Hồi 95 -
Tống Công Minh Trung Nghĩa Động Thần Đất,
Đang nói chuyện Hắc toàn phong Lý
Quỳ không nghe lời can ngăn của Đường Bân và Cảnh Cung, dẫn quân đánh sang trận
quân Điền Hổ nên bị Kiều Đạo Thanh vây khốn, hơn năm trăm người ngựa bị bắt
sống không sót một ai. Cảnh Cung biết tình thế bất lợi liền rẽ cương ra roi
thúc ngựa chạy miết về hướng đông. Đường Bân thấy bọn Lý Quỳ bị vây hãm, quân
lính rối loạn, lại thấy Cảnh Cung đã bỏ chạy, nghĩ bụng: "Phép thuật của
Kiều Đạo Thanh rất lợi hại, ta không thoát thân được, ắt sẽ bị chê cười. Nghe
nói người làm tướng không sợ chết, chỉ lo mất thanh danh, đến nước này, ta còn
tiếc gì mạng sống". Nghĩ đoạn Đường Bân phóng ngựa xách mâu xông tới. Thấy
Đường Bân giận dữ hầm hầm, Kiều Đạo thanh vội chắp tay bắt quyết niệm chú, rồi
quát:"mau!". Từ giữa trận quân Bắc, một trận cát vàng cuốn tung rào
rào bay vào mặt Đường Bân. Đường Bân tối mắt chưa biết đối phó ra sao thì quân
Bắc ập tới đâm bị thương ở đùi trái. Đường Bân lăn nhào xuống đất rồi bị bắt
sống. Nguyên bên quân Bắc có lệ định ai bắt sống được tướng giặc thì được
thưởng gấp đôi, vì thế các tướng bên quân Tống bị bắt thường không bị giết hại.
Hơn một vạn người ngựa bộ hạ của Đường Bân cũng bị cát bụi bay tối mắt, người
ngựa bị chém giết như sung rụng, quân sĩ bị thiệt hại mất quá nửa.
Lại nói Lâm Xung, Từ Ninh đang ở cửa
đông, nghe tiếng la hét vang trời ở phía nam, vội đưa quân đến tiếp ứng. Các
tướng giữ thành Chiêu Đức là bọn Tôn Kỳ thấy cờ hiệu của Kiều Đạo Thanh vội mở
cổng thành đón vào. Bọn anh em Lý Quỳ đều bị áp giải vào thành. Còn Cảnh Cung
và đám tàn quân, người ngựa lệch yên, tốc mũ, khi thấy bọn Lâm Xung, Từ Ninh
mới ghìm cương dừng ngựa. Lâm Xung, Từ Ninh vội đưa Cảnh Cung về đại trại, một
lúc sau lại gặp Vương Anh, Hỗm Tam Nương dẫn ba trăm quân kỵ đi do thám trở về.
Cảnh Cung kể lại việc bọn Lý Quỳ bị Kiều Đạo Thanh bắt sống. Tống Giang lo sợ
nói:
- Bọn Lý Quỳ phen này nguy mất!
Ngô Dụng an ủi:
- Huynh trưởng chớ quá buồn phiền để
còn bàn tính các việc cần thiết khác. Giặc có yêu thuật, phải cho người đi gấp
về Hồ Quan gọi Phàn Thụy đến để đối phó.
Tống Giang nói:
- Cần đi gọi Phàn Thụy, nhưng cũng
phải đem quân đi bắt ngay tên giặc ấy để đổi anh em Lý Quỳ về.
Ngô Dụng can ngăn nhưng Tống Giang
không chịu nghe.
Tống tiên phong lập tức truyền lệnh
cho Ngô Dụng chỉ huy các tướng ở lại giữ trại, tự mình thống lĩnh bọn Lâm Xung,
Từ Ninh, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường, Thang Long, Lý Vân, Úc Bảo Tứ đem hai
vạn quân mã bộ tiến gấp phía nam thành Chiêu Đức. Sách Siêu, Trương Thanh dẫn
quân đi sau tiếp ứng rồi cùng hội quân tiến sát đến chân thành.
Lại nói Kiều Đạo Thanh trở về suý
phủ ở thành Chiêu Đức, bọn Tôn Kỳ đều đến yết kiến. Tôn Kỳ chưa kịp bày tiệc
khoản đãi thì có quân thám mã vào báo tin quân Tống kéo đến. Kiều Đạo Thanh tức
giận nói:
- Bọn này thật vô lễ!
Kiều Đạo Thanh lại bảo Tôn Kỳ:
- Ta đi bắt sống Tống Giang rồi sẽ
về ngay dự tiệc!
Nói đoạn Kiều Đạo Thanh lên ngựa,
dẫn bốn viên phó tướng và ba nghìn quân mã ra ngoài thành nghênh chiến.
Bấy giờ quân Tống Giang đang bày
trận khiêu chiến, chợt thấy cổng thành mở toang, cầu treo hạ xuống, rồi một đội
quân mã từ trong cửa thành ào ra. Người đạo sĩ cưỡi ngựa ra trước chính là
Huyễn ma quân Kiều Đạo Thanh tay cầm bảo kiếm, dẫn quân vượt qua cầu. Quân hai
bên dàn trận đối nhau, cờ trống dàn ngang hai hàng, các tay cung nỏ bắn tên ra
một lượt để lấy mốc bày trận. Tù và trống trận cả hai phía rúc vang. Bên trận
quân Tống, Tống tiên phong dẫn quân lên đứng dưới môn kỳ, Úc Bảo Tứ cầm cờ suý
dừng ngựa đứng trước, bên tả có Lâm Xung, Từ Ninh, Lỗ Trí Thâm, Lưu Đường, bên
hữu có Sách Siêu, Trương Thanh, Võ Tòng, Thang Long. Tất cả làm tám viên chánh
phó tướng theo hộ vệ. Tống tiên phong hầm hầm tức giận chỉ Kiều Đạo Thanh mắng
rằng:
- Tên phản nghịch mau trả mấy người
bị bắt cho ta! nếu chậm trễ ta sẽ phang thây các ngươi làm muôn mảnh!
Kiều Đạo Thanh quát đáp:
- Tống Giang không được vô lễ! ta
không trả để xem ngươi làm được gì?
Tống Giang cả giận giơ roi chỉ lên
trước. Bọn Lâm Xung, Từ Ninh, Sách Siêu, Trương Thanh, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng,
Lưu Đường nhất loạt xông lên. Kiều Đạo Thanh đánh răng bắt quyết niệm chú rồi
giơ thanh kiếm chỉ về hướng tây, quát to "mau!".
Chỉ trong chớp mắt thấy vô số thiên
binh thiên tướng từ phía tây bay tới vây chặt quân Tống. Kiều Đạo Thanh lại giơ
kiếm chỉ về phía bắc, miệng lẩm nhẩm đọc chú rồi quát: "mau!" Trời
đát bỗng tối sầm, mặt trời tự nhiên mất hẳn ánh sáng, cát bay đá chạy, đất
chuyển trời rung. Bọn Lâm Xung đang tiến lên thì thấy phía cát bụi bay mù mịt
mà không thấy một bóng quân giặc. Quân sĩ của Lâm Xung hoảng sợ rối loạn. Lâm
Xung vội quay lại hộ vệ Tống Giang chạy về phía bắc. Kiều Đạo Thanh vẫy quân
xông vào chém giết. Quân Tống Giang người ngựa tan tác bị cắt đức thành bảy tám
đoạn không cứu ứng được nhau. Tống Giang dẫn quân lui chạy chưa đầy nửa dặm thì
thấy đằng trước hiện ra một quang cảnh lạ lùng: nơi đây vốn là một vùng đất
bằng phẳng, giờ đây nước dâng tràn ngập, sóng bạc mênh mông, dẫu chắp cánh cũng
không thể nào bay qua được, phía sau thì cánh quân Kiều Đạo Thanh đang duổi
theo rất gấp. Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường cùng đường chán nản kêu to:
"chẳng lẽ bó tay chịu trói cả sao?" Ba người quay lại cố chạy về phía
bắc. Bỗng nghe một tiếng sét nổ, giữa lưng chừng trời hiện ra hơn hai mươi vị
thần tướng mặc áo giáp vàng cầm binh khí đánh xuống. Cả Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng,
Lưu Đường đều bị quân Kiều Đạo Thanh đuổi theo bắt sống. Tiếp đó lại nghe tiếng
quát to: "Tống Giang hãy xuống ngựa chịu trói". Tống Giang ngửa mặt
lên trời than rằng:
- Tống Giang này dẫu chết cũng không
tiếc thân, chỉ ân hận ơn vua chưa kịp báo đền, cha mẹ già nua không ai phụng
dưỡng, lại còn bọn Lý Quỳ chưa biết sống chết ra sao. Sự thể đã đến thế này chỉ
còn liều một chết cho khỏi nhục nhã!
Bọn Lâm Xung, Từ Ninh, Sách Siêu,
Trương Thanh, Thang Long, Lý Vân, Úc Bảo Tứ theo hộ vệ Tống Giang đều nói:
- Chúng tôi xin theo sát huynh
trưởng, quyết đánh tan quân quỷ dữ này!
Giữa lúc nguy khốn ấy lại thêm Úc
Bảo Tứ bị trúng tên. Nhưng Úc Bảo Tứ vẫn giữ chắc ngọn cờ suý trong tay, nửa
bước không rời Tống tiên phong. Quân Kiều Đạo Thanh thấy bên quân Tống vẫn còn
cờ suý nên cũng không dám khinh suất đuổi theo.
Tống Giang và các đầu lĩnh đã tuốt
tuần đao kiếm sắp cùng nhau tự sát thì thấy một người từ xa chạy tới ngăn lại.
Người ấy nói:
- Hãy khoan đã. Ta là thổ thần ở
miền đất này, thấy các ngươi một lòng trung nghĩa nên tới giúp phá trừ yêu thuỷ
để cứu các ngươi.
Các tướng ngước lên thấy người ấy
tóc đen, trền đầu có hai sừng, mình đen trùng trục, ngang lưng chỉ quấn một
manh khố vàng, tay trái cầm một chiếc đục đạc. Vị thổ thần cúi xuống bốc một
nắm đất ném vugn ra xa, chỉ trong chớp mắt đất bằng lại nguyên vẹn như cũ. Thổ
thần nói:
- Các ngươi còn phải chịu tai ách
mấy ngày nữa. Bây giờ đã phá được yêu thuỷ, các ngươi mau trở về trại, sai
người đi Vệ Châu may ra mới tìm được người đủ tài giỏi trừ tai nạn.
Thổ thần nói xong biến thành một
luồng gió bay đi. Mọi người kinh ngạc hồi lâu, rồi hộ vệ Tống Giang chạy gấp về
phía nam. Chạy được năm sáu dặm lại thấy phía trước cát bụi cuốn tung, rồi một
đội quân mã từ phía nam tiến đến. Đội quân mã một vạn người đó do Ngô Dụng cùng
bọn Vương Anh, Hỗ Tam Nương, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Giải Trân, Giải Bảo chỉ huy
đến cứu ứng. Tống Giang nói với Ngô Dụng:
- Ta không nghe lời khuyên của hiền
đệ nên chỉ thiếu chút nữa thì anh em không còn được gặp nhau!
Mọi người cùng nhau về trại kể cho
Ngô Dụng nghe chuyện thua trận, lúc lâm nguy gặp thổ thần cứu giúp. Ngô Dụng
nói:
- Lòng trung nghĩa của huynh trưởng
cảm động được thổ thần, thổ có thể khắc thuỷ là như thế.
Bấy giờ anh em bọn Tống Ginag cùng ngước
lên trời vái tạ. Gần tối hôm ấy có đám tàn quân chạy về kể lại rằng giữa lúc
rối loạn bọn Tôn Kỳ, Diệp Thanh, Kim Đĩnh, Hoàng Viêt cho mở cửa thành phía nam
tung quân đánh ra, quân triều đình bị thương, bị giết rất nhiều, số còn lại tan
tác chạy trốn. Tống Giang cho điểm lại quân sĩ, tất cả mất hơn một vạn người.
Ngô Dụng nói với Tống Giag:
- Giặc biết dùng yêu thuật, thắng
liền quân ta hai trận, nay phải bàn sẵn mưu kế đề phòng bọn chúng lại đến cướp
trại. Bây giờ là lúc tướng sĩ bên ta mệt mỏi hoảng sợ, nếu giặc kéo đến nữa thì
làm sao chống cự được? Xin huynh trưởng cho lui đại quân về phía sau, chờ cơ
hội khác.
Tống Giang liền truyền cho lui quân
mười dặm, đóng trại từng cụm, trại lớn bao lấy trại nhỏ theo thế trận Lục Hoa
của Lý Dượng Sư. Các tướng tuân lệnh thi hành. Vừa đóng trại xong thì có tin
báo Phàn Thụy từ cửa Hồ Quan vâng lệnh đã đến. Phàn Thụy vào trại yết kiến Tống
tiên phong. Phàn Thụy nói:
- Huynh trưởng cứ yên lòng, dù Kiều
Đạo Thanh có yêu thuật, ngày mai tiểu nhân cũng sẽ bắt sống hắn đem về nộp cho
huynh trưởng.
Ngô Dụng nói:
- Chúng không đến khiêu chiến thì ta
cứ án binh bất động, đợi Công Tôn Nhất Thanh đến sẽ cùng bàn tính thêm.
Tống Ginag truyền lệnh cho Trương
Thanh, Vương Anh, Giải Trân, Giải Bảo đem năm trăm quân khinh kỵ thâu đem vượt
ải Hồ Quan về Vệ Châu mời Công Tôn Thắng đến giúp phá yêu thuật của Kiều Đạo
Thanh. Bọn Trương Thanh từ biệt Tống Giang rồi lên đường. Một mặt Tống Giang
cho cắm chông, rào trại vững chắc, sửa soạn cung tên sẵn sàng.
Lại nói Kiều Đạo Thanh dùng yêu
thuật bao vây Tống Giang chỉ còn đợi đuổi lên bắt sống. Bỗng trong chớp mắt
thấy nước rút hết, Kiều Đạo Thanh biết có kẻ phá được yêu thuật của mình liền
nói:
- Giải phá được phép thuật của ta,
bên quân của chúng ắt phải có dị nhân.
Nói đoạn Kiều Đạo Thanh cho thu
quân, cùng bọn Tôn Kỳ trở về suý phủ. Tôn Kỳ sai bày tiệc chúc mừng. Quân sĩ
trói gô bọn Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường cùng bọn Lý Qùy, Bao Húc, Hạng
Sung, Lý Cổn, Đường Bân đã bị bắt từ trước áp giải đến trước trướng quân. Tôn Kỳ
đứng bên trái Kiều Đạo Thanh, thấy Đường Bân liền quát mắng:
- Tấn vương đối xử với ngươi chưa
từng tệ bạc, sao ngươi nhẫn tâm phản nghịch?
Đường Bân quát lớn:
- Bọn chúng bay đã đến ngày tận số.
Kiều Đạo Thanh hỏi họ tên từng
người. Lý Quỳ dựng ngược tóc gáy quắc mắt, phanh áo quát đáp:
- Thằng giặc hãy nghe cho rõ: ta đây
là bố đen Hắc toàn phong Lý Quỳ!
Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng không thèm đáp,
Kiều Đạo Thanh nói:
- Các ngươi chịu quy hàng, ta sẽ tâu
với Tấn vương xin phong chức tước cho các ngươi.
Lý Quỳ quát gầm lên:
- Mi đừng há miệng thối ra nữa! mi
có muốn cắt đầu bố đen mi đây thì cứ việc chặt mấy trăm nhát tuỳ thích.
Bọn Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường
đều lớn tiếng mắng Kiều Đạo Thanh:
- Tên yêu quái kia muốn làm gì tuỳ
mi, nhưng bọn ta chân sắt không biết quỳ!
Kiều Đạo Thanh cả giận quát lôi cả
bọn ra chém. Lỗ Trí Thâm ha hả cười vang:
- Lão gia vẫn xem chết như về, nay
lại được chết còn gì bằng!
Quân đao phủ dẫn bọn Lý Quỳ đi ra.
Kiều Đạo Thanh nghĩ bụng: "từ trước ta chưa thấy kẻ nào cứng cỏi như bọn
này, cứ tạm giam đó đã, đợi xem thế nào". Nghĩ đoạn Kiều Đạo Thanh bảo
quân sĩ hãy tạm nhốt bọn Lý Quỳ vào ngục tối. Võ Tòng nói lớn:
- Bọn nhơ bẩn có giỏi thì cứ chém!
Kiều Đạo Thanh cúi đầu không dám
đáp. Quân đao phủ lại đem bọn Lý Quỳ giam vào ngục tối.
Kiều Đạo Thanh thấy phép thuật
"tam muội thần thuỷ" không linh nghiệm trong lòng đã có phần lo lắng
nên chỉ cho quân đóng trong thành để còn nghe ngóng động tĩnh bên quân Tống xem
sao. Vì thế đến năm sáu ngày liền cả hai bên đóng quân không động. Bọn Nhiếp
Tân, Phùng Kỷ đưa đại quân đến, vào thành yết kiến Đạo Thanh rồi cũng cho hết
người ngựa đóng trại trong thành. Kiều Đạo Thanh thấy quân Tống Giang chỉ cố
thủ doanh trại cho là không có gì đáng ngại, bèn cùng bọn Tôn Kỳ, Đái Mỹ, Nhiếp
Tân, Phùng Kỷ đem hai vạn người ngựa đi đánh. Trời chưa sáng rõ, Kiều Đạo Thanh
đã đưa quân ra khỏi thành, tiến đến đóng trại ở núi Ngũ Long, đợi sáng rõ thì
cho quân tiến đánh. Kiều Đạo Thanh nói với Tôn Kỳ:
- Hôm nay ắt phải bắt sống Tống
Giang lấy lại cửa ải Hồ Quan.
Tôn Kỳ nói:
- Chỉ trông mong ở phép thuật của
quốc sư mà thôi.
Trời vừa sáng rõ, Kiều Đạo Thanh
thống lĩnh một vạn quân mã bộ tiến về phía đại trại của Tống Giang.
Quân do thám phi báo với Tống tiên
phong biết. Tống Giang sai Phàn Thụy, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc điểm quân
sửa ngựa sẵn sàng nghênh địch.
Kiều Đạo Thanh đang đứng trên gò cao
nhìn doanh trại quân Tống, bỗng nghe một tiếng pháo lệnh nổ vang. Rồi cửa trại
của quân Tống mở toang, một đội quân mã ào ạt kéo ra. Cờ lệnh đủ màu tung bay
trước trận, trống thúc vang trời. Kiều Đạo Thanh ra trước trận có bọn Lôi Chấn,
Nghê Lân, Phi Trân, Tiết Xán theo hộ vệ hai bên tả hữu. Bên trận quân Tống từ
dưới cửa môn kỳ một viên tướng phóng ngựa ra. Đó chính là Hỗn thế ma vương Phàn
Thụy. Phàn Thụy cầm bảo kiếm chỉ Kiều Thanh mắng rằng:
- Tên giặc kia sao dám trổ ngón độc
ác!
Kiều Đạo Thanh nghĩ bụng:
"người này ắt phải có pháp thụât đây. Để thử xem sao". Nghĩ đoạn,
Kiều Đạo Thanh quát đáp:
- Tên bại tướng không biết hổ thẹn
hay sao? liệu ngươi có dám thi thố võ nghệ với ta?
Phàn Thụy đáp:
- Muốn đọ sức thì ngươi hãy tới đây
nếm lữơi kiếm của ta.
Quân hai bên hò reo giục trống. Phàn
Thụy vung kiếm vỗ ngựa xông đến đánh. Kiều Đạo Thanh cũng múa gươm thúc vào
trận: cả Kiều Đạo Thanh và Phàn Thụy đều trổ phép thần thông, chỉ còn thấy hai
luồng khí đen tạt bên trái, quật bên phải, một tiến một lùi không phân biẹt
được nữa. Quân sĩ hai bên chỉ còn biết đứng nhìn. Một lúc sau, Phàn Thụy thấy
một đường kiếm của Kiều Đạo Thanh chém hụt liền đưa ngay một nhát vào đầu Kiều
Đạo Thanh, không may cũng bị hụt, Phàn Thụy súyt nữa mất đà ngã ngựa. Thì ra
đường kiếm ấy Kiều Đạo Thanh cố ý chém hụt, dử cho Phàn Thụy chém tới, trong
khi đó thì y dùng phép "ô long thoát cốt" (rồng đen trút xương) đã
trở về trước trận nhà từ lâu rồi. Thấy Phàn Thụy mất đà suýt ngã, Kiều Đạo
Thanh ha hả cười vang. Phàn Thụy cũng vội quay về. Lúc ấy từ dưới cửa môn kỳ,
bên trái có Thánh thuỷ tướng quân Đan Đình Khuê dẫn năm trăm quân bộ xong ra.
Tất cả đều mặc áo giáp đen, trương cờ đen, một tay cầm thuẫn che thân, một tay
cầm giáo ba chĩa sắc lưỡi ngạnh cứng. Bên hữu có Thần hoả tướng quân Ngụy Định
Quốc dẫn năm trăm quân hỏa binh mặc áo đỏ, tay cầm hoả khí, trước sau theo hộ
vệ năm mươi cỗ hoả xa (xe phóng lửa), trên mỗi xe đều có sẵn các vật dễ cháy
như lau khô, sậy héo. Quân sĩ ai nấy đều đeo một ống bầu bằng sắt đựng các chất
phát hoả như lưu quỳnh, diêm tiêu, thuốc khói năm màu, tất cả cùng một lúc châm
lửa. Hai đội quân ấy bên trái như mây đen cuốn đất, bên phải thì như lửa đỏ
ngút trời ào ạt cùng xông lên phía trước. Quân Kiều Đạo Thanh kiếp sợ bỏ chạy.
Kiều Đạo Thanh quát to: "kẻ nào lui thì chém". Rồi tay phải giơ thanh
bảo kiếm, miệng lẩm nhẩm niệm chú. Trong chớp mắt, mây đen kín đất, gió to sấm
lớn cùng lúc nổi lên, tiếp theo là một trận mưa đá tới tấp giáng xuống giữa đám
Thánh thuỷ quân, Thần hỏa quan. Tia sét nhìn nhằng, những đám lửa do quân Tống
đốt lên đều tắt ngấm. Quân Tống hàng ngũ tan tác, ai nấy ôm đầu chạy trốn. Đan
Đình Khuê, Ngụy Định Quốc hoảng sợ không biết đối phó cách nào đành liều chạy
lui về bản trại. Một lúc sau mây tan mưa tạnh, trên mặt đất vẫn còn vô số những
cục nước đá to bằng nắm tay. Bấy giờ, Kiều Đạo Thanh cao giọng gọi to:
- Bên quân Tống có kẻ nào có phép
thần thông biến hoá giỏi hơn không?
Phàn Thụy tức giận, xõa tóc cầm kiếm
ngồi trên ngựa dốc hết pháp thuật bình sinh, miệng lẩm nhẩm niệm chú. Lập tức
gío bão bốn phía ầm ầm nổi lên, cát bay đá chạy, trời đất tối sầm. Thấy Phàn
Thụy xua quân quay lại đánh, Kiều Đạo Thanh cười nói:
- Phép thuật của ngươi chỉ có thế
thôi ư?
Nói đạon giơ kiếm làm phép, miệng
đọc chú, bỗng thấy gió bão quật lại phía quân Tống, giữa lưng chừng trời một
tiéng sét nổ vang rồi thấy hiện ra vô số thần binh thiên tướng ầm ầm đánh
xuống. Quân Tống Giang ngựa hí người kêu, rối loạn chạy trốn. Kiều Đạo Thanh
cùng bốn viên phó tướng thúc quân tiến lên đuổi đánh. Phàn Thụy thấy phép thuật
của mình không linh nghiệm phải quay ngựa chạy về.
Đang lúc muôn phần nguy cấp, bỗng
thấy từ trong trại quân Tống Giang loé lên một đạo hào quang phá tan cơn gió
cát, thần linh thiên tướng đều lả tả rơi xuống đất. Mọi người nhìn kỹ mới biết
đó chỉ là giấy ngũ sắc cắt ra.
Kiều Đạo Thanh thấy phép thần binh
của mình bị phá liền xoã tóc giơ kiếm, bắt quyết niệm chú,
quát:"mau!" Kiều Đạo Thanh lại một lần nữa dùng phép Tam muội thần
thuỷ. Trong phút chốc muôn nghìn luồng khí đen cuộn đến đầy trời. Đúng lúc ấy
bên quân Tống Giang một đạo sĩ phong ngựa ra trước trận. Đạo sĩ cầm thanh kiếm
Cổ Định, chạm khắc hoa văn cành tùng, miệng lẩm nhẩm niệm chú rồi quát:
"mau!" Bỗng thấy giữa trời hiện ra vô số thần tướng mặc áo bào vàng
bay nhanh về phía bắc, quyét sạch những luồng khí đen. Kiều Đạo Thanh xiết đỗi
kinh sợ, không biết đối phó ra sao. Quân Tống Giang thấy vị đạo sĩ ấy đã phá được
yêu thuật, ai nấy vui mừng reo to:
- Yêu tặc Kiều Đạo Thanh gặp phải
địch thủ cao cường rồi!
Kiều Đạo Thanh nghe xong hổ thẹn đỏ
mặt, vội lui về bản trận. Xưa nay Kiều Đạo Thanh quen trổ phép thần thông biến
hoá, đến nay phải một phen bạt vía cúi đầu, đúng là:
Cho dầu vốc cạn bao sông núi
Khó rửa sáng nay mặt thẹn thùng.
Chưa biết vị đạo sĩ phá yêu thuật
cho quân Tống là ai, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 96 -
Hỗn Ma Quân Thua Trận Ngũ Long Sơn
Đang nói chuyện vị đạo sĩ bên quân
Tống Giang phá được yêu thuật của Kiều Đạo Thanh chính là Nhập Vân Long Công
Tôn Thắng. Công Tôn Thắng đang ở Vệ Châu tiếp mệnh lệnh của Tống tiên phong
liền cùng bọn Vương Anh, Trương Thanh, Giải Trân, Giải Bảo lên đường ruổi sao
đi gấp theo đại quân. Tới nơi, Công Tôn Thắng liền vào trướng yết kiến Tống
tiên phong, vừa đúng lúc Kiều Đạo Thanh đang trổ tài yêu thuật đánh lại Phàn
Thụy. Hôm ấy là ngày mồng tám tháng hai, lịch can chi là ngày Mậu Ngọ. Mậu
thuộc về thổ. Công Tôn Thắng liền làm phép thỉnh cầu các vị Thiên Can thần
tướng đến phá tan thuỷ trận ở phương Nhâm Quý. Tà khí của Kiều Đạo Thanh bị
quyét sạch, trời xanh nắng sáng lại trở về như cũ. Tống Giang, Công Tôn Thắng
sánh ngựa ra trước trận. Lúc ấy Kiều Đạo Thanh hổ thẹn đang dẫn người ngựa rút
lui về phía nam. Công Tôn Thắng nói:
- Kiều Đạo Thanh thua phép phải bỏ
chạy, nếu thả cho hắn về thành thì sau này khó trị lắm. Huynh trưởng nên sai
ngay Từ Ninh, Sách Siêu lĩh năm ngàn quan, theo đường phía đông, đi tạt sang
cửa thành phía nam để chặn đức đường về của hắn. Sai Vương Anh, Tôn Tân lĩnh
năm nghìn quân đi gấp chặn đường cửa tây, hễ gặp Kiều Đạo Thanh thua trận trở
về thì chặn không cho vào thành.
Tống Giang theo kế ấy cắt cử các
tướng thi hành, ai nấy tuân lệnh ra đi.
Bấy giờ đã gần trưa, Tống Giang và
Công Tôn Thắng thống lĩnh bọn Lâm Xung, Trương Thanh, Thang Long, Lý Vân, Hỗ
Tam Nương, Cố Đại Tẩu cùng hai vạn quân mã bộ đuổi lên phía trước. Bên quân
Bắc, bọn Lôi Chấn hộ vệ Kiều Đạo Thanh vừa đánh vừa chạy. Phía trước lại có một
đội quân mã nữa tiến đến. Đó là quân của Tôn Kỳ, Nhiếp Tân. Bọn Kiều Đạo Thanh,
Tôn Kỳ hội binh trở về doanh trại ở núi Ngũ Long. Bỗng nghe phía sau có tiếng
trống thúc phèng khua, quân Tống hò hét vang trời đang đuổi đến Tôn Kỳ nói:
- Mời quốc sư vào đóng giữ trong
trại, Tôn Kỳ tôi xin quyết chiến!
Kiều Đạo Thanh đã trót huênh hoang
khóac lác là yêu thuật chưa từng gặp kẻ nào đáng kể là đối thủ, nay bị quân
Tống truy đuổi thì lấy làm xấu hổ, bèn nói với Tôn Kỳ rằng:
- các ngươi cứ lui về phía sau, chờ
ta lên trước đánh tan bọn chúng.
Nói đoạn dừng quân bầy trận rồi một
mình một ngựa phóng lên trước, bọn Lôi Chấn theo hộ vệ hai bên. Kiều Đạo Thanh
cất giọng quát to:
- Bọn giặc cỏ sao dám lừa bịp? ta
quyết cùng bọn người một phen sống chết.
Kiều Đạo Thanh vốn sinh trưởng ở đất
Kinh Nguyên cuối miền tây bắc, cách Sơn Đông khá xa, không biết rõ tình hình
bên quân Tống Giang.
Bên quân Tống Giang cờ lệnh phất
trái vẫy phải, điều khiển quân sĩ xếp thành thế trận hai mặt trông nhau. Tù và,
trống trận nổi vang. Ở phía nam cờ vàng phấp phới. Từ dưới môn kỳ có hai tướng
cưỡi ngựa ra trận: ngồi trên lưng ngựa thẳng lối chính giữa là Sơn Đông Hô bảo
nghĩa Cập thời vũ Tống Công Minh, bên trái là Nhập Vân long Công Tôn Nhất
Thanh. Công Tôn Nhất Thanh tay cầm bảo kiếm giơ lên chỉ Kiều Đạo Thanh mà nói:
- Pháp thuật của ngươi không phải là
chính pháp, mau xuống ngựa quy hàng!
Kiều Đạo Thanh đáp:
- Chẳng may pháp thuật của ta không
thiêng. ngươi dám bảo ta hàng phục?
Công Tôn Thắng nói:
- Ngươi còn dám trổ ngón gì nữa
không?
Kiều Đạo Thanh quát:
- Ngươi xem thường ta quá lắm, phải
cho ngươi biết phép thuật của ta!
Kiều Đạo Thanh lẩm nhẩm niệm chú rồi
nhìn vào Phí Trân mà vẫy tay. Ngọn thương thép của Phí Trân liền rời khỏi tay
rồi chờn vờn bay tới đâm vào Công Tôn Thắng. Công Tôn Thắng cũng giơ kiếm chỉ
vào Tần Minh. Cây lang nha côn của Tần Minh liền rời khỏi tay Tần Minh bay tới
đón chặn ngọn thương thép. Hai binh khí cái tiến cái lùi, vù vù rít gió giao
đấu với nhau giữa không trung. Quân hai bên hò reo khen giỏi. Chợt nghe một
tiếng kêu "rắc", quân đội bên hò reo vang dậy; giữa không trung, cây
lang nha côn đã đánh rơi ngọn thương thép. Ngọn thương rơi trúng vào trống trận
của quân Bắc, phát ra một tiếng "tùng" rồi cắm xuyên vào xẻ rách mặt
trống. Tên quân giữ trống khiếp sợ tái mặt. Cây lang nha côn lại trở về với Tần
Minh. Công Tôn Thắng quát:
- Ngươi còn múa rìu qua mắt thợ nữa
không?
Kiều Đạo Thanh lại bắt quyết niệm
chú, giơ tay vẫy về phía bắc, quát:"mau!" Bỗng từ phía lũng núi Ngũ
Long sau trại quân Bắc có một đám mây đen bay lên, trong mây hiện ra một con
rồng đen trương vảy quẫy đuôi bay đến. Công Tôn Thắng ha hả cười to rồi cũng
giơ tay vẫy về phía Ngũ Long sơn, liền thấy một con rồng vàng từ trong lũng núi
bay vụt ra toả mây mù chặn đánh rồng đen giữa không trung. Kiều Đạo Thanh
gọi:"thanh long đến mau!" liền thấy một con rồng xanh từ trên đỉmh
núi bay tới, tiếp theo sau là một con rồng bạch cùng bay kịp lên giao chiến.
Quân hai bên đều đứng xem. Kiều Đạo Thanh giơ kiếm gọi to:"xích long ra
mau!" Trong khoảnh khắc, một con rồng đỏ từ trong lũng núi bay đến. Năm
rồng giao chiến giữa không trung. Quả là theo đúng thuyết ngũ hành: năm chất
kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ "tương sinh tương khắc". Lốc to gió lớn nổi
lên, quân sĩ vác cờ của cả hai bên bị gió cuốn một lúc ngã liền mấy chục tên.
Công Tôn Thắng tay trái giơ kiếm, tay phải cầm chiếc phất trần ném lên trời.
Chiếc phất trần lộn một vòng rồi biến thành một con chim trông giống như con
ngỗng trời bay đi. Trong khoảnh khắc con chim ấy đã bay cao, càng cao càng lớn
ra, vờn theo luồng gió lốc mà bay lên tận chín tầng mây, biến thành con chim
bằng vươn cánh như đám mây buông ngang trời. Con thần ưng nhằm đúng giữa năm
con rồng bổ nhào xuống đánh. Chỉ nghe tiếng rào rào như tiếng sấm ở tít trời
cao, năm con rồng bị đánh sầy da sầy vẩy. Nguyên là ở núi Ngũ Long có điềm
thiêng trên vùng núi thường có đám mây năm sắc hiện lên. Thấy thần báo mộng,
dân chúng cùng nhau lập miếu thờ. Giữa miếu có bầy bài vị Long vương đắp tượng
năm con rồng xanh, vàng, đỏ, đen, trắng uốn lượn trên cột miếu, mỗi con ứng với
một phương. Những tượng rồng ấy đắp bằng đất sét, ngoài tô nhũ vàng. Cả Kiều
Đạo Thanh và Công Tôn Thắng đều dùng phép gọi năm con rồng ấy vào cuộc chiến.
Công Tôn Thắng lại dùng chiếc phất trần hoá phép biến thành chim bằng bổ nhào
xuống đánh. Cả năm con rồng đất tả tơi rơi xuống. Kiều Đạo Thanh đành chịu bó
tay, lại bị đuôi con rồng vàng rơi xuống trúng đầu làm bẹp chiếc mũ đạo sĩ của
y. Công Tôn Thắng lại vẫy tay, chim bằng liền biến mất, chiếc phất trần lại trở
về trong tay Công Tôn Thắng. Kiều Đạo Thanh còn muốn trổ yêu thuật nữa, nhưng
Công Tôn Thắng đã dùng phép Ngũ lôi thần thông, gọi một vị thần mặc áo giáp
vàng hiện ra trên đầu Kiều Đạo Thanh mà quát:
- Kiều Đạo Thanh hãy xuống ngựa chịu
trói!
Kiều Đạo Thanh lẩm nhẩm niệm chú
nhưng không thấy linh nghiệm nữa. Kiều Đạo Thanh vội quất ngựa chạy về trận
nhà, Lâm Xung xách xà mâu phóng ngựa đuổi theo quát:
- Tên yêu đạo kia chớ chạy!
Bên quân Bắc, Nghê Lân khua đao thúc
ngựa chạy lên chặn đánh. Lôi Chấn cũng cầm kích phong ngựa lên trợ chiến. Bên
quân Tống Giang có Thang Long vác chuỳ sắt xông tới chặn đánh. Quân hai bên hò
la vang dậy, bốn viên chiến tướng phân làm hai đội ra sức giao chiến giữa trận.
Nghê Lân và Lâm Xung đánh hơn hai mươi hiệp vẫn không phân thắng bại. Lâm Xung
lựa đúng lúc đối phương đâm trượt liền phóng mâu đâm trúng chân ngựa của Nghê
Lân. Con ngựa ngã nhào, Nghê Lân bị hất lăn xuống đất liền bị Lâm Xung phóng
mâu đâm trúng ngực chết ngay tại trận. Lôi Chấn thấy Nghê Lân ngã ngựa bèn cố ý
đâm dứ một đường rồi giật ngựa chạy. Thang Long đuổi kịp, vung thiết chuỳ vụt
trúng. Lôi Chấn toác mũ sắt, vỡ đầu chết lăn dưới ngựa. Tống Giang giơ roi chỉ
lên trước. Bọn Trương Thanh, Lý Vân, Hỗ Tam Nương, Cố Đại Tẩu nhất loạt xông
lên. Quân Bắc rối loạn tìm đường chạy trốn, bị chém giết nhiều không kể xiết.
Tôn Kỳ, Nhiếp Tân, Phí Trân, Tiết
Xan theo hộ vệ Kiều Đạo Thanh chạy về Chiêu Đức. Cả bọn chạy vòng ra sau núi,
còn cách thành chừng năm sáu dặm. Bỗng nghe phía trước trống nổi vang trời,
quân sĩ hò reo dậy đất, một đội quân theo con đường nhỏ phía đông đang tiến
đến. Hai tướng dẫn đầu là Kim thương thủ Từ Ninh và Cấp tiên phong Sách Siêu.
Quân hai bên chưa kịp giao chiến lại có thêm một đội quân nữa vừa tiếp đến. Đó
là năm nghìn quân ở thành Chiêu Đức do hai tướng trấn thủ Đái Mỹ và Ông Khuê mở
cửa thành phía nam ra tiếp ứng. Từ Ninh, Sách Siêu chia nhau hai đường cự địch.
Sách Siêu dẫn hai nghìn quân tiến lên đánh phía bắc. Đái Mỹ đi đầu, xuất trận
đấu với Sách Siêu, chưa đuợc mười hiệp thì bị Sách Siêu vung búa chém đứt làm
hai đoạn. Ông Khuê vội đưa quân quay về thành, Sách Siêu phóng ngựa đuổi theo
chém hơn trăm tên, đuổi sát tận chân thành cửa nam thì người ngựa của Ông Khuê
đã vào thành, rút cầu treo, đứng trên mặt thành lao gỗ bắn đá xuống như mưa.
Sách Siêu đành phải đưa quân trở về.
Lại nói Từ Ninh dẫn ba nghìn quân
chặn đường rút lui của bọn Tôn Kỳ. Bọn Tôn Kỳ, Nhiếp Tân tuy bị thua một trận
nhưng lúc ấy vẫn còn đến hơn hai vạn quân. Tôn Kỳ, Nhiếp Tân cố sức đánh quân
của Từ Ninh để lấy đường thoát. Phí Trân và Tiết Xán không tham đánh, dẫn năm
nghìn quân kỵ hộ vệ Kiều Đạo Thanh chạy về hướng tây. Từ Ninh một mình hết sức
chống cự với Tôn Kỳ, Nhiếp Tân, bị lọt vào giữa vòng vây. May có Tống tiên
phong và Sách Siêu từ hai phía nam, bắc kịp đưa quân đến. Tôn Kỳ, Nhiếp Tân
không chịu nổi quân ba mặt đánh tới. Nghiếp Tân bị Từ Ninh phóng câu liêm đâm
trúng tay trái, ngã nhào rồi bị người ngựa xông lên xéo nát. Tôn Kỳ cướp đường
toan chạy, bị Trương Thanh đuổi kịp đâm thương trúng vào gáy lăn nhào xuống
đất. Ba vạn quân người ngựa của Kiều Đạo Thanh bị chém giết quá nửa, thây chết
đầy đồng, máu chảy thành sông. Chiêng trống, áo giáp mũ trụ, ngựa chiến vứt bỏ
giữa bãi chiến trường nhiều không đếm xuể, người ngựa sống sót tìm đường chạy
trốn tán loạn.
Tống Giang, Công Tôn Thắng, Lâm
Xung, Trương Thanh, Thang Long, Lý Vân, Hỗ Tam Nương, Cố Đại Tẩu cùng bọn Từ
Ninh, Sách Siêu hợp binh làm một, tất cả hai vạn năm nghìn quân. Nghe báo Kiều
Đạo Thanh cùng bọn Phí Trân, Tiết Xán dẫn năm nghìn quân mã chạy trốn về phía
tây, Tống Giang muốn cho quân đuổi theo, nhưng lúc ấy trời đã xế chiều, người
ngựa đều đói mệt nên Tống tiên phong muốn thu quân về trại ăn uống nghỉ ngơi.
Giữa lúc ấy có tin bọn Phàn Thuỵ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc do quân sư Ngô
Dụng sai đem một vạn quân mã đi tiếp ứng đã tới. Tống tiên phong cả mừng.
Công Tôn Thắng nói:
- Bây giờ đã có thêm quân đến cứu
viện, tiên phong cùng các vị đầu lĩnh cứ về trại nghỉ ngơi, bần đạo sẽ cùng
Phàn Thụy, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc đưa quân đuổi theo Kiều Đạo Thanh, bức
hắn phải hàng phục.
Tống Giang nói:
- Nhờ phép thần thông kỳ diệu của
tiên sinh đại quân ta mới thoát cơn nguy khốn. Tiên sinh mới từ xa đến đang mệt
mỏi hãy cùng Tống Giang tôi về đại trại nghỉ ngơi, ngày mai sẽ tính. Bọn Kiều
Đạo Thanh cùng đường hết kế, chẳng có gì đáng lo.
Công Tôn Thắng nói:
- Sư phụ La chân nhân thường nói với
bần đạo: "Kiều Liệt ở đất Kinh Nguyên từng đến học đạo với ta, cũng đáng
kể là người có cốt cách đạo nhân, nhưng ta chưa nhận hắn làm đồ đệ, vì xét hắn
còn nặng tà tâm. Âu cũng là do oan hồn người chết oán ghét nên vận xấu của hắn
còn chưa dứt được. Ngày sau tà tâm bớt dần, cơ duyên gặp hội, tìm được người
nhân đức hắn sẽ hàng phục. Nếu ngươi gặp Kiều Liệt thì nên cảm hoá cho hắn giác
ngộ lẽ huyền vi, tất cả sẽ có lúc dùng đến". Bần đạo từ Vệ Châu vâng lệnh đến
đây, dọc đường có tìm hỏi lai lịch của hắn. Trương tướng quân cho biết hàng
tướng Cảnh Cung nói Kiều Đạo Thanh tức là Kiều Liệt ở Kinh Nguyên. Vừa rồi bần
đạo thấy phép thuật của hắn cũng không phải hạng xoàng, bần đạo nhờ được sư phụ
La chân nhân truyền cho Ngũ lôi chính pháp nên mới phá đuợc tà thuật của hắn.
Thành này gọi là thành Chiêu Đức, xét ra là hợp với lời pháp ngữ của sư phụ:
"Ngộ đức ma hàng" (gặp người có đức, ma quỷ phải hàng). Nếu để cho
Kiều Liệt chạy thoát về, sau lại rơi vào nghiệp chướng tức là bần đạo làm sai
lời dạy của bản sư. Vì vậy xin tiên phong cho bần đạo đưa quân đuổi theo, tùy
cơ mà thu phục hắn.
Tống Giang nghe xong rất vui mừng,
cùng các tướng đưa quân về đại trại, còn Công Tôn Thắng cùng Phàn Thuỵ, Đan
Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc thống lĩnh một vạn quân mã đuổi theo Kiều Đạo Thanh.
Lại nói Kiều Đạo Thanh cùng với Phí
Trân, Tiết Xán dẫn năm nghìn tàn quân người ngựa chạy băng về phía tây thành
Chiêu Đức, định vào thành theo lối cửa tây. Bỗng nghe tiếng tù và xen lẫn tiếng
trống nhất loạt nổi vang, rồi thấy phía cánh rừng rậm có một đội quân kỵ phóng
đến như bay. Hai tướng dẫn đầu là Nuỵ cước hổ Vương Anh và Tiểu Uý trì Tôn Tân
dẫn năm nghìn quân dàn thành thế trận chặn đường về của Kiều Đạo Thanh. Phí
Trân, Tiết Xán liều mạng xông vào đánh. Tôn Tân và Vương Anh theo lẹnh của Công
Tôn Thắng không đuổi đánh chỉ chặn đường không cho bọn chúgn về thành. Kiều Đạo
Thanh thấy vậy chỉ dẫn quân chạy về phía bắc. Các tướng của Điền Hổ giữ thành
Chiêu Đức biết Kiều Đạo Thanh thua trận, nhưng thấy quân Tống Giang ào ạt đánh
đến nên đóng chặt cửa thành không ra tiếp ứng.
Trên đường đuổi theo Kiều Đạo Thanh,
Công Tôn Thắng gặp quân chặn đường của bọn Tôn Tân, Vương Anh, Công Tôn Thắng
nói:
- Hai đầu lĩnh hãy trở về đại trại,
bần đạo sẽ dẫn quân đuổi theo bọn chúng.
Bấy giờ trời sắp tối, Tôn Tân, Vương
Anh tuân lệnh đem quân về.
Lại nói Kiều Đạo Thanh cùng Phí
Trân, Tiết Xán dẫn tàn quân hoảng hốt chạy gấp về phía bắc. Một vạn quân của
bọn Công Tôn Thắng, Phàn Thụy vẫn đuổi sát theo sau. Công Tôn Thắng gọi to:
- Kiều Liệt mau sống ngựa đầu hàng!
Kiều Đạo Thanh đáp:
- Ta là kẻ bề tôi phải hết lòng với
chủ, sao người bức bách ta quá thế?
Bấy giờ đã tối, quân Tống Giang đốt
đuốc sáng trưng. Kiều Đạo Thanh quay nhìn xung quanh thấy quân sĩ đã bỏ trốn cả
chỉ còn bọn Phí Trân, Tiết Xán cùng hơn ba chụ tên quân kỵ, Kiều Đạo Thanh toan
rút kiếm tự tử, Phí Trân trông thấy vội ngăn lại mà nói:
- Quốc sư bất tất phải quên thân như
thế! xin quốc sư hãy thúc ngựa đến tìm nơi ẩn náu ở ngọn núi đằng trước kia.
Kiều Đạo Thanh kế cùng lực kiệt đành
theo hai tướng chạy vào núi Bách Cốc lĩnh ở phía tây bắc thành Chiêu Đức. Tương
truyền đó là nơi vua Thần Nông trông thử các giống lúa. Kiều Đạo Thanh cùng bọn
Phí Trân, Tiết Xán chạy vào ẩn trong miếu thờ Thần Nông. Thủ hạ chỉ còn mười
lăm, mười sáu tên quân kỵ.
Lại nói Công Tôn Thắng nghe nói bọn
Kiều Đạo Thanh đã trốn vào núi liền chia quân ra bốn ngả bao vây Bách Cốc lĩnh
khắp bốn phía. Vào khảong canh hai bỗng thấy lửa sáng rừng rực hai phía đông,
nam. Đó là Tống tiên phong sau khi về trại lại sai bọn Lâm Xung, Trương Thanh
mỗi người dẫn năm nghìn quân mã luôn đêm đi tiếp ứng. Các tướng hợp binh làm
một, tất cả gồm hai vạn người ngựa, rải khắp bốn phía đóng trại bao vây bọn
Kiều Đạo Thanh.
Sáng hôm sau, biết tin bọn Kiều Đạo
Thanh bị quân Công Tôn Thắng bao vây ở Bách Cốc lĩnh, Tống Giang cùng với quân
sư Ngô Dụng liền bàn đánh thành, rồi truyền lệnh cho đại quân nhổ trại tiến sát
đến bao vây thành Chiêu Đức, không để sơ hở một nơi nào. Tướng giữ thành là
Diệp Thanh cố giữ vững thành trì, quân Tống Giang đánh hai ngày liền không hạ
được. Tống Giang đóng quân ở phía nam thành Chiêu Đức có ý buồn phiền, lại thêm
chuyện bọn Lý Quỳ bị bắt không biết sống chết ra sao, Tống Giang càng lo lắng,
bất giác nước mắt trào thấm áo.
Quân sư Ngô Dụng khuyên:
- Huynh trưởng chớ nên buồn phiền,
ta chỉ tốn thêm dăm tờ giấy, quân trong thành tất phải đầu hàng cả.
Tống Giang vội hỏi:
- Quân sư có kế gì hay?
Ngô Dụng bèn bật hai ngón tay, thong
thả nói với Tống Giang. Chỉ biết rằng:
Máu đào chẳng nhuốm, thành bèn hạ
Quân đi chúc giáo, vạn dân nhờ.
Chưa biết mưu kế của quân sư Ngô
Dụng ra sao, xem hổi sau sẽ rõ.
Hồi 97 -
Gián Quan Trần Quán Thăng Chức An Phủ
Đang nói chuyện lúc bấy giờ quân sư
Ngô Dụng bàn với Tống Giang:
- Khí thế quân giặc trong thành đã
suy yếu lắm. Trước bọn chúng cậy có yêu thuật, nay biết Kiều Đạo Thanh thua
trận mà viện binh cũng không có, làm gì chẳng khiếp sợ? Sáng nay Ngô Dụng tôi
lên chòi cao nhìn vào, thấy quân trong thành có ý hoảng loạn sợ hãi. Thừa dịp
bọn chúng đang hoảng hốt, ta mở đường mới, nêu rõ lợi hại, như vậy tất quân sĩ
sẽ trói bọn tướng tá để ra hàng. Quân ta không cần đến gươm đao mà giặc phải
mất thành.
Tống Giang cả mừng nói:
- Kế của quân sư rất phải!
Bàn bạc xong, Ngô Dụng bèn lấy giấy
bút thảo hịch bố cáo cho quân dân trong thành Chiêu Đức đều biết:
"Tướng tiên phong của triều
đình Đại Tống đi đánh loạn quân Điền Hổ bố cáo cho tướng sĩ và quân dân trong
thành Chiêu Đức biết rõ: Tên Điền Hổ phản nghịch ắt phải chịu tội chết, ngoài
ra những kẻ bị bắt buộc phải theo làm thuộc hạ xét tình đáng tha thứ. Tướng sĩ
giữ thành nếu biết bỏ tà theo chính, sửa lỗi, làm lại cuộc đời, dẫn dắt quân
dân mở cửa thành nhận đầu hàng thì sẽ được triều đình xá tội, cho ghi tên để bổ
dụng. Nếu không chịu hối cải thì binh lính và dân chúng trong thành vốn là con
dân của nhà Tống hãy mau dấy nghĩa, bắt trói bọn tướng tá mà quy thuận thiên
triều. Ai có công đều sẽ được trọng thưởng, ta sẽ xin để triều đình phong chức
quan cao. Nếu chần chừ ngoan cố, khi đại quân vào phá thành thì ngọc đá đều hoá
thành tro bụi, không một kẻ nào sống thoát.
Nay đặc dụ".
Ngô Dụng viết xong, Tống Giang cho
chép ra mấy chục bản, sai buộc vào đốc tên rồi tản đi khắp bốn phía mà bắn bổng
vào thành. Tống Giang lại truyền cho quân vây thành chỉ đánh cầm chừng để nghe
ngóng trong thành động tĩnh ra sao. Tảng sáng hôm sau bỗng nghe trong thành
vọng ra tiếng hò la vang trời, rồi các cổng thành đều dựng cờ hàng. Bấy giờ mọi
người mới biết hai viên tì tướng là Kim Đĩnh và Hoàng Việt tập hợp quân dân nổi
lên giết bọn phó tướng Diệp Thanh, Ngưu Canh, Lãnh Ninh chặt lấy thủ cấp treo
lên ngọn sào, giơ cao cho quân Tống Giang xem. Các đầu lĩnh Lý Quỳ, Lỗ Trí
Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Đường Bân được tha khỏi
nhà giam, đều được mời lên kiệu rước ra ngoài thành để trao trả. Quân dân đi
theo đều mang hương hoa nghênh tiếp Tống Giang vào thành. Tống Giang cả mừng,
truyền lệnh cho các tướng thống lĩnh quân mã theo thứ tự trước sau đưa quân vào
thành. Gươm đao không dính máu, trăm họ được bình yên, tiếng reo mừng vang như
sấm dậy.
Tống Giang vào đóng suý phủ ở phủ
đường. Bọn Lỗ Trí Thâm tám người đến yết kiến Tống tiên phong. Lỗ Trí Thâm nói:
- Anh em tiểu đệ những tưởng phải bỏ
thân đất giặc, nhờ uy của huynh trưởng mới đựợc về đoàn tụ với nhau, thật như
trong giấc chiêm bao!
Anh em Tống Giang cảm khái rơi nước
mắt. Tiếp đó Kim Đĩnh và Hoàng Việt dẫn bọn Ông Khuê, Sái Trạch, Dương Xuân vào
yết kiến. Tống Giang đáp lễ rồi đỡ dậy nói:
- Các tướng quân có công lớn dấy đại
nghĩa bảo toàn sinh linh trăm họ.
Hoàng Việt thưa:
- Bọn tiểu nhân chúng tôi không sớm
quy hàng là đắc tội lắm, không ngờ lại được tiên phong tiếp đãi trọng hậu. Ơn
này xin ghi lòng tạc dạ, thề chết để báo đền.
Rồi Hoàng Việt kể lại chuyện các đầu
lĩnh Lỗ Trí Thâm, Lý Quỳ sang sảng mắng giặc, không chịu đầu hàng. Tống Giang
cảm đọng rơi lệ khen ngợi hồi lâu, Lý Quỳ nói:
- Anh em tiểu đệ nghe nói tên yêu
tặc Kiều Đạo Thanh đang ẩn náu ở Bách Cốc lĩnh, xin cho tiểu đệ đến đó chém đầu
hắn làm trăm mảnh cho hả giận!
Tống Giang nói:
- Công Tôn Thắng đã bao vây Kiều Đạo
Thanh ở Bách Cốc Lĩnh tìm cách bắt hắn phải hàng phục. La chân nhân căn dặn
phải thu dùng Kiều Đạo Thanh, hiền đệ không được nóng vội.
Lỗ Trí Thâm nói với Lý Quỳ:
- Lệnh của huynh trưởng như thế thì
bọn ta phải tuân theo.
Tống tiên phong bèn sai người đi
treo bảng vỗ yên dân chúng, khao thưởng ba quân, ghi công cho Công Tôn Thắng,
Kim Đĩnh, Hoàng Việt. Bỗng tin báo có Thần hành thái bảo Đái Tôn từ châu Tấn
Ninh về. Đái Tôn vào phủ yết kiến. Tống tiên phong liền hỏi tin chiến trận ở
châu Tấn Ninh, Đái Tôn nói:
- Tiểu đệ đến Tấn Ninh vừa gặp lúc
Lư tiên phong đang cho quân vây đánh thành. Lư tiên phong bảo Đái Tôn tôi ở lại
chờ đến khi lấy đựợc thành hay trở về báo tin với huynh trưởng luôn một thể.
Tiểu đệ ở lại đó ba bốn ngày. Thành Tấn Ninh lúc đầu không hạ nổi, đến đêm mồng
sáu tháng này ban đêm sương mù dày đặc, trong gang tấc cũng không nhìn thấy
nhau. Lư tiên phong cho quân bí mật trèo lên bao đất, kéo tay nhau trèo lên mặt
thành. Tướng giặc bị giết tại trận tất cả mười ba tên. Em ruột Điền Hổ là Điền
Bưu mở cửa bắc đánh thốc ra mở đường chạy trốn, bọn nha tướng không chạy kịp
đều phải đầu hàng. Quân ta thu hơn năm nghìn chiến mã, quân giặc vứt giáo quy
hàng hơn hai vạn tên. Số bị giết tại trận nhiều không kể xiết. Lấy được thành
Tấn Ninh, sáng hôm sau Lư tiên phong sai treo bảng chiêu an dân chúng, xếp đặt
việc canh phòng. Bỗng có tin Điền Hổ sai điện suý Tôn An cùng mười tên chánh
phó tướng dẫn hai vạn quân cứu viện đến hạ trại cách thành Tấn Ninh mười dặm.
Lư tiên phong liền sai Tần Minh, Dương Chí, Âu Bằng, Đặng Phi đưa quân ra ngoài
thành nghênh chiến, Lư tiên phong đưa quân đi theo tiếp ứng. Bấy giờ Tần Minh
và Tôn An giao chiến hơn năm mươi hiệp chưa phân thắng bại. Lư tiên phong đến
thấy Tôn An võ nghệ cao cường bèn cho khua chiêng thu quân. Tôn An cũng lui
quân về. Lư tiên phong bàn với bọn Tần Minh dùng mưu bắt Tôn An phải hàng phục.
Ngày hôm sau, Lư tiên phong sai các tướng đưa quân đi mai phục rồi tự mình cầm
quân ra trận. Đánh với Tôn An hơn năm mươi hiệp, ngựa chiến của Tôn An bỗng
chúi ngã về phía trứơc, hất Tôn An xuống đất, Lư tiên phong nói to:
- Cho người về thay ngựa rồi trở lại
giao chiến cho tỏ rõ hơn thua.
Tôn An thay ngựa rồi quay lại đánh
với Lư tiên phong, hơn năm mươi hiệp nữa. Lư tiên phong vờ thua rẽ ngựa, dụ cho
Tôn An đuổi theo đến cửa rừng. Bỗng một tiếng pháo lệnh nổ vang, quân mai phục
hai bên nhất tề đổ ra. Tôn An trở tay không kịp, bị quân Tống quăng tròng giật
ngã. Quân sĩ ập đến bắt sống cả người và ngựa. Ba tướng của Điền Hổ là bọn Tần
Anh, Lục Thanh, Diêu Ứớc phóng ngựa theo cứu Tôn An thì gặp Dương Chí, Âu Bằng,
Đặng Phi xông ra chặn đánh. Sáu tướng ngồi trên ngựa quần thảo từng đôi một.
Giữa lúc đánh hăng, Dương Chí bỗng quát to một tiếng rồi nâng thương đâm Tần
Anh lăn nhào xuống ngựa. Âu Bằng đâm dứ một đường, Lục Thanh liền phạt đao
xuống. Âu Bằng nhẹ nhàng né tránh, Lục Thanh chém trượt, không kịp thu đao,
liền bị Âu Bằng phóng thương đâm trúng gáy, chết ngay tại trận. Diêu Ước thấy
hai tướng ngã ngựa, liền rẽ cương chạy về tận nhà. Đặng Phi đuổi kịp, vung
thiết chuỳ đánh vuốt theo, Diêu Ước giập đầu vỡ mũ lăn xuống ngựa. Lư tiên
phong vẫy quân đuổi đánh. Quân Điền Hổ đại bại, bị chém giết tại trận bốn năm
nghìn tên, tàn quân phải chạy lui về phía sau mười dặm. Lư tiên phong thắng
trận đem quân vào thành. Thấy quân sĩ áp giải Tôn An đến, Lư tiên phong tự tay
cởi trói rồi tiếp đãi trọng vọng, khuyên Tôn An nên quy thuận triều đình. Thấy
Lư tiên phong là người nhân hậu, có nghĩa khí, Tôn An xin hàng phục rồi nói với
Lư tiên phong: "Hiện còn bẩy viên chánh phó tướng và một vạn năm nghìn
quân mã đang đóng ở ngoài thành. Xin cho Tôn An tôi đi gọi bọn họ về
hàng". Lư tiên phong không chút nghi ngờ, cho Tôn An một mình một ngựa đến
trại quân Điền Hổ ở ngoài thành thuyết phục các tướng đem quân đầu hàng. Tất cả
bẩy tướng thuộc hạ của Tôn An theo về thành yết kiến Lư tiên phong. Lư tiên
phong vui mừgn sai bầy tiệc khoản đãi. Tôn An nói:
- Tôn An tôi cùng Kiều Đạo Thanh
xuất quân từ châu Uy Thắng. Kiều Đạo Thanh đi cứu viện cho ải Hồ Quan. Hắn có
yêu thuật, sợ Tống tiên phong mắc vào ngón độc của hắn. Kiều Đạo Thanh với Tôn
An tôi là người đồng hương. Xin tướng quân cho Tôn An tôi đến Hồ Quan tìm cách
thuyết phục Kiều Đạo Thanh quy thuận.
Lư tiên phong vui mừng sai Đái Tôn
tôi dẫn Tôn An về đây yết kiến huynh trưởng. Một mặt truyền lệnh cho Tuyên Tán,
Hách Tư Văn, Lã Phương, Quách Thịnh quản lĩnh hai vạn quân mà ở lại đóng giữ
thành Tấn Ninh. Lư tiên phong thống lĩnh các tướng còn lại đưa hai vạn quân mã
lên đường sang châu Phần Đương. Đái Tôn tôi trổ phép thần hành đem cả Tôn An về
đây, dọc đường nghe tin huynh trưởng đã vây thành Chiêu Đức, Kiều Đạo Thanh
cũng đang bị vây trong núi. Hôm nay nghe tin đại binh đã vào thành, Đái Tôn tôi
bèn đi thẳng vào đây yết kiến huynh trưởng. Tôn An còn đang chờ ở bên ngoài.
Tống Giang cả mừng bảo Đái Tôn dẫn
Tôn An vào. Thấy Tôn An hiên ngang khôi vĩ, khác xa kẻ tầm thường, Tống Giang
liền xuống thềm đón tiếp. Tôn An rập đầu lạy chào rồi nói:
- Tôn An tôi trót cầm quân chống đại
binh của thiên triều, tội muôn lần đáng chết!
Tống Giang vội đáp lễ, nói:
- Mong tướng quân bỏ tà theo chính,
hợp sức với Tống Giang tôi để diệt trừ Điền Hổ. Khi thắng trận trở về, Tống
Giang sẽ xin tâu lên hoàng thượng phong thưởng cho tướng quân.
Tôn An cúi mình vái tạ. Tống tiên
phong liền sai bày rượu khoản đãi. Tôn An nói:
- Yêu thuật của Kiều Đạo Thanh rất
lợi hại, may sao tiên phong đã có Công Tôn tiên sinh giúp sức, khiến hắn phải
bó tay.
Tống Giang nói:
- Công Tôn Nhất Thanh muốn thu phục
hắn đem chính pháp, giáo hoá để sau này cần dùng. Hắ bị bao vây trong núi đã ba
bốn ngày nay nhưng chưa tỏ ý muốn đầu hàng.
Tôn An nói:
- Hắn là chỗ quen thân với tiểu
nhân, xin tiên phong cho Tôn An này thuyết phục hắn về hàng.
Tống tiên phong liền sai Đái Tôn
cùng đi với Tôn An đến doanh trại của Công Tôn Thắng. Chào hỏi xong, Công Tôn
Thắng nghe nói lại sự việc lấy làm mừng, liền cho Tôn An vào núi tìm Kiều
Thanh. Tôn An vâng lệnh một mình lên ngựa đi ngay.
Lại nói Kiều Đạo Thanh cùng bọn Phí
Trân, Tiết Xán và hơn chục tên tàn quân ẩn náu trong miếu Thần Nông. Ba đạo
nhân trụ ở miếu ấy hàng ngày đi mộ hoá các nơi dành dụm được chút ít thóc gạo
bị bọn Kiều Đạo Thanh ăn hết, nhưng thấy bọn chúng đông người đành nuốt giận
không dám kêu. Hôm ấy Kiều Đạo Thanh nghe tiếng hò la trong thành vang tớ, bèn
ra ngoài miếu trèo lên mỏm đá cao đứng nhìn. Thấy quân Tống Giang đã lấy được
thành, ở cổng lớn có nhiều người ngựa ra vào. Kiều Đạo Thanh biết thành Chiêu
Đức đã mất, đang lúc lo buồn, chợt thấy trong lùm cây phía dưới mỏm đá có người
tiều phu lưng giắt búa tay cầm đòn gánh làm gậy trèo lên, vừa đi vừa hát:
Thướng sơn như vãn chu,
Hạ sơn như thuận lưu.
Vãn chu đương sự giới,
Thuận lưu thường tự do.
Ngã kim hướng sơn giả,
Dự vi hạ sơn mưu.
Lên núi như ngược sóng
Xuống núi tựa xuôi dòng
Ngược thuyền lo ngay ngáy
Xuôi dòng thì thong dong
Ta nay tìm lên núi
Để tính việc xuôi sông.
Nghe bài ca của người hát củi, Kiều
Đạo Thanh chột dạ, bèn cất tiếng hỏi:
- Lão có biết tin tức trong thành thế
nào không?
Lão tiều đáp:
- Kim Đĩnh, Hoàng Việt đã giết phó
tướng Diệp Thanh, nộp thành quy thụân nhà Tống rồi. Quân Tống Giang đã lấy được
thành Chiêu Đức không tốn một mũi tên.
Kiều Đạo Thanh nói:
- Đúng thế thật!
Lão tiều rẽ ra sau mỏm đá đi tiếp
lên núi. Lại thấy một người cưỡi ngựa cũng đang tìm đường đi lên. Kiều Đạo
Thanh bước xuống, nhìn kỹ bỗng giật mình nhận ra người ấy là điện suý Tôn An.
Kiều Đạo Thanh nghĩ bụng: "Tôn điện suý tìm đến đây làm gì?" Vừa lúc
ấy Tôn An xuống ngựa bước lại chào. Kiều Đạo Thanh vội hỏi:
- Điện suý dẫn quân đi Tấn Ninh, sao
lại đến đây một mình? Dưới núi có quân bao vây mà điện suý lại lên đây được?
Tôn An đáp:
- Để thư thả sẽ kể lại cho tôn huynh
nghe.
Thấy Tôn An không gọi mình là
"quốc sư", Kiều Đạo Thanh đã phần nào đoán ra sự thật.
Hai người vào trong miếu, bọn Phí
Trân, Tiết Xán đều ra chào Tôn An. Chào hỏi xong, Tôn An đem chuyện thua trận
phải đầu hàng ở Tấn Ninh kể lại một lượt. Kiều Đạo Thanh chỉ im lặng ngồi nghe.
Tôn An nói:
- Tôn huynh chớ nên nghi ngại. Tống
tiên phong là người rất mực nghĩa khí, bọn ta quy thuận, theo đứng dưới cờ, về
sau ắt cũng được phần tốt đẹp. Tôn An tôi đến đây chính là vì tôn huynh. Có
phải thuở trước tôn huynh từng đến xin họ đạo với La chân nhân?
Kiều Đạo Thanh vội hỏi:
- Ai nói với hiền huynh chuyện ấy?
Tôn An đáp:
- Có phải La chân nhân không tiếp
tôn huynh, sai đạo đồng ra bảo: ngày sau "Ngộ đức mà hàng?"
Kiều Đạo Thanh vội đáp:
- Đúng thế!
Tôn An lại nói:
- Tôn huynh có biết ai đã phá phép
thuật của tôn huynh không?
Kiều Đạo Thanh nói:
- Chỉ biết hắn ở trong quân Tống
Giang, không rõ lai lịch ra sao.
Tôn An nói:
- Người ấy là Công Tôn Thắng, đồ đệ
của La chân nhân đó. Công Tôn Thắng hiện giữ chức phó quân sư của Tống tiên
phong. Chính Công Tôn Thắng kể cho Tôn An biết chuyện ấy. Thành này tên là
thành Chiêu Đức. Phép thuật của tôn huynh bị phá, chẳng phải là ứng hợp với câu
"Ngộ đức mà hàng" đó sao? vâng lời La chân nhân muốn cảm hoá tôn
huynh để cùng theo chính đạo, nên Công Tôn Thắng chỉ cho quân bao vây chứ không
đánh lên núi. Công Tôn Thắng phép thụât cao cường, nếu muốn làm hại tôn huynh
phỏng có khó gì! Tôn huynh đừng nên cố chấp.
Kiều Đạo Thanh nghe lời khuyên của
Tôn An, bèn dẫn bọn Phí Trân, Tiết Xán theo Tôn An xuống núi, cùng vào quân
doanh yết kiến Công Tôn Thắng.
Tôn An vào trước báo tin. Công Tôn
Thắng cả mừng ra cửa trại đón tiếp. Kiều Đạo Thanh sụp lạy xin chịu tội:
- Đội ơn pháp sư có lòng nhân ái,
chỉ vì Đạo Thanh tôi mà pháp sư phải vất vả đem quân đến đây. Đạo Thanh tôi
càng thêm nặng tội!
Công Tôn Thắng vui mừng không kịp
đáp lạy, vội dìu Kiều Đạo Thanh đứng dậy tiếp đãi như khách quý. Kiều Đạo Thanh
nói:
- Đạo Thanh tôi có mắt không biết
nhìn, nay được theo hầu bên cạnh pháp sư thật là may mắn lắm!
Công Tôn Thắng bèn truyền lệnh giải
vây, bọn Phàm Thụy đều nhổ trại lui quân. Công Tôn Thắng dẫn bọn Kiều Đạo
Thanh, Phí Trân, Tiết Xán vào yết kiến Tống tiên phong. Tống Giang tiếp đãi tử
tế, lựa lời ôn tồn vỗ về. Kiều Đạo Thanh thấy Tống Giang khiêm tốn nhã nhặn lại
càng kính phục. Một lúc sau, các tướng Phàn Thuỵ, Đan Đinh Khuê, Ngụy Định
Quốc, Lâm Xung, Trương Thanh cũng đều đến đông đủ, Tống Giang truyền lệnh đưa
người ngựa vào đóng trong thành Chiêu Đức, rồi cho bầy tiệc chúc mừng. Trên
chiếu tiệc Công Tôn Thắng nói với Kiều Đạo Thanh:
- Xét ra phép thuật của túc hạ, trên
không thể sánh với chư Phật Bồ Tát, trải bao kiếp tu hành mới đạt được chính
pháp, thông đạt tới cõi hư không tam muội, biến hoá thần thông tuỳ theo ý muốn.
Giữ thì không thể sánh với phép thuật của bậc chân tiên ở chốn Bồng lai ba mươi
sáu động, phải mấy chục năm rút nước thêm hỏa, đổi tuỷ thay gân, mới có được
hình hài siêu phàm là nhờ bùa chú, đoạt được phần thắng nhất thời, trộm cắp
tinh anh của trời đất, mượn oai của quỷ thần mà thi thố. Phật gia gọi đó là "tà
pháp", bên đạo gia thì gọi là "huyễn thuật", túc hạ nếu cho
những thứ phù phép ấy là siêu phàm nhập thánh há chẳng phải là nhầm lẫn sao?
Kiều Đạo Thanh nghe xong như người
tỉnh mộng, sụp lạy, suy tôn Công Tôn Thắng làm thầy. Anh em Tống Giang nghe
Công Tôn Thắng nói rành mạch những điều huyền diệu, ai nấy đều thán phục. Tan
tiệc mọi người ra về, chuyện không có gì đáng nói.
Ngày hôm sau Tống Giang sai Tiêu
Nhượng viết biểu gửi về triều tâu việc thu phục hai phủ Tấn Ninh, Chiêu Đức.
Một mặt cũng gửi thư báo cho Túc thái uý biết tin thắng trận, xin mong Túc thái
uý chọn người hiền tài để triều đình bổ đến cai quản sáu phủ Vệ Châu, Tấn Ninh,
Chiêu Đức, Cái Châu, Lăng Xuyên, Cao Bình thay cho các tướng tiếp tục đem quân
đi chinh thao. Tiêu Nhượng viết xong biểu văn, Tống Giang liền sai Đái Tôn trổ
phép hành chuyển về kinh sư. Đái Tôn vâng lệnh lên đường ngay trong ngày hôm
ấy.
Đái Tôn nhận biểu văn, gói hành lý,
đem theo một tên trong đội khinh kỵ đi theo, rồi từ biệt Tống tien phong để lên
đường. Đái Tôn trổ phép thần hành, chỉ mất một ngày đã về đến Đông Kinh. Trước
hết Đái Tôn đến phủ Túc thái uý trình thư của Tống tiên phong. Gặp Dương ngu
hầu, Đái Tôn lấy vài lạng bạc đem biếu, nhờ Dương ngu hầu trình thư vào phủ.
Một lát sau Dương ngu hầu trở ra nói: "thái uý cho mời tướng quân
vào".
Đái Tôn theo Dương ngu hầu vào sảnh
đường. Túc thái uý đang ngồi xem thư của Tống Giang. Đái Tôn tới lạy chào, Túc
thái uý nói:
- Hiện đang có chuyện rắc rối, ngươi
cầm thư về đây thật đúng lúc! Mới hôm kia, bọn Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu hết
lời phỉ báng Tống tiên phong làm hao quân tổn tướng, làm nhục mệnh triều đình,
xin thiên tử trị tội. Thiên tử còn do dự chưa quyết thì quan hữu chính ngôn
Trần Quán dâng sớ bác lại. Một mặt tố cáo bọn Sái Kinh vu khống hãm hại trung thần.
Một mặt đề cao công trạng của Tống tiên phong, nói rõ đại quân đã vượt ải Hồ
Quan, xin hoàng thượng trị tội bọn Sái Kinh. Sái Kinh căm tức bới chuyện để hãm
hại Trần Quán. Hôm qua Sái thái sư tâu với thiên tử là Trần Quán có soạn bài
văn "Tôn Nghiêu lục" ví vua Thần Tông như vua Nghiêu, tức là có ngụ ý
xúc phạm đến đức kim thượng. Cũng may thiên tử chưa xử tội Trần Quán. Nay ngươi
về báo tiệp, không những Trần Quán được mát mặt mà ta cũng trút được bao điều
lo lắng. Buổi chầu sáng mai ta sẽ dâng biểu báo tiệp của Tống tiên phong.
Đái Tôn lạy tạ rồi ra tìm quán trọ
nghỉ ngơi, chuyện không cần phải nói.
Lại nói về sáng hôm sau Tống Huy
Tông ngự triều ở Điện Văn Đức, Túc Thái uý lạy mừng xong liền dâng biểu báo
tiệp của Tống Giang. Tống Huy Tông lấy làm mừng.
Túc tháii uý nói:
- Quan ch anh ngôn Trần Quán soạn
bài "Tôn Nghiêu lục" ví tiên đế như vua Nghiêu mà coi bệ hạ như vua
Thuấn, như thế có gì đáng phạm tội? quan chính ngôn là người thẳng thắn, không
chịu luồn cúi, gặp việc dám tâu, đáng gọi là người có đảm lược. Xin bệ hạ gia
phong quan tứớc rồi sai Trần Quán lên Hà Bắc làm giám chiến, tất Trần Quán sẽ
lập công lớn.
Tống Huy Tông chuẩn tâu, truyền
thăng chức cho Trần Quán làm đồng tri khu mật viện, giữ chức an phủ, thống lĩnh
hai vạn quân ngự doanh đến doanh trại quân Tống Giang làm giám chiến, cho phép
đem theo tiền bạc để khao thưởng ba quân tướng sĩ.
Tan chầu Túc thái uý về phủ, gọi Đái
Tôn vào trao thư phúc đáp. Đái Tôn bèn cáo từ Tức thái uý trổ phép thần hành
rời khỏi Đông Kinh, ngày hôm sau đã về đến thành Chiêu Đức.
Tống Giang đang kiểm điểm binh mã,
trù tính việc tiến quân, thấy Đái Tôn về, vội hỏi ngay tin tức ở Đông Kinh. Đái
Tôn trình thư phúc đáp của Túc thái uý. Tống Giang xem xong kể lại đầy đủ cho
các tướng cùng nghe. Mọi người đều nói:
- Trần an phủ cương trực dũng cảm
như vậy, anh em ta bỏ sức ở chiến trường cũng không uổng phí.
Tống Giang cho quân sĩ nghỉ ngơi chờ
nghênh tiếp thánh chỉ, sau đó sẽ xuất quân. Các tướng đều tuân lệnh đóng quân
đồn trú trong thành. Chuyện ấy không phải nói đến.
Lại nói chuyện về huyện Lộ Thành ở
phía bắc phủ Chiêu Đức tướng trấn thủ huyện ấy là Trì Phương nghe tin Kiều Đạo
Thanh bị vây hãm liền sai người thâu đêm đi gấp về châu Uy Thắng cáo cấp với
Điền Hổ. Quan sảnh viện tiếp biểu văn cáo cấp của Trì Phương, định tâu lên Điền
Hổ, bỗng có tin báo thành Tấn Ninh thất thủ, chỉ một mình đệ tam đại vương Điền
Bưu sống sót. Vừa lúc ấy, Điền Bưu về đến nơi. Điền Bưu cùng quan sảnh viện vào
cung yết kiến Điền Hổ. Điền Bưu khóc lớn, thưa rằng:
- Thế lực quân Tống rất lớn, thành
Tấn Ninh đã mất. Con thần là Điền Thực bị giết, một mình thần chạy thoát về
đây. Mất đất tan quân, thần đáng muôn lần tội chết!
Điền Bưu nói xong lại khóc thảm
thiết, Quan sảnh viện tâu rằng:
- Thần vừa tiếp biểu văn của Trì
Phương ở huyện Lộ Thành báo tin Kiều Quốc sư bị quân Tống bao vây ở Bách Cốc
Lĩnh, thành Chiêu Đức lâm nguy trong sớm tối.
Điền Hổ nghe tâu cả kinh, liền gọi
các quân văn võ là bọn hữu thừa tướng thái sư Biện Tường, khu mật quan Phạm
Quyền, thống quân đại tướng Mã Linh vào triều bàn bạc. Điền Hổ nói:
- Mấy ngày gần đây Tống Giang đem
quân xâm phạm lãnh thổ, chiếm hai quận lớn. Quân tướng của ta thiệt hại khá
nhiều. Quốc sư Kiều Đạo Thanh cũng đang bị bao vây. Các ngươi nghĩ xem có cách
gì đối phó.
Lúc ấy Ô Lê quốc cữu bước lên tâu
rằng:
- Xin quốc vương chớ lo! thần đội ơn
lớn của triều đình, xin thống lĩnh quân mã ngay hôm nay lên đường đi cứu viện
cho Chiêu Đức, thề phải bắt sống bọn Tống Giang, khôi phục lại các thành trì đã
mất.
Ô Lê quốc cữu nguyên là một nhà phú
hộ ở châu Uy Thắng, giỏi võ nghệ, đôi tay có sức nghìn cân, quen dùng cây cugn
cứng và một thanh đại đao bạt gió nặng năm mươi cân. Ô Lê có người em gái nhan
sắc xinh đẹp đem dâng cho Điền Hổ, được phong làm khu mật, vì thế được tôn xưng
là quốc cữu.
Lúc ấy Ô Lê quốc cữu tâu:
- Thần có con gái tên là Quỳnh Anh,
gần đây chiêm bao được thần nhân dạy cho các môn võ nghệ. Khi tỉnh dậy quả thấy
sức vóc hơn người, lại có biệt tài ném đá, trăm phát trúng cả trăm, vì thế
người ta thường gọi là "mũi tên Quỳnh". Xin bệ hạ cho con thần được
làm tướng tiên phong, chắc lập được công lớn.
Điền Hổ liền phong tứớc quận chúa
cho Qùynh Anh, Ô Lê vừa tạ ơn xong thì thống quân đại tướng Mã Linh tâu:
- Thần xin đem quân mã đến châu Phần
Dương đánh lui quân địch!
Điền Hổ cả mừng ban cho kim ấn, hổ
phù và các đồ châu ngọc quý giá. Ô Lê, Mã Linh mỗi người đem ba vạn quân cấp
tốc lên đường.
Chưa nói chuyện Mã Linh thống lĩnh
quân mã đi châu Phần Dương. Hãy nói chuyện Ô Lê quốc cữu lĩnh thánh chỉ binh
phù rồi ra trường giảng võ điểm lấy ba vạn quân mã, cho sửa sang đao thương
cung nỏ và các đồ khí giới. Sau đó Ô Lê về phủ riêng, dẫn con gái là nữ tướng
tiền bộ tiên phong Quỳnh Anh vào cung cáo từ Điền Hổ để đem quân lên đường.
Quỳnh Anh vâng lệnh cha, thống lĩnh quân mã tiến gấp về phủ Chiêu Đức. Chuyện
nữ tướng cầm quân xông trận sẽ kể sau, chỉ biết trước rằng:
Gái trinh liệt gia thù quyết báo,
Trai anh hùng duyên phượng thoả
nguyền.
Chưa biết vị nữ tướng cầm quân ra
trận thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 98 -
Trương Thanh Sánh Duyên Với Quỳnh Anh
Đang nói chuyện quốc cữu Ô Lê ra
lệnh cho quận chúa Qùynh Anh giữ chức tiên phong, tự mình thống lĩnh đại quân
đi tiếp theo sau. Thiếu nữ Quỳnh Anh tuổi vừa đôi tám, nhan sắc xinh đẹp,
nguyên chẳng phải là con đẻ cua Ô Lê. Quỳnh Anh vốn là người họ Cừu, cha tên là
Thân, quê quán ở Cẩm Thượng, huyện Giới Hưu, phủ Phần Duong, Tấn Văn Công thời
Xuân Thu không mời được Giới Chi Thôi về triều đã cắt đất Cẩm Thượng phong cho
họ Giới, chính là làng Cẩm Thượng ấy. Cừu Thân cũng vào hạng giàu có, tuổi ngũ
tuần, chẳng may goá vợ, chưa có con trai nối dõi bèn cưới con gái Tống Hữu Liệt
ở huyện Bình Dao về làm vợ kế, sinh được Quỳnh Anh. Năm Quỳnh Anh lên mười,
Tống Hữu Liệt qua đời, cha mẹ Qùynh Anh về quê chịu tang ông ngoại. Huyện Giới
Hưu liền huyện Bình Dao, nhưng cũng cách nhau hơn bảy mươi dặm. Mẹ Quỳnh Anh
ngại đường xá xa xôi, để Quỳnh Anh lại nhà, căn dặn vợ chồng người quản gia là
Diệp Thanh chăm nom hầu hạ. Cha mẹ Quỳnh Anh đi nửa đường chẳng may gặp cướp.
Bọn cướp giết Cừu Thân, đuổi đánh người hầu, bắt mẹ Quỳnh Anh đem đi. Trang
khách chạy về báo tin dữ cho Diệp Thanh biết. Diệp Thanh tuy chỉ là quản gia,
nhưng là người có nghĩa khí, biết võ nghệ. Vợ Diệp Thanh là An thị tính cẩn
thận. Khi Diệp Thanh đi báo tin cho các người thân tộc trong họ Cừu. An thị một
mặt trình quan xin lùng bắt quân cướp, một mặt lo liệu việc chôn cất thi hài
chủ nhân. Thân tộc họ Cừu nhóm họp, chọn một người trong họ làm thừa kế gia tài
của Cừu Thân. Diệp Thanh và vợ là An thị chăm lo săn sóc nữ chủ Quỳnh Anh thơ
ấu.
Hơn một năm sau, Điền Hổ dấy loạn
chiếm cứ châu Uy Thắng, sai thủ hạ là Ô Lê chia quân đi cướp bóc các nơi. Quân
Ô Lê đến làng Cẩm Thượng huyện Giới Hưu cướp đọat của cải, bắt giữ đàn ông, đàn
bà. Người thừa tự họ Cừu bị loạn quân giết hại, vợ chồng Diệp Thanh, và Quỳnh
Anh cũng bị bắt đem đi. Ô Lê kia không có con, thấy Quỳnh Anh thanh tú, xinh
đẹp, bèn dẫn về cho vợ là Nghê thị. Nghê thị là mụ đàn bà không sinh đẻ được,
thấy Qùynh Anh thì hết mực yêu mến chẳng khác gì con đẻ. Quỳnh Anh thông minh
lanh lợi từ bé, liệu bề không thoát thân được, xung quanh lại không một ai thân
thích, biết mình được yêu mến bèn xin Nghê thị nói với Ô Lê cho phép vợ Diệp
Thanh cùng ở với mình, vì thế An thị được theo hầu Quỳnh Anh, không rời nửa
bước. Còn Diệp Thanh từ khi mới bị bắt cũng muốn tìm cách thoát thân nhưng lại
nghĩ rằng: "Quỳnh Anh còn thơ ấu, vợ chồng gia chủ chỉ còn một giọt máu
ấy, nếu ta trốn đi thì không hay biết tiểu thư sống chết thế nào. May sao giờ
đây đã có vợ ta gần cạnh tiểu thư, khi có cơ hội ta sẽ tìm cách cứu cả hai
người thoát khỏi vòng họan nạn, như thế gia chủ ta dưới suối vàng cũng được yên
lòng nhắm mắt". Nghĩ thế Diệp Thanh đành chịu phục tùng Ô Lê. Thấy Diệp
Thanh theo trận mạc có công, Ô Lê cho phép An thị được về xum họp với Diệp
Thanh. Từ đó An thị được ra vào suý phủ, có dịp liên lạc tin tức với Qùynh Anh.
Ô Lê cũng đã tâu xin Điền Hổ phong cho Diệp Thanh giữ chức tổng quản.
Sau đó Ô Lê sai Diệp Thanh đem quân
đến núi Thạch Thất đốn gỗ chuyển đá. Quân sĩ của Diệp Thanh nhìn xuống gò núi
chỉ trỏ kháo nhau rằng: "chỗ kia có hòn đá đẹp, trắng như tuyết không một
vết xước rạn nào. Ở vùng này có kẻ định khuân về liền nghe phát ra một tiếng
sét, cả mấy người khiếp sợ chết ngất hồi lâu mới tỉnh lại. Bởi thế người ta vẫn
đồn đại, nhắc nhở nhau, không ai dám đến gần". Diệp Thanh nghe vậy liền
cùng quân lính xuống chân núi xem cho rõ. Bỗng mọi người kinh ngạc kêu to:
"quái lạ! mới đay là một hòn đá trắng mà bây giờ lại hóa ra xác một người
đàn bà!". Bước lên trên nhìn kỹ, Diệp Thanh kinh ngạc nhận ra đó là xác
gia chủ Tống phu nhân, sắc mặt tươi rói như người sống. Nhìn vết thương trên
trán, trên mặt thì tựa như Tống thị vừa bị ngã từ trên vách núi xuống. Diệp
Thanh xúc động nước mắt tuôn. Đang lúc không hiểu sự việc ra sao, trong bọn quân
sĩ có một người nguyên là lính giữ ngựa của Điền Hổ, thụât lại cho mọi người
nghe đầu đuôi mọi chuyện từ khi Tống thị bị bắt cóc cho đến lúc chết:
"trước đay, lúc mới dấy quân, đại vương ta bắt được người đàn bà ở huyện
Giới Hưu, muốn đón về làm phu nhân áp trại. Bà ta giả cách ưng thuận để được
cởi trói, khi đi qua đây, bất ngờ đâm đầu xuống vách núi tự tử. Thấy bà ta đã
chết, đại vương sai tôi vòng xuống chân núi lột lấy áo quần và đồ trang sức.
Tôi theo hầu đỡ bà ấy lên ngựa, cũng chính tôi xuống tước lột áo quần trang
sức. Tôi quen mặt nên nhận ra ngay, quả đúng là xác bà ấy đấy. Từ bấy đến nay
đã hơn ba năm, chẳng biết vì sao mà xác chết vẫn còn nguyên vẹn như thế".
Diệp Thanh nghe xong bùi ngùi nuốt
nước mắt, nói với quân sĩ: "ta cũng nhận ra bà này là con nhà họ Tống,
láng giềng ngày trước của ta". Nói đoạn Diệp Thanh sai quân khiêng đất đắp
điếm tử thi, nhưng khi lên núi nhìn xuống vẫn thấy hòn đá trắng như trước. Quân
lính Diệp Thanh thảy đều thương xót kinh sợ, rồi ai nấy đi lo việc chuyển đá
đốn cây. Công việc xong xuôi, Diệp Thanh trở về châu Uy Thắng kể lại cho vợ
biết việc Điền Hổ giết Cừu Thân. Tống phu nhân bị bắt cóc đã liều mình để giữ
vẹn trinh tiết. Diệp Thanh bảo An thị kín đáo kể lại cho Quỳnh Anh biết.
Biết sự việc, Qùynh Anh đau xót như
ngàn vạn mũi tên đâm xé trong lòng, ngày đêm nuốt nước mắt, cố nén để khỏi bật
khóc thành tiếng, mắt nhòe ướt lệ, ý nghĩ báo thù cho cha mẹ không lúc nào
nguôi. Cũng từ đó, đêm đêm chợp mắt, Quỳnh Anh đều chiêm bao thấy một vị thần
hiện lên bảo rằng: "con muốn báo thù cho cha mẹ, ta sẽ dạy võ nghệ
cho". Những điều nghe thấy trong giấc chiêm bao, khi tỉnh dậy Quỳnh Anh
đều ghi nhớ hết. Quỳnh Anh bèn đóng cửa cài then, một mình tập luyện các môn
thương bổng. Lâu dần Quỳnh Anh càng thêm tinh thông võ nghệ. Ngày tháng trôi
qua chẳng bao lâu đã tới mùa đông năm Tuyên Hoà thứ tư. Một đêm cuối năm, Quỳnh
Anh vừa gục đầu thiu thiu ngủ, chợt có một luồng gió ùa vào, cuống theo một mùi
hương lạ thơm nức. Trong chốc lát, Qùynh Anh thấy một tu sĩ đầu chít khăn mỏ rìu,
dẫn một viên tướng trẻ mặt chiến bào xanh đến dạy cho mình phép ném đá. Vị tu
sĩ bảo Quỳnh Anh: "ta cất công đến huyện Cao Bình mời Thiên tiệp tịnh tới
đây truyền dạy cho con thụât lạ, giúp con khỏi chốn hang hùm, báo thù cho cha
mẹ. Tướng quân đây sẽ trọn đời duyên lứa với con". Thóang nghe mấy tiếng
"trọn đời duyên lứa", Quỳnh Anh bất giác thẹn thùng, giơ tay áo che
mặt, chẳng ngờ nghe một tiếng kêu "xoảng", mới hay là chạm phải chiếc
kéo để trên mặt bàn. Quỳnh Anh giật mình tỉnh dậy. Trong phòng vẫn ngọn đèn
tàn, ngoài trời vẫn vầng trăng lạnh, chiêm bao giống như thật, Quỳnh Anh ngồi
dậy thẫn thờ.
Sáng hôm sau, Quỳnh Anh còn nhớ phép
ném đá, bèn đến bên bờ tường chọn nhặt một hòn đá bằng quả trứng đánh liều ném
thử con xuy trên nóc nhà. Viên đá ném đi nghe chát một tiếng, con xuy vỡ tan,
mảnh rơi lả tả. Nghê thị giật mình vội ra khỏi, Quỳnh Anh kiếm chuyện nói tránh
đi:
- Đêm qua con mơ thấy một vị thần
đến bảo:"Cha ngươi có số vương hầu, ta dạy riêng cho ngươi các phép võ lạ
để ngươi giúp thành công". Vừa rồi con thử ném đá chẳng ngờ ném trúng con
xuy.
Nghê thị nghe lấy làm lạ bèn kể lại
chuyện ấy cho Ô Lê nghe. Ô Lê không tin liền gọi Quỳnh Anh đến hỏi, đem thương,
đao, kiếm, kích, thuơng, bổng, đinh ba bảo sử dụng thử. Quả nhiên Ô Lê thấy môn
nào Quỳnh Anh cũng thông thạo, riêng thuật ném đá thì đặc sắt nhất, trăm phát
trăm trúng. Ô Lê cả kinh, nghĩ bụng:"ta quả có phúc lớn mới được trời cho
dị nhân đến giúp sức". Từ đó Ô Lê hàng ngày truyền dạy cho Quỳnh Anh các
phép cưỡi ngựa, đánh kiếm.
Câu chuyện về tài võ nghệ của Qùynh
Anh từ nhà Ô Lê lọt ra ngoài làm xôn xao cả thành Uy Thắng, dân chúng đặt biệt
hiệu gọi Quỳnh Anh là "Quỳnh thỉ thốc" (mũi tên Qùynh). Dạo ấy, Ô Lê
muốn kén chọn chàng rể gả chồng cho Quỳnh Anh. Quỳnh Anh thưa với mẹ nuôi:
- Nếu cha mẹ gả chồng cho con thì
xin kén người nào ném đá thật giỏi. Nếu là kẻ tài nghệ không bằng con thì con
thà chết chứ không nhận lời.
Nghê thị nói lại với Ô Lê. Ô Lê thấy
Quỳnh Anh kén chọn khó quá, việc kén rể đành phải tạm gác lại. Hôm ấy Ô Lê nghĩ
đến hai chữ "vương hầu", chợt nẩy manh tâm, bèn tâu xin cho Quỳnh Anh
giữ chức tiên phong, muốn thừa dịp hai bên đánh nhau, mình ở giữa thủ lợi. Bấy
giờ Ô Lê chọn tướng tuyển quân đã xong, hạ lệnh cho rời châu Uy Thắng. Ô Lê
giao cho Quỳnh Anh làm tướng tiên phong, đưa năm nghìn tinh binh đi trước, tự
mình thống lĩnh đại quân tiến theo sau.
Tạm gác chuyện Ô Lê, Qùynh Anh đưa
quân lên đường. Đây nói chuyện Tống Giang ở phủ Chiêu Đức chờ đợi tiếp đón Trần
an phủ. Ngày một ngày hai, mãi đến hơn mười hôm sau mới có tin báo người ngựa
của Trần an phủ đã tới. Tống Giang dẫn các tướng ra ngoài thành nghênh tiếp,
mời Trần an phủ về dinh riêng trong thành Chiêu Đức nghỉ ngơi. Các tướng lĩnh
đầu mục đều đến vái chào.
Trần an phủ từ trước vẫn biết anh em
Tống Giang là những người trung nghĩa nhưng chưa có dịp gặp mặt trò chuyện với
Tống Giang. Hôm nay gặp nhau, thấy Tống Giang đôn hậu, một mực cung kính khiêm
nhường, Trần an phủ lại càng thêm kính trọng. Trần an phủ nói:
- Hoàng đế nghe tin tiên phong liên
tiếp lập kỳ công, đặc sai hạ quan đưa mấy xe vàng bạc vóc lụa đến ban cấp đồ
thưởng và giám sát việc quân.
Anh em Tống Giang đều vái tạ. Tống
Giang nói:
- Tống Giang tôi nhờ tướng công hết
sức tâu bày, hôm nay mới được đội ơn lớn của thiên tử. Mọi sự đều do tướng công
tác thành cho. Anh em Tống Giang tôi dẫu phơi gan nơi chiến địa cũng chưa đủ
báo đền.
Trần an phủ nói:
- Mong tướng quân sớm lập công lớn,
khi về kinh tướng quân sẽ được thiên tử cất nhắc trọng dụng.
Các đầu lĩnh lại vái tạ lần nữa.
Tống Giang nói:
- Mời tướng công ở lại đóng giữ
thành Chiêu Đức, anh em tiểu tướng sẽ đem quân đi đánh sào huyệt của Điền Hổ,
khiến cho quân giặc đầu đuôi không cứu ứng được nhau.
Trần an phủ nói:
- Truớc khi rời kinh, hạ quan đã tâu
lên để thiên tử biết những châu huyện do tiên phong mới thu hồi, hiện nay đều
thiếu quan cai trị. Bộ lại đã cấp tốc chọn người để bổ nhiệm, đã hẹn ngày lên
đường, chẳng bao lâu bọn họ sẽ tới nơi.
Tống Giang một mặt phân phát đồ
thưởng cho quân sĩ, một mặt viết quân thiếp, sai Thần hành thái bảo Đái Tôn đi
truyền lệnh cho các đầu lĩnh trấn thủ các châu huyện biết để sẵn sàng giao
quyền lại cho các quan mới tới nhậm chức, rồi đưa quân về thành chờ lệnh sai
phái.
Tống Giang cũng giao cho Đái Tôn,
sau khi truyền lệnh cho các châu huyện xong, đi tiếp đến phủ Phần Dương thám
thính tình hình quân giặc. Tống Giang lại trình lên để Trần an phủ biết công
trạng của các hàng tướng Hà Bắc là bọn Đường Bân, tiến cử bọn Kim Đĩnh, Hoàng
Việt giữ chức trấn thủ cửa ải Hồ Quan và núi Bão Độc thay cho các tướng Tôn
Lập, Chu Đồng trở về suý phủ chờ sai phái, mọi việc đều được Trần an phủ chấp
thuận.
Bỗng có tin quân lưu tinh thám mã về
báo: "Điền Hổ sai Mã Linh thống lĩnh người ngựa đến cứu cấp cho phủ Phần
Dương, lại sai Ô Lê quốc cữu cùng với quận chúa Quỳnh Anh đem quân từ phía đông
đánh tới hiện đã tới huyện Tương Viên. Tống Giang nghe xong, cùng bàn với Ngô
Dụng, rồi cắt cử các tướng đem quân đi chặn địch. Bấy giờ hàng tướng Kiều Đạo
Thanh nói:
- Mã Linh cũng biết dùng yêu thuật
và có phép thần hành, thường giấu trong người một viên gạch vàng, ném trăm phát
trăm trúng. Bần đạo đội ơn tiên phong thu dùng, chưa đóng góp công sức, nay xin
tiên phong cho bần đạo cùng với tôn sư Công Tôn Nhất Thanh đến Phần Duơng
thuyết phục Mã Linh về hàng.
Tống Ginag cả mừng, điểm ngay hai
nghìn quân mã cho theo Công Tôn Thắng và Kiều Đạo Thanh. Hai người từ biệt Tống
Giang đưa quân đi Phần Dương ngay trong ngày hôm đó.
Nói tiếp chuyện Tống Giang truyền
lệnh cho Sách Siêu, Từ Ninh, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc, Thang Long, Đừơng
Bân, Cảnh Cung thống lĩnh hai vạn quân mã đi đánh huyện Lộ Thành. Lại lệnh cho
Vương Anh, Hỗ Tam Nương, Tôn Tân, Cố đại Tẩu lĩnh một nghìn quân kỵ đi trước
thám thính tình hình bên quân Điền Hổ. Tống Giang từ biệt Trần an phủ rồi cùng
bọn Ngô Dụng, Lâm Xung, Trương Thanh, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lý Quỳ, Bao Húc,
Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, Lưu Đường, Giải Trân, Giải Bảo, Lăng Chấn, Bùi
Tuyên, Tiêu Nhượng, Tống Thanh, Kim Đại Kiên, An Đạo Toàn, Tưởng Kính, Úc Bảo
Tứ, Vương Định Lục, Mạnh Khang, Nhạc Hoà, Đoàn Cảnh Trụ, Chu Quý, Hoàng Phủ
Đoan, Hầu Kiện, Sái Phúc, Sái Khánh và tướng mới về hàng là Tôn An, tất cả ba
mươi mốt chánh phó tướng, thống lĩnh ba vạn năm nghìn quân mã rời thành Chiêu
Đức tiến lên phía bắc.
Quân tiền tiêu do Vương Anh chỉ huy
tiến đến huyện Lộ Thành ở phía bắc núi Ngũ Am thì gặp quân do thám dưới quyền
của các tướng Diệp Thanh, Thịnh Bản của quân Điền Hổ. Quân hai bên gặp nhau,
khua trống phất cờ lâm trận. Bên quân bắc, Thịnh Bản dừng ngựa trước trận. Bên
quân Tống, Vương Anh phóng ngựa lên trước, không nói nửa câu, xăm xăm vỗ ngựa,
vung thương lao vào đánh Thịnh Bản. Quân hai bên hò reo trợ chiến. Thịnh Bản
giơ thương, thúc ngựa đón đánh. Hai tướng đánh hơn mười hiệp, Hỗ Tam Nương khua
đao vỗ ngựa lên hợp sức với chồng. Thịnh Bản không địch nổi hai tướng, bèn quay
ngựa chạy. Hỗ Tam Nương đuổi theo, chém Thịnh Bản lăn nhào xuống ngựa. Vương
Anh cùng các tướng hô quân ùa sang chém giết. Diệp Thanh không dám chống cự,
cấp tốc dẫn quân tháo lui. Quân Tống đuổi theo, giết hơn năm trăm tên, bọn còn
lại tán loạn chạy trốn khắp nơi, Diệp Thanh chỉ còn hơn trăm quân kỵ, rạp ngựa
chạy quá hai mươi dặm về phía nam thành huyện Tương Viên. Ở đó lúc bấy giờ đã
có quân mã của quận chúa Quỳnh Anh đến đóng trại.
Nửa năm trước, Điền Hổ sai Diệp Thanh
đến huyện Tương Viên cùng với chủ tướng là bọn Từ Uy cầm quân đóng giữ huyện
thành. Gần đây nghe tin Quỳnh Anh giữ chức tiên phong đem quân đến, Diệp Thanh
xin chủ tướng Từ Uy cho dẫn quân bản bộ đi thám thính. Ý định của Diệp Thanh là
muốn nhân cơ hội ấy đón gặp nữ chủ nhân. Từ Uy sai phó tướng Thịnh Bản cùng đi
với Diệp Thanh, chẳng ngờ Thịnh Bản bị Hỗ Tam Nương giết đúng lúc quân mã của
Quỳnh Anh vừa tới. Diệp Thanh vào trại yết kiến nữ chủ nhân, mừng thấy tiểu thư
họ Cừu khôn lớn, có uy phong một vị nữ tướng oai hùng. Quỳnh Anh nhận ra Diệp
Thanh bèn quát lui tả hữu, rồi nói:
- Ta vừa may thoát khỏi hang hùm,
nhưng thủ hạ chỉ có năm nghìn người ngựa, chưa biết làm sao rửa sạch mối thù
cho cha mẹ. Ta tính việc thoát thân, nhưng sợ chúng phát giác thì tự mình chuốc
lấy tai vạ. May sao gặp Diệp Thanh tới đây!
Diệp Thanh nói:
- Diệp Thanh tôi đã trù nghĩ cả,
nhưng chưa tìm được phương kế gì, khi nào có dịp sẽ xin đến báo.
Chưa dứt lời bỗng có tin quân Tống
đang tiến đến. Quỳnh Anh mặc giáp lên ngựa, đem quân ra chặn địch.
Quân hai bên tiến gần, giương cờ
gióng trống, dàn trận đối nhau. Dưới môn kỳ bên quân Điền Hổ, một nữ tướng trẻ
tuổi, dung mạo xinh đẹp, cữỡi ngựa bạch đứng trước hàng quân. Cờ hiệu trước
ngựa của nữ tướng đề rõ " bình nam tiên phong tướng quận chúa Quỳnh
Anh". Tướng sĩ bên quân Tống thấy vậy trầm trồ thán phục. Quân hai bên hò
reo vang trời, khua chiêng, gióng trống. Cờ hiệu các màu rợp đất. Nuỵ cước hổ
Vương Anh thấy viên nữ tướng xinh đẹp liền phóng ngựa xung thương xông tới đánh.
Quân hai bên hò reo trợ chiến. Quận chúa Qùynh Anh liền giơ kích chặn đánh
Vương Anh. Hai tướng đánh chừng hơn chục hiệp, Vương Anh vốn tính hiếu sắc,
thấy Qùynh Anh xinh đẹp thì đường thương rối loạn. Quỳnh Anh thầm nghĩ:
"tên tiểu tướng này thật đáng ghét". Nghĩ đoạn Quỳnh Anh nhân lúc
Vương Anh sơ hở, liền đâm Vương Anh một kích trúng đùi bên trái. Vương Anh ngã
ngựa. Hỗ Tam Nương thấy chồng bị thương, liền quát lớn:
- Nữ tặc kia, sao dám vô lễ!
Chưa dứt lời, Hỗ Tam Nương liền vỗ
ngựa xông đến cứu Vương Anh. Quỳnh Anh vung kích chặn đánh. Vương Anh chưa kịp
gượng dậy, bị quân Điền Hổ ùa tới bắt sống.
Bên quân Tống Giang, cả Tôn Tân và
Cố Đại Tẩu cùng xông trận, quyết sức giao chiến để cứu Vương Anh. Cố Đại Tẩu
thấy Hỗ Tam Nương không địch nổi Quỳnh Anh, liền múa song thương thúc ngựa tới
trợ chiến. Ba nữ tướng ngồi trên ngựa vung đao kích giao chiến. Sáu cánh tay
nõn nà vung binh khí sáng loáng. Quân sĩ đôi bên ngây người thán phục đứng
nhìn. Ba nữ tướng đánh hơn hai mươi hiệp thì Quỳnh Anh đâm dứ một đường rồi
quay ngựa bỏ chạy. Hỗ Tam Nương và Cố Đại Tẩu cùng thúc ngựa đuổi theo. Quỳnh
Anh liền chuyển cây hoa kích sang tay trái, lén lấy viên đá, nheo mắt ngắm rồi
vung ta ném đi. Bị đá trúng vào cổ tay phải, Hỗ Tam Nương đau điếng, vứt đao
quay ngựa chạy về. Cố Đại Tẩu vội bỏ Quỳnh Anh, vỗ ngựa đến cứu Hỗ Tam Nương.
Quỳnh Anh quay ngựa đuổi theo. Tôn Tân cả giận, vugn song tiên thúc ngựa chặn
đánh. Hai tướng chưa kịp giao chiến thì Qùynh Anh ném đá trúng vào mũ trụ bằng
đồng của Tôn Tân, nghe đánh "choang" một tiếng. Tôn Tân cả sợ, vội
quay về trận nhà để hộ vệ Vương Anh và Hỗ Tam Nương cho quân lui về phía sau.
Qùynh Anh định xua quân đuổi theo,
bỗng nghe tiếng pháo lệnh nổ rền như sấm, tiếng ngựa hí vang. Rồi từ sau sườn
núi một đội quân mã rầm rập lướt cờ xông tới. Đó là các tướng Lâm Xung, Tôn An
và các đầu lĩnh quân bộ là bọn Lý Quỳ vâng lệnh Tống Công Minh đem quân tiếp
ứng. Quân hai bên gặp nhau tung cờ gióng trống hò reo xông trận. Báo tử đầu Lâm
Xung cầm ngang cây bát xà mâu dừng ngựa đứng trước trận. Nữ tướng Quỳnh Anh
nâng cây phương thiên hoạ kích phóng ngựa đến đánh, Báo Tử đầu Lâm Xung thấy
viên nữ tướng liền quát to:
- Nữ tặc, sao dám chống quân thiên
triều?
Quỳnh Anh không đáp, chỉ nâng thương
thúc ngựa xông vào đánh Lâm Xung. Hai tướng ngồi trên ngựa quần thảo, binh khí
qua lại vun vút. Đánh mới được vài hiệp, Quỳnh Anh không đỡ gạt nổi, bèn nhân
lúc sơ hở quay ngựa chạy. Tôn An thấy cờ hiệu của Quỳnh Anh, vội kêu lên:
- Lâm tướng quân, xin đừng đuổi theo
kẻo mắc mưu giặc!
Lâm Xung cậy có võ nghệ cao cường,
không chịu nghe lời Tôn An, vẫn thúc ngựa đuổi sát theo sau. Quỳnh Anh chờ cho
Lâm Xung đến thật gần, chuyền kích sang tay trái, thò tay vào túi lấy đá, rồi
quay lại nghiêng người vung tay ném. Lâm Xung mắt sáng tay nhanh, liền giơ cán
mâu gạt viên đá rơi xuống đất. Quỳnh Anh thấy trượt, lại nhanh tay ném tiếp.
Lâm Xung né tránh không kịp bị viên đá trúng vào mặt, máu chảy đầm đìa, vội
quay ngựa chạy về. Quỳnh Anh liền quay ngựa đuổi theo.
Tôn An định dẫn quân tiến lên, bỗng
thấy bên trận quân mình rẽ làm đôi. Liền đó thấy năm viên mãnh tướng là bọn Lý
Qùy, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Giải Trân, Giải Bảo chỉ huy năm trăm quân bộ ào ạt
xông lên. Lý Quỳ vung búa quát lớn:
- Tướng đàn bàn kia, sao dám vô lễ!
Qùynh Anh thấy Lý Quỳ xấu xí hung dữ,
vội tung đán trúng giữa trán Lý Quỳ. Lý Qùy đau điếng, giật mình kinh sợ. Cũng
may Lý Quỳ xương đồng da sắt nên không hề gì. Quỳnh Anh thấy Lý Quỳ không ngã,
vội quay ngựa chạy về trận nhà. Lý Quỳ cả giận, râu hùm dựng ngược, trừng mắt
quát thét rượt đuổi theo. Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Giải Trân, Giải Bảo sợ Lý Quỳ
sơ suất, vội chạy lên tiếp ứng. Tôn An lấy làm lo, nhưng không ngăn nổi. Quỳnh
Anh thấy bọn Lỗ Trí Thâm đuổi theo bèn quay lại ném đá. Giải Trân trúng thương
ngã nhào, Giải Bảo, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng vội chạy đến vực Giải Trân dậy. Phía
trước một mình Lý Quỳ vẫn xách búa cắm đầu đuổi theo. Quỳnh Anh lại ném đá
trúng giữa trán Lý Quỳ. Hắc toàn phong hai lần bị đá ném nhưng lần này mới sứt
da chảy máu thì bừng bừng tức giận, hai tay vung hai búa xông vào giữa trận
quân Điền Hổ mà chém giết. Tôn An thấy Quỳnh Anh bị lọt vào giữa trận, bèn vẫy
quân đánh tràn sang. Lúc ấy Ô Lê quốc cữu cùng bọn Từ Uy tám chánh phó tướng
cũng vừa dẫn đại quân đến cứu viện. Quân hai bên xông trận hỗn chiến.
Bọn Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng sau khi cứu
được Giải Trân liền quay lại đuổi đanh quân Điền Hổ, Giải Bảo dìu Giải Trân
chạy quan vùng tên đạ, bị quân Điền Hổ đuổi theo, ném thòng lọng bắt sống. Năm
trăm quân bộ của Lý Quỳ thua to, xô nhau bỏ chạy. Tôn An liều mình xông lên quyết
chiến, đưa một lưỡi gươm chém tướng giặc là Đường Hiển lăn nhào xuống ngựa. Ô
Lê quốc cữu bị một tay cung nỏ của Tôn An bắn lén một mũi tên xuyên qua gáy. Ô
Lê quốc cữu chúi người rơi xuống may có bọn Từ Uy kịp xông đến tiếp cứu. Quận
chúa Qùynh Anh và các tướng thấy Ô Lê quốc cữu bị thương, vội truyền lệnh khua
chiêng thu quân. Lúc ấy quân mã của Tống Giang do Một vũ tiễn Trương Thanh chỉ
huy từ phía nam thành đánh thốc tới. Trước đó Trương Thanh đã được quân thám mã
báo cho biết bên quân Điền Hổ có một nữ tướng ném đá rất lợi hại, đã làm cho Hỗ
Tam Nương bị thương. Trương Thanh giật mình, vội đến trình với Tống tiên phong
rồi khoác giáp lên ngựa, cấp tốc đem quân đi cứu viện để tận mắt nhận diện viên
tướng tiên phong ấy.
Bấy giờ Quỳnh Anh đã cho khua chiêng
thu quân, hộ vệ Ô Lê quốc cữu chạy qua khu rừng rậm sang huyện Tương Viên.
Trương Thanh cầm giáo, cưỡi ngựa đứng truớc trận nghĩ ngợi hồi lâu. Có thơ làm
chứng như sau:
Giai nhân hồi mã tú kỳ dương
Sĩ tốt tướng quân cá cá mang
Dẫn nhập trường lâm nhân bất kiến
Bách hoa tùng lý cách hồng trang.
Giai nhân quay ngựa bóng cờ bay
Tướng sĩ ai ai vội vã thay
Khuất nẻo rừng xa người chẳng thấy
Trăm hoa che khuất bóng hồng đây.
Bấy giờ Tôn An thấy Giải Trân, Giải
Bảo bị giặc bắt sô ng, mà bọn Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lý Quỳ vẫn liều lĩnh xông
trận thì muốn vẫy quân đuổi theo cứu ứng. Nhưng thấy trời đã xẩm tối, Tôn An
đành cùng Trương Thanh hộ vệ Lâm Xung thu quân về trại.
Lúc ấy Tống Giang ở trong trướng đã
cho gọi thần y An Đạo Toàn đến chữ vết thương cho Vương Anh. Bấy giờ mọi người
mới biết Vương Anh không chỉ bị thương ở đùi mà ở đầu cũng bị thương nặng. An
Đạo Toàn chữa cho Vương Anh xong, rồi chữa cho Lâu Xung. Nghe tin Giải Trân,
Giải Bảo bị bắt và bọn Lý Quỳ ba người vào sâu trong trận địch chưa về, Tống
Giang bồn chồn lo lắng. Một lúc sau Võ Tòng và Lý Quỳ máu me đầy người trở về,
vào trướng yết kiến Tống Giang. Võ Tòng nói:
- Tiểu đệ thấy Lý Quỳ cứ một mình
xông lên đánh, nên phải chạy theo giúp. Đuổi đến sát chân thành, thấy quân giặc
trói Giải Trân, Giải Bảo sắp dẫn vào thành, anh em tiểu đệ liền xông vào đánh,
cứu được hai người. Không may lúc ấy đại quân của Từ Ninh ở phía sau đuổi tới
đọat lại. Anh em tiểu đệ chỉ còn cách đánh mở đường máu chạy về. Cả tiẻu đệ và
Lý Quỳ đều không biết Lỗ Trí Thâm đi lối nào.
Tống Giang nghe nói buồn rầu rơi lệ,
liền sai người đi khắp nơi tìm kiếm Lỗ Trí Thâm. Một mặt sai thần y An Đạo Toàn
chữa chạy cho bọ Võ Tòng, Lý Quỳ. Điểm lại quân sĩ thấy thiệt hại hơn ba trăm
quân. Tống Giang sai đóng chặt cổng trại, đặt quân canh và hiệu lệnh tuần
phong.
Sáng hôm sau quân thám mã báo tin
không tìm thấy Lỗ Trí Thâm. Tống giang lại sai Nhạc Hoà, Đoàn Cảnh Trụ, Chu Quý
và Úc Bảo Tứ mỗi người dẫn một đội quân khinh tiệp chia đi bốn phía tìm kiếm.
Tống Giang muốn mau chóng cho quân đánh thành Chiêu Đức, nhưng mấy đẫu lĩnh bị
thương chưa khỏi, đành phải đóng quân chờ đợi. Quân Điền Hổ cũng đóng chặt cổng
thành không dám ra khiêu chiến.
Mấy hôm sau, Úc Bảo Tứ bắt được một
tên do thám của địch áp giải về đại trại. Tôn An trông tháy nhận ra ngay nó là
viên tổng quản Diệp Thanh bên quân Điền Hổ. Tôn An nói với Tống Giang:
- Viên tướng này là người có chí
khí, nay một mình ra khỏi thành tất phải có duyên cớ gì.
Tống Giang liền sai quân cởi trói,
gọi Diệp Thanh đến hỏi chuyện.
Vừa thấy Tống Giang, Diệp Thanh liền
rập đầu lạy chào rồi nói:
- Tiểu nhân có việc cơ mật, xin
nguyên suý cho tả hữu lui ra để tiểu nhân thưa rõ.
Tống Giang nói:
- Anh em ta ở đây một lòng một dạ,
có điều gì ngươi cứ nói, đừng ngại.
Diệp Thanh nói:
- Trong trận đánh hôm trước, quốc
cữu Ô Lê bị trúng tên độc, hiện đang hôm mê hoảng loạn, các thầy thuốc trong
thành đã được mời đến chữa nhưng không khỏi. Tiểu nhân mượn cớ đi tìm thầy
thuốc ra ngoài thành thăm dò tin tức.
Tống Giang hỏi:
- Hôm trước có hai tướng của ta bị
bắt, hiện bị giam ở đâu?
Diệp Thanh nói:
- Tiểu nhân chỉ sợ bọn chúng làm hại
hai tướng, nên thừa lúc Ô Lê mê man bất tỉnh, tiểu nhân đã truyền lệnh đem hai
vị ấy giam riêng một nơi để trông nom cho chu đáo.
Tiếp đó Diệp Thanh kể sự việc vợ
chồng Cừu Thân bị Điền Hổ giết hại, cùng là chuyện Quỳnh Anh được Ô Lê nhận làm
con nuôi kể lại tỉ mỉ cho Tống Giang nghe.
Tống Giang thấy câu chuyện thương
tâm nhưng vì Diệp Thanh là tướng của Điền Hổ, nên vẫn lo có mưu gì gian trá.
Đang băn khoăn suy nghĩ thì thần y An Đạo Toàn đến nói với Tống Giang:
- Đay là vận hội trời cho, không
phải ngẫu nhiên mà có. Mùa đông năm ngóai, tướng quân Trương Thanh có kể với
tiểu nhân là tướng quân chiêm bao thấy vị nho sinh nhờ tướng quân dạy thuật ném
đá cho một người con gái và nói người đó có duyên số với tướng quân. Tướng quân
tỉnh mộng cứ ngẩn ngơ rồi sinh bệnh. Anh em đầu lĩnh gặng hỏi mãi, Trương tướng
quân mới chịu nói rõ căn bệnh. Sau đó anh em đầu lĩnh kể lại cho tiểu nhân biết
để lo thuốc thang điều trị cho Trương tướng quân. Nay nghe câu chuyện của Diệp
Thanh, tiểu nhân ngờ là hợp với giấc mộng của Trương tướng quân vậy.
Tống Giang lại hỏi hàng tướng Tôn
An. Tôn An đáp:
- Tiểu tướng cũng nghe nói Quỳnh Anh
không phải là con đẻ của Ô Lê. Bộ hạ của tiểu tướng là Dương Phương chơi thân
với vệ sĩ của Ô Lê cũng biết rõ lai lịch của Quỳnh Anh như thế. Lời Diệp Thanh
nói không có điều gì đáng ngờ.
Diệp Thanh lại nói:
- Tiểu thư Quỳnh Anh vốn có chí báo
thù nhà. Lúc ra trận nữ chủ nhân tôi trót phạm uy hổ của chư vị tướng quân, sợ
sau này đại quân đánh thắng thì vàng đá không phân biệt được. Vì thế Diệp Thanh
tôi mạo muội liều chết đến đây khẩn thiết xin nguyên suý xem xét chu tất cho.
Ngô Dụng nhìn kỹ Diệp Thanh rồi nói:
- Xem khí sắc cũng biết Diệp Thanh
tướng quân là người chân thực có nghĩa khí. Quả là lòng trời giúp huynh trưởng
thành công, cũng là dịp cho hiếu nữ báo thù nhà.
Nói đoạn Ngô Dụng nói nhỏ với Tống
Giang:
- Quân ta tuy chia ba đường tiến
đánh, nhưng nếu Điền Hổ liên kết vơi quân Kim thì quân ta đằng trước đằng sau
đều gặp địch. Lại giả sử người Kim không dẫn quân sang, Điền Hổ cùng đường tất
phải chạy sang đầu hàng vua Kim. Như thế anh em ta không có công đánh dẹp. Ngô
Dụng tôi định thi hành một mưu kế, cần người làm nội ứng. Nay xin chủ tướng cho
làm như thế... như thế... tất thủ cấp của Điền Hổ sẽ nằm gọn trong tay Quỳnh
Anh! vả lại chắc huynh trưởng còn nhớ câu chuyện chiêm bao của Lý Quỳ, thần
nhân chỉ bảo: "muốn dẹp loạn Điền Hổ, phải có mũi tên Qùynh".
Tống Giang sực nhớ, cho gọi Trương
Thanh, An Đạo Toàn, Diệp Thanh vào giao mật kế. Ba người tuân lệnh lui ra.
Lại nói Diệp Thanh trở về Tương
Viên, đến dưới chân thành cất tiếng gọi to:
- Mau mở cửa thành! ta là phó tướng
Diệp Thanh ở phủ Ô Lê quốc cữu tìm được hai thầy thuốc là Toàn Linh, Tòan Vũ
đưa về đây.
Quân giữ thành báo về xin lệnh, chỉ
một lúc sau có quân ở phủ quốc cữu cầm lệnh tiễn đến cho mở cổng. Diệp Thanh
dẫn Toàn Linh, Toàn Vũ vào thành, đến phủ quốc cữu chờ lệnh. Có lệnh cho dẫn
thầy thuô c vào chữa bệnh cho quốc cữu. Diệp Thanh bèn dẫn Toàn Linh đi vào.
Người hầu vào báo rồi dẫn Toàn Linh
đến chào quận chúa Quỳnh Anh, sau đó Toàn Linh đến phòng riêng thăm bệnh cho Ô
Lê quốc cữu. Bệnh tình của Ô Lê đã đến mức trầm trọng, hơi thở chỉ còn thoi
thóp. Toàn Linh xem mạnh xong, lau rửa sạch rồi lấy thuốc đắp vết thương cho Ô
Lê, lại cho uống thêm thuốc bào chế. Ba ngày sau vết thương bắt đầu lên da non,
Ô Lê đã ăn uống được đôi chút. Sau năm ngày, tuy vết thương chưa lành hẳn nhưng
sức khoẻ Ô Lê đã bình phục. Ô Lê cả mừng, sai Diệp Thanh mời thầy thuốc Toàn
Linh vào cảm tạ.
Ô Lê nói:
- Nhờ túc hạ có phép thần y chữa
lành vết thương, sức khỏe ta nay đã được bình phục. Sau này ta sẽ chung hưởng
phú quý với túc hạ.
Toàn Linh lạy tạ nói:
- Toàn Linh tôi chỉ có phương thuốc
nhỏ mọn, có đáng gì để quốc cữu quá khen! tiểu nhân có em ruột là Toàn Vũ từ
nhỏ từng theo tiểu nhân đi khắp nơi giang hồ, cũng học hỏi được ít nhiều võ
nghệ. Nay em tiểu nhân cũng theo đến đây phụ việc chăm sóc thuốc men cho quốc
cữu. Xin tướng công xem xét cất nhắc cho.
Ô Lê sai người gọi Toàn Vũ vào hỏi
chuyện. Ô Lê thấy Toàn Vũ tướng mạo tuấn tú khác thường bèn cho Toàn Vũ ở phía
ngoài phru dinh để chờ sai phái.
Toàn Linh, Toàn Vũ cảm tạ Ô Lê quốc
cữu rồi cáo từ lui ra. Mấy hôm sau bỗng có tin Tống Giang đem quân đến đánh
thành Tương Viên. Diệp Thanh vào phủ báo tin cho Ô Lê quốc cữu, nói quân Tống
đông mạnh, xin quốc cữu lệnh cho quận chúa Quỳnh Anh ra trận thì mới đánh lui
được. Ô Lê bèn dẫn cả Qùynh Anh ra trường diễn võ chỉnh điểm binh mã.
Bấy giờ Toàn Vũ đến trước nhà giảng
võ nói với Ô Lê:
- Thưa quốc cữu, tiểu nhân đội ơn
quốc cữu, nay nghe tin quân Tống đến đánh, Toàn Vũ tôi dẫu bất tài cũng xin
quốc cữu cho đem quân ra ngoài thành đánh tan quân Tống.
Tổng quản Diệp Thanh vờ tức giận
nói:
- Ngươi giỏi khoe tài, liệu có dám
tỉ thí võ nghệ với ta không?
Toàn Vũ cười đáp:
- Ta từ nhỏ tập đủ mười tám ban võ
nghệ, quả thậ cũng đang muốn đọ tài với ngươi!
Diệp Thanh hỏi ý Ô Lê quốc cữu, rồi
đưa thương và sai dắt ngựa ra cho Toàn Vũ. Hai người lên ngựa tiến ra trước đài
diễn võ giao đấu. Diệp Thanh và Toàn Vũ ngồi trên lưng ngựa vung thương, kẻ qua
người lại, quần thảo với nhau hơn năm mươi hiệp không phân thắng bại. Lúc ấy
Qùynh Anh đứng bên Ô Lê quốc cữu xem hai người đua tài. Nhìn rõ mặt Toàn Vũ,
Quỳnh Anh kinh ngạc thầm nghĩ: "ta đã gặp người nay ở đâu rồi? xem ra
chàng cũng có thương pháp giống ta". Nghĩ ngợi một lúc, Quỳnh Anh sực nhớ
ra: "đúng là chàng trong mộnt đã dạy ta thuật ném đá! nếu người này biết
ném đá thì đúng là chàng!". Nghĩ đoạn Quỳnh Anh liền cầm cây hoạ kích lên
ngựa tiến ra giơ kích ngăn hai người. Đó là vì Qùynh Anh sợ Diệp Thanh đánh
Toàn Vũ bị thương, không biết Diệp Thanh và Toàn Vũ đã cùng chung một chí.
Quỳnh Anh vung kích xông vào đánh Toàn Vũ. Toàn Vũ nâng thương chặn đỡ. Hai
người giao chiến hơn năm mươi hiệp thì Quỳnh Anh quay ngựa chạy vòng ngang qua
đài diễn võ. Toàn Vũ cũng lựa thế thúc ngựa đuổi theo. Quỳnh Anh móc túi lấy
đá, nghiêng mình quay lại, nhằm phía dưới nách Toàn Vũ ném vút đi. Toàn Vũ
nhanh mắt trông thấy, nhẹ nhàng khoát tay bắt lấy viên đá. Quỳnh Anh thấy vậy
rất đỗi kinh ngạc, lại lấy tiếp viên đá thư hai ném Toàn Vũ. Toàn Vũ thấy Quỳnh
Anh vugn tay liền dùng ngay viên đá vừa bắt đuợc ném đi. Bỗng nghe một tiếng
"cạch", viên đá của Toàn Vũ ném trúng viên đá của Quỳnh Anh đang bay
tới, cả hai đều vỡ tan, rơi xuống đất.
Ngày hôm ấy các tướng của Điền Hổ
như bọn Từ Uy đều phải chia nhau đi đốc suất việc canh giữ ở bốn cửa thành. Số
còn lại ở diễn võ trường chỉ có những viên phó tướng, hiệu uý. Trong bọn họ
cũng có người nghi ngờ Toàn Vũ là quân gian tế lọt vào. Nhưng thấy quận chúa
Qùynh Anh cành vàng lá ngọc cũng thi tài với Toàn Vũ, mà người tiến dẫn Toàn Vũ
lại chính là phó tướng Diệp Thanh, bộ hạ thân cận của Ô Lê, vì vậy không ai dám
tỏ ý nghi ngờ. Xem tình thế thì thành Tương Viên sắp mất đến nơi, ai nấy đều lo
lựa gío che thân, không muốn dính líu vào chuyện rắc rối. Âu cũng là lòng trời
muốn Điền Hổ phải thất bại nên mới bắt mất hồn vía của Ô Lê, làm cho đầu óc hắn
u tối không nhận ra điều đó. Bấy giờ Ô Lê gọi Toàn Vũ lên đài giảng võ, ban cho
áo giáp, chiến mã rồi lệnh cho Toàn Vũ đem hai ngàn quân ra ngoài thành giao
chiến. Toàn Vũ vái tạ, tuân lệnh đem quân ra ngoài thành giao chiến với quân
Tống Giang, không bao lâu thì trở về báo tiệp. Ô Lê cả mừng, sai dọn tiệc khoản
đãi và ban thưởng cho Toàn Vũ.
Ngày hôm sau quân Tống lại đến đánh
thành. Ô Lê lại sai Toàn Vũ dẫn hai nghìn quân ra ngoài thành giao chiến. Từ
giữa sáng đến trưa, Toàn Vũ trổ tài ném đá, khiến cho quân Tống Giang rối loạn
bỏ chạy. Toàn Vũ xua quân đuổi theo, đến quá núi Ngũ Am. Quân Tống Giang không
chống cự nổi phải lui về thành Chiêu Đức. Toàn Vũ dẫn quân trở về báo tin thắng
trận. Ô Lê quốc cữu vui mừng.
Diệp Thanh nói:
- Nay quốc cữu đã có Toàn Vũ và quận
chúa Quỳnh Anh, không còn lo ngại gì quân Tống, việc lớn tất phải thành.
Diệp Thanh lại nói:
- Ngày trước quận chúa đã tỏ ý khi
nào gặp người giỏi ném đá mới chịu sánh duyên. Nay tướng quân Toàn Vũ tỏ rõ là
bậc anh hùng thật không làm xấu mặt quận chúa Quỳnh Anh.
Diệp Thanh hai ba lần nói vun vào, Ô
Lê quốc cữu cũng thấy hợp tình. Âu cũng là duyên số của Trương Thanh, Quỳnh Anh
đã có sợ tơ hồng xoắn buộc từ trước không gỡ ra được. Ô Lê ưng thuận cho chọn
ngày mười sáu tháng ba mở tiệc mừng cho Trương Thanh làm rể.
Đến ngày đã định, gấm vóc phủ sàn
che trướng, cỗ bàn tiệc rượu linh đình, Toàn Vũ, Quỳnh Anh quân hồng áo gấm
song song cúi đầu lạy tạ nhạc phục Ô Lê quốc cữu. Đàn trống vang lừng, hương
thơm toả ngát. Lạy nhạc phụ đã xong, Toàn Vũ, Qùynh Anh vào phòng riêng cạn lời
thề ước. Lễ động phong hoa chúc tốt đẹp khỏi phải nói. Cả hai cùng vui như cá
nước keo sơn.
Đêm ấy tựa đầu trên gối, Toàn Vũ nói
thật cho Qùynh Anh biết mình chính là Một vũ tiễn Trương Thanh, chánh tướng của
quân Tống. Người thầy thuốc Toàn Linh chính là thần y An Đạo Toàn. Qùynh Anh
cũng đem nỗi oan khổ bấy lâu nay của mình kể cho Trương Thanh nghe.
Hai ngày sau, Trươnng Thanh, Qùynh
Anh bỏ thuốc độc vào thức ăn, giết Ô Lê, rồi sai mời Từ Uy vào phủ, hạ sát nốt.
Quân tướng còn lại đều chịu đầu hàng.
Trương Thanh, Qùynh Anh hạ lệnh
không ai được tiết lộ tin tức ra ngoài, kẻ trái lệnh thì tru di ba họ, người
đồng ngũ cũng đều bị chém. Vì vậy trong ngoài kín như bưng, không ai biết
chuyện xảy ra trong thành.
Giải Trân, Giải Bảo đã được tha khỏi
nhà giam, cùng với Trương Thanh, Diệp Thanh chia đi đốc suất việc canh gác bốn
cửa thành. An Đạo Toàn được lệnh dẫn quân của Diệp Thanh đi phủ Chiêu Đức báo
cho Tống tiên phong biết tin. Ngô Dụng lại sai Lý Quỳ, Võ Tòng, đi hộ vệ Thánh
thủ thư sinh Tiêu Nhượng ngay trong đêm ấy đến thành Tương Viên gặp Trương
Thanh, Qùynh Anh tìm kiếm bút tích của Ô lê. Tiêu Nhượng sẽ mạo chữ của Ô Lê
viết văn thư giao cho Diệp Thanh đem đến châu Uy Thắng tâu với Điền Hổ về việc
kén Toàn Vũ làm rễ, sau đó sẽ tuy cơ ứng biến.
Diệp Thanh nhận biểu văn, cáo từ
Trương Thanh, Quỳnh Anh lên đường đi Uy Thắng.
Lại nói chuệyn Tống Giang ở thành
Chiêu Đức, sau khi sai Tiêu Nhượng và An Đạo Toàn ra đi thì có quân của Sách
Siêu, Từ Ninh trở về báo tin thắng trận. Người báo tin nói:
- Sách tướng quân và các đầu lĩnh
đem quân đến bao vây huyện Lộ Thành, tướng giặc là Trì Phương đóng chặt cổng
không ra giao chiến. Từ Ninh và các tướng cho quân cởi quần áo đến dưới chân
thành chửi mắng khiêu khích. Quân trong thành tức giận muốn ra đánh, Trì Phương
không ngăn cản được, phải mở cổng thành đem quân ra giao chiến. Quân của Sách
Siêu vờ thua chạy, dụ cho quân Trì Phương đuổi theo xa thành. Rồi từ phía đông,
Đường Bân dẫn quân ập đến, từ phía tây quân của Thang Long xông vào. Quân canh
thành ở hai cửa đông tây đóng cổng không kịp. Hai tướng Đường Bân, Thang Long
thúc quân đánh tràn vào, đoạt lấy thành trì. Từ Ninh giết Trì Phương tại trận.
Các tướng khác bị thương hoặc chạy trốn. Quân của Trì Phương bị chết trận hơn
năm nghìn người, quân Tống Giang đoạt được hơn ba nghìn ngựa chiến, quân sĩ
theo giặc đầu hàng hơn một vạn tên. Sách tướng quân vào thành treo bảng vỗ yên
trăm họ, sai tiểu nhân về báo tin thắng trận với Tiên phong, một mặt làm sổ
sách kê khai hộ khẩu quân dân, kiểm kê lại vàng bạc kho báu.
Tống Giang lấy làm mừng, viết thư
báo tin cho Trần an phủ biết, rồi ghi công đầu trận ấy cho Sách Siêu. Những
người khác cũng đuợc ban thưởng ghi công theo thức bậc khác nhau. Rồi đó Tống
Giang viết quân thiếp phúc đáp, sai đem vềo báo cho Sách Siêu, hẹn ngày hội
quân để tiến phát.
Lại nói trong thành Uy Thắng, quan
cảnh viện của Điền Hổ nghe quân thám mã báo tin Kiều Đạo Thanh, Tôn An đã đầu
hàng quân Tống; lai nghe nói hai thành Chiêu Đức, Lộ Thành đã bị hạ. Ngày hôm
sau trong buổi chầu sáng, quan sảnh viện tâu ngay cho Điền Hổ biết. Điền Hổ cả
sợ, gọi các tướng vào bàn cách đối phó. Bỗng có tin báo tướng trấn thủ thành
Tương Viên là Diệp Thanh đưa thư của Ô Lê quốc cữu đến. Điền Hổ bèn cho Diệp
Thanh vào. Chỉ biết rồi đây:
Thành Uy Thắng dẹp loạn tặc hung đồ
Huyện Vũ Hương bắt gian tàn phản
nghịch
Chưa biết Điền Hổ xem thư của Ô Lê
rồi phúc đáp ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 99 -
Hoa Hoà Thượng Thoát Khỏi Giếng Duyên Triền,
Đang nói chuyện Điền Hổ bóc thư của
Diệp Thanh, sai viên quan hậu cần đọc. Thư viết:
"Thần Ô Lê đã chọn viên dũng
tướng Toàn Vũ làm rể. Toàn Vũ từng đánh bại địch quân, khiến bọn Tống Giang
phải lui về giữ phủ Chiêu Đức. Ngay hôm nay thần sai ái nữ Quỳnh Anh cùng Toàn
Vũ đi thu phục thành Chiêu Đức. Thần kính cẩn sai tổng quản Diệp Thanh mang tin
về báo tin thắng trận và tâu việc hôn nhân của con gái, cúi xin đại vương lượng
thứ cho".
Điền Hổ nghe xong lấy làm mừng,
truyền lệnh phong Toàn Vũ làm Trung hưng bình nam tiên phong quận mã, sai Diệp
Thanh cùng hai viên chỉ huy sứ đem lệnh chỉ và hoa hồng, gấm vóc, vàng bạc đến
huyện Tương Viên phong thưởng cho quận mã Toàn Vũ. Diệp Thanh lạy chào Điền Hổ
rồi cùng hai viên chỉ huy sứ lên đường về huyện Tương Viên.
Lại nói chuyện ngày hôm trước Thần
hành thái bảo Đái Tôn vâng lệnh Tống Công Minh đã đi truyền báo quân lệnh khắp
các châu huyện. Sau đó Tống Giang lại sai Đái Tôn sang hỏi tin tức của quân
doanh Lư Tuấn Nghĩa bên phủ Phần Dương. Các viên quan mới được bổ nhiệm đã lục
tục đến nhậm chức ở các châu huyện. Các tướng tá giữ thành hoàn tất việc chuyển
giao quyền chính cho các tân quan, rồi dẫn quân mã về phủ Chiêu Đức hội quân.
Đội quân thứ nhất là quân trấn thủ Vệ Châu do Quan Thắng, Hô Diên Chước chỉ huy
cùng tướng trấn thủ ải Hồ Quan là bọn Tôn Lập, Chu Đồng, Yến Thuận, Mã Lân;
tướng trấn thủ núi Bão Độc là Văn Trọng Dung, Thôi Dã. Quân mã đã vào thành yết
kiến Trần an phủ và Tống tiên phong.
Vừa lúc ấy có tin đầu lĩnh thuỷ quân
Lý Tuấn nghe tin lấy được huyện Lộ Thành, bèn cùng Trương Thanh, Trương Thuận,
Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Uy, Đồng Mãnh dẫn đoàn
chiến thuyền từ sông Vệ ra sông Hoàng, rồi rẽ thuyền vào sông Lệ Thuỷ ở phía
đông huyện thành. Tống Giang sai dọn cơm rượu khoản đãi các đầu lĩnh. Ngày hôm
sau, Tống Giang sai Quan Thắng, Hô Diên Chước, Văn Trọng Dung và Thôi Dã đem
quân đến Lộ Thành truyền lệnh cho đầu lĩnh thuỷ quân Lý Tuấn hiệp đồng với các
cánh quân của Quan Thắg, Sách Siêu tiến đánh các huyện Du Xã và Đại Cốc để tiến
vào phía sau sào huyệt giặc ở châu Uy Thắng, vì nếu không đề phòng, quân giặc
cùng đường sẽ chạy sang đầu hàng quân Kim. Bọn Quan Thắng tuân lệnh đem quân ra
đi. Các tướng trấn thủ huyện Lăng Xuyên là Lý Ứng, Sài Tiến; tướng trấn thủ Cao
Bình là Sử Tiến, Mục Hoằng; tướng trấn thủ Cái Châu là Hoa Vinh, Đổng Bình, Đỗ
Hưng, Thi Ân sau khi giao quyền quản hạt cho các quan mới, cũng lần lượt dẫn
quân về yết kiến Tống tiên phong. Bấy giờ mọi người mới biết chuyện bọn Sơn Sĩ
Kỳ, sau khi mất ải Hồ Quan, đem tàn quân về huyện Phù Sơn, vào lấy thêm quân ở
huyện ấy rồi kéo đến cướp phá thành Cái Châu. Hoa Vinh chia quân mai phục, bắt
sống Sơn Sĩ Kỳ, giết tại trận hơn hai nghìn quân giặc. Sơn Sĩ Kỳ thế cùng lực
tận phải đầu hàng. Quân tướng còn lại đều tán loạn tìm đường chạy trốn. Hoa
Vinh dẫn Sơn Sĩ Kỳ vào yết kiến, Tống tiên phong sai dọn rượu tiếp đãi ân cần.
Trong mấy ngày quân mã của Tống Giang chỉ đóng trong thành Chiêu Đức, tỏ ý e sợ
quân của Trương Thành và Quỳnh Anh để đánh lừa Điền Hổ.
Lại nói chuyện phó tiên phong Lư
Tuấn Nghĩa lấy được phủ Phần Dương; Điền Báo phải chạy về huyện Hiếu Nghĩa, dọc
đường gặp Mã Linh đem quân đến tiếp sức. Mã Linh người Trác Châu, có yêu thuật
đạp hai bánh xe gió, lửa mỗi ngày đi ngoài ngàn dặm, người ta thường gọi là
"thần câu tử" (ngửa câu thần). Mã Linh còn có phép ném quả cầu sắt rất
lợi hại, lúc lâm trận thường mọc thêm một mắt ở giữa trán vì thế người ta
thường gọi là "tiểu hoa quan" (ánh lửa nhỏ). Dưới quyền của Mã Linh
có hai viên phó tướng là Vũ Năng và Từ Cần cũng học được yêu thuật của Mã Linh.
Mã LInh và Điền Báo hội binh, rồi cùng bọn Vũ Năng, Từ Cẩn, Sách Hiền, Đăng Thế
Long, Lăng Quang, Đoàn Nhân, Miêu Thành, Trần Tuyên đem ba vạn quân đến đóng
trại cách thành Phần Dương mười dặm về phía bắc. Suốt mấy ngày liền, quân Lư
Tuấn Nghĩa phải cho lui quân vào thành Phần Dương, không dám ra giao chiến. Lư
Tuấn Nghĩa đang lo buồn thì quân sĩ vào báo tin Tống tiên phong sai Công Tôn
Thắng và Kiều Đạo Thanh đem hai nghìn người ngựa đến trợ chiến. Lư Tuấn Nghĩa
sai mở cửa thành mời các đầu lĩnh dẫn quân vào. Hai bên chào hỏi xong, Lư Tuấn
Nghĩa mời Công Tôn Thắng lên ngồi ghế trên, Kiều Đạo Thanh ngồi ghế tiếp, rồi
sai dọn rượu khoản đãi. Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Yêu thuật của Mã Linh rất lợi hại.
Các tướng Lôi Hoành, Trịnh Thiên Thọ, Dương Hùng, Thạch Tú, Tiêu Đĩnh, Trâu
Nhuận, Trâu Uyên, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Thạch Dũng đều bị hắn đánh trọng
thương. Tuấn Nghĩa tôi chưa biết xoay xở ra sao, may có hai tiên sinh đến kịp.
Kiều Đạo Thanh nói:
- Bần đạo cùng Công Tôn tiên sinh
được Tống tiên phong sai đến đây hợp sức với tướng quân đánh bại Mã Linh.
Kiều Đạo Thanh chưa dứt lời thì có
tên quân vào báo:"Tướng giặc là Mã Linh đã đem quân đến ngoài cửa đông.
Bọn Vũ Năng, Từ Cẩn đánh vào cửa tây. Điền Báo cùng bọn Sách Hiền, Đăng Thế
Song, Lăng Quang, Đoàn Nhân đánh vào cửa bắc". Công Tôn Thắng nói:
- Bần đạo xin ra cửa đông đối địch
với Mã Linh. Đồ đệ Kiều Đạo Thanh ra cửa tây bắt bọn Vũ Năng, Từ Cẩn. Xin tiên
phong đem quân ra cửa bắc đối địch với Điền Báo.
Lư Tuấn Nghĩa bèn sai các tướng
Hoàng Tín, Dương Chí, Âu Bằng, Đặng Phi đem quân mã đi trợ chiến cho Công Tôn
Thắng. Đái Tôn nghe nói Mã Linh có phép thần hành xin được cùng đi với Công Tôn
Thắng để bắt Mã Linh. Lư tiên phong lại hạ lệnh cho bọn Trần Đạt, Dương Xuân,
Lý Trung, Chu Thông đem quân đi trợ chiến cho Kiều Đạo Thanh, Lư Tuấn Nghĩa
đích thân cùng các tướng Tần Minh, Tuyên Tán, Hách Tư Văn, Hàn Thao, Bành Kỷ
đem quân ra cửa bắc giao chiến với Điền Báo. Ngày hôm ấy khắp ba cửa đông, tây,
bắc ngoài thành Phần Dương cờ xí rợp đất, chiêng trống vang trời.
Tạm gác chuyện Lư Tuấn Nghĩa, Kiều
Đạo Thanh chia hai đường đem quân đi chặn địch. Kể tiếp việc Thần câu tử Mã
Linh cho giương cờ gióng trống, dẫn quân đến sát thành chửi mắng khiêu chiến.
Bỗng cửa thành bật mở, cầu treo sập xuống, các tướng trong thành dẫn quân ồ ạt
xông ra, dàn ngay thành thế trận trường xà. Mã Linh xách thương thúc ngựa tiến
lên quát lớn:
- Bọn nhãi tướng, mau trả thành cho
ta! nếu chần chừ thì các ngươi không còn mảnh giáp!
Âu Bằng, Đặng Phi thúc ngựa phóng
đến quát đáp:
- Mi đã đến ngày tận số!
Dứt lời Âu Bằng nâng thương, Đặng
Phi múa dây xíc sắt cho ngựa chồm tới đánh Mã Linh. Mã Linh vội vung kích đón
đánh. Ba tướng giao chiến hơn mười hiệp. Mã Linh lén lấy quả cầu sắt định ném
Âu Bằng. Ngay lúc ấy Công Tôn Thắng đã kịp phóng ngựa đến, tay chống kiếm làm phép.
Mã Linh liền giơ tay, bên này Công Tôn Thắng chỉ kiếm, một tia chớp loé lên,
tiếng nổ vang trời rồi một luồng sáng đỏ trùm lên, mặt Công Tôn Thắng đỏ rực
như lửa. Quả cầu sắt của Mã Linh rơi xuống đất quay tròn rồi chảy ra. Chỉ trong
chớp mắt, thế trận trường xà của quân Tống biến thành con rồng lửa nóng rực.
Công Tôn Thắng vẫy cây gậy đuôi chồn ra lệnh cho quân sĩ tiến lên khép kín vòng
vây. Quân Điền Báo thiệt hại đến quá nửa, xô nhau bỏ chạy. Mã Linh tìm đường
thoát thân. Nhờ có phép thần hành đạp bánh xe gió lửa bay lướt về phía đông.
Bên quân Tống, Thần hành thái bảo Đái Tôn đã buộc xong bùa phép, tay cầm phác
đao, trổ phép thần hành đuổi Mã Linh. Trong khoảnh khắc, Mã Linh đã đi được hơn
hai mươi dặm, Đái Tôn mới chỉ được mười sáu, mười bảy dặm, hút bóng không đuổi
kịp Mã Linh. Một lúc sau Mã Linh đang lướt như bay bỗng vấp phải một vị hòa
thượng to béo từ phía trước xồng xộc chạy tới. Hoà thượng bất ngờ vung thiển
trượng đánh Mã Linh, rồi thuận đà bẻ quặt tay bắt sống. Hoà thượng đang truy
vấn Mã Linh thì Đái Tôn đuổi đến. Đái Tôn nhận ra đó là Hoa hoà thượng Lỗ Trí
Thâm. Đái Tôn kinh ngạc hỏi:
- Hoà thượng làm sao đến đây đựợc?
Lỗ Trí Thâm hỏi lại:
- Đay là nơi nào?
Đái Tôn trả lời:
- Đây là lũy ngoài cửa đông thành
Phần Dương. Tên giặc này là Mã Linh, có yêu thuật nhưng vừa bị Công Tôn Thắng
đánh bại. Tiểu đệ đuổi theo nhưng phép thần hành của hắn đi nhanh hơn. May sao
có hoà thượng ở đây mới bắt được hắn!
Lỗ Trí Thâm cười, đáp:
- Lão gia không phải từ trên trời
rơi xuống thì cũng từ dưới đất chui lên!
Nói đoạn, Lỗ Trí Thâm và Đái Tôn
trói Mã Linh đem về phủ Phần Dương. Dọc đường Lỗ Trí Thâm kể chuyện:"Điền
Hổ sai một tướng đàn bà đem quân đến đánh ngoài thành Tương Viên. Con nữ tặc ấy
cũng có phép ném đá, nhiều anh em đầu lĩnh bị thương. Lão gia dánh sâu vào giữa
trận, muốn bắt sống con nữ tặc ấy, không ngờ trong lùm cỏ rậm có một hang sâu.
Lão gia ngã nhà xuống hang, rơi một hồi thật lâu mới chạm đáy, may không xảy ra
việc gì. Lão gia đứng dứới hang nhìn lên, mới biết bên cạnh lại còn một hang
nữa, có ánh sáng mờ mờ. Lão gia thử chui vào xem thì thấy cảnh tượng rất kỳ lạ:
trong hang cũng có trời, có trăng, có thôn trang, nhà cửa, dân chúng làm việc
bận rộn. Thấy lão gia ai cũng chỉ cười mà lão gia thì cũng chẳng buồn hỏi han
bọn họ. Đến một nơi làng óm đông đúc, phía trước có cánh đồng yên tĩnh, không
một bóng người. Lão gia đi một hồi lâu nữa đến một ngôi thảo am, nghe bên trong
có tiếng gõ mõ đều đều. Bước vào am nhìn xem thấy một hoà thượng bằng trạc tuổi
lão gia. Hoà thượng ấy đang xếp chân ngồi tụng kinh. Lão gia nhờ chỉ cho lối
ra. Hòa thượng đáp:"vào đường nào thì ra đường ấy". Lão gia nổi nóng,
nhưng hoà thượng ấy chỉ cười hỏi lại:
- Ngươi có biết đây là đâu không?
Lão gia đáp:
- Đây là đâu ta chẳng cần biết đến!
Vị hoà thượng lại cười nói:
Trên là chốn vô cùng
Dưới là nơi vô tận
Thế giới rộng mênh mông
Đại thiên ba ngàn coi
Con người có tấm lòng
Ắt phải suy nghĩ rộng.
Đâu địa ngục thiên đường
Nào ai có biết không?
Một niềm không lay động
Lục căn phải tiêu vong
Luân hồi thôi báo ứng.
Lão gia nghe xong bèn lạy tạ. Hoà
thượng ấy lại nói:
- Ngươi đã rơi xuống giếng Duyên
Triền, muốn trở về cõi tục thì để ta chỉ đường cho.
Nói đoạn hoà thượng dẫn lão gia ra
khỏi thảo am.
Đi chừng bốn năm dặm, hoà thượng ấy
nói:
- Chia tay ở đây, hẹn ngày sau gặp
lại.
Hoà thượng lại chỉ tay về phía trước
mà nói:
- Ngươi cứ đi về phía đó sẽ bắt được
Ngựa câu thần.
Lão gia ngoái đầu lại không thấy hoà
thượng ấy đâu nữa. Cảnh vật lại hiện lên sáng bừng như trước. Vừa lúc ấy lão
gia vấp phải gã này. Thấy hắn đang nhón chân đi vùn vụt, lão gia liền vung
thiền trượng quật hắn ngã nhào. Thực tình lão gia vẫn chưa biết tại sao mình
đến nơi đây? Lão gia nhớ rõ thời tiết trong hang không giống ở phủ Chiêu Đức,
đào mận thì lá to nhưng không có nụ hoa nào cả.
Đái Tôn cười nói:
- Nay đã hạ tuần tháng ba, lấy đâu
ra hoa đào, hoa mận?
Lỗ Trí Thâm không tin, cãi lại:
- Làm gì đã đến hạ tuần tháng ba?
khi ta rơi xuống hang vào ngày cuối tháng hai ở đó một lúc rồi đi ngay?
Đái Tôn cũng hết sức sửng sốt. Hai
người áp giải Mã Linh theo đường tắt về thành Phần Dương.
Bấy giờ Công Tôn Thắng đã đánh lui
quân Điền Báo, thu binh vào thành. Lư Tuấn Nghĩa, Tần Minh, Tuyên Tán, Hách Tư
Văn, Hàn Thao, Bành Kỷ đã chém được các tướng giặc Sách Hiền, Đăng Thế Long, Lăng
Quang, đuổi bọn Điền Bưu, Đoàn Nhân ngoài mười dặm. Điền Bưu cùng bọn Đoàn
Nhân, Trần Tuyên, Miêu Thành dẫn tàn quân chạy về phía bắc. Lư Tuấn Nghĩa thu
quân về thành. Kiều Đạo Thanh cũng đã đánh tan bọn Vũ Năng, Từ Cẩn, cùng với
Trần Đạt, Dương Xuân, Lý Trung, Chu Thông đem quân đuổi theo tàn quân Điền Báo.
Bị quân Tống từ hai phía đánh vào, quân Điền Báo thua to, bị giết tại trận
nhiều không đếm xuể. Vũ Năng bị Dương Xuân vung trường đao hất xuống ngựa. Từ
Cẩn bị Hách Tư Văn đâm suốt gáy. Quân Lư tiên phong thu được ngựa chiến, áo
giáp và nhiều binh khí khác. Lư Tuấn Nghĩa và Kiều Đạo Thanh cũng hội quân
thắng trận về thành. Vừa về đến phủ đường thì thấy Lỗ Trí Thâm và Đái Tôn áp
giải Mã Linh tới.
Lư tiên phong cả mừng, vội hỏi:
- Lỗ hiền đệ đến đây bằng cách nào?
huynh trưởng Tống Công Minh giao chiến với bọn Ô Lê thắng bại ra sao?
Lỗ Trí Thâm đem chuyện Tống Giang
giao chiến với bọn Ô Lê và việc mình bị rơi xuống hang kể lại một lượt cho Lư
Tuấn Nghĩa và các tướng quân nghe, ai nấy đều lấy làm kinh lạ.
Lư Tuấn Nghĩa tự tay cỡi trói cho Mã
Linh. LÚc đi đường Mã Linh đã nghe câu chuyện của Lỗ Trí Thâm nói với Đái Tôn,
lại thấy Lư Túân Nghĩa là người độ lượng nghĩa khí, bèn sụp lạy xin hàng. Lư
Tuấn Nghĩa truyền lệnh khao thưởng ba quân tướng sĩ.
Ngày hôm sau các tướng giữ thành Tấn
Ninh giao lại quyền chính cho các tân quan rồi đưa quân về phủ Phần Duơng chờ
lệnh. Lư Tuấn Nghĩa sai Đái Tôn đưa Mã Linh đến doanh trại của Tống tiên phong
báo tin thắng trận. Ngay ngày hôm ấy Lư Tuấn Nghĩa cùng phó sư Chu Vũ tính kế
tiến quân, chuyện hãy tạm gác chưa nói đến.
Nói tiếp chuyện Mã Linh. Trên đường
đi Mã Linh đã truyền cho Đái Tôn phép ngày đi ngày dặm. Chẳng bao lâu hai người
đã đến quân doanh của Tống tiên phong. Đái Tôn đem Mã Linh vào yết kiến chủ
tướng, thuật lại chiến công của Lư tiên phong. Tống Giang nghe chuyện Lỗ Trí
Thâm thì ngạc nhiên vui mừng, rồi lên ngựa đến doanh trại của Trần an phủ để
báo tin thắng trận, chuyện không nói đến.
Lại nói Điền Báo cùng với Đoàn Nhân,
Trần Tuyến, Miêu Thanh dẫn tàn quân hoảng loạn chạy về châu Uy Thắng yết kiến
Điền Hổ, khóc lóc kể lại việc mất đất mất quân. Vừa lúc ấy khu mật viện hốt
hoảng vào tâu:
- Thưa đại vương, hai ngày nay có
quân lưu tinh thám mã đem thư về cấp báo: thống quân đại tướng Mã Linh đã bị
quân Tống Giang bắt. Tướng bên Tống là bọn Quan Thắng, Hô Diên Chước đã đem
quân đến bao vây huyện Du Xã. Quân của Lư Tuấn Nghĩa đã hạ thành Giới Hưu. Chỉ
còn thành huyện Tương Viên do Ô Lê quốc cữu đóng giữ là có vài lần báo tin
thắng trận, quân Tống Giang chưa dám dòm ngó đến.
Điền Hổ nghe tin lấy làm lo sợ. Các
cận thần khuyên Điền Hổ chạy về phía bắc đầu hàng nước Kim. Hữu thừa tướng thái
sư Biện Tường quát mọi người lui ra, rồi tâu riêng với Điền Hổ:
- Thưa bệ hạ, quân Tống đem quân ba
lộ đến bao vây. Châu Uy Thắng đây có núi non trùng điệp bao quanh, lương thảo
đủ dùng vài năm, quân ngự lâm hộ giá còn đến hơi hai vạn. Phía đông có huyện Vũ
Hương, phía tây có huyện Tẩm Nguyên, mỗi huyện có năm vạn tinh binh. Phía sau
là các huyện Thái Nguyên, Ký Lâm, Đại Cốc thành trì kiên cố, lương thảo sung
túc, có thể giữ được. Người xưa có câu:"làm đầu gà hơn làm đuôi
trâu".
Điền Hổ nghe xong chần chừ chưa đáp
thì quân hầu vào báo có tổng quản Diệp Thanh đến xin yết kiến. Điền Hổ cho mời
vào. Diệp Thanh sụp lạy tâu rằng:
- Quận chúa Quỳnh Anh và quận mã
Toàn Vũ nhiều lân chém tướng lập công, binh uy chấn phát, hiện đã đem quân về
bao vây phủ thành Chiêu Đức. Không may Ô Lê quốc cữu bị cảm phong hàn, không
thể chỉ huy binh mã chặn địch. Xin đại vương sai thêm tinh binh tướng giỏi đến
hợp sức với vợ chồng quận chúa Quỳnh Anh giành lại phủ thành Chiêu Đức.
Đô đốc là Phạm Quyền tâu:
- Thần được biêt quận chúa Quỳnh Anh
và quận mã Toàn Vũ là tướng kiêu hùng, quân Tống sợ uy không dám nhòm ngó thành
trì. Nếu đại vương đem binh hùng tướng mạnh thân chinh thì cuộc trung hưng tất
thành. Thần xin dốc sức giúp thái tử làm giám quốc trông coi việc nước.
Điền Hổ chuẩn tâu. Nguyên là Phạm
Quyền có người con gái xinh đẹp nhan sắc khuynh thành, Quỳền đem dâng vào nội
cung, được Điền Hổ sủng ái, không điều gì không nghe theo. Phạm Quyền đã nhận
của hối lộ của Diệp Thanh, lại thấy thế lực quân Tống Giang hùng mạnh, nên đã
rắp tâm thừa cơ làm phản.
Bấy giờ Điền Hổ sai Biện Tường thống
lĩnh mười viên chánh phó tướng, dẫn ba vạn quân tiến đánh Hoa Vinh, Lư Tuấn
Nghĩa. Lại sai thái uý Phòng Học Độ thống lĩnh mười viên chánh phó tướng, dẫn
ba vạn quân đến huyện D xã đón đánh quân mã của Quan Thắng. Điền Hổ đích thân
thống lĩnh bọn thượng thư Lý Thiên Tích, Trịnh Chí Thuỵ, khu mật Tiết Thời, Lâm
Hân, đô đốc Hồ Anh, Đường Hiển, tuyển lấy mười vạn tinh binh, giết trâu mổ
ngựa, khao thưởng tướng sĩ, chọn ngày làm lễ tế cờ xuất quân. Lại truyền lệnh
cho hai em là Điền Báo, Điền Bưu cùng đô đốc Phạm Quyền và các quan văn võ phò
tá thái tử Điền Định làm giám quốc để trông coi quyền chính. Diệp Thanh biết
tin liền sai người tâm phúc ngày đêm ruổi gấp đến thành Tường Viên báo cho
Trương Thanh và Quỳnh Anh biết. Trương Thanh truyền lệnh cho Giải Trân, Giải
Bảo mang theo dây thừng và các dụng cụ trèo núi, ngày đêm luồn rừng, đưa tin
cấp báo với Tống tiên phong.
Lại nói Biện Tường nhận binh phù,
chọn quân cử tướng, ba ngày sau mới dẫn bọn Phàn Ngọc Minh, Ngô Đắc Nguyên, Phó
Tường, Cố Khải, Khấu Tham, Quảng Diệm, Phùng Dực, Lã Chấn, Cát Văn Bính, An Sĩ
Long đem ba vạn quân ra ngoài cửa đông châu thành Uy Thắng. Đội tiền quân do
các tướng Phàn Ngọc Minh, Ngô Đắc Nguyên, Phùng Dực, Cố Khởi dẫn năm nghìn quân
mã tiến đến huyện Tẩm Nguyên. Vừa đến khu rừng rậm dưới núi Miên Sơn, bỗng nghe
một tiếng thanh la vang dội. Từ sau khu rừng một đội quân ồ ạt xông ra. Đó là
cánh kỵ binh của các tướng Hoa Vinh, Đổng Bình, Lâm Xung, Sử Tiến, Đỗ Hưng, Mục
Hoằng, vâng lệnh Tống tiên phong, ngày đêm ruổi gấp đến chặn đường.
Song thương tướng Đổng Bình thúc
ngựa lên trước trận quát lớn:
- Người ngựa từ đâu tới? không đầu
hàng chịu trói còn đợi bao giờ?
Phàn Ngọc Minh cả mắng:
- Bọn giặc cỏ đầm lầy cả gan dám
chiếm đoạt thành trì của chúng ta!
Đổng Bình quát đáp:
- Quân thiên triều kéo đến, sao các
ngươi dám chống cự?
Dứt lời, Đổng Bình vỗ ngựa, vung
song thương xông vào đánh Phàn Ngọc Minh. Phàn Ngọc Minh cũng thúc ngựa, nâng
thương chặn đánh. Hai tướng giao chiến hơn hai chục hiệp, Phàn Ngọc Minh đuối
sức, đỡ gạt không nổi, bị Đổng Bình đâm thương xuyên họng, lăn nhào xuống ngựa.
Bên quân Điền Hổ, Phùng Dực cả giận thúc ngựa lao vào Đổng Bình. Tiểu Lý Quảng
Hoa Vinh liền vỗ ngựa đuổi đến chặn đánh. Giao chiến hơn mười hiệp, Hoa Vinh
quay ngựa chạy về trận nhà. Phùng Dực quất ngựa đuổi theo. Hoa Vinh liền cắp
thương vào nách, kéo căng dây cung, nghiêng mình thả mũi tên cắm phập giữa trán
Phùng Dực. Chiến mũ sắt lật hẳn sang một bên, Phùng Dực bổ nhào xuống ngựa. Hoa
Vinh giật ngựa quay lại tiếp một thương kết liễu đời hắn. Bọn Đổng Bình, Lâm
Xung, Sử Tiến, Mục Hoằng, Đỗ Hưng vẫy quân kỵ xông lên giáp chiến. Lâm Xung
vung giáo hất nhào Cố Khởi. Ngô Đắc Nguyên ngã ngựa liền bị đám loạn quân xéo
nát. Quân Điền Hổ một phen thu lớn, năm nghìn người ngựa thiệt mạng đến quá
nửa, số còn lại tán lọan tìm đường chạy trốn. Quân của Hoa Vinh thu được nhiều
ngựa chiến, chiêng trống, đuổi đánh quân Điền Hổ đến ngoài năm dặm mới gặp đại
quân của Biện Tường đến cứu viện.
Biện Tường vốn xuất thân là nông phu
ở trang trại, có đôi tay vạm vỡ, tinh thông võ nghệ, được Điền Hổ phong chức
thượng tướng. Quân hai bên gặp nhau, giương cờ gióng trống, dàn thế trận đối
địch, tù và rúc inh ỏi, trống trận thúc liên hồi. Thân cao chín thước, mặt
vuông vai rộng, mắt tròn, râu ba chòm che miệng, đầu đội mũ kim khôi cánh
phượng, mặc áo giáp vẩy cá giát bạc, Biện Tường nhảy phốc lên lưng con ngựa
chiến "xung ba", tay nâng búa lơn, hai bên tả hữu có bốn thống chế
Phó Tường, Quản Diệm, Khấu Tham, Lã Chấn theo hộ vệ. Phía sau có bọn thống
quân, đề hạt, phòng ngự, đòan luyện tiếp ứng. Hàng ngũ người ngựa sắp xếp mười
phần chỉnh tề. Bên quân Tống Giang, Cửu văn long Sử Tiến phóng ngựa ra trước
trận quát lớn:
- Tướng nào kia, mau xuống ngựa đầu
hàng để khỏi bẩn lưỡi đao!
Biện Tường cười ha hả:
- Nồi đất còn có hai tai, mi lại
không biết đại danh ta là Biện Tường hay sao?
Sử Tiến quát đáp:
- Tên phản loạn kia, quân thiên
triều đến đây sao còn dám chống cự?
Sử Tiến dứt lời liền vỗ ngựa múa cây
đao bát hoàn xông vào đánh Biện Tường. Biện Tường cũng vung búa lớn chặn đánh.
Hai ngựa quần nhau, gươm búa cũng vung lên, tiếng vó ngựa dồn dập. Hai tướng
giao chiến đến hơn ba mươi hiệp không phân thắng bại. Hoa Vinh thấy Biện Tường
võ nghệ cao cường, có ý mến tài nên không bắn tên ngầm, chỉ thúc ngựa, xách
thương đến giúp Sử Tiến. Biện Tường một mình đánh lại hai tướng, hơn ba mươi
hiệp vẫn không phân thắng bại. Các tướng bên quân Điền Hổ lo Biện Tường thất
lợi, vội khua chiêng thu quân. Hoa Vinh, Đổng Bình thấy trời sắp tối lại lo ít
quân nên cũng ra lệnh thu quân về trại. Quân hai bên đóng cách nhau hơn mười
dặm.
Đêm ấy nổi gío nam, mây đen che phủ
bầu trời, nửa đêm sấm chớp ầm ầm, rồi mưa to trút xuống. Bấy giờ Điền Hổ đã đưa
ngụy triều rời khỏi châu Uy Thắng, đến chiều tối đã xa thành hơn trăm dặm mới
hạ trại nghỉ ngơi, thê thiếp người hầu đi theo đông đủ. Đêm ấy Điền Hổ cùng
Phạm mỹ nhân ngồi trong trướng vui vẻ yếm ẩm. Liên tiếp trong năm ngày trời mưa
dầm không lúc nào ngớt, trướng bạt che mưa uớt sũng, nước dềnh khắp nơi, quân
sĩ không có chỗ đứng chân đặt bếp, cung tên chùng nát, quân mã các doanh đều
phải ở yên trong trại, chuyện không có gì đáng nói.
Lại nói các tướng Sách Siêu, Từ
Ninh, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Thang Long, Đừơng Bân đã nhận được thêm
quân bộ của Quan Thắng, Hô Diên Chước, Văn Trọng Dung, Thôi Dã và chiến thuyền
của các đầu lĩnh thuỷ quân. Các tướng cùng bàn tính kế hoạch đánh giữ: Đan Đình
Khuê, Nguỵ Định Quốc ở lại giữ thành Lộ Châu; Quan Thắng đãn quân thuỷ bộ đánh
huyện Du Xã; Sách Siêu, Thang Long giữ thành Phần Dương. Bọn Quan Thắng thừa
thế đuổi dài, thế như chẻ tre, thu phục huyện Đại Cốc, tướng giữ thành bị giết
tại trận, các phó tướng và quân sĩ ra đầu hàng nhiều không kể xiết. Quan Thắng
treo bảng vỗ yên quân dân, khao thưởng tướng sĩ, rồi sai người đến quân doanh
của Tống tiên phong báo tin thắng trận.
Ngày hôm sau mưa lớn, Quan Thắng cho
quân nghỉ ngơi, không xuất trận. Bỗng có tin báo:"Lư tiên phong giao cho
Tuyên Tán, Hách Tư Văn, Lã Phương, Quách Thịnh ở lại trấn thủ thành Phần Dương,
tự mình đem quân đi thu phục hai huyện Giới Hưu và Bình Giao. Sau đó để Hàn
Thao, Bành Kỷ đóng giữ huyện Giới Hưu; Khổng Minh, Khổng Lượng giữ huyện Bình
Giao, Lư tiên phong tiếp tục đem quân bao vây thành huyện Thái Nguyên. Vì mưa
to gío lớn chưa xuất quân được".
Đầu lĩnh thuỷ quân Lý Tuấn biết tin
ấy, bàn với Quan Thắng:
- Lư tiên phong vì mưa dầm không
tiến quân được, lại đang mùa mưa lụt không nên nấn ná ở lâu. Nếu quân giặc chọn
quân cảm tử đến đánh thành thì quân ta trở tay sao kịp? Lý Tuấn tôi có một kế,
muốn đến bàn với Lư tiên phong, chẳng hay đại huynh nghĩ thế nào?
Quan Thắng cả mừng giục Lý Tuấn đi
ngay. Hỗn giang long Lý Tuấn cáo từ Quan Thắng trở về thuỷ trại, giao cho bọn
Đồng Mãnh cai quản chiến thuyền, rồi cùng Trương Thuận, Trương Hoành, Nguyễn
Tiểu Nhị, NGuyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất đem hai nghìn thuỷ binh và chiến
thuyền đội nón lá, khoác áo tơi, gội mưa to gío lớn đưa chiến thuyền đến doanh
trại của tiên phong Lư Tuấn Nghĩa. Thuyền cập bến, Lý Tuấn vào trong trướng hội
kiến với Lư tiên phong. Hai người chuyện trò thăm hỏi chốc lát rồi chụm đầu bàn
bạc mật kế. Lư Tuấn Nghĩa cả mừng, truyền lệnh cho quân sĩ gội mưa băng gió vào
rừgn chặt gỗ đóng bè. Bọn Lý Tuấn chia nhau đi lo liệu các việc.
Lại nói tướng trấn thủ Thái Nguyên
là Trương Hùgn được trao chức nguỵ điện suý, bọn Hạng Trung, Từ Nhạc được trao
chức đô thống chế, cả ba tướng này đều có tiếng hiếu sát. Quân sĩ dưới quyền
phần nhiều là bọn tham tàn dâm bạo, dân chúng bị bức bách ngược đãi, phần nhiều
phải bỏ gia tư tài sản phiêu bạt bốn phương. Bọn Trương Hùng bị bao vây, nhưng không
chịu hàng phục, bàn nhau:
- Hiện nay đang mùa mưa lũ, đường
thủy đường bộ đều bất lợi cho quân Tống, lương thảo thiếu thốn, quân sĩ chán
nản không muốn ở lâu. Nếu ta tung quân đánh gấp, tất sẽ giành toàn thắng.
Bấy giờ đã là thượng tuần tháng tư,
Trương Hùng muốn chia quân tiến ra bốn cửa đánh quân Tống, chợt nghe tiếng
thanh la nổi vang bốn phía. Trương Hùng trèo lên chòi canh nhìn ra, thấy quân
của Tống Giang đầu gội mưa, chân quấn xà cạp, đang băng băng trèo lên núi.
Trương Hùgn hoảng hốt kinh sợ, lại nghe bên phía ngòi Trí Bá ầm ầm, vang động
như nghìn quân muôn ngựa lướt tới. Trong khoảnh khắc nước to sóng cuộn tựa
triều dâng thác đổ ập đến. Đúng là:
Sóng cả cuộn dâng ngòi Trí Bá,
Sông gầm vang động đất Hoài Âm.
Chưa biết nước cuốn về đâu xem hồi
sau sẽ rõ.
Hồi 100 -
Trương Thanh, Quỳnh Anh Đều Lập Công,
Đang nói chuyện Hỗn giang long Lý
Tuấn lợi dụng cơn lũ sau đợt mưa to cùng bọn anh em họ Trương, họ Nguyễn đốc
suất thuỷ quân tháo nước ở ngoài Trí bá và sông Tấn Thuỷ cho chảy vào nhận chìm
thành Thái Nguyên. Trong khoảnh khắc, thác nước hung dữ cuộn dâng. Quân dân
trong thành xôn xao nháo nhác, ai nấy vội tìm nơi cao trèo lên tránh nước.
Người già yếu ốm đau chỉ kịp đứng lên bàn lên ghế. Trong nháy mắt bàn ghế cũng
trôi nổi bập bềnh, nhà cửa nghiêng lật, ngập chìm trong dòng nước lũ. Từ ngoài
thành, bọn Lý Tuấn, anh em họ Trương, họ Nguyễn nhân thế nước xiết, lướt thuyền
áp sát mặt thành. Quân sĩ bám nhau trèo lên, vung mã tấu chém giết quân giữ
thành. Lý Tuấn lại cho thuỷ quân lái bè lao thẳng vào thành, tường thành bị
xung động mạnh, sụp lở ào ào.
Lúc ấy Trương Hùng đang hoảng hốt
đứng trên chòi canh thì Trương Hoành, Trương Thuận bất ngờ ập đến, vung phác
đao lia rụng hơn mười đầu. Quân Điền Hổ tán loạn chạy trốn. Trương Hùng không
kịp tránh, bị Trương Thuận sả một đao ngã nhào. Trương Thụân đuổi theo đưa thêm
một nhát đầu lìa khỏi xác. Khi nước rút mới biết quân dân trong thành bị chết
đuối, bị giết nhiều vô số. Nhà cửa, đồ đạc, xác chết trôi lềnh bềnh tắc cả cửa
thành phía nam. Trong thành chỉ còn cung Tị thử (cung tránh nắng) xây dựng từ
đời vua Thần Vũ thời Bắc Tề vì có nền cao nên không bị ngập. Quân dân tranh
nhau trèo lên tránh lũ, giẫm đạp lên nhau mà chết cũng đến hơn hai nghìn người.
Số trèo lên gò cao mặt thành sống sót chỉ còn hơn nghìn người. Dân chúng ngoài
thành trước đó đã được Lư Tuấn Nghĩa mật báo; khi nghe tiếng thanh la mọi người
đều trèo lên chỗ cao tránh nước. Ở ngoài thành bốn phía thoáng rộng, nước rút
nhanh, nên dân chúng không đến nỗi thiệt hại nhiều. Bấy giờ Hỗn giang long Lý
Tuấn đốc suất thủy quân chiếm cửa tây thành. Thuyền hoả nhi Trương Hoành cùng
Lãng lý bạch điều Trương Thụân chiếm cửa bắc, Lập địa thái tuế Nguyễn Tiểu Nhị,
Đoàn mệnh nhị lang Nguyễn Tiểu Ngũ chiếm cửa đông; Họat diêm la Nguyễn Tiểu
Thất chiếm giữ cửa nam. Trên cả bốn cửa thành đều treo cờ quân Tống. Khoảng
chập tối nước rút, bọn Lý Tuấn mở toang cửa thành, cho người mời Lư tiên phong
đưa quân mã tiến vào. Trong thành hoàn toàn yên ắng, không một tiếng chó sủa gà
kêu, xác chết chất cao như núi. Dù bọn Trương Hùng có phạm tội đến đâu thì thủ
đọan của bọn Lý Tuấn cũng phải kể là độc ác tàn bạo. Hơn một nghìn dân sống sót
trong thành quỳ sụp trong bùn lầy thảm thiết van xin. Lư Tuấn Nghĩa sai tra xét
thì số sống sót chỉ có hơn một chục tên quân sĩ, còn lại đều là dân thường.
Hạng Trung, Từ Nhạc trèo lên cây cao sau suý phủ khi nước rút tụt xuống liền bị
quân Tống trói bắt giải đến trình Lư tiên phong. Lư Tuấn Nghĩa sai chém đầu thị
chúng, sai lấy tiền bạc trong kho chẩn cấp cho nạn dân. Một mặt sai người báo
tin cho Tống tiên phong biết tin thắng trận. Lư Tuấn Nghĩa cho quân sĩ chôn cất
tử thi, sửa đắp thành trì, nhà cửa, gọi dân chúng trở về làm ăn sinh sống.
Lại nói chuyện thành phủ Thái Nguyên
từ khi chưa bị phá: Điền Hổ thống lĩnh mười vạn đại quân kéo đến đóng giữ phía
nam núi Đồng Đề giữa lúc mưa to gió lớn. Thám mã về báo tin Ô Lê quốc cữu ốm
chết, quận chúa và quận mã đưa quân về huyện Tương Viên lo liệu tang lễ. Điền
Hổ nghe tin cả kinh, vội sai người đến Tương Viên truyền lệnh cho quận chúa Quỳnh
Anh ở lại giữ thành, còn quận mã Toàn Vũ phải về ngay triều đình chờ sai phái.
Nhân đó Điền Hổ truy hỏi vì sao những người trước đây chờ sai đi công việc ở
huyện Tương Viên đều không thấy về tâu báo.
Ngày hôm sau mưa tạnh, vào lúc tảng
sáng quân lưu tinh thám mã trở về báo tin Tống Giang đã sai Tôn An, Mã Linh đem
quân đến đánh. Điền Hổ nghe tâu nổi giận mắng:
- Bọn Tôn An, Mã Linh được ta phong
cho quan cao lộc hậu, thế mà nay trở mặt làm phản! ta sĩ đích thân hỏi tội bọn
chúng. Các khanh hãy gắng sức, ai bắt sống được hai tên phản nghịch ấy sẽ được
trọng thưởng ngàn vàng.
Nói đoạn Điền Hổ đích thân đốc suất
quân lính dàn trận đối địch. Quân Điền Hổ nhìn cờ hiệu mới hay đó là quân của
hai tướng Bệnh uý trì Tôn Lập và Thiết địch tiên Mã Lân. Bên trận quân bắc,
gươm giáo tua tủa, kiếm kích dàn hàng; cờ nheo xếp thành đội. Đại vương Điền Hổ
cưỡi ngựa trắng yên vàng, che lọng vàng thêu hình chín khúc rồng cuộn. Bên trận
quân Tống, Tống Giang cùng quân sư Ngô Dụng và các tướng Tôn Tân, Cố Đại Tẩu,
Vương Anh, Hỗ Tam Nương, Tôn Lập, Chu Đồng, Yến Thuận dẫn quân mã tiến đến.
Điền Hổ đang tìm cách đối phó với
Tống Giang thì quân thám mã đến báo:"bọn Quan Thắng liên tiếp tiến đánh
hai huyện Du Xã, Đại Cốc. Hai huyện Bình Giao và Giới Hữu ở phía tây cũng bị
quân của Lư Tuấn Nghĩa đánh phá; thành huyện Thái Nguyên bị tháo nước nhận
chìm. Hữu thừa tướng Bịên Tường đóng quân ở núi Miên Sơn chống cự với bọn Hoa
Vinh, bị quân Lư Tuấn Nghĩa từ Thái Nguyên ập đến đánh vào phía sau. Lư Tuấn
Nghĩa cùng bọn Quan Thắng hội quân bao vây thành huyện Tẩm Nguyên". Điền
Hổ nghe xong hoảng hốt, vội truyền lệnh thu quân về giữ thành Uy Thắng. Lý
Thiên Tích ở lại giữ trận để cho bọn Tiết Thời, Lâm Kích, Hồ Anh, Đường Xương
hộ vệ Điền Hổ rút trước. Bỗng nghe súng nổ vang ở phía bắc núi Đồng Đề, rồi
quân bộ do các đầu lĩnh Lỗ Trí Thâm, Lưu Đường, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn chỉ
huy chia hai đường đánh xáp tới. Điền Hổ vội cho quân ngự lâm lên ứng chiến,
bất ngờ bị Mã Linh và Tôn An dẫn quân kỵ mã từ phía đông đánh tạt sang. Mã Linh
đạp bánh xe gió lửa, cầm quả cầu sắt ném mạnh về phía quân bắc. Tôn An múa song
kiếm dẫn quân đánh tràn sang trận giặc, cắt quân Điền Hổ làm hai mảng. Tống
Giang theo kế của Ngô Dụng chia quân tiến đánh từ ba phía. Quân Điền Hổ đông
mười vạn mà không đối phó nổi, bị quân Tống đánh tan tác như sao rụng mây tan.
Bọn thượng thư Lý Thiên Tích hộ vệ Điền Hổ chạy về phía đông chưa được bao xa
lại gặp quân bộ của Lý Quỳ chận đánh. Bọn Lý Thiên Tích, Trịnh Chi Thuỵ, Tiết
Thời, Lâm Tích dẫn tàn quân chạy giạt về phía tây. Thủ hạ của Điền Hổ tuy có
sức vóc võ nghệ nhưng chưa từng đối địch với quan quân nhà Tống trận nào ác
liệt thì trận này làm sao địch nổi? Tuỳ tòng của Điền Hổ chỉ còn bọn đô đốc Hồ
Anh, Đường Xương, tổng quản Diệp Thanh, mấy viên kim ngô hiệu uý và khoảng năm
nghìn người ngựa. Đang lúc nguy cấp lại thấy một đoàn quân mã từ phía đông đang
bon đến. Điền Hổ ngước mắt than lớn:
- Trời hại ta!
Dẫn đầu đội quân ấy là viên tướng
trẻ khôi ngô tuấn tú, chít khăn lục xanh mặc chiến bào xanh, tay cầm ngọn
thương lê hoa, cưỡi chiến mã trắng cao lớn, trên cờ hiệu đề rõ "Trung hứng
bình Nam tiên phong quận mã Toàn Vũ". Diệp Thanh thấy có hiệu liền báo
ngay cho Điền Hổ biết. Điền Hổ truyền lệnh cho quận mã đi theo hộ tống. Quận mã
Toàn Vũ đến gần, xuống ngựa quỳ tâu:
- Vì mặc giáp trụ trên người không
tiện quỳ lạy, thần đáng muôn lần tội chết.
Điền Hổ nói:
- Trẫm xá tội cho khanh!
Toàn Vũ lại tâu:
- Tình thế nguy cấp, xin đại vương
rời ngự giá đến thành Tương Viên tránh mũi nhọn của quân địch. Xin cho thần
cùng quận chú Quỳnh Anh đánh lui quân Tống rồi sẽ đón đại vương về đại nội ở
châu Uy Thắng đề bàn định kế sách khôi phục cơ nghiệp của vương triều.
Điền Hổ cả mừng, truyền lệnh cho
quân sĩ đi về phía huyện Tương Viên. Phò mã Toàn Vũ đi sau cùng để giữ mặt hậu.
Người ngựa của Điền Hổ vừa đến dưới thành Tương Viên thì từ phía sau một đội
quân mã đuổi theo rất gấp, tiếng hò reo vang trời. Tướng giữ thành Tương Viên
thấy vậy vội cho mở cổng, thả cầu treo, Hồ Anh liền dẫn quân vào trước. Quân sĩ
nghe tiếng hò reo đuổi theo thì xô nhau chạy qua cầu treo vào thành. Hồ Anh vừa
qua khỏi cổng, bỗng nghe một tiếng mõ kêu vang, quân mai phục hai bên nhất loạt
nổi dậy dồn Hồ Anh và hơn ba nghìn quân sĩ xuống hố ngầm. Quân giữ thành đứng
bên trên cầm giáo dài tới tấp đâm xuống. Thương thay, ba nghìn quân của Hồ Anh
không một người sống sót. Có tiếng quát lớn:
- Điền Hổ muốn sống thì quy hàng!
Điền Hổ thấy quân dân thành Tương
Viên làm phản, biết mắc mưu của quân Tông, vội quay ngựa chạy về phía bắc,
Trương Thanh, Diệp Thanh liền vỗ ngựa đuổi theo. Điền Hổ cưỡi túân mã chạy
nhanh như gío. Trương Thanh, Diệp Thanh dẫn quân đuổi không kịp, bị tụt lại
ngoài một tầm tên. Bỗng Điền Hổ thấy phía trước nổi lên một cơn gió lốc, trong
hơi gió một nữ tướng hiện ra, cất tiếng nói lớn:
- Gian gặc Điền Hổ, ngươi phải đền
tội ác ngươi đã gây ra với nhà họ Cừu chúng ta! ngươi còn định trốn đâu?
Đúng lúc ấy, một luồng gío lạnh tạt
đến, bỗng viên nữ tướng cũng biến mất. Điền Hổ ngồi xuống, bỗng con ngựa kinh
sợ, chồm chân hí vang, Điền Hổ mất đà ngã nhào. Trương Thanh, Diệp Thanh đuổi
kịp, liền nhảy xuống ngựa cùng quân sĩ ùa tới bắt. Đuờng Xương dẫn quân xông
đéen giải vây cho Điền Hổ. Trương Thanh trông thấy vội lên ngựa phóng tới ném
đá trúng mặt Đường Xương, hất Xương lăn nhào xuống ngựa, Trương Thanh nói lớn:
- chẳng phải Toàn Vũ nào cả, ta
chính là Một vũ tiễn Trương Thanh!
Bấy giờ bọn Lý Quỳ, Võ Tòng dẫn năm
trăm quân bộ từ trong thành đánh ra. Hai người hét vang, xông vào chém giết.
Hai nghìn quân của Điền Hổ bị đánh tan tác. Trương Thanh đâm chết Đường Xương,
trói Điền Hổ, rồi dẫn quân mã tiến vào thành, sai đóng chặt cổng chờ tin của
Tống tiên phong. Lỗ Trí Thâm cũng vừa đuổi đến, thấy Điền Hổ đã bị bắt, bèn
quay lại phía tây đuổi đánh bọn tàn quân đến tận chân núi Đồng Đề.
Ba cánh quân người ngựa của Tống
Giang giáp chiến với quân Điền Hổ suốt một ngày, giết tại trận hơi hai vạn tên.
Quân Điền Hổ mất chủ, chạy trốn khắp nơi. Phạm Mỹ nhân và thê thiếp của Điền Hổ
đều bị lọan quân giết hại. Bọn Lý Thiên Tích, Trịnh Chi Thụy, Tiết Thời, Lâm
Tích dẫn hơn ba vạn quân lên đống trên núi Đồng Đề, bị quân Tống Giang vây chặt
bốn phía. Nghe Lỗ Trí Thâm đến báo tin Điền Hổ đã bị Trương Thanh bắt sống,
Tống Giang sai thám mã ngày đêm ruổi gấp về Tương Viên truyền lệnh cho Võ Tòng
canh phòng Điền Hổ cẩn mật để cho Trương Thanh cấp tốc đem quân đến Uy Thắng hỗ
trợ Quỳnh Anh.
Nguyên là Quỳnh Anh theo đúng mật kế
của quân sư Ngô Dụng, đã cùng bọn Giải Trân, Giải Bảo, Nhạc Hoà, Đoàn Cảnh Trụ,
Vương Đình Lục, Úc bảo Tứ, Sái Phúc, Sái Khánh đem năm nghìn quân mã trương cờ
hiệu của quân Điền Hổ đến mai phục ở chân núi Thạch Bàn ngoài thành huyện Vũ
Hương. Nghe tin Điền Hổ đã đem quân đi đánh, Qùynh Anh liền dẫn quân ngày đêm
tiến gấp đến thành Uy Thắng. Chiều muộn ngày hôm ấy, khi bóng tối lan dần, ráng
chiều đã khuất, trăng non buông lưỡi liềm, Quỳnh Anh đến trước cổng, cất tiếng
gọi to:
- Ta là công chúa Quỳnh Anh, vâng
mệnh đem quân hộ vệ đại vương. Quân canh mau mở cổng!
Quân giữ thành vội phi báo về phủ
của trấn thủ. Điền Báo, Điền Bưu nghe tin vội lên ngựa đến cửa nam trèo lên lầu
thành quan sát, quả thấy đại vương Điền Hổ cưỡi ngựa bạch yên thêu đứng dưới
lọng vàng. Trước ngựa là một nữ tướng, có cờ hiệu thêu chữ lớn "Quỳnh Anh
quận chúa", phía sau là bọn các quan thượng thư, đô đốc. Qùynh Anh lại lên
tiếng nói to:
- Hồ đô đốc bị thua, ta hộ vệ đại
vương đến đây, các ngươi mau báo quan trấn thủ mở cửa thành tiếp giá!
Bọn Điền Báo nhận ra đại vương Điền
Hổ, vội truyền lệnh mở cổng ra ngoài thành nghênh tiếp. Điền Báo, Điền Bưu vừa
đến gần, bị đại vương ngồi trên ngựa bất ngờ quát lớn:
- Võ sĩ đâu, bắt ngay hai tên giặc
này!
Quân sĩ nghe lệnh ập đến bắt trói.
Điền Báo, Điền Bưu kêu to:
- Chúng tôi vô tội!
Bọn chúng không kịp giãy gụa đã bị
quân của Qùynh Anh trói chặt. Người đóng giả Điền Hổ chính là Tôn An có khuôn
mặt hơi giống Điền Hổ, các viên thượng thư, đô đốc thì do bọn Giải Trân, Giải
Bảo đóng giả, cả mấy người lúc ấy mới rút khí giới ra. Bọn vương Đình Lục, Úc
Bảo Tứ, Sái Phúc, Sái Khánh đem theo năm trăm quân áp giải bọn Điền Báo, Điền Bưu
đi gấp về thành Tương Viên. Đứng trên mặt thành thấy Điền Báo, Điền Bưu bị bắt,
biết là mắc mưu của quân Tống, các tướng của Điền Hổ vội đem quân ra ngoài
thành đánh cứu. Quỳnh Anh nóng lòng muốn bắt giết Điền Định, chẳng quản nguy
hiểm, cùng bọn Giải Trân, Giải Bảo dẫn quân ập vào thành. Quân giữ thành ra sức
chống cự, bị Quỳnh Anh ném đá sát thương sáu bảy tên. Giải Trân, Giải Bảo tiến
sát theo sau trợ chiến. Ngoài thành, bọn Nhạc Hoà, Đoàn Cảnh Trụ lệnh cho quân
sĩ bỏ quần áo cải trang, bấy giờ ai nấy đều mặc quần áo có dấu hiệu của quân
Tống. Quân sĩ được lệnh ồ ạt xông vào chiếm thành cửa nam. Nhạc Hoà, Đoàn Cảnh
Trụ múa phác đao dẫn quân lên mặt thành, giết quân canh, dựng cờ hiệu Đại Tống.
Dân chúng trong thành Uy Thắng xôn xao nháo nhác. Vương thân quốc thích và bọn
ngụy quan văn võ còn lại trong thành hợp quân đánh lại. Quân Quỳnh Anh chỉ có
hơn tám nghìn quân đến tiếp ứng. Thấy Quỳnh Anh cùng bọn Giải Trân, Giải Bảo
đang hỗn chiến với quân Điền Hổ, Trương Thanh vội vung tay ném đá giết ngay bốn
tướng giặc. Quân Điền Hổ tan rã phải lui về. Trương Thanh nói với Quỳnh Anh:
- Bên ta ít quân, không tiến qúa sâu
vào đất địch.
Qùynh Anh đáp:
- Thiếp có mối thù cha, dẫu tan thân
không tiếc!
Nghe Trương Thanh nói Điền Hổ đã bị
bắt giải về thành Tương Viên, Quỳnh Anh vui mừng khôn xiết. Trương Thanh, Quỳnh
Anh thấy giặc đông, quân bên mình ít, định cho lui quân ra ngoài thành. Vừa hay
lòng trời ghen ghét quân nghịch tặc, Lư tiên phong lấy xong thành Tẩm Nguyên,
trên đường về thấy cờ hiệu của quân mình bay trên thành Uy Thắng, bèn vào thành
hội quân với Trương Thanh để tiến đánh tàn quân của Điền Hổ, bọn Tần Minh,
Dương Chí, Đỗ Thiên, Tống Vạn đem quân chiếm cửa đông. Âu Bằng, Đặng Phi, Lôi
Hoành, Dương Lâm chiếm cửa tây. Hoàng Tín, Trần Đạt, Dương Xuân, Chu Thông dẫn
quân chiếm cửa bắc. Dương Hùng, Thạch Tú, Tiêu Dĩnh, Mục Xuân, Trịnh Thiên Tho,
Trâu Uyên, Trâu Nhuận chỉ huy quân bộ chuyên đánh đao búa từ phía trước cung
điện của Điền Hổ đánh vào. Bọn Cung Vương, Đinh Đắc Tôn, Lý Lập, Thạch Dũng,
Đào Tông Vượng dẫn quân bộ từ phía cửa Hậu Tề đánh tới. Bọn phi tần, thê thiếp
trong nội cung Điền Hổ bị quân Tống giết nhiều vô kể. Điền Định nghe tin có
biến liền rút gươm tự sát. Trương Thanh, Quỳnh Anh, Thái viên tử Trương Thanh,
Tôn Nhị Nương, Đường Bân, Văn Trọng Dung, Thôi Dã, Cảnh Cung, Tào Chính, Tiết
Vĩnh, Lý Trung, Chu Phú, Thời Thiên, Bạch Thắng chia quân đi lùng bắt bọn vương
thân quốc thích cùng tướng tá của Điền Hổ đang trốn tránh. Đúng là:
Kim gia điện hạ nhân đầu cốn
Ngọc thiết triều môn nhiệt huyết
phôn.
Mạc đạo bất phân ngọc dữ thạch,
Vi khánh vi ương tâm tự môn.
Thềm vàng điện tía đầu người rụng,
Cửa ngọc sân rồng máu nóng tuôn.
Chớ bảo chẳng phân đâu vàng đá,
Họa phúc tuỳ tâm định mất còn.
Bấy giờ quân Tống vào đóng trong
thành Uy Thắng, tử thi quân giặc ngổn ngang đầy chợ, máu chảy đỏ khe. Lư Tuấn
Nghĩa truyền lệnh cho quân sĩ không được giết hại dân chúng, một mặt sai người
báo cho Tống tiên phong biết tin thắng trận.
Tảng sáng hôm quân Tống dẹp yên các
đám tàn quân, binh tướng của Điền Hổ ra hàng nhiều không đếm xủê. Lư tiên phong
cho điểm diện các tướng chỉ thiếu hai người: Thần cơ quân sư Chu Vũ ở lại trấn
thủ huyện Tẩm Nguyên, hàng tướng Cảnh Cung ngã ngựa bị loạn quân xéo chết. Các
tướng khác đều bình yên vô sự, đến báo công tại quân doanh của Lư tiên phong.
Khi Tiêu Đĩnh chở xác Điền Định đến, Quỳnh Anh không nén nổi giận, nghiến răng
tuốt đoản đao chặt lìa thủ cấp.
Bấy giờ, vợ Ô Lê quốc cữu là Nghê
thị đã chết, Quỳnh Anh vội đi tìm vợ Diệp Thanh là An thị. Rồi Qùynh Anh xin
phép Lư tiên phong cùng với Trương Thanh đến huyện Tương Viên áp giải Điền Hổ
đến quân doanh của Tống tiên phong, Lư Tuấn Nghĩa ngồi trong trướng đang xử lý
việc quân, bỗng có quân thám mã vào báo tin: tướng của Điền Hổ là Phòng Học Độ
hiện đang vây bức Sách Siêu và Thang Long ở huyện Du Xã. Lư tiên phong bèn sai
Quan Thắng, Tần Minh, Lôi Hoành, Trần Đạt, Dương Xuân, Dương Lâm, Chu Thông đem
quân đi giải vây. Ngày hôm sau, Tống Giang đánh tan quân của bọn Lý Thiên Tích
ở núi Đồng Đề. Trong thư báo tin với Trần an phủ, Tống Giang nói "sào
huyệt giặc bị phá, đại quân đã bắt sống được Điền Hổ, kính mời an phủ đến thành
Uy Thắng xét định công việc". Tống Giang dẫn đại quân đến Uy Thắng, Lư
Tuấn Nghĩa và các tướng ra ngoài thành nghênh tiếp, đưa Tống tiên phong vào thành.
Tống tiên phong cho treo bảng vỗ yên trăm họ, Lư Tuấn Nghĩa cho áp giải Biện
Tường đến trước trướng. Tống Giang thấy Biện Tường dáng mạo khôi ngôi tuấn tú
bèn tự tay cởi trói, lấy ân tình khuyên bảo tà theo chính. Biện Tường thấy Tống
Giang là người đức độ, nghĩa khí, trong lòng cảm kích, bèn xin quy hàng.
Ngày hôm sau Trương Thanh, Quỳnh Anh
và Diệp Thanh áp giải xe tù chở Điền Hổ, Điền Báo, Điền Bưu đến. Quỳnh Anh cùng
Trương Thanh đến vái chào Tống tiên phong. Quỳnh Anh cũng đến chào bọn Vương
Anh, tỏ lời tạ lỗi về việc mạo phạm khi trước. Tống Giang truyền lệnh tống giam
bọn Điền Hổ vào nhà ngục, chờ ngày áp giải về Đông Kinh làm lễ hiến tù. Rồi đó
Tống Giang sai dọn tiệc rượu chúc mừng nhân duyên của Trương Thanh và Quỳnh
Anh. Ngày hôm ấy tướng trấn thủ thành huyện Vũ Huơng là Phương Thuận đem sổ
sách ghi hộ khẩu quân dân và bản kê khai tiền thóc trong kho công bản huyện đến
nộp Tống tiên phong. Tống Giang khen thưởng, úy lạo, rồi cho Phương Thuận vẫn
được làm trấn thủ như trước.
Mấy hôm sau, thám mã về báo tin Quan
Thắng đem quân về huyện Du Xã phối hợp với Sách Siêu, Thang Long, trong đánh ra
ngoài đánh vào, giết tướng giặc là Phòng Học Độ, quân Bắc bị giết đến hơn năm
nghìn tên. Số còn lại đều ra hàng. Tống Giang cả mừng nói:
- Việc đánh dẹp thành đạt như thế là
công lao chung của các anh em.
Rồi đó Tống Giang cho lập sổ ghi
chép công của từng người. Trương Thanh, Quỳnh Anh được ghi công đầu vì bắt sống
được đầu sỏ giặc. Mấy ngày sau quân mã của Quan Thắng và của Trần an phủ tới
nơi. Tống Giang dẫn các tướng ra ngoài thành đón tiếp, mời Trần an phủ vào
thành. Nghi lễ chào hỏi đã xog, Trần an phủ khen rằng:
- Anh em các tướng quân chỉ trong
vòng năm tháng mà lập được công lao muôn đời. Nghe tin bắt được đầu sỏ giặc, hạ
quan đã viết biểu văn, sai quân lưu tinh ruổi ngựa về kinh sư báo tin thắng
trận. Sớm muộn gì triều đinh ắt sẽ phong quan ban tước, trọng thưởng cho các
tướng quân.
Tống Giang lạy tạ Trần an phủ, rồi
cáo từ về doanh trại nghỉ ngơi. Ngày hôm sau Qùynh Anh đến trình với Tống tiên
phong, xin đến núi Thạch Thất ở châu Thái Nguyên tìm hài cốt thân mẫu để lo
liệu an táng. Tống Giang cho phép Trương Thanh và Diệp Thanh cùng đi, việc
không cần nói đến.
Sau khi trình với Trần an phủ, Tống
Giang hạ lệnh thiêu hủy toàn bộ lâu đài, hiên son gác vàng cung điện của Điền
Hổ ở thành Uy Thắng. Một mặt sai lấy tiền thóc trong kho chẩn cáp cho dân chúng
bị nạn binh hoả. Trần an phủ viết văn thư gửi Túc thái uý, nhờ thái uý chuyển
biểu văn tâu lên triều đình. Tống Giang giao thư cho Đái Tôn đi gấp về kinh.
Đái Tôn nhận thư và biểu văn lập tức
lên đường, chẳng bao lâu đuổi kịp viên thừa biện do Trần an phủ sai đi từ
trước.
Hai người cùng lúc về đến Đông Kinh,
Đái Tôn đi ngay đến phủ Túc thái uý tìm Dương ngu hầu, nhờ chuyển văn thư lên
Túc thái uý. Túc thái uý cả mừng, ngay buổi chầu sáng hôm sau đem biểu văn của
Trần an phủ và Tống Giang tâu lên thiên tử. Tống Huy Tông mặt hồng rạng rỡ liền
ban sắc cho Tống Giang được phép định liệu công việc, chờ khi đem quân về kinh
sẽ phong quan ban tước. Đái Tôn nghe kể lại mọi việc, ngay ngày hôm ấy từ tạ
Túc thái uý, lên đường rời Đông Kinh, quá trưa hôm sau đã về đến quân doanh ở
thành Uy Thắng phúc đáp với Trần an phủ và Tống tiên phong.
Trần an phủ và Tống Giang hạ lệnh:
trừ Điền Hổ, Điền Báo, Điền Bưu phải giam giữ để giải nộp về Đông Kinh, bọn đồ
đảng trong nguỵ triều Điền Hổ đều đem ra chợ Uy Thắng chém bêu đầu thị chúng.
Vùng đát chưa thu phục được chỉ còn huyện Bồ, huyện Giải thuộc châu Tấn Ninh.
Bọn tham quan ô lại làm việc cho nguỵ triều nghe tin Điền Hổ bị bắt, một phần
bỏ trốn, số còn lại ra đầu thú. Trần an phủ chấp thuận cho trở lại làm lương
dân. Một mặt sai người đi các nơi yết bảng chiêu an, vỗ yên dân trăm họ. Những
người bị ép buộc theo giặc, chỉ giữ thân phận tuỳ thuộc không giết hại dân chúng
thì cho ra đầu hàng, tự thú để trở về quê quán, được cấp trả ruộng vườn sản
nghiệp.
Thu phục các châu huyện đã xong,
Trần an phủ điều quan quân đến trấn thủ để giữ coi yên dân, chuyện không cần
nói đến.
Lại nói Tống Huy Tông đã xuống chiếu
sai sứ giả mang đến Hà Bắc tuyên dụ bọn an phủ sứ Trần Quán. Ngày hôm sau thiên
tử lên dự nghe giảng ở nhà Vũ Học. Các quan đã tề tựu đông đủ từ trước. Sái
Kinh ngồi trên ghế cao bình giảng binh pháp, các quan kính cẩn khoanh tay lắng
nghe. Duy có một viên quan chỉ ngửa mặt nhìn lên trần nhà, không một lần liếc
mắt nhìn người thuyết giảng. Sái Kinh cả giận, sai người nhận mặt cho kịp để
biết viên quan ấy là ai. Quả như người ta vẫn thường nói: "một người
ngoảnh mặt đi, cả bàn chán nản". Chỉ vì Sái Kinh tra vấn họ tên viên quan
ấy, khiến cho:
Địa sát, Thiên cang về Dực, Chẩn
Binh hùng tướng mạnh nhập Sinh Đô.
Chưa biết viên quan ấy là ai, xem
hồi sau sẽ rõ.
Hồi 101 -
Chiếm Phần Mộ, Huyệt Thiêng Sinh Giặc
Đang nói chuyện hôm ấy ở nhà Vũ Học,
Sái Kinh sai người hầu hỏi tên viên quan ngồi nhìn trần nhà không chịu nghe
giảng binh pháp là ai,mới biết người đó là La Tiễn, quê quán ở Đạt Châu quận
Vân Nam, hiện giữ chức Vũ Học dụ. Sái Kinh giận tím người, định quát tháo thì
nghe báo có xa giá thiên tử đến. Sái Kinh đành bỏ qua chyện ấy, dẫn bách quan
ra nghênh đón. Thiên tử bước xuống, các quan đều múa lạy tung hô. Đạo quân
hoàng đế vừa giảng võ xong; quan Vũ Học dụ La Tiễn không chờ Sái kinh lên
tiếng, bè bước lên phủ phục tâu rằng:
-Tiểu thần La Tiễn giữ chức Vũ học
dụ mạo muội muôn lần tội chết, xin kính cẩn trình bệ hạ soi xét về việc gian
tặc Vương Khánh làm loạn ở vùng Hoài Tây. Bọn chúng dấy loạn đến nay đã năm
năm, quan quân không đánh dẹp nỗi. Các viên Đồng Quán, Sái Du vâng mệnh đến
Hoài Tây đánh dẹp bị thua bại, quân lính không còn môt tên. Bọn họ sợ tội không
dám tâu thật lên bệ hạ, nói là quân sĩ không quen thủy thổ, xin tạm lui binh.
Vì thế mới dẫn đến mối lo lớn hiện nay. Thế lực của bọn Vương Khánh ngày càng
mạnh. Tháng trước đây bọn Vương Khánh đã kéo đến đánh phủ vùng quê thần ở quân
Vân An, cướp bóc, hãm hiếp, chém giết gây tội ác thâm độc không nói hết. Bọn
chúng đã chiếm giữ tám mươi sáu thành, châu, huyện. Sái kinh là đại thần phụ
chính, để con là Sái Du làm hao quân tổn tướng, nhục nước tan quân. Vậy mà hôm
trước khi thánh giá lâm ngự, viên ấy vẫn điềm nhiên ngồi trên ghết cao mà giảng
dạy binh pháp, khoe khoang không xấu hổ. Thật là càn dỡ không chút lương tâm!
Cúi xin bệ hạ trị tội tên tặc thần đã làm lỡ việc nước, chọn người làm tướng,
định ngày xuất quân, cấp tốc lên đường cứu sinh dân khỏi chốn lầm than, giữ xã
tắc muôn đời bền vững. Như thế thần dân thiên hạ được may mắn lắm.
Tống Huy Tông nghe tâu xong cả giận,
nặng lời quở trách tội che giấu của bọn Sái Kinh. Nhưng Sái kinh khéo lựa lời
biện bac nên chưa bị trị tội. Thiên tử do tực chốc lát rồi lên xa giá về cung.
Ngày hôm sau lại có thái thú Hào Châu là Hầu Mông nhân về kinh chờ sai phái, đã
dân thư thẳng thắng vạch tội bọn Đồng Quán, Sái Du làm nhục nước tan quân. Một
mặt Hầu Mông khen ngợi Tống Giang là người tài lược nhiều lần lập kỳ công: đi
đánh quân Liêu trở về, lại dẹp yên loạn Điền Hổ ở Hà Bắc, khải hoàn về kinh.
Thế lực bọn Vương Khánh hùng mạnh, Hầu Mông xin thiên tử ban thưởng cho bọn
Tống Giang rồi sai Tống Giang đưa người ngựa đi Hoài Tây dẹp loạn Vương Khánh,
tất lập được công lớn.
Huy Tông hoàng đế tấu chuẩn tấu,
xuống sắc chỉ giao cho quan sảnh viện bàn việc phong quan tước cho anh em Tống
Giang. Quan sảnh viện cùng bạn bạc với Sái Kinh rồi tâu lên:
-Bọn Vương Khánh đem quân đến đánh
phá Uyển Châu, gần đây lại có văn thư cáo cấp của báo nơi là Vũ Châu, Đái Châu
và Lai huyện. Đó là những châu huyện thuộc Đông Kinh, gần đất kinh sư, xin bệ
hạ xuống chiếu lệnh cho bọn Trần Quán, Tống Giang không cần phải đem quân về
kinh mà đưa quân mã ruổi gấp đến cứu viện cho Vũ Châu và các nơi nói trên. Bọn
thần xin tiến cử Hầu Mông giữ chức hàn quân tham mưu. La Tiễn vốn có hiểu biết
thao lược, nên sai cùng Hầu Mông đến quân doan của Trần Quán để tuỳ tiện sử
dụng. Bọn Tống Giang vì đang đi chinh thảo, chưa tiện thăng quan ban tước, đợi
khi thắng giặc Hoài Tay trở về sẽ châm chước nghị bàn phong thưởng.
Nguyên là Sái Kinh biết Vương Khánh
có binh hùng tướng mạnh, nên đã cùng bọn Đồng Quán, Dương Tiễn, Cao Cầu bàn
nhau cố ý đưa Hầu Mông, La Tiễn theo việc quân phò tá cho Trần Quán. Nếu Tống
Giang thua trận thì Hầu Mông, La Tiễn không có cách nào thoát tội. Bấy giờ sẽ
thả một mẻ lưới bắt bọn hết. Đạo quân hoàng đế chuẩn y lời tâu cúa bốn tên tặc
thần, sai Hầu Mông, La Tiễn mang chiếu sắc cùng các thứ đồ thưởng vàng bạc, gấm
vóc, áo bào, áo giáp, ngựa chiến, ngự tửu lên đường đi Hà Bắc tuyên đọc chiếu
dụ cho bọn Tống Giang. Lại sắc cho Lại bộ bổ nhiệm các quan viên chánh phó các
phủ châu huyện ở Hã Bắc mới thu phục được, định ngày đến lỵ sở nhậm chức.
Đạo Quân hoàng đế xét việc chính sự
đã xong, bọn Vương Phủ, Sái Dụ lại khuyên vua đến đồi Cấn Nhạc xem hát múa giải
sầu, chuyện ấy không phải nói đến.
Lại nói chuyện Hầu Mông vâng mệnh
mang chiếu sắc đồ thưởng của thiên tử đến ban cho các tướng sĩ. Tất cả đóng gói
chở đầy trên ba mươi lăm cỗ xe, rời Đông Kinh đi về Hà Bắc. Chuyện trên đường
không có gì đáng nói.
Một ngày kia đoàn người ngựa, xe cộ
vượt qua núi Hồ Quan phủ Chiêu Dức tiến vào châu Uy Thắng, cách thành hơn hai
mươi dặm thì gặp quan quân áp giải Diền Hổ. Trước đó Tống Giang đã tiếp được
chiếu sắc cho phép đem quân về kinh. Quỳnh Anh lo liệu cải táng phần mộ cúa mẹ,
hiện cũng đã về. Tống Giang viết sẵn biểu văn tâu lên triều đình về sự tích
trung hiếu tiết nghĩa của mẹ con Quỳnh Anh, đã cùng với Diệp Thanh có công
trong việc bắt Điền Hổ, cùng là việc bọn Kiều Đạo Thanh, Tôn An quy thuận triều
đình có công dẹp giặc. Mọi việc chuẩn bị đã xong. Tống Giang sai Trương Thanh,
Quỳnh Anh, Diệp Thanh đem quân áp giải Điền Hổ lên đường đi trước.
Bấy giờ Trương Thanh tiến lên trước
đoàn quân, chào đón tham mưu Hầu Mông và La Tiễn. Mọi người chuyện trò, thăm
hỏi, đã xong, Trương Thanh sai quân thám mã ruỗi ngựa trở lại báo cho Trần an
phủ và Tống tiên phong biết tin. Trần Quán và Tống Giang dẫn các tướng ra ngoài
thành nghênh tiếp sứ bộ. Bọn Hầu Mông bưng sắc chỉ của thiên tử đi vào thành
đặt lên hưng án ở Long Định Trần Quán cùng Tống Giang và các tướng xếp hàng tề
chỉnh rồi quỳ gối hướng về phía bắc. Quan lễ nghi Bùi Tuyên quát:
"Lạy!". Mọi người theo đúng nghi lễ lạy đón chiếu sắc của thiên tử.
Lạy xong, Hầu Mông quay mặt về hướng nam, đứng về bên trái hương án, mở chiếu
thư tuyên đọc:
"Lời chế rằng: Trẫm cai trị
muôn dân theo phép lớn, kính trời noi gương người xưa, kế thừa cơ nghiệp to
lớn, là nhờ có công lao của các bề tôi hùng kiệt dốc lòng phù tá. Gần đây ở
biên thùy nẩy sinh nhiều sự đang lo ngại, thế nước chông chênh. Ngươi tiên
phong sứ Tống Giang và các viên khác vượt núi băng ngàn, trải bao gian nguy
hiểm trở, đã lập công bắt giặc, khôi phục yên bình cho các địa phương bị quân
giặc chếm giữ, thực trẫm được nhờ ơn rất lớn.
Nay trẫm đặc sai tham mưu Hầu Mông
mang chiếu thư đến, ban cho an phủ sứ Trần Quán cùng Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa
và các tướng vàng bạc, áo gấm, ngựa tốt, áo giáp và ngự tửu đế biểu dương công
trạng của các người.
Nay lại có bọn giặc Vương Khánh dấy
loạn ở miền Hoài Tây, làm nghiêng đổ các thành trì cúa trẫm giết hại thần dân,
cướp phá biên thuỳ làm lay chuyến Tây Kinh. Trẫm theo lệ trước, sắc phong cho
Trần Quán làm an phủ sứ, Tống Giang làm Bình Tây đô tiên phong, Hầu Mông làm
hành quân tham mưu.
Ngày nào chiếu thư ban đến, các viên
nói trên phải thống lĩnh người ngựa, ngày đêm ruổi gấp đến cứu viện cho Uyển
Châu. Tướng sĩ các ngươi phải ra sức dốc tận lòng trung, để tâu công dẹp giặc,
trẫm sẽ xem xét phong quan ban tước. Các viên đầu mục khác trong ba quân, nếu
thưởng vật chưa có đủ để ban phát thì cho Trần Quán được phép mở lấy tiền bạc
vật phẩm trong các kho công chủa các châu huyện ở Hà Bắc để cấp thưởng, rồi lập
khai sách tấu lên. Bọn các ngươi hãy kính tuân! Nay đặc dụ.
Niên hiệu Tuyên Hòa năm thứ 5 (1124)
tháng tư, ngay..”
Hầu Mông tuyên đọc chiếu thư xong,
Trần Quán, Tống Giang và các tướng cùng hô vạn tuế, vái lạy tạ ơn thiên tử. Lễ
xong, Hầu Mông lấy các đồ thưởng vàng bạc, gấm vóc, chiếu theo danh sách các
tướng sĩ mà ban phát. Trần an phủ, Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa mỗi người được ban
vàng tốt năm trăm lạng, gấm vóc mười tấm, áo gấm một chiếc, ngựa tốt một con,
ngự tửu hai bình. Bọn Ngô Dụng ba mươi tư viên chánh tướng, mỗi người được ban
vàng hai trăm lạng, vóc màu bốn tấm, ngự tửu một bình. Số vàng bạc còn lại,
theo ý cúa Trần an phủ, đợi quân các nơi về đủ sẽ đem chia đều cho mọi người.
Tống Giang lại ra lệnh cho Trương Thanh, Quỳnh Anh, Diệp Thanh dẫn quân áp giải
Điền Hổ, Điền Báo, Điền Bưu về kinh sư. Công Tôn Thắng xin Tống tiên phong giữ
lời hứa tu sửa cho năm pho tượng rồng trong miếu Long thần ở núi Ngũ Long. Tống
Giang bèn cho đắp sửa các tượng rồng ở miếu sơn thần nói trên.
Tống Giang sai Đái Tôn, Mã Linh đi khắp
các phủ lộ chiếu dụ tướng sĩ giữ thành, hễ khi có quan mới đến nhận chức thì
bàn giao công việc để về dinh chủ suý hội quân đi đánh giặc Vương Khánh. Trong
thời gian Tống Giang làm nốt việc chuẩn bị, các tướng tá giữ thành các phủ lộ
bàn giao xong công viêc cũng lục tục đem quân về. Tống Giang cho đem vang bàc
được ban thưỡng chia đều cho quân sĩ, lại sai Tiêu Nhượng, Kinh Đại Kiên soạn
văn khắc bia đá để ghi chiến công dẹp yên loạn Điền Hổ. Ngày năm tháng năm,
đúng ngày tết Thiên trung Tống Giang giao cho Tống Thanh bày tiệc lớn chúc mừng
cuộc thái bình. Trong đại tiệc hôm ấy, Tống Giang mời Trần an phủ ngồi ghế
nhất. Hầu Mông, La Tiễn và các viên quan mới đến nhậm chức trấn thủ các châu
phủ cùng các phó quan châu Uy Thắng ngồi ghế tiếp theo. Anh em Tống Giang,
ngoài Trương Thanh đã đưa quân đi trước, còn lại một trăm linh bảy chánh phó
tướng, cùng mười bảy hàng tướng Hà Bắc là bọn Kiều Đạo Thanh, Tôn An, Biện
Tường đều có mặt đông đú, chia ngồi ở hai bên. Trong bữa tiệc, Trần Quán, Hầu
Mông, La Tiễn đều đứng dậy tán dương công lao đánh giặc của anh em Tống Giang.
Tống Giang, Ngô Dụng và nhiều đầu lĩnh khác cảm kích trước những lời khen ngợi
cúa các quan triều đình. Mọi người bàn luận chính sự, bày tỏ lòng trung thành.
Trong ánh đèn nến huy hoàng, mọi nguời cùng nhau cạn chén, chuyện trò cởi mở
thân tình, gần nửa đêm mới tan tiệc ra về.
Ngày hôm sau, Tống Giang, Ngô Dụng
trù tính công việc một lần nữa, xuống lệnh chỉnh điểm binh mã, rồi từ biệt các
quan bản châu, dẫn quân theo Trần an Phủ rời châu Uy Thắng tiến về phía nam.
Trên đường đi, quân sĩ không tơ hào
xâm phạm tài sản của dân, trăm họ đem hương hoa đèn đuốc đứng đón hai bên
đường, vái chào cảm tạ công ơn của anh em Tống Giang dẹp yên quân giặc khiến
cho trăm họ lại thấy ánh mặt trời.
Tạm chưa nói đến chuyện Tống Giang
đem quân đi dẹp giặc ở phía nam. Đây nói chuyện Một vũ tiễn Trương Thanh cùng
Quỳnh Anh, Diệp Thanh áp giải xe tù chở bọn Điền Hổ về đến Đông Kinh, trước hết
đưa trình thư cúa Tống Giang gửi trình Túc thái úy và chuyển đến Túc thái úy
các đồ vàng bạc châu báu.
Túc thái úy vào triêu tâu lên thiên
tử. Đạo quân hoàng đế khen ngợ mẹ con Quỳnh Anh trinh liệt hiếu thuận, giáng
sắc đặc cách ban tước cho mẹ Quỳnh Anh là Tống thị làm Giới Hưu Trinh tiết
huyện quân, sai quan sở tại dựng đền thờ biểu dương người trinh liệt, hàng năm
xuân thu hai kỳ cúng tế. Phong cho Quỳnh Anh làm Trinh hiếu nghi nhân. Phong
Diệp Thanh làm chính bài quân, lại thưởng năm mươi lạng bạc để biểu dương lòng
trung nghĩa. Trương Thanh vẫn giữ nguyên chức cũ, chờ khi cả ba người theo Tống
Giang đánh giặc Hoài Tây có công trở về thăng thưởng luôn thể.
Đạo quân hoàng đế truyền cho quan
pháp ti đem ba tên phản giặc Điền Hổ, Điền Báo, Điền Bưu ra đầu chợ xử lăng
trì.
Bấy giờ Quỳnh Anh ôm ảnh vẻ châng
dung mẹ đến thưa với quan giám mã trảm xin cho treo trên pháp trường để thanh
thoả mối thù riêng với bọn Điền Hổ. Phía dưới đặt một chiếc bàn, chờ đến khắc
thứ ba giờ ngọ, sau khi Điên hổ đã bị khai đao róc thịt, Quỳnh Anh nhặt lấy thủ
cấp đặt lên bàn; khóc to ba tiếng, lấy máu Điền Hổ làm lễ tế điện cho cha mẹ.
Câu chuyện của Quỳnh Anh mau chóng
lan truyền trong dân chúng Đông Kinh. Ngày hôm ấy người các phường phố đến xem
chật như nêm, nghe tiếng Quỳnh Anh khóc, ai nấy đều cảm thương rơi lệ.
Quỳnh Anh làm lễ tế điện xong liền
cùng Trương Thanh, Diệp Thanh hướng về phía cửa khuyết vái lạy tạ ơn. Rồi đo
ba người rời Dông Kinh lên đường đi
Uyển Châu giúp Tống tiên phong đánh giặc Vương Khánh, chuyện không cần nhắc
đến.
Đây thuật lại lai lịch Vương Khánh
từ nhỏ đến lớn: nguyên Vương Khánh là một viên phó bài quân trong phủ Khai
Phong ở Đông Kinh, chuyên lui tới các nha môn nghe ngóng xúi bẩy kiện tụng đẻ
kiếm chác, bòn rút hãm hại dân lành. Về khoản ấy ai cũng phải chịu nhận hắn là
tay cự phách. Hắn nhờ một thầy địa lý phong thuỷ chọn cho ngôi đất thiêng có
phúc sinh quý tử. Đám đất ấy nguyên là cúa một người trong họ đã táng mộ của
gia nhân người ấy. Vương Hoạch bàn mưu với thầy địa lý làm đơn kiện nhận là đất
hương hoả nhà hắn. Việc kiện tụng kéo dài suốt mấy năm. Nhà kia theo kiện đến
khuynh gia bại sản vẫn không thắng nổi Vương Hoạch, phải rời bỏ Đông Kinh đi
làm ăn nơi khác (về sau Vương Khánh dấy loạn bị tru di tam tộc, nhà ấy tuy cùng
họ nhưng ở xa, lại được quan phủ xác minh là bị Vương Hoạch hãm hại nên được
khỏi tội chết). Vương Hoạch đoạt được đất có ngôi đất quý bèn bốc mộ cha mẹ cải
táng vào huyệt đất ấy, không bao lâu thì vợ có mang. Vương Hoạch ban đêm chiêm
bao, thấy hổ vào nhà ngồi chồm hỗm ỡ phía tây. Bỗng có con thú đầu sư tử nhẩy
vào vồ con hổ ấy cõng đi. Vương Hoạch tỉnh dậy cũng vừa lúc vợ chuyển dạ sinh
Vương Khánh.
Vương Khánh từ nhỏ lêu lổng rong
chơi, đến năm mười sáu, mười bảy tuổi sức vóc lớn khoẻ, không chịu học hành,
chỉ ham thích các môn đánh thương, múa gậy, cưỡi ngựa, chọi gà. Hai vợ chồng
Vương Hoạch chỉ có mình Vương Khánh là con trai, nên hết sức chiều chuộng.
Khánh có làm điều gì càn dỡ cha mẹ cũng một mực bên che. Lâu dần thành tính,
đến khi lớn lên không sao câu thúc được nưa. Vương Khánh đam mê cờ bạc, tửu
sắc, vợ chồng Vương Hoạch răn dạy, nhưng đành chịu bó tay,mặc cho Khánh muốn
làm gì tuỳ ý. Sau sáu bảy năm cờ bạc ăn chơi, Vương Khánh vung phí hết gia tài
điền sản, chỉ còn một thân trần, xin sang làm phó bài quân ở phủ Khai Phong. Có
chút it nguyệt bổng, Khánh mời bè họp bạn chè chén suốt ngày, không vừa ý điều
gì thì vung châng múa tay đanh đá, người ngoài kiềng mặt sợ hãi, nhưng cũng có
kẻ thấy hắn ngang tàng lại muốn giao du.
Một hôm, khoảng mờ sáng, Khánh vào
phủ đánh trống điểm canh báo sáng, rồi lững thững ra phía cửa nam dạo chơi ở phố
Ngọc Tân. Bấy giờ là năm Chính Hoà thứ 6 (1116) đời vua Tống Huy Tông, tháng ba
đẹp trời, du khách đi lại trên đường đông như trẩy hội, ngựa xe quân lính nườm
nượp như mây, đúng là
Thượng uyển khai hoa đê liễu miên,
Du nhân đội lý tạp thuyền quyên.
Kim lặc mã tê phươnhg thảo địa,
Ngọc lân nhân tuý hạnh hoa thiên.
Thượng uyển hồn đơm tơ liễ nghiêng.
Ngày xuân thấp thoáng bóng thuyền
quyên.
Cương thắm vó thung đồng cỏ biếc,
Gác vàng nghiêng chén giấc mơ tiên.
Vương Khánh đi dạo một lúc trên phố,
rồi tựa lưng vào gốc thuỳ dương bên bờ hồ, có ý chờ xem gặp ai quen thì rủ vào
quán uống dăm chén. Một lúc sau, Vương Khánh thấy từ bờ hồ phía bắc một đoàn
hơn mười viên ngu hầu, can biện, vú hầu, đầy tớ theo sau cỗ kiệu đang đi tới.
Vương Khánh ngước nhìn thấy kiệu không buông rèm, bên trong có một thiếu nữ
xinh đẹp như hoa đang ngồi ngắm phố xá bên ngoài. Vương Khánh là kẻ hiếu sắc,
thấy thiếu nữ xinh đẹp thì tâm trí bay hết lên mây. Nhận ra đám đông can biện,
ngu hầu ấy là người trong phủ cúa quan khu mật Đồng Quán, Vương Khánh bèn rảo
bước theo sau đoàn kiệu đi về phía đồi Cấn Nhạc. Đồi này do Tống Huy Tông sai
đắp ở góc đông bắc kinh thành. Ở đây đủ non kỳ đá lạ, thú quý cây già, lâu đài,
đình hồ nhiều không kể xiết. Bên ngoài có tường son cổng cuốn có quân câm vệ
canh giữ không khác gì hoàng cung, dân thường không ai dám đặt chân đến.
Đoàn tuỳ tùng dừng lại, các vú hầu
dìu thiết nữ xuống kiệu. Một đoàn thướt tha yểu điệu đi đến cổng chính. Các
viên nội thị cai quản đội cấm vệ dẫn lối cho thiếu nữ và đoàn tuỳ tùng đi qua.
Thiếu nữ ấy tiểu danh là Kiều Tú, con gái Đồng Thế, em ruột Đồng Quán, lại là
cháu ngoại của Dương Tiễn, được Đồng Quán nhận làm dưỡng nữ, nuôi dạy như con.
Năm nay vừa đôi tám, đã hứa hôn với con trai của Sái Du, tức cháu dâu chưa cưới
của Sái Kinh. Nhân khi thiên tử ở chơi hai ngày tại nhà Lý Sư Sư, từ mấy hôm
trước Kiều Tú đã xin cha mẹ nuôi thi xếp cho mình được đến chơi đồi Cấn Nhạc.
Đồng Quán báo trước với đội cấm quân, vì vậy khi Kiều Tú vào không ai dám ngăn
cản. Kiều Tú dạo chơi các nơi trong khu đồi Cấn Nhạc lâu đến hơn nửa buổi không
thấy ra. Vương Khánh đứng chờ mãi ngoài cỗng, thấy bụng đói cồn cào, bèn chạy
đến một nhà hàng mua rượu thịt ăn uống, thấp thỏm chỉ lo người đẹp đi ra lúc
nào không biết. Vương Khánh uống vội sáu bảy chén, rồi đứng dậy đi ngay không
kịp trả tiền, chỉ móc túi lấy một thỏi bạc chừng hai tiền đưa cho tửu bảo, hẹn
sẽ đến tính sau. Ra khỏi quán Vương Khánh quay lại cổng đồi Cấn Nhạc, chờ đợi
hồi lâu nữa mới thây thiếu nữ gót sen nhẹ nhàng cùng các vũ hầu đi ra. Thiếu nữ
không vội lên kiệu, thong thả dạo ngắm phong cảnh phía ngoài đồi Cấn Nhạc.
Vương Khánh đánh bạo đi tới, ngước mặt nhìn, quả là một trang giai nhân mặt hoa
phấn, sắc nước hương trời. Vương Khánh nhìn thấy người đẹp, bất giác tâm trí
rối bời, gân cốt chùng nhão như tê dại, trong lòng bồn chồn rạo rực như bốc
lửa. Một hồi lâu Vương Khánh cứ thờ thẫn đứng bên vệ đường như ngây dại. Kiều
Tú đi lẫn trong đám người hầu, nhưng vẫn kịp đưa mắt liếc nhìn trang nam tử
dáng điệu tài tử phong lưu, mắt phượng mày đen, như vẽ. Một lúc sau bọn can
biện, ngu hầu quát thét dẹp đường, rồi các vú hầu đỡ Kiều Tú lên kiệu, người
hầu đi bộ theo. Đoàn người kiệu vòng qua các phố, đưa chủ nhân đến thắp hương
cầu phúc ớ nhạc miếu ngoài cửa Toan Táo.
Vương Khánh cũng đi theo cỗ kiệu đến
Nhạc miếu. Ở đây người đi lễ đứng chật cả trong ngoài, nhưng khi Kiều Tú đến,
phần đông nhận ra các viên can biện, ngu hầu ở phủ của Đồng khu mật, ai nấy đều
đứng dẹp đường. Kiều Tú xuống kiệu, vào miếu thắp hương. Vương Khánh đã chen lên
trước, nhưng sợ người hầu của Kiều Tú quát đuổi, nên không dám đến gần, bèn giả
cách làm quen với người giữ miếu, sấn vào giúp đốt nến thắp hương, nhưng mắt
vẫn như dán vào thân hình Kiều Tú. Kiều Tú cũng ý tứ liếc mắt đáp lại.
Nguyên con trai của Sái Du tuy là
cậu ấm con cháu quan đại thần nhất phẩm, nhưng bẩm sinh bị tật ngớ ngẩn, Kiều
Tú hỏi thì bà mối cũng xác nhận là đúng. Kiều Tú vì thế chán nản, than thân
trách phận. Nay thấy Vương Khánh là gã phong lưu, khôi ngô tuấn tú, cô tiểu thư
lá ngọc cành vàng cũng động lòng xuân. Viên ngu hầu họ Đổng ở phủ khu mật phát
hiện ra Vương Khánh mắt la mày lét nhìn trộm Kiều tiểu thư, bèn giáng cho Khánh
một tát nảy đom đóm rồi quát:
-Mi không biết người ấy là con ai
sao? Mi chỉ là tên lính ở phủ Khai Phong mà cũng dám to gan chen vào đây? Đợi
ta về bẩm với tướng công thì cái đầu lừa của mi rời khỏi cổ!
Vương Khánh chẳng dám ho he một lời,
vội ôm đầu lủi ra khỏi miếu, miệng lẩm bẩm: "Thật mình ngu quá! Đúng là
đũa mốc chòi mâm son!"
Tối hôm ấy Vương Khánh hổ thẹn, im
hơi lặng tiếng về nhà. Ngờ đâu cô tiểu thư Kiều Tú, sau khi về phủ ngày đêm
tưởng nhớ, rồi cho nữ tì tiền bạc sai đi tìm Đổng ngu hầu để dò hỏi tỉ mỉ về
Vương Khánh. Con nữ tì ấy có quen người đàn bà họ Tiết, bèn bảo mụ ta dẫ Vương
Khánh đi lén lối cổng sau, ma chẳng hay người không biết, đế vụng trộm ái ân
với tiểu thư. Vương Khánh mừng quá, uống rượu suốt ngày, thật là chuyện nằm mơ
cũng cũng dám tưỡng đến!
Thời gian thấm thoắt ba tháng trôi
qua, đúng là "lạc cực sinh bi". Một hôm Vương Khánh nốc rượu say mềm,
trong khi nói chuyện với chánh bài quân Trương Bân đã lỡ lời nói lộ ra, vì thế
mà chuyện kín vỡ lở, tiếng đồn ra bên ngoài, không tránh khỏi lọt vào tai quan
khu mật. Đồng Quán cả giận, nghĩ cách hạch tội để đuổi Vương Khánh đi xa,
chuyện không cần phải nói.
Lại nói Vương Khánh vì việc bị phát
giác, không dám lui tới phủ khu mật nữa. Một hôm Vương Khánh nhàn rỗi ở nhà,
bấy giờ là hạ tuần tháng năm, thời tiết oi bức, Vương Khánh xách chiếc ghế đẩu
ra ngồi đầu hè hóng mát, vừa đứng dậy vào nhà lấy chiếc quạt, bỗng thấy bốn
chân ghế chuyển động, rồi đi từ ngoài hè vào trong nhà. Vương Khánh quát lớn:
-Quái thật! Nói đoạn co chân phải đá
tung chiếc ghế. Vương Khánh kêu lên: "Ái dà, đau quá!"
Nếu Vương Khánh không đá chiếc ghết
thì muôn sự có thể êm thấm, trót đá vào chiếc ghế, bao nhiêu tai ách gian truân
ập đến. Đúng là:
Trời có mây gió thất thường,
Người có ngày đêm họa phúc.
Chưa biết Vương Khánh đá chiếc ghế
ấy rồi vì sao mà kêu khổ, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 102 -
Vương Khánh Gian Dâm Mà Mắc Tội,
Đang nói chuyện Vương Khánh thấy
chiếc ghế đẩu tự nhiên như có qủy ám,bèn co chân đá tung,nhưng vì đá quá mạnh
bị vẹo xương sườn,ngã khụy xuống,miệng lẩm bẩm kêu “khổ quá”,một lúc lâu không
cử động được.Vợ Vương Khánh nghe kêu chạy ra xem,chỉ thấy chiếc ghế lăn một
bên,còn chồng thì đang nhăn nhó.Vợ bèn phát vào mông hắn một cái rồi nói:
-Mình làm gì đi suốt cả ngày,không
ngó đến nhà?Tối nay về được một lúc lại toan sinh sự chuyện gì?
Vương Khánh đáp:
-Mình đừng cười,tôi bị vẹo mạng
sườn, đang đau chết đi được!
Vợ Vương Khánh dìu hắn đứng
dậy.Vương Khánh vịn vào vai vợ,rụt đầu nghiến răng mà kêu “Ái dà đau quá!”.Vợ
Kháng mắng:
-Đồ vô tích sự! Ngày thường chỉ
thích chân đá tay đấm,bây giờ mới lòi cả ra.
Vợ hắn nói xong,biết là lỡ lời bèn
kéo tay áo che miệng cười.Vương Khánh tuy đang đau điếng,nghe vợ nói “lòi cả
ra” cũng không nhịn được,bật cười ha hả.Vợ hắn lại ghé sát tai nói nhỏ: “Của
khỉ,lại nghĩ đi đâu thế?.Nói đoạn dìu chồng lên giường nằm,bưng đến một đĩa
thịt băm viên,mo-(t bình rượu rồi đi ra đóng cửa,cài then,trở vào buông màn,
đập muỗi,rồi ngả lưng nằm với chồng.Vương Khánh vì đau mạng sườn nên không động
cựa gì được,chuyện ấy bất tất phải nói.
Đêm ấy không xảy ra chuyện gì.Sáng
hôm sau,Vương Khánh vẫn còn đau ê ẩm không vào phủ đánh trống điểm canh
được,chưa biết đối đáp với quan phủ thế nào.Gần trưa vợ hắn giục đi mua thuốc
cao,Vương Khánh gắng gượng ra phố đến nhà Tiền Lão Nhi mua hai lá cao như hồi
trước vẫn mua mỗi khi bị đánh.Lão bán thuốc nói:
-Đô bài muốn chóng khỏi phải uống
thêm hai thang thuốc cho tan huyết.
Nói xong,Tiền Lão Nhi lấy hai gói
thuốc đưa cho Vương Khánh.Vương Khánh móc túi lấy một thỏi bạc chừng hai ba
phân,xin tờ giấy bản gói lại.Lão chủ liếc nhìn thấy Vương Khánh gói thỏi bạc
thì vờ quay mặt đi.Vương Khánh trao gói giấy nói:
-Nếu tiên sinh không chê ít thì chỗ
bạc còn dư đem mua quả dưa mát mà ăn.
Lão bán thuốc nói:
-Ông đô bài cứ nói thế,chỗ quen biết
thì chừng ấy thuốc có gì mà phải tính toán.
Miệng nói vậy nhưng lão cầm ngay gói
giấy kéo ngăn tủ bỏ tọt vào;Vương Khánh cầm thuốc định đứng dậy ra về thì thấy
trên đường phố có gã thầy bói đang đi tới.Gã ta đầu chít khăn the quá trán,mặc
áo chùng vải,tay cầm ô,dưới ô treo lủng lẳng tờ giấy quảng cáo để bốn chữ lớn
“Tiên thiên thần số”.Hai bên dòng chữ ấy còn có mười sáu chữ nhỏ: “Kinh Nam Lý
Trợ,thập văn nhất số,tự tự hữu chuẩn,thuật thắng quản lộ”(Lý Trợ người miền nam
Kinh Châu,mười đồng một quẻ,lời lời đều đúng,diệu thuật hơn người).
Vương Khánh vốn đã có chuyện với
tiểu thư Kiều Tú,lại gặp việc kỳ quái hôm qua,nên cũng muốn hỏi một quẻ xem
sao.Nghĩ vậy Vương Khánh gọi:
-Mời Lý tiên sinh ghé vào đây chốc
lát!
Lý Trợ hỏi:
-Qúy quan có điều gì dạy bảo?
Miệng nói vậy,nhưng đôi mắt Lý Trợ
đã đảo nhanh nhìn Vương Khánh khắp một lượt.
Vương Khánh nói:
-Tiểu nhân muốn nhờ tiên sinh bói
giúp một quẻ.
Lý Trợ cụp ô bước vào hiệu
thuốc,chắp tay chào chủ quán:
-Xin phiền chủ nhà một chút.
Nói đoạn Lý Trợ luồn vào ống tay áo
lấy hộp xóc bằng gỗ tử đàn,mở ra lấy đồng tiền Đại Định đưa cho Vương Khánh rồi
nói:
-Quý quan ra đằng kia khấn trời đất
đi.
Vương Khánh cầm đồng tiền ngửa mặt
nhìn vầng mặt trời nóng gắt,khom lưng nhẩm khấn,nhưng vì đau quá không cúi
được,phải đỡ lưng,vòng tay,ngửa mặt mà khấn.Lý Trợ đứng nhìn nói khẽ để hỏi dò
lão chủ hàng thuốc:
-Gã này mua thuốc cao của tiên sinh
tất phải chóng khỏi lắm.Chắc là bị đánh đau?
Lão chủ đáp:
-Hắn ta bảo cái ghế ma quái thế nào
đó,hắn đá vào nên bị vẹo xương sườn,khi mới đến đây còn thở hổn hển,chỉ dán hai
lá cao của tôi là cúi được.
Lý Trợ nói:
-Xem chừng đau mạng sườn.
Vương Khánh khẩn trời đất xong trở
lại đưa đồng tiền cho Lý Trợ.Gã thầy bói hỏi họ tên Vương Khánh rồi lắc bộp
xóc,miệng nhầm khấn: “Ngày lành giờ tốt,trời đất mở mang,thánh nhân soạn
Dịch,thần minh giúp ngầm,muôn tượng bao la,kiền khôn hợp đạo.Cùng trời đất đức
cả,cùng nhật nguyệt sáng lòa,cùng bốn thời tuần tự,cùng qủy thần lành dữ.Nay có
quân tử họ Vương, ở phủ Khai Phong thành Đông Kinh xin với trời đất được mua
quẻ bói.Trung tuần tháng Giáp DẦN?NGÀY Ất Mão,kính thỉnh tiên sư Chu Văn
Vương,tiên sư Qủy Cốc Tử,các bậc chí thần chi thánh,chí phúc chí linh,chỉ giáo
mê hoặc,hiển ứng rỏ ràng”.
Lý Trợ lắc hợp xóc hai lần,rồi rút
quẻ bói gọi là quẻ “Thủy lôi truân”,xem động tĩnh của sáu hào,rồi hỏi:
-Quý quan muốn xem về sự gì?
Vương Khánh đáp:
-Hỏi về việc gai trạch
Lý Trợ lắc đầu nói:
-Qúy quan đừng trách,tiểu nhân xin
nói thật “Truân” có nghĩa là gian nan,quý quan sắp gặp tai nạn đấy.Có mấy câu
giải đoán sau đây quý quan nên ghi nhớ.
Lý Trợ cầm chiếc quạt giấy,phe phẩy
rồi nói:
-“Nhà cửa rồi tan tành,tai quái
chẳng yên lành.Cổ miếu hoặc cầu treo,bạch hổ cùng sói beo,gieo căn bệnh hiểm
nghèo,gia cảnh phận gieo neo”.Quý quan nên nhớ kiêng kỵ trong các ngày
hổ,long,kê,khuyển thì mới khỏi phiền nhiễu.
Bấy giờ Vương KHánh cùng ngồi với Lý
Trợ,chịu không nổi mùi thối ở chiếc quạt giấy phất cậy của gã thầy bói,bèn kéo
tay che mũi.Lý Trợ đọc xong lời đoán quẻ,lại nói với Vương KHánh:
-Tiểu nhân xin nói thật,quý quan ở
nhà lại còn chuyện ma quái gì nữa đấy,phải dời đi nơi khác ở,may ra mới vô
sự.Mai là ngày Bính Thìn,quý quan phải cẩn thận.
Vương Khánh thấy lão ta nói những
chuyện lành dữ đâu đâu,cũng không chú ý mấy,chỉ lẳng lặng nghe,rồi lấy tiền trả
công cho Lý Trợ.Gã thầy bói ra khỏi hiệu thuốc,giương ô đi về phía đông.Lúc ấy
có năm sáu người công sai ở phủ Khai Phong thấy Vương Khánh liền hỏi:
-Giờ này sao phó bài còn ngồi ở đây
tán gẩu?
Vương Khánh kể lại chuyện thấy ma
quái hiện hình rồi bị vẹo xươn sườn,mấy người kia nghe nói đều bật cười.Vương
Khánh nói:
-Quan phủ có hỏi,nhờ các quan anh
nói giúp cho thật chu toàn.
Mấy người công sai đáp:
-Được rồi việc ấy không khó;
Nói xong,ai đi việc nấy.
Vương Khánh về nhà bảo vợ sắc thuốc
uống.Vì muốn chóng lành,chưa đầy một buổi hắn đã uống cả hai thang.Muốn cho
thuốc chuyển nhanh,Khánh lại uống thêm dăm chén rượu nữa,rồi hai vợ chồng đi
ngủ.Sáng bạch hôm sau thức dậy,Vương Khánh thấy trong bụng đói meo,bèn đi hâm
rượu ngồi uống. Đến lúc ăn sáng,chưa xong bữa đã thấy bên ngoài có tiếng gọi:
-Đô bài có nhà không?
Vợ Vương Khánh ghé mắt nhìn qua kẽ
vách,bảo chồng:
-Hai người công sai trong phủ.
Vương Khánh nghe nói thế sững
người,vội đặt bát xuống,lau miệng chạy ra,vòng tay hỏi:
-Hai vị quá bộ đến,có việc gì chỉ
giáo cho tiểu nhân?
Hai người công sai nói:
-Đô bài làm ăn giỏi quá đấy!Mới sáng
sớm mà mặt mũi hồng hào xuân sắc ghê.Sáng nay quan phủ điểm danh không thấy đô
bài đâu đã nổi trận lôi đình.Bọn anh em chúng tôi đã nói đô bài đau mạng
sườn,nhưng quan lớn không tin.Quan liền đưa thẻ lệnh,sai hai người chúng tôi
mời đô bài đến trả lời.
Nói đoạn giơ thẻ lệnh cho Vương
Khánh xem.Vương Khánh nói:
-Mặt đang đỏ bừng thế này làm sao
gặp quan lớn được?Xin hai vị nán chờ cho một lát thì tốt.
Hai người công sai nói:
-Bọn tôi không dám,quan phủ đang
chờ,về trể thì bọn tôi liên lụy,bị ăn đòn. Đi mau thôi!
Nói đoạn hai vị công sai dìu Vương
Khánh đi luôn.Vợ Vương Khánh vội chạy theo thấy chồng đã bị dẫn ra khỏi cổng.
Hai người công sai dìu Vương Khánh
đến phủ Khai Phong,lúc ấy quan phủ doãn đang ngồi trên ghế tựa bọc da hổ ở giữa
công đường.Hai công sai dắt Vương Khánh đến tới bẩm rằng:
-Vâng lệnh quan lớn,chúng tôi đã bắt
tên Vương Khánh về đây
Vương Khánh gắng gượng lạy bốn
lạy.Quan phủ quát:
-Vương Khánh,ngươi là phận làm
lính,sao dám chơi bời lười biếng,bỏ phiên hầu không đến điểm danh?
Vương Khánh bẩm với quan phủ mình
thấy ma hiện, đá phải chiếc ghế bị đau mạng sườn,rồi nói:
-Quả thật là con bị đau, đứng
ngồi,nhắc chân động tay không được chứ không dám lười biếng.Mong quan lớn
thương tình tha tội cho.
Quan phủ nghe xong,thấy Vương Khánh
đỏ mặt lại quát:
-Tên Vương Khánh kia,ngươi lại là
tay bợm rượu,chuyên uống say rồi làm những việc xằng bậy không coi phép công ra
gì.Hôm nay ngươi lại ngụy tạo yêu toan lừa dối thượng quan!
Nói đoạn quát quân lính nọc Vương
Khánh ra đánh.Vương Khánh không thể nào biện giải được,bị đánh rách da nát
thịt,buộc phải nhận tội ngụy tạo yêu ngôn mê hoặc dân chúng,ngầm mưu làm điều
bất chính.Bị tra khảo đau đớn,chết đi sống lại mấy lần,Vương Khánh không tài
nào chịu nổi, đành phải cung khai nhận tội.Quan phủ ghi khẩu cung của Vương
Khánh,rồi gọi lính ngục đem Vương Khánh đi đóng gông vào cổ,giam vào lao tử tù
để xử tội ngụy tạo yêu ngôn,mưu làm điều bất hợp pháp.Lính ngục vâng mậnh
khiêng Vương Khánh vào nhà lao tử tù.
Nguyên là Đồng Quán đã bí mật sai người
đến nhờ quan phủ Khai Phong tìm cớ trị tội để tống khứ Vương Khánh đi nơi
khác.Vừa may lại gặp câu chuyện ma quái này.Bấy giờ người trong phủ chẳng ai
không biết chuyện vụng trộm của Kiều Tú,rỉ tai bảo nhau: “Vương Khánh phạm tội
phen này thì chỉ có chết”.Chuyện lọt cả đến tai Sái Kinh,Sái Du.Cha con nhà này
bàn tính với nhau,nếu đem Vương Khánh ra xử chém thì càng lộ ra là chuyện có
thật,tiếng xấu đồn xa! Vì vậy cha con Sái Kinh sai một viên tâm phúc đến bàn
riêng để quan phủ chỉ xử Vương Khánh ở mức thích án chữ đi đầy biệt xứ,như thế
mới bịt được tai tiếng.Mặt khác,Sái Kinh,Sái Du chọn ngày lành để làm lễ cưới
đón Kiều Tú về nhà chồng,vừa là để che bớt điều xấu hổ cho Đồng Quán,vừa để dập
tắt lời bàn tán của người ngoài.
Hôm ấy, đúng vào ngày Tân Dậu (ngày
gà)quan phủ sai lính ngục dẫn Vương Khánh lên trước công đường sai tháo
gông,phạt đánh hai mươi trượng,gọi thợ thích chữ vào mặt, đem đi đầy ở lao
thành Thiểm Châu thuộc đất Tây Kinh.Quan phủ ra lệnh thay gông mới có nữa vòng
sắt nặng mười cân,dán niêm phong, áp triện vào văn thư,cho hai người công sai
là Tôn Lâm và Hạ Cát áp giải Vương Khánh đi Thiểm Châu.
Bọn Tôn Lâm dẫn Vương Khánh rời phủ
đường ra ngoài phố thì gặp Ngưu Đại Hộ là bố vợ của Vương Khánh.Ngưu Đại Hộ mời
Tân Lâm,Hạ Cát dẫn Vương Khánh vào quán rượu ở phố Nam Nhai.Ngưu Đại Hộ gọi tửu
bảo đem rượu thịt đến.Rượu cạn vài tuần,Ngưu Đại Hổ lấy ra một gói bạc vụn,nói
với Vương Khánh:
-Có ba mươi lạng bạc đưa cho ngươi
chi tiêu dọc đường.
Vương Khánh chìa tay nhận túi bạc
nói:
-Xin đa tạ nhạc phụ.
Nhưng Ngưu Đại Hổ đẩy tay Vương
Khánh ra mà nói:
-Dễ dàng thế! Bọn ta cũng chẳng có
tiền bạc đâu mà cho ngươi.Ngươi bị đầy đi Thiểm Châu, đường xa ngàn dặm,biết
bao giờ mới được về?Ngươi hú hí với con gái nhà khác,bỏ lửng vợ ngươi! Nay
ngươi đi đầy thì vợ ở nhà ai nuôi?Con cái cũng không có,gia tư điền sản cũng
không.Sau khi ngươi đi, ở nhà ta sẽ cải giá cho vợ ngươi.Ngươi cần viết tờ đơn
thuận nguyện để sau này khỏi sinh tranh chấp rắc rối.Có chịu như thế thì ta mới
đưa bạc cho.
Vương Khánh xưa nay quen tiêu phá
của,nghĩ bụng: “Ta trong túi chẳng có lạng bạc nào,lấy gì tiêu đường từ đây đến
Thiểm Châu?”Suy đi nghĩ lại mãi,rồi thở dài nói:
-Thôi được xin viết đơn thuận tình.
Ngưu Đại Hộ một tay nhận tờ đơn của
Vương Khánh,tay kia trao túi bạc,rồi ra về.
Vương Khánh theo hai người công sai
về nhà thu xếp tay nải quần áo.Lúc ấy nhà hắn cửa đóng then cài,sau mới biết
Ngưu Đại Hộ đã đưa vợ hắn về bên nhà rồi.Vương Khánh bèn nhờ nhà láng giềng cho
mượn chiếc búa,phá khóa cửa mà vào.Bước vào nhà thấy quần áo gương lược của vợ
đều đem đi cả.Vương Khánh vừa giận vừa buồn,tình cảnh thật thê thảm.Vương Khánh
bèn nhờ người hàng xóm họ Chu sang sửa soạn chút ít đồ ăn thịt nhắm để mời hai
người công sai,rồi lấy mười lạng bạc đưa cho hai người nói:
-Tiểu nhân bị đánh đòn đau quá,không
đi được,muốn xin hai vị cho nghĩ ngơi vài ngày rồi hãy lên đường.
Bọn Tôn Lâm,Hạ Cát đã nhận bạc nên
cũng chiều ý Vương Khánh,chỉ sợ Sái Du sai người tâm phúc đến giục lên
đường.Vương Khánh bèn gọi người đến bán hết đồ đạc,trả nhà thuê cho chủ nhà là
Hồ viên ngoại.
Bấy giờ cha Vương Khánh là Vương
Hoạch bị mù lòa cả hai mắt, đã ở riêng nơi khác,mỗi khi Vương Khánh đến đều bị
cha chửi mắng.Hôm ấy nghe tin Vương Khánh bị quan xử tội thích mặt đi đầy,Vương
Hoạch cũng chẳng buồn thương xót,bèn sai thằng nhỏ dìu đến nhà Vương
Khánh.Vương Hoạch nói:
-Khánh ơi,con không chịu nghe cha
dạy dỗ mới đến nông nổi này.
Nói xong,hai mắt mù lòa ứa lệ.Vương
Khánh từ thuở nhỏ chưa từng một lần nói tiếng “Thưa cha”,Nay gặp cảnh cửa nhà
tan nát, đội nón ra đi,trong lòng thấy nghẹn ngào chua xót,thốt lên thành lời:
-Cha ơi! Nay con bị quan ti xử
tội,nào ngờ lão Ngưu Đại Hộ tệ bạc,bắt con phải giết giấy bỏ vợ con mới chịu
đưa cho ít tiền tiêu đường.
Vương Hoạch nói:
-Ngươi thường ngày chỉ biết yêu
chiều vợ,có hiếu với nhạc gia,nay họ đối xử với ngươi như thế nào?
Vương Khánh nghe câu nói sỗ sàng như
thế tức giận uất người,chẳng thèm nhìn đến cha già nữa,quay lại sửa soạn tay
nải theo hai người công sai ra đi.Vương Hoạch giẫm chân đấm ngực than vãn:
-Lẽ ra ta không nên đến nhìn mặt
thằng con phản nghịch ấy mới phải.
Nói đoạn vịn thằng nhỏ đi về nhà.
Lại nói Vương Khánh cùng Tôn Lâm,Hạ
Cát rời Đông Kinh,tìm thuê nhà trọ ở một nơi vắng vẻ để chữa trị cho Vương
Khánh.Hơn mười ngày vết thương đã đỡ đau,hai người công sai bèn giục Vương
Khánh lên đường đi Thiểm Châu.
Bấy giờ là thượng tuần than&g
sáu,thời tiết nóng nực,mỗi ngày chỉ đi được bốn năm chục dặm, đi đường không
tránh khỏi cực khổ nằm đất ăn sương. Đi hơn nửa tháng thì đến núi Tung Sơn.Một
hôm đang lúc đi đường,Tôn Lâm chỉ ngọn núi ở phía tây mà nói:
-Quả núi ấy gọi là núi Bắc Manh
thuộc đất Tây Kinh!
Ba người vừa đi vừa nói chuyện.Chưa
hết buổi sáng đã đi được hơn hai chục dặm đường.Phía đông núi Bắc Manh có một
thị trấn,dân quê các làng xung quanh tấp nập trẩy chợ.Về mé đông thị trấn nhà
cửa thưa thớt,từ xa thấy rõ một hàng ba cây bách lớn.Dưới bóng cây râm mát,một
đám đông người đang chen vai thích cánh đứng vây quanh một người mãi vỏ.Người
ấy thân hình cao lớn,mình trần trùng trục đang quát thét múa gậy ào ào.Hai
người công sai và Vương Khánh đến bên gốc câydừng chân ngồi nghĩ.Vương Khánh
mặt mũi nhễ nhại,quần áo ướt đẫm mồ hôi,trên cổ lại mang gông,nhưng vẫn cố chen
vào tận nơi,kiễng chân đứng xem mãi võ.Xem một lúc,Vương Khánh buột miệng nói:
-Đánh như thế chỉ để xem cho đẹp
thôi!
Người mãi võ say sưa với nước gậy
đang đi,chợt nghe câu nói của Vương Khánh,bèn dừng tay đưa mắt nhìn ra.Thấy
Vương Khánh là kẻ phạm tội bị đầy,người kia tức giận mắng:
-Thằng giặc bị xung quân kia,tài nghệ
thương bổng của ta xa gần đều biết,sao ngươi dám nói năng khinh mạn?
Nói đoạn người kia quăng gậy,nắm tay
đấm vào mặt Vương Khánh.Vừa lúc ấy trong đám đông có hai người trẻ tuổi bước
đến chặn tay người mãi võ mà nói:
-Không được đụng đến người ta!
Nói đoạn quay lại hỏi Vương Khánh:
-Túc Hạ hẳn phải là tay cao thủ?
Vương Khánh đáp:
-Tiểu nhân nói chơi một câu,không
ngờ làm cho người kia nổi giận.Nói về thương bổng thì tiểu nhân cũng có hiểu
biết sơ qua.
Người mãi võ tức giận bảo Vương
Khánh:
-Ngươi có dám đọ tài với ta?
Hai người trẻ tuổi nói với Vương
Khánh:
-Nếu ông dám so gậy và hạ được
hắn,bọn ta sẽ biếu ông hai quan tiền mọi ngưởi mới thu góp tại đây.
Vương Khánh cười đáp:
-Cũng được thôi!
Nói đoạn Vương Khánh đến mượn chiếc
gậy của Hạ Cát,cởi áo ngoài đã ướt đẫm mồ hôi,xắn cạp quần cầm gậy đánh thử
trên tay.Mọi người nói:
-Đeo gông trên cổ làm sao mà đánh
được!
Vương Khánh nói:
-Có thế mới là hiếm thấy. Đeo gông
mà đánh thắng được hắn mới kể là võ nghệ cao cường.
Mọi người nói:
-Ngươi đeo gông mà đánh thắng được
thì hai quan tiền ấy nhất định sẽ thuộc về ngươi.
Đám đông rẽ lối cho Vương Khánh đi
tới.Người mãi võ cũng đã cầm gậy,chụm chân đứng tấn rồi quát: Đến.
Vương Khánh nói:
-Xin các vị lượng thừ đừng chê cười.
Thấy Vương Khánh vẫn phải đeo gông
nặng trên cổ,người mãi võ tỏ ý coi thường,bèn chuyển bước đi gậy theo thế “mãng
xà thôn tượng”(trăn nuốt voi).Vương Khánh cũng chuyển bước thành thế “Thanh
đĩnh điểm thủy”(rắn lục chờm nước).Bỗng người mãi võ quát to một tiếng,rồi nhẩy
đến vụt gậy đánh xuống.Vương Khánh bườc lùi một bước,người mãi võ liền sấn
tới,lại một lần nữa nâng gậy vụt xuống đầu địch thủ.Vương Khánh nghiêng người
ngó sang bên trái.Người mãi võ đánh hụt,chưa kịp thu gậy về,liền bị Vương Khánh
vọt người đưa ngang một gậy đánh đúng cổ tay,gậy rơi xuống đất.Cũng may chiếc
gậy còn thương tìnhnên cánh tay hắn không bị gẫy.Người xem thích thú cuưòi
vang.Vương Khánh bước lên cầm tay người mãi võ mà nói:
-Trót chạm vào đại ca,xin bỏ qua
cho;
Người mãi võ bị đánh đau ở tay phải,vội
cúi xuống giơ tay trái nhặt lấy hai quan tiền.Mọi người kêu ầm lên:
-Người kia kém tàilúc nãy đã ai
thắng thì trao tiền cho người ấy.
Hai người trẻ tuổi nói chuyện với
Vương Khánh lúc đầu,từ trong đám đông chen đến giật lấy hai quan tiền đưa cho
Vương Khánh,nói:
-Mời túc hạ ghé vào tệ trang nói
chuyện.
Người mãi võ loè bịp không được,
đành thu xếp khăn gói,thương bổng đi về phía thị trấn.Người đứng xem cũng tản
ra về.
Hai người trẻ tuổi mời Vương Khánh
và hai công sai về nghĩ ở trang viện mình.
Ba người đều đội mũ rộng vành, đi về
phía nam qua hai khu rừng nhỏ,rồi đến thôn ấp.Trong rừng có một trang viện
lớn,xung quanh xây tường đất,bên ngoài là rặng liễu có đến vài ba trăm cây lớn
ra rả tiếng ve kêu.Phía trong trang trại,tiếng chim sẻ kêu ríu rít khắp mái
hiên.Hai người trẻ tuổi mời Vương Khánh lên thảo đường.Ba người cởi giày, áo
ướt mồ hôi,rồi chia ngôi chủ khách cùng ngồi.Trang chủ nói:
-Các vị từ xa tới,chúng tôi nghe nói
giọng Đông Kinh.
Vương Khánh xưng họ tên và kể lại
việc mình bị quan phủ doãn Khai Phong hãm hại.Sau đó Vương Khánh hỏi họ tên hai
vị chủ nhân.Hai người cả mừng.Nguời ngồi ghế trên nói:
-Tôi họ Cung,tên là Đoan,còn đây là
em ruột tôi,tên là Chính. Ông bà cha mẹ chúng tôi sống ở đây,vì thế thôn này
gọi là Cung Gia thôn thuộc huyện Tân An đất Tây Kinh.
Nói xong Cung Đoan sai trang khách
lấy quần áo sạch cho ba người đến phòng giữa,tắm rửa rồi ra thảo đường ăn bữa
điểm tâm.Tiếp đó,trang chủ sai giết gà vịt,nấu nướng món ăn bày tiệc rượu khoản
đãi bọn Vương Khánh.Các trang khách lại dọn tiệc mới,trước hết bưng ra một đĩa
tỏi bóc đầu,một đĩa hành cũ thái mỏng,sau đó là các món rau quả tươi,cá,thịt
gà,thịt vịt...Cung Đoan mời Vương Khánh ngồi ghế trên,hai người công sai ngồi ở
ghế dài kê phía dưới,anh em Cung Đoan ngồi ghế đối diện.Các trang khách đứng
hầu rót rượu.Vương Khánh cảm tạ nói:
-Tiểu nhân chỉ là kẻ tội phạm bị đầy
sung quân,may được hai vị quá yêu,tiếp đãi ân cần,thật không xứng đáng tấm
thịnh tình của hai vị.
Cung Đoan nói:
-Túc hạ không nên nói thế,người ta
ai là kẻ giữ được hoàn toàn vô sự,mà đi đường có ai mang cơm rượu theo đâu?
Đến khi ăn uống no say,Cung Đoan mới
đem chuyện ra nói:
-Thôn nhỏ này của chúng tôi cũng có
đến hơn hai trăm nhà, đều suy tôn anh em chúng tôi làm chủ.Anh em tôi cũng có
biết các môn thương bổng,chế ngự được mọi người.Tháng hai năm nay,bên thôn đông
làm lễ tế thần,có diễn kịch hát và các trò vui.Anh em tôi cũng sang chơi bên
đó,vì việc đánh bạc cãi nhau với người thôn ấy tên là Hoàng Đạt,bị tên ấy gây
chuyện đánh nhau.Anh em chúng tôi hai người cũng không đánh nổi hắn.Tên Hoàng
Đạt ấy trước mặt mọi người vẫn khoe khoang sức mạnh,anh em chúng tôi không làm
gì được hắn, đành phải im hơi nuốt giận.Vừa rồi anh em chúng tôi thấy đô bài có
phép đánh gậy rất chắc chắn và kính miếng nên anh em tôi muốn kính đô bài làm
sư phụ,mong sư phụ chỉ giáo cho,anh em tôi xin hậu tạ.
Vương Khánh nghe xong cả mừng,nhưng
cũng từ chối lấy lệ.Anh em Cung Đoan bèn sụp lạy tôn Vương Khánh làm thầy. Đêm
ấy mọi người ăn uống say sưa đến tận khuya,trời mát mới đi nghỉ.
Sáng sớm hôm sau khi trời chưa
nắng,Vương Khánh ra sân đập lúa dạy bài đánh gậy cho Cung Đoan,bỗng thấy một
người chắp tay sau lưng từ bên ngoài đi vào quát:
-Tên tù phạm ở đâu đến đây khoe
khoang võ nghệ?
Hãy biết trước rằng:chỉ vì có người
ấy đi vào mà Vương KHánh rắp mưu gây đại loạn,mà Cung Đoan cũng kết mối thù
sâu.
Đúng là:
Họa dấy theo sóng nổi,
Nhục chuốc bởi bạc bài.
Chưa biết người chắp tay đi vào
trang viện của Cung Đoan là ai,xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 103 -
Vì Em Vợ,triêu Quản Doanh Mất Mạng
Đang nói chuyện Vương Khánh ở trang
viện của Cung Đoan tại Cung gia trung,nhân buổi sáng mặt trời chưa lên,gió sớm
mát mẻ,ra dưới gốc liễu bên sân đập lúa dạy bài đánh gậy cho anh em Cung
Đoan,bỗng thấy một người to lớn, đầu hói không chít khăn,chỉ gióc đuôi sam,mặc
quần lụa mỏng áo cánh vải Lôi Châu,chân đi giày cỏ mỏng,tay cầm quạt cói ba
nan,ngước mắt nhìn rồi chắp tay sau lưng bước vào sân.
Ngày hôm qua,biết chuyện có tên tội
phạm đánh bại kẻ mãi võ ở chợ thị trấn Manh Đông,người ấy sợ anh em Cung Đoan
học được miếng gậy hiểm,nên vừa thấy Vương Khánh đã cất tiếng mắng rằng:
-Ngươi là kẻ tội phạm đi đày sao dám
đánh người?Lại còn đến đây lòe bịp anh em nhà này?
Vương Khánh không dám trả lời chỉ
đáp mình là bà con của anh em họ Cung.
Nguyên người này chính là Hoàng Đạt
ở thôn Đông.Hắn ta nhân buổi sáng mát mẻ đi dạo, định đến đòi nợ bạc nhà Liễu
đại lang ở cuối Cung Gia Thôn.Hắn ta thường ngày vẫn quen coi thường anh em họ
Cung,nhân đi qua nghe tiếng hô quát,bèn tự tiện ghé vào.Cung Đoan thấy Hoàng
Đạt dẫn xác đến thì hầm hầm tức giận,,không sao kìm được,bèn lên tiếng mắng
rằng:
-Thằng khốn kiếp lạc loài kia, đã ăn
quỵt tiền đánh bạc của ta còn dám vác xác đến đây trêu tức ta.
Hoàng Đạt cả giận mắng lại:
-Mi dám hổn xược với ta?
Nói đoạn vứt chiếc quạt cói,giơ nắm đấm sấn vào toan đánh
vào mặt Cung Đoan.Vương Khánh nghe hai người to tiếng với nhau thầm đoán gã kia
là Hoàng Đạt,bèn giả vờ đến khuyên can,rồi bất ngờ hất cổ lăng chiếc gông vào
mạng sườn hắn.Hoàng Đạt đau điếng,loạng choạng ngã nhào không gượng dậy
nổi,thâm tím mặt mũi chân tay.Hoàng Đạt bị một phen no đòn,bị lột xé hết quần
áo,chỉ biết kêu rên rỉ:
-Đánh nữa đi! Đánh nữa đi!
Thấy Hoàng đạt trên người không còn mảnh vải che thân,hai
người công sai Tôn Lâm,Hạ Cát phải khuyên can mãi Cung Đoan mới chịu dừng
tay.Hoàng Đạt bị đánh nhũn người,chỉ còn thở thoi thóp,không gượng dậy
được.Cung Đoan bèn sai ba bốn trang khách khiêng đến vứt trên bãi cỏ giữa đường
tới thôn Đông.Hoàng Đạt nằm cong queo ở đó phơi nắng ngót nữa ngày cho đến khi
người hàng xóm đến cắt cỏ trông thấy mới dìu về.Hoàng Đạt nghĩ ngơi cho lại sức
rồi nhờ người viết đơn kiện trình lên quan huyện Tân An,chuyện không cần nói
đến.
Lại nói anh em Cung Đoan làm náo động cả buổi sáng rồi
sai trang khách dọn cơm rượu mời Vương Khánh điểm tâm.Vương Khánh nói:
-Tên khốn kia thế nào cũng đến đây báo thù!
Cung Đoan nói:
-Nhà hắn chỉ có một mụ vợ,láng giềng thường ngày bị bắt
nạt nên sợ hãi.Nay thấy thằng khốn ấy bị đánh nhừ đòn,chẳng ai hơi đâu mà dây
với hắn.Nếu hắn chết thì chịu bồi thường mạng và khai là do trang khách lỡ
tay,dù quan ty có xét cũng không đáng ngại.Nếu hắn không chết thì chỉ là việc
kiện tụng do đôi bên đánh nhau.Hôm nay anh em tiểu đệ trả thù được hắn là nhờ
có sư phụ giúp cho.Sư phụ cứ uống rượu,yên tâm ở lại đây dạy cho anh em bọn tôi
các môn thương bổng,anh em chúng tôi xin hết lòng đáp tạ.
Cung Đoan nói xong lấy ra hai đỉnh bạc,mỗi đỉnh năm lạng
biếu hai người công sai,xin họ thư thả cho ít ngày.Tôn Lâm,Hạ Cát đã nhận bạc
nên cũng đành chiều ý.Trong suốt hơn mười hôm,Vương Khánh truyền hết các miếng
gậy hiểm cho anh em Cung Đoan,Cung Chính.Sau vì hai người công sai thúc giục
lên đường,lại nghe nói Hoàng Đạt nhờ người kiện lên quan huyện,Cung Đoan bèn
lấy năm mươi lạng bạc biếu Vương Khánh làm lộ phí đi Thiểm Châu.Ba người dậy từ
nửa đêm thu xếp bao gói tay nải,ngay khi trời chưa sáng hẳn đã rời trang viện
ra đi,.Cung Đoan bảo Cung Chính đem thêm ít bạc nữa đến biếu Vương Khánh và
cùng đi tiển.Chuyện trên đường không có gì đáng nói.
Một ngày kia,ba người đã đến Thiểm Châu,Tôn Lâm,Hạ Cát
dẫn Vương Khánh vào sân phủ đường rồi lên sảnh trình văn thư của quan phủ doãn
Khai Phong,Quan châu doãn xem văn thư rồi cho tiếp nhận Vương Khánh, áp triện
vào văn thư phúc đáp trao cho hai người công sai.Bôn Tôn Lâm,Hạ Cát lên đường
trở về.Châu Doãn liền viết trát sai dẫn Vương Khánh đến doanh Lao thành.Công
sai đôi bên làm thủ tục giao nhận,cũng không có chuyện gì phải nói.
Trước đó Cung Chính đã nhờ người quen thay Vương Khánh
đem một ít bạc đến biếu các viên quản doanh,sái bát.Viên quản doanh ấy họ
Trương,tên đôi là Thế Khai đã nhận tiền hối lộ của Cung Chính bèn sai tháo gông
cho Vương Khánh,cũng không đánh đòn ra oai hoặc sai phái phục dịch cho việc
vặt,chỉ phát Vương Khánh xuống buồng giam riêng cho tùy ý muốn làm gì thì
làm.Thấm thoát qua hai tháng,trời đã sang thu.Bỗng một hôm Vương Khánh ngồi rỗi
trong buồng,có tên quân vào nói:
-Quan quản doanh cho gọi ông lên.
Vương Khánh theo tên quân đến phòng điểm diện lạy chào
quản doanh.Trương Thế Khai nói:
-Ngươi đến đây cũng đã lâu nhưng ta chưa từng sai phái
ngươi việc gì,nay ta muốn mua một chiếc cung sừng Trần Châu.Châu ấy vốn thuộc
đất Đông Kinh,ngươi là người Đông Kinh tất biết thiệt giả.
Nói xong rút trong tay áo ra một gói giấy đưa cho Vương
Khánh và nói:
-Trong gói này có hai lạng bạc,ngươi cầm đi mua rồi về
báo cho ta biết.
Vương Khánh nói:
-Tiểu nhân xin vâng lời quan lớn.
Vương Khánh nhận bạc trở về buồng riêng mở gói giấy ra
xem thấy hai nén bạc hoa trắng xóa, đem đổi tiền lẻ cũng có thể đổi ra được bốn
phân.Vương Khánh ra phố, đến hàng bán cung ở phố chợ phía bắc phủ chọn mua một
chiếc cung sừng Trần Châu thật tốt,giá chỉ một lạng bảy phân.Xong việc Vương
Khánh trở về thì TRương quản doanh đã bận việc đi vắng.Vương Khánh bèn chuyển
cho người hầu của quan phủ đưa vào,lấy làm thích thú vì còn thừa được ba phân
bạc lẻ.Ngày hôm sau Trương thế Khai lại gọi Vương Khánh lên phòng điểm diện
bảo:
-Hôm qua ngươi giúp ta rấy được việc,mua được cây cung
rất tốt.
Vương Khánh nói:
-Tương công nên treo cung hong khói luôn luôn thì mới
tốt.
Trương Thế Khai nói:
-Ta hiểu rồi.
Từ đó,hàng ngày quản doanh sai Vương Khánh đi mua bán
thức ăn vật dụng,nhưng không giao tiền mặt như trước,mà cấp cho Vương Khánh một
quyển sổ,chi tiêu hết bao nhiêu thì ghi vào đó.Các nhà hàng ai là người ưng bán
chịu?Vương Khánh đành phải lấy tiền riêng mua sắm các thứ cho quản doanh.Nhưng
Trương Thế Khai lần nào cũng đánh mắng,chê đủ chê thiếu. Đến hơn mười
ngày,Vương Khánh đem sổ trình lên xin quản doanh trả nợ,quản doanh vẫn không
trả hào nào.Sau hơn một tháng,Vương Khánh bị quản doanh khi đánh năm đòn,khi
cho ba gậy,tộng cộng đến hơn ba trăm roi,hai bắp chân sưng vù.Số bạc năm mươi
lạng của Cung Đoan cho dạo trước xuất ra mua hàng cho quản doanh đã hết sạch.
Một hôm Vương Khánh đến phường Đông gần bia Vũ công ở
phía tây doanh,vào hàng bán thuốc hoàn tán của thầy lang họ Trương mua mấy lá
cao dán vết thương.Thầy lang họ Trương vừa dán thuốc vừa nói chuyện với Vương
Khánh:
-Em vợ của Trương quản doanh là Bàng đại lang,dạo trước
cũng đến đây mua thuốc cao đế dán cổ tay bị đau. Đại lang nói là ông ta bị ngã
ở trấn Manh Đông,nhưng tôi xem chỗ cổ tay thì hình như vết đánh.
Vương Khánh nghe nói thế vội hỏi:
-Tiểu nhân ở trong doanh sao chưa từng biết mặt Bàng đại
lang là ai cả?
Thầy thuốc họ Trương đáp:
-Bàng đại lang tên là Nguyên là em ruột vợ bé của Trương
quản doanh,Bàng đại lang thích cờ bạc,ham thương bổng,thường khi thiếu thốn vẫn
được bà chị giúp cho.
Vương Khánh nghe câu chuyện ấy,chín phần đoán chắc: “Bàng
Nguyên chính là người bị ta đánh ngã dưới gốc liễu ở Cung Gia thôn,trách gì
Trương Thế Khai bới móc tìm cách hành tội mình”.Vương Khánh cáo từ ông chủ hiệu
thuốc rồi trở về doanh,tìm cách săn đón tên người hầu của quản doanh,mua rượu
thịt mời hắn ăn uống,lại cho thêm tiền bạc,rồi dần dà hỏi dò hắn cặn kẽ về Bàng
Nguyên.Tên hầu ấy cũng nói những điều giống như lời ông chủ hiệu thuốc,nhất là
có hai câu nói rất rõ ràng: “Bàng Nguyên dạo trước bị đại ca đánh đau.Trước mặt
quản doanh,hắn ta thường tỏ ra căm tức đại ca.Ngón gậy độc của đại ca đến nay
hắn chữa cũng chưa khỏi”.
Đúng là:
Hiếu thắng khoe cường thị họa thai,
Khiêm hòa thủ phận tự vô tai.
Chỉ nhân nhất bổng thành cừu khích,
Như kim gia lợi phụng hoàn lai.
Hiếu thắng khoe tài chuốc họa ngay,
Khiêm nhường biết phận thế mà hay.
Chỉ vì một gậy nên thù địch
Thói đời ơn giả,oán khôn vay
Bấy giờ Vương Khánh hỏi chuyện tên hầu của quản doanh
xong,trở về phòng riêng than thở: “Đúng là chẳng sợ quan,chỉ sợ quản chỉ vì
buộc miệng nói động đến hắn,rồi lại đánh hắn bị thua,ai biết đâu hắn lại là em
vợ quản doanh Vì vậy quản doanh mới tìm cách trị mình! Phải trốn đi thì mới yên
thân được! Ra sao về sau sẽ liệu”.
Vương Khánh lén ra phố mua một con dao nhọn,giắt vào
người để đề phòng bất trắc. Được hơn mười ngày không thấy quản doanh gọi đến
hỏi,vết thương cũng lành dần.Bỗng một hôm Trương quản doanh lại gọi Vương Khánh
lên sai đi mua hai tấm lụa,Vương Khánh đã biết ý,không dám thoái thác,vội ra
phố mua ngay đem về.Trương quản doanh đang ngồi ở phòng điểm diện,Vương Khánh
bước vào đem lụa trình lên.Trương Thế Khai đảo mắt liếc qua,chê chọn màu không
đẹp,khổ ngắn,kiểu hoa đã cũ rồi mắng:
-Tên này to gan thật.Ngươi là tên tù phạm, đáng lẽ phải
làm những việc khiêng đá gánh nước hoặc bị gông cùm nhốt trong ngục cấm cố.Nay
ta sai ngươi làm công việc chạy đây chạy đó,thế là cất nhắc cho người lắm
rồi.Nhưng ngươi là thằng giặc cứng đầu,không biết thế nào là tốt xấu!
Vương Khánh bị mắng vuốt mặt không kịp,chỉ biết cúi đầu
lạy lia lịa xin tha tội.Trương Thế Khai quát:
-Cho ngươi khất một trận đòn,phải mau đem lụa đi đổi tấm
khác,hẹn cho tối nay phải đem về.Nếu chậm trễ thì cứ liệu hồn!
Vương Khánh đành cởi áo đến cửa hàng cầm đồ đổi lấy hai
quan tiền phụ thêm vào đổi tấm khác đem về doanh.Loanh quanh đi lại mãi đến lúc
lên đèn mới về đến nơi.Không may cửa doanh đã đóng.Người lính trực nói:
-Đêm hôm thế này ai dám cho ngươi vào?
Vương Khánh phân trần rằng:
-Đây là việc nhà của quản doanh,chính quan quản sai tôi
đi.
Người lính trực vẫn không chịu nghe.Vương Khánh trong
người còn chút ít tiền đành đưa cho tên ấy,lằng nhằng một hồi lâu hắn mới chịu
cho vào.
Ôm tấm lụa trong tay,Vương Khánh chạy vù vào trước cổng
nhà quản doanh,người giữ cổng nói:
-Quan quản cãi nhau với bà lớn,hiện đang ở bên nhà bà
bé.Bà lớn ghê gớm như thế,ai dám nhắn hộ ngươi để chuốc họa vào thân!
Vương Khánh nghĩ bụng: “Hắn ta đã hẹn tối nay đem lụa về
trình,thế mà còn gây rắc rối cho ta nữa.Ngày mai tránh sao khỏi trận đòn,chẳng
phải cố ý hại ta là gì?Cái tính mạng ta đây hẳn đã rơi vào tay thằng khốn kiếp
ấy.Ta đã bị hắn đánh ba trăm đòn, để trả thù một gậy cũng đủ lắm rồi!Trước hắn
đã nhận của Cung Chính bao nhiêu là bạc,thế mà trở mặt hành hạ ta!”.
Vương Khánh ngổ ngáo từ thuở bé,cha mẹ cũng không dám nói
động. Đến bây giờ bản tính thù nghịch bùng lên.Vương Khánh nghĩ bụng: “Đúng như
người ta thường nói: “Giận việc nhỏ không quân tử,không mưu độc chẳng trượng
phu”. Đã không thì thôi, đã làm phải làm cho trót!Chờ đến quá đầu canh một,quân
lính và tù phạm trong doanh đã ngủ cả.Vương Khánh rón chân đi khẽ đến phía sau
dãy nhà trong trèo qua tường,se sẽ đẩy chốt cửa, đứng nấp vào một bên.Dưới sao
sáng,Vương Khánh thấy rõ một tầu ngựa ở phía đông dãy tường,còn phía tây là túp
nhà nhỏ nhìn kỹ thì là nhà xí.Vương Khánh bèn đi tới tầu ngựa nhổ một cộc
rào,dựng sát tường cửa cuốn,rối bám cọc rào trèo lên mái tường,lại cúi xuống
rút chiếc cộc ấy lên thả vào trong để làm thang,nhẹ nhàng tụt xuống.Tiếp đó
Vương Khánh lại rút chốt cửa,tìm chỗ giấu cái cọc đi.Bên trong lại một lớp
tường nữa,nghe sau tường có tiếng nói ồn ào.Vương Khánh nhón chân đi đến,ghé
tai nghe ngóng,nhận ra giọng nói của Trương Thế Khai,một giọng đàn bà và một
người đàn ông khác.Bọn họ đang cùng nhau uống rượu,bàn chuyện phiếm.Vương Khánh
rình một hồi lâu,chợt nghe Trương Thế Khai nói:
-Này cậu,thằng ấy ngày mai đến gặp tôi lại ăn một trận
đòn nữa!
Tiếng người đàn ông kia nói:
-Đệ căm tức cái thằng ấy lắm rồi.Xin đại huynh quyết ý
mau hạ thủ hắn đi cho!
Trương Thế Khai nói:
-Chỉ đến ngày kia là cậu được thỏa giận thôi.
Người đàn bà nói:
-Hay lắm!Có thế cậu mới khỏi thúc giục hàng ngày!
Tiếng người đàn ông kia nói:
-Sao chị lại nói thế?Chị còn không biết chuyện hay sao?
Vương Khánh nép ngoài bờ tường,nghe rõ từng câu từng lời
của cả ba người,lửa giận bốc ngút,không sao kìm được,chỉ tiếc không đủ sức hộ
pháp để đẩy sập tường,xông vào mà giết tươi cả bọn.
Đúng là:
Sáng khẩu vật đa chung tác bệnh.
Khoái tâm sự quá tất vi ương.
Kim phong vị động thiền tiên giác,
Vô thường án tống chẩn đề phòng.
Sướng miệng tốn tiền sinh bệnh tật
Khoái lòng mắc tội chuốc tai ương.
Hơi thu chưa bén ve đã biết.
Ai ngờ xó tối nổi cuồng phong.
Bấy giờ Vương Khánh tức giận đùng
đùng,không kiềm chế nổ,chợt nghe Trương Thế Khai gọi to: “Thằng nhỏ đâu,châm
đèn đưa ta đi đằng sau”.Vương Khánh liền rút dao nhọn,qùy nấp sau gốc mơ.Nghe “két”
một tiếng,hai cánh cổng tường sau bật mở,Vương Khánh từ trong bóng tối nhìn
ra,thấy rõ thằng nhỏ bữa trước đã tiết lộ chuyện Bàng Nguyên cho mình biết,bây
giờ đang xách chiếc đèn chai soi đường cho Trương Thế Khải đi sau.Không biết
trong bóng tối có người,Trương Thế Khai vượt lên đi trước.Ra đến cổng cuốn,thấy
cổng không cài then,Trương Thế Khải cất giọng mắng:
-Bọn ăn hại,không biết cẩn thận! Đêm
hôm thế này sao không đóng chốt cổng?
Thằng nhỏ mở cổng soi đèn cho Trường
Thế Khai đi ra.Vương Khánh nhón chân bước sấn lên.Trương Thế Khai nghe tiếng
chân đàng sau,liền quay lại,nhận ra Vương Khánh tay phải cầm dao nhọn,tay trái
xoè ra nhẩy xổ tới.Trương Thế Khai khiếp đảm,hồn vía bay tận may xanh,chỉ kêu
được một tiếng: “Giặc”.
Nói thì chậm làm thì nhanh.Vương
Khánh khoát tay đưa một mũi dao đâm suốt từ mang tai qua cổ,Trương Thế Khai
liền ngã gục.Thằng nhỏ xách đèn,tuy đã từng quen biết Vương Khánh,nhưng bây giờ
thấy Vương Khánh cầm con dao sáng loáng vừa đâm ngã chủ mình làm sao mà không
khiếp sợ?Hắn muốn quay chạy,nhưng hai chân cứ như bị đóng đinh xuống đất,muốn
kêu cứu nhưng mồm ú ớ không kêu thành tiếng, đành ngây người đứng yên một
chỗ.Trương Thế Khai lúc ấy còn giãy giụa,Vương Khánh bèn sấn đến đâm một nhát
từ sau lưng xuyên ngực,kết liễu đời hắn.Bàng Nguyên đang ngồi uống rượu trong
nhà nghe loáng thoáng bên ngoài có tiếng kêu cứu,không kịp thắp đèn,vội chạy ra
nghe ngóng.Vương Khánh thấy trong nhà có người chạy ra liền quay lại đá thằng
nhỏ cầm đèn.Thằng nhỏ ngã xóng xoài, đèn cũng tắt phụt.Bàng Nguyên thấy vậy
tưởng là Trương Thế Khai đá thằng nhỏ vội kêu:
-Trương huynh sao lại đá thằng nhỏ?
Bàng Nguyên địng chạy đến khuyên can
thì Vương Khánh từ trong bóng tối nhẩy vụt đến vung dao đâm đúng vào mạng sườn
hắn.Bàng Nguyên kêu rống lên như bị chọc tiết rồi ngã vật xuống.Vương Khánh
bước đến túm tóc hắn,xã thêm một dao cắt đầu rời khỏi cổ.Vợ bé của Trương Thế
Khai là Bàng Thị nghe tiếng kêu gắt ở ngoài,liền gọi a hoàn thấp đèn ra
xem.Vương Khánh thấy Bàng Thi đi ra,cũng định giết nốt.Nhưng Thật lạ lùng,Vương
Khánh chớp mắt nhìn cho rõ thì thấy phía sau Bàng thị có đến hơn chục tê lính
hầu cầm khí giới hò hét chạy tới.Vương Khánh sợ cuống chân tay vội quay lại bỏ
chạy.Vương Khánh chạy đến đẩy toang cổng cuốn trèo qua tường sau nhảy ra
ngoài,cởi vứt áo cánh đầy máu,lau sạch lưỡi dao giắt vào người,bấy giờ nghe
tiếng trống vừa điểm canh ba.Nhân lúc đêm khuya phố vắng xá người,Vương Khánh
đi nhanh đến dưới chân thành.Thành Thiểm Châu chỉ là tòa thành đất,tường không
cao,hào cũng không sâu lắm.Vương Khánh bèn vượt qua thành mà đi.
Chưa nói chuyện vượt thành đi
trốn,hãy kể tiếp truyện vợ Trương Thế Khai củng hai a hoàn xách đèn ra xem.Chỉ
có mấy người ấy chứ không có lính hầu đầy tớ nào khác.Thấy Bàng Nguyên đầu rời
một bên,thây lìa một chỗ,máu tuôn lênh láng,Bàng Thị và hai a hoàn khiếp sợ
đứng sững nhìn nhau,một lúc sau cả bọn chạy vào nhà,vừa chạy vừa thất thanh kêu
cứu.Quân hầu,lín trực bên ngoài nghe tiếng đều cầm đèn đốt đuốc xách khí giới
chạy vào cứu ứng.Cả bọn ra ngoài cổng cuốn thấy xác Trương auản doanh nằm
đó,thằng nhỏ soi đèn thì hộc máu mồm đang giãy giụa nhưng xem chừng cũng không
sống nổi.Mọi người thấy cổng mở toang,biết là hung thủ vào theo lối ấy.Lại xô
nhau chạy ra xem thì hai tấm lụa vất chổng chơ giữa đất,cả bọn đồng thanh nói
hung thủ là Vương Khánh.Cho ngưiờ đi điểm danh tù phạm thì đúng là thiếu Vương
Khánh.Bấy giờ việc náo động cả doanh Lao Thành,Dân chúng xung quanh đều biết
chuyện.Mọi người cùng ra ngoài bức tường phía sau doanh,thấy chiếc áo bết máu
vất đấy,ai cũng nhận đúng là áo của Vương Khánh.Mọi người bàn nhau nhân lúc
chưa mở cổng thành phải đi bao ngay cho quan châu doãn để kịp sai người lùng
bắt.
Lúc ấy sang canh năm,quan châu doãn
nghe báo cả kinh cấp tốc sai huyện húy đến khám nghiệm sơ qua đế biết số người
bị giết và lối hung thủ ra vào.Châu doãn một mặt ra lệnh cho quân canh ở bốn
cổng thanéh phải đóng chặt cửa,một mặt dẫn quân lính và các nhân viên tập
bổ,cùng các viên trưởng phường,trưởng xóm lần lượt đi khám xét từng nhà để lùng
bắt hung phạm Vương Khánh.Suốt hai ngày đóng cổng thành,khám xét nhà dân khắp
lượt,vẫn không thấy tăm hơi hung thủ.Gửi kèm theo các công văn ấy có cả những
bản sao ghi họ tên,quê quán,tuổi tác, đạc điểm nhận dạng và ảnh vẽ hình Vương
Khánh để căn cứ vào đó mà tìm bắt,treo thưởng một nghìn quan tiền cho kẻ nào
bắt được Vương Khánh.Dù không tự mình bắt được,nhưng ai biết tung tích nơi
Vương Khánh ẩn náo đến đến báo cho quan châu thì cũng được thưởng tùy theo công
lao nhiều ít.Kẻ nào chứa chấp nuôi dưỡng hung thủ trong nhà,khi phát giác sẽ xử
tội như phạm nhân.Các văn thư giấy tờ nói trên cũng đều gửi đến cho các châu
huyện lân cận để cùng truy nã hung thủ;Lại nói Vương Khánh vượt ra khỏi thành
Thiểm Châu,vén quần áo tìm chỗ hào nước cạn mà lội qua,nghĩ bụng: “Tuy đã thoát
chết nhưng biết trốn tránh nơi đâu?”Bấy giờ sắp đến tháng giữa đông,cỏ khô lá
rụng,dưới ánh sao lờ mờ vẫn nhận ra được lối đi.Vương Khánh từ đường này rẽ
sang lối khác ngoặt đến bốn năm lần mới tới một con đường lớn.Từ đấy Vương
Khánh cắm đầu chạy, đến khi mặt trời lên đã đi khỏi thành chừng sáu bảy mươi
dặm,vẫn tiếp tục đi miết về phía nam,từ xa đã thấy một khu dân cư nhà cửa đông
đúc.Một lúc sau,Vương Khánh đi vào thị trấn.Bấy giờ còn sớm nên các quán rượu
chưa mở cửa.Vương Khánh chợt nhận ra một nhà ở xế về mé đông,dưới mái hiên có
treo chiếc đèn lồng xách của khách đi ban đêm vào nhà trọ mà nhà hàng chưa kịp
đem cất,nhìn kỹ hơn,thấy cánh cửa chỉ khép hờ.Vương Khánh mạnh bạo bước tới đẩy
cửa bước vào.Nghe tiếng kẹt cửa,một người đàn ông mới ngủ dậy,chưa kịp rửa mặt
chải tóc từ trong nhà ra.Vương Khánh nhìn kỹ,nhận ra đó là viện trưởng Phạm
Toàn,anh em con dì của Vương Khánh.Phạm Toàn từ nhỏ theo cha đến sinh sống ở
Phòng Châu,công việc làm ăn gặp thuận lợi,vì thế được sung chức tiết cấp áp lao
lưỡng viện ở châu ấy.Khoảng trung tuần tháng ba năm nay về công cán ở Đông
Kinh,Phạm Toàn có ghé lại nghĩ ở nhà Vương Khánh vài ngày.Nhận ra Phạm
Toàn,Vương Khánh lên tiếng hỏi:
-Đại huynh lâu nay được mạnh giỏi
không?
Phạm Toàn hỏi lại:
-Có phải gia đệ Vương Khánh chăng?
Thấy Vương Khánh bộ dạng hốt
hoảng,trên tráng lại có chữ kim ấn,Phạm Toàn đã hơi ngờ,chưa biết trả lời ra
sao, đành hỏi mập mờ như thế.Vương Khánh thấy xung quanh không có ai bèn qùy
xuống nói:
-Đại huynh làm ơn cứu đệ!
Phạm Toàn vội dìu Vương Khánh đứng
dậy hỏi:
-Có đúng hiền đệ Vương Khánh đấy
không?
Vương Khánh xua tay:
-Xin im lặng cho!
Phạm Toàn hiểu ý bèn kéo tay,dẫn
Vương Khánh vào buồng trọ.Cũng may đêm qua Phạm Toàn thuê được căn buồng độc
thân.Phạm Toàn hỏi Vương Khánh:
-Hiền đệ làm sao đến nông nổi này?
Vương Khánh ghé tai nói nhỏ với Phạm
Toàn việc mình bị quan ti xử tội đầy đến Thiểm Châu,rồi bị TRương Thế Khai báo
thù cho em vợ,dẫn đến sự việc đêm hôm qua như thế nào.Phạm Toàn cả kinh,suy
nghĩ hồi lâu rồi đứng dậy đi rửa mặt ăn sáng,trả tiền buồng,tiền cơm cho nhà
trọ.Xong đó Phạm Toàn bảo Vương Khánh giả cách như tên quân phạm trong lao thao
hầu thượng quan,cùng mình rời quán trọ lên đường đi Phòng Châu.
Trên đường đi,Vương Khánh hỏi Phạm
Toàn đến Thiểm Châu có việc gì,Phạm Toàn đáp:
-Quan bản châu sai ta đi công cán
chuyển công văn thư trát cho phủ doãn Thiểm Châu.Hôm qua xong việc, đã nhận
công văn phúc đáp,ta định đi ngay nhưng vì trời tối nên ghé vào đạy nghĩ.Không
ngờ hiền đệ cũng ở Thiểm Châu lại đang gặp chuyện rắc rối như thế.
Vương Khánh theo chân Phạm Toàn, đêm
nghĩ ngày đi,chẳng bao lâu đã lánh sang địa phận Phòng Châu,yên ổn được hai
ngày, đến ngày thứ ba thì có công văn ở Thiểm Châu gửi sang thông báo truy nã
hung thủ Vương Khánh.Phạm Toàn biết tin,lo toát mồ hôi vội về nhà nói lại với Vương
Khánh:
-Hiền đệ không ở trong thành được.Ta
có mấy gian nhà lá và hơn hai chục mẫu ruộng mua từ mấy năm trước ở phía đông
bảo Định Sơn thuộc ngoại thành phòng Châu.Hiền đệ nên đến đó lánh thân ít
ngày,sau ra sao sẽ liệu.
Ngay đêm ấy Phạm Toàn dẫn Vương
Khánh ra khỏi thành, đi về trang trại ở bảo Định Sơn.Tới nơi Phạm Toàn liền đưa
Vương Khánh vào ẩn trong buồng,rồi đổi họ tên cho Vương Khánh là Lý Đức.Phạm
Toàn thầm nghĩ dù thế nào đi nữa cũng phải xoá dòng chữ kim ấn trên trán cho
Vương Khánh thì mới ổn chuyện.Cũng may mấy năm trước khi đến Kiến Giang,nghe
danh tiếng thần y An Đạo Toàn,Phạm Toàn đã có lễ vật ưu hậu để kết giao,nhờ đó
học được cách tẩy chữa vết kim ấn.Phạm Toàn bèn theo cách thức ấy bôi thuốc độc
lên trán Vương Khánh cho loét nhòe vết chữ,rồi lại xức thuốc chữa cho lên da
non,lấy vàng ngọc tán thành bột mịn màng hàng ngày bôi lên vết thương,sau hai
tháng thì vết chữ kim ấn mất hẳn.
Vương Khánh đến Phòng Châu thấm
thoát đã hơn trăm ngày.Bấy giờ là giữa tháng ba năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119
).Trát truy nã của quan Thiểm Châu chỉ đầu voi đuôi chuột,trước gắt sau
buông.Trên trán không còn vết kim ấn nữa,Vương Khánh dần dần cũng ra vào tự
nhiên thoải mái, áo quần giày mũ thì đã có Phạm Toàn chu cấp.Một hôm đang ngồi
buồn trong nhànchợt nghe xa xa bên ngoài có tiếng ồn ào huyên náo,Vương Khánh
bèn đứng dậy đi ra sân,hỏi thăm thì trang khách đáp:
-Thưa lý quan nhân,cách đây hơn một
dặm là địa phận của Đoàn Gia Trang,cũng thuộc bảo Định Sơn này.Anh em họ Đoàn
lên châu thành đón được đào hát mời về trang viện,dựng rạp diễn trò ca hát vui
chơi.Người con hát ấy nhan sắc tài nghệ vẹn toàn,nguyên là người ở đât Tây
Kinh, đến hát cho một nhà hàng viện mới mở ở trên châu thành,người khắp nơi nô
nức đến xem như trẩy hội.Sao quan nhân không sang bên đó nghe hát cho vui?
Vương Khánh nghe vậy không ghìm
được,bèn rảo bước đi sang bảo Định Sơn; Chưa biết Vương Khánh sanh bên đó có
xảy ra chuyện gì không,chỉ biết rằng:
Gái quê hung phạm vui duyên mới,
Đất dữ dân đau khổ một miền.
Chưa biết Vương Khánh đi xem hát có
gặp cô đào hay không,xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 104 -
Đoàn Gia Trang Kén Rể Hiền,
Đang nói chuyện Vương Khánh sang
chơi bảo Định Sơn. Bên ấy có chừng năm sáu trăm nhà, dựng rạp diễn trò hát trên
đám ruộng ở phía đông. Bấy giờ vai đào hát chưa lên rạp diễn. Phía dưới kê ba
bốn chục chiếc bàn, người đứng vòng trong vòng ngoài, chen nhau vào để chơi xúc
xắc, đánh xóc đĩa ăn tiền. Mỗi tiếng bạc ít cũng có vài người đặt cược. Khắp
nơi râm ran kẻ hô người đáp. Nào là "Lục phong nhi", "Ngũ ma
tử", "Hảo liêu mao", "Chu oa nhi".
Những người đánh xóc đĩa ngồi quỳ
trên đất đến hơn hai chục đám, cũng hô gọi ồn ào: "Hồn thuần nhi",
"Tam bối gian", "Bát xoa nhi".
Bọn đánh xúc xắc đằng này hô
"Lục", kẻ đánh xóc đĩa đằng kia quát "Bối", rồi thì cười
nói, văng tục, gây chuyện đánh nhau. Kẻ thua thì cởi áo tháo khăn, cầm cố lấy
tiền đánh gỡ vốn đến nỗi mất cả gia nghiệp, quên ngủ, bỏ ăn, rốt cuộc chỉ chuốc
một tiếng "thua" vào mình. Người được thì mặt mày hớn hở, khoát đông
vẫy tây, ra quán rượu đằng này lại vào ăn hàng ăn đằng nọ. Kẻ thì bao túi đeo
vai, khăn lưng buộc bụng, ống áo vén tay, chỗ nào cũng thấy tiền, nhưng khi
tính lại mới biết vào lỗ hà ra lỗ hổng, bị nhà hồ hớt ngọn, thành ra thu được
cũng chẳng bao nhiêu, đành buộc túi cúi đầu đi thẳng. Không cứ gì các đám cờ
bạc, đàn bà con gái các thôn ấy cũng vứt cuốc cày, bỏ rổ rau hái dở, túm năm
tụm ba kéo nhau đi xem hội, phô những khuôn trăng đen nhẻm, lộ những hăm răng
ngọc vàng khè, đứng ngây người chờ xem các vai đào kép. Ai nấy trầm trồ khen cô
đào chính, cũng là người do cha sinh mẹ đẻ mà sao lại đép như tiên, được bao
nhiêu người hâm mộ? Đêm diễn hôm ấy, chẳng những các thôn phường lân cận, mà
người châu thành cũng đánh đường đến xem, khiến cho những ruộng lúa mạch đã lên
xanh bị xéo nát đến hơn mười mẫu.
Không kể rườm rà: Vương Khánh đi
lướt xem xung quanh mỗi nơi một tí. Đến gần bên nhà rạp thấy giữa đám đông một
người đàn ông to lớn ngồi trên chiếc ghế đẩu, hai tay vịn mép bàn. Người ấy mặt
to bè, hai mắt tròn xoe, vai rộng bụng thon. Trên bàn đặt sẵn năm quan tiền,
một hộp xúc xắc và sáu hột đổ bằng xương, nhưng không thấy khách chơi nào đến
xóc hộp. Vương Khánh nghĩ bụng: "Ta từ khi bị phát vãng đến nay đã mười
mấy tháng chưa được chơi trò này lần nào. Hôm trước đại huynh Phạm Toàn đưa cho
ta đĩnh bạc để mua củi đóm, vẫn còn cả đây, nay tạm dùng làm vốn, thử đồ chơi
vài ván, may ra được lãi vài quan mua hoa quả ăn cho vui". Nghĩ đoạn Vương
Khánh lấy đĩnh bạc ném lên bàn rồi nói:
- Đưa đây đổ chơi vài ván!
Người chủ bàn xúc xắc liếc Vương
Khánh rồi đáp:
- Muốn đổ thì đổ.
Người ấy chưa dứt lời, một gã to cao
nét mặt hao hao giống người chủ bàn, từ phía bên kia lách đám đông đi đến nói
với Vương Khánh:
- Ông trọc ơi, người kia không chịu
cho xuất chủ bằng đĩnh bạc ấy đâu. Đem bạc đây tôi cho ông vay tiền. Nếu ông
được, mỗi quan chỉ cần trả lãi hai mươi đồng.
Vương Khánh đáp:
- Tốt lắm!
Nói đoạn lấy đĩnh bạc đưa cho người
kia để cầm hai quan tiền, nhưng đã bị hắn trừ ngay mỗi quan hai mươi đồng.
Vương Khánh tặc lưỡi: "Cũng được!" Nói đoạn bảo chủ bàn xóc hộp, đổ
hột, rồi hô: "Chu oa nhi!". Đổ được hai ba ván lại có một người khác
chen vào đặt tiền suất chủ để cùng đổ. Vương Khánh vốn chuyên nghề cờ bạc ở
Đông Kinh, hô phát nào thường trúng phát ấy, lại biết cách né mình đánh lảng và
nhiều mánh gian khác khiến cho người đứng cược phải thua thiệt. Người cho Vương
Khánh vay tiền nhân lúc lộn xộn đã lẻn sang bàn bên kia. Người chen đến đánh
sau nói là Vương Khánh đánh hăng quá không theo được, bèn gật đầu ra hiệu cho
người chủ cược, rồi bỏ đi nơi khác. Vương Khánh đánh một mạch, thắng cược được
hai quan, người đứng xem tấm tắc khen ngợi. Tiếp theo, càng đánh lại càng đỏ.
Vương Khánh chỉ việc giơ tay vơ tiền. Người chủ bàn cược nóng mặt, muốn đánh
cao cho chóng thu lại vốn, nhưng càng đổ càng thua, Vương Khánh đánh chín ván
thì chủ cược thua hết tám, chẳng mấy chốc thua sạch cả năm quan tiền. Vương
Khánh được tiền, lấy dây xâu hai quan để lên bàn, chờ tìm người cho vay tiền
vốn, còn ba quan cũng xâu lại để đó. Vương Khánh định đi tìm người cho vay để
trả tiền chuộc bạc lại, người chủ cược liền quát:
- Nhà ngươi định đem tiền đi đâu?
Tiền mới ra lò, nóng bỏng tay đấy!
Vương Khánh tức giận nói:
- Ngươi đánh cược bị thua vào tay ta
rồi, còn nói thối gì nữa?
Người chủ bàn cược trừng mắt mắng:
- Đồ chó đẻ! sao mi dám chạm đến bố
đẻ của mi?
Vương Khánh mắng lại:
- Thằng đểu, ta chỉ sợ ngươi đấm vào
bụng ta rồi rút tay không ra thôi! bỏ ra để ta đi!
Người chủ bàn cược bèn giơ nắm tay
đấm vào mặt Vương Khánh. Vương Khánh né người tránh được, liền lựa thế nắm lấy
tên kia, hất khủyu tay đánh vào ngực, lại co chân phải đá vào chân trái hắn.
Tên kia chỉ cậy sức mạnh mà không biết phép võ, làm sao gỡ được thế quật ấy,
rốt cuộc bị ngã chổng vó. Đám đông cười rộ, khoái chí. Tên chủ bàn cược đang
giãy gụa, chưa kịp bò dậy thì Vương Khánh đã nhảy đè lên mà đấm. Gã cầm bạc lúc
nãy chạy tới chẳng khuyên can mà cũng không đánh giúp, thừa dịp vơ tiền trên
bàn bỏ chạy. Vương Khánh cả giận bỏ tên chủ bàn cược, co chân đuổi theo tên
cướp tiền. Bỗng thấy một người con gái rẽ đám đông bước ra quát lớn:
- Tên kia không được vô lễ, có ta ở
đây!
Cô gái ấy khoảng chừng hai tư, hai
lăm tuổi, vội cởi áo ngoài cuộn vo lại ném lên bàn, chỉ mặc áo chẽn hẹp tay và
áo bán thân màu lục, quần thêu hẹp ống màu tía. Bây giờ cô gái vung tay xông
đến đánh. Vương Khánh thấy đối thủ là con gái, nước quyền đánh tới lại có chỗ
sơ hở, nên có ý đùa bỡn coi thường, vờn qua vờn lại chờ người con gái kia đánh
tới.
Bấy giờ vài đào hát đã lên rạp diễn,
hát một bài theo điệu tiếu nhạc. Nhưng người đi xem thấy đôi nam nữ đang đánh
nhau thì đổ xô đến xem, đứng chật vòng trong vòng ngoài. Người con gái thấy
Vương Khánh chỉ ngáng tay làm rào chắn mà không dám xông vào, bèn giả cách chú
ý vào chỗ không rồi dùng thế "Hắc hổ thâu tâm" (hổ đen móc tim) thoi
một quyền vào ngực Vương Khánh. Vương Khánh nhẩy sang một bên, tránh được.
Người con gái kia đánh hụt, không kịp thu quyền về, liền bị Vương Khánh lựa thế
khóa tay rồi hất chân quật ngã. Nhưng khi cô gái sắp đập đầu xuống đất, Vương
Khánh đã kịp luồn tay qua lưng, bế thốc lên, thế võ ấy gọi là "hổ bão
đầu" (hổ ôm đầu). Vương Khánh nói:
- Chưa bẩn quần áo. Trót làm đụng
chạm, xing đừng trách, vì chính cô nương tự tìm đến.
Cô gái không chút xấu hổ tức giận,
lại còn khen Vương Khánh:
- Đường quyền đẹp lắm, quả là cứng
tay!
Bấy giờ cả gã chủ cược và gã cướp
tiền từ ngoài rẽ đám đông xông vào quát tháo:
- Thằng lạc loài, sao mi dám đánh
ngã em ta?
Vương Khánh lớn tiếng mắng lại:
- Đồ bẩn thỉu, đã thua cược lại cướp
tiền của ta mà còn dám nói thối!
Nói đoạn vung tay sấn đến đánh. Bỗng
từ trong đám đông một người vội xông tới đứng chặn, cất tiếng can ngăn:
- Lý đại lang không được vô lễ. Các
đại ca Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ cũng xin dừng tay cho. Chỗ láng giềng quen biết, có
chuyện gì thì bảo nhau mới phải.
Vương Khánh nguoclến nhận ra Phạm
Toàn. Bấy giờ cả ba người đều chịu đứng im. Phạm Toàn nói với cô gái:
- Xin chào Tam nương.
Người con gái cũng đáp chào
"Vạn Phúc", rồi hỏi:
- Lý đại lang là bà con của viện trưởng à?
Phạm Toàn đáp:
- Là em con dì của tôi.
Tam nương nói:
- Một tay đánh quyền xuất sắc đấy.
Vương Khánh nói với Phạm Toàn:
- Chỉ vì người kia đánh được xúc xắc thua tiền của đệ,
rồi bảo đồng bọn đến cướp.
Phạm Toàn cười đáp:
- Đây là nơi làm ăn của Nhị lang và Ngũ lang, hiền đệ sao
lại đến gây chuyện rắc rối?
Đoàn Nhị và Đoàn Ngũ đưa mắt nhìn Tam nương. Tam nương
nói:
- Vì nể thể diện của Phạm viện trưởng, chẳng cần phải
tranh chấp với Lý đại lang làm gì. Đem đĩnh bạc ra đây!
Đoàn Ngũ nghe em gái khuyên can, phải chịu nhận mình thua
cuộc và đem đĩnh bạc ra để Tam nương trả lại Phạm Toàn.
- Đĩnh bạc còn nguyên đây, viện trưởng đem trả cho người
ấy.
Nói xong Đoàn Tam nương dẫn Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ rẽ đám
đông đi ra. Phạm Toàn cũng kéo Vương Khánh về trang trại. Trên đường đi, Phạm
Toàn trách Vương Khánh:
- Ta nể tình với dì, dù biết nguy hiểm vẫn giữ hiền đệ ở
lại đây, chờ khi được ân xá lại lo liệu tiếp. Thế mà hiền đệ chẳng chịu ngồi
yên cho! hai gã Đoàn Nhị và Đoàn Ngũ kia là hạng điêu toa lừa đảo. Còn Đoàn Tam
nương có tiếng là hạng đàn bà đáo để, người ta đặt cho ả biệt danh là "Đại
trùng oa" (cọp ở hang), con em nhà tử tế bị ả ta dụ dỗ lừa đảo không biết
bao nhiêu mà kể. Năm mười lăm tuổi, cha mẹ đã gả cho một lão già, chỉ một năm
là lão ngốc ấy bị ả ta nướng nghẻo. Ả cậy có sức khoẻ, thường theo bọn Đoàn
Nhị, Đoàn Ngũ đi gây sự cướp bóc kiếm chác. Các thôn phường lân cận đây ai cũng
phải kiềng mặt anh em nhà ả. Khi nào đón được đào hát ở châu về, anh em ả đều
đứng ra làm chủ gá bạc, có bàn xúc xắc đĩa nào mà không thuộc vòng khống chế
của bọn họ? Thế mà hiền đệ không biết, lại đến đây gây chuyện rắc rối. Chẳng
may để lộ tung tích, cả ta và hiền đệ đều phải chuốc tai họa không nhỏ.
Vương Khánh bị Phạm Toàn mắng cho một trận cứng họng,
không đối đáp được. Khi ra đi, Phạm Toàn bảo Vương Khánh:
- Ta phải về thành đi trực, ngày mai lại đến thăm hiền
đệ.
Không nói việc Phạm Toàn trở về thành Phòng Châu, kể tiếp
chuyện Vương Khánh đêm ấy nghỉ ngơi, không có sự gì xảy ra. Sáng hôm sau, Khánh
vừa dậy rửa mặt chải đầu xong thì thấy trang khách vào báo: "Có Đoàn thái
công đến thăm đại lang". Vương Khánh vội ra tiếp. Đó là một cụ già da nhăn
nheo, râu tóc bạc trắng. Chào hỏi xong, hai người chia ngôi chủ khách cùng
ngồi. Đoàn thái công nhìn Vương Khánh một lượt từ đầu đến chân, nói nhỏ một
mình: "Quả là khôi ngôi tuấn tú". Rồi Đoàn thái công hỏi quên quán họ
hàng gia thế của Vương Khánh, vì sao đến ở Phòng Châu, bà con với Phạm viện
trưởng như thế nào, đã có vợ chưa, v..v.. Vương Khánh nghe thái công hỏi hai
nhiêu khê, bèn bịa chuyện trả lời:
- Tiểu nhân nhà ở Tây Kinh, cha mẹ mất sớm, vợ cũng ốm
chết, tiểu nhân là em con dì của Phạm tiết cấp. Năm ngoái Phạm tiết cấp có việc
đi công cám ở Tây Kinh, thấy tiểu nhân sống độc thân không ai chăm sóc nên đón
về đây để anh em được gần gũi, nương tựa vào nhau. Tiểu nhân cũng biết qua các
môn quyền bổng, chờ dịp thuận tiện sẽ xin một chân thưa phái ở bản châu.
Đoàn thái công nghe xong cả mừng, hỏi thêm tuổi tác, ngày
tháng năm sinh của Vương Khánh, rồi cáo từ ra về. Hồi lâu sau, Vương Khánh đang
ngồi lo nghĩ ngợi thì một người khách lạ đẩy cửa bước vào cất tiếng hỏi:
- Phạm viện trưởng có nhà không? có phải vị đây là Lý đại
lang?
Hai người ngạc nhiên im lặng nhìn nhau một lúc. Cả hai
đều nghĩ: "Có lẽ đã gặp người này ở đâu rồi?" Chào hỏi xong, hai
người đang nói chuyện thì Phạm Toàn đến. Ba người ngồi yên chỗ, Phạm Toàn hỏi:
- Lý tiên sinh có việc gì đến đây?
Vương Khánh nghe nhắc đến Lý tiên sinh chợt nhớ ra:
"Đúng rồi! hắn đúng là gã thầy bó Lý Trợ". Lý Trợ cũng nhớ lại:
"Người này ở Đông Kinh, họ Vương, đã từng mời ta xem bói". Lý Trợ nói
với Phạm Toàn:
- Thưa Phạm viện trưởng, tiểu nhân chưa có dịp làm quen
với vị đây, có phải là lệnh đệ Lý đại lang không?
Phạm Toàn chỉ Vương Khánh nói:
- Đúng là Lý đại lang em họ tôi đấy.
Vương Khánh nó tiếp:
- Tiểu nhân vốn họ Lý, gọi họ Vương là họ bên ngoại.
Lý Trợ vỗ tay, cười nói:
- Nhớ ra rồi. Đúng vị này họ Vương, tiểu nhân tôi từng
gặp trước cửa phủ Khai Phong ở Đông Kinh.
Vương Khánh thấy Lý Trợ đã nói ra rành mạch như thế, chỉ
ngồi yên cúi đầu. Lý Trợ nói với Vương Khánh:
- Sau ngày tôi với đại lang chia tay, tôi xuống miền Kinh
Nam được dị nhân truyền thụ kiếm thuật, và diệu quyết xem tướng số, vì thế
người ta gọi tôi là "Kim kiếm tiên sinh". Gần đây đến Phòng Châu,
nghe nói miền này đông vui, tôi tìm đến hành nghề. Anh em họ Đoàn biết tôi am
hiểu kiếm thuật, mời tôi đến ở tại nhà để chỉ giáo cho họ. Đoàn thái công vừa ở
đây về đưa tờ ghi tuổi tác, ngày giờ sinh của đại lang có tướng tinh đẹp thế,
ngày sau sẽ được phú quý hết chỗ nói. Còn hiện nay đại lang đang có chim loan
đỏ ứng chiếu vào mệnh, hợp với việc vui mừng. Đoàn thái công đang muốn chọn đại
lang làm rể, mà hôm nay lại là ngày đại cát. Tiểu nhân đến đây để làm nguyệt
lão xe tơ. Tướng tinh của Đoàn Tam nương cũng rất vượng cho chồng. Hôm qua hai
vị gặp nhau, ngang tài ngang sức thật đẹp đôi. Mong hai vị sớm thành nhân duyên
cho tiểu nhân kiếm rượu uống.
Phạm Toàn nghe câu chuyện của Lý Trợ, trầm ngâm nghĩ ngợi
hồi lâu: "Cha con họ Đoàn là hạng điêu toa, ghê gớm, nếu không bằng lòng
cuộc thu xếp nhân duyên này thì có chỗ sơ hở khiến họ nghi ngờ, cái hại chẳng
nhỏ. Tốt nhất cứ phải tương kế tựu kế". Nghĩ đoạn Phạm Toàn bèn nói với Lý
Trợ:
- Việc tốt mà Phạm Toàn tôi không biết! nhã ý của cha con
Đoàn thái công như vậy, có điều là em họ tôi đây tính tình thô vụng, không biết
có xứng làm rể họ Đoàn không?
Lý Trợ nói:
- Ái chà! viện trưởng bất tất phải khiêm tốn quá. Đoàn
Tam nương từ khi gặp đại lang về nhà không ngớt lời khen ngợi.
Phạm Toàn nói:
- Như thế thì hay lắm! Phạm Toàn tôi sẵn sàng đứng làm chủ
hôn.
Nói đoạn lấy năm lạng bạc đưa biếu Lý Trợ rồi nói:
- Ở đây thôn quê không có gì thết đãi, chút quà mọn biếu
tiên sinh uống nước, xong việc sẽ xin hậu tạ.
Lý Trợ nói:
- Chẳng có gì đáng kể, xin viện trưởng chớ bận tâm.
Phạm Toàn nói:
- Khoan đã! xin dặn tiên sinh một câu: tiên sinh bất tất
phải nói em họ tôi có hai họ. Mọi chuyện xin tiên sinh chu toàn cho.
Lý Trợ là gã thầy bói, chỉ cốt được tiền, cám ơn rối rít
rồi cáo tù trở về Đoàn gia trang, chẳng chú ý gì đến chuyện hai họ hay một họ,
tốt xấu ra sao, chỉ cốt nói vun vào để kiếm tiền uống rượu. Hơn nữa việc kén
chọn ấy lại là do ý của Đoàn Tam nương. Ngày thường cả nhà vẫn sợ ả ta, cả Đoàn
thái công cũng chẳng dám nói động đến, vì thế việc chắc chắn phải thành.
Lý Trợ qua lại bàn bạc với cả hai bên, mong có nhiều sinh
lễ để cho ông mối mát mặt. Nhưg Phạm Toàn lại lo việc sính lễ sẽ gây chuyện lôi
thôi, bèn bàn với hai bên nên giảm cả. Đoàn thái công là bên nhà gái đứng ra
thu xếp việc nhân duyên, nghe Phạm Toàn bàn thế cũng lấy làm mừng, bèn chọn
ngày làm lễ cưới. Ngày hai mươi tháng ấy hai bên sẽ giết dê, mổ lợn, đánh cá,
sửa soạn cỗ bàn, mời bà con họ hàng đến uống rượu mừng. Các khoản sênh tiêu,
kèn trống, lễ động phòng hoa chúc, v..v.. Đều bỏ cả. Phạm Toàn may cho Vương
Khánh một bộ quần áo mới, đích thân dẫn đến Đoàn gia trang, sau đó vì bận việc
quan nên xin cáo từ về trước. Vương Khánh và Đoàn Tam nương làm lễ hợp cẩn, các
nghi thức khác cũng chỉ chiếu lệ cho xong chuyện. Đoàn thái công bầy tiệc rượu
trên thảo đường. Hơn hai chục người thân thích con cái trong nhà, cùng chàng rể
mới và ông mối Lý Trợ ngồi uống rượu vui vẻ suốt một ngày, đến chiều tối mới
tan. Bà con thân thích ở gần đều cáo từ ra về, chỉ có mấy người vì đường xa
phải ngủ lại là vợ chồng cô dượng Phương Hàn; vợ chồng em họ Khưu Tường, và vợ
chồng Thi Tuấn là cậu của Đoàn Nhị. Ba khách nam nghỉ ở chái phái đông, ba
khách nữ, đều còn trẻ, ngồi lại uống rượu vui chơi với Vương Khánh và Đoàn Tam
nương, hồi lâu mới tan về phòng đi nghỉ. Người vú già vào phòng tân hôn trải chăn
đệm, mời tân lang và tiểu thư vào nghỉ, rồi đóng cửa phòng đi ra. Đám con gái
còn đang ngồi lại nô đùa cười nói, bỗn thấy Đoàn Nhị từ bên ngoài hốt hoảng
chạy vào nói to:
- Nguy rồi! bọn các ngươi không biết việc gì hay sao còn
ngồi đố mà cười!
Ai nấy sợ toát mồ hôi nhưng không biết xảy ra việc gì.
Đoàn Nhị chạy đến trước phòng tân hôn gọi to:
- Tam nương đâu, dậy mau, tai vạ đến nơi rồi!
Đoàn Tam nương đang lúc vui vẻ, nghe Đoàn Nhị gọi lấy làm
bực, nằm trên giường nói vọng ra:
- Đêm hôm có chuyện gì mà làm ầm lên thế?
Đoàn Nhị lại kêu to:
- Lửa sém lông mày rồi, chỉ còn các
người là chưa biết!
Vương Khánh có tật giật mình, vội
bảo Đoàn Tam nương mặc quần áo chạy ra ngoài xem sao. Đám đàn bàn con gái ngồi
chơi ở nhà đã chạy ta cả. Vương Khánh vừa ra khỏi phòng thì Đoàn Nhị kéo ngay
đến thảo đường. Vương Khánh bước vào đã thấy Phạm toàn đang ngồi ở đó, không
ngớt mồn kêu khổ, tiếp sau là Đoàn thái công, Đoàn Ngũ, Đoàn Tam nương cũng
theo đến.
Nguyên là gã Hoàng Đạt ở phía đông
Cung Gia thôn huyện Tân An sau khi chữa lành vết thương và khỏi ốm, ngày đêm
săn lùng tung tích Vương Khánh. Đêm hôm qua hắn đã đến Phòng Châu báo cho quan
doãn biết Vương Khánh hiện đang ở đây. Quan châu doãn Trương Cô Hành liền áp
triện công văn sai một viên đô đầu đem quân lính đến bắt hung phạm Vương Khánh.
Kẻ chứa chấp là Phạm Toàn và cả nhà Đoàn thái công. Phạm Toàn vốn chơi thân với
Tiết khổng mục chuyên lập hồ sơ án kiện của bản châu nên được Tiết khổng mục rỉ
tai báo cho biết trước chuyện đó. Phạm Toàn không kịp đem theo vợ con, đi ngay
đến đây vừa lúc quân quan chưa kịp kéo đến. Thế là mọi người đều bị dính vào
việc quan ty. Ai nấy đều giẫm chân đấm ngực, nháo nhác như ổ gà bị lật, cuống
cuồng sợ hãi, xúm đến mắng nhiếc Vương Khánh và Đoàn Tam nương. Đang lúc ồn ào
bỗn thấy Kim kiếm tiên sinh Lý Trợ từ gian nhà chái phía đông đi vào thảo
đường, nói:
- Các vị muốn tránh khỏi tai họa thì
phải nghe tôi nói!
Mọi người xúm đến hỏi, Lý Trợ nói:
- Việc đã như vậy, ba mươi sáu
chước, chuồn là hơn cả!
Mọi người hỏi:
- Nhưng biết chạy đi đâu?
Lý Trợ đáp:
- Chỉ còn cách lên núi Phòng Sơn ở
phía tây, cách đây hai mươi dặm.
Mọi người nói:
- Chỗ ấy bọn cướp thường hai lui
tới.
Lý Trợ cười đáp:
- Chao ôi, sao các vị ngu ngốc thế?
sự thể này mà còn mong làm người lương thiện được ư?
Mọi người lại nói:
- Vậy làm thế nào?
Lý Trợ nói:
- Trại chủ Phòng Sơn là Liêu Lập vốn
quen biết với Lý Trợ tôi. Thủ hạ của ông ta có đến năm sáu trăm lâu la, quan
quân không lùng bắt nổi. Mau thu xếp đồ tế nhuyễn, đi ngay đến xin nhập bọn mới
tránh được tai vạ.
Bọn Phương Hàn, sáu người cả đàn
ông, đàn bà sợ sau này liên lụy đến họ hàng thân thích nên chần chừ chưa muốn
đi. Vương Khánh và Đoàn Tam nương phải hết sức thuyết phục, không còn cách nào
khác, đành phải ưng thuận. Sau đó mọi người thu xếp những của cải, đồ vật quý
để đem đi, còn lại dồn thành ba bốn chục đống châm lửa đốt.
Xong xuôi mọi việc, Vương Khánh,
Đoàn tam nương, Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ, Phương Hàn, Khâu Tường, Thi Tuấn, Lý Trợ,
Phạm Toàn, tất cả chín người đều hai nịt gọn gàng, ai nấy đeo đoản đao, rút mã
tấu cầm tay. Điểm gọi số trang khách muố[n đi theo, tất cả có hơn bốn chục
người. Ai nấy đều lo gói buộc tay nải, hành lý. Vương Khánh, Lý Trợ, Phạm Toàn
đi đầu, Phương Hàn, Khâu Tường, Thi Tuấn hộ vệ đàn bà con gái đi giũ7a. Cũng
may cả bọn đàn bà ấy đều có bàn chân như lưỡi cuốc nên đi nhanh chẳng kém gì
đàn ông. Đi sau cùng là Đoàn Tam nương, Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ. Ba anh em đi khắp
một lượt châm lửa đốt trang trại, rồi hò reo dẫn đoàn người cầm khí giới, nhằm
đường chạy về phía tây. Láng giềng và dân chúng các làng lân cận ngày thường
vẫn sợ nhà họ Đoàn như cọp, nay thấy lửa cháy rừng rực mà bọn họ ai nấy đều gậy
gộc cầm tay, không hiểu nguyên do thế nào, cho nên nhà ai cũng đóng cửa đứng im
nhìn không dám cản trở.
Bọn Vương Khánh đi chung bốn năm dặm
thì gặp đội quân do viên giáo đầu của bản châu chỉ huy, có cả Hoàng Đạt, đang
trên đường về Đoàn gia trang. Viên đô đầu đi trước liền bị Vương Khánh vung dao
chém đứt làm hai đoạn. Bọn Lý Trợ, Đoàn Tam nương nhất tề xông lên chém giết
bọn quân nhân, Hoàng Đạt cũng bị Vương Khánh giết.
Tảng sáng, bọn Vương Khánh đến dưới
trại Phòng Sơn. Lý Trợ bảo mọi người chờ để mình lên núi báo trước với Liêu
Lập. Lâu la đi tuần tiễu, thấy dưới chân núi có nhiều đám đuốc cháy liền trở về
báo cho trại chủ. Liêu Lập ngờ đó là quan quân đến đánh. Hàng ngày hắn vẫn coi
thường quan quân, nay thấy quan quân kéo đến vội đứng dậy đeo đai, khoác
thương, điểm lâu la xuống núi chặn đánh. Vương Khánh thấy lửa sáng trên núi,
rồi nhiều bóng người đi xuống, liền chuẩn bị đối phó. Liêu Lập xuống đến nơi
thấy đông cả đàn ông đàn bà, đoán chừng không phải quan quân bèn xách thương
lên tiếng quát:
- Đám đông các người vì cớ gì đén
đây làm kinh động sơn trại của ta? có muốn sao Thái Tuế dọi đầu hồi không thì
bảo?
Lý Trợ bước lên cung kính cúi chào:
- Thưa đaivượng, ngu đệ chính là Lý
Trợ đây.
Tiếp đó Lý Trợ đem chuyện Vương
Khánh phạm tội đi đầy, giết quản doanh và quân lính ra sao kể lại một lượt với
Liêu Lập. Liêu Lập nghe Lý Trợ khen Vương Khánh tài giỏi, lại thấy hắn có anh
em họ Đoàn đi theo, sợ mình thân cô thế cô, ngày sau mặc mưu độc, bèn trở mặt
nói với Lý Trợ:
- Sơn trại của bọn ta chỉ àl nơi nhỏ
hẹp, cũng khó thu nạp anh em quý vị.
Vương Khánh nghĩ bụng: "Sơn
trại chỉ có mình hắn làm chủ, trừ khử được khắn thì bọn lâu la có đáng lo ngại
gì?"
Vương Khánh bèn tước mã tấu xông
vào. Liêu Lập cả giận, vung thương chặn đánh. Đoàn Tam nương sợ Vương Khánh sơ
hở, cũng xách mã tấu đến giúp sức. Ba người đánh hơn mười hiệp thì có một người
ngã. Đúng là:
Bình gốm vỡ liền trên miệng giệng,
Gian hùng ngã gục dưới làn tên.
Chưa biết người bị đánh ngã là ai,
xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 105 -
Tống Công Minh Tránh Nắng Dưỡnng Quân,
Đang nói chuyện Vương Khánh và Đoàn
Tam nương xông vào đánh Liêu Lập, hai bên giao chiến hơn chục hiệp, Vương Khánh
đâm dứ một đường để Liêu Lập đánh vào rồi vọt tới đâm ngã. Đoàn Tam nương đuổi
tới bồi tiếp một đao, kết liễu tính mạng hắn. Liêu Lập nửa đời làm nghề cường
đạo, đến đây kết thúc giấc mộng xuân!
Vương Khánh xách mã tấu quát lớn:
- Kẻ nào không thuận theo ta thì cứ
xem gương Liêu Lập đó!
Bọn lâu lau thấy Liêu Lập bị giết
vội nâng giáo lạy hàng, không dám chống cự. Vương Khánh lên núi vào trong trại.
Bấy giờ chân trời đã ửng rạng đằng đông. Ngọn núi này xung quanh có nhiều vòm
đá tự nhiên giống như những căn phòng nên gọi là Phòng Sơn, thuộc địa hạt Phòng
Châu. Bấy giờ, Vương Khánh sắp xếp nơi ăn chốn ở cho từng nhà, xong cho điểm số
lâu la, xem xét lương thảo, vàng bạc, vải vóc và ngựa chiến trong doanh trại.
Một mặt cho giết bò mổ ngựa bầy tiệc rượu chúc mừng khao thưởng lâu la. Mọi
người đều suy tôn Vương Khánh làm trại chủ. Một mặt cho rèn binh khí, huấn
luyện lâu la chuẩn bị giao chiến với quân triều đình, việc không cần nói đến.
Lại nói đội quân Phòng Châu theo
viên đô đầu tìm bắt Vương Khánh, bị bọn Vương Khánh chém giết, đánh đuổi chạy
tan, có kẻ thoát được trở về báo với châu doãn Trương Cố Hành: "Bọn Vương
Khánh biết trước sự việc, đã tìm cách chống cự với quan quân. Đô đầu và người
tố giác là Hoàng Đạt đều bị giết. Sau đó cả bọn chạy về phía tây". Ngay
ngày hôm ấy Trương Cố Hành liền bàn với võ quan trấn thủ bản châu để phái quân
tuần tiễu cùng với quân ở bản doanh đi truy bắt. Nhưng vì giặc cướp hung tợn,
quan quân lại thiệt mạng một số người nữa. Số lâu la theo lên sơn trại ngày
càng đông, bọn Vương Khánh thường đem quân xuống núi đi các nơi cướp phá.
Trương Cố Hành thấy thế giặc ngày càng hung hãn, một mặt gửi văn thư báo cho
các huyện canh phòng để giữ yên trong cõi, điều thêm quân về châu để hợp sức
dẹp cướp. Một mặt lại bàn với chỉ huy binh mã bản châu là đô giám Hồ Hữu Vi tìm
kế sách tiễu trừ. Đô giám Hồ Hữu Vi liền điểm quân lính của bản doanh chọn ngày
cất quân tiến đánh. Bất ngờ quân lính cả hai doanh hò reo khua trống ầm ầm, hỏi
ra thì nguyên nhân là vì đã hai tháng nay không được cấp phát tiền gạo, bụng
đói meo sao mà đi đánh giặc được?
Trương Cố Hành nghe tin quân sĩ làm
biến liền cho đem tiền gạo đến phát trước một tháng, nhưng vẫn lo làm như thế
càng khiến quân sĩ tức giận thì sau không biết làm thế nào? Sự việc xảy ra là
do ngày thường không biết vỗ về răn dạy quân sĩ, đến khi quân sĩ đánh trống làm
reo mới đem tiền bạc đến phát, thế là đã làm cho quân sĩ sinh kiêu. Lại còn
chuyện nực cười nữa: việc đã xảy ra như thế nhưng các tệ khấu đầu trừ đuôi, bớt
xén tiền lương của quân sĩ vẫn không giảm. Quân lính thường ngày đã bị bớt xén
quá nhiều, nay bỗng được dịp bùng lên. Quân sĩ ào ào tức giận, nổi dậy giết
chết đô giám Hồ Hữu Vi. Châu doãn Trương Cố Hành thấy tình thế bất lợi vội ôm
giấy tờ ấn tín tìm đường tẩu thoát. Trong thành vô chủ, lại thêm bọn vô lại phụ
họa với bọn quân kéo đi đốt phá, cướp bóc các nhà dân.
Vương Khánh thấy trong thành có
biến, thừa thế đem quân lâu la xuống núi đánh vào thành Phòng Châu. Bao nhiêu
quân sĩ làm phản cùng bọn gian đồ ô hợp ra mặt quy thuận. Vương Khánh hả hê đắc
chí, bèn chiếm thành Phòng Châu làm sào huyệt. Châu doãn Trương Cố Hành trốn
tránh không thoát cũng bị bắt giết. Vương Khánh cướp đoạt lương tiền trong các
kho công ở Phòng Châu, sai Lý Trợ, Đoàn Nhị, Đoàn Ngũ chia nhau đến Phòng Sơn
và các nơi khác dựng cờ hiệu, chiêu binh mãi mã, tích chứa lương thảo. Khắp các
trấn gần, thôn xa đều bị cướp đoạt kinh động. Bọn vô lại du thủ du thực cùng
bọn tù phạm gian ác phản nghịch đều nhao nhao kéo đến quy thuận Vương Khánh.
Bọn Cung Đoan, Cung Chính trước đó bị Hoàng Đạt phát đơn kiện làm cho mất sạch
gia sản, nay nghe tin Vương Khánh chiêu mộ binh sĩ cũng tìm đến xin nhập bọn.
Các châu huyện lân cận chỉ lo giữ thành trì, còn ai dám đem quân cứu ứng? Trong
vòng hơn hai tháng, dưới tay Vương Khánh đã tụ tập được hơn hai vạn tên, Khánh
bèn tung quân đi đánh phá thành trì các huyện lân cận như Thượng Tân, Trúc Sơn,
Viên Hương. Các quan châu huyện dâng biểu tâu lên. Triều đình xuống lệnh cho
trấn quan địa phương ấy đem quân đi đánh dẹp. Đám quân triều đình nhà Tống phần
nhiều vì lương bổng không đủ, nên ít được thao diễn luyện tập, quân không sợ
tướng, tướng chẳng biết quân. Kịp khi nghe tin có biến, quan quân thường thổi
phồng thế lực quân giặc mười phần hung dữ, khiến cho sĩ tốt chợt nghe đã nản
lòng, trăm họ kinh hoàng tán đảm. Đến khi ra trận đối đầu với địch, tướng quân
thì khiếp nhược, quân sĩ thì đói mệt, làm sao mà đánh lại được quân của Vương
Khánh? Gần toàn những dân vong mạng, quân Vương Khánh khi đã liều chết đánh tới
thì quan quân đều phải tan chạy như gió xô cỏ lướt. Vì vậy, thế lực của Vương
Khánh ngày càng mạnh, vượt sang đánh phá cả ở phủ Nam Phong. Về sau, triều đình
sai quân đi đánh thì các tướng tá được giao chức cầm quân nếu không hối lộ Sái
Kinh, Đồng Quán thì cũng đút lót Dương Tiễn, Cao Cầu. Bọn họ nhận tiền bạc đút
lót rồi thì dù là kẻ tầm thường hèn nhát cũng cho cân nhắc bổ dụng. Bọn ấy đã
mất tiền của đút lót, một khi nắm được quyền binh trong tay liền thả sức bớt
xén quân lương, bức hại dân lành để mạo nhận công lao, rông quân cho đi vơ vét
đốt phá gây rối động khắp vùng, dân chúng vì bị bức bách mà phải theo. Từ đó
thế giặc ngày càng lớn mạnh, Vương Khánh đã tung quân đánh xuống miền Nam. Lý
Trợ vốn là người Kinh Nam liền hiến kế xin Vương Khánh cho đóng vai thầy bói đi
trước vào thành, ngầm kết giao với bọn gian manh côn đồ, rồi trong ngoài ứng
hợp đánh lấy thành Kinh Nam. Vương Khánh bèn cho Lý Trợ làm quân sư, tự xưng là
"Sở Vương". Các bọn giặc sông cướp biển, cường đạo ở chốn sơn lâm đều
tìm đến quy hàng. Trong khoảng ba bốn năm bọn Vương Khánh đã chiếm giữ sáu châu
thành của nhà Tống.
Vương Khánh đem bộ hạ vaò đóng trong
thành Nam Phong, cho xây dựng cung điện, lâu đài, tiếm ngụy thay đổi niên hiệu,
cũng bắt chước triều nhà Tống đặt ngụy quan tướng văn tướng võ và hàng quan
liêu ở các đài, sảnh, viện. Phong Lý Trợ làm quân sư đô thừa tướng, Phương Hàn
làm khu mật, Đoàn Nhị làm hộ quốc thống quân đại tướng, Đoàn Ngũ làm phụ quốc
thống quân đô đốc, Phạm Toàn làm Điện súy, Cung Đoàn làm tuyên phủ sứ, Cung
Chính làm chuyển vận sứ chuyên cai quản việc chi tiêu xuất nhập, kiểm tra tính
toán lương tiền, Khâu Tưởng làm ngự doanh sứ, lập Đoàn Tam nương làm chánh phi,
Vương Khánh xưng vương được năm nwm kể từ năm Tuyên Hòa thứ nhất đến mùa xuân
năm Tuyên Hòa thứ năm. Bấy giờ bọn anh em Tống Giang đang đi đánh Điền Hồ ở Hà
Bắc, đến khi đánh quân Điền Hổ ở ải quân Vân An và Uyển Châu, tổng cộng là tám
châu thành. Đó là các châu: Nam Phong, Kinh Nam, Sơn Nam, Vân An, An Đức, Đông
Xuyên, Uyển Châu, Tân Kinh.
Số châu huyện thuộc các quận ấy tất
cả là tám mươi sáu. Vương Khánh sai dựng hành cung ở huyện Vân An, sai Thi Tuấn
đóng giữ, làm trấn thủ quận Vân An.
Lúc đầu Vương Khánh sai bọn Lưu Mẫn
đánh lấy Uyển Châu. Châu này ở gần Đông Kinh, bọn Sái Kinh không che giấu được,
phải tâu lên Đạo quân hoàng đế. Thiên tử xuống sắc sai Sái Du, Đồng Quán đem
quân đi đánh dẹp Vương Khánh, cứu Uyển Châu. Quân lính của Sái Du, Đồng Quán là
hạng quân lính tàn bạo, không có phép tắc kẻ cương, trên dưới lìa lòng, vì thế
bị bọn Lưu Mẫn đánh bại. Quân Vương Khánh phá được thành Uyển Châu, khắp kinh đô
dân chúng chấn động lo sợ. Bọn Sái Du, Đồng Quán sợ tội, cố tìm cách không cho
thiên tử biết chuyện. Tướng giặc là bọn Lưu Mẫn, Lỗ Thành sau khi lấy được Uyển
Châu liền đem quân bao vây Lỗ Châu, Dương Châu. Anh em Tống Giang dẹp yên Điền
Hổ ở Hà Bắc, chưa đem quân về đến Đông Kinh đã tiếp chiếu sắc sai đi đánh Vương
Khánh ở Hoài Tây. Đúng là người ngồi chưa ấm chỗ, ngựa chưa kịp nghỉ chân, anh
em Tống Giang lại phải thống lĩnh đại binh hơn hai mươi vạn người ngựa tiến
xuống phía nam. Vừa qua sông Hoàng Hà lại tiếp được văn thư của sảnh viện thúc
giục Trần an phủ và Tống Giang cho binh mã ngày đêm ruổi gấp đến cứu ứng cho Lỗ
Châu, Dương Châu. Tống Giang bon ngựa đẫm mồ hôi, hành quân giữa mùa nóng nực,
theo đường từ huyện Túc và sông Dĩ Thủy tiến xuống, những nơi đi qua không mảy
may xâm phạm của dân. Nghe tin đại binh của Tống Giang tiến đến địa giới châu
Dương Định, quân Vương Khánh phải lui về. Hai thành Lỗ Châu và Dương Châu được
giải vây.
Lại nói chuyện Trương Thanh, Quỳnh
Anh, Diệp Thanh được tận mắt chứng kiến việc hành hình Điền Hổ, được thiên tử
ban tước rồi vâng mệnh trở lại quân doanh theo Tống Giang đem quân đi đánh
Vương Khánh. Bọn Trương Thanh rời Đông Kinh đến thành Dĩnh Xương chờ hơn nửa
tháng, nghe tin quân của Tống tiên phong đã tới, cả ba người đều đến trước quân
doanh chào đón. Trương Thanh kể lại việc ba người ở kinh được thiên tử ban
phong phẩm tước, Tống Giang và các anh em đầu lĩnh hết lòng khen ngợi. Tống
Giang cho bọn Trương Thanh ở lại trong quân doanh để chờ sai phái.
Tống Giang mời Trần an phủ, Hầu tham
mưu và La vũ dụ vào đóng quân trong thành Dương Định, còn anh em Tống Giang
phải chỉ huy đại quân, không tiện đem quân vào thành. Tống Giang truyền lệnh
cho các tướng đóng quân trong khi rừng cây cối rậm rạp ở núi Phương Thành. Nhận
thấy quân sĩ vượt đường xa ngàn dặm giữa mùa hè nóng bức, trong quân nhiều
người ốm đau, Tống Giang giao cho An Đạo Toàn lo liệu thuốc men chữa bệnh. Lại
sai quân sĩ dựng lều lán cho ngựa nghỉ ngơi, giao cho Hoàng Phủ Đoan sai quân
tắm rửa, chải lông cho ngựa và khám chữa những con bị ốm.
Ngô Dụng nói với Tống Giang:
- Đại quân ta đóng trong rừng, chỉ
lo quân giặc dùng kế hỏa công.
Tống Giang nói:
- Chính ta đang muốn dùng hỏa công
đốt trại giặc.
Tống Giang bèn sai quân sĩ tìm chỗ
râm mát trên gò cao núi Phương Thành, dùng tre nứa, cỏ trang dựng một dẫy lán
nhỏ. Bấy giờ hàn tướng Hà Bắc là Kiều Đạo Thanh đến thưa với Tống Giang:
- Đạo Thanh tôi được nhờ ơn sâu của
tiên phong, nay xin góp chút sức mọn.
Tống Giang cả mừng, bí mật bàn định
mưu kế với Kiều Đạo Thanh, rồi giao cho Kiều Đạo Thanh vào trông nom công việc
trong lán. Tống Giang xuống lệnh tuyển chọn ba vạn quân khoẻ mạnh. Lệnh cho
Trương Thanh, Quỳnh Anh chỉ huy một vạn quân mã đến mai phục ở chân núi phía
đông. Lệnh cho Tôn An, Biện Tường chỉ huy một vạn binh mã mai phục ở chân núi
phía tây. Hễ nghe tiếng pháo oanh thiên nổ vang ở trung quân thì các quân mai
phục nhất tề xông ra đánh. Toàn bộ lương thảo đều chất cả ở chân núi phía nam,
giao cho Lý Ứng, Sài Tiến chỉ huy năm nghìn quân canh giữ.
Cắt cử mọi việc đâu đó đã xong, bỗng
Công Tông Thắng bước vào nói:
- Huynh trưởng trù hoạch kế sách
thần diệu, nhưng hiện nay đang mùa nóng bức, quân sĩ đi lại mệt mỏi. Nếu giặc
cho quân tinh nhuệ đến đánh thì quân ta tuy đông gấp mười lần cũng không giành
được phần thắng. Bần đạo xin thi thố chút phát thuật để giải trừ buồn phiền
nóng nực, khiến cho tướng sĩ mát mẻ sảng khoái, tự nhiên sẽ cảm thấy trong
người khoẻ mạnh.
Nói xong bèn chống kiếm làm phép, tay
trái làm dấu Thiên lôi, tay phải vung kiếm bắt quyết, định thần suy nghĩ hướng
về phía đông bắc thổi một luồng khí rồi niệm chú. Trong nháy mắt gió lạnh nổi
lên, mây đen cuồn cuộn từ trong thung lũng đùn ra, nhanh chóng phủ kín núi
Phương Thành. Hơn hai vạn người ngựa được cơn gió lạnh thổi mát. Trong khi đó
những vùng xung quanh vẫn nóng như thiêu, ve kêu nhức óc, chim chóc phải tìm
nơi trống nắng. Quân sĩ Tống Giang ai nấy đều vui, khen ngợi đạo pháp thần diệu
của Công Tôn Thắng. Trong khoảng sáu bảy ngày đó cũng đủ cho An Đạo Toàn chăm
quân, Hoàng Phủ Đoan chữa ngựa. Đại quân người ngựa dần dần được sung túc, việc
không cần nói đến.
Lại nói tướng của Vương Khánh là Lưu
Mẫn đóng giữ Uyển Châu vốn là kẻ khá mưu lược, được tôn là "Lưu Trí
Bá". Bấy giờ Lưu Mẫn cho quân đi thám thính, biết binh mã của Tống Giang
đang đóng trại nghỉ ngơi tránh nắng trong rừng. Lưu Mẫn nói:
- Bọn Tống Giang rốt cuộc chỉ là
giặc cỏ miền sông nước, không hiểu binh pháp cho nên chẳng làm được việc lớn.
Ta chỉ cần thi thố một kế nhỏ đủ khiến cho hai mươi vạn người ngựa của chúng,
ít nhất cũng một nửa bị thiêu cháy thành tro.
Nói đoạn truyền lệnh chọn năm nghìn
tên quân nhanh nhẹn ai nấy sửa soạn đầy đủ tên lửa, hỏa pháo và đuốc nhựa. Lại
sửa soạn hai nghìn cỗ xe trận chở đầy lau sậy, củi khô cùng các thứ thuốc dẫn
lửa như lưu quỳnh, diêm tiêu. Mỗi xe có bốn tên quân sĩ kéo đẩy. Bấy giờ là
trung tuần tháng bảy, tiết đầu thu, Lưu Mẫn dẫn bốn viên phó tướng: Lỗ Thành,
Trịnh Tiệp, Khấu Mãnh, Cố Sầm đem một vạn quân thiết kỵ, người mặc giáp mỏng,
ngựa bỏ lục lạc đi sau tiếp ứng. Lưu Mẫn để hai phó tướng là Hàn Triết và Ban
Trạch ở lại giữ thành. Chiều muộn, bọn Lưu Mẫn ra khỏi thành, gặp lúc giố nam
thổi mạnh, Lưu Mẫn cả mừng nói:
- Phen này bọn Tống Giang tất phải
thua to!
Đến đầu canh ba quân Lưu Mẫn mới đến
cách núi Phương Thành hai dặm về phía nam, bỗn thấy mù đen bao trùm thung lũng.
Lưu Mẫn nói:
- Trời giúp ta lập công.
Nói đoạn sai quân đi sau đánh trống
hò reo trợ chiến, Lưu Mẫn tự mình dẫn năm nghìn quân tiến vào rừng đánh quân
Tống Giang. Quân Lưu Mẫn được lệnh ồ ạt bắn hỏa tiễn, hỏa pháo, đuốc lửa để đốt
cháy trại quân Tống Giang. Lại sai bọn Khấu Mãnh, Tất Thắng đốc thúc quân sĩ
đẩy xe châm mồi lửa rồi đẩy xuóng chân núi để đốt cháy lương thảo của quân
Tống. Quân Lưu Mẫn đang hăng hái tiến đánh bỗng cùng lúc kêu thét lên. Lúc ấy
gió nam đang thổi mạnh, bất ngờ chuyền ngược lại thành gió bắc! Lại nghe trên
núi có tiếng nổ vang. Đó là Kiều Đạo Thanh đã dùng phép quạt gió trở lửa, làm
cho bao nhiêu tên lửa, đuốc lửa đều biến thành rồng lửa rắn lửa cháy bùng bay
ngược lại thiêu đốt quân Lưu Mẫn, khiến chúng không kịp tìm nơi ẩn nấp. Đương
thời trong quân Tống lưu truyền bốn câu thơ chê cười bọn Lưu Mẫn:
Quân cơ cố nam trắc
Tặc nhân võng tý hoạch
Phóng hỏa tự thiêu quân
Hảo cá "Lưu Trí Bá".
Việc quân khó khôn dại
Đánh giặc giặc không bại
Phóng hỏa thiêu quân mình
"Lưu Trí Bá" giỏi đấy!
Bấy giờ Tống tiên phong truyền lệnh
cho pháo thủ Lăng Chấn bắn hỏa pháo. Đạn pháo bay vọt lên không rồi nổ tung.
Phía đông các tướng Trương Thanh, Quỳnh Anh; phía tây các tướng Tôn An, Biện
Tường đều dẫn quân đánh ập tới. Quân Vương Khánh một phen thua to. Lỗ Thành bị
Tôn An vung kiếm sả làm hai đoạn. Trịnh Tiệp bị Quỳnh Anh ném đá lăn xuống
ngựa, Trương Thanh đưa thêm một mũi thương kết liễu tính mệnh. Cố Sầm bị Biện
Tường đâm chết. Khấu Mãnh chết trong đám loạn quân. Hơn hai vạn ba nghìn quân
Lưu Mẫn bị cháy, bị giết đến quá nửa, số còn lại tán loạn chạy trốn khắp nơi,
hai nghìn cỗ xe cháy trụi không còng một chiếc. Lưu Mẫn cùng ba bốn trăm tên
tàn quân thoát chết tìm đường chạy về Uyển Châu. Quân Tống không phải đốt một
cọng rơm sợi cỏ, không thiệt mạng một tên quân nào mà thu đoạt được ngựa chiến,
áo giáp, chiêng trống nhiều không đếm xuể.
Bọn Trương Thanh, Tôn An thắng trận
trở về sơn trại báo công. Tôn An dâng thủ cấp Lỗ Thành; Trương Thanh, Quỳnh Anh
nộp đầu Trịnh Tiệp; Biện Tường hiến thủ cấp Cố Sầm. Tống Giang xuống lệnh khao
thưởng ba quân tướng sĩ, nêu công đầu cho Kiều Đạo Thanh, thứ đến là bọn Trương
Thanh, Quỳnh Anh, Tôn An, Biện Tường. Quân sư Ngô Dụng nói:
- Huynh trưởng mưu tính kỳ diệu
khiến quân giặc một phen mất trận kinh hồn. Tuy nhiên địa thế Uyển Châu sông
núi quanh co, gò bãi bùn lầy, dân ở đây thường vẫn gọi là "Biển cạn",
nếu giặc điều thêm quân tướng, cho đại binh đóng giữ thì bên ta rất khó đánh
chiếm. Nay đã sang thu tiết trời mát mẻ, người ngựa đều sung sức, thừa lúc uy
thế quân ta đang mạnh, quân giặc trong thành thế cô lực yếu, ta nên thúc quân
đóng giữ ở hai phía nam bắc đề phòng quân giặc cho viện binh tiếp ứng.
Tống Giang khen phải, theo đúng kế
sách truyền lệnh thi hành: giao cho Quan Thắng, Tần Minh, Dương Chí, Hoàn Tín,
Tôn Lập, Tuyên Hán, Hách Tư Văn, Trần Đạt, Dương Xuân, Chu Thông thống lĩnh ba
vạn quân mã đến đóng giữ phía đông Uyển Châu đề phòng viện binh giặc từ phía
nam tiến đến. Giao cho Lâm Xung, Hô Diên Chước, Đổng Bình, Sách Siêu, Hàn Thao,
Bành Kỷ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Âu Bằng, Đặng Phi đem ba vạn quân bộ
đến đống ở phía tây Uyển Châu để chặn quân giặc từ phía bắc kéo đến. Các tướng
tuân lệnh điểm quân cho người ngựa lên đường. Bấy giờ các hàng tướng Hà Bắc là
bọn Tôn An mười bảy người cùng nhau đến thưa với Tống tiên phong rằng:
- Bọn anh em chúng tôi được tiên
phong thu dụng, cho hưởng nhiều đặc ân. Nay chúng tôi nguyện xin đem quân đi
tiên phong trong trận đánh thành mong báo đáp ơn sâu của tiên phong.
Tống Giang cả mừng bèn lệnh cho
Trương Thanh, Quỳnh Anh thống lĩnh bọn Tôn An mười bảy viên chánh phó tướng và
năm vạn quân mã đi tiền bộ. Mười bảy viên chánh phó tướng ấy là: Trương Thanh
tuân lênh thống lĩnh quân mã lên đường tiến về Uyển Châu. Tống Giang cùng Lư
Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng và các tướng còn lại thống lĩnh đại quân nhổ trại rời núi
Phương Thành tiến xuống phía nam, đến cách thành Uyển Châu mười dặm thì dừng
lại đóng trại, Tống Giang hạ lệnh cho Lý Vân, Thanh Long, Đào Tôn Vượng trông
coi việc tu sửa các dụng cụ đánh thành, tu sửa xong thì chở đến quân doanh cho
bọn Trương Thanh sử dụng.
Trương Thanh và các tướng đem binh
mã đến vây thành Uyển Châu. Liền trong sáu bảy ngày quân giặc giữ thành rất
vững nên không thể hạ được. Phía bắc Uyển Châu tiếp giáp vơi Nhữ Châu. Tướng
giặc là Trương Thọ dẫn hai vạn quân tiến đến bị quân Lâm Xung chặn đánh, chủ
tướng Trương Thọ bị giết, các tướng tá còn lại và quân lính thua chạy tán loạn.
Cùng ngày hôm ấy viện binh của giặc từ huyện An Xương, Nghiã Dương ở phía nam
Uyển Châu kéo đến bị quân Quan Thắng đánh bại. Tướng giặc là bọn Bá Nhân,
Trương Di bị bắt sống đem đến hành quyết trước quân doanh của Tống tiên phong.
Quân tướng giặc ở cả hai cánh viện binh bị chém giết và bắt sống nhiều không kể
xiết. Bấy giờ bọn Lý Vân đã sửa chữa và làm xong các dụng cụ đánh thành. Bọn
Tôn An, Mã Linh đốc xuất quân sĩ xúc đất cho vào bao, chất thành nhiều đống cao
bằng mặt thành. Lại chọn các quân sĩ dũng cảm nhanh nhẹn dùng cầu bay vượt qua
các lớp rào nhọn, hào rãnh rồi nhất loạt chèo lên chiếm thành. Thành Uyển Châu
liền bị hạ. Lưu Mẫn bị bắt sống, các tướng tá dưới quyền bị giết hơn hai mươi
tên. Quân sĩ chết tại trận hơn năm nghìn, số đầu hàng đến hơn một vạn. Tống
Giang và các tướng đem quân vào thành Uyển Châu, truyền lệnh đem tướng giặc Lưu
Mẫn ra chém bêu đầu. Cho yết bảng vỗ yên dân chúng. Tống tiên phong xuống lệnh
ghi công đầu cho Quan Thắng, Lâm Xung, Trương Thanh, thứ đến là bọn Tôn An. Một
mặt sai người đến thành Dương Định báo tin thắng trận và mời Trần an phủ dời bản
doanh đến đóng ở Uyển Châu. Trân an phủ nghe tin cả mừng liền cùng với tham mưu
Hầu Mông và Vũ học dụ La Tiễn lên đường đi Uyển Châu. Tống Giang và các tướng
ra ngoài thành nghênh đón, mời Trần an phủ vào thành. Trần an phủ không hết lời
khen ngợi công lao của anh em tống Giang, việc ấy bất tất phải nói đến.
Tống Giang đóng quân ở thành Uyển
Châu lo liệu mọi việc đến hơn mười ngày. Bấy giờ đã là thượng tuần tháng tám,
thời tiết mát dần. Tống Giang mời quân sư Ngô Dụng đến hỏi:
- Nay ta nên đánh thành nào?
Ngô Dụng đáp:
- Từ đây tiến xuống phía nam là quận
Sơn nam, tận cùng là vùng Động Đình, sông Tương; quận đó phía bắc khống chế
Quan Trung, Lạc Dương, là đất yết hầu của cả hai miền Sở, Thục. Vì thế ta nên
đánh chiệm thành Sơn Nam để phân chia thế giặc.
Tống Giang nói:
- Quân sư nói rất phải.
Nói đoạn truyền lệnh cho Hoa Vinh,
Lâm Xung, Tuyên Tán Hách Tư Văn, Lã Phương, Quách Thịnh quản lĩnh năm vạn quân
mã giúp Trần an phủ ở lại đóng giữ Uyển Châu. Trần an phủ sai Thánh thủ thư
sinh Tiêu Nhượng đi truyền lệnh cho các thủy quân đầu lĩnh là bọn Lý Tuấn tám
người thống lĩnh chiến thuyền xuất phát từ sông Tất, tiếng xuống sông Hán ở
phía bắc thành Sơn Nam, để hộ với đại quân.
Tống giang chia quân bộ làm ba đội,
cáo từ Trần an phủ, rồi thống lĩnh các tướng tá và mười lăm vạn quân mã rời
thành Uyển Châu lên đường tiến đánh quân Sơn Nam.
Đúng là:
Muôn ngựa đua bon trời đất sợ,
Nghìn quân nhảy nhót quỷ thầnh kinh.
Chưa biết quân Tống tiếng đánh thành Sơn Nam như thế nào
hồi sau sẽ rõ.
Hồi 106 - Tiêu
Nhượng Nói Cười Lui Giặc Mạnh
Đang nói chuyện Tống Giang điều động người ngựa chia hai
đường thủy lục cùng tiến. Quân bộ chia làm ba đội:
- Tiền đội do mười hai viên kiêu tướng thống lĩnh một vạn
quân mã.
Mười hai kiêu tướng ấy là:
- Đổng Bình, Tần Minh, Từ Ninh, Sách Siêu, Trương Thanh,
Quỳnh Anh, Tôn An, Biện Tường, Mã Linh, Đường Bân, Văn Trọng Dung, Thôi Dã.
Hậu đội do mười bốn viên bưu tướng thống lĩnh năm vạn
quân mã. Mười bốn viên bưu tướng ấy là:
- Hoàng Tín, Tôn Lập, Hàn Thao, Đan Đình Khuê, Bành Kỷ,
âu Bằng, Ngụy Định Quốc, Đặng Phi, Yến Thuận, Mã Lân, Trần Đạt, Dương Xuân, Chu
Thông, Dương Lâm.
Trung quân do Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa chỉ huy, thống
lĩnh hơn chín mươi tướng tá, quân mã mười vạn, thẳng đường tiến về phía thành
Sơn Nam..
Đội tiên phong của Đổng Bình đã tiến đến đóng trại cách
phía bắc núi Long Trung năm dặm. Quân thám mã trở về báo tin Vương Khánh nghe
tin quân triều đình tiến đến đã cho thêm hai vạn quân mã đến đóng ở sườn phía
bắc núi Long Trung, sai dũng tướng Hạ Cát, Mi Sảnh, Quách Cán, Trần Bân thống
lĩnh quân mã đóng giữ ở đó. Bọn Đổng Bình liền cùng nhau bàn định kế sách:
- Giao cho Tôn An, Biện Tường dẫn năm nghìn quân bộ mai
phục phía trái núi:
- Linh, Đường Bân cũng dẫn năm nghìn quân mã mai phục
phía bên phải, hễ nghe tiếng súng nổ thì nhất loạt xông ra đánh. Đổng Bình và
các tướng sắp đặt quân sĩ đâu đó đã xong, cũng vừa lúc quân giặc reo hò, khua
phèng, phất cờ gióng trống tiến đến khiêu chiến. Quân hai bên dàn trận, cờ
trống đối nhau, quân cung nỏ bắn tên tới tấp sang quân địch. Dưới cờ tướng bên
quân giặc, Mi Sảnh cưỡi ngựa tiến ra. Viên tướng này đầu đội mũ sắt, mình mặc
giáp sắt, vai đeo chiếc cung chạm hình chim thước và ống tên lông chim, mặt
bạnh, da chì, mắt ốc nhồi. Mi Sảnh tay cầm búa lớn cán dài, cưỡi ngựa chiến
lông vàng bờm xoắn, cất tiếng nói to:
- Các ngươi là bọn giặc cỏ ở chốn bờ sông bến nước, cớ
sao lại ra sức tận tụy với tên hỗn quân vô đạo, dẫn xác tới đây chịu chết?
Bên trận quân Tống trống nổi vang trời, kế đó Cấp tiên
phong Sách Siêu tế ngựa ra trước trận quát lớn:
- Bọn cường đạo vô cớ làm phản, còn dám nói thối! Đợi đó
sẽ nếm thừ trăm nhát búa của tá Nói đoạn vung búa giật ngựa xông đến đánh Mi
Sảnh. Mi Sảnh cũng vung búa nghênh chiến. Quân hai bên hò reo, hai tướng ngồi
trên ngựa quần giữa trận đến hơn năm mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại. Mi Sảnh
quả là viên dũng tướng?
Bên trận quân Tống, Tích lịch hỏa Tần Minh thấy Cấp tiên
phong Sách Siêu chưa thắng, bèn múa cây lang nha côn phóng ngựa ra trợ chiến.
Bên quân Vương Khánh, Trần Bân vội nâng kích chặn đánh. Bốn tướng giao chiến
trong đám bụi mù mịt. Đang lúc hai bên đánh hăng, bỗng nghe tiếng pháo nổ, tiếp
đó là các tướng Tôn An, Biện Tường dẫn quân mai phục từ bên trái đánh ào đến.
Tướng giặc là Hạ Cát liền chia quân đánh chặn. Cùng lúc Mã Linh, Đường Bân cho
quân mai phục phía bên phải đánh đến. Tướng giặc là Quách Cán cũng vội chia
quân chặn đánh.
Bên trận quân Tống, Quỳnh Anh phóng ngựa ra trận, lén móc
lấy viên đá nhằm Trần Bân mà ném, trúng ngay hốc mũi, Trần Bân lăn nhào xuống
ngựa. Tần Minh vội đuổi tới vung côn đánh, cả đầu và mũ sắt Trần Bân vỡ làm
đôi. Ở trận bên trái, Tôn An và Hạ Cát đánh hơn ba mươi hiệp thì bị Tôn An chém
rơi đầu. Ở trận bên phải Đường Bân cũng giết được Quách Cán. Mi Sảnh thấy quân
mình bất lợi, gắng gượng đánh chặn ngọn búa của Sách Siêu rồi giật ngựa lùi
chạy.
Bọn Sách Siêu, Tôn An, Mã Linh xua quân đuổi theo chém
giết, quân giặc thua lớn. Các tướng đuổi theo Mi Sảnh, vừa đến đầu mỏm núi thì
sa vào trận mai phục của hơn một vạn quân giặc từ khu rừng phía sau ập tới.
Tướng giặc là Cảnh Văn và Tiết Tán đem quân ra hợp với Mi Sảnh quay lại đánh
bọn Sách Siêu. Bên quân Tống, Văn Trọng Dung muốn lập công đầu vội nâng thương
thúc ngựa ra giao chiến với Mi Sảnh. Hai người giao chiến hơn mười hiệp thì Văn
Trọng Dung bị Mi Sảnh vung búa chém lăn xuống ngựa, thân đứt làm hai đoạn. Thôi
Dã thấy Văn Trọng Dung bị giết bèn tức giận xách đao tế ngựa đến đánh Mi Sảnh.
Hai bên đánh chừng sáu bẩy hiệp thì Thôi Dã được Đường Bân phóng ngựa đến hỗ
trợ. Mi Sảnh thấy hai tướng cùng hiệp sức đánh mình, bèn quát to một tiếng,
chồm ngựa tới, đánh một búa chém Thôi Dã lăn xuống đất. Rồi Mi Sảnh chặn đánh
Đường Bân. Trương Thanh, Quỳnh Anh thấy bên mình bị mất hai tướng, vội sánh
ngựa tiến ra. Trương Thanh vung tay nhằm Mi Sảnh mà ném. Mi Sảnh nhanh như cắt
giơ búa đỡ, chỉ nghe một tiếng "choang" và lửa lóe lên ở đầu lưỡi búa,
viên đá bị gạt rơi xuống đất.
Lại một viên đá nữa ném tới, Mi Sảnh vội cúi đầu giơ mũ
sắt đỡ đá Bên quân Tống, hai tướng Từ Ninh và Đổng Bình thấy hai viên đá của
Trương Thanh đều bị Mi Sảnh đỡ được, liền sánh ngựa xông tới đánh. Mi Sảnh thấy
tình thế bất lợi, vội chặn ngọn giáo của Đường Bân rồi quay ngựa chạy. Đường
Bân đổi theo rất gấp nhưng bị bọn Cảnh Văn, Tiết Tán ~tế ngựa ra chặn lại giúp
Mi Sảnh chạy thoát. Các tướng chỉ chém được Cảnh Văn và Tiết Tán. Quân giặc bị
giết, ngựa chiến bị bắt, chiêng trống giáp trụ thu đoạt nhiều vô kể. Đổng Bình
sai thu nhặt thi hài Văn Trọng Dung và Thôi Dã. Đường Bân khóc lớn, tự tay cùng
quân sĩ khâm liệm mai táng hai người.
Sau trận đó, bọn Đổng Bình chín tướng đều cho quân sĩ
dựng trại đóng giữ ở sườn phía nam núi Long Trung.
Ngày hôm sau hai đội đại binh của Tống Giang cũng kịp đến
hội với quân tướng bọn Đổng Bình. Tống Giang thấy mất hai tướng, vô cùng thương
xót. Làm lễ tế hai tướng xong, Tống Giang cùng với quân sư Ngô Dụng bàn kế đánh
thành. Ngô Dụng và Chu Vũ trèo thang trận quan sát hình thế thành lũy hào rãnh,
rồi nói với Tống Giang:
- Thành này khá kiên cố, ta đánh vào không dễ gì phá được
Tạm thời hãy tỏ ý quyết đánh để phá thành, rồi chờ ít bữa xem thế nào.
Tống Giang bèn truyền lệnh, một mặt cho quân sĩ sửa soạn
khí giới đánh thành, một mặt sai quân do thám đi dò xét tin tức các nơi xung
quanh.
Tạm gác chuyện Tống Giang bàn kế đánh thành, kể tiếp
chuyện Mi Sảnh dẫn theo hơn hai trăm tên quân ky chạy thoát vào thành Sơn Nam.
Chủ tướng giữ thành là Đoàn Nhị, em vợ Vương Khánh. Nghe tin triều đình sai anh
em Tống Giang đem quân mã đến đánh, Vương Khánh bèn gia phong cho Đoàn Nhị là
Bình đông đại nguyên súy, đặc cách sai đến trấn thủ thành này. Bấy giờ Mi Sảnh
đến dưới trướng vái chào Đoàn Nhị, rồi kể cho Đoàn Nhị nghe bên Tống Giang binh
hùng tướng mạnh đã giết mất của bên mình năm tướng.
Quân sĩ bị đánh giết tan tác cả, xin nguyên súy cho mượn
quân để phục thù. Nguyên bọn Mi Sảnh do Vương Khánh đích thân sai phái, vì vậy
nên nói là mượn quân. Đoàn Nhị cả giận, nói:
- Ngươi tuy không thuộc quyền cai quản của ta, nhưng tội
làm tan quân mất tướng thì ta có thể chém đầu ngươi được.
Nói đoạn bèn quát quân sĩ đến trói Mi Sảnh đưa đi xử
trảm. Vừa lúc ấy có người bước vào trong trướng nói to:
- Xin nguyên súy bớt giận, tạm tha tội chết cho người
này.
Đoàn Nhị đưa mắt nhìn mới biết đó là viên quan do Vương
Khánh sai đến giữ chức phó tham mưu. Đoàn Nhị nói:
- Sao lại tha hắn?
Phó tham mưu nói:
- Tôi nghe nói Mi Sảnh là viên dũng tướng kiêu hùng,
trong trận vừa rồi đã giết hai tướng của Tống Giang. Đúng là bọn Tống Giang có
binh hùng tướng mạnh, chỉ có thể dùng mưu mà thắng, chứ không thể lấy sức mà
đánh.
Đoàn Nhị nói:
- Dùng mưu mà thắng là thế nào?
Phó tham mưu nói:
- Đại quân của Tống Giang xe cộ, lương thảo đều đóng cả ở
Uyển Châu, vận chuyển đi các nơi đều phải lấy từ đó. Tôi nghe nói ở Uyển Châu
binh mã của quân Tống thế cô lực yếu, nguyên súy nên mật sai người đến bàn với
tướng trấn thủ ở Quân Châu và Củng Châu, hẹn ngày để họ từ hai đường đến đánh
vào phía nam Uyển Châu ở đây ta sẽ chọn tinh binh giao cho Mi tướng quân thống
lĩnh ruổi gấp đến phía bắc Uyển Châu lập công chuộc tội. Bọn Tống Giang nghe
tin, sợ Uyển Châu thất thủ tất sẽ lui quân về ứng cứu. Thừa dịp ấ~r, ở đây
Chúng ta sẽ điều tinh binh theo hai đường tiến đánh. Như thế có thể bắt được
Tống Giang.
Đoàn Nhị vốn là gã quê mùa dốt nát, làm sao hiểu được
binh cơ. Nay nghe viên tham mưu bàn vậy bèn cứ theo kế ấy mà thi hành. Bàn định
xong, Đoàn Nhị sai người đi Quân Châu và Củng Châu. Một mặt sai điểm hai vạn
quân mã giao cho bọn Mi Sảnh, Khuyết Chữ, ông Phi thống lĩnh, nhân lúc đêm tối
cuốn cờ im trống đưa quân ra cửa thành phía tây tiến về Uyển Châu.
Lại nói Tống Giang đang ngồi trong quân doanh suy tính kế
sách đánh thành thì thấy thủy quân đầu lĩnh ~ý Tuấn bước vào trong trướng,
thưa:
- Chiến thuyền của thủy quân hiện đã đến đậu ở hai nơi
sông Hán và sông Tương phía tây thành Sơn Nam. Tiểu đệ đến đây chờ lệnh đại
huynh.
Tống Giang mời ~ý Tuấn ở lại dưới trướng, róc rượu cùng
uống dăm chén. Vừa lúc ấy quân do thám trở về báo lại những tin tức nghe ngóng
được trong thành, nói bọn Đoàn Nhị đã đem quân mã đến đánh Uyển Châu:
- Tống Giang nghe xong cả sợ, vội sai mời quân sư Ngô
Dụng đến bàn bạc. Ngô Dụng nói:
- Trần an phủ và bọn Hoa Vinh đều là những người can đảm,
dũng lược; tiên phong không phải lo cho thành Uyển Châu. Ngược lại, nhân cơ hội
này ta nhất định phá được thành Sơn Nam.
Nói đoạn Ngô Dụng ghé tai nói nhỏ với Tống Giang. Tống
Giang cả mừng liền truyền đạt mật kế cho bọn ~ý Tuấn và các đầu lĩnh quân bộ là
bọn Bao Húc, hai mươi người, dẫn hai nghìn quân bộ, đến nửa đêm thì lên đường
đi theo ~ý Tuấn, việc ấy hãy tạm chưa nói đến.
Lại nói tướng giặc là bọn Mi Sảnh đã đem quân đến gần
Uyển Châu. Quân thám báo trở về báo tin, Trần an phủ giao cho Hoa Vinh và ~âm
Xung đem hai vạn quân mã ra ngoài thành đón đánh. Hai tướng vừa đưa quân ra
khỏi thành thì có quân thám mã lưu tinh về phi báo:
- Bọn Mi Sảnh đã ước hẹn với giặc ở Quân Châu, hiện giờ
ba vạn quân mã từ Quân Châu đã kéo đến cách phía bắc thành mười dặm. Trần an
phủ lại giao cho ~ã Phương, Quách Thịnh đem hai vạn quân mã ra cửa bắc thành
nghênh chiến. Một giờ sau lại có tin báo về:
- Quần giặc ở Củng Châu do bọn Qúy Tam Tư, Nghê Tập thống
lĩnh ba vạn quân mã đang tiến đến phía ngoài cửa tây.
Mọi người nhìn nhau sửng sốt lo lắng:
- Trong thành chỉ còn hai tướng là Tuyên Tán, Hách Tư
Văn, quân mã tuy có hai vạn nhưng quá nửa là quân già yếu, làm sao chống đỡ
nổi?
Bấy giờ Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng nói:
- An phủ đại nhân chớ quá lo lắng. Tiêu Nhượng tôi xin có
một kế.
Nói đoạn chéo hai ngón tay trỏ nói với mọi người:
- "Xin cứ làm như thế... như thế... thì phá tan được
giặc".
Mọi người từ Trần an phủ trở xuống đều gật đầu tán
thưởng.
Tiếp đó Trần an phủ truyền lệnh, giao cho Tuyên Tán, Hách
Tư Văn chọn năm nghìn quân tráng kiện mai phục trong cổng thành phía tây đợi khi
quân giặc rút lui mới nổi dậy đánh.
Hai tướng vâng lệnh ra đi. Trần Quán lại ra lệnh cho các
quân sĩ già yếu không phải giữ thành chỉ cuốn sẵn cờ đại, cờ lệnh các loại, hễ
nghe tiếng súng nổ trên lầu thành cửa tây thì nhất loạt giương cờ, đi đi lại lại
phía trong tường thành, nhưng không ai được ra ngoài. Cắt cử quân tướng đâu đó
đã xong, Trần an phủ sai quân sĩ khiêng rượu thịt lên bày tiệc trên lầu thành
cửa tây đợi quân giặc kéo đến. Chẳng bao lâu quân giặc ở Củng Châu do bọn Xúy
Tam Tư và Nghê Tập chỉ huy, dưới cờ có hơn mười viên phó tướng, hiên ngang hùng
hổ đem quân tiến đến dưới thành. Bọn Tam Tư, Nghê Tập thấy cổng thành mở toang,
trên lầu thành có ba viên quan và một viên tú tài đang ngồi uống rượu, xung
quanh đàn sáo nổi vang, thướt tha gấm lụa, nhìn quanh bốn phía tịnh không thấy
một bóng cờ. Xúy Tam Tư lấy làm lạ, không dám cho quân tiến lên. Nghê Tập nói:
- Trong thành đã sẵn sàng nghênh chiến, chúng ta phải rút
ngay kẻo bị trúng kế của địch.
Xúy Tam Tư liền ra lệnh lui quân. Bỗng nghe trên lầu
thành một tiếng pháo nổ vang, rồi quân sĩ bốn phía hò reo vang trời, chiêng
trống dậy đất. Không biết bao nhiêu cờ to, cờ nhỏ di động qua lại phía trong
tường thành. Quân lính nghe hai vị chủ tướng nói chuyện với nhau đã lấy làm
nghi ngờ kinh sợ, bây giờ lại càng hoảng hốt, không đánh mà rối loạn. Từ trong
thành Tuyên Tán và Hách Tư Văn nhanh chóng dẫn quân đánh thốc ra. Quân giặc đại
bại, vứt bỏ cờ xí, chiêng trống, giáo mác, ngựa chiến, giáp trụ nhiều vô kể, số
bị chém đầu đến hơn một vạn tên. Xúy Tam Tư và Nghê Tập đều bị loạn quân giết
chết. Quân sĩ còn lại tán loạn tìm đường chạy trốn. Tuyên Tán, Hách Tư Văn đắc
thắng thu binh dẫn quân về thành. Trần an phủ trước đó đã trở về súy phủ.
ở phía bắc, bọn Hoa Vinh, Lâm Xung đã giết được hai tướng
Khuyết Chữ và ông Phi, đánh tan quân giặc từ Quân Châu kéo đến, chỉ riêng Mi
Sảnh trốn thoát. Bọn Hoa Vinh thắng trận đem quân trở về, khi sắp vào thành thì
nghe tin quân giặc từ hai đường đánh tới:
- Giặc ở phía tây trúng kế Tiêu Nhượng đã phải rút lui,
còn giặc ở phía nam thì bọn Lã Phương, Quách Thịnh đang chặn đánh, chưa biết
thắng bại ra sao. Bọn Hoa Vinh liền truyền lệnh cho quân sĩ ruổi ngựa tiến gấp
về phía nam. Bấy giờ Lã Phương và Quách Thịnh đang hợp sức giao chiến với tướng
giặc. Lâm Xung, Hoa Vinh thấy vậy liền thúc ngựa đến hỗ trợ. Quân giặc bị đánh
tan số bị chém đầu tại trận và bắt sống nhiều không đếm xuể.
Như vậy trong ngày hôm ấy cả ba cánh quân của Vương Khánh
bị chết đến hơn ba vạn tên. Số bị thương không tính hết, khắp nơi thây chết đầy
đồng, máu chảy ngập ruộng. Các tướng Lâm Xung, Hoa Vinh, Lã Phương, Quách Thịnh
thu quân về thành, cùng với Tuyên Tán, Hách Tư Văn đến báo công trước trướng
của Trần an phủ. Trần Quán, Hầu Mông, La Tiễn đều vui mừng khen ngợi diệu kế
của Tiêu Nhượng, biểu dương anh em bọn Hoa Vinh dũng cảm anh hùng. Các tướng dạ
ran, khiêm nhường không dám nhận. Trần an phủ sai bày tiệc lớn khao thưởng ba
quân tướng sĩ, ghi công cho bọn Tiêu Nhượng, Lâm Xung, một mặt truyền lệnh cho
quân sĩ giữ vững thành trì, chuyện không nói nữa.
Lại nói Đoàn Nhị sai bọn Mi Sảnh đe ai quân ra khỏi
thành, đêm hôm sau Đoàn Nhị đứng trên.lầu thành nhìn về phía quân Tống. Bấy giờ
sắp đến rằm tháng tám, vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng như ban ngày. Đoàn
Nhị thấy bên quân Tống các loại cờ hiệu di động lộn xộn, rồi từ từ lui về hướng
bắc. Đoàn Nhị nói với viên phó tham mưu:
- Có lẽ Tống Giang biết tin Uyển Châu nguy cấp nên đành
rút lui.
Phó tham mưu nói:
- Hẳn đúng thế. Chúng ta phải điều ngay quân thiết kỵ ra
ngoài thành đuổi đánh.
Đoàn Nhị bèn ra lệnh cho hai tướng Tiền Tân, Tiền Nghi
điều hai vạn quân mã đuổi theo quân Tống. Hai tưởng vâng lệnh đi ngay. Đoàn Nhị
nhìn về phía tây, thấy dòng Tương Thủy ở ngoài thành lăn tăn lấp lánh ánh
trăng, đoàn chiến thuyền bốn năm trăm chiếc cũng đi dần lên phía bắc. Đoàn Nhị
ngày thường đã quen cướp phá, đêm nay thấy một đoàn thuyền lương đông như thế,
lại không có thủy quân đi kèm, mỗi thuyền chỉ có chừng sáu bẩy tay chèo, bèn ra
lệnh mở cửa sông phía tây thành, sai thủy quân tổng quản Chư Năng dẫn năm trăm
chiến thuyền đuổi theo đoạt đoàn thuyền lương.
Quân Tống thấy chiến thuyền của Đoàn Nhị tiến đến liền hạ
lệnh cho thuyền ghé vào bờ, các thủy thủ đều nhẩy lên bộ.
Vừa lúc đoàn thuyền của Chư Năng đến gần, bỗng nghe bên
phía thuyền quân Tống tiếng phèng la nổi lên vang trời, liền đó hơn một trăm
chiếc thuyền nhỏ, mỗi thuyền có hai người chèo, ba bốn người cầm thương giơ
thuẫn, vun vút lao tới.
Chư Năng ra lệnh cho thủy quân bắn hỏa pháo và tên lừa
chặn đánh. Quân trên các thuyền nhỏ không chống cự nổi, kêu la inh ỏi rồi nhảy
ào xuống nước. Quân giặc đắc thắng đoạt lấy đoàn thuyền lương. Chư Năng ra lệnh
cho các thủy thủ đem hết số thuyền đó vào thành. Chiếc đi đầu vừa qua khỏi cửa
sông thì có lệnh từng thuyền một phải khám xét, rồi mới được vào thành. Chư
Năng sai quân khám xét chiếc thuyền đã qua cửa sông. Hơn mười tên lính nhẩy lên
mở cửa thuyền nhưng không thể mở được vì cửa khoang đã bị đóng chặt bằng một
tấm gỗ. Chư Năng cả sợ nói:
- Trúng gian kế của địch rồi!
Nói xong ra lệnh đem búa đến phá chốt mở khoang thuyền.
Một mặt ra lệnh:
- "Những thuyền còn ở bên ngoài hãy thong thả chưa
được vào". Chư Năng chưa dứt lời thì thấy bên ngoài ba bốn chiếc thuyền
lương không có người chèo, nhưng dẫn theo dòng nước trôi nhanh như buồm gặp
gió. Chư Năng biết bị mắc mưu, vội sai lôi ngay những thuyền ấy vào bờ. Đúng
lúc ấy, từ dưới nước nhô lên hơn chục người, ai nấy đều ngậm dao lá răm ngang
miệng. Đó chính là tám vị anh hùng thủy quân:
- Lý Tuấn, hai anh em họ Trương, ba anh em họ Nguyễn, hai
anh em họ Đồng. Chư Năng hạ lệnh cho quân sĩ cầm giáo đâm xuống, Lý Tuấn bèn
đặt tay lên miệng huýt còi. Bấy giờ các đ~ u lĩnh quân bộ nấp trong khoang
thuyền tay lăm lăm khí giới, bật cửa hò hét xông ra. Đấy là bọn hai mươi tám
đầu lĩnh:
- Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm, Võ
Tòng, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn) Trâu
Uyên, Trâu Nhuận, Vương Định Lục, Bạch Thắng, Đoàn Cảnh Trụ, Thời Thiên, Thạch
Dũng, Lăng Chấn cùng hơn một nghìn quân bộ ào ạt nhẩy lên bờ, xông vào chém
giết. Quân giũ thành không chống cự nổi, tán loạn tìm đường chạy trốn. Chư Năng
bị Đồng Uy chém đầu, quân tướng trên các thuyền ở cả trong và ngoài thành bị
bọn Lý Qùy giết chết đến quá nửa, nước sông đỏ ngầu. Bọn Lý Tuấn chiếm lấy thủy
môn. Bấy giờ Bao Húc hộ vệ cho Lăng Chấn bắn pháo hiệu oanh thiên đạn mẹ đẻ đạn
con, rồi chia nhau đi đánh phá các nơi. Dân chúng trong thành xôn xao, cha con,
anh em hô gọi nhau nháo nhác. Đoàn Nhị biết có biến vội đem quân đến cứu ứng,
gặp ngay bọn Võ Tòng, Lưu Đường, Dương Hùng, Thạch Tú, Vương Định Lục. Vương
Định Lục lia một phác đao ngang đùi, Đoàn Nhị ngã gục và bị bắt sống. Bọn Lỗ
Trí Thâm, Lý Qùy hơn mười đầu lĩnh dẫn quân xông lên cửa bắc, chém giết đánh
tan quân canh giữ rồi mở cửa thành, thả cầu treo. Bấy giờ binh mã của Tống
Giang nghe tiếng pháo oanh thiên nổ vang liền quay lại đánh. vừa gặp Tiền Tân,
Tiền Nghi đem quân tiến đến. Quân hai bên xông vào hỗn chiến, Tiền Tân bị Biện
Tường đâm chết. Tiền Nghi bị Mã Linh đánh ngã, rồi bị người ngựa xéo nát như
bùn. Ba vạn quân thiết kỵ của bọn Tân, Nghi bị giết tại trận đến quá nửa. Các
tướng Tôn An, Biện Tường, Mã Linh dẫn quân lên trước, ruổi dài thẳng tiến vào
cửa bắc. Các tướng đánh tan quân giặc, đoạt lấy thành trì, mời Tống tiên phong
đem đại binh vào đóng trong thành.
Bấy giờ trời đã gần sáng, Tống Giang truyền lệnh cho quân
sĩ dập tắt các đám cháy, cấm giết hại dân thường. Đến khi trời sáng, Tống tiên
phong cho treo bảng chiêu an, các tướng đều đem thủ cấp giặc đến báo công.
Vương Định Lục áp giải Đoàn Nhị đến trước trưởng. Tống Giang sai đưa đến trình
Trần an phủ rồi đem xử chém. Viên phó tham mưu thì đã bị chết trong đám loạn
quân, các tướng tá khác chết trận nhiều vô kể, số đầu hàng đến hơn một vạn tên.
Tống Giang truyền lệnh giết trâu mổ ngựa khao thưởng ba quân tướng sĩ, ghi công
đầu cho Lý Tuấn, thứ đến là các đầu lĩnh khác, sai Mã Linh đến dinh Trần an phủ
báo tin thắng trận và hỏi tình hình quân giặc. Mã Linh tuân lệnh ra đi, độ vài
giờ sau trở về báo:
- "Trần an phủ được tin rất vui mừng, sẽ dâng biểu
về kinh tâu lên triều đình". Mã Linh còn thuật lại chuyện nhi ri nói ng
dùng mưu đẩy lùi quân giặc. Tống Giang ngạc Nếu quân giặc đoán ra ý định thì
đối phó thế nào? Đúng là mưu mẹo của thư sinh?
Tống Giang xuống lệnh lấy thóc gạo trong kho chẩn cấp cho
những người bị tai nạn binh hỏa. Một mặt sai thu xếp các khoản việc quân.
Công việc đã tạm xong, Tống Giang đang cùng quân sư Ngô
Dụng bàn kế tiến đánh quận Kinh Nam thì tiếp thư của Trần an phủ cho biết:
- Khu mật viện gửi trát đến nói quân giặc hoành hành ở
Tây Kinh, thường thọc sang đánh phá các huyện thuộc Đông Kinh, vậy truyền cho
anh em Tống Giang kịp đến Tây Kinh dẹp giặc, còn sào huyệt của Vương Khánh.
sẽ tiến đánh sau. Trần an phủ cũng có thư riêng cho Tống
Giang, trong đó kể vài chuyện nực cười của khu mật viện.
Tống Giang, Ngô Dụng đã hiểu rõ ý của Trần an phủ, liền
bàn kế điều quân:
- Một mặt vẫn đánh Kinh Nam, một mặt tiến đánh Tây Kinh.
Bấy giờ phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa và các hàng tướng Hà Bắc đều tình nguyện
đem quân đánh Tây Kinh. Tống Giang cả mừng, liền điều hai mươi bốn viên chánh
phó tướng và năm vạn quân mã đặt dưới quyền thống lĩnh của Lư Tuấn Nghĩa. Hai
mươi bốn viên chánh phó tướng ấy là:
- Phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa Phó quân sư Chu Vũ; Các
tướng Dương Chí, Từ Ninh, Tôn Lập, Sách Siêu, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc,
Trần Đạt, Dương Xuân, Yến Thanh, Giải Trân, Giải Bảo, Trâu Uyên, Trâu Nhuận,
Tiết Vĩnh, Lý Trung, Mục Xuân, Thi ân.
Các hàng tướng Hà Bắc:
- Kiều Đạo Thanh, Mã Linh, Tôn An, Biện Tường, Sơn Sĩ Kỳ,
Đường Bân. Ngay ngày hôm ấy Lư Tuấn Nghĩa cáo từ Tống tiên phong rồi thống lĩnh
tướng tá quân mã lên đường đi đánh Tây Kinh.
Tống Giang lệnh cho Sử Tiến, Mục Hoẵng, âu Bằng, Đặng Phi
thống lĩnh hai vạn quân mã ở lại đóng giữ thành Sơn Nam. Tống Giang căn dặn Sừ
Tiến:
- Nếu quân giặc đến đánh thì anh em ở đây chỉ nên giữ
thành cho chắc.
Rồi Tống Giang thống lĩnh các tướng còn lại cùng tám vạn
quân mã nhằm phía Kinh Nam tiến phát. Chỉ thấy:
- Giáo gươm nườm nượp như nước chảy, người ngựa bon nhanh
tựa gió ào.
Đúng là:
Gươm đao trắng lóa nghìn dặm tuyệt
Lọng cờ đỏ rực vạn chân mây.
Chưa biết quân Tống Giang đi đánh châu Kinh Nam thế nào,
xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 107 - Tống
Gian Đại Thắng Kỷ Sơn Quân
Đang nói chuyện Tống Giang thống lĩnh đại quân người ngựa
tiến nhanh về phía Kinh Nam, mỗi ngày quân đi sáu mươi dặm thì đóng trại nghỉ
ngơi. Phàm những nơi đại quân đi qua không tơ hào xâm phạm tài sản của dân. Chẳng
bao lâu người ngựa dừng đóng ở huyện Kỷ Sơn. Huyện này là nơi trọng yếu về phía
bắc châu Kinh Nam, do tướng giặc là Lý Hoài quản lĩnh ba vạn binh mã đóng giữ
trên núi. Tên Lý Hoài này là cháu Lý Trợ, được Vương Khánh phong chức huyện
tuyên phủ sứ. Lý Hoài nghe tin anh em Tống Giang thắng trận ở quận Sơn Nam,
Đoàn Nhị bị bắt sống, bèn sai quân lưu tinh về châu Nam Phong tâu với Vương
Khánh và Lý Trợ.
- Quân Tống Giang binh hùng tướng mạnh đã đánh chiếm hai
quận lớn, nay bọn chúng sắp tiến đánh Kinh Nam, lại sai Lư Tuấn Nghĩa đem binh
mã đến đánh Tây Kinh.
Lý Trợ nghe nói cả sợ, liền vào cung tâu với Vương Khánh.
Quan nội thị chuyển tâu vào trong. Một lát sau có thánh
chỉ truyền:
- "Quân sư hãy đợi. Đại vương sẽ ra ngự Ở chính
điện".
Lý Trợ chờ đợi hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh, bèn hỏi
thăm viên quan hầu quen biết. Người này nói:
- Đại vương và Đoàn chính phi đang to tiếng cãi nhau.
Lý Trợ hỏi:
- To tiếng vì chuyện gì?
Viên quan hầu ghé tai nói nhỏ với Lý Trợ:
- "Đoàn chính phi gây sự vì đã lâu không được đại
vương ngó đến". Lý Trợ lại chờ thêm lúc nữa mới thấy viên hầu cận ra bảo:
- Đại vương hỏi quân sư còn chờ ở đây không?
Lý Trợ đáp:
- Hạ quan vẫn đợi ở đây.
Nội thị lại chuyển tâu vào cung, lúc sau thấy một đoàn
thị tì theo hầu Vương Khánh lên chính điện. Lý Trợ bước vào lạy chào rồi tâu:
- Cháu của hạ thần là Lý Hoài báo tin về nói quân Tống
Giang thế lực hùng mạnh, đã đánh chiếm hai thành Uyển Châu và Sơn Nam. Nay Tống
Giang đang chia quân hai đường:
- Một đánh về Tây Kinh, một đánh Kinh Nam. Cúi mong đại
vương cho quân đi cứu viện.
Vương Khánh cả giận nói:
- Bọn Tống Giang là giặc cỏ sao dám cả gan chiếm đoạt
thành trì của ta?
Nói đoạn sai đô đốc Đỗ Canh thống lĩnh mười hai viên
chánh phó tướng và hai vạn quân mã đi cứu viện Tây Kinh.
Lại sai thống quân đại tướng Tạ Vũ thững lĩnh mười hai
chánh phó tướng và hai vạn quân mã cứu viện Kinh Nam. Hai tướng nhận binh phù,
tướng lệnh, lựa chọn binh mã, sửa soạn khí giới để lên đường. Các tướng tá do
khu mật viện điều tới cùng quan chuyển vận sứ Cung Chính lo việc vận chuyển
lương thảo cùng vào cáo từ Vương Khánh để lên đường, chuyện không có gì đáng
nói.
Lại nói binh mã của Tống Giang đến phía bắc, cách núi Kỷ
Sơn mười dặm thì dừng lại đóng trại, chuẩn bị tiến đánh.
Quân do thám trở về báo cáo tình hình bên giặc. Tống
Giang bàn bạc với quân sư Ngô Dụng, rồi nói với các tướng:
- Ta nghe nói thủ hạ của tên Lý Hoài đều là những tướng
sĩ dũng mãnh, Kỷ Sơn lại là nơi trọng trấn của Kinh Nam.
Bên ta tuy quân đông gấp bội, nhưng địch giữ chỗ hiểm, ta
ở nơi địa thế thấp, dễ bị quân địch bao vây. Tên Lý Trợ rất khôn ngoan quỷ
quyệt, anh em các tướng tiến đánh cần phải xem xét tình thế không được khinh
suất xem thường.
Nói đoạn hạ lệnh:
- Tướng quân vào doanh đóng cửa giảng bàn việc nước, ai
làm việc riêng:
- Chém; ai to tiếng tranh cãi:
- Chém. Quân không có hai lệnh, kẻ
nào hai lệnh:
- Chém; kẻ nào bất tuân lệnh:
- Chém.
Tuyên bố quân lệnh xong, toàn quân
im phăng phắc. Tống Giang sai Đái Tôn đi truyền lệnh cho đầu lĩnh thủy quân Lý
Tuấn phải canh phòng cẩn mật đoàn thuyền chở lương để kịp thời tiếp tế cho quân
sĩ. Lại sai người viết thư khiêu chiến gửi cho Lý Hoài, hẹn hôm sau đem quân
quyết chiến.
Tống Giang phong truyền lệnh sai Tần
Minh, Đổng Bình, HÔ Diên Chước, Từ Ninh, Trương Thanh, Quỳnh Anh, Kim Đĩnh,
Hoàng Việt dẫn hai vạn quân mã tiến lên đánh trước.
Sai Tiêu Đĩnh, ục Bảo Tứ, Đoàn Cảnh
Trụ, Thạch Dũng dẫn hai nghìn quân bộ đi chặt cây mở đường cho tiện chiến đấu.
Cắt cử mọi việc đâu đó xong, Tống
Giang và các tướng khác ở lại giữ trại. Ngày hôm sau, từ canh năm, quân sĩ thức
dậy thổi cơm, người ngựa ăn uống no, chờ lệnh đi đánh giặc. Bên quân địch, Lý
Hoài và các phó tướng Mã Cường, Mã Kính, Viên Lãng, Đằng Quỳ, Đằng Kham và hai
vạn quân mã ào ạt tiến đánh. Đó là năm tên kiêu dũng nhất trong số tướng giặc
đã được Vương Khánh phong là "Hổ uy tướng quân". Bấy giờ Lý Hoài dẫn
quân đến dàn trận đối diện với bọn Tần Minh ở chân núi phía bắc, trên núi còn
có quân mã phục sẵn để tiếp ứng. Cờ xí phất phơ rải khắp chiến trường. Quân hai
bên dàn thành trận thế, đối trận đều là những tay cung nỏ thiện xạ.
Tên bay tới tấp, tiếng trống thúc hò
reo vang trời, cờ lệnh đủ:
- Tung bay loạn mắt.
Bên quân Vương Khánh, Viên Lãng cưỡi
ngựa đứng dưới cờ tướng. Viên tướng này đầu dội mũ sắt, mình mặc áo chiến bào
thêu hoa cuộn, ngoài chẽn giáp sắt đen bóng, cưỡi ngựa Ô truy lông xoắn, mặt đỏ
râu vàng, thân cao chín thước, hai tay cầm hai cây giáo thủy tạ, một chiếc nặng
mười lăm cân, một chiếc nặng mười sáu cân. Viên Lãng cất tiếng nói to:
- Bọn giặc cỏ kia, kẻ nào dám đến
đây nộp mạng Bên trận quân Ương, hai hàng tướng Hà Bắc là Kim Đĩnh và Hoàng
Việt muốn lập công liền sánh ngựa xông ra trước trận mắng rằng:
- Bọn phản nghịch không đáng đếm
xỉa?
Nói đoạn Kim Đĩnh liền vung cây đại
đao bạt phong, Hoàng Việt múa cây giáo hồn thiết điểm cương thúc ngựa phóng đến
đánh Viên Lãng. Viên Lãng liền vung đôi giáo đón chặn; ba người ngồi trên ngựa
dàn thành hình chữ "đinh". Ba tướng đánh nhau chưa đầy ba mươi hiệp.
Viên Lãng giơ giáo chặn đỡ rồi quay ngựa bỏ chạy. Kim Đĩnh, Hoàng Việt thúc
ngựa đuổi theo. Bất ngờ Viên Lãng quay ngựa lại, ngựa của Kim Đĩnh quá đà hơi
vượt lên. Kim Đĩnh định vung đao chém với, nhưng Viên Lãng đã kịp đỡ, nghe
"choang" một tiếng, thanh đao của Kim Đĩnh đã bị quằn lưỡi. Kim Đĩnh
thu đao không kịp, bị Viên Lãng vươn tay phải đâm một giáo xuyên qua cả mũ sắt
và đầu, lăn nhào xuống ngựa. Hoàng Việt kịp phóng ngựa đến lao mũi giáo nhằm
vào tim Viên Lãng, nhưng Viên Lãng nhanh như cắt né mình tránh được. Mũi giáo
của Hoàng Việt mất đà, đâm sượt qua bên hông Viên Lãng. Viên Lãng kẹp nách trái
lại rồi thuận thế giật mạnh cán giáo của Hoàng Việt, Hoàng Việt mất đà ngã nhào
vào ngực Viên Lãng. Viên Lãng vội vươn tay phải ôm ngang lưng Hoàng Việt rồi xô
mạnh xông đất. Quân giặc hò reo chạy đến bắt Hoàng Việt lôi về, con ngựa của
Hoàng Việt đã kịp chạy về bên quân Tống. Tích lịch hỏa Tần Minh thấy mất hai
tướng, trong lòng cả giận thúc ngựa chồm ra trước trận múa cây lang nha côn
xông thẳng đến đánh Viên Lãng. Viên Lãng cũng múa qua đón chặn. Hai tướng đánh
nhau hơn năm mươi hiệp, bên trận quân Tống nữ tướng Quỳnh Anh cưỡi ngựa bạch,
tay cầm cây phương thiện họa kích, đầu đội mũ trụ màu tía cắm lông phượng, mình
mặc áo bào thêu lụa đỏ, ngoài chẽn áo giáp vẩy bạc có khảm vàng xông trận trợ
chiến cho Tần Minh. Tướng giặc là Đằng Qùy thấy viên nữ tướng thì vội cưỡi ngựa
xông ra trận, cười lớn:
- Bọn giặc cỏ Tống Giang sao lại đưa
tướng đàn bà ra trận?
Nói đoạn giơ cây đao hai mũi ba lưỡi
mác đón Quỳnh Anh.
Hai người đánh nhau hơn mười hiệp. Quỳnh
Anh giơ kích gạt mũi đao của Đằng Qùy rồi quay ngựa chạy về phía trận nhà.
Đằng Qùy quát to một tiếng, thúc
ngựa đuổi theo. Quỳnh Anh lén lấy đá trong chiếc túi gấm treo bên yên ngựa,
quay lưng lại ném trúng giữa trán Đằng Quỳ. Đằng Qùy mặt bết máu, lăn nhào
xuống ngựa. Quỳnh Anh bất ngờ quay ngựa đâm tiếp một mũi kích, kết liễu đời
hắn. Đằng Kham thấy anh mình bị chết bởi tay một viên nữ tướng, bừng bừng tức
giận, đạp ngựa ra trận vung roi sắt xông đến đánh Quỳnh Anh. Bên quân Tống,
sõlg tiên tướng HÔ Diên Chước phóng ngựa vung roi ra chặn đánh Đằng Kham. Quân
hai bên thấy tướng ngang sức ngang tài mà trang phục cũng giống nhau:
- HÔ Diên Chước chít khăn mỏ rìu
buông vạt đứng, mặc áo cụt chẽn ngực lửa vàng ánh kim, áo bào thất tinh màu
đen, ngoài khoác giáp sắt đen bóng, cưỡi ngựa Ô truỵ Đằng Kham chít khăn mỏ rìu
thắt vạt chéo chẽn ngực, lụa đỏ ánh lửa lông vàng. Xem ra HÔ Diên Chước chỉ hơn
Đằng Kham một cây roi sắt thủy ma bát lăng. Hai người xoay vòng tròn trước
trận, giao đấu vời nhau khi qua khi lại, hơn năm mươi hiệp chưa phân thắng bại.
Ở đằng kia, Tần Minh và Viên Lãng đã giao đấu đến một trăm năm mươi hiệp vẫn
không phân thắng bại.
Chủ tướng giặc là Lý Hoài đứng trên
cao thấy nữ tướng bên quân Tống ném đá giết Đằng Quỳ, bèn khua chiêng thu binh,
bọn Viên Lãng đưa quân rút lên núi. Tần Minh, HÔ Diên Chước thấy tướng giặc dũng
mãnh cũng không đuổi theo, bèn quay lại dẫn quân về trại. Bọn Tần Minh trở về
báo với Tống tiên phong biết quân giặc thế mạnh đã giết hai tướng Kim Đĩnh và
Hoàng Việt, nếu không có vợ chồng Trương Thanh thì quân ta đã mất nhuệ khí. Tống
Giang lo lắng buồn phiền, nói vôi quân sư Ngô Dụng:
- Tình thế như vậy, làm sao đánh
được Kinh Nam?
Ngô Dụng chập chập hai ngón tay trỏ
phác họa kế sách đánh Kinh Nam. Tống Giang cả mừng nghe theo. Tiếp đó Tống
Giang truyền lệnh cho Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Tiêu Đĩnh, Lý Quỳ, Phàn Thụy, Bao
Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Trịnh Thiên Thọ, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Cung Vượng, Đinh
Đắc Tôn, Thạch Dũng tất cả là mười bốn đầu lĩnh cùng pháo thủ Lăng Chấn, dẫn
năm nghìn quân khỏe mạnh, nhanh nhẹn, nhân lúc tối trăng, ai nấy chỉ đem các thứ
khí giới nhẹ như đoản đao, mã tấu theo đường tắt đi lén ra phía sau núi. Các
đầu lĩnh vâng lệnh ra đi. Sáng hôm sau Lý Hoài sai chuyển chiến thư đến quân
doanh của Tống Giang. Ngô Dụng bàn với Tống tiên phong:
- Quân giặc tất có mưu kế xảo quyệt.
Nhưng bên ta bọn Lỗ Trí Thâm đã lọt vào nơi trọng yếu, như vậy xin tiên phong
cứ cho sửa soạn để đánh ngaỵ Tống Giang chấp thuận đem quân giao chiến ngay hôm
ấy, phê vào thư cho lính của Lý Hoài mang về núi, rồi truyền lệnh cho Tần Minh,
Đổng Bình, HÔ Diên Chước, Từ Ninh, Trương Thanh, Quỳnh Anh làm tiên bộ thống
lĩnh hai vạn quân mã, cho quân cung nỏ đi bên ngoài, quân đánh kích thuẫn đi
bên trong, xe trận tiên trước có kỵ binh đi kèm. Sai Hoàng Tín, Tôn Lập, Vương
Anh Hỗ Tam Nương điều khiển một vạn quân mã túc trực trong doanh chờ lệnh. Lại
sai Lý ứng, Sài Tiến, Hàn Thao, Bành Kỷ điều khiển một vạn quân mã ngựa trực
sẵn trong doanh. Tống tiên phong căn dặn:
- "Hễ nghe tiếng pháo hiệu thì
các tướng từ hai hướng đông nam phải lập tức đem quân đánh ập vào". Mặt khác
lệnh cho Quan Thắng, Chu Đồng, Lôi Hoành, Tôn Tân, CốĐạI Tẩu, Trương Thanh, Tôn
Nhị Nương thống lĩnh hai vạn quân mã và quân bộ đóng giữ phía sau trại lớn đề
phòng viện binh của giặc đánh tới.
Cắt đặt công việc đã xong, Tống
Giang cùng Ngô Dụng và Công Tôn Thắng đích thân ra trận đốc chiến, còn các
tướng tá khác ở lại giữ trại. Khoảng đầu giờ Thìn, Ngô Dụng trèo lên chòi quan
sát, thấy địa hình núi non hiểm trở, vội xin Tống tiên phong ra lệnh cho quân
mã lui về phía sau hai dặm, dàn trận ở đó để có thể hỗ trợ cho hai đội kỵ binh.
Quân Tống vừa dàn trận xong thì từ núi Kỷ Sơn, tướng giặc Lý Hoài thống lĩnh
bốn viên hổ tướng:
- Viên Lãng, Đằng Kham, Mã Cương, Mã
Kính dẫn hai vạn năm nghìn quân mã đi trước.
Đằng Kham sai quân sĩ cắm đầu Hoàng
Việt lên chiếc sào dài vác theo trong đoàn xung trận năm nghìn quân thiết kỵ. Quân
mã của Đằng Kham đầu đội mũ sắt dầy, khoác giáp nặng, chỉ hở đôi mắt, ngựa
chiến cũng khoác giáp, đeo mặt nạ, chỉ chừa bốn vó. Hôm qua Lý Hoài thấy nữ
tướng bên quân Tống có tài ném đá rất lợi hại, đã sát thương một tướng bên
mình, Lý Hoài nghĩ bụng hôm nay nếu xảy ra như thế thì dù có ném đá cũng chẳng
làm gì nổi. Bấy giờ năm nghìn quân mã của Đằng Kham cứ hai tay cung thủ hỗ trợ
một tên quân đánh giáo mà tiến đánh. Quân bộ đi theo sau chia làm hai cánh đánh
ốp vào. Quân Tống chống cự không nổi, phải lùi về phía sau. Tống Giang vội
truyền lệnh bắn pháo hiệu. Mấy trăm quân sĩ đẩy xe bị quân Lý Hoài bắn sát
thương, may có những
chiếc xe ngựa chặn đường nên quân
thiết kỵ của Lý Hoài không tiến lên được. Những xe phía sau tuy có ky binh đi
kèm nhưng cũng không tiến lên được. Đang lúc nguy cấp bỗng nghe tiếng súng liên
châu nổ vang sau núi, rồi bọn Lỗ Trí Thâm dẫn quân trèo núi vượt đánh xông lên.
ở sơn trại của giặc chỉ có bốn nghìn
tên già yếu, do một viên tướng chỉ huy, bị giết sạch không còn một mống. Anh em
trí Thâm liền đoạt lấy sơn trại. Bọn Lý Hoài thấy sau núi òề biến vội cho quân
lui về, bị hai cánh quân do bọn Hoàng Tính và Lý ưng đánh úp vào. Tống Giang
lại lệnh cho các pháo thủ nhằm vào quân thiết kỵ của giặc mà bắn. Quân Lý Hoài
thua lớn, tan rã bỏ chạy. Bọn Lỗ Trí Thâm, Lý Qùy mười bốn đầu lĩnh dẫn quân bộ
từ trên núi đánh bạt xuống, quân giặc bị giết nhiều như ngả rạ, số sống sót tán
loạn tìm đường bỏ chạy. Tiếc thay cho Viên Lãng là viên mãnh tướng giờ đây bị
giết bởi làn đạn lửa? Lý Hoài chạy sau, bị Lỗ Trí Thâm giết chết, Mã Kinh, Đằng
Kham bị giết trong đám loạn quân, chỉ một mình Mã Cương trốn thoát. Quân Tống
Giang thu được giáp trụ, chiêng trống, ngựa chiến nhiều vô kể. Hơn ba vạn quân
Lý Hoài chết trận đến quá nửa. Khắp nơi trên núi, dưới đồi từ thi chất đống. Tống
Giang truyền lệnh thu quân, điểm lại quân sĩ mới biết thiệt hại đến hơn nghìn
người.
Bấy giờ cũng vừa lúc trời sắp tối,
Tống Giang bèn cho quân đóng lại nghỉ ngơi ở phía bắc núi Kỷ Sơn. Ngày hôm sau
Tống Giang dẫn tướng sĩ lên núi sai quân thu thập vàng bạc, lương thảo của bọn
Lý Hoài, phóng hỏa đốt trại của chúng rồi khao thưởng ba quân tướng sĩ, ghi thứ
tự công lao cho bọn Lỗ Trí Thâm mười lăm người và nữ tướng Quỳnh Anh. Xong
việc, Tống Giang lại đốc suất quân sĩ lên đường. Vượt qua Kỷ Sơn, đại binh của
Tống Giang dừng lại đóng trại cách thành Kinh Nam mười lăm dặm. Tống tiên phong
bàn bạc với quân sư Ngô Dụng để sắp xếp điều khiển các tướng sửa soạn tiến đánh
thành Kinh Nam. Chuyện ấy bất tất phải kể đến.
Chuyện kể tiếp sau đây theo hai
đường:
- Hãy quay lại nói việc Lư Tuấn
Nghĩa đem quân tiến đánh Tây Kinh, quân đi đến đâu bạt núi mở đường, bắc cầu
qua sông suối. Quân giặc đóng ở Bảo Phong, và các nơi khác trên đường đại quân
đi qua đều đầu hàng qui thuận, chong đèn đốt đuốc, dâng hương hoa tiến nộp
thành trì, xin hàng triều đình. Lư Tuấn Nghĩa ôn tồn úy lạo phủ dụ, vẫn giao
cho các hàng tướng tiếp tục cai quản thành trì. Các hàng tướng vì thế cảm động
ứa nước mắt, đều bầy tỏ ý nguyện cải tà qui chính.
Từ đó bọn Lư Tuấn Nghĩa không phải
lo lắng mạn phía nam, ngày đêm dẫn quân mã ruổi dài thẳng tiến.
Chẳng bao lâu đại quân của Lư Tuấn
Nghĩa đã đến phía nam thành Tây Kinh ba mươi dặm. Lư Tuấn Nghĩa xuống lệnh cho
quân đóng trại ở núi Y Khuyết. Quân thám mã đi dò tin tức, trở về báo tin chủ
súy giặc là ngụy tuyên phủ sứ Cung Đoan cùng các viên thống quân Hề Thắng và
mấy viên mãnh tướng đóng trong thành. Riêng tướng thống quân Hề Thắng là người
khá am hiểu trận pháp. Lư Tuấn Nghĩa cùng phó quân sư Chu Vũ định bàn nghị kế
sách tiến đánh Tây Kinh. Phó quân sư nói:
- Chu Vũ tôi được biết Hề Thắng là
kẻ hiểu biết binh pháp.
Chắc hắn sẽ tìm cách đương đầu với
bọn ta. Vậy bên ta nên bầy trước trận thế, đợi bọn hắn đem quân đến sẽ từ từ
tiến ra khiêu chiến.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Lời bàn của quân sư rất phải.
Nói đoạn hạ lệnh đưa quân mã xuống
bãi núi phía nam dàn thành thế trận Tuần hoàn bát quái.
Đang chờ thì thấy quân giặc ở Tây
Ninh chia ba đường trung quân giương cờ đỏ, tả quân giương cờ xanh, hữu quân
cũng giương cờ đỏ cùng lúc tiến đến. Hề Thắng thấy quân
Tống dàn thế trận trước bèn truyền
lệnh chò hai cánh quân tả hữu dừng lại đóng trại. Hề Thắng tự mình lên chòi cao
quan sát trận Tuần hoàn bát quái của quân Tống rồi nói:
- Thế trận này chẳng lấy gì làm cao
lắm. Đợi đó sẽ cho chúng biết trận pháp của ta?
Nói đoạn Hề Thắng sai quân gióng ba
hồi trống, lên đứng trên tướng đài, hai tay phất hai cờ hiệu để điều khiển quân
sĩ hai bên tả hữu dàn trận thế. Dàn thế trận xong, Hề Thắng bước xuống, gọi
tướng giữ kỳ môn mở cửa trận rồi thúc ngựa đến trước trận nói lớn:
- Ngươi bầy trận Tuần hoàn bát quái
định che mắt ta sao?
Lư Tuấn Nghĩa thấy Hề thắng muốn đối
đáp trận pháp bèn cùng Chu Vũ lên chòi quan sát nhìn sang. Trận thế của giặc cứ
ba người kết thành một tiểu đội, hợp ba tiểu đội thành một trung đội, hợp năm
trung đội thành một đại đội, xếp theo thế ngoài vuông trong tròn, lấy trận lớn
bao trận nhỏ để hỗ trợ liên lạc với nhau. Chu Vũ nói với Lư Tuấn Nghĩa:
- Đấy là phép trận Lục hoa của Lý
Dược S~l), Lý Dược Sư (#1)dựa vào Bát trận đồ của Vũ Hầu Gia Cát Lượng, cắt xén
thành trận Lục hoa. Quân giặc khinh ta không biết thế trận đó, mà chẳng hay
rằng đó cũng chỉ là trận bát quái, biết tám tám thành sáu tư. Như vậy phép bát
trận đồ của Gia Cát Lượng có thể phá được trận Lục hoa.
Lư Tuấn Nghĩa bèn ra trước trận quát
to:
- Trận Lục hoa của ngươi cũng chẳng
có gì lạ?
Hề Thắng nói:
- Ngươi có dám đánh vào không?
Lư Tuấn Nghĩa cả cười nói:
- Thế trận của ngươi nhỏ bé, đánh có
khó gì~ Nói đoạn thúc ngựa vào trận. Chu Vũ đứng trên tướng đài giơ cờ hiệu
phất trái giơ phải biến thành thế Bát trận đồ. Chu Vũ thay Lư Tuấn Nghĩa truyền
lệnh cho Dương Chí, Tôn An, Biện Tường ưnh một nghìn quân mã tiến vào đánh
trận. Chu Vũ nói:
- Hôm nay thuộc về ngày Kim, hãy
xuất phát từ phương ly ở phía nam, tất cả cùng lúc xông trận.
Bọn Dương Chí tuân lệnh, gióng ba
hồi trống đại. Các tướng nghe hiệu lệnh đều băng băng tiến đến phá tam môn kỳ
phía tây, giết tướng, chém quân, rồi ào ạt xông vào giữa trận. Bên trận chính
Lư Tuấn Nghĩa cùng bọn Mã Linh dẫn quân đánh ào sang, quân giặc đại bại.
Lại nói bọn Dương Chí tung quân đánh
vào giữa trận quân giặc thì gặp ngay Hề Thắng đang được bốn viên mãnh tướng hộ
vệ chạy về phía bắc. Bọn Tôn An, Biện Tường muốn lập công bèn dẫn quân đuổi
theo, không ngờ tiến sâu vào nơi trọng yếu Bỗng nghe phía sau sườn núi vang lên
tiếng thanh la, rồi một đoàn quân mã bon nhanh tới. Bọn Dương Chí, Tôn An quay
lại không kịp. Đúng là:
Xông trận ngựa lăn bên vách thẳm đá,
Vượt sông thuyền đắm giữa dòng xanh.
Chưa biết đội quân mã ấy từ đâu kéo
đến, và bọn Tôn An nghênh địch ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Chú thích:
(1-) Lý Dược Sư tử Lý Tịnh, danh tướng đời Đường.
Hồi 108 - Tiểu
Toàn Phong Nghi Binh Đánh Giặc
Đang nói chuyện Dương Chí, Tôn An, Biện Tường đuổi theo
Hề Thắng đến chân núi Y Khuyết, không ngờ phía sau sườn núi tướng giặc đã phục
sẵn hơn một vạn kỵ binh, bất ngờ xông ra chặn đánh. Quân hai bên xáp vào giao
chiến lớn. Hề Thắng thoát chết dẫn tàn quân chạy về thành Tây Kinh. Tôn An thừa
thắng đuổi theo, chém rụng hai tướng giặc. Nhưng vì quân ít không địch nổi, bị
hơn nghìn kỵ binh giáp mà dồn vào lũng núi. Thung lũng này bốn phía đều là vách
cao dựng dửng, quân giặc đã khuân đá chất bịt lối nên không có đường ra. Tàn
quân của Hề Thắng vào thành báo tin thất lợi với Cung Đoan. Cung Đoàn liền sai
hai nghìn quân đến chặn giữ ở cửa thung lũng. Bọn Dương Chí, Tôn An họa có cánh
mới thoát được.
Tạm gác chưa nói chuyện bọn Dương Chí bị vây, kể tiếp
chuyện Lư Tuấn Nghĩa phá trận Lục hoa của Hề Thắng, phần nhiều nhờ có Mã Linh
dùng Phép "Kim chuyên" (viên gạch vàng) phá trận, lại thêm bọn anh em
các tướng dũng mãnh nên giành toàn thắng, giết tại trận ba tướng. Lư Tuấn Nghĩa
thừa thế khua quân đuổi dài, chiếm ải Long Môn, chặt thủ cấp hơn một vạn quân
giặc, thu giáp trụ, ngựa chiến, chiêng trống nhiều không kể xiết. Quân giặc thua to, lui về
cố thu?
trong thành. Lư Tuấn Nghĩa điểm lại
quân mã, mới biết thiếu bọn Dương Chí, Tôn An, Biện Tường và một nghìn quân mã,
liền sai Giải Trân, Giải Bảo, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, mỗi người lĩnh một nghìn
quân mã chia đi tìm khắp bốn phía.
Đến chiều tối bọn Giải Trân trở về
cũng chưa rõ tung tích bọn Dương Chí ở đâu.
Ngày hôm sau, Lư Tuấn Nghĩa cho quân
đóng yên bất động, lại sai bọn Giải Trân chia nhau đi tìm. Giải Bảo dẫn quân rẽ
dây leo, vén gại mây, tìm đường vượt đèo qua núi, cuối cùng đến ngọn đèo cao
nhất trong dãy Y Khuyết. Đứng trên đèo này nhìn về phía tây, bên dưới là một
hang sâu bị cây cối um tùm che khuất, thấy lờ mờ bóng người ngựa. Bọn Giải Bảo
nhìn xuống không thấy rõ, mà gọi to cũng không nghe thấu. Giải Bảo bèn đem quân
xuống núi, định tìm dân địa phương để hỏi, nhưng bốn phía không một bằng người.
Dân ở đây tránh loạn đã rời đi nơi khác. Cuối cùng, khi vào một thung lũng bằng
phẳng, rộng rãi ở nơi sâu vắng mới gặp một khu thôn cư nghèo khổ. Mấy người dân
thấy quan quân vào thôn thì hoảng sợ, đứng túm tụm với nhau. Giải Bảo nói:
- Chúng tôi là quân sĩ của triều
đình đến đây truy bắt giặc cướp.
Mấy người dân nghe nói quân triều
đình lại cành tỏ ra hoảng sợ. Giải Bảo ôn tồn vỗ về thăm hỏi rồi nói:
- Chúng tôi là bộ hạ của Tống tiên
phong.
Mấy người ấy lại nói:
- Có phải Tống tiên phong đã từng
đánh quân Liêu, bắt Điền Hổ, không làm phiền nhiễu dân chúng hay không?
Giải Bảo nói:
- Đúng thế.
Mấy thôn đần bèn quỳ lạy, nói:
- Như vậy đủ biết quý tướng quân đến
đây không phải để bắt gà, bắt chó! Năm trước cũng từng có quan quân đến đây bắt
giặc, nhưng bọn họ cũng cướp phá chẳng khác gì quân
cường đạo. Vì thế dân thôn chúng tôi
mới phải lánh vào thung lũng này. Hôm nay quý tướng quân đến làm cho dân thôn
chúng tôi lại được thấy mặt trời.
Giải Bảo hỏi mọi người về việc hơn
một nghìn quân mã của bọn Dương Chí bị lạc đường không rõ hiện ở đâu, cũng hỏi
luôn cả đường lối đi vào hang sâu ở phía tây đèo. Thôn dân trả lời:
- Hang này gọi là hang Liên Hồng,
chỉ có một lối nhỏ đi vào.
Nói đoạn rồi dẫn bọn Giải Bảo đi đến
cửa hang, cũng gặp lúc hai cánh quân mã của Trâu Uyên, Trâu Thuận tìm đường đến
đấy. Cả ba cánh cùng hội quân rồi tiến đánh quân giặc giữ cửa hang, phá bức
tường đá. Sau đó Giải Bảo và Trâu Uyên dẫn quân mã tiến vào hang.
Bấy giờ bọn Dương Chí, Tôn An, Biện
Tường cùng một nghìn quân sĩ người ngựa đói mệt đang ngồi dưới gốc cây buồn bã
đợi chết, bỗng thấy bọn ~liải Bảo từ ngoài hang đi vào, ai nấy đều nhẩy lên vui
mừng. Giải Bảo lấy lương khô phân phát cho mọi người. ăn xong, tất cả người
ngựa lần lượt ra khỏi hang núi. Giải bảo đưa cả mấy người thôn dân về trại yết
kiến Lư tiên phong. Lư Tuấn Nghĩa cả mừng, sai lấy tiền bạc, thóc gạo cấp cho
họ, các thôn dân đều lạy tạ rồi ra về.
Không bao lâu đội quân của Giải Trân
cũng trở về. Đêm ấy quân sĩ nghỉ ngơi, không có gì đáng nói.
Ngày hôm sau, Lư Tuấn Nghĩa đang
cùng quân sư Chu Vũ bàn việc đưa quân đi đánh Tây Kinh, bỗng có quân lưu tinh
thám mã về báo:
- "Vương Khánh sai ngụy đô đốc
Đỗ Học dẫn mười hai viên chánh phó tướng và hai vạn binh mã đi cứu viện, hiện
đã đến cách thành Tây Kinh ba mươi dặm". Lư Tuấn Nghĩa liền lệnh cho Chu
Vũ, Dương Chí, Tôn Lập, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc cùng với Kiều Đạo Thanh,
Mã Linh thống lĩnh hai vạn binh mã dàn trận trước đại trại để sẵn sàng đánh
quân giặc từ trong thành ra. Lệnh cho Giải Trân, Giải Bảo, Mục Xuân, Tiết V nh
thống lĩnh năm nghìn
quân mã đóng giữ sơn trại. Lư Tuấn
Nghĩa tự mình cùng với các tướng tá còn lại thống lĩnh ba vạn năm nghìn quân mã
để đón đánh quân Đỗ Học. Bấy giờ Lãng từ Yến Thanh vào thưa với Lư tiên phong:
- Theo ngu ý ngày hôm nay chủ nhân
không nên ra trận.
Lư Tuấn Nghĩa hỏi:
- Tại sao?
Yến Thanh đáp:
- Đêm qua tiểu nhân chiêm bao thấy
có điềm chẳng lành.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Chuyện mộng mị chẳng đáng tin. Đã
đem thân báo nước thì có kể gì lợi hại?
Yến Thanh nói:
- Nếu tiên phong quyết ý đi đánh,
xin cho tiểu nhân năm trăm quân để dùng có việc.
Lư Tuấn Nghĩa cười nói:
- Hiền đệ định làm gì?
Yến Thanh đáp:
- Xin chủ tướng đừng hỏi, cứ giao
quân cho tiểu đệ là được.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Được rồi, ta sẽ cho quân, để xem
hiền đệ làm gì?
Nói đoạn xuống lệnh điều năm trăm
quân bộ giao cho Yến Thanh. Yến Thanh cáo từ dẫn quân ra đi.
Lư Tuấn Nghĩa nhìn theo mỉm cười. Sau
đó Lư Tuấn Nghĩa thống lĩnh người ngựa ra khỏi đại trại, đi về phía cầu Bình
Tuyền. Ở đây có nhiều phiến đá kỳ dị, là trang ấp cũ của Lý Đức Dụ đời Đường. Lư
Tuấn Nghĩa đi qua đó, thấy Yến Thanh đang đốc suất quân ~ chặt cây phát rậm thì
buồn cười, nhưng vì vội đem quân đi nên cũng không kịp hỏi. Đại quân của Lư
tiên phong tiến đếtl cách phía tây cửa Long Môn mười dặm thì dừng lại dàn thành
thế trận hướng về phía tây. Khoảng một giờ sau, quân giặc trong thành kéo tới. Hai
bên dàn trận đối nhau, quân sĩ nổi trống hò reo. Bên quân Tây Kinh, phó
tướng Vệ Hạc múa đại đao thúc ngựa
tiến ra trước. Bên quân Tống Sơn Sĩ Kỳ chẳng nói chẳng rằng nâng thương giật
ngựa tiến ra chặn đánh. Hai người ngồi trên ngựá quần đánh giữa trận đến gần ba
mươi hiệp, Sơn Sĩ Kỳ đưa mũi thương đâm đúng chân ngựa của Vệ Hạc. Con ngựa quy
ngã, hất Vệ Hạc xuống đất. Sơn Sĩ Kỳ đuổi theo đâm một thương giết chết.
Bên quân Tây Kinh, phó tướng Phong
Thái, cả giận, bèn hai tay vung hai cây thiết giản, lao ngựa đến đánh Sơn Sĩ
Kỳ.
Hai tướng đánh nhau hơn mười hiệp,
Biện Tường thấy Sơn Sĩ Kỳ không thắng nổi Phong Thái, liền cắp thương thúc ngứa
đến trợ chiến. Phong Thái quát to một tiếng rồi đánh một thiết giản hất Sơn Sĩ
Kỳ xuống ngựa. Lái đánh tiếp một thiết giản kết liễu tính mệnh Sơn Sĩ Kỳ, rồi
thúc ngựa múa kiếm đón đánh Biện Tường. Nhưng Biện Tường là viên mãnh tướng.
Phong Thái vừa lao đến đầu tầm ngựa,
Biện Tường quát vang, lao thương đâm trúng giữa tim. Phong Thái lăn nhào xuống
đất Quân hai bên hò reo vang dậy. Chủ súy quân Tây Kinh là Đỗ Học thấy một lúc
mất liền hai tướng trong lòng bừng bừng tức giận liền vung cây trường bát xà
mâu, phóng ngựa ra trận. Bên quân Tống, Lư Tuấn Nghĩa cũng đích thân ra trận
đối địch với Đỗ Học. Hai người giao chiến hơn năm mươi hiệp không phân thắng
bại. Cây xà mâu của Đỗ Học bay lượn xuất quỷ nhập thần. Tôn An thấy Lư tiên
phong không thắng được Đỗ Học, vội vung kiếm thúc ngựa ra giúp sức. Tướng giặc
là Trác Mậu thấy vậy liền múa cây lang nha côn ra chặn đánh Tôn An. Chỉ mới bốn
năm hiệp, Tôn An phấn khích vung kiếm phạt mạnh hất đầu Trác Mậu xuống đất. Rồi
Tôn An quay ngựa vọt lên phía trước, vung kiếm xông đánh Đỗ Học. Thấy Tôn An
vừa giết Trác Mậu, Đỗ Học chùn tay liền bị Tôn An vung kiếm chém đứt tay phải,
lăn xuống ngựa. Lư Tuấn Nghĩa đâm tiếp một thương, kết liễu đời hắn. Lư Tuấn
Nghĩa thúc quân ồ ạt đánh tràn sang, quân giặc đại bại.
Bỗng trên con đường nhỏ chạy xiên từ
phía tây nam có một
đội kỵ binh đang phóng như bay tới. Viên
tướng cưỡi ngựa đi đầu mặt mũi đen xì xấu xí, tóc bồng, đội mũ sắt, mặc chiến
bào đỏ, cưỡi ngựa chiến màu hung đỏ, tay giơ cao kiếm chỉ huy đội quân kỵ phóng
tới. Lư Tuấn Nghĩa và các tướng thấy đoàn quân mặc áo có dấu của giặc, bèn thúc
quân xông lên chặn đánh. Nhưng chỉ thấy viên tướng kia lẩm nhẩm niệm.
chú rồi nhìn về hướng chính nam vung
kiếm chém mạnh một nhát. Trong chớp mắt, viên tướng phun ra những luồng lửa đỏ
rực, khắp mặt đất khói bốc mù mịt, lửa cháy đùng đùng, những lưỡi lửa lan nhanh
về phía quân Tống. Lư Tuấn Nghĩa chạy lánh không kịp, quân Tống một phen đại
bại, vứt cả chiêng trống, khí giới, tán loạn tìm đường chạy trốn, những kẻ chậm
chân đều bị cháy đầu bỏng trán, thiệt mạng đến hơn năm nghìn người. Các tướng
hộ vệ Lư Tuấn Nghĩa chạy thoát về cầu Bình Tuyền, binh sĩ chen nhau qua cầu,
giẫm đạp đè lên nhau làm cho mặt cầu nghiêng võng. Cũng may trước đó, Yến Thanh
đã chặt cây đốn gỗ để sẵn hai bên bờ và ghép xong cầu phao, hai vạn quân Lư
Tuấn Nghĩa nhờ đó qua sông an toàn. Lư Tuấn Nghĩa và Biện Tường phi ngựa chạy
sau, vừa đến bên cầu thì bị tướng giặc đuổi kịp, phun một luồng lửa đúng vào
người Biện Tường. Biện Tường lửa cháy đầy mình lăn nhào xuống ngựa, bị quân
giặc ập tới đâm chết. Lư Tuấn Nghĩa vừa kịp lên cầu phao chạy thoát. Tên tướng
giặc vẫn xua quân đuổi theo. Bên quân Tống, đội tiền quân do Chu Vũ thống lĩnh
biết tin đại quân thất bại, vội báo cho đạo sĩ Kiều Đạo Thanh. Kiều Đạo Thanh
một mình một ngựa vung kiếm phóng đến đón chặn. Viên tướng ấy thấy Kiều Đạo
Thanh liền giơ kiếm chỉ hướng nam.và chém, ngọn lửa càng bốc dữ dội hơn. Kiều
Đạo Thanh múa tay bắt quyết, miệng lẩm nhẩm niệm chú, rồi vung kiếm chỉ về phía
bắc làm phép "Tam muội thần hỏa", Trong chớp mắt, bầu trời xuất hiện
những luồng khí đen bay nhanh tới, rồi biến thành trận mưa trút xuống ào ào như
thác đổ. Lại có vô vàn những khối sáng trắng như
ngọc tới tấp rơi xuống đầu quân
giặc. Chỉ trong chốc lát, khối lửa yêu quái ấy bị dập tắt. Tướng giặc thấy yêu
thuật của mình bị phá, vội quay ngựa bỏ chạy. Ngựa chiến. của hắn giẫm lên một
tảng băng trơn, trượt chân ngã khuỵu, hất hắn lăn xuống đất. Kiều Đạo Thanh
thúc ngựa tới, vung kiếm đưa một nhát, chém đứt làm hai đoạn. Đội kỵ binh giặc
thiệt mạng hơn năm trăm tên. Kiều Đạo Thanh chống kiếm quát to:
- Kẻ nào quy hàng thì tha tội chết!
Quân giặc thấy Kiều Đạo Thanh có
phép lực thần thông đều xuống ngựa, vứt giáo quỳ lạy xin tha mạng. Kiều Đạo
Thanh dùng lời lẽ ôn tồn vỗ về, chặt lấy thủ cấp tướng giặc rồi dẫn hàng binh
về yết kiến Lư tiên phong, báo tin thắng trận. Lư Tuấn Nghĩa không ngớt lời cảm
tạ phép thuật cao cường của Kiều Đạo Thanh và khen ngợi công lao của Yến Thanh,
bấy giờ các tướng hỏi ra mới biết tên tướng kia họ tên là Khấu Uy, quen dùng
yêu thuật sinh lửa để đốt người, và vì tướng mạo hắn xấu xí nên gọi là
"Độc diện quỷ vương" (Quỷ vương lửa độc). Trước đây hắn giúp Vương
Khánh nổi loạn, không biết bỏ đi đâu chừng hai năm, gần đây thấy hắn đến Nam
Phong nói:
- "Quân Tống thế lực rất lớn,
đợi đó ta sẽ quét sạch chúng". Vương Khánh bèn sai Khấu Uy ngày đêm đi gấp
đến đây. Bọn Cung Đoan, Hề Thắng thấy quân cứu viện bị đánh tan, không dám mở
cửa thành ra đánh, chỉ cho thêm quân đóng giữ những nơi trọng yếu. Bấy giờ Kiều
Đạo Thanh nói:
- Thành Tây Kinh vững chắc, không
vội đánh ngay được.
Đêm nay bần đạo xin thi thố một
thuật nhỏ, góp công báo đáp ơn lớn của hai tiên phong.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Xin đạo sĩ cho nghe diệu thuật.
Kiều Đạo Thanh ghé tai Lư Tuấn Nghĩa
nói nhỏ:
- "Cứ như thế, như
thế...". Lư Tuấn Nghĩa cả mừng cắt cử các tướng
chuẩn bị đánh thành. Ai đi lo việc
nấy. Một mặt sai quân sĩ lo việc an táng Sơn Sĩ Kỳ và Biện Tường. Lư Tuấn Nghĩa
tự tay dâng lễ tế. Đêm ấy vào khoảng canh hai, Kiều Đạo Thanh đi ra ngoài trỏ
kiếm làm phép. Trong nháy mắt mây mù đen kịt trùm kín thành Tây Kinh. Quân giữ
thành chỉ trong gang tấc không nhìn rõ nhau. Quân Tống lợi dụng lúc tối trời
theo cầu bay đu người vượt qua hào, trèo lên các ụ tường. Bỗng nghe một tiếng
súng nổ, bầu trời tối mịt bỗng chốc rực sáng.
Quân Tống đeo sẵn mồi lửa, nghe hiệu
lệnh liền châm lửa đốt đuốc khắp bốn mặt thành đều được chiếu sáng như ban
ngày.
Quân giữ thành khiếp sợ, luống cuống
không biết đối phó ra sao, bị quân của Lư Tuấn Nghĩa tràn vào rút khí giới chém
giết Quân giặc bị giết rơi xuống chân thành nhiều không kể xiết Cung Đoan và Hề
Thắng nghe tin có biến vội dẫn quân đến cứu, nhưng lúc ấy cả bốn cửa thành đều
đã bị quân Tống chiếm giữ. Lư Tuấn Nghĩa đốc thúc quân m~ tiến vào thành.
Cung Đoan, Hề Thắng bị loạn quân
giết chết. Các tướng tá đầu mục khác và ba vạn quân sĩ đều hạ k.hí giới qui
hàng.
Trăm họ không mảy may bị xâm phạm.
Trời vừa sáng, Lư Tuấn Nghĩa cho yết
bảng chiêu an, ghi công lớn cho Kiều Đạo Thanh, khao thưởng ba quân tướng sĩ.
Một mặt sai Mã Linh đến chỗ Tống
tiên phong báo ti 1 thắng trận. Mã Linh tuân lệnh ra đi, đến chiều tối hôm ấy
trở về nói lại:
- "Tống tiên phong đánh thành
Kinh Nam, đã mấy ngày liền giao chiến, đánh bại quân cứu viện từ Nam Phong tới.
Chủ súy giặc là Từ Ninh bị bắt sống.
Tống tiên phong vì việc quân vất vả bị Ốm phải nghỉ ngơi, trong vài ngày mọi
việc đều do quân sư Ngô Dụng điều khiển".
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói Tống Giang bị
Ốm, có ý lo buồn, vội thu xếp công việc, giao cho Kiều Đạo Thanh và Mã Linh cai
quản quân sĩ đóng giữ thành Tây Kinh. Ngày hôm sau Lư Tuấn Nghĩa từ biệt Kiều
Đạo Thanh và Mã Linh, đem theo bọn Chu Vũ và mười hai chánh phó tướng rời Tây
Kinh lên
đường đi gấp về Kinh Nam.
Một ngày kia binh mã của Lư Tuấn
Nghĩa đã đến doanh trại của đại quân đóng ở phía bắc thành Kinh Nam, anh em Lư
Tuấn Nghĩa cùng vào trong trướng thăm hỏi sức khỏe của Tống tiên phong. Nhờ có
An Đạo Toàn điều trị, bệnh tình của Tống Giang đã thuyên giảm sáu bẩy phần, bọn
Lư Tuấn Nghĩa đều yên lòng. Đang lúc mọi người chuyện trò bàn bạc việc quân,
bỗng có tên quân chạy về báo tin:
- "Đường Bân hộ tống bọn Tiêu
Nhượng rời doanh trại được ba mươi dặm thì gặp tướng giặc Kinh Nam là Mi Sảnh,
Mã Cương dẫn một vạn tinh binh theo đường hẻm tiến đến. Bọn Mi Sảnh định nhân
lúc Tống tiên phong bị Ốm, đem quân đánh từ phía sau nhằm cướp doanh trại. Đường
Bân một mình địch với hai tướng giặc, quân sĩ ít, hơn nữa Mi Sảnh lại là viên
tướng mười phần dũng mãnh, nên đã bị Mi Sảnh giết. Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên, Kim
Đại Kiên bị giặc bắt sống. Bọn chúng đang tìm cách cướp trại thì có tin đại
quân của Lư tiên phong tiến đến, quân giặc đã trốn đi đem theo cả bọn Tiêu
Nhượng".
Tống Giang lo quá, bất giác bật
khóc, nói:
- Tính mạng bọn Tiêu Nhượng nguy
mất.
Tống Giang vì lo lắng, bệnh tình có
phần nặng hơn. Lư Tuấn Nghĩa phải lựa lời khuyên giải rồi hỏi:
- Huynh trưởng sai Tiêu Nhượng đi
đâu?
Tống Giang nói:
- Tiêu Nhượng biết ta bị Ốm, xin
phép Trần an phủ đến thăm, Trần an phủ lại cho Tiêu Nhượng đem cả Kim Đại Kiên
và Bùi Tuyên đến Uyển Châu dựng bia ghi công và xem xét văn thư giấy tờ. Hôm
nay ta đã giao cho Đường Bân dẫn một nghìn quân bộ hộ tống bọn Tiêu Nhượng đi
Uyển Châu, không ngờ bị quân giặc bắt được. Bọn Tiêu Nhượng chắc sẽ bị giặc
giết.
Tống Giang giao cho Lư Tuấn Nghĩa
giúp bọn Ngô Dụng tiếp tục đánh thành Kinh Nam, bắt cho được bọn Mi Sảnh,
Mã Cương để báo thù. Lư Tuấn Nghĩa
tuân lệnh, đi ngay đến doanh trại đóng ở phía bắc thành. Chuyện trò thăm hỏi
bọn Ngô Dụng xong, Lư Tuấn Nghĩa kể lại việc Tiêu Nhượng bị bắt. Ngô Dụng giật
mình kinh sợ nói:
- Khổ quá? Nguy cho bọn ba người này
rồi?
Nói đoạn, Ngô Dụng truyền lệnh cho
các tướng đem quân đi vây thành, quyết hạ cho bằng được.
Các tướng tuân lệnh, chia quân bao
vây bốn mặt, cho bắc thang gọi to vào thành:
- Phải trả ngay Tiêu Nhượng, Kim Đại
Kiên, Bùi Tuyên?
Nếu chậm trễ đại quân đánh vào thì
bất kể quân dân đều bị giết hết.
Lại nói quân giặc đóng giữ thành do
tướng Lương Vĩnh làm trấn thủ, còn bọn Mi Sảnh, Mã Cương chỉ là tướng bại trận
chạy về tránh ở đấy. Hôm ấy sau khi bắt được bọn Tiêu Nhượng, Mi Sảnh gọi lính
canh mở cổng tì-lành áp giải ba người vào dâng công trước súy phủ. Lương Vểnh
từng nghe tên tuổi Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng, bèn sai quân sĩ cởi trói,
tìm cách dụ hàng. Bọn Tiêu Nhượng đều trừng mắt quát mắng:
- Quân vô lễ! Các ngươi coi bọn ta
là hạng người thế nào?
Bọn phản nghịch, hãy đem ta ra mà
chém ngay đi? Cả sáu đầu gối của bọn ta đây, các ngươi đừng mong một cái ~ ìo
biết quỳ! Chỉ trong ngày hôm nay, đại quân của Tống tiên phong sẽ kéo đến phá
tan thành trì, phanh thây quân phản nghịch làm muôn mảnh?
Lương V nh cả giận, quát gọi quân
sĩ:
- Đánh cho ba con vật này bắt chúng
phải quỳ!
Bọn lính hầu của Lương V nh vác gậy
đến đánh bọn Tiêu Nhượng. Chỉ nghe tiếng ngã huỳnh huỵch, chẳng những không ai
chịu quỳ mà còn luôn mồm chửi mắng. Lương V nh nói:
- Các ngươi muốn chém làm hai đoạn
thì cứ đợi đấy, ta sẽ cho được như ý.
Nói đoạn quát quân sĩ:
- Đóng gông cả ba đứa đem ra trước
cửa doanh, nhè vào chân lừa của chúng mà đánh, ắt phải chịu quỳ.
Mấy tên lính tuân lệnh đem gông đến
đóng vào cổ ba người, dẫn đi.
Quân lính và dân chúng khi ấy đang
đứng xung quanh cửa doanh đều xúm đến xem mặt cho biết quan quân triều đình như
thế nào. Thấy bọn Tiêu Nhượng bị đánh đập tàn nhẫn, trong đám đông có kẻ trượng
phu không nén nổi căm giận. Người ấy họ Tiêu, tên tự là Gia Huệ, trú ngụ Ở
phốhàng Giấy phía nam súy phủ. Cụ cao tổ của người ấy là Tiêu Đảm, tự Tăng Đạt
giữ chức thứ sử Kinh Nam dưới thời Nam Bắc Triều. Một lần mưa lũ vỡ đê, Tiêu
Đảm đứng dưới mưa to gió lớn đốc suất quân dân hộ đê. Có kẻ tiểu lại xin quan cho
tạm nghỉ để tránh mưa, Tiêu Đảm nói:
- "Các quan muốn theo nước lụt
trôi cả ra sông? Còn ta thì không nỡ để quý quan phải chết oan!". Mọi
người thấy quan thứ sử nghiêm khắc như vậy đều phải gắng sức đắp đê, nhờ vậy
quãng đê vỡ đắp xong, tránh được trận lụt. Năm ấy được mùa, có một cây lúa trổ
năm bông Tiêu Gia Huệ lấy tên tự theo sự tích tốt đẹp đó của cụ cao tổ. Nhân có
việc xuống chơi Kinh Nam, Tiêu Gia Huệ thấy dân ở đây còn nhớ ơn đức Tiêu Đảm,
nên rất kính trọng Gia Huệ. Gia Huệ là người can đảm, bản tính hào hiệp chí khí
cao xa, có lòng độ lượng, sức vóc, võ nghệ hơn người. Hễ gặp những người dũng
cảm gan dạ, bất kể sang hèn, Gia Huệ đều kết giao và giúp đỡ tiền bạc. Khi
Vương Khánh làm loạn, cướp đoạt thành trì, Gia Huệ từng hiến kế nhưng quan trấn
thủ không chịu nghe, rốt cuộc bi mất thành. Tiêu Gia Huệ mắc kẹt phải ở lại
trong thành Kinh Nam, ngày đêm vẫn mưu toan việc thu phục thành trì. Nhưng
"một cây làm chẳng nên non". Đến nay thấy quân giặc trói đánh bọn
Tiêu Nhượng, lại nghe nói quân Tống Giang đang tiến đến vây đánh, quân dân
trong thành đều lo lắng. Tiêu Gia Huệ suy tính:
- "Thời
cơ đã đến, phải quyết một phen mới
bảo toàn được dân cư trong thành". Nghĩ đoạn Gia Huệ trở về nhà trọ. Bấy
giờ vào khoảng xế chiều, Gia Huệ gọi tiểu đồng mài mực, ra phố tìm mua mấy tờ
giấy khổ to loại dày và dai, rồi trở về thắp đèn, chấm mực đẫm bút, viết bản
cáo thị bằng chữ lớn:
- "Dân chúng trong thành đều là
thần dân lương thiện của triều đình nhà Tống, tất không cam chịu tiếp tay cho
giặc.
Tống tiên phong là tướng giỏi của
triều đình, từng đánh quân Liêu, bắt giặc Điền Hổ, đến đâu không một kẻ nào dám
đụng mũi giáo. Dưới cờ của Tống tiên phong, thủ hạ có một trăm linh.tám tướng
lĩnh cùng đồng lòng hiệp sức. Ba vị đầu lĩnh bị bắt trói trước doanh, vì nghĩa
khí không chịu quỳ gối, đủ biết anh em Tống tiên phong anh hùng trung nghĩa như
thế nào? Hôm nay nếu quân giặc giết hại ba người ấy thì sớm muộn thành này cũng
bị đánh phá vì thế giặc trong thành quân cô tướng ít, lúc bấy giờ ngọc đá chẳng
phân. Vậy quân dân trong thành, ai muốn bảo toàn tính mạng, hãy theo ta ra đánh
giặc".
Tiêu Gia Huệ viết xong cáo thị, lặng
lẽ ra ngoài phố đi nghe ngóng tình hình. Thấy dân chúng nhiều người than khóc
lo sợ, Gia Huệ thầm nghĩ:
- "Lòng dân như thế, kế của ta
chắc thành". Mờ sáng hôm sau, Gia Huệ lẩn vào đám đông. quanh các phố gần
súy phủ, lén vứt tờ cáo thị xuống đường. Một lúc sau, trời sáng hẳn, quân sĩ và
dân chúng nhặt được tờ giấy xúm nhau mở xem. Ở một chỗ khác mọi người cũng đang
xúm đọc một tờ cáo thị như thế. Một tên quân tuần tiễu đi đến, giật lấy một tờ,
chạy như bay đem về nộp cho Lương Vĩnh. Lương V anh cả sợ; vội truyền lệnh canh
giữ doanh trại cẩn mật, một mặt phải tuần hành gắt gao để truy bắt gian tế.
Tiêu Gia Huệ dắt đoản đao lẫn vào
đám đông đi quanh các nơi xem xét, thỉnh thoảng đứng lại đọc giúp bản cáo thị
cho mọi người nghe. Quân dân nghe đọc xong bản cáo thị, ai nấy đều sửng sốt
nhìn nhau. Lúc ấy có một viên quan đi truyền
lệnh cưỡi ngựa cùng năm sáu tên lính
hầu vừa đi qua. Tiêu Gia Huệ bèn sấn đến quát to một tiếng, rút đoản đao chém
đứt chân ngựa. Viên quan kia ngã nhào xuống đất, Gia Huệ sả tiếp một đao khiến
hắn đầu lìa khỏi cổ. Gia Huệ tay trái xách thủ cấp tên giặc, tay phải cầm đoản
đao hô lớn:
- Những ai muốn giữ tính mạng hãy
theo Tiêu Gia Huệ tôi đi đánh giặc!
Đám quân sĩ ở trước súy phủ ngày
thường đã biết Tiêu Gia Huệ là người có chí khí sắt đá, cho nên chỉ trong
khoảnh khắc có đến năm sáu trăm người đồng tình xin theo. Tiêu Gia Huệ thấy đám
đông hưởng ứng, lại nói lớn:
- Ai là người dũng cảm hãy giúp sức
với ta!
Tiếng hô vang động đến mấy trăm
bước. Dân chúng dồn đến mỗi lúc một đông. Kẻ vác giáo, người xách gậy, cũng có
người nhổ cọc rào, bẻ chân bàn làm khí giới:
- chỉ trong chốc lát đã có đến năm
sáu nghìn người. Đám đông hò reo vang dậy. Tiêu Gia Huệ đi đầu, dẫn đoàn người
xông vào súy phủ.
Lương Vĩnh ngày thường ngược đãi
đánh đập quân dân quân hộ vệ của hắn cũng căm ghét hắn đến tận xương tủy.
Nghe có biến, bọn họ vội chạy ra
hưởng ứng. Đám đông nổi giận ùa vào, giết hết lớn bé cả nhà Lương Vĩnh. Khi Gia
Huệ dẫn đám đông ra khỏi súy phủ thì số người theo đã lên đến hơn hai vạn
người. Mọi người kéo đến cởi trói, tháo gông cho Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên và Kim
Đại Kiên. Tiêu Gia Huệ chọn ba người khỏe mạnh cõng bọn Bùi Tuyên, xách thủ cấp
Lương Vĩnh, dẫn đầu đoàn người tiến ra cửa bắc, giết tướng giữ thành là Mã
Cương, đánh đuổi lính canh, rồi mở cổng thành, thả cầu treo.
Bấy giờ Ngô Dụng đã đến ngoài cửa
bắc, đang thúc quân đánh thành. Nghe bên trong có tiếng hò reo, rồi cổng thành
bật mở, mọi người ngỡ là quân giặc đánh ra. Ngô DụN~F vội cho quân mã lui về
phía sau ba bốn tầm tên, dàn trận đón đánh. Bấy giờ bên quân Tống mới nhìn thấy
Tiêu Gia Huê.
xách thủ cấp, phía sau là ba tên
quân khỏe mạnh cõng bọn Tiêu Nhượng chạy qua cầu treo ra ngoài. Ngô Dụng chưa
hết ngạc nhiên, thì nghe tiếng Tiêu Nhượng gọi to:
- Ngô quân sư! Đây là tráng sĩ Tiêu
Gia Huệ, người đã kêu gọi dân chúng nổi dậy giết giặc, giải cứu cho bọn tôi?
Ngô Dụng nửa lo nửa mừng, Tiêu Gia
Huệ bước đến nói:
- Việc đang gấp không kịp thi lễ. Xin
quân sư đem binh mã vào thành ngay.
Những người đứng bên cầu treo cũng
đồng thanh hô lớn:
- Xin mời Tống tiên phong vào thành!
Thấy nét mặt hân hoan của mọi người,
Ngô Dụng yên lòng bèn truyền lệnh cho các tướng đem quân mã tiến vào thành.
Cấm quân sĩ không được giết hại
lương dân. Kẻ nào trái lệnh sẽ chém cả người đồng ngũ. Quân sĩ canh giữ trên
mặt thành cửa bắc thấy tình thế như vậy đều vứt giáo, xuống thành đầu hàng. Quân
sĩ ở ba cửa còn lại nghe tin đều trói tướng giữ thành, mở toang cổng lớn, bưng
hương hoa đèn nến ra ngoài nghênh đón quân Tống. Trong lúc lộn xộn, kh!)ắng a;
dám đến gần Mi Sảnh nên hắn nhân đó lẻn ra cửa tây, rồi xông qua vòng vây chạy
thoát.
Ngô Dụng liền sai quân phi báo cho
Tống Giang. Tống Giang nghe tin thắng trận, trong lòng vui vẻ, bệnh tình thuyên
giảm đến tám chín phần, liền truyền lệnh cho các tướng nnớ trại lên đường.
Đại quân tiến vào thành Kinh Nam,
Tống Giang lên chính đường trong súy phủ, vỗ yên quân dân, úy lạo tướng sĩ. Tống
Giang mời Tiêu Gia Huệ vào trong phủ đường, khoác tay mời ngồi vào ghế giữa rồi
sụp xuống lạy tạ:
- Nhờ công của nghĩa sĩ tập hợp dân
chúng nổi dậy giết quân phản nghịch, khiến cho sinh linh trăm họ vẹn toàn, lấy
lại được thành trì mà không phải đổ máu, cứu sống cho ba người anh em chúng
tôi. Tống Giang xin đa tạ tráng sĩ?
Tiêu Gia Huệ đáp lạy không kịp, nói:
- Đó là công sức của quân dân trong
thành không phải do tài cán một mình Gia Huệ tôi?
Nghe lời khiêm tốn của Gia Huệ, Tống
Giang lại càng kính phục hơn. Các đầu lĩnh khác đều đến lạy tạ Tiêu Gia Huệ.
lúc ấy quân sĩ trong thành cũng vừa
áp giải bọn tướng giặc đến dâng nộp. Tống Giang cho hỏi từng người, thàm kẻ nào
chịu đầu hàng đều được tha tội chết. Khắp thành tiếng hò reo hân hoan vang dậy.
Quân Vương Khánh vứt giáo qui phục đến mấy vạn người. Đoàn chiến thuyền trên
sông Hán cũng đã đến đậu ở ngoài thành. Lý Tuấn và các đầu lĩnh thủy quân vào
súy phủ chào Tống tiên phong.
Tống Giang sai dọn tiệc rượu khoản
đãi Tiêu tráng sĩ. Tống Giang nâng chén nói:
- Túc hạ tài cao đức cả, Tống Giang
tôi về triều xin tâu để tráng sĩ được thiên tử cất nhắc trọng dụng.
Tiêu Gia Huệ nói:
- Tiên phong bất tất phải làm như
vậy. Việc làm hôm nay của Gia Ĩuệ tôi chẳng phải vì phú quý công danh. Gia Huệ
tôi từ lúc còn trẻ đã sống ngang tàng, lớn lên cung không chịu gò mình trong
khuôn phép hương ẩm, chỉ là một kẻ quê mùa cô lậu mà thôi. Ngày nay, bọn sàm
nịnh khua môi múa mép mà bậc hiển sĩ vắng người. Dẫu có tài năng quý báu như
ngọc châu của Tùy hầu, ngọc bích của Biện Hòa, dẫu có đức hạnh như Hứa Do, Bá
Di, cũng không được cửu trùng biết đến. Gia Huệ tôi thấy không ít người có chí
khí anh hùng, vào sinh ra tử vì việc quốc gia, nhưng cử sự có chỗ không ổn
đáng, cũng chỉ vì muốn được toàn vẹn cho thân mình và gia đình vợ con, rồi dần
dần cũng dưỡng thành thói xấu, phó mặc cả tính mệnh bản nhân và gia đình trong
tay bọn quyền thần gian nịnh.
Gia Huệ tôi không nặng nợ kiếp
trước, thảnh thơi như hạc nội mây ngàn, muốn bay đến chân trời nào thì bay!
Câu chuyện bên bàn tiệc khiến anh em
Tống Giang đều có ý buồn rầu. Bọn Công Tôn Thắng, Lỗ Trì Thâm, Võ Tòng, Yến
Thanh, Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Đái Tôn, Sài Tiến, Phàn Thuỵ, Chu Vũ, Tưởng
Kính đến hơn mười đầu lĩnh đều trầm ngân tán thưởng ý vị trong câu chuyện của
Tiêu tráng sĩ. Chiều tối tiệc tan, Tiêu Gia Huệ cáo từ ra về.
Ngày hôm sau, Tống Giang sai Đái Tôn
đến báo tin thắng trận với Trần an phủ, rồi đích thân đến tận chỗ ở thăm Tiêu
tráng sĩ, không ngờ Tiêu tráng sĩ đã đi xa rồi. Người chủ hàng giấy nói:
- Tiêu tiên sinh sáng nay đã thu xếp
khăn gói gươm đàn, từ biệt chúng tôi để lên đường, không rõ đi đâu.
Tống Giang về súy phủ nói cho mọi người
biết Tiêu Gia Huệ đã đi xa, các đầu lĩnh ai nấy đều luyến tiếc. Buổi tối Đái
Tôn trở về báo cho Tống Giang biết Vũ học dụ La Tiễn cùng bọn Lâm Xung, Hoa
Vinh theo kế sách của Trần an phủ và Hầu tràm mưu đã thu phục được các châu
huyện ở Uyển Châu, Sơl(l Nam, triều đình đã sai các tân quan đến cai quản, công
việc đôi bên giao nhận đã xong. Trần an phủ cùng các tướng hiện đã lên đường
đến Kinh Nam, chẳng bao lâu sẽ tới nơi.
Tống Giang bàn với quân sư Ngô Dụng,
đợi khi Trần an phủ đến thay giữ thành Kinh Nam thì đại quân sẽ tiến đánh sào
huyệt của Vương Khánh. Trong khoảng sáu bẩy ngày nghỉ ngơi diều trì ở thành
Kinh Nam, bệnh tình của Tống Giang đã khỏi. Nghe tin quân mã của Trần an phủ
đến, Tống Giang và các đầu lĩnh đều ra ngoài thành đón tiếp. Các tướng đến lạy
chào xong, Trần an phủ cho khao thưởng ba quân tướng sĩ Bọn Sài Tiến trấn thủ ở
Sơn Nam sau khi giao lại việc châu cho quan mới để tiến theo đại quân, cũng vừa
đến nơi.
Tống Giang giao công việc ở châu
Kinh Nam cho Trần an phủ cai quản. Rồi đó Tống Giang dẫn các đầu hnh vào cáo từ
Trần
an phủ để thống lĩnh đại quân lên
đường, chia hai ngả tnủy lục tiến đánh sào huyệt Vương Khánh ở châu Nam Phong.
Lúc này đủ mặt một trăm linh tám vị
đầu lĩnh, có thêm các hàng tướng Hà Bắc là bọn Tôn An mười một người, quân mã
tất cả hơn hai mươi vạn. Quân Tống Giang càng đánh càng thắng, binh uy ngày
càng vang động. Quan quân đến đâu, quân giặc đều sợ hãi quy hàng. Mỗi khi thu
phục được các châu huyện, Tống Giang lại phi báo để Trần an phủ xuống lệnh cho
Vũ học dụ La Tiễn đem binh mã đến đóng giữ.
Đại quân thủy bộ của Tống Giang ruổi
dài tiến đến địa giới châu Nam Phong. Quân thám mã về báo tin Vương Khánh vừa
phong cho Lý Trợ làm thống quân đại nguyên súy. Lý Trợ đã lấy năm vạn quân thủy
bộ Ở châu Nam Phong, lại điều thêm quân mã ở các châu Vân An, Đông Xuyên, An
Đức, mỗi châu hai vạn giao cho bọn đô giám Lưu Dĩ Kính, Thượng Quan Nghĩa thống
hnh. Tất cả có đến mấy chục viên mãnh tướng và hơn mười một vạn hùng binh do
Vương Khánh đích thân đốc suất lên đường, chặn đánh quan quân nhà Tống. Tống
Giang được tin, bàn với quân sư Ngô Dụng:
- Quân giặc ào ạt tiến đến, ắt bọn
chúng sẽ liều chết quyết chiến. Ta nên có kế sách gì để đánh thắng?
Ngô Dụng nói:
- Bính pháp có câu:
- "Đa phương dĩ ngộ chi"
(chia ra nhiều hướng để lừa địch). Nay bọn ta các tướng sĩ đều hội cả một nơi,
không bằng chia làm mấy cánh, khiến bọn chúng rối loạn không ứng phó được. Tống
Giang xuống lệnh điều quân theo kế sách Ngô Dụng đã bàn.
Trước đó một ngày, Phốc thiên điêu
Lý ứng, Tiểu toàn phong Sài Tiến vâng lệnh Tống tiên phong đã cùng các đầu lĩnh
quân bộ là Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Thi ân, Tiết Vĩnh, Mục Xuân, Lý Trung
đem năm nghìn quân hộ tống đoàn xe chở lương thảo vải vóc, súng ống.
Phía sau đại quân gầnb chân núi Long
Môncó một Thôn trang, xung quanh núi đất bao bọc như bức thành., có lối ra vào
từ ba phía. Trong thôn có khoảng vài tra9m nóc nhà lá đều bỏ trống. Dân làng
tránh binh mã đã dời đi nơi khác cả.. Tối hôm a6 y, gió đông bắc thổi mạnh, mây
đen che kín bầu trời.
Bọn Lý Ứng, Sài Tiến thấy trời tối,
sợ mưa ướt lương thảo nên sai quân phá cửa các nhà để đẩy xe vào trú. Quân sĩ
sắp nghĩ ngơi đe6? thổi cơm ăn thì bên đại tùng Triết Vĩnh đi tuần tiểu bắt
được một tên gian tế đưa về báo sài Tiến:
- Tiểu đệ đã tra hỏi, tên gian tế
này khai rằng:
- Canh hai đêm nay tướng giặc là Mi
Sảnh dẫn một vạn quân đến đo6 t phá, đánh cướp đoàn xe lương. Hiện nay chúng
đang mai phục trong núi Long Môn.
Nguyên núi Long Môn có hai vách đá
dựng đứng nối nhau, ở giữa có dòng suối thuyền bè nhỏ có thể qua lại.
Lý Ứng biết tin liền nói với Sài
Tiến:
- Tiểu đệ xin đem quân mai phục
trước thôn, đợi giặc đi qua sẽ xông đánh, ắt bọn chúng manh giáp không còn.
Sài Tiến nói:
- Mi Sảnh là viên mảnh tướng, bọn ta
ít quân không thể đọ sức với hắn được. Ta muốn thi thố một kế nhỏ, đành chịu
mất năm sáu co6? hỏa pháo, hơn trăm xe củi khô.
Nói đoạn Sài Tiến sai giết tên gian
tế để báo thù cho bọn Đường Bân, gioa cho Lý Ứng dẫn ba nghìn quân sẵn sàng
cung tên đi hộ vệ đoàn quân chở lương thảo và hỏa pháo. Trời sắp tối sẽ rời
khỏi thôn đi về phía nam, chỉ để lại các xe củi khô rải rác ở đầu hè, các dãy
nhà tranh theo hướng tây nam. Lại đem hơn trăm chiếc xe kho6ng cụm lại thành
năm sáu chổ. Giữa mo6~i cụm xe có giấu các cổ hỏa pháo, trên xếp vài cụm khô có
rắc diêm tiêu và lưu hoàng, trên cùng phủ một lớp gạo. Bọn Thi Ân, Tiết Vĩnh,
Mục Xuân, Lý Trung được lệnh đem hai nghìn quân mai phục ở cửa khẩu đường gò
đất phía đông; Đan Đình Khuê đem một nghìn quân mã đến cửa khẩu phía nam thôn
chờ giặc đến.
Nói đoạn Sài Tiến cùng Thần hỏa
tưởng quân Ngụy Định Quốc đem ba trăm quân bộ, ai nấy giắt theo mồi lửa và hỏa
khí lên mai phục trong các lùm cầy rậm trên núi.
Đầu canh hai hôm ấy, quả nhiên tưởng
giặc Mi Sảnh cùng hai phó tướng dẫn hơn một vạn quân mã đeo buộc gọn nhẹ, người
ngậm tăm, ngựa bỏ đạc, cuốn cờ im trống bon nhanh đến cửa khẩu gò đất phía nam.
Đan Đình Khuê thấy giặc đến liền lệnh cho quân sĩ đốt đuốc xông ra chặn đánh. Đan
Đình Khuê giao chiến với Mi Sảnh vài hiệp thì quay ngựa chạy về.
Mi Sảnh là kẻ hữu dũng vô mưu, liền
xua quân đuổi theo.
Bọn Tiết Vĩnh, Thi ân thấy cháy ở
phía nam vội ra hiệu cho bọn Lý Trung, Mục Xuân đem một nghìn quân phi nhanh
tới bịt chặt cửa khẩu. Bấy giờ quân giặc đã lọt vào trong thôn, đang ồ ạt theo
hướng đầu gió đông bắc mà tiến. Đến nơi không thấy lương thực, nhà cửa đều
trống không, Mi Sảnh vội cho quân đi lùng soát, sau mới thấy các đoàn xe lương
chừng một hai trăm chiếc đỗ ở phía cuối làng, chỉ có khoảng năm sáu trăm tên
quân canh giữ. Thấy quân Mi Sảnh tới, bọn giữ xe lương đều sợ hãi hò nhau bỏ
chạy. Mi Sảnh nói:
- Hóa ra lương thực của bọn này cũng
chẳng có bao nhiêu?
Nói đoạn sai quân sĩ đốt đuốc đi xem
xét. Giữa đoàn xe thấy có hai chiếc chở vải vóc, quân Mi Sảnh xúm lại tranh
cướp Mi Sảnh vội thúc ngựa đến quát mắng. Đúng lúc ấy tên lửa, đuốc lửa từ trên
núi tới tấp
- bắn xuống. Những dãy nhà tranh
chứa các xe củi khô nhất loạt bốc cháy. Quân giặc hoảng hốt kêu la, tìm nơi ẩn
nấp. Bỗng tiếng hỏa pháo nổ vang, mồi dẫn truyền lửa rất nhanh, các cỗ hỏa pháo
cùng lúc nổ rền như sấm, không ngớt phóng ra các búi lửa lởn. Quân giặc không
chạy kịp đều bị đám lửa thiêu chết. Trong chốc lát, ngọn lửa rừng rực bốc lên,
khói đen mù mịt, hỏa pháo nổ vang như đất chuyển. Trong chốc lát hơn trăm gian
nhà cỏ biến thành cả khối khói lửa mịt mù. Mi Sảnh bị trúng hỏa pháo chết ngay
tại trận. Quân giặc trúng đạn chết cháy dện quá nửa, số bị thương thì nhiều
không đếm xuể. Giữa lúc đó quân mai phục của Đan Đình Khuê, Thi ân từ ba phía
ập vào chém giết. Một vạn quân người ngựa của Mi Sảnh chỉ còn hơn một nghìn tên
thoát chết bò qua núi đất tìm đường chạy trốn. Đến lúc trời sáng, bọn Sài Tiến,
Lý ứng hội binh cho quân sĩ chuyển đoàn xe thảo về đại trại. Tống tiên phong
vào ngồi dưới trướng điều khiển binh mã.
Chỉ thấy:
- quân mã buộc yên đóng ngựa, quân
bộ sửa soạn khí giới.
Đúng là:
Cờ xí rợp trời pha ráng đo?
Đao thương sáng lóa tựa sương băng.
Chưa biết Tống Giang tiến đánh quân giặc như thế nào, xem
hồi sau sẽ rõ.
Phụ Lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét