình ngài?”. Thay vì trả lời những câu hỏi đó
thì chàng thanh niên lại cất tiếng khóc thật là ai oán: “Ôi! Số mệnh sao mà đa
đoan! Nó thích dìm xuống bùn đen những người mà chính nó đã đưa lên đến mây
xanh. Đâu là những người được hưởng thụ một hạnh phúc yên bình mà số mệnh ban
cho, những người có cả những chuỗi ngày thanh cao và trong sáng?
Nhà vua
xúc động và thương cảm thấy chàng thanh niên ở trong cái tình trạng bi thảm đó,
khẩn khoản chàng nói lên nguyên do của sự khổ ải lớn lao này. Chàng thanh niên
nói: “Ôi, thưa ngài, làm sao mà tôi ngăn được nỗi buồn đau? Và có cách gì mà
đôi mắt tôi chẳng biến thành những dòng suối lệ không bao giờ cạn?”. Nói đến
đây, chàng vén gấu áo lên để cho nhà vua thấy chàng chỉ là người từ đầu xuống
đến thắt lưng, còn nửa kia cơ thế là đá cẩm thạch đen...
Đến đoạn
này Scheherazade dừng lại để chỉ cho hoàng đế các quốc gia Ấn Độ là trời đã
rạng. Schahriar vô cùng thích thú về những gì vừa nghe và cảm thấy long mình
như có cái gì dìu dịu trước Scheherazade. Ông quyết định để cho nàng sống trọn
một tháng. Ông đứng lên cũng như mọi khi nhưng chẳng nói cho nàng hay quyết
định của mình.
o O o
Dinarzade
nóng lòng muốn được nghe nốt câu chuyện bỏ dở đêm hôm trước, nên đánh thức chị
dậy rất sớm:
- Chị
thân yêu - Nàng nói - Nếu chị không ngủ thì xin chị kể nốt câu chuyện vô cùng
kỳ lạ mà chị phải bỏ dở hôm qua đi?
- Chị
đồng ý - Hoàng hậu đáp - Hãy nghe chị nhé. Chắc là em cũng thấy là vị quốc
vương đó ngạc nhiên vô cùng khi nhìn thấy cái tình trạng thật là bi thảm của
chàng thanh niên, ông bảo chàng: “Tình trạng mà ngài vừa chỉ cho tôi thấy đó,
không những làm tôi kinh sợ mà còn khơi dậy trí tò mò của tôi, tôi nóng lòng
muốn nghe chuyện của ngài chắc hẳn là hết sửc kỳ lạ và tôi cũng thấy chắc chắn
là cái hồ nước và những con cá cũng có phần đóng góp trong đó. Vì vậy, tôi xin
ngài hãy bình tâm kể cho tôi nghe, ngài sẽ thấy một điều gì đó như một sự an
ủi, vì kinh nghiệm cho thấy là những người đang nặng lòng vì khổ đau sẽ thấy
nhẹ nhõm phần nào khi được thổ lộ tâm sự của mình.
- Tôi
chẳng muốn khước từ việc làm cho ngài được có niềm vui đó - Chàng thanh niên
nói - Dù rằng kể ra để ngài nghe tôi chẳng khỏi khuấy lại nỗi đau thắt ruột của
mình. Nhưng tôi cũng xin báo trước để ngài chuẩn bị đôi tai, chuẩn bị tinh thần
và cả đôi mắt nữa để đón nhận những sự vật nó vượt xa tất cả những gì mà óc
tưởng tượng có thể tiếp nhận được vì nó vô cùng kỳ dị
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
6: Ông vua trẻ của đất nước những hòn đảo đen
- Thưa
ngài, ngài sẽ biết là - Chàng thanh niên nói tiếp - Cha tôi có tên là Mahmound,
vua của đất nước này. Đó là quốc gia Những Hòn Đảo Đen.
Có tên
như vậy vì có bốn ngọn núi nhỏ kề bên, trước đây vốn là những cù lao Kinh đô
của vương quốc mà cha tôi ngự trị, chính là chỗ hồ nước mà ngài nhìn thấy đó.
Chuyện tôi kể tiếp sau đây sẽ làm ngài rõ tất cả những sự đổi thay này.
Cha tôi
mất vào tuổi bảy mươi. Vừa lên nối ngôi thì tôi lấy vợ, người mà tôi chọn để
cùng tôi chia sẻ vương quyền là cô em họ. Tôi có đủ lý do để hài lòng về những
biểu hiện tình yêu của cô ấy đối với tôi. Còn về phía mình, tôi cũng hết lòng
yêu thương trìu mến hoàng hậu vợ mình. Cuộc tình duyên êm ấm và hạnh phúc này
kéo dài được năm năm. Rồi sau đó, tôi nhận thấy hoàng hậu cô em họ của tôi
không còn thích tôi nữa.
Một hôm,
sau bữa trưa, nàng đi tắm. Tôi cảm thấy buồn ngủ và đặt mình nằm xuống một
trường kỷ. Hai thị nữ của vợ tôi lúc đó ở trong phòng, tới ngồi một ở phía đầu,
một phía chân, tay cầm quạt phe phẩy vừa để đuổi không khí nóng bức, vừa để xua
lũ ruồi có thể làm cho tôi mất ngủ. Các ả tưởng là tôi ngủ say nên khẽ cùng nhau
trao đổi chuyện trò. Nhưng tôi chỉ nhắm mắt chưa ngủ nên nghe rõ mồn một câu
chuyện của hai cô ả.
Một ả
nói nói với ả kia: “Đúng là hoàng hậu đã sai lầm là không yêu một ông hoàng vô
cũng dễ thương như đức vua của chúng ta" - "Đúng vậy - Ả kia đáp -
Phần tôi, tôi chẳng hiểu ra sao cả. Tại sao mà đêm nào bà ấy cũng đi ra ngoài
cung điện, để mặc nhà vua nằm một mình. Liệu ông chồng có biết không nhỉ?"
- "Ồ, làm sao mà nhà vua thấy được? - Ả đầu tiên nói - Tối nào mà bà ấy
chả pha vào nước uống của chồng một chất dược thảo gì đó làm cho nhà vua ngủ
say như chết, bà ấy tha hồ muốn đi đâu thì đi. Rạng sáng trở về lại vào nằm
cạnh chồng cho ông ngửi một thứ hương gì đó rồi đánh thức dậy”.
Ngài thử
xét xem, thưa ngài đáng kính, tôi ngạc nhiên biết chừng nào khi nghe được
chuyện trò của hai ả và điều đó đã khiến tôi nghĩ gì. Tuy nhiên, dù xúc động
tới đâu, tôi cũng có đủ sức kiềm chế để không lộ ra trên nét mặt. Tôi làm như
vừa thức giấc và chẳng nghe thấy gì sất.
Hoàng
hậu từ buồng tắm ra. Chúng tôi cùng nhau dùng bữa chiều và trước khi đi ngủ,
nàng tự tay đem một cốc nước đầy mà tôi thường có thói quen uống trước khi lên
giường. Nhưng đáng lẽ đưa cốc nước lên miệng thì tôi lại đi tới một cửa sổ mở
và khéo léo đổ nước ra ngoài. Nàng không hay biết gì cả. Sau đó tôi trả chiếc
cốc không vào tay nàng để cho nàng yên trí là tôi đã uống cạn.
Chúng
tôi lên giường nằm và sau một lát, tưởng là tôi đã ngủ say, nàng trở dậy chẳng
nhẹ nhàng chút nào và nói to: “Ngủ đi, và mong là mi chẳng bao giờ thức dậy
nữa!” Nàng nhanh chóng mặc quần áo và bước ra khỏi phòng...
Kể đến
câu đó, Scheherazade thấy trời đã hửng sáng nên ngừng lời. Dinarzade há hốc
miệng nghe chị nói. Schahriar thấy chuyện nhà vua nước Những Hòn Đảo Đen thật
thú vị, xứng đáng với trí tò mò của mình. Ông đứng lên, rất nóng lòng được nghe
tiếp vào đêm sau...
o O o
Một
tiếng đồng hồ trước khi trời sáng, Dinarzade thức giấc, không quên nói với
hoàng hậu:
- Chị
thân yêu, nếu chị không ngủ nữa thì xin hãy kể nốt cho em nghe chuyện nhà vua
trẻ xứ Những Hòn Đảo Đen đi.
Scheherazade,
nhớ lại đoạn ngừng lại đêm trước rồi kể tiếp như sau:
“Khi
hoàng hậu vợ tôi đã đi ra khỏi phòng - Nhà vua nước Những Hòn Đảo Đen nói tiếp
- Tôi cũng vùng dậy, mặc vội quần áo, cầm lấy thanh kiếm, đuổi theo nàng và
chẳng mấy chốc đã nghe thấy bước chân nàng đi phía trước mình một quãng ngắn.
Tôi phải ghìm bước lại và đi nhẹ nhàng hơn vì sợ nàng nghe thấy. Nàng đi qua
nhiều cửa mà cánh cửa tự mở ra vì nàng đọc câu thần chú gì đó. Cánh cửa cuối
cùng mở ra khu vườn mà nàng qua đó đi ra ngoài: Tôi dừng lại chỗ này sợ nàng
nhìn thấy khi qua một bãi trống. Tôi theo dõi qua bóng tối thấy nàng đi vào một
cánh rừng nhỏ mà đường đi lọt giữa hai bờ giậu cây cối rậm rạp. Tôi đi tới đó
bằng một con đường khác và nấp sau hàng giậu ven một con đường khá dài, tôi
trông thấy nàng sóng bước cùng với một người đàn ông.
Tôi dỏng
tai chăm chú nghe lời đối thoại của hai người và đây là những gì tôi nghe được:
“Em không đáng - Hoàng hậu nói với nhân tình - Để chàng trách móc là quá chậm
trễ. Chàng đã biết quá rõ nguyên nhân gì đã cản trở em đấy. Nhưng nếu tất cả
những gì mà em biểu hiện tình yêu đối với chàng cho đến lúc này vẫn chưa đủ để
chàng tin vào sự trung thực của em thì em sẵn sàng chứng minh bằng những việc
làm to tát hơn nữa: chàng cứ ra lệnh đi, chàng sẽ biết rõ bản lĩnh của em như
thế nào. Nếu chàng muốn thì trước khi mặt trời mọc, em sẽ làm cho kinh thành to
lớn và cung điện lộng lẫy này chỉ còn là một đống đổ nát điêu tàn, chỉ còn là
nơi trú ẩn của chó sói, cú vọ và quạ đen mà thôi. Chàng muốn em làm bật tung
những bức tường thành đá xây vững chắc này, bắn sang bên kia dãy núi Caucase,
ra ngoài chỉ giới của thế gian không? Xin chàng cứ nói lên một tiếng và tất cả
nơi này sẽ thay hình đổi dạng".
Khi
hoàng hậu vừa dứt lời thì nàng và tình nhân vừa tới đầu con đường tôi nấp,
chúng quay người để đi vào con đường khác và đi ngang trước mặt tôi. Tôi đã rút
gươm ra khỏi vỏ và vì tên tình nhân đó đi sát về phía mình, nên một nhát gươm
trúng cổ, tôi phóng ra làm hắn ngã lăn xuống đất. Tôi tưởng là đã giết hắn chết
nên đã mau chóng rút đi không cho hoàng hậu nhìn thấy, dù sao nàng vẫn là họ
hàng mà.
Nhát
gươm của tôi đã làm nhân tình của vợ tôi tử thương, nhưng bà ta vẫn giữ được
mạng sống cho hắn nhờ phù chú, tuy vậy, có thể nói hắn thành một phế nhân dở
sống dở chết. Lúc đi qua khu vườn để trở về cung, tôi nghe thấy mụ hoàng hậu
kêu khóc rất to nhưng để cho mụ phải kéo dài nỗi khổ đâu đớn, tôi nương tay để
cho mụ sống.
Trở về
tới ngự phòng, tôi đi nằm, thoả mãn vì đã trừng trị được cái tên khốn kiếp đã lăng
nhục mình, tôi ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, tôi thấy mụ hoàng hậu
nằm bên cạnh...”.
Scheherazade
buộc phải ngừng lời ở chỗ này vì thấy vừng đông vừa hé.
- Trời ạ
- Dinarzade nói - Em thấy thật bực mình vì chị không kể thêm được nữa.
- Em ơi
- Hoàng hậu đáp - Đáng lẽ em phải đánh thức chị sớm hơn. Đó là lỗi tại em đấy
nhé.
- Em sẽ
sửa chữa đêm nay, cầu xin Thượng đế chứng giám - Dinarzade nói - Vì em không
tin là đức hoàng thượng lại không cùng ý muốn như em muốn biết đoạn kết của câu
chuyện này và em hy vọng là Người sẽ rộng lượng để chị sống đến ngày mai.
o O o
Dinarzade
như đã tự hứa, gọi hoàng hậu dậy rất sớm:
- Chị
thân yêu của em - Nàng nói - Nếu chị đã thức thì em xin chị kể nốt chuyện rất
hay về ông vua nước Những Hòn Đảo Đen cho em nghe đi. Em nôn nóng muốn biết tại
sao ông ta lại bị biến nửa người thành đá đen.
- Em sẽ
được biết ngay đây - Scheherazade đáp - Với sự chuẩn y của hoàng thượng.
“Nhà vua
xứ Những Hòn Đảo Đen nói tiếp: “Vậy là tôi thấy mụ hoàng hậu nằm cạnh mình. Tôi
chẳng biết mụ có ngủ hay không, nhưng tôi nhẹ nhàng trở dậy, qua văn phòng và
mặc áo quần chỉnh tề. Sau thiết triều trở về cung, tôi thấy hoàng hậu mặc tang
phục, đầu tóc tả tơi và có một phần bị dứt đứt. Mụ đến trước tôi nói:
- Tâu bệ
hạ. Cầu mong Người sẽ không lấy làm lạ là thiếp lại ở trong tình trạng này: ba
cái tin đau lòng mà thiếp vừa nhận được là nguyên nhân chính của nỗi buồn xé
ruột mà Người chỉ mới nhìn thấy những dấu hiệu yếu ớt ở con người thiếp.
- Đó là
những tin gì hả hậu? - Tôi hỏi.
- Đó là
cái chết của mẫu hậu, mẹ thân yêu của thiếp - Nàng đáp - Cái chết của phụ thân,
cha thiếp bị tử trận và cuối cùng là cái chết của một trong những đứa em của
thiếp bị ngã xuống vực sâu.
Tôi cũng
chẳng chút tức giận vì nàng đã bịa ra cớ đó để che giấu nguyên nhân thực đã làm
nàng đau khổ và tôi thấy là nàng không chút nghi ngờ là tôi đã giết tình nhân
của nàng.
- Hậu ạ
- Tôi bảo nàng - Không những ta chẳng chê trách gì mà ta cam đoan là còn muốn
đóng góp phần mình vào nữa kia. Ta sẽ cực kỳ ngạc nhiên nếu thấy hậu vẫn bình
thản trước sự mất mát này. Cứ khóc đi, những giọt nước mắt của hậu chính là
những biểu hiện cụ thể của bản chất tuyệt vời của hậu. Dù vậy ta hy vọng là
thời gian và lý trí có thể sẽ mang lại cho hậu sự dịu dần nỗi buồn phiền bất mãn.
Nàng rút
lui vào tư thất và ở đó nàng khóc than thoải mái. Suốt một năm ròng nàng buồn
rầu ủ dột và than khóc không ngừng. Cuối năm đó, nàng xin tôi cho phép được xây
lăng mộ cho mình trong khuôn viên của hoàng thành nói là nàng muốn vào ở trong
đó cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Tôi y chuẩn và nàng cho xây một cung điện
nguy nga với vòm cuốn cao mà ngồi đây ta cũng trông thấy được. Nàng đặt tên nó
là Cung Giọt Lệ.
Khi hoàn
thành, nàng cho khiêng nhân tình tới đó mà trước đây nàng đã kịp thời giấu hắn
ở một nơi nào đó ngay trong đêm tôi đâm hắn trọng thương. Nàng đã giữ mạng sống
cho hắn tới bây giờ nhờ vào những thứ thuốc nước nàng cho hắn uống và vẫn tiếp
tục cho uống hàng ngày từ khi hắn được đưa tới Cung Giọt Lệ.
Tuy
nhiên, với tất cả những pháp thuật nàng có, nàng cũng không sao chữa lành được
cho cái tên khốn kiếp này. Không những hắn không đi không đứng được, không cả
cử động chân tay được mà còn bị câm. Cuộc sống của hắn chỉ còn thấy ở hai con
mắt. Mụ hoàng hậu chỉ còn được an ủi là nhìn thấy hắn và nói với hắn tất cả
những lời âu yếm nhất, đắm say nhất mà tình yêu điên cuồng của mụ khơi gợi. Mỗi
ngày hai lần, mỗi lần kéo dài khá lâu; mụ đến thăm hắn đều đặn. Tôi nắm được
tất cả những cái đó nhưng vẫn làm như không biết gì cả.
Một hôm,
tôi đi tới cung điện Giọt Lệ, tò mò xem mụ hoàng hậu làm gì ở đó và từ một chỗ
nấp kín đáo tôi nghe thấy mụ nói với tình nhân như thế này: “Em như đứt từng
khúc ruột thấy chàng trong tình trạng này; nỗi đau vò xé mà chàng đang phải
chịu đựng, em cũng thấy đau chẳng kém gì chàng. Nhưng người yêu nhất đời của
em ơi! Sao cứ để em nói với chàng hoài mà chàng không đáp lại. Chàng còn im
lặng đến bao giờ đây? Hãy nói với em một tiếng đi! Ôi, những giây phút êm đềm
nhất trong cuộc đời em là những lúc em ở đây để chia sẻ cùng chàng nỗi đau khôn
tả. Em không thể sống xa chàng. Em muốn có sự hoan lạc được nhìn thấy chàng
không ngừng hơn cả uy quyền trị vì toàn vũ trụ".
Nghe
những lời lẽ trên, nhiều lần bị những tiếng nức nở khóc than ngắt quãng, cuối
cùng mất kiên nhẫn, tôi bước từ chỗ nấp tiến đến gần nàng: "Thưa bà - Tôi
bảo mụ - Than khóc thế là đủ rồi đấy. Đã đến lúc cần chấm dứt đi cái trò đau
buồn nó làm nhục cả hai chúng ta. Bà đã hoàn toàn quên lãng bổn phận của bà đối
với tôi và cả đối với chính bà" - "Thưa bệ hạ - Mụ bảo tôi - Nếu bây
giờ còn có chút nào nể trọng hoặc đúng hơn là lòng thương hại đối với thiếp,
thì xin đừng ép buộc thiếp. Hãy để cho thiếp được vùi mình vào nỗi đau, thời
gian cũng khó có thể làm vợi đi được".
Khi thấy
là những lời lẽ của mình không những không làm cho nàng ta tỉnh ngộ trở về với
bổn phận mà lại như chọc vào sự điên khùng của mụ, liền tôi không nói gì nữa
mà quay gót ra về. Còn mụ thì vẫn hàng ngày tới thăm nom và chăm sóc nhân tình
nhưng suốt hai năm ròng mụ vẫn ôm thất vọng.
Tôi đến
cung Giọt Lệ lần thứ hai, khi mụ đang có mặt tại đó. Tôi vẫn nấp vào chỗ kín và
nghe thấy mụ nói với tình nhân: “Thế là đã suốt ba năm chàng chẳng nói với em
một lời và cũng chẳng tỏ ra một dấu hiệu nào đáp lại những lời than thở âu yếm
của em. Có phải vì không còn cảm giác hay vì khinh miệt em. Ôi nhà mồ! Phải
chăng mi đã huỷ hoại đi rồi cái tình yêu cuồng nhiệt của chàng đối với ta? Phải
chăng mi đã khép kín đôi mắt kia đã từng nhìn ta chan chứa yêu đương và làm cho
ta tràn trề hạnh phúc? Không, không, ta không tin như thế. Tốt hơn hết là mi
hãy nói đi, bằng phép nhiệm màu nào mà mi trở thành nơi gìn giữ một vật báu
chưa từng có trên thế gian này”.
Xin thú
thật, thưa ngài, tôi vô cùng phẫn nộ khi nghe những lời trên đây của mụ, vì rút
cục cái tên tình nhân yêu quí kia, cái tên được tôn sùng rất mực kia không biết
ngài có thể tưởng tượng được không? Đó là một tên thổ dân da đen, sinh trưởng ở
xứ sở này. Tôi đã nói là tôi vô cùng phẫn nộ vì những lời lẽ của mụ nên bất
thần bước ra, và đến lượt mình, tôi cũng kêu cái nhà mồ đó:
- Này
hỡi nhà mồ! Sao mi còn không nuốt chửng cái tên quái vật nó đã làm cho cả loài
người ghê tởm đi? Hoặc đúng hơn là sao mi không thiêu cháy cả đôi nhân tình
nhân ngãi khốn kiếp này đi?
Tôi vừa
dứt lời, thì mụ hoàng hậu đang ngồi sát cạnh tên da đen, bật đứng lên và như
một con điên:
- A! Tên
ác độc kia - Mụ bảo tôi- Chính ngươi đã gây nên nỗi đau của ta. Đừng tưởng là
ta không biết mà rất lâu rồi ta chỉ muốn không tỏ ra mà thôi. Chính cái bàn tay
man rợ của ngươi đã làm cho người ta yêu thương lâm vào tình trạng bi thảm này.
Và ngươi lại còn nhẫn tâm đến đây để sỉ vả một tình nhân tuyệt vọng?
- Phải,
chính ta - Tôi nổi giận bừng bừng ngắt lời mụ - Chính ta đã trừng trị con quỉ
này xứng với tội của nó, đáng lẽ ra ta cũng phải đối xử với mi như vậy, ta hối
tiếc là đã không làm thế, mi đã lạm dụng lượng khoan hồng của ta quá lâu rồi.
Nói đoạn
tôi rút thanh kiếm giơ lên cao. Nhưng bình thản nhìn tôi, mụ mỉm cười mai mỉa
nói:
- Hãy
dẹp cơn thịnh nộ của ngươi lại!
Và ngay
lúc đó mụ lẩm bẩm những câu gì tôi không nghe rõ rồi nói thêm: “Bằng pháp thuật
của ta, ta hạ lệnh cho ngươi ngay lập tức biến thành tượng nửa người nửa đá”.
Thế là, thưa ngài, từ lúc đó tôi trở thành ... như ngài đã trông thấy đấy. Tôi
đã chết giữa những người đang sống, và sống giữa những người đã chết...!”.
Scheherazade
tới đây thấy trời hửng sáng, bèn ngừng lại. Dinarzade bảo chị:
- Chị
thân yêu của em, em vô cùng biết ơn hoàng đế. Chính nhờ lượng khoan hồng của
Người mà em cực kỳ thích thú được nghe chuyện chị kể.
- Em ơi
- Hoàng hậu đáp - Nếu chính lượng khoan hồng của Người mà để cho chị sống tới
ngày mai thì em còn sẽ được nghe những điều làm cho em thích thú chẳng kém gì
những điều chị đã kể.
Khi
Schahriar chưa quyết định thay đổi ý dành cho Scheherazade cả tháng thì ông
chưa ra lệnh cho xử hoàng hậu hôm đó.
o O o
Vào lúc
đêm sắp tàn, Dinarzade gọi chị:
- Chị
ơi! Nếu chị không còn ngủ nữa thì hãy kể cho hoàng thượng và em nghe nốt chuyện
nhà vua nước Những Hòn Đảo Đen đi.
Scheherazade
thức giấc, chiều em gái, bắt đầu kể tiếp: “Nhà vua nửa người, nửa đá tiếp tục
kể chuyện mình cho vị hoàng đế nghe:
- Sau đó
- Ông nói - Mụ phù thuỷ độc ác này, chẳng xứng để mang danh hoàng hậu nữa, dùng
phép chuyển tôi sang phòng này. Mụ tàn phá kinh đô vốn rất thịnh vượng và đông
đúc dân cư của tôi; huỷ diệt nhà cửa, công trường và chợ búa, biến thành hồ
nước và cả một vùng đồng ruộng hoang vắng mà ngài đã thấy đó. Những con cá bốn
màu trong hồ vốn là bốn loại dân cư với tôn giáo khác nhau: Cá màu trắng là
những tín đồ Hồi giáo; cá màu đỏ là dân Ba Tư, thờ thần Lửa; cá màu xanh là
những tín đồ đạo Cơ đốc và cá màu vàng là dân Do Thái. Bốn ngọn đồi là bốn hòn
đảo mà vương quốc này mang tên. Mụ phù thuỷ cho tôi biết tất cả những cái đó
trong một cơn giận dữ của mụ chưa dừng lại ở chỗ tàn phá đất nước của tôi, biến
tôi thành nửa người nửa đá, mà hàng ngày còn tới quật vào đôi vai trần của tôi
một trăm roi gân bò. Mỗi lần như thế máu tôi chảy lênh láng. Sau mỗi cuộc tra
tấn, mụ lại trùm lên người tôi một tấm vải thô dệt bằng lông dê cái, khoác lên
bên ngoài chiếc áo gấm mà ngài trông thấy đây, không phải để làm cho tôi vinh
hạnh mà chính là để mỉa mai tôi đó.
Nói đến
đây, nhà vua trẻ xứ Những Hòn Đảo Đen không sao cầm được nước mắt và vị hoàng
đế quá thương cảm cũng không thốt lên được một lời nào để an ủi nhà vua xấu số.
Một lát sau, nhà vua trẻ, ngước mắt lên trời, kêu to: “Hỡi Đấng tạo hoá tối cao
đầy quyền lực, con xin phục tùng mọi phán xét và mệnh lệnh của Người! Con kiên
nhẫn chịu đựng mọi khổ đau vì đó là ý muốn của Người. Nhưng con mong mỏi tấm
lòng đại từ đại bi của Người sẽ mở lượng hải hà…".
Hoàng đế
xúc động về câu chuyện khá ly kỳ, và khoan khoái được trả thù tên da đen khốn
kiếp của nhà vua trẻ, bảo ông:
- Ngài
hãy cho tôi hay cái mụ phù thuỷ xảo quyệt đó lúc này trốn ở đâu, và cái tên da
đen bẩn thỉu, nhân tình của mụ, đã bị liệm trước khi chết đó ở chỗ nào.
- Thưa
ngài - Nhà vua đáp - Tên nhân tình da đen của mụ, như tôi đã nói với ngài hiện
ở tại Cung Giọt Lệ, trong nhà mồ có hình vòm, và cung điện này có đường thông
sang cái lâu đài về phía cổng hoàng cung. Còn về con mụ phù thuỷ, tôi không thể
nói chính xác được với ngài là mụ trốn ở đâu, nhưng hàng ngày, cứ mặt trời mọc
là mụ tới thăm nhân tình của mụ sau cuộc hành tội đẫm máu mà nạn nhân là tôi,
việc này tôi đã nói với ngài. Và ngài hẳn cũng thấy rõ là tôi làm sao mà tự vệ
chống lại được sự tàn ác tối dã man đó. Mụ mang đến cho hắn thứ chất lỏng để
uống, một loại thức ăn duy nhất để duy trì sự sống của tên này cho tới nay. Từ
khi hắn bị tử thương, mụ không ngừng than vãn và trách móc về sự câm lặng của
hắn.
- Thưa
quốc vương - Hoàng đế hói - Hoàn cảnh ai oán của ngài, có lời than nào cho đủ.
Không ai có thể có một niềm thương cảm sâu sắc với hoạn nạn của ngài như tôi
trong lúc này. Chưa bao giờ có một chuyện kỳ lạ như thế xảy ra với bất cứ một
người nào. Và những người biết và ghi lại câu chuyện của ngài sẽ có ưu thế là
đã thuật lại một sự việc vượt lên tất cả các sự việc lạ kỳ đã được viết ra từ
trước tới nay. Chỉ còn thiếu có một điều: niềm vui của việc trả hận mà ngài
hoàn toàn phải được hưởng và tôi sẽ không quên tạo ra bằng được cho ngài.
Quả vậy,
hoàng đế trong lúc trao đổi với vị quốc vương này, sau khi đã nói cho ông ta
biết mình là ai và tới lâu đài này có mục đích gì, đã dự định một kế hoạch để
trả thù cho vị vương gia này và cùng với ông ta đem ra bàn bạc.
Họ nhất
trí với nhau những biện pháp tiến hành để đạt hiệu quả tốt và ngày hôm sau sẽ
bắt đầu hành động. Đêm đã rất khuya, hoàng đế cần phải tìm chỗ nghỉ ngơi chốc
lát. Còn quốc vương, như mọi khi, ngồi nhắm mắt thiu thiu (ông có ngủ được đâu
kể từ ngày bị phù phép) với chút hy vọng là có thể sắp được giải thoát khỏi bao
nỗi nhọc nhằn.
Ngày hôm
sau, thức dậy từ tờ mờ sáng và để bắt đầu hành động hoàng đế cởi bỏ bộ y phục
mặc ngoài cất vào một chỗ kín rồi đi tới Cung Giọt Lệ. Ông thấy cung điện sáng
choang dưới vô vàn những ngọn nến trắng, và một mùi hương thơm ngào ngạt toả ra
từ rất nhiều những chiếc đỉnh bằng vàng ròng rất đẹp, đặt có hàng có lối thật
mỹ quan. Trước tiên ông nhìn thấy chiếc giường tên da đen nằm, ông rút kiếm và
không chút khó khăn, hoá kiếp cho tên khốn nạn, lôi xác nó ra sân và quẳng
xuống giếng. Sau việc làm đó, ông nằm lên giường của tên da đen, đặt kiếm bên
cạnh, đắp mềm che kín rồi nằm chờ để hoàn tất kế hoạch dự kiến.
Mụ phù
thuỷ tới. Việc đầu tiên là mụ đi vào phòng trong đó có nhà vua nước Những Hòn
Đảo Đen, chồng mụ. Mụ lột áo ông ra và bắt đầu quật lên đôi vai trần của ông đủ
một trăm roi gân bò một cách dã man chưa từng thấy. Cả cung điện vang lên tiếng
la hét của vị quốc vương khốn khổ, nhưng cũng chẳng làm cho mụ phù thuỷ độc ác
nương nhẹ tay. “Ngươi đã chẳng thương gì người tình của ta - Mụ bảo chồng - Thì
ngươi cũng đừng hòng chờ đợi ở ta sự thương hại...”.
Scheherazade
kể tới đây, thấy trời đã rạng, bèn thôi không nói tiếp nữa.
– Ôi
chúa ơi? Dinarzade kêu lên - Thật vô cùng dã man, cái con mụ phù thuỷ đó! Thế
là phải dừng lại đúng chỗ này. Chị ơi, liệu là mụ có bị trừng trị thật đích
đáng không?
- Em
thân yêu - Hoàng hậu đáp - Chị không muốn gì hơn là sẽ cho em biết vào ngày
mai, nhưng chắc em cũng rõ là cái đó còn tuỳ thuộc vào hoàng đế của chúng ta.
Sau
những gì mà Schahriar vừa được nghe, nhà vua chẳng có ý nào muốn cho hành quyết
hoàng hậu Scheherazade cả, ngược lại ông thầm nhủ: ta chẳng muốn giết nàng chút
nào khi câu chuyện ly kỳ này chưa kết thúc. Dù câu chuyện hay như thế phải kéo
dài hai tháng nữa... Ta vẫn hoàn toàn giữ được lời nguyền kia mà.
o O o
Dinarzade
thấy đã đến lúc gọi chị dậy, nàng nói:
- Chị
thân yêu của em, nếu chị đã thức thì xin chị kể cho em nghe những gì đã xảy ra
ở Cung Giọt Lệ.
Schahriar
cũng tỏ ra muốn được thoả mãn trí tò mò như Dinarzade nên hoàng hậu tiếp tục kể
về số phận của nhà vua trẻ bị phù phép.
“- Tâu
bệ hạ, sau khi mụ phù thuỷ đã quật đủ một trăm roi vào quốc vương, chồng mụ
rồi, mụ lại choàng lên người ông tấm vải thô lông dê và phủ ngoài là tấm áo gấm
sang trọng. Rồi mụ tới Cung Giọt Lệ, vừa đi vào vừa kêu than khóc lóc. Mụ đi
tới gần chiếc giường mà mụ tưởng là nhân tình của mụ vẫn nằm đó. Mụ kêu lên:
“Độc ác biết chừng nào! Một người tình dịu hiền và say đắm như ta mà phải chịu
nỗi cơ cực như thế này ư? Ngươi trách ta quá vô nhân đạo khi ta cho ngươi thấy
hiệu quả của lòng căm hận của ta như thế nào. Tên vua độc ác kia, sự tàn bạo
của ngươi còn vượt quá cả hành động trả thù của ta. A! Quân phản bội, mưu hại
cuộc sống của người mà ta tôn sùng, phải chăng người đã mưu hại chính cuộc sống
của ta? Than ôi? - Mụ nói tiếp với hoàng đế mà mụ tưởng là nói với tên da đen -
Mặt trời của em, cuộc sống của em! Chàng vẫn cứ im lặng thế ư? Phải chăng chàng
đã quyết định để em chết mà không có một lời an ủi nói là chàng yêu em? Linh
hồn của em, ít ra thì chàng cũng nên nói với em một tiếng, em xin chàng đấy”.
Thế là
hoàng đế làm như vừa thức giấc sau một giấc ngủ say, và bắt chước ngôn ngữ của
người da đen, nói với hoàng hậu bằng một giọng nghiêm trang: “Chỉ có uy lực và
quyền năng nơi Thượng đế duy nhất, đấng tối cao tối thượng”. Nghe thấy vậy, mụ
phù thuỷ, vô cùng bất ngờ, reo lên, mừng vui khôn xiết: “Lãnh chúa thân yêu của
em - Mụ kêu lên - Em có nhầm không đấy? Có phải đúng là em đã nghe thấy chàng
nói với em không?" - "Quân khốn kiếp? - Hoàng đế lại nói - Liệu mi có
đáng để ta đối thoại với mi không?" - "Ồ, tại sao - mụ hoàng hậu sững
sờ - chàng lại nặng lời với em như thế” - "Những tiếng kêu khóc, những
tiếng rên rỉ của chồng mi - Ông nói - mà mi hành hạ hàng ngày tàn nhẫn và dã
man như vậy làm ta ngày đêm mất ngủ. Đáng lẽ vết thương của ta khỏi đã lâu và
ta đã nói được rồi nếu mi đã giải phép ma thuật cho hắn. Đó chính là nguyên
nhân làm cho ta câm lặng và để cho mi than vãn hoài" - "Vậy thì - Mụ
phù thuỷ nói - để chàng nguôi giận, em sẵn sàng làm tất cả những gì chàng ra
lệnh. Chàng có muốn em trả lại cho hắn vóc dáng ban đầu không?" - "Ta
muốn mi làm như vậy - Hoàng đế đáp – Và hãy mau mau thả hắn ra, để ta khỏi bị
quấy rầy vì tiếng kêu la của hắn".
Mụ phù
thuỷ tức thì rời khỏi Cung Giọt Lệ. Mụ lấy một chén nước, ghé miệng đọc những
câu chú gì đó làm cho chén nước sôi lên sùng sục. Rồi mụ đi tới buồng giam quốc
vương trẻ, chồng mụ. Mụ hất cả chén nước vào chồng và nói: “Nếu Đấng sáng tạo
ra muôn loài tạo ra nhà ngươi với hình dáng như hiện nay, hoặc là Người ghét
giận nhà ngươi, thì hãy cứ giữ nguyên như thế. Nhưng nếu ngươi phải ở tình
trạng này là do pháp thuật của ta thì hãy trở về vóc dáng cũ và trở lại người
như trước”. Mụ vừa dứt lời thì quốc vương thấy mình bỗng trở lại như xưa, đứng
lên thoải mái. Mừng vui khôn xiết, ông cảm tạ Thượng đế hết lời Mụ phù thuỷ
nhìn ông bảo: “Hãy đi đi, tránh xa lâu đài này, không được bao giờ trở lại nữa,
nếu không thì mất mạng đó”.
Nhà vua
trẻ nhượng bộ, chẳng một lời đối hồi, lánh xa mụ phù thuỷ, rút về một nơl hẻo
lánh, kiên tâm chờ thắng lợi của kế hoạch đã bàn mà vị hoàng đế vừa bắt đầu
thực hiện với biết bao may mắn.
Mụ phù
thuỷ quay trở lại Cung Giọt Lệ và vừa bước vào mụ vừa nói tưởng như vẫn với
người tình da đen của mụ:
- Người
yêu thương nhất đời của em - Mụ nói - Em đã làm những gì chàng ra lệnh. Vậy
chẳng còn gì ngăn cản để chàng trở dậy và ban cho em sự hoan lạc mà em đã bị
tước đoạt bấy lâu nay.
Hoàng đế
vẫn giả giọng người da đen:
- Những
điều mi vừa làm - Ông nói với giọng đột ngột - Chưa đủ cho ta bình phục, mà mới
cất đi được một phần của vết thương, cần phải cắt tận gốc rễ kia.
- Chàng
đen yêu quí - Mụ lại nói - Ý chàng muốn nói gì với tiếng gốc rễ đó?
- Quân
khốn kiếp! Mi không hiểu là ta muốn nói đến kinh thành này và những dân cư của
nó và về bốn hòn đảo mà mi đã dùng phép ma huỷ diệt? Hàng ngày vào nửa đêm,
những con cá không quên ngóc đầu lên khỏi mặt nước hồ kêu gọi trả thù ta và
mi. Đó là nguyên nhân chính làm chậm lại sự bình phục của ta. Hãy mau đi lập
lại trật tự tất cả như trước và khi trở về, ta sẽ đưa tay cho mi và mi sẽ vực
ta đứng dậy.
Mụ phù
thuỷ tràn trề hy vọng khi nghe những lời nói đó Mụ sung sướng quá kêu lên:
“Trái tim của tôi, linh hồn của tôi, chẳng mấy chốc mà chàng lại khoẻ khoắn. Em
sẽ đi làm tất cả những gì chàng ra lệnh”. Đúng vậy mụ lập tức đi ngay và khi
tới bờ hồ, mụ lấy tay vục nước và niệm chú vào đó...".
Kể tới
đây, thấy trời đã sáng, Scheherazade không muốn nói gì thêm nữa. Dinarzade bảo
hoàng hậu:
- Chị
ơi, em rất vui thấy quốc vương trẻ xứ Những Hòn Đảo Đen đã được giải phép của
mụ phù thuỷ và em như đã nhìn thấy cả kinh thành và dân cư của nó trở lại hình
thái ban đầu, nhưng em còn băn khoăn chẳng rõ mụ phù thuỷ rồi sẽ ra sao đây.
- Hãy
kiên nhẫn em ạ - Scheherazade nói - Ngày mai em sẽ được thoả mãn thôi mà, nếu
hoàng đế, chúa của chị, cũng bằng lòng như thế.
Schahriar
như chúng ta biết, đã có chủ trương rồi, nên đứng lên đi làm nhiệm vụ.
o O o
Dinarzade
đúng giờ thường lệ, không quên lên tiếng gọi hoàng hậu:
- Chị
thân yêu của em - Nàng nói - Nếu chị không ngủ thì xin chị kể cho hoàng thượng
và em nghe xem số phận của mụ hoàng hậu phù thuỷ ra sao như lời chị đã hứa.
Scheherazade
giữ lời hứa, kể như sau:
“Mụ phù
thuỷ đã phù chú vào bàn tay vục nước, vừa đọc mấy câu về những con cá và hồ
nước thì ngay lập tức nhà cửa kinh thành vụt hiện lên. Những con cá trở lại
thành người: đàn ông, đàn bà hoặc trẻ con, tín đồ Hồi giáo, Cơ Đốc giáo, Ba Tư,
hoặc Do Thái, người tự do hoặc nô lệ... Mọi người đều trở về hình hài cũ. Tất
cả những vật dụng, đồ đạc đều ở nguyên chỗ cũ và vẫn theo trật tự như trước khi
bị phù phép. Đoàn tuỳ tùng đông đúc của hoàng đế hạ trại trên quảng trường lớn
không khỏi ngạc nhiên thấy trong phút chốc mình ở giữa một kinh thành tráng lệ,
rộng rãi và đông dân cư.
Quay trở
lại với mụ phù thuỷ, ngay sau khi đã làm cuộc biến đổi kỳ diệu này, mụ tức tốc
trở về Cung Giọt Lệ để hái lượm kết quả:
- Lãnh
chúa yêu quí của em! - Mụ vừa bước chân vào vừa kêu lên như thế - Em tới để
cùng chàng vui mừng đón nhận sự phục hồi sức khoẻ của chàng; em đã làm tất cả
những gì chàng bảo. Đứng lên chàng! Hãy đưa tay đây cho em.
- Hãy
đến gần đây! - Hoàng đế, vẫn nói giọng người da đen bảo mụ. Mụ bước lại gần.
- Chưa
được. Hãy đến gần thêm chút nữa.
Mụ vâng
lời. Tức thì ông đứng lên, bất ngờ nắm chặt cánh tay mụ khiến mụ không hiểu ra
sao nữa. Và, bằng một nhát kiếm vung lên, hoàng đế xẻ mụ ra làm hai, mỗi nửa
ngã về một phía. Xong việc, ông để xác mụ nằm tại chỗ, rời khỏi Cung Giọt Lệ và
đến chỗ quốc vương Những Hòn Đảo Đen đang sốt ruột chờ ông.
- Quốc
vương? - Hoàng đế ôm lấy ông, bảo - Ngài hãy vui lên, chẳng còn gì phải sợ hãi
nữa, kẻ thù độc ác của ngài không còn nữa.
Nhà vua
trẻ không ngớt lời cảm tạ việc làm đầy ân nghĩa của hoàng đế và để tỏ lòng tri
ân, ông chúc cho hoàng đế trường thọ và hưởng mọi vinh hoa phú quí. Hoàng đế
bảo nhà vua trẻ:
- Từ nay
ngài có thể sống yên bình trong kinh thành của ngài trừ trường hợp ngài muốn
tới thăm vương quốc của tôi ngay bên cạnh đất nước ngài. Tôi rất vui lòng được
đón tiếp và ở đó ngài cũng sẽ được tôn sùng và kính trọng chẳng kém gì tại đất
nước ngài.
- Tâu
hoàng đế hùng cường mà tôi chịu ơn sâu - Nhà vua trẻ nói - Ngài tưởng là đây
rất gần kinh đô của ngài ư?
- Phải,
ta tin như thế, đi bộ chỉ mất khoảng bốn hoặc năm tiếng thôi mà.
- Phải
mất tròn một năm đấy tâu bệ hạ. Đúng là từ quý quốc tới đây ngài chỉ đi mất
đúng như thời gian ngài vừa nói bởi vì đất nước tôi bị phù phép, nhưng từ lúc
này trở đi thì mọi cái đã đổi khác rồi. Nhưng điều đó chẳng ngăn tôi theo hầu
bệ hạ dù phải đi tới cùng trời cuối đất: Bệ hạ là người đã giải thoát cho tôi
và để tỏ lòng suốt đời chịu ơn, tôi quyết đi theo Người và để lại đất nước tôi
cho người khác kế vị không chút tiếc nuối.
Hoàng đế
vô cùng kinh ngạc khi biết là mình hiện ở rất xa vương quốc của mình và không
hiểu sao lại có thể như thế được. Nhưng nhà vua trẻ nước Những Hòn Đảo Đen đã
khéo thuyết phục làm ông hết hoài nghi.
- Cũng
không sao cả - Hoàng đế nói - Nỗi mệt nhọc trên đường về lại đất nước của trẫm
đã được đền đáp xứng đáng vì đã giúp được ngài khỏi cơn hoạn nạn và lại được có
một người con trai như ngài. Vì ngài đã cho tôi vinh dự là quyết một lòng đi
theo, mà tôi lại không có con, tôi sẽ coi ngài như con và chỉ định ngài làm
người thừa kế và sẽ nối ngôi tôi.
Cuộc trò
chuyện giữa hoàng đế và quốc vương Những Hòn Đảo Đen chấm dứt bằng những cái ôm
hôn thắm thiết. Sau đó nhà vua trẻ chỉ còn nghĩ đến việc sửa soạn cho cuộc hành
trình. Khoảng ba tuần mọi việc đều xong xuôi và trong sự luyến tiếc của cả
triều thần, họ đón từ tay quốc vương một trong những hoàng thân lên thay ông
tiếp tục trị vì đất nước.
Cuối
cùng, hoàng đế cùng nhà vua trẻ tuổi lên đường với trăm con lạc đà chở những
của cải quí vô giá lấy từ trong các kho tàng của quốc vương, tháp tùng là năm
chục kỵ sĩ hiên ngang được trang bị đầy đủ. Cuộc hành trình của họ hoàn toàn
thuận lợi. Hoàng đế đã phái sứ giả về trước báo nguyên nhân sự chậm trễ và các
sự cố xảy ra nên khi về tới gần kinh thành, các quan đại thần đã ra nghênh đón
và tâu trình suốt thời gian dài vắng hoàng đế đất nước vẫn ổn định không có gì
thay đổi. Dân chúng cũng từng đoàn kéo ra hoan nghênh chúc tụng và liên hoan ca
múa nhiều ngày liền.
Sau hôm
trở về một ngày hoàng đế kể lại cho tất cả triều thần nghe các sự việc xảy ra
với các chi tiết thật tỉ mỉ và trái với ý định đã làm cho sự vắng mặt của mình
quá lâu. Sau đó hoàng đế công bố việc nhận nhà vua trẻ xứ Những Hòn Đảo Đen làm
hoàng thái tử. Vị quốc vương này đã quyết định bỏ lại quốc gia rộng lớn của
mình để theo và sống cùng hoàng đế, người đã cứu mình khỏi một tai hoạ khủng
khiếp. Cuối cùng hoàng đế đã ban thưởng cho tất cả quần thần tuỳ theo cương vị
lớn nhỏ vì đã tỏ rõ lòng trung thành với hoàng đế thời gian qua.
Còn về
phần lão đánh cá, vì ông ta là nguyên nhân khởi đầu cho sự giải thoát quốc
vương trẻ tuổi nên hoàng đế ban thưởng cho nhiều của cải, và làm cho ông ta
cùng với cả gia đình, sống hạnh phúc cho đến cuối đời”.
Scheherazade
kết thúc ở đó câu chuyện về ông lão đánh cá và hung thần. Dinarzade tỏ ý vô
cùng thích thú và Schahriar cũng vậy. Hoàng hậu Scheherazade nói với hai người
là nàng còn biết có một chuyện còn hay hơn chuyện vừa kể xong và nếu được hoàng
đế vui lòng cho phép thì nàng sẽ kể vào ngày mai vì trời đã bắt đầu hừng
sáng.
Schahriar
nhớ tới cái hạn một tháng ông đã thầm hứa cho hoàng hậu, vả lại cũng tò mò muốn
biết câu chuyện mới này sẽ có hay như nàng đã nói không nên ông đứng lên với ý
nghĩ sẽ được nghe vào tối hôm sau.
o O o
Dinarzade
đã quen lệ, không quên kêu hoàng hậu khi thấy đã tới giờ:
- Chị
thân yêu của em! - Nàng nói - Nếu chị không còn ngủ nữa, thì xin chị, trong lúc
chờ trời sáng, chị hãy kể cho em nghe một trong các chuyện hay mà chị biết.
Scheherazade,
không trả lời em, mà kể tiếp luôn cho hoàng đế nghe.
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
7: Ba tu sĩ khổ hạnh con vua và ba thiếu phụ thành Bagdad
“- Tâu
hoàng thượng, dưới triều quốc vương Hồi giáo Haroun Iraschid, ở Bagdad có một
người làm nghề khuân vác dù là một nghề hạ tiện và nhọc nhằn nhưng vẫn tỏ ra là
một người thông minh và vui tính.
Một buổi
sáng, cũng như thường ngày, với một cái sọt to cạnh mình, đứng tại một nơi công
cộng, anh chờ xem có ai cần tới công việc của mình không. Chợt có một thiếu phụ
trẻ thân hình thon thả, mặt che mạng đi tới và nhẹ nhàng bảo anh: “Nghe đây,
anh phu khuân vác, nhắc cái sọt lên và đi theo tôi”. Anh khuân vác, rất vui
thích với những lời nói dịu dàng êm ái đó, vội đưa chiếc sọt lên đầu vừa đi
theo người thiếu phụ vừa khẽ nói: “Ôi ngày may mắn! Ôi ngày tốt lành!”.
Đầu tiên
người thiếu phụ dừng lại trước một cái cửa khép kín, giơ tay gõ. Một tín đồ
Kitô giáo, đạo mạo với bộ râu dài trắng xoá ra mở cửa. Thiếu phụ đặt ít tiền
vào tay ông ta, không nói một lời. Nhưng ông già biết là nàng muốn gì, đi vào
và chỉ một lát sau mang ra một bình lớn rượu. “Cầm lấy cái bình này - Thiếu phụ
bảo người khuân vác và đặt vào sọt của anh”. Anh làm theo và nàng tiếp tục bước
đi. Anh khuân vác bám sau và lại thốt lên: “Ôi, ngày diễm phúc! Ôi ngày vui vẻ
bất ngờ!". Người thiếu phụ dừng lại trước sạp hàng hoa quả. Nàng chọn mua
đủ các loại táo, đào, mận, mộc qua, chanh, cam, sim, hoa huệ, hoa nhài cùng
nhiều loại hoa và rau thơm. Nàng bảo người phu là cho tất cả vào sọt và tiếp
tục đi theo nàng. Đi qua trước quầy thịt lợn, nàng bảo cân cho hai mươi nhăm
livres loại thịt ngon nhất. Và anh khuân vác lại cho vào trong sọt, theo lệnh
nàng. Vào một cửa hàng khác nàng mua nụ phong điểu, rau mùi, dưa chuột và nhiều
rau xanh khác, tất cả đều ngâm dấm. Đến một cửa hiệu khác, nàng mua nào là lạc,
hạnh nhân, hạt dẻ, ba đậu, hạnh đào và nhiều loại quả tương tự. Lại ở một cửa
hiệu khác nữa nàng mua đủ các loại mứt hạnh đào. Anh phu khuân vác bỏ tất cả
các thứ đó vào sọt, thấy đã đầy tràn bèn nói với thiếu phụ: “Thưa bà, đáng lẽ
bà phải báo trước là mua rất nhiều thứ thì tôi sẽ mang theo một con ngựa hay
đúng hơn là một con lạc đà để thồ. Nếu bà mà còn mua nữa thì tôi xin chịu chẳng
mang nổi đâu”. Thiếu phụ bật cười vì câu đùa đó, vẫn bảo anh khuân vác đội sọt đi
theo.
Nàng vào
một cửa hiệu bán gia vị mua đủ loại nước thơm, đinh hương, nhục đậu khấu, hạt
tiêu, gừng, một miếng long diên hương lớn và nhiều loại hương liệu thực phẩm Ấn
Độ khác... làm cho cái sọt của anh khuân vác đầy tràn. Thiếu phụ vẫn bảo anh đi
theo.
Họ đi
cho tới lúc đến trước một toà nhà lộng lẫy mà mặt tiền trang trí những cột trụ
thật đẹp và cánh cửa thì khảm ngà voi. Họ dừng lại. Thiếu phụ gõ nhẹ cửa...”.
Tới chỗ
này, Scheherazade nhận thấy trời đã hửng sáng liền thôi không nói nữa.
- Chị
ơi, thú thực là câu chuyện mới bắt đầu đã thấy thật là hấp dẫn - Dinarzade nói
- Em tin là hoàng thượng chắc là chẳng bỏ qua cái thú được nghe đoạn tiếp.
Đúng là
Schahriar không những chẳng ra lệnh xử hoàng hậu mà còn nóng lòng chờ đêm sau
để xem cái gì sẽ xảy ra trong toà nhà lộng lẫy mà nàng đã miêu tả.
o O o
Dinarzade
thức giấc trước khi trời sáng nói với hoàng hậu: “Chị của em, nếu chị đã thức,
em xin chị hãy kể tiếp chuyện chị đã bắt đầu hôm qua đi?”.
Scheherazade
liền kể tiếp như sau:
“Trong khi
người thiếu phụ trẻ và anh khuân vác chờ cửa mở, anh này suy nghĩ miên man. Anh
lấy làm ngạc nhiên. Một người phụ nữ chững chạc như anh thấy đó mà lại làm nghề
tiếp phẩm? Chắc chắn chẳng phải là một nô lệ, với dáng dấp quí phái như vậy thì
phải là một người tự do, một người có địa vị xã hội. Anh đã định hỏi han để vấn
đề được sáng tỏ, nhưng giữa lúc đó thì một thiếu phụ khác ra mở cửa, và thiếu
phụ này cũng có một sắc đẹp rực rỡ khiến anh sững người suýt nữa làm đổ cả
chiếc sọt chứa đầy vật dụng bên trong. Anh chưa từng bao giờ thấy một sắc đẹp
nào có thể so sánh với người đứng trước mặt anh.
Thiếu
phụ dẫn anh đi theo nhận thấy sự bối rối diễn ra trong óc anh và biết rõ nguyên
nhân vì đâu, nàng lấy làm thích thú quan sát vẻ bần thần của người khuân vác đến
nỗi không thấy là cửa đã mở.
- Kìa,
vào đi chứ? - Thiếu phụ ra mở cửa bảo - Em còn chờ gì đấy? Em không thấy là
người đàn ông tội nghiệp đang bị gò lưng vì cái sọt nặng sao?
Khi nàng
cùng người khuân vác đi vào, người thiếu phụ ra đóng cửa lại và cả ba người sau
khi đi qua một tiền sảnh đẹp thì vào một cái sân rất rộng xung quanh có hành
lang, ăn thông vào các căn phòng to rộng ngang nhau vô cùng tráng lệ.
Cuối sân
kê một chiếc sập to đẹp với một chiếc ngai hổ phách đặt chính giữa, có bốn cây
cột bằng gỗ lim đỡ, các cây cột này đều khảm kim cương và ngọc trai cỡ to và
phủ sa tanh đỏ thêu rua chỉ vàng rất công phu. Giữa sân, là một bể lớn xây bằng
đá cẩm thạch trắng, chứa nước trong veo được nhả ra tràn trề từ mõm một con sư
tử bằng đồng mạ vàng. Anh chàng khuân vác, dù phải gò lưng mang vác cũng không
khỏi trầm trồ về vẻ sang trọng mỹ lệ và sạch sẽ khắp mọi nơi trong toà nhà này.
Nhưng hiện tượng đặc biệt thu hút sự chú ý của anh ta là người thiếu phụ thứ ba
đang ngồi trên chiếc ngai, so với thiếu phụ thứ hai thì còn lộng lẫy hơn nhiều.
Nàng bước xuống khi vừa thấy hai thiếu phụ kia trở vào. Nhìn vào cung cách cử
chỉ của họ, anh ta đoán bà chủ hẳn phải là người thiếu phụ thứ ba này, và anh
ta đã không nhầm. Thiếu phụ này tên là Zobéide; thiếu phụ ra mở cửa là Safie và
Amine là tên thiếu phụ vừa đi mua hàng về.
Zobéide
nói với hai thiếu phụ khi bước tới gần họ:
- Các em
này, các em không thấy là cái anh chàng tốt bụng này đang sụn lưng dưới cái sọt
đầy các thứ này ư? Các em còn chờ gì nữa mà không đỡ cho anh ta?
Nghe
vậy, Amine và Safie mỗi người đỡ lấy một bên quai của chiếc sọt, cả Zobéide
cũng đặt tay vào, và cả ba người đặt nhẹ chiếc sọt xuống đất. Họ bắt đầu rỡ các
thứ ở bên trong ra. Xong việc, nàng Amine duyên dáng rút tiền ra trả công cho
anh khuân vác...”.
Ánh sáng
bình minh, tới chỗ này, bắt Scheherazade phải ngừng lời, làm cho không những
Dinarlade mà cả Schahriar cũng cảm thấy hẫng hụt. Hoàng đế đành phải để lại đêm
sau nghe tiếp.
o O o
Đêm hôm
sau, nôn nóng muốn được nghe đoạn tiếp theo của câu chuyện đã bắt đầu kể,
Dinarzade thức giấc và nói với hoàng hậu:
- Nhân
danh Thượng đế, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị kể cho em nghe chuyện ba
thiếu phụ trẻ đẹp, xem họ đã làm gì với tất cả những thứ mà Amine đã mua về.
- Rồi em
sẽ biết thôi - Scheherazade bảo em - Nếu em chăm chú nghe chị kể.
Và nàng
tiếp tục kể câu chuyện như sau:
“Anh
chàng khuân vác, rất hài lòng với khoản tiền được trả công, đáng lẽ vác sọt ra
về thì lại ra vẻ tần ngần khó xử: cảm thấy như ngoài ý muốn của mình, anh ta định
xin được ở lại để chiêm ngưỡng các vẻ đẹp hiếm có và theo anh thì cũng đều
duyên dáng như nhau. Vì Amine cũng đã bỏ mạng che mặt xuống và anh thấy nàng
cũng xinh đẹp chẳng kém gì hai thiếu phụ kia. Điều làm cho anh ta không sao
hiểu được là chẳng nhìn thấy bóng dáng một người đàn ông nào trong toà nhà này.
Hơn nữa phần lớn những thức ăn anh mang về như quả khô và các loại bánh mứt chỉ
phù hợp với những người thích nhậu nhẹt và giải trí vui nhộn.
Zobéide
lúc đầu, tưởng là anh chàng khuân vác còn đứng lại để nghỉ xả hơi, nhưng thấy
anh ta ở lại quá lâu nên cất tiếng hỏi:
- Anh
còn chờ gì nữa thế? Anh chẳng đã được trả đủ tiền rồi sao? Em này - Nàng bảo
Amine - Em hãy cho thêm anh ta chút gì nữa đi để anh ta được hài lòng.
- Thưa
bà - Anh khuân vác nói - Không phải cái đó giữ tôi lại đâu, vì tiền công như
thế là quá xứng đáng rồi. Tôi biết là mình không được lịch sự cho lắm khi cứ ở
lại quá mức cần thiết nhưng tôi mong các bà vui lòng miễn thứ nếu thấy sự ngạc
nhiên của tôi là không thấy một người nam giới nào ở cùng với ba vị đều có một
sắc đẹp lạ thường. Một tập thể toàn đàn bà không có đàn ông thật ra là một điều
cũng tẻ nhạt chẳng khác gì một tập thể toàn đàn ông không có đàn bà.
Anh ta
thêm vào câu nói trên bằng nhiều chi tiết vui vui nữa để chứng minh cho những
lời đã nói. Anh ta cũng không quên là dẫn ra câu người ta thường nói ở Bagdad:
“Ăn không ngon nếu không đủ bốn người”, và anh ta đi đến kết luận là ở đây mới
chỉ có ba người, các bà cần phải có một người thứ tư nữa thì bữa ăn mới thật là
thú vị.
Các
thiếu phụ bật cười vì lý luận của anh chàng khuân vác. Rồi Zobéide nghiêm giọng
bảo anh ta:
- Anh
bạn! Anh đã quá tò mò đấy. Nhưng, mặc dù tôi chẳng muốn nhiều lời làm gì, tôi
cũng cần cho anh biết là ba chị em chúng tôi làm việc của mình một cách kín
đáo, không ai có thể biết được. Chúng tôi có lý do quan trọng không thể để lộ
cho những kẻ thóc mách biết chuyện riêng. Một tác giả có tiếng mà chúng tôi đã
đọc sách của ông nói như thế này: “Hãy giữ lấy bí mật của riêng mình và chớ để
lộ ra với bất cứ ai. Kẻ nào để lộ thì chẳng còn làm chủ được bí mật ấy nữa. Nếu
chính bụng ngươi còn không giữ nổi bí mật của mình thì bụng của người mà ngươi
tin cậy trao cho bí mật đó làm sao giữ nổi?”.
- Thưa
các bà - Anh chàng khuân vác lại nói - Chỉ với vẻ ngoài của các bà, ngay lúc
đầu tiên tiếp xúc tôi đã biết là những con người cao quý hiếm có và thấy là đã
không nhầm. Dù là số mệnh không cho tôi đủ giàu có để tự nâng cao mình lên làm
một nghề trên cái nghề hiện nay, tôi cũng không ngừng trau giồi kiến thức bằng
cách đọc các sách về khoa học, về lịch sử và xin các bà cho phép được nói là
tôi cũng đã được đọc ở một tác giả một câu châm ngôn mà luôn luôn tôi thực hành
một cách thường xuyên. Đó là câu: “Chúng ta chỉ giấu những điều bí mật đối với
những kẻ có tiếng là thóc mách chuyên lợi dụng lòng tin của chúng ta; nhưng
chúng ta chẳng bao giờ ngần ngại bộc lộ với những người khôn ngoan, thận trọng,
vì chúng ta biết chắc chắn là họ sẽ biết cách giữ kín trong lòng”. Điều bí mật
để ở trong tôi cũng sẽ được tuyệt đối an toàn chẳng khác gì để trong một căn
phòng cửa khoá hai lần mà chìa khoá đã bị mất vậy”.
Zobéiđe
biết là anh chàng khuân vác này cũng khá thông minh, nhưng cho là anh ta muốn ở
lại để dự bữa tiệc mà họ sắp tổ chức, nàng mỉm cườí bảo: “Anh biết là chúng ta
sắp ăn tiệc và anh cũng đã rõ là chúng ta đã phải tiêu một khoản tiền lớn, vậy
thì có công bằng không, nếu anh cũng muốn tham dự mà không đóng góp gì?”. Cô
nàng xinh đẹp Safie cũng hùa vào cùng chị: “Anh bạn ơi - Nàng bảo anh khuân vác
- Anh không nghe thiên hạ thường nói: nếu anh mang đến cái gì đó, anh sẽ là
người ở lại với chúng tôi; nếu anh chẳng mang đến cái gì cả thì nên tay không
mà rút đi thôi”.
Anh
chàng khuân vác, mặc dù là một tay bẻm mép, nhưng có lẽ cũng phải sượng sùng
rút lui nếu Amine không mạnh dạn đứng về phía anh nói với Zobéide và Safie:
“Các chị thân yêu, em xin các chị cho phép anh ta được ở lại cùng chị em mình:
chắc chắn anh ta sẽ làm cho chúng ta vui, các chị thấy đấy anh ta có đầy đủ khả
năng như thế. Em đoán chắc với các chị là nếu không có sự sốt sắng, sự mau lẹ
và lòng can đảm đi theo em của anh ta thì em không sao có thể mua đủ được bằng
ấy thứ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy. Thêm nữa, nếu em kể lại
cho các chị nghe tất cả những lời lẽ ngọt ngào lịch sự anh ta nói với em dọc
đường thì chắc các chị sẽ không lấy làm ngạc nhiên về sự che chở của em đối với
anh ta".
Nghe
những lời Amine vừa thốt ra, anh chàng khuân vác vui mừng khôn xiết, quì ngay
xuống hôn mặt đất, chỗ bàn chân của người đẹp rồi vừa đứng lên vừa nói: “Thưa
bà yêu kính, hôm nay bà đã mở đầu hạnh phúc cho tôi, bà lại làm cho nó tăng lên
bội phần bằng một hành động thật là hào hiệp. Tôi không sao nói hết được lòng
biết ơn của mình. Ngoài ra, thưa các bà - Anh ta nói với cả ba người - Vì các
bà đã cho tôi một vinh dự lớn, xin đừng cho là tôi quá lạm dụng, tôi tự cho
mình là một người xứng đáng với vinh dự đó; Không, tôi luôn luôn coi mình là
một nô lệ hèn của các quí bà”. Nói xong, anh ta đưa trao trả lại khoản tiền
công đã nhận, nhưng nàng Zobéide nghiêm trang bảo anh ta giữ lại, nàng nói:
“Tất cả những gì một khi đã ra khỏi bàn tay chúng ta để thưởng cho những người
có công giúp đỡ, thì không bao giờ trở về nữa...”.
Mặt trời
ló rạng đúng vào quãng này bắt nàng Scheherazade phải ngừng lời.
Dinarzade
hết sức chú ý nghe, rất tức bực. Nhưng dịu xuống ngay khi hoàng đế, cũng tò mò
muốn biết cái gì đã xảy ra giữa ba thiếu phụ xinh đẹp và anh chàng khuân vác,
bảo dành lại đoạn tiếp cho đêm hôm sau và đứng lên đi làm công việc thường
ngày.
o O o
Dinarzade
hôm sau, không bỏ lỡ việc đánh thức hoàng hậu vào giờ thường lệ và bảo nàng:
- Chị
thân yêu của em, để chờ trời sáng cũng sắp sửa rồi, chị hãy kể tiếp câu chuyện
ly kỳ chị kể dở đêm qua đi?
Scheheralade
cất tiếng và tâu với hoàng đế:
- Tâu
hoàng thượng được người cho phép, thiếp xin thoả mãn trí tò mò của cô em thiếp
- Rồi nàng kể tiếp chuyện ba tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi như sau: “ Vậy là Zobéíde
không muốn lấy lại tiền công của anh chàng khuân vác, nhưng nàng bảo:
- Này
anh bạn, đồng ý để anh bạn được ở lại vui cùng chúng ta, nhưng ta cảnh báo anh
không phải chỉ với điều kiện buộc anh phải giữ bí mật thôi là đủ, mà chúng ta
còn muốn anh phải nghiêm chỉnh tuân theo những qui định về phép lịch sự và tính
trung thực nữa.
Trong
lúc đó, nàng Amine xinh đẹp cởi bỏ bộ áo đi phố ra, giắt áo dài bên trong vào
thắt lưng cho gọn ghẽ và bắt tay vào dọn bàn ăn. Nhiều thức ăn được bày ra và
nàng đặt lên tủ nhiều chai rượu và những chiếc chén bằng vàng. Sau đó, các
thiếu phụ ngồi vào bàn và cho anh chàng khuân vác ngồi bên cạnh mình. Anh này
thấy hài lòng không sao tả được vì thấy được ngồi cùng bàn với ba người phụ nữ
xinh đẹp tuyệt vời.
Sau mấy
miếng ăn khai vị, Amine ngồi cạnh tủ, cầm lấy một chai rượu, một chiếc chén,
rót rượu uống trước theo phong tục những người Ả Rập. Nàng rót tiếp đưa cho các
chị lần lượt uống rồi rót lần thứ tư cũng vào chiếc chén đó, nàng đưa cho anh
chàng khuân vác. Anh này đón lấy chiếc chén, hôn bàn tay Amine, và trước khi
uống, hát một bài mà nghĩa của một số câu đại ý là: Như làn gió cuốn theo nó
mùi hương của những chốn thơm tho, nó đi qua cũng như chén rượu anh ta sắp
uống, từ bàn tay nàng đưa sẽ đượm một hương vị ngọt ngào hơn hẳn hương vị tự
nhiên của nó. Câu hát đó làm các nàng vui thích và cũng cất tiếng hát theo. Mọi
người đều rất vui trong bữa ăn được kéo dài khá lâu và được chêm thêm vào nhiều
trò chơi thú vị.
Ngày sắp
hết, Safie thay cho cả ba chị em bảo anh chàng khuân vác:
- Thôi,
anh hãy dậy và đi đi, đã đến lúc anh phải ra về rồi đó.
Anh
khuân vác chẳng muốn rời đi chút nào, nói:
- Ô hay!
Các bà muốn ra lệnh cho tôi đi đâu khi tôi đang trong tình trạng như thế này?
Tôi đã say mềm vì nhìn các bà và uống rượu của các bà. Tôi sẽ chẳng bao giờ tìm
thấy đường về nhà cả đâu. Hãy cho tôi ở lại một đêm cho tỉnh táo hẳn, ngủ ở đâu
cũng được nhưng cũng phải có thời gian lâu lâu một chút thì tôi mới có thể trở
lại tình trạng như lúc mới tới đây. Với tất cả những điều kiện đó, tôi vẫn còn
nghi là vẫn còn để lại đây cái phần ưu tú nhất của mình.
Amine
lại một lần nữa bênh vực anh khuân vác:
- Các
chị ạ - Nàng nói - Anh ta nói đúng. Em tán thành lời đề nghị của anh ta. Anh
chàng này đã làm cho chúng ta thật vui vẻ. Nếu các chị tin em hay đúng hơn là
các chị yêu em như em thường tin chắc như thế, chúng ta hãy giữ anh ta lại đêm
nay ở đây với chúng ta.
- Em à -
Zobéide nói - Chúng ta chẳng thể nào khước từ được lời cầu xin của em. Anh
khuân vác - Nàng nói tiếp với anh chàng này - Chúng ta vui lòng chấp nhận yêu
cầu của anh một lần nữa, nhưng phải có thêm điều kiện mới. Dù chúng ta làm gì có
liên quan tới chúng ta hoặc tới bất kỳ ai khác, bất kỳ việc gì khác trước mặt
anh, anh cũng không được mở miệng hỏi chúng ta lý do vì sao, bởi vì đặt câu hỏi
với chúng ta về những việc chẳng có liên quan gì tới anh, anh sẽ có thể phải
nghe những điều chẳng làm anh thích thú. Hãy thận trọng, chớ nên quá tò mò muốn
đi sâu vào nguyên nhân những việc chúng ta làm.
- Thưa
bà - Anh chàng khuân vác nói - Tôi xin hứa là sẽ tuân theo thật nghiêm và chính
xác điều kiện đó, để bà sẽ không phải phiền lòng trách cứ và sẽ không bao giờ
phải phạt tôi về tội bép xép: cái lưỡi tôi, trường hợp này, sẽ nằm yên bất động
và đôi mắt tôi sẽ như một tấm gương nó chẳng chứa lại bất cứ một vật nào nó
phản chiếu.
- Để cho
anh thấy - Zobéide lại nói với vẻ thật nghiêm trang - Điều mà ta đòi hỏi ở anh
không phải là chúng ta mới đặt ra. Anh hãy đứng lên và tới đọc những gì đã viết
bên trên cánh cửa này ở phía trong.
Anh
khuân vác đi tới tận chỗ cánh cửa và đọc dòng chữ được viết to mạ vàng: “Kẻ nào
nói những điều chẳng có liên quan gì tới mình sẽ được nghe những điều chẳng hay
ho gì”.
Anh ta
trở lại chỗ ba thiếu phụ, nói:
- Thưa
các bà, tôi xin thề là các bà sẽ chẳng bao giờ nghe thấy tôi nói những điều
không có liên quan tới mình và đó lại là những điều các bà quan tâm.
Thoả
thuận xong, Amine bày bữa ăn tối, và sau khi đã đốt rất nhiều nến tẩm trầm
hương và xạ hương toả ra một mùi thơm dễ chịu, chiếu sáng rực rỡ khắp gian
phòng, nàng ngồi vào bàn cùng với các chị và anh chàng khuân vác. Họ lại bắt
đầu ăn, uống, hát và ngâm thơ. Các thiếu phụ lấy làm thích thú chuốc rượu cho
anh ta thật say dưới cớ là uống chúc sức khoẻ của tất cả. Lời lời tốt đẹp được
phát ra không chút kiêng dè. Tất cả đều đang hoan hỉ trong niềm vui ít có thì
bỗng nghe tiếng gõ cửa...”.
Scheherazade
tới đây phải ngừng lại vì thấy trời đã sáng.
Hoàng
đế, không chút nghi ngờ là đoạn tiếp sau của câu chuyện này chẳng phải là không
đáng nghe, vì thế ông quyết chờ đến hôm sau và đứng lên.
o O o
Cuối đêm
hôm sau, Dinarzade gọi hoàng hậu:
- Nhân
danh Thượng đế, nếu chị không còn ngủ nữa thì kể tiếp cho em nghe chuyện về ba
thiếu phụ xinh đẹp. Em nóng lòng muốn biết là ai đã gõ cửa nhà các bà đó.
- Em sẽ
biết ngay đây - Scheherazade nói - Chị có thể đoán chắc với em là những gì mà
chị sẽ kể sau đây chẳng đến nỗi không xứng với sự chú ý của hoàng thượng, lãnh
chúa của chị.
“ Nghe
tiếng gõ cửa - Nàng kể tiếp - Cả ba thiếu phụ lập tức đều đứng lên đi ra mở
cửa. Nhưng Safie, việc này đã quen, nhanh chân hơn; hai người kia thấy bị vượt
trước nên dừng lại đợi Safie trở lại cho biết là ai lại có thể có công việc gì
mà tới muộn như vậy. Safie trở lại báo tin:
- Các
chị ạ, có cơ hội tất để qua một phần đêm thật vui vẻ và nếu các chị cũng cùng
một ý nghĩ như em thì chúng ta chớ nên bỏ qua. Lúc này ở trước cổng nhà ta có
ba tu sĩ khổ hạnh Hồi giáo, em cho là thế căn cứ vào y phục của họ. Nhưng có
một chi tiết chắc làm cho các chị kinh ngạc: cả ba người đều chột mắt bên phải
và đầu tóc cũng như râu ria, lông mày đều cạo nhẵn thín. Họ nói là họ mới đặt
chân hôm nay đến Bagdad là lần đầu, và vì trời đã về đêm, họ chẳng biết trọ nơi
đâu nên gõ cửa hú họa nhà ta. Họ xin chúng ta, vì lòng kính yêu Thượng đế, mở
rộng tấm lòng chìa tay ra tiếp họ, cho họ ngủ qua đêm dù phải ở trong chuồng
ngựa. Họ đều trẻ và khoẻ mạnh có vẻ còn khá thông minh nữa, nhưng em không sao
nhịn được cười khi nhìn khuôn mặt ngộ nghĩnh và cùng một kiểu của họ.
Nói tôi
đây, Safie dừng lại và bật cười lên khanh khách làm cho hai thiếu phụ kia và cả
anh chàng khuân vác cũng không nhịn được cười.
- Chị cả
và em ơi - Safie nói tiếp - Nên cho họ vào thôi chị và em ạ. Với những con
người mà em vừa tả đó thì không có lý gì mà chúng ta lại không được kết thúc
một buổi tối vui vẻ gấp bội lúc bắt đầu. Họ sẽ làm cho chúng ta hết sức thích
thú mà chẳng bị làm phiền gì đáng kể. Họ chỉ yêu cầu được nghỉ lại mỗi đêm nay
và sẽ ra đi từ tờ mờ sáng.
Zobéiđe
và Amine rất ngần ngại, thấy khó có thể chấp nhận được ý muốn của Safie và lý
do vì sao thì chính Safie cũng đã rõ. Nhưng thấy cô này tỏ ý rất tha thiết muốn
được sự đồng tình nên hai người chẳng nỡ khước từ.
- Thôi
được - Zobéide bảo nàng - Cho họ vào đi. Nhưng em đừng quên bảo họ chớ nên mở
miệng hỏi han về chuyện gì không liên quan tới mình và cho họ đọc câu đã viết
trên cánh cửa.
Được
lời, Safie vui mừng đi ra mở cửa và trở vào ngay, theo sau là ba tu sĩ Hồi
giáo.
Ba tu sĩ
đi vào, cúi người trịnh trọng vái chào các nàng lúc đó đã đứng dậy đón khách,
chào mừng và tỏ vẻ hân hạnh được giúp họ đỡ nhọc mệt sau cuộc đi dài. Cuối cùng
các nàng mời cả ba người ngồi xuống cạnh mình. Sự lộng lẫy của căn phòng và vẻ
lịch sự ôn tồn của các thiếu phụ làm cho ba chàng tu sĩ thầm khâm phục các nữ
chủ nhân xinh đẹp. Nhưng trước khi đặt mình ngồi xuống ghế, vô tình liếc nhìn
anh khuân vác, ăn vận gần giống những tu sĩ khác dòng tu với họ, râu và lông
mày không cạo như họ, một trong ba người bảo:
- Hình
như đây là một trong những đồng đạo Arập phái chống đối của chúng ta.
Anh
khuân vác đôi mắt đang lim dim và hơi men còn đang bốc trong đầu, nghe nói vậy
lấy làm bất bình, chẳng thèm đứng lên, kiêu hãnh nhìn ba tu sĩ và nói:
- Này,
các bạn hãy ngồi xuống và chớ nên xen vào những chuyện không đâu. Các bạn chưa
đọc câu viết trên cánh cửa hay sao? Không nên bắt mọi người sống theo cách của
mình. Nhập gia phải tuỳ tục chứ.
- Này
anh bạn - Người tu sĩ đã có lời nhận xét lúc đầu nói - Xin đừng vội nóng. Chúng
tôi lấy làm tiếc đã có phần nào thiếu sót đối với anh. Ngược lại, lúc này chúng
tôi sẵn sàng nghe những lời chỉ bảo của anh đây.
Cuộc cãi
vã đáng lẽ còn kéo dài, nhưng các thiếu phụ đã xen vào và khéo léo dàn hoà.
Khi
những tu sĩ đã ngồi vào bàn, các nàng tiếp thức ăn cho họ và cô nàng Safie đặc
biệt vui vẻ rót rượu chuốc..”.
Tới đây,
Scheherazade ngừng lại vì thấy trời vừa sáng. Hoàng đế cũng đứng lên đi thiết
triều thầm nhủ sẽ nghe tiếp vào hôm sau vì ông rất muốn biết vì sao các tu sĩ
này lại chột mắt mà cả ba cùng chột một bên.
o O o
Một giờ
trước khi trời sáng, Dinarzade thức giấc nói với hoàng hậu:
- Chị
thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị kể cho em nghe chuyện gì sẽ
xảy ra giữa ba thiếu phụ và ba người tu sĩ đạo Hồi.
- Xin
rất vui lòng - Scheherazade nói.
Và nàng
kể tiếp chuyện đêm trước:
“ Sau
khi đã ăn uống thoả thuê, ba tu sĩ tỏ ý muốn giúp vui cho bữa tiệc bằng cách
hoà nhạc nếu các nàng có sẵn nhạc cụ và vui lòng cho người mang ra. Ba thiếu
phụ vui vẻ nhận lời. Cô nàng Safie xinh đẹp đứng lên đi tìm nhạc cụ và một lúc
sau đem tới một chiếc sáo địa phương, một chiếc khác kiểu sáo Ba Tư và một
chiếc trống xứ Basque. Mỗi tu sĩ chọn lấy một thứ trong tay người đẹp và cả ba
bắt đầu chơi một điệu nhạc. Các thiếu phụ đều biết lời của khúc nhạc này, một
điệu rất vui, đã hoà vào lời ca của họ. Nhưng đôi lúc họ lại phá lên cười vì
lời của ca khúc rất nhộn.
Cuộc vui
đang ở phút cao trào và mọi người đang hân hoan cực độ thì lại nghe tiếng gõ
cửa. Safle ngừng hát ra xem có chuyện gì. Nhưng, tâu hoàng thượng, trước hết
cần phải nói để Người rõ vì sao mà có người lại gõ cửa nhà ba thiếu phụ giữa
đêm rất khuya như vậy. Nguyên do là vì hoàng đế Haroun Alraschid có thói quen
là hay vi hành trong đêm khuya để tự mình xem xét tình hình trật tự trị an
trong kinh thành ra sao, có xảy ra tình trạng gì lộn xộn không.
Đêm hôm
đó, hoàng đế ra đi từ chập tối, có Giafar, vị tể tướng và Mesrour, tổng thái
giám của hoàng cung đi hộ giá. Cả ba người đều cải trang thành những thương
nhân. Khi qua đường phố có dinh cơ của ba thiếu phụ, vị quốc vương này nghe
thấy tiếng đàn, tiếng hát và những tràng cười ròn rã, bèn bảo tể tướng:
- Này,
nhà ngươi hãy gõ cửa cái nhà đang làm ầm ĩ lên đó xem nào. Ta muốn vào xem cho
biết nguyên nhân.
Vị tể
tướng ra sức trình bày đó là các thiếu phụ bày tiệc vui tối đó và hẳn là men
rượu đang bốc lên đầu họ, nên chớ có dại mà vào để hứng lấy những lời chẳng đẹp
đẽ gì vả lại cũng chưa đến giờ cấm, chẳng nên phá rối cuộc vui của họ. Nhưng
hoàng đế Haroun Alraschid vẫn bảo:
- Mặc
kệ, đến gõ cửa đi! Ta ra lệnh cho khanh đấy.
Thế là,
cực chẳng đã, tể tướng Giafar phải đến gõ cửa nhà các thiếu phụ, tuân lệnh nhà
vua không muốn để lộ hình tích. Safie ra mở cửa và viên tể tướng, dưới ánh
sáng cây nến nàng cầm tay trông thấy một phụ nữ đẹp tuyệt trần. Ông đóng rất
tốt vai trò của mình, cúi đầu thật thấp và lễ phép nói:
- Thưa
bà, ba người chúng tôi là thương nhân ở Moussoul(1) đến đây đã được mươi hôm
với rất nhiều hàng hoá đắt tiền gửi trong kho một trang trại, nơi chúng tôi tạm
trú. Hôm nay chúng tôi được một bạn buôn mời tới thăm nhà và chúng tôi được
thết đãi một bữa no say. Ông ta lại cho gọi một tốp vũ nữ tới nhảy múa, đàn hát
tưng bừng. Đêm đã khuya và đoàn người quá vui làm huyên náo phố phường nên lính
tuần tra đi qua bắt mở cửa. Một số người bị bắt giữ, còn chúng tôi, may mắn đã
trèo qua được bức tường thấp và trốn thoát. Nhưng - Tể tướng nói tiếp - Vì
chúng tôi là những người xa lạ lại đang còn say rượu, loạng choạng sợ đụng toán
lính tuần tra khác hoặc chính toán vừa rồi trước khi về đến trang trại cách đây
khá xa. Vả lại nếu có về tối thì cũng vô ích vì cổng đóng, chỉ sáng ngày ra mới
mở dù bất cứ có sự biến gì. Vì vậy, thưa bà, đi qua đây và nghe thấy tiếng đàn
hát, chúng tôi đoán là cuộc vui chưa giải tán, nên đánh bạo gõ cửa xin nghỉ nhờ
lại đêm nay. Nếu các vị thấy chúng tôi xứng đáng để được phép tham gia vào cuộc
vui thì chúng tôi xin cố gắng với khả năng có thể để bù vào quãng thời gian bị
gián đoạn vì chúng tôi. Nếu không thể được thì chỉ xin cho tạm trú dưới mái
hiên nhà ngoài cho đỡ sương gió qua đêm thôi cũng được.
Trong
lúc Giafar nói, thì nàng Safie xinh đẹp có thời gian để ngắm nhìn viên tể tướng
và hai người đi cùng mà ông ta nói cũng là thương nhân như ông ta. Nhìn mặt mũi
dáng điệu đoán chẳng phải là những người tầm thường, Safle nói với họ mình
không phải là bà chủ, chịu khó chờ một chút, nàng sẽ trở lại cho họ biết ý kiến
trả lời về yêu cầu của họ.
Safie
trở vào trình bày với Zobéide và Amine. Họ lưỡng lự một lúc không biết giải
quyết ra sao. Nhưng các nàng vốn là những người tốt bụng và cũng đã cho ba
người tu sĩ ở lại rồi. Vì vậy họ quyết định để cho ba thương nhân vào nhà...”.
Scheherazađe
định nói tiếp, nhưng thấy trời đã hửng sáng nên dừng lại.
Số nhân
vật mới mà hoàng hậu vừa đưa vào câu chuyện đã khơi gợi trí tò mò của Schahriar
làm cho ông trong tâm trạng chờ đợi một sự cố bất ngờ nào đó xảy ra, vị quốc
vương này trong lòng háo hức đành để lui lại đêm sau.
o O o
Dinarzade,
cũng tò mò như hoàng đế muốn biết cái gì sẽ xảy ra khi vị quốc vương đó vào nhà
ba thiếu phụ, đã không quên đánh thức hoàng hậu dậy rất sớm.
- Nếu
chị không còn ngủ nữa - Nàng bảo chị - Thì em xin chị hãy kể tiếp chuyện những
tu sĩ đi.
Thế là
Scheherazade, được phép của hoàng đế, kể tiếp như thế này:
“ - Nhà
vua, tể tướng của ông và viên tổng thái giám, được nàng Safie xinh đẹp đưa vào,
cúi đầu chào các thiếu phụ và các tu sĩ rất lịch sự. Các thiếu phụ cũng tiếp
đón họ như thế và Zobéiđe coi như chị cả nghiêm trang thích hợp với vị trí của
mình bảo họ:
- Xin
chúc mừng các vị, nhưng trước hết, nếu không lấy làm phiền thì chúng tôi xin có
một yêu cầu.
- Yêu
cầu gì vậy, thưa bà? - Nhà vua hỏi - Liệu ai mà có thể chối từ một điều gì với
những phu nhân xinh đẹp như các bà chăng?
- Chỉ
nên dùng mắt nhìn mà nên để cho lưỡi nghỉ, chớ nên hỏi gì về những cái mà các
vị nhìn thấy, đừng dò hỏi nguyên nhân và không bép xép những điều chẳng liên
quan gì tới mình kẻo lại phải nghe những lời nghịch nhĩ.
- Chúng
tôi sẽ tuân theo, thưa bà. Chúng tôi chẳng phải là quan toà cũng chẳng phải là
những người tò mò hay bép xép. Chỉ chú ý tới gì có liên quan tới mình cũng là
quá đủ rồi, còn công đâu mà xen vào những chuyện của người khác.
Tể tướng
dứt lời, mọi người vui vẻ ngồi xuống, nối lại cuộc chuyện trò và lại bắt đầu
chuốc rượu những người khách mới.
Trong
lúc tể tướng Giafar hỏi han các thiếu phụ, hoàng đế không ngừng thầm phục sắc
đẹp lạ thường, vẻ duyên dáng và trí thông minh của họ. Mặt khác, ông cũng vô
cùng kinh ngạc là sao các tu sĩ, cả ba người đều chột mắt phải. Ông rất muốn
được biết nguyên nhân của sự khác thường này nhưng điều kiện mà người ta đã
đưa ra cho ông và cả bọn làm ông dừng lại. Cùng với những suy nghĩ đó, rồi nhìn
những đồ đạc sang trọng, sự sắp xếp trật tự hài hoà và sự sạch sẽ cực kỳ của
toà nhà, ông không khỏi không nghi hoặc là ở đây chắc hẳn có chuyện bùa phép gì
chăng. Cuộc chuyện trò bàn sang những trò giải trí và các cách du hí làm vui,
các tu sĩ đứng lên và nhảy theo điệu riêng của họ được các nàng tán thưởng
nhiệt liệt và tranh thủ được sự quý trọng của hoàng đế và những người cùng đi.
Khi các tu sĩ kết thúc điệu nhảy, Zobéiđo đứng lên, nắm lấy tay Amine bảo:
- Đứng
dậy em, chắc hẳn mọi người đây không chê cười là chúng mình không chịu sự gò bó
nào cả. Và sự có mặt của tất cả các vị đây cũng không phải là sự cản trở công
việc mà chúng mình vẫn làm.
Amine,
hiểu ý của chị muốn nói gì bèn đứng lên thu dọn bát đĩa, chai lọ, tách chén,
dẹp cái bàn và các nhạc cụ mà các tu sĩ vừa chơi lại.
Safie cũng
chẳng đứng không. Nàng quét nhà, sắp đặt lại trật tự tất cả các đồ đạc để lộn
xộn, gạt bấc các cây nến, cho thêm trầm và long điên vào lò. Xong việc, nàng đề
nghị ba tu sĩ ngồi vào tràng kỷ kê ở một bên và nhà vua cùng với người của mình
ngồi trên chiếc tràng kỷ khác phía bên kia.
Còn về
người khuân vác, nàng bảo:
- Anh
đứng dậy đi, và giúp chúng tôi một trong việc sắp làm đây. Một người đàn ông
như anh mà chúng tôi coi như người trong nhà, chẳng nên ngồi ì ra như thế.
Anh
khuân vác hơi quá chén một chút, nhanh nhẹn đứng bật dậy, và sau khi đắt vạt áo
dài vào thắt lưng:
- Tôi đã
sẵn sàng - Anh nói - Có việc gì vậy?
- Tốt
lắm - Safie bảo - Chờ một chút rồi anh sẽ rõ, anh sẽ không phải khoanh tay lâu
đâu.
Một lát
sau, Amine đi ra với một chiếc ghế ngồi đem đặt giữa phòng. Rồi nàng đi đến
trước một cánh cửa phòng, giơ tay mở và ra hiệu bảo anh khuân vác tới gần.
- Đến
đây - Nàng nói - Và giúp tôi.
Anh nghe
theo, đi vào cùng với nàng và lát sau đi ra tay dắt hai con chó cái đen bằng
một cái xích gắn vào cổ dề mỗi con. Hai con chó trông có vẻ đã bị đánh nhiều
bằng roi. Anh khuân vác dắt hai con vật ra giữa phòng.
Nàng
Zobéide đang ngồi giữa các tu sĩ và nhà vua liền đứng dậy đi tới chỗ anh khuân
vác:
- Nào -
Nàng thở dài nói - Chúng ta hãy làm bổn phận.
Nàng vén
áo lên tận khuỷu tay và cầm lấy chiếc roi Safie đưa, bảo anh khuân vác:
- Anh
hãy trao một con cho Amine, còn con kia thì dắt tới đây cho ta.
Anh
khuân vác nghe theo và khi tới gần Zobéide thì con chó anh dắt theo bắt đầu rên
lên ư ử, ngẩng đầu nhìn Zobéide với vẻ van xin. Nhưng Zobéide thản nhiên làm
như không nhìn thấy cái vẻ tội nghiệp và tiếng kêu rên của con chó cái, giơ tay
quật mạnh chiếc roi vào người nó cho đến lúc không còn hơi sức nữa mới ném roi
xuống đất.
Rồi nắm
lấy cái xích trong tay anh khuân vác, nâng hai chân trước của con chó lên,
người và vật nhìn vào mặt nhau buồn rầu, cảm động và cả hai cùng khóc. Cuối
cùng Zobéide rút khăn tay ra, lau nước mắt cho con chó, hôn nó và trao cái xích
cho người khuân vác:
- Anh
dắt nó đi, trả về chỗ cũ và đưa con kia tới đây cho ta.
Anh
chàng khuân vác đắt con chó vừa bị đánh đưa vào buồng trong, lúc quay về nắm
lấy xích con chó thứ hai từ tay Ámine và đưa đến cho Zobéide đang đứng đợl.
- Hãy
giữ nó như con lúc nãy - Nàng bảo anh khuân vác.
Rồi cầm
lại chiếc roi, nàng quật xuống người nó như con đầu tiên. Rồi lại khóc cùng với
nó, lau nước mắt cho nó và trao trả cho anh khuân vác. Lần này thì tự tay Amine
dắt con chó cái thứ hai này vào buồng trong.
Ba người
tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi, nhà vua và hai người của mình vô cùng ngạc nhiên trước
cảnh đó. Họ không sao hiểu được vì cớ gì mà Zobéide sau khi đánh đập dữ dội hai
con chó cái, theo đạo Hồi thì đó là những con vật bẩn thỉu, rồi sau đó lại khóc
với chúng, lau nước mắt và hôn chúng nữa. Họ thì thầm trao đổi với nhau. Nhất
là nhà vua, nôn nóng hơn cả muốn biết ngay nguyên do của một hành động cực kỳ
khác lạ đó, không ngừng ra hiệu cho tể tướng hỏi cho biết sự thể. Nhưng tể
tướng ngoảnh đầu sang phía khác cho đến lúc thấy nhà vua vẫn tiếp tục ra hiệu
thật thúc bách, ông đành cũng phải ra hiệu trả lời là lúc này chưa thoả mãn
tính hiếu kỳ của nhà vua được.
Zobéide
ngồi nguyên tại chỗ một hồi lâu ở giữa phòng như để lấy lại sức sau khi đã cật
lực quất roi hai con chó mực cái.
- Chị
thân yêu của em - Nàng Safie xinh đẹp bảo chị - Chị hãy vui lòng trở về chỗ cũ,
để đến lượt em làm nhiệm vụ chứ.
- Được -
Zobéide đáp.
Rồi nàng
đến ngồi trên sập. Bên phải nàng là nhà vua, tể tướng Giafar và tổng thái giám
Mesruur; bên trái là ba tu sĩ và anh khuân vác...”.
Đến đây,
nàng Scheherazade nói:
- Tâu
hoàng thượng, những gì mà Người vừa nghe chắc là thấy kỳ lạ, nhưng đoạn tiếp
của câu chuyện còn kỳ lạ hơn nhiều. Thiếp chắc là Người muốn nghe tiếp vào đêm
mai nếu Người cho phép thiếp kể nốt câu chuyện đó.
Hoàng đế
thuận ý, đứng dậy vì trời đã sáng.
o O o
Dinarzade
vừa thức giấc đã vội kêu chị:
- Chị
ơi, nếu chị không ngủ nữa thì kể nốt cho em câu chuyện rất hay ngày hôm qua đi.
Hoàng
hậu nhớ tới đoạn đang kể dở đêm hôm trước, hướng tới hoàng đế kể tiếp như sau:
“- Tâu
hoàng thượng, sau khi Zobéide trở về chỗ ngồi, tất cả mọi người cùng im lặng
một lát. Cuối cùng Safle đang ngồi trên chiếc ghế đặt ở giữa phòng, nói với
Amine:
- Em
thân yêu của chị, em hãy đứng lên, em biết là chị muốn nói gì rồi đấy.
Amine
đứng lên bước tới một buồng khác với buồng nhất hai con chó mực cái. Nàng ta
trở vào tay cầm một cái túi bọc xa tanh vàng thêu kim tuyến và lót lụa xanh.
Nàng đi tới gần Safie và mở chiếc túi, lấy ra một cây đàn trao cho chị. Safie
cầm lấy và sau khi so dây, nàng bắt đầu gảy, theo điệu đàn, nàng hát theo một
khúc hát nói lên những nỗi dằn vặt vì xa vắng có sức truyền cảm đến mức hoàng
đế và cả mọi người đều nghe một cách say sưa. Nàng vừa đàn vừa hát thật say đắm
kèm theo tay múa uyển chuyển theo nhịp điệu. Xong bài ca nàng bảo Amine: “Này
em, chị mệt rồi, lạc cả giọng em hãy thay chị đàn hát hầu các vị đây" -
"Vâng, em rất vui lòng", Amine đáp, bước đến gần Safie nhận chiếc đàn
từ tay chị và làm nhiệm vụ thay thế chị.
Amine
dạo thử đàn rồi bắt đầu vừa gảy vừa hát lâu cũng như chị về cùng một chủ đề
nhưng hăng hái hơn và nàng rất xúc động hay đúng hơn là thấm ý nghĩa của lời ca
thật sâu sắc nên biểu diễn xong thì kiệt sức.
Zobéide
muốn tỏ rõ sự hài lòng của mình, bảo em:
- Em ạ,
em đã làm nên điều kỳ diệu. Mọi người đều thấy rõ là em đau chính nỗi đau của
mình nên đã diễn tả thật sống động.
Amine
chẳng có thời gian để đáp lại tấm lòng trung thực đó. Nàng cảm thấy ngực mình
ngạt thở đến mức chỉ muốn phanh vạt áo ra cho thoáng khí nhưng bằng cử chỉ này
nàng đã để lộ ra mảng ngực và một bầu vú không phải trắng trẻo mịn màng mà một
thiếu phụ xinh đẹp như Amine phải có, trái lại ngực nàng dọc ngang đầy những
vết sẹo làm cho mọi người kinh hãi. Phanh áo ra cho thoáng mát như vậy nhưng
cũng không làm nàng tỉnh táo mà vẫn bị ngất xỉu...”.
- Nhưng,
tâu bệ hạ, thiếp không để ý là trời đã sáng rồi đó.
Nàng
Scheherazade ngừng lời và hoàng đế đứng lên. Ông vua này đang lưỡng lự, chưa
biết quyết định ra sao. Vì hiếu kỳ, ông còn muốn nghe nốt đoạn chót câu chuyện
đầy những tình tiết bất ngờ lý thú.
o O o
Dinarzade,
theo thói quen, nói với hoàng hậu:
- Chị
thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin hãy kể nốt chuyện các thiếu phụ
và những tu sĩ Hồi giáo đi chị.
Scheherazade
tiếp tục kể như sau:
“- Trong
lúc Zobéide và Safie chạy đến cứu trợ cô em thì một trong các tu sĩ cất tiếng
phàn nàn: “Chúng ta thà nằm ở ngoài trời còn hơn là vào đây để phải nhìn thấy
những cảnh này”. Quốc vương nghe thấy, bước lại gần y và các tu sĩ khác hỏi:
“Tất cả những cái đó là thế nào vậy?”. Người tu sĩ vừa phàn nàn đáp: “Thưa
ngài, chúng tôi cũng chẳng biết gì hơn các ngài" - "Sao? - Nhà vua
nói - Các anh không phải là người nhà này ư? Và các anh cũng không thể cho
chúng ta biết chút gì về hai con chó mực cái bị hành hạ tàn tệ và cái bà bị
ngất xỉu kia ư?" - "Thưa ngài - Cả ba tu sĩ đồng thanh - Chúng tôi
chỉ mới tới cái dinh thự này lần đầu tiên trong đời, và tới trước ngài chỉ mới
một lát”.
Điều này
càng làm tăng thêm sự kinh ngạc của nhà vua.
- Có thể
- Nhà vua phán đoán - Còn người kia, cùng ngồi với các anh đó, có nắm biết được
điều gì chăng?
Một tu
sĩ ra hiệu cho anh khuân vác tới gần và hỏi anh ta có biết vì sao mà hai con
chó mực cái bị đánh rơi và vì sao mà bộ ngực nàng Amine lại héo hon và đầy sẹo
như vậy.
- Thưa
ngài - Anh khuân vác đáp - Tôi thề trước Trời đất thánh thần là nếu các ngài
không biết một chút gì cả về cảnh tượng này, thì tôi cũng vậy. Đúng là tôi cư
trú tại kinh thành này nhưng hôm nay là lần đầu tiên tôi vào ngôi nhà này và
nếu các ngài ngạc nhiên thấy tôi tại đây thì tôi cũng ngạc nhiên không kém là
được thấy mình nhập bọn với các ngài. Điều làm tôi ngạc nhiên gấp bội là không
thấy một người đàn ông ở cùng với các bà đây.
Hoàng đế
với những người cùng đi và các tu sĩ cứ đinh ninh anh khuân vác là người nhà
các thiếu phụ nên hy vọng có thể qua anh ta biết những điều cần hiểu rõ, nhưng
bị thất vọng. Vị hoàng đế quyết bằng giá nào cũng phải được thoả mãn tính hiếu
kỳ của mình, nói với mọi người:
- Các
anh hãy nghe đây, chúng ta ở đây có tất cả là bảy người đàn ông và chỉ phải đối
phó với ba người phụ nữ, tại sao chúng ta lại không buộc họ phải làm sáng tỏ
những điều chúng ta cần biết. Nếu họ không vui lòng đáp ứng thì chúng ta có
cách ép họ nói ra bằng được?
Tể tướng
Giafar không đồng tình với ý kiến trên và nêu lên hậu quả của việc làm cho
hoàng đế nghe. Ông lựa cách nói như một thương nhân nói với người cùng nghề:
- Thưa
ngài - Ông nói - Xin ngài hãy nghĩ xem, chúng ta cần phải bảo toàn danh dự.
Chúng ta đều biết là với điều kiện như thế nào mà các bà này đồng ý tiếp chúng
ta tại nhà và chúng ta đã chấp nhận. Người ta sẽ nói gì nếu bị phản lại lời
cam kết? Lại càng đáng trách hơn nếu vì thế mà xảy ra điều gì tai hại. Không có
vẻ gì là các bà này đòi hỏi chúng ta lời hứa đó để được thấy sự hối hận nếu chúng
ta bội ước.
Đến đây,
tể tướng kéo hoàng đế ra xa một chút và nói thật khẽ: “Tâu hoàng đế, chẳng mấy
chốc nữa là qua đêm, xin Người hãy kiên nhẫn một chút. Thần sẽ cho bắt các bà
này vào sáng mai, dẫn họ tới trước ngai vàng, và Người sẽ biết về họ tất cả
những gì muốn biết”.
Mặc dù
lời khuyên đó vô cùng phải lẽ, hoàng đế vẫn bác bỏ, bắt tể tướng im lặng, bảo
ông là muốn được sáng tỏ sự việc ngay bây giờ.
Chỉ còn
vấn đề ai sẽ là người phát ngôn. Hoàng đế cố ép các tu sĩ lên tiếng trước,
nhưng họ đều cáo lỗi. Cuối cùng, họ nhất trí là anh khuân vác làm việc đó. Anh
này đang chuẩn bị nêu lên câu hỏi tai hại này thì Zobéide sau khi đã cứu chữa
cho Amine hồi tỉnh, bước lại gần họ. Vì nghe thấy họ bàn bạc to tiếng và sôi
nổi, nàng hỏi:
- Các
ngài bàn việc gì đó? Các ngài có điều gì phản đối?
Anh
khuân vác tức thì lên tiếng:
- Thưa
bà, các ngài đây muốn được bà vui lòng cho biết là tại sao sau khi hành hạ hai
con chó mực cái, bà lại cùng khóc với chúng, và vì sao mà bà bị ngất đi đó lại
có bộ ngực đầy vết sẹo. Đó là, thưa bà điều mà tôi được họ uỷ cho để hỏi bà.
Zobéide
nghe thấy vậy, bằng dáng vẻ kiêu hãnh ngoảnh sang phía hoàng đế, và cả bọn
người đi theo cùng các tu sĩ khổ hạnh, lạnh lùng hỏi:
- Thưa
các ngài, có đúng là các ngài đã uỷ cho hắn ta đặt câu hỏi thế ra với tôi
không?
Tất cả
đều trả lời là đúng như thế trừ tể tướng Giafar không nói gì. Nghe lời xác nhận
đó, nàng nói với họ bằng một giọng thể hiện rõ sự bất bình vì thấy bị xúc phạm:
- Trước
khi đồng ý tiếp các ngài theo yêu cầu của các ngài, và để đề phòng mọi điều có
thể làm chúng tôi không được đẹp lòng đối với các ngài vì chúng tôi chỉ toàn là
đàn bà con gái. Vì vậy điều kiện đã được đặt ra là các ngài không được xì xào
gì về những sự việc không liên quan gì tới mình, sợ rằng sẽ phải nghe những lời
không vừa ý. Sau khi được nghênh tiếp và chiêu đãi lịch sự nhất theo khả năng
của chúng tôi, thế mà các ngài lại làm sai lời đã hứa. Cái đó một phần cũng là
lỗi ở chúng tôi là đã quá dễ dãi. Nhưng về phần các ngài thì không sao tha thứ
được. Cách xử sự của các ngài thật không đứng đắn chút nào.
Nói xong
nàng dậm mạnh chân và vỗ tay ba lần rồi kêu to:
- Hãy
mau lại đây! Mau lên!
Ngay tức
thì một cánh cửa mở toang ra và bảy tên nô lệ da đen to khoẻ bước vào, kiếm cầm
tay, mỗi tên tóm lấy một vị khách, đẩy ngã lăn xuống đất, kéo xềnh xệch ra giữa
gian phòng, chuẩn bị chặt đầu cả bọn bảy người.
Cũng dễ
hiểu là hoàng đế kinh hoàng tới mức nào. Ông hối hận, nhưng đã quá muộn, là đã
không nghe theo lời khuyên của tể tướng. Trong khi nhà vua đáng thương, Giafar,
Mesrour, anh khuân vác và các tu sĩ sắp phải trả giá bằng cả cuộc sống vì tính
tò mò đáng trách của họ thì một trong những tên nô lệ cất tiếng hỏi Zobéide và
các cô em:
- Thưa
các bà chủ cao cả, quyền uy và đáng kính, phải chăng các bà lệnh cho chúng con
phải chặt đầu họ?
- Hãy
khoan! - Zobéide đáp - Trước hết, ta còn phải hỏi chúng đã.
- Thưa
bà - Anh khuân vác run rẩy lắp bắp – Nhân danh Thượng đế, xin đừng bắt tôi phải
chết vì tội của người khác. Tôi vô tội, chính họ mới là thủ phạm. Than ôi! -
Anh ta khóc và nói tiếp - Chúng ta đã vui vẻ biết bao! Chính các tu sĩ chột này
là nguyên nhân của tai hoạ, không có thành phố nào mà không chịu cảnh đổ nát
điêu tàn trước những con người bất thành nhân dạng ấy. Thưa bà, tôi xin bà chớ
nên nhầm lẫn người đầu với kẻ cuối và nên nghĩ là tha thứ cho một người khốn
khổ như tôi, chẳng biết trông cậy vào ai thì thật đẹp hơn là dùng quyền uy để
hành hạ và làm vật hi sinh cho sự giận dữ của mình.
Zobéide,
mặc dù tức giận cũng không nén được cười thầm trước những lời kêu van của gã
khuân vác. Nhưng không dừng lại trước hắn, nàng hỏi lại những người khác lần
thứ hai:
- Hãy
trả lời và cho tôi biết các người là ai. Các người chỉ còn sống được trong chốc
lát mà thôi. Tôi không thể tin được các ông là những người đứng đắn cũng chẳng
phải là những người có chức có quyền hoặc những người danh giá trong đất nước
các ông, cho dù đó là nước nào. Bởi vì nếu đúng là như vậy thì các ông đã biết
tự kiềm chế và tôn trọng chúng tôi hơn.
Hoàng
đế, bản chất nôn nóng, thấy đau khổ nhiều hơn những người khác vì thấy sự sống
chết của mình phụ thuộc vào sự ra lệnh của một phụ nữ bị xúc phạm và giận dữ
một cách chính đáng; nhưng ông bắt đầu cảm thấy một tia hy vọng khi nàng tỏ ra
muốn biết thân thế từng người trước khi ra lệnh giết. Ông tin là nàng sẽ không
cho giết khi biết được địa vị của mình. Vì vậy ông nói khẽ với tể tướng sát
cạnh mình là tuyên bố ngay cho nàng ta rõ mình là ai. Nhưng tể tướng khôn ngoan
và thận trọng muốn cứu vớt danh dự của chủ mình và không muốn cho lan truyền
điều sỉ nhục lớn mà nhà vua chuốc lấy, nên chỉ đáp: “Chúng tôi phải chịu những
gì đáng phải chịu", chứ không tuân lệnh của hoàng đế muốn nói nhưng
Zobéide đã hỏi sang các tu sĩ khổ hạnh. Khi nhìn thấy cả ba người cùng bị chột
mắt, nàng hỏi có phải anh em không. Một người trả lời thay cho cả ba: “Không,
thưa bà, chúng tôi không phải anh em cùng huyết thống mà chỉ là đồng đạo tức là
cùng tuân theo một nếp sống như nhau" - "Anh - Nàng hỏi riêng một
người - Anh có phải là bị chột bẩm sinh không?" - "Không, thưa bà -
Anh này đáp - Tôi bị chột vì một sự cố rất kỳ lạ mà nếu được ghi chép lại thì
cũng là chuyện bổ ích. Sau tai hoạ đó, tôi cạo râu và lông mày và trở thành tu
sĩ khổ hạnh như y phục tôi đang mang đây”.
Zobéide
cũng hỏi hai tu sĩ kia như thế và họ cũng trả lời như người thứ nhất. Nhưng một
người nói thêm: “Để bà hiểu, thưa bà, chúng tôi không phải là những người dân
thường và để bà có một chút gì xem trọng xin nói để bà rõ cả ba chúng tôi đều
là con vua. Dù là chúng tôi mới chỉ biết nhau buổi chiều hôm nay nhưng cũng đã
giới thiệu cho nhau biết thân thế mình và chúng tôi có thể đoán chắc với bà là
các phụ vương của chúng tôi đều là những ông vua có danh tiếng trong thiên hạ”.
Nghe
những lời như vậy, Zobéide cũng nguôi nguôi cơn giận một chút, bảo bọn nô lệ:
- Hãy
cho họ tự do đôi chút, nhưng các ngươi vẫn phải ở tại đây. Người nào kể cho
chúng ta nghe rõ lai lịch của mình và nguyên nhân vì sao lại tới đây thì ta
không xử tệ và sẽ cho họ muốn đi đâu thì đi. Nhưng chúng ta sẽ không tha những
ai khước từ không muốn làm theo điều chúng ta yêu cầu...”.
Đến đây
Scheherazade ngừng nói và sự im lặng đó cùng với ánh sáng bình minh hé rọi làm
cho Schahriar hiểu là đã đến lúc ông phải đứng dậy. Vị hoàng đế này thầm hẹn là
ngày mai sẽ nghe tiếp câu chuyện của Scheherazade vì ông rất muốn biết ba người
tu sĩ là những nhân vật như thế nào.
o O o
Dinarzade
cực kỳ thích thú vì những câu chuyện kể của hoàng hậu, đánh thức nàng vào lúc
đêm gần tàn hôm sau:
- Chị
thân yêu của em - Nàng nói với hoàng hậu Scheherazade - Nếu chị không còn muốn
ngủ nữa thì chị hãy kể tiếp câu chuyện rất hay về các tu sĩ đi.
Scheherazade
xin ý kiến hoàng đế và khi đã được chuẩn y, nàng kể tiếp:
“- Tâu
hoàng thượng, ba người tu sĩ, vị quốc vương, viên quan tể tướng Giafar, thái
giám Mesrour và gã khuân vác đều ngồi trên một tấm thảm ở giữa phòng đối diện
với ba người đàn bà đẹp chễm chệ ngồi trên sập và phía sau là các nô lệ da đen
sẵn sàng thi hành lệnh của các cô chủ chúng.
Anh
chàng khuân vác hiểu là chỉ cần kể chuyện thực tỉ mỉ về mình là có thể tự giải
thoát được nguy cơ lớn đang đe doạ tính mệnh, nên đã lên tiếng trước tiên:
- Thưa
bà, bà đã biết rõ thân thế của tôi và nguyên nhân nào đã dẫn tôi tới quý xá.
Như vậy câu chuyện về tôi chẳng mấy chốc mà kết thúc thôi. Quý bà em của bà
sáng nay mướn tôi ở chỗ tập trung những người lao động, làm một người khuân
vác. Tôi đã theo bà ấy đến một cửa hàng rượu, một cửa hàng rau quả rồi tới một
cửa hàng khô bán các loại hạnh nhân, hạnh đào, hạt dẻ và nhiều loại quả khác.
Sau lại tới một cửa hàng bán gia vị và các loại mứt kẹo. Từ cửa hàng này, sọt
chứa đã đầy lắc, tôi phải gắng hết sức mình mới đội được về tới dinh thự của
các bà và được các bà có lòng tốt cho ở lại từ lúc đó tới bây giờ. Đó là một
ân huệ mà suốt đời tôi sẽ không quên. Chuyện của tôi vẻn vẹn chỉ có thế”.
Khi anh
khuân vác nói xong, Zobéide hài lòng bảo gã:
- Thôi
bây giờ thì đi đi, chạy đi! Đừng để chúng ta trông thấy anh nữa.
- Thưa
bà - Gã khuân vác lại nói - Xin bà cho phép tôi được ở lại. Thật là không công
bằng sau khi đã làm cho mọi người thích thú được nghe chuyện của tôi, tôi lại
không có cái thú được nghe chuyện của mọi người.
Nói
xong, anh ta ngồi ghé vào một góc sập, vui mừng thấy thoát một hiểm hoạ đã làm
cho mình vô cùng nao núng. Sau gã, một trong ba tu sĩ cất tiếng nói với Zobéide
mà anh coi như là người chủ trong ba thiếu phụ và là người ra lệnh cho anh ta
phải kể chuyện mình. Anh ta bắt đầu kể như sau:
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
8: Chuyện kể của tu sĩ khổ hạnh thứ nhất, con vua
- Thưa
bà, để cho bà hiểu vì sao tôi lại mất con mắt bên phải và nguyên nhân buộc tôi
mang áo thầy tu, xin thưa với bà tôi là hoàng tử con vua.
Vua cha
tôi có một người em trai cũng ở ngôi vua như ông tại một nước láng giềng. Người
em này có hai con, một hoàng tử và một công chúa và hoàng tử thì gần như đồng
niên với tôi.
Khi tôi
đã hoàn thành tất cả những nhiệm vụ được trao, phụ vương cha tôi thường cho tôi
được hưởng một thứ tự do thuần khiết và thích đáng. Đều đều hàng năm tôi được
đi thăm quốc vương chú tôi và tôi ở lại đó một hoặc hai tháng. Sau đó tôi lại
về sống gần phụ vương cha tôi. Những cuộc đi trên đã tạo điều kiện cho hoàng tử
em họ tôi và tôi một tình thân thật đậm đà và đặc biệt sâu sắc. Lần gặp nhau
vừa rồi, hoàng tử em tiếp tôi với những biểu hiện thân tình chưa từng thấy. Và
một hôm để chiêu đãi tôi, chú ta đã chuẩn bị thật là kỳ công. Chúng tôi ngồi
vào bàn ăn đã lâu và sau khi cả hai cùng no nê thoả mãn, hoàng tử bảo tôi:
- Anh ạ,
anh không thể đoán được là em đã bận tâm về việc gì từ cuộc đến thăm của anh
lần trước đâu. Đã được một năm kể từ ngày anh trở về bên bác, em đã thuê rất
nhiều thợ làm việc để thực hiện một ý đồ mà em đã nghiền ngẫm. Em đã cho xây
xong một dinh thự và bây giờ đã có thể ở được. Chắc là anh sẽ rất thích được
tới xem. Nhưng trước hết anh phải hứa với em là tuyệt đối giữ bí mật và phải
một dạ trung thành. Đó là hai điều em đòi hỏi ở anh.
Tình bạn
thân thiết và tình ruột thịt gia đình giữa chúng tôi không cho phép tôi từ
khước một điều gì, vì vậy tôi không chút ngần ngại thề như ý em tôi muốn và em
tôi liền bảo:
- Anh
hãy chờ em tại đây, một lát nữa em sẽ quay lại.
Đúng
vậy, chỉ một lát sau em tôi trở về và đi cùng một thiếu nữ rất xinh đẹp, quần
áo sang trọng. Em chẳng nói cho tôi biết nàng là ai và tôi thấy cũng chẳng nên
tò mò làm gì. Chúng tôi lại ngồi vào bàn tiệc cùng người thiếu nữ đó một lát,
nói chuyện về nhiều vấn đề và uống chúc mừng sức khoẻ lẫn nhau. Sau đó hoàng tử
bảo tôi: “Anh họ ạ, chúng ta không có nhiều thời gian đâu. Anh hãy giúp em đưa
phu nhân này tới phía đó, ở cái chỗ mà anh sẽ nhìn thấy một ngôi mộ có vòm mới
xây. Anh sẽ nhận biết dễ dàng. Cửa hầm mộ đã mở sẵn, hai người cùng vào trong
đó và chờ em. Em sẽ tới ngay thôi”.
Trung
thành với lời hứa, tôi chẳng muốn tìm hiểu gì hơn, giơ tay cho nàng và theo
những chỉ dẫn của hoàng tử em họ, tôi dẫn nàng đi dưới ánh trăng. Vừa tới chỗ
ngôi mộ, chúng tôi đã nhìn thấy hoàng tử đi phía sau chúng tôi, mang theo cái
bình chứa đầy nước, một cái cuốc và một túi nhỏ đựng vôi vữa.
Hoàng tử
dùng cuốc phá dở nấm mồ trống không, bê lần lượt các tảng đá xếp vào một góc.
Rồi chú ấy đào đất sâu xuống và tôi thấy hiện ra một cái nắp dưới đáy huyệt mộ.
Hoàng tử lật cái nắp đậy lên và tôi nhìn thấy ở phía dưới, đầu một cầu thang
xoáy trôn ốc. Thế rồi ông em họ tôi nói với thiếu nữ :
- Đó là
lối để đi tới chỗ mà tôi đã nói.
Người
thiếu nữ bèn đi tới gần và đưa chân bước xuống, hoàng tử em tôi đi theo, nhưng
trước khi cũng bước xuống bèn quay lại nói với tôi: “Anh họ của em, em rất biết
ơn sự giúp đỡ của anh. Xin cảm ơn và vĩnh biệt anh" – "Em họ thân mến
của anh - Tôi kêu lên - Thế này là nghĩa làm sao?" - "Thế là đủ rồi
anh ạ - Chú em tôi đáp - Anh có thể trở lại con đường anh vừa đi tới đây”.
Scheherazade
kể đến đây thì trời vừa sáng, nàng chẳng thể vượt điều đã qui định. Hoàng đế
cũng đứng lên, trong lòng băn khoăn về ý đồ của người hoàng tử và vị phu nhân
dường như muốn tự chôn sống mình. Ông đành nóng lòng chờ đến đêm hôm sau để
được sáng tỏ chuyện đó.
o O o
- Chị
ơi, nếu chị không còn ngủ nữa - Dinarzade gọi chị trước khi trời sáng - Em xin
chị kể tiếp chuyện người tu sĩ thứ nhất cho em nghe đi.
Schahrlar
cũng tỏ ý với hoàng hậu là ông rất muốn nghe hoàng hậu kể tiếp chuyện đó.
Scheherazade kể tiếp như sau:
“- Người
tu sĩ nói với Zobéide:
- Tôi
không thể moi gì được thêm ở hoàng tử em họ tôi nên buộc phải chia tay với y.
Khi trở về hoàng cung, của quốc vương chú tôi, chất men rượu bốc lên đầu nhưng
tôi cũng về được tới phòng riêng nằm ngủ như chết. Hôm sau thức dậy, nghĩ lại
những gì đã xảy ra đêm trước, và sau khi nhớ lại tất cả những chi tiết của một
sự kiện thật là kỳ lạ, tôi ngỡ đó là một giấc mộng. Đinh ninh với ý nghĩ đó,
tôi cho người đi tìm hiểu xem hoàng tử em họ tôi có ở nhà không. Nhưng khi
người ta cho biết là y không ngủ ở nhà và cũng không biết y ra sao trong lúc
này. Mọi người đều lấy làm lo lắng, tôi thấy rõ là chuyện kỳ lạ về ngôi mộ là
hoàn toàn có thật. Tôi rất buồn và tránh mặt tất cả, tôi bí mật một mình đi tới
nghĩa địa mà ở đó có vô vàn những nấm mồ giống như nấm mồ tôi đã thấy hôm qua.
Suốt một ngày tôi xem xét hết cái này đến cái khác nhưng không sao nhận biết
được ngôi mộ nào là cái tôi đã thấy. Liên tiếp bốn ngày tôi tìm tòi một cách vô
ích.
Cũng cần
biết thêm là suất thời gian đó quốc vương chú tôi đi vắng. Nhiều ngày liền, ông
mải đi vào cuộc săn thú rừng. Chờ đợi lâu tôi rất sốt ruột nên sau khi nhờ các
quan trong triều cáo lỗi hộ khi Người trở về và tôi rời hoàng cung của ông để
về với triều đình của phụ vương cha tôi mà tôi không quen sống xa quá lâu.
Những đại thần của triều đình chú tôi rất lo lắng về việc hoàng tử em họ tôi
mất tích. Nhưng trung thành với lời thề là giữ bí mật cho y, tôi không dám cho
họ rõ những gì tôi biết về hoàng tử.
Tôi về
tới kinh đô nơi cha tôi trị vì. Trái với lệ thường, tôi thấy trước cổng hoàng
cung rất nhiều lính vệ binh và tôi bị bao vây ngay lúc mới bước vào. Hỏi lý do,
viên sĩ quan cận vệ cho tôi biết là quân đội đã suy tôn viên tể tướng lên nối
ngôi thay cha tôi đã mất và tôi bị bắt làm tù binh theo lệnh của quốc vương
mới. Bọn vệ binh bắt trói tôi và đưa đến trước tên bạo chúa. Bà thử xem, thưa
bà, sự kinh ngạc và nỗi đau của tôi lớn đến mức nào.
Tên tể
tướng phản động này đã mời mối hận thù với tôi đã rất lâu rồi. Và nguyên nhân
là đây: Trong tuổi ấu niên, tôi rất thích bắn cung. Một hôm tôi cầm một cây
cung đứng trên sân thượng cung điện tập bắn. Có một con chim đậu phía trước,
tôi nhằm bắn nhưng trượt và chẳng may mũi tên bay lạc cắm vào mắt viên tể tướng
lúc đó đang đứng hóng mát trên sân thượng nhà ông và làm ông ta nổ một mắt. Khi
biết tin tai hoạ đó, tôi cho người đến tạ lỗi và tự mình cũng đến tạ lỗi với
ông. Nhưng ông vẫn mang lòng hận thù và chỉ chờ dịp để trả hận. Khi thấy tôi đã
ở trong tay, hắn nhảy xổ vào tôi như một thằng điên, chọc thẳng ngón tay vào
mắt phải tôi và móc ra. Đó, tôi bị chột mắt là vì thế.
Nhưng kẻ
tiếm quyền không ngừng tính độc ác của hắn tại đó. Hắn cho giam tôi trong một
chiếc hòm và ra lệnh cho đao phủ cứ thế mang tôi ra xa kinh thành, để cho lũ ác
điểu rỉa thịt sau khi đã chặt đầu tôi. Tên đao phủ cùng với một tên nữa cưỡi
ngựa, mang theo cái hòm, dừng lại trên cánh đồng vắng để thi hành mệnh lệnh.
Tôi khóc lóc van xin khiến chúng mủi lòng.
Tên đao
phủ bảo tôi:
- Đi đi,
đi ra mau khỏi vương quốc và đừng trở về nữa vì anh sẽ chết và tôi cũng bị chết
lây đó.
Tôi cảm
ơn tên đao phủ và khi chỉ còn lại một mình tôi tự an ủi dù bị mất một con mắt
nhưng đã tránh được tai hoạ mất đi cả cuộc sống.
Với tình
trạng như thế nên tôi chẳng đi được bao ngã quãng đường dài. Ban ngày tôi ẩn
mình vào những nơi hẻo lánh kín đáo, tôi chỉ đi hoàn toàn vào ban đêm, gắng hết
sức mình càng đi được mau càng tốt. Cuối cùng tôi tới được vương quốc của chú
và đi thẳng vào kinh đô.
Tôi kể
cho chú tôi nghe với tất cả chi tiết nguyên nhân khốc liệt của sự trở về và
tình trạng bi thảm lúc này mà chú tôi thấy.
- Than
ôi! - Ông thốt kêu lên - Mất một đứa con thế chưa đủ sao! Mà ta lại còn phải
hay tin cái chết của một người anh trai vô cùng thân thiết, lại còn phải nhìn
thấy tình trạng thảm thương của cháu ta thế này.
Chú tôi
tỏ ra vô cùng lo lắng về việc chẳng được có một tí tin tức nào về hoàng tử con
trai ông dù đã cho đi lùng tìm ráo riết. Người cha khốn khổ này khóc ròng khi
than thở cùng tôi và tỏ vẻ vô cùng đau khổ làm tôi không sao đừng được mà phải
kể lại cho ông nghe tất cả những gì tôi biết mặc dù tôi đã phát lời thề với
hoàng tử em họ tôi.
Nhà vua
lắng nghe tôi nói có vẻ như được an ủi phần nào. Khi tôi dứt lời, ông nhìn tôi
hỏi:
- Cháu
của chú, chuyện cháu vừa kể đưa lại cho chú một đôi chút hy vọng. Chú biết là
con chú đã cho xây nhà mồ đó và chú biết nó ở chỗ nào. Với trí nhớ của cháu, ta
tin là có thể tìm thấy. Nhưng vì nó đã bí mật xây và còn đòi hỏi ở cháu phải
giữ kín, ta thấy là nên tránh chuyện ồn ào: chỉ hai chú cháu ta đi tìm thôi.
Còn một
lý do nữa mà chú tôi không nói ra là không muốn cho tất cả mọi người biết chuyện.
Lý do này rất quan trọng mà chúng ta sẽ thấy rõ ở đoạn tiếp lời thuật lại của
tôi.
Hai chú
cháu cùng cải trang và ra khỏi hoàng thành bằng cửa khu vườn mở ra phía cánh
đồng. Chúng tôi may mắn tìm ngay ra được cái cần tìm. Tôi vô cùng sung sướng
nhận ra cái nhà mồ mà mấy hôm trước đã mất bao công tìm kiếm vô ích. Chúng tôi
bước vào và tìm ra được cái cửa sắt chặn lối xuống cầu thang. Mất rất nhiều
công sức với cái cửa này vì hoàng tử em tôi đã trát kỹ phía trong bằng túi vữa
chú ta mang theo. Nhưng rồi cuối cùng chúng tôi cũng nâng lên được.
Quốc
vương chú tôi bước xuống trước. Tôi theo sau và chúng tôi phải đi xuống khoảng
năm chục bậc thang. Khi đã xuống tới chân cầu thang, chúng tôi thấy mình đang ở
trong một tiền phòng đầy khói và bốc lên mùi hôi hám. Khói làm cho ánh sáng toả
ra từ một cái đèn chùm rất đẹp bị mờ hẳn đi.
Từ gian
phòng này chúng tôi bước sang một gian phòng khác to rộng có những cột lớn và
được nhiều chùm đèn chiếu sáng. Giữa phòng là một thùng lớn chứa nước và bên
cạnh xếp nhiều loại thức ăn. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên vì chẳng nhìn thấy
một người nào. Trước mặt chúng tôi kê một cái sập khá cao có bậc để trèo lên và
trên sập là một chiếc giường rộng có diềm che kín. Nhà vua đặt chân vào bậc
trèo lên, mở diềm che và nhìn thấy hoàng tử con trai ông và người thiếu nữ nằm
cạnh nhau nhưng thân thể cả hai đều bị đốt cháy đen như thể có ai ném họ vào
một lò lửa lớn rồi lôi ra kịp trước khi bị thiêu cháy hoàn toàn thành than.
Điều làm
tôi ngạc nhiên hơn cả, là trước cảnh tượng làm mọi người kinh hoàng đó thì nhà
vua chú tôi, đáng lẽ phải rất đau buồn thấy con trai mình trong tình trạng thê
thảm như vậy thì ông lại nhổ vào mặt con và phẫn nộ kêu lên: “Đó là sự trừng
phạt trên thế gian này nhưng ở thế giới bên kia thì sự trừng phạt sẽ còn kéo
dài vĩnh viễn”. Chưa bằng lòng với lời xỉ vả đó, ông còn tháo giày ra cầm tay
đập mạnh vào mặt hoàng tử, con trai ông”.
- Nhưng,
tâu hoàng thượng - Scheherazade nói - Trời đã lại sáng rồi, thiếp tiếc là Người
chẳng còn được thư thả để nghe thiếp kể tiếp nữa.
Vì câu
chuyện về tu sĩ thứ nhất chưa kể xong và thật lạ lùng với hoàng đế nên ông
quyết định nghe kể tiếp vào đêm sau và đứng lên.
o O o
Hôm sau
Dinarzade thức giấc sớm hơn mọi khi. Nàng gọi chị Scheherazade và bảo:
- Hoàng
hậu tốt bụng của em ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị kể nốt chuyện
người tu sĩ thứ nhất cho em nghe đi. Em sốt ruột muốn biết đoạn kết ra sao.
- Vậy
thì thế này nhé - Scheherazade bảo - Em thấy là tu sĩ thứ nhất đang tiếp tục kể
chuyện của mình với nàng Zobéide. Anh ta nói:
"-
Tôi không sao tả được, thưa bà, sự ngạc nhiên của mình khi thấy quốc vương chú
tôi lại hành hạ hoàng tử con mình đã chết rồi như thế. Tôi nói với ông:
- Tâu bệ
hạ, dù sự tang tóc này có làm cho cháu đau đớn tới mức nào thì cháu cũng cố nén
lại để xin chú cho biết hoàng tử em họ cháu đã phạm tội gì để Người phải đối xử
như thế với thi hài của em.
- Cháu
của ta! - Nhà vua đáp - Ta có thể nói là con trai ta không xứng đáng được mang
tên gọi đó. Nó yêu em gái nó từ khi còn nhỏ và em gái nó cũng yêu nó như vậy.
Ta không phản đối cái tình cảm đó bởi vì ta không lường trước được điều xấu có
thể xảy ra. Ai mà có thể dự kiến được cái đó? Tình cảm âu yếm đó tăng lên theo
tuổi và tiến tới điểm mà bác lo là sẽ gây hậu quả không hay. Ta tìm cách ngăn
ngừa trong phạm vi quyền lực của mình. Không những ta kéo riêng con trai mình
ra một chỗ để răn đe, vạch cho nó thấy rõ sự kinh tởm của mối tình say đắm mà
nó sa vào và sự nhục nhã mãi mãi của cả một dòng tộc nếu nó cứ nhắm mắt lao
theo những tình cảm tội lỗi. Ta còn răn đe con gái ta cũng những điều như thế
và bắt nó cấm cung để không còn liên hệ được với anh trai nó nữa. Nhưng con bé
khốn kiếp đã ăn phải bả độc rồi nên tất cả những cấm đoán vì lo xa chúng rơi
vào sự loạn luân bất chính chỉ càng làm cho nó như bị kích thích thêm mà thôi.
Con trai chú, chắc là em gái nó đối với nó vẫn như trước đây, mượn cớ xây lăng
mộ, nó chuẩn bị chỗ ở dưới đất này với hy vọng có ngày nào đó tạo cơ hội để bắt
cóc đối tượng yêu đương của nó rồi mang tới đây. Nó đã chọn ngày chú đi vắng để
xông vào nơi giam giữ em gái nó, phá cửa đưa em gái ra. Đó là điều mà danh dự
không cho phép chú công bố. Sau hành động đáng phải lên án như thế, nó cùng với
em gái đến ẩn náu tại đây. Cháu xem đấy, chúng đã chuẩn bị đủ các loại thức ăn
để cùng nhau tận hưởng lâu lâu mối tình đáng khinh bỉ mà mọi người đều ghê tởm.
Nhưng Thượng đế chẳng bỏ qua hành động bỉ ổi này và Người đã trừng phạt đích
đáng cả hai đứa.
Nói dứt
câu trên, ông bật khóc nức nở và tôi cũng hoà nước mắt cùng ông.
Một thời
gian sau, ông để mắt tới tôi, ông ôm hôn tôi và nói:
- Cháu
yêu quí, ta đã mất đứa con chẳng ra gì, nhưng lại sung sướng thấy ở cháu một
con người xứng đáng để thay thế nó.
Những
suy nghĩ mà chú tôi gợi lại về cái kết thúc bi thảm của hoàng tử và công chúa,
hai con của Người đã khiến cả chú tôi và tôi không cầm được nước mắt.
Chúng
tôi trèo lên cũng bằng các bậc thang đó và rời khỏi cái chốn chết chóc ấy.
Chúng tôi hạ cái cánh cửa sắt xuống và đắp đất dày lên trên, cố gắng che giấu
đi cái hậu quả khủng khiếp của cơn thịnh nộ mà Thượng đế đã ra tay.
Chúng
tôi trở lại hoàng cung mà không một ai biết đã vắng mặt. Chưa được bao lâu thì
nghe thấy tiếng kèn, trống, thanh la những khí cụ chiến tranh khác nổi lên vang
dậy. Một đám bụi khổng lồ dày đặc bốc lên làm không gian mờ mịt đã cho chúng
tôi biết có gì xảy ra. Một đạo quân đông đảo đang tiến tới gần. Đó cũng chính
là tên tể tướng đã cướp ngôi vua của cha tôi, bây giờ lại muốn chiếm cả đất
nước của chú tôi với một lực lượng quân sĩ đông vô kể.
Vị quốc
vương này lúc đó chỉ có một đội quân cận vệ bình thường không thể cự địch với
kẻ thù hùng hậu. Chúng tấn công đô thành và vì các cổng thành đều bỏ ngỏ không
đề kháng, nên chúng dễ dàng làm chủ. Cũng chẳng khó khăn gì mà chúng tiến vào
tới tận cung điện của chú tôi. Ông ra sức kháng cự nhưng đã bị chúng giết sau
khi bắt chúng phải trả giá đắt cho mạng sống của mình. Về phần mình, tôi cũng
chiến đấu được một thời gian nhưng xét thấy một mình chẳng địch nổi được số
đông nên tìm cách rút lui. May mắn cho tôi là đã dựa được vào các ngóc ngách
thoát được ra ngoài vòng vây tìm đến nhà một vị võ quan mà lòng trung thành đã
được thử thách, nhờ cứu giúp.
Ê chề
đau khổ và bị số phận đầy đoạ, tôi phải nhờ đến một mẹo, nó là phương sách cuối
cùng để bảo toàn tính mệnh. Tôi cạo nhẵn râu ria và cả lông mày, mặc áo tu sĩ
khổ hạnh, đi ra khỏi kinh thành chẳng thu hút sự chú ý của ai. Nhờ đó, tôi đã
dễ dàng đi ra khỏi đất nước của quốc vương chú tôi, bằng những con đường đi
vắng vẻ hẻo lánh. Tôi tránh không đi qua các thành phố, cho đến khi tới được bờ
cõi của đức thống lĩnh các tín đồ, hoàng đế vinh quang và danh tiếng Haroun
Alraschid, tôi mới hết sợ. Thế là tôi tự hỏi phải làm gì lúc này, tôi quyết
định là phải đi tới Bagdad, quỳ xuống chân vị hoàng đế vĩ đại mà ai cũng ca
ngợi đức tính khoan dung độ lượng. Tôi tự nhủ: "Ta sẽ làm cho Người xúc
động bằng câu chuyện kỳ lạ của ta, Người sẽ rủ lòng thương một hoàng tử tội
nghiệp và ta sẽ chẳng uổng công cầu xin sự trợ giúp của Người”.
Rồi, sau
một cuộc đi dài nhiều tháng trời, hôm nay tôi đã tới trước cổng kinh thành này.
Lúc tôi vào thành thì trời đã về chiều. Dừng lại một lát cho tĩnh trí và để xem
phải đi về hướng nào thì tu sĩ này, người ngồi cạnh tôi đây đi tới cũng như một
du khách. Anh ta chào tôi, tôi chào lại và hỏi: “Có vẻ bạn cũng là khách lạ như
tôi?”. Anh ta đáp là tôi đã không lầm. Trong khi anh ta trả lời tôi như thế thì
người tu sĩ thứ ba mà các vị thấy đây, chợt đi tới. Anh ta chào chúng tôi và
cho biết anh ta cũng là khách lạ và là lần đầu đến Bagdad. Vì là đồng đạo, nên
chúng tôi đi cùng với nhau và quyết định không rời nhau nữa. Tuy nhiên, đêm đã
khuya, chúng tôi chẳng biết tìm đâu ra nơi trọ ở một thành phố chưa tới lần
nào, hoàn toàn lạ lẫm. Nhưng số phận may mắn đã đưa chúng tôi đến trước cửa
dinh thự của các bà và mạnh bạo gõ cửa. Các bà đón tiếp chúng tôi với tấm lòng
nhân hậu và hào phóng khiến chúng tôi vô cùng biết ơn. Đó, thưa bà - Anh ta nói
thêm - Đó là toàn bộ câu chuyện mà bà ra lệnh cho tôi kể hầu bà để rõ tại sao
mà tôi chột mắt phải, vì sao râu tóc, lông mày tôi cạo nhẵn và tại sao lúc này
tôi lại ở tại nhà quý bà.
- Đủ rồi
- Zobéide nói - Chúng tôi rất hài lòng. Ngài hãy đi đi! Đi đâu tuỳ ý.
Chàng tu
sĩ xin lỗi và xin được ở lại để có được cái thích thú là được nghe chuyện của
hai người đồng đạo mà anh không thể, như anh nói, bỏ lại đột nhiên như vậy, và
còn cả chuyện của ba vị khác nữa cùng trong nhóm người có mặt hôm nay".
- Tâu bệ
hạ - Đến đây, Scheherazade nói - Trời sáng rồi, thiếp chẳng kể tiếp được sang
chuyện của người tu sĩ thứ hai. Nhưng nếu Người muốn nghe vào đêm mai thì Người
sẽ thấy chẳng kém hứng thú như chuyện của tu sĩ thứ nhất. Hoàng đế bằng lòng và
đứng lên để đi tới phòng thiết triều.
o O o
Dinarzade
chắc chắn là chuyện của người tu sĩ thứ hai cũng sẽ hay chẳng kém chuyện người
tu sĩ đầu nên không quên gọi hoàng hậu trước khi trời sáng:
- Chị
ơi, nếu chị đã thức thì xin chị hãy bắt đầu kể chuyện mà chị đã hứa hôm qua đi.
Scheherazade
hướng về hoàng đế và nói thế này:
“- Tâu
bệ hạ, chuyện người tu sĩ thứ nhất làm cả bọn thích thú về tính chất kỳ lạ của
nó, đặc biệt là đối với vị hoàng đế. Sự có mặt của những nô lệ, kiếm lăm lăm
trong tay cũng không ngăn được ông rỉ tai viên tể tướng: “Từ khi lớn lên, ta đã
được nghe nhiều chuyện, nhưng không có chuyện nào từa tựa như chuyện của tu sĩ
này”. Trong lúc hoàng đế nói như thế thì người tu sĩ thứ hai cất tiếng nói với
Zobéide:
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
9: Chuyện kể của người tu sĩ khổ hạnh thứ hai, con vua
“Thưa bà
- Anh nói - Tuân theo lệnh của bà và để cho bà rõ vì nguyên cớ lạ lùng nào mà
tôi lại bị chột mắt phải, tôi phải kể lại toàn bộ câu chuyện của đời tôi.
Tôi chỉ
vừa qua tuổi ấu thơ mà phụ vương cha tôi, xin bà biết cho, tôi vốn là một hoàng
tử, nhận thấy tôi khá thông minh nên chẳng hề tiếc công sức để giáo dục rèn
luyện tôi. Tất cả những người thông thạo trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật
trong toàn đất nước đều được triệu đến để huấn luyện cho tôi.
Chưa
thật đọc thông viết thạo mà tôi đã thuộc lòng toàn bộ kinh Coran, cuốn sách
tuyệt diệu chứa đựng các cơ sở nền tảng giáo huấn và quy tắc của tôn giáo chúng
ta. Và để được giáo dục thật sâu sắc, tôi đọc những tác phẩm của các tác giả
được hoan nghênh nhất đã làm sáng tỏ thêm thánh kinh bằng những lời bình luận
của họ. Thêm vào việc đọc đó, tôi học hỏi tất cả những lời truyền miệng của
đấng tiên tri của chúng ta do những vĩ nhân cùng thời đại thu lượm được. Tất cả
những gì liên quan tới đạo giáo của chúng ta, tôi đều để công nghiên cứu: tôi
đặc biệt đi sâu vào môn lịch sử, văn học nghệ thuật, đọc thơ và làm thơ. Tôi
say mê môn địa lý, khoa biên niên sử, khoa ngôn ngữ học tuy nhiên cũng không lơ
là xem nhẹ những bài tập võ nghệ mà một hoàng tử cần phải hiểu biết. Nhưng một
môn mà tôi vô cùng yêu thích do đó mà đạt được thành công hơn cả là hoàn thiện
các từ ngữ của tiếng Ả Rập chúng ta. Tôi đạt nhiều tiến bộ trong lĩnh vực này
nên đã vượt tất cả những văn nhân bậc thầy trong toàn vương quốc đã từng gặt
hái được danh tiếng lẫy lừng.
Sự nổi
tiếng mang lại cho tôi nhiều vinh dự hơn cả phần tôi xứng đáng được hưởng. Sự
nổi tiếng đó không những được truyền bá ở trong nước mà lan sang tới cả triều
đình Ấn Độ mà vị hoàng đế hùng mạnh ở đây, muốn được tận mắt mình thấy, đã cử
một sứ thần với nhiều tặng vật quí tới yết kiến phụ vương cha tôi để xin phép
cho tôi được đi tới triều đình của người. Phụ vương tôi rất hài lòng với sứ bộ
này vì nhiều lẽ. Ông thấy rằng không gì phù hợp hơn một hoàng tử ở tuổi tôi là
được đi du ngoạn tới các triều đình nước ngoài, hơn nữa ông cũng rất mong muốn
gây dựng tình hữu nghị với hoàng đế Ấn Độ. Như vậy là tôi đi cùng với sứ thần
nhưng với rất ít hành lý vì đường xa và trên đường đi còn có nhiều khó khăn trở
ngại.
Đã một
tháng rong ruổi, rồi một hôm chúng tôi chợt phát hiện thấy đằng xa một đám mây
bụi lớn và dưới đám bụi đó là năm mươi kỵ sĩ vũ trang đầy mình. Đó là những tên
cướp đang phi ngựa nước đại nhằm phía chúng tôi đi tới...”.
Scheherazade
kể tới đây, thấy trời hé sáng liền báo cho hoàng đế hay. Ông bèn đứng lên.
Nhưng vì muốn biết những gì sẽ xảy ra giữa năm mươi tên cướp và sứ thần Ấn Độ,
vị hoàng đế này đành phải kiên nhẫn chờ đến đêm sau.
o O o
Hầu như
trời đã sáng khi Dinarzade thức giấc vào hôm sau.
- Chị
thân yêu của em - Nàng gọi hoàng hậu - Nếu chị không ngủ nữa thì kể nốt cho em
nghe chuyện của tu sĩ thứ hai đi.
Scheherazade
kể tiếp như sau:
“Thưa bà
- Tu sĩ nói tiếp với Zobéide - Vì chúng tôi chỉ có mười con ngựa chở hành lý và
những tặng vật của cha tôi để dâng lên hoàng đế Ấn Độ, và chúng tôi lại có rất
ít người, vậy nên bọn cướp kia chẳng ngần ngại gì mà không xông đến. Không thể lấy
sức mà đối phó với chúng được, chúng tôi bảo chúng, đây là đoàn sứ bộ của hoàng
đế Ấn Độ, hy vọng vì kính nể Người mà chúng để chúng tôi yên. Nhưng bọn cướp
đáp lại một cách hỗn xược: “Vì sao các ngươi lại muốn chúng ta kính trọng hoảng
đế chủ ngươi? Chúng ta chẳng phải thần dân của ông ta và cũng chẳng trú ngự
trên đất đai của ông ta kia mà”. Nói xong chúng bao vây và tấn công chúng tôi.
Tôi chống cự lại hết sức mình, nhưng cảm thấy đã bị thương và nhìn thấy sứ
thần, người của ông và của tôi đều đã bị đánh ngã lăn xuống đất, tôi lợi dụng
sức tàn của con ngựa cũng đã bị thương nặng, nhảy lên và phóng ra xa bọn chúng.
Tôi thúc ngựa chạy bừa chừng nào nó còn mang nổi tôi, nhưng bất thần nó khuỵu
xuống, chết thẳng cẳng vì quá sức và vì mất máu nhiều. Tôi rút chân ra khỏi bàn
đạp mau chóng và không thấy tên cướp nào đuổi theo, chắc là chúng còn chúi đầu
vào các thứ cướp được để chia chác”.
Kể tới
đây, Scheherazade thấy trời đã sáng, buộc phải dừng lại.
- Ôi!
Chị của em - Dinarzade nói - Chị không còn thời gian để kể tiếp nữa rồi. Chán
quá đi mất.
- Nếu
hôm nay em không lười mà ngủ quên thì chị đã kể được nhiều hơn rồi - Hoàng hậu
bảo.
- Vậy
thì, đêm mai em sẽ dậy sớm hơn - Dinarzade nói - Mong là chị sẽ đền bù lại để
thoả mãn hiếu kỳ của hoàng đế mà vì em Người đã chịu thiệt thòi.
Schahriar
không nói gì và đứng lên đi làm nhiệm vụ hàng ngày của mình.
o O o
Dinarzade
không quên gọi hoàng hậu sớm hơn hôm trước.
- Chị
thân yêu - Nàng nói - Nếu chị đã thức thì xin chị kể tiếp chuyện về tu sĩ thứ
hai đi chị.
- Chị
đồng ý - Scheherazade đáp, và ngay lúc đó nàng kể tiếp như sau:
“- Thế
là, thưa bà - Tu sĩ nói - Đơn độc, bị thương, không được ai cứu giúp, trong một
xứ sở xa lạ, tôi không dám trở lại đi trên đường cái sợ là lại rơi vào tay bọn
cướp. Sau khi băng bó vết thương cũng không nặng lắm, tôi bước đi cho đến chiều
tối tới chân một quả núi. Tôi thấy ở sườn núi có một cửa hang. Tôi vào trong
hang và qua đêm ở đó một cách yên tĩnh sau khi đã ăn một vài trái cây hái trên
dọc đường đi.
Ngày hôm
sau và những ngày tiếp theo tôi vẫn đi vì chưa thấy chỗ nào thuận lợi có thể
dừng chân. Sau một tháng ròng đi như thế tôi tới một thành phố lớn rất đông dân
có nhiều con sông chảy qua. Ở đây như suốt năm tháng là mùa xuân bất tận.
Cảnh
tượng êm đềm bày ra trước mắt khiến tôi thấy vui vui tạm quên đi nỗi buồn da
diết khi thấy thân phận mình nên nông nỗi ấy.
Mặt mũi
chân tay tôi sạm đen vì nắng gió, giày dép rách nát, quần áo lươm tươm.
Tôi vào
trong thành phố để dò hỏi xem đây là đâu. Tôi hỏi một người thợ may trong cửa
hàng của anh ta. Thấy tôi còn trẻ và dáng điệu có cái gì đó khác người thường,
anh ta cho tôi ngồi xuống bên cạnh và hỏi tôi là ai, từ đâu đến và có việc gì
mà tới đây. Tôi chẳng giấu giếm tất cả những gì xảy ra với tôi và cũng nói
thật thân thế của mình.
Người
thợ may chăm chú nghe nhưng khi tôi nói xong thì không những ông ta chẳng có
một lời an ủi mà còn làm cho tôi phiền não hơn: “Hãy giữ mồm giữ miệng - Ông ta
bảo tôi - Chớ có tâm sự với bất cứ ai những gì mà cậu vừa tâm sự với tôi vì
quốc vương trị vì ở đây vốn là kẻ thù lớn nhất của quốc vương cha cậu. Ông ta
chắc sẽ làm nhục cậu nếu được biết là cậu tới thành phố này".
Tôi
không nghi ngờ về sự thành thật của người thợ may khi ông ta nói tên vị quốc
vương. Nhưng vì mối hiềm thù giữa vua cha và ông ta chẳng liên quan gì tới cảnh
ngộ của tôi nên tốt hơn là tôi không nói gì về chuyện đó.
Tôi cảm
ơn bác thợ may đã có lời khuyên và tôi nói bác biết là sẽ triệt để nghe theo và
sẽ không bao giờ quên niềm vui được gặp bác. Vì bác thấy tôi đang có vẻ đói nên
mang các thức ăn ra cho tôi và còn cho tôi ngủ lại, tôi đã nhận lời.
Sau đó
ít ngày, thấy là tôi đã lấy lại được sức khoẻ bị suy sụp trong một chuyến đi
dài mệt nhọc và gian khổ và biết là phần lớn các ông hoàng theo đạo Hồi thường
có một nghề hoặc am hiểu một nghệ thuật nào đó để phòng những lúc gặp vận chẳng
may thì đem ra sử dụng nếu cần. Bác hỏi tôi là còn biết nghề gì kiếm sống để
không phải nhờ vả ai không. Tôi đáp là có thạo môn nọ môn kia, là một nhà ngữ
pháp, một nhà thơ v.v... Và nhất là viết chữ rất đẹp.
- Với
tất cả những gì mà cậu vừa nói - Bác bảo - Cậu sẽ chẳng làm gì được để có một
mẩu bánh đâu. Ở đây chẳng có gì là vô tích sự hơn những hiểu biết các loại đó.
Nếu nghe lời khuyên của tôi - Bác nói thêm - Thì cậu sẽ kiếm một chiếc áo cộc
và, trông cậu có vẻ khoẻ mạnh tráng kiện, cậu sẽ vào rừng gần đây kiếm củi đốt
đem ra chợ bán, tôi chắc chắn là cậu sẽ sống chẳng phải nhờ vả ai cả. Với cách
này, cậu có thể chờ thời cơ thuận lợi, trời đẹp sẽ xua tan đám mây mù đã làm
hạnh phúc cuộc đời cậu u ám, buộc cậu phải giấu diếm dòng dõi của mình. Tôi sẽ
lo kiếm cho cậu một sợi dây thừng và một chiếc rìu bổ củi.
Lo vì sợ
bị nhận ra và nhu cầu sống khiến tôi chẳng dám ngần ngại mặc dù nghề kiếm củi
đi bán quả là hèn kém và nặng nhọc.
Ngày tiếp
sau đó, bác thợ may mua cho tôi một cái rìu và một sợi dây thừng cùng với một
chiếc áo cộc và gửi gắm tôi cho những người dân nghèo cũng sống bằng nghề kiếm
củi. Bác đề nghị với họ là cho tôi đi theo. Họ đưa tôi vào rừng và ngay ngày
đầu tiên, tôi đã đội đầu mang về một bó củi lớn đem bán được nửa đồng tiền vàng
của nước này dù rằng rừng không xa, củi gỗ đáng lẽ chẳng lấy gì làm đắt ở thành
phố này, nhưng ít người chịu vào rừng kiếm. Trong một thời gian ngắn tôi đã
kiếm được khá nhiều tiền, thừa để trả nợ bác thợ may đã ứng trước cho tôi.
Đã được
hơn một năm sống như thế thì một ngày kia tôi đi sâu vào rừng hơn mọi ngày, tới
một nơi phong cảnh thật đẹp, tôi bắt đầu chặt cành lấy củi. Lúc bứt lên một
chùm rễ cây, tôi nhìn thấy một cái vòng sắt gắn vào một cái nắp cũng bằng sắt.
Tôi gạt hết đất đá phủ bên trên nắm lấv cái vòng kéo nắp đậy lên thì thấy một
đầu cầu thang, tôi tò mò vác rìu bước xuống.
Tới chân
cầu thang, tôi thấy mình đang đứng trước một lâu đài to rộng, ánh sáng chiếu
rọi chẳng khác gì trên mặt đất ở chỗ quang đãng nhất làm tôi choáng ngợp. Tôi
bước đi trên một hành lang có những cây cột bằng đá hoa vân, chân và đỉnh cột
là vàng khối. Nhưng bỗng phía trước tôi có một người đang đi tới, một phụ nữ
dáng dấp quý phái có một sắc đẹp phi thường, đẹp đến nỗi tôi chẳng còn thiết gì
nhìn ngắm các vật khác xung quanh mà chỉ còn dán mắt nhìn nàng thôi”.
Đến đây
Scheherazade ngừng kể vì thấy trời vừa rạng.
- Chị
thân yêu của em - Dinarzade nói - Xin thú thực với chị là em vô cùng thoả mãn
về những gì chị kể hôm nay, em tưởng tượng là những gì chị sẽ kể tiếp cũng sẽ
kỳ lạ chàng kém.
- Em
không nhầm đâu - Hoàng hậu đáp - Vì đoạn tiếp theo về chuyện người tu sĩ thứ
hai đáng để thu hút sự chú ý của hoàng đế, lãnh chúa của chị, hơn cả những gì
mà Người đã nghe tới lúc này.
- Ta
chưa hẳn tin là như vậy - Schahriar nói và đứng lên - Nhưng chúng ta sẽ xem xét
cái đó vào đêm mai.
o O o
Dinarzade
đêm nay lại thức giấc rất sớm:
- Nếu
chị không ngủ nữa, chị của em ơi - Nàng gọi chị - Em xin chị kể cho em nghe
chuyện gì đã xảy ra trong cái lâu đài dưới mặt đất đó giữa người phụ nữ và vị
hoàng tử.
- Em sẽ
được nghe ngay bây giờ đây - Scheherazade nói - Em nghe nhé:
“Người
tu sĩ thứ hai - Nàng nói - Kể tiếp câu chuyện: Để tránh cho người phụ nữ xinh
đẹp đó khỏi mất công đi tới chỗ mình, tôi vội vàng đi tới trước nàng và trong
lúc tôi cúi thấp người xuống chào thì nàng hỏi: “Chàng là ai? Là người hay thần
thánh?”.
- Tôi là
người, thưa bà - Tôi ngẩng đầu lên đáp - Tôi chẳng có quan hệ gì với các vị
thần thánh cả.
- Làm
sao mà chàng đến được nơi đây? - Nàng lại hỏi kèm theo một tiếng thở dài - Đã
hai mươi lăm năm nay tôi ở đây và suốt thời gian dài đó tôi chẳng nhìn thấy ai
khác ngoài chàng hôm nay.
Sắc đẹp
tuyệt vời của nàng trước mắt tôi với sự dịu dàng và vẻ trung hậu nàng đón tiếp
đã làm tôi mạnh dạn để nói với nàng rằng: “Thưa bà, trước khi tôi có vinh dự
được giải đáp mối băn khoăn của bà, xin bà cho phép được bộc bạch là tôi vô
cùng vui thích vì cuộc gặp gỡ bất ngờ này. Nó cho tôi cơ hội để tự an ủi về nỗi
đau buồn đang mang nặng, và có thể đó cũng là cơ hội để làm cho bà được vui vẻ
hơn trong chuỗi ngày hiện tại”.
Tôi
thành thật kể cho nàng nghe do một tai nạn không ngờ như thế nào mà một hoàng
tử con vua trong tình trạng như nàng đang nhìn thấy và tình cờ ra sao mà tôi
khám phá ra cái nhà ngục tráng lệ nhưng buồn chán đang giam hãm nàng.
- Than
ôi! Thưa hoàng tử - Nàng nói và lại thở dài - Chàng rất có lý để thấy cái nhà
ngục sang trọng và rất tráng lệ xa hoa này chỉ là nơi trú ngụ vô cùng tẻ nhạt
chán chường. Khi đã trái với ý muốn của mình thì những nơi ở dù có tiện nghi
hoa lệ tới đâu cũng chẳng làm cho người ta thích thú. Chẳng có lẽ là chàng chưa
bao giờ nghe nói đến tên vua Epitimarus, nhà vua vĩ đại đảo Gỗ Mun ư? Có tên
như thế vì đảo này mọc đầy loại gỗ quí đó. Thiếp là công chúa, con gái của
Người. Vua cha chọn phò mã là một hoàng tử, anh họ thiếp; nhưng trong đêm tân
hôn đầu tiên, giữa lúc triều đình và cả kinh thành của quốc đảo Gỗ Mun tưng
bừng mở hội, khi thiếp chưa kịp trao thân cho chồng thì một hung thần tới bắt
cóc thiếp đi. Lúc đó thiếp ngất xỉu, hoàn toàn bất tỉnh nhân sự và khi tỉnh lại
thì thấy mình ở trong lâu đài này. Một thời gian dài, thiếp không sao mà nguôi
được, nhưng thời gian và nhu cầu bắt buộc thiếp cũng phải quen dần và cam chịu
chung sống với lão hung thần. Đã hai mươi lăm năm, như đã nói với chàng, thiếp
sống ở đây và có thể nói là tất cả những gì phục vụ cho đời sống đều rất đầy
đủ, tất cả những gì có thể làm thoả mãn một công chúa chỉ ưa thích điểm trang
và ăn diện.
- Cứ
cách mười ngày - Công chúa nói tiếp - Là lão hung thần lại tới ngủ lại một đêm.
Lão không ngủ luôn tại đây và lời thanh minh của lão là người vợ lão lấy trước
đây sẽ nổi cơn ghen nếu biết lão không trung thành với mụ. Tuy nhiên, nếu thiếp
cần đến lão thì bất cứ ngày hay đêm, thiếp chỉ cần sờ tay vào lá bùa treo ở
trước cửa buồng của thiếp thì lão sẽ xuất hiện ngay. Lão tới đây tính đến ngày
hôm nay thì bốn ngày đã qua, như vậy thiếp chỉ còn chờ trong vòng sáu ngày nữa.
Vì vậy chàng có thể ở lại đây năm ngày để làm bạn với thiếp nếu chàng muốn và
thiếp sẽ hậu đãi chàng đúng với danh vị và phẩm giá của chàng.
Tôi tự
cho mình quá hạnh phúc nhận được một sự ưu đãi đặc biệt như vậy, từ chối sao
tiện. Nàng công chúa đưa tôi vào phòng tắm sang trọng chưa từng thấy và khi
bước ra, thay thế cho bộ quần áo của mình, tôi thấy bộ khác rất đẹp và lịch sự,
chắc là để mặc vào cho xứng đáng với nàng hơn.
Chúng
tôi ngồi lên một chiếc sập trải thảm đẹp bên cạnh là những chiếc gối để tựa bọc
gấm Ấn Độ. Một lát sau, nàng cho đưa lên mặt chiếc bàn những đĩa thức ăn ngon.
Chúng tôi cùng ăn và qua nốt ngày hôm đó thật là vui vẻ thích thú và đêm đó
nàng tiếp tôi trên giường nàng.
Ngày hôm
sau, nàng tìm đủ mọi cách làm cho tôi vui. Trong bữa ăn, nàng lấy ra một chai
rượu lâu năm, loại ngon nhất ít người có và muốn cùng tôi chén tạc chén thù.
Lúc choáng váng hơi men vì chất rượu dịu êm đó, tôi bảo nàng:
- Công
chúa xinh đẹp ơi! Đã rất lâu rồi nàng coi như bị chôn sống. Nàng hãy theo tôi,
lên mặt đất hưởng thụ ánh sáng thật của ban ngày mà nàng đã bị tước bỏ mất bao
năm tháng. Hãy bỏ lại đây cái ánh sáng giả dối hàng ngày nàng tắm gội.
- Thưa
hoàng tử - Nàng cười đáp lại lời tôi - Xin đừng nói vậy. Thiếp coi thường cái
ánh sáng đẹp nhất trần gian ấy miễn là cứ mười ngày thì chàng cho thiếp chín và
ngày thứ mười nhường cho lão hung thần.
- Thưa
công chúa - Tôi nói - Tôi thấy rõ là vì sợ lão hung thần mà nàng nói thế thôi.
Còn tôi, tôi chẳng coi hắn là gì cả đâu, tôi sẽ xé vụn cái bùa ấy cùng những
chữ loằng ngoằng viết trên đó ra từng mảnh nhỏ cho coi. Mặc hắn tới, tôi chờ
hắn đấy. Cho dù hắn dũng mãnh ghê gớm tới đâu tôi sẽ cho hắn biết sức mạnh của
cánh tay này. Tôi thề là sẽ tận diệt tất cả hung thần trên thế gian này và hắn
sẽ là kẻ đầu tiên.
Nàng
công chúa, biết trước hậu quả, khuyên tôi là chớ có động tới cái bùa. Nàng nói:
“Nếu chàng làm thế thì đó là mang lại cái chết cho cả chàng và thiếp. Thiếp
biết rõ lũ hung thần hơn chàng mà”.
Hơi men
bốc lên làm tôi chẳng còn phân biệt được lời lẽ đúng đắn của công chúa. Tồi giơ
chân dẫm lên lá bùa và xé nó ra nhiều mảnh”.
Kể đến
đây, Scheherazade thấy trời sáng, ngừng nói và hoàng đế thì đứng lên. Nhưng ông
chẳng chút nghi ngờ là lá bùa bị xé vụn nhừ thế sẽ chẳng khỏi gây ra chuyện
nghiêm trọng nào đó. Ông quyết định phải nghe tiếp câu chuyện.
o O o
Một
tiếng trước khi trời sáng, Dinarzade thức giấc nói với hoàng hậu:
- Chị
của em, nếu chị không ngủ, em xin chị cho biết những gì đã xảy ra trong cái lâu
đài dưới mặt đất đó, sau khi hoàng tử đã xé vụn lá bùa.
- Chị sẽ
nói cho em rõ ngay giờ đây.
Rồi lập
tức nàng tiếp tục câu chuyện dưới nhân vật người tu sĩ thứ hai:
“- Chiếc
bùa vừa bị xé nát thì cả lâu đài rung chuyển như sắp đổ sụp với những tiếng sấm
sét và chớp loé sáng từng đợt trong cái lâu đài tối om om. Tiếng động khủng khiếp
đó làm giã một phần hơi men, tôi tỉnh lại nhưng đã quá muộn, chẳng cứu vãn nổi
lỗi lầm của mình nữa. Tôi kêu lên:
- Công
chúa! Thế là cái gì vậy?
Nàng hốt
hoảng, chẳng nghĩ gì đến tai hoạ bản thân, trả lời tôi:
- Hỡi
ôi! Chàng hãy trốn mau đi, không thì chết mất!
Tôi làm
theo lời nàng, nhưng vì quá sợ hãi mà tôi bỏ lại cái rìu và đôi dép. Vừa đi tới
các bậc thang mà từ đó tôi đã xuống thì cái lâu đài ma mở toang ra lấy lối cho
lão hung thần đi vào. Hắn giận dữ hỏi công chúa:
- Có
việc gì xảy ra mà gọi ta tới?
- Một
cơn đau tim - Công chúa đáp - Buộc thiếp phải đi tìm cái chai mà ngài trông
thấy đó. Thiếp uống hai ba ngụm rồi đem cất đi nhưng không may bị trượt chân
ngã làm rách lá bùa. Có thế thôi chứ chẳng có gì xảy ra cả.
Nghe
nàng nói vậy, hung thần giận dữ bảo:
- Cô là
một con khốn kiếp, con dối trá, cái rìu và đôi dép kia, tại sao lại ở đây?
- Bây
giờ thiếp mới trông thấy đấy - Công chúa nói - Có lẽ ngài tới đây mãnh liệt quá
nên đã cuốn theo chúng từ một nơi nào đi qua và mang vào đây mà không để ý
chăng?
Lão hung
thần chỉ đáp lại bằng những lời chửi rủa và bằng đòn đánh mà tôi nghe rõ mồn
một. Không đủ can đảm để nghe những tiếng than khóc thảm thiết của công chúa bị
hành hạ dã man, tôi cởi bộ áo quần nàng đã đưa tôi thay, mặc lại bộ áo quần của
mình mà tôi đã để ở chân cầu thang ngày hôm trước lúc ra khỏi phòng tắm. Tôi
trèo lên cầu thang, lên lại mặt đất, trong lòng đau xót và thương cảm nàng công
chúa đã vì lầm lỗi của tôi mà phải hứng lấy tai hoạ. Tôi tự biến mình thành một
kẻ sát nhân và một kẻ vong ân bội nghĩa nhất trần đời vì đã hy sinh một công
chúa xinh đẹp nhất thế gian cho sự dã man hung ác của một tên hung thần đang
cơn giận dữ.
“Đúng là
nàng bị giam cầm suốt hai mươi lăm năm - Tôi nhủ thầm - Nhưng ngoài việc mất tự
do ra thì nàng chẳng còn phải ước mong gì để được sung sướng. Sự tức giận của
tôi đã kết thúc hạnh phúc của nàng và giao phó nàng vào tay một con quỉ tàn ác.
Tôi hạ cái cửa nắp xuống, lấp đất và trở về thành phố với một bó củi đội trên
đầu mà chẳng rõ tôi làm thế nào mà kiếm được trong lúc đang bối lối hoang mang
cực độ.
Bác thợ
may chủ nhà thấy tôi trở về, vui mừng khôn xiết: “Cậu đi biệt đâu - Bác bảo tôi
- làm tôi rất lo lắng sợ nhân thân của cậu bị lộ. Tôi chẳng biết làm gì và sợ
là một kẻ nào đó nhận ra cậu. Cám ơn Trời, Phật đã đưa cậu trở về”. Tôi cảm ơn
sự quan tâm và tình thân ái của bác nhưng không cho bác biết những gì đã xảy ra
với tôi, kể cả vì sao tôi trở về mà không có rìu và dép. Tôi lui vào phòng
riêng, hàng ngàn lần tự trách là đã vô cùng dại dột. Không có gì có thể so sánh
được hạnh phúc của công chúa và mình nếu mình tự kiềm chế không đụng tới cái
bùa ma đó.
Trong
lúc tôi đang thả mình vào những ý nghĩ não ruột đó thì bác thợ may đi vào và
bảo tôi: “Có một ông già tôi không quen vừa đến, mang theo cái rìu và đôi dép
của cậu mà ông ta bảo thấy ở dọc đường. Ông ta hỏi những người cùng đi rừng với
cậu và biết cậu ở đây. Ra gặp ông ta đi, ông ấy muốn tự tay mình trao trả cậu
những vật đó".
Nghe
vậy, tôi biến sắc và toàn thân run lẩy bẩy. Bác thợ may hỏi tôi vì sao, thì
gạch lát sàn buồng bỗng nứt ra thành một khe hở. Ông già, không chờ được, hiện
ra, trong tay cầm cái rìu và đôi dép. Đó là lão hung thần, tên bắt cóc nàng
công chúa xinh đẹp quốc đảo Gỗ Mun, cải trang như thế, sau khi đã hành hạ công
chúa cực kỳ man rợ.
- Ta là
thần linh - Hắn bảo chúng tôi - Cháu ngoại Eblis, chúa tể các thần. Có phải đây
là cái rìu của ngươi? - Hắn hỏi tôi - Và đây nữa có phải đôi dép của
ngươi?".
Scheherazade
kể tới đây, thấy trời hửng sáng nên ngừng lời. Hoàng đế thấy chuyện của tu sĩ
thứ hai quá hay nên chẳng nỡ không muốn nghe tiếp. Vì vậy ông đứng lên thầm
nghĩ: sẽ biết tiếp đó ra sao vào đêm mai vậy.
o O o
Đêm hôm
sau, Dinarzade kêu hoàng hậu:
- Chị
thân yêu của em, xin chị kể xem lão hung thần đó làm gì hoàng tử đi.
- Chị kể
ngay đây và trí tò mò của em sẽ được thoả mãn - Scheherazade đáp rồi kể tiếp
chuyện chàng tu sĩ thứ hai như sau:
“Tu sĩ
tiếp tục kể cho nàng Zobéide nghe: “Thưa bà - Anh ta nói - Lão hung thần hỏi
tôi như vậy và chẳng cho tôi thời gian để trả lời hắn, mà thực ra thì tôi cũng
chẳng nói nên lời, cái bộ mặt kinh tởm của hắn đã làm tôi hết hồn. Hắn ôm ngang
người tôi, kéo lê tôi ra khỏi buồng và nhảy vút lên cao, lôi tôi đến tận trời
xanh mạnh và nhanh như chớp. Tôi thấy bị đưa lên thật cao và kéo đi thật mau
nên chẳng mấy chốc đã tới nơi. Hắn nắm chặt tôi nhào mạnh xuống đất, hắn dậm
chân, mặt đất mở ra và hắn thụt xuống, tức thì tôi thấy mình đứng trước nàng
công chúa xinh đẹp quốc đảo Gỗ Mun trong lâu đài ma. Nhưng, than ôi! Cảnh tượng
trước mắt như một vật nhọn đâm thẳng vào tim tôi. Nàng trần truồng nằm đó, mình
đầy máu dở sống dở chết, nước mắt chan hoà chảy ướt nhoè đôi má.
- Quân
xảo quyệt! - Hung thần chỉ vào tôi bảo nàng - Có phải đây là nhân tình của mi
không?
Nàng đưa
mắt sầu thảm nhìn tôi và buồn rầu đáp:
- Tôi
không biết người này là ai, chỉ lúc này đây tôi mới trông thấy anh ta.
- Sao? -
Lão hung thần bảo - Nó là nguyên nhân khiến cho mi phải thế này mà mi còn dám
nói là không hề biết nó sao?
- Nếu
tôi không biết anh ta - Công chúa lại nói – Mà ông lại muốn tôi nói dối bảo là
có biết để làm hại anh ta sao?
- Vậy
thì - Lão hung thần rút kiếm đưa vào tay công chúa - Nếu mi chưa thấy nó bao
giờ thì cầm lấy thanh kiếm này chặt đầu nó cho ta xem.
- Than
ôi! - Công chúa nói - Làm sao mà tôi làm được cái việc mà ngài bắt buộc tôi
được đây? Sức chịu tôi đã cạn kiệt chẳng giơ nổi cánh tay, và nếu có còn sức
chăng nữa thì liệu tôi có gan giết một con người mà tôi không biết là ai, một
con người vô tội không?
- Lời
chối từ đó - Hung thần bảo công chúa - Làm ta thấy rõ tất cả tội của mi.
Rồi,
quay sang tôi lão hỏi:
- Còn
mày, mày có biết con này không?
Tôi sẽ
trở thành một tên bội nghĩa đốn mạt nhất nếu tôi không trung thành với nàng
cũng như nàng đã trung thành với tôi và đó cũng là nguyên nhân sự bất hạnh của
nàng. Vì thế, tôi trả lời lão hung thần:
- Làm
sao mà tôi biết bà ấy được khi đây là lần đầu tôi nhìn thấy?
- Nếu
đúng như vậy - Lão hung thần nói - Thì mi cầm lấy kiếm này và chặt đầu nó cho
ta. Chịu làm thế thì ta sẽ thả cho mi tự do, ta sẽ tin là mi mới nhìn thấy nó
mỗi một lần này như mi nói.
- Xin
rất vui lòng - Tôi bảo hắn và cầm lấy thanh kiếm từ tay hắn...”.
- Nhưng
tâu Bệ hạ - Scheherazade đến đây thôi không kể tiếp nữa - Trời sáng rồi, thiếp
chẳng muốn lạm dụng lòng kiên nhẫn của Người.
- Đó
thật là những chi tiết kỳ lạ - Hoàng đế thầm nhủ - Để ngày mai xem là tay hoàng
tử này có nảy tính hung ác tuân theo lão hung thần hay không?
o O o
Đêm sắp
tàn, Dinarzade gọi hoàng hậu bảo:
- Chị
của em, nếu chị không ngủ, xin nói tiếp chuyện hôm qua còn bỏ dở cho em nghe
đi?
- Chị
cũng muốn thế - Scheherazade nói - Em sẽ biết là tu sĩ thứ hai kể tiểp thế này:
“Thưa
bà, xin bà đừng tin là tôi tiến đến gần công chúa xinh đẹp quốc đảo Gỗ Mun để
thực hiện mệnh lệnh dã man của lão hung thần. Tôi chỉ muốn biểu lộ bằng cử chỉ,
trong khả năng có thể, tỏ cho nàng hiểu là nếu nàng đã dũng cảm hi sinh tính
mệnh vì tình yêu đối với tôi thì tôi há lại không dám xả thân mình vì tình yêu
đối với nàng hay sao. Công chúa hiểu ý đồ của tôi. Mặc dầu đau đớn và sầu thảm,
nàng nhìn tôi với ánh mắt biết ơn và như muốn nói là nàng vui lòng chết và lấy
làm hài lòng thấy là tôi cũng muốn chết vì nàng. Và, tôi lùi lại một bước, vứt
thanh kiếm xuống đất bảo lão hung thần:
- Tôi sẽ
bị đời đời nguyền rủa trước tất cả thiên hạ nếu tôi đã hèn hạ giết hại một
người mà tôi chưa hề quen biết, đó là chưa nói tới bà đây người mà tôi đang
nhìn thấy trong tình trạng như lúc này; đang sắp trút linh hồn. Ngươi muốn làm
gì ta thì làm vì ta đang ở trong tay ngươi, nhưng ta không thể làm theo cái
lệnh tàn ác dã man của ngươi được.
- Ta đã
biết rõ - Lão hung thần nói - Là chúng mày thách thức ta, nhục mạ sự ghen tuông
của ta. Nhưng với cách mà ta sẽ xử sự, cả hai chúng mày sẽ biết ta có thể làm
được những gì.
Nói xong
câu đe doạ này, con quỷ cầm lấy thanh kiếm giơ lên và chặt đứt một bàn tay công
chúa. Nàng chỉ kịp đưa bàn tay kia làm hiệu cho tôi như một lời chào vĩnh biệt
vì máu nàng đã mất trước cộng với lúc này chỉ còn cho phép nàng sống một vài
khoảnh khắc nữa thôi sau sự hung bạo cuối cùng này mà cảnh tượng trông thấy làm
tôi ngất lịm.
Khi tỉnh
lại, tôi than phiền với lão hung thần sao lại để tôi phải mòn mỏi đợi chờ cái
chết:
- Đâm
đi? Chém đi! - Tôi bảo hắn - Ta sẵn sàng đợi một nhát kiếm. Ta chờ đợi ở ngươi
như chờ một ân huệ lớn mà ngươi có thể làm cho ta.
Nhưng
thay vì việc làm cho tôi chết, hắn bảo:
- Đó,
những thần linh đã xử sự với những người đàn bà bị nghi là bội phản như thế đó.
Nó đã tiếp mi tại đây, nếu mà ta bắt được quả tang thì ta sẽ giết chết mi ngay
lúc ấy. Nhưng ta sẽ tạm bằng lòng cho mi biến thành chó, thành khỉ, thành lừa,
thành sư tử hoặc thành chim. Mi hãy chọn một trong những con vật đó, ta muốn để
cho mi được tuỳ ý thích.
Những
lời nói của con quái vật này cho tôi một chút hy vọng là có thể làm cho nó đổi
ý. Tôi bảo nó:
- Hỡi
thần linh! Hãy nguôi cơn giận. Nếu ngài không nỡ lấy đi mạng sống của tôi thì
hãy để tôi sống một cách tử tế. Tôi sẽ luôn nhớ tới sự khoan hồng của ngài nếu
ngài thứ lỗi cho tôi cũng như một con người tốt bụng nhất trần gian này đã tha
thứ cho một trong những người láng giềng đã ghét cay ghét đắng anh ta.
Lão hung
thần hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra giữa hai người láng giềng đó và nói là hắn sẽ
có đủ đức kiên nhẫn để nghe câu chuyện ấy. Thế là tôi đã kể cho hắn nghe. Thưa
bà, tôi tin là bà sẽ không phật ý nếu tôi cũng thuật lại câu chuyện đó hầu bà.
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
10: Chuyện kể về kẻ hay ganh ghét và người bị ganh ghét
Trong
một thành phố khá rộng lớn, hai người đàn ông sống ở hai ngôi nhà kề bên nhau.
Một
người ghét người kia thậm tệ đến nỗi người bị ghen ghét quyết định đổi chỗ ở,
đi xa hẳn nơi khác vì tin chắc là chỉ riêng việc ở tách xa nhau ra thôi cũng đỡ
chuốc sự thù ghét của người hàng xóm. Vì mặc dù đã giúp đỡ anh ta nhiều việc
tốt mà ông vẫn không làm giảm được sự ghét ghen của anh ta. Thế là ông bán rẻ
bán tháo ngôi nhà đang ở và với một chút vốn liếng nhỏ bé ông ta rút vào thành
phố của một xứ sở không xa đấy lắm. Ông ta mua một khoảng đất nhỏ cách xa thành
phố độ nửa dặm đường. Ở đó có một căn nhà khá tiện nghi, một mảnh vườn đẹp và
một cái sân rộng trong đó có một cái giếng cạn đã lâu ngày không dùng tới.
Con
người tốt bụng đó sau khi đã đến nơi ở mới, đã mặc áo thầy tu để sống một cuộc
đời ẩn dật. Ông ta còn cho xây nhiều phòng tu trong nhà và chẳng bao lâu sau tổ
chức thành một cộng đồng tu sĩ. Đức độ của ông chẳng bao lâu đã vang xa, thu
hút khá đông người mộ đạo, cả dân thường và cả các quan chức thành phố. Mọi
người đều kính trọng và rất yêu mến ông. Từ nơi rất xa cũng có người tới xin
ông cầu nguyện cho và tất cả những người được gặp ông khi trở về đều ban bố lại
những lời ban phước mà họ tin là đã nhận được từ đấng tối cao qua ông làm trung
gian.
Danh
tiếng của ông lan truyền về tới thành phố cũ mà từ đó ông đã ra đi. Kẻ ghen ghét
ông càng buồn rầu tức tối đến mức bỏ cả nhà cửa, bỏ cả công việc, quyết tâm tìm
cách giết hại ông bằng được. Với mục đích đó, y tìm đến tu viện mới của các tu
sĩ mà viện trưởng là láng giềng của y trước đây. Viện trưởng tiếp y rất thân
tình. Kẻ ghen ghét nói là y cố tình tới để thông báo cho ông biết một việc quan
trọng mà cần phải trao đổi riêng. Y nói thêm:
- Để cho
không ai nghe được câu chuyện riêng đó, tôi đề nghị chúng ta cùng đi dạo trong
sân, và vì trời cũng đã tối, ông nên cho các tu sĩ về các phòng tu của họ.
Viện
trưởng làm theo lời y.
Khi kẻ
hay ghen ghét thấy chỉ còn mình với người láng giềng tốt bụng này, y bắt đầu
nói hết chuyện nọ sang chuyện kia và đi sát cạnh nhau trong sân, cho đến lúc đi
gần tới bờ giếng, y đẩy mạnh ông ta ngã xuống đấy, chẳng có người nào chứng
kiến hành động tội ác đó. Xong việc, y mau chóng rời đi, qua cổng tu viện không
có người nào nhìn thấy và trở về nhà, rất hài lòng về chuyến đi và chắc mẩm là
đối tượng mà y ghen ghét chẳng còn có ở trên đời nữa. Nhưng y đã nhầm to”.
Scheherazade
không thể nói tiếp được nữa vì bình minh đã ló rạng. Hoàng đế rất bất bình vì
tính cách gian ác quỉ quái của kê hay ganh ghét.
- Ta rất
mong - Ông nhủ thầm - Là không có gì xấu xảy ra cho người tu sĩ tốt bụng đó. Hy
vọng là ta sẽ thấy vào đêm mai là trời không bỏ ông ta trong trường hợp đó.
o O o
- Chị
ơi, nếu chị không ngủ - Dinarzade thức giấc gọi chị - Thì xin chị cho em biết
là ông tu sĩ tốt bụng đó có được an toàn ra khỏi cái giếng đó không.
- Được
an toàn em ạ - Scheherazade đáp - Và người tu sĩ đạo Hồi thứ hai tiếp tục
chuyện của anh ta: “Cái giếng cổ rất sâu đó - Anh nói - Vốn là chỗ ở của các vị
thần tiên, vừa đúng lúc để các vị cứu được tu viện trưởng. Các vị đã đỡ lấy
ông, nhẹ nhàng đặt xuống đáy giếng không làm ông xây xát tí nào. Ông thấy rõ
ràng có một điều gì khác lạ xảy ra trong cái rơi ngã mà ông chắc chắn là sẽ mất
mạng đó. Nhưng ông chẳng nhìn thấy gì và cũng chẳng cảm thấy gì cả. Rồi ông
bỗng nghe thấy một tiếng nói: “Các bạn có biết người mà chúng ta vừa đón đỡ đó
là ai không?”. Nhiều tiếng khác đáp là không biết ai cả. Tiếng nói đầu tiên
bảo: “Tôi sẽ nói cho các bạn rõ. Người này, với một tấm lòng nhân hậu nhất thế
gian, đã rời thành phố đang sinh sống để tới đây ở với mong muốn là sửa chữa
cho một trong các láng giềng của ông ta khỏi cái tật xấu là ganh ghét hận thù
ông. Ở đây, ông được toàn thể mọi người kính trọng làm cho kẻ ganh ghét tức
tối, không chịu nổi y liền tìm đến tận đây để tìm cách mưu hại ông. Y đã thực
hiện ý đồ và nếu không có chúng ta cứu giúp thì ông đã bị hại rồi. Danh tiếng
của ông lừng vang khiến cho hoàng đế đang ngự ở thành phố bên cạnh đây, ngày
mai sẽ tới đây thăm để nhờ ông cầu nguyện cho công chúa”.
Một
tiếng nói khác cất lên hỏi vì sao mà công chúa lại phải nhờ cậy đến tu sĩ cầu
nguyện cho. Tiếng nói đầu tiên lại đáp: “Thế ra các bạn không biết là công chúa
bị thần Maimoun, con trai thần Đimdim, phải lòng nàng và ám nàng ư? Tôi biết rõ
là ông tu viện trưởng nhân hậu này có thể chữa khỏi cho công chúa. Công việc
thật dễ dàng, tôi sẽ nói các bạn nghe. Số là trong tu viện của ông có một con
mèo đen, chót đuôi nó có một chấm trắng. Chỉ cần nhổ bảy chiếc lông trong cái
chấm trắng đó, đốt và xông khói lên đầu công chúa. Ngay tức thì nàng sẽ khỏi
bệnh, tiễu trừ được sự ám ảnh của Mamoun, con trai Đimdim và không bao giờ tên
này còn dám lăm le đến gần công chúa lần thứ hai nữa.
Trưởng
các tu sĩ nghe không thiếu một lời nào trong cuộc trao đổi của các vị thần và
các tiên. Họ hoàn toàn im lặng suốt đêm đó sau khi đã thốt lên những câu nói
trên. Ngày hôm sau, trời rạng sáng tới lúc ông phân biệt rõ mọi vật thấy là cái
giếng có nhiều chỗ lở lói, ông đã tìm cách trèo lên không mất công nhiều.
Các tu
sĩ đang toả đi tìm, rất sung sướng thấy ông trở về. Bằng một vài câu vắn tắt
ông kể cho họ nghe âm mưu độc ác của người khách mà ông tiếp đón thân tình hôm
trước rồi lui vào phòng riêng. Chú mèo đen mà ông nghe thấy đêm qua trong cuộc
trao đổi giữa các thần và tiên nhắc đến đã tới với ông để được vuốt ve như mọi
khi. Ông bèn nhổ bảy sợi lông ở cái chấm trắng chót đuôi con mèo và để riêng ra
một nơi phòng khi dùng đến.
Mặt trời
lên cao chưa được bao lâu thì hoàng đế chẳng muốn đà đận chút nào trong việc
chữa mau cho công chúa dứt bệnh, tới trước cổng tu viện. Ông lệnh cho đám cận
vệ dừng lại ở đó rồi cùng với các cận thần tuỳ giá bước vào. Các tu sĩ kính
trọng nghênh đón nhà vua.
Hoàng đế
kéo ông trưởng các tu sĩ ra chỗ riêng bảo:
- Ông tu
viện trưởng, chắc ông đã rõ vì sao trẫm tới đây chứ?
- Tâu bệ
hạ - Người trưởng tu sĩ từ tốn đáp - Nếu thần không nhầm thì bệnh trạng của
công chúa đã đưa đến cho thần vinh dự lớn này mà thần thật chưa xứng đáng.
- Đúng
như vậy đó - Hoàng đế nói - Ông sẽ làm cho ta như được phục sinh nếu những lời
cầu nguyện của ông làm cho con gái ta lành bệnh.
- Tâu bệ
hạ - Con người nhân hậu nói - Nếu Người vui lòng rước công chúa tới đây, mong
rằng với sự cứu giúp và ân sủng của Thượng đế, công chúa hoàn toàn sẽ khỏi bệnh
trở về.
Nhà vua,
hết sức hân hoan, lập tức cho tìm công chúa và chẳng bao lâu nàng xuất hiện với
đông đảo mệnh phụ và các thị nữ hộ giá, mặt che mạng để không ai nhìn thấy. Tu
viện trưởng cho đặt một bếp lò trên đầu công chúa và chỉ vừa đưa bảy sợi lông,
mà ông vừa cho mang lại, vào đám than hồng trong bếp lò, con quái Maimoun, con
trai của Đimdim đã thét to lên một tiếng, chẳng ai nhìn thấy hình bóng hắn,
chạy biến đi thoát khỏi người công chúa.
Trước
tiên nàng đặt tay lên mạng che mặt vén lên hỏi: “Ta ở đâu thế này? Ai đã đưa ta
đến đây?”.
Nghe
công chúa hỏi, hoàng đế không sao giấu được niềm vui dâng trào, ôm lấy con gái
và hôn lên đôi mắt nàng. Ông cũng hôn bàn tay tu viện trưởng và bảo các cận
thần tuỳ giá: “Các ngươi hãy nói đi. Phần thưởng như thế nào cho xứng đáng với
người đã chữa khỏi bệnh cho con gái ta đây?”. Tất cả các cận thần đều đáp người
đó đáng được kết hôn cùng công chúa. “Đó là điều mà ta đã nghĩ - Nhà vua nói -
Và ngay từ lúc này, ta nhận người này làm phò mã”.
Một thời
gian ngắn sau, tể tướng tạ thế. Hoàng đế bổ nhiệm tu viện trưởng vào chỗ đó.
Rồi hoàng đế cũng thăng hà mà không có hoàng tử để nối ngôi. Những chức sắc tôn
giáo cùng quân đội họp lại nhất trí tôn phò mã kiêm tân tể tướng lên nối ngôi
vua".
Trời
sáng buộc Scheherazade ngừng lời. Schahriar thấy viên tu viện trưởng lên ngôi
vua là xứng đáng nhưng ông còn băn khoăn vì thấy cái tên hay ganh ghét đó chưa
chết vì tức bực sầu não. Ông đứng lên thầm nhủ đêm hôm sau sẽ rõ chuyện này.
o O o
Dinarzade
khi tới giờ như thường lệ nói với hoàng hậu như thế này:
- Chị
thân yêu của em ơi! Nếu chị không ngủ thì xin kể nốt cho em nghe chuyện kẻ hay
ganh ghét và người bị ganh ghét đi?
- Chị
xin vui lòng – Scheherazade đáp - Sau đây là những gì mà người tu sĩ thứ hai kể
tiếp:
"Người
tu sĩ tốt bụng - Anh ta kể - Như vậy là lên ngôi báu của bố vợ. Một hôm, cùng
với cả triều đình ngự giá, ông nhìn thấy người hay ganh ghét đi lẫn trong đám
đông trên đường đi. Ông gọi một viên quan cận thần tới gần khẽ bảo: “Nhà ngươi
hãy đi đến chỗ người kia và dẫn đến đây cho ta. Đừng làm cho ông ta sợ
hãi". Viên quan này tuân lệnh và khi con người hay ganh ghét đó đứng trước
mặt nhà vua, nhà vua bảo:
- Anh
bạn, gặp anh, ta rất vui - Rồi lệnh cho một viên quan - Hãy đếm ngay cho ông ta
một ngàn đồng tiền vàng trong ngân khố hoàng gia. Thêm vào đó là hai mươi kiện
hàng loại quý hiếm trong kho tàng của ta đem tặng và cho một đội bảo vệ đầy đủ
áp tải đến tận nhà ông ta.
Sau khi
trao cho viên quan sứ mệnh đó, nhà vua chào từ giã người hay ganh ghét rồi tiếp
tục cuộc ngự giá".
Khi kể
hết câu chuyện này cho tên hung thần đã giết hại công chúa quốc đảo Gỗ Mun nghe
rồi tôi liên hệ và bảo hắn:
- Hỡi
thần linh! Ngài thấy đấy. Ông vua hiền đức này không những là quên đi chuyện
cái người hay ganh ghét này đã suýt giết chết ông mà lại còn hậu đãi thật là
hào phóng như tôi vừa kể với ngài đó.
Rồi tôi
trổ tài hùng biện thuyết phục hắn nên làm theo gương tốt đẹp đó mà buông tha
cho tôi. Nhưng hắn vẫn chẳng xiêu lòng. Hắn bảo tôi:
- Tất cả
những gì ta có thể làm cho mi là để cho mi sống, nhưng chớ vội mừng là ta sẽ để
cho mi an toàn nguyên vẹn. Cần phải cho mi biết ta có thể làm gì với pháp thuật
của ta.
Nói đoạn
hắn tóm lấy tôi, bay vút qua mái lâu đài dưới đất lúc đó mở rộng cho hắn qua,
đưa tôi lên tít trên cao, trông xuống dưới chỉ thấy toàn là mây trắng. Từ trên
độ cao đó, hắn lao xuống mặt đất nhanh như chớp, đặt chân lên đỉnh một quả núi.
Ở đó,
hắn vơ một nắm đất đưa lên gần miệng đọc hay đúng hơn là lẩm bẩm câu gì đó tôi
không hiểu rồi ném vào tôi và hô to: “Biến, biến mau thành khỉ!”. Rồi hắn mất
tăm, tôi còn lại một mình, thành khỉ, lòng đau đớn vô hạn trong một đất nước xa
lạ, không rõ là gần hay xa vương quốc của nhà vua cha tôi.
Tôi
xuống núi, đi vào một xứ sở đất đai bằng phẳng, tới địa đầu mất vừa tròn một
tháng và cũng là đến được bờ biển. Bể yên sóng lặng, ngoài xa cách khoảng nửa
dặm đất liền tôi nhìn thấy một hạm tàu. Để không bỏ lỡ một cơ hội tốt hiếm có,
tôi bẻ một cành cây lớn, kéo xuống biển, cưỡi lên trên, hai tay hai cành nhỏ
làm bơi chèo.
Cứ thế
tôi bơi đến chiếc tàu. Khi đã khá gần mọi người có thể nhận ra tôi thì cả hành
khách và thuỷ thủ tập trung trên mạn tàu đều tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Tất cả
đổ dồn lại nhìn tôi đầy khâm phục. Lúc đó tôi đã tới sát mạn tàu và nắm lấy một
sợi dây thừng, tôi leo lên sàn tàu. Nhưng vì không nói được nên tôi hết sức
lúng túng. Tuy nhiên, hiểm nguy lúc này làm sao mà so sánh được với khi tôi còn
ở trong tay lão hung thần.
Những
thương gia trên tàu vốn mê tín và thận trọng quá đáng cho là tôi sẽ mang tai
hoạ đến cho họ nếu để tôi trên tàu. Vì thế nên một người bảo: “Tôi sẽ đập cho
nó một vồ”. Một người khác: “Tôi muốn bắn một mũi tên xuyên qua người nó”. Lại
một người khác nữa: “Phải ném nó xuống biển thôi!”. Chắc chắn là một người nào
đó sẽ thực hiện điều y nói nếu tôi không vội nép vào bên cạnh thuyền trưởng,
không quỳ xuống chân ông ta. Tôi nắm lấy áo ông với dáng điệu van xin làm ông
ta có vẻ xúc động, lại thấy nước mắt tôi ròng ròng chảy, ông ôm lấy tôi che
chở, vuốt ve và đe doạ kẻ nào cố ý hại tôi thì sẽ phải hối hận. Về phía mình,
dù không nói được, tôi cố gắng làm mọi cử chỉ biểu hiện lòng biết ơn.
Sau đợt
biển lặng, gió nổi lên tuy không mạnh nhưng kéo dài. Suốt năm chục ngày gió
thổi một chiều và chúng tôi bình yên cặp bến một thành phố tráng lệ rất đông
dân cư và buôn bán sầm uất. Chúng tôi thả neo ở đây. Thành phố này càng thêm
quan trọng vì đó là kinh đô của một quốc gia hùng mạnh.
Hạm tàu
của chúng tôi mau chóng bị vô số những tàu nhỏ vây quanh, chở đầy người tới để
hoặc là đón mừng bạn trở về, hoặc hỏi han xem có những gì hay lạ ở các xứ sở đã
qua, hoặc chỉ đơn thuần là tò mò muốn tham quan một hạm tàu lớn từ xa tới.
Trong số
những người đó, có vài vị quan của triều đình nhân danh nhà vua muốn trao đổi
với các thương gia trên tàu. Các thương gia tới trình diện và một vị quan nói
với họ: “Hoàng đế của chúng tôi giao cho chúng tôi nhiệm vụ hoan hỉ chào đón
các vị tới vương quốc và có yêu cầu là mọi người viết cho vài dòng chữ vào cuộn
giấy này.
Để các
vị hiểu ý của hoàng thượng, tôi xin nói thêm là vị tể tướng của chúng tôi là
một vị quan vừa có năng lực điều hành công việc vừa có chữ viết đẹp một cách
hoàn hảo. Nhưng chẳng may ngài đã tạ thế cách đây ít hôm. Hoàng đế rất mực buồn
rầu và không sao có thể quên được những nét chữ của tể tướng. Người đã long
trọng thề là sẽ chỉ trao quyền tể tướng cho người nào viết được chữ đẹp như tể
tướng đã quá cố. Rất nhiều người đã tới để dâng chữ viết của mình nhưng cho đến
nay chưa chọn được ai trong toàn quốc gia rộng lớn này xứng đáng giữ cương vị
tể tướng”.
Các
thương gia trên tàu, những người nào tự xét thấy là có thể nhòm ngó được địa
vị cao sang đó, đều lần lượt viết lên cuộn giấy những gì họ muốn nói. Khi họ
viết xong, tôi tiến đến, cầm lấy cuộn giấy trong tay người đang giữ. Tất cả mọi
người, đặc biệt là những thương gia vừa trình bày chữ viết của mình tưởng là
tôi muốn xé hoặc ném cuộn giấy xuống biển, nên thét lên nhưng họ yên tâm ngay
khi thấy tôi cầm cuộn giấy một cách thận trọng và tỏ ý đến lượt mình cũng muốn
viết. Từ lo ngại họ chuyển sang khâm phục. Tuy nhiên vì họ chưa bao giờ trông
thấy một con khỉ biết viết và không tin là tôi có thể khéo léo hơn những con
khỉ khác nên họ muốn giằng lại cuộn giấy trong tay tôi. Nhưng thuyền trưởng lại
một lần nữa bênh vực. Ông bảo: “Để yên cho nó viết xem nào. Nếu nó chỉ biết bôi
bẩn ra giấy thôi thì tôi hứa là sẽ trừng phạt nó ngay tức thì. Nếu, trái lại,
nó viết đẹp như tôi hằng tin tưởng vì trong đời tôi chưa từng thấy một chú khỉ
nào thông minh và tháo vát cũng như am hiểu việc đời như nó, tôi tuyên bố là sẽ
nhận nó làm con nuôi. Tôi cũng đã có một đứa con trai nhưng nói thực không được
thông minh bằng nó”.
Thấy không
còn ai phản đối nữa, tôi cầm lấy bút và chỉ buông xuống sau khi đã viết đủ sáu
loại chữ thông dụng của người Ả Rập. Mỗi loại chữ viết thử đó là một bài thơ
hai câu hoặc bốn câu ngẫu hứng ca ngợi hoàng đế. Chữ viết của tôi không những
làm lu mờ chữ viết của tất cả các thương gia mà tôi còn có thể nói là đẹp nhất
từ trước đến nay ở cái quốc gia này. Khi tôi viết xong, các vị quan cầm lấy
cuộn giấy đem về dâng lên hoàng đế”.
Scheherazade
kể đến đây chợt thấy trời đã rạng sáng, nàng nói với Schahriar:
- Nếu
còn thời gian thì thiếp sẽ kể cho hoàng thượng nghe những chi tiết còn kỳ là
hơn những gì vừa kể.
Hoàng
đế, tự nhủ là sẽ phải nghe câu chuyện này đến đầu đến đũa nên đứng lên chẳng
nói năng gì.
o O o
Đêm hôm
sau, Dinarzade thức giấc trước lúc trời sáng gọi hoàng hậu dậy và nói:
- Chị
của em, nếu chị không còn ngủ nữa thì chị cho em biết về số phận của chú khỉ ra
sao. Em nghĩ là hoàng đế, lãnh chúa của chúng mình cũng muốn nghe tiếp chuyện
đó như em.
- Lãnh
chúa của chúng ta và em sẽ được thoả mãn ngay đây - Scheherazade nói - Và để
vào ngay câu chuyện, người tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi thứ hai tiếp tục câu chuyện
của anh ta như sau:
“- Quốc
vương chẳng để ý gì đến những chữ viết khác mà chỉ chăm chú ngắm nhìn chữ viết
của tôi đã làm cho ông đặc biệt hài lòng. Ông bảo viên quan cận thần:
- Hãy
vào chuồng ngựa của ta, chọn một con đẹp nhất, thắng yên cương thật sang và lấy
ra đây một chiếc áo gấm quý đem mặc cho người có sáu loại chữ viết này, bảo
người đó lên ngựa và dẫn về đây cho ta.
Nghe nhà
vua ra lệnh như thế, các quan đều bật cười. Tức giận về sự táo gan mạn thượng
của họ, nhà vua vừa định ra tay trừng phạt thì họ vội tâu:
- Xin
hoàng thượng tha tội cho chúng thần. Những chữ viết này không phải là do một
con người mà lại là của một chú khỉ.
- Các
ngươi nói sao? - Quốc vương kêu lên - Những nét chữ như rồng bay phượng múa này
lại không phải là từ bàn tay một con người ư?
- Tâu bệ
hạ, không phải là từ bàn tay của người - Một trong các vị quan nói - Thần xin
khẳng định với bệ hạ đúng là từ tay một chú khỉ. Chính nó đã tự tay viết trước
mặt chúng thần.
Vị quốc
vương này thấy sự việc thật quá lạ lùng nên muốn được tự mình mục kích. Ông bảo
các quan:
- Hãy
làm theo lệnh ta. Đưa ngay chú khỉ hiếm có ấy về đây.
Các đại
thần trở lại hạm tàu đưa lệnh của nhà vua tới thuyền trưởng. Ông này lập tức
tuân lệnh. Thế là họ khoác vào người tôi chiếc áo gấm lộng lẫy, dắt tôi lên đất
liền, đặt tôi lên mình ngựa. Nhà vua cùng với cả triều thần đông đảo còn đang
chờ tiếp đón tôi tại cung điện của Người.
Cuộc đi
bắt đầu. Hải cảng, các đường phố, các công trường, các cửa sổ, các sân thượng
lâu đài và nhà cửa đều chật ních người dù già trẻ trai gái... từ khắp mọi nơi
trong thành phố kéo tới để nhìn xem tôi vì nghe được tin đồn bay đi rất nhanh
là quốc vương vừa chọn một con khỉ làm tể tướng. Sau khi hiến cho đám dân chúng
hò hét vang trời này một cảnh tượng chưa từng thấy bao giờ, tôi đã tới hoàng
cung.
Tôi thấy
vị quốc vương này chễm chệ trên ngai giữa những ông quan đại thần của triều
đình. Tôi vái ngài ba lần, và lần thứ ba, tôi quỳ xuống hôn mặt đất trước mặt
ông. Rồi sau đó tôi ngồi bệt xuống đất theo kiểu ngồi của loài khỉ. Cả cử toạ
đều tỏ vẻ khâm phục không hiểu vì sao mà một chú khỉ lại am hiểu lễ tiết đối
với một quốc vương như vậy và hoàng đế lại càng ngạc nhiên hơn ai hết. Cuộc
triều kiến đáng lẽ sẽ được trọn vẹn hơn nếu kèm với cử chỉ tôi còn sử dụng được
cả ngôn ngữ của mình nhưng loài khỉ thì có bao giờ nói được và ưu thế đã được
làm con người của tôi cũng chẳng cho tôi được cái ơn huệ đó.
Hoàng đế
truyền cho bãi triều và ở lại cùng ông chỉ còn viên tổng thái giám, một nô lệ
nhỏ rất trẻ và tôi. Ông chuyển từ điện thiết triều sang hậu cung và truyền dọn
ăn. Ngồi vào bàn, ông ra hiệu cho tôi tới gần và bảo cùng ngồi ăn với ông. Để
tỏ lòng tôn kính, tôi hôn mặt đất, đứng dậy và ngồi vào bàn ăn. Tôi ăn rất lễ
phép, khiêm tốn và dè dặt.
Trước
khi người ta thu dọn bàn ăn đi, tôi chợt trông thấy một cái bàn viết, tôi ra
hiệu bảo mang lại và tôi cầm bút viết những câu thơ ca ngợi hoàng đế lên một
quả đào to và đưa dâng Người. Ông đọc và càng ngạc nhiên vô cùng. Bàn ăn dọn đi
rồi, một thức uống đặc biệt được đưa tới, nhà vua đưa tôi một cốc. Tôi uống và
lại viết lên thành chiếc cốc những vần thơ mới nói lên tình trạng tôi lúc đó vì
đã trải qua biết bao nỗi khổ đau. Hoàng đế cũng lại đọc và nói: “Một con người
có được khả năng tới mức này thì có thể vượt lên trên cả những vĩ nhân lớn
nhất”.
Vị quốc
vương này cho đem bàn cờ tới và ra hiệu hỏi tôi có biết chơi không và có muốn
chơi với ông không. Tôi hôn mặt đất và đặt tay lên đầu để nói là tôi sẵn sàng
nhận cái vinh dự đó. Ông thắng tôi ván đầu, nhưng tôi thắng lại ván thứ hai và
thắng luôn ván thứ ba. Nhận thấy ông có vẻ khó chịu, tôi liền ứng tác một bài
thơ tứ tuyệt đưa ông đọc để ông xuôi xuôi. Trong bài thơ đó, tôi tả hai đội
quân hùng mạnh giao chiến rất hăng với nhau cả ngày, nhưng đến chiều tối thì
giảng hoà và cùng nhau qua đêm một cách yên tĩnh ngay trên bãi chiến trường.
Quốc
vương đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về trí thông minh và sự khéo
léo của một con khỉ và ông chẳng muốn một mình chứng kiến tất cả sự kỳ diệu ấy.
Ông có một cô con gái có tên Diễm Kiều, một công chúa sắc nước hương trời. Ông
bảo tổng thái giám có mặt tại đó và là thầy học của công chúa: "Nhà ngươi
về đưa học trò của ngươi tới đây, ta muốn nó chia sẻ cùng ta sự vui thích này”.
Viên
tổng thái giám tuân lệnh và chẳng mấy chốc đưa công chúa tới. Nàng để hở mặt,
nhưng mới bước vào phòng nàng vội vàng đưa tay kéo mạng che xuống, nói với nhà
vua:
- Tâu
phụ vương, Người đã quên rồi ư? Con vô cùng ngạc nhiên là Người lại để con xuất
hiện trước mặt một người đàn ông.
- Con
bảo sao - Hoàng đế đáp - Con không nghĩ là chính con đã nhầm rồi sao? Ở đây chỉ
có một tiểu nô lệ, tổng thái giám thầy dạy con và cha. Chúng ta đều được tự do
nhìn thấy mặt con kìa mà. Thế mà con đã hạ mạng che xuống và kết tội cha là đã
cho vời con tới đây.
- Tâu
phụ vương - Công chúa nói - Rồi Người sẽ thấy con không nhầm. Con khỉ kia dù là
mang hình dáng khỉ, nhưng đó lại là một hoàng tử trẻ, con trai một quốc vương
hùng mạnh. Chàng bị phù phép yêu ma nên biến thành khỉ mà thôi. Một hung thần,
cháu ngoại nữ thần Eblis đã làm cho chàng như thế sau khi đã giết hại một cách
dã man công chúa đảo Gỗ Mun, con gái quốc vương Epitimarus.
Hoàng đế
nghe con gái nói, kinh ngạc ngoảnh về phía tôi, không ra hiệu nữa mà hỏi tôi là
điều công chúa vừa nói có đúng như vậy không. Vì không nói được nên tôi đặt tay
lên đầu để tỏ là công chúa đã nói thật.
- Con
gái của cha - Hoàng đế hỏi con - Làm sao mà con biết được là vị hoàng tử này bị
phép yêu làm cho biến thành khỉ?
- Tâu
phụ vương - Công chúa Diễm Kiều nói - Người có nhớ rằng khi con trở thành thiếu
nữ, thì có một bà già chăm sóc con. Đó là một pháp sư rất giỏi. Bà ấy đã truyền
cho con sáu mươi phép biến hoá. Vì thế chỉ một chớp mắt là con có thể chuyển
dịch kinh đô của cha ra giữa đại dương, phía bên kia rặng Caucase. Với bản lĩnh
đó con có thể biết tất cả những người bị phù phép mà chỉ cần thoáng trông thôi,
con biết họ là ai và bị kẻ nào phù phép. Vì vậy xin phụ vương cũng đừng lấy làm
lạ là con đã phát hiện ngay ra vị hoàng tử qua cái lốt khỉ mà không sao có thể
trình diện phụ vương với con người thực của mình.
- Con
gái của cha - Hoàng đế bảo - Thật không ngờ là con lại tài giỏi thế.
- Tâu
phụ vương, đó là những điều bí hiểm cũng cần phải biết, nhưng hình như con đã
quá khoe khoang rồi đấy.
- Nếu
vậy - Hoàng đế nói - Thì con cũng rất có thể giải bùa ma cho hoàng tử chứ?
- Dạ,
thưa phụ vương, con có thể trả lại cho chàng hình hài trước đây.
- Con
hãy trả lại cho anh ta hình hài ban đầu đi. Con không biết là cha sẽ vui thích
tới mức nào, vì cha muốn phong cho anh ta làm tể tướng đầu triều và sẽ cưới
con, làm con rể cha, phò mã của vương quốc.
- Tâu
phụ vương, con xin tuân lệnh".
Scheherazade
kể đến câu cuối này thì trời vừa sáng nên đành bỏ dở câu chuyện về người tu sĩ
khổ hạnh đạo Hồi thứ hai. Schahriar, nhận định là đoạn tiếp theo có thể sẽ
chẳng kém phần hấp dẫn như đoạn vừa nghe nên quyết định sẽ nghe tiếp vào hôm
sau.
o O o
Dinariade
như thường lệ gọi hoàng hậu và bảo:
- Chị
của em, nếu không còn ngủ nữa thì xin chị cho biết công chúa Diễm Kiều làm cách
nào mà tu sĩ thứ hai trở về được hình thể cũ.
- Rồi em
sẽ biết thôi mà - Scheherazade đáp - Tu sĩ khổ hạnh thứ hai tiếp tục câu chuyện
về mình như sau:
“- Công
chúa Diễm Kiều đi về phòng riêng lấy ra một thanh đao mà ở lưỡi đao có khắc
những chữ Do Thái cổ. Nàng đưa chúng tôi: hoàng đế, viên tổng thái giám, chú
nhỏ nô lệ và tôi tới một khoảng sân kín trong hoàng cung và để chúng tôi đứng
quanh sân, còn nàng thì tiến ra giữa sân vạch một vòng tròn to và vẽ vào đấy
nhiều chữ Ả Rập cổ và những chữ khác mà người ta gọi là chữ của Cléopatre.
Khi đã
làm xong việc chuẩn bị cho cái vòng tròn vừa ý mình rồi, nàng đứng dừng lại
chính giữa vòng, niệm chú và đọc kinh Coran. Không gian dần dần tối sầm lại,
dường như bộ máy tạo hoá sắp đi đến chỗ tan tành. Chúng tôi sợ hãi tột độ và
càng hoảng hốt khi thấy hung thần, cháu ngoại Eblis xuất hiện, dưới hình dáng
của một con sư tử khổng lồ.
Ngay lúc
công chúa nhìn thấy con quái vật, nàng quát:
- Giống
chó kia, đáng lẽ phải quỳ mọp trước mặt ta thì mi lại muốn hù doạ ta bằng cái
lốt con vật gớm ghiếc ấy chăng?
- Thế
còn mi - Con sư tử rống lên - Mi không sợ làm trái lời cam kết mà chúng ta đã
long trọng thề là sẽ không ai làm hại ai sao?
- A!
Quân chết tiệt - Công chúa phản bác - Chính ta, ta phải hỏi mi cái đó mới đúng
chứ.
- Mi sẽ
phải - Con sư tử đột ngột cắt ngang - Trả giá cho việc đã làm phiền ta phải tới
đây.
Nói
xong, con sư tử há rộng mõm tiến lại phía công chúa như muốn nuốt sống nàng,
nhưng đã đề phòng từ trước, nàng nhảy lùi về phía sau và kịp thời nhổ một sợi
tóc, niệm chú biến thành một lưỡi gươm sắc bén và bằng một nhát chém vào giữa
sống lưng chặt con sư tử ra làm hai.
Hai nửa
con sư tử biến mất chỉ còn lại cái đầu biến thành một con bọ cạp. Ngay tức thì,
công chúa hoá thành một con rắn xông vào đánh bọ cạp. Thấy yếu thế, bọ cạp biến
thành con đại bàng bay đi. Con rắn cuộn mình lại cũng biến thành một con đại
bàng đen to khoẻ hơn bay đuổi theo. Cả hai con chim đều bay khuất tầm mắt của
chúng tôi.
Một lát
sau, mặt đất bỗng nhiên nứt ra trước mặt chúng tôi và một con mèo đen đốm trắng
chồi lên, lông lá dựng ngược và gào lên thật man rợ. Một con sói đen cũng xuất
hiện xông vào con mèo. Mèo vội vã biến thành một con sâu, thấy một quả lựu rụng
bên cạnh một mương nước hẹp nhưng khá sâu bèn đục nhanh một lỗ và chui vào. Quả
lựu tức thì to phình lên bằng một quả bí đỏ bay lên nóc hành lang lăn mấy vòng
rồi rơi bịch xuống sàn vỡ tan tành.
Con sói
lúc đó biến thành một con gà trống, nhảy vội đến mổ ăn những hạt lựu hết hạt
này đến hạt kia. Khi không thấy còn hạt nào nữa, nó chạy đến chỗ chúng tôi,
giương đôi cánh ra vỗ như vẻ hỏi chúng tôi xem còn hạt nào không.
Còn một
hạt lăn lóc bên bờ mương, nó quay lại chạy đến chưa kịp mổ thì cái hạt đó lăn
xuống mương nước và biến ngay thành một con cá nhỏ...”.
- Nhưng,
tâu bệ hạ - Scheherazade nói - Kìa trời đã sáng mất rồi. Thiếp có thể đoán chắc
là nếu ánh bình minh chưa lên thì Người sẽ rất vui thích khi nghe thiếp kể đoạn
tiếp sau đó.
Nói
xong, nàng im lặng. Hoàng đế đứng lên trong tâm trí tràn đầy những chi tiết thú
vị của câu chuyện. Ông có một ý muốn mãnh liệt và nôn nóng cực kỳ là muốn nghe
nốt câu chuyện kỳ thú này.
o O o
Dinarzade,
hôm sau, không sợ làm gián đoạn giấc ngủ của hoàng hậu, bảo nàng:
- Chị
ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị tiếp tục câu chuyện vô cùng kỳ thú bỏ
dở hôm qua đang đến cái đoạn biến hoá hết cái nọ đến cái kia rồi.
Scheherazade
nhớ lại trong trí xem đã kể tới đâu rồi nói với hoàng đế.
- Tâu
chúa thượng, người tu sĩ thứ hai đã kể tiếp câu chuyện của anh ta như thế này:
“Con gà
trống nhảy xuống mương nước và biến thành một con cá chày bơi đuổi theo con cá
nhỏ. Cả hai quần nhau ở dưới nước đến hai tiếng đồng hồ và tất cả chúng tôi đều
không hiểu rõ kết cục ra sao thì bỗng nghe thấy những tiếng kêu khủng khiếp làm
chúng tôi run bắn cả người. Một lát sau, chúng tôi nhìn thấy tên hung thần và
cả công chúa lửa cháy đầy mình. Họ nhả lửa từ miệng ra đốt cháy lẫn nhau và
khi cả hai sáp gần lại thì lửa cháy càng dữ dội. Từng bụm khói dày và lửa bốc
lên rất cao. Chúng tôi sợ rất có thể lửa sẽ làm cháy rụi cả hoàng cung, nhưng
chúng tôi rụng rời khi tên hung thần rời xa công chúa, tiến về phía chúng tôi
và há miệng phun từng khối lửa vào cả bọn. Nếu không có công chúa chạy đến kịp
thời đánh đuổi hắn thì chúng tôi chắc hẳn chẳng còn ai sống sót. Thế nhưng, dù
công chúa có đến cứu nhanh tới đâu thì hoàng đế cũng đã bị cháy râu và bỏng
mặt, viên tổng thái giám bị chết ngạt và cháy thành than ngay tức thì. Còn tôi
thì bị một tia lửa tạt ngay trúng mắt bên phải và thành chột.
Giữa lúc
đó thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu to:
- Chiến
thắng! Chiến thắng! - Và nhìn thấy công chúa đã trở về nguyên dạng, còn tên
hung thần thì chỉ còn là một đống tro dưới chân nàng.
Công
chúa đi tới gần chúng tôi và không để mất thời gian bảo tên tiểu nô lệ vẫn
nguyên lành đi lấy một chén nước trong sạch. Nàng cầm lấy, đưa lên gần miệng
đọc vài câu thần chú rồi vừa rảy lên người tôi vừa nói:
- Nếu
người bị phù phép mà hoá khỉ, thì hãy thay hình đổi dạng trở về thành người như
cũ.
Nàng vừa
dứt lời thì tôi trở lại nguyên hình như trước khi bị phù phép, duy chỉ thiếu
một con mắt.
Tôi sửa
sang tư thế để tạ ơn công chúa, nhưng nàng chẳng để tôi có thời gian làm việc
đó nữa. Nàng quay lại nói với hoàng đế cha nàng:
- Tâu
phụ vương, con đã thắng lão hung thần như Người đã thấy đó. Nhưng thắng bằng
một giá đắt. Con chẳng còn sống được mấy chốc nữa đâu và cha cũng chẳng còn
được thấy con vui duyên cùng chàng hoàng tử mà cha đã dự định. Lửa đã thấu vào
người con trong cuộc chiến đấu vừa rồi và từ từ đốt cháy cơ thể con. Tai hoạ
này sẽ không xảy ra nếu con nhìn thấy ngay hạt lựu còn sót lại để mổ như những
hạt khác khi con biến thành gà trống. Tên hung thần đã chui vào hạt này như một
nơi trú ẩn cuối cùng để chống lại con. Sai sót này làm cho con phải cầu cứu tới
lửa mà cha đã thấy con chiến đấu như thế nào giữa trời và đất trước mặt cha.
Mặc dầu tên hung thần bản lĩnh cũng thật cao cường nhưng con vẫn mạnh hơn đã
thắng nó và thiêu nó thành than. Nhưng con cũng chẳng tránh khỏi được cái chết
đang tới gần".
Scheherazade
kể tới đây thì dừng lại và nói với hoàng đế:
- Tâu
hoàng thượng, trời đã rạng báo cho thiếp là hãy ngừng lời. Nếu Người còn vui
lòng để thiếp được sống đến ngày mai thì Người sẽ nghe thiếp kể đoạn cuối câu
chuyện này.
Schahriar
bằng lòng và đứng lên như thường lệ để đi làm công việc của triều đình.
o O o
Trước
khi trời sáng ít lâu, Dinarzade thức giấc gọi hoàng hậu năn nỉ:
- Chị
thân yêu của em, nếu chị không còn muốn ngủ nữa thì xin chị hãy kể nốt cho em
nghe chuyện của chàng tu sĩ thứ hai đi.
Scheherazade
tức thì cất tiếng và kể tiếp câu chuyện như sau:
“Tu sĩ
khổ hạnh vẫn tiếp tục kể chuyện mình cho Zobéide nghe, ông ta nói với nàng:
- Thưa
bà, hoàng đế lặng nghe công chúa Diễm Kiều kể chuyện chiến đấu của nàng và khi
nàng nói xong, ông nói với con gái bằng một giọng đau đớn và xúc động:
- Con
gái của ta, con thấy rõ tình cảnh của cha đây. Không hiểu vì sao mà ta lại còn
sống! Tổng thái giám, thầy của con thì đã chết, hoàng tử mà con vừa giải thoát
bùa phép cho thì đã mất một con mắt.
Ông
không nói thêm được nữa vì nước mắt, những tiếng nức nở làm ông nghẹn ngào.
Chúng tôi cực kỳ xúc động về nỗi buồn khổ của ông, công chúa và tôi cũng khóc
ròng cùng hoàng đế.
Trong
lúc mọi người đang vô cùng buồn khổ thì bỗng công chúa kêu to: “Tôi cháy đây
này! Tôi cháy đây này!”. Nàng cảm thấy ngọn lửa âm ỉ trong người đã bùng lên
toàn thân, làm nàng không ngừng kêu: “Tôi cháy đây!” và cái chết cuối cùng đã
chấm dứt sự đau đớn không sao chịu nổi của nàng. Ngọn lửa thật kỳ lạ, chỉ một
lát cả cơ thể nàng chỉ còn là một đống tro tàn như lão hung thần vậy.
Thưa bà,
tôi không sao nói được trước cảnh tượng đó tôi đã xúc động tới mức nào. Thà là
suốt đời tôi là kiếp khỉ hoặc kiếp chó còn hơn là thấy ân nhân của mình chết
một cách thê thảm như vậy. Về phía hoàng đế, đau khổ ngoài sức tưởng tượng, vừa
kêu la thảm thiết vừa lấy tay đấm mạnh vào đầu vào ngực cho tới lúc suy sụp
trong thất vọng, ông ngất xỉu làm tôi lo Người có thể thăng hà.
Nghe
những tiếng than khóc kêu la của hoàng đế, những thái giám và các đại thần kéo
tới và mất rất nhiều công sức để làm cho Người hồi tỉnh. Hoàng đế và tôi không
phải mất công nhiều để giải thích cho họ hiểu nỗi đau lòng của mình. Hai đống
tro của công chúa và của lão hung thần đã làm cho họ biết hết những gì xảy ra.
Hoàng đế không còn sức đứng lên nữa mà phải dựa vào các thái giám để trở về hậu
cung.
Khi
tiếng đồn về sự kiện vô cùng bi thảm đó được lan truyền trong hoàng cung và cả
kinh thành, toàn thể thần dân đều thương tiếc cho công chúa Diễm Kiều gặp nỗi
bất hạnh và thông cảm với nỗi đau buồn của quốc vương. Cả nước để tang trong
bảy ngày và tổ chức nhiều buổi tế lễ long trọng. Tro của lão hung thần bị tung
theo gió, còn tro của công chúa Diễm Kiều được thu vào một chiếc bình rất đẹp
đặt trong một lăng nguy nga xây ngay tại nơi công chúa tử nạn.
Nỗi đau
của hoàng đế bị mất con gái yêu đã làm cho Người ốm liệt giường suốt một tháng
trời. Chưa được bình phục hẳn, Người đã cho gọi tôi tới và bảo:
- Hoàng
tử, hãy nghe lệnh của ta đây. Nếu không tuân theo thì khó toàn tính mệnh đó.
Tôi hứa
với Người là nhất nhất sẽ vâng lời. Và Người tiếp tục nói:
- Từ
trước tới nay ta luôn sống trong hạnh phúc toàn vẹn, chưa bao giờ bị bất cứ một
tai hoạ nào khuấy động. Nhưng nhà ngươi đến thì hạnh phúc mà ta vui hưởng bị
tan vỡ: con gái ta chết, ông thầy của nó cũng không còn và chỉ nhờ có một phép
màu nào đó mà ta còn sống. Vậy đúng nhà ngươi là nguyên nhân của tất cả những
bất hạnh đó mà ta không sao nguôi được. Vì vậy nhà ngươi hãy nên lặng lẽ rời
khỏi nơi này, và đi ngay cho khuất mắt ta. Nếu nhà ngươi còn ở lại đây lâu hơn
thì ta sẽ không sống nổi vì chắc chắn là sự có mặt của nhà ngươi sẽ chỉ mang
lại bất hạnh mà thôi. Đó là tất cả những gì ta muốn nói. Đi đi! Và chớ có bao
giờ xuất hiện trên đất nước của ta. Không có một sự trọng thị nào có thể ngăn
ta làm cho nhà ngươi phải hối tiếc.
Tôi muốn
phân trần đôi câu, nhưng quốc vương đã chặn họng tôi lại bằng những lời lẽ chứa
đầy căm giận nên tôi bắt buộc phải ra đi, đi xa vương quốc của Người.
Bị mọi
người ghét bỏ, xua đuổi và bỏ rơi, không rõ rồi đây mình sẽ ra sao. Trước khi
rời khỏi thành phố, tôi vào một nhà tắm, thuê cạo râu, tóc và lông mày, mặc vào
một bộ y phục tu sĩ khổ hạnh. Tôi vừa bước đi vừa khóc, khóc cho sự khổ ải
truân chuyên của tôi thì ít, nhưng khóc nhiều cho cái chết của những nàng công
chúa Kiều Diễm mà tôi gây nên. Tôi đi qua nhiều xứ sở không để cho ai nhận được
mặt, cuối cùng tôi quyết định tới thành phố Bagdad với hy vọng là được yết kiến
đức thống lĩnh các tín đồ và gợi lên lòng thương cảm của Người đối với một câu
chuyện quá đỗi lạ kỳ. Tôi mới tới đây chiều hôm nay và người đầu tiên tôi gặp
là người tu sĩ đồng đạo vừa kể chuyện của mình trước tôi. Bà đã biết rõ đoạn
còn lại, thưa bà, và vì sao tôi lại có vinh dự có mặt tại quý xá.
Khi tu
sĩ khổ hạnh thứ hai kể xong chuyện mình, Zobéide bảo anh:
- Tốt
lắm, anh hãy đi đi, rút khỏi đây và đi đâu tuỳ thích, tôi cho phép đấy.
Nhưng
đáng lẽ phải đi ra khỏi nhà, anh nằn nì xin thiếu phụ cho được ở lại như tu sĩ
thứ nhất, và anh ta đến ngồi cạnh anh này...”.
- Nhưng,
tâu hoàng thượng - Scheherazade nói - Kể đến đây thì trời sáng đã bắt thiếp
phải ngừng. Thiếp mạo muội dám chắc là dù câu chuyện của tu sĩ thứ hai có hay
tới đâu, thì câu chuyện của tu sĩ thứ ba cũng chẳng kém. Rồi hoàng thượng sẽ so
sánh nếu Người kiên nhẫn chờ nghe.
Hoàng đế
tò mò muốn biết là câu chuyện sắp kể có thực sự hay như câu chuyện vừa kể
không, nên ông đứng lên và quyết định kéo dài thêm sự sống của Scheherazade dù là
thời hạn ông cho đã quá nhiều ngày rồi.
o O o
Tàn đêm
sau, Dinarzade nói với hoàng hậu:
- Chị
thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì em xin, để chờ trời sáng cũng chẳng
còn mấy chốc nữa, kể cho em nghe một câu chuyện nào đó trong những chuyện hay
mà chị biết.
- Ta rất
muốn nghe - Schahriar cũng bảo - Chuyện của tu sĩ thứ ba.
- Tâu
hoàng thượng - Scheherazade nói - Thiếp xin tuân lệnh.
"-
Người tu sĩ thứ ba - Nàng nói thêm - Thấy là đến lượt mình kể chuyện, bèn hướng
về Zobéide bắt đầu câu chuyện của mình như sau:
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
11: Chuyện kể của tu sĩ khổ hạnh thứ ba, con vua
“Thưa
quý bà rất đáng kính, câu chuyện tôi kể đây hoàn toàn khác với những câu chuyện
bà đã nghe. Hai hoàng tử kể chuyện trước tôi đều mỗi người mất một con mắt đơn
thuần do hậu quả của số mệnh, còn tôi bị chột thì lại do chính lỗi lầm của
mình, tự mình gây nên tội, tự mình rước vạ vào thân như chuyện tôi kể hầu bà
nghe sau đây:
“Tôi tên
là Agib, con một quốc vương tên là Cassib. Sau khi phụ vương băng hà, tôi lên
nối ngôi và vẫn đóng đô tại nơi cha tôi đã trị vì. Kinh thành này toạ lạc trên
bờ biển, có một hải cảng vào loại đẹp nhất và an toàn nhất. Nó còn có một công
xưởng khá lớn đủ khả năng cung cấp thiết bị cho một trăm năm mươi chiến hạm
luôn luôn sẵn sàng phục vụ khi cần thiết. Ngoài ra còn trang bị cho năm chục
thương thuyền vận tải hàng hoá và cũng từng ấy những du thuyền nhỏ nhẹ để đi
dạo và vui chơi trên mặt nước. Vương quốc tôi còn có nhiều thành phố tráng lệ
với vô vàn hải đảo lớn, hầu hết đều nằm trong tầm nhìn của kinh đô.
Đầu
tiên, tôi đi thăm các tỉnh. Sau đó tôi cho vũ trang hạm đội và đi tuần du các
đảo để động viên các thần dân của mình hăng hái làm tròn trách nhlệm. Trở về
một thời gian, tôi lại đi tuần du và những chuyến đi về ấy đã ho tôi hiểu biết
về nghề hàng hải và thấy yêu thích nó. Vì vậy tôi quyết định làm một chuyến đi
thám hiểm xa ngoài những hòn đảo của mình. Để thực hiện dự định đó tôi cho
chuẩn bị mười chiếc tàu rồi giương buồm khởi hành.
Bốn mươi
ngày đầu thuận buồm xuôi gió nhưng đến đêm thứ bốn mươi mốt thì bị ngược gió dữ
dội và một cơn bão mạnh tưởng chừng muốn nhận chìm cả đoàn thuyền chúng tôi.
Tuy nhiên, lúc trời hửng sáng thì cũng là lúc gió cũng dịu dần, mây tan và trời
đẹp. Chúng tôi ghé vào một hòn đảo, đừng lại hai ngày để nghỉ ngơi lấy lại sức.
Rồi lại tiếp tục ra khơi. Sau mười hôm lênh đênh trên mặt biển, chúng tôi hy
vọng nhìn thấy đất liền vì cơn bão vừa qua đã làm tôi thay đổi ý định ra lệnh
cho quay trở về. Tôi chợt nhận thấy là người hoa tiêu bị lạc phương hướng không
biết là tàu mình hiện đang ở đâu. Tôi ra lệnh cho một thuỷ thủ leo lên đỉnh cột
buồm cao nhất để thăm đò thì gã báo cho biết là về phía phải và bên trái xa tít
tận chân trời chỉ thấy mênh mông trời và biển. Nhưng về phía trước mặt, phía
mũi con tàu thấy có một mảng đen lớn.
Nghe
thấy vậy, người hoa tiêu mặt biến sắc, một tay dứt khăn trên đầu ném xuống sàn
tàu, tay kia tự tát vào mặt mình và kêu to:
- Ôi! Bệ
hạ, chúng ta nguy mất rồi! Không một ai trong chúng ta thoát khỏi hiểm nguy
này. Với tất cả kinh nghiệm của mình, tôi không sao có thể bảo đảm cho chúng ta
thoát hiểm được.
Nói xong
hắn nức nở khóc như một người biết chắc mình không sao tránh khỏi chết. Sự
tuyệt vọng cả y gieo hoang mang cho toàn thể mọi người trên tàu. Tôi hỏi vì lý
do gì mà y lại tuyệt vọng tới vậy.
- Than
ôi! Tâu bệ hạ - Hắn đáp- Cơn bão đã đánh lạc hướng chúng ta quá xa cho nên chỉ
đến trưa ngày mal thôi là chúng ta sẽ tới gần cái mảng đen đó chẳng có gì khác
là một quả núi màu đen, là một mỏ nam châm ngay lúc này đang hút đoàn tàu chúng
ta vì những chiếc đinh và sắt thép cấu tạo con tàu. Ngày mai khi chúng ta tôi
gần nữa thì sức hút nam châm càng mạnh, mạnh đến nỗi là tất cả nhũng chiếc đinh
ở sườn tàu sẽ như bị rút ra bay đến dính vào quả núi. Các tàu của chúng ta sẽ
bị vỡ tan và đắm ngay tại chỗ. Sườn phơi ra phía biển của quả núi này dính vô
vàn nhũng chiếc đinh sắt của không biết bao nhiêu tàu bè mà nó làm cho đắm. Do
đó mà lực hút của quả núi này mỗi ngày lại mạnh hơn lên. Núi này người hoa tiêu
nói tiếp - vô cùng hiểm trở. Trên đỉnh núi có một cái vòm bằng đồng nguyên
chất, những cột chơng cũng.bằng đồng. Trên đỉnh vòm nhô lên một con ngựa đúc
đồng nguyên khối, cưỡi trên lưng ngựa là một kỵ sĩ, ngực che một tấm chì trên
đó có khắc hình bùa phép. Theo truyền thuyết, tâu bệ hạ, thì bức tượng này là
nguyên nhân chính của sự đắm chìm không biết bao nhiêu tàu bè và bao nhiêu con
người đã tử nạn ở chốn này. Và tai hoạ vẫn còn cứ kéo dài cho tới khi nào lật
đổ được pho tượng đó.
Người
hoa tiêu kể xong lại khóc và tất cả đoàn thuỷ thủ cũng sụt sùi khóc theo. Bản
thân tôi, tôi không tin là mình tới ngày tận số. Tuy vậy, mỗi người đều cùng lo
cho mình cách riêng để tự bảo vệ. Và trong cái tình thế chưa biết ngã ngũ ra
sao họ đi chúc lẫn cho nhau, cho những ai may mắn sống sót.
Sáng hôm
sau chúng tôi nhìn thấy rõ quả núi đen và với những điều đã nghe biết, chúng
tôi càng thấy nó thật rùng rợn. Đến buổi trưa, quả núi đã xích lại khá gần và
đúng như lời người hoa tiêu đã báo trước, chúng tôi nhìn thấy những chiếc đinh
và tất cả những thứ gì bằng sắt đều nhất loạt rời tàu, bay vèo vèo về phía quả
núi. Lực hút của nam châm cực mạnh đã làm cho những thứ bằng sắt này đập mạnh
vào sườn núi tạo thành một thứ âm thanh thật ghê rợn. Những con tàu toác ra và
chìm nghỉm xuống đáy biển rất sâu. Tất cả đoàn tuỳ tùng của tôi đều chết đuối.
Nhưng Thượng đế đã rủ lòng thương cho tôi bám được vào một tấm ván, và gió đẩy
giạt tới chân quả núi đen. Tôi không bị thương và may mắn cho tôi là đã cập bờ
vào một nơi có những bậc trèo lên đến tận đỉnh núi”.
Scheherazađe
muốn kể tiếp câu chuyện, nhưng trời sáng đã khiến nàng im lặng. Hoàng đế thấy
quả là hoàng hậu không đánh lừa mình vì phần mở đầu thật là hấp dẫn. Vì vậy
chúng ta cũng sẽ chắng ngạc nhiên chút nào là ông chưa ra lệnh đưa hoàng hậu ra
hành quyết ngày hôm đó.
o O o
- Nhân
danh Thượng đế - Gầ n sáng hôm sau Dinarzade kêu chị - Nếu chị của em không còn
ngủ nữa thì xin chị kể tlếp chuyện tu si thứ ba đi?
- Em
thân yêu - Scheherazade đáp - Vị hoàng tử này đã kể tiếp chuyện của mình như
sau:
“Nhìn
thấy những bậc đá đó, tôi đã tạ ơn Thượng đế hết lời và vừa trèo lên vừa niệm
tên thánh của Người vì nhìn sang phải, sang trái đều không có chỗ nào đặt chân.
Đường đi lên hẹp, dốc đứng và khúc khuỷu đến mức tôi nghĩ chỉ cần một cơn gió
không mạnh lắm cũng đủ gạt tôi ngã lăn tòm xuống biển. Nhưng cuối cùng tôi đã
an toàn trèo lên được tới đỉnh núi. Tôi đi vào đưới cái vòm bằng đồng và quì
xuống hôn mặt đất tạ ơn Thượng đế đã ra tay phù trợ.
Tôi qua
đêm dưới cái vòm đó. Trong giấc ngủ, tôi chiêm bao thấy một lão trượng đáng
kính hiện ra trước mắt bảo tôi:
- Con
hãy nghe đây, Agib! Khi ngủ dậy, con hãy đào đất ngay chỗ chân con đó. Con sẽ
thấy một cái cung bằng đồng và ba mũi tên bằng chì được chế tạo ra dưới những
chòm sao tất để giải thoát cho loài người khỏi bao nhiêu tai ách luôn đe doạ
họ. Con hãy lần lượt bắn ba mũi tên này vào pho tượng. Người kị sĩ sẽ ngã nhào
xuống biển và con ngựa thì đổ về phía con. Con sẽ chôn con ngựa xuống chỗ con
đã đào được cung tên. Làm xong việc này mặt biển sẽ dâng lên ngang với đỉnh
núi, tới tận chân vòm. Khi nước dâng tới đó, con sẽ thấy một chiếc xuồng nhỏ
chỉ có một người chèo tới bằng mỗi tay một bơi chèo. Người này cũng bằng đồng
nhưng khác với người kị sĩ mà con đã bắn nhào. Con lên xuồng và để cho y chèo
đi, nhớ không được đọc đến tên Thượng đế. Trong mười ngày y sẽ lái xuồng cho
con đi sang một biển khác và từ chỗ này con có thể tìm được đường về vương quốc
của con an toàn miễn là, như ta đã đặn, trong suốt cuộc hành trình, tuyệt đối
không được nhắc đến tên Thượng đế.
Đó là
tất cả những điều ông cụ đó bảo và dặn dò tôi. Thức giấc, tôi thấy như nhẹ cả
người, và ngay lập tức làm theo lời đã được dặn trong mộng. Tôi đào đất, lượm
lên cây cung và ba mũi tên. Giương cung bắn vào tượng kị sĩ đồng, đến phát thứ
ba thì nó nhào xuống biển, còn con rlgựa thì lăn kềnh xuống cạnh tôi. Tôi chôn
nó vào cái hố cung tên và thấy mặt nước biển từ từ dâng lên. Khi mực nước ngang
với chiều cao ngọn núi và tràn tới chân vòm thì tôi nhìn thấy phía xa một chiếc
xuồng lao đến phía mình. Tôi cảm tạ Thượng đế thấy mọi cái đều xảy ra trình tự
đúng như trong glấc mộng. Cuối cùng chiếc xuồng cập bờ và tôi nhìn thấy người
lái bằng đồng như cụ già đã tả. Tôi trèo lên xuồng và nhớ đinh ninh là không
được kêu tên Thượng đế, tôi cũng chẳng nói câu nào, im lặng ngồi xuống và người
lái bằng đồng bắt đầu chèo đưa chiếc xuồng ra xa quả núi. Nó chèo liên tục đến
ngày thứ chín thì tôi trông thấy những hòn đảo quen thuộc làm cho tôi vui mừng
thấy sắp thoát hiểm nghèo. Mừng vui quá độ đã làm tôi quên phắt điều cấm kỵ.
Tôi kêu lên: Tạ ơn Thượng đế? Vinh quang thuộc về Người!
Chưa dứt
lời thì chiếc xuồng chìm nghỉm luôn xuống sâu cùng với người lái bằng đồng, còn
tôi thì chới với trên mặt nước. Tôi bơi bơi cho tới cuối ngày, nhằm hướng đất
liền mà tôi thấy gần nhất. Một đêm tối mù tối mịt nối tiếp và, tôi chẳng rõ lúc
này ở vào chỗ nào mà cứ bơi bừa. Sức yếu dần, tôi bắt đầu thất vọng thấy mình
khó thoát chết thì gió bỗng nổi mạnh, một làn sóng cao như một ngọn núi hất tôi
lên một bãi cát rồi rút đi và để tôi nằm lại đó. Tôi vội vàng nhổm đậy chạy
nhanh vào phía đất ìiền sợ một làn sóng khác lại chồm tới mang tôi đi. Việc làm
đầu tiên là cởi áo quần ra, vắt khô nước rồi trải ra phơí trên mặt cát hãy còn
hơi nóng của ban ngày.
Ngày hôm
sau, mặt trờĩ chẳng mấy chốc đã làm nốt việc hong khô kiệt tất cả áo quẩn của
tôi. Tôi mặc vào và đi tìm hiểu xem hiện nay mình ở đâu. Mới đi được một quãng
đùờng thì đã hiểu la mình đang ở trên một đảo hoang nhỏ rất trù phú, mọc rất
nhều cây ăn quả. Nhưng đồng thời tôi cũng nhận thấy là nó ở rất xa đất liền,
điều này ]àm giảm đi nhiều niềm vui là được thoát chết trôi trên biển. Dù sao
tôi cũng phó mặc số mệnh mình cho - Thượng đế định đoạt tuỳ ý muốn của Người.
Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy một con tàu nhỏ từ đất liền đi ra, giương hết buồm
và mũi tàu hướng về hòn đảo tôi đang đứng.
Không
còn nghi ngờ gì là nó sẽ cập vào hòn đảo này. Chưa rõ hành khách trên tàu là
bạn hay thù, nên tôi thấy là chưa nên xuất đầu lộ diện. Trèo lên một cây cao,
cành lá rậm rạp, ở đó tôi có thể quan sát thấy những gì trên tàu. Con tàu tới
đỗ trong eo nhỏ và có độ mười tên nô lệ bước xuống mang theo một cái xẻng và
những dụng cụ đào đất khác. Chúng đi tới giữa đảo và tôi nhìn thấy chúng dừng
lại đào sới một lát. Nhìn hành động của chúng hình như chúng lật lên một cái
cửa nắp. Rồi chúng quay lại nơi tàu đỗ khiêng xuống nhiều đồ đạc rồi thụt
xuống. Tôi hiểu ra là ở chỗ đó có một hầm ngầm. Tôi nhìn thấy chúng đi một lần
nữa về tàu và một lát sau xuống cùng với một ông già, ông này dắt theo một
thiếu niên khoảng mười bốn, mười lăm tuổi rất đẹp trai. Tất cả đều thụt xuống
hầm chỗ cái cửa nắp đã mở và khi lên họ hạ cửa nắp xuống, đắp đất lên rồi đi về
phía cái eo nhỏ, nơi tàu thả neo, tôi nhận thấy là không có cậu thanh niên
trong bọn họ. Từ đó tôi kết luận là chàng trai này đã ở lại dưới hầm ngầm, điều
làm tôi hết sức kinh ngạc.
Ông già
và các nô lệ bước lên tàu và giương buồm đi theo hướng về đất liền. Khi con tàu
đã đi khuất, tôi từ trên cây leo xuống và lập tức đi tới chỗ họ vừa đào bới.
Đến lượt tôi cũng vục tay bới đất cho tới lúc đụng vào một tấm đá vuông khoảng
hai ba bộ, tôi lật lên và thấy nó che lấp lối xuống của một cầu thang cũng bằng
đá. Tôi bước vào bậc thang đi xuống và thấy mình đang ở một gian phòng rộng
trong đó có một thảm chùi chân và một chiếc sập trên trải một tấm thảm khác và
những gối tựa bọc vải đẹp. Chàng trai ngồi trên sập tay cầm chiếc quạt. Tôi
nhận thấy tất cả những thứ đó dưới ánh sáng của hai cây nến và bên cạnh chàng
trai còn có nhiều trái cây và những bình hoa.
Chàng
trai giật mình hoảng hốt khi nhìn thấy tôi. Nhưng để cho chàng ta yên tâm, tôi
vừa đi vào vừa nói:
- Dù cậu
là ai chăng nữa thì cũng xin đừng sợ. Một ông vua và một hoàng tử như tôi đây
không thể có bất cứ một sự xúc phạm nào đối với cậu. Trái lại, số phận may mắn
của cậu đã khiến tôi có mặt tại đây để đưa cậu ra khỏi nấm mồ này vì hình như
người ta đã đem chôn sống cậu vì những lý do gì tôi không rõ. Nhưng điều làm
tôi băn khoăn và thấy khó lòng chấp nhận được (vì tôi đã được mục kích tất cả
những gì xảy ra từ lúc có người tới đảo này) là dường như cậu đã để cho họ chôn
sống cậu tại đây mà không có sự chống đối nào...”.
Scheherazade
kể tới đây thì ngừng lại và hoàng đế thì đứng lên băn khoăn không biết vì sao
mà chàng thiếu niên này lại bị bỏ đưới hầm trên một hòn đảo hoang. Ông nhủ thầm
sẽ nghe tiếp đêm sau cho rõ.
o O o
Dinarzade,
khi thấy tới giờ, bèn gọi hoàng hậu:
- Chị
ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin kể nốt chuyện người tu sĩ thứ ba đi.
Scheherazade
không để em phải nhắc lại, kể tiếp như sau:
“Chàng
thiếu niên - Tu sĩ thứ ba tiếp - nghe nói vậy thì yên tâm và tươi cười mời tôi
ngồi xuống cạnh mình. Chàng ta nói ngay.
- Thưa
hoàng tử, tôi sẽ nói để ngài rõ, ngài sẽ phải lấy làm ngạc nhiên về sự đặc biệt
khác thường của nó. Nguyên cha tôi là một nhà buôn vàng ngọc trở nên rất giàu
có nhờ vào sức lao động và tháo vát khéo tay trong nghề nghiệp. Người có nhiều
nô lệ, và những người giúp việc thường có những chuyến đi biển trên những chiếc
tàu của cha tôi để giữ mối liên lạc với nhiều triều đình mà cha tôi cung cấp
những đồ châu báu mà họ cần.
Kết hôn
đã lâu mà chưa có con, một lần trong giấc mộng người được biết là sẽ có một con
trai nhưng người con này đoản mệnh nên khi thức giấc người vô cùng buồn bã. Ít
ngày sau đó, mẹ tôi báo cho người biết là bà đã có mang vào thời gian mà cảm
thấy cái thai đậu lại rơi đúng vào ngày ông nằm mộng. Sau chín tháng bà sinh ra
tôi, cả nhà hết sức vui mừng hoan hỉ.
Cha tôi
có mặt trong ngày tôi ra đời, đã đi xem bói chiêm tinh. Các ông thầy bảo: “Con
trai ông sống khoẻ mạnh đến tuổi mười lăm, nhưng tới lúc đó sẽ gặp tai hoạ khó
lòng thoát khỏi. Qua được nạn này thì sẽ thọ lâu. Cũng vào lúc đó - Các thầy
nói thêm - tượng kị sĩ bằng đồng trên đỉnh núi nam châm sẽ bị hoàng tử Agib,
con quốc vương Cassib, bắn nhào xuống biển và các vì sao chỉ rõ là năm chục
ngày sau đó, con trai ông bị hoàng tử Agib giết chết.
Vì lời
tiên đoán đó phù hợp với giấc mộng của cha tơi nên ông vô cùng buồn bã. Dù vậy
ông vẫn không hề lơ là trong việc giáo dục tôi cho đến nay, năm tôi tròn mười
lăm tuổi. Hôm qua người được biết là kị sĩ bằng đồng đã bị hoàng tử Agib bắn
nhào xuống biển đã được mười ngày. Tin ấy làm người rơi không biết bao nhiêu
nước mắt và hoảng hốt đến mức mọi người không còn ai nhận ra ông nữa.
Dựa trên
những lời tiên đoán của các thầy chiêm tinh ông tìm cách đánh lừa ngôi sao bản
mệnh của tôi để giữ lấy mạng sống cho tôi. Ông đã đề phòng cho xây dựng nơi ở
này rất lâu rồi để làm chỗ cho tôi ẩn nấp trong khoảng thời gian năm mươi ngày
kể từ khi pho tượng trên núi nam châm bị lật đổ. Cũng vì vậy khl biết tin pho
tượng đó bị lật đổ đã được mười ngày thì ông vội vàng mang tôi tôi đẩy cho
xuống hầm kín ẩn náu và hẹn là trong bốn chục ngày nữa ông sẽ đến đón tôi về.
Còn về phần tôi – Chàng trai nói thêm - tôi tràn đầy hy vọng và không tin là hoàng
tử Agib lại tới cái đảo hoang này tìm tôi trong hầm kín. Đó, đó là tất cả câu
chuyện tôi muốn nói cùng ngài.
Trong
khi người con trai nhà buôn châu ngọc kể chuyện về mình, tôi giễu thầm các nhà
chiêm tinh đã có những lời tiên đoán vô cùng lạc lõng. Vì vậy nghe xong câu
chuyện tôi sôi nôi bảo cậu ta: “chàng trai thân mến, hãy tin vào lượng khoan
hồng của Thượng đế và chẳng nên sợ hãi gì hết. Hãy coi như đây là một món nợ
phải trả và kể từ lúc này cậu đã trang trải xong. Tôi lấy làm hài lòng, là sau khi
làm đắm xuồng đã tới đây để bảo vệ cậu chống lại những kẻ muốn làm hại tới cuộc
sống của cậu. Tôi sẽ không bỏ cậu trong suốt thời gian bấn chục ngày còn lại mà
những lời đoán bậy của các tay chiêm tinh làm cho cậu lo lắng. Trong thời gian
đó tôi sẽ giúp cậu tất cả những việc gì tôi có thể làm. Sau đó, tôi sẽ lợi dụng
thời cơ để trở về đất liền, cùng lên tàu với cậu với sự đồng ý của than phụ cậu
và cậu. Và khi về ,tới vương quốc của tôi, tôi sẽ không quên ơn và sẽ cố gắng
thể hiện sự biết ơn của tôi thật xứng đáng.
Những
lời nói của tôi làm cho cậu ta yên tâm và tin cậy. Tôi tránh không nói mình
chính là Agib làm cho cậu ta sợ hãi và để cho cậu ta không nghi ngờ bất cứ một
điều gì nên tôi còn rất thận trọng trong lời nói và cử chỉ. Chuyện trò với nhau
về nhiều vấn đề mãi tới khuya, tôi nhận thấy chàng trai này thật thông minh.
Chúng tôi cùng ăn với nhau những thức ăn đã được đự trữ trong hầm. Thức ăn
nhiều không những đùng thừa trong suốt bốn chục ngày mà ngoài tôi là khách ra
còn có thể ehu cấp cho nhiều người khác nữa. Sau bữa ăn, chúng tôi tiếp tục
chuyện trò một lát nữa rồi mới đi ngủ.
Sáng hôm
sau, thức đậy, tới mang đến một chậu nước cho cậu ta rửa mặt rồi tôi sửa soạn
nấu nướng và đến bữa thì dọn ra cùng ăn. Sau bữa ăn, tôi bày ra một trò chơi gì
đấy không những để chơi trong ngày mà còn cả cho những ngày tiếp sau nữa. Bữa
chiều tôi cũng làm như thế. Chúng tôi ăn, chuyện trò rồi đi ngủ cũng như ngày
hôm trước.
Thời
gian đã làm cho chúng tôi mỗi lúc lại thân nhau hơn. Tôi nhận thấy là cậu ta
rất quí mến tôi và về phía tôi, một tình cảm đặc biệt đã khiến tôi coi cậu ta
như một người ruột thịt. Tôi thường nghĩ thầm trong bụng: bọn thầy bói bảo với
cha cậu ta là con ông sẽ bị giết bởi bàn tay của tôi thì đúng là bọn lừa bịp.
Không sao có thể xảy ra chuyện tôi lại phạm vào một hành động tội ác như vậy
được. Cuối cùng, thưa bà, chúng tôi đã qua được ba mươi chín ngày êm đềm vui vẻ
nhất thế gian ở cái hầm dưới mặt đất đó.
Rồi đến
ngày cuối cùng, ngày thứ bốn mươi. Buổi sáng, khi thức đậy, chàng trai trẻ dạt
dào một niềm vui không ngăn lại được, nói với tôi: Hoàng tử ơi Ngày thứ bốn
mươi tới đây rồi, thế mà tôi chẳng sao cả, tôi không chết. Vô cùng biết ơn
Thượng đế và tình bạn tất của ngài. Cha tôi cũng sẽ chẳng bao giờ quên ơn ngài
và người sẽ tạo đầy đủ các phương tiện và những tiện nghi cần thiết để giúp
ngài trở về quê hương. Trong lúc chờ đợi - Cậu ta nói thêm - Xin ngài làm ơn
đưa cho tôi một thùng nước nóng để tôi tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo đẹp để
tiếp đón cha tôi cho thật đàng hoàng.
Tôi đặt
thùng nước trên lò lửa và khi đã đủ độ nóng ấm, tôi trút vào bồn tắm. Chàng
trai bước vào, tôi kỳ cọ cho cậu ta. Bước ra khỏi bồn tắm, cậu ta tới nằm nghỉ
trên giường mà tôi đã sửa soạn sẵn, tôi đắp mền cho cậu. Nằm và ngủ được một
lát, cậu ta bảo tôi: “Hoàng tử ơi, xin làm ơn đem đến cho tôi một quả đưa cùng
với đường để tôi ăn cho người tỉnh táo”.
Trong
rất nhiều quả đưa còn lại, tôi chọn quả ngon nhất để vào một cái đĩa. Vì nhìn
quanh không thấy con dao nào để bổ đưa, tôi hỏi chàng trai là có biết đao để ở
đâu không. “Có một con dao nhọn - Chàng ta bảo tôi - ở cái hố tường trên đầu
tôi đây này!. Đúng vậy, tôi đã trông thấy con dao nhọn đó nhưng quá hấp tấp để
với lấy và khi đã cầm trong tay rồi, chân tôi lại bị vướng trong cái chăn đắp
nên đã ngã xuống người cậu ta và mũi dao nhọn đâm vào ngực trúng tim chàng trai
làm cậu ta chết ngay.
Trước
cảnh tượng đó, tôi kêu rú lên. Tôi đấm mạnh vào đầu, vào mặt, vào ngực mình,
tôi xé quần xé áo và lăn lộn dưới đất, đau khổ và hối tiếc không biết ngần nào.
- Chao
ôi! - Tôi kêu lên - Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi là thoát ra ngoài vòng
nguy hiểm. Để chống lại, cậu ta đã tìm nơi ẩn lánh và trong lúc ta cũng nghĩ là
tai nạn đã qua rồi thế mà... bây gịờ ta lạị trở thành kẻ sát nhân và làm cho
lời tiên tri đó trở thành hiệu nghiệm. Nhưng, hỡi đấng tối cao - Tôi giơ hai
tay và ngửa mặt lên trời nói thêm - Nếu tôi đúng là thủ phạm giết chàng trai
này, thì xin đừng để cho tôi sống nữa.
Scheherazade
bắt buộc phải ngừng câu chuyện bi thảm này lại vì thấy trời đã hé sáng. Hoàng
đế các xứ Ấn Độ rất xúc động và băn khoăn là sau những chuyện đó thì người tu
sĩ ra sao. Ông chưa hạ lệnh cho hành quyết hoàng hậu Scheherazade ngày hôm đó
vì chỉ duy có nàng mới giải được cho ông nỗi thắc mắc này.
o O o
Dinarzade,
như thường lệ, đánh thức hoàng hậu:
- Nếu
chị không ngủ, em xin chị kể cho em nghe chuyện gì đã xảy ra sau cái chết của
chàng thiếu niên ấy.
Scheherazade
tức thì kể tiếp như sau:
“Thưa bà
- Tu sĩ thứ ba nói với zobéide - Sau bất hạnh xảy ra, tôi sẵn sàng đợi cái chết
đến không mảy may sợ hãi. Nhưng điều xấu cũng như điều tất không phải là chúng
ta cứ cầu xin là được.
Tuy vậy,
lắng sâu suy nghĩ thấy là những giọt nước mắt cũng như nỗi đau lòng cũng không
thể làm sống lại chàng trai này và rồi đây hết bốn chục ngày rất có thể tôi bị
người cha bắt gặp thì cũng thật lôi thôi nên tôi đi ra khỏi hầm và trèo lên các
bậc thang. Tôi hạ tấm đá to chặn lối vào và lấp đất.
Vừa
xong, tôi hướng tầm mắt về phía đất liền thì đã trông thấy con tàu đang đi tới
để đón chàng trai trẻ. Suy nghĩ xem phải làm gì đây, tôi tự nhủ: “Nếu tôi ra
mắt, ông già nhất định sẽ cho bắt giữ và rất có thể bọn nô lệ sẽ giết tôi khi
ông trông thấy tình trạng của con trai do chính tôi gây ra. Dù tôi có ra sức
biện bạch thế nào chăng nữa thì ông cũng sẽ không tin là tôi vô tội. Tốt hơn
hết là mình nên tránh mặt đi còn hơn là đưa thân ra hứng chịu lấy cơn thịnh nộ
của ông ta.
Gần cái
hầm đó có một cây to mà cành lá rậm rạp có thể che cho tôi được. Tôi trèo lên
và chỉ vừa kịp tìm được một chỗ kín đáo thì tôi đã thấy con tàu đó cập vào chỗ
đã neo đậu lần đầu.
Ống già
cùng đám nô lệ xuống ngay tàu và bước tới phía hầm ngầm với vẻ mặt đượm nhiều
niềm hy vọng, nhưng khi thấy mặt đất vừa bị đào xới, họ biến sắc, nhất là ông
già. Họ dựng tấm đá lên và bước xuống các bậc thang. Họ cất tiếng gọi tên chàng
thiếu niên, không có tiếng đáp. Họ sợ hãi bội phần, họ tìm kiếm và cuối cùng
thấy cậu ta nằm thẳng trên giường, với con dao nhọn cắm giữa tim vì tôi đã
không có can đảm rút nó ra. Nhìn thấy vậy, họ rú lên đau đớn. Tiếng rú của họ
cũng làm lòng tôi quặn thắt. Ông già ngã xuống ngất lịm. Bọn đầy tớ khiêng ông
lên khỏi hầm cho thoáng khí và đặt ngay dưới gốc cây trên đó tôi đang nm thở cố
thu mình lại. Nhưng dù được chăm sóc tận tình, người cha khốn khổ này vẫn bằn
bặt mê man làm cho bọn đầy tớ tưởng ông khó lòng qua khỏi.
Nhưng
rồi cuối cùng ông cũng tỉnh lại sau cơn ngất lịm khá lâu. Rồi bọn nô lệ mang
thi hài của con trai ông đã được mặc vào những tấm áo quần đẹp nhất. Và sau khi
đào xong hố, họ đã từ từ trịnh trọng đặt cậu thiếu niên xuống đó. Ông già, được
hai tên đầy tớ đỡ hai bên, mặt chan hoà nước mắt, là người đầu tiên ném một nắm
đất xuống huyệt mộ, sau đó bọn đầy tớ đã san lấp đất đầy hố.
Xong
việc chôn cất, tất cả những đồ đạc, lương thực đưới hầm đều được lấy lên đưa
tất cả lên tàu. Ông già không còn đủ sức bước đi nữa, được đặt nằm lên cáng rồi
tất cả lên tàu kéo buồm rời đảo trở về đất liền. Chỉ một thoáng sau, con tàu đã
xa khỏi tầm mắt tôi”.
Ánh sáng
ban ngày đã chiếu vào phòng ngự của Hoàng đế đất nước Ấn Độ buộc Scheherazade
ngừng lời. Schahriar cũng đứng lên như mọi khi và cũng vẫn cùng một lý do như
đêm trước, ông vẫn để hoàng hậu còn được sống và ở lại cùng với Dinarzade.
o O o
Hôm sau
trước khi trời sáng, Dinarzade bảo chị:
- Chị
yêu quí của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị cho em nghe nốt chuyện của tu
sĩ khổ hạnh thứ ba đi.
- Thế
này em nhé - Scheherazade nói - Em vẫn phải nhớ là vị hoàng tử này vẫn đang kể
cho Zobéide và cả các bạn của ành ta nghe chuyện mình. Anh ta kể tiếp như sau:
“Sau khi
con tàu mang ông già và bọn đầy tớ của ông đi khuất, còn một mình tôi trên hòn
đảo. Đêm, tôi ngủ trong hầm vẫn để ngỏ và ban ngày tôi đi dạo quanh hòn đảo và
khi mỏi chân thì tìm chỗ thuận tiện để nghỉ ngơi cho đỡ mệt.
Tôi kéo
dài cuộc sống buồn nản như thế khoảng một tháng trời. Vào những ngày cuối, tôi
thấy là nước biển rút đi khá nhiều và hòn đảo thì lớn ra hơn trước, đường như
đất liền tiến lại gần. Quả thật là mặt biển xuống thấp đến mức chỉ còn một
quãng ngắn ngập nước ngăn cách giữa tôi và đất liền. Tôi lội qua, nước biển chỉ
tới ngang bắp chân. Tôi bước đi thật lâu trên cát đến mệt lử người. Cuối cùng
tôi đặt bước trên một vùng đất rắn chắc hơn và thấy mình đã rất xa biển. Bỗng
nhìn thấy phía trước mặt một đám lửa lớn làm tôi hết sức vui mừng. Mình sẽ gặp
một ai đó - tôi nhủ thầm - vì không thể là tự nhiên lại có đám lửa đó. Nhưng đi
tới gần thì mới vỡ lẽ ra là cái đám màu đỏ mà tôi ngỡ là lửa thì lại là một toà
lâu đài bằng đồng đỏ mà ánh sáng mặt trời chiếu vào làm cho ai từ đằng xa nhìn
dễ bị nhầm là một đám cháy.
Tôi dừng
lại và ngồi xuống bên cạnh toà lâu đài đó chẳng phải là vì muốn ngắm nhìn một
kiến trúc tuyệt vời mà chỉ vì muốn ngồi nghỉ để lấy lại sức vì đã quá mệt nhọc,
rã rời cả chân tay. Chưa kịp suy nghĩ gì về toà lâu đài mỹ lệ này thì tôi chợt
nhìn thấy mười thanh niên chững chạc đường như đi đạo về. Nhưng điều làm tôi vô
cùng ngạc nhiên là tất cả đều chột bên mắt phảl. Họ đi theo một ông già cao to
có dáng điệu đáng kính.
“Tôi hết
sức kinh ngạc sao lại gặp một lúc nhiều người chột đến thế mà lại cùng chột một
bên mắt như nhau. Trong lúc tôi đoán già đoán non xem vì sao lại như vậy thì họ
đi đến gần và tỏ ra mừng rỡ được thấy tôi. Sau những lời thăm hỏi chúc tụng đầu
tiên, họ hỏi tôi vì sao lại đến đây. Tôi trả lời là câu chuyện của tôi khá dài
và nếu họ chịu khó ngồi xuống thì sẽ kể cho nghe. Họ cùng ngồi xuống và tôi kể
tất cả chuyện của tôi từ lúc tôi rời khỏi vương quốc cho tới lúc này. Câu
chuyện làm họ ngạc nhiên hết sức.
Sau khi
câu chuyện kết thúc, những nhà quí phái trẻ này mời tôi cùng vào lâu đài với
họ. Tôi nhận lời. Chúng tôi đi qua rất nhiều phòng: phòng ngoài, phòng đợi,
phòng trong, văn phòng... tất cả đều được bầy biện những đồ đạc lịch sự và rất
sạch sẽ. Cuối cùng chúng tôi đi vào một phòng khách lớn trong đó kê theo vòng
tròn mười chiếc bệ nhỏ màu xanh vừa dùng để ngồi, để nằm nghỉ ngơi ban ngày vừa
để ngủ vào ban đêm. Ở giữa cái vòng tròn đó là một chiếc bệ thứ mười một cùng
màu nhưng kê thấp hơn trên đó ông già mà tôi đã nhắc đến ngồi chễm chệ, còn
mười người trẻ tuổi llgồi trên mười chiếc bệ kia.
Vì mỗi
chiếc bệ chỉ đủ chỗ cho một người nên một chàng trẻ tuổi bảo tôi: - Bạn hãy
ngồi vào tấm thảm ở giữa kia và không được hỏi han bất cứ điều gì liên quan tới
chúng tôi, cả nguyên nhân vì sao chúng tôi đều bị chột bên mắt phải. Bạn hãy
bằng lòng chỉ nhìn xem thôi và chớ nên để trí tò mò của mình đi quá xa.
Ông già
không ngồi lâu. Ông đứng đậy và đi ra ngoài. Một lát sau, trở vào mang theo bữa
ăn tối cho mười chàng trẻ tuổi, mỗi người đều ăn riêng phần của mình. Tôi cũng
được chia một phần và ăn một mình như những người khác. Và cuối bữa thì cũng
ông già đó đưa cho mỗi người một chén rượu.
Câu
chuyện của tôi đối với họ kỳ lạ đến mức họ bắt tôi kể lại từ đầu bữa ăn và sau
đó bàn luận rôm rả cho tới khuya. Một trong các chàng trai cho mọi người biết
là đêm đã khuya và bảo ông già:
- Ông
thấy đó, đã đến giờ đi ngủ thế mà ông chẳng đưa cho chúng tôi những gì cần
thiết để chúng tôi làm tròn nhiệm vụ.
Nghe nói
thế, ông già đứng lên và đi vào một căn buồng, đội trên đầu lần lượt mười chiếc
chậu, cái nào cũng phủ vải xanh, mang ra đặt trước mặt mỗi chàng cùng một cây
đuốc.
Họ mở
nắp chậu trong đó có tro, than bột và nhọ nồi. Họ trộn lẫn ba thứ đó với nhau
rồi bắt đầu chà sát và bôi lên mặt trông lem luốc đến phát khiếp lên. Sau khi
bôi đen mặt mũi như thế rồi, họ cất tiếng khóc dùng tay đấm vào đầu vào ngực và
không ngừng kêu: “Đây là kết quả của sự lười nhác và truỵ lạc của chúng ta?”.
Họ cứ
làm như thế hầu như hết cả đêm. Rồi cuối cùng họ cũng dừng lại và ông già mang
nước sạch đến cho họ rửa mặt mũi chân tay. Họ cũng cởi bỏ cả quần áo đã đen
bẩn, mặc quần áo khác. Trông họ lúc này lại như trước chứ không phải là họ vừa
làm những việc kỳ cục mà tôi đã được chứng kiến.
Thưa bà,
xin bà hãy xét xem sự bực bội của tôi suốt thời gian đó. Hàng ngàn lân tôi đã
toan phá vỡ sự câm nín mà những chàng trai đã áp đặt cho mình để hởi cho ra lẽ.
Và tôi không sao mà nhắm mắt được trong quãng đêm còn lại.
Ngày hôm
sau, mọi người thức dậy, ra ngoài hít thở không khí, tôi bảo họ:
- Thưa
các ngài, tôi xin nói với các ngài là tôi phản bác luật lệ mà các ngài đề ra
cho tôi chiều hôm qua. Tôi không sao mà tuân theo được. Các ngài đều là người
khôn ngoan và thông minh rất mực, tôi biết rõ như vậy. Thế nhưng tôi lại thấy
các ngài có những hành động mà ngoài những kẻ mất trí ra thì không ai làm như
vậy. Dù cho tai hoạ nào đến với tôi chăng nữa cũng không ngăn được tôi hỏi các
ngài vì sao lại tự mình bôi lem mặt mũi bằng tro, than và nhọ nồi.
Rồi vì
sao mà tất cả các ngài đều chỉ còn một con mắt. Tất là phải có một nguyên nhân
đặc biệt nào đó chứ. Vì vậy tôi xin các ngài hãy thoả mãn tính hiếu kỳ của tôi,
cho tôi được rõ mọi sự.
Trước
những van nài khẩn thiết như thế, họ chẳng nói chẳng rằng, quá lắm họ chỉ bảo
đó là những cái chẳng liên quan gì tới tôi cả, tôi có biết cũng chẳng có lợi
ích gì vậy thì cứ nên ở yên thôi.
Ban ngày
chúng tôi trao đổi chuyện nọ chuyện kia chẳng đâu vào đâu cả nhưng khi tối đến,
sau khi ăn uống riêng rẽ, ông già lại mang những chiếc chậu màu xanh ra, các
chàng trai lại tự bôi lên mặt mũi mình cho đen đủi nhem nhuốc, rồi khóc lóc,
rồi tự đấm vào mình rồi kêu lên: “Đây là kết quả của sự lười nhác và sự ăn chơi
trác táng của chúng ta?”. Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo họ cũng vẫn làm
như thế.
Cuối
cùng không sao ngăn nổi trí tò mò, tôi nghiêm chỉnh đề nghị họ hoặc là nói rõ
cho tôi biết hoặc là chỉ đường cho tôi trở về cố hương vì tôi không thể ở lâu
hơn với họ nữa khi mà đêm nào cũng phải chứng kiến cái cảnh tượng hết sức kỳ lạ
mà không hiểu rõ nguyên nhân vì sao lại thế.
Một
trong các chàng trai thay mặt cho cả bọn bảo tôi:
- Xin
đừng ngạc nhiên về thái độ của chúng tôi đối với ngài, nếu cho đến lúc này
chúng tôi không chịu nhượng bộ với những lời cầu xin năn nỉ của ngài. Đó chẳng
qua đơn thuần chỉ vì tình bạn đối với ngài mà thôi. Chúng tôi muốn tránh cho
ngài cái tình trạng đáng buồn như chúng tôi mà ngài đã thấy. Nếu ngài thật muốn
giống như số phận khốn khổ như chúng tôi thì cứ nói, chúng tôi sẽ đáp ứng yêu
cầu của ngài.
Tôi bảo
họ là tôi sẵn sàng hứng chịu mọi hậu quả.
- Một
lần nữa - Vẫn chàng đó bảo - Chúng tôi khuyên ngài là nên kiềm chế bớt tính tò
mò của ngài lại. Nó sẽ làm cho ngài mất đi con mắt phải đó. - Cũng chẳng sao –
Tôi nói - Tôi xin tuyên bố với các ngài là nếu tai hoạ đó xảy ra cho tôi, các
ngài sẽ hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm và đó là đo chính tôi gây nên.
Chàng
này còn cho tôi biết là khi tôi đã bị mất một mắt thì sẽ không còn được ở cùng
với họ giả dụ là tôi có ý định đó vì số lượng đã đủ không thể thêm nữa. Tôi bảo
họ là được ở cùng với họ đối với tôi là một điều mong ước, nhưng nếu cần thiết
thì tôi cũng sẵn sàng phục tùng vì với bất cứ giá nào, tôi cũng mong họ đáp ứng
cho điều tôi đòi hỏi.
Mười
chàng trai thấy quyết định của tôi là dứt khoát liền bắt một con cừu giết chết,
lột da, đưa cho tôi con dao mà họ đã dùng và bảo tôi:
- Ngài
hãy cầm lấy con đao này, nó sẽ giúp ích cho ngài trong trường hợp mà chúng tôi
sẽ nói cho ngài biết sau. Bây giờ ngài hãy nằm vào trong tấm da cừu này để
chúng tôi khâu kín lại. Rồi chúng tôi sẽ rút đi để lại mình ngài ở đây. Lúc đó
một con chim to lớn khác thường mà người ta gọi là đại bàng sẽ xuất hiện trong
không trung. Nó tưởng ngài là một con cừu sẽ đâm bổ xuống cắp lấy ngài và bay
lên tận chín tầng mây. Nhưng xin chớ sợ, nó sẽ lại sà xuống mặt đất và đặt ngài
xuống đỉnh một ngọn núi. Khi chạm đất, ngài hãy dùng con dao này rạch tấm da
cừu mà chui ra. Con đại bàng trông thấy ngài sẽ hoảng sợ và bay đi mất, để ngài
được tự do. Chớ có dừng lại đó mà phải đi, đi cho tới lúc đặt chân trước một
lâu đài đồ sộ bao bọc bằng toàn những tấm vàng, những viên ngọc bích khổng lồ
và nhiều thứ đá quí nguyên chất khác. Ngài tới cửa lâu đài và bước vào trong vì
cửa luôn luôn để ngỏ. Tất cả chúng tôi ở đây cũng đều đã ở lâu đài đó. Tôi sẽ
không nói với ngài là chúng tôi đã trông thấy gì và những gì đã xảy ra với
chúng tôi tại đó. Ngài sẽ tự tìm hiểu lấy. Điều mà chúng tôi có thể nói với
ngài là chúng tôi mỗi người đã phải trả giá bằng con mắt phải của mình, và cái
hình phạt mà ngài đã chứng kiến là một việc bắt buộc phải làm vì chúng tôi đã ở
cái lâu đài đó. Chuyện riêng của mỗi người chúng tôi chứa đầy những chi tiết
phiêu lưu kỳ lạ mà người ta có thể viết nên một cuốn sách dày, nhưng lúc này
chúng tôi không thể nói gì với ngài nhiều hơn”.
Kể đến
đây, Scheherazade ngừng lời và nói với Hoàng đế đất nước Ấn Độ:
- Vì em
gái thiếp hôm nay đánh thức thiếp dậy sớm hơn mọi khi, kể dài sợ phiền thánh
thượng, nhưng kìa trời đã sáng đúng lúc buộc thiếp phải ngừng. Tính hiếu kỳ của
hoàng đế Schahriar đã thắng lời thề độc của chính ông.
o O o
Dinarzade
đêm nay không dậy sớm như đêm trước. Tuy vậy nàng vẫn gọi chị trước trời sáng:
- Nếu
chị không ngủ nữa thì chị kể nốt chuyện người tu sĩ thứ ba đi.
Scheherazade
kể tiếp như sau : vẫn là người tu sĩ khổ hạnh nói với Zobéide:
- Thưa
bà, một trong mười chàng trai chột mắt đã nói như thế với tôi mà tôi vừa kể bà
nghe. Thế là tôi chui vào tấm da cừu, cầm theo con dao họ đã đưa. Và sau khi họ
đã khâu kín tấm da có tôi ở bên trong, họ để tôi nằm lạĩ đó và rút về phòng
khách. Con đại bàng lớn mà họ nói trước, chẳng lâu la gì đã bay tới, sà thẳng
vào tôi, dùng móng quắp tội lên như quắp một con cừu và mang lên đỉnh một qua
núi.
Khi cảm
thấy mình đã nảm trên mặt đất, tôi không quên dùng con dao rạch tấm đa, chui la
trước mặt con đại bàng khi nhìn thấy tôi nó vội vàng vỗ cánh bay đi mất. Con
đại bàng này là một con chim có bộ lông trắng to lớn khủng khiếp. Cứ sức ấy thì
nó có thể tha như chơi một con voi ở dưới đồng bằng đưa lên núi cao để xả thịt.
Nóng
lòng muốn đi ngay tới lâu đài, không để mất thì giờ, tôi rảo bước và chỉ trong
nửa ngày đã tới. Tôi có thể nói là dưới mắt tôi, toà lâu đài này còn lộng lẫy
hơn nhiều như đã nghe tả.
Cổng mở,
tôi đi vào một cái sân vuông rất rộng xung quanh có chín mươi chín cửa ra vào
bằng gỗ đàn hương và trầm hương và một cửa bằng vàng không kể những cửa dẫn vào
các cầu thang tráng lệ đưa lên những căn buồng phía trên và còn nhiều cánh cửa
khác nữa mà tôi không nhìn thấy. Một trăm cửa ra vào mà tôi nói ở trên mở thong
ra các khu vườn hoặc những kho tàng chứa đầy của cải hoặc các nơi san sát những
thứ đồ lạ mắt.
Nhìn
thấy trước mặt có một cánh cửa mở, tôi đi vào. Đó là một phòng khách rộng đã
ngồi sẵn ở trong đó bốn lnươi thiếu phụ với sắc đẹp lộng lẫy mà ngay cả sự
tưởng tượng cũng khó vượt qua. Họ ăn vận thật sang trọng. Vừa nhìn thấy tôi
bước vào, họ đều nhất loạt đứng dậy và chẳng đợi tôi chào hỏi chúc tụng, họ tỏ
về hất sức mừng rỡ, bảo tôi:
- Chàng
trai tôn quí, xin chúc mừng, xin chúc mừng! Và một thiếu phụ thay mặt cho tất
cả nói:
- Đã lâu
rồi, chúng em chờ đợi một chàng trai hào hoa như chàng. Dáng điệu của chàng đã
nói cho chúng em thấy là chàng có đầy đủ những đức tính mà chúng em mong ước và
chúng em hy vọng rằng chàng không cho sự có mặt của chúng em là khó chịu và
chẳng xứng với chàng.
Sau rất
nhiều lần thoái thác, tôi đành phải ngồi vào chỗ bị ép buộc, chỗ cao hơn một
chút so với chỗ ngồi của họ. Khi tôi tỏ ra vẻ miễn cưỡng thì họ bảo:
- Đấy
chính là chỗ của chàng, lúc này chàng là lãnh chúa, là ông chủ, là quan toà của
chúng em. Và chúng em là nô lệ của chàng, sẵn sàng tuân theo những gì chàng ra
lệnh.
Không có
gì trên đời này, thưa bà, làm cho tôi ngạc nhiên hơn là thái độ nhiệt tình và
hăng hái của những thiếu phụ xinh đẹp này, sẵn sàng phục vụ, đáp ứng tất cả
những gì tôi yêu cầu. Một nàng đem nước nóng đến rửa chân cho tôi. Một nàng
khác đội nước thơm lên hai bàn tay tôi. Các nàng này đem tới cho tôi quần áo
mới để tôi thay, các nàng kia cho tôi ăn lót dạ, và các nàng còn lại thì tiến
đến cốc cầm tay sẵn sàng rót cho tôi một thứ rượu tuyệt ngon. Tất cả công việc
này được tiến hành nhịp nhàng, với một trật tự phối hợp một cách khéo léo và
với phong cách làm tôi say mê. Tôi uống, tôi ăn... Sau đó tất cả xúm quanh tôi,
đòi tôi thuật lại chuyến đi của mình. Tôi kể chi tiết tất cả những việc xảy ra
cho họ nghe và câu chuyện kéo đài mãi tới chập tối”.
Scheherazade
ngừng lại ở đoạn này. Em nàng hỏi vì sao. Thế em không thấy trời sáng rồi ư,
hoàng hậu đáp. Tại sao không gọi chị dậy sớm hơn? Hoàng đế đoán là người tu sĩ
đến lâu đài có bốn chục thiếu phụ tuyệt đẹp như vậy chắc là hứa hẹn sẽ có nhiều
chuyện xảy ra đáng được chú ý. Ông chẳng muốn tự tước cái thú được nghe tiếp
của mình nên lại lui ngày xử hoàng hậu thêm nữa.
o O o
So với
đêm trước thì đêm nay Dinarzade không được nhanh nhẩu bằng. Hầu như trời đã tờ
mờ sáng khi nàng nói với hoàng hậu:
- Chị
thân yêu của em, nếu chị không còn ngủ thì xin chị nói cho em biết có gì đã xảy
ra ở cái lâu đài tráng lệ mà chị đã dừng lại đêm qua đó.
- Chị sẽ
nói ngay cho em biết đây - Scheherazade đáp rồi quay sang nói với hoàng đế -
Tâu hoàng thượng, thế rồi người tu sĩ tiếp tục kể như thế này:
“Khi tôi
đã kể câu chuyện của mình cho bốn mươi thiếu phụ nghe xong, một vài nàng ngồi
gần tôi còn nán lại để cùng tôi trao đổi thêm, trong khi đó thì những người
kia, thấy đêm đã xuống, bèn đứng lên đi tìm nến thắp. Họ mang tới rất nhiều
nến, thắp lên sáng trưng chẳng kém ánh sáng ban ngày, nhưng các nàng đã sắp đặt
bày biện thật cân xứng đẹp mắt.
Những
thiếu phụ khác bày lên bàn những trái cây khô, những loại mứt và các đồ uống.
Các thứ rượu uống bày đầy trong tủ. Một số các nàng xuất hiện với các nhạc cụ
trong tay. Khi tất cả đã chuẩn bị xong, các nàng mời tôi ngồi vào bàn và họ
cũng cùng ngồi xuống. Chúng tôi ngồi cùng nhau khá lâu. Những nàng có nhiệm vụ
chơi đàn và những nàng phải hoà giọng ca của mình theo nhạc đều đứng lên và
hình thành một đàn đồng ca thật quyến rũ. Những nàng khác bắt đầu một điệu vũ
từng đôi một cầm tay nhau nhảy, hết đôi nọ đến đôi kia, yểu điệu và duyên đáng
vô cùng.
Quá nửa
đêm, cuộc vui ngừng lại. Một trong các thiếu phụ cất tiếng, bảo tôi:
- Chàng
đã mệt vì đoạn đường đi hôm nay, đã đến lúc chàng cần phải nghỉ ngơi. Buồng
riêng của chàng đã được sửa soạn, nhưng trước khi về đó chàng hãy chọn cô nào
trong bọn thiếp mà chàng thấy thích hơn cả. Chàng hãy đưa cô ấy về ngủ cùng
chàng.
Tôi đáp
là sẽ không làm việc chọn lựa đó theo lời đề nghị vì tôi thấy tất cả các nàng
đều đẹp, đều thông minh, đều xứng đáng với sự tôn trọng và ý thức phục vụ của
tôi. Tôi không muốn mắc vào khuyết điểm bất lịch sự nếu bảo thích người nọ hơn
người kia.
Cũng
thiếu phụ đã nói với tôi lại bảo:
- Chúng
em rất tin ở sự thẳng thắn của chàng và chúng em thấy rõ là chàng sợ chúng em
sẽ sinh lòng ghen tuông với nhau nên giữ ý. Nhưng xin chàng đừng ngại: chúng em
đã cùng nhau thoả thuận là hạnh phúc của cô nào được chàng chọn không làm cho
chúng em ghen tuông chút nào, vì hằng đêm lần lượt chúng em đều được hưởng hạnh
phúc đó. Cứ bốn chục ngày là đến lượt và lại bắt đầu lượt mới. Vậy chàng hãy cứ
tự do lựa chọn đi, chớ nên để mất thời gian cần cho sự nghỉ ngơi của chàng.
Tôi đành
phải nhượng bộ và giơ tay ra cho nàng đã thay mặt tất cả chị em trao đổi với
tôi, nàng cũng đưa tay cho tôi và chúng tôi được dẫn tới một căn phòng lộng
lẫy. Người ta để chúng tôi chỉ còn hai người với nhau, còn các thiếu phụ khác
đều về phòng riêng của mình...”.
- Nhưng
trời lại đã sáng mất rồi, tâu bệ hạ - Scheherazade nói với hoàng đế - và xin
Người hãy cho phép thiếp để lại tu sĩ vôi nàng thiếu phụ cửa chàng ở trong căn
phòng riêng của họ.
Schahriar
lặng thinh nhưng ông đứng lên tự nhủ: phải công nhận là câu chuyện tuyệt hay,
ta sẽ mắc sai lầm to nhất trong thiên hạ nếu không để chút thì giờ nghe nốt cho
đến cuối.
o O o
Dinarzade,
tàn đêm hôm sau, không quên bảo chị:
- Chị
ơi? Nếu chị không muốn ngủ nữa, thì em xin chị kể nốt câu chuyện kỳ thú về
người tu sĩ thứ ba cho em nghe đi?
- Chị
xin vui lòng - Scheherazade đáp - Và đây là lời của vị hoàng tử đó kể tiếp
chuyện mình:
“Sáng
hồm sau, chỉ vừa mới mặc xong quần áo thì ba mươi chín thiếu phụ kia đã kéo đến
phòng tôi, tất cả đều trang điểm khác hẳn ngày hôm trước. Các nàng chúc tội một
ngày tốt đẹp và hỏi han tôi về sức khoẻ. Rồi các nàng đưa tôi vào buồng tắm, tự
tay kỳ cọ cho tôi và mặc dù ngoài ý muốn của tôi, các nàng vẫn giúp tôi mọi việc
cần thiết. Các nàng mặc cho tôi một bộ quần áo khác còn đẹp hơn cả bộ hôm qua.
Suốt
ngày hầu như chúng tôi chỉ ngồi ở bàn ăn và khi tới giờ đi ngủ, các nàng lại
bảo tôi chọn người để qua đêm. Thưa bà, để bà khỏi nhàm chán vì cứ phải nghe
nhắc đi nhắc lại cùng một việc đó, tôi xin nói tóm tắt là suốt một năm tròn tôi
sống với bốn mươi thiếu phụ và lần lượt mỗi đêm tôi ngủ với một người. Và suốt
cả thời gian đó, cuộc sống đầy hoan lạc đó không hề bị bất cứ một sự buồn phiền
nhỏ nhặt nào làm cho gián đoạn.
Cuối năm
đó (không gì làm tôi bất ngờ hơn), bốn mươi thiếu phụ đó đáng lẽ đến với tôi
vui vẻ như thường ngày, hỏi thăm sức khoẻ... thì một buổi sáng vào phòng tôi,
nước mắt chan hoà. Họ lần lượt đến ôm hôn tôi và nói: Vĩnh biệt hoàng tử yêu
quí, vĩnh biệt? Chúng em buộc phải xa chàng thôi”.
Nước mắt
của các nàng làm tôi xốn xang. Tôi yêu cầu họ cho biết căn nguyên nỗi buồn của
họ và sự ly biệt mà họ vừa nói. Tôi nói thêm:
- Nhân
danh Thượng đế, các cô em xinh đẹp của tôỉ, hãy cho tôi biết là có thể làm gì
để có thể an ủi và giúp ích được các cô em bây giờ?
Đáng lẽ
trả lời rõ ràng thì các nàng lại nói:
- Thượng
đế chứng giám! Thà là chúng em. chưa hề quen biết chàng! Nhiều người trước
chàng cũng đã có dịp tới thăm hỏi chúng em nhưng không một ai có được sự duyên
dáng, dịu dàng, trẻ trung vui vẻ và tư cách như chàng. Chúng em chẳng biết rồi
đây sẽ phải sống ra sao khi thiếu chàng.
Nói xong
câu đó, các nàng lại khóc thảm thiết:
- Các cô
nàng đáng yêu của tôi - Tôi nói - Tôi xin các nàng đừng làm cho tôi sầu não hơn
nữa, hãy nói ngay cho tôi biết nguyên nhân nỗi đau lòng của các nàng.
- Than
ôi! - Các nàng bảo - Còn có điều gì khác làm cho chúng em đau lòng là phải xa
chàng nữa đâu? Có thể chúng em chẳng còn bao giờ được thấy chàng nữa? Tuy vậy
nếu chàng muốn và vì chuyện này mà tự chủ được bản thân thì không phải là không
thể lại gặp được nhau.
- Các
nàng? - Tôi lại nói - Tôi chẳng hiểu các nàng muốn nói gì. Xin hãy nói rõ ra
xem nào.
- Vậy
thì - Một nàng nói - Để làm vừa lòng chàng, em nói cho chàng biết chúng em đều
là công chúa, con gái vua. Chúng em cùng nhau sống chung ở đây trong cảnh lạc
thú mà chàng thấy đó, nhưng cứ mỗi năm là chúng em phải bắt buộc vắng mặt bốn
mươi ngày cho những bổn phận cần thiết không thể nói ra được. Sau đó chúng em
sẽ lại trở về đây. Hôm qua là ngày hết năm, hôm nay chúng em phải từ biệt
chàng. Vì vậy đó là nguyên nhân nỗi đau buồn của chúng em. Trước khi ra đi,
chúng em sẽ để lại cho chàng tất cả những chìa khoá? Đặc biệt là chìa khoá cửa
của trăm gian phòng mà chàng sẽ thấy trong đó tất cả những thứ hay, lạ khả dĩ
có thể thoả mãn óc hiếu kỳ và làm dịu đi nỗi buồn cô đơn của chàng trong thời
gian chúng em vắng mặt. Nhưng vì điều tất cho chàng và vì lợi ích riêng của
chúng em, xin chàng chớ có đụng tới và mở cái cánh cửa bằng vàng của một phòng
đặc biệt trong số một trăm phòng kia. Nếu chàng mà mở ra thì chẳng. bao giờ
chúng ta cò thấy lại nhau nữa và chính nỗi lo đó lại càng làm chúng em đau khổ.
Chúng em mong là chàng sẽ làm theo lời chúng em căn dặn. Nó quan hệ tới sự an bình,
đến hạnh phúc của cuộc sống, chàng hãy thận trọng, nếu chàng để cho tính tò mò
thóc mách lấn át thì đó là chàng đã mắc một sai lầm lớn. Chúng em khuyên chàng
chớ mắc vào sai lầm đó và để cho chúng em nuôi hy vọàg là sẽ được thấy lại
chàng tại đây trong vòng bơn mươi ngày nữa. Chúng em có thể mang theo chìa khoá
của cái cửa bằng vàng đó, nhưng sẽ là một sự xúc phạm đối với một hoàng tử đàng
hoàng như chàng, là đã nghi ngờ tính kín đáo và sự kiềm chế bản thân của
chàng”.
Scheherazade
muốn kể tiếp, nhưng nhìn thấy trời đã sáng. Hoàng đế, tò mò muốn biết là người
tu sĩ đó làm gì khi chỉ còn một mình trong lâu đài sau khi bốn mươi thiếu phụ
đã ra đi nên tự hẹn đến đêm sau chắc sẽ được làm sáng tỏ.
o O o
Cô gái
hảo tâm Dinarzade thức giấc dậy khá lâu trước khi trời sáng, gọi hoàng hậu:
- Chị
ơi, nếu chị không ngủ nứa thì chị nên kể tiếp cho hoàng đế, lãnh chúa của chúng
ta nghe câu chuyện mà chị đã bắt đầu đi!
Scheherazade
ngoảnh về phía Schahrlar nói:
- Tâu
hoàng thượng, Người đã biết là người tu sĩ vẫn kể chuyện mình cho Zobéide nghe.
Anh ta kể tiếp như thế này:
“Thưa
bà, lời dặn dò của những nàng công chúa xinh đẹp này thực sự làm tôi đâu lòng.
Tôi bày tỏ với các nàng là sự vắng mặt của các nàng làm tôi buồn nhớ vô hạn.
Tôi hết sức cảm ớn về những lời dặn dò chu đáo. Tôi hứa với họ là sẽ nghe theo
và hết sức cố gắng làm những việc khó khăn hơn để có hạnh phúc được sống những
ngày còn lại cùng những người đàn bà hiếm có như các nàng. Cuộc chia tay diễn
ra đầy lưu luyến. Tôi lần lượt ôm hôn họ. Rồi các nàng ra đi, còn một mình tôi
ở lại lâu đài.
Niềm lạc
thú trong cuộc sống chung, những bữa tiệc thịnh soạn, các buổi hoà nhạc, những
trò vui chơi làm tôi bận rộn suốt cả năm khiến tôi chẳng còn thời gian cũng như
chẳng có một chút ý muốn nào xem những kỳ quan có thể đầy đẫy trong cái lâu đài
huyền ảo này. Tôi cũng chẳng mảy may chú ý gì đến tất cả những đồ vật đẹp tuyệt
vời dưới mắt tôi hàng ngày vì còn mải mê say đắm trước nhan sắc của các thiếu
phụ, được nhìn thấy họ chỉ duy nhất quan tâm tới việc làm cho tôi vui thích.
Tôi buồn đến nẫu ruột khi họ ra đi và, tuy sự vắng mặt của họ chỉ trong vòng
bốn chục ngày, mà tôi tháy như mình phải sống không có các nàng hàng thế kỷ.
Tôi tự
hứa với mình là sẽ không quên lời dặn dò quan trọng của họ là không bao giờ
được mở cái cánh cửa bằng vàng. Và dường như chỉ cần thế, tôi được phép thoả
mãn trí tò mò ở những cánh cửa kia. Tôi cầm lấy chiếc chìa khoá thứ nhất đã
được sắp xếp thứ tự.
Tôi mở
cánh cửa thứ nhất và đi vào một khu vườn cây ăn quả mà tôi tưởng là trong toàn
vũ trụ không có một vườn quả nào so sánh nổi. Tôi cũng không nghĩ là vườn thiên
đàng mà đạo giáo chúng ta hứa hẹn với những tín đồ sau khi chết liệu có hơn
được thế này không. Tính đối xứng, vẻ sạch sẽ, cách bố trí tuyệt vờl các cây
trồng, sự phong phú và sự đa dạng của hàng ngàn loại quả lạ, tươi tốt, đẹp đẽ
tất cả làm tôi ngợp mắt. Tôi cũng chẳng được phép bỏ qua để lưu ý với bà, thưa
bà, là khu vườn tuyệt diệu này được tưới tắm một cách rất khác thường. Những
rãnh nước đứợc đào khéo léo và cân đoí đem nước thật đầy đủ tới rễ các cây đang
cần trổ lá non và trổ hoa; những rãnh nước khác thì đưa lượng nước vừa đủ tới
gốc những cây đang bắt đầu ra quả; những rãnh khác thì đưa ít nước hơn tới
những gốc cây mà quả đã lớn; những rãnh khác chỉ tưới vừa đủ cho những cây mà
quả chỉ còn chờ hái xuống thôi. Và những trái cây này cũng to hơn rất nhiều lần
so với những quả thường có trong các khu vườn của chúng ta. Còn những mương
nước khác dẫn nước cho những cây mà quả đã chín thì chỉ cần vừa đủ độ ẩm để giữ
nguyên chất lượng cho quả chưa kịp hái xuống mà thôi.
Tôi ngắm
nhìn không biết chán một nơi có phong cảnh đẹp tuyệt vời như thế và không còn
muốn rời đi nữa nếu không thấy thoáng qua trong đầu là còn rất nhiều điều kỳ
thú mà mình chưa được nhìn thấy. Đi ra khỏi vườn, trong đầu óc đầy những điều
kỳ diệu, tôi đóng cửa thứ nhất lại và mở cánh cửa tiếp theo.
Thay cho
một vườn cây ăn quả là một vườn trồng hoa, cũng chẳng kém phần đặc biệt về loại
vườn này. Vườn gồm có một khoảnh đất rộng được tướí nước không phải theo cách
như bên vườn cây ăn quả nhưng công phu hơn nhiều để mỗi loại hoa nhận được nước
vừa đủ cho sự sinh trưởng của mình. Hoa hồng, hoa nhài, hoa tím, hoa thuỷ tiên,
hoa dạ lài, hoa mẫu đơn, hoa uất kim cương, hoa mao hương, hoa cẩm chướng, hoa
huệ và vô vàn những thứ hoa khác mà nếu ở nơi khác thì chỉ nở theo mùa, nhưng ở
đây lại cùng lúc nở rộ muôn hồng nghìn tía. Thật không ở đâu sảng khoái bằng ở
khu vườn mà không khí thấm đẫm hương thơm này.
Tôi mở
cánh cửa thứ ba, đó là một nhà nuôi chim rất rộng. Nền nhà lát đá hoa cẩm thạch
đủ các màu sắc, vào loại đá quý nhất và hiếm nhất. Lồng chim bằng gỗ đàn hương
và trầm hương. Những chiếc lồng rộng lớn đó chứa vô số những chim hoạ mi, chim
kim oanh, chim bạch yến, chim sơa ca và các loại chim khác có tiếng hót thật du
dương mà tôi chưa từng thấy người nào nói trong đời. Những chiếc bình đựng hạt
và nước uống cho chim đều được làm bằng đá hoa vân và mã não vào loại quí nhất.
Nhà nuôi
chim này vô cùng sạch sẽ. Cứ nhìn vào qui mô của nó, tôi ước lượng là phải có không
dưới một trăm con ngườì thì mới bảo quản giữ gìn được tinh tươm như vậy. Thế
nhưng chẳng thấy có một bóng người nào xuất hiện, cũng như trong các khu vườn
mà tôi đã vào thăm không hề có một ngọn cỏ dại, một sự thừa thãi nhỏ nào làm
chướng mắt.
Mặt trời
đã lặn, tôi trở ra, tai còn vang vang những tiếng hót của muôn loài chim lúc
này đang tìm chỡ đỗ thuận tiện nhất để nghỉ đêm. Tôi về phòng riêng và định
bụng là sẽ lần lượt mở những cánh cửa khác vào những ngày sau trừ cánh cửa bằng
vàng thứ một trăm.
Ngày hôm
sau, tôi không quên đi đến mở cánh cửa thứ tư. Nếu những gì mà tôi nhìn thấy
ngày hôm trước đã gây cho tôi bao sự ngạc nhiên, thì những gì tôi thấy luc này
làm tôi mê mẩn. Tôi đặt chân trong một cái sân rộng, quây xung quanh là một toà
nhà với kiến trúc tuyết diệu mà tôi chẳng tả ra đây làm gì để tránh sự dài
dòng.
Toà nhà
này có bốn chục cửa, mỗi cửa mở đi vào một kho tàng và trong số kho tàng đó có
những kho giá trị hơn cả sự giàu có của những vương quốc lớn nhất. Kho thứ nhất
chứa hàng núi ngọc trai những viên ngọc quí nhất ngoài mọi sức tưởng tượng, đều
to bằng những quả trứng chim bồ câu. Trong kho thứ haí là những viên kim cương,
ngọc hồng và ngọc tía. Trong kho thứ ba gồm toàn ngọc bích. Kho thứ tư: vàng
thỏi; kho thứ năm: tiền đồng; kho thứ sáu: bạc nén. Hai kho tiếp theo: tiền các
loại. Các kho khác chứa ngọc tía, ngọc xanh, ngọc vàng, ngọc mắt mèo, ngọc lam,
ngọc vân và tất cả nhũng loại đá quí khác mà ta không biết, rồi mã não, vân
thạch và san hô: San hô ở đây có cả một kho đầy không chỉ là cành san hô mà là
những cây san hô nguyên vẹn.
Đầy kinh
ngạc và khâm phục, sau khi xem tất cả những của cải quý báu đó, tôi thất lên:
- Chà,
tất cả các kho tàng của tất cả các quốc gia trên trái đất này nếu được tập họp
lại một nơi cũng không thể bằng được những của cải này. Hạnh phúc của ta thật
là vô bờ được sở hữu tất cả các kho báu này cùng với các nàng công chúa vô cùng
khả ái!
Tôi
không ngừng lại, thưa bà, để kể chi tiết tất cả những vật quý hiếm mà tôi thực
mục sở thị những ngày tiếp sau. Chỉ nói để bà hay là tôi đã mất không dưới ba
mươi chín ngày để mở hết chín mươi chín cánh cửa, để nhìn ngắm tất cả những gì
bày ra trước mắt và không còn đủ lời để trầm trồ khâm phục. Duy chỉ còn cánh
cửa thứ một trăm thì tôi đã bị ngăn cấm...”.
Ánh sáng
ban ngày chiếu rọi vào hậu cung của hoàng đế Ấn Độ đã làm Scheherazade nín
lặng. Những câu chuyện này đã làm cho Schahriar vô cùng thích thú nên chẳng có
ý nào không muốn nghe tiếp vào hôm sau. Vị quốc vương này đứng lên trong ý nghĩ
đó.
o O o
Dinarzade
cũng nôn nóng chẳng kém gì . Schahriar trong việc muốn biết có gì kỳ lạ bên
trong cánh cửa thứ một trăm đã được khoá kín nên thức giấc và cất tiếng gọi
hoàng hậu rất sớm:
- Chi
ơi, nếu chị không ngủ nũa, xin chị kể nốt câu chuyện kỳ lạ của người tu sĩ thử
ba đi.
- Anh ta
đã kể tiếp như sau - Scheherazade nói.
“Đang là
ngày thứ -bốn mươi, tính từ ngày các nàng công chúa yêu kiều duyên dáng ra đi.
Nếu ngày này tôi làm chủ được mình như cần pllải có thì tôi đã là một người
sung sướng nhất trongtất cả các người đàn ông trên thế gian này chứ đâu phải là
một người khổ sở nhất như bây giờ. Ngày mai các nàng sẽ về tới nơi và niềm vui
được thấy lại các nàng lẽ ra phải là cái hãm có hĩệu quả tính tò mò của tôi mới
phải, nhưng bởi sự yếu đuối mà tôi không bao giờ ngừng hối hận, tôi đã đầu hàng
dưới sự quyến rũ của quỷ sứ nó không cho tôi được yên ổn chút nào cho đến khi
tôi tự dấn thân vào con đường khổ ải bắt buộc phải trải qua.
Tôi mở
cái cánh cửa tai hoạ mà tôi đã hứa là sẽ không mở. Mới đợm chân bước vào thì
một mùi thơm khá dễ chịu nhưng không hợp với tạng người mình đã làm tôi ngã và
ngất xỉu. Nhưng rồi tôi tỉnh lại và đáng lẽ tuân theo lời cảnh bảo đó mà đóng
cửa lại, từ bỏ mãi mãi cái ý muốn thoả mãn trí tò mò thì tôi lại bước vào. Chờ
một lát cho cái mùi hương lạ đó nhạt dần đi, tôl thấy trong người trở lại bình
thường.
Đây là
một nơi rộng rãi, lợp mái vòm và trên sàn rải rác những củ nghệ. Nhiều cây đèn
bằng vàng khối với những thỏi nến đang cháy nồng mùi trầm và xạ hương. Ánh sáng
này được bổ sung thêm bằng những chiếc đèn đầu, có nhiều mùi hương khác nhau,
bằng vàng và bạc.
Trong số
rất nhiều đồ vật thu hút sự chú ý, tôi nhìn thấy một con ngựa màu đen, đẹp và
được chế tạo một cách rất tinh xảo ít có trên đời. Tôi đến gần để ngắm thật kỹ:
yên ngựa và đây cương ngựa cũng bằng vàng chạm trổ công phu, máng ăn của nó đặt
bên cạnh chứa lúa mạch và vừng một bên, bên kia là nước hoa hồng. Tôi cầm đây
cương kéo nó ra ngoài để ngắm cho rõ hơn. Tôi nhảy lên lưng và thúc cho nó tiến
lên. Vì thấy nó không nhúc nhích, tôi dùng chiếc roi đã nhặt được trong cái
chuồng ngựa tráng lệ đó, quật vào mông nó một cái. Tức thì nó hí lên một tiếng
khủng khiếp rồi giương đôi cánh, mà tôi không nhận thấy, bay vút lên khoảng
không. Tôi chỉ còn cách giữ cương cho thật chặt và mặc dù sợ hãi hết hồn, tôi
vẫn không sao cả. Nó hạ thấp đần xuống và đỗ trên sân thượng một toà lâu đài
rồi không cho tôi kịp tụt xuống nó rung mình thật mạnh làm tôi ngã bật ra phía
sau, và chót đuôi nó chọc thẳng vào mắt bên phải của tôi.
“Đó, vì
sao mà tôi thành chột mắt và tôi bỗng nhớ lại lời báo trước của mười chàng
trai. Con ngựa tiếp tục giương cánh bay lên mất hút. Tôi nhổm đậy vô cùng đau
xót vì tai hoạ mà tự mình đã chuốc lấy. Tôi bước đi. Trên sân thượng, bàn tay
bịt lấy con mắt vừa bị chọc thủng đau nhức nhối. Tôi đi xuống và thấy mình đang
ở trong một phòng khách quen thuộc vì nhận thấy có mười chiếc bệ bày thành vòng
tròn, một chiếc đặt chính giữa thấp hơn một chút. Đây đúng là lâu đài nơi mà
tôi đã bị con đại bàng quắp đi trong bộ da cừu.
Mười
chàng trai không có mặt trong phòng khách. Tôi ngồi chờ họ và chẳng mấy chốc họ
đã đi vào sau ông già. Họ không tỏ ra ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy tôi và
việc tôi bị chột mắt phải.
- Chúng
tôi lấy làm tiếc - Họ bảo tôi - là không thể chúc mừng sự trở về của ngài như
cách chúng tôi hằng mong ước. Nhưng chúng tôi đâu phải là những người gây nên
nỗi bất hạnh của ngài.
- Tôi sẽ
rất sai lầm - Tôi đáp - nếu đổ tội cho các ngài về chuyện đó. Đó là tự tôi
chuốc lấy thôi. Tôi xin nhận tất cả lỗi lầm về mình.
- Nếu câu
“đồng bệnh tương liên” là đúng - Họ lại nói - Thì gương của chúng tôi đây cũng
có thể góp một phần an ủi ngài. Tất cả những gì xảy ra với ngài thì chúng tôi
cũng đã từng nếm qua. Chúng tôi đã tận hưởng tất cả những lạc thú có ở trên đời
suốt một năm tròn, và có lẽ cũng vẫn tiếp tục được hưởng hạnh phúc nếu chúng
tôi không dại dột mở cánh cửa bằng vàng trong khi các nàng công chúa đi vắng.
Ngài cũng chẳng khôn ngoan gì hơn chúng tôi và ngài cũng đã nhận được sự trừng
phạt chẳng khác gì chúng tôi. Chúng tôi rất muốn giữ ngài lại đây để cùng hảnh
xác như chúng tôi đang làm chưa biết bao giờ mới chấm dứt. Nhưng chúng tôi cũng
đã từng nói với ngài có nhiều lý do đã ngăn cấm không cho nhận ngài vào nhóm
được. Vậy thì ngài hãy đi đi, đi tởí tận triều đình Bagdad? ở đó ngài sẽ thấy
ai là người quyết định số phận của ngài.
Họ chỉ
vẽ cho tôi đường phải đi, và thế là tôi từ biệt họ.
Dọc
đường di, tôi đã cạo râu tóc; lông mày và khoác áo tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi. Tôi
đi rất lâu. Cuối cùng thì ngày hôm nay đã tới thành phố này vào lúc chập tối.
Tôi gặp ở cổng thành người tu si này, đồng đạo của tôi. Cả ba người đều hết sức
ngạc nhiên thấy cùng bị chột bên mắt phải. Nhưng chúng tôi chưa có thời gian để
hỏi han nhau về cái tai nạn chung đó. Thưa bà, chúng tôi chỉ còn đủ thời gian
để đến đây nài xin sự giúp đỡ và đã được bà gia ân một cách thật hào hiệp.
Tu sĩ
khổ hạnh thứ ba đã kể xong chuyện mình, Zobéide bảo anh và cả hai người tu sĩ
kia:
- Các
ngài hãy đi đi, cả ba ngài đều được tự do, muốn đi đâu tuỳ ý
Nhưng
một trong ba người nói:
- Thưa
bà, xin miễn thứ cho chúng tôi vì tính tò mò, hãy để cho chúng tôi được nghe
chuyện của các ngài kia, họ còn chưa được nói.
Người
thiếu phụ bèn quay sang phía hoàng đế, tể tướng Giafar và Mesrour mà nàng chưa
biết là những người như thế nào, bảo họ:
- Bây
giờ đến lượt các ngài kể chuyện mình cho tôi nghe. Hãy kể đi?
Tể tướng
Giafar vẫn là người phát ngôn, lải trả lờị Zobéide: .
- Thưa
bà, để vâng theo lời bà, chúng tôi chỉ xin nhắc lại điều mà chúng tôi đã nói
trước khi vào quý xá. Chúng tôi - ông nói tiếp - là những thương nhân ở Mossoul
đến Bagdad để thương lượng mua bán hàng. Hiện nay hang hoá của chúng tôi còn để
ở khọ một trang trại mà chúng tôi tạm trú. Ngày hôm nay chúng tôi đã tiệc tùng
với rất nhiều đồng nghiệp tại một nhà buôn ở thành phố. Ông này sau khi chiêu
đãi chúng tôi thật thịnh soạn, đã cho gọi một đoàn vũ nữ và vũ công cùng với
các ca sĩ và nhạc công tôi giúp vui. Những tiếng ồn do chúng tôi gây ra đã làm
cho lính tuần tra kéo đến bắt giữ nhiều người. May mắn, chúng tôi đã trốn
thoát, nhưng vì đêm đã khuya, cổng trang trại đã đóng kín nên chúng tôi chẳng
biết về đâu. Tình cờ đi qua phố này, nghe thấy tiếng đàn hát vui chơi trong nhà
nên đánh bạo gõ cửa. Đó, thữa bà, chuyện của chúng tôi chỉ có thế xin được
thuật lại theo lệnh của bà.
Zobéide
nghe xong dường như lưỡng lự chưa biết xử trí thế nào. Các tu sĩ nhận thấy, xin
nàng đối xử với ba nhà buôn ở Mossoul cũng có độ lượng như đối với họ.
- Thôi
được - Nàng bảo họ - Ta đồng ý. Ta muốn là mọi người đều được đối xử như nhau.
Ta tha cho các người nhưng với điều kiện là tất cả phải lập tức ra khỏi nhà này
và đi đâu thì tuỳ ý.
Zobéide
ra lệnh đó với thái độ tỏ ra bắt mọi người phải tuân theo. Nhà vua, tể tướng,
Messoul, ba tu sĩ và anh khuân vác đi ra không một tiếng phàn nàn vì sự có mặt
của bảy tên nô lệ vũ trang khiến họ chẳng dám ho he. Khi đã đi ra ngoài và cửa
toà nhà đã đóng lại, hoàng đế vẫn chưa để lộ hình tích, bảo những tu sĩ:
- Các
ngài là những người lạ và mới tôi thành phố này, bây giờ định đi đâu, trời thì
chưa sáng hẳn?
- Thưa
ngài - Họ đáp - Đó là điều làm chúng tội lung túng.
- Thế
thì hãy theo chúng tôi - Nhà vua tiếp – Chúng tôi sẽ giúp các ngài thoát khỏi
khó khăn.
Rồi ông
quay sang bảo tể tướng:
- Ngươi
hãy đưa họ về nhà ngươi và sáng mai dẫn họ đến chỗ ta. Ta muốn cho chép lại
những câu chuyện của họ. Những chụyện đó đáng được ghi vào biên niên triều đại
ta.
Tể tướng
Giafar dẫn theo mình ba tu sĩ. Anh khuân vác thì đi về nhà. Còn hoàng đế có
Mesrour hộ giá trở về hoàng cung. Ông đi nằm nhưng không sao nhắm được mắt, đầu
ỏc còn bị bao nhiêu những chuyện kỳ lạ mắt nhìn thấy, tai nghe thấy chi phối.
Ông băn khoăn nhất không rõ Zobéide là người như thế nào, vì sao mà nàng lại
hành hạ đã man hai con chó mực cái và vì sao mà Amine lại có bộ ngực đầy sẹo.
Trời sáng rõ rồi mà đầu óc ông vẫn bận rộn vì những ý nghĩ đó. Ông đứng lên và
đi ra thiết triều, ngồi lên ngai.
Tể tướng
tới sau một lát và chúc tụng nhà vua như thường lệ. Hoàng đế bảo:
- Tể
tướng này, công việc cần phải giải quyết hôm nay không có gì cấp bách lắm mà
việc ba thiếu phụ và hai con chó mực cái còn gấp hơn nhiều. Ta không thể nào ăn
ngon ngủ yên khi chưa được biết rõ tất cả bao nhiêu chuyện làm ta sửng sốt. Nhà
ngươi hãy đi triệu tất cả các thiếu phụ ấy và cả các tu sĩ khổ hạnh nữa tới đây
cho ta. Đi đi, và nhớ là ta nóng lòng chờ đợi nhà ngươi trở về đấy.
Tể tướng
biết rất rõ tính tình sôi nổi và nôn nóng của chủ mình nên vội vã chấp hành.
Ông tới nhà các thiếu phụ, thẳng thắn trình bày với họ lệnh của hoàng đế triệu
họ mà không nói gì tới chuyện gì đã xảy ra tại nhà họ đêm hôm trước.
Các
thiếu phụ lấy mạng che mặt và đi cùng với tể tướng, ông này tạt qua nhà mình và
dẫn luôn cả ba tu sĩ cùng đi. Các tu sĩ đã có thời gian để biết rõ là mình vô
tình đã được tiếp xúc với hoàng đế.
Tể tướng
dẫn cả bọn vào hoàng cung coi như đã làm tròn nhiệm vụ. Hoàng đế rất hài lòng
về sự mau lẹ này. Để giữ lịch sự trước triều thần có mặt lúc đó, nhà vua đã cho
các thiếu phụ đứng sau cửa căn phòng dẫn tới hậu cung và giữ ba tu sĩ lại bên
cạnh mình. Vẻ cung kính của ba chàng tỏ ra là họ đã biết mình đang đứng trước
mặt ai.
Sau khi
các thiếu phụ đã yên vị, hoàng đế ngoảnh về phía họ bảo:
- Thưa
các bà, nói để các bà biết là tôi đã cải trang thành thương nhân và được vào
nhà các bà tối hôm đó. Chắc các bà lo sợ, cho là vì có điều gì xúc phạm đến ta
mà đã được gọi tới đây để bị xử phạt. Nhưng xin cứ yên tâm. Hãy tin rằng ta đã
quên tất cả những gì thuộc về quá khứ và còn rất hài lòng về cách xử sự của các
bà. Ta ước sao tất cả phụ nữ của thành Bagdad này cũng đều khôn ngoan lịch
thiệp như các bà mà ta đã được chứng kiến. Ta luôn luôn nhớ tới thái độ ôn hoà
của các bà trước hành vi thiếu lịch sự của chúng ta. Lúc đó ta là thương nhân ở
Mossoul, nhưng bây giờ đây ta là Haroun Alraschid, hoàng đế thứ năm của triều
đại Abbas quang vinh, đang trị vì thay thế cho đấng tiên tri vĩ đại của chúng
ta. Ta triệu các bà tới đây, đơn thuần chỉ muốn biết các bà là ai và cũng để
hỏi xem vì sao mà một trong các bà, sau khi hành hạ hai con chó mực cái, lại
khóc lóc cùng với chúng. Ta cũng lại còn muốn biết vì sao một bà lại có bộ ngực
đầy vết sẹo.
Mặc dù
hoàng đế nói những lời trên đây rất rõ rang rành mạch và các thiếu phụ đều nghe
chăm chú nhưng tế tướng Giafar, với vẻ thật trịnh trọng vẫn nhắc lại các câu
trên cho các bà nghe...”
- Nhưng,
tâu hoàng thượng - Scheherazade nói - Trời sáng mất rồi. Nếu hoàng thượng còn
muốn nghe tiếp thì Người sẽ lại phải cho thiếp sống đến ngày mai thôi. Hoàng đế
gật đầu đồng ý, chắc là Scheherazade sẽ kể cho nghe. chuyện nàng Zobéide mà ông
chẳng phải là không muốn nghe.
o O o
- Chị
thân yêu của em - Dinarzade kêu chị lúc sắp tàn đêm - Nếu chị không còn ngủ
nữa, thì xin chị nói về Zobéide vì em chắc là bà thiếu phụ này thể nào cũng kể
chuyện của mình với nhà vua.
- Đúng
vậy em ạ - Scheherazade đáp - Khi nhà vua đã nói cho bà ta yên tâm như vừa rồi
thì người thiếu phụ này cũng đáp ứng yêu cầu của nhà vua và trình bày như sau:
Nghìn Lẻ
Một Đêm
Chương
12: Chuyện kể của nàng Zobeide
- Tâu
đấng Thống lĩnh các tín đồ - Nàng nói - Chuyện tôi kể hầu Người sau đây là một
trong các chuyện kỳ lạ nhất chưa ai từng nghe nói. Hai con chó mực cái và tôi
vốn là ba chị em cùng một cha mẹ sinh ra. Tôi sẽ kể Người nghe vì cơn cớ gì mà
họ lại hoá thành chó.
Hai
thiếu phụ ở cùng với tôi và hiện đang có mặt tại đây cũng là chị em của tôi
nhưng cùng cha khác mẹ. Cô em mà ngực đầy vết sẹo tên là Amine, cô kia có tên
là Safie, còn tôi là ZobéiDe.
Sau khi
cha chúng tôi tạ thế, của cải ngườI để lại được chia đều cho mọi người chúng
tôi. Sau khi nhận phần của mình, hai cô em này chIa tay nhau và mỗi cô đều về
sóng với mẹ đẻ của mình. Hai người chị và tôi ở lại sống với mẹ. Sau đó mẹ
chúng tôi qua đời để lại cho chúng tôi mỗi người một nghìn đồng sequins.
Khi mọi
người chúng tôi đã nhận đủ phần tài sản của mình thì hai chị tôi (tôI là em út)
thành gia thất đi theo chồng và để tôI ở LạI một mình. Sau hôn nhân một thời
gian ngắn thì người chồng của chị cả tôi bán đi tất cả gia sản, đồ đạc nhà cửa
rồi cả haI vợ chồng sang sinh sống bên châu Phi. Tại đây, người chồng tiêu xài
hoang phí, rượu chè trai gái nên chẳng bao lâu mà vốn liếng của anh ta và vốn
riêng của chị tôi hết sạch. Cuối Cùng, thấy mình hoàn toàn khánh kiệt, anh ta
kiếm cớ ruồng rẫy vợ và đuổi chị đi. Chị tôi trở về Bagdad, trải bao gian nan
khổ ải trong một chuyến đi dài, chị về trú ngụ tại nhà tôi trong tình trạng vô
cùng đáng thương, làm xót xa đến cả những tấm lòng cứng rắn. Tôi đón nhận chị
với tất cả sự yêu thương mà chị có thể chờ đợi ở tôi. Tôi hỏi chị nguyên nhân
của hoàn cảnh khốn khổ này. Chị khóc kể cho tôi nghe hạnh kiểm xấu xa của chồng
và sự đối xử tàn tệ của hắn đối với chị. Tôi rất xúc động về nỗi bất hạnh của
chị và cũng không sao cầm được dòng nước mắt thương cảm. Tôi bảo chị đi tắm
rửa, đưa cho chị quần áo của tôi để chị thay và bảo chị: “Chị của em, chị là
chị cả, em coi chị như mẹ. Khi chị rời đây đi theo chồng thì với phần tài sản
được chia, nhờ ơn Thượng đế, em đã dùng số vốn ít ỏi đó chăn nuôi tằm và đã ăn
nên làm ra. Xin chị hãy coi tất cả những gì em có đây như là của chị, chị muốn sử
dụng ra sao tuỳ ý.
Trong
nhiều tháng liền, chúng tôi sống với nhau thật hoà thuận. Chúng tôi thường luôn
luôn trao đổi chuyện trò về người chị thứ hai và rất lấy làm ngạc nhiên là
tuyệt nhiên không có một tin tức nào. Thì ra chị ấy cũng lâm vào hoàn cảnh đáng
phàn nàn chẳng khác gì chị cả. Chồng của chị cũng đối xử với chị tàn tệ như
thế. Và tôi lại đón nhận chị cũng đầy tình thân ái như thế.
Một thời
gian sau hai bà chị của tôi, dưới cớ không muốn là gánh nặng cho tôi mãi, tỏ ý
muốn tái giá. Tôi trả lời hai chị là nếu họ không có lý do gì ngoài ý cho mình
là gánh nặng cho tôi thì xin cứ yên tâm sống cùng tôi, là vốn liếng của tôi
cũng đủ chu cấp cho cả ba một cuộc sống chẳng đến nỗi thiếu thốn. Nhưng - tôi
nói thêm - em sợ là các chị có ý muốn đi bước nữa. Nếu thực là như thế, thì thú
thật là em vô cùng ngạc nhiên. Sau kinh nghiệm mà các chị vừa trải qua trong
cuộc hôn nhân chẳng tất đẹp gì, chẳng lẽ các chị còn muốn sa vào lần thứ hai?
Các chị cũng chẳng còn lạ gì là tìm được một người đàn ông chân chính bây giờ
thật vô cùng khó khăn. Hãy tin em đi, chúng ta hãy tiếp tục cuộc sống chung với
nhau như thế này, há chẳng phải là ấm cúng dễ chịu sao!
Tất cả
những lời chân tình tôi nói với họ đều hoàn toàn vô ích. Họ đã quyết định lại
đi lấy chồng và họ thực hiện quyết định đó. Nhưng, chỉ vài tháng sau họ lại
quay về thiết tha xin lỗi là đã không nghe theo lời khuyên của tôi.
- Em là
em út của các chị - Họ bảo tôi - Nhưng em khôn ngoan hơn các chị nhiều. Nếu em
lại vui lòng đón nhận các chị và coi các chị như những nô lệ của em thì các chị
sẽ chẳng bao giờ mắc sai lầm như thế nữa.
- Các
chị yêu quý! - Tôi đáp - Kể từ ngày các chị chia tay mới đây, em vẫn một lòng
thương yêu, chẳng có gì thay đổi đối với các chị cả. Các chị hãy trở về đây và
cùng chung hưởng với nhau những gì mà em sở hữu.
Tôi ôm
hôn họ và chúng tôi lại cùng chung sống với nhau như trước đây.
Được một
năm, chúng tôi sống trong tình đoàn kết và được Thượng đế phù hộ cho cái vốn
liếng nhỏ nhoi của mình phát triển. Tôi nảy ra ý định làm một chuyến đi biển và
thử vận may trong buôn bán. Vì vậy tôi và hai chị chuyển đến Balsora mua một
con tàu đầy đủ trang thiết bị, chất đầy hàng mà tôi cho chở tới từ Bagdad.
Giương buồm và được thuận gió, chẳng mấy chốc, chúng tôi đã qua Vịnh Persique.
Ra khơi, chiếu thẳng sang Ấn Độ và sau hai chục ngày lênh đênh trên mặt biển,
chúng tôi đã nhìn thấy đất liền. Đó là một ngọn núi rất cao, dưới chân núi một
thành phố có vẻ ngoài thật trù phú.
Vì đang
thuận gió nên chúng tôi cặp bến sớm và thả neo.
Không đủ
kiên nhẫn đợi các chị trang điểm và sửa soạn đi theo, tôi xuống tàu một mình và
đi thẳng vào thành phố. Tôi thấy một đám đông, người thì ngồi, người thì đứng,
mỗi người trong tay đều cầm một cái gậy, tất cả đều có vẻ mặt xấu xí khủng
khiếp khiến tôi hoảng sợ. Nhưng nhận thấy tất cả đều im lìm bất động và ngay cả
đồng tử mắt cũng không động đậy, tôi vững dạ tiến đến gần hơn và thấy đó là
những con người đã hoá đá.
Tôi đi
vào trong thành, qua nhiều đường phố mà từng quãng từng quãng lại có những
người trong đủ các tư thế nhưng đều bất động vì đã hoá đá. Ở khu vực buôn bán,
phần lớn các quán hàng đều đóng cửa, còn trong số ít những quán cửa mở thì
những người ở đó cũng đều đã hoá đá. Ngước mắt lên nhìn những ống khói các bếp,
không nhìn thấy khói toả, tôi đoán là tất cả những ai ở trong nhà cũng như
những người ở bên ngoài đều hoá đá rồi.
Đến
trước một công trường lớn ở giữa thành phố, tôi phát hiện ra một cái cổng lớn
hai cánh để mở dát những tấm vàng ròng. Phía trước có một tấm rèm lụa rủ xuống
và một cái đèn treo ngay phía trên cổng. Sau khi ngắm kỹ toà nhà, tôi không
chút nghi ngờ đó là cung điện của một vị quốc vương trị vì xứ sở này. Nhưng vô
cùng kinh ngạc là không gặp một sinh vật nào mà tôi thì hy vọng là tại đây có
thể thấy một người nào đó. Tôi nâng bức rèm lên và lại càng kinh ngạc khi chỉ
nhìn thấy dưới tiền đình một vài người gác cổng hoặc tuần canh đều đã hoá đá,
người đứng, kẻ ngồi hoặc nửa nằm nửa ngồi.
Tôi đi
qua một cái sân lớn có rất đông người. Những người này thì hình như đang đi,
những người kia đang đến và chẳng ai nhúc nhích vì họ đều hoá đá như tất cả
những người đã gặp. Tôi đi qua một cái sân thứ hai rồi đến cái sân thứ ba, mọi
chỗ đều cô quạnh, im lặng đến rùng rợn.
Tiến tới
một cái sân thứ tư, tôi nhìn thấy ngay trước mặt mình một đinh thự lộng lẫy mà
các cửa sổ đều đóng các tấm lưới bằng vàng khối. Đoán đó là nơi ở của hoàng
hậu, tôi đi vào. Trong một căn phòng thấy rất nhiều hoạn nô da đen đã hoá đá.
Bước tiếp đến một căn phòng bài trí lộng lẫy, tôi thấy một bà mệnh phụ cũng đã
hoá đá. Tôi biết đó là hoàng hậu vì trên đầu có vương miện bằng vàng và một
chuỗi ngọc trai rất tròn và lớn hơn hạt dẻ. Tôi ngắm nghía thật gần và thấy
chưa từng nhìn được một thứ nào đẹp hơn.
Tôi ngắm
nhìn một lát tất cả những sự giàu có và sang trọng trong căn phòng này nhất là
chiếc thảm chùi chân, những tấm gối dựa và chiếc sập trải tấm vải Ấn Độ thêu
chỉ vàng với những hình người và vật thêu sợi bạc vô cùng tinh xảo.”
Scheherazade
đáng lẽ còn tiếp tục kể nếu không thấy tia sáng bình minh đã len lỏi vào phòng
ngủ. Hoàng đế say sưa nghe chuyện. Ông đứng lên tự bảo: ta cần phải biết cái
chuyện những con người hoá đá lạ lùng này rồi sẽ đi tới đâu.
o O o
Dinarzade
rất thích thú về đoạn đầu chuyện nàng Zobéide nên đã không quên kêu hoàng hậu
trước khi trời sáng:
- Chị
ơi? Nếu chị đã thức thì hãy kể tiếp cho em biết là Zobéide còn nhìn thấy những
gì trong cái cung điện kỳ lạ mà bà ta đã đi vào.
- Người
thiếu phụ này - Scheherazade nói - đã kể tiếp chuyện của mình với hoàng đế như
sau:
- Tâu bệ
hạ - Nàng kể - Từ phòng hoàng hậu hoá đá, tôi đã qua rất nhiều buồng và các
phòng trong cung điện. Các nơi này đều rất sạch sẽ và tráng lệ. Cuối cùng tôi
đến một căn phòng to rộng khác thường, ở đó có một bệ bằng vàng khối cao mấy
bậc và có đính những viên ngọc bích rất to. Trên bệ đặt một chiếc giường trải
gấm viền ngọc trai. Điều làm ngạc nhiên và khâm phục hơn cả là thấy có một
luồng sáng chói ngời phóng ra từ phía chiếc giường đó. Tò mò muốn biết rõ sự
tình, tôi trèo lên, nghển đầu nhìn thấy trên chiếc ghế đẩu một viên kim cương
to bằng trứng đà điểu hoàn mỹ đến mức không thấy một vệt nhỏ nào trên mình nó.
Viên kim cương phát sáng làm mắt tôi bị chói loà.
Hai bên
đầu giường có hai cây đuốc thắp không rõ để làm.gì. Dù sao trong hoàn cảnh như
vậy cũng khiến tôi đoán là có một ai đó sống trong cái cung điện nguy nga tráng
lệ này vì những cây đuốc không thể tự nó thắp sang được. Rất nhiều những cái
khác thường đã giữ tôi dừng lại ở căn phòng này, chỉ riêng viên kim cương mà
tôi vừa nói cũng đã là vô giá.
Cũng vì
tất cả các cửa đều để ngỏ hoặc chỉ khép hờ nên tôi đã đi vào những phòng khác
cũng đẹp và sang trọng như những phòng tôi đã qua. Tôi đi đến tận các nhà bếp
và các kho chứa đồ đầy ắp những của cải và mải chú ý tới tất cả những kỳ quan
đó mà quên khuấy cả bản thân mình. Tôi chẳng còn nghĩ gì đến con tàu cũng như
các chị mình mà chỉ nghĩ tới làm sao cho thoả trí tò mò. Nhưng đêm đang tới
nhắc tôi là đã đến giờ rút ra về. Tôi muốn quay lại con đường qua các khoảng
sân mà từ đó tôi đã đi nhưng chẳng phải dễ dàng gì mà tìm lại được. Tôi đi lạc
trong các phòng và thấy mình lại vào căn phòng to rộng ở đó có cái bệ cao, cái
giường, viên kim cương khổng lồ và những cây đuốc thắp sáng. Tôi quyết định qua
đêm ở đây và sáng sớm mai sẽ tìm đường về con tàu của mình. Tôi đặt mình xuống
glường không khỏi rùng mình sợ hãi thấy trơ trọi một mình ở một nơi hoang phế
như thế này và chắc là vì sự sợ hãl đã làm tôi không sao mà ngủ được.
Vào
khoảng nửa đêm bỗng tôi nghe thấy như tiếng một người đàn ông đọc kinh Coran,
cũng giống kiểu cách và giọng đọc như chúng ta thường đọc trong đền thờ đạo Hồi
của chúng ta. Điều này làm tôi vui mừng hết sức. Tôi lập tức bật dậy cầm lấy
một cây đuốc để soi đường. Tôi đi từ phòng này sang phòng khác về phía nghe
thấy tiếng nói đó vọng lại. Dừng lại trước cửa một phòng mà tôi thấy không thể
nhầm được là tiếng nói phát ra từ trong đó. Tôi đặt cây đuốc xuống đất nhìn qua
khe cửa thấy căn phòng như một nơl rao giảng. Đúng vậy, cũng như trong đền thờ
của chúng ta, có một cái khám để các tín đồ quay vào cầu nguyện, những ngọn đèn
treo thắp sáng và hai chân đèn với những cây nến trắng to cũng đang cháy sáng.
Tôi cũng
nhìn thấy một cái thảm nhỏ trải sẵn theo cách như ở chúng ta để đặt mình lên
trên và cầu kinh. Một người trẻ tuổi vẻ mặt hiền từ đang ngồi trên tấm thảm, chăm
chú đọc quyển kinh Coran đặt trên một chiếc giá nhỏ trước mặt. Nhìn thấy vậy,
lòng tràn đầy ngưỡng mộ, tôi tự hỏi trong đầu làm sao lại có thể chỉ còn một
mình anh ta sống trong một thành phố mà tất cả mọi người đều đã hoá đá và chẳng
còn nghi ngờ gì nữa là trong chuyện này có một cái gì đó kỳ quặc khác thường.
Vì cửa
chỉ khép hờ nên tôi đẩy ra, bước vào và đứng thẳng người trước khám, xướng to
lời cầu nguyện: “Ngợi ca Thượng đế đã phù hộ cho chúng con được thuận buồm xuôi
gió. Xin Người hãy ban phúc lành và che chở cho chúng con như thế cho đến lúc
về lại nước nhà. Xin hãy nghe và chấp nhận lời cầu xin của chúng con”.
Chàng
thanh niên đưa mắt nhìn tôi nói:
- Thưa
quý bà, xin cho biết quý bà là ai và việc gì đã đưa bà tới cái thành phố ảm đạm
này. Để đáp lại, tôi sẽ cho bà biết tôi là ai, có gì đã xảy ra với tôi và vì lý
do gì mà toàn bộ dân cư thành phố này lại lâm tới tình trạng mà bà đã thấy và
vì sao chỉ có riêng một mình tôi đã được an toàn vô sự trong cái cảnh tàn phá
khủng khiếp này.
Tôi kể
tóm tắt cho chàng ta nghe tôi từ đâu tới, điều gì đã khiến tôi làm cuộc hành
trình này và đã may mắn cập bến sau hai chục ngày lênh đênh trên sóng nước như
thế nào. Khi kể xong, tôi yêu cầu chàng ta thực hiện lời đâ hứa và cũng nói lên
sự xúc động của mình vì cảnh tượng bi thảm của tất cả những nơi tôi đã đi qua.
- Thưa
quý bà - Chàng trẻ tuổi nói - Xin hãy kiên nhẫn một chút.
Nói
xong, chàng khép cuốn kinh Coran lại, cho vào một cál túi quí và đặt vào trong
khám. Tôi lợi dụng khoảnh khắc này để ngắm kỹ chàng trai trẻ và thấy chàng thật
đẹp và duyên dáng khiến tôi thấy lòng mình rung động, một tình cảm trước đây
chưa từng có. Chàng bảo tôi ngồi bên cạnh mình, và trước khi chàng bắt đầu câu
chuyện, tôi không ngăn được để nói với chàng tình cảm mà chàng đã gợi lên cho
tôi:
- Hơi
chàng trai quý mến và thân thương! Không ai có thể nôn nóng hơn tôi lúc này là
đang chờ đợi một lời làm sáng tỏ về biết bao nhiêu sự kiện kỳ lạ đập vào mắt
tôi ngay từ bước đầu tiên tôi đi vào thành phố của chàng mà óc hiếu kỳ của tôi
chưa được thoả mản. Xin chàng hãy nói đi; hãy cho tôi biết nhờ có phép màu nào
mà chỉ duy nhất có chàng còn sống giữa bao nhiêu con người đã chết một cách dị
thường”.
Scheherazade
đến đoạn này thì ngừng lại và nói với Schahriar:
- Tâu bệ
hạ, chắc là Người chưa nhận thấy là trời vừa sáng. Nếu thiếp tiếp tục kể e là
mang tiếng lợi dụng sự quá tập trung chú ý của Người.
Hoàng đế
đứng lên, quyết định đêm sau sẽ nghe nốt câu chuyện đặc biệt kỳ lạ này.
o O o
- Chị
ơi, nếu chị đã thức giấc - Dinarzade gọi chị trước khi trời sáng ngày hôm sau -
thì em xin chị kể tiếp những gì đã xảy ra giữa nàng Zobélde và chàng trai trẻ
nàng gặp trong toà cung điện mà chị tả lại là rất đẹp đó.
- Chị sẽ
làm vui lòng em ngay đây - Hoàng hậu nói.
“
Zobéide kể tiếp câu chuyện của nàng như sau:
- Thưa
bà - Chàng trẻ tuổi đó bảo tôi - Tôi thấy là bà biết rõ đấng Thượng đế chán
chính qua lời cầu nguyện vừa rồi. Bà sẽ nghe một chuyện sau đây nó làm rõ sự vĩ
đại và quyền lực của Người. Tôi xin nói thành phố này là kinh đô của một quốc gia
hùng mạnh mà quốc vương cha tôi mang tên. Vị quốc vương này, cả triều đình của
ông, dân cư trong thành phố và tất cả các bầy tôi của ông đều là các đạo sĩ
pháp sư, thờ thần lửa và thần Nardoun, cựu vương của những người khổng lồ chống
lại Thượng đế.
Mặc dù
sinh ra từ cha mẹ theo tà giáo, tôi đã có may mắn là trong thời thơ ấu có gia
sư bảo mẫu là một phụ nữ hiền hậu theo đạo Hồi thuộc lòng kinh Coran và thuyết
giảng thật là hoàn hảo. Bà thường luôn luôn bảo tôi: “Hoàng tử thân yêu? Chỉ có
một đấng Thượng đế chân chính mà thôi. Nhớ là không được thừa nhận và tôn thờ
các vị khác”. Bà dạy tôi đọc chữ A-rập và tôi tập đọc ngay ở quyển kinh Coran
mà bà đưa cho. Khi tôi bắt đầu hiểu biết, bà giảng giải cho tôi tất cả những
điểm hay về mọi mặt trong quyển sách hoàn hảo đó và làm cho tôi thấm nhuần tinh
thần đạo Hồi giấu vụng cha tôi và tất cả mọi người. Bà tạ thế, nhưng cũng đã
kịp trao cho tôi những kiến thức cần thiết để hoàn toàn tin tưởng vào chân lý
của đạo Hồi. Từ khi bà mất, tôi vẫn ghi nhớ được những điều dạy bảo của bà và
ghê sợ tà thần Narđoun và các tín đồ tôn thờ thần lửa.
Cách đây
ba năm ba tháng, một giọng nói bất thần vang lên khắp thành phố mọi người nghe
rõ từng lời: “Hỡi nhân dân, hãy từ bỏ sự phụng thờ Nardoun và thần lửa. Hãy tôn
thờ Thượng đế duy nhất bác ái nhân từ”.
Cũng
giọng nói đó vang lên suốt ba năm liền, nhưng không một ai cải đạo. Ngày cuối
cùng của năm thứ ba vào khoảng ba, bốn giờ sáng, toàn thể dân cư đều hoá đá
trong chốc lát, môi người ở một tư thế đúng như lúc đó. Quốc vương cha tôi cùng
chung một số phận: ông biến thành đá đen như đã thấy ở một chỗ trong hoàng
cung, và hoàng hậu mẹ tôi cũng thế.
Tôi là
người duy nhất mà Thượng đế không giáng đòn trừng phạt khủng khiếp. Từ ngày đó
tôi tiếp tục phụng sự . Người với tấm lòng nhiệt thành chưa từng thấy, và thưa
quý bà xinh đẹp, tôi tin là Người đã phái bà tới đây để an ủi tôi. Tôi xin tỏ
lòng vô cùng biết ơn Người vì, xin thú thực với bà là cuộc sống cô đơn này đã
làm cho tôi vô cùng buồn nản”.
Tất cả
câu chuyện và nhất là những lời nói về cuối này làm tình cảm của tôi đối với
chàng càng thêm nồng đậm.
- Thưa
hoàng tử - Tôi nói với chàng - Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chính đấng Tối cao đã
run rủi tôi đến đây để được gặp chàng và để đưa chàng ra khỏi cái chốn đầy tang
tóc này. Con tàu đã đưa tôi đến đây cũng đủ để làm cho chàng tin là tôi cũng có
chút tiếng tăm ở Bagdad mà tại đó tôi còn có một tài sản khá lớn. Tôi mạo muội
xin hiến chàng một chỗ trú chân cho tới khi đức Thống lĩnh các tín đồ, đại diện
của đấng tiên tri vĩ đại mà chàng đã biết, nhận ra chàng và ban cho mọi vinh dự
mà chàng xứng đáng. Vị quốc vương danh tiếng này ngự ở Bagdad, chẳng mấy chốc
sẽ biết chàng tới kinh đô của Người, sẽ cho chàng biết là sẽ chẳng uơng công
khi cầu xin sự ủng hộ của Người. Không thể nào mà chàng còn ở lại lâu hơn nữa
trong một thành phố mà mọi vật đều làm cho chàng không chịu nổi. Con tàu của
tôi sẵn sàng phục vụ chàng và chàng có thể sử dụng nó một cách tự do tuyệt đối.
Hoàng tử
nhận lời và chúng tôi bàn bạc với nhau về việc rời đi qua nốt phần đêm còn lại.
Tảng
sáng hôm sau, chúng tôi rời cung điện đi ra bến cảng. Các chị tôi, người thuyền
trưởng và các nô lệ của tôi đều đang rất lo lắng về tôi. Sau khi giới thiệu các
chị tôi với hoàng tử, tôi kể cho các chị lý do vì sao không về được tàu ngày
hôm trước, cuộc gặp gỡ hoàng tử trẻ, câu chuyện của chàng và nguyên nhân của
tai hoạ cho một thành phố tráng lệ như vậy.
Các thuỷ
thủ phải mất nhiều thì giờ để dỡ hàng mà tôi đã mang theo và thay thế bằng hàng
chất lên là những thứ quí nhất trong cung điện bằng đá quí, bằng vàng và bằng
bạc. Chúng tôi phải để lại những đồ gỗ và vô số những đồ đạc bằng vàng bạc vì
không mang đi xuể. Có lẽ cần phải rất nhiều tàu mới chở hết các tài sản có
trước mắt.
Sau khi
xếp lên tàu những thứ muốn mang theo, chúng tôi lấy thêm thực phẩm và nước
ngọt. Về lương thực, thì hãy còn nhiều vì đã tiếp tế ở Balsora. Cuối cùng,
chúng tôi giương buồm trong chiều gió thuận đúng như mong ước”.
Kể đến
đây, trời vừa hửng sáng. Scheherazade ngừng lại, còn hoàng đế chẳng nói gì,
đứng lên. Nhưng ông tự hứa với mình là sẽ nghe đến cuối câu chuyện của Zobéide
và chàng hoàng tử trẻ tuổi đó đã được sống sót thật thần kỳ.
o O o
Vào lúc
tàn đêm hôm sau, Dinarzade nóng lòng muốn biết chuyến tàu trở về ra sao, gọi
hoàng hậu:
- Chị
ơi. Nếu chị đã thức, em xin chị hãy kể nốt chuyện hôm qua. Chị hãy cho em hay
là chàng hoàng tử trẻ và Zobéide có thuận buồm xuôi gió về tới Bagdad không.
- Rồi em
sẽ rõ thôi, em ạ - Scheherazade nói – Zobéide vẫn nói với hoàng đế, kể tiếp như
sau:
“ - Tâu
bệ hạ - Zobéide nói - Chàng hoàng tử trẻ, hai chị thiếp và thiếp hằng ngày đàm
đạo thật vui vẻ ấm áp. Nhưng, than ôi! Sự đoàn kết hoà thuận của chúng tôi kéo
dài chẳng được bao lâu. Những bà chị tỏ ra ghen tức vì nhận thấy giữa hoàng tử
và tôi thể hiện có tình cảm đặc biệt với nhau, và một hôm hỏi tôi vẻ ranh mãnh
là sẽ làm gì với hoàng tử khi về tới Bagdad. Tôi thấy rõ là đặt ra câu hỏi đó,
các bà chị muốn thăm dò tình cảm của tôi. Vì vậy, làm ra vẻ vui đùa, tôi trả
lời họ là sẽ lấy chàng hoàng tử làm chồng. Rồi quay về chàng tôi bảo: “Xin
hoàng tử hãy đồng ý. Về tới Bagdad em muốn tự hiến mình cho chàng để trở thành
nô lệ của chàng, hầu hạ chàng và công nhận chàng là ông chủ tuyệt đối của em”.
- “Thưa bà - Hoàng tử đáp Không rõ có phải đây chỉ là một lời đùa vui hay
không, nhưng về phía mình? tôi xin tuyên bố rất nghiêm chỉnh trước mặt các bà
chị của bà đây, là tôi rất vui lòng nhận sự dâng hiến của bà, không phải để coi
bà như một nô tì, nhưng mà là phu nhân của tôi, bà chúa của tôi, và hứa là sẽ
không có bất cứ một sự lấn lướt nào trong mọi hành động của mình”. Các chị tôi
biến sắc mặt khi nghe những lời trên đây và tôi nhận thấy là từ đó thái độ của
họ đối với tôi không còn như trước.
Chúng
tôi đã tới vịnh Persique, đang tiến tới gần Balsora, và với gió thuận như lúc
này, tôi hy vọng là trong ngày mai sẽ tới bến này. Nhưng trong đêm, lợi đụng
lúc tôi ngủ say, các chị tôi đã khiêng tôi lẳng xuống biển. Cả hoàng tử cũng bị
cùng số phận và bị chết đuối. Tôi vùng vẫy một hồi trên mặt nước, và may mắn
làm sao, đúng ra là như được có phép màu, tôi thấy chân mình chạm đất. Tôi bước
vào một khoảng đen ngòm có vẻ như đất liền vì bóng tối dày đặc không sao phân
biệt nổi. Quả là tôi đang đặt chân lên một bãi cát và ánh sáng bình minh rạng
dần, tôi thấy mình đang ở trên một đảo hoang nhỏ, cách Balsora vào khoảng hai
mươi hải lý. Chẳng mấy chốc mà dưới ánh mặt trời, áo quần tôi đã khô kiệt và
trong lúc bước đi, tôi nhận thấy trên đảo có rất nhiều thứ quả ăn được và cả
nước ngọt. Tôi hy vọng phần nào là có thể bảo tồn được mạng sống của mình.
Đang
ngồi nghỉ trong bóng râm, bất thình lình thấy một con rắn có cánh rất to và rất
dài đang uốn khúc trườn tới phía tôi, lưỡi thè dài. Đoán là có cái gì đang đe
dọa nó, tôi đứng lên và nhìn thấy một con rắn khác to hơn nó đang ngậm lấy đuôi
và đang gắng sức để nuốt sống nó. Đáng lẽ phải chạy đi nhưng vì động lòng
thương tôi đã đứng lại và táo bạo nhặt một hòn đá to, may mắn ở vừa tầm tay
mình lấy hết sức ném trúng đầu con rắn to giết chết nó. Con rắn có cánh, thoát
nạn, giương ngay đôi cánh lên và bay vút đi. Tôi nhìn theo mãi nó trên cao như
một vật lạ cho đến khi khuất tầm mắt, rồi lại tới nghỉ dưới bóng râm ở một chỗ
khác và ngủ thiếp đi.
Khi thức
dậy, ngài có thể tưởng tượng được sự ngạc nhiên của tôi tới mức nào khi thấy
bên cạnh mình một phụ nữ da đen nét mặt sắc sảo nhưng dịu dàng nắm trong tay
một dây xích buộc hai con chó cái cũng cùng màu đen. Tôi ngồi lên và hỏi bà ta
là ai? “Ta là - Bà ta đáp - con rắn có cánh mà cô đã giải thoát khỏi kẻ thù
hung bạo cách đây không lâu. Ta nghĩ không có gì tốt bằng hành động mà ta vừa
làm để trả cái ơn rất lớn mà cô đã làm cho ta. Ta biết sự phản bội của hai
người chị của cô, để trả thù cho cô khi ta đang được tự do nhờ sự cứu giúp hào
hiệp của cô, ta đã triệu tập rất nhiều các bạn cũng là tiên như ta, cùng với ta
mang toàn bộ hàng hoá trên tàu chuyển về các kho của cô ở Bagdad trước khi đánh
đắm tàu. Hai con chó mực cái này là hai người chị của cô mà ta đã cho biến
thành đó. Nhưng sự trừng phạt này cũng chưa đủ đâu, ta muốn là cô sẽ còn đối xử
với chúng bằng cách mà ta sẽ nói”.
Nói
đoạn, bà tiên ôm chặt lấy tôi bằng một bên tay và tay bên kia ôm chặt hai con
chó, bay lên không và đưa tất cả về nhà tôi ở Bagdad. Tôi thấy trong kho toàn
bộ tài sản mà tàu của tôi đã chất đầy. Trước khi chia tay, bà trao cho tôi hai
con chó cái và bảo:
- Nếu cô
không muốn bị hoá thành chó cái như các chị cô thì hãy tuân theo lệnh của ta.
Nhân danh đấng thần linh cai quản tất cả các sông biển trên mặt đất, ta lệnh
cho cô hằng đêm phải đánh cho mỗi người chị của cô một trăm roi để trừng phạt
chúng đã phạm tội với bản thân cô và đã làm cho hoàng tử trẻ tuổi đó bị chết
đuối.
Tôi bắt
buộc phải hứa với bà là sẽ chấp hành lệnh của bà. Và từ đó, tôi đã xử sự, mỗi
đêm với bao sự miễn cưỡng bằng cách mà bệ hạ đã chứng kiến. Với những giọt nước
mắt tôi khóc sau mỗi trận đánh đòn, tôi muốn tỏ ra với các chị là tôi biết bao
đau đớn và bất nhẫn phải làm tròn một bổn phận thật là nghiệt ngã, như vậy tôi
đáng được phàn nàn hơn là đáng bị trách móc. Nếu còn có điều gì đó lien quan tới
tôi mà bệ hạ còn muốn được biết rõ thì cô em Amine của tôi sẽ hầu bệ hạ bằng
chính câu chuyện của cô ấy.
Sau khi
nghe hết chuyện của Zobéide, với tấm lòng mến phục, hoàng đế truyền tể tướng
lệnh cho nàng Amine dịu dàng tới để trình bày cho hoàng đế rõ vì sao mà người
nàng lại đầy vết sẹo...”
Nhưng,
tâu bệ hạ - Tới đây Scheherazade nói - Trời vừa sáng, thiếp chẳng đám giữ Người
lại lâu hơn nữa. Schahriar đinh ninh là chuyện mà Scheherazade còn kể tiếp sẽ
là chuyện kết thúc cho tất cả những gì đã kể trước - Ông tự nhủ - ta cần phải
có được cái thú trọn vẹn. Ông đứng lên và quyết định còn để cho hoàng hậu sống
thêm ngày hôm đó.
o O o
Dinarzade
mong muốn một cách say mê được nghe chuyện về Amine. Vì thế, đã thức dậy trước
khi trời sáng rất lâu rồi mới đánh thức hoàng hậu.
- Chị
thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị cho em biết vì sao mà nàng
Amine đáng yêu đó lại có bộ ngực dọc ngang vết sẹo.
- Chị
đồng ý - Scheherazade đáp- Và để không mất thì giờ, em sẽ thấy là Amine, hướng
về hoàng đế, bắt đầu câu chuyện của nàng ta như sau:
Thư mục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét