Hồi 72 - Sài Tiến Cài Hoa Vào Vườn Cấm
Đang nói chuyện hôm ấy ở Trung Nghĩa đường,
khi chọn người cho đi xem hội đèn, Tống Giang nói:
- Ta đi
với Sài Tiến, Sử Tiến đi với Mục Hoằng, Lỗ Trí Thâm đi với Võ Tòng, Chu Đồng
cùng đi với Lưu Đường. Chỉ bấy nhiêu người thôi, các anh em khác ở lại giữ
trại.
Lý Quỳ
nói:
- Nghe
nói hội đèn Đông Kinh vui lắm, đệ muốn xin đi một chuyến xem sao.
Tống
Giang nói:
- Ngươi
không đi được.
Lý Quỳ
vật nài xin mãi, Tống Giang không từ chối được đành nói:
- Được,
cho ngươi đi, nhưng cấm không được gây chuyện lôi thôi đấy. Ngươi cứ ăn mặc như
người hầu mà đi theo ta.
Để cho
Lý Quy có bạn, Tống Giang lấy thêm Yến Thanh cùng đi.
Chắc qýy
vị nghĩ Tống Giang trước kia đã bị thích chữ vào mặt làm sao qua mắt được quân
lính mà vào kinh đô? Nguyên do là thần y An Đạo Toàn sau khi lên núi đã tẩy
sạch dòng chữ kim ấn trên trán cho Tống Giang: dùng độc dược bôi vào vết chữ
cho loét thịt ra, rồi lại buộc thuốc cho lành, sau đó lấy vàng và ngọc tốt
nghiền nhỏ thành bột, hàng ngày xát đều vào vết da non, lâu dần mờ hết sẹo.
Sách thuốc có câu "Ngọc tốt tiêu sẹo" chính là nói về phương thuốc
ấy.
Ngay hôm
đó, Sử Tiến và Mục Hoằng cải trang làm lái buôn lên đường đi trước. Ngày hôm
sau, Lỗ Trí Thâm và Võ Tòng giả dạng hai nhà sư hành cước, đi tiếp theo. Tốp
của Tống Giang cùng tốp bọn Chu Đồng, Lưu Đường ăn mặc như lái buôn, đi cuối
cùng. Trong vạt áo bọn họ đều có dao lưng mã tấu nhưng cất giấu rất kín đáo,
chuyện ấy không có gì phải nói.
Kể tiếp,
Tống Giang và Sài Tiến cải trang như hai viên quan nhỏ, Đái Tôn đi theo làm tuỳ
tùng để tiện đi báo tin khi có việc khẩn cấp, còn Lý Quỳ và Yến Thanh thì ăn
mặc giả cách như hai tên hầu, mỗi người quảy một gánh hành lý cùng xuống núi.
Các đầu lĩnh đi tiễn đến tận bến Kim Sa. Quân sư Ngô Dụng hai ba lần căn dặn Lý
Quỳ:
- Trước
đây mỗi lần xuống núi, hiền đệ thường hay gây sự rắc rối. Chuyến này cùng đi
với Tống huynh trường, hiền đệ không được lỗ mãng. Dọc đường phải nhịn rượu,
làm việc gì cũng phải thận trọng không được tuỳ tiện cẩu thả như xưa nay. Nếu
sinh chuyện ẩu đả đáng tiếc thì nguy hiểm cả bọn đấy.
Lý Quỳ
nói:
- Quân
sư không phải lo, chuyến này đệ không dám làm phiền nhiễu đến ai cả!
Mọi
người chia tay nhau lên đường. Qua Tế Châu sang Đằng Châu, lên Đan Châu, đến
Tào Châu, phía trước đã trông thấy cửa Vạn Thọ ở thành Đông Kinh. Anh em Tống
Giang bèn tìm một quán trọ nghỉ ngơi.
Hôm ấy
là ngày mười tháng giêng. Tống Giang bàn với Sài Tiến:
- Bọn ta
không nên liều lĩnh vào thành giữa ban ngày. Phải đợi đến đêm mười bốn tháng
giêng, đông người đi xem hội, anh em ta mới dễ trà trộn.
Sài Tiến
nói:
- Ngày
mai, xin huynh trưởng cho đệ và Yến Thanh đi thăm dò trước.
Tống
Gian nói:
- Thế
cũng được!
Ngày hôm
sau, Sài Tiến ăn mặc chỉnh tề, đầu chít khăn mới, chân đi giầy tất sạch sẽ. Yến
Thanh cũng đóng bộ cánh khá trang nhã. Hai người ra khỏi quán trọ, thấy ở ngoài
thành dân chúng ồn ào náo nức, mọi nhà tấp nập sửa soạn đón tết nguyên tiêu,
mừng cảnh thái bình thịnh vượng.
Sài Tiến
và Yến Thanh đi vào thành ung dung ngắm cảnh đường phố. Ngoài cửa Đông Hoa,
người đi xem hội qua lại tấp nập, ai nấy áo gấm mũ hoa sang trọng rực rỡ. Các
quán trà tiệm rượu khách ra vào chen chúc ồn ào. Sài Tiến và Yến Thanh vào một
tiệm rượu, chọn phòng nhỏ trên gác có cửa trông xuống đường. Sài Tiến vịn lan
can nhìn ra, thấy quân thị vệ đi qua cửa hoàng thành người nào cũng cài một
chiếc trâm hình cành lá có đính một bông mai vàng. Sài Tiến bèn gọi Yến Thanh
ghé tai nói nhỏ mấy câu: ".. bọn ta cũng phải thế". Yến Thanh là
người chỉ trông cái gật đầu cũng hiểu ý nên chẳng cần phải hỏi han gì nhiều,
vội đứng dậy xuống cầu thang. Ra khỏi cửa tiệm rượu, Yến Thanh gặp ngay một
viên quản đội đã có tuổi, Yến Thanh vội đến vái chào. Viên đội nói:
- Đại ca
là ai đây? có lẽ tôi chưa có dịp làm quen?
Yến
Thanh đáp:
- Chủ nhân
tôi vốn là bạn cũ của quan sát, sai tiểu nhân ra đây mời ngài quá bộ vào tiệm
xơi rượu.
Viên
quản đội ấy họ Vương nhưng Yến Thanh lại nói phỏng chừng:
- Đúng
đại nhân đây là Trương quan sát chứ phải ai xa đâu?
Viên
quản đội đáp:
- Tiểu
nhân họ vương.
Yến
Thanh vội sửa ngay:
- Chủ
nhân tôi bảo đi mời Vương quan sát, vội quá nhớ nhầm.
Vương
quan sát theo Yến Thanh lên gác tiệm rượu. Yến Thanh vén màn nói vọng vào:
- Thưa
quan nhân, Vương quan sát đã đến.
Nói đoạn
Yến Thanh đỡ chiếc tín bài cho Vương quan sát. Sài Tiến vội ra cửa đón Vương
quan sát vào. Hai người chào hỏi xong, Vương quan sát vẫn nghĩ hồi lâu không
nhớ ra Sài Tiến là ai, bèn nói rằng:
- Tiểu
nhân trót quên đại danh của túc hạ, dám mong túc hạ nhắc cho.
Sài Tiến
cười đáp:
- Tiểu
nhân với túc hạ chơi với nhau thuở bé, cứ để túc hạ nhớ lại xem sao?
Nói đoạn
Sài Tiến gọi hầu bàn lấy rượu và thức nhắm để cạn chén với Vương quan sát. Tửu
bảo bày khay rượu lên bàn, Yến Thanh rót ruợu rồi đứng hầu phía sau. Rượu cạn
vài tuần, cả hai người xem chừng đã ngà ngà hơi men, Sài Tiến hỏi:
- Quan
sát cài chiếc trâm hoa trên đầu làm gì?
Vương
quan sát đáp:
- Thiên
tử mừng tết nguyên tiêu, quân thị vệ chúng tôi hai mươi bốn ban tả hữu, tất cả
đến năm sáu ngàn, ai cũng được ban một áo gấm và cành trâm lá biếc hoa vàng,
phía trên có khảm vàng bốn chữ "dữ dân đồng lạc" (cùng vui với dân).
Vì thế hàng ngày vào kiểm diện, chúng tôi phải mặc áo gấm, cài trâm hoa thi
quân canh cổng mới cho vào.
Sài Tiến
nói:
- Thì ra
là thế, tiểu nhân không được biết.
Hai
người uống mấy chén nữa, Sài Tiến bảo Yến Thanh:
- Nhờ
ngưoi đi hâm lại rượu cho nóng.
Chẳng
mấy chốc Yến Thanh bưng ấm rượu lên, Sài Tiến đứng dậy rót rượu bưng mời Vương
quan sát:
- Kính
mời túc hạ uống cạn chén rượu nóng để cho tiểu nhân được tỏ lòng tôn kính, rồi
tiểu nhân sẽ xin thưa rõ họ tên.
Vương
quan sát nói:
- Tiểu
nhân quả thật đã quên rồi, mong túc hạ chỉ giáo cho.
Nói
đoạn, Vương quan sát nâng rượu uống cạn. Vừa dốc chén Vương quan sá đã xùi bọt
mép, lảo đảo ngã vật xuống ghế.
Sài Tiến
vội thay áo giầy mũ, cỡi mượn toàn bộ đồ ngoài của Vương quan sát, từ áo gấm,
vòng xuyến đeo chân đên cả đai lưng giây cạp. Thay mặc quần áo xong, Sài Tiến
đội chiếc mũ có cài trâm hoa, tay cầm tín bài của Vương quan sát đi ra. Trước
khi đi còn quay lại căn dặn Yến Thanh:
- Tửu
bảo có hỏi thì nói Vương quan sát quá chén đang nằm nghỉ, còn ta có việc vừa đi
ra ngòai.
Yến
Thanh nói:
- Tiểu
đệ ắt có cách đối đáp trôi chảy.
Sài Tiến
ra khỏi tiệm rượu liền đi qua cửa Đông Hoa vào hoàng thành, do ăn mặc đúng cách
nên quân canh cửa không ngăn cản. Qua điện Tử thần, đến điện Văn Đức, thấy các
cửa điện đều đóng kín có ổ khóa sắt chắc chắn, Sài Tiến lượng tính không có
cách gì lọt vào được. Sài Tiến rẽ sang điện Ngưng Huy, đi men bên ngoài một
đoạn rồi bám bờ tường nhảy vào, thấy trước hiên treo tấm biển thiếp vàng
"Duệ Tư Điện". Đó là nơi đọc sách của đạo quân hoàng đế. Sài Tiến
lách người bước qua bậc cửa sơn son đi vào. Chính giữa điện kê sập dựa, hai bên
có mấy chiếc án thấp bầy sẵn đồ văn phòng từ báo: bút ngà, giấy tiên, mực rồng,
nghiên Đoan. Trên giá sách quyển nào cũng có cài một chiếc thẻ ngà. Tấm bình
phong chắn giữa vẽ cảnh sơn hà xã tắc non xanh nước biếc. Vòng ra phía sau bình
phong, Sài Tiến thấy tờ giấy dán trên tường có chữ ngự thư ghi họ tên bốn kẻ
đại tặc: "Sơn Đông Tống Giang, Hà Bắc Điền Hổ, Hoài Tây Vương Khánh, Giang
Nam Phương Lạp". Sài Tiến bèn rút đoản đao rạch cắt bốn chữ "Sơn Đông
Tống Giang", rồi thóat vội ra ngoài, sợ ở lâu có người trông thấy.
Rời vườn
cấm, Sài Tiến lại đi ra cửa Đông Hoa trở về tiệm rượu, thấy Vuơng quan sát vẫn
nằm ngủ mê man trên ghế, Sài Tiến lại cởi áo gấm mũ hoa để lại trong phòng, lấy
quần áo của mình mặc vào rồi bảo Yến Thanh gọi hầu bàn đến để trả tiền, thừa
hơn chục quan tiền lẻ cũng cho nốt không lấy lại. Khi xuống cầu thang Sài Tiến
dặn tửu bảo: "Ta với Vương quan sát là chỗ anh em. Ông ta uống quá chén,
ta phải vào thành nội điểm danh thay, đến bây giờ ông ấy cũng chưa tỉnh hẳn.
Nhà ta ở ngoài thành, phải về trước giờ đóng cổng. Chỗ tiền lẽ ấy ta thưởng cho
ngươi, chỉ nhờ ngươi coi giữ đồ dùng quần áo cho Vương quan sát.
Tửu bảo
đáp:
- Xin
quân nhân yên lòng, tiểu nhân xin hầu hạ Vương quan sát thật chu đáo!
Sài Tiến
và Yến Thanh ra khỏi tiệm rượu, rẽ đường tắt qua cửa Vạn Thọ về.
Chiều
tối hôm ấy Vương quan sát tỉnh dậy, thấy áo gấm mũ hoa vẫn còn đủ cả, chỉ ngơ
ngác không hiểu xảy ra chuyện gì. Tửu bảo thưa lại lời Sài Tiến dặn, Vương quan
sát đành đứng dậy thờ thẩn ra về. Ngày hôm sau nghe người ta xì xào bàn tán:
"Có kẻ lẻn vào điện Duệ Tử rạch cắt bốn chữ treo trên tường. Vì thế từ nay
không mở cổng thành, ai có việc ra vào đều phải xét hỏi nghiêm ngặt". Bấy
giờ Vương quan sát mới hiểu mọi việc nhưng chẳng dám hé chuyện với ai.
Lại nói
Sài Tiến trở về quán trọ thuật lại với Tống Giang chuyện hoàng cung rồi lấy
mảnh giấy có bốn chữ thủ bút của nhà vua đưa cho Tống Giang. Tống Giang xem
xong thở dài nghĩ ngợi hồi lâu.
Chập tối
ngày mười bốn tháng giêng, bầu trời không một gợn mây, vầng trăng toả sáng trên
chân trời phía đông. Tống Giang và Sài Tiến đóng bộ như hai viên quan nhỏ, Đái
Tôn làm người hầu, Yến Thanh giả làm thư lại để đi xem hội. Lý Quỳ phải ở lại
quán trọ trông giữ hành lý. Bốn người theo đám đông ồn ào vào cửa Phong Khâu,
dạo xem cảnh phố phường tấp nập. Đêm ấy gió hòa trời ấm rất hợp với các cuộc
vui chơi. Hai bên đường phố sáng bừng, nhà nhà đều treo đèn kết hoa. Thật là:
Lầu trên
sân dưới sáng ngời,
Xe qua
ngựa lại, người người trông nhau.
Bốn
người vòng ra phố ngự. Hai bên đường thấy các nhà đều treo đèn kéo quân. Quãng
giữa phố có một nhà treo bức màn xanh ngoài cổng, cửa trước buông mành trúc
hoa, các cửa sổ hai bên che rèm lụa xanh cẩm thạch. Hai bên cổng treo đôi câu
đối: "Ca vũ thần tiên nữ, Phong lưu hoa nguyệt khôi" (Ca múa gái thần
tiên, phong lưu đầu hoa nguyệt). Tống Giang xem xong ghé vào một quán trà, gọi
hầu bàn bưng trà đến rồi hỏi:
- Hành
viện ở bên kia đường là nhà nào đấy?
Người
hầu trà đáp:
- Đó là
nhà hàng có tiếng nhất ở Đông Kinh của ca nữ Lý Sư Sư.
Tống
Giang lại hỏi:
- Lý Sư
Sư có phải là ca nữ thường được hoàng thượng lui tới hay không?
Người
hầu vội nói:
- Quan
nhân nói khẽ cho, lỡ có người nghe tiếng.
Tống
Giang bèn ghé tai nói nhỏ với Yến Thanh.
- Ta
muốn gặp người ca nữ Lý Sư Sư nhờ thu xếp vài việc, hiền đệ kiếm cớ vào trước
xem sao? ta chờ ở đây.
Yến
Thanh liền đứng dậy ra đi. Tống Giang ngồi chờ, cùng uống trà với Đái Tôn và
Sài Tiến.
Lại nói
Yến Thanh đến cửa nhà Lý Sư Sư, vén bức màn xanh gạt rèm trúc đàng hoàng bứơc
vào. Giữa nhà treo đèn lồng trổ hình chim uyên ương, dưới đền là chiếc hương án
bọc da tê ngưu, trên đặt đỉnh hương cổ bằng đồng Bác Sơn, khói thơm toả bay nhè
nhẹ. Hai bên tường treo bốn bức tranh kê một chiếc ghế tựa dài bọc da tê ngưu.
Không thấy ai ra tiếp, Yến Thanh đi luôn vào sân ở bên trong. Lại đến một phòng
khách lớn có kê ba chiếc giường gụ nhỏ bóng lộn như gương xung quanh chạm hình
hoa lá, trên trải đệm gấm màu tím thêu hình nước chảy hoa rơi. Giữa trần nhà
treo đèn bát giác mặt ngọc, bên dưới bày một chiếc lọ cổ hình thù lạ mắt. Yến
Thanh khẽ đằng hắng liền thấy một a hoàn từ sau bình phong đi ra. A hoàn cúi
chào Yến Thanh rồi hỏi:
- Xin
quan nhân cho biết quí danh.
Yến
Thanh đáp:
Phiền cô
nương cho thưa chuyện với bá mẫu.
A hoàn
trở vào, một lát sau bà chủ họ Lý đi ra. Yến Thanh mời chủ nhân ngồi xuống ghế
rồi sụp lạy chào. Mụ Lý hỏi:
- Đại
lang là ai đây?
Yến
Thanh đáp:
- Bá mẫu
quên rồi sao? Tiểu nhân là Trương Nhàn, con Trương Ất đây! Tiện nhân đi xa từ
thuở bé, nay mới có dịp về thăm nhà.
Trong
thiên hạ thì họ Lý, họ Vương, họ Trương nhiều vô kể. Mụ Lý nghĩ ngợi hồi lâu
nhưng chẳng nhớ ra, lại vì Yến Thanh đứng dưới đèn nên mụ không trông rõ. Một
lúc sau như sực nhớ ra, mụ Lý bỗng kêu lên:
- Đại
lang là Trương Nhàn, nhà ở bên cầu Thái Bình phải không? Đi biệt đâu mà từ bấy
đến nay không thấy lên chơi?
Yến
Thanh đáp:
- Tiểu
nhân giúp việc cho một người khách buôn ở Sơn Đông về đây có vài việc riêng,
nói ra sợ dài dòng. Người ấy là nhà buôn có tiếng ở vùng Yên Nam, Hà Bắc. Lần
này chủ nhân tôi về kinh là để xem hội nguyên tiêu và đi thăm mấy nhà bà con ở
kinh. Nhân tiện có chuyến hàng đem về bán và cũng muốn được làm quen với quí
tiểu thư, dù chỉ được một lần cùng tiểu thư nâng chén cũng đủ thoả nguyện.
Không dám nói dối bá mẫu cho phép để đưa tới xin hầu chuyện.
Mụ Lý là
kẻ ham lợi, thấy món khách sộp là vồ vập ngay. Nghe Yến Thanh nói vậy, mụ liền
đon đả gọi Lý Sư Sư ra tiếp. Lý Sư Sư trong nhà bước ra dưới ánh đèn sáng, Yến
Thanh liếc nhìn quả là một trang nhan sắc tuyệt đẹp.
Chào hỏi
xong, nghe mụ Lý nói qua lại ý của Yến Thanh, Lý Sư Sư hỏi:
- Hiện
giờ viên ngọai ở đâu?
Yến
Thanh đáp:
- Chủ
nhân tôi đang ngồi chờ ở quán trà trước cửa nhà ta.
Lý Sư Sư
liền nói:
- Đại
lang hãy sang mời viên ngoại qua tệ xá dùng trà.
Yến
Thanh nói:
- Vì
chưa thưa trước với tiểu thư nên viên ngoại không dám đường đột tới đây.
Mụ Lý
nói:
- Đại
lang mời viên ngoại sang ngay đi.
Yến
Thanh cáo từ đi ra. Trở lại quán trà, Yến Thanh ghé tai báo cho Tống Giang
biết. Đái Tôn gọi người hầu đến trả tiền rồi cùng Tống Giang theo Yến Thanh đi
sang nhà Lý Sư Sư.
Qua cửa
giữa, ba người đi vào phòng khách lớn. Lý Sư Sư vái chào rồi nói:
- Thiếp
từng được nghe Trương Đại Lang nhiều lần nhắc đến quí danh của viên ngoại,
thiếp thật có hồng phúc hôm nay được tiếp đón viên ngoại ở tệ xá này.
Tống
Giang nói:
- Tiểu
nhân sinh trưởng ở nơi thôn dã, nay mới được về thăm cảnh đẹp ở đất thần kinh.
Thật là dịp may trong đời hiếm có.
Lý Sư Sư
mời Tống Giang ngồi. Quay sang phía Sài Tiến, Lý Sư Sư hỏi:
- Đại
lang đây là người cùng đi với túc hạ?
Tống
Giang đáp:
- Đó la
Diệp tuần kiểm, em họ của tiểu nhân.
Tống
Giang bảo Đái Tôn đến chào Lý Sư Sư. Chào hỏi xong, chủ khách chia ngôi thứ
cùng ngồi. Tống Giang và Sài Tiến ngồi bên trái, Lý Sư Sư ngồi bên phải. Bà vú
già bưng khay trà ra. Lý Sư Sư rót nước bưng mời Tống Giang, Sài Tiến, Đái Tôn
và Yến Thanh. Hương vị ấm trà ấy khỏi phải nói thơm ngon đến thế nào. Mọi người
uống trà xong, Lý Sư Sư đang hỏi thăm gốc tích gia thế của anh em Tống Giang
thì thấy bà vú già hớt hả chạy vào báo tin:
- Quan
gia đã đến cổng đằng sau.
Lý Sư Sư
vội nói:
- Xin
viên ngoại lượng thứ cho. Tối mai quan gia ban yến ở Thanh cung, tất không đến,
mời viên ngoại trở lại nói chuyện lâu hơn.
Anh em
Tống Giang đứng dậy rảo bước đi ra. Bốn người đi tắt qua phố nhỏ ra cầu Thiên
Hán xem núi đền rùa. Qua Phân Lâu đình, tiếng đàn sáo vang lừng từ tầng cao
vọng xuống, xung quanh đèn nến sáng trưng, khách xem hội vào ra đong nghịt.
Tống
Giang dẫn bọn Sài Tiến lên gác Phàn Lâu đình. Tửu bảo bưng rượu và thức nhắm
đến, bốn anh em thong thả cùng nhau uống rượu, xem đèn. Rượu cạn vài tuần, chợt
nghe ở phòng bên cạnh có tiếng người hát nghêu ngao:
Hạo khí
xung thiên quán Đẩu Ngưu,
Anh hùng
sự nghiệp vị tăng thủ,
Thủ đề
tam xích Long Tuyền Kiếm,
Bất trảm
gian tà thệ bất hưu!
Át mở
Ngưu Đầu khí xung thiên
Sự
nghiệp anh hùng chửa báo đền,
Tay vung
ba thước Long Tuyền Kiếm,
Thề diệt
tà gian trước trận tiền.
Tống
Giang nghe giọng hơi quen, vội đi sang xem, hoá ra chẳng phải ai xa lạ mà chính
là cửu văn long Sử Tiến và một già lan Mục Hoằng. Hai người uống rượu, đang nói
huyên thuyên.
Tống
Giang lại gần khẽ quát:
- Hai vị
hảo hán muốn làm hại cả bọn hay sao? mau trả tiền rồi đi ngay cho! Ta không ngờ
hai hiền đệ dám làm liều, chẳng may gặp bọn công sai thì tai họa không phải
nhỏ. Tốt nhất đêm mai sẽ vào xem hội chính rồi trở về luôn, ở lại lâu thế nào
cũng sinh chuyện.
Sử Tiến
và Mục Hoằng biết lỗi ngồi im, đoạn gọi tửu bảo đến trả tiền rồi xuống lầu tìm
đường đi ra ngọai thành.
Tống
Giang cùng bọn Sài Tiến cạn thêm vài chén vừa đủ đượm hơi xuân, rồi Đái Tôn gọi
tửu bảo đến trả tiền. Bốn người rũ áo đi xuống, lại qua cửa Vạn Thọ trở về quán
trọ. Lý Quỳ còn đang ngái ngủ, thấy Tống Giang về liền nói:
- Huynh
trưởng đem Lý Quỳ này đến đây rồi sai giữ nhà, buồn quá! còn các vị thì dạo
chơi thoả thích.
Tống
Giang nói:
- Vì
hiền đệ nóng tính, tướng mạo lại dữ tợn phát khiếp nên ta đành phải để hiền đệ
ở lại trông hành lý cho khỏi xẩy ra chuyện lôi thôi.
Lý Quỳ
nói:
- Chỉ
biết huynh trưởng cho mọi người đi chơi, bắt tiểu đệ ở lại một mình. Ai đã thấy
Lý Quỳ gây sự giết chóc bao giờ?
Tống
Giang nói:
- Tối
mai đúng ngày rằm, ta sẽ đưa hiền đệ đi xem hội chính, xem xong tất cả sẽ về
trại luôn.
Nghe
vậy, Lý Quỳ mới chịu vui lòng.
Hôm sau
đúng rằm tháng giêng, trời quang mây tạnh, thời tiết ấm áp. Vừa chập tối, người
đi xem hội nguyên tiêu đông không kể xiết.
Tống
Giang và Sài Tiến cũng giả cách ăn mặc như hai viên quan đi vãn cảnh. Đái Tôn,
Lý Quỳ và Yến Thanh đi theo làm người hầu. Năm người qua cửa Vạn Thọ vào thành
nội. Tuy hôm ấy không có lệnh cấm đêm, nhưng ở các cổng thành đều có thêm quan
quân được điều đến canh giữ, ai nấy đều mặc áo giáp mũ trụ, gươm tuốt giáo
trần, cung tên lắp sẵn, cơ ngũ mười phần nghiêm chỉnh. Cao thái uý đích thân
dẫn năm nghìn quân thiết kỵ đi tuần quanh trên mặt thành. Tống Giang ghé tai Yến
Thanh nói nhỏ ".. cứ như thế, ta chờ hiền đệ ở quán trà hôm qua ".
Yến
Thanh đến nhà Lý Sư Sư, cả mụ Lý và Lý Sư Sư cùng ra tiếp. Mụ Lý nói:
- Nhờ
đại lang thưa với viên ngoại lượng thứ cho chúng tôi. Vì quan gia đến bất chợt
nên phải thất lễ với viên ngoại.
Yến
Thanh nói:
- Viên
ngọai dặn tiểu nhân thưa với bá mẫu và nương tử: đất Sơn Đông rừng xa biển
vắng, các thứ của qúy vật lạ không được dồi dào. Viên ngoại có mang theo vài
thứ sản vật, chỉ e chưa hợp ý bá mẫu. Nay viên ngoại có vàng tốt trăm lạng sai
tiểu nhân đem đến kính biếu bá mẫu gọi là chút quà tương kiến, còn những báu
vật khác sẽ xin đưa sau.
Mụ Lý
hỏi:
- Hôm
nay viên ngoại nghỉ ở đâu?
Yến
Thanh đáp:
- Thưa
bá mẫu, viên ngoại đang ở đầu phố chờ tiểu nhân để đi xem hội đèn.
Yến
Thanh nói xong lấy hai thỏi vàng óng ánh đặt xuống bàn, mụ Lý thoáng thấy mừng
rơn. Yến Thanh vừa dứt lời, mụ Lý nói:
- Nhờ
đại lang thưa với viên ngoại mẹ con tôi có làm vài mâm rưộu, muốn mời viên
ngoại quá bộ đến tệ xá cùng đón tết nguyên tiêu.
Yến
Thanh đáp:
- Tiểu
nhân xin đi mời ngay, thế nào viên ngoại cũng đến.
Yến
Thanh sang quán trọ vắn tắt cho Tống Giang nghe rồi dẫn mọi người sang nhà Lý
Sư Sư. Tống Giang để Đái Tôn và Lý Quỳ đứng chờ ngoài cổng rồii cùng Yến Thanh,
Sài Tiến vào nhà.
Ba người
vào phòng khách phía trong, Lý Sư Sư đi ra cúi đầu vái chào, nói với Tống
Giang:
- Viên
ngọai có lòng ghé thăm bá mẫu là thiếp cũng được hân hạnh rồi. viên ngọai lại
còn cho lễ vật trọng hậu làm cho thiếp phạm lỗi bất kính với viên ngoại.
Tống
Giang đáp:
- Tiểu
nhân ở nơi quê mùa không có sản vật gì đáng qúy. Chút lễ mọn bày tỏ lòng ngưỡng
mộ của tiểu nhân, nương tử hà tất phải bận tâm nhiều.
Lý Sư Sư
mời ba người lên sân bên căn gác nhỏ chia ngôi chủ khách cùng ngồi. Vú già và
mấy người hầu gái bưng hoa quả, rượu và các thức phẩm bày lên chiếc bàn đặt
giữa sân thượng. Toàn là các thứ rượu quý cất trữ lâu năm, các món ăn thịnh
soạn, thảy đều bầy xếp khéo léo trong các đĩa cổ bằng bạc có chân. Lý Sư Sư
nâng rượu, nói:
- Thiếp
thật có duyên từ trước nên hôm nay mới được gặp viên ngoại và đại lang đây. Cỗ
bàn sơ sài mong viên ngoại và hai vị cạn chén cho.
Tống
Giang nói:
- Tiểu
nhân ở nơi thôn dã, ít nhiều có chút của nổi, nhưng so với cơ ngơi giàu sang
phú qúy của nhà ta đây thì quả thật chưa thấm vào đâu. Thiên hạ biết bao người
ngưỡng mộ hoa khôi nương tử, muốn từ xa trông thấy cũng là chuyện khó như bắt
thang trèo trời. Huống chi lại còn được nâng chén thưởng xuân cùng nương tử!
Lý Sư Sư
nói:
- Viên
ngoại quá khen!
Lý Sư Sư
lại mời mọi người cạn chén. Vú già đi quanh bàn rót rượu đầy các chén nhỏ nạm
vàng. Sài Tiến vừa uống rượu vừa nói chuyện phiếm với Lý Sư Sư, Yến Thanh đứng
bên cạnh thỉnh thoảng pha trò góp vui.
Rượu cạn
vài tuần. Tống Giang chỉ tay vén áo giả bộ uống say. Sài Tiến cười nói với Lý Sư
Sư:
- Đại
huynh tôi quá chén, xin nương tử bỏ quá cho!
Lý Sư Sư
nói:
- Mỗi
người một tính, không có gì lạ.
Vừa lúc
ấy có một a hoàn lên gác thưa rằng:
- Có hai
người lạ mặt đứng ở cổng. Gã đen ria sém cứ lẩm bẩm chửi tục.
Tống
Giang nói:
- Nhờ a
hoàn gọi giúp hai người ấy vào đây.
Một lúc
sau, Đái Tôn dẫn Lý Quỳ lên gác. Thấy Tống Giang và Sài Tiến ngồi uống rượu với
Lý Sư Sư, Lý Quỳ tức giận trừng mắt đứng nhìn, Lý Sư Sư hỏi:
- Vị hảo
hán này là ai, trông như phỗng đất đứng hầu trong miếu thành hoàng?
Mọi
người đều cười to, cả Lý Quỳ cũng phải phì cười. Tống Giang nói:
- Đây la
Tiểu Lý, con trai lão bộc của gia đình tiểu nhân.
Lý Sư Sư
cười nói:
- Trót
phạm tôn uy của Thái Bạch học sĩ!
Tống
Giang nói:
- Tiểu
Lý khá võ nghệ, gánh nặng hai ba trăm cân, một mình đánh được bốn năm chục
người.
Lý Sư Sư
gọi lấy chung bạc lớn thưởng cho Lý Quỳ và Đái Tôn mỗi người ba chung. Yến
Thanh nơm nớp lo Lý Quỳ rượu vào lời ra, vội kéo Lý Quỳ và Đái Tôn xuống nhà
dưới, rồi bảo hai người ra chờ ngoài cổng.
Tống
Giang nói:
- Trượng
phu uống rượu không dùng chén nhỏ!
Nói đoạn
Tống Giang với tay cầm chung bạc lớn tự rót rượu uống liền mấy chung. Lý Sư Sư
khe khẽ ngâm bài từ "Đại giang đông khứ" (Sông lớn chảy về đông) của
Tô Đông Pha. Tống Giang gọi lấy giấy bút, tự tay mài mực đặc, vuốt phẳng tờ
giấy hoa tiên, chấm đẫm mực rồi nói với Lý Sư Sư:
- Tiểu
nhân có làm một bài từ gọi là "Bất tài loạn đạo" để bày tỏ nỗi u uất
trong lòng. Nay xin chép ra để trình hoa khôi nương tử.
Nói đoạn
Tống Giang cầm bút một mạch viết xong bài từ nhạc phủ đưa cho Lý Sư Sư xem:
Trời Nam
đất Bắc,
Hỏi kiền
khôn nào chốn dung cuồng khách?
Rời Sơn
Đong miền thủy trại, đến tìm mua cảnh
Phương
thành xuân sắc,
Quần
hồng áo tía, tuyết trắng mây hồng,
Nhất
tiểu thiên kim nào đã chắc?
Yểu điệu
thần tiên, dù phận mỏng dễ nào quên được?
Bờ lau
cát vàng, nước trong sam đỏ, bầu ngọc vầng trăng vắc.
Sáu sáu
nhạn bay liền tám chín chỉ đợi gà vàng báo tin tức.
Lòng
nghĩa che trời, dạ trung kín đất, bốn biển chưa ai hay biết.
Sáu ly
muôn môi, lòng say một tối, nhận ra đầu đã bạc.
Lý Sư Sư
xem xong không hiểu ý nghĩa thế nào. Tống Giang định kể lại nỗi lòng ủân khúc
cho Lý Sư Sư nghe thì vú già lên gác báo tin:
- Quan
gia theo lối tắt đã đến cổng sau rồi!
Lý Sư Sư
vội nói:
- Viên
ngoại và đại lang lượng thứ cho.
Lý Sư Sư
vội xuống cầu thang ra cửa sau đón tiếp hoàng thượng. Vú già và các a hoàn
nhanh tay dọn dẹp bàn ghế chén bát quét vội sân hiên. Anh em Tống Giang chưa ra
khỏi nhà, chỉ kịp đứng nấp vào một xó tối. Nhìn ra thấy Lý Sư Sư sụp quỳ tâu
rằng:
- Thần
thiếp kính chúc Thánh thượng vạn thọ vô cương!
Đạo quân
hoàng đế đầu chít khăn lục mỏng, mặc áo long cổn nhận lời chúc hạ của Lý Sư Sư
rồi nói:
- Trẫm
đến ban yến ở Thanh Cung xong, sai thái tử ra lầu Tuyên Đức ban ngự tửu cho vạn
dân rồi cho hoàng đệ ra phố Thiên Bộ lang gọi Dương thái uý cùng đi với trẫm,
nhưng chờ mãi không thấy nên trẫm đi trước đến đây. Cho phép ái khanh lại gần
đây hầu trẫm.
Tống
Giang đứng trong góc tối nói nhỏ với Sài Tiến và Đái Tôn:
- Ta
muốn yết kiến hoàng thượng tâu bầy tình cảnh Lương Sơn Bạc, xin hoàng thượng
xuống chiếu đại xá chiêu an. Lỡ dịp may này thì về sau khó gặp lại.
Sài Tiến
nói:
- Cách
này không xong. Dù hoàng thượng có chuẩn cho sau thế nào cũng sẽ nuốt trôi lời
hứa.
Ba người
vẫn đứng im trong góc tối thì thào bàn tính.
Lại nói
Hắc toàn phong Lý Quỳ thấy Tống Giang và Sài Tiến ngồi ăn uống với nguời ca nữ,
sai mình và Đái Tôn giữ cổng thì hầm hầm tức giận muốn xông vào hỏi cho ra lẽ.
Đúng vào lúc ấy, Dương thái uý vén màn xanh, đẩy cửa bước vào. Thấy Lý Quỳ,
Dương thái uý hỏi:
- Ngươi
là ai mà đứng đây?
Lý Quỳ
không đáp vác chiếc ghế tựa phang vào đầu Dương thái úy. Dương thái úy trở tay
không kịp, lại bị đánh tiếp một ghế nửa ngã nhào. Đái Tôn chạy ra nhưng can
ngăn không kịp. Lý Quỳ giật một bức tranh trên tường, châm nếnn làm nổi lửa rồi
vừa đập phá vừa đi châm lửa đốt khắp nơi. Bàn ghế trong nhà đều bị Lý Quỳ đập
gãy. Bọn Tống Giang nghe tiếng ồn ào ở nhà ngoài vội chạy ra, thấy Hắc toàn
phong Lý Quỳ quần trễ quá rốn đang đốt phá. Thấy Tống Giang cùng bọn Sài Tiến,
Đái Tôn, Yến Thanh đã thoát ra khỏi cổng. Lý Quỳ cũng chạy ra. Lý Quỳ giật
chiếc của một người qua đường, rồi cứ thế vừa đánh vừa chạy rẽ vào một phố nhỏ.
Tống Giang biết chuyện chẳng lành vội cùng Sài Tiến và Đái Tôn chạy ra khỏi
thành kịp khi quân canh chưa đóng cổng, chỉ để Yến Thanh ở lại hỗ trợ cho Lý
Quỳ. Bấy giờ lửa bốc rừng rực ở nhà Lý Sư Sư. Đạo quân hoàng đế bị một phen
kinh hồn, hoảng sợ tìm đường trốn về cung. Quân thị vệ ra sức chữa cháy rồi dìu
Dương thái úy về tư dinh.
Tiếng hô
hóan bắt giặc vang dậy khắp thành nội. Cao thái úy đang đi tuần tiễu ở thành
cửa Bắc, được tin liền đem quân đến nơi hoả hoạn. Yến Thanh kèm sát bên Lý Quỳ
vừa đánh vừa chạy, một lúc sau gặp Mục Hoằng, Sử Tiến đến cứu ứng. Bốn người
vung gậy múa đao đánh mở đường chạy đến gần cổng thành, không may đúng lúc quân
canh vội đóng chặt cổng. Vừa lúc ấy, Lỗ Trí Thâm múa thiền trượng, Võ Tòng vung
cây song đao. Chu Đồng và Lưu Đường tuốt mã tấu từ bên ngoài nhất loạt xông vào
giết quân canh cứu ứng cho bọn Yến Thanh, Mục Hoằng. Bốn hảo hán vừa ra khỏi
thành thì Cao thái úy dẫn quân mã ập tới. Lúc ấy cả tám đầu lĩnh còn đang lo
lắnt vì không thấy Tống Giang, Sài Tiến và Đái Tôn. Nguyên là sau khi các hảo
hán được theo Tống Giang về kinh xem hội đèn, quân sư Ngô Dụng đoán trước thế
nào cũng xảy chuyện đại náo ở Đông Kinh nên đã sai năm viên hổ tướng dẫn một
nghìn quân mã xuống núi ruổi gấp về Đông Kinh chờ sẵn để tiếp ứng. Các hổ tướng
đã gặp Tống Giang, Sài Tiến, Đái Tôn, mời ba đầu lĩnh lên ngựa. Một lát sau,
bọn Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng cũng vừa tới. Mọi người sáp lên ngựa trở về, điểm lại
thấy thiếu Lý Quỳ. Lúc ấy Cao thái úy sắp cho quân thiết kỵ vượt qua cổng thành
đuổi theo. Năm hổ tướng Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Diên Chước, Đổng Bình
thúc ngựa đến trước cổng thành ghìm cương bên bờ hào quá lớn:
- Các
hảo hán Lương Sơn Bạc đều có mặt tại đây. Các ngươi muốn sống phải nộp thành
đầu hàng!
Cao thái
úy hoảng sợ ra lệnh cho quân sĩ dừng lại, rồi sai kéo cầu treo, chia quân lên
giữ mặt thành.
Tống
Giang bảo Yến Thanh:
- Chỉ có
hiền đệ mới kèm được con quỷ đen kia. Hiền đệ nán lại một lúc kèm cho được hắn
cùng về. Ta cùng các tướng đưa quân về sơn trại ngay đêm nay, chậm trễ e xảy
chuyện rắc rối.
Lại nói
Yến Thanh quay lại đứng nấp dưới mái hiên một nhà gần quán trọ, thấy Lý Quỳ trở
về lấy hành lý khóac vai, rồi hai tay vung hai búa từ trong quán trọ quát gầm
lên một tiếng, xăm xăm chạy ra định xông vào đánh quân giữ thành.
Đúng là:
Thét lớn
sấm vang rời khỏi quán,
Hai tay
hai búa đánh đô thành.
Chưa biế
Hắc toàn phong Lý Quỳ đánh thành ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 73 - Lý Quỳ Một Mình Bắt Quỷ
Đang nói chuyện lúc ấy Lý Quỳ từ
quán trọ hai tay vung hai búa xông vào cổng thành thì bị Yến Thanh đuổi theo ôm
choàng lấy rồi nắm đai lưng vật ngã. Yến Thanh lôi Lý Quỳ dậy rồi kéo Lý Quỳ
chạy vào một con đường nhỏ. Lý Quỳ chỉ còn cách chạy theo. Lý Quỳ sợ Yến Thanh
là vì Yến Thanh có ngón vật rất giỏi, vì vậy Tống Giang sai Yến Thanh chỉ vật
một cái là ngã ngay. Lý Quỳ đã bị nhiều keo chổng vó nên phải sợ mà nghe theo
lời Yến Thanh. Vì sợ quân của Cao thái úy đuổi theo, hai người không dám chạy
theo đường lớn mà phải chạy về phía huyện Trần lưu. Đến đây Lý Quỳ sửa sang lại
quần áo, giấu đôi búa vào vạt áo, rồi cứ để đầu trần phơi bộ tóc tết đuôi sam
vàng hoe như lửa mà đi suốt đến sáng. Yến Thanh có sẳn tiền, hai người rẽ vào
quán rượu bên đường ăn uống rồi vội vã đi.
Sáng hôm ấy thành Đông kinh náo
động. Cao thái úy dẫn quân ra ngoài thành đuổi theo bọn Lý Quỳ nhưng không kịp.
Lý Sư Sư đoán già đoán non nhưng rốt cuộc vẫn không hiểu rõ chuyện gì. Dương
thái úy về nhà nghỉ ngơi. Kiểm điểm lại thấy số bị thương trong thành tất cả
đến bốn năm trăm người. Cao thái úy và Đồng khu mật cùng đến phủ thái sư bàn
bạc để tâu lên xin thiên tử sớm sai quân đi đánh dẹp.
Lại nói hôm ấyLý Quỳ và Yến Thanh đi
suốt đêm đến sáng thì tới thôn Tứ liễu. Hai người tìm đến gọi cửa một trang
viện lớn. Trang chủ là Địch thái công ra tiếp, thấy Lý Quỳ dóc tóc hai bím, mặt
mũi xấu xí lại không mặc cà sa thì ngơ ngác không hiểu thế nào. Địch thái công
hỏi Yến Thanh:
- Vị hòa thượng này từ đâu đến?
Yến Thanh cười đáp:
- Sư phụ đây gốc tích lờ mờ, thái
công không biết được đâu. Phiền thái công cho chúng tôi ăn bữa tối và ngủ nhờ
một đêm, mai đi sớm.
Lý Quỳ chỉ ngồi im. Bấy giờ Địch
thái công sụp xuống lạy Lý Quỳ rồi nói:
- Xin sư phụ cứu giúp đệ tử!
Lý Quỳ đáp:
- Giúp việc gì, ngươi cứ nói xem có
giúp được không?
Địch thái công nói:
- Trong viện của đệ tử có hơn một
trăm hộ. Vợ chồng đệ tử chỉ sinh được một đứa con gái năm nay tuổi mới đôi
mươi. Không may nữa năm nay nó bị quỷ ám, suốt ngày cứ ru rú trong buồng, cơm
nước ăn uống cũng phải có người đưa vào tận nơi chứ không chịu bước chân ra
ngoài. Có ai đến gọi thì nó cầm gạch đá ném ra, nhiều người bị sứt đầu mẻ trán.
Đệ tử đã nhiều lần mời pháp sư đến trừ tà diệt quỷ nhưng vẫn không hiệu nghiệm.
Lý Qùy nói:
- Ta là đồ đệ của La chân nhân ở Kế
châu, chuyên đạp mây cưỡi mù, trừ ma bắt quỷ. Nếu thái công chịu tốn kém một
ít. Đêm nay ta sẽ giúp thái công bắt được con quỷ mới thôi. Nhưng trước hết cần
cho làm thịt ngay một con dê, một con lợn để làm lễ tế thần tướng.
Địch thái công nói:
- Dê lợn có sẳn, còn rượu thì sư phụ
khỏi lo!
Lý Quỳ nói:
- Vậy thái công bảo bọn chúng chọn
con nào beo béo mà làm thịt quay rán cho ngon. Rượu ít cũng phải có vài hũ mới
soạn lễ được. Cúng xong, đúng canh ba đêm nay ta sẽ bắt quỷ cho thái công.
Địch thái công nói:
- Trong nhà đã có sẳn vàng mã, bùa
lá, sư phụ cần thì xin cứ gọi.
Lý Quỳ đáp:
- Phép thuật của ta không cần phải
vàng mã, bùa chú gì cả! Ta sẽ đích thân vào tận trong phòng bắt quỷ lôi ra!
Yến Thanh không nhịn được cười. Đến
nửa đêm thì nấu nướng xong, Địch thái công sai người nhà bài dọn cỗ cúng. Lý
Quỳ gọi lấy một chiếc bát lớn, hâm nóng mười hũ rượu, đốt hai cây nến sáp và
một lò hương thơm. Lý Quỳ bắt ghế đẩu ngồi giữa nhà, chẳng cần bùa phép, rút
búa chặt thịt lợn, thịt dê thành từng tảng, rồi cầm cả miếng lớn xé ăn. Lý Quỳ
ngẩn lên gọi Yến Thanh:
- Này Tiểu Ất, ngươi cũng vào đây ăn
uống đôi chút.
Yên Thanh chỉ mỉm cười, không dám
cùng ngồi ăn. Lý Quỳ ăn no, uống cạn năm sáu bát rượu lớn, làm Địch thái công
phải kinh ngạc đứng nhìn. Lý Quỳ lại gọi các trang khách:
- Các ngươi cũng vào đây hưởng cho
hết lộc tiên phật!
Chỉ trong chốc lát, cả mâm đầy rượu
thịt đã hết nhẵn.
Lý Quỳ nói:
- Xách cho ta thùng nước nóng rửa
chân tay!
Lý Quỳ giội rửa xong, bảo thái công
cho pha trà rồi hỏi Yến Thanh:
- Ngươi đã no chưa?
Yến Thanh đáp:
- Đệ tử no lắm rồi!
Lý Quỳ bảo thái công:
- Cơm rượu no say thế là tốt rồi. Bây
giờ bọn ta phải nghỉ để mai đi sớm.
Địch thái công nói:
- Khổ quá! Thế thì bao giờ mới bắt
được quỷ?
Lý Quỳ nói:
- Thái công muốn nhờ ta bắt quỷ thật
à? Cứ dẫn ta vào buồng cô ả xem sao?
Địch thái công nói:
- Quỷ ở trong buồn ném đá ra, không
ai dám dẫn sư phụ vào.
Lý Quỳ hai tay cầm hai búa, gọi
người nhà soi đuốc dẫn đi. Lý Quỳ cứ xồng xộc đi trước đến gần thì thấy trong
buồng có ánh đèn lờ mờ. Lý Quỳ ghé mắt vào thấy một gã trai trẻ đang ôm con gái
Địch thái công thì thầm nói chuyện. Lý Quỳ liền đạp cửa nhảy vào vung búa phạt
xuống tóe lửa. Thì ra Lý Quỳ chém nhầm vào đĩa đèn dầu. Gã trai trẻ định bỏ
chạy bị Lý Quỳ chém rơi đầu. Người con gái chui xuống trốn dưới gầm giường. Lý
Quỳ gõ búa vào thành giường quát:
- Ả kia chui ra ngay, nếu không lão
gia băm nát luôn cả giường đấy!
Con gái thái công vội kêu lên:
- Xin quan tha cho, tiện nữ xin ra
ngay!
Cô ả vừa thò đầu ra liền bị Lý Quỳ
túm tóc kéo đến bên cạnh xác chết quát hỏi:
- Thằng kia là ai? Nói mau!
Người con gái thái công đáp:
- Thưa, hắn là Vương tiểu nhị, nhân tình của tiện nữ.
Lý Quỳ lại hỏi:
- Ai đưa cơm nước và lấy gạch đá cho mày?
Con gái thái công đáp:
- Tiện nữ đưa tiền bạc cho hắn, cứ vào khoảng canh hai,
canh ba thì hắn đưa vào buồng.
Lý Quỳ quát:
- Con gái bẩn thỉu như mày thì còn được việc gì?
Nói đoạn Lý Quỳ kéo đứa con gái của địch thái công đến
bên giường phạt một búa rụng đầu. Sau khi buộc túm hai chiếc đầu lâu với nhau.
Lý Quỳ kéo xác con gái Địch thái công đến bên cạnh gã Vương tiểu nhị lẩm bẩm
một mình: “Ăn no quá đang lúc cần tiêu cơm”. Nói xong bèn cởi áo rồi cứ cầm búa
nhằm hai cái xác chết mà băm xuống như bổ củi. Lý Quỳ cười nói:
- Thế là toi mạng cả hai đứa!
Nói đoạn Lý Quỳ dắt búa vào lưng, xách hai đầu lâu lên
sảnh kêu lớn:
- Bắt được hai con quỷ đây rồi!
Lý Quỳ quăng hai chiếc đầu lâu xuống đất. Mọi người già
trẻ trong trang đều khiếp vía, đến tận nơi mới biết đó là đầu con gái Địch thái
công, còn chiếc đầu kia không biết là của ai. Mấy trang khách nhìn hồi lâu rồi
mới nói:
- Hơi giống gã Vương tiểu nhị làm nghề bẩy chim ở đầu
thôn Đông.
Địch thái công hỏi:
- Sư phụ làm sao biết chuyện?
Lý Quỳ đáp:
- Con gái thái công nấp dưới gầm giường bị ta túm cổ lôi
ra. Nó khai đó là tên gian phu Vương tiểu nhị. Cơm nước ăn uống hàng ngày đều
do hắn lén lút đem vào. Ta truy hỏi cặn kẽ rồi mới giết.
Địch thái công khóc nói:
- Sư phụ đừng giết đứa con gái của già thì vẫn hơn!
Lý Quỳ mắng:
- Lão già chết tiệt này! Con gái lão lén lút đem trai vào
buồng, còn tiếc nỗi gì! Có phải lão khóc để khỏi trả ơn ta! Đợi đó, sang mai ta
sẽ nói chuyện với lão!
Nói đoạn Lý Quỳ cùng Yến Thanh vào phòng đi ngủ.
Thái công sai người soi đèn đi vào buồng con gái, thấy
hai cái xác không đầu bị bằm nát giữa nền nhà. Cả hai vợ chồng Địch thái công
đau xót khóc òa lên rồi sai người thu nhặt đem ra sau vường thiêu hóa. Lý Quỳ
ngủ thẳng một giấc ngon lành. Gần sáng Lý Quỳ vùng vậy ra nhà ngoài bảo Địch
thái công:
- Đêm qua ta đã bắt được quỷ, sao ngươi không tạ ơn ta!
Địch thái công vội sai dọn rượu thịt khoản đãi. Lý Quỳ và
Yến Thanh ăn uống xong cáo từ ra đi.
Có thơ nói việc ấy như sau:
Ác tính hân đằng bất tự do,
Phòng trung đóa khước lưỡng nhân đầu.
Si ông do dự thương tình thiết,
Độc lập tây phong khấp vị hưu.
Giận dữ đùng đùng chẳng trước sau,
Trong phòng một lúc rụng hai đầu.
Ông đần còn hối mà thương xót,
Trước gió hồi lâu khóc thảm sầu!
Lý Quỳ, Yến Thanh rời thôn Tứ liễu
theo đường cũ mà đi. Bấy giờ đang mùa cỏ khô lá úa, đất rộng núi khô, chuyện
hai người đi đường không có gì đáng nói.
Vòng đường phía bắc đi về Lương sơn
bạc, chẳng bao lâu hai người đến gần trấn Kinh môn, cách Lương sơn bạc bảy tám
chục dặm đường. Hôm ấy trời đã tối, hai người đến trước một trang viện, Yến
Thanh hỏi Lý Quỳ:
- Muốn vào đây ngủ nhờ hay quay ra
tìm quán trọ?
Lý Quỳ nói:
- Cứ vào đây cũng được. Phòng khách
của nhà giàu có kém gì quán trọ!
Hai người gõ cửa trang viện xin ngủ
nhờ. Một lúc sau,
trang khách ra trả lời:
- Thái công chủ trại đang có việc buồn, hai vị vui lòng
đi nơi khác.
Lý Quỳ vẫn xồng xộc đi vào, Yến Thanh nếu lại không kịp
đành phải đi theo vào thảo đường. Lý Quỳ nói to:
- Bọn chúng tôi là khách qua đường muốn xin ngủ nhờ một
đêm thì có sao mà phải bảo là trong nhà đang có chuyện buồn? Ta cũng đang muốn
tìm người có chuyện buồn để nói chuyện cho vui đây!
Thấy Lý Quỳ tướng mạo dữ tợn, thái công chủ trại đành
phải cho hai người vào. Thái công chủ trại sai dọn cơm mời khách ăn rồi dẫn hai
người vào nghỉ ở buồn đầu chái. Tối hôm ấy, vì không được uống rượu, Lý Quỳ
trằn trọc trên giường đất mãi không ngủ được. Một lúc sau Lý Quỳ nghe tiếng
khóc sụt sùi của vợ chồng thái công từ trong nhà vọng ra. Trời vừa sáng, Lý Quỳ
vội nhỏm dậy chạy vào nhà trong hỏi ngay:
- Có việc gì mà vợ chồng lão khóc sụt sịt suốt đêm làm ta
không sao chợp mắt được?
Thái công vội đi ra nói với Lý Quỳ:
- Vợ chồng già buồn phiền vì có đứa con gái mười tám tuổi
mới đây bị người ta đến bắt đi.
Lý Quỳ nói:
- Ông lão này đến là hay? Trai lớn thì lấy vợ, gái lớn gả
chồng, có gì mà buồn phiền?
Thái công nói:
- Nào phải gả bán gì đâu, người ta đến cướp đi thôi!
Lý Quỳ nói:
- Lại có kẻ tác quái nữa đây! Đứa nào cướp con gái của
lão?
Thái công nói:
- Nói họ tên người ấy ra chỉ lo đại lang sợ hết vía!
Người ấy là Tống Giang đầu lĩnh ở Lương sơn bạc, dưới quyền có một trăm linh
tám vị hảo hán, thật chẳng phải tay vừa!
Lý quỳ hỏi lại:
- Bọn họ đến đây có mấy người?
Thái công đáp:
- Cách đây hai ngày, hắn ta đến đây cùng với một người
trẻ tuổi, cả hai đều đi ngựa.
Lý Quỳ gọi to:
- Yến tiểu Ất đâu, lại đây nghe chủ nhà nói gì này! Huynh
trưởng của bọn ta khẩu phật tâm xà, chẳng phải người tốt đâu.
Yến Thanh nói:
- Đại ca đừng nóng vội. Đời nào có chuyện ấy!
Lý Quỳ nói:
- Khi đến Đông kinh, huynh trưởng chẳng mò đến nhà Lý Sư
Sư đó sao? Về đến đây ông ta còn sợ gì mà chẳng dám làm chuyện ấy!
Lý Quỳ bảo thái công:
- Lão hãy dọn cơm cho bọn ta ăn đi. Nói thật với lão, ta
chính là Hắc toàn Phong Lý Quỳ ở Lương sơn bạc đây. Còn người này là Lãng tử
Yến Thanh. Nếu quả thật Tống Giang cướp con gái lão thì ta sẽ đem đến trả ngay
cho lão!
Thái công chủ trại lạy tạ Lý Quỳ.
Ăn uống xong, Lý Quỳ giục Yến Thanh đi ngay. Chuyện đi
dường không có gì phải nói. Khi hai người về đến trung nghĩa đường, Tống Giang
hỏi:
- Hai hiền đệ ngã nào lạc mất mấy ngày đường, nay mới về
đến đây?
Lý Quỳ không đáp, trừng mắt rút búa chém gãy cột cờ rồi
xé tan lá cờ vàng “Thế thiên hành đạo”. Mọi người thấy vậy đều sửng sốt sợ hãi.
Tống Giang quát hỏi:
- Thằng quỷ đen kia định giở trò gì?
Lý Quỳ vung búa nhảy lên sảnh đường xông đến trước Tống
Giang. Năm hổ tướng Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Diên Chước, Đổng Bình
vội ngăn lại, giật đôi búa của Lý Quỳ ném xuống sân.
Tống Giang cả giận quát:
- Ngươi lại gây chuyện tác quái! Để xem ta có lỗi gì?
Lý Quỳ tức giận không nói ra được. Có thơ làm chứng như
sau:
Y thảo hung đồ giả tính danh,
Hoa nhan khuê nữ cưỡng đài hành.
Lý Quỳ bất tế cùng lý lịch,
Lãng thuyết Công Minh hữu thử tình.
Ai nghĩ hung đồ mượn tính danh
Nhẫn tâm khuê nữ cướp theo mình
Lý Quỳ chẳng xét đâu duyên cớ,
Lại nói Công Minh đắm ái tình.
Bấy giờ Yến Thanh bước lên nói:
- Tỉểu đệ xin thuật lại để huynh trưởng hay. Hôm ấy đệ
thấy Lý đại ca từ trong quán trọ vác búa chạy ra định đánh vào cổng thành. Tiểu
đệ phải chạy theo giật lưng cho ngã chổng, rồi kéo dậy mà bảo: “Đại ca định một
mình đi đánh lén ở đâu?”. Bấy giờ Lý đại ca mới chịu nghe tiểu đệ. Hai anh em
đệ cùng vòng sang hướng khác, không dám đi đường lớn, Lý đại ca mất khăn chít
đầu phải dóc tóc thành bím. Đến thôn Tứ liễu, anh em đệ xin vào ngủ nhờ ở trang
viện của Địch thái công. Địch thái công nhờ Lý đại ca làm thầy pháp bắt quỷ.
Không ngờ lại bắt được con gái của thái công đang nằm ngủ với kẻ gian phu. Lý
đại ca giết luôn cả đôi! Sau đó anh em đệ theo đường lớn phía tây mà về. Về gần
trấn Kinh môn thì trời tối, anh em đệ ghé vào nghỉ trọ ở nhà Lưu thái công. Ban
đêm, nghe vợ chồng Lưu thái công khóc lóc, Lý đại ca không ngủ được. Sáng ra Lý
đại ca truy hỏi, Lưu thái công nói: Hai hôm trước có đầu lĩnh Tống Giang ở
Lương sơn bạc cùng với một người trẻ tuổi cởi ngựa đến trang viện, thái công
nghe danh Tống Giang là người thay trời hành đạo nên gọi đứa con gái mười tám
tuổi ra hầu rượu, đến đêm hai người kia cướp lấy con gái của thái công đưa đi
đâu không rõ. Lý đại ca tin là thực. Tiểu đệ đã hai ba lần bảo Lý đại ca là
huynh trưởng không phải hạng người như thế, biết đâu chẳng phải một bọn bụi rậm
nào giả danh huynh trưởng để làm việc xằng bậy? Lý đại ca vẫn không tin, bảo
tiểu đệ khi đến Đông kinh huynh trưởng cũng có ý quyến luyến ả ca kỹ Lý Sư Sư,
như thế không phải huynh trưởng làm việc ấy thì còn ai nữa! Vì thế Lý đại ca
mới nổi xung lên.
Tống Giang nói:
- Chuyện rắc rối ấy a làm sao biết được? Có ngại gì ngươi
không chịu nói ngay?
Lý Quỳ nói:
- Ta vẫn nghĩ ngươi là bậc hảo hán,
ai ngờ ngươi lại tồi tệ như thế! Việc làm của ngươi đẹp mặt lắm đấy!
Hồi 73(b) -
Lý Quỳ Một Mình Bắt Quỷ
Tống Giang quát:
- Ngươi hãy nghe ta nói đã. Ta đem
ba nghìn quân mã trở về, nếu dẫn theo một người rẽ ngựa đi lối khác ắt là không
giấu nổi mọi nguời. Lại còn người đàn bà kia nữa, cứ như ngươi nói thì ắt phải
ở trong trại này. Vậy ngươi cứ vào trong phòng ta lục soát xem có thấy không?
Lý Quỳ nói:
- Huynh trưởng đừng nói thế! Người
trong sơn trại này đều là thủ hạ của huynh trưởng, tất họ sẽ bênh che cho huynh
trưởng, làm gì mà chẳng giấu được? Từ trước Lý Quỳ này vẫn kính trọng huynh
trưởng vì thấy huynh trưởng là bậc hảo hán không hám sắc. Ai ngờ huynh trưởng
cũng chỉ là hạng ham rượu mê gái! Giết con Diêm Bà Tích chỉ là việc nhỏ, khi
đến Đông kinh huynh trưởng đem vàng bạc cho ả ca kỹ Lý Sư Sư mói là chuyện lớn!
Ngươi chớ lừa dối ta nữa, mau đem đứa con gái kia trả cho Lưu thái công. Chuyện
anh em ta ra sao sẽ bàn sau. Nếu ngươi không chịu trả cho con người ta về thì
bất kể sớm muộn ta cũng phải giết ngươi!
Tống Giang nói:
- Ngươi dừng vội làm ầm ỉ. Lưu thái
công còn sống đó, bọn trang khách cũng chẳng đi đâu, ta với ngươi hãy đến đó
đối chất xem có đúng không? Nếu quả đúng thế, ta thề sẽ vươn cổ nhận lưỡi búa
của ngươi. Nếu không phải vậy thì cái tội bất kính của ngươi đáng xử thế nào?
Lý Quỳ nói:
- Nếu không bắt tội được ngươi thì
Lý Quỳ này sẽ đưa đầu ra đền tội.
Tống Giang nói:
- Hay lắm! Các anh em ở đây đều
chứng kiến đủ cả, ngươi hãy nhớ lấy!
Nói đoạn Tống Giang sai Thiết diện
Khổng Mục viết hai tờ “quân lệnh trạng”, hai người tự tay ký tên vào. Tờ của
Tống Giang giao cho Lý Quỳ giữ, tờ của Lý Quỳ thì Tống Giag giữ.
Lý Quỳ lại nói:
- Cái gã trẻ tuổi đi theo huynh
trưởng ấy chắc là Sài Tiến chứ chẳng phải ai khác!
Sài Tiến nói:
- Vậy ta sẽ cùng đi cho họ nhận mặt
xem sao?
Lý Quỳ nói:
- Được, ngươi cứ đi. Đến đấy ba mặt
một lời, dù ngươi là Sài đại quan nhân hay Mễ đại quan nhân(1) cũng phải cho
xơi dăm búa.
Sài Tiến nói:
- Cái đó không ngại! Ngươi cứ đi
trước đến chờ ở đó. Nếu bọn ta đi trước ngươi lại nghi ngờ.
Lý Quỳ nói:
- Đúng thế!
Nói đoạn bảo Yến Thanh:
- Anh em ta cứ theo đường cũ mà đi.
Nếu huynh trưởng không dám đến là có ý gian, khi trở về tất không xong với ta.
Yến Thanh và Lý Quỳ lại đến trang
viện của Lưu thái công. Thái công đón tiếp rồi hỏi:
- Hai hảo hán quay lại có việc gì?
Lý Quỳ nói:
- Hôm nay người tên là Tống Giang
chỗ bọn ta đến đây cho vợ chồng thái công và bọn trang khách nhận mặt. Nếu đúng
gã ta thì cứ nói thật, không phải sợ. Có ta ở đây thì không ai dám động đến
thái công.
Vừa lúc ấy trang khách vào báo: “Có
hơn mười người đang cỡi ngựa đến trang viện”.
Lý Quỳ nói:
- Bọn họ đến rồi đấy.
Nói đoạn Lý Quỳ bảo Lưu thái công
chỉ để cho Tống Giang và Sài Tiến vào, còn người và ngựa đi theo đều phải chờ ở
ngoài cổng. Tống Giang và Sài Tiến đi vào, lên ngồi trên thảo đường. Lý Quỳ cầm
búa đứng một bên, chỉ chờ Lưu thái công kêu lên một tiếng là lập tức hạ thủ.
Lưu thái công đến gần sụp lạy Tống Giang. Lý Quỳ vội hỏi:
- Có phải người này cướp con gái
thái công không?
Lưu thái công dụi mắt, nhìn kỹ rồi
nói:
- Thưa không phải.
Tống Giang hỏi Lý Quỳ:
- Thế nào?
Lý Quỳ nói:
- Ta còn lạ gì hai người vừa nháy
mắt ra hiệu với nhau! Lão này sợ ngươi nên không dám nói thật.
Tống Giang nói:
- Ngươi cứ gọi cả bọn trang khách
đến xem có phải ta không?
Lý Quỳ liền cho gọi tất cả mọi người
trong trang viện đến nhận mặt Tống Giang. Họ đều nói không phải.
Tống Giang nói:
- Này Lưu thái công, ta chính là
Tống Giang ở Lương sơn bạc còn người này là Sài Tiến. Con gái của thái công bị
bọn bất lương giả danh ta lừa dối cướp đi rồi. Nếu nghe ngóng biết bọn chúng ở
đâu thì cho người lên sơn trại báo tin. Ta sẽ phân xử cho.
Tống Giang quay sang bảo Lý Quỳ:
- Ở đây không tiện nói chuyện, ngươi
về sơn trại, ta đã có cách khu xử với ngươi.
Tống Giang, Sài Tiến và quân sĩ đi
theo đều lên ngựa trở về sơn trại.
Yến Thanh bảo Lý Quỳ:
- Bây giờ Lý đại ca tính thế nào?
Lý Quỳ đáp:
- Chỉ vì ta nóng vội chưa nghĩ kỹ
nên mới xảy ra việc này. Ta chịu thua cuộc, đành phải chịu mất đầu thôi! Chi
bằng tự tay ta cắt lấy, ngươi đưa về nộp huynh trưởng là xong.
Yến Thanh nói:
- Chết làm gì cho uổng! Đệ bày cho
đại ca một cách gọi là “Phụ kinh thỉnh tội” (vác gai xin chịu tội).
Lý Quỳ hỏi:
- “Vác gai” là thế nào?
Yến Thanh đáp:
- Đại ca phải cởi áo, tìm dây thừng
tự trói mình rồi khom người vác một bó gai trên lưng, đến trước trung nghĩa
đường sụp lạy mà nói: “Xin huynh trưởng cứ đánh phạt bao nhiêu cũng được”.
Huynh trưởng thương tình tất không nỡ giết. Kế ấy gọi là “Vác gai chịu tội”.
Lý Quỳ nói:
- Kể ra kế ấy cũng hay! Chỉ sợ vác
gai đau không chịu nổi, chi bằng ta tự chặt đầu đi là xong.
Yến Thanh nói:
- Mọi người trên sơn trại đều là anh
em cả, ai nỡ chê cười đại ca?
Lý Quỳ không còn cách nào, đành nghe
theo lời Yến Thanh về sơn trại “ vác gai chịu tội”. Có thơ làm chứng như sau:
Tam gia đối chứng dĩ phân minh
Phương hiển công bình chính đại
tình.
Thử nhật phụ kinh cam thỉnh tội,
Khả lân tôn tôn pháp quý dư sinh.
Ba người đối mặt đã phân minh
Toàn vẹn thanh danh trọng nghĩa
tình.
Chịu nhục vác gai xin chịu tội,
Đáng thương hảo hán tự khom mình.
Lại nói chuyện Tống Giang và Sài
Tiến về đến trung nghĩa đường, đang thuật chuyện cho an hem nghe thì thấy Hắc
toàn phong mình trần trùng trục, trên lưng vác một bó gậy gai đến quỳ dưới
thềm. Lý Quỳ cú đầu hồi lâu vẫn không nói được câu nào. Tống Giang cười bảo:
- Thằng quỷ đen kia vác roi gai làm
gì? Không có chuyện tha tội cho ngươi đâu?
Lý Quỳ nói:
- Tiểu đệ sai rồi. Xin huynh trưởng
chọn chiếc gậy gai thật to mà đánh, mấy chục gậy tiểu đệ cũng xin cam chịu!
Tống Giang nói:
- Ta với ngươi đem đầu ra đánh cuộc,
vác gai đến đây làm gì?
Lý Quỳ đáp:
- Nếu huynh trưởng không tha, xin cứ
chặt đầu, đệ cũng cam chịu.
Mọi người đều xúm lại xin Tống Giang
tha cho Lý Quỳ. Tống Giang nói:
- Nếu muốn tha tội, ngươi phải bắt
cho được hai tên giả mạo Tống Giang, trả con gái cho Lưu thái công.
Lý Quỳ vui mừng vùng dậy nói:
- Tiểu đệ xin đi ngay! Bắt bọn chúng
thì dễ như thò tay vào túi!
Tống Giang nói:
- Bọn chúng có hai người, lại đi
ngựa, ngươi chỉ có một mình đối phí sao được? Lại phải cho Yến Thanh đi cùng
mới xong.
Yến Thanh nói:
- Huynh trưởng đã bảo thì tiểu đệ
xin đi.
Yến Thanh liền về phòng lấy cung nỏ
và cây gậy tề mi rồi theo Lý Quỳ đi đến trang viện của Lưu thái công.
Yến Thanh hỏi đầu đuôi sự việc, Lưu
thái công nói:
- Bọn họ đến đây lúc xế chiều,
khoảng canh ba thì đi. Người nhà không ai dám theo nên không biết họ đi về
hướng nào. Người xưng là Tống Giang dáng thấp nhỏ, gầy đen. Còn người kia cao
lớn, mắt to, râu ngắn.
Hỏi tỉ mỉ mọi chuyện xong, Yến Thanh
nói:
- Thái công cứ yên long, thế nào bọn
chúng tôi cũng cứu được con gái cho thái công. Huynh trưởng Tống công Minh
chúng tôi ra lệnh phải bắt cho được hai tên giả danh ấy.
Lưu thái công liền sai người lấy
thịt khô, hấp bánh cho hai người đem đi đường. Rời trang trại của Lưu thái
công, Yến Thanh, Lý Quỳ đi về hướng bắc, suốt hai ngày phải đi qua một vùng núi
đồi hoang vắng, chẳng gặp ai để hỏi han. Hai người đành vòng lại hướng đông đi
hai ngày nữa đến địa giơsi huyện Cao đường phủ Lăng châu cũng không dò hỏi được
tin gì. Lý Quỳ sốt ruột giục Yến Thanh đi về phía tây, lại mất hai nữa cũng
không thấy động tĩnh.
Một buổi tối hai người ghé vào ngôi
miếu cổ dưới chân núi, nằm nghỉ trên bệ thờ. Lý Quỳ không thể nào chợp mắt được
bèn ngồi dậy. Chợt lúc ấy có tiếng chân người đi ngoài miếu. Lý Quỳ bèn vụt dậy
mở cửa nhìn ra, thấy một gã to lớn xách mã tấu đi về phía gò đất sau miếu. Lý
Quỳ liền nhón gót đi theo. Yến Thanh thấy động cũng nhỏm dậy xách cung, cầm gậy
bám sát Lý Quỳ, nói khẽ:
- Đại ca đừng đuổi hắn, đệ đã có
cách!
Đêm về trăng sáng lờ mờ, Yến Thanh
đưa gậy cho Lý Quỳ cầm rồi nhẹ nhàng đi theo gã cao lớn. Vừa cách một tầm tên,
Yến Thanh kéo căng dây cung nhắm thật chuẩn, nhẩm khấn: “Thánh Như Ý, xin đừng
để trượt”. Chỉ nghe một tiếng “phựt”, mũi tên bay vút đi. Gã cao lớn bị bắn
trúng vào chân phải khuỵu xuống. Lý Quỳ chạy đến túm cổ áo, xềnh xệt lôi hắn
vào trong miếu rồi quát hỏi*
- Mi cướp con gái Lưu thái công về
dấu ở đâu?
Gã cao lớn nói:
- Thưa hảo hán, tiểu nhân không dính
liếu gì đến việc ấy! Tiểu nhân chỉ đón đường, chờ người qua lại để kiếm chát
chút ít chứ không dám cướp con gái người ta.
Lý Quỳ trói hắn lại, giơ búa lên
quát:
- Mi không khai thật thì ta bằm nát!
Gã to lớn nói:
- Xin cho đứng dậy rồi tiểu nhân sẽ
thưa.
Yến Thanh cuối xuống nhổ mũi tên cho
hắn rồi nói:
- Hãy tạm rút cho ngươi mũi tên này.
Ngưoi phải khai ngay, kẻ nào cướp con gái Lưu thái công? Ngươi làm nghề chặn
đường ở đây, há lại không biết chuyện hay sao?
Gã cao lớn nói:
- Tiểu nhân chỉ phỏng đoán, chưa
chắc đã đúng: Về phía tây bắc cách đây khoảng mười lăm dặm có ngọn núi gọi là
ngọn núi Đầu trâu, trên núi có ngôi quán đạo giáo, gần đây bị hai tên cường đạo
đến chiếm. Một tên là Vương Giang, tên kia là Đổng Hải. Bọn chúng giết hết các
đạo sĩ, tiểu đồng rồi cùng sáu bảy tên lâu la chiếm lấy đạo quán. Thường ngày
bọn chúng đi cướp bóc các nơi, đến đâu cũng xưng là Tống Giang. Chuyện cướp
người con gái kia chắc là do hai kẻ đó.
Có Thơ làm chứng:
Tầm tặc tiềm cư cổ miếu đường,
Phong hàn nguyệt lãnh chuyển thê
lương.
Dạ thâm ngẫu hoạch sơn lâm khách,
Thuyết xuất cường đồ thị Đổng,
Vương.
Tìm giặc đêm nằm miếu cạnh đường
Trăng suông gió buốt cảnh thê lương.
Canh khuya tóm gọn khách thảo khấu
Khai rõ hung đồ bọn Đổng, Vương.
Yến Thanh nói:
- Có thể đúng như vậy. Ta bảo thật
nhưng ngươi đừng sợ. Ta chính là Lãng tử Yến Thanh ở Lương sơn bạc, còn đại ca
đây là Hắc toàn phong Lý Quỳ. Bây giờ ta buộc vết thương cho ngươi, ngươi phải
dẫn bọn ta đến núi đó.
Gã cao lớn nói:
- Xin vâng lệnh hai đại ca.
Yến Thanh tìm mã tấu trả lại rồi đắp
thuốc buộc vết thương cho hắn. Dưới ánh trăng lờ mờ, Yến Thanh và Lý Quỳ thay
nhau cõng hắn đi hơn mười lăm dặm đường. Ngọn núi ấy không cao lắm, hình dáng
giống như con trâu đang quỳ. Khi ba người lên tới nơi trời vẫn chưa sáng hẳn. Trên
đỉnh núi có khu nhà lá, tường đất lồi lõm bao quanh. Lý Quỳ nói:
- Để ta nhảy vào trước xem sao đã.
Yến Thanh nói:
- Nên đợi trời sáng hẳn hãy hay.
Lý Quỳ không chịu được, sốt ruột bám
tường nhảy vào. Lúc ấy bên trong nghe tiếng người đang quát tháo. Yến Thanh sợ
Lý Quỳ làm hỏng việc cũng chống gậy nhẩy qua tường mà vào, chỉ kịp thấy Lý Quỳ
bị mấy tên xách mã tấu đuổi theo. Gã cao lớn bị bắn lúc nãy vội tìm đường lẫn
trốn. Yến Thanh nấp kính một chỗ nhẩy rap hang cho một gậy vào giũa mặt tên lạ
mặt đuổi theo Lý Quỳ làm hắn ngã dụi. Lý Quỳ liền vung búa chém đứt làm hai
đoạn. Thấy xung quanh vắng vẻ, Yến Thanh bảo Lý Quỳ:
- Có lẽ bọn này có lối thoát ở phía
sau. Bây giờ đại ca đứng chặn ở đây đừng đi liều vào trong, đệ sẽ vòng ra sau
xem sao.
Yến Thanh đi ra cửa sau nấp vào xó
tối, một lúc sau thấy có người cầm chìa khoá ra mở cổng sau. Yến Thanh quay lại
thì hắn cũng vừa nhìn thấy liền bỏ chạy ra phía cửa trước. Yến Thanh gọi to:
- Lý đại ca có một tên chạy ra cổng
trước!
Lý Quỳ quay lại vừa kịp vung búa
phạt đúng giữa ngực hắn. Lý Quỳ buộc hai thủ cấp thành một túm, rồi giận dữ
chạy vào trong nhà vung búa chém giết, bọn lâu la ngã lăn như tượng đất. Mấy
tên nấp trong bếp cũng bị Lý Quỳ cho mỗi đứa một búa chết hết.
Yến Thanh, Lý Quỳ vào trong buồng
quả nhiên thấy một thiếu nữ tóc mây da phấn xinh đẹp đang ngồi khóc.
Yến Thanh hỏi:
- Nương tử có phải là con gái của
Lưu thái công không?
Người con gái đáp:
- Thưa, đúng là tiện nữ. Hơn mười
hôm trước tiện nữ bị hai kẻ cường bạo bắt về đây. Mỗi đêm một đứa thay nhau bắt
tiện nữ hầu hạ. Tiện nữ nhớ nhà khóc sưng cả mắt, chỉ muốn chết cho xong. Nhưng
vì bọn chúng trông giữ rất gắt nên không làm gì được. Nay được tướng quân cứu
giúp cho, ơn lớn khác nào cha mẹ.
Yến Thanh hỏi:
- Bọn chúng có hai con ngựa nhốt ở
đâu?
Người con gái đáp:
- Ngựa nhốt ở dãy nhà phía đông kia.
Yến Thanh tìm đủ yên cương, đến mở
cửa dắt hai con ngựa ra cổng rồi quay lại lục soát trong phòng lấy hết tư trang
vàng bạc. Tất cả được đến bốn năm nghìn lạng. Yến Thanh bảo con gái Lưu thái
công lên ngựa, cho vàng bạc vào tay nải, buộc hai đầu lâu vào sau lưng con ngựa
kia. Lý Quỳ bện hai nùi rươm, đến chỗ ngọn đèn leo lét bên cửa sổ, châm mồi lửa
rồi cầm đi đốt khắp bốn phía. Hai người mở cổng dắt ngựa đưa con gái Lưu thái
công về nhà. Vợ chồng Lưu thái công vui mừng khôn xiết, gọi mọi người đến lạy
tạ hai vị đầu lĩnh. Yến Thanh nói:
- Thái công nên lên sơn trại cám ơn
huynh trưởng Tống Công Minh của chúng tôi thì hơn.
Yến Thanh và Lý Quỳ không kịp ăn
uống vội lên ngựa phóng nhanh trở về sơn trại. Đến nơi tì trời vừa sáng. Các
đầu lĩnh đều đã xuống chờ đón ở cửa tam quan. Hai người dắt con ngựa chở vàng
bạc và thủ cấp hai tên cướp vào thẳng trung nghĩa đường yết kiến Tống Giang.
Yến Thanh kể lại sự viêc cho mọi người nghe. Tống Giang cả mừng, sai quân sĩ
đem chôn hai thủ cấp, vàng bạc thì cất vào kho, ngựa thì sai dắt ra nuôi ngoài
trại ngựa. Hôm sau, Tống Giang cho mở tiệc mừng công Yến Thanh, Lý Quỳ. Lưu
thái công cũng đem vàng bạc lên sơn trại tạ ơn. Tống Giang một mực từ chối, sai
dọn rượu khoản đãi, rồi sai người đưa thái công trở về, chuyện không có gì phải
nói. Lương sơn bạc từ đó cũng không xảy ra chuyện gì.
Thời gian thấm thoát qua nhanh,
chẳng mấy chốc đông qua xuân tới. Một hôm vào khoảng tháng ba, quân sĩ giải mấy
người lạ mặt lên sơn trại, thưa với Tống Giang:
- Bọn chúng tôi bắt được mấy kẻ này
và bảy tám cổ xe trong có mấy bó thương bổng.
Mấy người bị bắt đều cao to dũng
mãnh, bọn họ bảo nhau quỳ dưới sân rồi thưa rằng:
- Bọn tiểu nhân chúng tôi từ phủ
Phượng tường đi dự hội tế tề thiên đại thánh ở châu Thái an. Lễ chính vào ngày
hai mươi chín tháng ba. Bọn tiểu nhân đến đó để biểu diễn võ nghệ. Suốt ba ngày
hội, hảo hán các nơi kéo đến tỉ thí rất đông. Có một tay đô vật họ tên là Nhậm
Nguyên người phủ Thái nguyên, cậy có sức vóc cao to khỏe mạnh, tự xưng là “Kình
thiên trụ” vẫn thường khoác lác: “Thế gian đô vật không đối thủ, thiên hạ tranh
tài chẳng kém ai”. Nghe nói hai năm nay, vào dịp lễ hội, gã ta đến đấy làm ăn
chưa từng bị đối thủ nào đánh gục, nghiễm nhiên đoạt thưởng không biết bao
nhiêu mà kể. Năm nay hắn lại đến đó treo biển thách đấu. Bọn tiểu nhân chúng
tôi đến đấy một là để đốt hương lễ thánh, hai là xem tài nghệ của Nhậm Nguyên
thế nào, ba là cũng để học đòi vài đường thương bổng. Cuối trông đại vương mở
lượng từ bi tha cho!
Tống Giang nghe xong liền bảo viên
tiểu hiệu:
- Mau đưa mấy người này xuống núi,
không được xâm phạm mảy may. từ nay gặp người đi lễ thì phải cho đi, không dược
động đến.
Bọn mãi võ vái tạ rồi xuống núi. Bấy
giờ Yến Thanh chợt nghĩ ra điều gì liền đứng dậy nói với Tống Giang. Chỉ biết
rằng rồi đây:
Châu Thái an một phen náo động,
Huyện Tường phù tiếng nghĩa đồn xa.
Đúng là:
Hai hổ đua tài đền Đông ngạc,
Đôi rồng tranh thắng điện Gia ninh.
Chưa biết Yến Thanh nói với Tống Giang
những gì, xem hồi sau sẽ rõ.
--------------
(1)Cách nói xách mé. Sài có nghĩa là
củi, đối ý với Mễ là gạo.
Hồi 74 -
Yến Thanh Vật Ngã Kình Thiên Trụ
Đang nói chuyện lúc ấy Yến Thanh nói
với Tống Giang:
- Tiểu đệ từ nhỏ theo hầu Lư viên
ngoại, học đòi được ít miếng võ tay, chưa từng chịu thua ai trong bọn giang hồ.
Đến ngày 28 tháng 3 sắp tới, xin huynh trưởng cho tiểu đệ đến đó thử đấu sức
với Nhậm Nguyên xem sao. Nếu thua cuộc, chết bởi tay hắn đệ cũng không dám oán
trách. Nếu như đệ thắng hắn thì danh tiếng của huynh trưởng càng thêm vẻ vang.
Hôm ấy ở châu Thái An tất xảy ra náo động, xin huynh trưởng cho người đến cứu
ứng.
Tống Giang nói:
- Ta nghe nói gã kia thân cao hơn
trượng, to béo như tượng Kim Cương, sức vóc nghìn cân khôn địch. Hiền đệ thì
mảnh mai nhỏ nhắn, dẫu có tài nghệ cũng khó địch nổi hắn ta.
Yến Thanh đáp:
- Không sợ hắn cao lớn, chỉ lo hắn
không chịu vào cuộc thôi. Người ta thường nói: có sức thì đấu sức, không sức
thì đấu trí. Tiểu nhân không dám khoe khoang, sẽ tuỳ cơ ứng biến bắt gã kia
phải một phen trắng bụng!
Lư Tuấn Nghĩa tiếp lời:
- Đúng là Tiểu Ấp giỏi vật từ hồi
còn nhỏ, xin đại huynh cứ để cho đi. Tuấn Nghĩa tôi sẽ đi tiếp ứng.
Tống Giang hỏi:
- Định bao giờ đi?
Yến Thanh đáp:
- Hôm nay đã là 54 rồi, ngày mai xin
cho tiểu đệ xuống núi. Đi đường mất một đêm, đến nơi là đúng ngày hăm sáu. Ngày
hăm bảy tiểu đệ nghe ngóng, hôm sau nữa sẽ đọ sức với Nhậm Nguyên.
Hôm sau Tống Giang sai dọn rượu tiễn
Yến Thanh lên đường. Yến Thanh ăn mặc giản dị, áo dài khoác ngoài che kín vết
chàm hoa trên mình. Thấy Yến Thanh đóng giả người buôn Sơn Đông, bên đai lưng
giắt chiếc trống bỏi, quảy một gánh hàng tạp hoá đầy ắp, mọi người bật cười.
Tống Giang hỏi:
- Hiền đệ đóng giả làm lái buôn Sơn
Đông, hãy hát thử một bài của bọn lái buôn miền ấy xem sao?
Yến Thanh một tay lắc trống bỏi, một
tay gõ phách cất giọng Sơn Đông hát "bài ca thái bình" quen thuộc của
bọn khách buôn Sơn Đông. Mọi người đều vui cười tán thưởng. Rượu đã ngà say,
Yến Thanh cáo từ các đầu lĩnh rồi xuống núi, qua bãi Kim Sa nhằm đường sang
châu Thái An.
Có thơ làm chứng như sau:
- Kiêu dũng Yến Thanh bất khả bạt,
Đương trường thiết bổ hữu cơ quan.
Dục tầm địch thủ tương luân giảo,
Đặc địa khu trì thượng Thái Sơn.
Gan dạ Yến Thanh tiếng nổi cồn,
Đua tài đấu vật có ai hơn.
Muốn tìm địch thủ so cao thấp,
Ruổi ngựa băng ngàn đến Thái Sơn.
Chiều muộn hôm ấy, Yến Thanh định
tìm quán trọ nghỉ ngơi, bỗng nghe phía sau có người gọi:
- Yến Tiểu Ất chờ ta với!
Yến Thanh đặt gánh quay lại nhìn thì ra Hắc toàn phong Lý
Quỳ. Yến Thanh hỏi:
- Đại ca có việc gì mà đuổi theo?
Lý Quỳ đáp:
- Hiền đệ đã hai lần đi với ta đến trấn Kinh Môn. Chuyến
này hiền đệ đi một mình, ta không yên lòng nên trốn huynh trưởng để theo giúp!
Yến Thanh nói:
- Việc này chẳng phải phiền đến đại ca. Đại ca nên trở về
là hơn.
Lý Quỳ nổi cáu nói:
- Ngươi lên mặt gớm! ta có ý tốt muốn theo giúp nhưng
ngươi kiêu kỳ thì ta cũng chẳng cần.
Yến Thanh sợ mất tình nghĩa bèn hạ giọng nói:
- Đại ca muốn đi với đệ nhưng ở hội tế thánh đản dân bốn
phương tụ tập rất đông, thế nào cũng có người biết mặt đại ca. Muốn đi đại ca
phải chịu theo ba điều.
Lý Quỳ nói:
- Được, cứ nói xem!
Yến Thanh nói:
- Từ bây giờ hai người bọn ta cứ kẻ trước người sau mà
đi, khi đã vào quán trọ thì đại ca không được lén ra ngoài, đấy là một. Điều
thứ hai là khi vào quán trọ ở gần Thánh miếu, đại ca phải giả vờ ốm, kéo chăn
trùm kín đầu, ngáy khò khò, không được nói năng gì cả. Thứ ba là đến hôm đệ thi
vật, đại ca đến xem nhất thiết không được gây lộn xộn. Ba điều ấy đại ca có
chịu được không?
Lý Quỳ đáp:
- Chẳng có gì khó. Ta chịu tất.
Tối hôm ấy hai người vào nghỉ trong quán trọ. Canh năm
hôm sau dậy sớm trả tiền rồi nhóm bếp thổi cơm ăn. Yến Thanh nói:
- Sáng nay đại ca đi trước, đệ sẽ theo sau cách chừng nửa
dặm.
Trên đường đi, Lý Quỳ và Yến Thanh gặp từng đoàn người lũ
lượt đi lễ. Người ta trầm trồ kháo nhau tài nghệ của Nhậm Nguyên "đã hai
năm nay không ai địch nổi đô vật này, năm nay nữa là ba". Yến Thnh im lặng
lắng nghe. Chiều hôm ấy, ở thôn Thánh miếu người trẩy hội đứng chật vòng trong
vòng ngoài, kiễng chân nghển cổ mà nhìn. Yến Thanh đặt gánh xuống nghỉ rồi rẽ
đám đông chen vào xem. Trên hai cột tiêu dán giấy hồng làm cổng chính của hội
lễ căng tấm vải đề chữ trắng: "đô vật Thái Nguyên Kình thiên trụ Nhậm Nguyên".
Mỗi cột tiêu treo một vế đối liên: "quyền đả Nam Sơn mãnh hổ, Cước thi Bắc
hải thương long". (Chân đá rồng xanh Bắc Hải, tay đấm hổ dữ Nam Sơn). Yến
Thanh xem xong bèn giơ đòn gánh đập mạnh làm rách tấm vải thách vật, chẳng nói
chẳng rằng gảy gánh đi vào miếu. Bọn hiếu sự vội đi báo cho Nhậm Nguyên biết
năm nay sẽ có địch thủ ngang tài.
Một lúc sau Yến Thanh đi ra thì gặp Lý Quỳ. Hai người
cùng đi tìm quán trọ. Xung quanh Thánh miếu ồn ào náo nhiệt, mấy trăm hàng quán
chen chúc, dân mở quán trọ đến nghìn tư, nghìn rưởi nhà tranh nhau đón khách
thập phương trẩy hội. Chưa đến ngày khánh tiết mà các nhà trọ đã chật ních
không còn chỗ nghỉ. Yến Thanh và LÝ Quỳ phải đi mãi đến đầu chợ mới tìm được
chỗ trọ. Yến Thanh vào hỏi thuê giường và chăn cho Lý Quỳ. Tiểu nhị hỏi:
- Đại ca từ Sơn Đông lên bán hàng cho dân trẩy hội, liệu
có kiếm đủ tiền trọ không?
Yến Thanh nói giọng Sơn Đông:
- Ngươi giỏi coi khinh bọn ta! một gian buồng trọ đắt rẻ
bao nhiêu? cứ cho ta thuê cả một buồng to, người khác trả bao nhiêu, ta trả đủ
bằng ấy?
Tiểu nhị nói:
- Đại ca đừng giận, đang lúc khách đông buồng ít, xin
thưa rõ trước để đai ca biết.
Yến Thanh nói:
- Ta đến đây bán hàng thì nghỉ ở đâu cũng được. Nhưng gặp
người bà con cùng làng bị cảm mạo nên phải đi vào đây cho tiện. Tạm đưa trước
cho ngươi nửa quan, nhớ cơm nước giúp cho. Khi đi sẽ trả nốt.
Tiểu nhị nhận tiền đi nấu cơm cho hai người.
Một lúc sau bỗng nghe bên ngoài rộ lên tiếng ồn ào huyên
náo rồi một bọn hai ba chục tên cao lớn xộc vào hỏi tiểu nhị:
- Kẻ quật rách tấm biển thách đấu trọ ở phòng nào?
Tiểu nhị đáp:
- Không rõ.
Bọn kia nói:
- Người ta nói hảo hán ấy vào trọ ở đây.
Tiểu nhị đáp:
- Quán trọ của tiểu nhân chỉ có hai buồng, một buồng bỏ
không, một buồng thì người khách buôn Sơn Đông cùng đi với một người bị ốm vừa
đến hỏi thuê.
Bọn kia nói:
- Đúng là người lái buôn đó đập rách biển thách đấu đấy!
Tiểu nhị đáp:
- Đừng nói thế người ta cười cho. Ông khách buôn ấy người
nhỏ bé mà lại còn trẻ, chắc không có chuyện ấy đâu!
Bọn người kia cùng nói:
- Thì ngươi cứ cho bọn ta vào xem hảo hán ấy thế nào.
Tiểu nhị đành chỉ buồng Yến Thanh, nói:
- Ở góc đằng kia!
Đám đông kéo đến thấy cửa buồng đóng chặt, liền vòng ra
ngoài cửa sổ nhìn vào. Lúc ấy Yến Thanh và Lý Quỳ đang gác chân lên nhau nằm
ngủ. Trong bọn có người nói:
- Dám đập rách tấm biển, tất phải là tay đô vật có danh
tiếng chứ chẳng phải thường. Hắn là hảo hán ấy sợ người ta thăm dò mình nên vờ
ốm.
Mấy người khác nói:
- Đúng đấy! không phải đoán nữa, khi vào cuộc sẽ biết.
Rồi cả bọn kéo nhau đi ra. Từ lúc ấy cho đến tối, còn
nhiều bọn khác nữa đến xem mặt đô vật mới đến, tiểu nhị phải trả lời mỏi miệng.
Tối hôm ấy khi tiểu nhị bưng cơm vào, Lý Quỳ kéo chăn chui ra. Tiểu nhị trông
thấy giật bắn người, kêu lên:"Á dà! chính ông hùm này đến tranh giải vật
đây!". Yến Thanh nói:
- Đại ca đây đang bị ốm, chính ta mới là người đến tranh
vật với Nhậm Nguyên.
Tiểu nhị nói:
- Đại ca đừng nói đùa! cứ như đại ca thì hẳng bị Nhậm
Nguyên nuốt chửng.
Yến Thanh nói:
- Để rồi xem! ta đã có cách làm cho bọn ngươi được một
trận cười vỡ bụng. Đọat được giải, ta sẽ thưởng cho ngươi.
Tiểu nhị chờ hai người ăn uống xong, thu dọn bát đĩa đem
xuống bếp, trong bụng vẫn nghi ngờ chưa tin.
Sáng hôm sau ăn uống xong, Yến Thanh bảo Lý Quỳ:
- Bây giờ đại ca cứ đóng chặt cửa buồng nằm ngủ cho khoẻ.
Nói đoạn Yến Thanh ra cửa nhập vào đoàn người đi xem lễ ở
Thánh miếu.
Yến Thanh đi dạo một vòng quanh đám hội rồi đến nhà lễ
của khách thập phương cúi đầu lạy bốn lạy. Yến Thanh hỏi thăm chỗ ở của võ sư
Nhậm Nguyên, mấy người hiếu sự nhanh nhảu trả lời:
- Võ sư ở nhà trọ lớn gần cầu Nghênh An kia! có đến hai
ba trăm người nhận làm đồ đệ xin ông ta dạy võ.
Yến Thanh ra khỏi nhà lễ đi về phía cầu Nghênh An. Đến
nơi thấy một bọn chừng hai ba chục người đang ngồi trên thành cầu. Phía trước
cầu cắm nhiều cờ vàng đuôi nheo và căng một tấm trướng lớn bằng gấm. Yến Thanh
lách nhìn chen vào thấy Nhậm Nguyên ngồi chễm chệ trên ghế dựa đặt giữa nhà xem
bọn đồ đệ luyện tập, uy nghi như bậc bá vương có thế lực bạt núi, bộ mặt to bè
dương dương tự đắc, ngực áo phanh trần như muốn phô sức mạnh nuốt hùm. Trong
bọn đồ đệ có kẻ nhận ra Yến Thanh là người đã đập rách tấm biển thách vật, bèn
lén đến báo với Nhậm Nguyên. Nhậm Nguyên vụt đứng dậy giang hai tay nói trống
không:
- Năm nay kẻ nào muốn chết cứ dẫn xác đến đọ sức với ta!
Yến Thanh cúi đầu bước đi, đi khỏi quán trọ còn nghe
tiếng thầy trò Nhậm Nguyên cười theo giễu cợt. Về đến nhà trọ, Yến Thanh gọi
tiểu nhị dọn rượu thịt cùng ăn với Lý Quỳ.
Lý Quỳ hỏi:
- Ngươi đi một mình, bắt ta nằm khoèo, buồn chết đi được!
Yến Thanh nói:
- Chỉ còn một tối nay nữa, ngày mai đệ phải đọ sức với gã
Nhậm Nguyên kia rồi.
Hai người nói chuyện phiếm một lúc rồi nằm ngủ, việc
không có gì đáng nói.
Vào khoảng canh ba, một hồi trống nổi vang báo hiệu bắt
đầu lễ dâng hương ở Thánh miếu. Đầu canh tư Yến Thanh và Lý Quỳ thức dậy, gọi
tiểu nhị lấy nước nóng rửa mặt. Yến Thanh chải đầu, cởi áo cánh rồi quấn xa
cạp, vận quần lụa ngắn rộng ống, đi giày gai, mặc áo chẽn hở nách, quấn đai
lưng. Ăn xong, Yến Thanh dặn tiểu nhị:
- Hành lý của bọn ta để trong phòng, nhờ ngươi trông
giúp.
Tiểu nhị đáp:
- Xin hảo hán cứ yên lòng, tiểu nhân không để một thứ gì
suy suyển! chúc hảo hán thắng cuộc.
Hai ba chục người khách cùng trọ trong quán đều nói với
Yến Thanh:
- Hảo hán phải lượng sức mình, chớ liều lĩnh uổng mạng.
Yến Thanh đáp:
- Khi nào tiểu nhân được cuộc nhờ các vị nhanh tay giật
lấy chỗ tiền thưởng cho tiểu nhân.
Mọi người ồn ào chen nhau ra trước. Lý Quỳ nói:
- Ta cứ mang theo cả đôi búa có lẽ cũng hay!
Yến Thanh nói:
- Đại ca hãy cất đi ngay! của nợ ấy hôm nay không cần
dùng đến. Đem đi lỡ có ai trông thấy thì hỏng việc lớn.
Nói đoạn hai người chen lẫn vào đám đông. Bên hành lang
của Thánh miếu, người đến dự lễ dâng hương chen vai thích cánh đứng kín vòng
trong vòng ngoài; có bọn còn trèo cả lên quầy hàng cọc làm rào chắn, trên các
cọc rào treo các đồ thưởng vàng bạc vóc lụa. Ngoài cửa có buộc năm con tuấn mã
yên cương sẵn sàng. Viên quan thừa lệnh tri châu chủ trì hội lễ, đích thân đến
giám sát cuộc đấu vật dâng thánh. Quan chủ tế đã có tuổi chống gậy trúc bước
lên vũ đài, truyền cho những người ứng vật năm nay lên tiếng. Chưa dứt lời bỗng
thấy đám đông dập dờn như sóng rồi một đoàn hơn chục đôi trai tráng vác gậy đi
vào. Tốp đi đầu cầm bốn lá cờ thêu, tốp sau khiêng kiệu Ngậm Nguyên, vài ba
chục đôi trai tráng mặc áo hở vai tay xăm chàm đi tiền hô hậu ủng. Quan chủ tế
truyền cho Nhậm Nguyên xuống kiệu rồi ôn tồn thăm hỏi.
Nhậm Nguyên đáp:
- Tiểu nhân đã hai năm liền đứng đầu bảng, được thưởng nhiều
vàng lụa. Năm nay chắc phần thưởng hẳn cũng vào tay tiểu nhân.
Lúc ấy có một người bưng thùng nước lên đặt ở sân đấu.
Bọn đồ đệ của Nhậm Nguyên đứng thành dãy sát võ đài. Nhậm Nguyên bỏ khăn, cởi
đai lưng để phanh vạt áo gấm, bước lên chắp tay cúi đầu lạy thánh, nhận hai bát
nước uống cạn, rồi cởi áo để sang một bên. Hàng vạn người dự lễ trầm trồ khen
ngợi.
Viên chủ tế nói to:
- Nhậm võ sư đã hai năm nay đoạt giải vật, không ai dám
đọ sức. Năm nay có muốn nói gì với dân chúng trẩy hội không?
Nhậm Nguyên nói:
- Nhờ ơn thánh đế phù hộ, chư vị thập phương ban cho
nhiều đồ thưởng quý báu đã hai năm liền. Năm nay Nhậm Nguyên tôi định từ tạ
thánh đế để về làng. Vậy xin kín cáo với bàn dân thiên hạ; phía đông đến chốn
mặt trời mọc, phía tây đến nơi mặt trời lặn, hai vầng nhật nguyệt hợp đủ càn
khôn; phía nam đến đất Nam man, phía bắc đến đất Tề, đất U, đất Yên, có ai dám
cùng Nhậm Nguyên tôi tranh giải thưởng đô vật thì xin cho biết.
Nhậm Nguyên chưa dứt lời, Yến Thanh rẽ đám đông đi tới,
cất tiếng đáp to:
- Có ta đây!
Yến Thanh vừa nói vừa đi vùn vụt về phía võ đài. Đám dông
hò reo vang dội. Viên chủ tế hỏi:
- Hảo hán từ đâu tới, xin cho biết họ tên quê quán.
Yến Thanh đáp:
- Tiểu nhân là Trương hóa lang ở Sơn Đông, chuyến này lên
đây để tranh giải vật với Nhậm Nguyên.
Viên chủ tế nói:
- Đây là chuyện quan hệ đến tính mạng, hảo hán đã nghĩ kỹ
chưa? có thân chủ đi theo làm bảo chứng không?
Yến Thanh đáp:
- Tiểu nhân tự làm bảo chứng! chết cũng không đòi đến
mạng!
Viên chủ tế nói:
- Ngươi hãy cởi áo để ta xem.
Yến Thanh bèn cởi khăn chít đầu, quấn tóc buộc túm, cởi
giày ghếch chân tháo xa cạp rồi nhảy lên võ đài, cởi áo lót giơ lên rũ. Người
xem trầm trồ khen ngợi, tiếng xôn xao nổi lên như sóng. Nhậm Nguyên có phần nao
núng khi thấy chàng trai chắc nịch mình xăm chàm hoa bước lên võ đài.
Trên đài xem đấu, tri phủ châu Thái An ung dung ngồi ghế
bảy tám chục công sai mặc áo đen chầu chực hai bên. Yến Thanh bước xuống đến
trước khán đài. Thấy Yến Thanh chắc khoẻ như cây ngọc xăm hoa, tri phủ cả mừng,
hỏi:
- Hảo hán người ở đâu? lên đây có việc gì?
Yến Thanh đáp:
- Tiểu nhân là con trưởng nhà họ Trương ở phủ Lai Châu
tỉnh Sơn Đông, nghe nói Nhậm Nguyên thách vật với người khắp thiên hạ nên tiểu
nhân đánh đường lên đây tranh giải với người ấy.
Tri phủ Thái An nói:
- Ngoài cổng có tuấn mã đã thắng đủ
yên cương, đó là tặng vật của ta thuởng cho Nhậm Nguyên, còn vóc lụa và các đồ
trang sức vàng bạc treo trên hàng rào kia, ta có ý định cho ngươi một nửa. Hai
người tự chia với nhau. Ta sẽ cất nhắc cho ngươi làm việc dưới quyền ta. Yến
Thanh đáp:
- Thưa tướng công, phần thưởng cũng
quý nhưng tiểu nhân chỉ muốn vật gã Nhậm Nguyên để hắn khỏi khoác lác và mọi
người được trận cười thoả thích thôi.
Tri phủ nói:
- Nhậm Nguyên to lớn như hộ pháp,
ngươi không đụng vào được đâu?
Yến Thanh nói:
- Dù chết tiểu nhân cũng không dám
oán trách!
Nói đoạn Yến Thanh quay lại trèo lên
võ đài đối mặt với Nhậm Nguyên. Viên chủ tế rút trong ngực áo ra một bản điều
lệ thi vật đã viết sẵn, đọc to lên một lượt, rồi hỏi Yến Thanh:
- Người đã nghe rõ chưa? nhớ là
không được phép giở trò mờ ám đấy!
Yến Thanh cười nhạt đáp:
- Người kia sửa soạn đủ thứ như thế,
tiểu nhân chỉ một manh quần cột này, liệu còn có trò ngầm gì nữa?
Tri phủ gọi viên chủ tế đến căn dặn:
- Hảo hán kia đáng kể là bậc tuấn
tú, xẩy sự không hay thì đáng tiếc lắm. Ngươi thử dàn xếp lần nữa xem bọn họ có
chịu nhau không?
Viên chủ tế trèo lên võ đài bảo Yến
Thanh:
- Hảo hán hãy lo giữ mạng mà về quê,
ta sẽ dàn xếp cho ngươi cuộc đấu này.
Yến Thanh đáp:
- Ngươi không hiểu gì cả! đã biết ta
thua hay thắng mà bảo thế?
Mọi người ào ào xô tới, hàng vạn
người nhấp nhô như sóng chuyển, người xem trèo cả lên nóc nhà, ai cũng sợ bị
che không nhìn rõ đôi đô vật nổi tiếng. Lúc ấy Nhậm Nguyên tức bực chỉ muốn co
chân đáp phốc Yến Thanh lên tận mây xanh. Viên chủ tế nói:
- Hai ngươi đã bằng lòng thi đấu vật
thì lễ hội năm nay sẽ dâng cuộc đấu của các ngươi. Các ngươi phải hết sức cẩn
thận!
Xung quanh im phăng phắc, trên võ
đài chỉ còn có Nhậm Nguyên, Yến Thanh và viên chủ tế đứng giám sát.
Lúc ấy mây mù vừa tạnh, mặt trời nhô
lên ở phía đằng đông. Viên chủ tế cầm gậy trúc, căn dặn hai người rồi hô lớn:
- Bắt đầu!
Hai người xông vào vờn nhau, kẻ qua
người lại, khó nói rõ ai tiến ai lui. Nói thì chậm, việc xảy ra thì nhanh như
chớp. Bấy giờ Yến Thanh khom lưng, xoãi chân đứng về phía bên phải. Nhậm Nguyên
cũng xuống tấn ở phía bên trái, mỗi người chiếm một nửa võ đài. Thấy Yến Thanh
hồi lâu vẫn không nhúc nhích, Nhậm Nguyên từ từ bước lấn tới. Yến Thanh chỉ chú
mực nhìn khoảng thân dưới của Nhậm Nguyên nghĩ thầm:"Chắc hắn sẽ đánh đúng
vào phần bụng mình đây! để cho ngươi biết ta không cần động tay, chỉ hất một
cái là ngươi lăn xuống võ đài". Có thơ làm chứng như sau:
Bách vận nhân trung giáo nghệ
trường,
Khinh sinh quyên mệnh đẳng tầm
thường.
Thí khan lưỡng hổ tương thốn đạm
Tất định trung gian hữu nhất thương.
Ức vạn người xem giữa đấu trường,
Liều thân quên chết há tầm thường.
Thử xem hai hổ tranh thắng bại,
Ắt hẳn một hùm bị trúng thương!
Xem chừng đã áp đến vừa tầm, Nhậm
Nguyên bèn đưa chân dứ trước về bên trái. Yến Thanh quát lớn:
- xem!
Lúc ấy Nhậm Nguyên đang chờ YẾn
Thanh bước tránh, không ngờ Yến Thanh nhanh như cắt luồn qua nách Nhậm Nguyên
nhảy ra phía sau, Nhậm Nguyên nóng mặt định quay lại vít vai Yến Thanh. Yến
Thanh liền co chân nhảy dứ rồi luồn nhanh qua nách phải Nhậm Nguyên. Nhậm
Nguyên to béo phục phịch nên xoay trở có phần khó khăn, ba lần xáp vào đều bị
hụt, bước chân Nhậm Nguyên bắt đầu chệch choạng. Đúng lúc đó Yến Thanh lao vào,
tay phải vít cổ Nhậm Nguyên, tay trái móc vào háng, dùng bả vai độn ngực hất
bổng lên, Nhậm Nguyên hẫng chân, bị Yến Thanh dùng hết sức xoay mấy vòng. Yến
Thanh reo lên:
- Ngã này!
Rồi nghiêng vai hất mạnh Nhậm Nguyên
rơi xuống võ đài đầu chúi xuống đất, chân chổng lên trời. Miếng vật ấy gọi là
"chim gáy xoè cánh". Hàng vạn người xem reo hò thán phục. Bọn đồ tể
của Nhậm Nguyên thấy sư phụ bị quật ngã liền ùa đến hàng rào vơ đấy đồ thưởng.
Trong lúc mọi người lộn xộn quát thét thì bọn đồ đệ chạy đến định xông lên võ
đài. Tri phủ Thái An hò hét quát nạt cũng không ngăn nổi.
Hung thần Hắc toàn phong Lý Quỳ nổi
giận quắc mắt, tóc tai dựng đứng, vội hai tay nhổ giật hai cọc rào vót nhọn
bằng gỗ để xông đến đánh tới tấp. Có người nhận ra Lý Quỳ, họ tên Hắc toàn
phong mau chóng lan truyền khắp đám hội. Bọn công sai sợ hãi xô nhau chạy vào
phía trong, vừa chạy vừa kêu:
- Chớ cho Hắc toàn phong Lý Quỳ chạy
thoát!
Nghe tiếng Hắc toàn phong Lý Quỳ,
tri phủ châu Thái An ba hồn bảy vía lên tận mây xanh, vội đứng vụt dậy, lủi
nhanh ra sau điện. Người xung quanh đổ xô vào xem, người làm lễ trong miếu thì
tìm đường trốn tránh. Lý Quỳ thấy Nhậm Nguyên ngất xỉu chỉ còn thở thoi thóp,
bèn vác tảng đá đến đập cho chết luôn. Yến Thanh, Lý Quỳ vừa đánh vừa rút chạy
ra ngoài. Quân cung nỏ ngoài cổng bắn tên theo tới tấp. Hai người phải trèo lên
nóc nhà dỡ ngói ném xuống. Một lúc sau ngoài cửa miếu có tiếng hò reo vang
trời, rồi một đội quân tiến lên như vũ bão. Vị đầu lĩnh dẫn đầu đội quân ấy đội
nón Phạm Dương, mặc chiến bào lụa trắng, lưng giắt đoản đao, tay vung mã tấu.
Người ấy chẳng phải ai xa lạ mà chính là Ngọc kỳ lân Lư Tuấn Nghĩa. Theo sau là
các hảo hán dẫn hơn một nghìn quân đánh thẳng vào cổng miếu để cứu ứng cho Yến
Thanh, Lý Quỳ. Hai người thấy Lưu đầu lĩnh đem quân đến, vội từ trên nóc nhà
nhẩy xuống, rút chạy theo. Lý Quỳ quay về quán trọ lấy đôi búa, rồi vừa chạy
vừa đánh vung lên. Khi tri phủ Thái An điểm đủ quân sĩ thì hai hảo hán đã đi xa
rồi. Quan quân biết là không địch nổi quân Lương Sơn Bạc nên không dám đuổi theo.
Lại nói Lư Tuấn Nghĩa đem quân đi
cứu Yến Thanh, Lý Quỳ trở về, đi được non nửa buổi, ngoái lại không thấy Lý Quỳ
đâu nữa. Lư Tuấn Nghĩa cười nói:
- Lại gã Hắc toàn phong gieo tai
chuốc hoạ! đành phải cho người đi tìm lôi hắn về sơn trại.
Mục Hoằng xin Lư Tuấ Nghĩa cho mình
đi tìm Lý Quỳ.
Tạm gác chuyện Lư Tuấn Nghĩa đem
quân về sơn trại. Kể tiếp chuyện Lý Quỳ hai tay hai búa rẽ đường ghé vào huyện
Thọ Trương. Trưa hôm ấy viên tri huyện xong việc nghỉ sớm. Lý Quỳ đến trước cửa
huyện, gọi to:
- Ta là Hắc toàn phong ở Lương Sơn
Bạc đây!
Nghe đến tên Hắc toàn phong, nha lại
và lính huyện sợ hãi rụng rời, không biết đối phó ra sao. Nguyên do là huyện
Thọ Trương này ở gần Lương Sơn Bạc, năm tiếng "Hắc toàn phong Lý Quỳ"
cũng tựa như con ngáo ộp mà thầy thuốc đem doạ trẻ con khóc đêm. Nay lại chính
là Lý Quỳ đích thân đến thì làm gì chẳng sợ!
Không thấy ai lên tiếng, Lý Quỳ đi
thẳng vào huyện đường, thấy ghế tri huyện bỏ không, Lý Quỳ bèn ngồi vào rồi lớn
tiếng gọi:
- Có ai hãy ra đây nói chuyện với
ta! không chịu ra ta sẽ cho mồi lửa thiêu trụi cả!
Bọn nha lại nấp trong phòng dưới
hành lang thấy vậy chỉ còn cách để cho mấy người lên đối đáp với Lý Quỳ cho yên
chuyện. Hai viên thư lại đánh bạo lên trước công đường lạy chào Lý Quỳ bốn lạy,
rồi quỳ xuống thưa:
- Đầu lĩnh đến đây ắt có điều gì chỉ
bảo?
Lý Quỳ nói:
- Ta đến đây không phải để đánh các
ngươi, tiện chân đi qua thử ghé vào chơi cho vui thôi. Bọn các ngươi hãy vào
mời tri huyện ra đây gặp ta.
Hai người thư lại đi xuống dưới nhà,
một lúc sau quay lại nói:
- Quan huyện thấy đầu lĩnh đến đã mở
cửa đi ra ngòai, không rõ đi đâu.
Lý Quỳ không tin, bèn ra sau hậu
trường tìm kiếm, chỉ thấy chiếc khăn đóng và tráp quần áo của tri huyện để ở
đó. Lý Quỳ bèn lấy khăn đóng chụp lên đầu, mở khoá lấy áo thụng xanh mặc vào
người, thắt lưng. Tìm quanh một lúc, thấy đôi giày mỏ cong của tri huyện, Lý
Quỳ bèn thay cả giày rồi cầm dùi gỗ hòe ung dung bước ra sảnh đường, hỏi to:
- Ta ăn mặc thế này trông có đẹp
không?
Hai viên thư lại đáp:
- Thưa đẹp lắm ạ.
Lý Quỳ nói:
- Các ngươi đi gọi hết thuộc viên,
quân lính trong huyện ra đây xếp hàng để hầu việc, không nghe lời ta thì ta phá
tan cả khu nha huyện này!
Hai viên thư lại sợ cuống, vội chạy
đi gọi hết công sai, lại dịch lên chính sảnh, rồi gióng ba hồi trống lớn. Mọi
người xếp hàng tề chỉnh bước lên vái chào Lý Quỳ. Lý Quỳ thích thú cười vang.
Lý Quỳ nói:
- Trong bọn các ngươi ai có kiện cáo
gì cho thưa bầy để ta xét xử?
Viên thư lại đáp:
- Có hảo hán đang ngồi ở đây, không
ai dám bới chuyện kiện cáo.
Lý Quỳ nói:
- Nếu không ai kiện thật thì hai
người trong số các ngươi giả làm kẻ kiện nhau cũng được. Ta không làm hại ai,
chỉ làm thế cho vui thôi.
Mọi người bàn nhau xuống nhà giam
chọn lấy hai tên tù phạm, bảo chúng giả cách kêu kiện vì chuyện đánh nhau. Dân
chúng ngoài cửa huyện thấy việc lạ kéo nhau vào xem rất đông. Hai tên tù phạm
quỳ trước sảnh. Một tên nói:
- Thưa tướng công, xin tướng công
xét cho: tiểu nhân bị tên kia đánh.
Tên kia nói:
- Vì tên ấy chửi tiểu nhân, nên tiểu
nhân mới đánh hắn.
Lý Quỳ hỏi:
- Kẻ nào bị đánh?
Tên giả làm nguyên cáo đáp:
- Thưa, tiểu nhân bị đánh ạ.
Tên giả cách làm bị cáo đáp:
- Tên kia chửi trước nên tiểu nhân
mới đánh hắn.
Lý Quỳ nói:
- Tên này dám đánh tên kia, thế là
hảo hán, ta tha cho. Còn tên kia, sao ương hèn không dám đánh lại? bọn bay đâu,
đóng gông vào cổ hắn, đem ra ngoài cửa huyện bêu cho dân chúng biết.
Nói đọan Lý Quỳ vén ngược áo thụng,
giắt dùi gui gỗ hòe vào thắt lưng, tay cầm búa đứng đốc suất lại dịch đóng gông
tên nguyên cáo. Chờ cho bọn chúng đóng gông giải tên nguyên cáo ra cổng, Lý Quỳ
mới rảo bước đi ra, vẫn ung dung với bộ áo giày của tri huyện. Dân chúng thấy
vậy chẳng ai nhịn được cười. Lý Quỳ cứ thế đi qua đi lại trước cổng huyện. Một
lúc sau nghe tiếng đọc sách trong nhà học, Lý Quỳ bèn đi đến, vén rèm bước vào.
Thầy giáo thấy Lý Quỳ thì hoảng sợ nhảy qua cửa sổ chạy trốn. Bọn học trò sợ
hãi khóc thét lên, đứa bỏ chạy, đứa tìm chỗ chui nấp trong xó nhà. Lý Quỳ cười
vang một trận rồi bỏ đi. Vừa ra cửa, Lý Quỳ chạm trán với Mục Hoằng lúc ấy đang
đi tìm Lý Quỳ.
Mục Hoằng nói:
- Mọi người lo lắng cho đại ca, thế
mà đại ca lại nhởn nhơ ở đây! mau về thôi.
Không đợi nói hết câu, Mục Hoằng bèn
ngoắc tay Lý Quỳ kéo đi. Lý Quỳ đành phải đi theo Mục Hoằng ra khỏi huyện Thọ
Trương trở về Lương Sơn Bạc. Có thơ làm chứng như sau:
Mục dân huyện lệnh cổ hiền lương,
Tưởng thi yên trâm một chủ trương.
Quái sát Lý Quỳ vô đạo lý,
Cầm đường náo liễu, náo thư đường.
Chân dân huyện lệnh vốn hiền lương,
Lại tưởng tham quan ghét thấu xương.
Quái lạ Lý Quỳ vô lý thật,
Vừa ra khỏi huyện, hét thăm trường.
Mục Hoằng ra Lý Quỳ xuống thuyền qua
bến Kim Sa trở về sơn trại. Các đầu lĩnh thấy Lý Quỳ ăn mặc dị dạng ai nấy được
mẻ cười no. Lúc ấy, ở Trung Nghĩa đường, Tống Giang đang chúc mừng thành công của
Yến Thanh. Lý Quỳ cởi áo thụng xanh, quăng đôi búa xuống sân, ngất ngưởng cầm
dùi hòe bước đến lạy chào. Tống Giang không chờ Lý Quỳ lạy xong, vội đứng vụt
dậy, giằng lấy chiếc áo thụng đạp xé nhát tan rồi mắng rằng:
- Ngươi thật to gan, không xin phép
ta mà dám tự tiện xuống núi! tội ngươi đáng chết! ngươi đi đến đâu là gây
chuyện đến đó. Ta đã nói với các anh em, lần sau ngươi tái phạm thì không tha
thứ nữa.
Lý Quỳ "dạ" liền mấy tiếng
rồi lui ra. Lương Sơn Bạc từ đó đuợc bình yên vô sự. Hàng ngày các đầu lĩnh
chăm lo rèn tập võ nghệ, thao luyện quân sĩ, ai quen sông nước thì cho lên
thuyền học phép thuỷ chiến. Các trại quân đều rèn luyện thương đao đai giáp,
làm nhiều cung nỏ, may thêm chiến phục và các lọai cờ lệnh dùng trong quân,
việc không có gì phải kể đến.
Lại nói, sau khi sự việc xảy ra, tri
phủ châu Thái An liền viết văn thư tâu về Đông Kinh. Viện tiến tấu còn nhận
được biểu văn của nhiều châu huyện khác cáo cấp việc Tống Giang khởi loạn quấy
động trong vùng. Quan đại khanh sắp xếp các biểu văn ấy tâu lên thiên tử. Hôm
ấy, sau hồi chuông ở lầu Cảnh Dương, các quan đại thần đến đền Đãi lậu viện chờ
trời sáng để vào chầu. Đã một tháng nay đạo quân hoàng đế không ra ngự triều.
Buổi chầu sáng hôm ấy đúng là:
Ba hồi roi thét vang gác tía,
Hai hàng văn võ chật thềm vàng.
Đạo quân hoàng đến ra ngự triều, các
quan văn võ phủ phục lạy mừng. Quan điện đầu quát vang:
- Ai có việc cho ra tâu, không có
việc thì cuón rèm bãi chầu.
Quan đại khanh đứng đầu việc tiến
tấu bước ra khỏi hàng quỳ tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, viện của hạ thần
nhận nhiều biểu văn của nhiều nơi tâu việc Tống Giang khởi loạn, đem quân tiến
đánh các châu huyện, cướp kho tàng, phá nhà lao, giết hại quân dân. Bọn chúng
đến đâu quan quân đều không địch nổi. Nếu triều đình không sớm đem quân tiễu
trừ, ngày sau ắt sẽ sinh hoạ lớn. Cúi mong bệ hạ soi xét.
Đạo quân hoàng đến truyền rằng:
- Rằm tháng giêng năm ngóai bọn ấy
đã đến gây chuyện náo động ở kinh đô, năm nay lại đánh phá các phủ huyện, đâu
phải chỉ mấy châu quận quanh vùng? trẫm đã nhiều lần sai khu mật viện đem quân
đi đánh dẹp, sao đến nay vẫn chưa thấy hồi tấu?
Ngự sử đại phu Thôi Tĩnh bước ra
khỏi hàng, tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ, thần nghe nói bọn
Tống Giang ở Lương Sơn Bạc dựng lá cờ lớn đề chữ "thế thiên hành đạo"
(thay trời hành đạo). Đó là mưu chước loè bịp dân chúng, lòng dân đã phục thì
triều đình khó đánh dẹp được. HIện nay quân Liêu đang xâm phạc bờ cõi nước ta,
quân mã các nơi chống giữ không nổi. Nếu triều đình cất quân đi đánh dẹp bọn
Tống Giang thì tình thế rất bất tiện. Cứ như ngụ ý của thần thì bọn ấy đều là
những kẻ vong mệnh, trót phạm tội không bề trốn tránh nên phải tụ tập nhau ở
chốn núi rừng làm những chuyện phản nghịch vô đạo. Chi bằng bệ hạ nên giáng
chiếu chiêu an, cho quan lộc ngự tử và đồ châu báu, rồi sai một viên đại thần
mang đến Lương Sơn Bạc an ủi vỗ về khiến cho bọn họ chịu nhận chiêu an về hàng.
Sau đo, nếu mượn tay bọn họ đánh lui được quân Liêu thì quả là công tư hai đằng
đều lợi. Cúi mong bệ hạ soi xét.
Đạo quân hoàng đế nói:
- Lời khanh nói rất phải, chính hợp
với ý trẫm.
Rồi thiên tử sai điện tiền thái uý
Trần Tông Thiện làm sứ giả, mang chiếu thư và ngự tửu đến chiêu an mọi người
lớn nhỏ ở Lương Sơn Bạc. Tan buổi chầu sớm hôm ấy, Trần Thái uý lĩnh chiếu sắc,
về nhà thu xếp để lên đường.
Chưa nói chuyện Trần thái úy mang
chiếu thư đi chiêu an, chỉ biết rằng:
Rợp đầu non, trùng trùng đao thương
chiến mã
Che mặt nước, lớp lớp thuyền chiến
mông xung.
Đúng là:
Rượu qúy ngờ đâu thành mồi lửa
Chiếu son phút chốc hoá chiến thư
Chưa biết Trần thái uý đi chiêu an
bọn Tống Giang ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 75 -
Hoạt Diêm La Đục Thuyền Trộm Ngự Tửu
Đang nói chuyện thái úy Trần Tông
Thiện lĩnh chiếu thư trở về phủ thu xếp lên đường. Nhiều người đến chúc mừng,
nói:
- Thái úy đi chuyến này một là vì
công việc triều đình, hai là để trừ hại cho quân dân, an ủi trăm họ. Những
người ở Lương sơn bạc lấy trung nghĩa làm đầu, chỉ mong sớm được triều đình
chiêu an. Thái úy nên lựa lời tốt đẹp vỗ về an ủi họ. Làm được vịêc ấy thanh
danh thái úy lưu truyền đến muôn đời.
Thái úy đang tiếp khách thì có người
của phủ thái sư đến thưa rằng:
- Thái sư sai tiểu nhân đến mời thái
úy sang phủ nói chuyện.
Thái úy Trần Tông Thiện liền lên
kiệu đến phủ thái sư ở đường lớn gần cửa Tân tống. Trần Tông Thiện xuống kiệu
đi theo viên can biện vào phòng sách ở nhà Tiết đường. Trần Tông Thiện vái chào
thái sư rồi ngồi xuống ghế bên cạnh. Trà nước xong, Sái thái sư hỏi:
- Được biết thiên tử sai túc hạ mang
chiếu thư đi chiêu an Lương sơn bạc, hạ quan muốn gặp để báo cho túc hạ biết,
túc hạ đến đó không được làm mất kỷ cương triều đình, làm rối pháp độ quốc gia.
Chắc túc hạ từng biết trong sách Luận ngữ có câu: “Giữ mình liêm sỉ sai đi bốn
phương không làm nhục mệnh vua, khá gọi là sứ giả”.
Trần thái úy đáp:
- Tông Thiện tôi hiểu rõ, xin kính
vâng lời chỉ giáo của thái sư.
Sái Kinh lại nói:
- Ta sẽ sai viên can biện này đi
cùng với túc hạ. Viên ấy am hiểu phép tắc triều đình, túc hạ có sơ suất gì thì
viên ấy sẽ nhắc nhở.
Trần thái úy nói:
- Xin đa tạ hậu ý của ân tướng.
Nói xong Trần Tông Thiện cáo từ thái
sư, cùng viên can biện lên kiệu về phủ thái úy.
Vừa nghỉ ngơi được một lúc thì người
canh cửa vào báo: “Có Cao điện súy đến”. Trần thái úy vội ra đón mời Cao điện
súy vào sảnh đường. Chuyện trò thăm hỏi xong, Cao thái úy nói:
- Sáng hôm nay triều đình bàn việc
chiêu an bọn Tống Giang, nếu có mặt thì Cao Cầu tôi đã tất can ngăn việc ấy.
Huống chi bọn giặc ấy đã nhiều lần làm nhục triều đình, tội ác ngút trời. Nay
khoan dung xá tội, cho bọn chúng vào thành tất sẽ sinh hậu họa. Cao Cầu tôi
biết chuyện định can ngăn thì thiên tử đã chót phán ra rồi. Cũng đành để xem sự
thể ra sao. Nếu bọn giặc kia vẫn ôm lòng dạ ngu tối, khinh thường thánh chỉ thì
thái úy cứ việc trở về cho sớm, Cao Cầu tôi sẽ tâu xin thiên tử sai Cao Cầu tôi
đích thân đem đại binh đi đánh dẹp, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc! Ý nguyện của Cao
Cầu tôi như thế. Thái úy đi chuyến này, hạ quan có viên ngu hầu là thuộc hạ
thân tính nhanh nhẹn, giỏi đối đáp có thể giúp cho công việc của thái úy được.
Trần hái úy đáp tạ:
- Đội ơn điện súy có lòng lo lắng
cho.
Cao Cầu đứng dậy ra về. Trần thái úy
đưa tiễn đến tận cửa, đến lúc Cao Cầu lên ngựa thái úy mới quay vào. Ngày hôm
sau Trương can biện ở phủ thái sư, Lý ngu hầu ở phủ Cao điện súy đều có mặt ở
phủ thái úy. Trần thái úy sai đóng yên cương, chỉnh điểm người ngựa, sai mười
người quảy mười bình ngự tửu đặt trong giỏ đan hình rồng phượng, trên giỏ ngự
tửu đi đầu cắm lá cờ vàng. Trần thái úy lên ngựa, tùy tùng năm sáu người cùng
Trương can biện và Lý ngu hầu đều lên ngựa. Trần thái úy vai đeo chiếu thư dẫn
đoàn người lên đường. Ra khỏi cửa Tân tống, các thuộc hạ đi tiễn đều quay về.
Chẳng bao lâu sứ bộ đến Tế châu. Tri phủ Trương Thúc Dạ biết tin trước đã ra
ngoài thành nghênh tiếp, mời Trần thái úy và đoàn sứ bộ vào phủ đường. Trương
tri phủ mở tiệc khoản đãi, hỏi thăm Trần thái úy về việc chiêu an. Trần thái úy
kể cho Trương Thúc Dạ nghe qua một lượt. Trương Thúc Dạ nói:
- Theo ngu ý của hạ quan thì triều
đình tính việc chiêu an là thượng sách. Có điều thái úy đến đó gắng giữ hòa
khí, dùng lời lẽ ôn tồn tốt đẹp vỗ về bọn họ thì mới xong việc. Cứng rắn hay
mềm mỏng cốt nhất là thu xếp cho xong việc lớn, được như thế thì thanh danh
thái úy tất truyền đến muôn đời. Trong số các đầu lĩnh của bọn họ có mấy người
tính nóng như lửa, nếu nói năng không khéo làm họ nổi giận thì hỏng việc lớn.
Bọn Trương can biện và Lý ngu hầu
nói:
- Đã có hai chúng tôi đi theo thái
úy thì tất không xảy ra điều gì lầm lỡ. Quý quan chỉ nên chú ý giữ gìn hòa khí,
chớ phá kỷ cương của triều đình. Đối với bọn tiểu nhân thì trấn áp được chỗ
này, chỗ khác lại bắt chước ngóc đầu dậy.
Trương Thúc Dạ hỏi Trần thái úy:
- Thưa tướng công, hai người kia là
ai vậy?
Trần thái úy đáp:
- Vị này là can biện ở phủ thái sư,
còn vị kia là ngu hầu ở phủ Cao thái úy.
Trương Thúc Dạ nói riêng với thái
úy:
- Theo ý hạ quan, không nên để họ đi
theo.
Trần thái úy nói:
- Bọn họ là người tâm phúc của phủ
thái sư và Cao điện súy, không đem bọn họ đi tất thái sư và điện súy sẽ nghi
ngờ.
Trương Thúc Dạ nói:
- Hạ quan thưa chuyện với tướng công
như vậy vì muốn cho công việc tốt đẹp, chỉ sợ tướng công vất vả mà không được
công lao gì.
Trương can biện nói:
- Cứ mặc hai người chúng tôi nhất
định không xảy ra chuyện gì.
Trương Thúc Dạ biết ý không dám nói
đến nữa. Một mặt sai thu dọn bàn tiệc, rồi mời thái úy ra nhà khách nghỉ ngơi.
Có thơ làm chứng như sau:
Nhất thanh đan chiếu hạ thanh vân,
Đặc địa ciêu an Thủy hử quân.
Khả tiễn minh cơ Trương Thúc Dạ,
Dự tri nan dĩ sách hoa huân.
Một tờ đan chiếu nét son tươi
Bến nước Lương sơn lại thấy trời.
Sáng suốt khen cho Trương Thúc Dạ,
Khéo khuyên Tông Thiện lập công đời.
Ngày hôm sau tri phủ Tế châu sai
người đi trước lên Lương sơn bạc báo tin.
Lại nói Tống Giang hôm ấy đang tụ
họp các đầu lĩnh ở trung nghĩa đường bàn tín việc quân. Bỗng quân do thám về
báo có người của tri phủ Tế châu sai đến. Chưa biết hư thực ra sao nhưng Tống
Giang trong bụng vẫn lấy làm mừng. Quân do thám dẫn người của tri phủ Tế châu
đến trung nghĩa đường. Người ấy nói:
- Triều đình sai thái úy Trần Tông
Thiện mang mười bình ngự tửu và chiếu thư xá tội chiêu an đến thành Tế châu.
Xin báo để các hảo hán sử soạn nghênh tiếp chiếu son của thiên tử.
Tống Giang cả mừng sai dọn rượu
khoản đãi rồi lấy hai tấm vóc và mười lạng bạc hoa biếu sai nhân của tri phủ Tế
châu. Sai nhân cảm tạ ra về. Tống Giang nói với các đầu lĩnh:
- Từ lâu anh em ta vẫn muốn thu xếp
nhận chiêu an để được làm thần tử của trìều đình. Bao công sức khó khăn không
đến nổi uổng phí, đến nay việc chiêu an đã sắp thành.
Ngô Dụng nói:
- Ngô Dụng tôi xét đoán lần này việc
chiêu an chắc không thành. Dù bọn họ thực bụng thì sau khi chiêu an cũng coi an
hem bọn ta khác nào cỏ dại. Cứ để đợi đại quân triều đình đến đây trổ hết ngón
độc, anh em ta se cho bọn chúng một phen kinhhồn bạt vía. Phải thế rồi có chịu
chiêu an mới có thế mạnh.
Tống Giang nói:
- Làm như vậy tất sẽ hỏng mất hai
chữ trung nghĩa!
Lâm Xung nói:
- Triều đình sai sứ đến đây xem
chừng không thật long, bên trong tất có điều mờ ám.
Quan Thắng cũng nói:
- Chiếu thư thế nào cũng có những
lời lẽ đe dọa anh em ta!
Từ Ninh nói:
- Bọn sứ bộ hẳn là người ở phủ Cao
thái úy.
Tống Giang nói:
- Các an hem chớ nên nghi ngờ, chỉ
nên thu xếp để đón chiếu thư.
Nói đoạn Tống Giang lệnh cho Tống
Thanh, Tào Chính sử soạn yến tiệc, giao cho Sài Tiến đốc suất sắp xếp mọi việc
cho thật chu đáo. Tống Giang cho dựng trướng để thái úy và sứ bộ nghỉ ngơi,
xung quanh căn vóc lụa các màu, bài trí thật trang nghiêm đẹp đẽ. Tiếp đó sai
bọn Bùi Tuyên, Tiêu Nhượng, Lã Phương, Quách Thịnh xuống núi ra ngoài hai mươi
dặm nghênh đón sứ bộ. Lại sai đầu lĩnh thủy quân Lý Tuấn sửa soạn thuyền lớn
chở sứ bộ qua bến Kim sa. Ngô Dụng truyền lệnh cho mọi người ai lo việc nấy
không được sơ suất, chậm trễ.
Lại nói bọn Tiêu Nhượng dẫn theo năm
sáu người tùy tùng không đem theo vũ khí, chỉ mang rượu và hoa quả ra ngoài sơn
trại chờ đón sứ bộ.
Hôm ấy sứ bộ của Trần thái úy trên
đường đến Lương sơn bạc, Trương can biện và Lý ngu hầu xuống ngựa dắt bộ cùng
đi với đoàn bộ hành, hai ba trăm quân phủ Tế châu trong đó có hơn chục người
cỡi ngựa. Mấy người cỡi ngựa đi đầu dẫn đường, tiếp theo là đoàn phu quảy ngự
tửu đựng trong sọt đang hình rồng phượng, rồi đến hai người cưỡi ngựa đeo hộp
chiếu thư. Lại có đến năm sáu chục tên vô côg rồi nghề cũng đi theo mong kiếm
chác được chút gì trên Lương sơn bạc.
Bọn Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên, Lã
Phương, Quách Thịnh chờ đón sứ bộ, ai nấy đều phủ phục sẳn bên đường. Sứ bộ đến
nơi, Trương can biện hỏi:
- Tống Giang của các ngươi đã to
bằng ai mà không đích thân đến đây nghênh đón chiếu thư của thiên tử? Khinh mạn
đến thế là cùng! Các ngươi thật đáng tội chết, không xứng được triều đình chiêu
an. Vậy thưa thái úy tướng công xin mời tướng công trở về thôi.
Bọn Tiêu Nhượng rập đầu tạ tội nói:
- Từ trước đến nay, sơn trại chúng
tôi chưa nhận được chiếu thư của triều đình nên chưa biết thực hư thế nào. Hiện
Tống Giang và các đầu lĩnh lớn nhỏ đã xuống chờ sẳn ở bến Kim sa để nghênh đón
sứ bộ. Muôn trông thái úy tướng công bớt giận tha thứ để cho việc lớn của quốc
gia được vẹn toàn.
Lý ngu hầu nói:
- Việc lớn của quốc gia vẹn toàn hay
không thì bọn giặc các ngươi cũng có chạy đằng trời!
Bọn Lã Phương, Quách Thịnh nói:
- Vị này ăn nói thế mà nghe được?
Hóa ra các người khinh anh em ta quá lắm.
Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên thấy vậy bèn
dịu lời khuyên mời. Tiêu Nhượng sai tùy tùng bưng rượu và hoa quả ra mời, bọn
họ không them đụng đến, nhưng miễn cưỡng theo bọn Tiêu Nhượng đi vào bến Kim
sa. Tại đây đã có ba chiến thuyền đợi sẳn. Một chiếc chở ngựa, một chiếc chở
bọn Bùi Tuyên. Thuyền thứ ba do Hoạt diêm la Nguyễn Tiểu Thất đốc suất các thủy
thủ chèo thuyền, đầu mũi thuyền xếp các bình ngự tửu và hộp đựng chiếu thư,
tiếp đó là những người trong sứ bộ của Trần thái úy. Nguyễn Tiểu Thất ngồi ở
đầu thuyền điều khiển hơn hai chục tay chèo, người nào cũng giắt đoản đao trong
áo. Trần thái úy hiên ngang bước xuống ngồi giữa khoang thuyền, coi xung quanh
như chỗ không người. Nguyễn Tiểu Thất khoát tay cho các thủy thủ chống thuyền
rời bến. Các thủy thủ đứng chèo hai bên mạn thuyền cùng cất tiếng hát vang bài
ca sông nước. Lý ngu hầu lớn tiếng quát mắng:
- Có quan đại thần ở đây mà bọn đầu
lừa chúng bây không biết e sợ hay sao?
Thủy thủ lờ đi như không nghe tiếng,
vẫn tiếp tục hát vang. Lý ngu hầu vung roi mây vụt đánh nhưng thủy thủ chẳng ai
tỏ ý sợ hãi. Mấy người đứng gần đối đáp với hắn:
- Bọn thủy thủ chúng tôi ca hát thì
có can hệ gì đến người?
Lý ngu hầu chửi:
- Quân phản tặc chết chém dám cãi
ta!
Vừa chửi hắn vừa vung roi đánh, thủy
thủ hai bên mạn thuyền đều nhảy hết xuống nước. Nguyễn Tiểu Thất ngồi ở đầu mũi
thuyền nói vọng tới:
- Các vị đánh đập làm cho thủy thủ
nhảy chốn hết rồi, biết lấy ai chèo thuyền nữa?
Vừa lúc ấy từ phía trước có hai
chiếc thuyền nhẹ lướt tới. Nguyễn Tiểu Thất đẫ chứa đầy nước trong hai khoang
thuyền, thấy hai thuyền con đến gần bèn tháo nắp rồi kêu to:
- Thuyền thủng rồi!
Nước chứa sẳn trong hai khoang chảy
tràn sang các khoang khác, người trên thuyền vừa kịp kêu cứu thì nước đã ngập
sâu đến non một thước rồi. Hai chiếc thuyền nhẹ áp sát vào, bọn tùy tùng trong
sứ bộ vội dìu thái úy lên thuyền con chèo đi. Ai nấy hốt hoảng không còn long
dạ nào nhớ đến ngự tửu, chiếu thư nữa.
Nguyễn Tiểu Thất gọi cácthủy thủ
đang bơi dưới nước lên cả trên thuyền, sai múc nước trong thuyền đổ ra ngoài
rồi hạ thấp buồm che khuất khoang thuyền. Xong việc Nguyễn Tiểu Thất gọi thủy
thủ:
- Đem một bình ngự tửu lại đây ta
nếm thử xem sao!
Một thủy thủ mở sọt lấy một bình ngự
tửu, cởi giấy niêm phong, bưng đến chỗ Nguyễn Tiểu Thất. Ngửi mùi rượu thơm
phức Nguyễn Tiểu Thất nói:
- Chỉ lo rượu có thuốc độc nhưng ta
cứ liều nếm trước.
Không sẳn bát, gáo, Nguyễn Tiểu Thất
bưng cả bình ngự tửu giơ lên nốc thẳng một hơi. Tiểu Thất uống hết bảy lần nốc
thì hết nhẵn bình rượu tỏ ý khen ngợi:
- Rượu thơm, uống được nhưng một
bình thì chưa thấm vào đâu. Đem lại đây cho ta một bình nữa.
Thủy thủ bưng rượu đến, Tiểu Thất
uống hết một bình nữa. Cứ như thế, một mình Tiểu Thất uống hết bốn bình ngự tửu
rồi nói:
- Bây giờ không biết làm thế nào
đây?
Các thủy thủ nói:
- Ở đầu mũi thuyền sẳn có một thùng
rượu trắng.
Tiểu Thất nói:
- Lấy gáo tát nước lại đây ta chia
rượu cho các ngươi cùng uống.
Nói đoạn Tiểu Thất chia ngự tửu
trong sáu bình còn lại cho các thủy thủ uống hết, rồi lấy rượu nhạt trong thùng
rót vào các bình, buộc giấy niêm phong bỏ vào sọt rồng phượng như cũ. Các thủy
thủ lại chèo thuyền lướt đi như bay.
Đến bến Kim sa mọi người đều lên bờ.
Tống Giang và các đầu lĩnh ra nghênh đón, đặt bày hương hoa, đèn nến trên bờ,
quân sĩ khua chiên going trống theo các nhịp hát của miền thôn trại. Các bình
ngự tửu được chuyển lên bày trên hương án, hộp chiếu thư đạt riêng một bàn, mỗi
bàn bốn người khiêng. Trần thái úy vừa bước lên bờ, anh em Tống Giang đều sụp
đầu lạy chào. Tống Giang nói:
- Tiểu lại Tống Giang phạm tội tày
trời, làm cho quý quan phải vất vả quá bộ đến đây. Tống Giang tôi chưa kịp ra
xa nghênh đón, cúi mong đại nhân tha thứ cho.
Lý ngu hầu nói:
- Thái úy là bậc đại thần ở triều
đình, vâng mệnh thiên tử đến đây chiêu an không phải là chuyện thường. Sao các
ngươi dám sai bọn giặc quê mùa dốt nát đem thuyền thủng đi đón, chỉ chút nữa
làm nguy đến tính mệnh của thái úy đại nhân?
Tống Giang nói:
- Sơn trại có nhiều thuyền tốt, đâu
dám đem thuyền thủng đi đón đại nhân?
Trương can biện nói:
- Quần áo của thái úy còn ướt sũng
kia, ngươi còn chối cãi gì?
Năm viên hổ tướng đứng sát lưng Tống
Giang nửa bước không rời. Lại có tám phiêu kỵ tướng cưỡi ngựa đứng ở phía sau.
An hem các tướng thấy bọn Lý ngu hầu, Trương can biện giơ tay múa chân trước
mặt Tống Giang, ai cũng tức giận muốn xông tới đâm chết, chỉ vì Tống Giang
không cho phép nên không dám rat ay.
Bấy giờ Tống Giang mời Trần thái úy
lên kiệu về sơn trại tuyên đọc chiếu thư. Các đầu lĩnh năm lần bảy lượt nài
mời, thái úy mới chịu lên kiệu. Tống Giang lại sai đưa ngựa đến cho Trương can
biện và Lý ngu hầu. Hai tên này không biết thân phận mình cao thấp ra sao cũng
khinh khỉnh không chịu lên ngựa. Tống Giang phải mời mãi bọn chúng mới chịu đi.
Kèn trống vang lừng, Tống Giang cùng các đầu lĩnh và quân sĩ nghênh đón sứ bộ
vào cổng tam quan rồi đi thẳng đến trung nghĩa đường. Mọi người xuống ngựa, mời
Trần thái úy lên sảnh đường. Chính giữa sảnh đường kê hương án, bày ngự tửu và
hộp chiếu thư. Trần thái úy, Trương can biện và Lý ngu hầu đứng về phía bên
trái; Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên đứng phía bên phải. Tống Giang cho điểm diện các
đầu lĩnh, đông đủ một trăm linh bảy người, chỉ thiếu một mình Lý Quỳ. Bấy giờ
vào giữa tháng tư, các đầu lĩnh đều mặc áo bào lụa, xếp hàng quỳ duới sân,
khoanh tay trước ngực nghe đọc chiếu thư. Trần thái úy mở hộp lấy chiếu thư
trao cho Tiêu Nhượng. Bùi Tuyên hô lễ, các tướng nhất loạt sụp đầu lạy đón.
Tiêu Nhượng mở chiếu thư cao giọng tuyên đọc:
“Truyền rằng: Văn đẻ yên dân, võ để
giữ nước. Ngũ Đế dung lễ nhạc gìn giữ bờ cõi, Tam Hoàng lấy chinh phạt dẹp yên
thiên hạ. Sự việc có thuận nghịch, làm người có kẻ hiền, kẻ ngu. Trẫm kính nối
nghiệp lớn của tổ tiên, mở đường sáng chói tựa hai vầng nhật nguyệt, khắp trong
cõi đất gầm trời chẳng đâu là không thần phục. Gần đây bọn Tống Giang tụ tập ở
chốn núi rừng, cướp bóc các châu quận. Trẫm vốn định đem binh chinh phạt để làm
rạng oai trời, nhưng còn lo sinh dân chịu khổ. Nay trẫm sai thái úy Trần Tông
Thiện đến chiêu an. Ngày nào chiếu thư đến nơi, bọn Tống Giang phải lập tức đem
hết gạo tiền, khí giới, ngựa xe, thuyền bè nộp quan, phá hủy sào huyệt, dẫn
thuộc hạ về kinh, trẫm sẽ tha cho tội cũ. Nếu lương tâm còn mờ tối, không tuân
chiếu thư thì trẫm sẽ cho thiên binh đến đánh dẹp, lớn bé đều không trừ. Vậy
xuống chiếu cho biết, các ngươi nên hiểu rõ.
Niên hiệu Tuyên hòa năm thứ ba
(1121)
Tháng tư, ngày … Nay chiếu”
Tiêu Nhượng đọc xong, các đầu lĩnh
từ Tống Giang trở xuống đều bừng bừng tức giận. Vừa lúc ấy bỗng thấy Hắc toàn
phong Lý Quỳ từ trên xà nhà nhảy xuống giật chiếu thư trong tay Tiêu Nhượng, xé
tan rồi quay lại túm ngực Trần thái úy vung tay toan đánh. Tống Giang, Lư Tuấn
Nghĩa vội chạy đến ôm chặn kéo Lý Quỳ ra. Lý ngu hầu quát hỏi:
- Tên này là kẻ nào mà dám to gan?
Lý Quỳ đang hăng máu muốn đánh, bèm
túm lấy Lý ngu hầu mà đánh rồi lớn tiếng quát:
- Kẻ nào viết chiếu thư mà lời lẽ
xấc xược như thế?
Trương can biện đáp:
- Đó là thánh chỉ của hoàng đế.
Lý Quỳ nói:
- Hoàng đế của các ngươi không biết
anh em ta là các hảo hán hay sao? Đến chiêu an mà lại còn lên mặt như thế!
Hoàng đế các ngươi họ Tống, huynh trưởng ta đay cũng họ Tống. Người đó được làm
hoàng đế thì cớ gì huynh trưởng của ta không làm được hoàng đế? Từ giờ ngươi
đừng bén mãng đến đây trêu tức bố đen này! Bất kể thế nào ta cũng giết bằng hết
những bọn nào đã viết tờ chiếu láo xược này.
Mọi người đều xúm lại khuyên giải,
kéo Hắc toàn phong xuống dưới sân. Tống Giang nói:
- Xin thái úy hãy bình tâm. Có điều
gì lầm lỗi xin thái úy hãy bỏ qua cho. Bây giờ xin thái úy ban ngự tửu cho mọi
người cùng hưởng.
Nói đoạn Tống Giang cho lấy bộ chén lớn
khảm vàng, sai Bùi Tuyên mở một bình ngự tửu đổ vào âu rượu bằng bạc. Bấy giờ
mới biết đấy là rượu thường ở thôn quê. Mở tiếp chin bình kia cũng thấy một
loại rượu nhạt như thế. Mọi người thấy vậy đều thất vọng chán ngán, lảng dần
xuống dưới sân. Lỗ Trí Thâm giơ thiền trượng, cao giọng mắng:
- Bọn khốn kiếp, khinh người quá
lắm. Dám cả gan dổ nước lã vào rượu làm ngự tửu cho anh em ta uống?
Xĩch phát quỷ Lưu Đường cũng vung mã
tấu xông đến. Hành giả Võ Tòng rút giới đao lăm lăm cầm tay. Một già lan Mục
Hoằng, Cửu văn long Sử Tiến hầm hầm nổi giận. Sáu đầu lĩnh thủy quân bỏ ra phía
cửa tam quan, vừa đi vừa không ngớt lời chửi mắng.
Tống Giang thấy tình thế thật khó
xử, vội đến đứng chặn trước mặt Trần thái úy rồi truyền lệnh đem kiệu, ngựa đưa
Trần thái úy xuống núi, lại căn dặn các đầu lĩnh không được mảy may động chạm
đến sứ bộ. Bấy giờ, các anh em đầu lĩnh đứng khắp xung quanh đều ầm ầm phẩn nộ.
Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa phải đích than lên ngựa hộ tống Trần thái úy và những
người trong sứ bộ ra ngoài cửa tam quan. Tống Giang lạy tạ lỗi Trần thái úy hai
lạy.
- Mong thái úy hiểu cho, không phải
anh em Tống Giang tôi không có long quy thuận, quả thật là viên quan thảo chiếu
không them biết đến nổi oan khuất của anh em Lương sơn bạc chúng tôi. Nếu chiếu
thư lựa lời ôn tồn phủ dụ thì bọn anh em chúng tôi nguyện dốc hết long trung
báo nước, dẫu phải xã thân chịu chết cũng không oán trách. Khi về triều xin
thái úy tâu bày việc đó.
Nói rồi nhanh chóng đưa tiễn sứ bộ
qua bến Kim sa. Sứ bộ của Trần thái úy bị một phen khiếp vía vội đi nhanh về
phủ Tế châu. Có thơ làm chứng như sau:
Thái úy thừa tuyên xuất đế hương,
Vị chiêu trung nghĩa dục quy hang.
Ti thân nhạc quốc nan thành sự,
Phản bị ô đoan mạ nhất trường.
Thái úy vâng truyền khuất đế đô,
Chiêu hang đâu dễ chuyện bày trò.
Khom lưng nhục nước ai nghe lọt,
Chuốc lấy cười chê thật nhuốc nhơ.
Tống Giang trở về trung nghĩa đường,
cho mời các đầu lĩnh đến uống rượu. Tống Giang nói:
- Tuy chiếu thư của triều đình không
thỏa đáng, nhưng anh em các ngươi nóng nảy như thế là quá đáng.
Ngô Dụng nói:
- Huynh trưởng đừng quá tin, chuyện
chiêu an tất sẽ có ngày thành, huynh trưởng đừng trách cứ anh em. Đó chỉ là vì
triều đình coi thường bọn ta quá lắm. Từ nay xin huynh trưởng cho dẹp hết những
chuyện bàn tán vu vơ, truyền lệnh cho quân mã đóng sẵn yên cương, quân bộ sửa
sang khí giới, quân thủy chỉnh đốn thuyền bè. Sớm muộn quân triều đình cũng đến
đánh dẹp, anh em ta quyết một hai trận đánh cho bọn chúng tan tành, không còn
mãnh giáp mà về, nằm mê cũng phải giật mình kinh sợ. Đến lúc ấy có muốn bàn
chuyện gì hãy tính cũng không muộn.
Các đầu lĩnh đều thưa:
- Quân sư nói rất phải!
Hôm ấy tan tiệc, các đầu lĩnh ai nấy
về trại nghĩ ngơi.
Lại nói Trần thái úy trở về Tế châu
thuật chuyện đọc chiếu thư ở Lương sơn bạc cho Trương Thúc Dạ nghe. Thúc Dạ
nói:
- Đã như thế thì uổng phí tâm lực mà
chỉ thêm hỏng việc. Thái úy nên gấp lai kinh tâu thien tử biết, không nên chậm
trễ.
Trần thái úy cùng bọn Trương can
biện, Lý ngu hầu cùng đoàn tùy tùng ngay đêm đi gấp về kinh. Trần thái úy đến
yết kiến thái sư kể lại việc giặc Lương sơn bạc xé chiếu thư và nói năng khinh
mạn. Sái Kinh nghe xong cả giận nói:
- Bọn giặc cỏ này sao dám vô lễ đến
thế? Dưới gầm trời rộng lớn của triều đình nhà Tống ai cho phép bọn chúng ngang
nhiên hoành hành?
Trần thái úy khóc nói:
- Nếu không được nhờ ấm phúc của
thái sư tướng công thì hạ quan phen này đã nát thịt tan xương ở Lương sơn bạc.
may sao thoát chết về đây, hôm nay lại được trông thấy ân tướng!
Sái thái sư cho người đi mời ĐỒng khu
mật, Cao thái úy và Dương thái úy đến phủ thái sư để bàn việc quân hệ trọng.
Một lúc sau, cả ba đại thần đã đến Bạch hổ đường trong phủ thái sư. Cả bốn
người yên tọa. Sái thái sư cho gọi Trương can biện và Lý ngu hầu vào, bảo hai
người kể lại việc giặc Lương sơn bạc xé hủy chiếu thư. Thái úy Dương Tiến nói:
- Đối với bọn giặc này thì chủ
trương chiêu an sao được? Buổi chầu hôm ấy không biết viên nào đã tâu việc này?
Cao thái úy nói:
- Hôm ấy nếu có mặt trong buổi chầu,
Cao Cầu tôi tất đã can ngăn thánh thượng, đâu đến nổi xảy ra chuyện này?
Khu mật Đồng Quán hỏi:
- Bọn dê chuột không bõ nói đến!
Đồng Quán tôi dầu bất tài sẽ đích thân đem quân mã định ngày tiến đánh, quét
sạch bọn chúng khỏi miền song nước mới chịu trở về.
Bọn Sái Kinh nói:
- Buổi chầu sáng mai sẽ tâu lên
thiên tử.
Bàn bạc xong ba người cáo từ Sái
thái sư.
Sáng hôm sau, các quan đại thần đợi
chầu ở thềm ngự. Bỗng nghe ba hồi roi lệnh vun vút, các quan văn võ hai hàngquỳ
lạy tung hô vạn tuế. Bắt đầu buổi chầu, Sái thái sư bước ra khỏi hang đem việc
quân Lương sơn bạc xé chiếu chiêu an tâu lên thiên tử. Đạo quân hoàng đế cả
giận nói:
- Trước đây ai đã xin trẫm xuống
chiếu chiêu an?
Viên cấp sự đứng hầu tâu rằng:
- Lời tâu hôm ấy là của ngự sử đại
phu Thôi Tĩnh.
Đạo quân hoàng đế bèn sai bắt Thôi
Tĩnh giao cho đại lý tự hỏi tội. Thiên tử lại hỏi Sái Kinh:
- Bọn giặc ấy quấy nhiễu đã lâu, ai
là người trẫm có thể sai quân đi đánh dẹp?
Sái thái sư tâu:
- Không cất đại quân đi đánh thì
không thu phục được. Cứ như ngu ý của hạ thần tất phri do quan khu mật viện
đích than đem đại quân đi đánh thì mới dẹp tan quân giặc, cầm chắc phần thắng
trở về.
Thiên tử liền sai gọi khu mật sứ
Đồng Quán đến hỏi rằng:
- Khanh đem quân đi đánh giặc cỏ
Lương sơn bạc được không?
Đồng quán quỳ tâu:
- Người xưa từng nói: “Hiếu thì dốc
sức, trung thì quên mình”. Thần xin đem than trâu ngựa để trừ diệt mối lo của
bệ hạ.
Cao Cầu, Dương Tiến đều nói vung
vào. Đạo quân hoàng đế bèn giáng chỉ phong khu mật sứ Đồng Quán làm đại nguyên
súy, được ban ấn vàng và binh phù cho phép tùy ý điều động quân mã các nơi,
chọn ngày xuất quân đi đánh Lương sơn bạc. Chỉ biết rằng:
Trăm nghìn thiết kỵ đi kín non xanh
Muôn vạn chiến thuyền dàn đầy nước
biếc.
Đúng là:
Chỉ vì phi hổ ba nghìn ngựa,
Dấy động hùm beo trăm vạn quân.
Chưa biết Đồng Quán dẫn đại quân lên
đường đi đánh Lương Sơn bạc như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 76 -
Ngô Học Cứu Bầy Trận Ngũ Phương Kỳ
Đang nói chuyện khu mật sứ Đồng Quán
vâng mệnh thiên tử giữ chức đại nguyên suý thống lĩnh quân mã bèn trở về viện
khu mật trù tính việc điều binh khiển tướng: lệnh cho tám lộ, quận, châu thuộc
hạt Đông Kinh mỗi lộ điều một vạn quân, giao cho đô giám binh mã của bản châu
chỉ huy, chọn lấy hai vạn trong đội quân ngự lâm ở Đông Kinh để đóng giữ trung
quân, mọi việc ở khu mật viện đều uỷ cho phó khu mật sứ nắm giữ. Chọn hai tướng
giỏi ở ngự doanh giao cho chỉ huy quân tả dực, hữu dực. Hạn định trong vòng
mười ngày mọi việc chuẩn bị đều phải xong. Về việc tiếp ứng quân lương thì do
Cao thái uý sai người đi vận chuyển. Kê tám lộ quân mã như sau:
- Quân mã lộ Thư Châu do binh mã đô
giám Đoàn Bằng Cử chỉ huy.
- Quân mã lộ Trịnh Châu, do binh mã
đô giám Trần Chử chỉ huy.
- Quân mã lộ Trần Châu, do binh mã
đô giám Ngô Bỉnh Di chỉ huy.
- Quân mã lộ Đường Châu, do binh mã
đô giám Hàn Thiên Lân chỉ huy.
- Quân mã lộ Hứa Châu, do binh mã đô
giám Lý Minh chỉ huy.
- Quân mã lộ Đặng Châu, do binh mã
đô giám Vương Nghĩa chỉ huy.
- Quân mã lộ Như Châu, do binh mã đô
giám Mã Vạn Lý chỉ huy.
- Quân mã lộ Tung Châu, do binh mã đô
giám Chu Tín chỉ huy.
Hai viên tướng giỏi ở ngự doanh được
chọn chỉ huy quân tả dực và hữu dực của đội trung quân là:
- Ngự tiền phi long đại tướng Phong
Mỹ,
- Ngự tiền phi hổ đại tướng Tất
Thắng.
Đồng Quán làm chủ suý, nắm giữ trung
quân. Lệnh cho ba quân sửa soạn đầy đủ mọi thứ cần thiết, sai quan giữ vũ khí
phát khí giới cho quân sĩ. Mọi việc chuẩn bị đều đã xong xuôi, Đồng Quán chọn
ngày tốt xuất quân. Cao thái uý và Dương thái uý mở tiệc tiễn Đồng khu mật lên
đường. Triều đình giao cho trung thư sảnh lo việc ban thưởng ba quân tướng sĩ.
Đến ngày đã định, sau khi lệnh cho
đội tiền quân lên đường, Đồng Quán vào cung lạy chào thiên tử rồi lên yên ruổi
ngựa qua cửa Tân Tào. Đến phong đình cách kinh thành năm dặm đã thấy hai thái
úy Cao Cầu, Dương Tiễn dẫn đầu các quan chờ tiễn biệt.
Đồng Quán xuống ngựa. Cao thái uý
rót rượu mời Đồng Quán cạn chén, nói:
- Khu mật tướng công đem quân đi
chuyến này tất lập được công lớn với triều đình. Chúc tướng công sớm báo tiệp,
đem quân về kinh. Bọn giặc cỏ lén lút trong chốn lau lách ao đầm, tướng công
chớ nên coi thường, chỉ cần bao vây dựng đồn trại khắp bốn phía để cắt nguồn
lương thảo, dụ cho quân giặc xuống núi mà đánh diệt. Tướng công nên sai quân đi
trước do thám tình hình quân giặc rồi sau hãy tiến binh. Tướng công sẽ tung
quân bắt sống hết bọn chúng, ngõ hầu không phụ lòng tin cậy của triều đình.
Kính mong khu mật tướng công xét kỹ.
Đồng Quán nói:
- Đa tạ điện suý tứớng công tận tình
chỉ giáo, hạ quan xin ghi tạc vào lòng.
Đồng Quán và Cao Cầu cùng cạn chén.
Dương thái uý cũng rót rượu nâng mời Đồng Quán:
- Khu mật tướng công rộng đọc binh
thư, hiểu sâu thao lược phen này đem quân đi diệt trừ bọn giặc cỏ tất dễ như
trở bàn tay. Có điều bọn giặc cỏ này ẩn nấp ở chốn thuỷ bạc, địa thế khó khăn.
Khu mật tướng quân đem đại binh đến đó sẽ xem xét kỹ để tìm kế sách thích đáng.
Đồng Quán nói:
- Hạ quan sẽ xin tuỳ cơ ứng biến, ắt
phải có phép riêng.
Hai thái uý Cao Cầu, Dương Tiễn đều
nâng rượu:
- Xa xôi ngoài chốn kinh đô, muôn
trông tướng công sớm khải hoàn.
Cuộc tiễn biệt đã xong, ai nấy đều
lên ngựa.
Hãy gác chuyện Cao Cầu, Dương Tiễn
và các quan đi tiễn trở về. Một số đông quan lại cấp dưới còn theo tiễn chân
thêm một quãng nữa rồi mới trở về, cũng không có chuyện gì đáng nói.
Ba quân tứớng sĩ dưới quyền Đồng
Quán rầm rập lên đường, đội ngũ nghiêm chỉnh, ai nấy đều hăm hở tranh lập chiến
công. Tiền quân bốn đội do tướng tiên phong tổng lĩnh hành quân. Hậu quân bốn
đội do tướng hậu quân đốc suất. Tám lộ quân mã tả hữu do các viên kỳ bài, vũ
dực đốc suất. Đồng Quán nắm giữ trung quân thống lĩnh hai vạn quân vũ lâm mã
bộ, đều là quân tinh nhuệ tuyển chọn trong quân ngự doanh. Đồng Quán cầm roi
đốc thúc ba quân rời khỏi Đông Kinh. Đúng là đao thương cuồn cuộn như nước
chảy, người ngựa như gió lướt nhanh. Quân lính đi đường cứ năm mươi dặm dừng
nghỉ, ngày hôm sau đi tiếp, theo đường cái vòng vèo mà tiến lên. Một ngày kia
đại quân đã đến phủ Tế Châu. Tri phủ Trương Thúc Dạ ra ngoại thành nghênh đón.
Đại quân đóng trại ở ngoài thành, chỉ một mình Đồng khu mật dẫn mấy tên quân
hầu cưỡi ngựa đi thẳng vào thành. Đồng khu mật xuống ngựa trước phủ đường chào
hỏi các quan chức hàng phủ ra đón rồi lên sảnh đường. Tri phủ Trương Thúc Dạ
đứng hầu ở phía trước. Đồng khu mật nói:
- Bọn giặc cỏ lén lút trong bờ bụi,
giết hại dân lành, cướp bóc khách buôn, gây ác không chỉ một bề. Từ trước đến
nay quan quân nhiều lần đánh dẹp, nhưng vì chưa chọn được tướng tài để đến nỗi
thế lực bọn chúng ngày một lan rộng. Nay ta thống lĩnh đại quân mười vạn người,
chiến tướng hơn một trăm viên, định ngày tiến đánh quét sạch sơn trại, bắt sống
quân giặc để yên lòng muôn dân.
Trương Thúc Dạ nói:
- Thưa khu mật tướng công, quân giặc
ẩn nấp nơi thuỷ bạc, tuy là hạng cường khấu chốn sơn lâm nhưng trong đó cũng có
nhiều người trí mưu dũng cảm. Tứớng công chớ quá tức giận đem quân tiến dài,
tất phải dùng mưu sâu kế lạ mới lập được công tích.
Đồng Quán nghe xong nổi giận mắng:
- Chỉ vì bọn sất phu nhu nhược như
ngươi, sợ kiếm tránh đao ham sống sợ chết làm lầm lỡ việc lớn của quốc gia, đến
nỗi nuôi cho giặc đã khởi loạn. Ta đã đến đây, có gì mà sợ?
Trương Thúc Dạ ngồi im không dám nói
nữa, bèn sai dọn tiệc rượu tiễn đưa. Đồng khu mật dẫn quân rời thành Tế Châu,
ngày hôm sau truyền lệnh tiến đến gần Lương Sơn Bạc hạ trại.
Lại nói Tống Giang đã nghe báo trước
mấy ngày, bèn cùng với Ngô Dụng bàn kế sách đối phó, trong ngoài giữ kín như
bưng, tất cả đều đã sẵn sang chỉ chờ quan quân triều đình kéo đến. Tống Giang
lệnh cho các tướng ai nấy phải tuân theo mưu kế đã định không được làm sai.
Lại nói Đồng khu mật sai binh mã đô
giám lộ Thư Châu là Đoàn Bằng Cử làm chánh tiên phong, đô giám Trịnh Châu là
Trần Chử làm phó tiên phong, đô giám Trần Châu là Ngô Bỉnh Di làm hậu tướng, đô
giám Hứa Châu là Lý Minh làm phó hợp hậu, đô giám Đường Châu là Hán Thiên Lân
và đô giám Đặng Châu là Vương Nghĩa là tướng tả tiêu; đô giám Như Châu là Mã
Vạn Lý và đô giám Tung Châu là Chu Tín làm tướng hữu tiêu; hai tướng ở ngự
doanh là Phi long đại tướng Phong Mỹ và Phi hổ đại tướng Tất Thắng làm tướng vũ
dực ở trung quân; Đồng Quán làm nguyên suý thống lĩnh đại quân. Đồng Quán nai
nịt giáp trụ, đích thân đốc thúc ba quân tướng sĩ. Ba hồi trống trận nổi vang,
các cánh quân cùng tiến. Đi chưa được mười dặm, bỗng thấy đất bụi cuốn tung rồi
một đội quân Lương Sơn Bạc tuần tiễu phóng lên phía trước. Tiếng đạc ngựa mỗi
lúc một gần, hơn ba mươi quân thám mã đầu chít khăn xanh, mặc chiến bào xanh,
vai đeo cung tên, tay cầm thương dài cán nhỏ bịt vòng bạc trắng loá. Tất cả đều
cưỡi ngựa chiến phủ lụa đỏ, hai bên hông đeo mấy chụ đạc đồng, sau đuôi buộc
lông trĩ.
Trên cờ hiệu của viên tướng phiêu kỵ
đề rõ:"tuần tiêu đô đầu lĩnh Một vũ tiễn Trương Thanh". Đi cạnh
Trương Thanh bên trái là Cung Vượng, bên phải là Đinh Đắc Tôn. Đội thám mã tiến
lên cánh quân Đồng Quán hơn trăm bước thì quay lại. Hai tướng chỉ huy đội tiền
quân không thấy lệnh của chủ suý nên không dám hành động, chỉ sai người về
trung quân báo cho Đồng khu mật biết. Đồng Quán đích thân lên xem xét, chưa kịp
nhìn kỹ thì Trương Thanh đã dẫn quân thám mã quay về. Đồng Quán định sai quân
đuổi đánh nhưng tả hữu can rằng:
- Viên tướng ấy bên yên ngựa có đeo
túi đá, ném trăm phát trăm trúng, xin tướng quân đừng đuổi theo.
Trương Thanh trở đi trở lại ba lần
không thấy Đồng Quán đuổi theo, bèn dẫn quân về. Đi chưa được năm dặm, chợt
nghe sau núi tiếng thanh la nổi lên vang trời. Rồi một đội năm trăm quân bộ
tiến ra, bốn đầu lĩnh đi đầu là Hắc toàn phong Lý Quỳ, Hỗn thế ma vương Phàn
Thuỵ, Bát tí Na Tra Hạng Sung, Phi thiên đại thánh Lý Cổn. Đội quân bộ năm trăm
người dàn hàng ngang dưới chân núi, quân đao thuẫn chặn sát hai bên. Đồng Quán
dẫn quân tiến bước, thấy vậy bèn vẫy cờ đuôi hoẵnng thúc quân mã xông lên. Lý
Quỳ, Phàn Thụy chia quân bộ làm hai đường, tất cả đều nâng đao thuẫn trên tay,
chạy men theo đường chân núi. Đại quân của Đồng Quán đuổi theo đầu núi, thấy
thung lũng thoáng rộng liền cho quân mã dàn thành thế trận. Lúc ấy bọn Lý Quỳ,
Phàn Thụy đã dẫn quân đi khuất vào rừng. Đồng Quán cho bắc gỗ dựng tướng đài ở
trung quân, sai hai viên kỳ hiệu cầm cờ lệnh giơ trái vẫy phải truyền lệnh điều
quân xếp trận. Thế trận vừa kịp dàn xong, bỗng nghe tiếng hoả pháo nổ vang sau
núi, rồi một đội quân mã ào ạt xông ra dàn thế trận đối địch. Đồng Quán bảo tả
hữu dừng ngựa, đích thân lên tướng đài xem xét. Vừa lúc ấy, từ phía đông lại một
cánh quân mã tiến đến, đội đi đầu trương cờ đỏ, đội thứ hai trương cờ màu, đội
thứ ba cờ xanh, đội thứ tư cũng trương cờ màu. Từ phía tây một cánh quân mã
khác tiến đến: đội đi đầu trương cờ màu, đội thứ hai cờ trắng, đội thứ ba cờ
màu, đội thứ tư cờ đen. Sau các cờ lớn, tất cả đều dùng cờ đuôi nheo vàng. Cả
hai cánh quân tiến gấp vào dàn trận giữa lũng núi. Cánh quân mã từ phía chính
nam tiến đến dùng một màu cờ đỏ lửa, tướng sĩ mặc chiến bào đỏ, khoác giáp đỏ,
cưỡi ngựa thắng yên đỏ. Trên lá cờ đỏ dẫn quân đi đầu thêo chỉ vàng sáu ngôi
sao Nam đẩu, sát dưới thêu hình chim Chu tước. Từ dưới lá cờ lớn đang lay động
trong rừng cờ đỏ, một viên chiến tướng cưỡi ngựa xông ra. Cờ lệnh của viên
tướng ấy thêu chỉ vàng:"tiên phong đại tướng Tích lịch hoả Tần Minh".
Hai viên phó tướng bên trái là Thánh thuỷ tướng quân Đan Đinh Khuê, bên phải là
Thần hoả tướng quân Ngụy Định Quốc. Ba viên chiến tướng tay nâng thương đao,
cưỡi ngựa thắng yên cương đỏ đứng trước trận.
Đội phía đông trương cờ xanh, quân
sĩ mặc chiến bào xanh, cưỡi ngựa phủ yên xanh. Trên lá cờ xanh dẫn quân đi đầu
thêu chỉ vàng bốn ngôi sao Đông đẩu, dưới thêu hình Thanh Long. Từ dưới lá cờ
lớn đang lay động trong rừng cờ xanh một viên đại tướng cưỡi ngựa xông ra. Cờ
lệnh của viên tướng ấy thêu chỉ vàng đề rõ:"tả quân đại tướng Đại đao Quan
Thắng". Hai phó tướng, bên trái là Xú quận mã Tuyên Tán, bên phải là Tĩnh
mộc hãn Hách Tư Văn. Ba viên chiến tướng tay cầm khí giới, cưỡi ngựa thắng yên
cương xanh đứng trước trận.
Đội quân mã phía tây đều dùng cờ trắng,
mặc áo gáip và chiến bào trắng, cưỡi ngựa thắng yên cương trắng. Trên lá cờ lớn
trắng dẫn quân thêu chỉ vàng năm ngôi sao Tây đẩu, dưới thêu hình Bạch Hổ. Dưới
lá cờ lớn đang lay động trong rừng cờ trắng, một viên đại tướng cưỡi ngựa xông
ra. Lá cờ của viên tướng ấy có thêu chữ vàng đề rõ "hữu quân đại tướng Báo
tử đầu Lâm Xung". Hai viên phó tướng, bên trái alf Trấn tam sơn Hoàng Tín,
bên phải là Bệnh uý trì Tôn Lập. Ba viên chiến tướng tay cầm khí giới, cưỡi
ngựa thắng yên cương trắng đứng trước trận.
Đội quân mã phía sau đều dùng cờ
đen, mặc áo giáp và chiến bào đen, cưỡi ngựa thắng yên cương đen. Trên lá cờ
lớn màu đen dẫn quân đi đầu thêu chỉ vàng bảy ngôi sao Bắc đẩu, dứới thêu hình
chim Huyền vũ. Dưới lá cờ lớn đang lay động trong rừgn cờ đen, một viên đại
tướng cưỡi ngựa xông ra. Lá cờ của viên tướng ấy có thêu chữ vàng đề rõ
"hợp hậu đại tướng Song tiên Hô Diên Chước". Hai viên phó tướng, bên
trái là Bách thắng tướng Hàn Thao, bên phải là Thiên mục tướng Bành Kỷ. Ba viên
chiến tướng tay cầm khí giới cưỡi ngựa thắng yên cương đen đứng trước trận.
Đội quân mã đứng dưới bóng môn kỳ
đông nam trương cờ xanh, mặc giáp đỏ. Trên lá cờ dẫn quân thêu chỉ vàng sáu
vạch quẻ Tốn, dươí thêu hình Phi Long. Từ dưới bóng cờ lay động, một viên đại
tướng phóng ngựa xông ra. Trên lá cờ của viên tướng ấy có thêu chữ vàng đề rõ
"hổ quân đại tướng Song thương tướng Đổng Bình". Hai viên phó tướng,
bên trái là Ma Vân kim xí Âu Bằng, bên phải là Hoả nhãn toan nghê Đặng Phi. Ba
viên chiến tướng tay cầm đao thương, cưỡi ngựa chiến đứng trước trận.
Đội quân mã đứng dưới bóng môn kỳ
tây nam trương cờ đỏ, mặc giáp trắng. Trên lá cờ dẫn quân đi đầu thêu chỉ vàng
sáu vạch quẻ Khôn, dưới thêu hình Phi Hùng. Từ dưới bóng cờ lay động một viên
đại tướng xông ra. Trên lá cờ của viên tướng ấy thêu chữ vàng đề rõ "phiêu
kỵ đại tướng Cấp tiên phong Sách Siêu". Hai viên phó tướng, bên trái là
Cẩm mao hổ Yến Thuận, bên phải là Thiết địch tiên Mã Lân. Ba viên chiến tướng
tay cầm khí giới cưỡi ngựa chiến đứng trước trận.
Đội quân mã đứng dứới bóng môn kỳ
đông bắc trương cờ đen, mặc giáp xanh, trên lá cờ dẫn quân thêu chỉ vàng sáu
vạch quẻ Cấn dưới thêu hình Phi Báo. Từ dưới bóng cờ lay động, một viên đại
tướng xông ra. Cờ hiệu của viên tướng ấy thêu chữ vàng "phiêu kỵ đại tuớng
Cửu văn long Sử Tiến". Hai viên phó tướng bên trái là Khiêu giản hổ Trần
Đạt, bên phải là Bạch Hoa xà Dương Xuân. Ba viên chiến tướng tay cầm khí giới,
cưỡi ngựa chiến đứng trước trận.
Đội quân mã đứng dưới môn kỳ tây bắc
trương cờ trắng, mặc áo giáp đen. Trên lá cờ dẫn quân đi đầu thêu chỉ vàng sáu
vạch qủe Càn, ở dưới thêu hình Phi Hổ. Dưới bóng cờ lay động, một viên đại
tướng xông ra. Cờ hiệu của viên tướng ấy thêu chữ vàng "phiêu kỵ đại tướng
Thanh diện thú Dương Chí". Hai viên phó tướng, bên trái là Cẩm báo tử Dương
Lâm, bên phải là Tiểu bá vương Chu Thông. Ba viên chiến tướng tay nâng khí
giới, cưỡi ngựa đứng trước trận.
Thế trận bốn phương tám hướng đã bầy
kín chặt. Ở các cửa trận, quân mã quân bộ đứng riêng, ai nấy đều cầm thương dài
búa lớn, cờ hiệu tề chỉnh, đội ngũ uy nghiêm.
Giữa trung tâm bát trận là rừng cờ
vàng cuồn cuộn, xung quanh trương đủ sáu mươi tư cờ lục thập tứ quái, cờ phương
nào thêu vạch theo quẻ phương ấy. Xung quanh vòng cờ quẻ cũng chia làm tám cửa:
cửa nam là trận quận bộ. Dưới bóng cờ vàng ở chính nam là viên chiến tướng cưỡi
ngựa thắng yên cương vàng, tướng đứng trước là Mỹ nhiêm công Chu Đông, tướng
đứng sau là Sáp sí hổ Lôi Hoành, quân mã trương cờ vàng, mặc chiến bào vàng, áo
giáp đồng, cưỡi ngựa phủ yên cương vàng. Từ trung ương ra bốn cửa vòng trong
phía cửa đông là Kim nhãn bưu Thi Ân, cửa tây là Bạch diện lang quân Trịnh
Thiên Thọ, cửa nam là Vân lý kim cương Tống Vạn, cửa bắc là Bệnh đại trùng Tiết
Vĩnh. Giữa vùng cờ vàng giương cao lá cờ lớn màu vàng hoa hạnh thêu chữ lớn: "thế
thiên hành đạo". Trên cán cờ buộc bốn dây tua, mỗi tua do một tên quân
tráng kiện cầm giữ. Tráng sĩ giữ cờ là Hiểm đạo thần Úc Bảo Tứ. Phía sau đội cờ
vàng là quân pháo thủ, Oanh thiên lôi Lăng Chấn cùng hơn hai chục pháo thủ đứng
vây xung quanh giá súng. Phía sau nữa là đội quân câu liên khí giới sẵn sàng.
Tiếp theo là đội quân giương cờ màu xếp trong ngoài bảy vòng, xung quanh xếp
hai mươi tám lá cờ thêu chỉ vàng hình chùm sao Nhị thập thát tú.
Ở giữa lá cờ lớn thêu chữ
"Suý" màu vàng lông ngỗng, diềm cờ thêu những vòng chân châu móc vào
nhau, sát cán cờ treo chuông vàng, ngọn cờ cắm ngù lông trĩ. Tráng sĩ giữ cờ là
Một diện mục Tiêu Đĩnh, hai tướng cưỡi ngựa hộ vệ cờ súy là Mao đầu tinh Khổng
Minh và Độc hoả tinh Khổng Lượng, xung quanh là hai mươi bốn quân sĩ mặc giáp
sắt cầm lang nha côn. Tiếp sau là hai lá cờ lĩnh chiến, dưới bóng mỗi cờ là hai
mươi bốn quân sĩ cầm phương thiên họa kích. Trên lá cờ của viên tướng chỉ huy
đội quân cầm phương thiên hoạ kích đứng phía bên trái đề rõ "tiểu Ôn Hầu
Lã Phương". Trên lá cờ của viên tướng chỉ huy đội quân cầm phương thiên
họa kích đứng bên phải đề rõ "trại Nhân Quý Quách Thịnh". Hai tướng
đều cầm họa kích cưỡi ngựa đứng hai bên. Phía trong là quân bộ cầm đinh ba do
hai viên kiện tướng quân bộ là Lưỡng đầu xà Giải Trân và Song vĩ yết Giải Bảo.
Hai tướng cầm đinh ba xoè hình hoa sen, mỗi người chỉ huy một đội quân bộ bảo
vệ trung quân. Theo sau là hai đầu lĩnh chuyên việc giấy tờ trông coi việc định
công phạt tội. Phía bên trái là Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng chuyên giữ việc
văn thư của Lương Sơn Bạc, bên phải là Thiết diện khổng mục Bùi Tuyên chuyên
quản nhân sự ở Lương Sơn Bạc. Đứng sau là hai mươi bốn viên quân sĩ mặc áo màu
tím chuyên giữ việc quân pháp tay cầm đao Na Tra, hai đầu lĩnh chỉ huy mặc áo
gấm thêu ba hình vòng xuyến là Thiết tí bác Sái Phúc và Nhất chi hoa Sái Khánh.
Tiếp sau là đội quân thương vàng thương bạc, bên trái là mười hai quân sĩ cầm
thương vàng, viên kiện tướng ngồi trên lưng ngựa là Kim thương thủ Từ Ninh, bên
phải là mười hai quân sĩ cầm thương bạc, viên kiện tướng ngồi trên lưng ngựa là
Tiểu lý Quảng Hoa Vinh. Quân sĩ cả hai đội đều chít khăn đen, bên mái tóc giắt
cành hoa vàng lá xanh, đội quân cầm thương vàng mặc áo xanh, đội quân cầm
thương bạc mặc áo tía. Tiếp theo là các hàng quân bộ áo gấm mũ hoa trương cờ
đỏ, cờ trắng thêu búa vàng, hai mươi bốn đội quân sĩ cầm roi lệnh. Chính giữa
là ba con tuấn mã thắng yên thêu đứng dưới ba chiếc lọng vàng. Đứng trước ngựa
chiến ở chính giữa là hai tráng sĩ uy nghi lẫm liệt: phía bên trái là đầu lĩnh
Thần hành thái bảo Đái Tôn tay cầm cờ thêu chữ "lệnh" màu vàng,
chuyên lo việc đi lại phi báo truyền đạt mệnh lệnh trong quân. Phía bên phải là
vị tướng đeo cung tên tay cầm gậy Tề mi. Đó là Lãng tử Yến Thanh, vị đầu lĩnh
tài hoa thường giúp việc cơ mật ở trung quân. Phía sau là các tướng chỉ huy
trung quân. Ngồi trên lưng ngựa yên thêu dưới lọng vàng phía bên phải là vị đạo
sĩ có danh tiếng mặc áo lông chim, đó là Nhập vân long Công Tôn Thắng có tài hô
gío gọi mưa, sai khiến quỷ thần. Công Tôn Thắng ngồi trên ngựa, lưng đeo hai
thanh bảo kiếm, tay cầm cương ngựa đính ngù tơ màu tía. Ngồi trên lưng ngựa
dưới lọng vàng phía bên trái là vị đầu lĩnh tay cầm chiếc quạt lông, bên lưng
giắt hai thanh đồng giản. Đó là Trí đa tinh Ngô Dụng, vị quân sư tinh thông
thao lược, giỏi dùng binh pháp. Chiếc lọng vàng ở chính giữa là của Đại nguyên
suý thống lĩnh trung quân. Đó là Cập thời vũ Hô bảo nghĩa Tống Công Minh, vị
thủ lĩnh Lương Sơn Bạc, đeo đai khoác giáp, tay cầm côn ngô bảo kiếm ngồi trên
lưng tuấn mã trắng phủ yên vàng, dừng cương trước trận. Phía sau đại nguyên suý
là ba mươi lăm viên phó tướng hàng ngũ chỉnh tề ngồi trên ngựa chiến, tay cầm
thương đao, vai đeo cung nỏ. Tiế theo đó là đội hai mươi quân sĩ đeo tù và đứng
bên cạnh đội trống nhạc. Sau trung quân là hai đội du binh đứng hai bên để bảo
vệ trung quân.
Hai đội tả hữu dực do hai tướng chỉ
huy, bên trái là Một già lan Mục Hoằng cùng em là Tiểu già lan Mục Xuân chỉ huy
một nghìn năm trăm quân mã bộ. Bên phải là Xích phát quỷ Lưu Đường cùng Cửu vĩ
quy Đào Tông Vượng chỉ huy một nghìn năm trăm quân mã bộ. Tiếp nữa là đội quân
do ba nữ tướng đầu lĩnh chỉ huy: giữa là Nhất trượng thanh Hổ Tam Nương, bên
trái là Mẫu đại trùng Cố Đại Tẩu, bên phải là Mẫu dạ xoa Tôn Nhị Nương. Sát hậu
quân là quân của ba đầu lĩnh, chồng của ba nữ tướng đứng trên: giữa là Nuỵ cước
hổ Vương Anh, bên trái là Tiểu uý trì Tôn Tân, bên phải là Thái viên tử Trương
Thanh. Dưới quyền sáu tướng là hai nghìn quân mã bộ.
Khu mật sứ Đồng Quán đứng trên tướng
đài giữa trận quan sát toàn bộ thế trận binh mã của quân Lương Sơn Bạc. Cả trận
ấy chỉ trong chốt lát có thể chuyển thành trận Cửu cung bát quái. Quả là quân
hùng tướng mạnh, khiến địch quân phải khiếp vía kinh hồn. Đồng Quán bất giác
thốt lên:
- Quân tướng bọn chúng hùng mạnh như
thế, chả trách quan quân nhiều lần đánh dẹp đều phải thua bại mà về.
Đồng Quán xem xét một lúc bỗng nghe
bên trận quân Tống Giang chiêng trống vang lên, Đồng Quán vội xuống dưới tướng
đài phóng ngựa lên phía trước hỏi các tướng:
- Ai dám xuất trận đánh trước?
Một viên mãnh tướng từ trong đội
tiên phong thúc ngựa đến nghiêng mình thưa:
- Thưa đại nguyên suý, tiểu tướng
xin ra trước!
Viên mãnh tướng ấy là đô giám Trịnh
Châu Trần Chử. Trần Chử mặc chiến bào trắng khoác áo giáp bạc, cưỡi ngựa chiến
phủ yên xanh tua cương đỏ, quen dùng đao lớn cán dài, giữ chức phó tiên phong.
Đồng Quán sai nổi ba hồi trống trận, kỳ thủ đứng trên tướng đài liền phất cờ đỏ
đốc chiến. Trần Chử từ dưới môn kỳ phóng ngựa ra trước trận. Quân hai bên hò
reo trợ chiến. Trần Chử dừng ngựa, cầm ngang trường đao, cất tiếng quát to:
- Quân thiên triều đến đây, bọn giặc
cỏ sao không sớm quy hàng? đợi khi thịt nát xương tan còn hối sao kịp?
Bên quân Tống Giang, đầu lĩnh tiên
phong là hổ tướng Tần Minh từ phía chính nam thúc ngựa ra trước trận. Tần Minh
không thèm đối đáp, bèn múa lang nha côn xông vào đánh Trần Chử. Hai ngựa quần
nhau, lang nha côn và trường đao vung múa qua lại vun vút. Hai tướng đánh trên
hai mươi hiệp, Tần Minh đánh dứ một đường. Trần Chử xông vào đánh hụt, Tần Minh
liền đánh xuống một gậy đúng giữa đỉnh đầu, Trần Chử lăn nhào chết ngay dưới
chân ngựa. Hai phó tướng của Tần Minh là Đan Đình Khuê và Nguỵ Định Quốc liền
phóng ngựa tới bắt lấy tuấn mã của Trần Chử dẫn về trận nhà.
Song thương tướng Đổng Bình ghìm
ngựa đứng dưới môn kỳ phía đông nam. Thấy Tần Minh lập được công đầu, Đổng Bình
thầm nghĩ: "đại quân nhuệ khí đang hăng, không nhân lúc này bắt sống Đồng
Quán thì còn đợi bao giờ?". Nghĩ đoạn, Đổng Bình hét to một tiếng như sấm
động rồi hai tay cầm hai thương thúc ngựa xông đến đánh. Đồng Quán thấy tình
thế bất lợi, liền quay ngựa chạy về trung quân. Dưới môn kỳ tây nam, phiêu kẹy
tướng Cấp tiên phong Sách Siêu cũng thốt lên: "không bắt sống Đồng Quán
thì còn đợi bao giờ?". Nói đoạn Sách Siêu bèn vung búa lớn thúc ngựa đến
đánh Đồng Quán. Tần Minh ở giữa trận thấy Đổng Bình, Sách Siêu từ hai phía đánh
vào, bèn vẫy hiệu cho đội quân mã cờ đỏ tiến ào sang đánh xáp với quân triều
đình để bắt sống Đồng Quán. Đúng là:
Một lần đã trót lỡ,
Trăm họa đổ dồn ngay.
Chỉ biết trước rằng:
Mấy cặp diều đen bắt én tím,
Một đàn hổ dữ nuốt dê con.
Chưa biết tính mạng Đồng Quán ra
sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 77 -
Lương Sơn Bạc Khắp Mười Phương Mai Phục,
Đang nói chuyện hôm ấy ba đội quân
mã tiên phong của Tống Giang xông trận đánh giết quân triều đình, Đồng Quán đại
bại, quân sĩ tổn thất thương vong đến bảy tám phần. Quân triều đình vứt chiêng
trống, đao xích, kêu ta hoảng sợ, số bị giết đến hơn vạn người. Đồng Quán phải
cho lui quân ngoài ba mươi dặm, mới dám dừng lại đóng trại. Bên quân Lương Sơn
Bạc, Ngô Dụng cũng cho khua chiêng thu quân, truyền cho quân sĩ: "không
cần đuổi theo, cho bọn chúng biết thế là đủ". Tống Giang dẫn người ngựa
trở về sơn trại nghỉ ngơi. Các tướng sĩ ai nấy đều báo công lĩnh thưởng.
Lại nói Đồng Quán thua trận, người
ngựa thương vong quá nửa, phải lui quân đóng trại nghỉ ngơi. Đồng Quán lo buồn
cho gọi các tướng đến bàn bạc. Hai tướng Phong Mỹ và Tất Thắng nói:
- Xin nguyên suý đừng lo! bọn giặc
biết tin quân triều đình đến đánh, đã bày sẵn thế trận đối phó. Quân ta mới
đến, chưa biết thực hư thế nào, vì vậy trúng gian kế của giặc. Cứ như ngụ ý của
bọn tiểu tướng thì quân giặc chỉ dựa vào thế. Quân ta nhất khởi không giành
được địa lợi, xin nguyên suý cho quân tạm nghỉ ba ngày để chỉnh đốn quân mã, luyện
tập binh sĩ, nuôi dưỡng nhuệ khí. Sau đó sẽ đem toàn quân dàn thế trận trường
xà mà đánh vào, đầu đuôi tiếp ứng cho nhau không đứt đoạn. Quyết chiến một trận
ấy, quân ta tất lập được công lớn.
Đồng Quán nói:
- Kế ấy của tướng quân rất hợp ý ta.
Rồi Đồng Quán truyền lệnh cho ba
quân nghỉ ngơi, luyện tập.
Đến ngày thứ ba, từ canh năm, quân
sĩ nấu cơm ăn xong, người mặc giáp sắt, ngựa khóac áo giáp da, đao thương, cung
nỏ sẵn sàng, đúng là:
Đao thương cuồn cuộn như nước chảy,
Người ngựa ào ào gió lướt nhanh.
Hai đại tướng Phong Mỹ và Tất Thắng
đưa quân tiên phong rầm rộ lên đường tiến đánh Lương Sơn Bạc. Tám đội quân mã
chia làm hai phía tả hữu. Ba trăm quân thám mã mặc giáp sắt tiến trước, rồi
quay về trung quân báo với Đồng Quán:
- Trên chiến trường hôm trước không
hề thấy một bóng người ngựa.
Đồng Quán nghe xong có ý ngờ, bèn
thúc ngựa lên tiền quân hỏi bọn Phong Mỹ, Tất Thắng:
- Có nên lui quân không?
Phong Mỹ đáp:
- Xin chủ tướng đừng nghĩ chuyện lui quân, chỉ có một
đường tiến đánh! chủ suý lo sợ gì mà không dám dàn thế trận trường xà?
Quân Đồng Quán tiếp tục vòng vèo tiến đến vùng đầm nước
dưới chân núi, trước sau vẫn không hề thấy bóng giặc, chỉ thấy bờ nước mênh
mông, một dải lau lách mây khói um tùm. Xa xa nhìn lên trại Thuỷ Hử, một lá cờ
vàng màu hoa hạnh đang phần phật tung bay trên đỉnh núi. Khắp nơi không một
động tĩnh. Đồng Quán cùng bọn Phong Mỹ, Tất Thắng dừng ngựa trước ba quân nhìn
sang bờ bên kia thấy một chiếc thuyền con từ trong đám sậy chèo ra. Người ngồi
trên thuyền tay cầm cần buông câu, đầu đội nón lá, mình khóac áo tơi ngả vào
mạn thuyền, quay lưng về hướng tây. Đồng Quán sai quân đến sát bờ gọi to:
- Có thấy quân giặc ở đâu không?
Người câu cá không đáp. Đồng Quán tức giận sai quân cung
nỏ bắn chết. Hai tên quân cung nỏ liền cưỡi ngựa đến sát bờ cát, đặt tên giương
cung, nhằm người câu cá ở bờ bên kia mà bắn. Mũi tên chạm đánh cắc vào nón rồi
rơi xuống nước. Tên thứ hai nhằm bắn vào chiếc áo tơi, mũi tên cũng chạm đánh
"cắc" rồi rơi xuống nước. Hai tên đó là hai tay cung nỏ xuất sắc nhất
trong quân Đồng Quán. Thấy cả hai mũi tên đều rơi xuống nước, bọn chúng kinh sợ
quay về báo với Đồng Quán:
- Thưa chủ súy, cả hai mũi tên đều trúng đích nhưng bắn
không thủng. Không biết gã đánh cá ấy mặc loại áo gì?
Đồng Quán liền ra lệnh cho ba trăm quân cung thủ đến dàn
ngang trên bãi cát, nhất lọai nhằm người đánh cá mà bắn. Tên bay đến tới tấp
nhưng người đánh cá kia vẫn không tỏ ra hoảng sợ. Phần lớn mũi tên trúng vào áo
tơi rồi rơi xuống nước, một số thì trúng vào mạn thuyền. Đồng Quán thấy vậy bèn
gọi bọn quân sĩ biết bơi cởi áo giáp lội sang bắt người đánh cá. Bốn năm chục
tên tuân lệnh bơi sang. Người đánh cá nghe tiếng nước động ở phía đuôi thuyền
bèn thong thả đặt câu, chèo thuyền đến gần rồi cầm sào mà đầu vào đầu, vào mặt,
vào thái dương, cứ mỗi sào đâm một tên chìm nghỉm. Bọn bơi sau thấy vậy vội
quay lại.
Đồng Quán cả giận sai cả trăm quân thám ãm lội nước sang
bắt cho được người đánh cá, tên nào quay lại thì chém đầu. Đội thám mã của Đồng
Quán vội cởi áo giáp, hò reo nhảy xuống nước. Người đánh cá quay mũi thuyền,
chỉ tay về phía Đồng Quán lớn tiếng thét mắng:
- Tên tặc thần loạn nước hại dân kia! đã đến đây nộp
mạnng còn sợ chết hay sao?
Đồng Quán cả giận sai quân sĩ bắn tên sang. Người đánh cá
cười vang nói:
- Quân mã đã đến kia!
Nói đọan giơ tay chỉ trỏ, rồi cởi áo, bỏ nón, lao xuống
nước lặn mất. Trong sô năm trăm quân bơi gần đến thuyền, thỉnh thoảng một đứa
kêu ré lên rồi chìm nghỉm. Người đánh cá chẳng phải ai xa lạ mà chính là Lăng
lý bạch điều Trương Thuận. Trương Thuận đội chiếc nón ngoài lợp lá, trong lót
cốt đồng, còn chiếc áo tơi cũng bằng đồng giát, ngoài đúc vằn mai rùa, vì thế
tên bắn không thủng. Trương Thuận lặn dưới nước rút đoản đao thấy đứa nào bơi
đến là đâm chết đứa ấy rồi lại lặn đi. Cũng có tên may mắn thoát chết, lội lên
bờ chạy trốn. Đồng Quán thấy vậy sợ hãi đứng ngây ra. Một viên tướng bên cạnh
chỉ tay nói với Đồng Quán:
- Ngọn cờ vàng trên đỉnh núi đang di động.
Đồng Quán nhìn kỹ không hiểu ý gì, các tướng cũng không
ai biết rõ. Đại tướng Phong Mỹ nói:
- Xin chia ba trăm quân giáp mã làm hai đội, đi vòng hai
bên sườn núi thăm dò xem sao.
Đồng Quán bèn cho quân đi ngay. Quân giáp mã vừa đến dưới
chân núi, bỗng nghe trong đám lau sậy tiếng pháo oanh thiên nổ vang, rồi khói
lửa bốc mù trời. Quân thám mã đều chạy về báo:
- Có quân mai phục!
Đồng Quán ngồi trên ngựa giật mình kinh sợ. Hai đại tướng
Phong Mỹ và Tất Thắng truyền lệnh cho quân sĩ không được kinh động. Mấy chục
vạn quân lăm lăm khí giới trong tay. Quân truyền lệnh của Đồng Quán phi ngựa
khắp các hàng quân hô lên:
- Kẻ nào bỏ chạy chém đầu!
Đồng Quán và các tướng ghìm ngựa đứng nhìn, nghe sau núi
tiếng chiêng trống vang dậy, tiếng quân sĩ hò reo, rồi một đội quân mã giương
cờ vàng xông ra. Hai tướng tiên phong phóng ngựa lên trước. Đó là Mỹ nhiêm công
Chu Đồng, tiếp đó là Sáp sí hổ Lôi Hoành dẫn năm nghìn quân kỵ tiến thẳng về
phía quân triều đình. Đồng Quán lệnh cho hai đại tướng Phong Mỹ và Tất Thắng
làm tiên phong điều quân chặn đánh. Hai tướng xách thương lên ngựa phóng ra trước
trận, lớn tiếng quát:
- Bọn giặc cỏ kia, sao chưa chịu cởi giáo quy hàng?
Lôi Hoành ngồi trên lưng ngựa cười vang, quát đáp:
- Gã sất phu chết đến nơi rồi còn dám đọ sức với ta?
Tất Thắng cả giận nâng thương thúc ngựa đến đánh Lôi
Hoành. Lôi Hoành cũng múa thương xông đến. Hai tướng đánh hơn hai mươi hiệp
không phân thắng bại, Phong Mỹ thấy Tất Thắng có cơ không địch nổi, vội múa đao
tế ngựa đến trợ chiến. Chu Đồng thấy vậy quát lớn rồi múa đao đến đánh Phong
Mỹ. Hai đôi chiến tướng ngồi trên lưng ngựa quần thảo trước trận. Đồng Quán
ghìm ngựa đứng xem, tấm tắc khen ngợi. Một lúc sau Chu Đồng và Lôi Hoành đánh
dứ một đừờng, rồi nhân lúc tướng địch sơ hở quay ngựa chạy về trận nhà. Phong
Mỹ và Tất Thắng liền thúc ngựa đuổi theo. Quân Lương Sơn Bạc hò la rút chạy.
Đồng Quán xua quân đuổi theo đến tận chân núi. Bỗng nghe trên núi tiếng tù và
vang. Quân sĩ ngước nhìn lên, thấy hai quả hoả pháo vọt lên không trung. Đồng
Quán biết gặp quân mai phục, bèn lệnh cho quân sĩ dừng lại.
Đúng lúc ấy từ trên sườn núi hiện ra lá cờ vàng "thế
thiên hành đạo". Đồng Quán quay sang nhìn, thấy trong đám cờ thêu nhiều
màu sắc, sừng sững hiện lên vị anh hùng cái thế Sơn Đông hô bảo nghĩa Tống
Giang. Phía sau là quân sư Ngô Dụng và các tướng Công Tôn Thắng, Hoa Vinh, Từ
Ninh cùng nhiều hảo hán khác cầm thương vàng, giáp bạc. Đồng Quán cả giận xua
quân đánh dốc lên núi để bắt sống Tống Giang. Đạo quân chia hai đường, chưa kịp
tiến thì nghe trên núi có tiếng trống nhạc và tiếng cười vang của các hảo hán.
Đồng Quán vừa tức vừa thẹn, nghiến răng quát:
- Bọn giặc vô lễ sao dám đùa cợt ta? phải bắt cho được
bọn chúng.
Phong Mỹ can:
- Thưa tướng công, bọn chúng tất có mưu kín, tướng công
không nên dấn thân vào chốn nguy hiểm. Xin tạm cho lui quân, ngày mai nghe
ngóng hư thực xem sao rồi sẽ tiến đánh.
Đồng Quán hỏi:
- Không thể được! đã tiến quân đến đây lẽ nào lại có
chuyện rút?
Đồng Quán chưa dứt lời, bỗng nghe tiếng hậu quân kêu la
hoảng sợ. Thám mã về báo: "có một cánh quân giặc từ phía núi tây tràn
xuống đánh cắt hậu quân làm hai đoạn".
Đồng Quán cả kinh, dẫn bọn Phong Mỹ, Tất Thắng quay lại
cứu ứng cho hậu quân. Vừa lúc ấy tiếng trống lại vang lên, lại một cánh quân từ
sau núi phía đông tới. Cánh quân ấy gồm năm nghìn người ngựa, một nửa trương cờ
đỏ, một nửa trương cờ xanh, do hai viên đại tướng dẫn đầu. Đội quân cờ đỏ là
của tướng Tích lịch hoả Tần Minh. Đội quân cờ xanh là của tứơng Đại đao Quan
Thắng. Hai tướng phóng ngựa đến quát lớn:
- Đồng Quán kia hãy mau nộp thủ cấp!
Đồng Quán cả giận sai Phong Mỹ ra đánh Quan Thắng. Tất
Thắng đánh Tần Minh. Được một lúc, nghe tiến hậu quân kêu gấp, Đồng Quán phải
cho khua chiêng thu quân, truyền cho quân sĩ không được ham đánh. Chu Đồng, Lôi
Hoành dẫn quân cờ vàng từ hai phía đánh xáp vào, quân Đồng Quán hoảng hốt rối
loạn. Phong Mỹ và Tất Thắng phải hộ vệ Đồng Quán mở đường chạy trốn. Dọc đường
lại gặp cánh quân một nửa trương cờ trắng, một nửa trương cờ đen xông ra chặn
đường. Hai viên hổ tướng dẫn năm nghìn quân mã, bên cờ đen là quân của Song
tiên Hô Diên Chước, bên cờ trắng là quân của Báo tử đầu Lâm Xung. Hai tướng
ngồi trên ngựa quát lớn:
- Gian thần Đồng Quán định chạy đâu? hãy mau nộp mình
chịu trói.
Hai tướng xua quân đánh vào trung quân của Đồng Quán. Đô
giám Thư Châu là Đoàn Bằng Cử xông ra chặn đánh Hô Diên Chước. Đô Giám Như Châu
là Mã Vạn Lý xông đến đánh Lâm Xung. Mã Vạn Lý giao đấu với Lâm Xung chưa được
vài hiệp đã thấy khí lực có phần không địch nổi, định bỏ chạy, Lâm Xung quát
vang một tiếng, Mã Vạn Lý rụng rời chân tay, liền bị Lâm Xung vung bát xà mâu
đâm nhào xuống ngựa. Đoàn Bằng Cử thấy Mã Vạn Lý bị Lâm Xung đâm chết không dám
đánh nữa, chỉ đỡ gạt đôi tiên của Hô Diên Chước rồi quay ngựa bỏ chạy. Hô Diên
Chước hăng máu đuổi theo. Quân hai bên ùa vào hỗn chiến. Đồng Quán vội tìm
đường chạy trốn, lại nghe tiến kêu la vang dậy ở phía tiền quân, một cánh quân
bộ từ sau núi đang đánh thọc ra. Hai tướng quân bộ lớn tiếng quát:
- Tên Đồng Quán kia chớ chạy!
Hai tướng ấy là Hoa hoà thượng Lỗ Trí Thâm bản tính hiếu
sát và Hành giả Võ Tòng, người anh hùng nổi tiếng của trại Thuỷ Hử từng giết
cọp trên đồi Cảnh Dương.
Tàn quân của Đồng Quán bị quân bộ của Lỗ Trí Thâm, Võ
Tòng đánh tan, cắt đứt làm bốn năm đoạn. Đồng Quán trước sau không còn lối
thoát, bèn cùng bọn Phong Mỹ và Tất Thắng cố sức đánh phá vây mở đường chạy ra
sau núi. Quân tướng còn đang thở dốc lại nghe tiếng pháo oanh thiên dậy đất,
trống trận vang trời, rồi một đội quân bộ do hai mãnh tướng Giải Trân, Giải Bảo
cầm giáo dài năm lưỡi dẫn đầu xông ra chặn đường. Người ngựa của Đồng Quán
không chống cự nổi phải xông qua vòng vây mà chạy. Quân mã quân bộ của Tống
Giang từ khắp năm phía reo hò đuổi theo, đánh quân Đồng Quán tan tành. Phong Mỹ
và Tất Thắng ra sức hộ vệ Đồng Quán tìm đường chạy trốn. Anh em Giải Trân, Giải
Bảo ập đến, Đồng Quán vội rẽ ngựa chạy theo đường tắt. Bọn Phong Mỹ, Tất Thắng
chạy theo hộ vệ, lại có thêm bọn đồ giám Trịnh Châu là Hàn Thiên Lân, đô giám
Đặng Châu là Vương Nghĩa cùng hợp sức mở đường.
Chạy một quãng chưa kịp nghỉ ngơi, lại thấy đất bụi cuốn
tung, tiếng hò reo vang trời. Rồi từ trong rừgn rậm lại một cánh quân mã do hai
mãnh tướng chỉ huy xông ra. Hai đầu lĩnh ấy là Song thương tướng Đổng Bình và
Cấp tiên phong Sách Siêu. Hai tướng thúc ngựa xông đến đánh Đồng Quán. Vương
Nghĩa múa thương chặn lại liền bị Sách Siêu vung búa chém rơi đầu. Hàn Thiên
Lân vội đến cứu ứng, bị Đổng Bình lao tới đâm nhào xuống ngựa, bọn Phong Mỹ,
Tất Thắng lại hộ vệ Đồng Quán chạy tiếp.
Được một lúc lại nghe khắp bốn phía tiếgn chiêng trống
nổi vang, không biết quân từ phía nào đánh tới. Đồng Quán giật cương thúc ngựa
lên sườn núi, nhìn kỹ thì thấy đại quân Lương Sơn Bạc vây kín khắp xung quanh,
rồi bốn đội quân mã, hai đội quân bộ khép gọng kìm tiến vào. Quân sĩ của Đồng
Quán nhốn nháo hỗn loạn. Vừa lúc ấy có hai đội quân chạy tạt qua dưới chân núi.
Nhìn kỹ cờ hiệu biết là quân của đô giám Trần Châu Ngô Bỉnh Di và đô giám Hứa
Châu Lý Minh. Hai tướng dẫn tàn quân người ngựa chạy lánh vào núi Lâm Lang. Ngô
Bỉnh Di và Lý Minh thấy cờ hiệu của Đồng Quán, định dẫn quân chạy lên sườn núi.
Bỗng nghe tiếng hò reo vang dậy, rồi một đội quân mã do hai viên mãnh tướng là
Dương Chí và Sử Tiến dẫn đầu xông ra chặn đường. Dương Chí, Sử Tiến vung đao
phóng ngựa đến đánh Ngô Bỉnh Di và Lý Minh. Lý Minh vung trường thương đến đánh
Dương Chí. Ngô Bỉnh Di múa phương thiên kích đánh Sử Tiến. Hai đôi chiến tướng
trổ tài võ nghệ vun vút qua lại hồi lâu không phân thắng bại. Sau hơn ba mươi
hiệp, Ngô Bỉnh Di lựa một đường kích, đâm thẳng vào ngực Sử Tiến. Sử Tiến né
mình tránh cho ngọn kích trượt qua dưới nách. Ngô Bỉnh Di cả người và ngựa mất
đà, lao sát liền bị Sử Tiến lia đao chém rụng đầu, mũ đầu mâu văng dưới chân
ngựa. Lý Minh quay ngựa bỏ chạy, Dương Chí thét vang một tiếng, Lý Minh hoảng
sợ, tay thương run rẩy lên, Dương Chí vung đao bổ xuống. Lý Minh né mình tránh
được, lưỡi đao phạt trúng vào lưng ngựa. Con ngựa khuỵu xuống hất Lý Minh ngã
nhào, ngọn trường thương tuột tay văng ra. Lý Minh chưa kịp chạy bị Dương Chí
tiếp một đao rơi đầu. Tiếc thay cho Lý Minh nửa đời làm quân quan bỗng chốc
thành giấc Nam kha! giờ đây cả Lý Minh và Ngô Bỉnh Di đều lăn ra chết bên sườn
núi. Dương Chí và Sử Tiến xông xáo giữa đám tàn quân triều đình, vung đao chém
giết khác nào bổ dưa.
Đồng Quán cùng bọn Phong Mỹ, Tất Thắng đứng trên núi thấy
quân của bọn Lý Minh bị đánh tan, nhưng không thể cứu ứng được. Đồng Quán hỏi:
- Tình hình này làm sao đánh tới được?
Phong Mỹ đáp:
- Xin nguyên suý cứ bình tâm. Tiểu tướng thấy ở phía
chính nam, ta có một đội quân cờ hiệu còn chỉnh tề chưa đổ, có thể giải cứu cho
chúng ta. Bây giờ Tất đô thống hộ vệ nguyên suý ra đầu núi, Phong Mỹ tôi sẽ
đánh mở đường tiến đến đó lấy quân để hộ vệ nguyên suý.
Đồng Quán nói:
- Trời sắp tối rồi, tướng quân nên thận trọng, mau trở
lại đây.
Phong Mỹ xách trường đao phi ngựa xuống núi vừa đánh vừa
chạy về phía nam. Khi đến nơi, Phong Mỹ mới biết đó là đội quân dưới quyền chỉ
huy của đô giám Tung Châu là Chu Tín. Bấy giờ Chu Tín đang chụm quân cố thủ,
nghe báo có đại tướng Phong Mỹ đến, bèn cho mời vào trong trận. Chu Tín hỏi:
- Đồng Quán nguyên suý hiện giờ ở đâu?
Phong Mỹ đáp:
- Nguyên suý đang ở trên sườn núi phía trước, đợi tướng
quân đem quân đến hợp sức phá vòng vây rút ra ngoài. Việc không thể chậm trễ,
tướng quân phải cho quân đi ngay!
Chu Tín truyền lệnh cho quân mã, quân bộ bám sát nhau mà
tiến. Phong Mỹ và Chu Tín cười ngựa dẫn đầu, quân lính reo hò ào ạt chạy lên
núi. Được một lúc lại gặp quân của đô giám Thư Châu Đoàn Bằng Cử vừa đến. Ba
tướng chào hỏi nhau rồi hợp quân tiến lên núi. Tất Thắng xuống dưới sườn núi
đón tiếp. Đồng Quán hỏi các tướng:
- Nên đánh phá vây ngay đêm nay hay phải đợi sáng mai?
Phong Mỹ hỏi:
- Bốn tiểu tướng chúng tôi liều chết hộ vệ nguyên suý.
Ngay đêm nay phải phá vây thì mới mong thoát được.
Trời vừa tối chỉ nghe tiếng chiêng trống, tiếng hò reo
vang lên không ngớt.
Vào khoảng canh hai, dưới ánh sao lờ mờ, Phong Mỹ dẫn đam
tàn quân hộ vệ Đồng Quán xuống núi. Bỗng nghe khắp bốn phía đều quát to:
- Đồng Quán chớ chạy!
Bọn Phong Mỹ chỉ còn biết vừa đánh vừa chạy về phía nam.
Quân hai bên hỗn chiến đến gần canh tư thì bọn Phong Mỹ mới phá được vòng vây.
Đồng Quán ngồi trên ngựa hai tay ôm đầu ngửa mặt lên trời cầu khấn:"thật
xấu hổ. Xin trời đất phù hộ cho quan cơn hoạn nạn!". Rồi cả bọn tiếp tục
chạy về phía Tế Châu. Quan quân còn chưa kịp vui mừng, bỗng thấy đuốc cháy sáng
rực khắp sườn núi phía trước. Phía sau tiếng hò reo vang dậy. Ánh đuốc sáng soi
rõ hai hảo hán cầm phác đao dẫn đầu, tiếp sau là viên đại tướng cầm thương dài
ngồi trên lưng chiến mã trắng. Viên đại tướng đó chính là Ngọc kỳ lân Lư Tuấn
Nghĩa. Hai hảo hán cầm phác đao là Bệnh quan sách Dương Hùng và Phanh mệnh tam
lang Thạch Tú. Ba tướng dẫn ba nghìn quân bộ xông ra chặn đường. Lư Tuấn Nghĩa
ngồi trên ngựa quát lớn:
- Đồng Quán không xuống ngựa chịu trói còn đợi đến bao
giờ?
Đồng Quán không đáp, nói với tả hữu:
- Đằng trước có quân mai phục, đằng sau thì giặc đuổi
theo, biết làm thế nào?
Phong Mỹ đáp:
- Tiểu tướng xin liều chết báo đền ân tướng. Các vị mau
cướp đường đưa ân tướng về Tế Châu, Phong Mỹ tôi xin ở đây chặn giặc.
Nói xong, Phong Mỹ thúc ngựa, múa đao xông đến đánh Lư
Tuấn Nghĩa. Hai tướng ngồi trên lưng ngựa giao chiến đến mấy mươi hiệp không
phân thắng bại. Lư Tuấn Nghĩa gạt thương chặn lưỡi đao của Phong Mỹ, áp sát vào
túm đai lưng Phong Mỹ giật mạnh rồi đạp vào lưng ngựa, nhoài người bắt sống
Phong Mỹ. Dương Hùng, Thạch Tú vội đến tiếp ứng, quân sĩ reo hò ùa tới kéo
Phong Mỹ đi. Bọn Tất Thắng, Chu Tín, Đoàn Bằng Cử liều mình hộ vệ Đồng Quán vừa
đánh vừa mở đường chạy. Lư Tuấn Nghĩa dẫn quân đuổi sát theo sau, tàn quân của
Đồng Quán hoảng loạn như cá mắc lưới cho đến khi trời sáng mới thoát khỏi quân
Lư Tuấn Nghĩa, chạy tuốt về Tế Châu. Chưa được bao lâu, từ sau sườn núi phía
trước lại một đội quân bộ xông ra chặn đường. Đội quân ấy mặc áo giáp có tấm
chắn bằng sắt, chít khăn lựu đỏ. Bốn tướng dẫn đầu là: Lý Quỳ hai tay vung hai
búa; Bao Húc cầm bảo kiếm; Hạng Sung, Lý Cổn giơ đao vác thuẫn. Quân sĩ theo
bốn tướng ào ào xông tới chém giết, tàn quân của Đồng Quán lại một phen tan
tác, hoảng loạn tìm đường chạy trốn. Đồng Quán và bọn tuỳ tùng vừa đánh vừa
chạy. Hắc toàn phong Lý Quỳ xông thẳng vào giữa người ngựa, vung búa chém gẫy
chân ngựa của Đoàn Bằng Cử rồi lôi tuột xuống, đánh một búa vào giữa sọ, lại
bồi thêm một búa vào yết hầu cho đầu lìa khỏi cổ!
Tàn quân Đồng Quán chạy về gần đến Tế Châu, tên nào cũng
kinh hồn bạt vía, ba quân người ngựa mệt mỏi bơ phờ. Gặp dòng khe bên đường
người ngựa dừng lại uống nước. Bỗng nghe tiếng pháo oanh thiên từ bờ bên kia nổ
vang, rồi cung tên bắn đến tới tấp như mưa. Người ngựa của Đồng Quán đang uống
nước vội cạy hết lên bờ. Vừa lúc ấy, một đội quân mã từ trong rừng rậm xông ra.
Ba tướng dẫn đầu là Một vũ tiễn Trương Thanh, Cung Vượng và Đinh Đắc Tôn dẫn
hơn ba trăm quân mã theo sau ba tướng rầm rập phóng đến. Đô giám Tung Châu là
Chu Tín thấy bọn Trương Thanh quân ít bèn dừng lại đón đánh. Tất Thắng hộ vệ
Đồng Quán chạy tiếp. Chu Tín phóng ngựa đến đánh Trương Thanh chỉ thấy Trương
Thanh cắp thương vào nách trái, tay phải vung nhanh, miệng nói "trúng
này!". Viên đá trúng ngay vào hốc mũi, Chu Tín liền lăn nhào xuống ngựa.
Cung Vượng và Đinh Đắc Tôn từ hai bên phóng ngựa đến xỉa đinh ba vào yết hầu
Chu Tín như xóc ống rơm. Chu Tín chết lăn dưới ngựa. Đồng Quán bên mình chỉ còn
Tất Thắng hổ thẹn không dám vào thành Tế Châu, đành thu thập tàn quân người ngựa
ngày đêm chạy gấp về Đông Kinh.
Nguyên Tống Giang là người nhân đức, trong lòng vẫn có ý
định quy thuận triều đình nên không cố tình đuổi tiếp bọn Đồng Quán, nhưng lại
sợ các tướng không chịu buông tha bèn sai Đái Tôn đi gấp truyền lệnh cho các
đầu lĩnh thu quân về sơn trại. Các đầu lĩnh đều cho khua chiêng thu quân. Các
tướng ngồi trên lưng ngựa vỗ yên cương, quân sĩ đồng thanh ca khúc hải hoàn,
rầm rộ trở về Lương Sơn Bạc, tiến thẳng vào thành Uyển Tử. Tống Giang, Ngô
Dụng, Công Tôn Thắng đến nhà Trung Nghĩa đường ở trại Thuỷ Hử, lệnh cho Bùi
Tuyên mở sổ ghi công, ban thưởng tướng sĩ, Lư Tuấn Nghĩa áp giải Phong Mỹ vào
sân bắt quỳ trước sảnh đường. Tống Giang xuống tận nơi cởi trói, dẫn Phong Mỹ
lên ngồi trên sảnh, rót rượu mời uống rồi chuyện trò thăm hỏi để an ủi.
Ngày hôm ấy, sơn trại giết trâu mổ ngựa khao thưởng ba
quân. Tống Giang lưu Phong Mỹ nghỉ lại vài hôm rồi cho đem ngựa đến đưa xuống
núi. Phong
Mỹ cả mừng. Tống Giang nói:
- Trong chiến trận, ba quân trót vô
lễ xâm phạm tôn uy, mong tướng quân lượng thứ cho! anh em Tống Giang tôi vốn
không có dị tâm chống lại triều đình, vẫn muốn được quy thuận để đem sức giúp
nước. Chỉ vì những kẻ bất lương tàn ác bức bách nên mới đến nỗi như thế. Khi về
triều, mong tướng quân lựa lời tâu trình gỡ tội giúp chúng tôi. Nếu ngày sau
đội ơn lại được trông thấy mặt trời, anh em Tống Giang tôi sống chết không dám
quên ơn đức của tướng quân.
Phong Mỹ sụp lạy tạ ơn được tha chết
rồi cáo từ xuống núi. Tống Giang sai người đưa Phong Mỹ ra khỏi sơn trại rồi
tha cho về kinh, chuyện không có gì đáng nói. Tống Giang lại trở lại Trung
Nghĩa đường cùng Ngô Dụng và các đầu lĩnh bàn tính công việc. Trong trận này
đặt phục binh mười hướng là mưu kế của quân sư Ngô Dụng, làm cho Đồng Quán
khiếp vía kinh hồn, đến nỗi nằm mê cũng còn sợ, quan nhân triều đình ba phần
thương vong tổn thiệt đến hai phần.
Ngô Dụng nói:
- Đồng Quán về kinh tâu lên vua, thế
nào triều đình cũng lại cho quân đến đánh nữa. Ta nên sai người về Đông Kinh
nghe ngóng xem hư thực ra sao về báo lại để kịp đối phó.
Tống Giang nói:
- Lời quân sư rất hợp ý ta! vậy có
thể sai ai đi được?
Lúc ấy trong hàng ghế các đầu lĩnh
có người lên tiếng:
- Tiểu đệ xin đi!
Mọi người quay lại nói:
- Hay lắm! người anh em này đi hẳn
là được việc.
Chưa biết người nào xin đi, chỉ biết
trước rằng:
Phủ Tế Châu thêm thuyền chiến mông
xung
Lương Sơn Bạc đoạt quân lương vạn
thạch
Đúng là:
Xông trận ngựa lăn bên lèn đá
Rỡn sông thuyền đắm giữa bờ lau.
Chưa biết người từ Lương Sơn Bạc ra
đi là ai, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 78 - Cao
Thái Úy Mưu Đánh Lương Sơn
Lại nói các hảo hán Lương sơn bạc
sau hai lần đánh bại Đồng Quán, Tống Giang và Ngô Dụng bàn bạc nên cử người đi
Đông kinh nghe ngóng tin tức về báo lại để sơn trại kịp chuẩn bị đánh lại quan
quân triều đình. Tống Giang vừa dứt lời thì Thần hành thái bảo Đới Tôn nói:
- Tiểu đệ xin đi!
Tống Giang nói:
- Việc do thám quân cơ phần nhiều
phải nhờ đến hiền đệ. Nhưng đi chuyến này nên có một người nữa cùng đi để giúp
hiền đệ thì hay hơn.
Lý Quỳ liền nói:
- Xin cho tiểu đệ cùng đi!
Tống Giang cười nói:
- Cho ngươi đi để gây rối nữa hay
sao?
Lý Quỳ đáp:
- Lần này đệ không dám gây chuyện gì
nữa!
Tống Giang không muốn cho Lý Quỳ đi
bèn hỏi lại:
- Có anh em nào khác muốn đi không?
Xích phát quỷ Lưu Đường đáp:
- Tiểu đệ xin đi để giúp Đái viện
trưởng, không biết có được không?
Tống Giang nói:
- Được lắm!
Ngay ngày hôm ấy hai người sửa soạn
hành lý lên đường.
Chưa nói chuyện Đới Tôn, Lưu Đường
về Đông kinh nghe ngóng tin tức ra sao. Đây nói chuyện Đồng Quán và Tất Thắng
trên đường thu thập tàn quân được hơn bốn vạn người ngựa chạy về Đông kinh, dọc
đường cho phép các tướng đem quân trở về bản doanh, chỉ đem quân ngự doanh vào
thành. Đồng Quán cởi bỏ chiến bào, giáp trụ, đi ngay đến phủ Cao thái úy. Hai
người gặp nhau chào hỏi xong, Cao Cầu mời Đồng Quán vào hậu đường nói chuyện.
Đồng Quán kể hết với Cao Cầu việc đại quân hai lần thua trận, tám lộ quan quân
bị đánh tan tành, đại tướng Phong Mỹ bị bắt sống, sự thể như vậy không biết
phải nên thế nào?
Cao thái úy nói:
- Tướng công không nên buồn phiền.
Việc này cứ giấu thiên tử là xong. Ai dám liều mà tâu báo? Bây giờ hạ quan cùng
tướng công đến chỗ thái sư bàn tính them xem sao.
Đồng Quán và Cao Cầu lên ngựa đến
phủ thái sư, đi thẳng vào cổng. Người hầu vào báo: “Có Đồng khu mật đến”. Đoán
trước là Đồng Quán thua trận lại thấy cả Cao Cầu cùng đi, Sái Kinh bèn mời hai
người vào phòng khách nói chuyện. Đồng Quán lạy chào thái sư rồi khóc sướt
mướt. Sái Kinh nói:
- Tướng quân đừng buồn, ta đã biết
chuyện thua trận rồi.
Cao Cầu nói:
- Quân giặc ẩn nấp trong chốn ao
đầm, không có thuyền thì không tiến đánh được. Quan khu mật chỉ có người ngựa
nên bị thất lợi, mắc quỷ kế của giặc.
Đồng Quán nhân đó kể với Sái thái sư
chuyện quân thua, tướng bại. Sái Kinh nói:
- Tướng quân làm hao tổn bấy nhiêu
người nựa lương tiền, tám lộ quân tan tác cả. Việc như thế làm sao dám tâu lên
thiên tử?
Đồng Quán sụp lạy nói:
- Cầu mong thái sư che dấu giúp cho!
Sái Kinh nói:
- Ngày mai vào chầu chỉ còn cách tâu
là: “Vì thời tiết nóng nực, quân sĩ không quen thủy thổ, tạm xin lui quân bãi
chiến”. Nếu thiên tử nổi giận nói: “Để mối lo trong gan ruột không trừ đi sau
ắt thành họa lớn” thì liệu các quan trả lời thế nào?
Cao Cầu đáp:
- Không phải Cao Cầu tôi dám khoe
khoang, nhưng nếu thái sư đề cử thì Cao Cầu tôi dám đem quân đi đánh, chỉ một
trận là dẹp yên.
Sái Kinh đáp:
- Thái úy chịu đem quân đi thì tốt
lắm. Ngày mai hạ quan sẽ xin đề cử thái úy giữ chức nguyên súy.
Cao Cầu lại thưa:
- Có điều là phải xin thánh chỉ cho
được toàn quyền điều quân, tùy ý đóng thêm thuyền bè, thu dụng các loại thuyền
công tư, hoặc xuất tiền đóng thuyền mới. Có đủ thuyền bè thủy lục cùng tiến,
người ngựa cùng đi mới thắng được.
Sái Kinh nói:
- Việc ấy dễ thôi.
Ba người đang nói chuyện thì người
canh cửa vào báo:
- Đại tướng Phong Mỹ đã trở về.
Đồng Quán cả mừng. Sái thái sư cho
gọi Phong Mỹ vào hỏi nguyên do. Phong Mỹ lạy chào rồi thưa:
- Tống Giang chỉ bắt mình tiểu tướng
lên núi, còn quân sĩ đều tha, lại cấp tiền ăn đường cho bọn chúng về quê. Vì
vậy tiểu tướng mới lại được nhìn thấy tôn nhan.
Cao Cầu nói:
- Đó là quỷ kế của quân giặc cố ý
khinh mạn quân triều đình. Lần này không lấy quân mã ở những vùng lân cận nữa,
cứ chọn quân tráng kiện ở tận Sơn đông, Hà bắc giao cho Cao Cầu tôi.
Sái Kinh nói:
- Đã bàn định rồi, ngày mai cứ thế
tâu lên thiên tử.
Đồng Quán, Cao Cầu cáo từ trở về
phủ.
Canh năm ba khắc sáng hôm sau các
quan đều tề tựu ở nội cung. Tiếng trống chầu nổi lên, mọi người theo phẩm tước
lần lượt vào trước đan trì xếp ban chầu. Các quan văn võ đứng thành hàng hai
bên, nghe hiệu lệnh đều lạy mừng tung hô vạn tuế. Quan điện đầu cầm roi quất
vung vút, nói to:
- Ai có việc ra tâu báo, không có
việc thì cuốn rèm bãi chầu.
Sái thái sư liền bước ra khỏi hàng
tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ, trước đây bệ hạ đã
sai khu mật sứ Đồng Quán thống lĩnh đại quân đi đánh dẹp bọn giặc cỏ ở Lương
sơn bạc. Nhưng gặp lúc tiết trời nóng nực, người ngựa không quen thủy thổ hơn
nữa bọn giặc ấy lại ẩn náo trong chốn hồ đầm, không có thuyền thì không đi lại
được, người ngựa không thể tiến nhanh. Vì thế xin bệ hạ cho ngưng chiến để quân
sĩ nghỉ ngơi, đợi sau sẽ xin thánh chỉ.
Thiên tử nói:
- Đang mùa viêm nhiệt thì chưa đi
được.
Sái Kinh tâu:
- Xin đưa Đồng khu mật đến cung Thái
Ất đợi tội, xin bệ hạ cho một đại thần khác làm nguyên súy đưa quân đi đánh.
Cúi mong thánh chỉ.
Thiên tử nói:
- Bọn giặc ấy là mối họa lớn trong
gan ruột, không thể không trừ đi. Biết lấy ai chia nổi lo với trẫm?
Cao Cầu bước ra tâu:
- Hạ thần bất tài cũng xin đem hết
sức trâu ngựa cầm quân đi đánh giặc. Cúi mong thánh thượng chuẩn tâu!
Thiên tử nói:
- Khanh đã bằng lòng chia sẽ nổi lo
với quả nhân. Vậy cho phép khanh được toàn quyền tuyển chọn quân mã.
Cao Cầu lại tâu:
- Vùng Lương sơn bạc chu vi hơn tám
trăm dặm, không có thuyền bè thì không tiến quân được. Thần cúi xin thánh chỉ
cho phép được chặt cây đốn gỗ ở miền gần Lương sơn bạc, sai thợ đóng thuyền,
hoặc xuất tiền mua loại thuyền lớn của dân làm chiến thuyền.
Thiên tử nói:
- Trẫm ủy cho khanh được tùy ý xử
trí công việc, nhưng cần thận trọng đừng làm phương hại đến dân chúng.
Cao Cầu tâu:
- Hạ thần không dám! chỉ xin bệ hạ
gia hạn để trù tính cho chu toàn.
Đạo quân hoàng đế bèn sai lấy chiến
bào gấm, áo giáp vàng ban cho Cao Cầu, sai chọn ngày tốt đưa quân lên đường.
Tan buổi chầu hôm ấy, Đồng Quán, Cao
Cầu theo Sái Kinh về phủ thái sư. Sái thái sư sai trung thư sảnh truyền thánh
chỉ định đoạt việc điều động quân tướng. Cao thái úy nói:
- Trước đây có mười viên tiết độ sứ
võ nghệ cao cường đã lập nhiều công với triều đình, hoặc đánh nước Quỷ phương
hoặc chinh phạt Tây hạ, Đại kim, Đại liêu, xin thái sư điều họ làm tướng.
Sái thái sư ưng thuận bèn viết văn
thư gửi xuống mười đạo, sai mỗi đạo chọn một vạn tinh binh đưa xuống Tế châu
đợi lệnh. Mỗi viên tiết độ sứ được giao chỉ huy một vạn quân, hẹn ngày đem quân
lên đường. Mười viên tiết độ sứ ấy là:
Hà nam Hà bắt tiết độ sứ Vương Hoán
Thượng đảng thái nguyên tiết độ sứ
Từ Kinh,
Bắt kinh hoành nông tiết độ sứ Vương
Văn Đức,
Dĩnh châu nhữ nam tiết độ sứ Mai
Triển,
Trung sơn yên bình tiết độ sứ Trương
Khai,
Giang hạ linh lăng tiết độ sứ Dương
Ôn,
Vân trung nhạn môn tiết độ sứ Hàn
Tồn Bảo,
Lãng tây hán dương tiết độ sứ Lý
Tòng Cát,
Lang nha bình thành tiết độ sứ Hạ
Nguyên Trấn,
Thanh hà thiên thủy tiết độ sứ Kinh
Trung
Mười đạo quân mã ấy đều là hạng tinh
binh dũng cảm, được tập luyện nhiều, lại có mười viên tiết độ sứ vốn xuất thân
từ chốn lục lâm, sau chịu chiêu an về hàng triều đình được phong chức quan cao,
lập nhiều công lớn. Trung thư sảnh định ngạch gửi văn thư xuống mười đạo hẹn
ngày đem quân đến Tế châu, kẻ nào chậm sẽ bị xử theo quân lệnh. Ở huỵện Kim
lăng phủ Kiến khang có đội thủy quân do Lưu Mộng Long làm thống chế. Tương
truyền mẹ Lưu Mộng Long chiêm bao thấy con rồng đen bay vào bụng cảm động mang
thai rồi sinh ra Mộng Long. Lớn lên, Mộng Long giỏi bơi lội, từng có công dẹp
giặc ở Hiệp giang, Tây xuyên được thăng đến chức đô thống chế, thống lĩnh một
vạn năm nghìn thủy quân và năm trăm chiến thuyền đóng giữ miền Giang nam. Cao
thái úy hạ lệnh cho đội thủy quân ngày đêm đi gấp đến Tế châu đợi lệnh. Lại cho
một tên tâm phúc là Ngưu Ban Hỷ đi thu dụng hết thuyền bè ở vùng ven sông
Trường Giang đem đến Tế châu giao nộp. Dưới trướng Cao thái úy có nhiều nha
tướng, trong đó có hai viên đáng kể xuất sắc hơn cả là anh em Đãng Thế Anh và
Đãng Thế Hùng, có sức khỏe địch nổi vạn người, hiện đều giữ chức thống chế. Cao
thái úy lại chọn thêm một vạn năm nghìn tinh binh ở ngự doanh, cùng nhân mã các
nơi đều đến, tất cả là mười ba vạn người ngựa. Các lộ đều sai quân đem lương
thảo, thuyền bè đến giao nộp. Cao thái úy ngày đêm cho chỉnh đốn giáp trụ, may
cờ lệnh để kịp ngày lên đường.
Lại nói chuyện Đới Tôn, Lưu Đường
đến Đông kinh, ở lại vài hôm nghe ngóng tin tức rồi ngày đi gấp về Lương sơn
bạc báo cho Tống Giang biết. Nghe nói Cao thái úy điều mười ba vạn người ngựa
và mười viên tiết độ sứ, đích thân cầm quân đi đánh, Tống Giang lấy làm lo
lắng, mời quân sư Ngô Dụng đến bàn cách ứng phó.
Ngô Dụng nói:
- Xin nhân huynh đừng lo. Ngày xưa
Gia Cát Khổng Minh chỉ có ba nghìn quân mà đánh tan mười vạn người ngựa của Tào
Tháo. Ngô Dụng tôi từ lâu đã biết mười viên tiết độ sứ ấy đã đánh dẹp nhiều
nơi, lập công với triều đình. Đó là do bọn họ từ trước không có địch thủ, lần
này đến đây cốt để khoe tài võ nghệ. Nhưng gặp anh em bọn ta như gặp phải hổ
báo thì bọn tiết độ sứ kia cũng chẳng ra mẽ gì. Có đáng gì mà huynh trưởng phải
lo ngại? Cứ để mười đạo quân của bọn chúng đến đây, ta sẽ cho chúng một phen
kinh sợ.
Tống Giang nói:
- Quân sư định ứng phó thế nào?
Ngô Dụng đáp:
- Chờ khi người ngựa của chúng đến
tụ tập ở Tế châu, ta sẽ cho hai đầu lĩnh hăng đánh lọt vào chém giết một trận
cho Cao Cầu biết tay.
Tống Giang hỏi:
- Quân sư định sai ai đi làm việc
này?
Ngô Dụng đáp:
- Nên sai Một vũ tiễn Trương Thanh
và Song thương tướng Đổng Bình đi trận này.
Tống Giang bèn cho gọi Trương Thanh
và Đổng Bình đến, giao cho mỗi người đem theo một nghìn quân mã tìm cách đánh
phá quân triều đình đang đóng ở Tế châu. Lại truyền lệnh cho các đầu lĩnh thủy
quân chuẩn bị cướp thuyền của quân triều đình. Các đầu lĩnh khác ở sơn trại
cũng đã nhận lệnh ai lo việc nấy.
Lại nói Cao thái úy nấn ná ở kinh sư
hơn mười ngày, thiên tử phải thúc giục mới đưa quân lên đường. Cao Cầu phát
quân ngự doanh đi trước, sai ty giáo phường chọn hơn ba mươi ca nhi vũ nữ đi
theo quân đàn hát mua vui. Đến ngày đã định, Cao Cầu làm lễ tế cờ, vào trong
cung cáo từ thiên tử rồi đem quân lên đường, tính ra là đã chậm mất hơn một
tháng. Bấy giờ là đầu mùa thu tiết trời dịu mát, các quan lớn nhỏ đều đến tiễn
biệt ở trường đình. Cao thái úy mặc chiến bào, đeo đai khoác giáp, cỡi chiến mã
thắng yên cương vàng, phía trước là năm con ngựa hầu đai ngọc yên thêu. Đãng
Thế Anh và Đãng Thế Hùng cỡi ngựa đi hai bên tả hữu. Phía sau là các viên điện
súy, thống chế, thống quân đề hạt, binh mã phòng ngự súy, đoàn luyện sứ, hang
ngũ quân mã sắp xếp mười phần chỉnh tề.
Ra khỏi thành đến trạm trường đình,
Cao thái úy xuống ngựa cùng cạn chén từ biệt các quan rồi vin yên nhảy lên ngựa
tiến về Tế châu. Dọc đường cao Cầu dung túng cho quân sĩ cướp bóc quấy nhiễu,
dân chúng thật khốn khổ trăm đường.
Lại nói mười lộ quân mã theo lệnh
triều đình lục tục đế Tế châu. Tiết độ sứ Vương Văn Đức dẫn quân mã lộ Đông
kinh ngày đêm đi gấp. Đến cách thành Tế châu hơn bốn mươi dặm, Vương Văn Đức
đem quân đi qua một nơi gọi là dốc Phượng vĩ, dưới dốc là một khu rừng rậm.
Tiền quân vừa lọt vào bìa rừng bỗng nghe một tiếng thanh la nổi lên, từ sau
sườn núi một đội quân mã xông ra chặn đường. Viên tướng cỡi chiến mã đi đầu đội
mũ trụ, khoác giáp sắc, vai đeo cung và ống tên có cắm hai lá cờ nhỏ thêu chỉ
vàng đề rõ “Anh hùng Song thương tướng, Phong lưu vạn hộ hầu”, hai tay cầm hai
ngọn thương. Đó là viên dũng tướng Đổng Bình, vị đầu lĩnh Lương sơn bạc quen
xông trận hang đầu. Đổng Bình ghìm ngựa giữa đường cái quát lớn:
- Đội quân mã kia từ đâu tới? Hãy
mau xuống ngựa chịu trói!
Vương Văn Đức dừng ngựa cười vang:
- Đồ vật có tai, ngươi sao không
biết ta là thượng tướng Vương Văn Đức, nổi tiếng trong số mười viên tiết độ sứ
có công với triều đình?
Đỏng Bình cười vang, quát:
- Ngươi không biết ta là bố trẻ của
ngươi sao?
Vương Văn Đức cả giận quát:
- Tên giặc cỏ phản nghịch sao dám là
nhục ta?
Nói đoạn Vương Văn Đức nâng thương
thúc ngựa lên đánh. Hai tướng đánh nhau ba mươi hiệp không phân thắng bại.
Vương Văn Đức liệu thế không thắng nổi Đổng Bình bèn nói to:
- Hãy tạm nghỉ!
Hai tướng đều quay ngựa về phía quân
nhà. Vương Văn Đức truyền lệnh cho các tướng không được ham đánh, chỉ cốt mở
đường mà đi. Vương Văn Đức tự mình cỡi ngựa đi trước dẫn đường, quân lính hò
reo ùa theo sau. Đổng Bình dẫn quân đuổi theo. Bọn Vương Văn Đức sắp ra khỏi
bìa rừng lại gặp một đội quân mã từ sau núi xông ra. Viên tướng cỡi ngựa đi đầu
chính là một vũ tiễn Trương Thanh. Trương Thanh ngồi trên ngựa quát lớn.
- Tướng giặc chớ chạy!
Vừa nói Trương Thanh vừa thò tay vào
túi gấm lấy một viên đá, vung tay nhằm ném vào đầu Vương Văn Đức. Vương Văn Đức
né người viên đá trúng vào chỏm mũ sắt, Văn Đức liền rạp người xuống quất ngựa
chạy trốn. Trương Thanh cùng Đổng Bình rượt đuổi theo. Vừa lúc ấy phía trước có
một đội quân mã đang bon nhanh đến. Vương Văn Đức ngẩn nhìn mới biết đó là cánh
quân mã của tiết độ sứ Dương Ôn đến cứu ứng. Đổng Bình, Trương Thanh thấy vậy
không dám đuổi theo, bèn đem quân quay về. Hai đội quân mã của Vương Văn Đức và
Dương Ôn vào thành Tế châu nghỉ ngơi. Tri phủ Trương Thúc Dạ tiếp đón khoản đãi
quân sĩ. Mấy hôm sau quân tiền lộ đến báo: “Đại quân của Cao thái úy đã tới”.
Mười viên tiết độ sứ đều ra ngoài thành nghênh đón rồi đi theo hộ vệ thái úy
vào thành.
Tri phủ Trương Thúc Dạ tạm giao phủ
đường cho thái úy làm súy chủ và chỗ nghỉ ngơi. Cao thái úy truyền lệnh cho
quân mã ra đóng ở ngoài thành, chờ thủy quân của Lưu Mộng Long đến sẽ cùng xuất
phát. Quân mã mười lộ tuân lệnh ra ngoài thành hạ trại. Quân lính vào rừng chặt
cây đốn gỗ, phá dỡ cả cột kèo khung cửa nhà dân đem về dựng trại, Cao thái úy
ngồi trong súy phủ định đoạt việc quân. Ai có tiền bạc đút lót thì được giữ ở
đội trung quân, công ít báo nhiều; ai không có tiền bạc đút lót thì xung đi
tiền tiêu giao phong chịu trận. Vì thế mối gian tệ nảy sinh ra nhiều. Vài ngày
sau đoàn chiến thuyền của Lưu Mộng Long cũng đến nơi. Cao Cầu truyền gọi mười
tiết độ sứ và đầu lĩnh thủy quân Lưu Mộng Long đến sảnh đường bàn kế sách tiến
quân.
Bọn Vương Hoán thưa:
- Xin thái úy trước hết cho quân mã
bộ đi trước dò đường, khiêu chiến để giặc đem quân ra đánh, sau đó điều chiến
thuyền đánh vào sào huyệt làm cho quân giặc trước sau không cứu ứng được nhau,
quân ta tất bắt sống được chúng.
Cao thái úy cho là phả, bèn sai
Vương Hoán, Từ Kinh làm tiền bộ tiên phong; Vương Văn Đức, Mai Triển làm tướng
hợp hậu. Trương Khi, Dương Ôn làm tả quân; Hạ Nguyên Trấn, Kinh Trung làm tiền
hậu ứng. Đãng Thế Hùng dẫn ba nghìn tinh binh lên chiến trường hiệp trận với
thủy quân của Lưu Mộng Long. Các quân được lệnh chuẩn bị trong ba hôm, rồi mời
Cao thái úy đến điểm duyệt các lộ. Cao thái úy đích thân ra ngoài thành đi xem
xét khắp một lượt rồi truyền lệnh cho ba quân tướng sĩ cùng đoàn chiến thuyền
nhất loạt xuất phát tiến đánh Lương sơn bạc.
lại nói Đổng Bình, Trương Thanh trở
về sơn trại kể lại tỉ mỉ tình hình quân giặc. Tống Giang và các đầu lĩnh dẫn
đại quân xuống núi, đi chưa được bao xa đã thấy quân triều đình tiến đến. Quân
hai bên ước lượng tầm tên dàn thành thế trận. Bên quân triều đình tiên phong
Vương Hoán nâng thương thúc ngựa ra trước trận, cao giọng nói:
- Bọn giặc cỏ khốn kiếp có nhận ra
đại tướng Vương Hoán đây không?
Bên trận Lương sơn bạc, Tống Giang
đứng dưới môn kỳ đích thân thúc ngựa ra trước trận nhã nhặn lên tiếng đáp:
- Ta muốn gởi lời đến Vương tiết độ
sứ: nay tiết độ sứ tuổi cao không kham nổi việc quân cơ trận mạc nữa. Nếu tiết
sứ ra đương đầu giữa chốn rừng tên núi giáo, lỡ xảy ra điều lầm lỡ thì tiết sứ
uổng phí thanh danh một đời. Tiết sứ nên quay về cho bọn trẻ hơn xuất trận.
Vương Hoán cả giận mắng:
- Ngươi là kẻ tiểu lại bị thích chữ
vào mặt, sao dám chống lại thiên binh?
Tống Giang đáp:
- Vương tiết sứ, ngươi chớ cậy tài
giỏi. Các anh em hảo hán thay trời hành đạo ở chỗ bọn ta hẳn không chịu thua
ngươi đâu!
Vương Hoán vung thương xông ngựa đến
đánh Tống Giang, lập tức phía sau Tống Giang có tiếng nhạc ngựa vang lên, một
tướng vung thương thúc ngựa xông lên đánh Vương Hoán. Đó là Báo tử đầu Lâm
Xung. Hai tướng ngồi ngựa quần thảo, quân hai bên reo hò trợ chiến. Cao Cầu
ghìm ngựa quan sát, không ngớt lời khen ngợi.
Thấy Vương Hoán và Lâm Xung đấnh đến
bảy tám chục hịêp không phân thắng bại, cả hai bên đều nổi chiên gọi về, Vương
Hoán và Lâm Xung liền quay về trận nhà Tiết độ sứ Kinh Trung thúc ngựa đến gần
nghiêng mình thưa với Cao thái úy:
- Tiểu tướng xin được quyết chiến
với quân giặc một phen!
Cao Cầu bèn cho Kinh Trung xuất
chiến. Tiếng nhạc ngựa lại rung lên phía sau Tống Giang. Hô Diên Chước vỗ ngựa
xông ra đón đánh. Kinh Trung cầm chắc trường đao, cỡi ngựa vàng lao vào đánh Hô
Diên Chước. Hai tướng đánh chừng hai mươi hiệp, Hô Diên Chước đánh dứ một
đường, gạt đao dài của Kinh Trung, thuận tay vung roi sắt quật mạnh. Kinh Trung
vỡ đầu chết lăn dưới ngựa. Cao Cầu thấy mất một viên tiết độ sứ vội sai Hạ
Nguyên Trấn ra đánh. Nguyên Trấn xách thương phóng ngựa xông đến quát Hô Diên
Chước:
- Tên giặc cỏ liệu dám đọ sức với
ta?
Song thương tướng Đổng Bình từ phía
sau Tống Giang phóng ngựa vung song thương ra đánh Hạ Nguyên Trấn. Hai tướng
đánh hơn mười hiệp, Nguyên Trấn đột ngột quay ngựa bỏ chạy. Đổng Bình thúc ngựa
đuổi theo. Nguyên trấn cho ngựa chạy vòng trước trận, Đổng Bình đuổi sát theo
sau. Nguyên Trấn cắp thương vào nách, tay trái cầm cung, tay phải kéo căng dây,
rạp người thả tên đi. Đổng Bình nghe tiếng dây cung phía sau định dơ tay gạt
nhưng mũi tên đã trúng vào vai phải. Đổng Bình vội dứt thương quay ngựa chạy
về. Nguyên Trấn khoác cung tên phóng ngựa đuổi theo. Bên quân Tống Giang, Hô
Diên Chước và Lâm Xung thấy vậy vội phóng ngựa đến cứu Đổng Bình đem về trận
nhà. Cao thái úy xua quân ùa lên hổn chiến. Tống Giang sai người đưa Đổng Bình
về sơn trại chữa vết thương. Quân mã của Tống Giang ở phía sau không chặn nổi
bèn quay ngựa bỏ chạy. Cao thái úy xua quân đuổi theo đến tận bờ nước. Một mặt
điều quân tiếp ứng cho đoàn chiến thuyền.
Lại nói Lưu Mộng Long và Đãng Thế
Hùng thống lĩnh thủy quân vòng vèo tiến về Lương sơn bạc, chỉ thấy bờ lau bến
sậy heo hút mênh mông, cỏ cây um tùm che mặt nước. Chiến thuyền san sát nối
đuôi nhau kín khắp mười dặm. Đoàn thuyền đang tiến bỗng nghe tiếng pháo oanh
thiên nổi vang trên sườn núi, rồi từ bốn phương tám hướng vô số thuyền nhỏ lướt
nước chèo ra. Quân đứng trên thuyền hoảng sợ, nhìn lau lách um tùm lại càng
thêm kinh hoàng. Các thuyền con mai phục trong lau sậy vẫn tiếp tục xông ra
đánh, đoàn thuyền quân Cao Cầu trước sau không cứu ứng cho nhau được nữa. Quân
sĩ trên các thuyền quá nửa vứt thuyền bỏ chạy. Các hảo hán Lương sơn bạc thấy
thủy trận của Cao Cầu rối loạn liền nổi trống khua thuyền xông lên đánh. Lưu
Mộng Long và Đãng Thế Hùng cho thuyền quay về nhưng những chỗ nước cạn đã bị
các hảo hán Lương sơn bạc dung thuyền con chất đầy rơm rạ, củi gỗ lấp tắc.
Thuyền quân Cao Cầu vướng sào chèo không tiến lên được. Quân sĩ hầu hết bỏ
thuyền nhảy xuống nước. Lưu Mộng Long vội cởi đai tháo giáp bò lên bờ tìm đường
chạy chốn. Đãng Thế Hùng không dám bỏ thuyền chỉ quát tháo quân sĩ tìm chỗ nước
sâu lách thuyền đi. Được chừng một hai dặm thấy phía trước có ba chiếc thuyền
con lướt nhanh đến. Đấy là tam hùng họ Nguyễn, ai nấy tay cầm đao lá răm, chèo
thuyền áp đến. Quân sĩ của Đãng Thế Hùng đứng trên thuyền sợ hãi nhảy cả xuống
nước. Đãng Thế Hùng cầm giáo giao chiến với Nguyễn Tiểu Nhị trên mũi thuyền.
Được một lúc Nguyễn Tiểu Nhị cũng nhảy xuống nước. Nguyễn Tiểu Ngũ và Nguyễn
Tiểu Thất tiếp nhau áp sát đến. Đãng Thế Hùng thấy tình thế không chống cự nổi
vội vứt giáo nhảy xuống nước mong trốn thoát. Đúng vào lúc ấy Thuyền hỏa nhi Trương
Hoành từ dưới nước ngoi lên, một tay túm tóc, một tay nắm lấy đai lưng Đãng Thế
Hùng lôi tuột lên bờ sậy. Hơn chục tên lâu la nấp sẳn xông đến trói gô Đãng Thế
Hùng áp giải về trại Thủy hử.
Thấy đoàn chiến thuyền cắm cờ của
Lưu Mộng Long rối loạn quay về bên chân núi. Cao Cầu biết là thủy quân bị thua
trận, vội truyền lệnh thu quân về Tế châu để bàn tính kế khác, nhưng chưa kịp
lui quân thì trời đã tối. Bỗng nghe khắp nơi hỏa pháo nổ vang rồi các đội quân
mã của Tống Giang từ khắp bốn phía ào ạt xông đến. Cao Cầu thốt kêu lên: “Khổ
quá!”
Đúng là
Hí hửng chưa lâu sầu đã đến
Tai ương vừa khỏi nạn sinh ngay
Rồi đây:
Một viên thái úy bơ vơ như lạc lối
Âm Lăng
Mười đạo hùng binh nháo nhác tựa tàn
quân Xích Bích
Chỉ biết:
Bộ quân không đường về đại trại
Thủy quân hết lối lại trần gian
Chưa biết Cao Thái úy và mười lộ
quân triều đình thoát than ra sao, xem hồi sau sẽ rõ
Hồi 79 -
Lưu Đường Đốt Lửa Thiêu Chiến Thuyền,
Đang nói chuyện lúc bấy giờ Cao Cầu
thấy thủy quân thua trận, biết không đánh nổi, đang định cho lui quân thì nghe
hoả pháo nổi vang khắp nơi, Cao Cầu vội cùng các tướng cướp đường mà chạy.
Nguyên là các hảo hán Lương Sơn Bạc đặt súng bắn pháo hiệu chứ không đặt phục
binh, chỉ mượn tiếng nổ làm cho bọn Cao Cầu một phen kinh hồn táng đảm, phải
luôn đêm luồn đường chạy về Tế Châu. Điểm lại tướng sĩ thấy quân bộ không thiệt
hại bao nhiêu, nhưng quân thuỷ tổn thất quá nửa, chiến thuyền không một chiếc
quay về. Lưu Mộng Long thóat chết, quân sĩ kẻ nào biết bơi thì sống sót, bọn
không biết bơi thì chết đuối hết. Thấy tướng sĩ đều suy nhụt nhuệ khí, Cao thái
uý đành phải cho đem quân vào đóng trong thành, chờ Ngưu Bang Hỷ đem thuyền
đến. Một mặt thái uý sai người đem văn thư đi thúc giục các nơi: bất kể thuyền
công, thuyền tư, nếu thấy dùng được đều phải trưng dụng đem đến Tế Châu.
Lại nói ở trại Thuỷ Hử, Tống Giang
trước hết cho người đem Đổng Bình lên núi, nhổ mũi tên ở cánh tay, rồi gọi thần
y An Đạo Toàn đến đắp thuốc chữa trị. An Đạo Toàn dùng môn thuốc kim thương rịt
vào vết thương rồi để Đổng Bình nghỉ ngơi dưỡng bệnh trong sơn trại. Ngô Dụng
tập hợp các đầu lĩnh về tiếp sau. Thuỷ quân đầu lĩnh Trương Hoành áp giải Đãng
Thế Hùng đến trước Trung Nghĩa đường để báo công. Tống Giang sai đem ra trại
sau giam giữ. Tất cả chiến thuyền đoạt được đều đem về giao cho các đầu lĩnh
thuỷ quân sử dụng.
Trong thành Tế Châu, Cao thái uý hội
họp các tướng bàn cách tiến đánh Lương Sơn Bạc. Tiết độ sứ Từ Kinh thưa:
- Từ Kinh tôi thuở bé làm mãi võ bán
thuốc, rong ruổi khắp giang hồ, có giao du với một người am hiểu binh cơ, tinh
thông thao lược, có tài điều khiển binh sĩ như Tôn, Ngô, trí mưu chẳng nhừơng
Gia Cát. Người ấy họ Văn, tên là Hoán Chương hiện ngồi dạy học ở thôn An Nhân
ngoài thành Đông Kinh. Nếu thái uý đón được người ấy làm tham mưu thì có thể bẻ
gảy được quỷ kế của Ngô Dụng.
Cao thái uý nghe xong bèn sai tứơng
thắng ngựa tốt, đem theo lễ vật vóc lụa ngày đêm đi gấp về Đông Kinh mời tú tài
Văn Hoán Chương đến Tế Châu giữ chức tham mưu quân vụ.
Viên tướng ấy đi được mấy hôm thì ở
ngoài thành Tế Châu có tin báo:"Quân Tống Giang đến khiêu chiến". Cao
thái uý cả giận, điểm ngay quân bản bộ ra ngoài đón đánh, lệnh cho các tiết độ
sứ đem quân ra giao chiến.
Quân mã của Tống Giang thấy quân Cao
Cầu tiến đến, vội lui về phía sau hơn mười lăm dặm, rồi đóng lại trên một vùng
rộng rãi, địa thế bằng phẳng. Khi Cao Cầu dẫn quân đuổi đến nơi, quân Tống
Giang lại lui sát về dàn trận bên chân núi. Dưới bóng cờ đỏ, một viên mãnh
tướng phóng ngựa xông ra, trên cờ lệnh của viên tướng ấy để rõ "song tiên
Hô Diên Chước". Hô Diên Chước nâng thương, ghìm ngựa đứng trước trận. Cao
Cầu thấy Hô Diên Chước liền nói:
- Kẻ này lúc trước từng thống lĩnh
quân mã, sau phản bội triều đình.
Nói đoạn sai Vân Trung tiết độ sứ
Hàn Tồn Bảo ra đánh. Hàn Tồn Bảo quen sử dụng cây phương thiên họa kích, vâng
lệnh phóng ngựa ra trước trận. Hai tướng lầm lì xông vào giao chiến. Một ngọn
trường thương, một cây phương thiên họa kích vun vút qua lại, như đan chéo trên
không. Hai tướng đánh đến hơn năm mươi hiệp, Hô Diên Chước đánh dữ một đường
rồi nhảy ra ngoài quay ngựa chạy xuống sườn núi. Hàn Tồn Bảo nóng lòng muốn lập
công liền thúc ngựa đuổi theo. Tám vó ngựa khua gìon như lắc chén. Hai ngựa
đuổi nhau chừng bảy tám dặm, đến chỗ vắng, Hô Diên Chước vội đeo thương vào
lưng, rút song tiên cầm tay, quay ngựa đón đánh Hà Tần Bảo. Hai tướng đánh hơn
mười hiệp, Hô Diên Chước múa song tiên gạt cây họa kích rồi lại quay ngựa chạy.
Hàn Tồn Bảo nghĩ bụng:"dùng thương còn chẳng dám đến gần ta thì cây roi
kia làm được trò gì! không bắt sống ngươi lúc này còn chờ lúc nào nữa?"
Hàn Tồn Bảo thúc ngựa đuổi theo, gặp ngay chỗ đường rẽ dưới chân núi, không
biết Hô Diên Chước rẽ sang lối nào.
Hàn Tồn Bảo thúc ngựa chạy lên sườn
núi nhìn quanh thấy Hô Diên Chước đang chạy ngựa bên kia bờ khe, Hàn Tồn Bảo
quát lớn:
- Tên phản tặc định chạy đi đâu? mau
xuống ngựa quy hàng thì ta tha cho khỏi chết.
--------------------------------------------------------------------------------
Hồi 79 tiếp
theo
Hô Diên Chước cũng dừng ngựa quát
mắng Hàn Tồn Bảo. Hàn Tồn Bảo cho ngựa vòng ra phía sau đón đường Hô Diên
Chước. Hai tướng gặp nhau bên bờ khe. Một bên là núi, một bên là khe, giữa chỉ
có một con đường hẹp không đủ cho hai ngựa quần nhau.
Hô Diên Chước nói:
- Ngươi không đầu hàng còn đợi đến
bao giờ?
Hàn Tồn Bảo đáp:
- Ngươi là tên bạo tướng trong tay
ta, sao còn dám xấc xược?
Hô Diên Chước nói:
- Ta lừa ngươi đến đây để bắt sống.
Tính mạng ngươi sống chết chỉ trong khoảnh khắc.
Hàn Tồn Bảo đáp:
- Chính ta đang muốn bắt sống ngươi!
Hai tướng tức giận xông vào giao
chiến. Hàn Tồn Bảo nhằm vào bụng Hô Diên Chước lao trường kích. Hô Diên Chước
rút thương đỡ gạt rồi nhanh như cắt đâm tới. Hai tướng lại quần thảo hơn ba
mươi hiệp nữa. Hàn Tồn Bảo đâm ngay một kích vào bụng Hô Diên Chước. Hô Diên
Chước né tránh rồi xông tới giằng cán kích của Hàn Tồn Bảo. Hàn Tồn Bảo cũng
lôi cán thương của Hô Diên Chước. Đang lúc hai tướng dùng hết sức giằng co,
ngựa của Hàn Tồn Bảo sẩy chân lăn xuống khe, kéo cả người ngựa Hô Diên Chước
lăn theo. Hô Diên Chước liền vứt thương, kẹp chặt cán kích của Hàn Tồn Bảo rồi
rúut roi vụt đánh. Hàn Tồn Bảo cũng bỏ kích, ghì chặt vai Hô Diên Chước. Hai
tướng trổ tài quyền thuật đánh nhau dưới nước. Vừa lúc ấy đội quân mã của Một
vũ tiễn Trương Thanh ập đến, quân sĩ liền ào xuống bắt sống Hàn Tồn Bảo, đón
bắt hai con ngựa, xuống khe mò tìm vũ khí cho Hô Diên Chước rồi trói gô Hàn Tồn
Bảo quẳng lên ngựa đem về đầu lũng núi.
Vừa lúc ấy có đội quân mã của hai
tiết độ sứ Mai Triển và Trương Khai chỉ huy đến cứu Hàn Tồn Bảo. Thấy Tồn Bảo
ướt sũng bị trói vứt trên lưng ngựa, Mai Triển cả giận múa trường đao ba lưỡi
xông vào đánh Trương Thanh. Hai tướng đánh chừng ba mươi hiệp thì Trương Thanh
quay ngựa bỏ chạy. Mai Triển liền rượt ngựa đuổi theo. Trương Thanh vươn tay,
nghiêng mình liệng đá tới. Viên đá trúng ngay vào trán Mai Triển, máu tuôn như
xối. Mai Triển vứt đao ôm mặt. Trương Thanh quay ngựa trở về. Chợt thấy Trương
Khai giương cung đặt tên, Trương Thanh vội giật cương, con ngựa chồm lên, tên
trúng ngay vào mắt ngựa. Trương Thanh nhảy sang một bên, cầm thương xông đến
đánh bộ. Nguyên là Trương Thanh về môn ném đá thì tài nghệ cao cường nhưng môn
thương đao thì có phần chậm chạp. Trương Khai trứớc hết đến cứu Mai Triển, sau
đó mới xông đánh Trương Thanh. Thấy đường kích của Trương Khai có sức biến hoá
xuất quỷ nhập thần, Trương Thanh cố đỡ gạt rồi nhân lúc sơ hở chạy về phía quân
nhà. Trương Khai xông ngựa tới đánh tan năm sáu chục tên quân mã của Trương
Thanh, cứu được Hàn Tồn Bảo. Trương Khai chưa kịp quay về thì nghe tiếng reo hò
vang dậy, rồi hai đội quân mã ập đến đầu cửa núi. Đó là quân mã của Tích lịch
hoả Tần Minh và Đại đao Quan Thắng. Trương Khai vội bỏ quân, hộ vệ Mai Triển
chạy trốn. Hai đội quân mã đánh ập tới, đọat lại Hàn Tồn Bảo. Trương Thanh cướp
được ngựa, cùng Hô Diên Chước thừa thắng đánh đuổi. Quân Cao Cầu đại bại phải
chạy về Tế Châu. Các hảo hán Lương Sơn Bạc không đuổi theo, chỉ cho người áp
giải Hàn Tồn Bảo về sơn trại. Tống Giang và các đầu lĩnh đang ngồi ở Trung
Nghĩa đường thấy quân áp giải Hàn Tồn Bảo về, liền quát lui quân sĩ rồi xuống
sân tự cởi trói, mời Hàn Tồn Bảo lên chính sảnh, ân cần thăm hỏi. Hàn Tồn Bảo
rất mực cảm kích. Tống Giang cho mời Đăng Thế Hùng ra chuyện trò rồi sai dọn
rượu khỏan đãi cả hai người.
Tống Giang nói:
- Hai vị tướng quân chớ nên nghi
ngờ. Anh em Tống Giang tôi vốn không có dị tâm, chỉ vì bọn tham lam ô lại bức
bách nên phải nổi lên chống lại. Nếu triều đình xá tội chiêu an thì anh em
chúng tôi nguyện ra sức giúp nước.
Hàn Tồn Bảo nói:
- Trước đây Trần thái uý đem chiếu
sắc đến chiêu an, sao các vị không nhân dịp đó mà cải tà quy chính?
Tống Giang đáp:
- Lần ấy chiếu thư của triều đình
viết không minh bạch, sứ giả lại đem rượu quê đánh tráo ngự tửu nên các anh em
đều không chịu nghe. Hai viên Trương can biện và Lý ngu hầu cậy thế tác oai tác
phúc làm nhục các tướng.
Hàn Tồn Bảo nói:
- Hóa ra chỉ vì không có người tốt
đứng ra làm trung gian để thu xếp nên mới lỡ việc lớn của quốc gia.
Ngày hôm sau, Tống Giang sai lấy
ngựa đưa hai người xuống núi.
Hàn Tồn Bảo và Đăng Thế Hùng đi
đường đều khen đức tốt của Tống Giang, về đến ngoài thành Tế Châu thì trời vừa
tối. Sáng hôm sau, hai người vào thành yết kiến Cao thái uý trình việc đựợc
Tống Giang tha về. Cao Cầu cả giận quát:
- Đó là gian kế của giặc. Bọn chúng
cốt làm như thế để khinh mạn quân ta, thế mà các ngươi còn dám vác mặt về đây
gặp ta! quân bay đâu, lôi hai tên này ra chém đầu.
Bọn Vương Hoán đều quỳ xuống van
xin.
- Thưa nguyên suý, việc này không
can dự đến hai tướng quân đây, ấy chỉ là kế của bọn Tống Giang, Ngô Dụng. Nếu
chém đầu hai tướng thì quân giặc sẽ chê cười chúng ta.
Cao Cầu thấy mọi người cố sức can
ngăn, đành phải nghe theo mà tha cho hai tướng, nhưng cách hết chức tước, sai
quân áp giải về cung Thái Ất ở Đông Kinh đợi tội.
Nguyên Hàn Tồn Bảo là cháu quốc lão
thái sư Hàn Trung Ngạn. Trong số nhiều đại thần tại triều từng là môn hạ của
quốc lão thái sư có viên giáo thụ Trịnh Cư Trung là người được Hàn Trung Ngạn
cất nhắc đề cử, hiện giữ chức ngự sử đại phu. Hàn Tồn Bảo bèn kể lại đầu đuôi
sự việc. Trịnh Cư Trung liền lên kiệu đưa Hàn Tồn Bảo đến yết kiến thượng thư
Dư Thâm để trình bày việc này. Dư Thâm nói:
- Phải bẩm với Sái thái sư rồi mới
được phép tâu lên thiên tử.
Tiếp đó cả Cư Trung và Dư Thâm đi
ngay tới phủ thái sư yết kiến Sái Kinh. Cư Trung nói:
- Bọn Tống Giang vốn không có dị
tâm, ngày đêm chỉ mong được triều đình chiêu an.
Sái Kinh nói:
- Lần trước bọn chúng đã xé chiếu
thư, huỷ báng triều đình. Quân giặc vô lễ như thế làm sao mà chiêu an được? Chỉ
có cách đánh dẹp cho hết thì mới yên.
Cư Trung, Dư Thâm đều nói:
- Lần trước sứ giả đi chiêu an không
tỏ ý vỗ về thương xót cho sáng tỏ ân đức triều đình, toàn dùng lời lẽ gay gắt
nên việc không thành.
Sái Kinh đành bằng lòng cho tâu lên
thiên tử. Sáng hôm sau Đạo quân hoàng đế thăng triều, Sái Kinh đem việc tâu lên
xin thiên tử lại xuống chiếu cho người đi chiêu an lần nữa. Thiên tử nói:
- Cao thái uý hiện đang sai người về
kinh, đến thôn An Nhân mời Văn Hoán Chương đến biên đình làm tham mưu quân vụ.
Nếu bọn họ chịu về hàng thì trẫm sẽ khoan dung tha tội. Nếu vẫn ngang ngạnh
không hàng phục thì giao cho Cao Cầu định hạn đem quân tiễu trừ.
Sái thái sư liền cầm bút thảo chiếu
thư, một mặt cho người đi mời Văn Hoán Chương đến phủ dự tiệc. Văn Hoán Chương
là bậc danh sĩ, các đại thần ở triều nhiều người quen biết nên mời Văn Hoán
Chương đến nhà riêng mở tiệc tiễn hành. Văn Hoán Chương thu xếp để sớm lên
đường.
Lại nói chuyện Cao thái uý ở Tế
Châu, đang lúc trong lòng buồn bực thì quân canh vào báo có Ngưu Bang Hỷ đến.
Cao thái uý cho gọi vào. Bang Hỷ lạy chào xong, Cao Cầu hỏi:
- Thuyền bè hiện đóng ở đâu?
Bang Hỷ thưa:
- Thuyền lớn nhỏ thu được ở ven sông
tất cả là hơn một nghìn năm trăm chiếc, đều đã đưa đến đủ cả.
Cao thái uý cả mừng, thưởng cho Ngưu
Bang Hỷ, rồi truyền lệnh cho đưa cả số thuyền đó vào vào trong cảng, neo chặt
ba chiếc làm một, bên trên ken ván, dùng xích sắt nối đuôi thuyền vào nhau, tất
cả quân bộ đều chở bằng thuyền, còn quân mã đi trên bờ hộ tống. Việc sắp xếp
quân sĩ lên thuyền đã được luyện tập thành thạo từ nửa tháng trước. Tất cả mọi
việc ấy, các hảo hán Lương Sơn Bạc đều biết rõ. Ngô Dụng mời Lưu Đường đến căn
dặn, giao cho chỉ huy quân đánh thủy. Các đầu lĩnh quân ai nấy sửa soạn thuyền
nhỏ, đầu mũi thuyền đóng tấm chắn sắt, trên khoang thuyền chở đầy lau sậy, củi
khô đã trộn lưu huỳnh, diêm tiêu. Các thuyền chuẩn bị xong, đều đậu cả trong
lạch nhỏ. Lại giao cho pháo thủ Lăng Chấn đặt súng trên sườn núi cao để bắn làm
hiệu. Sai quân sĩ buộc cờ lên ngọn cây ở những bụi rậm bên bờ nước. Mỗi nơi ấy
đều đặt hoả pháo, chiêng trống, đóng quân và làm núi giả để nghi binh. Một mặt
Ngô Dụng nhờ Công Tôn Thắng trổ phép gọi gío. Ba đội quân mã chia đong ở khu
đất khô chờ tiếp ứng. Ngô Dụng chỉ tay nói rõ cách tiến đánh.
Lại nói Cao thái úy ở Tế Châu đốc
thúc quân mã lên đường, quân đi đường thủy giao cho Ngưu Bang Hỷ, Lưu Mộng Long
và Đăng Thế Anh chỉ huy. Cao Cầu đánh ba hồi trống cho quân thuỷ bộ xuấ phát
rồi tự mình cũng khoác giáp lên ngựa. Thuyền lướ như tên, ngựa phóng như bay,
nhằm hướng Lương Sơn Bạc mà tiến. Quân thuỷ thuyền kề sát nhau, chiêng khua
trống thúc liên hồi, quân sĩ háo hức tiến về Lương Sơn Bạc. Trước sau không hề
thấy một bóng thuyền giặc. Chiến thuyền của bọn Cao Cầu tiến đến bến Kim Sa,
bỗng từ trong đầm sen có hai chiếc thuyền đánh cá bơi ra. Mỗi thuyền có hai
người chèo đang vỗ tay cười lớn. Lưu Mộng Long đứng trên thuyền đi đầu, ra lệnh
cho quân cung nỏ bắn tới. Mấy người đánh cá đều nhảy xuống nước. Lưu Mộng Long
đốc thúc chiến thuyền áp vào đầu sát bến Kim Sa.
Dưới rặng liễu buông tơ có hai con
bò buộc vào gốc cây và ba bốn đứa trẻ đang nằm ngủ trên bãi cỏ xanh. Xa xa nữa
lại có một đứa mục đồng đang ngồi ngược trên lưng bò, tay nâng sáo trúc thổi vi
vu. Lưu Mộng Long bèn sai mấy tên quân dũng mãnh nhảy lên bờ. Mấy đứa mục đồng
nhỏm dậy cười như nắc nẻ rồi chạy mất vào rặng liễu. Quân tiền đội của Lưu Mộng
Long sáu bảy trăm tên nhảy ào cả lên bờ. Bỗng từ trong rặng liễu một tiếng súng
nổ vang, rồi từ hai phía trống trận nổi liên hồi. Đội quân mã mặc giáp đỏ do
Tích lịch hoả Tần Minh chỉ huy từ phía bên phải, đội quân mã mặc giáp đen do
Song tiên Hô Diên Chước chỉ huy từ phía bên trái, mỗi đội năm trăm quân nhất
loạt xông ra chặn ngang đầu bến. Lưu Mộng Long vội truyền lệnh cho quân rút
xuống thuyền. Bọn chậm chân rớt lại trên bờ bị giết đến quá nửa. Ngưu Bang Hỷ
nghe tiền quân kêu thét bèn cho đoàn thuyền phía sau quay lại. Bỗng nghe pháo
liên châu nổ vang trên núi, rồi tiếng lau sậy cuộn gío ào ào. Đó là do Công Tôn
Thắng tuốt kiếm làm phép gọi gió. Cát bụi mù trời, trong chốc lát sóng hồ tung
trắng xoá, mây đen kéo đến, trời đất tối đen, gió lớn gầm rít. Lưu Mộng Long
quát thét quân sĩ lui thuyền. Vừa lúc ấy, từ trong các kênh lạch lau sậy um
tùm, từng đoàn thuyền con vun vút lao ra. Đó chính là đoàn thuyền chở củi khô
trộn mồi lửa mà Ngô Dụng đã giao cho Lưu Đường sắp đặt từ trước. Trong chốc lát
lửa bốc ngùn ngụt, cháy lan sang cả đoàn thuyền lớn của Ngưu Bang Hỷ.
Bấy giờ Lưu Mộng Long thấy lửa bén
cháy thuyền, vội bỏ mũ sắt, áo giáp, nhảy xuống hồ cố sức bơi theo dòng lạch
sâu mong tìm phương tẩu thoát. Bất ngờ từ trong bờ sậy một chiếc thuyền con lao
thẳng đến. Lưu Mộng Long vừa ngụp tránh thì bị một người lặn đến túm cổ lôi lên
thuyền. Người chèo thuyền ấy chính là Xuất động giao Đồng Uy, còn người lặn
dưới nước là Hỗn giang long Lý Tuấn.
Ngưu Bang Hỷ thấy chiến thuyền lọt
vào trận hoả công của Lương Sơn Bạc vội vứt mũ, cởi giáp, nhưng chưa kịp nhẩy
xuống hồ thì bị một bóng người ở đầu mũi thuyền giơ câu liêm kéo nhào xuống
nước. Người ấy là Thuyền hoả nhi Trương Hoành. Thế là quân thuỷ của Cao Cầu đã
bị các đầu lĩnh Lương Sơn Bạc đánh tan máu loang đỏ hồ, thây tắc đầm lạch, số
bị thương bỏng thì nhiều không kể xiết. Đăng Thế Hùng chèo thuyền con định
trốn, liền bị quân cung nỏ nấp trong bờ lau bắn tên ra tới tấp, chết gục ngay
giữa hồ. Quân sĩ của Lưu Mộng Long kẻ nào biết bơi thì thoát chết, kẻ không
quen sông nước đều bị chết đuối cả. Những tên bị bắt thì áp giải về đại trại.
Lý Tuấn và Trương Hoành định giải bọn Lưu Mộng Long, Ngưu Bang Hỷ về sơn trại
nhưng sợ Tống Giang lại thả ra như bọn trước nên bàn nhau ghé vào vệ đường hoá
kiếp rồi cắt thủ cấp đem về sơn trại.
Lại nói chuyện Cao Cầu điểm quân mã
đến bên bờ tiếp ứng, bỗng nghe tiếng pháo liên châu nổ rồi trống trận nổi vang.
Cao Cầu phóng ngựa lên sườn núi nhìn xuống cho rõ. Thấy quân sĩ hoảng loạn lội
nước quay về, Cao Cầu hỏi nguyên do, bọn chúng đều nói chiến thuyền bị giặc đốt
hết nhưng không biết thuyền giặc ẩn ấp ở đâu. Cao Cầu lại càng thêm sợ. Vừa lúc
ấy nghe tiếng reo hò rồi mây mù che kín, trời tối sầm. Cao Cầu định cho lui
quân, lại nghe trống trận nổ vang đầu núi, rồi một đội quân mã xông ra chặn
đường. Tướng đi đầu là Cấp tiên phong Sách Siêu cưỡi ngựa vung búa xông tới.
Vương Hoán đứng bên Cao Cầu bèn thúc ngựa đến đánh Sách Siêu. Hai tướng đánh
bốn năm hiệp thì Sách Siêu quay ngựa bỏ chạy. Cao Cầu dẫn quân mã đuổi theo.
Đến góc núi thì không thấy bóng Sách Siêu đâu nữa. Đúng lúc ấy từ phía sau Báo
tử đầu Lâm Xung dẫn quân đuổi đến. Quân hai bên giao chiến một lúc thì Cao Cầu
dẫn quân lui chạy. Được chừng sáu bảy dặm lại gặp Thanh diện thú Dương Chí tung
quân chặn đánh. Giao chiến một lúc, quân Cao Cầu lại bỏ chạy.Chưa đầy bảy tám
dặm, lại gặp Mỹ nhiêm công Chu Đồng đem quân chặn đánh. Đó là mưu kế đuổi giặc
của Ngô Dụng, không chặn đầu mà chỉ chặn đuổi từng quãng ngắn ở phía sau. Bọn
tàn quân không còn lòng dạ nào mà đánh, chỉ cố sức chạy cho nhanh, tiền quân
hậu quân không cứu ứng được cho nhau. Cao Cầu bị đuổi gấp hoảng sợ cắm đầu chạy
tới canh ba thì về đến Tế Châu. Vừa lúc ấy có tiếng kêu la huyên náo trong
doanh trại ở ngoài thành. Nguyên là bọn Thạch Tú, Dương Hùng đã đem năm trăm
quân bộ lén vào mai phục, đem đuốc đi đốt các khu trong doanh trại rồi rút ra
ngoài. Cao thái uý kinh sợ rụng rời, sai quân đi nghe ngóng. Quân thám mã trở
về báo là có một toán quân giặc lẻn vào đốt trại, hiện đã rút về, bấy giờ Cao
Cầu mới yên tâm vào trại. Điểm lại quân mã thấy số bị giết bị thương đến quá
nửa. Có thơ làm chứng như sau:
Xích bích bưu binh sự khả trưng,
Cao Cầu kế thuyết diệc vô bằng.
Hùng binh phản bại Lương Sơn Bạc,
Hồi thủ tu tương đại phủ đăng.
Xích bích đời xưa việc tỏ tường,
Cao Cầu kế vụng muốn khoa trương.
Quân triều bại bởi Lương Sơn Bạc,
Trở lại kinh đô thẹn phủ đường.
Cao Cầu đang buồn rầu ngồi trong
trướng thì quân thám mã về báo:"có thiên sứ từ Đông Kinh tới". Cao
Cầu và các viên tiết độ sứ liền đem quân ra ngoài thành nghênh tiếp, chuyện trò
hỏi thăm tham mưu Văn Hoán Chương rồi mọi người cùng về suý phủ ở trong thành.
Cao Cầu xem xong bản chiếu thư băn khoăn nghĩ ngợi:"nếu không chiêu an thì
quân đã thua liền hai trận, bao nhiêu thuyền bè trưng dụng được đều bị đốt cháy
cả. Nếu thụân cho chiêu an, mình đem quân về kinh kể cũng hổ thẹn". Nghĩ
thế Cao Cầu chần chừ mấy hôm chưa quyết. Không ngờ trong thành Kế Châu có một
viên thư lại già là Vương Cẩn, xưa nay vốn là kẻ hiểm độc, ngườita thường gọi
là Uyển Tâm Vương, gần đây được tri phủ Trương Thúc Dạ phái đến giúp việc ở suý
phủ. Vương Cẩn đã xem bản sao chiếu thư, lại dò biết Cao thái uý còn có ý do
dự, bèn đến suý phủ bàn mưu lợi hại. Vương Cẩn nói:
- Xin thái uý đừng lo nghĩ, tiểu lại
thấy trong chiếu thư có chỗ sơ hở có thể tráo trở được. Vị hàn lâm đãi chiếu
thảo tờ chiếu này tất có hảo ý với tướng công, đã để ngỏ cánh cửa sau cho tướng
công rồi đó.
Cao Cầu ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao ngươi biết điều đó?
Vương Cẩn thưa:
- Có một dòng quan trọng nhất ở giữa
chiếu thư:"ngoài bọn Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, v..v.. mọi người lớn bé
khác phạm tội đều được ân xá cả". Đó là một câu liền hoàn chỉnh. Khi tuyên
đọc tách ra làm hai: ngắt mấy chữ "trừ Tống Giang", là một câu,
"bọn Lư Tuấn Nghĩa lớn bé đều được ân xá cả" làm một câu. Tướng công
cứ dụ cho bọn chúng vào thành rồi bắt tên Tống Giang cầm đầu mà giết đi, còn
bọn thủ hạ của hắn thì đem phân tán đi các nơi. Từ xưa đã có câu:"rắn
không đầu, không bò được; chim không cánh, không bay được". Không còn Tống
Giang thì bọn còn lại còn dám làm trò trống gì? ý tiểu nhân như thế, chưa biết
tướng công nghĩ thế nào?
Cao Cầu cả mừng, bèn cất nhắc Vương
Cẩn làm chức trưởng sử của suý phủ. Rồi đó bèn mời tham mưu Văn Hoán Chương đến
nói lại mưu kế của Vương Cẩn để cùng bàn tính. Văn Hoán Chương can:
- Đường đường là sứ giả của thiên
tử, chỉ nên theo lý lẽ chính đáng, không nên làm điều xảo trá. Nếu trong bọn
Tống Giang có kẻ hiểu biết phát giác điều tráo trở lại làm ầm lên thì thật bất
tiện.
Cao Cầu nói:
- Không đúng! từ xưa binh thư có
câu:"quân đi đường hiểm", cần gì phải mang minh chính đại?
Văn tham mưu nói:
- Dù là "quân đi đường
hiểm" chăng nữa, nhưng việc chiêu an này là theo thánh chỉ của thiên tử,
cần phải thủ tín với thiên hạ. Xưa nay lời nói của bậc đế vương như đinh đóng
cột nên mới gọi là "ngọc âm", không thể thay đổi được. Nếu làm thế
sau có người biết chuyện thì khó giữ được chữ tín.
Cao thái uý nói:
- Cứ biết việc bây giờ đã, sau thế
nào hãy hay.
Rồi Cao thái uý không kể gì đến lời
khuyên của Văn Hoán Chương, bèn sai người lên Lương Sơn Bạc báo cho bọn Tống
Giang đến thành Tế Châu để nghe đọc chiếu xá tội chiêu an của thiên tử. Có thơ
làm chứng như sau:
Viễn phủng nê thư xuất đại bang,
Thuần thuần thiên ngữ dục chiêu
hàng.
Cao Cầu khinh tín gian nhân ngữ,
Yên cấu âm mưu sát Tống Giang.
Ống sắc vai đeo khuất nẻo đường,
Lời vua rành rõ muốn chiêu hàng.
Cao Cầu khinh xuất nghe xui bẩy,
Bầy đặt mưu ngầm giết Tống Giang.
Lại nói Tống Giang sau khi đánh tan
quân Cao Cầu, những chiếc thuyền bị đốt thì sai kéo về làm củi, số còn nguyên
thì đưa về thuỷ trại để dùng. Quan quân bị bắt lần lượt tha cho về Tế Châu. Hôm
ấy Tống Giang và các đầu lĩnh đang bàn việc ở Trung Nghĩa đường thì có viên
tiểu hiệu vào thưa:"có sai nhân ở phủ Tế Châu lên báo: triều đình sai
thiên sứ đến ban chiếu chiêu an, phong quan tước cho các đầu lĩnh". Tống
Giang vui mừng cho mời sai nhân vào sảnh đường. Sai nhân nói:
- Triều đình đã giáng chiếu đặc cách
sai thiên sứ đến chiêu an. Cao thái uý sai tiểu nhân đến mời các đầu lĩnh lớn
nhỏ về thành Tế Châu làm lễ tuyên đọc chiếu thư. Việc này không có gì khác, xin
các đầu lĩnh chớ nghi ngờ.
Tống Giang nghe xong cho mời quân sư
Ngô Dụng đến bàn bạc, lấy bạc và vóc lụa thưởng cho sai nhân rồi cho về Tế
Châu. Tống Giang truyền lệnh cho các đầu lĩnh thu xếp công việc để đi nghe đọc
chiếu thư. Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Xin hãy thư thả! chỉ sợ đây là mưu
của Cao Cầu, huynh trưởng đừng nên đi ngay.
Tống Giang nói:
- Nếu anh em cứ nghi ngờ thì việc
trở về với chính nghĩa bao giờ mới xong? dù xấu tốt, mọi nguờ cũng phải đi một
chuyến xem thế nào.
Ngô Dụng cười nói:
- Cao Cầu bị anh em ta đánh cho mấy
trận kinh hồn táng đảm hẳn bày mưu kế gì đây. Nhưng thi thố cũng khó trót lọt.
Anh em không cần phải nghi ngờ, cứ theo huynh trưởng xuống núi. Nhưng trước khi
đi, Ngô Dụng tôi sẽ điều Hắc toàn phong Lý Quỳ cùng bọn Phàn Thuỵ, Bao Húc,
Hạng Sung, Lý Cổn đem một nghìn quân bộ đến mai phục ở đường phía đông đi về Tế
Châu, lại cho Nhất trượng thanh Hỗ Tam Nương cùng bọn Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị
Nương, Vương Nuỵ Hổ, Tôn Tân, Trương Thanh đem một nghìn quân mã mai phục ở
đường phía tây. Hễ nghe tiếng pháo liên châu nổ thì quân mã quân bộ phải gấp
đến cửa thành phía bắ để cứu ứng.
Ngô Dụng cắt cử quân tướng đã xong,
các đầu lĩnh đều xuống núi, chỉ để các đầu lĩnh thuỷ quân ở lại giữ sơn trại.
Ấy là vì Cao Cầu không nghe lời khuyên của Văn tham mưu, vẫn dùng mưu mẹo xảo
trá dụ dỗ các hảo hán xuống núi. Ngờ đâu:
Thành Tế Châu xảy chuyện lở trời,
Lương Sơn Bạc sóng tung hồ rộng.
Khác nào như sói vồ đàn chó, hổ đuổi
bầy dê. Đúng là:
Chỉ bởi chiếu son dùng mẹo chữ,
Khiến bao tráng sĩ phải xăn tay!
Chưa biết các hảo hán đại náo Tế
Châu ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 80 -
Trương Thuận Lặn Nước Đục Thuyền Con
Đang nói chuyện ở suý phủ trong
thành Tế Châu, Cao thái uý cho gọi bọn tiết độ sứ Vương Hoán đến dặn dò mưu kế
rồi truyền lệnh cho các lộ quân mã nhổ trại vào đóng trong thành, giao cho các
tiết độ sứ khoác giáp đeo đai mai phục sẵn ở trong thành. Quân sĩ các lộ phải
dàn sẵn thế trận, xung quanh mặt thành không cắm cờ lệnh, chỉ treo một lá cờ
vàng đề hai chữ "thiên chiếu" ở cửa bắc. Cao Cầu cùng các quan trong
sứ bộ thiên triều đều đứng trên mặt thành đợi bọn Tống Giang đến.
Ngày hôm ấy, Một vũ tiễn Trương
Thanh dẫn năm trăm quân thám mã tiến sát dưới thành Tế Châu thám thính một lượt
rồi theo đường phía bắc trở về. Một lúc sau Thần hành thái bảo Đái Tôn lại đi
qua xem xét lần nữa. Quân giữ thành báo tin về dinh nguyên suý. Cao thái uý
đích thân lên đứng trên đài quan sát trên mặt thành, phía trước đặt một chiếc
hương án. Quân hộ vệ hơn một trăm tên trương cờ vác lọng theo hầu. Lúc ấy từ
phía bắc quân mã của Tống Giang đang tiến đến. Đi trước là quân chiêng trống và
đội cờ ngũ phương. Các đầu lĩnh dàn hàng cánh nhạn người nọ tiếp sát người kia.
Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng đi đầu. Các đầu lĩnh ngồi
trên lưng ngựa nghiêng mình chào Cao thái úy. Cao thái uý sai người hầu đứng
trên thành nói lớn:
- Nay triều đình đã xá tội cho các
ngươi, sai thiên sứ đến chiêu an, sao các ngươi không cởi giáp xuống ngựa?
Tống Giang sai Đái Tôn đến dưới
thành trả lời:
- Anh em chúng tôi chưa được đội ơn
triều đình, không rõ lời ý trong chiếu thư ra sao nên chưa dám bỏ giáp trụ. Xin
thái uý cho mọi người già trẻ trong thành cùng đến nghe đọc chiếu thư, bấy giờ
chúng tôi sẽ xin vâng mệnh cởi giáp.
Cao Cầu bèn sai quân đi gọi dân
chúng trong thành đến cùng nghe đọc chiếu thư. Chẳng bao lâu người kéo tới đông
nghịt. Bọn Tống Giang thấy dây chúng đứng đông trên mặt thành, bấy giờ mới thong
thả cho ngựa tiến đến. Một hồi trống vang lên, các đầu lĩnh đều xuống ngựa. Hồi
trống thứ hai vang lên, Tống Giang cùng các tướng cùng đi bộ đến dưới thàn. Các
viên tiểu hiệu dắt ngựa theo sau. Đến cách mặt thành ngoài một tầm tên thì dừng
lại. Sau hồi trống thứ ba, các tướng đều khoanh tay đứng nghiêm dưới thành nghe
tuyên đọc chiếu thư. Vị sứ giả của triều đình cất giọng đọc:
"Hoàng đế truyền rằng: Bản tính
người ta vốn không hai lòng, đạo thường của nước nahf cũng cùng một ý; làm việc
thiện là lương dân, làm việc ác là phản nghịch. Những kẻ gian ác thì không được
hưởng đúng chính mệnh, thật là thương thay!
Trẫm nghe tâu các ngươi tụ tập ở
Lương Sơn Bạc, bấy lâu không chịu theo giáo hoá, chưa phục hồi lương tâm. Nay
trẫm sai thiên sứ ban chiếu thư: trừ Tống Giang, bọn Lư Tuấn Nghĩa lớn bé đều
được tha tội. Kẻ đứng đầu phải đến kinh đô tạ ơn, những kẻ a tòng cho phép trở
về làng cũ. Các ngươi không được trái ý trẫm, để thoả lòng mong muốn của các
ngươi. Than ôi! các ngươi hãy bỏ tà theo chính, mau được hưởng mưa móc tưới
nhuần, chớ phạm uy trời sấm sét, gắng ra sức giúp hòang triều thay cũ đổi mới.
Nay ban chiếu hiểu thị, tưởng các ngươi nên biết.
Niên hiệu Tuyên Hoà... tháng...
ngày...
Quân sư Ngô Dụng vừa nghe đọc xong
câu: "trừ Tống Giang.." bèn đưa ắmt ra hiệu nói với Hoa Vinh:
- Tướng quân nghe rõ chưa?
Sứ giả vừa đọc xong chiếu thư, Hoa
Vinh nói to lên:
- Không tha tội cho huynh trưởng thì
chúng ta về hàng làm gì?
Nói đọan Hoa Vinh đặt tên vào dây,
trương cung thật căng nhằm tên sứ giả:
- Phải cho ngươi biết mũi tên thần
của Hoa Vinh thế nào?
Rồi thả cho mũi tên bay vút trúng
giữa mặt tên sứ giả đọc chiếu thư. Quân lính của Cao Cầu úm vào cứu đỡ. Các hảo
hán dưới chân thành đồng thanh hét to:
- Không thể được!
Rồi mọi người lấy cung tên bắn tới
tấp lên mặt thành. Cao thái uý vội tìm chỗ ẩn nấp, truyền lệnh cho quân cung mã
mở cổng thành đuổi theo. Các hảo hán Lương Sơn Bạc nghe một tiếng trống, ai nấy
đều lên ngựa trở về. Quân trong thành đuổi theo chừng năm sáu dặm không kịp,
vội quay lại thì nghe tiếng pháo lệnh nổ vang phía sau hậu quân. Lúc ấy Hắc
toàn phong Lý Quỳ dẫn quân từ phía đông ập đến, phía tây là đội quân mã của Hỗ
Tam Nương. Cả hai đội quân cùng lúc xáp vào. Quân Cao Cầu sợ bị mai phục vội
rút lui. Tống Giang và các tướng quay lại ra sức đánh tới, cả ba mặt cùng chặn
giặc mà đánh. Quân Cao Cầu rối loạn, hoảng hốt chạy vào thành, số bị thương, bị
giết nhiều không đếm xuể. Tống Giang cũng cho thu quân về Lương Sơn Bạc.
Cao thái uý vội viết biểu văn tâu về
triều, kể tội bọn Tống Giang bắn chết thiên sứ, không chịu nhận chiêu an. Một
mặt Cao Cầu lại viết mật thư gửi cho Sài thái sư, Đồng khu mật và Dương thái
uý, nhờ ba người bàn cách để thái sư xin thiên tử cho quân tiếp viện và lương
thảo ngày đêm đi gấp vào triều tâu lên thiên tử. Đạo quân hoàng đế buồn rầu
nói:
- Bọn giặc này đã bao phen phạm tội
nghịch làm nhục triều đình!
Nói đoạn sai truyền lệnh cho các lộ
đem quân mã đến hiệp sức với Cao thái uý. Dương Tiễn cũng đã biế quân Cao Cầu
thất lợi, bèn điều thêm hai tướng ở ty ngự doanh và ra lệnh cho bốn doanh: Long
Mãnh, Hổ Dực, Phủng Nhật, Trung Nghĩa, mỗi doanh chọn lấy năm trăm quân tinh
nhuệ, tất cả là hai nghìn người, đặt dưới quyền chỉ huy của hai viên thượng
tướng đi cứu viện cho Cao Cầu. Hai viên thượng tướng ấy một người là hỗ giá
tướng quân Khưu Nhạc, chỉ huy sứ vệ tả nghĩa của đội thân quân, là giáo đầu của
tám mươi vạn cấm quân; ngươi kia là xa kỵ tướng quân Chu Ngang, chỉ huy sứ đội
thân quân vệ hữu nghĩa, phó giáo đầu của tám mươi vạn cấm quân. Hai viên tướng
này tinh thông võ nghệ, nhiều lần lập kỳ công, oai động kinh sư, lừng danh khắp
chốn, vốn là thủ hạ tâm phúc của Cao Cầu. Dương thái uý đích thân dặn dò Khưu
Nhạc và Chu Ngang phải đem quân lên đường ngay. Hai tướng lại đến cáo từ Sái
thái sư. Sái Kinh căn dặn: "Hai tướng quân phải cẩn thận đề phòng, mau lập
công lớn, khi trở về sẽ được cất nhắt trọng dụng".
Khưu Nhạc và Chu Ngang từ tạ rồi đến
bốn doanh chọn lấy những quân sĩ khỏe mạnh quan trèo núi lội nước, quê ở Sơn
Đông, Hà Bắc rồi sửa soạn lên đường. Dương thái uý cấp cho hai tướng năm con
tuấn mã để dùng khi ra trận. Một mặt sai báo trước cho dân chúng biết để ra
đường xem đoàn quân xuất trận.
Hai tướng cảm tạ Dương thái uý rồi
về doanh thu xếp lên đường. Ngày hôm sau, tướng sĩ nai nịt chỉnh tề đứng trước
ngự doanh đợi lệnh. Khưu Nhạc và Chu Ngang chia quân làm bốn đội. Hai doanh
Long Mãnh và Hổ Dực gồm một nghìn quân tinh nhuệ và hơn hai nghìn quân mã, do
thượng tướng Khưu Nhạc chỉ huy. Hai doanh Phủng Nhật và Trung Nghĩa cũng gồm
một nghìn quân tinh nhuệ và hơn hai nghìn quân mã do thượng tướng Chu Ngang chỉ
huy. Ngoài ra còn một nghì quân bộ chia làm quân tuỳ tùng của hai tướng. Vào
khoảng nửa buổi sáng, hai tứớng đem quân tiến ra khỏi thành. Dương thái uý đích
thân lên cổng thành xem quân ra trận.
Khưu Nhạc ngồi trên mình ngựa đi
trước đòan quân. Dân chúng Đông Kinh đổ ra đường xem, ai nấy trầm trồ khen
ngợi. Tiếp sau là hữu đội gồm quân mã hai doanh Phủng Nhật và Trung Nghĩa hàng
ngũ chỉnh tề.
Dưới hai lá cờ thêu, xa kỵ tướng
quân Chu Ngang oai vệ ngồi trên lưng ngựa dẫn quân mã hữu đội tiến gần đến chân
thành, cùng Khưu Nhạc xuống ngựa đến chào Dương thái uý vào cáo từ các quan ra
tiễn, rồi lên ngựa dẫn quân ra khỏi kinh thành, thẳng hướng tiến về Tế Châu.
Lại nói ở Tế Châu, Cao thái uý bàn
với tham mưu Văn Hoán Chương đợi viện binh đến nơi sẽ sai quân đi chặt cây đốn
gỗ ở các rừng núi châu huyện lân cận, trưng tập hết thợ đóng thuyền đem về lập
xưởng ở ngoài thành Tế Châu để đống chiến thuyền. Một mặt lại treo bảng tuyển
một thủy thủ dũng cảm quen nghề sông nước.
Bấy giờ ở quán trọ trong thành Tế
Châu có người khách họ Diệp tên Xuân, nguyên quán ở Tứ Châu, vốn giỏi nghề đóng
thuyền. Diệp Xuân nhân có việc đi qua vùng Lương Sơn Bạc bị lâu la trên sơn
trại đón đường cướp mất tiền vốn nên phải lưu lạc đến Tế Châu. Nghe tin Cao
thái uý sai quân đốn gỗ đóng thuyền đi đánh Lương Sơn Bạc, Diệp Xuân bèn vẽ mẫu
thuyền đưa đến yết kiến Cao thái uý. Lạy chào xong, Diệp Xuân nói:
- Thưa ân tướng, lần trước đại quân
đưa thuyền đi đánh Lương Sơn Bạc không thắng được, theo ý Diệp Xuân tôi, là vì
thuyền thu thập các nơi về là thuyền buồm chèo tya, không đúng phép thuyền
chiến. Hơn nữa, phần lớn lại là thuyền nhỏ, đáy hẹp, không tiện cho việc dùng
binh. Nay Diệp Xuân tôi xin hiến ân tướng một kế: muốn đánh tan được bọn giặc
này, xin ân tướng hãy cho đóng ngay mấy trăm thuyền lớn. Loại to nhất gọi là
thuyền "cá thu biển lớn", hai bên mạn thuyền mỗi bên đặt hai mươi bốn
guồng đạp nước, khoang thuyền chứa được mấy trăm quân. Mỗi guồng nước có mười
hai thuỷ thủ ngồi đạp, phía ngoài che phên tre để tránh tên. Trên mặt thuyền
dựng chòi, đặt máy bắn. Khi xuất phát quân truyền lệnh đứng trên chòi đánh một
tiếng mõ, các thuỷ thủ đều nhất loạt đạp guồng, thuyề sẽ lướt đi như bay. Loại
thuyền nhỏ của Lương Sơn Bạc làm sao chặn nổi? khi gặp địch, quân cung nỏ mai
phục trên thuyền nhất tề băn tới, quân Lương Sơn Bạc lấy gì che đỡ? loại to vừa
gọi là thuyền "ca thu biển nhỏ", mỗi bên chỉ đặt mười hai guồng đạp,
khoang thuyền chứa được hơn trăm người, cả đằng mũi đằng lái đều gắn đinh dài.
Hai bên mạn thuyền cũng dựng chòi bắn và treo phên tránh tên. Loại thuyền này
rất tiện dùng để chặn đánh các thuyền con của quân Lương Sơn Bạc mai phục trong
các ao đầm. Nếu ân tướng cho đóng thuyền theo mẫu Diệp Xuân tôi vừa nói thì có
thể xoa tay đợi ngày đánh tan quân Lương Sơn Bạc.
Cao thái uý nghe xong, cầm xem bản
vẽ lấy làm mừng, liền sai dọn rượu khoản đãi, lấy quần áo thuởng cho Diệp Xuân,
rồi giao cho Diệp Xuân trông nom công việc đóng thuyền. Cao thái uý truyền lệnh
cho quân sĩ ngày đêm lo việc đẵn gỗ xẻ ván, hẹn ngày đem đến Tế Châu giao nộp.
Một mặt lại sức cho các lô, phủ, châu, huyện nộp các loại vật liệu cần dùng để
đóng thuyền. Ai chậm trễ hai ngày thì bị phạt bốn mươi roi, ba ngày thì phạt
gấp đôi. Để quá hạn từ năm hôm trở lên thì xử tử theo quân lệnh. Dân chúng bị
bắt làm việc phần quật từ sáng sớm đến tối mịt, nhiều người ốm đau kiệt sức mà
chết, muôn dân oán trách ca thán. Có thơ làm chứng như sau:
Tỉnh oa tiểu kiến khởi tri thiên
Khả khái Cao Cầu thính quyệt ngôn.
Tất cánh thu thuyền nan thủ thắng,
Thương tài lao chúng cánh đồ nhiên.
Ếch ngồi giếng thẳm biết trời đâu,
Oán trách Cao Cầu thích nịnh tâu.
Dẹp giặc thuyền lầu khôn dễ đóng,
Hao tiền tốn sức kẻ đen đầu.
Tạm gác chuyện Diệp Xuân đốc thúc
đóng thuyền cá thu. Chuyện thuỷ quân các nơi đến cứu viện được Cao thái uý chia
vào các trại đặt dưới quyền chỉ huy của các tiết độ sứ cũng không có gì đáng
nói.
Một hôm có tên quân canh vào
báo:"Hai tướng quân Khưu Nhạc và Chu Ngang theo lệnh của triều đình đã
đến".
Cao thái uý sai các tiết độ sứ ra
ngoài thành đón tiếp. Hai tướng cùng vào suý phủ yết kiến Cao thái uý. Cao Cầu
ân cần thăm hỏi rồi dọn rượu khoản đãi. Một mặt sai khao thưởng ba quân. Khưu
Nhạc và Chu Ngang xin Cao thái uý cho đưa quân ra ngoài thành khiêu chiến. Cao thái
uý nói:
- Hai tướng quân hãy nghỉ ngơi vài
hôm, đợi đóng xong loại thuyền cá thu, bấy giờ thuỷ lục hai đường sẽ cùng xuất
chiến. Chỉ một hồi trống quân Lương Sơn Bạc tất bị dẹp tan.
Tạm gác chuyện Cao Cầu thúc giục
đóng thuyền để đánh quân Lương Sơn Bạc. Đây kể tiếp chuyện Tống Giang và các
đầu lĩnh sau khi la ó không chịu nhận chiêu an bèn quay ngựa trở về sơn trại.
Tống Giang bàn với quân sư Ngô Dụng và các tướng:
- Hai lần sứ giả triều đình đến
chiêu an đều bị làm nhục, tội lỗi của anh em ta càng nặng hơn. Không biết nên
thu xếp thế nào cho ổn? thế nào triều đình cũng lại cho quân đến đánh nữa.
Rồi Tống Giang sai quân do thám
xuống núi đi dò xét các nơi. Mấy ngày sau đó co tên lâu la nghe ngóng được tin
tức liền trở về sơn trại báo tin: Cao Cầu tuyển mộ thuỷ thủ, giao cho Diệp Xuân
đốc thúng đóng mấy trăm chiếc thuyền theo kiểu cá thu, lại mới thêm Khưu Nhạc
và Chu Ngang là viên tướng chỉ huy sứ ở ngự doanh vua Tống vừa từ Đông Kinh
đến. Tống Giang hỏi quân sư Ngô Dụng:
- Loại thuyền lớn dùng guồng đạp
nước lao đi như bay, quân ra làm sao phá được?
Ngô Dụng cười đáp;
- Chẳng có gì đáng sợ! chỉ cần mấy
đầu lĩnh thuỷ quân ra tay là xong! còn quân bộ thì mấy viên mãnh tướng của ta
chặn đánh cũng đủ. Loại thuyền lớn ấy muốn đóng xong vài trăm chiếc phải mất
vài tuần nữa. Chúng ta còn hơn một tháng nữa để tập luyện sẵn sang đối phó.
Theo ý Ngô Dụng tôi, trước hết nên sai hai đầu lĩnh xuống núi tìm đến xưởng
thuyền quấy đảo một trận cho bọn chúng khiếp vía. Sau đó tuỳ tình thế sẽ định
liệu.
Tống Giang đáp:
- Quân sư nói phải lắm! có thể giao
cho Cổ thượng sắt Thời Thiên và Kim mao khuyền Đoàn Cảnh Trụ đi làm việc này.
Ngô Dụng nói:
- Lại phải sai Trương Thanh và Tôn
Tân đóng giả làm dân phu kéo gỗ trà trộn vào xưởng thuyền. Một mặt sai Cố Đại
Tẩu và Tôn Nhị Nương giả làm vợ đem cơm cho chồng để theo vào trong xưởng. Thời
Thiên và Đoàn Cảnh Trụ đi tiếp ứng.
Các đầu lĩnh nói trên đều được mời
đến sảnh đường nhận lệnh. Thời Thiên và Đoàn Cảnh Trụ vui mừng sửa soạn xuống
núi.
Ở Tế Châu, Cao thái uý vẫn ngày đêm
đốc thúc việc đóng chiến thuyền, liên tiếp ra lệnh lùa bắt dân phu các nơi về
TẾ Châu phục dịch. Trên các ngả đường phía đông thành Tế Châu san sát các xưởng
đóng thuyền, dân phu đi lại phục dịch đông nghìn nghịt, bọn cai đội khua gướm
giáo đe doạ bắt dân phu làm cật lực suốt ngày đêm.
Hôm ấy Thời Thiên và Đoàn Cảnh Trụ
lọt được vào trong xưởng. Hai người bàn nhau:
- Có phần chắc là hai vợ chồng Tôn
Tân và Trương Thanh sẽ phóng hỏ ở chỗ đóng thuyền. Chúng ta cũng phải tìm đến
đấy, nhưng chỉ nấp một chỗ, khi xưởng thuyền bốc cháy thì ta rút ngay ra cổng
thành đón bọn họ. Bọn Cao Cầu tất sẽ mở cổng thành cho quân đi cứu, anh em ta
nhân lúc ấy một người lọt vào trèo lên chòi canh châm lửa đốt, còn một người đi
nhanh đến châm lửa đốt trại chứa cỏ ở phía tây. Hai đám cháy ở hai phía, quân
lính của Cao Cầu không cứu ứng kịp, tất sẽ bị một phen kinh hồn bạt vía.
Bàn xong mỗi người đều giắt theo đồ
đánh lửa rồi đi ngay.
Lại nói Trương Thanh và Tôn Tân đến
dưới thành Tế Châu thấy đám quân dân phu chừng bốn năm trăm người đang kéo gỗ.
Hai người bèn trà trộn vào cùng kéo. Trước cửa xưởng có chừng hai trăm quân
canh đeo dao, cầm gậy đánh đập dân phu. Xung quanh xưởng đều đóng cọc rào chắn
giữ, đằng trước đằng sau có đến hai ba trăm gian lán tranh Trương Thanh và Tôn
Tân đến tận nơi xem xét, thấy thợ mộc đã đông đến mấy nghìn người, chia làm ba
khu: chỗ xẻ ván, chỗ đóng đinh, chỗ lát khoang thuyền. Thợ mộc và dân phu đi
lại tấp nập không biết bao nhiêu mà kể. Thời Thiên và Đoàn Cảnh Trụ đi vào đều
mặc quần áo rách bẩn, tay xách giỏ tre đi theo đám đàn bà đưa cơm cho chồng.
Bấy giờ trời đã chiều muộn, ánh trăng toả sáng bầu trời, quá nửa số thợ mộc còn
đang mải miết làm số phần việc chưa xong.
Vào khoảng canh hai, Tôn Tân và
Trương Thanh châm lửa đốt xưởng thuyền bên trái; Tôn Nhị Nương, Cố Đại Tẩu đốt
xưởng thuyền bên phải. Từ cả hai phía mái tranh lửa bốc ngùn ngụt. Mấy nghìn
thợ mộc và dân phu hoảng loạn kêu la, ào ào nhổ rào đạp cổng chạy ra ngoài. Lúc
ấy Cao Cầu đang ngủ ngon giấc, chợt có người vào báo"
- Thưa thái uý, xưởng thuyền bị
cháy.
Cao Cầu vội vùng dậy sai quân đi cứu
ứng. Hai tướng Khưu Nhạc và Chu Ngang dẫn quân bản bộ đi ngay ra ngoại thành.
Chảng bao lâu, lại một đám lửa cháy khác bốc trên mặt thành. Cao Cầu thấy tình
thế nguy ngập vội lên ngựa phóng lên mặt thành chữa cháy. Vừa lúc ấy có tin báo
trại cỏ phía tây cổng thành cũng đang cháy lớn. Khưu Nhạc và Chu Ngang đem quân
đến trại cỏ bỗng nghe tiếng trống nổi vang và tiếng quân lính hò reo vang trời.
Đó là năm trăm quân kỵ mã do Một vũ tiễn Trương Thanh chỉ huy đã mai phục từ
trước, thấy bọn Khưu Nhạc tiến đến thì tung quân đón đánh. Trương Thanh ngồi
tên ngựa quát lớn:
- Các hảo hán Lương Sơn Bạc đều có
mặt ở đây!
Khưu Nhạc cả giận vung đao thúc ngựa
xông vào đánh Trương Thanh. Trương Thanh nâng trường thương giao chiến. Hai
tướng đánh chưa đầy ba mươi hiệp thì Trương Thanh quay ngựa bỏ chạy, rồi lấy
viên đá trong túi gấm, quan người chờ Khưu Nhạc đến gần hơn, vung tay ném mạnh,
quát lớn:
- Trúng này!
Khưu Nhạc bị ném trúng mặt liền ngã nhào
xuống ngựa. Chu Ngang nhìn thấy vội cùng mấy viên nhan tướng liều chết xông đến
cứu. Chu Ngang chặn đánh Trương Thanh, mấy viên nha tướng thừa dịp dìu Khưu
Nhạc lên ngựa đưa về thành. Trương Thanh chỉ đánh vài hiệp rồi quay ngựa, nhưng
Chu Ngang không đuổi theo. Trương Thanh quay lại gặp bọn Vương Hoán, Từ Kinh,
Dương Ôn, Lý Tùng Cát dẫn quân đến tiếp ứng. Trương Thanh vội vẫy quân theo
đường cũ trở về. Bọn Chu Ngang cũng sợ Lương Sơn Bạc có phục binh, vội chu thu
quân về. Ba đám cháy vẫn bốc rừng rực cho đến tận sáng. Trương Thanh ném đá gãy
mất bốn chiếc răng. Cao thái uý liền cho thầy thuốc đến chữa trị cho Khưu Nhạc.
Một mặt sai người hầu truyền lệnh cho Diệp Xuân đốc thúc việc đóng thuyền, nhắc
nhở các tiết độ sứ ngày đêm canh giữ xưởng thuyền nghiêm ngặt hơn.
Lại nói vợ chồng Trương Thanh, Tôn
Tân bốn người làm xong công việc ai nấy đều vui mừng, rồi cùng Thời Thiên và
Đoàn Cảnh Trụ lên ngựa theo đường cũ trở về sơn trại.Cả sáu ngừời đi thẳng lên
Trung Nghĩa đường thuật lại việc phóng hoả đốt xưởng thuyền. Tống Giang cả mừgn
sai dọn rượu khoản đãi sáu đầu lĩnh. Từ đó về sau Tống Giang thỉnh thoảng lại
sai quân xuống núi do thám, chuyện không có gì đáng kể.
Bên quân Cao Cầu, các chiến thuyền
đã đóng gần xong, cũng vừa lúc mùa đông sắp đến. Năm ấy tiết trời ấm áp, Cao
thái uý lấy làm mừng, cho là trời phù hộ mình đánh quân Lương Sơn Bạc. Khi Diệp
Xuân đã cho đóng đủ số thuuyền dự định, Cao thái uý ra lệnh cho thuỷ quân lên
thuyền tập luyện các môn đánh trận trên miền sông nước. Những chiếc thuyền cá thu
lớn nhỏ được lục tục đưa sống nước. Số thuỷ thủ chiêu mộ chừng hơn một vạn
người. Cao Cầu ra lệnh cho một nửa số quân tập đạo guồng nước, nửa còn lại tập
cung tên. Khoảng hai tuần sau quân sĩ luyện tập chiến thuyền đã thành thạo.
Diệp Xuân mời Cao thái uý đi điểm duyệt các chiến thuyền.
Ngày hôm ấy Cao Cầu cho dàn cả ba
trăm chiến thuyền cá thu rồi cùng các viên tiết độ sứ lên kiểm tra từng chiếc
một. Cao Cầu chọn hơn chục chiếc chắc đẹp nhất để chở đội cờ và các đội chiêng
trống. Nghe một hồi mõ, các thủy thủ ngồi hai bên mạn thuyền đạp chân guồng,
chiến thuyền lướt lên như bay. Cao thái uý nhìn theo cả mừng, thầm
nghĩ:"Kiểu thuyền này quả là lợi hại, phen này cầm chắc phần thắng".
Nghĩ đoạn Cao Cầu bèn sai lấy vàng bạc vóc lụa thưởng cho Diệp Xuân, lại cấp lộ
phí cho đám thợ mộc trở về quê quán. Ngày hôm sau, Cao Cầu sai giết lợn dê, sắm
vàng mã làm lễ tế thuỷ thần. Mọi việc sắp xếp xong xuôi các tướng mời Cao thái
uý đến thắp hương khấn tế.
Bấy giờ Khưu Nhạc bị thương đã chữa
khỏi, căm giận chỉ muốn bắt sống Trương Thanh để báo thù. Chu Ngang và các viên
tiết độ sứ cùng lên ngựa theo Cao thái uý đi dâng hương tế thuỷ thần. Cao Cầu
khấn tế, cho đốt vàng mã xong, bọn Chu Ngang đều đến chúc mừng. Cao Cầu sai gọi
đội ca nhi vũ nữ đem từ kinh sư tới cho lên thuyền hát múa hầu rượu. Một mặt
lệnh cho quân sĩ đua sức tập luyện thuyền nhanh vùn vụt trên sông. Cao Cầu cùng
đòan tuỳ tùng ngồi trên thuyền uống rượu thưởng thức múa hát, say sưa du ngọan
suốt ngày không tan. Đêm ấy Cao Cầu và các tướng tuỳ tùng đều nghỉ lại trên
thuyền, ngày hôm sau lại bày tiệc cùng nhau ăn uống. Cuộc vui kéo dài suốt ba
ngày, Cao Cầu vẫn chần chừ chưa hạ lệnh xuất quân. Bỗng có quân thám mã về
báo:"Quân Lương Sơn Bạc viết một bài thơ dán ở miếu thổ thần. Hiện đã cho
bóc về đây, xin trình thái uý".
Bài thơ ấy như sau:
Sinh cầm Dương Tiễn dữ Cao Cầu,
Tảo đãng Trung nguyên tứ bách châu.
Tiện hữu hải thu thuyền vạn chiếc,
Cụ lai bạc nội nhất tề hữu.
Đánh tan Dương Tiễn với Cao Cầu,
Quét sạch trung nguyên các huyện
châu.
Dẫu có cá thu thuyền vạn chiếc,
Hễ vào thuỷ bạc ắt chìm sâu.
Cao thái uý xem xong tức giận muốn
đem quân đi đánh ngay, liền bảo các tướng:
- Nếu lần này không phá đuợc bọn
giặc Lương Sơn Bạc, quyết không đem quân trở về!
Tham mưu Văn Hoán Chương can rằng:
- Xin thái uý bớt giận. Đó hẳn là do
quân giặc lo sợ quá mà viết bậy bạ, không đáng bận tâm. Xin thái uý cứ nghỉ
ngơi dăm ngày rồi sẽ truyền lệnh chia quân hai đường thuỷ, bộ tiến đánh cũng
chưa muộn. Mùa đông năm nay thời tiết ấm áp, ấy là hồng phúc của thiên tử trợ
uy cho nguyên suý.
Cao Cầu nghe nói lấy làm mừng, bèn
trở về thành bàn tính việc điều binh khiển tướng. Về quân bộ, giao cho hai
thượng tướng Chu Ngang và Vương Hoán chỉ huy đại quân đi theo để tiếp ứng cho
đàon chiến thuyền. Giao cho Hạ Nguyên Trấn và Trương Khai lĩnh một vạn quân mã
chiếm giữ con đường lớn chạy qua dãy núi phía trước Lương Sơn Bạc. Nguyên vùng
Lương Sơn Bạc bốn bề lau sậy mênh mông, con đường con do Tống Giang mới cho đắp
gần đây. Cao Cầu muốn cho quân chặn ngang con đường ấy. Các tướng tá khác, từ
tham mưu Văn Hoán Chương, Khưu Nhạc, Từ Kinh, Mai Triển, Vương Văn Đức, Dương
Ôn, Lý Tùng Cát, trưởng sử Vương Cẩn, Diệp Xuân, cùng các chánh phó tướng tuỳ
tòng đều theo Cao thái uý lên thuyền tiến theo đừơng thủy. Văn Hoán Chương can:
- Thái uý nên đi theo quân mã được
an toàn hơn.
Cao Cầu đáp:
- Không ngại! hai lần trước vì không
có tướng tài nên mới bị thua. Lần này đóng được chiến thuyền tốt, ta không tự
cầm quân đốc chiến làm sao bắt giặc được? Cao Cầu này quyết cùng quân Lương Sơn
Bạc một phen sống chết, ngươi bất cất phải nói nhiều.
Văn Hoán Chương đành im lặng theo
Cao thái uý lên thuyền. Cao Cầu giao cho các tướng Khưu Nhạc, Từ Kinh, Mai
Triền quản lĩnh ba mươi thuyền lớn đi tiên phong, giao cho Dương Xuân cùng bọn
Vương Cẩn, Diệp Xuân quản lĩnh năm mươi thuyền nhỏ. Thuyền đi đầu dựng hai lá
cờ đỏ lớn thêu mười bốn chữ vàng:"giác hải phiên giang xung bạch lãng, an
bang định quốc diệt hồng yêu". (quấy biền đảo sông xông sóng bạc, yên nhà
vững nước diệt tà gian). Cao thái uý và tham mưu Văn Hoán Chương ngồi trên
chiến thuyền ở đội trung quân, có ca nhi vũ nữ theo hầu. Trên thuyền cắm cờ chữ
"suý", cờ búa vàng lông trắng, cờ phướn tua đỏ viền đen. Phía sau là
đoàn bốn năm chục chiến thuyền do Vương Văn Đức và Lý Tùng Cát chỉ huy. Bấy giờ
tháng mười một. Đội quân mã được lệnh lập tức lên đường. Đội thuỷ quân tiên
phong do bọn Khưu Nhạc, Từ Kinh, Mai Triền chỉ huy cũng nhổ neo tiến vào Lương
Sơn Bạc. Đoàn thuyền dàn thành hàng ba: một thuyền lớn đi giữa, hai thuyền nhỏ
đi kèm hai bên. Bọn Chu Ngang dừng thuyền chặn ngang các cửa lạch.
Tống Giang, Ngô Dụng đã biết trước,
chỉ đợi đoàn thuyền của Cao tiến đến là lệnh cho các tướng ra tay. Từ xa Cao
Cầu thấy đoàn thuyền của Lương Sơn Bạc đang tiến đến, trên mỗi thuyền có chừng
mười bốn, mười lăm tên quân mặc áo giáp do một đầu lĩnh chỉ huy ngồi ở mũi
thuyền. Ba chiếc thuyền đi đầu trương ba lá cờ trắng đề chữ "tam hùng họ
Nguyễn Lương Sơn Bạc". Đi giữa là thuyền Nguyễn Tiểu Nhị, bên trái là
thuyền Nguyễn Tiểu Ngũ, bên phải là Nguyễn Tiểu Thất. Từ xa nhìn giáp trụ của
Lương Sơn Bạc lóng lánh, đó là do bọn họ dùng giấy trắng kim bồi dán nên. Bọn
Khưu Nhạc hạ lệnh cho quân sĩ bắn đạn lửa, tên lửa xuống tới tấp. Nhưng anh em
họ Nguyễn không chút sợ hãi, chờ đoàn thuyền của Cao Cầu tiến đến thì giương
cung nhằm bắn rồi hò reo nhảy xuống nước lặn trốn mất. Khưu Nhạc cho thuỷ thủ
chèo thuyền đến, chỉ bắt được ba chiếc thuyền không. Chèo tiếp vài dặm nữa, lại
thấy ba chiếc thuyền nhẹ đang phăng phăng lướt tới. Trên chiếc thuyền đi đầu có
hơn mười người xoã tóc, trát bùn đất đen, miệng hít sáo, khua chèo lướt thuyền
như bay. Hai thuyền khác đi hai bên, mỗi thuyền có chừng sáu bảy người, quần áo
đều vá víu. Vị đầu lĩnh ở mũi thuyền giữa là Ngọc phan can Mạnh Khang, đầu lĩnh
ở thuyền trái là Xuất động giao Đồng Uy, đầu lĩnh ở thuyền bên phải là Phan
giang thẩn Đồng Mãnh. Khưu Nhạc liền hô quân dùng đạn lửa, tên lửa bắn chặn.
Quân Tống Giang la hét rồi nhảy xuống nước. Quân Khưu Nhạc lại đọat thêm ba
chiếc thuyền không. Cách một quãng nữa lại thấy ba chiếc thuyền khác lao tới,
mỗi thuyền có bốn cọc chèo do tám người chèo, hơn chục lâu la cầm cờ đỏ hộ vệ
một đầu lĩnh ngồi trước mũi thuyền. Trên lá cờ để dòng chữ:"thuỷ quân đầu
lĩnh Hỗn giang long Lý Tuấn". Vị đầu lĩnh ở thuyền bên trái cầm thương dài
ngồi dưới lá cờ xanh đề dòng chữ:"thuỷ quân đầu lĩnh Thuyền hoả nhi Trương
Hoành". Một vị hảo hán cao to, mìnht trần trùng trục chỉ quấn chiếc khố
ngang người đứng trên thuyền bên phải, tay cầm chiếc chuỳ đồng, phía trên đầu
là lá cờ đên để chữ trắng:"thuỷ quân đầu lĩnh Lãng lý bạch điều Trương
Thuận". Bọn Trương Thuận cất tiếng nói to:
- Bọn ta được lệnh dẫn đường cho các
ngươi vào hồ!
Chu Ngang vội truyền lệnh tên bắn ra
như mưa. Các hảo hán và lâu la trên các thuyền nhảy ào cả xuống nước.
Bấy giờ đang giữa mùa đông, quân Cao
Cầu sợ rét đang chần chừ chưa dám nhẩy xuông nước thì nghe trên sơn trại tiếng
pháo liên châu nổ vang. Lập tức từ trong lau lách um tùm, khắp bốn phương tám
hướng, hàng nghìn chiế thuyền nhỏ lau ra như châu chấm, mỗi thuyền có bốn năm người,
còn trong khoang chở gì không nhìn rõ. Đoàn thuyền của Chu Ngang muốn tiến lên
nhưng không sao tiến được. Quân lính trên thuyền cá thu ra sức đạp guồng nước
nhưng các chân vịt đều bị vướng không đạp được. Quân cung nỏ đứng trên chòi
thuyền bắn xuống, nhưng quân Lương Sơn Bạc ai nấy đều cầm tấm mộc đỡ lên. Đám
thuyền con áp sát vào các thuyền cá thu, dùng câu liêm móc giữ bánh lái rồi rút
đao nhảy sang chém giết quân đạp thuyền. Chu Ngang thấy năm sáu chục quân Lương
Sơn Bạc sắp tiến đến thuyền tiên phong, định hạ lệnh lui thuyền, nhưng guồng
chèo bị vướng không quay lại được. Trong lúc các thuyền đi đầu đang hỗn chiến
thì tiếng hò hét lại vang dậy ở các thuyền sau. Cao thái uý và tham mưu Văn
Hoán Chương ngồi trên thuyền trung quân thấy tình thế rối loạn vội chạy lên bờ.
Bỗng tiếng chiêng trống nổi vang, quân sĩ trên thuyền đều kêu thét:"thuyền
thủng!". Rồi xô nhau nhảy xuống nước. Các thuyền trước thuyền sau đều bị
thủng, xem chừng sắp đắm. Trong khi đó đám thuyền nhỏ vẫn ùn ùn rẽ lau sậy đổ
ra lao vào các thuyền cá thu. Thế là đoàn thuyền mới của Cao thái uý bị Trương
Thụân cùng đội thuỷ quân đục thủng hết. Cao thái uý nắm lấy guồng lái gọi
thuyền cứu ứng. Ngay lúc ấy, một người từ dưới nước ngoi lên, bám nhảy lên
thuyền, nói lớn:
- Tiểu nhân xin cứu thái uý!
Cao Cầu không nhận ra kẻ vừa nói là
ai. Người ấy bước đến túm lấy khăn khít đầu và đai lưng của Cao Cầu giật mạnh
mà quát:
- Nhảy xuống!
Dứt lời bèn đẩy Cao Cầu xuống nước
rồi nhảy theo. Đáng đời cho Cao Cầu, một tay đỡ biển chống trời, phen này đành
chịu bó tay thua trận! có thơ làm chứng như sau:
Công chiến thu thuyền sự dĩ không,
Cao Cầu nhân mã cánh vô công.
Đường đường phụng mệnh cần vương
tướng,
Khước bị sinh cầm lạc thuỷ trung.
Thuyền chiến hai tầng chuyện viển
vông,
Cao Cầu người ngựa uổng toi công.
Đường đường phụng mệnh đi chinh
thảo,
Lại bị cầm tù uống nước sông.
Bấy giờ hai chiếc thuyền con vừa đến
tiếp ứng, người vừa nhảy xuống nuớc liền kéo Cao thái uý lên thuyền. Người ấy
chẳng phải ai xa lạ mà chính là Lãng lý bạch điều Trương Thuận, vốn quen bắt
người dưới nước như thò tay bắt cá trong chậu. Khưu Nhạc đi ở thuyền trước thấy
tình thế nguy cấp vội tìm cách thóat thân. Trong lúc rối loạn, có một người từ
trong đám thuỷ thủ bước đến. Khưu Nhạc không kịp đề phòng, bị người kia vung
dao chém đứt làm hai đoạn. Người ấy chính là Cẩm báo tử Dương Lâm. Thấy tiên
phong Khưu Nhạc bị giết, bọn Từ Kinh, Mai Triển xông vào hợp sức đánh Dương
Lâm. Lập tức bọn Bạch diện lang quân Trịnh Thiên Thọ, Bệnh đại trùng Tiết Vĩnh,
Đả hổ tướng Lý Trung và Thao đao quỷ Tào Chính từ phia sau xông tới tiếp ứng.
Từ Kinh thấy tình thế bất lợ vội nhảy xuống nước, chẳng ngờ đã có người chờ
sẵn. Từ Kinh liền bị bắt. Mai Triền bị Tiết Vĩnh đâm vào đùi, ngã gục xuống
khoang thuyền. Ba đầu lĩnh khác ngồi trên thuyền đi trước là Thanh nhãn hổ Lý
vân, Kim tiền báo tử Thanh Long và quỷ kiểm nhi Đỗ Hưng. Bọn tiết độ sứ của Cao
Cầu dẫu có ba đầu sáu tay cũng không thi thố được. Quân Lương Sơn Bạc chia hai
đường thuỷ bộ tiến đánh: Tống Giang thống lĩnh quân thuỷ, Lư Tuấn Nghĩa thống
lĩnh quân bộ.
Kể tiếp việc Lư Tuấn Nghĩa dẫn quân
mã theo đường lớn từ sơn trại tiến xuống, gặp ngay quân của Chu Ngang, Vương
Hoán chặn đánh. Chu Ngang ngồi trên ngựa quát lớn:
- Bọn giặc cỏ có biết ta là ai
không?
Lư Tuấn Nghĩa quát đáp;
- Tên nhãi tướng chết đến nơi còn
hống hách!
Dứt lời liền thúc ngựa vào đánh Chu
Ngang. Chu Ngang cũng vung búa lớn chặn đánh Lư Tuấn Nghĩa. Hai tướng ngồi trên
lưng ngựa giao chiến ở đường lớn trước núi, hơn hai mươi hiệp không phân thắng
bại. Chợt từ phía sau có tiếng quân mã reo hò. Đại quân Lương Sơn Bạc mai phục
trong rừng rậm ồ ạt xông ra: phía đông nam là bọn Quan Thắng, Tần Minh, phía
tây bắc là Lâm Xung, Hô Diên Chước. Các hảo hán cùng lúc dẫn quân ập đến. Bọn
Hạ Nguyên Trấn, Trương Khai không sao chặn nổi, bèn mở đường tháo chạy. Chu
Ngang, Vương Hoán không dám ham đánh, bèn quay ngựa theo Hạ Nguyên Trấn, Trương
Khai trốn về đến thành Tế Châu mới dừng quân nghe ngóng.
Lại nói chuyện cánh quân thuỷ, sau
khi Trương Thụân bắt được Cao Cầu, Tống Giang liền sai Đái Tôn truyền lệnh
không đựợc giết quan quân triều đình. Tham mưu Văn Hoán Chương cùng đội ca nhi
vũ nữ ở thuyền trung quân đều bị bắt. Tống Giang cho khua chiêng thu quân, áp
giải tù nhân về sơn trại. Tống Giang cùng bọn Ngô Dụng, Công Tôn Thắng đang
ngồi ở Trung Nghĩa đường thấy Trương Thuận ướt sũng giải Cao Cầu về. Tống Giang
liền xuống dưới thềm đỡ Cao Cầu dậy, gọi lấy quần áo lụa mới đưa cho Cao Cầu
thay rồi mời lên ngồi ghế giữa trên Trung Nghĩa đường. Tống Giang cúi đầu tạ
lỗi. Cao Cầu vội vàng đáp lễ. Tống Giang gọi Ngô Dụng, Công Tôn Thắng đỡ Cao
Cầu đứng dậy. Lạy tạ xong, Tống Giang lại mời Cao Cầu vào ghế chính, rồi sai
Yến Thanh đi truyền lệnh cho các tướng sĩ:
- Từ nay về sau ai phạm tội giết
người sẽ bị trừng trị theo quân lệnh.
Một lúc sau, các đầu lĩnh rầm rập áp
giải tù binh về trước sân Trung Nghĩa đường. Đồng Uy, Đồng Mãnh giao nộp Từ
Kinh; Lý Tuấn, Trương Hoành giải Vương Văn Đức; Dương Hùng, Thạch Tú áp giải
Dương Ôn; ba anh em họ Nguyễn dẫn Lý Tùng Cát đến; Trịnh Thiên Tho, Tiết Vĩnh,
Lý Trung, Tào Chính giao nộp Mai Triển; Dương Lâm nộp thủ cấp Khưu Nhạc; Lý
Vân, Thanh Long, Đỗ Hưng nộp thủ cấp Diệp Xuân, Vương Cẩn; Giải Trân, Giải Bảo
bắt sống tham mưu Văn Hoán Chương cùng đội ca nhi vũ nữ và bọn tuỳ tùng của Cao
Cầu. Điểm lại chỉ có bốn tướng Chu Ngang, Vương Hoán, Hạ Nguyên Trấn và Trương
Khai trốn thóat. Tống Giang sai lấy quần áo mới cho các tướng triều đình thay
mặc, rồi mời tất cả cùng lên ngồi trên Trung Nghĩa đường. Quân sĩ bị bắt sống
đều tha cả cho về Tế Châu. Tống Giang sai đem một chiếc thuyền tốt để chở đội
ca nhi vũ nữ và bọn tuỳ tùng của Cao thái uý.
Ngày hôm ấy, Tống Gaing sai giết
trâu mổ ngựa, bầy tiệc lớn khao thưởng ba quân. Một mặt nổi kèn gióng trống gọi
các đầu lĩnh lớn nhỏ đến Trung Nghĩa đừơng chào Cao thái uý. Mọi người chào hỏi
xong, Tống Giang rót rượu cầm tay, Ngô Dụng và Công Tôn Thắng bưng chiếc bàn
nhỏ theo sau, Lư Tuấn Nghĩa đứng hầu bên cạnh. Tống Giang nói:
- Tống Giang tôi là viên tiểu lại,
phạm tội bị thích chữ đi đày, thực không dám phản nghịch chống lại triều đình.
Chỉ vì tội chồng chất, bị bức bách mà làm như thế. Hai lần tuy được thiên tử
thương đến, nhưng bị kẻ gian thần ngăn trở, nỗi oan không bày tỏ được. Muôn
trông thái uý rộng lòng cứu vớt để anh em chúng tôi lại được thấy ánh mặt trời.
Anh em Tống Giang tôi xin khắc cốt ghi lòng, nguyện quên mình báo đáp.
Cao Cầu thấy các hảo hán uy nghiêm
hùng dũng, ai nấy đều mặc chiến bào gấm thêu hoa khác hẳn lúc ra trận thì lấy
làm khiếp sợ, nói:
- Tống Công Minh cứ yên lòng! Cao
Cầu tôi về triều sẽ xin hết lòng tâu lên để thiên tử ban ơn đại xá, sai sứ giả
đến chiêu an, phong quan ban tước cho các nghĩa sĩ,để các nghĩa sĩ được hưởng
ơn lộc của thiên tử, lại trở về làm kẻ lương thần.
Tống Giang cả mừgn lạy tạ Cao thái
uý. Bữa tiệc hôm ấy tuy không có chả phượng nem rồng, nhưng thực đủ các món sơn
hào hải vị. Các đầu lĩnh lớn nhỏ lần lượt đến rót rượu mời Cao thái uý.
Cao Cầu uống say huênh hoang nói:
- Ta từ nhỏ đã giỏi môn đấu vật,
người trong thiên hạ chẳng ai đáng đọ tài.
Lư Tuấn Nghĩa cũng đã hơi men chếnh
chóang, nghe Cao Cầu khoe là giỏi vật thì lấy làm lạ, bèn chỉ Yến Thanh nói:
- người anh em này đánh vật cũng
khá, ba lần sang Đại Nhạc đấu vật đều giật giải nhất.
Cao Cầu đứng dậy cởi áo ngoài, thách
vật với Yến Thanh.
Các đầu lĩnh thấy Tống Giang kính
đãi Cao Cầu nên khi nghe hắn huênh hoang thách vật thì cũng tán thưởng, không
ngờ chính việc đó lại làm hắm bẽ mặt im mồm. Mọi người đứng dậy nói:
- Hay lắm! hay lắm!
Rồi mọi người xuống cả dưới sân.
Tống Giang cũng đã ngà ngà say nên cũng không có chủ ý rõ rệt. Cao Cầu và Yến
Thanh cùng cởi áo bước ra giữa sân. Tống Giang sai trải đệm mềm cho hai người
thi vật. Cao Cầu và Yến Thanh lựa thế khom người xuống tấn. Cao Cầu xông vào
trước, Yến Thanh liền bắt tay bám chặt, rồi chỉ một cái hất chân quãng Cao Cầu
ngã ngửa trên thảm, hồi lâu không gượng dậy được. Miếng vật ấy gọi là "thủ
mệnh". Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa vội đến đỡ Cao Cầu, lấy quần áo đưa đến,
cười nói:
- Thái uý say rồi, làm sao vật được?
xin thứ lỗi cho người anh em của tiểu nhân!
Cao Cầu khiếp sợ, lại lên ngồi vào
bàn tiệc. Uống rượu đến tận khuya, Tống Giang mới cho người dìu Cao Cầu vào hậu
đường nghỉ ngơi.
Ngày hôm sau, Tống Giang lại sai dọn
tiệc khoản đãi Cao thái uý. Cao Cầu định từ tạ bọn Tống Giang để trở về. Tống
Giang nói:
- Anh em chúng tôi lưu giữ thái uý ở
lại đây quả thật không có ý gì khác. Nếu có điều gì ám muội, xin trời tru đất
diệt anh em chúng tôi.
Cao Cầu nói:
- Nếu nghĩa sĩ bằng lòng để Cao Cầu
tôi về kinh thì Cao Cầu tôi xin đem cả nhà đến trước sân rồng xin thiên tử
xuống chiếu chiêu an, phong quan ban tước, trọng dụng các nghĩa sĩ. Nếu Cao Cầu
tôi lật lọng thì trời đất không che chở, sẽ phải chết dưới làn tên mũi đạn.
Tống Giang nghe xong cúi đầu vái tạ.
Cao Cầu lại nói:
- Nếu nghĩa sĩ không tin xin cứ giữ
các tướng ở đây làm tin.
Tống Giang đáp:
- Lời thái uý là lời của bậc đại quý
nhân, Tống Giang tôi đâu dám nghi ngờ, hà tất phải giữ các tướng làm tin. Ngày
mai sẽ cho đóng yên, đem ngựa đến để thái uý cùng các tướng trở về.
Cao Cầu đáp tạ:
- Cám ơn các nghĩa sĩ có lòng khoản
đãi ưu hậu, Cao Cầu tôi trở về sẽ xin tâu bầy đầy đủ để thiên tử hiểu rõ.
Ngày hôm ấy Tống Giang lại sai bầy
tiệc lớn khoản đãi Cao thái uý và các tướng tuỳ tùng, mọi người cùng nhau cạn
chén đến tận khuya mới tan tiệc về nghỉ ngơi. Ngày hôm sau Cao thái uý muốn
xuống núi trở về, anh em Tống Giang mời thái uý ở lại thêm vài ngày không được,
bèn dọn tiệc tiễn hành. Cao Cầu nói:
- Nghĩa sĩ có thể cho người nào am
hiểu, lịch thiệp theo về kinh sư. Cao Cầu tôi sẽ xin tiến dẫn người ấy vào yết
kiến thiên tử, trực tiếp tâu bầy nỗi oan khuất của anh em các vị để thiên tư
mau chóng ban chiếu chiêu an.
Tống Giang ngày dêm mong được chiêu
an, liền bàn với quân sư Ngô Dụng cho Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng đi theo
thái uý về kinh. Ngô Dụng nói:
- Nên cho Thiết khiếu tử Nhạc Hoà
cùng đi cho có bạn.
Cao thái uý nói:
- Nghĩa sĩ đã có lòng tin cậy, vậy
xin để tham mưu Văn Hoán Chương ở lại đây làm tin.
Tống Giang cả mừng, ngày hôm sau
cùng Ngô Dụng đưa hai chục con ngựa đến để Cao thái uý và các tuỳ tường xuống
núi. Anh em Tống Giang đưa tiễn qua bến Kim Sa ngoài hai mươi dặm lạy chào từ
biệt rồi mới trở về sơn trại.
Đúng là:
Mắt trông cờ tiết đến
Tai nghe tin tức lành
Nói tiếp đoàn người ngựa của Cao
thái uý về đến Tế Châu thì tiên phong Chu Ngang, Vương Hoán, Hạ Nguyên Trấn,
Trương Khai, tri phủ Trương Thúc Dạ cùng các quan nghe tin đã ra ngoài thành
đón tiếp. Cao thái uý vào thành nghỉ ngơi vài ngày rồi truyền lệnh thu quân về
kinh, cho các viên tiết độ sứ đem quân bản bộ về châu cũ chờ điều dụng. Cao
thái uý cùng bọn Chu Ngang và các tướng tá tuỳ tùng đưa Tiều Nhượng, Nhạc Hoà
tới Tế Châu lên đường về Đông Kinh. Tri phủ Trương Thúc Dạ trở lại Tế Châu lo
việc gìn giữ thành trì.
Chưa nói chuyện Cao thái uý đem hai người
của Lương Sơn Bạc về kinh ra sao, hãy biết trước rồi đây:
Ngõ liễu thềm hoa, phong lưu lãng tử
gặp hoàng đế,
Cửa ngách tướng phủ, công sai thần
thánh cứu anh hùng.
Chỉ biết rằng:
Giữa tiệc phượng rồng hay dũng mãnh,
Trong bầy sói hổ tỏ anh hùng.
Chưa biết Cao thái uý về kinh tâu
xin việc chiêu an ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 81 -
Yến Thanh Đêm Trăng Gặp Vua Tống
Đang nói chuyện các hảo hán Lương
Sơn Bạc ba lần thuỷ chiến đánh bại quan quân triều đình, bắt sống bọn Cao Cầu
giải lên sơn trại. Tống Công Minh không nỡ giết, tha hết cho về. Cao thái uý
dẫn đoàn đông người ngựa về kinh đưa cả Tiêu Nhượng và Nhạc Hoà cùng về chờ
chiếu chiêu an, chỉ để tham mưu Vân Hoán Chương ở lại Lương Sơn Bạc. Khi còn ở
Lương Sơn Bạc, Cao Cầu hứa: “Về tới triều đình tôi sẽ hết sức tâu bầy để thiên
tử hoả tốc sai người đến chiêu an.” Vì thế, ở đoạn trên có nói Nhạc Hoà được cử
đi cùng với Tiêu Nhượng, việc không cần phải nói.
Kế tiếp, các đầu lĩnh Lương Sơn Bạc
bàn tính với nhau, Tống Giang nói:
-Cao Cầu được tha về lần này, chưa
biết có thật bụng hay không.
Ngô Dụng cười nói:
- Ngô Dụng tôi xem tướng mạo thấy
hắn ta mắt híp lưng khom, đúng là hạng người trở mặt vô ơn. Hắn làm mất quá
nhiều người ngựa, vung phí không biết bao nhiêu, tiền gạo của triều đình, khi về
kinh chắc hẳn là cáo bệnh nằm lì, chỉ tâu trình qua loa với thiên tử xin tạm
cho quân sĩ nghỉ ngơi. Còn Tiêu Nhượng và Nhạc Hoà chắc sẽ bị giam lõng một nơi
trong phủ. Đợi chiêu an như thế thì chỉ phí công thôi!
Tống Giang nói:
- Như vậy biết tính sao đây? Việc
chiêu an chưa xong mà lại bị mắc ở đấy hai người.
Ngô Dụng đáp:
- Huynh trưởng lại chọn thêm hai
người thông minh mưu trí cho mang theo nhiều vàng bạc về kinh nghe ngóng, rồi
bắt mối để tâu lên cho hoàng thượng biết rõ nội tình, khiến cho Cao thái uý
không thể giấu chuyện. Kế ấy là hay nhất.
Yến Thanh đứng dậy nói:
- Lần đại náo Đông kinh năm ngoái,
chính tiểu đệ đã lọt được vào nhà Lý Sư Sư. Có điều là sau lần ấy, thế nào cô
nàng cũng dò biết được ít nhiều. Nhưng cô nàng được thiên tử yêu chìu còn ai
dám nghi ngờ gì nữa. Cô nàng ắt phải tâu: “Bọn Lương Sơn Bạc dò biết bệ hạ hay
lui tới nhà thiếp nên tìm đến đe doạ”. Dù sao đến nay chuyện cũng đã êm. Nay
tiểu đệ đưa nhiều vàng bạc châu báu lên đến nhà ấy lần nữa, chắc sẽ nghe ngóng
được nhanh nhất. Tiểu đệ sẽ tự xoay xở, tuỳ cơ ứng biến.
Tống Giang nói:
- Hiền đệ đi chuyến này, công việc
hệ trọng lắm đấy!
Đái Tôn nói:
- Tiểu đệ xin đi cùng để giúp sức.
Thần cơ quân sư Chu Vũ nói:
- Trước đây chúng ta đến đánh Hoa
Châu. Túc thái uý từng được chịu ơn của huynh trưởng. Ông ta kể cũng là người
tốt bụng, nếu nhận lời tâu giúp lên thiên tử thì việc chiêu an thế nào cũng
thuận lợi.
Tống Giang chợt nhớ đến lời thơ sấm
của Cửu Thiên Huyền Nữ có câu: “Ngộ Túc trùng trùng hỉ” (gặp Túc mừng lắm thay),
hẳn là phải ứng vào người này, bèn sai người mời tham mưu Văn Hoán Chương lên
nhà giữa cùng ngồi. Tống Giang nói:
- Chẳng hay tướng công có quen biết
quan thái uý Túc Nguyên Cảnh không?
Văn Hoán Chương đáp:
- Ông ta là bạn học của hạ quan, nay
được theo hầu hoàng đế nửa bước không rời. Thái uý rất nhân từ rộng lượng, đối
nhân xử thế bao giờ cũng nhã nhặn ôn hoà.
Tống Giang nói:
- Thật không giấu tướng công, chúng
tôi ngờ Cao thái uý về kinh không dám đem việc chiêu an tâu lên thiên tử. Ngày
trước Túc thái uý đi lễ ở Hoa Châu đã từng gặp Tống Giang tôi. Nay tôi muốn sai
người đến tìm để nhờ Túc thái uý tâu bày lên thiên tử, sớm thu xếp công việc
cho chóng xong.
Văn tham mưu đáp:
- Tướng quân đã có ý định như thế,
hạ quan xin viết ngay mấy chữ để sai người đưa đi.
Tống Giang cả mừng, bèn sai lấy giấy
bút đem đến. Một mặt đốt hương thơm, cầm quyển thơ sấm của Cửu Thiên Huyền Nữ
ngửa mặt nhìn trời cầu khấn rồi bói quẻ “Thượng thượng đại cát” (rất tốt). Đoạn
sai dọn rượu tiễn đưa Đái Tôn và Yến Thanh lên đường. Các thứ vàng bạc châu báu
xếp gọn vào trong hai giỏ tre lớn còn bức thư của Văn tham mưu thì giấu kín
trong người. Hai người lại đem theo một bức công văn có đóng dấu phủ Khai
Phong, ăn mặc như hai người công sai, cáo từ các đầu lĩnh để xuống núi. Yến
Thanh và Đái Tôn đến bãi Kim Sa xuống thuyền sang sông, rồi thẳng hướng Đông
Kinh mà đi.
Đái Tôn tay chống ô, lưng khoác tay
nải. Yến Thanh xỏ cây thuỷ hoả côn gánh đôi giỏ tre, vạt áo đen vén ngược, bao
tượng buộc ngang lưng, quấn xà cạp lên tận gối. Dọc đường đói ăn, khát uống,
đêm nghỉ ngày đi. Một ngày kia về đến Đông Kinh, tuy thẳng đường nhưng hai
người không vào thành ngay mà vòng sang phía cửa Vạn Thọ. Hai người đến trước
cửa thành, bị quân canh chận lại. Yến Thanh đặt gánh xuống đất, bắt chước giọng
Đông Kinh hỏi:
- Có việc gì mà các vị chận giữ
chúng tôi?
Người lính canh đáp:
- Phủ điện suý đã có nghiêm lệnh, sợ
các ông mãnh Lương Sơn Bạc trà trộn vào thành nên phải đón chận các cửa. Người
lạ ra vào đều phải xét hỏi.
Yến Thanh cười nói:
- Tôn huynh làm việc công sao lại
xét hỏi anh em người nhà? Anh em chúng tôi hầu hạ trong phủ Khai Phong từ thuở
bé, cửa thành này vào ra không biết mấy vạn lần, nay còn phải xét hỏi lôi thôi.
Vậy mà quân Lương Sơn Bạc lù lù đi qua trước mắt không chừng lại cho đi thoát.
Nói đoạn Yến Thanh lấy tờ văn thư
giả chìa tận mặt tên lính canh mà nói:
- Đây tôn huynh xem đi, có đúng là
công văn của phủ Khai Phong không?
Viên quản môn nghe vậy liền quát to:
- Đã có công văn của phủ Khai Phong
thì không phải xét hỏi nữa! Để cho người ta đi.
Yến Thanh giật lấy tờ văn thư đút vào túi ngực rồi quảy
gánh đi ngay. Đái Tôn cũng cười khẩy rồi đi theo. Hai người rảo bước đi về phía
phủ Khai Phong, tìm vào một quán trọ nghỉ ngơi.
Ngày hôm sau, Yến Thanh mặc áo lính, quấn khăn lưng, chít
khăn hơi chếch ra sau đầu trông chẳng khác gì một viên thư lại, rồi mở giỏ lấy
mấy thứ vàng ngọc cho vào một bao túi, căn dặn Đái Tôn:
- Hôm nay tiểu để đến nhà Lý Sư Sư dàn xếp cho xong công
việc, nếu xẩy ra chuyện gì trắc trở thì đại ca phải trở về sơn trại ngay.
Xong xuôi, Yến Thanh đi thẳng đến nhà Lý Sư Sư. Đứng
ngoài cổng trông vào vẫn thấy dãy tường hoa mái cong làn sóng, cửa lớn sơn đỏ,
cửa sổ sơn xanh, nhưng nhà cửa được tu sửa có phần đẹp đẽ hơn trước. Yến Thanh
vén mành trúc, tạt qua bên cạnh nhà ngoài đi thẳng vào trong, từ xa đã ngửi
thấy mùi hương thơm nức. Vào phòng khách thấy bốn bên tường đều treo tranh của
các danh hoạ. Trên bậc thềm bày đến ba chục chậu cảnh, đủ các kiểu đá lạ tùng
xanh. Mấy chiếc sập toàn bằng loại gỗ thơm phức, có chạm trổ hoa lá. Giường
con, ghế dựa đều trải đệm gấm thêu hoa. Yến Thanh khe khẻ đằng hắng, thấy một a
hoàn đi ra, bèn nhờ vào báo tin cho Lý mẫu. Mụ Lý đi ra, chợt thấy Yến Thanh,
giật mình lên tiếng hỏi:
- Người có việc gì còn tìm đến đây?
Yến Thanh đáp:
- Tiểu nhân có việc muốn thưa chuyện với tiểu thư.
Mụ Lý nói:
- Lần trước ngươi đến đây làm liên luỵ khiến cho ta hư
hại cả nhà cửa. Có việc gì ngươi cứ nói ngay.
Yến Thanh đáp:
- Việc này tiểu nhân được gặp tiểu thư rồi mới thưa.
Lý Sư Sư đứng sau cửa sổ lắng nghe từ lâu, lúc ấy mới
bước ra. Yến Thanh chợt trông, vẫn thấy một trang phong vận như xưa: nét mặt
hải đường long lanh sương sớm, thân hình dương liễu dập dờn gió đông, tươi như
Thượng uyển tiên nương, đẹp hơn Hằng Nga cung quế. Lý Sư Sư xiêm áo thướt tha,
lững thững dời gót sen bước ra phòng khách. Yến Thanh đứng dậy, đặt chiếc túi
vải lên bàn, sụp lạy mụ Lý bốn lạy, đoạn Lý Sư Sư hai lạy. Lý Sư Sư khiêm
nhường nói:
- Xin miễn lễ! Tôi còn ít tuổi không dám nhận lạy.
Yến Thanh lạy xong đứng dậy nói:
- Lần trước đến đây gây chuyện kinh sợ, anh em tiểu nhân
thật không còn chốn dung thân!
Lý Sư Sư nói:
- Thôi ngươi đừng nói dối nữa. Lúc đầu ngươi tự xưng là
viên thư lại họ Trương, hai người kia là thương khách Sơn Đông. Rồi các người
gây chuyện làm náo động, ta phải khéo lời tâu với thiên tử mới được êm chuyện,
cứ như người khác thì cả nhà này đã mắc hoạ không nhỏ! Cái ông khách Sơn Đông
làm bài từ để lại có hai câu: “Sáu sáu nhạn bay liền tám chín, mong tin chỉ đợi
một tiếng gà” (Bài từ của Tống Giang mượn cách nói lóng để nói ý muốn nhận
chiêu an. Nhạn bay 2 tốp: 6x6=36 và 8x9=72. Cộng là 108, ám chỉ 108 đầu lĩnh
Lương Sơn Bạc. Lý Sư Sư đã có ý ngờ khi nhẩm tính ra số đó), ngay khi ấy ta đã
sinh nghi, đang định hỏi thì chợt có ngự giá đến, sau đó lại xảy chuyện ấu đã
nên không hỏi được. Nay ngươi đến đây thế mà lại hay. Thế nào ngươi cũng phải
giải thích cho rõ điều ngờ vực của ta. Ngươi chớ giấu giếm, phải nói thật cho
ta biết. Nếu không ta tất chẳng chịu để yên!
Yến Thanh nói:
- Tiểu nhân xin thưa thật sự tình uẩn khúc, mong nương tử
đừng kinh sợ. Lần ấy, người ngồi ghế giữa, dáng thấp, da ngăm đen, chính là Hô
bảo nghĩa Tống Giang; người ngồi ghế thứ hai, trắng trẻo đẹp trai, để râu ngạnh
trê là Tiểu toàn phong Sài Tiến cháu đích tôn của Sài Thế Tông nhà Đại Chu,
người ăn mặc như tên công sai đứng trước bàn là Thần hành thái bảo Đái Tôn,
người đứng ngoài cổng đánh nhau với Dương thái uý là Hắc toàn phong Lý Quỳ. Còn
tiểu nhân quê quán ở phủ Đại Danh thành Bắc Kinh, người ta quen gọi là Lãng tử
Yến Thanh. Lần ấy huynh trưởng chúng tôi đến Đông Kinh, muốn ra mắt với nương
tử, nên sai tiểu nhân giả dạng làm Trương nhân để tiện đến thu xếp trước. Huynh
trưởng chúng tôi cầu mong được gặp mặt nương tử thật không phải là để mua cười
làm vui. Chỉ vì từ lâu nghe tiếng nương tử được gần gũi thiên tử nên huynh
trưởng chúng tôi đích thân tìm đến định kể lại tình cảnh éo le, những mong tấm
lòng thành thay trời hành đạo, giữ nước yên dân sẽ được tâu bày lên thiên tử để
thiên tử sớm hạ chiếu chiêu an, tránh cho sinh linh khỏi chịu đau khổ. Nếu được
như thế, nương tử là ân nhân của mấy vạn người chúng tôi trên Lương Sơn Bạc!
Ngày nay thiên tử bị gian thần lấn át, bọn sàm nịnh chuyên quyền, rào đướng rấp
lối người hiền, khiến cho tình cảnh bên dưới không được tâu bày lên trên. Anh
em chúng tôi bất đắc dĩ mới phải tìm đến cách ấy, chẳng ngờ xẩy chuyện để nương
tử phải kinh sợ. Nay huynh trưởng chúng tôi không biết lấy gì tạ lỗi, có chút
lễ mọn, muốn trông nương tử vui lòng lưu nhận cho.
Yến Thanh bèn mở bao túi, đổ ra một bàn đầy vàng ngọc,
châu báu. Mụ Lý là kẻ ham của, thấy vậy mừng rơn, vội gọi vú già thu cất ngay.
Rồi mụ mời Yến Thanh vào căn buồng nhỏ ở nhà trong, gọi người hầu bầy trà
nưóoc, hoa quả niềm nở tiếp đãi. Nguyên là nhà Lý Sư Sư thường được đạo quân
hoàng đế lui tới bất chợt, nên các vương tôn công tử, con em các nhà phú hào
chẳng mấy ai dám bén mảng.
Kể tiếp, lúc ấy bàn rượu đã dọn xong, Lý Sư Sư đích thân
ngồi tiếp chuyện. Yến Thanh nói:
- Tiểu nhân thật đáng tội chết, đâu dám cùng ngồi với hoa
khôi nương tử.
Lý Sư Sư nói:
- Tôn huynh chớ nói vậy! Từ lâu tiểu nữ đã nghe đại danh
của các nghĩa sĩ, chỉ vì không có người tốt đứng làm môi giới để xin thiên tử
ban quan tước cho các vị nên anh em các vị mới phải oan khuất ẩn náu nơi bờ lau
bến nước.
Yến Thanh nói:
- Lần trước Trần thái uý đến chiêu an, trong chiếu thư
không có một lời vỗ về thương xót, lại dám tự tiện đánh tráo rượu ngự của thiên
tử ban cho anh em chúng tôi. Lần thứ hai lĩnh chiếu chiêu an thì ở các chữ quan
trọng nhất trong tờ chiếu lại cố ý đọc ngắt câu cho sai ý, thành ra: “Trừ Tống
Giang, bọn Lư Tuấn Nghĩa lớn nhỏ đã phạm các tội ác đều được tha thứ”, vì thế
lần ấy anh em chúng tôi cũng chưa quy thuận. Quan khu mặt Đồng Quán đưa quân
tướng đến, bị đánh thua hai trận, không còn manh giáp mà về. Sau đó Cao thái uý
gọi lấy dân phu các nơi trong nước, sắm sửa chiến thuyền, lại đưa quân đến
đánh, cũng chỉ ba trận người ngựa bị tổn thất quá nửa, chính Cao thái uý bị anh
em chúng tôi bắt sống giải về sơn trại. Nhưng huynh trưởng chúng tôi chẳng
những không nỡ tâm giết hại mà còn khoản đãi hết sức trọng hậu rồi mới tiễn về
kinh sư. Quân sĩ bị bắt sống nhiều vô số, cũng đều tha cho về cả. Lúc ở Lương
Sơn Bạc, Cao thái uý nặng lời thề thốt rằng về triều đình sẽ xin thiên tử hạ
chiếu chiêu an. Vì vậy huynh trưởng chúng tôi mới cho hai người cùng về với Cao
thái uý: một người là tú tài Tiêu Nhượng, một người có tài ca hát là Nhạc Hoà.
Xem ra cả hai người ấy đang bị Cao thái uý giấu nhốt trong phủ không cho ra
ngoài. Người này làm hao binh tổn tướng đã nhiều, ắt phải tìm cách che mắt
thiên tử.
Lý Sư Sư nói:
- Cao thái uý là kẻ làm hao binh tổn tướng, uổng phí tiền
gạo của triều đình, còn dám tâu trình nỗi gì? Cái đó thì tôi biết tỏng! Mời tôn
huynh hãy xơi tạm vài chén rồi sẽ cùng tính liệu xem sao.
Yến Thanh nói:
- Tiểu nhân không quen uống rượu.
Lý Sư Sư nói:
- Đường xa sương gió, đến đây cởi mở chuyện lòng, nghĩ
rằng tôn huynh cũng nên uống dăm ba chén?
Yến Thanh từ chối chẳng được, đành nhấp nháp một hai chén
để chìu ý chủ nhân.
Nguyên Lý Sư Sư vốn là một ả làng chơi quen thói lẳng lơ,
phong trần đã dạn, thấy Yến Thanh lanh lợi đẹp trai, nói năng hoạt bát, lòng
riêng đã lấy làm ưa. Bèn chiêu rượu, ả Lý mấy lần tìm lời cợt nhả chọc ghẹo,
rượu cạn vài tuần bèn ởm ờ giọng say sán đến khêu gợi. Yến Thanh là người thông
minh, làm gì chẳng hiểu chuyện ấy? Nhưng chàng là một hảo hán có nghị lực, sợ
làm hỏng việc lớn của huynh trưởng, đâu dám đáp lại sự tỏ tình của Lý Sư Sư!
Lý Sư Sư nói:
- Bấy lâu nghe tiếng tôn huynh có tài đàn hát, nay nhân
bữa rượu thảnh thơi, tôn huynh cho nghe vài bài thì hay lắm.
Yến Thanh đáp:
- Tiểu nhân cũng có học đòi được dăm ba bài bản, nhưng
đâu dám khoe khoang trước mặt nương tử?
Lý Sư Sư nói:
- Vậy thiếp xin thổi trước một khúc để chàng nghe.
Nói đoạn, Lý Sư Sư gọi a hoàn lấy sáo. A hoàn mở chiếc
túi gấm rút ống sáo đưa ra. Lý Sư Sư đỡ chiếc sáo nâng lên thổi khe khẽ. Đúng
là tiếng trúc réo rắt rạch đá xuyên mây. Yến Thanh nghe xong khen ngợi không
ngớt.
Thổi xong khúc ấy, Lý Sư Sư chuyển sáo cho Yến Thanh,
nói:
- Chàng cũng thổi một khúc cho thiếp nghe xem nào!
Để ả vui lòng. Yến Thanh đành trổ chút tài nghệ, nâng
tiêu dạo khúc vi vu. Lý Sư Sư nghe xong không ngớt lời khen ngợi.
- Tiếng sáo của chàng hay tuyệt!
Rồi Lý Sư Sư lấy đàn Nguyễn dạo qua một bản đàn ngắn cho
Yến Thanh nghe. Tiếng đàn lanh lảnh như ngọc bội ngân vang, như oanh vàng sánh
giọng, dư âm trầm bỗng du dương.
Yến Thanh vái tạ nói:
- Tiểu nhân xin hát một điệu để hầu
nương tử. Rồi Yến Thanh hắng giọng cất tiếng hát. Đúng là tiếng thanh, vần đẹp,
lời đúng, giọng chân. Hát xong lại vái tạ lần nữa. Lý Sư Sư tự tay rót rượu
nâng cốc đáp tạ Yến Thanh, giọng khơi tình nũng nịu. Yến Thanh chỉ cúi đầu, ậm
ừ cho qua chuyện. Lại cạn mấy chén nữa, Lý Sư Sư cười nói:
- Nghe nói ngườichàng có xâm chàm
hoa rất đẹp, thiếp muốn xem có đẹp thật không?
Yến Thanh cười đáp:
- Tiểu nhân có xâm chàm hoa thật
đấy, nhưng lẽ nào dám phanh áo trước mặt nương tử?
Lý Sư Sư nói:
- Đấng nam nhi xâm thân vẽ mình, nào
ai bảo là cởi áo đánh trần?
Ba lần năm lượt, Lý Sư Sư cứ nhất
định đòi xem. Yến Thanh đành phải cởi áo. Lý Sư Sư hết sức thích thú, bàn tay
búp măng cứ xoa đi vuốt lại trên da thịt Yến Thanh. Yến Thanh núng quá vội mặc
áo vào. Lý Sư Sư lại chạm cốc với Yến Thanh, cứ thế nũng nịu gợi tình. Yến
Thanh sợ ả mớn tay động chân lấn tới nữa thì cái chuyện ấy khó lòng tránh được.
Sực nghĩ ra một kế, Yến Thanh bèn hỏi:
- Chẳng hay nương tử niên kỷ bao
nhiêu?
Lý Sư Sư đáp:
- Sư Sư năm nay hăm bảy.
Yến Thanh đáp:
- Tiểu nhân chỉ mới hăm lăm, kém
nương tử hai tuổi đấy. Nương tử đã có lòng yêu mến, vậy xin kết nghĩa làm chị
em!
Nói đoạn liền đứng dậy, sụp lạy Lý
Sư Sư tám lạy. Với tám cái lạy ấy, Yến Thanh đã chặn đứng lòng dạ chẳng ngay
của ả Lý Sư Sư, giữ mình làm việc lớn. Nếu là một người đam mê tửu sắc thì đại
sự tất hỏng rồi. Thế mới biết Yến Thanh có một trái tim sắt đá, đáng là một
trang hảo hán nam nhi!
Tiếp đó Yến Thanh mời Lý mẫu đến xin
lạy nhận làm mẹ nuôi rồi cáo từ ra về. Lý Sư Sư nói:
- Tiểu ca nên dọn sang đây, đừng ở
bên quán trọ nữa.
Yến Thanh đáp:
- Tiểu thư đã có lòng như vậy, đệ
xin về quán trọ lấy đồ đạc rồi sẽ sang ngay.
Lý Sư Sư nói:
- Đừng để ta phải chờ lâu!
Yến Thanh đáp:
- Nhà trọ cũng gần đây, chỉ trong
chốc lát đệ sẽ trở lại.
Yến Thanh tạm biệt Lý Sư Sư trở về
quán trọ, kể lại mọi chuyện cho Đái Tôn nghe. Đái Tôn nói:
- Thế thì hay lắm! Chỉ sợ người anh
em lại mê mẩn rồi bị ràng buộc cũng chưa biết chừng.
Yến Thanh đáp:
- Đại trượng phu ở đời chỉ vì tửu
sắc mà mất tất cả chí khí, thì khác gì loài cầm thú? Nếu Yến Thanh này cũng một
phường như thế thì xin phanh xác dưới muôn gươm!
Đái Tôn cười nói:
- Anh em ta là bậc hảo hán hà tất
phải thề bồi?
Yến Thanh nói:
- Không thể như vậy thì đại ca còn
chưa tin!
Đái Tôn nói:
- Hiền đệ nên thu xếp đi ngay, cứ
tuỳ tình thế mà xử trí cho chóng xong việc, đừng để ta phải chờ lâu. Bức thư
gửi cho Túc thái uý cũng phải chờ hiền đệ về mới đưa đi được.
Yến Thanh nhặt lấy một túi đồ trang
sức vàng ngọc châu báu, mỗi thứ một vài cái rồi ra đi. Đến nhà Lý Sư Sư, Yến Thanh
san một nửa đưa cho mụ Lý, còn nửa chia cho mọi người trong nhà, ai nấy đều vui
mừng. Mụ Lý sai dọn một buồng bên cạnh phòng khách để Yến Thanh nghỉ ngơi, rồi
bảo mọi người trong nhà gọi Yến Thanh bằng chú. Cũng là phép duyên vừa khéo:
chập tối hôm ấy có người đến báo đêm nay thiên tử sẽ tới. Yến Thanh nghe tin
nói với Lý Sư Sư:
- Nhờ tiểu thư thu xếp cho đệ được
yết kiến thiên tử để xin ngự bút xá tội cho đệ. Muôn sự đều trông nhờ ân đức
của tiểu thư.
Lý Sư Sư nói:
- Đêm nay ta sẽ thu xếp cho tiểu cả
được yết kiến thiên tử, tiểu ca cứ tâu bầy mọi việc để thiên tử rủ lòng thương,
thì một tờ giấy xá tội chẳng khó gì!
Đêm ấy ánh trăng lờ mờ, mùi hoa sực
nức, lan xạ đưa thơm. Đạo quân hoàng đế cải trang thành một nho sĩ mặc áo
trắng, dẫn theo một người hầu, theo lối tắt đi đến cổng sau nhà Lý Sư Sư. Thiên
tử vào ngồi trong căn phòng nhỏ, sai đóng hết cửa trước cửa sau. Trong nhà đèn
nến sáng trưng. Lý Sư Sư cài tóc thắt đai, sửa sang xiêm áo bước vào tiếp đón
thiên tử. Lý Sư Sư thấy thiên tử đang lúc vui vẻ, bèn bước tới tâu rằng:
- Tiện thiếp có người em con cô con
cậu từ thuở bé lưu lạc phương xa, hôm nay vừa mới trở về. Em thiếp muốn xin yết
kiến thánh thượng, nhưng tiện thiếp chưa dám tự ý cho vào. Cúi xin thánh thượng
soi xét.
Thiên tử nói:
- Đã là anh em với ái khanh thì cứ
gọi vào chầu quả nhân, có ngại gì?
Lý Sư Sư liền sai người vú già đi
gọi Yến Thanh. Yến Thanh vào phòng rập đầu lạy chào thiên tử. Thấy Yến Thanh
khôi ngô tuấn tú, thiên tử tỏ ý hài lòng. Lý Sư Sư bảo Yến Thanh thổi sáo hầu
rượu thiên tử, rồi đến lượt Lý Sư Sư gãy đàn Nguyễn, sau đó lại bảo Yến Thanh
hát một bài. Yến Thanh lạy hai lạy tâu rằng:
- Tiểu nhân thuộc được mấy điệu thì
lời ca đều thuộc loại phong tình lả lướt, thật không dám hát hầu thánh thượng.
Thiên tử nói:
- Quả nhân vi hành đến kỹ viện là
muốn nghe loại ca khúc diễm tình đễ khuây khoả nỗi buồn, khanh chẳng phải e dè
điều đó.
Yến Thanh mượn cặp sênh ngà, cúi đầu
lạy hai lạy, nói với Lý Sư Sư:
- Âm vận có điều gì sai sót, mong
tiểu thư chỉ giáo cho.
Rồi Yến Thanh lấy giọng, tay gõ
sênh, cất tiếng ca một khúc theo điệu Ngư gia ngao. Hát rằng:
“ Từ biệt làng quê vắng tin nhà,
trăm thương nghìn nhớ, dứt lòng bao xót xa.
Chim én chưa sang, hoa tàn héo, cành
mai mòn mỏi, nét xuân tà.
Đau khổ chàng ơi ngày tái hợp, biết
tự khi đầu, thôi chẳng kết duyên ta.
Mộng đẹp chưa xây đà chợt tỉnh,
ngoài song nghe vẳng tiếng oanh ca”.
Yến Thanh hát xong, đúng là giọng
oanh vàng mới hót, tiếng ca trầm bỗng du dương. Thiên tử cả mừng, lại bảo hát
tiếp một bài nữa. Yến Thanh sụp lạy tâu rằng:
- Hạ thần còn biết một bài từ khúc
theo điệu Hoa mộc lan bớt vận, xin ca hầu thánh thượng.
Thiên tử nói:
- Hay lắm, quả nhân rất thích nghe.
Yến Thanh lạy xong, cất giọng hát
rằng:
- Lắng nghe đây, lắng nghe đây!
Thân tàn lưu lạc nào ai hay!
Cùng trời cuối đất tội ác bao lớp
chất đầy.
Hầm lửa thiêu được người cứu thoát
Tấm lòng trung hiếu vẫn còn đây!
Mong sao đền đáp tấm ơn này!
Yến Thanh vừa dứt tiếng hát, thiên
tử cả kinh hỏi:
- Sao khanh lại có khúc hát ấy?
Yến Thanh oà khóc nức nở, sụp lạy
hồi lâu. Thiên tử đã bớt nghi ngờ bèn nói:
- Cho khanh tâu hết sự tình, trẫm sẽ
soi xét cho khanh.
Yến Thanh tâu:
- Thần trót phạm tội tầy trời, thật
không dám tâu.
Thiên tử truyền rằng:
- Trẫm xá cho khanh được vô tội, cứ
việc tâu không ngại!
Yến Thanh bèn tâu:
- Thần xiêu dạt giang hồ từ lúc còn
nhỏ, lưu lạc đến đất Sơn Đông, giúp việc cho một người lái buôn. Một lần đi
đường qua Lương Sơn Bạc bị giặc cướp bắt lên sơn trại, hạ thần phải ở đó mất ba
năm. Năm nay thần mới trốn thoát trở về kinh sư tìm đến nương nhờ Lý tiểu thư
đây là chỗ chị em với hạ thần. Tuy vậy, thần vẫn không dám ra ngoài phố vì sợ
bất chợt có người nhận ra cáo giác với quan ti thì thần còn biết phân bua sao
được?
Lý Sư Sư tâu thêm:
- Em họ của thiếp trong lòng chỉ có
một điều oan khổ ấy, cúi mong bệ hạ soi xét cho.
Thiên tử cười nói:
- Việc này không có gì khó. Ngươi là
em của Lý hàng thủ (người kỹ nữ đứng đầu hàng viện) đây thì ai dám bắt ngươi!
Yến Thanh liếc mắt đưa tình với Lý
Sư Sư. Lý Sư Sư nũng nịu tâu với thiên tử:
- Thiếp chỉ muốn bệ hạ cho ngự bút
mấy chữ ân xá để em thiếp yên lòng.
Thiên Tử nói:
- Nhưng tại đây không có ấn triện,
viết xong lấy gì mà đóng?
Lý Sư Sư lại tâu:
- Được bệ hạ cho ngự bút thì dầu
ngọc bảo thiên phù cũng không quý bằng. Bệ hạ có lòng cứu vớt, xin ban cho em
thiếp mấy chữ hộ thân cũng như bệ hạ cho phép tiện thiếp được hầu bệ hạ vậy.
Thiên tử bị nài ép mãi, đành sai lấy
giấy bút. Chỉ trong chốc lát, người vú già bưng vào đủ thứ văn phòng tứ bảo
(bốn thứ đồ dùng của vua – bút, nghiên, giấy, mực). Yến Thanh mài mực thật đậm,
Lý Sư Sư cầm dâng bút lông đỏ quản ngà. Thiên tử trải tờ giấy hoa tiên màu
vàng, gập ngang một dòng để viết chữ đại tự. Trước khi viết, thiên tử bảo Yến
Thanh:
- Quả nhân quên mất họ tên của khanh
rồi!
Yến Thanh đáp:
- Hạ thần là Yến Thanh.
Thiên tử bèn cầm bút viết ngự thư
như sau:
“Thần tiêu vương phủ chân chủ Tuyên
Hoà vũ sĩ Hư tĩnh Đạo quân hoàng đế, đặc xá cho người Yến Thanh được vô tội.
Các ty không được giữ lại xét hỏi.”
Viết xong đưa bút ký ngự danh ở
dưới. Yến Thanh lạy hai lạy, cúi đầu đón nhận. Lý Sư Sư nâng chén dâng rượu tạ
ơn. Thiên tử bèn hỏi:
- Ngươi ở Lương Sơn Bạc ắt là biết
rõ nội tình ở đó?
Yến Thanh tâu:
- Bọn Tống Giang trên cờ thêu chữ
lớn “Thế Thiên Hành Đạo” (thay trời hành đạo), nhà lớn đặt tên là “Trung Nghĩa
đường”, không dám xâm chiếm châu huyện, không quấy phá dân lành, chỉ trị tội
bọn tham quan ô lại gian nịnh bất lương, chờ mong triều đình sớm đến chiêu an
để được ra sức giúp nước.
Thiên tử truyền rằng:
- Trước đây trẫm đã hai lần hạ chiếu
chiêu an, tại sao bọn chúng dám kháng cự, không chịu quy hàng?
Yến Thanh tâu:
- Lần chiêu an thứ nhất, trong chiếu
thư không có một lời vỗ về thương xót, ngự tửu của bệ hạ ban cho thì bị đánh
tráo lấy rượu quê thay vào. Vì thế sự việc mới sinh phiền phức. Lần chiêu an
thứ hai, khi đọc chiếu thư, sứ gỉa cố ý đọc ngắt câu cho sai ý, nói là “trừ
Tống Giang”, như thế là ngầm có ý hãm hại Tống Giang, vì thế mới sinh chuyện.
Đồng khu mật đưa quân đến, chỉ hai trận bị đánh tơi tả, không còn mảnh giáp mà
về. Cao thái uý đốc thúc người ngựa, trưng dụng dân phụ các nơi đóng sửa chiến
thuyền tiến đánh, nhưng không bắn nổi một mũi tên vào quân Lương Sơn Bạc, chỉ
ba trận đã chịu bó tay, người ngựa bốn phần tổn thiệt mất ba. Cao thái uý bị
bắt sống đưa lên núi, hứa khi về kinh sư sẽ thu xếp việc chiêu an, vì thế mới
được tha về. Văn tham mưu phải ở lại làm con tin để Cao thái uý đưa hai người
của sơn trại về kinh thu xếp công việc.
Thiên tử nghe xong thở dài nói:
- Cơ sự như thế mà quả nhân không hề
biết! Đồng Quân về kinh tâu là quân sĩ không quen chịu nóng bực, tạm thời xin
thu quân. Cao Cầu thì về tâu là quân lính bị đau ốm không tiến đánh được, xin
cho bãi chiến.
Lý Sư Sư tâu:
- Bệ hạ tuy là đấng thánh minh, ở
ngôi cửu trùng nhưng bị bọn gian thần rào đường rấp lối, ngăn cản người hiền,
biết làm sao được?
Thiên tử ngao ngán thở dài hồi lâu.
Ước chừng đã khuya, Yến Thanh cầm ngự thư ân xá, lạy chào xin lui ra. Thiên tử
cũng lên giường nằm với Lý Sư Sư. Đến khoảng canh năm thì thị nội hoàng môn đến
đón thiên tử về cung.
Sáng sớm Yến Thanh trở dậy làm qua
loa những việc thông thường rồi về quán trọ kể lại mọi chuyện cho Đái Tôn nghe.
Đái Tôn nói:
- Thế là gặp may lắm! Bây giờ anh em
cùng đi đưa thư cho Túc thái uý.
Yến Thanh nói:
- Ăn uống xong hãy đi.
Hai người ăn cơm sáng xong, xách giỏ
vàng bạc châu báu, cầm thư đi tìm phủ đệ của Túc thái uý. Hỏi thăm người trên
phố thì nghe nói thái uý vào cung chưa về. Yến Thanh hỏi:
- Gần trưa rồi sao thái uý chưa về?
Người ấy đáp:
- Thái uý là bậc sủng thần sớm tối
theo hầu thiên tử, nửa bước không rời, về sớm về muộn thường không nhất định.
Vừa lúc ấy có người nói:
- Thái uý đã về kia rồi!
Yến Thanh cả mừng nói với Đái Tôn:
- Đại ca đứng chờ ở đây, một mình đệ
đến gặp thái uý.
Yến Thanh đến gần thấy một đoàn tuỳ
tùng đều mặc áo gấm, đội mũ hoa đang khênh kiệu đi tới. Yến Thanh sụp quỳ giữa
đường mà thưa:
- Tiểu nhân có bức thư xin trình lên
thái uý.
Túc thái uý trông thấy nói:
- Cho theo vào!
Yến Thanh theo vào trước sảnh đường.
Thái uý xuống kiệu vào ngồi trong phòng sách đầu nhà, rồi gọi Yến Thanh vào,
hỏi:
- Ngươi là người nhà của ai sai đến?
Yến Thanh đáp:
- Tiểu nhân từ Sơn Đông tới, có thư
của Văn tham mưu xin trình lên thái uý!
Túc thái uý nói:
- Văn tham mưu nào đây?
Yến Thanh bèn rút túi ngực lấy thư
trình lên. Túc thái uý cầm xem bì thư rồi nói:
- Thì ra Văn tham mưu là Văn Hoán
Chương bạn học với ta từ thuở nhỏ.
Nói đoạn bóc thư ra xem. Thư viết:
“Kẻ nho sinh theo hầu việc quan là
Văn Hoán Chương kính cẩn vái lạy dâng thư này trước ghế của ân tướng thái uý.
Tiểu nhân từ thuở nhỏ ra vào chốn
trường ốc thấm thoát đã ba chục năm. Trước đây đội ơn Cao điện suý, được gọi
đến trướng quân cho giữ chức tham mưu, dự bàn tiệc lớn. Vì can ngăn không nghe,
lời trung không đắt, nên cả ba lần chinh thảo đều tiếp liền thua bại, nói ra
xiết bao hổ thẹn. Cao thái uý và tiểu nhân đều bị bắt sống, làm thân tù ngục.
Nghĩa sĩ Tống Công Minh nhân từ khoan dung không nỡ tâm giết hại. Nay Cao điện
suý đưa theo hai người của Lương Sơn Bạc là Tiêu Nhượng và Nhạc Hoà về kinh để
xin việc chiêu an, lưu tiêu nhân ở lại làm con tin. Muôn trông ân tướng không
tiếc lời nói, sớm muộn tâu lên để thiên tử kịp giáng chiếu chiêu an, khiến cho
anh em nghĩa sĩ Tống Công Minh sớm được xá tội đội ơn, lập công dựng nghiệp,
như thế thì nước nhà được may mắn lắm! Thiên hạ được may mắn lắm! Tiểu nhân
được cứu thoát thật khác nào đội ơn tái sinh.
Kính cẩn vuốt nếp thư này dâng lên,
cúi mong ân tướng thái uý rủ lòng soi xét cho, thật là may mắn lắm!
Niên hiệu Tuyên Hoà năm thứ thư
(1122) mùa xuân, tháng giêng, ngày…..
Hoán Chương hai lạy dâng lên.”
Túc thái uý xem xong thư xiết đỗi
kinh sợ, hỏi rằng:
- Ngươi là ai?
Yến Thanh đáp:
- Tiểu nhân là Lãng tử Yến Thanh ở
Lương Sơn Bạc.
Nói đoạn, Yến Thanh đi ra lấy chiếc
giỏ, trở vào phòng sách, thưa:
- Hồi trước thái uý đi lễ ở Hoa
Châu, anh em tiểu nhân đã nhiều lần được hầu hạ, thái uý quên rồi chăng? Huynh
trưởng Tống Giang của anh em tiểu nhân có chút lễ đem đến để bầy tỏ tấm lòng
thành đối với ân tướng thái uý. Anh em tiểu nhân hàng ngày gieo thẻ bốc thăm
đều cầu mong được thái uý ra tay cứu vớt. Huynh trưỏong Tống Giang cùng bọn anh
em tiểu nhân mỏi mắt trông chờ thái uý đến chiêu an. Nếu được ân tướng thái uý
sớm tâu lên thiên tử thì mười vạn anh em trên Lương Sơn Bạc đều được nhờ ơn
lớn! Huynh trưởng chúng tôi đã định trước kỳ hạn, tiểu nhân xin ân tướng cho
phép trở về.
Yến Thanh lạy chào Túc thái uý rồi
đi ngay ra khỏi phủ. Túc thái uý cũng đã có chủ định từ trước bèn sai người thu
cất lễ vật. Lại nói Yến Thanh và Đái Tôn trở về quán trọ, cùng bàn tình công
việc. Yến Thanh nói:
- Hai việc ấy đã thu xếp xong, chỉ
còn việc Tiêu Nhượng và Nhạc Hoà đang bị giữ trong phủ của Cao thái uý, làm sao
cứu được?
Đái Tôn nói:
- Hai chúng ta vẫn đóng vai công sai
đến trước phủ Cao thái uý nghe ngóng xem sao. Đợi có người trong phủ ra thì tìm
cách đút lót cho ít vàng bạc, nhờ thu xếp cho gặp Tiêu Nhượng và Nhạc Hoà.
Thông được tin tức với nhau rồi sẽ bàn tính thêm.
Hai người bàn bạc xong, thay đổi
quần áo, mang theo ít vàng bạc, đi về phía cầu Thái Bình, đứng chờ hồi lâu
trước cửa phủ. Chợt thấy một viên can biện trẻ tuổi đang uể oải đi ra. Yến
Thanh liền đến gần cúi chào. Viên can biện hỏi:
- Ngươi là ai đây?
Yến Thanh nói:
- Xin mời can biện ghé vào quán trà
nói chuyện.
Hai người vào trong quán, gặp Đaí
Tôn cũng ngồi uống trà. Yến Thanh nói:
- Không giấu gì can biện, gần đây có
hai người do Cao thaí uý đưa từ Lương Sơn Bạc về. Một trong hai người là Nhạc
Hoà, người nhà của đại huynh tôi. Đại huynh tôi muốn được gặp người ấy một lát,
xin nhờ can biện làm ơn giúp cho.
Viên can biện nói:
- Hai ông chớ nói chuyện ấy. Việc
kín trong phủ thái uý ai dám tò mò biết đến!
Đái Tôn rút trong tay áo ra một nén
bạc lớn đặt lên bàn, nói với viên can biện:
- Chỉ phiền túc hạ dẫn Nhạc Hoà ra
cho tiểu nhân gặp mặt chốc lát, không cần phải ra khỏi cổng. Xong việc xin biếu
túc hạ nén bạc này.
Viên can biện thấy bạc thì động lòng
tham, bèn nói:
- Đúng là có hai người ấy trong phủ,
nhưng thái uý đã có nghiêm lệnh chỉ đem cơm nước cho họ ăn nghỉ ở vườn hoa phía
sau. Ta sẽ gọi người ấy ra cho ông gặp. Nói chuyện xong thì nhớ trao nén bạc
cho ta, không được thất tín đấy.
Đái Tôn nói:
- Tất nhiên rồi!
Viên can biện liền đứng dậy dặn:
- Hai ông cứ ngồi trong quán trà đây
đợi ta.
Nói xong viên can biện đi vội vào
trong phủ. Đái Tôn và Yến Thanh ngồi trong quán uống trà, một lúc sau thấy viên
can biện trở ra, đi vội vào quán nói:
- Đưa nén bạc đây, ta đã gọi Nhạc
Hoà ra buồng xép bên cổng.
Đái Tôn ghé tai Yến Thanh nói nhỏ
mấy câu “cứ như thế…như thế”, rồi giao nén bạc cho viên can biện. Người ấy cầm
nén bạc rồi dẫn Yến Thanh đến buồng xép bên cổng gặp Nhạc Hoà. Viên can biện
nói:
- Hai người có chuyện gì thì nói mau
mà đi!
Yến Thanh bảo Nhạc Hoà:
- Tiểu đệ và Đái Tôn đến đây đang
tìm cách cứu hai đại ca.
Nhạc Hoà nói:
- Bọn chúng giam lỏng ta và Tiêu
Nhượng trong vườn hoa tường rất cao, không trèo được, có chiếc thang để trèo bẻ
hoa bọn chúng đã cất đi rồi. Làm thế nào mà ra được?
Yến Thanh hỏi:
- Gần tường có cây cối gì không?
Nhạc Hoà đáp:
- Bên tường có một hàng dương liễu
to.
Yến Thanh nói:
- Đêm nay cứ nghe tiếng ho làm hiệu.
Tiểu đệ và Đái Tôn ở ngoài sẽ ném vào hai dây thừng. Hai đại ca cứ trèo lên cây
liễu nào gần nhất, buộc chặt đầu dây. Hai chúng tôi ở ngoài mỗi người giữ chặt
một đầu dây, hai đại ca cứ việc bám dây mà tụt xuống. Hẹn nhau vào đầu canh tư,
không được để lỡ.
Viên can biện quay vào nói:
- Các ngươi nói chuyện gì mà lâu
thế? Mau ra đi thôi!
Nhạc Hoà trở vào ghé tai nói lại cho
Tiêu Nhượng biết. Yến Thanh cũng trở lại quán trà nói lại với Đái Tôn. Cả bốn
người chờ đợi mong cho chóng hết ngày hôm ấy.
Yến Thanh và Đái Tôn ra phố mua hai
sợi dây thừng to, giấu vào trong người, rồi đi vòng ra phía sau phủ Cao thái uý
xem xét trước địa thế. Phía sau phủ có một con sông, có hai chiếc thuyền không
buộc neo đậu gần bờ. Hai người bèn lén ra nấp trong khoang thuyền chờ đến lúc
nghe tiếng trống trên chòi canh điểm canh tư, liền nhảy lên bờ, đi men đến chân
tường khẻ ho mấy tiếng. Phía trong tường cũng có tiếng ho đáp lại. Yến Thanh
liền ném dây qua tường. Đợi một lúc cho bên trong kịp buộc chặt đầu dây vào cây
liễu. Đái Tôn và Yến Thanh kéo căng đầu dây bên ngoài. Nhạc Hoà tụt xuống
trước, rồi đến Tiêu Nhượng. Hai người cầm đầu dây ném bào bên trong tường rồi cùng
Yến Thanh, Đái Tôn trở về quán trọ. Bốn người thu xếp hành lý, nhóm lửa thổi
cơm ăn sáng, trả tiền trọ ra đi. Đến bên cổng thành bọn Yến Thanh dừng lại chốc
lát, chờ cho lính canh mở cổng là ra ngay. nhắm đường đi gấp về Lương Sơn Bạc.
Chưa nói chuyện bốn người trở về ra sao, chỉ biết rằng:
Túc thái uý giúp tâu việc lớn.
Lương Sơn Bạc chịu nhận chiêu an.
Chưa biết Túc thái uý tâu xin thánh
chỉ ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 82 -
Lương Sơn Bạc Yết Bảng Bán Sơn Trại
Đang nói chuyện Yến Thanh gặp Đạo quân
hoàng đế ở nhà Lý Sư Sư, xin được chiếu thư ân xá cho mình, sau đó tìm gặp Túc
thaí uý, rồi bàn mưu với Đái Tôn đến phủ Cao thái uý cứu được Tiêu Nhượng và
Nhạc Hoà. Bốn người đợi mở cổng thành lập tức đi ra, theo đường tắt đi gấp về
Lương Sơn Bạc thuật lại những sự việc trên.
Nói tiếp, đêm hôm ấy Lý Sư sư không
thấy Yến Thanh trở về đã có ý nghi ngờ. Lại nữa, sáng hôm sau người hầu riêng
trong phủ Cao thái uý bưng cơm nước vào nơi ở cho Tiêu Nhượng và Nhạc Hoà,
nhưng chẳng thấy hai người đâu, vội đi báo với quan đô quản. Viên đô quản vào
vườn hoa xem xét, thấy hai sợi dây thừng to buộc trên cây liễu thì biết ngay
hai người đã trốn, đành phải trình lên Cao thái uý. Cao Cầu nghe nói giật mình,
lại càng thêm lo buồn, đành cáo bệnh ở lỳ trong phủ.
Tảng sáng hôm ấy, Đạo quân hoàng đế
ra ngự triều ở điện Văn Đức. Hai hàng văn võ đến đủ, thiên tử truyền mệnh cuốn
rèm, sai tả hữu cận thần gọi quan khu mật sứ Đồng Quân ra khỏi hàng chầu. Thiên
tử phán rằng:
- Năm ngoái nhà ngươi thống lĩnh
mười vạn đại quân địch thân đi đánh Lương Sơn Bạc, thắng bại ra sao?
Đồng Quân quỳ xuống tâu:
- Năm trước thần có đưa đại quân đi
đánh, nhưng không thắng, không phải thần không gắng sức nhưng vì thời tiết nóng
bức, quân sĩ không quen thuỷ thổ, sinh bệnh đau ốm nhiều, mười phần chết mất
đến hai, ba. Thần thấy người ngựa gặp lúc gian nan, vì vậy tạm thời phải cho
thu quân nghỉ đánh, doanh nào về doanh ấy lo việc tập luyện. Trong chuyến ấy,
quân ngự lâm đi đường bị ốm đau cả, thiệt mạng cũng nhiều. Lần thứ hai, thần
phụng chiếu đi chiêu an, nhưng bọn giặc ấy không chịu nghe lời vỗ yên chiêu an.
Đến khi Cao Cầu đưa chiến thuyền đi đánh, thấy quân sĩ ốm đau dọc đường cũng
lại phải cho quay về.
Thiên tử cả giận quát:
- Các ngươi đều là bọn thần gian tôi
nịnh, ghen ghét kẻ hiền tài, dám bịt mắt quả nhân để chuyên quyền làm bậy! Năm
ngoái ngươi đưa quân đi đánh Lương Sơn Bạc, cớ sao chỉ mới hai trận mà người
ngựa đã bị quân giặc đánh cho tan tác, mảnh giáp chẳng còn mà về, khiến cho
quân nhà vua mang tiếng là thua trận? Sau đó đến Cao Cầu tiêu phí không biết
bao nhiêu tiền gạo của các châu quận, làm tổn thiệt một số lớn chiến thuyền,
người ngựa, chính bản thân y cũng bị bắt sống đưa lên núi, bọn Tống Giang không
nở giết mới tha cho về. Quả nhân nghe nói bọn Tống Giang không xâm phạm gì đến
các châu quận, không cướp bóc dân lành, chỉ mong đợi chiếu chiêu an để được ra
sức giúp nước. Nguyên do chỉ vì bọn các người bất tài, tham lam gian nịnh, uổng
phí tước lộc triều đình, làm hỏng việc quốc gia đại sự! Người đứng đầu viện khu
mật chẳng lẻ lại không biết hổ thẹn hay sao! Lý ra phải hỏi tội ngươi, nhưng
trẫm tha cho lần này, tái phạm ắt sẽ không dung!
Đồng Quân cúi đầu im thin thít, lui
về chỗ. Thiên tử lại hỏi:
- Trong số đại thần các ngươi, ai có
thể đi chiêu dụ vỗ yên được bọn Tống Giang ở Lương Sơn Bạc?
Thiên tử chưa dứt lời đã thấy quan
điện tiền thái uý Túc Nguyên Cảnh bước lên quỳ tâu:
- Thần dẫu bất tài cũng xin được đi.
Thiên tử cả mừng, nói:
- Trẫm sẽ tự viết chiếu trao cho
ngươi.
Nói đoạn, sai khiêng án thư, trải
giấy để viết chiếu. Tả hữu cận thần bưng nghiên mực ống bút đến, thiên tử tự
tay viết xong tờ chiếu son rồi gọi quan khố ti lấy ba mươi sáu chiếc thẻ vàng,
bẩy mươi hai chiếc thẻ bạc (Thẻ vàng (kim bài): tấm thẻ gỗ ở giữa có khắc chữ
thếp vàng, do nhà vua phát cho các đại thần và các tướng làm hiệu lệnh dùng
trong việc quan việc quân. Thẻ bạc (ngân bài): như đã nói về thẻ vàng, nhưng
dùng cho những chức vụ thấp hơn, chữ khắc trên thẻ màu trắng. ), ba mươi sáu
tấm gấm hồng, bẩy mươi hai tấm gấm xanh, một trăm linh tám vò rượu ngự có niêm
phong giấy vàng - tất cả đều giao cho Túc thái uý. Thiên tử lại ban cho các
chánh phó đầu lĩnh hai mươi tư bộ quần áo lụa và giao cho sứ bộ một lá cờ ngực
có thêu hai chữ “Chiêu An” bằng chỉ vàng, hẹn ngày hôm sau thì lên đường.
Túc thái uý quỳ trước điện Văn Đức
cáo từ thiên tử. Các quan bãi chầu. Đồng khu mật lấy làm hổ thẹn, trở về phủ
riêng, cáo bệnh không vào triều. Cao thái uý nghe nói lại sự việc, lo sợ không
biết ứng phó ra sao, nên cũng không dám vào triều. Có thơ làm chứng như sau:
“Nhất phong ân chiếu xuất minh quan
Trữ khán Lương Sơn tận thúc trang
Tri đạo hoài nhu thảng chinh phạt
Hồi giao xích tử thụ di thương.
Dịch:
Một tờ ân chiếu toả ánh soi
Trông đợi Lương Sơn thuận chịu lời
Mềm dẻo cao tay hơn chinh phạt
Khỏi để dân đen chịu thiệt thòi.
Nói tiếp, Túc thái uý sai người gồng
gánh ngự tửu cùng các thẻ vàng, thẻ bạc, gấm vóc áo quần rồi lên ngựa, đóng cờ
ngự ra đi. Các quan tiễn chân đến ngoài cửa Nam Huân mới trở về. Người ngựa
nhắm hướng Tế Châu mà đi, chuyện ấy không phải nói đến.
Lại nói bọn bốn người Yến Thanh, Đái
Tôn, Tiêu Nhượng, Nhạc Hoà ngày đêm đi gấp về sơn trại, kể hết mọi việc cho
Tống Công Minh và các đầu lĩnh nghe. Yến Thanh lấy tờ xá thư do chính tay Đạo
quân hoàng đế viết đưa cho Tống Giang và mọi người cùng xem. Ngô Dụng nói:
- Vậy thì lần này thế nào cũng có
tin vui.
Tống Giang đốt lò hương thơm, tay
cầm quyển thơ sấm của Cửu Thiên Huyền Nữ, ngửa mặt lên trời cầu khấn rồi bốc
một quẻ bói, được quẻ “thượng thượng đại cát” (rất tốt). Tống Giang cả mừng,
tin chắc công việc phen này sẽ xong xuôi. Lại sai Đái Tôn và Yến Thanh đi nghe
ngóng xem hư thực ra sao, về báo tin ngay để còn kịp chuẩn bị cho chu đáo. Đái
Tôn, Yến Thanh đi mấy hôm, trở về kể lại rằng: “Triều đình đã sai Túc thái uý
mang chiếu thư cùng ngự tửu, thẻ vàng, thẻ bạc, gấm vóc, áo quần lên đường đi
chiêu an, sớm muộn thế nào cũng sẽ đến!” Tống Giang nghe nói rất mừng, vội
truyền lệnh ngay giữa Trung Nghĩa đường, cắt cử từng người ai lo việc nấy, từ
Lương Sơn Bạc cho đến phần đất Tế Châu sai dựng hai mươi tư trạm cổng chào,
trên cổng treo cờ kết hoa, bên cổng sắp đặt sẵn môt đội nhạc sênh, tiêu, đàn,
trống, sai người đi khắp các châu quận xung quanh tìm thuê mời cho đủ số nhạc
công, phân chia đến các trạm cổng chào đợi sẵn để nghênh tiếp chiếu sắc. Mỗi
trạm cổng chào cử riêng một viên tiểu đầu mục để trông nom công việc. Một mặt
sai người chia nhau đi tìm mua các thứ vật phẩm hoa quả, tôm quý cá ngon, cất
rượu, làm sẵn những thức ăn khô, dựng làn che rập làm nơi yến tiệc.
Kể tiếp việc Túc thái uý vâng lĩnh
chiếu sắc đi chiêu an Lương Sơn Bạc, người ngựa một đoàn vòng vèo đến phủ Tế
Châu. Thái thú Tế Châu là Trương Thúc Dạ ra ngoài thành nghênh tiếp, mời về nhà
khách nghỉ ngơi. Vấn an sức khoẻ đi đường đã xong, Trương Thúc Dạ rót rượu bưng
mời Túc thái uý cạn chén tẩy trần. Trương Thúc Dạ thưa:
- Triều đình đã hai lần ban chiếu
sắc đi chiêu an, nhưng vì chọn cử không đúng người nên mới hỏng việc quốc gia
đại sự. Thái uý đi chuyến này thế nào cũng lập được công lớn cho nước nhà!
Túc thái uý nói:
- Gần đây thiên tử mới biết đám hảo
hán Lương Sơn Bạc ấy chỉ lấy điều nghĩa làm đầu, không xâm phạm các châu quận,
không giết hại lương dân, thường vẫn nói là thay trời hành đạo. Nay thiên tử tự
tay viết chiếu son giao cho hạ quan lĩnh mệnh đi chiêu an, sắc ban cho ba mươi
sáu thẻ vàng, bẩy mươi hai thẻ bạc, ba mươi sáu gấm điều, bẩy mươi hai tấm gấm
xanh, một trăm linh tám vò rượu ngự niêm phong giấy vàng, hai mươi bốn bộ quần
áo để đưa đi chiêu an, lễ vật như thể không biết đã tạm được chưa?
Trương Thúc Dạ đáp:
- Những kẻ ấy không phải hạng coi lễ
vật khinh trọng làm điều, chỉ mong được dốc lòng trung nghĩa báo đền ơn nước,
lưu danh cho hậu thế. Nếu được thái uý sớm đến thì nước nhà không đến nỗi phải
hao binh tổn tướng, tổn phí gạo tiền. Đám nghĩa sĩ ấy sau khi về hàng chắc sẽ
lập công lớn cho triều đình.
Túc thái uý nói:
- Hạ quan nghỉ chờ ở đây, dám phiền
quan thái thú thân hành lên sơn trại báo tin cho bọn họ biết để sửa soạn nghênh
tiếp.
Trương Thúc Dạ đáp:
- Tiểu nhân xin đi ngay!
Trương thái thú lập tức lên ngựa ra
khỏi thành cùng hơn chục người tuỳ tùng theo đường tắt lên Lương Sơn Bạc. Vừa
đến dưới chân núi đã thấy một tiểu đầu mục ra đón tiếp, báo tin lên đại trại.
Tống Giang nghe tin vội đi ngay xuống núi nghênh tiếp, mời Trương thái thú lên
Trung Nghĩa đường trên đại trại. Hai bên chào hỏi xong, Trương Thúc Dạ nói:
- Xin có lơì chúc mừng các nghĩa sĩ!
Triều đình đặc phái quan điện tiền Túc thái uý phụng lĩnh chiếu thư ngự bút đến
chiêu an, đưa theo các bản tặng như kim bài, ngự tửu, áo quần gấm vóc, hiện đã
đến thành Tế Châu. Nghĩa sĩ nên cho sửa soạn để nghênh tiếp chiếu chỉ.
Tống Giang cả mừng, xoa tay lên má
nói:
- Anh em Tống Giang tôi thật là được
hưởng phúc tái sinh!
Nói đoạn, mời Trương thái thú ở lại
nghỉ ngơi cơm nước.
Trương thái thú nói:
- Chẳng phải hạ quan có ý chối từ,
chỉ sợ thái uý quở trách là chậm trễ.
Tống Giang nói:
- Chỉ mời thái thú uống chén rượu,
chứ co dám soạn sửa gì đâu!
Trương Thúc Dạ nhất mực từ cóh6i ra
về. Tống Giang vội cho bưng ra một mâm vàng bạc để biếu Trương thái thú. Trương
thái thú nhìn thấy liền nói:
- Cái ấy hạ quan quyết không dám
nhận!
Tống Giang nói:
- Chúng tôi chỉ có chút lễ mọn gọi
là bầy tỏ tấm lòng thành, sau này công việc xong xuôi dám mong quan thái thú
vui lòng nhận cho.
Trương Thúc Dạ nói:
- Đa tạ nhã ý của nghĩa sĩ, xin cứ
giữ để ở quý trại, sau này nhận cũng không muộn!
Trương thái thú thật đáng gọi là
người biết giữ đức liêm chính. Có thơ làm chứng như sau:
Tế Châu thái thú thế vô song
Bất ái hoàng kim, ái Tống Giang
Tín thị thanh liêm năng phục chúng
Phi quan uy thế khả chiêu hàng.
Dịch:
Thái thú Tế Châu đức ai bằng
Chảng tham vàng bạc, mến Tống Giang
Mới hay liêm khiết dân đều phục
Thế mạnh phải đâu dụ được hàng.
Tống Giang bèn sai quân sư Ngô Dụng,
tiểu quân sư theo Trương thái thú xuống núi về thành Tế Châu yết kiến Túc thái
uý, hẹn đến ngày kia tất cả các đầu lĩnh sẽ ra ngoài trại ba mươi dặm đón đường
nghênh tiếp. Bọn Ngô Dụng cùng Trương thái thú xuống núi, thâu đêm đi đến phủ
Tế Châu. Ngày hôm sau đến công đường yết kiến Túc thái uý. Bốn ngườilạy chào
rồi quỳ đợi. Túc thái uý cho phép đứng dậy vào bảo ngồi. Bốn người khiêm tốn
không dám cùng ngồi. Túc thái uý hỏi họ tên từng người. Ngô Dụng thưa:
- Tiểu sinh là Ngô Dụng, còn đây là
Chu Vũ, Tiêu Nhượng, Nhạc Hoà. Chúng tôi vâng lệnh huynh trưởng Tống Công Minh
phái đến đây nghênh tiếp ấn tướng thái uý. Huynh trưởng chúng tôi cùng tất cả
các anh em ngày mai sẽ ra ngoài trại ba mươi dặm đợi chờ tiếp đón.
Túc thái uý cả mừng, nói:
- Này Gia Lượng tiên sinh (Ngô Dụng
giữ chức quân sư trong nghĩa quân của Tống Giang, nên Túc thái uý gọi là Gia
Lượng, ví như Gia Cát Lượng đời Tam Quốc), từ ngày gặp gỡ ở Hoa Châu thấm thoát
đã mấy năm rồi, ai ngờ hôm nay lại có dịp cùng nhau tái hội! Hạ quan vẫn biết
anh em các vị luôn giữ tấm lòng trung nghĩa, chỉ vì bọn gian thần rào đường rấp
lối, gian nịnh chuyên quyền, khiến anh em các vị không thể bày tỏ tình cảnh của
mình thấu đến bề trên. Nay thiên tử đã biết hết mọi chuyện, đặc mệnh cho hạ
quan đưa chiếu thư ngự bút cùng thẻ vàng, thẻ bạc, rượu ngự gấm vóc, áo quần
đến chiêu an. Anh em các vị chớ nên nghi ngờ, cứ thành tâm mà tiếp nhận.
Bọn Ngô dụng lạy hai lạy rồi thưa:
- Chúng tôi chỉ là bọn cuồng phu nơi
sơn dã mà dám phiền ân tướng phải khó nhọc đến đây. Anh em chúng tôi được đội
ơn thiên tử cũng là nhờ thái uý, dẫu khắc cốt ghi tâm cũng còn khó báo đền!
Sau đó Trương Thúc Dạ bầy tiệc khoản
đãi bọn anh em Ngô Dụng.
Sáng sớm ngày thứ ba, xe hương (xe
ngựa trang hoàng lộng lẫy ) ba cỗ sắp sẵn ở Tế Châu. Rượu ngự thì xếp vào thùng
gỗ to chạm hình long phượng chở riêng một xe; thẻ vàng, thẻ bạc, gấm hồng, gấm
xanh chở riêng một xe; còn chiếu thư ngự bút thì để lên ngai rồng đặt riêng
trên một xe. Túc thái uý lên ngựa đi bên phía trái ngai rồng, thái thú Trương
Thúc Dạ cưỡi ngựa theo sau, bọn Ngô Dụng bốn người nối bước, sau hết mới đến
lính tráng và tuỳ tùng lũ lượt đi theo. Lá cờ vàng trương cao trên ngựa trước,
đội chiêng trống cờ nheo mở lối tiếp theo, đoàn người ngựa ngoằn ngoèo tiến ra
khỏi thành Tế Châu. Chưa đầy mười dặm đã gặp trạm cổng chào đầu tiên. Ngồi trên
lưng là đội sênh tiêu đàn trống đứng sẵn bên đường chờ nghênh tiếp. Lại đi chưa
đầy mười dặm nữa, gặp trạm cổng chào thứ hai. Tới nơi đã thấy khói hương nghi
ngút, Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa quỳ phía trước, các đầu lĩnh khác cũng đều quỳ
hết đằng sau đợi chờ nghênh tiếp chiếu ân. Túc thái uý nói:
- Cho mọi người lên ngựa!
Tất cả cùng đi đến bến thuyền. Hơn
nghìn chiếc chiến thuyền của Lương Sơn Bạc đã đậu sẵn ở đấy, cùng lúc chở hết
người ngựa sang bãi Kim Sa lên bờ bên kia. Trước và sau cửa tam quan, tiếng
chiêng trống vang trời; quân sĩ nghi thức oai vệ xếp hàng chào đón suốt dọc
đường đi, trầm hương đốt lên thơm ngát. Mọi người lên đến Trung Nghĩa đường thì
xuống ngựa. Ngai rồng trên xe khiêng xuống đặt giữa nhà Trung Nghĩa. Giữa nhà
đặt ba chiếc kỷ án, đều phủ khăn lụa thêu hình long phượng. Án giữa đựng long
bài, để hai chữ “Vạn tuế”, chính giữa đặt chiếu son ngự bút; thẻ vàng, thẻ bạc
bầy trên án bên trái; gấm hồng, gấm xanh để trên án bên phải, phía trước đặt
ngự tửu và áo quần. Trầm thơm, hương quý nghi ngút cháy toả trong đỉnh đồng.
Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa mời Túc thái uý và Trương thái thú lên ngồi ở Trung
Nghĩa đường. Tiêu Nhượng, Nhạc Hoà đứng hầu bên trái; Bùi Tuyên, Yến Thanh đứng
hầu bên phải. Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa và các đầu lĩnh khác đều quỳ cả dưới
thềm.
Bùi Tuyên xướng lệnh, mọi người cúi
đầu lạy. Tiếc đó Tiêu Nhượng đọc chiếu văn:
“ Phán rằng: Trẫm từ khi lên ngôi
đến nay chỉ lấy điều nhân nghĩa để trị vì thiên hạ, lấy điêu thưởng phạt công
minh dẹp yên việc binh đao; cầu hiền chưa từng trễ nãi, yên dân lúc nào cũng lo
lắng như có điều sơ suất, con dân gần xa đều biết lòng trẫm.
Xét thấy các ngươi Tống Giang, Lư
Tuấn Nghĩa đều thật lòng trung nghĩa, không làm điều bạo ngược, ý quy thuận vẫn
đã từ lâu, có chí lớn muốn đền ơn giúp nước. Tuy đều phạm tội, nhưng mỗi người
đều bởi một nguyên do, xét rõ nội tình thật đáng nên thương xót.
Trẫm đặc sai quan tiền thái uý Túc
Nguyên Cảnh lĩnh chuyển chiếu thư đích thân đưa đến Lương Sơn Bạc ân xá hết mọi
điều tội lỗi cho Tống Giang cùng thuộc hạ lớn nhỏ; ban ba mươi sáu thẻ vàng, ba
mươi sáu tấm gấm hồng cho Tống Giang và các đại đầu lĩnh, lại ban bẩy mươi hai
thẻ bạc, bẩy mươi hai tấm gấm xanh cho các đầu mục bộ hạ của Tống Giang. Ngày
nào chiếu thư ân xá này đưa tới, các ngươi chớ phụ lòng trẫm, sớm thu xếp quy
thuận, ắt sẽ được trọng dụng.
Nay ban chiếu, tưởng các người đều
nên hiểu rõ.
Niên hiệu Tuyên Hoà thứ tư (1122)
mùa xuân, tháng hai, ngày….”
Tiêu Nhượng đọc xong chiếu văn, anh
em Tống Giang đều tung hô “Vạn tuế”, lạy hai lạy tạ ơn. Tiếp đó, Túc thái uý
lấy thẻ vàng, thẻ bạc, gấm hồng, gấm xanh sai Bùi Tuyên theo thứ tự trên dưới
mà ban phát. Rồi cho mở ngự tửu đổ vào vò bạc lớn, chuyển dần từng ấm, đốt lửa
hâm nóng ở ngay trước nhà Trung Nghĩa, sau đó đem rót đều vào các nậm bạc. Túc
thái uý cầm chiếc nậm bạc rót đầy một chén, nói với các đầu lĩnh:
- Túc Nguyên Cảnh tôi vâng mệnh
hoàng đế đưa ngự tửu đến đây ban cho các đầu lĩnh, nhưng thật lòng còn lo các
nghĩa sĩ có điều nghi ngờ, vậy Nguyên Cảnh tôi xin uống chén rượu này để các
nghĩa sĩ cùng nhìn thấy.
Các đầu lĩnh cùng lạy tạ hồi lâu.
Túc thái uý uống cạn, lại rót đầy một chén khác đưa mời Tống Giang. Tống Giang
nâng chén rượu quỳ mà uống, rồi đến Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng, Công Tôn
Thắng….khắp lượt một trăm linh tám đầu lĩnh đều uống cạn một tuần rượu ngự. Rồi
đó Tống Giang truyền lệnh bưng cất ngự tửu, mời Túc thái uý ngồi ghế chính toạ
để các đầu lĩnh lạy mừng. Tống Giang bước lên phía trước tạ ơn Túc thái uý,
nói:
- Tống Giang tôi ngày trước khi đến
núi Tây Nhạc may được biết uy dũng của đại nhân. Nay nhờ ơn thái uý hết sức tâu
bầy lên thiên tử, cứu vớt cho anh em tôi lại được thấy ánh mặt trời, công ơn ấy
anh em tôi nguyện khắc cốt ghi tâm, không khi nào dám quên.
Túc thái uý nói:
- Nguyên Cảnh tôi tuy biết các nghĩa
sĩ có lòng trung nghĩa, đáng kính tự đứng ra hành đạo thay trời, nhưng những
chuyện éo le uẩn khúc bên trong thì chưa được biết, vì vậy khi hầu thiên tử
chưa dám tâu lên, để đến nỗi chậm trễ như thế. Mới gần đây nhận được thư của
Văn tham mưu, lại được nghĩa sĩ có lòng cho lễ hậu, khi ấy Nguyên Cảnh tôi mới
thật rõ nội tình. Hôm ấy thiên tử lên nghỉ ở điện Phi Hương, Nguyên Cảnh tôi
được đứng hầu chuyện, thiên tử có hỏi về các nghĩa sĩ. Nguyên Cảnh tôi mới đem
việc tâu lên. Hay đâu thiên tử cũng đã biết rõ, khớp với lời tôi tâu. Ngày hôm
sau thiên tử ngự triều ở điện Văn Đức, trước mặt bá quan, quát mắng Đồng khu
mật, khiển trách Cao thái uý về tội mấy lần xuất quân mà chẳng nên công cán gì,
rồi thiên tử sai lấy văn phòng tứ bảo, tự tay cầm bút viết chiếu son, đặc cách
sai Nguyên Cảnh tôi chuyển giao đến quý trại; vậy cũng có lời thuật lại để các
đầu lĩnh đều được biết. Nguyên Cảnh tôi mong các nghĩa sĩ sớm thu xếp về kinh
để khỏi phụ lòng thiên tử ban chiếu vỗ yên.
Các đầu lĩnh đều vui mừng, chắp tay
vái tạ. Lễ nghi
như thế là xong. Trương thái thú thối thác rằng ở địa phương còn có việc bận,
cáo từ Túc thái uý, rồi xuống núi trở về Tế Châu.
Lại nói chuyện Tống Giang cho mời Văn tham mưu ra gặp Túc
thái uý. Túc thái uý vui vẻ kể chuyện cũ, niềm vui tràn ngập khắp Trung Nghĩa
đường. Tiếp đó Tống Giang mời Túc thái uý ngồi vào ghế giữa. Văn tham mưu ngồi
đối diện. Trên nhà, dưới sân bắt đầu bầy tiệc lớn, ai nấy theo ngôi thứ mà
ngồi, lần lượt nâng cốc chúc rượu. Nhà tiệc râm ran tưng bừng. Tuy không có nem
rồng chả phượng, nhưng đúng là thịt núi rượu sông. Ngày hôm ấy mọi người tận
sức say sưa rồi dìu nhau về nơi riêng an nghỉ. Hôm sau lại bày yến tiệc, ai nấy
đều thổ lộ tâm can, kể lại cho nhau nghe những điều mong ước bình sinh vẫn ấp ủ
trong lòng. Ngày thứ ba cũng bày tiệc, sau đó mời Túc thái uý đi chơi núi, đến
chiều lại ăn uống no say, rồi mọi người mới tản ra về. Thấm thoát đã hết mấy
ngày, Túc thái uý muốn về kinh nhưng anh em Tống Giang một mực mời giữ. Túc
thái uý nói:
- Các nghĩa sĩ chưa nõ nội tình. Nguyên Cảnh tôi vâng chỉ
của thiên tử đến đây, nghỉ ngơi cũng đã mấy ngày, may mắn được các anh hùng
khảng khái quy thuận, việc đại nghĩa như thế đã chu toàn. Nếu không gấp trở về
thì e kẻ gian thần ghen ghét đặt điều dị nghị.
Tống Giang nói:
- Thái uý đã nhất quyết như vậy, anh em tôi cũng không
dám cố nài. Cạn bữa rượu hôm nay, ngày mai xin tiễn đưa thái uý xuống núi.
Liền đó lại tụ tập các đầu lĩnh đến cùng nhau yến ẩm.
Giữa bữa rượu ai nấy đều nói lên lời cảm tạ. Túc thái uý lựa lời an ủi mọi
người. Chiều tối tan tiệc ai nấy mới lui về.
Sáng sớm hôm sau, xe ngựa đã sắp sẵn. Tống Giang tự tay
bưng một mâm vàng, ngọc vào trường thất của Túc thái uý, cúi đầu lạy hai lạy
rồi dâng lên. Túc thái uý từ chối không chịu nhận, Tống Giang phải hai ba lần
nài ép, thái uý mới bằng lòng nhận cho. Rương hòm quần áo gói buộc chất lên yên
ngựa chuẩn bị lên đường. Quân lính và người tuỳ tùng của Túc thái uý từ mấy
ngày nay do Chu Vũ và Nhạc Hoà lo việc khoản đãi theo đúng lệ chung, rượu thịt
mặc sức ăn uống, đồng thời cũng đã có vàng bạc vóc lụa hậu hĩnh tặng biếu riêng
cho từng người, ai nấy đều vui. Tống Giang đưa vàng bạc đến biếu Văn tham mưu.
Văn tham mưu chối từ, Tống Giang phải nài ép mãi mới chịu nhận.
Đông đủ các đầu lĩnh Lương Sơn Bạc cùng đội nhạc chiêng
trống đàn sáo tiễn đưa Túc thái uý xuống núi. Qua bến thuyền ở bãi Kim Sa còn
đi theo đến ngoài ba mươi dặm mới xuống ngựa rót rượu chạm cốc tiễn biệt. Tống
Giang nâng chén nói:
- Ân tướng về kinh yết kiến thiên tử, mong lựa lời bảo
tấu giúp cho!
Túc thái uý đáp:
- Các nghĩa sĩ cứ yên lòng, chỉ cốt nhất là thu xếp cho
mau chóng để sớm về kinh. Người ngựa về đến nơi thì báo cho ta biết, kịp thời
tâu lên thiên tử sai người đưa cờ lệnh tiết đi đón tiếp, như thế mới thật đúng
cung cách việc quan.
Tống Giang nói:
- Mong ân tướng xét cho: anh em tôi sinh sống chốn bờ lau
bến nước, từ khi Vương Luân lên núi mở mang cơ nghiệp, rồi tới Tiểu Cái, sau
đến lượt Tống Giang tôi, ròng rã đã mấy năm trời, quấy nhiễu dân cư quanh vùng
kể không phải ít. Cứ như ngụ ý của anh em tôi thì chuyến này muốn dốc hết tài
sản trong sơn trại phát mại trong mười ngày. Mọi việc thu xếp xong, tất cả sẽ
đi ngay về kinh không dám chậm trễ. Việc riêng của chúng tôi như vậy, dám mong
thái uý tâu lên thiên tử giúp để xin được nới thêm kỳ hạn.
Túc thái uý ưng thuận, rồi từ biệt mọi người, dẫn người
ngựa trong đoàn sứ bộ chiêu an đi về phía Tế Châu.
Anh em Tống Giang trở về đại trại, lên nhà Trung Nghĩa
đường đánh trống tập hợp quân sĩ. Các đầu lĩnh lớn nhỏ ngồi cả trên nhà, hiệu
uý, quân sĩ đều đứng dưới sân. Tống Giang truyền lệnh:
- Anh em chúng ta ở đây, kể từ Vương Luân khai sáng sơn
trại, sau đó Tiểu thiên vương có công xây đắp, cơ nghiệp mới hưng vượng như
ngày hôm nay. Riêng ta từ khi được anh em cứu thoát ở Giang Châu đưa lên đây,
suy tôn làm huynh trưởng, thấm thoát cũng đã mấy năm trời. Nay mừng được triều
đình đến chiêu an, anh em ta lại trông thấy mặt trời, sớm muộn ắt cũng sẽ về
kinh để ra tay giúp nước. Từ bấy giờ, tất cả các người giữ gìn những đồ vật gì
lấy được trong các kho tàng thì phải đem nộp trả lại để đem dùng vào việc công,
còn những tài vật vẫn có từ trước thì ta sẽ chia đều cho các ngươi. Anh em ta
tất cả một trăm lẻ tám anh em ta sớm muộn cùng về kinh triều kiến để khỏi phụ
ơn lớn của thiên tử. Còn quân sĩ các ngươi, cũng có kẻ tự ý lên đây làm nghề
lạc thảo, cũng có người theo chúng bạn mà lên, lại có người lâm trận bị vây hãm
phải theo hàng hoặc bị bắt đưa về sơn trại. Chuyến này em ta nhận chiêu an theo
về với triều đình, các ngươi ai muốn cùng đi thì ghi tên để biết rõ số lượng
đặng lên đường. Nếu không muốn đi theo cũng ghi tên để cùng nhau từ biệt, ta sẽ
thân đưa các ngươi xuống núi cho tuỳ ý làm ăn sinh sống.
Tống Giang truyền lệnh xong, giao cho Bùi Tuyên và Tiêu
Nhượng lo việc ghi chép danh sách. Hiệu lệnh đưa xuống, ba quân đội nào về đội
ấy cùng nhau bàn bạc. Những người xin về tất cả cũng đến bốn năm ngàn. Tống
Giang đều thưởng cho tiền vật rồi đưa tiễn xuống núi. Những người tự nguyện
sung quân cũng đều ghi tên lập sổ để báo lên quan.
Ngày hôm sau, Tống Giang giao cho Tiêu Nhượng viết cáo
thị, sai người đi dán các nơi, hiểu thị khắp xóm thôn, phường trấn ở các quận
quanh vùng cho dân chúng biết để lên sơn trại mua đồ phát mại liền trong mười
ngày. Cáo thị viết:
“Tống Giang các nghĩa sĩ Lương Sơn Bạc lấy đại nghĩa bố
cáo để gần xa đều biết như sau:
Anh em chúng tôi tụ tập ở chốn sơn lâm, quấy nhiễu dân
chúng bốn phương đã nhiều. Nay đội ơn thiên tử có lòng nhân đức khoan dung,
xuống chiếu ân xá cho mọi điều tội lỗi. Anh em chúng tôi đã nhận chiếu chiêu
an, sớm muộn cũng sẽ về kinh triều kiến thiên tử. Nay không biêt lấy gì để đáp
tạ mọi người, vậy xin phát mại sơn trại trong hạn mười ngày. Nếu trong hạn ấy
dân chúng đem tiền đến mua tất trong đó sẽ có phần báo đáp, không dám đơn sai.
Nay cáo thị để dân chúng gần xa đều biết, khỏi tránh né
hồ nghi.
Được đón tiếp mọi người lên sơn trại, thật chúng tôi rất
lấy làm mừng.
Niên hiệu Tuyên Hoà, năm thứ tư (1122) tháng ba.
Nghĩa sĩ Lương Sơn Bạc Tống Giang kính cáo.”
Tiêu Nhượng viết xong cáo thị, sai người đem đi dán khắp
thôn xóm phố phường trong các châu quận quanh vùng.
Bao nhiêu vàng bạc, châu báu, gấm vóc lụa là v…v… cất giữ
trong kho đều đưa ra phân chia cho các đầu lĩnh và quân sĩ, lại dành ra một
phần để cung hiến triều đình, còn nữa chất đống ở sơn trại đợi phát mãi hết cho
dân trong hạn mười ngày, bắt đầu từ mồng ba đến hết ngày mười ba tháng ba. Cho
giết dê mổ bò, ủ men nấu rượu, sửa soạn khoản đãi tất cả những người lên sơn
trại mua hàng, cũng là khao thưởng anh em quân sĩ.
Đúng ngày đã định, dân bốn phương từng đoàn tấp nập khoác
bao quảy níp lên sơn trại. Tống Giang ra lệnh trong mười hôm, ngày nào cũng như
thế. Hết hạn mười ngày, chấm dứt việc phát mại. Tống Giang truyền lệnh cho tất cả
mọi người thu xếp về kinh triều cận. Tống Giang có ý định cho đưa gia quyến các
anh em trở về làng cũ. Ngô Dụng can:
- Việc ấy xin chớ vội. Hãy tạm lưu gia quyến anh em ở lại
sơn trại ít lâu nữa, đợi anh em về kinh triều cận, được ban ấn tứ đâu đó xong
xuôi, khi ấy hãy cho đưa người già trẻ con các quân sĩ về quê quán cũng chưa
muộn.
Tống Giang nghe xong nói:
- Quân sư nói phải!
Lại tiếp lệnh truyền xuống cho các
đầu lĩnh thu xếp mọi việc, chỉnh đốn quân sĩ, rồi anh em Tống Giang hoả tốc lên
đường. Trước hết qua Tế Châu, đến cảm tạ thái thú Trương Thúc Dạ. Trương thái
thú liền mở tiệc khoản đãi các nghĩa sĩ, khao thưởng quân sĩ. Anh em Tống Giang
cáo từ Trương thái thú ra khỏi thành Tế Châu, tiếp tục dẫn đoàn quân người ngựa
thẳng đường về Đông Kinh. Tống Giang giao cho Đái Tôn và Yến Thanh đi trước về
kinh, đến dinh riêng báo tin cho Túc thái uý. Thái uý liền đi ngay vào cung tâu
lên thiên tử việcTống Giang đang đưa người ngựa về kinh. Thiên tử nghe nói cả
mừng, sai Túc thái uý cùng một viên chỉ huy đội ngự giá cầm cờ mao tiết ra
ngoài thành đón tiếp. Túc thái uý lĩnh thánh chỉ liền đi ngay ra ngoài thành.
Lại nói quân mã Tống Giang đi đường
hàng ngũ sắp xếp chỉnh tề. Trước đoàn quân trương hai lá cờ đỏ: một đề hai chữ
“Thuận Thiên”, một đề hai chữ “Hộ Quốc”. Các đầu lĩnh đều mặc giáp phục, chỉ có
Ngô Dụng chít khăn, mặc áo lông; Công Tôn Thắng khoác áo đạo bào lông hạc; Lỗ
Trí Thâm mặc cà sa màu đỏ lửa; Hành giả Võ Tòng choàng áo thụng đen, các đầu
lĩnh khác đều mặc chiến bào giáp sắt, thứ y phục chiến trận trước nay vẫn dùng.
Một ngày kia, người ngựa về đến ngoài thành Đông Kinh, vừa gặp lúc quan ngự giá
chỉ huy sứ cầm cờ lệnh tiết đi đón. Tống Giang được tin liền dẫn các đầu lĩnh
đến yết kiến Túc thái uý, sau đó cho người ngựa dừng lại đóng trại ở ngoài cửa
Tân Tào chờ thánh chỉ.
Nói tiếp, Túc thái uý và quan ngự
giá chỉ huy sứ trở về thành tâu với thiên tử:
- Quân mã của Tống Giang đã về, đóng
trại ngoài cửa Tân Tào chờ xin thánh chỉ.
Thiên tử truyền lệnh:
- Quả nhân lâu nay từng nghe anh em
Tống Giang một trăm lẻ tám người ở Lương Sơn Bạc ứng mệnh các thiên tinh, lại
có tiếng là những kẻ anh hùng dũng cảm. Nay bọn họ quy hàng và đã về đến kinh
sư: ngày mai quả nhân sẽ dẫn bá quan lên lầu Tuyên Đức. Hãy truyền cho anh em
Tống Giang cứ mặc giáp phục như khi lâm trận – nhưng không được đưa đại quân
người ngựa đi theo, chỉ cho phép dẫn chừng bốn năm trăm quân kỵ, quân bộ vào
thành, diễn hành từ phía đông qua phía tây cho quả nhân xem. Vả lại như thế
cũng là để cho quân dân trong thành đều được biết những anh hùng hào kiệt ấy
nay đã trở về làm kẻ tôi trung của triều đình. Sau đó truyền lệnh cho họ cởi bỏ
giáp phục, giao nộp hết vũ khí, tất cả đều phải mặc cẩm bào đã được ban, đi qua
cửa Đông Hoa môn đến điện Văn Đức triều kiến.
Quan chỉ huy sứ liền đi ngay đến
hành dinh truyền đạt thánh chỉ cho Tống Giang biết.
Ngày hôm sau, Tống Giang truyền lệnh
cho Thiết diện khổng mục Bùi Tuyên lựa chọn lấy những người thật vạm vỡ, hùng
dũng, lập thành đội quân bộ chừng năm bảy trăm người, đi đầu là đội chiên trống
cờ nheo, tiếp theo là quân vác thương đao phủ việc chính giữa trương cao hai lá
cờ đỏ “Thuận Thiên”, “Hộ Quốc” rồi đến quân sĩ đeo cung tên đao kiếm, mặc nhung
trang giáp phục như mọi khi, xếp thành đội ngũ, đi qua cửa Đông Qúach mà vào.
Dân chúng già trẻ và binh lính trong thành Đông Kinh dắt díu nhau đón đường chờ
xem như muốn tận mắt trông thấy các thiên thần.
Lúc bấy giờ thiên tử dẫn bá quan lên
lầu Tuyên Đức, đang tựa hiên đứng nhìn, thấy đi trước là đội chiêng trống cờ
nheo, sau đến các đội quân vác thương đao phủ việt, ở giữa có hai kỵ binh cưỡi
ngựa trắng giươnghai lá cờ đỏ “Thuận Thiên” và “Hộ Quốc”, hai bên có chừng hai
ba chục quân kỵ mã vừa đi vừa đánh trống, sau hết mới đến các đầu lĩnh và quân
tuỳ tùng nối gót tiến lên. Chưa biết các anh hùng hảo hán vào thành triều cận
thiên tử ra sao, chỉ thấy:
Thềm ngọc gió hoà, mâm vàng sương
đọng. Phương đông vầng nhật vừa lên, cửa bắc rèm châu nửa cuốn. Ngoài cửa Nam
Huân, trăm linh tám nghĩa sĩ trở về; trên lầu Tuyên Đức tựa hiên đấng chí tôn
trông xuống. Phép triều mới theo mà nghi thức trang nghiêm; quân dụng chỉnh tề
mà mặt mày hớn hở, Gió(1), Mưa (2)…. mặt trời đến cả muôn Sao (3), thảy đều
ngóng về đức vua nơi hạ giới. Sấm (4) vang, Chớp giật (5) đánh dẹp chẳng mượn
đến uy trời. Trước cửa khuyết, tụ họp các anh linh: có Thánh (6), có Tiên (7),
có Na Tra (8), có Kim Cương (9), có Diêm La (10), có Phán Quan (11), có Môn
thần (12), có Thái Tuế (13), cho đến Dạ Xoa (14), Ma (15), Quỷ (16), thảy đều
trông Hoàng đế Đạo quân.
Dưới lầu phượng muôn thú đến chầu:
nào Beo (17), nào Báo (18), nào Kỳ Lân (19), Sư Tử (20), Chó Ngao (21), Chồn
(22), Chim cắt (23), Diều hâu (24), Rùa (25), Vượn (26), đến cả Chó (27), Chuột
(28), Rắn (29), Bò cạp (30), cũng đều biết vua Tống là chúa tể muôn loài. Năm
rồng ôm mặt trời thì có: Rồng luồn mây (31), Rồng lặn sông (32), Rồng vượt rừng
(33), Rồng chín khoanh (34), Rồng một sừng (35), ào ào như bầy Giao long ra
khỏi đông (36), như đàn con Thần bơi sông (37), cũng lũ lượt về chầu thiên tử.
Bầy hổ lìa rừng thì có: Hổ mọc cánh
(38), Hổ nhẩy khe (39), Hổ lông gấm (40), Hổ cổ hoa (41), Hổ mắt xanh (42), Hổ
mặt cười (43), Hổ lùn (44), Hổ trúng tên (45), đến cả Hổ ốm (46), Hổ cái (47)
cũng theo bầy đi dự lễ.
Có tiếng rằng các bậc Công (48),
Hầu, Bá (49), Tử (50), am hiểu triều nghi; ai ngờ đâu trong đám lạy múa chúc
mừng lại có cả Thầy thuốc (51), Thầy toán (52), cùng là Kẻ làm vườn (53), Bác
thợ mộc (54), Ông chèo thuyền (55). Những tưởng rằng chỉ có bọn mày râu mới
được gia ân sủng mệnh, ban mũ tía áo hồng xem kỹ ra thì cả Đàn bà (56) đến
những Tay ăn chơi (57), sư sãi tu hành (58) đều được cả. Tự đặt lấy chức suông
thì có: Thái Bảo (59), Quân sư (60), Quận mã (61), Khổng mục (62), Lang (63),
Tường (64), Tiên phong (65), quan hàm bày trước ra đủ cả. Vì với người xưa thì
Bá vương (66), Lý Qủang (67), Quan Sách (68), Ôn Hầu (69), Uý Tri (70), Nhân
Quý (71), y như là các vị ấy tái sinh.
Nom bảnh trai thì như chàng Bạch
diện lang quân (72), mái tóc giắt cành hoa (73), lại nữa là chàng cầm ống tiêu
(74), Chàng cầm quạt (75), Chàng đánh trống (76), Chàng vác cờ (77), hẳn đều
muốn vui ca nhảy múa. Trông xấu xí thì như gã đầu thủ (78), mà lại đeo Mặt Quỷ
(79), cùng mấy ông vác Thương(80), xách Đao (81), cắp Roi (82), vuốt Tên (83)
đều những kẻ chiến trận vốn quen nghề. To lớn thì như Hiểm đạo thần (84), thân
cao một trượng (85). Dữ tợn thì như Thạch tướng quân (86), sức Át ba non (87).
Mắt dù xanh, tóc dù đỏ đều ôm ấp tấm lòng son. Với được trời (88), Giỡn được
sóng (89) mà đường gian nịnh quyết không dòm. Nay mừng thấy quân vương, nào phải
xưa đâu mà xấu hổ (90). Ơn trên khoan thứ, chức phòng (91) ban cho. Từ nay thôi
hết, đúng là chẳng cần chi Che đậy (92). Hãy cứ nhìn chàng thư sinh (93) trong
đám đông đang vung đao múa gậy, hẳn còn hơn phường quan lại chật sân triều,
chuyên đối nước hại dân. Nghĩa sĩ nay mừng gặp chủ mới; hoàng gia vui đón có
thêm người.
___________________
1- bắt đầu từ đây biệt hiệu của các
đầu lĩnh Lương Sơn Bạc sẽ được lần lượt nhắc đến – nhưng không theo đúng ngôi
thứ. Biệt hiệu của các đầu lĩnh nói chung là để thể hiện ý chí và sức mạnh của
từng người. Những biệt hiệu mang tên thú vật thường dùng tên những con thú hung
dữ hoặc có nhiều phép mầu nhiệm thường được nói đến trong thần thoại. Ở đây,
Phong: Hắc toàn phong Lý Quỳ (cơn
gió lốc đen), Tiểu toàn phong Sài Tiến (cơn lốc nhỏ)},
2- Cập thời vũ Tống Giang (trận mưa
đúng lúc) thường cũng gọi là Hồ Bảo Nghĩa (người kêu gọi bảo vệ chính nghĩa ).
3- Trí đa tinh Ngô Dụng (ngôi sao
nhiều mưu trí). Độc hoả tinh Khổng Lương (sao lửa). Mao đẩu tinh Khổng Minh
(ngôi sao nhỏ ).
4- Oạnh thiên lôi Lăng Chấn (tiếng
sét vang trời).
5- Tích lịch hoả Tần Minh ( tia chớp
lửa).
6- Phi thiên đại thánh Lý Cổn ( đại
thánh đi về như bay trên trời).
7- Thiết dịch tiên Mã Lân (ông tiên
thổi sáo sắt).
8- Bát tý Na Tra Hang Sung (Na Tra
tám tay).
9- Vân lý kim cương Tống Vạn (Phật
Kim Cương đi về trong mây).
10- Hoạt Diêm la Nguyễn Tiểu Thất (
Diêm la sống ).
11- Thôi mệnh phán quan Lý Lập –quan
toà hung dữ).
12- Tang môn thần Bao Húc ( thần giữ
cửa nhà có người chết).
13- Lập địa thái tuế Nguyễn Tiểu Nhi
(hung tin sa xuống đất. Thái tuế là tên sao, tức là Mộc tinh. Thuật chiêm tinh cho rằng Mộc tinh là
sao dữ, ứng vào vùng nào thì vùng ấy bị thiên tai rủi ro.
14- Mẫu dạ xoa Tôn Nhị Nương (dạ xoa cái).
15- Hỗn thế ma vương Phàn Thuỵ (ma vương quấy đời).
16- Xích phát quỷ Lưu Đường ( quỷ tóc đỏ). Thao đao quỷ
Tào Chính ( quỷ múa đao).
17- Kim nhãn bưu Thi Ân (beo mắt vàng).
18- Báo tử đầu Lâm Xung ( đầu báo); Kim tiền báo tử Thang
Long (báo đốm vàng); Cẩm báo tử Dương Lâm (báo vằn).
19- Ngọc kỳ lân Lư Tuấn Nghĩa ( kỳ lân ngậm ngọc).
20- Hoả nhãn toan nghê Dũng Phi ( sư tử mắt lửa).
21- Tinh mộc hãn Hách Tư Văn (chó ngao đen). Hãn là một
loại thú trong thần thoại vừa giống chó, vừa giống hổ, thường được dùng để gác
cửa ngục).
22- Hạn địa hốt tứ Chu Quý (chồn khát nước). Tứ là một
loài chồn.
23- Ma vãn kim si Âu Băng ( Chim cắt luồn mây).
24- Phốc thiên điêu Lý Ưng (diều hâu vút trời).
25- Cửu vĩ quy Đào Tông vương( rùa chín đuôi).
26- Thông tỉ viên Hầu Kiện ( vượn dài tay).
27- Kim mao khuyển Đoàn Cảnh Trú ( chó vàng ).
28- Bạch nhật thử Bạch Thắng ( chuột
ban ngày).
29- Lưỡng đầu xà Giải Trân ( rắn hai
đầu); Bạch hoa xà Dương Xuân ( rắn đốm).
30- Song vĩ yết Giải Bảo (bò cạp hai
đuôi).
31- Nhập vân long Công Tôn Thắng (Rồng
luồn mây).
32- Hỗn giang long Lý Tuấn (Rồng
quấy sông).
33- Xuất lãm long Trâu Uyên (Rồng ra
khỏi rừng).
34- Cửu vân long Sử Tiến (Rồng chín
khoanh).
35- Độc giác long Trâu Nhuận (Rồng
một sừng).
36- Xuất động giao Đồng Uy (Cá sấu
rời hang).
37- Thần: một loài giao long trong
thần thoại. Loài này ở ngoài biển, mình như rắn, có sừng, có phép lạ thổi hơi
nước lên làm thành lâu đài thành quách ngoài biển, gọi là Thần lầu. Phan giang
thần Đồng Mãnh (Thần lội sông).
38- Sáp sĩ hổ Lôi Hoành (Hổ chắp cánh).
39- Khiêu giản hổ Trần Đạt (Hổ nhảy
khe).
40- Cẩm mao hổ Yến Thuận (Hổ lông
gấm).
41- Hoa hang hổ Cung Vương (Hổ có
hoa).
42- Thanh nhãn hổ Lý Vân (Hổ mắt
xanh).
43- Tiếu diện hổ Chu Phủ (Hổ mặt
cười).
44- Nuỵ cước hổ Vương Anh (Hổ thọt).
45- Trúng tiễn hổ Đinh Đắc Tôn (Hổ
trúng tên).
46- Bệnh đại trùng Tiết Vĩnh (Hổ
ốm).
47- Mẫu đại trùng Cố Đại Tẩu (Hổ cái
).
48- Mỹ nhiêm công Chu Đồng (Ông râu
đẹp).
49- Tử nhiêm bá Hoàng Phủ Đoan (Ông
râu đỏ).
50- Thiết khiếu tử Nhạc Hoà (Cái còi
sắt).
51- Thần y An Đạo Toàn (thầy thuốc
giỏi).
52- Thần toán tử Tưởng Kính (thấy
tính giỏi).
53- Thái viên tử Trương Thanh (người
trông vườn rau), Trương Thanh nói đây là chữ Thanh không có bộ thuỷ.
54- Ngọc tí tượng Kim Đại Kiên
(người thợ mộc có bàn tay ngọc). Thiết tí bác Sái Phúc (cánh tay sắt ).
55- Thuyền hoả nhi Trương Hoành (ánh
lửa thuyền).
56- Hoạt thiểm bà Vương Định Lục (mụ
già chán đời). Vương Định Lục là đàn ông nhưng đặt hiệu như thế. (Trong các đầu
lĩnh có 3 phụ nữ: Hổ Tam Nương, Tôn Nhị Nương, Cố Đại Tẩu, đã nhắc đến ở chỗ
khác).
57- Lãng tử Yến Thanh (tay ăn chơi).
58- Hoa hoà thượng Lỗ Trí Thâm (hoà
thượng mặt rỗ). Hành giả Võ Tòng (nhà sư đi khuyến thiện).
59- Thần hành thái bảo Đái Tôn (ông
thủ từ đi nhanh).
60- Thần cơ quân sư Chu Vũ (quân sư
giỏi mưu kế).
61- Xú quận mã Tuyên Tần (phò mã xấu
xí).
62- Thiết diện khổng mục Bùi Tuyên
(quan toà mặt sắt).
63- Đoản mệnh nhị lang Nguyễn Tiểu
Ngũ (chàng hai xấu số); Phanh mệnh tam lang Thạch Tú (chàng Ba liều mạng).
64- Thánh thuỷ tướng quân Đan Đinh
Khuê (tướng nước thánh) bách thắng.
65- Cấp tiên phong Sách Siêu (tướng
tiên phong nóng tính).
66- Tiểu bá vương Chu Thông (bá
vương nhỏ).
67- Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh (Lý Qủang
nhỏ - Lý Quảng là danh tướng đời Hán).
68- Bệnh Quan Sách Dương Hùng.
69- Tiểu Ôn Hầu Lã Phương.
70- Bệnh Uý Tri Tôn Lập (Uý Tri ốm).
Tiểu Uý Tri Tôn Tần (Uý Tri nhỏ). Uý Tri (cũng đọc là Uất Tri), tức Uất Tri
Kinh Đức, danh tướng đời Đường.
71- Trại Nhân Quý Quách Thịnh.
72- Bạch diện lang quân Trịnh Thiên
Thọ (chàng mặt trắng).
73- Nhất chí hoa Sài Khánh (một cành
hoa).
74- Thiết khiếu tử Nhạc Hoà (ống sáo
sắt).
75- Thiết phiên tử Tống Thanh (chiếc
quạt sắt).
76- Cổ thượng tảo Thời Thiên (bọ
chét đâu trên trống).
77- Ngọc phan can Mạnh Khang (cán cờ
bằng ngọc).
78- Thanh diện thú Dương Chí (thú
mặt xanh).
79- Quỷ kiểm nhi Đỗ Hưng (gã mặt
quỷ).
80- Kim thương thủ Từ Ninh (tay
thương sắt). Song thương tướng Đổng Bình (tướng đánh song thương ).
81- Đại đao Quan Thắng (tướng đánh
đại đao).
82- Song tiên Hồ Diên Chước (tướng
đánh hai roi sắt).
83- Một vũ tiễn Trương Thanh (tên
không lòng). Một vũ tiễn nghĩa là mũi tên không có cánh, tức là hòn đá. Trong
các đầu lĩnh có hai người tên gọi đều là Trương Thanh. Chữ Thanh của Một vũ
tiễn là chữ Thanh có chấm thuỷ; còn người kia là Thái viên tử Trương Thanh, chữ
Thanh không có chấm thuỷ.
84- Hiểm đạo thần Úc Bảo Tứ (thần
giữ đường hẻm).
85- Nhất trượng thanh Hổ Tam Nương
(xanh tươi khắp một trượng).
86- Thạch tướng quân Thạch Dũng (ông
tướng đá).
87- Trấn tam sơn Hoàng Tín (trấn ngự
ba núi).
88- Mô đắc thiên Đỗ Thiên (sờ được
trời).
89- Lãng lý bạch điều Trương Thuận
(giải bọt trắng trên sóng).
90- Một diện mục Tiêu Đĩnh (gã xấu
xí).
91- Phòng ngự là tên một chức quan
võ tức là chức Phòng ngự sử đặt từ đời Đường. Từ đời Tống về sau chỉ còn là hư
chức. Đến đời Minh thì bỏ. Đây nói “ban cho chức phòng ngự”, tức là chỉ được hư
vị, không có thực quyền.
92- Một già lan Mục Hoằng (không che
dấu), tiểu già lan Mục Xuân (cho giấu chút ít).
93- Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng
(người học trò chữ đẹp).
Nói tiếp chuyện Đạo quân hoàng đế
cùng các quan đứng trên lầu Tuyên Đức xem đoàn quân Lương Sơn Bạc diễu qua,
thiên tử cả mừng nói với các quan: “Đám hảo hán ấy thật xứng đáng là những kẻ
anh hùng!”, rồi cứ tấm tắc khen ngợi mãi. Sau đó sai quan điện đầu truyền lệnh
cho anh em Tống Giang thay mặc áo cẩm bào đã được ban để vào triều kiến.
Quan diện đầu truyền lệnh, anh em
Tống Giang đến trước cửa Đông Hoa cởi bỏ giáp trụ, thay mặc áo gấm màu hồng,
màu xanh, đeo thẻ vàng, thẻ bạc, chít khăn chầu, đi hài xanh; chỉ có mấy người
là Công Tôn Thắng dùng gấm hồng may theo kiểu đạo bào. Lỗ Trí Thâm may kiểu áo
cà sa, Võ hành gỉa may kiểu áo choàng thụng, ai nấy đều không dám quên ơn vua.
Rồi Tống Giang cùng Lư Tuấn Nghĩa đi đầu, Ngô Dụng và Công Tôn Thắng đi sau dẫn
mọi người qua cửa Đông Hoa đi vào trong hoàng thành.
Hôm ấy nghi thức thiết triều sửa
soạn rất ngihêm trang. Xe loan chờ sẵn, đúng đầu giờ Thìn rước thiên tử đến ngự
triều ở điện Văn Đức. Lễ quan dẫn anh em Tống Giang theo thứ tự vào sân chầu,
xếp hàng làm lễ. Quan điện đầu xướng lệnh lạy mừng. Lạy xong mọi người đều tung
hô “vạn tuế”. Thiên tử lấy làm hài lòng, cho gọi tất cả lên trên điện Văn Đức
theo ngôi thứ mà ngồi, đoạn sai bầy ngự yến. Quang Lộc tự sắp xếp yến tiệc,
lương uẩn thự ( là ty rượu), lo việc tiếp rượu, trân tu thự (là ty thực phẩm
quý. Cả 3 thự này đều lo việc rượu thịt ăn uống trong triều. Ở đây, chúng tôi
cứ để như tên gọi trong nguyên văn ), soạn món ăn, chưởng hải thự (là ty thịt)
lo việc làm cơm, dại quan thự dâng hầu ngự thiện. Ty giáo phường điều khiển tấu
nhạc. Thiên tử đích thân ngồi ghế báu dự yến với mọi người.
Rõ là:
Cửu trùng mở cửa, dặt dìu, nghe
tiếng loan vang
Thiên đình (1) vén mây, ngây ngất
vời trông áo cổn
Áo cổn (long cổn); áo thêu hình rồng
cuộn, áo của vua
Chiếu tiệc đồi mồi, đồ thiệt bảo
sáng choang;
Lò trầm kỳ lân, hương bách hoà
thoang thoảng.
Cốc pha lê xếp liền nậm hổ phách.
Chén mã não để cạnh bình san hô.
Giữa mâm ngọc chất cao gan phượng
lân bộc (2)
Trên dĩa vàng xếp đầy chân hươu tay
gấu
Thức canh thang, nước hoa đào rắc
thịt dê vàng,
Món gỏi tươi, miến tơ bạc gói nhân
chép đỏ.
Chén hoàng kim rượu nóng rót đầy.
Cốc tử hà nước quỳnh sỏi bọt.
Năm mâm, tám bồn,
Trăm thức, nhiều món,
Nay mứt ngon, vị đường ngọt lịm,
Nọ bánh quý, hương sữa thơm lừng…
Giữa lúc: Rượu mời tiến năm tuần,
Thang vừa dâng ba đợt,
Ty giáo phường đưa đội nhạc bước
vào,
Ty lễ nhạc dẫn phường trò tiến đến.
Lần lượt qua hành lang, các vai xin
kể rõ:
Người thứ nhất, vai phụ, khăn đóng
sơn đen bóng loáng
Áo lụa hoa, dáng điệu đàng hoàng.
Người thứ hai, vai dẫn trò, đai lưng
sừng tê rẽ nước, khăn là hoa đỏ lá xanh, áo kép quần chúng, chân đi ủng thấp
ngắn mỏ, vạt áo vàng vân sơn thuỷ thêu đầy.
_________________________________
1 - ở đây dịch ý từ Xương Hạp. Vương
Dật chú thích thơ Ly tao của Khuất Nguyên, viết rằng: Xương hạp là cửa trời”.
Hồng Hưng Tổ chú thích thêm “Cửa trời là cửa cung tử vi, nơi thượng đế ở”. Câu
này ý nói yến tiệc tưng bừng đến nỗi trên thiên đình cũng phải vén mây trông
xuống.
2- Lân bộc: chả kỳ lân.
Người thứ ba, vai trung, đầu đội mũ
đính ngà tơ đeo ngọc, mặc áo là trong lót hàng tơ, vào đến nơi liền cất tiếng
giáo đầu, đọc mấy đoạn tản văn hiếm có.
Người thứ thư, vai nịnh, nói năng
xem chừng hấp dẫn mặt mày tỏ vẻ loẹt loè, theo điệu ca hàng viện (1) cất tiếng
hát rất mùi.
Người thứ năm, vai nịnh phụ, hớt hơ
hớt hải, liếc dọc, nhìn ngang; bên gò má bôi một vết sẹo to; ngang đỉnh trán tô
hai đường vôi trắng; quấn đầu một chiếc khăn sờn nhờn loáng; khoác đụn áo bông
lếch thếch lôi thôi, roi quất hai trận xem cũng như chơi, gậy phang sáu đòn
chừng không đau đớn.
Theo sau năm vai ấy là đội múa sáu
mươi tư người, cùng đội nhạc một trăm hai mươi người nữa.
Kẻ này khăn xanh mũ ống, người nọ
đai đỏ áo hoa.
Đánh trống thổi kèn, âm thanh lay
chuyển trời mây;
gẫy đàn gõ phách tiếng vang hãi hùng
chim cá.
Xem diễn trò ai nấy đều xuýt xoa;
nghe khôi hài người người cùng khen giỏi.
Múa thi có các bài “Năm thái bình
muôn nước đến chầu”, “Đời thịnh trị trị bát tiên chúc thọ”. Trò thì có các lớp:
“Huyền Tông mơ chơi Cung Quảng Hàn”, “Địch Thanh đêm cướp Côn Lôn quan”,
Không những có thần, tiên, tăng, đạo
Mà cũng đủ con hiếu, cháu hiền
Người được xem thì chí vững lòng bền
kẻ được nghe đủ tu tâm dưỡng tính.
Một lát sau, tâm người đội trưởng đi
phù theo bốn mỹ nữ ra trình,
Vừa ca, vừa múa
________________________________________-
1- Nguyên văn: viện bản, bản hát của
các hàng viện, sau trở thành một loại từ khúc phổ biến đời Kim, Nguyên.
Đàn sáo vang lừng.
Hát các bài “Chầu thiên tử”, “Chúc
thánh triều”
“Đội ơn vua”, “Vui trước điện”, đều
là những thanh âm thịnh trị.
Múa các điệu: “Tuý hồi hồi”, “Hoạt
Quan âm”,
“Liễu Thanh nương”, “Bảo lão nhi”,
phong thái giữ được vẻ
Thuần nhiên.
Qủa thật là:
Trâm báu giát đai lưng;
Trân châu đeo diễm áo,
Khi cười,hoa trước mắt
Múa xong, gấm bao đầu (1)
Tiệc lớn cũng vừa xong
Đàn sáo nổi vang lừng.
Khánh chúc thánh thọ vô cương.
Khắp trong thiên hạ bốn phương đều
mừng.
1- Cầm triền đầu: khi xem hát múa ở
cung đình, nếu nghệ nhân diễn hay thường được quan khách đem gấm vóc đến khoác
lên đầu để ban thưởng.
Việc này có thơ làm chứng như sau:
Cửu trùng phong khuyết tân khai yến
Thiên tuế long tri cựu tử y
Cái thế công danh nàng tự lập
Thi tâm trung nghĩa khởi tương vi
Tưng bừng tiệc lớn, mới vừa thôi.
Áo gấm hôm nay đã mặc rồi.
Lừng lẫy công danh đều nức tiếng
Tấm lòng trung nghĩa chẳng pha phôi.
Nói tiếp, hôm ấy thiên tử ban ngự yến cho anh em Tống
Giang đến chiều muộn mới tan. Tạ ơn xong, mỗi người đều được phát một cành trâm
hoa để tiện việc ra vào, rồi tất cả cáo từ a ngoài cửa Tây Hoa lên ngựa trở về
doanh trại. Ngày hôm sau anh em Tống Giang lại vào thành, quan chủ lễ dẫn mọi
người đến điện Văn Đức làm lễ tạ ơn. Thiên tử rất hài lòng, dự định sẽ phong
quan ban tước cho, bèn truyền lệnh bảo anh em Tống Giang ngày mai đến thụ chức.
Anh em Tống Giang tạ ơn rồi ra khỏi hoàng cung trở về doanh trại, việc không có
gì phải nói.
Lại nói các quan ở viện khu mật dâng sớ tâu: “Những người
mới nhận chiếu chiêu an chưa lập được công lao, không nên vội phong quan ban
tước, đợi sau này sai đi đánh dẹp có công, khi ấy hãy xét mà phong thưởng. Nay
bọn họ quân lính đông mấy vạn người đóng trại ở sát kinh thành, điều ấy thật
không nên. Xin bệ hạ cho phân tán ngay quân mã bộ hạ của bọn Tống Giang; những
tướng nào khi trước vẫn ở kinh sư, lâm trận bị bọn chúng bức hàng thì nay được
ở lại kinh sư; quân lính các tỉnh khác thì ở đâu đưa về nơi ấy. Số quân còn lại
thì chia làm năm đạo diễu đi Sơn Đông, Hà Bắc. Như thế mới là thượng sách”.
Ngày hôm sau thiên tử sai quan ngự giá chỉ huy sứ đến
doanh trại truyền thánh chỉ cho anh em Tống Giang phải phân tán ngay người
ngựa, ai ở đâu về đấy. Các đầu lĩnh nghe xong đều bất bình nói:
- Anh em chúng tôi nhận chiếu chiêu an của triều đình,
chưa ai được quan tước gì, nay lại định phân tán đưa mỗi người đi một ngả. Anh
em các đầu lĩnh chúng tôi sống chết có nhau, quyết không khi nào chịu chia lìa.
Nếu việc đúng như thế thì chúng tôi chỉ còn cách quay về Lương Sơn Bạc!
Tống Giang vội vàng ngăn lại, rồi lấy lời trung nói với
quan chỉ huy sứ để kh về triều tâu lại với thiên tử thì xin giấu việc ấy đi
cho. Nhưng quan chỉ huy sứ về cung không dám giấu giếm, đành phải tâu lên để
thiên tử biết sự việc vừa rồi. Thiên tử nghe nói cả kinh, bèn sai gọi các quan ở
viện khu mật đến bàn. Khu mật sứ Đồng Quân tâu rằng:
- Bọn ấy tuy về hàng, nhưng lòng dạ không hối cải, trước
sau rồi cũng gây ra hoạ lớn. Theo ngụ ý của thần thì chi bằng bệ hạ cứ truyền
lệnh lừa gọi cả bọn vào thành rồi bắt giết hết một trăm linh tám tên, sau đó
phân tán người ngựa đi các nơi để trừ mối hậu hoạ cho nước nhà.
Thiên tử nghe tâu xong, lặng yên nghĩ ngợi chưa dám
quyết. Đang lúc ấy, từ sau bức bình phong có một viên đại thần mặc áo tía, đeo
thẻ ngà bước ra lớn tiếng quát:
- Bốn phương binh lửa chưa tắt mà giữa chốn kinh sư đã
gây mầm tai hoạ, đó là tội ác của bọn gian thần các ngươi làm hư nát thiên hạ
của thánh triều!
Người ấy đúng là:
Lấy lời lẽ giữ yên thiên hạ
Tránh khỏi điều đất chuyển trời rung.
Chưa biết viên đại thần từ sau bức
bình phong bước ra quát đó là ai, xem hồi sau sẽ rõ.
Phụ Lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét