“Ruồi
trâu” là một tác phẩm rất đáng đọc. Câu chuyện diễn ra vào thế kỉ 19 tại Ý.
Thời đó, đất nước này đang bị chia cắt. Dưới quyền kiểm soát của đế quốc Áo,
các phong trào cách mạng nhằm thống nhất nước Ý đều bị đàn áp. Một thanh niên Ý
kiên cường đã dành cả cuộc đời mình để đấu tranh cho lí tưởng giải phóng đất
nước.
Cuộc đời
anh chứa đựng những bí mật khiến anh bị giằng xé giữa tình yêu và nỗi tức giận,
chịu đựng những nỗi đau cả về thể xác và tinh thần. Nhưng vượt lên tất cả anh
đã luôn tiến về phía trước. Anh đã sống với ý chí và nghị lực đáng khâm phục.
“Ruồi
trâu” gửi tới người đọc một thông điệp: Cuộc sống dù ngắn ngủi nhưng vẫn có ý
nghĩa khi ta sống có lí tưởng.
“Ruồi
Trâu là một cuốn tiểu thuyết rất lạ, theo cả nghĩa thông thường của tên ấy. Tác
giả là một nữ sĩ người Anh đã từng hoạt động cách mạng ở Nga và cuốn tiểu
thuyết của bà lại nói về những nhà hoạt động cách mạng bí mật ở Ý cách đây trên
một thế kỷ. Cả cuốn sách chứa chan một thế giới quan nhân đạo, lòng yêu và quý
trọng phẩm chất con người. Từng nhân vật trong cuốn truyện, từ Ruồi Trâu đến
những nhân vật phụ, những bạn chiến đấu gần và xa của anh, không nhân vật nào
là không có cá tính sâu sắc của mình.
Bản thân
nhân vật Ruồi Trâu không phải là một con người khô cứng, mà ở anh, người đọc
thấy rõ một con người cách mạng giàu tình cảm nhất. Tình cảm của Ruồi Trâu rất
mãnh liệt. Chính vì thế, cho đến chết, anh vẫn không dứt tình yêu đối với
Môntaneli.
Thương
yêu có thể là mê đắm mà không yếu đuối, không một chút nào yếu đuối. Quan hệ giữa
Ruồi Trâu và Môntaneli phát triển hết sức kỳ dị mà cũng hết sức logic và chân
thật. “Cha hãy chọn đi, hoặc Giêsu hoặc con”. Cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa hai
người cùng dòng máu, tưởng không thể nào sống không có nhau mà lại là hai kẻ
thù không đội trời chung về tư tưởng, là những trang sách có sức nổ lớn trong
tâm trí người đọc. “
RUỒI
TRÂU
Chương
14
Một ngày
vào thượng tuần tháng giêng, Mac-ti-ni gửi giấy mời mọi người tới họp phiên
thường kỳ hàng tháng của tiểu ban văn học. Thư trả lời của Ruồi trâu là một mẩu
giấy có mấy chữ vắn tắt bằng bút chì : " Rất lấy làm tiếc. Tôi không đến
được". Thái độ khinh mạn đó của Ruồi trâu làm cho Mac-ti-ni phát cáu, vì
trong giấy mời ghi rõ là "rất quan trọng". Hơn nữa, trong ngày hôm ấy
Mac-ti-ni còn nhận được ba bức thư khác toàn báo những tin không hay. Lại thêm
trời nổi gió đông. (Ở Ý nổi gió đông thì rất khó chịu, khô và nhiều cát bụi).
Tất cả những cái đó làm cho Mac-ti-ni cảm thấy trong người vừa khó chịu vừa
không vui. Vì vậy khi bác sĩ Ri-cac-đô hỏi Ri-va-ret có đến hay không thì
Mac-ti-ni bực tức trả lời :
- Không.
Chắc ông ta đã tìm được một trò thú vị hơn rồi. Ông ta không đến được hoặc nói
đúng hơn là không muốn đến.
Ga-li
gắt :
-
Mac-ti-ni, cả Phơ-lô-răng-xơ này có lẽ chẳng ai thành kiến như anh. Anh không
ưa ai là y như người ấy làm gì cũng xấu cả. Ri-va-ret ốm thì đến làm sao được ?
- Ai bảo
anh thế ?
- Anh
không biết à ? Ông ta nằm liệt giường bốn ngày hôm nay rồi.
- Ông ta
làm sao ?
- Không
rõ. Đáng lẽ thứ năm ông ta gặp tôi nhưng vì ốm nên phải hoãn. Tối hôm qua tôi
đến thăm, người nhà nói rằng ông ta rất mệt không thể tiếp ai được. Tôi tưởng
là Ri-cac-đô có đến thăm bệnh cho ông ta.
- Tôi
chẳng biết gì sất cả. Tối nay tôi đến xem ông ta có cần gì không.
Sáng hôm
sau Ri-cac-đô có vẻ bơ phờ, mệt mỏi bước vào căn phòng nhỏ của Giêma. Chị đang
ngồi cạnh bàn, đều giọng đọc những con số cho Mac-ti-ni, còn Mac-ti-ni thì một
tay cầm kính lúp, một tay cầm bút chì nhọn viết các con số ấy thành chữ nhỏ li
ti lên một trang sách. Giêma giơ tay ra hiệu. Ri-cac-đô hiểu rằng không nên
quấy rầy người viết mật mã bèn ngồi xuống đi văng đằng sau Giêma. Ri-cac-đô
ngáp dài, cố giữ cho khỏi ngủ gật.
- 2,4;
3,7; 6,1;3,5; 4,1; - Giêma tiếp tục đọc đều đặn như máy - 8,4; 7,2; 5,1. Thôi
Xê-da đến đây là hết câu đấy.
Chị lấy
kim găm đánh dấu đoạn đã đọc xong và quay lại phía Ri-cac-đô.
- Chào
bác sĩ. Sao trông anh phờ phạc thế ? Anh có được khỏe không ?
- Không,
tôi vẫn khỏe nhưng mệt lắm. Tôi vừa qua một đêm khủng khiếp với Ri-va-ret
- Với
Ri-va-ret ?
- Phải.
Tôi ngồi bên ông ta thâu đêm suốt sáng, bây giờ lại phải vào bệnh viện làm
việc. Tôi rẽ qua chị để hỏi xem có ai trông nom được ông ta trong vài ngày
không, bệnh ông ta nặng lắm. Tất nhiên tôi hết sức chữa chạy nhưng không đủ
thời giờ, mà ông ta thì cứ khăng khăng không chịu cho các chị hộ lý đến trông
nom.
- Ông ta
làm sao thế ?
- Chứng bệnh
của ông ta rất phức tạp. Trước hết là...
- Trước
hết là anh đã ăn sáng chưa ?
- Rồi,
cảm ơn chị. Để tôi nói nốt về Ri-va-ret...Chứng bệnh của ông ta phức tạp chắc
chắn là do thần kinh bị rối loạn. Nhưng nguyên nhân chính là vết thương cũ
không băng bó kỹ lúc đầu, nay tấy lên. Tóm lại sức khỏe của ông ta rất đáng
ngại. Chắc ông ta bị thương từ hồi chiến tranh ở Nam Mỹ. Bấy giờ không chữa cẩn
thận, chỉ băng bó qua loa nên mới đến nỗi như thế. Còn sống sót được như thế
thì kể cũng thật may mắn. Vết thương biến thành viêm kinh niên và thỉnh thoảng
lại tấy lên nên hơi bị kích thích một tý là lại tái phát.
- Có
nguy hiểm không ?
-
Không...không...Trong những trường hợp như vậy chỉ nguy hiểm ở chỗ con bệnh đau
quá không chịu nổi và có thể uống thuốc độc tự tử.
- Nghĩa
là ông ta đau lắm có phải không ?
- Đau dữ
dội ! Tôi lấy làm lạ tại sao ông ta chịu đựng nổi. Tối qua, tôi đã phải cho
uống thuốc phiện. Tôi thường rất không muốn cho con bệnh thần kinh dùng thuốc
phiện nhưng cũng đành phải cho uống để bớt đau.
- Chắc
ông ta còn bị rối loạn thần kinh nữa ?
- Tất
nhiên. Nhưng con người ấy quả có một nghị lực phi thường. Chừng nào ông ta chưa
bị ngất lịm đi thì ai cũng phải kinh ngạc về sức chịu đựng của ông ta. Nhưng
chính vì thế mà tôi phải ở liền suốt đêm với ông ta ! Các anh các chị có biết
ông ta ốm từ bao giờ không ? Năm hôm rồi. Mà nhà ông ta chẳng có ai trừ một mụ
chủ nhà ngu ngốc, ngủ say đến đổ nhà cũng chẳng biết. Ngữ ấy có tỉnh thì cũng
chẳng giúp được việc gì.
- Thế
còn cô vũ nữ đâu ?
- Ấy thế
mới là kỳ quặc ! Ông ta không để cho cô ta đến. Hình như đối với cô ấy,
Ri-va-ret có điều gì như ghê sợ thì phải. Ông ta quả là một trong những người
khó hiểu nhất mà tôi từng thấy, thật là một đống mâu thuẫn !
Ri-cac-đô
rút đồng hồ chăm chú nhìn với vẻ lo âu, rồi tiếp :
- Thế
này thì tôi đến bệnh viện chắc sẽ bị chậm, nhưng đành vậy chứ biết làm sao.
Chắc bác sĩ giúp việc sẽ phải bắt đầu khám bệnh một mình. Tiếc rằng tôi không
được biết sớm. Bệnh này lẽ ra không nên để kéo dài đêm này qua đêm khác.
Mac-ti-ni
xen lời :
- Nhưng
tại sao ông ấy không cho người đến báo tin ốm ? Chính Ri-va-ret cũng phải hiểu
rằng không ai lại vứt bỏ ông ta một mình như thế chứ ?
Giêma
nói :
- Mà cả
bác sĩ nữa, tại sao đêm qua không cho người đến gọi chúng tôi mà cứ ngồi trông
nom một mình như thế cho mệt.
- Thưa
bà chị, tôi đã định cho người đi tìm Ga-li nhưng vừa ướm lời thì Ri-va-ret đã
làm ầm lên nên tôi phải thôi ngay. Khi tôi hỏi ông ta muốn cho ai đến thì ông
ta sợ hãi nhìn tôi, tay che mặt nói : " Ông đừng nói cho họ biết, họ sẽ
cười tôi". Hình như ông ta luôn luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ cho rằng người
ta cười mình chuyện gì. Tôi cũng chẳng hiểu ai cười ông ta cái gì được. Lúc nào
Ri-va-ret cũng nói tiếng Tây ban nha. Người bệnh thì bao giờ chẳng nói lăng
nhăng đủ thứ.
- Bây
giờ có ai với ông ta không ?
- Chỉ có
mụ chủ nhà với đứa ở gái của mụ ấy.
Mac-ti-ni
nói :
- Để tôi
đi cho.
- Cám ơn
anh. Chiều nay tôi sẽ tới thăm lại. Anh tìm đơn thuốc của tôi ở ngăn kéo bàn
cạnh cửa sổ và thuốc phiện để trên giá phòng bên. Nếu lại đau thì cho ông ta
uống một liều và chỉ một liều thôi. Nhưng nhất thiết đừng để Ri-va-ret trông
thấy lọ thuốc kẻo ông ta lại đòi uống nhiều hơn...
Khi
Mac-ti-ni bước vào căn phòng tranh tối tranh sáng. Ruồi trâu quay ngoắt đầu đi.
Anh chìa bàn tay nóng bỏng và cố giữ vẻ ngạo mạn thường ngày mà không sao giữ
nổi.
- À,
Mac-ti-ni ! Chắc ông đến để giục tôi về chuyện sửa bài chứ gì ? Ông đừng trách
tôi đã bỏ phiên họp của tiểu ban hôm qua nhé ! Tôi không khỏe lắm và...
- Thôi,
nói tới chuyện tiểu ban làm gì ! Tôi vừa gặp Ri-cac-đô nên đến xem có giúp được
ông gì không.
Mặt Ruồi
trâu sắt lại như một viên đá lửa.
- Ồ, vậy
à ? Ông thật có nhã ý. Nhưng xin ông đừng lo. Tôi chỉ hơi khó chịu thôi.
-
Ri-cac-đô cũng bảo tôi thế. Có phải ông ấy đã ở đây với ông suốt đêm không ?
Ruồi
trâu cắn chặt lấy môi :
- Cám ơn
ông. Bây giờ tôi dễ chịu nhiều rồi, không cần gì cả.
- Tốt
lắm ! Vậy tôi sang ngồi tạm ở phòng bên. Có lẽ để ông nằm một mình thì tốt hơn.
Tôi để hé cửa để ông có thể gọi tôi.
- Xin
ông chớ phiền. Thật tôi không cần chút gì cả. Tôi không dám làm ông phí thời
giờ vô ích.
Mac-ti-ni
liền xẵng giọng ngắt lời :
- Ông
đừng nói nhảm nữa ! Che mắt tôi mà làm gì ? Ông tưởng tôi mù hay sao ? Thôi,
ông nằm im mà cố ngủ đi.
Mac-ti-ni
sang phòng bên, bỏ ngỏ cửa ngồi xuống ghế với một cuốn sách. Chẳng bao lâu anh
đã tháy Ruồi trâu lăn lộn trên giường hai ba lần liền. Anh bỏ sách, lắng nghe.
Trong phòng im lặng một lát nhưng rồi lại có tiếng lăn lộn, tiếng thở hổn hển,
gấp gáp nặng nhọc dường như Ri-va-ret nghiến chặt răng để nén những tiếng rên.
Mac-ti-ni trở vào phòng.
-
Ri-va-ret, ông có cần tôi giúp gì không ?
Không
thấy tiến trả lời, Mac-ti-ni bèn tiến đến bên giường. Mặt tái nhợt như con ma,
Ruồi trâu nhìn anh một lát rồi lặng lẽ lắc đầu.
- Lấy
thuốc phiện cho ông uống nữa nhé ? Ri-cac-đô bào nếu đau quá thì có thể uống.
- Không,
cám ơn ông. Tôi còn chịu được. Chốc nữa có thể còn đau hơn....
Mac-ti-ni
nhún vai ngồi xuống cạnh giường. Một tiếng đồn hồ trôi qua đối với anh dường
như dài vô tận. Anh lẳng lặng xem xét người bệnh rồi đứng dậy mang thuốc phiện
đến :
-
Ri-va-ret ! Tôi không thể để ông cứ như thế được nữa. Dù ông có chịu nổi đi
nữa, nhưng tôi không chịu được. Ông uống đi thôi.
Không
nói một lời, Ruồi trâu uống thuốc. Rồi anh quay đi, nhắm mắt lại. Mac-ti-ni lại
ngồi. Hơi thở của người bệnh dần dần trở nên dài và đều hơn. Ruồi trâu mệt quá
thiếp đi, ngủ li bì. Hết giờ nọ qua giờ kia anh vẫn không hề nhúc nhích. Trưa
rồi lại chiều, Mac-ti-ni nhiều lần lại bên giường nhìn vào thân hình không động
đậy đó. Ngoài hơi thở anh nhận thấy cơ thể ấy không có một dấu hiệu gì của sự
sống cả. Gương mặt của Ruồi trâu làm cho Mac-ti-ni bỗng dưng hoảng sợ. Hay là
mình cho ông ta uống thuốc phiện quá liều rồi chăng ? Cánh tay trái tàn tật của
Ruồi trâu đặt trên chăn, Mac-ti-ni nhẹ nhàng lắc cánh tay ấy, định đánh thức
Ruồi trâu. Ống tay áo tụt xuống để lộ rõ những vết sẹo sâu hoắm khủng khiếp,
chằng chịt suốt từ cổ tay tới tận bả vai.
Bỗng
đằng sau tiếng Ri-cac-đô vang lên :
- Khi
những vết thương này còn mới thì chắc cánh tay này trông hay đáo để đấy.
- À, anh
đã đến đấy à ? Ri-cac-đô, anh xem, ông ta cứ ngủ mãi thế này à ? Cách đây chừng
mười tiếng tôi cho ông ấy uống thuốc phiện. Và từ đó ông ấy chẳng nhúc nhích tí
nào.
Ri-cac-đô
cúi xuống lắng nghe trong giây lát :
- Không
sao, thở đều lắm, chỉ vì tối qua bị kiệt sức đó thôi, sau một đêm như thế còn
gì nữa. Đến gần sáng có thể còn lên cơn nữa. Chắc sẽ có người lại ngồi trông
ông ấy nữa chứ ?
- Ga-li
sẽ đến túc trực. Anh ấy cho người đến báo khoảng mười giờ sẽ tới.
- Bây
giờ gần mười giờ rồi...À, ông ấy tỉnh rồi ! Anh bảo nhà bếp có đưa xúp lên thì
phải cho thật nóng nhé...Bình tĩnh, bình tĩnh, Ri-va-ret ! Chớ, chớ ! Ông chớ
có đập phá, tôi không phải là một vị giám mục đâu.
Ruồi
trâu bỗng nhiên nhỏm dậy, đôi mắt kinh hoàng nhìn thằng phía trước.
Anh gấp
gáp nói bằng tiến Tây Ban Nha :
- Đến
lượt tôi ra có phải không ? Cứ để công chúng vui chơi một chút đã. Tôi...À !
Tôi không nhận ra ông nữa, Ri-cac-đô.
Anh ngó
quanh phòng rồi lấy tay sờ trán, dường như không hiểu có chuyện gì xảy ra.
-
Mac-ti-ni ! Tôi tưởng ông đi từ lâu rồi ! Chắc là tôi ngủ say quá...
- Chứ
còn gì nữa ! Như Hằng Nga ngủ trong rừng vậy ! Mười tiếng đồng hồ liền ! Bây
giờ ông ăn xúp rồi lại ngủ nữa đi.
- Mười
tiếng à ? Mac-ti-ni, ông vẫn ở đây suốt mười tiếng đấy à ?
- Phải,
tôi đã sợ rằng cho ông uống thuốc phiện quá liều.
Ruồi
trâu hóm hỉnh nhìn Mac-ti-ni :
- Tôi
chưa được cái may mắn đó ! Dù có như vậy chăng nữa thì không có tôi, các buổi
họp tiểu ban của các ông sẽ bình an vô sự biết bao nhiêu !...Ri-cac-đô, ông cứ
bám lấy tôi làm quái gì mãi thế ? Thôi làm phúc để cho tôi yên thân đi ! Tôi
rất ghét để cho các thầy thuốc giày vò.
- Được,
uống cái này đi rồi tôi để cho ông yên thân. Nhưng một hai ngày nữa tôi lại đến
kiểm tra ông cẩn thận đấy. Chắc phút nguy kịch nhất đã qua rồi. : Bây giờ trông
ông không giống thần chết nữa rồi.
- Tôi
khỏe ngay bây giờ đây mà, cảm ơn ông...Ai đây ? Ga-li hả ?Trời, hôm nay thật là
gặp hội mưa rào, khách quý đến tới tấp.
- Tôi ở
lại trông nom ông đêm nay.
- Bậy
nào ! Tôi chẳng cần ai trông. Cả lũ các ông về đi. Nếu còn lên cơn nữa thì các
ông cũng chẳng làm gì được. Tôi chẳng uống thuốc phiện nữa đâu. Thuốc phiện chỉ
uống một lần là tốt thôi.
Ri-cac-đô
nói :
- Phải,
ông nói đúng. Nhưng kiên quyết như thế không phải là dễ.
Ruồi
trâu nhìn lên, mỉm cười :
- Ông
đừng sợ. Nếu tôit thích thuốc phiện thì tôi nghiện từ lâu rồi.
Ri-cac-đô
trả lời khô khan :
- Nhưng
dù sao chúng tôi cũng chẳng để ông một mình đâu. Ga-li sang phòng bên cạnh một
phút, tôi muốn nói chuyện với anh. Ri-va-ret, chúc ông ngủ ngon nhé ! Mai tôi
lại đến thăm.
Mac-ti-ni
đã định bước theo Ri-cac-đô nhưng Ruồi trâu khẽ gọi anh lại, chìa tay nói :
- Cám ơn
ông.
- Thôi,
nói nhảm mãi ! Ngủ đi.
Ri-cac-đô
ra về còn Mac-ti-ni nán lại nói chuyện với Ga-li ở phòng ngoài. Mấy phút sau,
Mac-ti-ni ra mở cửa thì một cỗ xe ngựa tiến đến cổng vườn rồi bóng một thiếu
phụ bước ra, đi vào nhà. Té ra là Di-ta. Hẳn là nàng vừa dự một buổi dạ hội nào
về. Mac-ti-ni nâng mũ, đứng sang một bên nhường lối. Rồi anh qua vườn rẽ vào
một ngõ tối, đảo về phía núi Đế quốc. Vừa đi được mấy bước thì bỗng nghe thấy
đằng sau có tiếng cánh cổng lạch cạch và tiếng bước vội vàng trong ngõ hẻm..
Di-ta
gọi :
- Ông
chừ tôi một phút.
Mac-ti-ni
vừa quay lại thì nàng cũng dừng bước rồi từ từ tiến đến, một tay để sau lưng,
men theo hàng rào. Ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn độc nhất ở góc phố vẫn đủ để
Mac-ti-ni thấy người vũ nữ cúi đầu bước tới như lúng túng hoặc ngượng ngiụ điều
gì.
Mặt cúi
gằm, nàng hỏi :
- Ông ấy
thế nào ?
- Khá
hơn buổi sáng nhiều. Ông ấy ngủ được suốt ngày hôm nay nên trông đã tươi tỉnh
hơn trước. Chắc cơn đau đã qua đi rồi.
Nàng vẫn
nhìn xuống đất.
- Ông ấy
có đau lắm không ?
- Đau
lắm. Theo tôi thì không có gì đâu hơn thế nữa.
- Tôi
cũng nghĩ thế. Nếu ông ấy không để tôi vào thì nghĩa là ông ấy đau lắm.
- Bệnh
ông ấy có thường hay phát ra như thế không ?
- Mỗi
lúc một khác...Hè năm ngoái ở Thụy sĩ, ông ấy chẳng ốm chút nào, nhưng mùa đông
trước, khi chúng tôi ở Viên thì thật kinh khủng. Mấy ngày liền ông ấy không cho
tôi lại gần. Khi ông ấy ốm, có mặt tôi thì ông ấy không chịu được.
Di-ta
ngước nhìn Mac-ti-ni rồi lại cúi xuống ngay.
- Khi
ông ấy thấy mệt thì ông ấy tìm đủ cớ để bảo tôi đi nhảy, đi nghe hòa nhạc, hoặc
đi đâu đó còn ông ta thì đóng cửa nằm khoèo. Nhưng rồi tôi lần về, ngồi ở trước
cửa phòng và cứ ngồi như thế mãi. Ông ấy mà biết được thì nguy to. Con chó rền
rĩ ngoài cửa ông ấy còn cho vào chứ tôi thì không được vào. Chắc ông ấy quý chó
hơn...
Tất cả
những chuyện đó nàng kể với một giọng lạ lùng giận dỗi mà khinh bạc.
Mac-ti-ni
dịu dàng nói :
- Tôi
tin là ông ấy không đau nữa đâu. Bác sĩ Ri-cac-đô chăm sóc rất cẩn thận. Có lẽ
chẳng bao lâu nữa thì ông ấy sẽ khỏe hẳn thôi.
Nói
chung là bây giờ đỡ nhiều rồi. Nhưng lần sau thì chị phải lập tức cho người đi
gọi chúng tôi ngay. Nếu chúng tôi được biết sớm thì đâu đến nỗi đau lòng như
thế. Thôi, xin chào chị.
Mac-ti-ni
chìa tay cho Di-ta nhưng nàng lùi lại, lắc đầu :
- Tôi
không hiểu tại sao ông lại muốn bắt tay tình nhân của Ri-va-ret !
Mac-ti-ni
luống cuống nói :
- Cái đó
thì tất nhiên là tùy chị.
Di-ta
dậm chân :
- Tôi
ghét các ông lắm !
Nàng
thét lên, mắt sáng quắc như hai hòn than rực đỏ :
- Tôi
ghét cả lũ các ông ! Các ông cứ đến nói chuyện chính trị với ông ấy mãi ! Ông
ấy để các ông ngồi bên giường suốt đêm, để các ông đổ thuốc cho còn tôi thì chỉ
đến nhìn ông ấy qua khe cửa cũng không dám ! Ông ấy là gì đối với các ông ? Ai
cho các ông có quyền cướp Ri-va-ret của tôi đi ? Tôi căm ghét các ông ! ...Ghét
! Ghét lắm !
Di-ta òa
lên khóc nức nở, quay mình chạy vào trong vườn đóng sầm cửa lại trước mặt
Mac-ti-ni.
"
Trời ! Ả này thật sự yêu ông ta rồi ! Thật là những câu chuyện hết sức lạ
lùng..."
Mac-ti-ni
vừa nghĩ thầm như thế vừa bước vào ngõ tối.
RUỒI
TRÂU
Chương
15
Ruồi
trâu khỏi bệnh rất chóng. Một hôm đến thăm Ruồi trâu vào tuần tiếp theo
Ri-cac-đô đã gặp anh mặc bộ quần áo ngủ kiểu Thổ nhĩ kỳ nằm ở đi văng nói
chuyện với Mac-ti-ni và Ga-li, Ruồi trâu lại còn đòi ra ngoài trời nhưng
Ri-cac-đô chỉ cười và hỏi đùa rằng Ruồi trâu có thích vượt qua đồi núi mà đi
chơi Phê-dô-lê ngay lúc ấy không ?
Ri-cac-đô
tai quái nói thêm :
- Ông
còn có thể đến thăm ông bà Grat-xi-ni nữa ấy chứ. Tôi chắc bà ta sẽ rất mừng
nhất là lúc này, mặt ông tái nhợt, trông thú vị lắm.
Ruồi
trâu chắp hai tay lại như đóng một bi kịch :
- Trời !
Thế mà tôi không nghĩ tới ! Chắc bà ta sẽ cho tôi là một kẻ tử vì đạo người Ý
và sẽ thuyết tôi hàng tràng về lòng yêu nước đấy. Tôi sẽ phải đóng vai kịch ấy
và sẽ kể cho bà ta nghe rằng tôi sẽ bị xé ra từng mảnh ở một ngục tối dưới đất
và chỉ mới được ghép lại qua loa thôi. Chắc bà ta cũng sẽ hỏi rõ cảm giác thật
của tôi lúc đó ra sao. Ri-cac-đô, ông cho là bà ta sẽ không tin à ? Tôi đánh
cuộc là bà ta tin được cả những sự dối trá thô sơ nhất mà tôi có thể bịa đặt
ra. Tôi đặt cược con dao găm Ấn độ của tôi lấy con sán ngâm rượu trong phòng
ông này. Lợi đấy, ông cược đi.
- Cảm ơn
ông, tôi không ham thích vũ khí giết người như ông.
- Ồ, một
ngày nào đó con sán cũng giết nguwoif như con dao găm vậy, chỉ tội nó không đẹp
thôi.
- Nhưng,
ông bạn thân mến tôi không cần dao găm mà tôi cần con sán kia ! Mac-ti-ni, tôi
phải đi đây. Anh đủ sức trông nom con bệnh ngổ ngáo này chứ ?
- Được,
nhưng chỉ đến ba giờ thôi. Từ ba giờ trở đi bà Bô-la sẽ đến thay vì tôi phải đi
Xan Mi-ni-a-tô với Ga-li.
- Bà
Bô-la à ? - Ruồi trâu hoảng hốt nhắc lại - Không, Mac-ti-ni, không thể được !
Tôi không thể để cho phụ nữ săn sóc tôi và bệnh tật của tôi. Mà đến đây bà ấy
ngồi vào đâu được ? Nhất định bà ấy không chịu vào đây đâu !
Ri-cac-đô
cười hỏi :
- Ông
khư khư giữ thói lịch sự ấy từ bao giờ ? Bà Bô-la là người hộ lý cốt cán của
chúng tôi đấy. Bà ấy săn sóc người ốm từ thủa còn mặc váy ngắn. Tôi chưa thấy
người hộ lý nào tốt hơn như thế. Nhất định không chịu vào buồng của ông à ? Ông
định nói với bà Grat-xi-ni hay nói với ai thế ? Mac-ti-ni, nếu bà Bô-la tới thì
không phải dặn gì bà ấy nhé...Chết chửa, hai giờ rưỡi rồi. Tôi phải đi đây.
Ga-li
lại gần đi văng với một chén thuốc trong tay :
- Nào,
Ri-va-ret, trước khi bà ấy đến ông phải uống thuốc đã.
- Cứ
thuốc với men mãi !
Như tất
cả những người bệnh đang bình phục khác, Ruồi trâu hay cáu gắt,làm cho những
người hộ lý tận tình của ông phải bận tâm.
- Không
đau nữa rồi mà sao...sao các ông cứ bắt tôi...tôi nuốt những của gớm ghiếc này
?
- Chính
là để khỏi đau trở lại. Hay là ông lại muốn đau để bà Bô-la phải cho ông uống
thuốc phiện ?
-
Thưa...thưa ông ! Nếu cơn đau trở lại thì có làm gì đi nữa nó cũng cứ trở lại
như thường. Có phải như đau răng đâu mà có...có thể dùng những thứ
thuốc...thuốc cao đan hoàn tán của các ông thì bớt đau được. Như thế không khác
gì đem cái bơm nước của trẻ con mà chữa cháy. Nhưng thôi, việc của các ông là
bắt tôi không uông không đươc thì tôi đành phải uống.
Anh đưa
tay trái lấy cốc. Những vết sẹo ghê gớm trên cánh tay làm Ga-li sực nhớ đến câu
chuyện vừa rồi.
Ga-li
hỏi :
- À,
này, ông bị những vết thương này ở đâu đấy nhỉ ?
Chắc là
trong chiến tranh ?
- Thì
tôi vừa mới bảo rằng tôi bị ném xuống ngục tối dưới đất và...
- Tôi
biết. Nhưng đấy chỉ là cách ông nói với bà Grat-xi-ni thôi...Không, chắc là ông
bị thương trong cuộc chiến tranh ở Bơ-rê-din chứ gì ?
- Phải,
phần vì chiến tranh ở Bơ-rê-din phần thì vì trong khi đi săn ở những nơi man
rợ. Lý do nào cũng có cả.
- À !
Trong khi đi thám hiểm phải không ?...Ông có thể gài cúc áo lại được. Xong
rồi... Chắc lúc ấy cuộc đời ông sóng gió lắm nhỉ ?
Ruồi
trâu nhẹ nhàng nói :
- Tất
nhiên, sống ở những nơi man rợ thì không thể không mạo hiểm ít nhiều. Vả lại
cũng phải nói rằng không phải cuộc mạo hiểm nào cũng đều vui thú cả.
- Nhưng
tôi vẫn không hiểu tại sao ông lại bị thương nhiều đến thế...trừ khi gặp nguy
hiểm với bày thú dữ. Ví dụ như những sẹo ở tay trái chẳng hạn.
- À, sẹo
này tôi bị lúc đi săn bắn ở Châu Mỹ. Ông biết không lúc ấy tôi mới bắn một
phát...
Có tiếng
gõ cửa.
-
Mac-ti-ni, ông trông trong phòng ngăn nắp cả rồi chứ ? Được rồi à ? Thế ông ra
mở cửa hộ - Nói rồi, Ruồi trâu ngoảnh ra phía cửa - Thưa bà, bà thật có lòng
tốt. Xin lỗi bà tôi không đứng dậy được.
- Tất
nhiên là ông không nên đứng dậy làm gì. Tôi có phải là khách đâu. - Rồi Giêma
nhìn Mac-ti-ni - Xê-da, tôi đến sớm một chút, chắc là anh vội về ?
- Không,
còn mười lăm phút nữa. Chị để tôi cất hộ áo choàng sang phòng bên. Cả cái làn
cũng đưa sang bên ấy nhé ?
- Nhẹ
tay chứ, trứng đấy. Trứng tươi lắm, Kê-ti mới mua ở núi O-li-vec-tô sáng nay
đấy...Còn đây là những đóa hồng Nô-en. Ông Ri-va-ret ạ, tôi biết ông yêu hoa.
Chị ngồi
xuống cạnh bàn, cắt cuống hoa rồi cắm vào lọ. Ga-li lại nói :
-
Ri-va-ret, ông đang kể dở chuyện săn báo bên Mỹ. Chuyện ấy sau thế nào nữa ?
- À,
phải ! Thưa bà, ông Ga-li vừa hỏi tôi về quãng đời cũ của tôi ở Nam Mỹ. Tôi vừa
bắt đầu kể tại sao tay trái tôi bị tật thế này. Hồi đó tôi ở Pê-ru. Muốn săn
báo chúng tôi phải lội qua sông. Khi tôi bắn phát đầu tiên thì súng không nổ.
Té ra thuốc súng bị ướt. Tất nhiên báo không đợi cho tôi kịp trở tay và kết quả
là thế này đây.
- Thật
là một phen mạo hiểm thú vị.
- Không,
không đến nỗi ghê gớm như mọi người tưởng đâu. Tất nhiên là ngọt bùi cay đắng
đủ mùi, nhưng nói chung cuộc sống rất hùng tráng. Ví dụ như đi săn rắn chẳng
hạn...
Ruồi
trâu kể hết chuyện nọ đến chuyện kia, nào là chuyện chiến tranh Ác-giăng-tin,
chuyện thám hiểm ở Bơ-rê-din, nào là chuyện tiếp xúc với giống người man rợ,
chuyện săn thú dữ. Ga-li say mê như một đứa trẻ con nghe theo chuyện thần
thoại, chốc chốc lại điểm một vài câu hỏi. Vốn giàu cảm xúc như mọi người dân
Nê-a-pôn khác, Gali ưa thích tất cả những gì khác thường, nổi bật. Giêma lấy đồ
đan trong làn ra đan và cũng im lặng nghe. Chị thoăn thoắt đưa những mũi kim,
mắt không rời chiếc áo đang đan dở. Mac-ti-ni thì cau mày lại và trở mình không
yên trên chiếc ghế. Anh cảm thấy có cái gì khoe khoang tự mãn trong những câu
chuyện ấy. Mặc dù vậy, bất giác anh cũng khâm phục con người ấy, thấy con người
ấy chịu được những sự đau đớn kinh khủng về thể xác với một nghị lực phi thường
như chính mắt anh đã được thấy một tuần nay. Nhưng anh vẫn một mực không ưa
Ruồi trâu, không ưa những việc làm và thái độ của Ruồi trâu.
Ga-li
thở dài tỏ vẻ thèm muốn một cách ngây thơ :
- Thật
là một cuộc sống huy hoàng ! Tôi lấy làm lạ tại sao sau đó ông lại rời
Bơ-rê-din. Sau khi sống ở Bơ-rê-din thì sống ở các nước khác chăc sẽ buồn tẻ vô
cùng !
Ruồi
trâu tiếp :
- Có lẽ
thú nhất là quãng đời ở Pê-ru và ở Ê-qua-tơ. Đấy mới thật là những nơi đẹp
tuyệt trần ! Kể ra thì ở đó rất nóng như vùng biển ở Ê-qua-tơ chẳng hạn và điều
kiện sống ở đó rất gay go. Nhưng cảnh thiên nhiên thì đẹp không thể tưởng tượng
được.
Ga-li
nói :
- Có lẽ
tôi thích cuộc đời hoàn toàn phóng khoáng ở những nơi hoang vu ấy hơn là thích
cảnh đẹp. Ở đó con người có thể giữ gìn được nhân cách và cá tính của mình chứ
không như ở chốn phồn hoa đô hội.
Ruồi
trâu gật đầu :
- Phải,
đó là ...
Giêma
ngẩng đầu nhìn anh. Anh bỗng đỏ bừng mặt thôi không nói nữa. Một lát im lặng
trôi qua.
Ga-li lo
lắng hỏi :
- Ông
lại lên cơn đấy à ?
- Không,
không sao. Tuy tôi nguyền rủa những liều thuốc của ông, nhưng nó lại rất công
hiệu...Ông đi đấy à,ông Mac-ti-ni ?
-
Phải... Ga-li, đi đi thôi kẻo muộn mất.
Giêma
tiễn hai người ra cửa : Một lát sau chị trở vào với một cốc sữa trứng trong
tay.
- Mời
ông uống đi.
Chị nói
với giọng ra lệnh nhưng hết sức dịu dàng rồi lại tiếp tục ngồi đan.
Ruồi
trâu ngoan ngoãn nghe theo.
Hai
người im lặng tới nửa giờ. Bỗng Ruồi trâu cất tiếng nói rất khẽ :
- Bà
Bô-la.
Giêma
nhìn anh. Ruồi trâu mân mê những tua khăn trải đi văng mắt không nhìn lên.
- Chắc
bà không tin những chuyện tôi vừa kể, phải không nhỉ ?
Giêma
bình tĩnh trả lời :
- Những
chuyện ông kể tôi không tin một chút nào cả.
- Bà nói
đúng lắm. Tôi toàn nói dối.
- Cả
chuyện chiến tranh cũng thế có phải không ?
- Nói
chung là dối cả. Tôi không hề tham gia một cuộc chiến tranh nào. Còn như chuyện
đi thám hiểm thì tôi cũng có trải qua những phen mạo hiểm thật đấy và phần lớn
những chuyện tôi kể đều là sự thật cả. Nhưng những vết thương của tôi thì hoàn
toàn do nguyên nhân khác. Bà đã bắt được một điều nói dối của tôi rồi thì nay
tôi xin thú nhận mọi điều khác.
Giêma
hỏi :
- Tại
sao lại phải mất công bịa chuyện như thế làm gì ? Theo tôi thì không cần thiết.
- Làm
thế nào được ? Chắc bà nhớ câu phương ngôn nước Anh của bà " Đừng hòi thì
khỏi nghe lời nói dối". Xỏ xiên người khác tôi chẳng thích thú gì. Nhưng
khi người ta hỏi tại sao tôi bị tàn tật thì tôi phải kiếm cách trả lời. Mà nếu
đã kiếm cách trả lời thì lại phải bịa ra cái gì cho hay một chút. Ga-li vui
lòng lắm, chắc bà đã thấy.
- Vậy
ông thích nói đùa cho Ga-li vui hơn là nói thật ư ?
- Vâng !
Ruồi
trâu chăm chú nhìn chị, tay nắm chặt tua khăn đã rứt đứt.
- Bà
muốn tôi nói sự thật với những người ấy hay sao ? Thà tôi tự cắt lưỡi đi trước
còn hơn !
Rồi bằng
một giọng đột ngột và hơi bẽn lẽn, ngượng ngùng anh nói thêm :
- Tôi
chưa bao giờ kể chuyện thật với ai cả nhưng đối với bà nếu bà muốn thì tôi xin
nói .
Giêma
lặng lẽ đặt đồ đan vào lòng. Có một cái gì cảm động thống thiết. Cảm động thống
thiết ở chỗ người đàn ông cứng rắn bí ẩn và không đáng yêu này bỗng nhiên lại
phải cúi mình thổ lộ tâm sự với một người đàn bà không quen biết và lại là
người mà có lẽ anh ta không hề ưa thích.
Sau một
hồi im lặng, Giêma nhìn anh. Ruồi trâu ngả người trên đi văng tựa khuỷa tay vào
chiếc bàn con bên cạnh. Bàn tay tàn tật che lấy mắt. Những ngón tay ấy run run,
mạch máu đập mạnh ở vết sẹo trên cổ tay. Giêma nhích lại gần đi văng khẽ gọi
tên anh. Ruồi trâu giật mình nhỏm dậy.
Anh nói
bằng một giọng xin lỗi :
- Tôi
quên...quên khuấy đi mất. Tôi định ...định kể cho bà nghe về...
- Về tai
nạn hoặc một cái gì đó làm cho chân ông bị khập khiễng chứ gì. Nhưng nếu ông
cảm thấy khổ tâm khi hồi tưởng lại chuyện cũ thì...
- Tai
nạn à ? Không phải đâu ! Tôi chỉ bị người ta cầm thanh sắt đốt lò đánh đấy
thôi.
Giêma
ngơ ngác nhìn anh. Tay anh run run, Ruồi trâu vuốt mớ tóc lòa xòa trên trán và
mỉm cười :
- Bà ngồi
xuống nhé ? Mời bà kéo ghế lại gần đây. Rất tiếc tôi không tự tay kéo ghế lại
được.Giá tôi được ông Ri-cac-đô chạy chữa ngay lúc bấy giờ thì có lẽ trường hợp
gãy xương của tôi sẽ là một ca rất quý báu cho ông ta. Ông ấy là một nhà mổ xẻ
yêu nghề thì chắc là thích xương gãy lắm. Mà lúc đó chỗ nào xương thì đã gãy
tất cả, trừ cái cổ.
Giêma êm
ái xen lời :
- Và trừ
lòng dũng cảm của ông nữa. Nhưng có lẽ lòng dũng cảm ấy thì không có gì bẻ gãy
nổi nhỉ ?
Ruồi
trâu lắc đầu :
- Không.
Mãi sau này tôi mới lấy lại được ít nhiều dũng cảm cùng với những cái gì còn
sót lại. Chứ lúc đó thì nó cũng bị tan vỡ như một ly trà. Cái thảm hại nhát
chính là ở đấy. Vâng, tôi xin bắt đầu kể chuyện thanh sắt đốt lò trước. Bà để
tôi nhớ lại xem...Đó là vào khoảng...mười ba năm trước, ở Li-ma (thủ đô của
Pê-ru). Lúc nãy tôi nói Pê-ru là một nước đẹp tuyệt trần nhưng thực ra nó chẳng
đẹp gì cho lắm đối với những người không có một đồng xu dính túi như tôi lúc ấy
chẳng hạn. Tôi đến Ac-giăng-tin rồi sang Si-li. Tôi lang thang khắp Si-li suýt
chết đói. Sau tôi làm lao công trên một chiếc tàu chở súc vật. Tôi đi từ
Van-pa-rai-đô (hải cảng ở Si-li) tới Li-ma. Ngay trong thành phố tôi cũng không
tìm được việc làm. Tôi lần đến Ca-lao (hải cảng của thủ đô Li-ma) , ra bến tàu
với hy vọng may ra tìm được một công việc nào chăng.Phải, như bà đã biết, ở các
hải cảng thường có những túp nhà tồi tàn. Những người làm nghề biển thường sống
ở đó. Sau một thời gian tôi kiếm được việc làm trong một sòng bạc. Tôi làm nghề
đầu bếp, hầu bàn bi-a, bưng rượu cho khách và nhiều việc đại loại như thế. Công
việc không có gì dễ chịu nhưng tôi cũng lấy làm mừng vì ở đó ít nhất là tôi có
ăn, được tiếp xúc với bộ mặt và tiếng nói của con người. Chắc bà có thể bảo
rằng cái đó có gì đáng mừng đâu, nhưng trước đó không lâu tôi bị bệnh sốt rét
vàng một thân một mình nằm liệt trong một chiếc quán xiêu vẹo và cảm thấy rất
sầu thảm. Rồi một đêm người ta bắt tôi phải đi đuổi một gã Lasca ( thủy thù ở
miền quần đảo Đông Ấn) say rượu ra khỏi quán để y khỏi làm huyên náo.Hôm ấy gã
thủy thủ này lên bờ đánh bạc thua nhẵn túi nên rất cay cú. Tôi phải nghe lời,
vì nếu không thì sẽ mất việc và chết đói; nhưng gã thủy thủ đó khỏe gấp đôi tôi
: lúc ấy tôi chỉ mới chưa đầy hai mươi mốt tuổi, sau cơn sốt rét tôi lại yếu
như một con mèo com. Hơn nữa trong tay gã còn có một thanh sắt đốt lò...
Ruồi
trâu ngừng lời, liếc nhìn Giêma. Rồi anh nói tiếp :
- Chắc
gã định đánh cho tôi chết hẳn. Nhưng gã đánh không thẳng tay lắm nên sau đó mặc
dù thân thể bị nát nhừ tôi vẫn có thể sống lại được.
- Thế
những người khác họ làm gì ? Tất cả mọi người đều sợ một gã thủy thủ say rượu
hay sao ?
Ruồi
trâu nhìn chị và cười phá lên :
- Những
người khác à ? Bọn con bạc và bọn chủ sòng ấy à ? Bà không biết hay sao ! Tôi
là đầy tớ, là của riêng của họ.
Họ xúm
xít lại và tất nhiên là họ khoái trá nhìn cảnh đánh nhau đó. Những chuyện như
vậy ở đấy họ coi như là trò đùa. Dĩ nhiên trò đùa trong trường hợp mà người
biểu diễn không phải là họ.
Giêma
rùng mình :
- Sau
rồi sao nữa hả ông ?
- Điều
đó tôi không thể nói được. Sau những cảnh ấy thường chẳng ai nhớ được những
ngày đầu ra sao. Gần đấy có một người thầy thuốc ngành hàng hải. Khi nhữngngười
xem thấy tôi chưa chết thì cho đi gọi ông ta đến. Ông ta chạy chữa cho qua loa
cho tôi. Ri-cac-đô thì cho lối chữa như thế là có hại, nhưng có lẽ đó chỉ là sự
ganh tị nghề nghiệp của ông ta thôi. Sau rồi tôi cũng tỉnh dậy. Một bà cụ người
địa phương theo Đạo thiên chúa vốn giàu lòng nhân từ, thương tình đem tôi về
nuôi. Chuyện ấy nghe cũng thật lạ tai phải không bà ? Tôi còn nhớ bà cụ ngồi
thu mình trong góc nhà tranh, hút thuốc, khạc nhổ xuống đất, ngâm nga một điệu
hát gì không rõ. Bà cụ rất tốt, cứ luôn bảo tôi rằng ở đây tôi có thể yên trí
mà chết, không bị ai ngăn cản gì đâu. Nhưng ý chí phản kháng vẫn vùng lên trong
người tôi và tôi quyết tâm sống. Trở lại cuộc sống - đấy mới thật là khó; và
ngày nay có lúc tôi nghĩ rằng cố mà sống như thế thật không bõ công. Bà cụ kiên
nhẫn lạ lùng. Tôi ở nhà bà cụ... Để tôi nhớ lại xem...chừng bốn tháng, suốt bốn
tháng lúc thì tôi nói mê, lúc thì làm ầm ĩ chẳng khác nào một con trâu điên.
Thú thật là đâu điếng người, mà tôi vốn lại được nuông chiều từ thủa nhỏ.
- Sau đó
rồi thế nào ?
- Sau
đó...tôi có phần đỡ và bò đi nơi khác. Bà đừng tưởng tôi đi là vì trong lòng áy
náy sợ phiền lòng tốt của bà cụ đáng thương ấy đâu. Không, tôi không nghĩ thế.
Tôi đi chỉ là vì ở nhà bà cụ tôi không sao chịu nổi...Bà vừa nói tới sự dũng
cảm của tôi ư ? Lúc ấy giá mà bà nhìn thấy tình cảnh của tôi. Chiều chiều mỗi
khi hoàng hôn buông xuống là cơn đau lại nổi lên. Cứ mỗi buổi chiều tôi thường
nằm một mình dõi nhìn ánh mặt trời dần tắt...Ồ bà không thể hiểu được đâu !
Ngay cả bây giờ tôi vẫn thấy khó chịu mỗi khi nhìn cảnh mặt trời lặn....
Một hồi
lâu im lặng.
- Rồi
tôi lại tiếp tục đi lang thang khắp nước, hy vọng kiếm được việc làm. Không thể
sống ở Li-ma được nữa. Tôi tưởng chừng phát điên mất...Tôi lặn lội ở Cút-scô
(một thành phố cổ ở Pê-ru và là thủ đô cũ của người Inca trước khi người châu
Âu đến chiếm châu Mỹ la tinh).. Nhưng chuyện cổ xưa ấy chẳng có ý gì lý thú nói
ra chỉ làm khổ tai bà.
Giêma
ngẩng đầu nghiêm nghị nhìn anh với đôi mắt sâu thẳm :
- Xin
ông đừng nói thế.
Ruồi
trâu cắn môi , bứt rời thêm một tua khăn khác. Một lúc sau anh hỏi :
- Tôi
tiếp tục kể nhé ?
-Nếu.....nếu
ông muốn. Tôi sợ bắt ông nhớ lại , nhớ lại những chuyện ấy thì khủng khiếp quá.
- Bà
tưởng....cứ im lặng là tôi quên được sao? Như thế còn tệ hơn nhiều. Nhưng bà
đừng nghĩ rằng những chuyện ấy còn ám ảnh tôi. Ám ảnh là chỗ tôi mất tự chủ
kia!
-
Tôi...tôi chưa hiểu rõ lắm.
- Tôi
muốn nói lúc sự can đảm của tôi đã cạn , lúc tôi thấy mình là 1 thằng hèn.
- Dĩ
nhiên , sức chịu đựng của con người cũng có hạn.
- Phải ,
một khi đã bước đến giới hạn ấy , con người ko tài nào biết được mình sẽ chịu
đựng được đến thế nữa.
Giêm-ma
do dự :
- Ông có
thể cho tôi biết....tại sao mới hai mươi tuổi , ông đã fải 1 thân 1 mình lưu
lạc đến những nơi ấy ?
- Dễ
hiểu lắm : quãng đời thơ ấu của tôi nơi quê nhà đẹp quá nên tôi fải chạy xa nó.
- Sao
thế ?
Ruồi
trâu lại cười khẩy :
- Sao à
? Bởi vì lúc ấy tôi là một gã trẻ tuổi khờ khạo , nhưng lại ngông cuồng , chắc
vậy. Tôi lớn lên trong một gia đình cực kỳ sang trọng , được " nâng như
nâng trứng , hứng như hứng hoa " , đến nỗi tôi cứ tưởng thế giới làm toàn
bằng tơ lụa hồng và hạnh nhân bọc đường. Rồi 1 ngày kia tôi khám fá ra rằng
người tôi hằng tin yêu nhất đã lừa dối tôi. Kìa , bà giật mình à , chuyện gì
thế ?
- Không.
Ông cứ tiếp tục đi !
- Tôi
biết được mình bị phỉnh phờ , đi tin 1 lời nói dối. Tất nhiên đó cũng chỉ là 1
chút kinh nghiệm thông thường. Nhưng , như tôi vốn nói , còn trẻ lại ngông
cuồng, tôi chỉ nghĩ rằng kẻ nói dối sẽ sa hoả ngục. Vì thế , tôi bỏ nhà , lao
sang Nam Mỹ để vùng vẫy cho thoả chí , trong túi ko có lấy 1 xu , sờ bụng cũng
chẳng có 1 chữ Tây Ban Nha nào , nói chung chẳng có thứ gì , ngoài đôi bàn tay
trắng và thói quen phung phí , ăn sẵn. Và kết quả tất yếu là tôi chìm sâu vào 1
hoả ngục thật sự , nhưng cũng nhờ đó mà thoát khỏi sự mê tín vào cái hoả ngục
giả tưởng trước kia. Đắm chìm hoàn toàn , đến tận đáy đúng 5 năm , cho tới khi
đoàn thám hiểm Đuy-prê đến kéo tôi lên.
- Năm
năm trời ! Kinh khủng quá ! Nhưng ông ko có bạn sao ?
- Bạn ?
Tôi...- anh quay nhìn chị , giọng đột nhiên dữ tợn...- Tôi chưa từng có người
bạn nào.
Sau đó
anh cảm thấy hơi thẹn vì phút thái quá của mình , nên vội tiếp lời :
- Bà
đừng để tâm những điều tôi nói . Vừa rồi tôi kể hơi quá , thực ra một năm rưỡi
đầu tôi sống ko đến nỗi nào : tôi còn trẻ và khoẻ , trước khi tên La-xca đến
ghi dấu vết lên đời tôi , tôi vẫn có thể xoay sở tự giành lấy miếng ăn khá dễ
dàng. Nhưng sau đó tôi ko kiếm được việc làm nữa. Lạ thật , 1 thanh sắt cời
than , nếu dùng đúng chỗ , thì cũng hữu ích lắm chứ , nhưng 1 kẻ đã tàn tật thì
ai còn thuê mướn để làm gì ?
- Thế
lúc bấy giờ ông làm gì ?
- Vớ
được việc gì tôi cũng làm . Có một thời gian tôi làm lao công sai vặt cho những
người nô lệ trong một đồn điền trồng mía. Nhưng chẳng ăn thua gì , bọn cai cứ
xua tôi đi : chân tôi khập khiễng quá , ko đi nhanh và vác nặng được , lại còn
hay trở chứng viêm hoặc những gì quái gở nữa . Một thời gian sau tôi lại xuống
vùng mỏ bạc , cạy cục xin việc , nhưng tôi cũng chẳng được gì. Cứ nghĩ đến
chuyện thu nhận tôi là mấy tên quản lý bật cười , còn người làm ở đấy thì xúm
lại trêu ghẹo.
- Sao họ
làm thế ?
- Ồ !
Bản tính con người mà , tôi nghĩ vậy , họ thấy tôi chỉ còn 1 tay để chống cự.
Sau cùng , ko chịu nổi nữa , tôi lại bỏ đi , lang thang khắp nơi , lang thang
mãi , chỉ mong kiếm được việc làm.
- Lang
thang ? Với chân khập khiễng như vậy ư ?
Anh ngước
lên , hơi thở bỗng hẫng hụt 1 cách đáng thương :
- Hồi ấy
tôi....tôi đói.
Giêm-ma
hơi ngoảnh mặt đi , đưa tay lên đỡ cằm. Sau 1 lúc im lặng , Ruồi trâu lại nói ,
giọng mỗi lúc 1 trầm hẳn :
- Tôi
lang thang , lang thang mãi đến gần như fát điên lên , mà ko kiếm được việc .
Tôi đến vùng Ê-cu-a-đo , ở đấy lại còn tẹ hơn. Đôi lúc tôi đi hàn xoong chảo
rong - tôi hàn cũng cừ lắm - hoặc chạy việc vặt vãnh , cọ rửa chuồng lợn. Thỉnh
thoảng lại...Ồ khó mà nhớ hết được. Thế rồi sau cùng , một hôm...
Bàn tay
nhỏ nhắn , da ngăm ngăm của anh đang đặt trên bàn bỗng nắm chặt lại , Giêm-ma
ngẩng đầu , lo lắng nhìn anh....Một nửa mặt anh quay về phía chị , nên chị thấy
được mạch máu ở thái dương anh đập mạnh , dồn dập từng hồi , chị nghiêng người
đến dặt tay lên cánh tay anh :
- Đừng
kể tiếp nữa , nói đến chuyện ấy khủng khiếp lắm , ông ạ !
Ruồi
trâu nghi ngại nhìn bàn tay của Giêm-ma , rồi lắc đầu bình tĩnh kể tiếp :
- Rồi 1
ngày kia tôi gặp 1 gánh xiếc rong . Chắc bà còn nhớ gánh xiếc tối nọ. Gánh này
cũng thế , nhưng còn tồi tệ hơn , thô kệch hơn, có cả mục đấu bò nữa. Gánh xiếc
cắm lều nghỉ ven đường , tôi mò đến lều xin ăn. Trời thì nóng , mà bụng thì đói
lả , nên tôi ngất đi ở cửa lều. Thời gian ấy , tôi hay bị cái tật ngất đi đột
ngột , như 1 cô nữ sinh nội trú bị nén yếm quá chặt ấy mà . Thấy vậy , họ đem
tôi vào lều , cho uống rượu mạnh và cho ăn....Rồi sáng hôm sau họ bảo tôi....
Im lặng
- Họ cần
1 vai gù , hoặc 1 vai hình thù quái dị nào đó , để bọn con nít ném vỏ cam vỏ
chuối vào . Bà đã thấy vai hè hôm ấy chứ - đấy , tôi đã đóng vai ấy 2 năm
...Tôi bắt đầu học làm trò. Tôi chưa đến nỗi dị dạng lắm , họ fải làm cho tôi 1
cái bướu giả , lợi dụng hết sức cái chân với cái tay này...Khán giả ở đấy cũng
ko khó tính lắm, họ cũng dẽ dàng hài lòng khi có 1 sinh vật trong tay để hành
hạ , bộ quần áo hề cũng làm được nhiều trò đáo để. Trở ngại duy nhất kà tôi hay
đau ốm luôn , ko biểu diễn được. Thỉnh thoảng , gặp lúc đang bực mình , người
chủ gánh xiếc vẫn lôi tôi ra sân khấu , bất kể tôi đang lên cơn , những buổi
như vậy công chúng lại thích nhất. Tôi còn nhớ , một hôm tôi đau quá ngất đi
giữa buổi biẻu diễn....Khi tỉnh lại , tôi thấy khán giả xúm xít xung quanh , la
ó , hò hét , ném vào người tôi những thứ....
- Đừng
kể nữa ! Tôi ko chịu được nữa ! Thôi đi , trời ơi !
Giêm-ma
đứng dậy , bịt tai lại. Ruồi trâu ngưng bặt , ngước mắt lên và thấy nước mắt
chị đã chực trào ra. Anh hổn hển :
- Đáng
nguyền rủa thật ! Sao tôi ngu xuẩn thế !
Giêm-ma
bước đến đứng bên cửa sổ , nhìn ra ngoài 1 lúc. Khi chị quay lại , Ruồi trâu đã
lại tựa vào bàn , đưa tay che mắt. Rõ ràng anh đã quên bẵng mất chị đang ở đấy.
Giêm-ma lẳng lặng ngồi xuống cạnh anh. Một lúc sau , chị chậm rãi nói :
- Tôi
muốn hỏi ông 1 điều.
- Vâng -
Ruồi trâu ko nhúc nhích
- Sao
lúc ấy ông ko cắt cổ tự tử ?
Anh
ngước lên hết sức ngạc nhiên :
- Tôi ko
ngờ mà bà lại hỏi tôi như thế. Còn công việc của tôi? Ai sẽ hoàn tất thay tôi?
- Công
việc của ông ? À , ra thế ! Tự nãy giờ ông cứ cho mình là 1 kẻ hèn nhát . Chao,
nếu ông đã chịu đựng tất cả đẻ giữ được mục đích của mình , phải nói ông là
người dũng cảm nhất tôi chưa từng gặp ?
Ruồi
trâu đưa tay che mắt, tay kia nồng nàn siết chặt tay chị. Im lặng trùm lên họ ,
tưởng như bất tận.....
Đột
nhiên dưới vườn vọng lên 1 giọng nữ cao trong trẻo , đang hát 1 đoạn trong 1
bài ca tiếng Pháp dở tệ :
"
Eh , Pierrôt ! Danse.Pierrôt !
Dáne un
peu , mon pauvre Jeannôt
Vive la
danse et l allégresse !
Hoissons
de notre bell jeunesse !
Si moi
je pleure ou moi je soupire
Si moi
je fais la triste figure
Monsieur
, ce n est que pour rive
Ha ! Ha
! ha, ha !
Monsieur
, ce n est que pour rive ! "
Vừa nghe
câu đầu Ruồi trâu đã rụt tay về , co người lại , rên rỉ hổn hển . Giêm-ma đưa 2
tay siết lấy cánh tay anh , ấn chặt xuống , như ấn tay một người đang chịu mổ
xẻ . Bài ca dứt , nhiều giọng cười và tiếng vỗ tay vang lên. Ruồi trâu ngước
nhìn lên với ánh mắt của 1 con thú bị hành hạ , anh chậm rãi nói :
- Phải ,
Dita với mấy ông bạn sĩ quan của cô ta đấy . Đêm nọ , trước khi Ri-các-đô đến ,
cô ta tìm cách vào đây thăm tôi . Cô ấy mà chạm vào người , chắc tôi fát điên
lên mất!
Giêm-ma
dịu dàng phản đối :
-
Nhưng....Chị ấy có biết đâu. Chị ấy đâu ngờ làm ông phật ý.
Dưới
vườn 1 trận cười khác lại rộ lên. Giêm-ma đứng dậy mở cửa sổ , Di-ta , đầu đỏm
dáng vấn 1 chiếc khăn thêu sợi vàng , đang đứng giữa lối đi trong vườn , giương
cao 1 bó hoa tim cho 3 sĩ quan trẻ tuổi đang tranh nhau với lấy .
Giêm-ma
gọi :
- Bà
Rê-ni !
Di-ta sa
sầm nét mặt . Cô ta quay lại nhìn lên , ánh mắt khiêu khích :
- Thưa
bà ?
- Xin
các ông bạn của bà vui lòng nói khẽ 1 chút . Ông Rivarex đang mệt lắm.
Cô gái
du mục vứt tung bó hoa xuống đất , quay phắt lại nói với mấy viên sĩ quan đang
sửng sốt :
-
Allez-vous-en ! Vous m embetezz , messieurs !
Và cô từ
từ đi ra đường. Giêm-ma đóng cửa sổ quay về phía Ruồi trâu :
- Họ đi
rồi !
- Cám ơn
bà . Tôi....rất tiếc đã làm phiền bà.
- Có gì
mà phiền...
Ruồi
trâu nhận ra ngay chỗ ngập ngừng trong câu nói của chị :
- "
Nhưng " câu nói của bà chưa hết , thưa bà còn 1 chứ " nhưng" sót
lại trong ý nghĩ của bà.
- Nếu
ông thấy được phần còn lại của ý nghĩ người khác , xin ông chớ fật ý vì những
gì ông đọc được ở đó. Dĩ nhiên, đây ko fải là chuyện của tôi , nhưng tôi ko
hiểu được....
- Ác cảm
của tôi với Rê-ni ? Điều đó chỉ có khi....
- Ko ,
tôi ko hiểu được sao có mối ác cảm đó mà ông vẫn sống được với chị ấy . Đối với
tôi đó là 1 sự xúc phạm đến chị ấy về phương diện là 1 phụ nữ và về phương
diện...
- Phụ nữ
! Ruồi trâu phá lên cười thật chói tai - Bà cũng gọi đó là 1 phụ nữ à ? "
Madame , ce n est que pour rive "
Giêm-ma
kêu lên :
- Như
vậy là ko phải lẽ ! Ông ko có quyền nói về chị ấy như thế , nhất là lại nói với
1 phụ nữ khác.
Ruồi
trâu quay đi , nằm mở to mắt nhìn mặt trời đang lặn ngoài cửa sổ. Giêm-ma đóng
luôn cánh cửa gỗ lại , buông rèm xuống để anh khỏi thấy mặt trời lặn nữa, rồi
chị ngồi sang chiếc bàn cạnh cửa sổ khác.
Một lúc
sau chị hỏi :
- Ông để
tôi thắp đèn lên nhé ?
Ruồi
trâu lắc đầu.
Khi ko
thể thấy mũi đan nữa , Giêm-ma xếp đồ vào giỏ . Chị khoanh tay ngồi im lặng một
lúc, nhìn thân hình bất động của Ruồi trâu . Ánh sáng mờ tối phủ lên mặt anh
làm dịu bớt nét khắc khổ , giễu cợt , kiên quyết , nhưng lại hằn sâu thêm nét
bi đát của làn môi. Do 1 sự liên tưởng kì lạ , Giêm-ma vụt nhớ đến cây thánh
giá bằng đá cha chị đã dựng để tưởng nhớ A-thơ , với hàng chữ khắc trên đó :
"
Mọi sóng gió bão táp của anh còn xô mãi lên đời tôi "
Một giờ
trôi qua , chìm đắm trong im lặng. Sau cùng , Giêm-ma đứng dậy , nhẹ chân bước
khỏi phòng . Trở lại với chiếc đèn trên tay , chị đứng lại 1 lúc , tưởng Ruồi
trâu đã ngủ. Nhưng ánh đèn vừa hắt đến mặt , anh đã quay lại.
Giêm-ma
đặt đèn xuống.
- Tôi đã
pha cà-phê cho ông đây.
- Để
xuống đấy đã. Bà vui lòng đến gần đây được ko ?
Anh nắm
dôi bàn tay chị :
- Tôi đã
suy nghĩ....thấy bà nói rất đúng . Đời tôi quả đã sa lầy. Nhưng bà cũng nên nhớ
rằng ko fải ngày nào người ta cũng tìm được 1 người phụ nữ mình có thể.....yêu.
Còn tôi....tôi cũng dã từng ngụp lặn trong vũng tối khôn cùng. Tôi sợ...
- Ông
sợ....
- Sợ
bóng tối. Đôi khi , ban đêm phải nói là tôi ko dám ở 1 mình , tôi cần có 1 cái
gì sống động , 1 cái gì vững chãi bên mình. Bóng tối tôi vừa nói đến là bóng
tối ở bên ngoài , ở đó...Không , không ! Ko phải hoả ngục , hoả ngục chỉ là thứ
đồ chơi ba xu để doạ trẻ con. Bóng tối ở bên trong kia! Ở đó ko có khóc lóc
nghiến răng , chỉ có im lặng ...im lặng...
Mắt anh
mở to . Giêm-ma lặng thinh , nín thở chờ đợi.
- Chắc
điều đó quá huyễn hoặc với bà fải ko ? Bà ko hiểu được - thật may mắn cho bà.
Tôi muốn nói là nếu thử sống 1 mình , hẳn tôi phát điên ngay...Nếu xét thấy
được , xin bà đừng quá nghiêm khắc với tôi . Tôi ko đến nỗi hung tàn hư hòng
như , có lẽ , bà vẫn tưởng tượng về tôi đâu.
Giêm-ma
đáp :
- Tôi ko
tìm ra cách nào fán đoán thay ông được, Tôi chưa từng trải qua những khổ đau
như của ông. Nhưng....có thể nói tôi cũng chìm sâu trong sự khồn cùng , hiểu
theo nghĩa khác . Và tôi nghĩ , tôi đoán chắc , nếu ông để sự sợ hãi hoặc điều
gì đó đưa mình đến một hành vi thực sự tàn nhẫn hoặc bất công hoặc thiếu độ
lượng thì rồi ông sẽ hối hận. Còn....nếu trước sự việc như vậy , mà ông chịu
thất bại , thì tôi tin rằng ở hoàn cảnh của ông , chắc tôi đã buông trôi tất cả
, kêu trời oán đất mà chết từ lâu rồi !
Ruồi
trâu vẫn giữ tay chị trong tay mình , anh nói thật nhẹ :
- Cho
tôi biết đi , trong đời đã bao giờ bà làm một việc thatạ sự tàn nhẫn chưa ?
Giêm-ma
ko trả lời , nhưng đầu chị gục xuống , và hai giọt nước mặt rơi ấm tay anh.
Ruồi
trâu siết chặt tay chị thêm , giọng anh chỉ còn là 1 hơi thở thiết tha :
- Nói đi
! Bà nói đi ! Tôi đã kể cho bà nghe tất cả nỗi thống khổ của tôi...
-
Vâng...có một lần....lâu lắm rồi. Tôi đã trót làm viếc ấy với người tôi yêu
nhất trên đời này.
Đôi tay
đang siết chặt tay chị run lẩy bẩy, nhưng ko buông lơi . Giêm-ma nói tiếp :
- Anh ấy
là 1 đồng chí. Tôi trót tin lời người ta vu khống anh ấy - chỉ là 1 sự bịa đặt
thông thường của bọn cảnh sát thôi , thế là tôi ko nhận ra. Tôi tát anh ấy như
1 tên phản bội . Anh ấy bỏ đi , và nhảy xuống sông tự vẫn. Thế rồi 2 ngày sau ,
tôi được biết anh ta hoàn toàn vô tội. Có lẽ kỷ niệm ấy còn cay đắng hơn bất cứ
kỷ niệm nào của ông. Giá chặt cụt bàn tay fải này mà xoá được điều nó đã trót
phạm phải , tôi cũng sẵn lòng.
Mắt Ruồi
trâu chợt loé lên 1 tia sắc sảo và nguy hiểm mà trước đây Giêm-ma chưa từng
thấy. Anh cúi xuống , vụng trộm bất thần hôn lên tay chị.
Giêm-ma
giật lùi , hoảng hốt , chị kêu lên thật đáng thương "
- Đừng !
Xin ông đừng bao giờ làm như thế nữa . Ông làm tôi đau lòng.
- Thế bà
tưởng bà ko làm cho người bà đã giết đau lòng sao ?
- Người
mà tôi.....đã giét....A! Trê-da-rê đến cổng rồi kia ! Tôi...Tôi phải đi đây.
*
Bước vào
phòng, Mac-ti-ni thấy bên cạnh tách cà-phê vẫn còn nguyên , Ruồi trâu nằm đó 1
mình , đờ đẫn , thất thần , đang lầm rầm nguyền rủa như thể ko hài lòng với
tách cà-phê ấy.
RUỒI TRÂU
Chương
16
Vài hôm
sau , vẫn còn xanh mét và khập khiễng hơn thường ngày , Ruồi trâu vào thư viện
mượn xem những bài thuyết giáo của Hồng y Giáo chủ Môntaneli . Ricácđô đang đọc
sách ở 1 bàn gần đó , nhìn lên : tuy rất thích Ruồi trâu , nhưng anh không tài
nào chấp nhận nổi 1 điểm duy nhất là cái ác ý cá nhân kỳ dị nơi con người ấy.
- Ông
lại định tấn công vị Hồng y tội nghiệp này nữa ? - Ricácđô hỏi , gần như bực
túc.
- Ông
bạn thân mến ạ , sao ông cư.....mãi giao tiếng o...oan cho tôi thế ? Phi cơ đốc
giáo đấy nhé , tôi đang chuẩn bị 1 bài tiểu luận về khoa thần học hiện đại cho
một tờ báo m...m...mới đây!
- Báo
nào vậy ? - Ricácđô hoài nghi giương mắt nhìn Ruồi trâu : đã có nguồn tin nửa
bí mật nửa công khai nói rằng luật báo chí mới đã được dự thảo , và phe Đối lập
đang chuẩn bị cho ra mắt 1 tờ báo cấp tiến làm chấn động thành phố , nhưng về
mặt hình thức , đó vẫn là bí mật.
- Nhật
báo " Kẻ lừa đảo " , dĩ nhiên , hay tờ " Lịch Giáo hội "
cũng vậy.
-
S....suỵt ! Rivarex , chúng ta đang làm ồn người khác đấy!
- Được ,
vậy hãy vùi đầu vào khoa giải phẫu của ông đi , đó là việc của ông và đ...để
tôi yên với khoa th....thần học....của tôi.Tôi sẽ kh....không can thiệp vào
việc trị liệu các xương gãy của ông đâu , dù tôi biết nhiều ca gãy xương
q...q...quý giá hơn các ca của ông nhiều.
Ruồi
trâu ngồi xuống với tuyển tập của những bài thuyết giáo , vẻ mặt càng căng
thẳng , đăm chiêu. Một trong những nhân viên thư viện đến bên anh :
- Ông
Rivarex ! Hình như ông có ở trong đoàn thám hiểm của Đuy-prê đi khám phá các
phụ lưu của sông Amadôn phải không ? Mong ông vui lòng giúp đỡ hộ chúng tôi khó
khăn này : một bà muốn mượn bản tường thuật cuộc thám hiểm đó , nhưng bản tường
thuật đã đem đi đóng rồi.
- Bà ấy
muốn biết những gì ?
- Chỉ
hỏi năm nào cuộc thám hiểm bắt đầu , và khi nào thì băng qua Ê-cu-a-đo thôi ạ ?
- Cuộc
thám hiẻm cuất fát từ Pa-ri , mùa thu 1837 băng qua Qui-tô vào tháng 4 năm
1838. Chúng tôi ở Braxin 3 năm , sau đó xuống Ri-ô và trở lại Pa-ri hè năm
1841. Bà ấy có muốn biết ngày của từng cuộc khám phá không ?
- Không
, cám ơn ông , chỉ bấy nhiêu thôi. Tôi đã ghi được cả vào đây rồi ạ . Bep-pô ,
đưa hộ tờ giấy này cho bà Bôla. Cám ơn ông rất nhiều , ông Rivarex ạ , và cho
tôi xin lỗi đã làm phiền ông.
Ruồi
trâu ngả người ra ghế nhíu máy nghĩ ngợi.Giêm-ma muốn biết những ngày ấy để làm
gì cơ chứ ? Sao lại chỉ cần biết thời gian họ đi qua Ê-đu-a-đo cơ nhỉ?...
Giêm-ma
trở về nhà với mảnh giấy trong tay. Tháng tư , 1838 ...và Athơ chết tháng năm ,
1833...Năm năm....
Chị chầm
chậm đi tới đi lui trong phòng , qua mấy ngày mất ngủ , những quầng thâm đã
xuất hiện dưới mắt chị . Năm năm...và " một gia đình cực kỳ sang trọng
"...và " người mà anh ta hằng tin yêu nhất đã lừa dối anh ta
..." đã lừa dối anh ta....và anh ta đã tìm ra....
Chị dừng
bước, hai tay bưng lấy đầu. Không, nghĩ thế hoàn toàn là điên rồ ! Không thể
thế được...Thế thực là hoang đường ...Mà lúc đó đã mò tìm kỹ khắp bến tàu rồi !
Năm
năm....Và lúc bị gã thuỷ thủ đánh thì ông ấy mới "chưa đầy hai mươi mốt
tuổi"...Nghĩa là ông ấy bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi. Chính ông ấy nói
" một năm rưỡi". Còn đôi mắt xanh biếc và những ngón tay hấp tấp ấy ?
Và tại sao ông ấy lại căm ghét Mông-ta-ne-li ghê gớm đến thế ? Năm năm...Năm
năm...Nếu biết chắc chắn rằng Ac-tơ đã chết đuối, nếu chính mắt chị được trông
thấy thi hài Ac-tơ ...thì vết thương xưa cũ ấy sẽ có ngày lành lặn và kỷ niệm
đau đớn sẽ thôi không dày vò chị và chừng hai mươi năm sau chị có thể quay nhìn
lại quá khứ mà không chút kinh hoàng.
Cả một
thời thanh xuân chị đã bị ý nghĩ ấy đầu độc. Ngày lại ngày, năm lại năm, chị đã
kiên quyết đấu tranh chống lại sự cắn rứt lương tâm. Chị không ngừng nhủ thầm
rằng mình sẽ phụng sự cho tương lai, không ngừng bưng tai nhắm mắt, cố tránh
những bóng ma âm thầm của dĩ vãng. Nhưng ngày qua tháng lại, hình ảnh người
gieo mình xuống biển tự tử bị cuốn ra biển cả vẫn cứ ám ảnh chị, trong lòng chị
vẫn vang lên tiếng sóng dạt dào, tiếng kêu chua xót mà chị không sao dập tắt
nổi :"ta đã giết Ac-tơ ! Ac-tơ chết rồi !". Đôi lúc chị có cảm giác rằng
gánh nợ ấy đã quá nặng đối với chị.
Tuy thế,
nếu bây giờ dù có phải hy sinh nửa cuộc đời còn lại để mang được gánh nặng ấy
thì chị sẵn sàng hy sinh. Ý nghĩ cay đắng rằng mình đã giết Ac-tơ đã trở nên
quen thuộc đối với chị rồi ; tâm hồn chị đã rên xiết quá lâu dưới gánh nặng ấy
nên bây giờ không có lý gì để gục xuống nữa. Nhưng nếu chị không đẩy Ac-tơ
xuống nước mà dẩy xuống...Giêma gieo mình xuống ghế, hai tay bưng lấy mặt và
nghĩ rằng "tất cả cuộc đời mình đã bị cái chết của Ac-tơ ám ảnh như một
bóng ma! Ồ mong sao mình chỉ đẩy Ac-tơ xuống chỗ chết thôi, chứ chưa đẩy Ac-tơ
tới một cái gì đấy đau khổ hơn cái chết !"
Kiên
quyết, không oán thán, Giêma hồi tưởng lại toàn bộ cảnh địa ngục của cuộc đời
cũ của Ac-tơ, từng đoạn, từng đoạn một. Cảnh địa ngục ấy hiện ra mồn một trong
trí tưởng tượng của chị , y như chính chị đã từng trông thấy và sống ngay trong
cảnh đó; nào là một linh hồn trơ trọi đang run rẩy, nào là những nỗi kinh hoàng
của cô đơn, nào là những suy nghĩ nhạo báng chua xót hơn cả cái chết, nào là
những cơn hấp hối chầm chậm, mòn mỏi và tàn nhẫn.
Nó cũng
mồn một y như chính chị đã từng ngồi cạnh anh trong túp nhà tranh bẩn thỉu đó,
y như chị đã từng ngồi cùng anh chịu đựng khổ nhục trong những mỏ bạc trong
những đồn điền cà phê và trong gánh xiếc rong gớm ghiếc đó.
Gánh
xiếc rong...Thôi, ít nhất hãy xua đuổi hình ảnh ấy đi vì nó làm cho người ta có
thể phát điên lên được.
Giêma
rút ô kéo bàn viết, ngắm nhìn một số vật kỷ niệm mà không bao giờ chị muốn huỷ
bỏ. Chị không hay thu góp các kỷ niệm nhớ nhung nhỏ nhặt nhưng dù sao chị vẫn
giữ lại một vài thứ : đó là một sự nhượng bộ đối với một nhược điểm mà Giêma
vẫn kiên quyết đè nén trong người. Rất ít khi chị cho phép mình ngó tới ô kéo
ấy.
Đây là
những vật chị gìn giữ : bức thư đầu của Giô-va-ni những bông hoa nằm trong bàn
tay đã chết của Giô-va-ni, mớ tóc của đứa con chị, một chiếc là khô trên mồ cha
chị. Ở đáy ô kéo là tấm ảnh độc nhất của Ac-tơ - tấm ảnh lúc Ac-tơ lên mười.
Giêma
ngồi sụp xuống ghế và ngắm mãi mái tó mơn mởn xinh xắn, ngắm mãi cho tới khi
hình ảnh chàng trai Ac-tơ hiện ra trước mắt chị mới thôi. Giờ đây bộ mặt Ac-tơ
hiện ra nét quá ! Đôi môi nhạy cảm, mắt to và chân thành gương mặt trong sáng
vô ngần - tất cả những cái đó khắc vào trí nhớ của chị sâu đến nỗi chị tưởng
chừng như Ac-tơ chỉ mới chết hôm qua. Và những giọt lệ rưng rưng đã từ từ che
mờ bức ảnh trước mắt chị.
Tại sao
chị lại có ý nghĩ như thế ? Giam cầm linh hồn sáng láng và siêu thoát ây trong
bùn lầy và đau khổ của cuộc sống thì chẳng phải đã xúc phạm tới thánh thần quý
mến Ac-tơ nên mới cho anh ta chết sớm, thà biến thành hư hỏng không cẫn sướng
gấp ngàn lần được sống sót và trở thành Ruồi trâu , trở thành anh chàng Ruồi
trâu với những chiếc ca-vat lịch sự, những lời châm chọc đáng ngờ, với một
miệng lưỡi cay độc và với cô vũ nữ của anh ta...Không, không ! Đó là kết quả
ghê gớm mà vô nghĩa của trí tưởng tượng của chị. Chị đã làm thương tổn trái tim
mình bằng những ảo tưởng trống rỗng - Ac-tơ chết rồi !
Có người
khẽ gọi ngoài khung cửa.
- Tôi có
thể vào được không ?
Giêma
giật mình đến nỗi đánh rơi tấm ảnh xuống đất. Ruồi trâu khập khiễng bước vào
phòng, nhặt lấy tấm ảnh đưa cho chị.
Chị nói
:
- Ông
làm tôi sợ quá !
-
Xin...xin bà tha lỗi . Có lẽ tôi làm phiền bà ?
- Không,
tôi đang soạn lại những đồ vật cũ.
Giêma
ngập ngừng một lát rồi đưa cho anh tấm ảnh :
- Ông
thấy cậu bé này thế nào ?
Và trong
lúc Ruồi trâu ngắm tấm ảnh, Giêma theo dõi anh, cân não hết sức căng thẳng,
dường như tất cả cuộc đời chị là do vẻ mặt anh quyết định. Nhưng Ruồi trâu chỉ
cau mày có vẻ phê phán và nói :
- Bà đã
ra cho tôi một bài toán khó, tấm ảnh đã phai màu và nói chung thì khuôn mặt trẻ
con thì rất khó phán đoán. Nhưng tôi tưỏng rằng cậu bé này sẽ trở thành một kẻ
bất hạnh. Và điều khôn ngoan nhất cho cậu ấy là cứ nên trẻ con như thế này mãi,
đừng thành người lớn nữa.
- Tại
sao thế ông ?
Bà thử
nhìn xem đường môi dưới đây. Có thể thấy được tính cách của cậu ta : cái gì đau
khổ , cái gì dối trá là dối trá. Trong thế giới của chúng ta, những người như
thế.không sống được. Thế giới này cần có những người chỉ biết nghĩ đến công
việc của mình.
- Bức
ảnh không gợi cho ông nhớ tới ai ư ?
Ruồi
trâu nhìn kỹ bức ảnh :
- Phải.
Lạ thật ! ...Phải ! Tất nhiên là giống..
- Giống
ai thế ông ?
- Giông
Hồng...Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li. Có lẽ đức Hồng y giáo chủ thanh liêm này
có cháu gọi bằng bác chăng ? Xin bà cho hỏi , đây là ai ?
- Đây là
tấm ảnh thủa nhỏ của một người bạn mà tôi nói với ông hôm nào...
- Người
mà bà đã giết có phải không ?
Giêma
bất giác rùng mình. Ông ta thốt ra câu nói ghê rợn ấy một cách dễ dàng và tàn
nhẫn quá !
- Phải,
người...tôi đã giết...nếu anh ta chết thật.
- Nếu ư
?
Giêma
dán mắt vào gương mặt Ruồi trâu :
- Đôi
lúc tôi vẫn còn hoài nghi. Người ta không tìm thấy xác anh ấy. Có lẽ anh ấy
cũng bỏ trốn sang Nam Mỹ giống như ông.
- Có thể
tin là không. Nếu nghĩ như thế bà sẽ vẫn rất khổ tâm. Trong đời tôi , tôi đã
từng đưa biết bao nhiêu người xuống địa ngục, nhưng xin bà hãy tin rằng nếu tôi
biết do lỗi tại tôi mà có một sinh linh nào được sang Nam Mỹ thì tôi sẽ không
sao ngủ yên...
Giêma
nắm chặt tay, tiến lại gần và ngắt lời anh :
- Nghĩa
là ông cho rằng nếu người đó không chết đuối...mà lại trải qua những cảnh ngộ
như ông thì người đó vĩnh viễn không bao giờ trở lại và không sao quên được
chuyện cũ có phải không ? Ông cho rằng người đó không thể nào có lòng tha thứ
hay sao ? Ông nên biết rằng chính tôi cũng đã phải trả một giá nào đó ! Ông thử
nhìn xem !
Giêma
lật mái tóc dày lên khỏi trán. Giữa những mớ tóc đen nhánh lộ ra một mớ tóc bạc
lớn. Sau một hồi im lặng , Ruồi trâu chậm rãi nói :
- Tôi
nghĩ rằng những người đã chết thì cứ nên vẫn là những người đã chết. Khó mà
quên đi được dĩ vãng và nếu tôi ở địa vị người bạn đã chết của bà thì tôi cứ
tiếp tục làm một người đã chết. Dù là quỷ có hoàn hồn thì cũng chỉ là một bóng
ma ghê rợn.
Chị cất
tấm chân dung trở lại vào ô kéo, mà khoá lại.
- Chủ
thuyết đó của ông khắc nghiệt quá. Thôi, bây giờ ta nói chuyện khác đi.
- Tôi
đến để bàn với bà một việc nhỏ, và nếu bà cho phép , thì ta xem đó là một câu
chuyện riêng. Tôi mới nghĩ ra một kế hoạch công tác.
Giêma
kéo ghế lại gần bàn, ngồi xuống.
Ruồi
trâu bắt đầu nói bằn một giọng trơn tru, không chút nói lắp:
- Bà có
ý kiền gì về bản dự thảo luật báo chỉ?
- Ý kiến
tôi à? Tôi nghĩ đạo luật đó có rất ít giá trị, nhưng thà có nửa chiếc bánh còn
hơn không có tí bánh nào.
- Lẽ dĩ
nhiên. VẬy nghĩa là bà định làm việc cho một trong những tờ báo mới mà mấy vị
tốt bụng ở đây đang chuận bị xuất bản tại đây ?
- Phải ,
tôi tính làm việc đó. Khi sắp ra một tờ báo thường sẽ có rất nhiều công việc cụ
thể như: tìm nhà in, bố trí lưu hành báo và...
- Bà
định cứ tiếp tục phao phí những năng khiếu tríu tuệ của mình như thế đến bao
giờ ?
- Tại
sao lại "phao phí"?
- Vì nó
là phao phí. Hẳn bà cũng thừa hiểu rằng bà còn thông minh ơn cả số lớn những
người đàn ông đang cùng làm việc với bà. Vậy mà bà cứ để cho họ biến bà thành
một người lao công tạp vụ, một người đầu sai. Về mặt trí tuệ, so với bà thì
Gơratxini và Gali kém xa và chỉ là học trò. Vậy mà bà cứ chịu ngồi sửa các bản
in thử những bài viết của họ như một chân thư ký sửa bài ở nhà in.
- Trước
hết, không phải tôi chỉ toàn làm công việc sửa bản in thử, và thứ nữa , tôi có
cảm tưởng là ông quá khen năng lực của tôi. Tôi chẳng có năng lực gì lỗi lạc
như ông tưởng.
Ruồi
trâu bình tĩnh trả lời:
- Nào
tôi có bảo là lỗi lạc đâu. Điều quan trong hơn nhiều là bà có những năng lực
vững vàng và chắc chắn . TRong các phiên họp tẻ ngắt của ban chấp hành, chính
bà luôn luôn là người vạch rõ được những chỗ yếu trong lập luận của từng người.
- Đối
với những người khác, ông chưa công bằng. Chẳng hạn như Mactini có đầu óc rất
logic. Phabơritxi và Lega đều rất có năng lực, điều đó không còn nghi ngờ gì
ữa. Cồn như Gơratxini thì có lẽ ông ta hiểu tình hình thống kê kinh tế của nước
Ý sâu sắc hơn bất cứ một quan chức nào trong nước.
- Như
thế cũng chưa lấy gì làm nhiều lắm. Nhưng thôi, ta đừng bàn đến họ và năng lực
của họ nữa. Sự thực vẫn là : với tài năng của bà, bà có thể làm được những việc
quan trọng hơn và ở cương vị có trách nhiệm lơn hơn hiện nay.
- Tôi
rất băng lòng về vị trí của tôi; tuy công việc tôi đang làm không có nhiều giá
trị lắm, có lẽ vâyk, nhưng tất cả chúgn tôi ai làm được gì thì đề ucố gắng làm.
- Bà
Bôla, chúng ta không nên khen nhau và nhún nhường với nhau mãi làm gì. Xin bà
cứ thật thà trả lời cho tôi biết : bà có thừa nhận rằng hiện những việc mà bà
đang tận dụng trí não của mình để làm, lẽ ra có thể dành cho những người khém
hơn bà làm được không ?
- Nếu
ông cứ ép tôi trả lời, thì tôi bả rằng : có, ở mức nhất định.
- Vậy
tại sao bà lại cứ để yên tình trạng như vậy ?
Không có
tiếng trả lời.
- Tại
sao bà lại cứ để yên ?
- Vì
...tôi không có cách nào khác.
- Tại
sao vậy ?
Chị nhìn
Ruồi trâu bằng con mắt trách móc:
- Ông
chẳng tế nhị chút nào...tại sao lại cứ ép tôi phải trả lời .
- Nhưng
dù sao bà vân cứ phải cho tôi biết vì lẽ gì chứ
- ĐÃ thế
thì tôi xin trả lời rằng: tại vì đời tôi đã tan nát rồi. Hiện nay tôi không còn
đủ nghị lực làm một việc gì ra hồn nữa. Tôi chỉ còn xứng đáng làm con bò kéo xe
cách mạng và làm những tác lao công tạp vụ cho đảng được thôi. Ít nhất tôi cũng
đã tận tâm làm tròn nhiệm vụ ấy, và cho dù tôi không làm nữa thì cũng phải có
người nào khác làm.
- Vâng ,
tất nhiên cũng phải có ngừơi nào khác làm, nhưng không nhất thiết một người cư slàm
mãi việc ấy.
- Đại
thể tôi chỉ làm được có thế thôi.
Ruồi
trâu lim dim mắt nhìn chị một cách khó hiểu. Giêma ngẩng đầu.
- Ta
quay lại đề tài cũ mất rồi, lẽ ra ta cần bàn công việc gì mới kìa ma. Tôi bảo
đảm với ông rằng nếu cứ bàn rằng tôi có thể làm được việc này việc nọ, thì sẽ
chỉ vô ích thôi. Tôi sẽ chẳnt làm được đâu. Nhưng tôi có thể giúp ông suy nghĩ
về kế hoạch. VẬy kế hoạch của ông là gì ?
- Đầu
tiên bà bảo nếu tôi có gợi ý giao việc gì cho bà thì cũng chỉ là vô ich, thế
rồi bà lại hỏi tôi định gợi ý công tác gì. Không những tôi cầ bà nghĩ kế hoạch
giúp tôi mfa tôi còn cần bà giúp thực hiện kế hoạch nữa kìa.
- ông cứ
nói xem việc gì đã, rồi sau ta sẽ bàn.
- Trước
hết tôi muốn hỏi xem bà có nghe tin gì về những mưu toan khởi nghĩa ở vùng Venexia
không ?
- Từ khi
có đại xá đến nay , tôi chỉ nghe nói tới hai chuyện : một là chuyện chủan bị
khởi nghĩa nói chung, và hai là về những âm mưu của phái Xanphêdich. Nhưng e
rằng tôi hoài nghi cả hai chuyện đó .
- Trong
số lớn trường hợp, tôi cũng nghĩ như bà, nhưng giờ đây tôi đang nói đến một
tình hình là trong toàn bộ một tỉnh thực sự đang có việc nghiêm chỉnh chủân bị
khởi nghĩa để chống lại người Áo. Trong những nước thuộc Giáo hoàng - đặc biệt
là trong Bốn ĐẶc khu , rất nhiều bạn thanh niên đang bí mật chủân bị vượt biên
giới để tình nguyện gia nhập nghĩa quân. Bạn bè của tôi ở Rômânh báo cho biết
rằng...
Chị ngắt
lời :
- Xin
ông cho biết, liêu ông có hoàn toàn chắc chắn là những bạn bè của ông có thể
tin cậy được không ?
- Hoàn
toàn chắc chắn. Tôi có quen biết riêng với họ và đã từng làm việc với họ.
- Nghĩa
là, họ cũng cùng một "nhóm bí mật" với ông chứ ? Mong ông tha thứ cho
sự hoài nghi của tôi, nhưng thường tôi vẫ có chút nghi ngời đối với tính chính
xác trong những thông tin của các đoàn thể bí mật. Tôi có cảm tưởng rằng cái
thói quen mà ...
Anh cắt
ngang:
- Ai bảo
bà rằng tôi là người của một "nhóm bí mật"?
- Không
ai bảo, tự tôi đoán thế
- À
Anh ngả
lưng vào ghế, cau mày nhìn chị. Một lát sau anh nói:
- BÀ có
luôn luôn đoán mò những việc riêng của ngươi fkhác không đấy ?
- Tôi
rất hay suy đoán. Tôi có đôi chút đầu óc quan sát và cũng có thói quen tìm ra
mối liên hệ giữa các sự việc. Nói như vậy để khi ông muốn giấu tôi một điều gì
đó, thì xin ông hãy coi chừng tôi.
- Việc
bà biết công ciệc của tôi, điều đó không can hệ gì lắm, miễn là không đi quá
xa. Tôi hi vọng là chuyện ấy còn chưa đến nỗi...
Chị
ngẩng cao đầu, với vẻ nửa ngạc nhiên nửa giận dỗi:
- Vấn đè
ấy dứt kháot là thừa.
- Tất
nhiên tôi biết bà không đi nói với người ngoài, nhưng có thể bà nói với những
người trong đảng của bà...
- ĐẢng
căn cứ vào sự thực chứ không căn cứ vào những sự phỏng đoán và tưởng tượng của
cá nhân tôi. Lẽ dĩ nhiên tôi chưa hề bao giờ nói chuyện nfy với một ai
- CẢm ơn
bà, vạy có bao giờ bà đoán tôi thuộc nhóm bí mật nào không ?
- Tôi
mong rằng... - mà ông không được mếch lòng về tính thẳng thắn của tôi đâu nhé,
bởi vì chuyện này là do chính ông tự khơi ra, phải không ạ..- tôi rất mong rằng
ông không thuộc nhóm "Dao găm"
- Sao bà
lại mong thế ?
- Bởi vì
ông thích hợp với nhữgn việc tối đẹp hơn
- Tất cả
chúng ta đều thích hợp những việc tốt đẹp hơn bất kể đã từng làm viêc gì. Câu
bà nói cũng chính là để trả lời cho bà. Nhưng tôi không thuọc nhóm Dao găm mà
llại thuộc nhóm "Thắt lưng đỏ. Nhóm này vững vàng hơn nhiều và tiến hành
công việc cũng nghiêm chỉnh hơn.
- Ý ông
muốn nói công việc đâm chém chắng ?
- Phải ,
cả công việc đó nữa. Dao găm là một vật rất có ích theo kiểu của nó, nhưng chỉ
có ích nếu đằng sau nó có một bộ máy tuyên truyện tốt và có tổ chưc. Chính là ở
chỗ ấy tôi không thích các nhóm khác. Họ tưởng rằng dao găm có thể giải quyết
được mọi khó khăn trên thê giới này, và đo slà một sai lầm. Dao găm có thể giải
quyết được khá nhiều chuyện, nhưng không phải là tất cả.
- ông có
thật lòng tin rằng dao găm có thể giải quyết được vấn đề gì không ?
Anh ngạc
nhiên nhìn chị .
Chị nói
tiếp:
- Tất
nhiên, nhất thời dùng đao găm có thể laọi trừ được một khó khăn cụ thể nào đó
do một tên mật thám lợi hại hoặc một viên quan lại gian ác nào đó gây ra. Nhưng
trừ xong được trở ngại này thì liêu j có tạo ra nhiều trở ngại khác tệ hại hơn
không ? đó lại là vấn đề khác. Tôi thiêt stưởng chuyện ấy có thể giống như câu
chuyện ngụ ngôn chưa quét dọn sạch nhà thì bầy mà đã đến . Bởi vì cứ mỗi một
lần ám sát lại càng làm cho cảnh sát thêm hung hãn và càg làm cho quần chúng
quen nhờn với hung tàn và bạo lực, trạng thái cuói cùng của cộng đồng có thể
lại tệ hơn lúc ban đầu.
- Vậy
theo bà khi cách mạng xảy tới thì điều gì sẽ điễn ra ? Bà có cho rằng lúc ấy nhân
dân chẳng cần phải làm quen với bạo lưcu không ? Chiến tranh là chiế tranh chứ
- Đúng
thế, nhưng một cuộc cách mạng công khai lại là một chuyện khác. Cách mạng chỉ
là một sự kiện nhất thời trong sinh hoạt của nhân đân và đo slà cái giá chúng
ta phải trả cho mọi bước tiến bộ . Dĩ nhiên , trong mọi cuộc cách mạng, những
huyện haic hùng là không sao tránh khỏi , nhưng đó cũng chỉ là những sự việc cá
biệt , những hiện tượng đặc biệt trong một thời điểm đặc biệt mà thôi. Điều
kinh khủng nhất là để cho việc đam chém bừa bãi trở thành thói quen. Dân chúng
quen thấy chuyện ấy diễn ra như cơm bữa, và làm cho người ta không thấy sinh
mệnh con người là thiêng liêng nữa. Tôi không được đến Rô manha nhiều, nhưng
đoi chút gì tôi thấy được ở dân chúng nơi đo svẫn ho tôi một ấn tượng là họ đã
có hoặc đang sắp có một thó quen máy móc về bạo lực.
- Dù
thói quen đó vẫn còn hơn là thói quen máy móc bảo sao nghe vậy và cúi đầu khuất
phuc.
- Tôi
không nghĩ thế. Mọi thói quen máy móc đều có mặt xấu, mặt nô lệ của nó, riêng thói
quen này lại còn hung tàn nữa. Dĩ nhiên, nếu ông coi công việc của nhf hoạt
động cách mạgn chỉ thuầnt uý nhằm giành giật vài sự nhượng bộ nhất định từ phía
chính phủ, thì tất nhiên , ông sẽ cho nhóm bí mật và sao găm là những vũ khí
tốt nhất, bởi vì các chính phủ không sợ cái gì bằng hai thứ này. Nhưng , nếu ôn
nghĩ theo cách tôi nghĩ, rằng ép buộc chính phủ không phải là cứu cánh , mà chỉ
là phương tiện để đạt mục đích, còn điều chúng ta thực sự cần cải tạo là mối
quan hệ giữa người với người , thì ông sẽ tiến hành công việc theo cách khác
hẳn. Nếu tập cho những người không có học thức quen nhìn cảnh đổ máu, thì đó
không phải là cách làm cho người ta biết nâng cao giá trị sinh mệnh con người.
- Thế
còn vấn đề nâng cao giá trị của tôn giáo.
- Tôi
không hiểu.
Ruồi
trâu mỉm cười:
- Tôi
với bà bất đồng ý kiến ở chõ nhìn nhận căn nguyên mọi tai hoạ xảy ra. Theo ý
kiến bà thì căn nguyên là ở chỗ thiếu coi trọng giá trị sinh mệnh con người...
- Nói
đúng hơn là thiếu coi trọng cái thiêng liêng về nhân tính của con người.
- Cái đó
tuỳ bà. Còn theo ý kiên tôi, nguyên nhân chủ yếu của mọi rối loạn và sai lẩm
của chúng ta là một cănh bệnh tinh thần mà người ta gọi là tôn giáo.
- ông có
định nói cụ thể một tôn giáo nào không ?
- Ồ
không, đó chỉ là vấn đề triệu chứng bên ngoài mà thôi. Còn chính bản thân căn
bệnh là cái mà người ta gọi là thái độ tôn giáo của nhận thức, là một nhu cầu
bệnh hoạn của con người muốn tìm một cái gì để thờ phụng, để thần thánh hoá và
để cúi đầu bái lạy. Cái đó là cái gì , là Giêsu, là phật hay là thứ tôtem mông
muội , sự khác nhau đó không quan trọng lắm. Dĩ nhiên bà sẽ không đồng ý với
tôi. Bà có thể là người vô thần, là người theo thuyết bất khả tri hay là gì gì
đi nữa, nhưng đứng cách bà năm bước tôi vẫn có thể thấy tâm tính tôn giáo của
bà. Nếu ta tranh luận vấn đề này thì cũng vô bổ . Nhưng nế bà tưởng rằg tôi chỉ
coi sử dụng dao găm là một phương pháp để thanh toán những tên quan lại gian ác
thì bà đã rất ai lầ. không, đó Trước hết là một phương tiện, và , theo tôi, là
môộ phương tiện tốt nhất ,để đánh đổ uy tín của Giáo hội và để làm cho dân
chúng có thói quen coi những kẻ đại biểu của giới giáo sĩ chỉ là một lũ giòi
bọ.
- Nhưng
kh ông đạt tới đích đó, khi ông thức tỉnh được con thú dữ đang thiu thiu ngủ
trong mỗi con người và thúc nó xổ và giáo hội , thì lúc ấy...
- Thì
lúc ấy tôi có thể nói rằng tôi đã làm xong một công việc làm nên giá trị cuộc
đời tôi.
- Vậy té
ra công việc mà ông nói hôm ấy tức là công việc này đó ư ?
- Phải ,
đúng thế.
Chị rùng
mình, quay đi.
Ruồi trâu
ngước nhìn chị với một nục cười và nói:
- Bà đã
thất vọng về tôi rồi hay sao ?
- không
, không chính xác như vậy. Tôi nghĩ là... tôi ..hơi sợ ông.
Một lát
sau, Giêma quay lại nhìn anh và nói với một giọng bàn bạc công việc như bình
thường.
- Phải ,
tranh luận làm gì, vô cíh. Quan điểm của chúgn ta khác nhau xa quá. Chẳng hạn
như tôi thì tin tưởng vào tuyên truyền, tuyên truyền nữa, tuyên truyền mãi, và
tin tưởng vào một cuộc khởi nghĩa công khai, khi có thể tiến hành được.
- Vậy
hãy quay lại kế hoạch của tôi. Kê shoach đó chỉ liên quan phần nào đến tuyên
truyền nhưng với khởi nghìa thì nó co sliên quan nhìêu hơn.
- Vậy ư
?
- Như
tôi đã nói với bà là có rất nhiều người tình nguyện hiện đang từ Rômanha kéo
sang tham gia với dân Venêixia. Chúng tôi chưa biết bao giờ cuộc khởi nghĩa sẽ
nổ ra. Có lẽ sau thu hoặc đông này. Nhưng cần phải vũ trang cho các đội tình
nguyện để hô một tiếng là họ lập tức đổ xuống đồng bằng ngay. Tôi phụ trách
việc bí mật chuyên chở vũ khí và đạn dược vào lãnh địa Giáo hoàng cho họ...
- Khoan
đã. Xin ông cho biết làm thế nào ông lại cộng tác được với họ. Những người hoạt
động cách mạc ở Lôm bacdia và Venêxia hiện đều đang tán thành Giáo hoàng mới.
Họ ủng hộ những cuộc cải cách tự do, cùng kê fvai sát cánh với phong trào tiến
bộ trong Giáo hội. Một người chống giáo sĩ không khoan nhượng như ông làm sao
hoà jhợp với họ được.
Ruồi
trâu nhún vai:
- Miễn
họ làm được việc là đủ rồi. Còn họ muốn chơi con búp bê giẻ rách nào, cái đó có
can hệ gì đến tôi ? Lẽ dĩ nhiên, họ sẽ dùng Giáo hoàng làm bụ nhìn giữ dưa.
Nhưng một khi cuộc khơở nghĩa vẫn cứ tiến hành được thì điều đó có lo gì ? ĐÁnh
chó thì gậy nào mà chẳng đánh được, và bất cứ lời ho hào nà kêu gọi được nhân
dân nôổ dậy chống Áo thì cũng đề tốt cả.
- Vậy
ông muốn tôi giúp việc gì ?
- Chủ
yếu là bà giúp tôi chuyên chở vũ khí qua biên giới.
- Nhưng
tôi làm sa ođược việc ấy ?
- Bà
chính là người có thể làm việc vấy tôt hơn ai hết. Tôi định mua vũ khí bên Anh,
nhưng khi tính chuyện mang về thì thấy rất gian nan. Không thể chở qua được bất
kỳ một hải cảng nào trong lãnh địa Giáo hoàng, vì tế phải chở qua Tôxcan, rồi
từ đó xuyên qua dãy núi Apenanh.
- Nhưng
như vậy thì ông sẽ phải vượt qua biên giới đến hai lần.
- Phải
nhưng không còn con đg nào khác. Một món hàng lậu to như thế phải chở đến một
bến có thương mại thì mới được. Còn cảng Trivita Vêchkia thì, như bà đã biết, ở
đó ra vào cảng nhiều nhất cũng chỉ có ba thuyền buồm và một thuyền đánh cá. Nếu
đưa được hàng đến Tôxcan thì tôi sẽ đảm nhiệm chuyển qua biên giới lánh địa Giáo
hoàng. Các đồng chí của tôi thuộ lòng từng con đg đọc đạo trên núi, và chúng
tôi có nhiều chỗ cất giấu được vũ khí. Khó khăn chính là làm sao đưa hnàg theo
đg biển đên sLivoócno . Tôi không cso liên lạc với những người buôn lậu ở đo.
Các vị hình như có liên lạc với họ thì phải.
- ông
cho tôi nghĩ năm phút.
Chị cúi
mình về phía Trước, khuỷu tay chống lên đầu gối để tỳ cằm. Im lặng một lát, chị
ngước nhìn anh:
- Có thể
là tôi giúp ông được phần nào trong công việc ấy. Nhưng Trước khi đi vào cụ
thể, xin ông trả lời cho một câu hỏi: ông có thể hứa với tôi rằng việc này sẽ
không liên quan tới giết chóc hoặc bất kỳ loại bạo lực bí mật nào , hay không ?
- Lẽ tự
nhiên. Tô không bao giờ yêu cầu bà tham gia và việc gì mà bà không tán thành ,
điều đó thì khỏi nói rôi.
- Bao
giờ ông cần tôi trả lời dứt khoát.?
- Thời
giờ gấp rồi, nhưng tôi có thể đợi vài ngày
- Chiều
thứ7 này ông có rỗi không ?
- Để toi
tính thử xem...hôm nay là thứ năm...vâng , đến thứ bảy thì tôi rỗi.
- Vậy
mời ông cứ đến đây. Tôi suy nghĩ kỹ rồi sẽ trả lời dứt khoát với ông.
Chủ nhật
sau , Giêma gửi cho ban chấp hành chi bộ đảng Matdini ở Phơlô răngxơ một bức
thư báo tin rằng chị định đảm nhiệm một công tác chính trị đặc biệt, nên trong
mấy tháng tới chị không thể tiến hành được công tác mà trừ Trước đến nay chị
vẫn phụ trách trước đảng.
Bức thư
của Giêma có gây ra ít nhiều ngạc nhiên trong ban chấp hạnh, nhưng không một ai
phản đối cả. Họ đều tin chắc nếu bà Bôla đã làm một việc đột ngột như thế thì
hẳn là có lý do rất chính đáng, vì qua nhiều năm các đảng viên trong đảng đều
rất biết Giêma là người đáng tin cậy.
Với
Mactini thì Giêma nói thẳng thắn rằng chị nhận giúp đỡ Ruồi trâu trong một
"công tác biên giới". Chị đã nói Trước với Ruồi trâu rằng chị có
quyền thành thật đến một chừng mực nhất định với người bạn cũ này. Chị không
muốn giữa hai ngưòi có sự hiểu lầm hoặc có những cảm giác đau xót do nghi ngờ
va giấu giếm gây ra. Chị cho rằng chị có nhiệm vụ phải chứng tỏ được cho
Mactini thấy là mình tín cẩn anh ấy. Tuy Máctini không bình luận gì cả khi được
chị cho biết, nhưng Giêma thấy rõ , mặc dù không biết vì đâu , rằng khi nghe
tin anh đã rất đau lòng.
Hai
người ngồi trong sân hiên nhà Giêma, đang nhìn ra những mái nhà đỏ lô xô đến
tận Phiêdôlê. Sau một hồi lâu im lặng, Máctini đứng dậy đi bách bộ trong sân.
Anh thọc hai tay vào túi, vừa đi vừa huýt sao miệng, - một dấu hiệu chắc chắn
cho thấy lòng anh đang xao xuyến.
Giema
ngồi nhìn Máctini một lát. Cuối cùng chị bảo:
-
Trêdarê, chắc anh lo lắng về việc này. Anh không vui như thế làm tôi cũng rất
phiền lòng. Nhưng tôi chỉ quyết định khi nào tôi thấy là đúng.
Vẻ ủ
dột, Máctini đáp:
- tôi
không lo về công việc chị làm đâu. Việc đó tôi chẳng biết tý gì cả, nhưng tô
inghĩ nếu chị đã thuận ý tham gia thì chắc là việc đó sẽ ổn cả thôi. Tôi chỉ
không tin cậy con người ấy thôi.
- Tôi
thấy anh vẫn hiểu lầm ông ấy. Trước kia tôi cũng thế, cho tới khi hiểu được ông
ấy nhiều hơn. Tuy chưa phải là một người hoàn toàn, nhưng ông ấy tốt hơn anh
tưởng nhiều.
- Có thể
như thế lắm.
Anh lặng
lẽ đi đi lại lại trên sân. Một phút sau anh bỗng đứng dừng lại bên cạnh chị.
- Giêma,
chị hãy thôi đi. Chị thôi đi kẻo muộn. Chị đừng để cho con người ấy lôi kéo vào
những công việc mà sau này lại phải hối hận.
Chị dịu
dàng đáp:
-
Trêdarê, sao anh lai nói thế. không ai lôi kéo được tôi và bất kỳ chuyện gì. Tự
tôi suy nghĩ kỹ và quyết định việc này theo ý nguyện của chính mình. Anh không
ưa Rivarét, tôi biết , nhưng đây là vấn đề chính trị chứ không phải là vấn đề
cá nhân.
-
madonna , bà hãy thôi đi. Đó là một con người nguy hiểm. Hắn giấu giếm, độc ác
và bất nhẫn ...và hắn đã yêu bà.
Chị co
người lại.
-
TRêdarê, sao anh tưởng tượng ra được những chuyện kỳ quặc thế.
Máctini
nhắc lại:
- Hắn đã
yêu bà. Bà đuổi hắn đi thôi, madonna.
-
Máctini thân mến, tôi không thể đuổi được ông ấy, mà cũng không thể cắt nghĩa
để anh hiểu rõ vì sao. Số phận đã ràng buộc chúng tôi lại với nhau mà không
phài do ý muốn hay hành động nào của chúng tôi.
Mactini
mệt mỏi trả lời:
- Nếu đã
ràng buộc với nhau, thì tôi không thể nói thêm gì nữa.
Mactini
lấy cớ bận việc để ra về, và anh đi lang thang cả mấy tiếng đồng hồ trên các
đường phố lầy lội. Chiều hôm ấy, thế giới với anh thật là đen tối. Anh chỉ có
một vật báu nhỏ nhoi duy nhất, vậy mà con người giảo hoạt ấy từ đâu đến đã lẻn
và đoạt trộm mất rồi.
RUỒI
TRÂU
Chương
17
Vào
khoảng giữa tháng 2 , Ruồi trâu đi Livoocnô. Tại đây Giêma giơi thiệu Ruồi trâu
với một thanh niên người Anh có xu hướng tự do, làm đại lý hãng tầu, mà trước
đây hồi ở Anh hai vợ chồng chị có quen biết. Người này đã nhiều lần giúp đỡ các
đang r viên cấp tiến ở Phơlôrăngxơ trong những việc cụ thể, như cho vay tiền
trong những lúc cấp bách, cho mượn địa chỉ kinh doanh để sử dụng và việc thông
tin nội bộ của đảng , v.v ...Tất cả những việc đó đều qua tay Giêma và với tính
chất là một người bạn thân của chị. Vì vậy, theo thới quen trong đảng chị có
thể tuỳ ý sử dụng sự quen biết ấy mà laà những việc mà chị cho là có lợi cho
đảng. Thế nhưng nay làm như thế có kết quả gì không thì đó lại là vấn đề khác
hẳn. Trước đây vấn đề hcỉ là yêu cầu người Anh có cảm tình này cho mượn địa chỉ
nhận thư từ Xixilơ tới hoặc giấu nhờ một ít tại liêu j trong tủ sắt phồng kết
toản của ông ta. Nay đến để nhờ ông ta chở lậu súng ống cho một cuộc nổi dậy
khởi nghĩa, thì lại là vấn đề rất khác, Giêma thấy rất ít hi vọng là ông ta sẽ
nhận lơi.
Chị nói
với Ruồi trâu:
- Tất
nhiên ta cứ thử hỏi xem sao, nhưng tôi chưa chắc có ăn thua gì không. Nếu ông
mang theo thư giới thiệu để xin ông ta năm trăm xcuđô thì tôi dám chắc ông ta
lập tức biếu ngay, vì ông ta hết sức hào phóng. Và có lẽ khi cấp bách ông ta có
thể cho ông mượnc cả hộ chiếu của ông ta hoặc giấu ngươờ laánhnạn trong hầm kho
nhà ông ta cũng được . Nhưng nếu ông nêu ra chuyện chở súng ống thì ông ta tròn
xoa mắt và cho cả hai chúng ta là điên rồ ngay tức khắc.
Ruồi
trâu đáp:
- Nhưng
rất có thể ông ta cho một vài gợi ý gì hoặc giới thiệu tôi với một hai ngươời
thuỷ thủ thân thiện nào đó. Dù sao , việc cũng đáng để chúng ta thử xem.
Một ngày
vào khoảng cuối tháng, Ruồi trâu tới, Anh ăn mặc giản dị hơn mọi ngay và thoáng
trông nét mặt anh, chị biết ngay là anh đã có tin vui.
- À, chờ
ông mãi. Tôi đã sợ xảy ra chuyện gì không may cho ông.
- Tôi
thấy gửi thư thì không an toàn và tôi cũng muốn về sớm mà không được.
- ông
vừa về đến thành phố đấy ư?
- Vâng ,
tôi vừa xuống xe ngựa trạm thì vào đây ngay. Tôi tạt qua để báo cho bà biết
rằng mọi việc đã xong xuôi.
- ông
muốn nói rằng Bâyli đã chịu nhận giúp ư ?
- Hơn cả
giúp nữa là đằng khác. Ông ta đảm đương tất cả, gói ghém , chuyên chở , việc gì
cũng nhận hết. Súng ống sẽ giấu trong các kiện hàng và chở thẳng từ Anh sang.
Đồng nghiệp và bạn chí thiết của ông ta là Uyliamxơ đồng ý thân hành coi sóc
việc bốc hàng lên tàu ở Xaodêmtơn, còn Bâyli thì tìm cách lọt lưới hải quan vào
Livoocno. Uyliamxơ vừa khởi hành đi Xaodêmtơn, tôi phải đi tiễn ông ta đến tận
Giênôva cho nên mới lâu như vậy.
- Đi
tiễn để dọc đường bạn them về chi tiết phải không ông ?
- Phải .
Nói chuyện cho tới lúc tôi quá say sóng mới thôi.
Sực nhớ
có lần ba chị dẫn chị và Áctơ đi chơi thuyền trên biển, Áctơ bị say sóng lảo
đảo, Giêma liền hỏi:
- ông có
tật say sóng ư ?
- Mặc dù
đã đi biển nhiều lần mà tôi vẫn là anh thủy thủ rất tồi...Nhưng khi tàu bốc
xong hàng ở Giênôva thì cũgn đã kịp nói xong chuyện rồi. Chắc bà biết Uyliamxơ
chứ ? Quả là một anh chàng cực tốt, rất đáng tin cậy và rất tế nhị. Về mặt ấy,
Bâyli cũng chẳng kém, và cả hai người đều biết giữ môm giữ miệng. cả
- Dù sao
Bâyli chịu nhận làm như thế cũgn đã là mạo hiểm lắm rồi đấy.
- Tôi
cũng bảo ông ấy như vậy, nhưn gông ta chỉ sa sầm mà trả lời : "Thế còn
việc của các ông thì sao ? " Điều chúng ta mong ông trả lời cũng chỉ thế
là cùng. Nếu tôi gặp ông ta ở một nơi nào đó tại Timbuctu thì lập tức tôi sẽ
tiến lại nói ngay :"Chào ông, người nc Anh".
- Tuy
vậy tôi vẫn không hiểu ông làm thế nào mà họ lại nhận lời được. Nhất là
Uyliamxơ thì thật tôi càng không ngờ tới được.
- Phải ,
lúc đầu ông ta cũng chối thẳng thừng. không phải ông ta sợ đâu, mà vị ông ta
cho toàn bộ chuyện này "không có tính chất kinh doanh gì cả". Nhưng
tôi tìm cách thuyết phục mãi mới tranh thủ được ông ta...Bây giờ bàn chi tiết
đi.
Khi Ruồi
trâu ra về thì mặt trời đã lặn . Trên tường bao quanh vườn, những đoá hoa đường
lê đã in hình thành những đốm sẫm trong bóng chiều dần tối . Ruồi trâu ngắt mấy
cành hoa , đem vào nhà . Mở cửa ra , anh đã thấy Dita ngồi trong góc phòng làm
việc của anh . Nàng bước lại gần, đon đả nói :
-Phê-li-trê
, em tưởng anh không về nữa ?
Ruồi
trâu định vặn hỏi ngay xem nàng vào phòng làm việc của anh làm gì, nhưng chợt
nhớ rằng mình vắng mặt đã ba tuần, nên anh đành lạnh nhạt chìa tay và nói :
-Chào
Dita ! Sao , cô có khoẻ không ?
Nàng
chìa má để Ruồi trâu hôn , nhưng anh làm ra vẻ không hay biết , lướt tới cầm
lấy lọ hoa trên bàn . Vừa lúc đó , cánh cửa đằng sau bật tung ra , con chó
Saitan nhảy xổ vào buồng, quay cuồmh quanh chủ , vừa sủa , vửa rít ầm ĩ , tỏ vẻ
vui mừng . Ruồi trâu bỏ hoa , cúi xuống vỗ về nó :
-Chào bố
già Saitan nhé ! Ừ , ừ , tao đây ! Nào, đưa chân đây nào !
Mặt Dita
lộ rõ vẻ u ám , khó chịu .
Nàng
lạnh lùng hỏi :
-Chúng
ta đi ăn cơm chứ ? Tôi đã bảo dọn cơm đằng nhà rồi . Vì anh biên thư nói chiều
nay anh về.
Ruồi
trâu nhanh nhẹn quay lại :
-Ồ , rất
... rất xin lỗi cô ! Chờ tôi làm gì ! Tôi rửa ráy một lát rồi sẽ quay lại ngay.
Lấy hộ nước vào bình hoa nhé !
Khi Ruồi
trâu bước vào phòng ăn của Dita thì thấy nàng đang đứng trước gương cắm một
cành hoa vào ngực . Có lẽ đã đổi giận làm lành , nên nàng tiến lại gần đưa cho
Ruồi trâu một cành hoa xinh xắn và đỏ thắm :
-Cành
hoa này để anh đeo vào ve áo . Anh để em cài cho.
Suốt bữa
ăn Ruồi trâu cố làm ra vẻ nhã nhặn , nói nhiều chuyện vui . Dita trả lời bằng
những nụ cười tươi tắn . Nỗi mừng rõ rệt của nàng làm cho Ruồi trâu có phần
lúng túng. Anh đã quen với ý nghĩ cho rằng Dita có cuộc sống của mình , có bạn
bè và người thân kẻ thuộc của mình, cho nên anh chưa lúc nào nghĩ rằng nàng có
thể nhớ tới anh . Gặp anh nàng đã xúc động đến thế, thì lúc xa vắng chắc nàng
còn buồn đến đâu.
Dita rủ
anh :
-Ta ra
sân uống cà phê anh nhé ! Tối nay trời ấm quá !
-Được
lắm ! Mang cả đàn guitar nhé ! Cô sẽ hát cho tôi nghe một vài bài được chứ !
Dita
tươi vui hẳn lên. Ruồi trâu không khi bảo nàng hát , bởi anh vốn là một nhà phê
bình âm nhạc khe khắt.
Dọc dãy
tường bao quanh sân kê một chiếc ghế rộng . Ruồi trâu ngồi vào một góc để có
thể nhìn ra cảnh núi đồi hùng vĩ . Dita thì ngồi lên bậc tường hoa ,tựa lưng
vào cột nhà và buông chân trên ghế. Nàng thích ngắm nhìn Ruồi trâu hơn là chú ý
đến cảnh thiên nhiên mỹ lệ.
Nàng nói
:
-Anh cho
em xin một điếu thuốc lá . Từ hôm anh đi đến nay em chẳng hút điếu nào cả .
-Ý nghĩ
hay đấy ! Phải có thuốc lá nữa thì mới thật hoàn toàn đầy ...đầy đủ !
Dita cúi
xuống chăm chú nhìn anh :
-Có thật
giờ đây anh thấy vui vẻ trong lòng không?
Ruồi
trâu giương cao đôi mày :
-Còn
phải nói nữa ? Ăn no rồi ngắm cảnh đẹp , một cảnh đẹp nhất châu Âu , bây giờ
lại được uống cà phê , nghe dân ca Hungary. Tâm hồn thư thái ,tiêu hoá lại bình
thường.Người ta còn ước mong gì hơn nữa ?
-Em biết
còn thiếu một thứ !
-Thứ gì
?
-Thiếu
cái này , anh bắt lấy ?
Nàng ném
vào lòng anh một chiếc hộp giấy xinh xắn .
-À !
Hạnh ... hạnh nhân rán ! Sao cô không nói trước khi tôi hút thuốc ? - anh trách
vậy.
-Anh trẻ
con quá ! Hút thuốc xong ăn cũng ngon chứ sao ? Cà phê đây rồi !
Ruồi
trâu ngon lanhg nhai hạnh nhân và nhấm nháp từng ngụm cà phê, với một khoái cảm
chăm chú của một con mèo liếm sữa.
Anh xuýt
xoa nói :
-Về nhà
uống cà phê ngon tuyệt ! Cà phê này mới thật là cà phê, chứ như ở Livorno thì
tồi quá .
-Thế thì
anh càng nên ở nhà thôi. đừng đi nữa.
-Không ở
lâu được đâu. Mai tôi lại đi rồi.
Nụ cười
vụt tắt trên môi Dita :
-Mai à ?
... Đi làm gì ?Anh đi đâu ?
-Ồ ...
đi hai , ba nơi . Đi có việc .
Anh và
Giêma đã cùng nhau quyết định là anh phải đích thân đến vùng núi Apenanh để
thương lượn với những người buôn lậu về vấn đề chuyên chở vũ khí . Vượt qua
biên giới lãnh địa Giáo Hoàng thì tính mạng anh coi như ngàn cân treo sợi tóc.
Nhưng chuyến đi này của Ruồi trâu lại quyết định sự thành bại của toàn bộ công
tác.
-Lúc nào
cũng công việc !
Dita khẽ
thở dài , rồi cất cao giọng hỏi :
-Đi có
lâu không anh ?
-Không
lâu , có lẽ độ hai , ba tuần thôi.
Nàng lại
hỏi giật :
-Cũng
lại những việc ấy à ?
-"Những
việc ấy " là những việc gì ?
-Những
việc đã có lúc làm anh suýt bỏ mạng chớ còn những việc gì nữa . Suốt đời chỉ
chính trị .
-Phải ,
việc có liên quan ít nhiều tới chính ... chính trị.
Dita
quẳng điếu thuốc ra vườn , và dằn giọng :
-Anh còn
giấu em . Chuyến đi này nguy hiểm lắm , em biết.
Ruồi
trâu uể oải kéo dài giọng nói :
-Phải,
tôi sẽ đi thẳng vào . .. vào vùng âm ty địa ngục. Cô có cần gửi một cành hoa
thiên lý tặng bạn bè nào dưới đó không ? Miẽn sao đừng vặt hết hoa ở đây là
được .
Dita đã
bực tức ngắt một nắm hoa thiên lý ở cột , giận dỗi ném xuống đất.
Nàng lại
nói :
-Chuyến
đi này rất nguy hiểm mà anh vẫn không muốn nói thật cho em biết. anh cho em là
kẻ chỉ đáng để lừa dối và bông đùa thôi hay sao ? Một ngày nào đó anh có thể bị
treo cổ mà anh vẫn không nói với em được một câu nhiều hơn là câu tạm biệt !
Lúc nào cũng chính trị với chính trị ... Em nhức đầu vì chính trị lắm rồi .
Ruồi
trâu vừa uể oải ngáp vừa nói :
-Tôi ...
tôi cũng thế. Vì vậy ta nói chuyện khác đi thôi. Hay là Dita hát một bài nhé ?
-Vâng
đưa đàn guitar cho em. Hát anh nghe bài gì nào ?
-Bài ca
Nhớ ngựa . Bài ấy rất hợp với giọng của cô.
Dita cất
giọng hát bài dân ca xưa cũ của Hungary. Bài hát tả một người , đầu tiên mất
ngựa , rồi mất đến mái nhà trên đầu mình, sau cùng mất cả người yêu . Nhưng anh
ta tự an ủi rằng " chưa đau khổ bằng trận thất bại Mô-hát (1)" . Ruồi
trâu rất thích bài hát đó. Điệu nhạc mạnh mẽ , lời ca bi tráng và tính chất
khắc khổ chua xót của đoạn điệp khúc , đã rung động lòng anh hơn bất cứ loại
nhạc êm dịu nào.
Hôm ấy
giọng của Dita rất tốt. Tiếng hát của nàng mạnh mà trong , rạt rào lòng khát
khao cuộc sống. Rõ ràng là những bài dân ca Hungary nàng hát hay hơn những bài
dân ca Ý và Xlavơ , nhất là dân ca Đức thì nàng hát càng kém.
Ruồi
trâu há mồm, trố mắt lắng nghe. Anh chưa bao giờ nghe Dita hát hay đến thế. Và
tới câu cuối cùng " Nhưng có hề chi ! Chưa đau khổ bằng trận thất bại
Mô-hát ", thì giọng nàng bỗng dưng run lên rồi đứt đoạn nửa chừng.
Nàng
thổn thức , gục đầu vào giàn hoa thiên lý.
Ruồi
Trâu đứng dậy, đỡ lấy cây đàn.
- Di-ta,
cô làm sao thế ?
Nhưng
nàng chỉ bưng mặt khóc nức nở hơn.
Anh đặt
tay lên vai Di-ta, giọng dỗ dành :
- Sao,
làm sao thế ? Cô nói đi !
Nàng đẩy
tay ra nói trong nước mắt :
- Bỏ tôi
ra ! Anh bỏ tôi ra !
Ruồi
trâu liền trở về chỗ cũ, kiên nhẫn đợi cho những tiếng nức nở tắt dần. Bỗng
dưng Di-ta ôm chặt lấy cổ anh quỳ sụp bên anh :
-
Phi-lê-trê ! Anh đừng đi nữa ! Đừng đi nữa anh ơi !
Ruồi
trâu nhẹ nhàng gỡ tay nàng ta .
- Chuyện
ấy rồi ta sẽ nói sau. Giờ đây tôi muốn biết vì sao cô khổ tâm, cô đang sợ hãi
điều gì ?
Di-ta
lặng lẽ lắc đầu .
- Tôi có
gì làm cô không vừa lòng chăng ?
- Không.
Nàng đưa
tay lên chặn lấy cổ anh.
- Thế
thì tại sao ?
Cuối
cùng nàng khẽ nói :
- Người
ta sẽ giết anh. Anh sẽ bị nguy mất... hôm nọ có người đến đây nói với em như
thế... Vậy mà lúc nãy em hỏi anh lại cười em !
Ruồi
trâu sững sờ trong giây lát , rồi nói :
- Di-ta
quý mến ! Sao cô tưởng tượng quá mức thế ! Rất có thể một ngày kia người ta sẽ
giết tôi, đối với những người cách mạng thì đó là lẽ thường tình. Nhưng tại
sao, tại sao lần này tôi có thể bị giết được ? Biết bao người còn xông pha mạo
hiểm hơn tôi ?
- Biết
bao người ! Biết bao người đó có quan hệ gì tới em đâu ! Nếu anh yêu em thì anh
đã không bỏ đi như thế, để bao đêm ròng em trằn trọc không ngủ được, lúc nào em
cũng nghĩ không biết anh đã bị bắt hay chưa ? Mỗi khi thiếp đi thì em lại mơ
thấy hình như người ta đã giết mất anh. Anh quan tâm đến con chó kia còn hơn cả
em !
Ruồi
trâu đứng dậy, chậm rãi đi về phía cuối sân. Cảnh tượng này đến với anh một cách
bất ngờ và anh chưa sẵn sàng trả lời câu hỏi đó nên không biết nói gì hơn với
Di-ta. Phải, Giê-ma nói rất đúng. Đời anh đã rơi vào tình thế rồi ren, phải khổ
công lắm mới hòng gỡ ra nổi.
Sau giây
lát, anh quay lại nói với Di-ta :
- Chúng
ta hãy ngồi nói chuyện cho bình tĩnh. Có lẽ chúng ta chưa hiểu được nhau. Nếu
tôi biết thật là cô có điều gì đó lo lấng thì tôi chẳng nói đùa. Cô cứ nói rõ
tại sao cô lo lắng thì mọi chuyện sẽ rõ ngay.
- Có gì
mà rõ với không rõ. Thế cũng đủ thấy anh không để tâm đến em một mảy may nào
rồi.
- Di-ta
thân mến, ta cứ nói thẳng với nhau đi. Tôi bao giờ cũng hết sức thật thà với
cô, và theo chỗ tôi hiểu thì chưa lần nào tôi lừa dối Di-ta trong...
- Ồ,
phải ! Anh thật thà hết sức, không bao giờ anh che giấu ý nghĩ cho em chỉ là
một gái giang hồ, từng qua tay nhiều người...
- Im đi
Di-ta ! Tôi không bao giờ có ý nghĩ như vậy đối với bất kỳ ai ! Nàng cay đắng
nhắc lại :
- Anh
không hề bao giờ yêu em cả.
- Phải,
tôi không hề bao giờ yêu Di-ta cả. Nhưng cô hãy lắng nghe và hãy cố tránh nghĩ
xấu về tôi.
- Ai bảo
anh là em nghĩ xấu về anh, em chỉ...
- Khoan
đã. Điều mà tôi muốn nói với Di-ta là : tôi không bao giờ tin và cũng chẳng bao
giờ coi trọng khuôn sáo luân lý cổ truyền. Tôi cho rằng mối quan hệ đàn ông và
đàn bà chẳng qua là vấn đề sở thích cá nhân mà thôi...
DI-ta
cười mát, cướp lời :
- Và là
vấn đề tiền tài nữa.
Ruồi
trâu cau mày tỏ vẻ khó chịu và ngần ngại trong giây lát.
- Dĩ
nhiên đó là mặt xấu của vấn đề. Nhưng tôi quả quyết với Di-ta rằng nếu tôi nghĩ
là Di-ta không thích tôi và chán ghét mối quan hệ đó thì không bao giờ tôi gợi
ý hoặc lợi dụng hoàn cảnh của Di-ta để quyến rũ Di-ta. Trong đời tôi tôi không
bao giờ đối với phụ nữ như thế, và không bao giờ tôi lừa dối tình cảm của họ.
Tôi nói thật, mong Di-ta hãy tin lời tôi...
Anh
ngừng trong giây lát nhưng Di-ta không trả lời.
Ruồi
trâu lại nói :
- Tôi
nghĩ nếu một người đàn ông sống cô đơn trên đời này và cảm thấy cần có một
người đàn bà bên cạnh mình và nếu anh ta ưa thích một người đàn bà và nếu người
ấy cũng không ghét anh ta, thì anh ta có quyền nhận lấy mọi niềm vui mà người
đàn bà ấy có thể cho anh ta với một tâm tình biết ơn và thân ái, mà không cần
phải bước vào mối quan hệ mật thiết hơn. Tôi thấy quan hệ như thế chẳng có gì
xấu cả, miễn là lương thiện thật thà và không mất lòng nhau. Còn như trước đây
cô liên hệ với những người đàn ông khác như thế nào điều đó tôi không hề nghĩ
tới. Tôi tưởng mối quan hệ như thế sẽ là tươi vui và vô hại cho cả hai bên và
mỗi bên đều có thể tự do cắt đứt khi nào nó đã trở nên quá nặng nề. Nếu tôi đã
làm... nếu bây giờ Di-ta có gì khác, thì...
Ruồi
trâu lại ngừng lời.
Di-ta
không nhìn anh, khẽ nói :
- Thì
sao hở anh ?
- Thì có
lẽ tôi đã có phần nào không tốt đối với Di-ta và tôi rất lấy làm tiếc. Nhưng
điều đó không phải tự tôi muốn.
- Anh
"rất lấy làm tiếc, điều đó không phải tự anh muốn" có phải không?
Phi-lê-trê ! Trái tim anh là trái tim đá hay sao ? Có lẽ nào trong đời anh chưa
từng yêu người đàn bà nào và do đó anh không nhận ra em đã yêu anh hay sao ?
Ruồi trâu
thốt nhiên rùng mình trước những câu hỏi ấy.
Lâu nay
anh chưa hề nghe ai nói "em yêu anh". Nhưng Di-ta đã vùng dậy ôm chầm
lấy anh, nhắc lại :
-
Phi-lê-trê ! Chúng mình hãy đi đi thôi ! Hãy rời bỏ đất nước đáng sợ này, rời
bỏ những con người lúc nào cũng vùi đầu vào chính trị ! Ta cần gì họ ? Ta hãy
đi sang Nam Mỹ nơi anh đã quen sống hồi xưa. Ở đó chúng mình sẽ sống trong hạnh
phúc !
Những kỷ
niệm hãi hùng do mấy lời nói đó gợi lại đã làm cho Ruồi trâu bừng tỉnh. Anh gỡ
tay Di-ta và nắm chặt lấy đôi tay nàng :
- Di-ta
! Hãy cố tìm hiểu lời tôi nói. Tôi không yêu cô. Và dù có yêu tôi cũng không
thể rời bỏ chốn này được. Tôi có công việc phải làm ở nước Ý này, cùng với các
đồng chí của tôi...
Di-ta
kêu lên một cách dữ tợn :
- Và
cũng với một người mà anh yêu hơn ai hết nữa ! Tôi muốn giết anh ! ...Chẳng có
đồng chí nào giữ anh cả ! Tôi biết ai đã giưa anh ở lại đây rồi.
Ruồi
trâu bình tĩnh nói :
- Di-ta
im đi ! Cô quá xúc động và đã tưởng tượng quá nhiều.
- Anh
tưởng tôi nói bà Bô-la có phải không ? Không, tôi không dễ bị lừa như anh tưởng
đâu ! Với chị ấy, anh chỉ có nói chính trị mà thôi. Đối với anh chị ấy cũng
chẳng hơn gì tôi...Kẻ giữ anh ở lại đây chính là Hồng y giáo chủ !
Ruồi
trâu bàng hoàng như bị trúng đạn. Anh nhắc lại như một cái máy :
- Hồng y
giáo chủ ?
- Phải,
chính Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li, người đã giảng dạy ở đây mùa thu vừa rồi.
Làm như tôi không nhận thấy anh nhìn theo xe của ông ta như thế nào hay sao ?
Lúc đó mặt anh tái đi chẳng khác gì chiếc khăn tay này. Cả đến bây giờ nghe
nhắc đến tên ông ta anh cũng đang run rẩy như một chiếc lá cơ mà !
Ruồi
trâu đứng dậy. Ạnh nói rất chậm và nhỏ nhẹ :
- Cô
không hiểu những lời cô nói. Tôi...tôi căm thù Hồng y giáo chủ. Hồng y giáo chủ
là kẻ thù không đội trời chung của tôi.
- Kẻ thù
hay không tôi không biết, nhưng anh yêu ông ta hơn ai hết trên thế gian này.
Anh thử nhìn thẳng vào mắt tôi và nói với tôi rằng anh đã nói không đúng sự
thật đi !
Ruồi
trâu ngoảnh mặt đi, nhìn ra phía vườn. Di-ta lấm lét nhìn anh, hoảng sợ về việc
mình vừa làm. Trong thái độ trầm lặng của anh có một cái gì đáng khủng khiếp.
Cuối cùng, không thể chịu được nữa, nàng len lén tới sát bên anh như một đứa
trẻ con sợ hãi, và bẽn lẽn kéo tay áo anh. Ruồi trâu quay lại nói. Anh nói :
- Phải,
đúng thế.
Chú
thích :
1.Mô-hát
----một địa phương ở Hungary. Tại đây năm 1526 quân Hungary thua quân Thổ Nhĩ
Kì.
RUỒI
TRÂU
Chương
18
Vậy tôi
không...thể gặp mặt ông ta trong vùng núi được ư ? Gặp ở Bơ-xi-ghê-la thì nguy
hiểm quá.
- Chỗ
nào ở Rô-ma-nha cũng đều nguy hiểm cho anh cả. Chính lúc này chỉ có
Bơ-xi-ghê-la là nơi an toàn nhất.
- Tại
sao ?
- Tại
sao à ?... Anh chớ để cho lão áo xanh kia trông thấy mặt : Hắn là một đối tượng
rất nguy hiểm... Phải, trận bão vừa qua thật khủng khiếp. Tôi chưa bao giờ thấy
nho bị huỷ hoại nhiều như thế !
Ruồi
trâu đặt hai tay lên bàn, đầu gục hẳn xuống, trông như một người hoặc đã kiệt
sức hoặc đã quá say. " Đối tượng rất nguy hiểm" mặc áo xanh liếc nhìn
gian phòng. Hắn chỉ nhìn thấy hai người nông dân đang nói chuyện về mùa màng
cạnh một bình rượu vang và một người dân miền núi ngái ngủ gục đầu xuống bàn.
Những cảnh như thế thường xảy ra luôn trong những quán rượu ở nơi hẻo lánh như
vùng Ma-ra-đi này. Gã mặc áo xanh hình như cho rằng ở đây chẳng có gì lạ bèn
nốc một hơi cạn ly rượu rồi lắc lư bước ra phòng ngoài. Hắn tỳ tay vào quầy
hàng, uể oải nói chuyện với chủ quán, thỉnh thoảng lại liếc qua khung cửa bỏ
ngỏ, nhìn về phía ba người ngồi quanh chiếc bàn. Hai người nông dân vẫn cứ
nghiễm nhiên nhắm rượu, tán chuyện thời tiết bằng tiếng địa phương; còn Ruồi
trâu ngáy ầm ầm như một kẻ vô tư lự.
Cuối
cùng, tên mật thám chắc mẩm rằng trong quán rượu chẳng có gì đáng để hắn mất
thời giờ hơn nữa. Hắn trả tiền, uể oải ra khỏi quán, rồi lắc lư bước trên đường
phố.
Ruồi
trâu ngẩng đầu lên, ngáp dài, vươn vai và lấy tay áo da dụi mắt.
Anh nói
:
- Đóng
cái trò này cũng không pahỉ là đễ.
Rồi anh
rút trong túi ra con dao nhíp, cắt lấy một chiếc bánh mỳ trên bàn.
-
Mi-kê-lê, gần đây họ làm rầy rà các anh lắm phải không ?
- Tệ hơn
cả muỗi tháng tám. Họ không để cho một phút yên thân. Đi đến đâu cũng thấy mật
thám theo sau lưng. Đến cả trên núi cao trước mật thám không dám thò mặt đến
nhưng nay chốc chốc lại thấy từng nhóm ba bốn đứa một... Phải không nhỉ Gi-nô
?...Chính vì thế nên chúng tôi bố trí để anh gặp Đô-mi-ni-kô trong thành phố.
- Phải,
nhưng tại sao lại ở Bơ-ri-xi-ghê-la? Các thành phố biên giới thì bao giờ chằng
đầy mật thám ?
- Anh
không tìm được nơi nào tốt hơn Bơ-ri-xi-ghê-la đâu. Bây giờ khách thập phương
trên toàn nước Ý đều đổ xô đến đó cả.
- Nhưng
Bơ-ri-xi-ghê-la không phải là chỗ tiện đường cho họ tới.
-
Bơ-ri-xi-ghê-la ở cách đường về La mã không xa lắm. Nhiều khách thập phương tạt
vào đó để nghe giảng đạo.
- Tôi
không hề nghe ai nói ở Bơ-ri-xi-ghê-la có danh...danh lam thắng cảnh gì.
- Có
Hồng y giáo chủ chứ ? Anh có nhớ ông ta đã tới Phơ-lô-răng-xơ giảng đạo hổi
tháng mười năm ngoái không ? Chính Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li đấy. Nghe nói
lúc đó ông ta đã làm chấn đông dư luận Phơ-lô-răng-xơ
- Chắc
thế. Nhưng tôi đi nghe giảng đạo làm gì.
- Thiên
hạ người ta coi Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li như ông thánh.
- Tại
sao ông ta nổi tiếng thế nhỉ ?
- Tôi
không biết. Có lẽ bởi vì ông ta nhận được bao nhiêu thì đem bố thí cả. Còn
riêng bản thân mình ông ta chỉ sống như một linh mục coi xứ, mỗi năm chỉ tiêu
pha bốn năm trăm đồng scu-đô thôi.
Người
tên là Gi-nô cũng góp chuyện :
- À! Còn
hơn thế nữa chứ. Hồng y giáo chủ không chỉ khác mọi người ở chỗ bố thí tiền mà
ông ta còn suốt đời chú ý đến người nghèo. Ông ta chăm lo để người ốm được săn
sóc chu đáo. Suốt ngày từ sáng đến tối ông ta lắng nghe dân chúng than thở và
kêu cầu. Mi-kê-lê, tôi không thích cha cố hơn anh đâu, nhưng ngài Mông-ta-ne-li
không giống như các Hồng y giáo chủ khác.
Mi-kê-lê
nói :
- Phải,
tôi thì cho rằng Mông-ta-ne-li là một người gàn dở chứ không phải là một tay
bịp bợm. Nhưng dù sao thiên hạ cũng sùng bái ông ta như điên dại vậy. Gần đây
khách thập phương có lệ đi Bơ-ri-xi-ghê-la để được ông ta ban phước lành.
Đô-mi-ni-kô định giả trang một người bán hàng rong, mang một giỏ thánh giá và
một tràng hạt loại rẻ tiền đến bán. Mọi người đi lễ sẵn sàng mua những của đó
để xin Hồng y giáo chủ giơ tay làm phép, rồi mang về đeo cho trẻ con lấy khước.
- Khoan
đã,.. Vậy tôi đi bằng cách nào ? Giả làm khách thập phương à ? Tôi thích bộ
quần áo đang mặc trong người lắm, nhưng bộ đồ này tới ...Bơ-ri-xi-ghê-la thì
không thể được. Vì nếu họ bắt được tôi thì sẽ..sẽ đủ tang chứng để bắt các anh.
- Chẳng
đứa nào bắt anh đâu. Chúng tôi đã lo liệu cho anh đủ quần áo, hộ chiếu và mọi
thứ cần thiết.
- Bộ
quần áo gì thế ?
- Anh sẽ
hoá trang làm một khách thập phương già từ Tây Ban Nha đến để ăn năn về tội
cướp giết người. Năm ngoái lão già này bị ốm dở ở An-cô-na. Một đồng chí của
chúng ta thương tình cho lên tàu ở rồi đưa về Vơ-ni-dơ, nơi lão ta có nhiều bạn
bè. Lão cho chúng tôi hết mọi giấy tờ để tỏ lòng cảm ơn. Bây giờ giấy tờ ấy hợp
với anh lắm.
-
Một...một kẻ cướp giết người ăn năn tội lỗi ư ? Thế đối với cảnh..cảnh sát thì
làm thế nào ?
- Về mặt
đó cũng ổn cả rồi. Lão già đã mãn hạn tù khổ sai từ mấy năm trước, bây giờ chỉ
đi viếng Giê-ru-xa-lem và các đất thánh để cầu cho linh hồn được sạch tội. Lẽ
ra lão ta định giết kẻ khác nhưng lại giết lầm phải con mình và đến tự nộp mình
cho cảnh sát.
- Lão ta
già lắm không ?
- Vâng,
già lắm. Nhưng không sao, anh cứ đeo tóc và râu giả vào là được. Còn những đặc
điểm khác của lão ta thì anh giống như hệt. Lão ta là một lính phục viên chân
khập khiễng, mặt cũng có vết sẹo như anh, quốc tịch Tây Ban Nha nếu anh gặp
người Tây Ban Nha thì anh cũng có thể nói chuyện được.
- Vậy
tôi sẽ gặp Đô-mi-ki-nô ở chỗ nào ?
- Chúng
tôi sẽ chỉ cho anh một ngã tư đường trên bản đồ. Tới đây anh cứ nhập vào đoàn
khách thập phương nói với họ rằng anh bị lạc trong núi. Khi tới thành phố thì
anh cứ nhập bọn đi theo tới khu họp chợ trước cửa lâu đài của hồng y giáo chủ.
- Thế
nghĩa là mặc ..mặc dù ông ta là thánh ông ta vẫn ở trong...trong lâu đài ư ?
- Ông ta
ở một chái, chỗ còn lại thì làm nhà thương... Anh đợi tới khi Hồng y giáo chủ
bước ra ban phép lành cho khách thập phương thì Đô-mi-ni-ki-nô cũng sẽ mang giỏ
tới, anh ta hỏi " Thưa bố, bố có phải là khách thập phương không?"
Anh sẽ
trả lời " lão là một kẻ không may có tội." Khi anh ta đặt giỏ xuống
đất và lấy ống tay áo chùi mặt thì anh ta đưa sáu đồng scu-đô ra mua một tràng
hạt.
- Và sẽ
bàn ngay với anh ta về địa điểm gặp nhau để nói chuyện à ?
- Phải,
trong khi mọi người đang dồn mắt cả về phía Hông y giáo chủ thì anh ta sẽ có
thừa thời giờ để bảo cho anh biết chỗ gặp. Kế hoạch của chúng tôi như thế đấy,
nhưng nếu anh không đồng ý thì chúng tôi có thể báo trước cho Đô-mi-ni-ki-nô
biết và đổi kế hoạch khác.
- Không,
kế hoạch ấy hay lắm. Nhưng các anh phải làm sao xoay được bộ râu tóc giả cho
thật giống thì mới được.
- Thưa
bố, bố có phải là khách thập phương không ?
Lúc ấy
Ruồi trâu đang ngồi trên bậc thềm lâu đài của Hồng y giáo chủ. Anh ngẩng đầu
lên với mái tóc bạc bù xù, giả giọng khàn khàn run run và lơ lớ nói lên mật
hiệu định trước. Đô-mi-ni-ki-nô trật chiếc dây da ra khỏi vai, đặt giỏ tràng
hạt và thánh giá xuống bậc thềm. Đám đông những người nông dân và khách thập
phương ngồi kín cả bậc thềm và đứng đầy khu họp chợ không ai để ý cả, nhưng hai
người vẫn cứ thận trọng, thỉnh thoảng mới nói một vài câu. Đô-mi-ni-ki-nô nói tiếng
địa phương, còn Ruồi trâu thì nói tiếng Ý pha tiếng Tây Ban Nha.
Bỗng
những người đứng ở cửa lâu đài kêu lên :
- Đức
Hồng y đến ! Đức Hồng y đến ! Tránh ra cho người đi ! Ruồi trâu và
Đô-mi-ni-ki-nô đứng dậy.
- Này,
bố cầm lấy.
Nói
đoạn, Đô-mi-ni-ki-nô giúi vào tay Ruồi trâu một chiếc ảnh thánh nhỏ gói giấy.
- Khi bố
tới La mã thì xin bố cầu nguyện cho con.
Ruồi
trâu nhét bức ảnh vào ngực và quay lại nhìn Hồng y giáo chủ. Mặc chiếc áo
choàng màu tím nhạt, đội mũ đỏ tía, ông ta đứng trên bậc cao nhất để giơ tay
ban phước cho mọi người. Mông-ta-ne-li từ từ bước xuống bậc thềm, khách thập
phương xúm xít ung quanh để được hôn tay Hồng y giáo chủ. Nhiều người quỳ
xuống, ghé môi hôn tà áo.
- Các
con, cha cầu cho các con được bằng an !...
Nghe
giọng nói trong như bạc ấy, Ruồi trâu bỗng cúi gục đầu làm cho những mớ tóc bạc
xoã xuống mặt. Nhìn chiếc gậy run rẩy trong tay Ruồi trâu, Đô-mi-ni-ki-nô tấm
tắc khen thầm" Thật là một tay đóng kịch có tài!"
Một
người đàn bà đứng gần đó, cúi xuống nhấc đứa con lên khỏi bậc thềm rồi nói :
-
Trếch-cô, đến gần đức Hồng y đi con. Người sẽ ban phước lành cho con như của
chúa Giê-su ngày xưa đã chúc phước lành cho các trẻ em.
Ruồi
trâu tiến lên một bước rồi dừng lại. Cuộc đời sao mà tàn nhẫn quá. Khách thập
phương và những người dân miền núi tất cả những người ngoài cuộc ấy có thể tiến
lại gần cha và nói chuyện với cha...cha sẽ xoa đầu các em bé..Và có lẽ cha sẽ
gọi chú bé nông dân đó là "Carino" như cha đã từng gọi anh hồi nào.
Ruồi
trâu lại ngồi thụp xuống bậc thềm và quay mặt đi để tránh nhìn cảnh tượng đó.
Nếu có thể chui vào một xó nào, nút tai lại để không nghe thấy gì nữa thì tốt
biết bao ! Thật là quá sức chịu đựng của con người... Ở gần, gần đến nỗi chỉ
việc chìa tay ra là có thể mó vào bàn tay thân yêu đó...
Một
giọng dịu dàng cất lên :
- Ông
bạn ơi, có vào trong nhà nghỉ một chút không? Ông rét run lập cập rồi.
Trái tim
Ruồi trâu như ngừng đập. Trong giây phút ấy, anh không thấy gì cả, chỉ thấy máu
trào mạnh mẽ tưởng chừng như xé tan lồng ngực, từng đợt, từng đợt, máu nóng
rừng rực chạy khắp toàn thân. Ruồi trâu ngẩng đầu. Và nhìn thấy mặt anh, đôi
mắt nghiêm nghị và sâu xa của người đang đứng cúi xuống bên anh bỗng càng trở
nên hiền dịu với một niềm trắc ẩn thiêng liêng.
Mông-ta-ne-li
nói với đám đông :
- Các
con hãy lui ra một chút để cha nói chuyện với ông cụ này.
Khách
thập phương xì xào, từ từ lui ra. Còn Ruồi trâu thì ngồi im, môi mím chặt, mắt
nhìn thẳng xuống đất. Anh cảm thấy tay Mông-ta-ne-li nhẹ nhàng đặt lên vai
mình.
- Ông
bạn có gì đau khổ lắm phải không ? Tôi có thể giúp ông một phần nào được chăng
?
Ruồi
trâu lắc đầu im lặng.
- Ông là
khách thập phương à ?
- Tôi là
kẻ không may có tội.
Câu hỏi
của Mông-ta-ne-li ngẫu nhiên trùng với mật hiệu làm cho Ruồi trâu dường như sắp
chết đuối vớ được cọc. Anh trả như một cái máy. Tay Mông-ta-ne-li dịu dàng đặt
lên vai anh làm cho anh cảm thấy da thịt nóng bỏng lên, toàn thân anh run lẩy
bẩy.
Hồng y
giáo chủ lại càng cúi sát xuống mặt anh :
- Có lẽ
ông bạn muốn nói chuyện riêng với tôi chăng ? Nếu tôi có thể giúp ông bạn được
phần nào.
Lần đầu
tiên Ruồi trâu vững vàng nhìn thẳng vào mắt Mông-ta-ne-li . Bình tĩnh trở lại,
anh nói :
- Không,
không ai có thể giúp tôi được cả.
Một viên
cảnh sát lách vào .
- Xin
đức Hồng y tha tội để cho con được nói vài lời. Lão già này điên đấy. Lão ta
lành lấm và có đủ giấy tờ nên chúng con vẫn để cho lão yên thân. Lão ta phạm
tội nặng bị khổ sai. Bây giờ lão ta đang ăn năn để chuộc tội.
Ruồi
trâu chậm chạp gạy đầu nhắc lại :
- Phạm
tội nặng lắm.
Mông-ta-ne-li
nói :
- Cám ơn
đại uý. Xin đại uý lui ra xa một chút... Ông bạn của tôi ơi, người nào đã biết
thật bụng ăn năn thì tôi đều có thể giúp được. Chiều nay ông bạn đến chỗ tôi
nói chuyện có được không ?
- Đức
cha liệu có thể tiếp chuyện một người phạm tội giết con đẻ của mình không ?
Câu hỏi
có vẻ khiêu khích đó làm cho Mông-ta-ne-li giật mình, rúm người lại như bị một
cơn gió lạnh.
Ông ta
trịnh trọng trả lời :
- Dù cho
ông bạn đã phạm tội gì, Đức chúa lời cũng không cho phép tôi buộc tội ông.
Trước mặt Chúa, tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và lòng chính trực của chúng
ta cũng chỉ là một giẻ rách bẩn thỉu mà thôi. Nếu ông bạn đến cùng tôi thì tôi
sẽ chịu lấy ông bạn như tôi hiện đang cầu nguyện Đức chúa lời chịu lấy tôi
trong ngày ra khỏi thế gian.
Với một
cử chỉ tha thiết đột nhiên, Ruồi trâu giơ hai tay ra phía trước nói :
- Đức
Hồng y hãy nghe tôi ! Và bà con bổn đạo cũng hãy nghe tôi ! Nếu một kẻ đã giết
chính đứa con đẻ duy nhất của mình, nếu một kẻ đã dùng sự gian dối mà lừa gạt
để đưa con mình vào cạm bẫy thì liệu kẻ đó có hy vọng gì sống ở trên trái đất
hoặc nơi thiên đàng được chăng ? Tôi đã nhận tội với Đức chúa lời và người thế
gian. Tôi đã từng chịu phạt của người đời và người đời đã để cho tôi được yên
lành. Nhưng đến bao giờ Chúa mới phán truyền cho tôi rằng như thế đã đủ rồi ?
Ai có thể làm phúc cho tôi để linh hồn tôi khỏi bị Chúa nguyền rủa? Ơn tha thứ
nào rửa sạch được tội lỗi của tôi ?
Một phút
im lặng chết chóc nặng nề trôi qua. Mọi người nhìn Mông-ta-ne-li và thấy cây
thánh giá phập phồng trên ngực ông ta. Cuối cùng Mông-ta-ne-li ngước mắt nhìn
lên, tay run rẩy làm phép cho mọi người .
- Đức
Chúa lời lòng lành vô cùng ! Ông bạn hãy đặt gánh nặng linh hồn của mình trước
bàn thờ Chúa vì có lời Kinh thánh rằng :"Không nên chối bỏ một linh hồn sa
ngã đã biết ăn năn tội lỗi".
Hồng y
giáo chủ quay đi và bước dọc theo sân chợ. Cứ đi một lúc ông ta lại dừng lại
nói chuyện với dân chúng hoặc bế trẻ em lên tay.
Ngay
chiều hôm đó, theo đúng lời chỉ dẫn ghi trong giấy gói ảnh. Ruồi trâu đến nơi
gặp gỡ đã định. Đó là nhà một người y sĩ địa phương, Đảng viên tích cực của
nhóm "Thắt lưng đỏ". Số lớn những người công tác bí mật đều đã tập
hợp đông đủ. Khi Ruồi trâu tới, mọi người hân hoan đón chào anh làm cho anh
càng thấy rõ uy tín của mình như một lãnh tụ.
Người y
sĩ nói :
- Chúng
tôi rất vui mừng lại được gặp anh. Nhưng khi nào anh rời khỏi chốn này thì
chúng tôi lại càng vui hơn vì việc anh tới đây thật là mạo hiểm hết sức. Tôi
phản đối kế hoạch đó. Anh có dám chắc sáng nay anh chưa bị lọt vào mắt một con
chuột cảnh sát nào ở chợ không ?
- Tất
nhiên họ trông... trông thấy, nhưng họ không nhận ra. Đô-mi-ni-ki-nô bố trí mọi
việc rất... rất tài tình. Anh ấy đâu? Sao không thấy anh ấy ở đây ?
- Anh ấy
sắp đến bây giờ. Thế nghĩa là trôi chảy cả chứ ? Hồng y giáo chủ ban phép lành
cho anh chưa ?
Tiếng
Đô-mi-ni-ki-nô bỗng vang lên ngoài cửa :
- Ban
phép lành à ? Cái đó có nghĩa lí gì đâu ! Ri-va-ret, anh thật nhiều phép lạ hơn
cả mình Thánh trong lễ Nôen. Anh còn có tài gì nữa không ?
Ruồi
trâu uể oải hỏi :
- Thế
nghĩa là thế nào ?
Ruồi
trâu ngả mình trên đi văng hút xì gà. Anh còn bận đồ khách thập phương, nhưng
bộ râu giả đã bỏ sang bên cạnh.
- Tôi
không ngờ anh lại là một kịch sĩ có tài như vậy. Trong đời tôi chưa hề thấy ai
đóng kịch giỏi đến thế ! Anh làm cho ngài Hồng y cảm động đến rớt nước mắt.
-
RI-va-rét, chuyện thế nào, anh kể cho chúng tôi nghe với !
Ruồi
trâu nhún vai. Tối hôm ấy anh rất ít nói . Mọi người thấy hỏi mãi cũng nhàm bèn
quay sang bắt chuyện với Đô-mi-ni-ki-nô. Khi nghe Đô-mi-ni-ki-nô kể lại quang
cảnh ban sáng trên sân chợ thì một công nhân trẻ tuổi không hoà theo tiếng cười
chung. Anh nói :
- Anh
đóng khéo thật đấy, nhưng làm như thế có lợi ích gì không ?
Ruồi
trâu trả lời :
- Có lợi
nhiều chứ. Bây giờ thì tôi có thể đi lại tự do, muốn làm gì tuỳ ý và không bị
kẻ nào ngờ vực cả, dù một nam phụ não ấu nào. Ngày mai khắp thành phố sẽ biết
câu chuyện xảy ra hôm nay. Và mỗi khi gặp tôi mật thám sẽ nghĩ rằng : "À,
đấy là lão già điên ĐI-ê-gô đã ăn năn tội lỗi ở sân chợ hôm nào !" Như thế
có lợi lắm chứ !
- Tất
nhiên là như thế. Nhưng dù sao làm khác một chút thì cũng vẫn hơn. Không cần
lừa dối Hồng y giáo chủ. Ông ta là người tốt chơi khăm ông ta làm gì .
Ruồi
trâu uể oải tán thành :
- Tôi
cũng nghĩ ông ta là người đứng đắn
Đô-mi-ni-ki-nô
nói :
-
Xan-đơ-rô, cậu nói vớ vẩn lắm ! Ở đây chúng ta chẳng có ai cần đền Hồng y giáo
chủ làm gì. Nếu Mông-ta-ne-li nhậm một chức tại La mã như người ta từng đề nghị
với ngài thì đố Ri-va-ret lừa được ngài.
- Ông ta
không nhậm chức như thế chỉ là vì ông ta không muốn bỏ công việc ở đay.
- Cũng
có thể là tại ông ta không muốn bị tay sai của Lan-bơ-ru-tri-ni đầu độc. Bọn
chúng phản đối ông ta về một số vấn đề, điều đó rõ như ban ngày. Nếu một Hồng y
giáo chủ, nhất là một tay có uy tính như Mông-ta-ne-li lại cứ thích ở nơi khỉ
ho cò gáy thì có ngày chúng ta cũng có thể đoán biết tại sao chứ, phải không
Ri-va-ret ?
Ruồi
trâu phà ra những cuộn khói tròn. Anh ngẩng đầu nhìn theo nhưng cuộn khói đó và
nói :
- Có lẽ
tại trái tim ông ta đã bị tan vỡ mà ông ta đang ăn năn tội lỗi đấy. Thôi, ta
bàn việc đi !
Những
người tham dự cuộc họp bắt đầu thảo luận tỉ mỉ các kế hoạch chuyên chở và cất
giấu vũ khí. Ruồi trâu chăm chú nghe. Trong khi mọi người tranh luận nếu có
những tin không chính xác hoặc những phương án đề ra có chỗ nào hớ hênh thì anh
lại đưa ra những nhận xét sắc bén. Khi mọi người phát biểu ý kiến xong Ruồi
trâu liền đưa ra một số đề nghị cụ thể. Phần lớn đề nghị ấy được thông qua
không cần tranh cãi. Thế là buổi họp kết thúc. Hội nghị quyết định chừng nào
Ruồi trâu chưa yên ổn về tới Tô-scan thì tránh họp ban đêm để cảnh sát khỏi chú
ý.
Chưng
hơn mười giờ, mọi người giải tán. Chỉ còn một tiểu ban ba người gồm người y sĩ,
Ruồi trâu và Đô-mi-ni-ki-nô ở lại để bàn nốt một vài vấn đề đặc biệt.
Một cuộc
tranh luận sôi nổi lại kéo dài. Cuối cùng Đô-mi-ni-ki-nô nhìn đồng hồ nói :
- Mười
một giờ rưỡi rồi. Giải tán đi thôi, kẻo lại vấp phải lính tuần tra ban đêm.
- Mấy
giờ đội tuần tra đi tua ?
- Độ
mười hai giờ. Tôi định về tới nhà trước khi lính tuần tra đến. Thôi, chào Giooc
đa-ni nhé!...
Có về
cùng không, Ri-va-ret ?
- Không,
đi từng người một an toàn hơn. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu ?
- Ở
Bô-lô-ne-dơ, tôi cũng chưa biết đến đó nên trá hình thế nào . Nhưng mật hiệu
anh đã rõ rồi. Sáng mai anh đi à ?
Ruồi
trâu ra trước gương đeo râu tóc giả .
- Sáng
mai tôi sẽ nhập vào đám khách thập phương. Đến ngày kia, tôi sẽ giả ốm nằm
trong lều người chăn cừu. Ở đó tôi vượt thẳng qua núi và sẽ đến Bô-lô-ne-dơ
trước anh. Chào anh !
Khi Ruồi
trâu bước tới cửa vựa thóc thì đồng hồ gác chuông nhà thờ điểm mười hai tiếng.
Vựa thóc bỏ không này nay đã trở thành nơi ngủ trọ của khách thập phương. Những
thân hình kỳ dị nằm ngổn ngang khắp sàn nhà, tiếng ngáy vang lên tứ phía. Không
khí ở đây hết sức ngột ngạt, nặng nề. Ruồi trâu giật mình ghê rợn, lùi lại. Nằm
đây thì không tài nào ngủ được ! Tốt nhất là đi lang thang vài giờ rồi sẽ sà
vào một mái lều hoặc một đống cỏ khô nào sạch sẽ và yên tĩnh hơn.
Đêm hôm
ấy trời thật là đẹp, trăng tròn, toả ánh sáng rực rỡ trên bầu trời tím sẫm.
Ruồi trâu đi lang thang qua các phố, và cay đắng nhớ lại cảnh ban sáng. Bây giờ
anh thấy hơi tiếc tại sao đồng ý gặp Đô-mi-ni-ki-nô ở Bơ-ri-xi-ghê-la. Nếu nói
ngay từ đầu rằng chỗ đó là nguy hiểm và chọn chỗ khác thì cả anh lẫn Mông-ta-ne-li
đều thoát khỏi trò hề ghê tởm và kỳ cục ấy.
"Cha"
khác trước nhiều quá ! Nhưng giọng nói vẫn như xưa, như hồi cha gọi mình là
"Carino"...
Bỗng một
chiếc đèn ló của lính tuần tra hiện ra đầu phố trước mặt. Ruồi trâu rẽ vào một
ngõ hẻm ngoắt ngoéo. Đi được mấy bước thì tới sân nhà thờ, mé bên trái lâu đài
giám mục. Ánh trăng tràn ngập trên sân nhà thờ trống trải. Ruồi trâu nhận thấy
cửa ngách nhà thờ còn hé mở. CHắc người coi nhà thờ quên không đóng cửa . Đêm
khuya thế này còn có ai vào đây làm gì nữa ! Bây giờ vào đó mà lăn kềnh trên
ghế có lẽ tốt hơn là trở về vựa thóc ngột ngạt ấy. Đến sáng thì sẽ chuồn ra
khỏi nhà thờ trước khi người coi nhà thờ tới. Và dù có bắt gặp anh chắc ông ta
cũng chỉ nghĩ rằng lão già Đi-ê-gô điên rồ lại cầu nguyện ở xó xỉnh nào trong
nhà thờ và đã bị nhốt suốt đêm qua.
Ruồi
trâu đứng trước cửa nghe ngóng giây lát rồi khập khiễng rón rén bước vào, cố
gắng hết sức yên lặng. Ánh trăng tràn vào cửa sổ, in thành vệt rộng trên sàn đá
hoa. Nhất là ngôi điện thờ phía trong nhà thờ thì còn rõ lắm, rõ như ban ngày.
Dưới bàn thờ, Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li đang quỳ gối một mình, đầu trần,
chắp tay cầu khấn.
Ruồi
trâu lần vào bóng tối. Có nên rời ngay khỏi chốn này khi Mông-ta-ne-li chưa kịp
trông thấy không ? Làm như thế là sáng suốt nhất và có lẽ nhân đạo nhất đấy.
Nhưng
nếu bước lại gần một chút thôi thì cũng đã sao đâu ? Lại gần một chút và nhìn
mặt cha một lần nữa; bây giờ chung quanh có ai khác đâu mà phải giở trò đóng
kịch xấu xa như ban sáng nữa. Có lẽ đây là dịp cuối cùng. Cũng không cần để cha
nhìn thấy anh. Bước lại gần nào có ai hay, nhìn cha một lần này nữa thôi rồi ta
trở về với công việc.
Nép mình
trong bóng tối sau hàng cột, Ruồi trâu nhẹ nhàng bước tới chấn song nhà thờ.
Anh ngừng lại giây lát bên cửa ngách, cách bàn thờ không xa. Bóng tối từ trên
ghế Hồng y giáo chủ toả xuống quá rộng, trùm khắp người anh. Ruồi trâu ngồi
trong bóng tối, nín thở :
- Con
ơi, Lạy Chúa ! Khốn khổ cho con tôi !
Trong
tiếng thì thầm dứt đoạn ấy chứa biết bao nhiêu là tuyệt vọng làm cho Ruồi trâu
bất giác rùng mình. Tiếp theo là tiếng nức nở âm thầm não ruột, không nước mắt.
Mông-ta-ne-li bóp chặt hai tay, như một người thể chất quá đau đớn.
Ruồi
trâu không ngờ cha đau khổ đến thế. Nhiều lần anh tự tin một cách cay đắng mà
nhủ mình rằng "Cần gì phải lo chuyện đó ! Vết thương của ông ta đã lành từ
lâu rồi !". Và giờ đây sau bao năm trường, vết thương ấy vẫn còn sờ sờ ra
đó và nó vẫn đang rỉ máu. Chữa vết thương ấy bây giờ dễ biết chừng nào ! Chỉ
cần giơ tay lên, bước lại gần mà nói" Thưa cha, con đây !"
Nhưng
Giê-ma còn cả một mớ tóc bạc. Trời, ước gì anh có thể tha thứ được ! Ước gì anh
có thể xoá nhoà tất cả dĩ vãng, lãng quên hết người thuỷ thủ say khướt, cái đồn
điền mía và gánh xiếc rong kia ! Đau khổ nào sánh được đau khổ này ! Muốn tha
thứ đấy, cố tha thứ đấy, nhưng lại biết rằng tha thứ cũng chẳng ích gì, anh
không dám và không thể nào tha thứ được.
Cuối
cùng, Mông-ta-ne-li đứng dậy, làm dấu thánh giá và bước ra khỏi bàn thờ. Ruồi
trâu nép hẳn vào bóng tối, sợ rằng Hồng y giáo chủ sẽ trông thấy mình nghe thấy
tiếng đập của trái tim mình. Bỗng anh nhẹ nhàng thở hắt ra : Mông-ta-ne-li chỉ
đi sát ngay bên cạnh, tà áo tím chạm vào má anh nhưng Mông-ta-ne-li không hề
trong thấy anh.
Không
trông thấy...Ồ , tại sao thế ! Tại sao thế ! Đó là cơ hội cuối cùng, là khoảnh
khắc quý giá mà sao ta không biết nắm lấy. Ruồi trâu nhỏm dậy, tiến lên, bước
ra chỗ sáng :
- Cha !
Tiếng
nói của chính mình vang lên rồi lắng dần dưới những vòm nhà thờ cao vút làm cho
Ruồi trâu kinh hoàng vô hạn.
Anh lùi
lại vào bóng tối. Mông-ta-ne-li dừng bước bên cột, đứng im nghe ngóng, trố mắt
nhìn khủng khiếp và ghê rợn. Im lặng kéo dài đến nỗi Ruồi trâu không thể lường
được : có lẽ chỉ trong nháy mắt thôi mà sao dài vô tận. Nhưng rồi anh bừng tỉnh
lại. Mông-ta-ne-li loạng choạng như muốn ngã, đôi môi chỉ run lên mấp máy.
Cuối
cùng một tiếng thều thào bật ra :
-
Ác-tơ... phải, nước sâu lắm...
Ruồi
trâu tiến lên :
- Đức
Hồng y tha lỗi, con tưởng là một vị giáo sĩ ở nhà thờ này.
- À, ông
khách thập phương đấy phải không ?
Mông-ta-ne-li
đã trấn tĩnh. Nhưng nhìn thấy ánh sáng ngọc xanh vẫn không ngừng lóng lánh trên
tay. Ruồi trâu biết rằng ông ta vẫn còn run.
- Cần gì
đây, ông bạn ? Đêm khuya rồi, nhà thờ đã đóng cửa từ lâu.
- Đức
Hồng y lượng thứ cho. Cửa còn mở nên con định vào nguyện ngắm. Thấy Người đang
cầm trí nguyện con tưởng là một vị giáo sĩ nào và định xin Người làm phép ảnh
này cho.
Ruồi
trâu giơ chiếc thánh giá bằng thiếc nhỏ xíu mà sáng nay Đô-mi-ni-ki-nô đã bán
cho anh. Mông-ta-ne-li cầm lấy, bước vào đặt lên bàn thờ trong chốc lát.
Ông nói
:
- Hỡi
con, con hãy nhận lấy và nguyện cầu cho linh hồn con được yên lành , vì Chúa
chúng ta nhân từ và lòng lành vô cùng. Con hãy dến La mã, xin Đức Thánh cha là
sứ thần của Đức Chúa ban phước lành tha vạ cho con. Nguyện cho con được bằng
an.
Ruồi
trâu cúi đầu nhận lễ, rồi từ từ bước ra. Mông-ta-ne-li đứng cạnh bàn thờ, một
tay nắm lấy chấn song nói theo :
- Khoan
hãy đi. Khi nào ông bạn chịu Mình Thánh ở La mã thì xin ông bạn hay nguyện cầu
cho một trái tim đầy đau thương, một linh hồn nặng chĩu cánh tay của Chúa.
Tiếng
nói chứa đầy nước mắt của Hồng y giáo chủ làm cho ý chí quyết tâm của Ruồi trâu
có phần xao xuyến. Chỉ suýt nữa thì anh đã tự phản bội mình. Nhưng hình ảnh đám
xiếc rong lại hiện ra trong trí anh.
- Con là
ai ? Là một thằng hủi, là một kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Liệu Chúa có nghe lời
nguyện xin của một kẻ như thế hay không ? Nếu con làm được như đức cha, nếu con
có thể hiến dâng cho bàn thờ Chúa một cuộc sống thiêng liêng, một linh hồn trong
trắng không gợn chút nhơ nhuốc thầm kín...
Mông-ta-ne-li
bỗng ngắt lời :
- Cha
chỉ có thể hiến dâng trước bàn thờ Chúa trái tim tan nát này mà thôi.
Vài ngày
sau Ruồi trâu lên xe ngựa từ Pis-tôi-a trở về Phơ-lo-răng-xơ. Trước hết anh đi
thẳng tới nhà Giê-ma, nhưng không găp. Anh viết giấy để lại hẹn sáng hôm sau sẽ
đến và trở về thầm mong Di-ta sẽ không đường đột xông vào phòng làm việc của
mình như lần trước. Nếu tối nay anh lại phải nghe một lô những lời trách móc
ghen tuông của nàng thì nó sẽ tác động tới thần kinh của anh như tiếng rũa răng
ken két của bác sĩ nha khoa vậy.
Người
con gái ra mở cửa.
- Chào
Bi-an-ca. Hôm nay bà Rê-mi có đến không ?
Bi-an-ca
trố mắt nhìn anh :
- Bà
Rê-mi ? Bà ấy về rồi hả ông ?
Ruồi
trâu cau mày dừng bước trước ngưỡng cửa.
- Chị
nói thế nghĩa làm sao ?
- Khi
ông đi thì bà ấy lập tức đi theo ngay. Không đem theo đồ đạc gì. Bà ấy cũng
không hề báo cho biết là đi đâu.
- Đi
theo tôi ? Cách đây hai tuần à ?
- Thưa
ông, vâng. Bà ấy bỏ bữa bãi tất cả đồ đạc rồi đi ngay hôm đó. Bà con láng giềng
bàn tán rất nhiều về chuyện này.
Ruồi
trâu quay đi không nói một lời. Anh vội đảo qua một ngõ hẻm rồi bước nhanh tới
nhà Di-ta. Trong phòng, mọi vật đều như cũ. Các quà tặng của anh vẫn ở nguyên
các chỗ cũ. Không một bức thư, không một mẩu giấy nhỏ nào của Di-ta.
Bi-an-ca
thò đầu vào cửa nói :
- Thưa
ông, có một bà cụ đến.
Ruồi
trâu quay phắt lại :
- Chị
muốn gì ? Tại sao chị cứ bám sát tôi như thế ?
- Có một
bà cụ muốn gặp ông.
- Bà ta
cần hỏi gì ? Chị nói tôi không...không thể tiếp bà ấy được bây giờ. Tôi bận.
- Dạ
thưa ông, từ khi ông đi hầu như chiều nào bà cụ cũng đến và cứ hỏi bao giờ ông
về.
- Chị ra
hỏi xem bà ta muốn gì... Thôi được, để tôi ra vậy.
Bà cụ
đang ngồi ở phòng khách, ăn mặc rất tiều tuỵ mặt ngăm đen và răn rúm như chiếc
bị, đầu quấn một chiếc khăn sặc sỡ. Bà đứng dậy tiến về phía anh chăm chú nhìn
anh từ đầu đến chân với đôi mắt đen nhánh rồi nói :
- Vậy té
ra ông là cái ông khập khiễng ấy à ? Di-ta Rê-ni nhờ tôi báo tin cho ông.
Ruồi
trâu mời bà cụ vào phòng làm việc rồi bước theo sau, đóng cửa lại để Bi-an-ca
khỏi nghe chuyện :
- Mời cụ
ngồi. Cụ là..là ai ?
- Tôi là
ai điều đó không quan hệ gì tới ông, tôi đến để nói cho ông biết Di-ta Rê-ni đã
bỏ ông để đi với con trai tôi rồi.
- ĐI với
con...con trai cụ à ?
- Thưa
ông, vâng ! Ông đã vớ được người yêu như cô ta mà không biết đường giữ, để
người khác cướp mất thì đó là lỗi ở ông không thể trách ai khác được. Trong
mạch máu con tôi là máu chứ không phải sữa loãng . Nó là người Rô-ma (người
tsi-gan tự tôn mình là dòng dõi dân tộc Rô-ma).
- À, té
ra bà cụ là người tsi-gan ! Thế nghĩa là Di-ta đã trở về với bà con dòng giống
của mình rồi ?
Bà cụ
nhìn anh , vừa ngạc nhiên vừa khinh bỉ : Những người thiên chúa giáo này lạ
thật, đàn ông gì mà người ta mắng cũng không biết đường giận !
- Ông là
cái thá gì mà cô ta cứ phải bám lấy ông ? Con gái chúng tôi có đứa hiếu kỳ, có
đứa vì tiền tài phải tìm đến hạng người như ông. Nhưng máu mủ Rô-ma bao giờ
chẳng trở về với dòng giống Rô-ma.
Ruồi
trâu vẫn giữ nét mặt lạnh lùng và bình tĩnh :
- Cô ta
đi với cả đoàn hay là chỉ đi với con cụ thôi ?
Bà già
cười rộ :
- Ông
lại định đuổi theo lôi cô ta về chăng ? Không kịp đâu, ông ạ ! Ông phải tính
cho sớm chứ !
- Không,
tôi chỉ muốn biết đầu đuôi câu chuyện nếu cụ không muốn nói thì thôi.
Bà cụ
nhún vai. Một người nhu nhược đến thế thì còn hoài hơi mắng mỏ làm gì nữa !
- Vâng,
thì đầu đuôi như thế này : Ngay hôm ông bỏ Di-ta ra đi thì cô ta gặp con tôi
ngoài phố. Di-ta nói chuyện với con tôi bằng tiếng Rô-ma. Mặc dù cô ấy ăn mặc
bảnh bao nhưng con tôi cũng nhận ngay ra là người đồng tộc. Di-ta đẹp, nó liền
yêu ngay, yêu mê mệt như mọi người đàn ông khác của chúng tôi. Rồi nó đưa Di-ta
về nhập bọn. Con bé khốn khổ ấy kể cho chúng tôi nghe mọi nỗi niềm tâm sự. Cô
ta khóc nức nở làm cho chúng tôi cứ trông thấy là tan nát cả cõi lòng. Chúng
tôi hết sức dỗ dành. Rồi cô ta bỏ hết quần áo diêm dúa, mặc quần áo tsi-gan và
thuận lấy con tôi làm chồng. Con tôi nó chẳng bao giờ nói " Tôi không yêu
cô" với lại "tôi bận, tôi có việc đâu ". Con gái hơ hớ như thế ở
một mình sao được. Còn ông, ông mà cũng là đàn ông à! Con gái xinh như thế, ôm
lấy ông mà ông cũng chẳng biết đường hôn...
Ruồi
trâu ngắt lời :
- À hình
như cụ bảo Di-ta có nhắn tôi điều gì...
- Có,
tôi nán lại đi sau chính là để chuyển lời của cô ta cho ông hay. Di-ta nhờ tôi
nói rằng cô ta chán ngấy những kẻ tán nhăng tán cuội những kẻ trong mạch máu
chẳng có máu mà chỉ có nước lã như các ông rồi. Cô ta trở về với dân tộc mình
trở về để sống tự do. Di-ta nói "Tôi là một người đàn bà. Tôi yêu Rivarét
nhưng không thể ở lại làm vợ lẽ ông ta được." Di-ta bỏ ông là phải. Con
gái Rô-ma bán sắc đẹp lấy chút tiền điều đó chẳng có gì xấu cả. Nếu không thì
sắc đẹp nó để làm gì ?Nhưng dù sao con gái Rô-ma cũng chẳng thể nào yêu được
dòng giống các ông đâu.
Ruồi
trâu đứng dậy :
- Hết
rồi chứ ? Vậy thì nhờ cụ nói dùm cô ấy biết cô ấy làm như thế là đúng và tôi
xin chúc Di-ta hạnh phúc. Tôi không có gì để nói nữa. Xin chào cụ !
Đợi bà
cụ ra, đóng xong cửa vườn, Ruồi trâu mới vào ngồi xuống ghế bành, bưng lấy mặt.
Lại một
cái tát nữa! Lẽ nào người ta không để lại cho anh một chút tự hào, tự trọng mà
anh vẫn hằng có trong những ngày oanh liệt xưa kia ! Bao nhiêu đau khổ mà một
con người có thể chịu đựng thì anh đã chịu cả rồi. Ngay cả trái tim anh cũng đã
bị dấn chìm trong bùn và bị giày xéo dưới chân mọi khách qua đường. Tâm hồn anh
không còn chỗ nào là không bị đốt cháy thui bởi sự khinh rẻ của người này hoặc
sự nhạo báng của người khác. Và giờ đây đến cả cô gái tsi-gan mà anh nhặt được
lề đường cũng lại cầm roi quất vào mặt anh !
Tiếng
rền rĩ của con chó Sai tan vang lên ngoài phòng, Ruồi trâu đứng dậy mở cửa.
Sai-tan nhảy xổ vào lòng chủ vui sướng sủa ầm lên như mọi khi. Nhưng nó hiểu
ngay là hôm nay chủ nó không vui nó dúi mõm vào bàn tay không động đậy của Ruồi
trâu và nằm phục dưới chân anh.
Một giờ
sau, Giê-ma tới thăm Ruồi trâu. Chị gõ cửa nhưng không có tiếng ai thưa.
Bi-an-ca nghe chừng ông chủ không muốn ăn cơm, đã lỉnh dang chơi bên nhà bếp
bên hàng xóm rồi. Cửa chưa đóng và đèn vẫn chưa tắt ở hành lang. Giê-ma dừng
lại vài phút rồi cả quyết bước vào. Chị cần bàn với Ruồi trâu về tin quan trọng
mà Bây-li vừa gửi tới.
Giê-ma
gõ cửa phòng làm việc và nghe tiếng Ruồi trâu nói :
-
Bi-an-ca, chị có thể đi ra. Tôi không cần gì cả.
Giê-ma
nhẹ nhàng hé cửa. Trong phòng tối như bưng, nhưng ngọn đèn ở lối đi đã dọi một
vệt sáng vào Ruồi trâu. Anh đang ngồi một mình, đầu cúi gục, con chó cuộn ngủ
dưới chân.
Giê-ma
lên tiếng :
- Tôi
đây mà.
Ruồi
trâu nhỏm dậy :
-
Giê-ma, Giê-ma ! Tôi đang mong chờ Giê-ma !
Giê-ma
chưa kịp nói gì thì Ruồi trâu đã quỳ xuống và gục đầu vào lòng chị. Toàn thân
anh run lên, trông đáng thương hơn cả nước mắt...
Giê-ma
đứng lặng. Chị không thể nào giúp đỡ Ruồi trâu được gì cả, không giúp được một
chút nào ! Cái đó mới thật là đau xót hơn cả ! Chị phải đứng bên cạnh Ruồi
trâu, bó tay nhìn vẻ mặt đau khổ của anh ... Chị có thể vui lòng chết đi để
chia sẻ nỗi đau khổ của Ruồi trâu ! Ồ, nếu có thể cúi xuống, ghì chặt Ruồi trâu
vào lòng, lấy thân mình che chở cho Ruồi trâu khỏi mọi tai ương đang đe doạ anh
! Lúc ấy anh sẽ lại là Ac-tơ của chị như cũ và trong lòng chị mặt trời sẽ lại
sáng bừng lên, xua tan hết bóng đêm dày đặc.
Không,
không ! Có lẽ nào anh ấy lại quên đi như thế được ? Chính chị, chính bàn tay
phải của chị đã đẩy anh xuống địa ngục rồi kia mà !
Và
Giê-ma đã để cho khoảnh khắc ấy trôi qu. Ruồi trâu vụt đứng dậy ngồi vào bàn,
tay bưng lấy mặt, răng cắn chặt như muốn nghiến đứt môi.
Rồi anh
ngẩng đầu, giọng nói đã bình tĩnh trở lại :
- Giê-ma
tha lỗi, có lẽ tôi đã làm cho Giê-ma phải sửng sốt.
Giê-ma
chìa hai tay cho anh :
- Anh
thân yêu, chẳng lẽ tình bạn hiện nay của chúng ta không làm cho anh tin Giê-ma
được hay sao ? Cứ nói đi anh vì sao anh đau khổ ?
- Đó chỉ
là nỗi khổ của riêng tôi, nói ra khiến Giê-ma phải lo lắng mà làm gì.
Hai tay
Giê-ma nắm chặt lấy bàn tay run rẩy của Ruồi trâu.
- Anh
hãy nghe Giê-ma . Giê-ma không muốn can thiệp vào chuyện mà Giê-ma không có
quyền can thiệp. Nhưng anh đã tự ý thổ lộ nỗi lòng với Giê-ma . Vậy còn chút gì
chưa nói hết thì xin anh cứ nói ra, tin cậy Giê-ma như một người em gái ! Anh
cứ giữ lấy bức màn che trên mặt nếu nó sẽ làm anh dễ chịu hơn, nhưng xin anh
hãy bỏ bức màn trong tâm hồn và hãy thương lấy bản thân !
Ruồi
trâu càng cúi gục đầu. Anh nói :
- Mong
Giê-ma hãy vì tôi mà hết sức nhẫn nại. Sợ rằng tôi chỉ là một người anh không
xứng đáng. Nhưng nếu Giê-ma hiểu cho... Mấy ngày qua tôi suýt nữa mất lý trí.
Tôi có cảm tưởng sống lại quãng đời ở Nam Mỹ. Ma quỷ như đã nhập vào người tôi và...
Ruồi
trâu ngừng lại giữa chừng câu nói :
Giê-ma
thủ thỉ :
- Mong
anh có thể san sẻ bớt phần đau khổ cho em...
Ruồi
trâu gục đầu vào cánh tay Giê-ma " bàn tay của Chúa thật nặng nề!".
RUỒI
TRÂU
Chương
19
Sau đó
năm tuần lễ liền, Ruồi trâu và Giê-ma dường như sống trong cơn lốc của lo âu,
hồi hộp và công việc khẩn trương. Họ không còn thời giờ và hơi sức đâu nghĩ đến
chuyện riêng nữa. Vũ khí đã được chở an toàn tới lãnh địa của Giáo hoàng. Nhưng
nhiệm vụ trước mắt còn khó khăn và nguy hiểm hơn : phải kín đáo chuyên chở vũ
khí từ các kho bí mật trong hang và các khe núi tới các trung tâm địa phương
rồi phân phối tới các thôn xóm. Toàn khu rừng đầy rẫy mật thám. Ruồi trâu giao
nhiệm vụ ấy cho Đô-mi-ni-ki-nô. Nhưng Đô-mi-ni-ki-nô đã phải viết thư về Phơ-lo-răng-xơ
tha thiết yêu cầu giúp đỡ, nếu không thì phải gia thêm hạn.
Trái
lại, Ruồi trâu vẫn kiên quyết chủ trương hoàn thành mọi công việc vào giữa
tháng sáu, điều đó làm cho Đô-mi-ni-ki-nô rất thất vọng. Chuyên chở hàng nặng
qua các ngả đường xấu không phải là chuyện dễ. Hơn nữa, lại phải thường xuyên
trốn tránh việc tra xét nên cứ bị trắc trở luôn.
Thư
Đô-mi-ni-ki-nô viết :
"
Hiện nay tôi đang ở giữa Si-la và Kha-ri-ba (Scylla and Charybdis - Tên hai
quái vật trong thần thoại Hy lạp, được đặt cho một mỏm đá và xoáy nước ở bên bở
eo biển Mét-xi-na giữa nước Ý và đảo Xi-xin, thường gây hoạc cho những người đi
biển. Câu này có nghĩa "Hiện nay tôi đang ở tình trạng "tiến thoái
lưỡng nan" hoặc "tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa"), vừa không dám làm
gấp sợ lộ vừa không thể kéo dài việc chuyên chở vì phải hoàn thành cho kịp thời
hạn. Mong anh hoặc cho ngay một người giúp việc đắc lực đến, hoặc báo cho
Vơ-ni-dơ biết chúng tôi không thể chuẩn bị xong trước thượng tuần tháng sáu
được".
Ruồi
trâu mang bức thư tới cho Giê-ma xem.
Giê-ma
chăm chú đọc, còn anh thì cau mày , ngồi xuống sân, vuốt lông con mèo Pát.
Giê-ma
nói :
- Hỏng
bét. Nói làm sao cho những người ở Vơ-ni-dơ chờ suốt ba tuần lễ được.
- Tất
nhiên là không nói được. Ý nghĩ kỳ quặc quá ! Đô-mi-ni-ki-nô cũng phải hiểu
điều ấy chứ . Không phải người Vơ-di-nơ theo chúng ta mà chúng ta phải theo họ.
- Nhưng
cũng không thể trách Đô-mi-ni-ki-nô được. Chắc là anh ấy đã cố hết sức nhưng
không thể nào làm hơn được.
- Phải,
không phải lỗi ở Đô-mi-ni-ki-nô. Khổ một nỗi là ở đấy chỉ có một người chứ
không có đến hai. Lẽ ra một người phải coi kho còn một người nữa theo dõi việc
chuyên chở. Đô-mi-ni-ki-nô nói rất đúng. Cần phải có một người giúp việc đắc
lực cho anh ta.
- Nhưng
cho ai đi bây giờ ?Ở Phơ-lo-răng-xơ này lấy cho ai mà đi ?
- Nếu
thế thì chính...chính tôi phải đi .
Giê-ma
ngả người vào ghế. Chị cau mày nhìn Ruồi trâu :
- Không,
không đươc anh ạ. Như thế mạo hiểm lắm.
- Nếu
không... Không còn cách nào khác thì đành phải mạo hiểm vậy.
- Tìm
cho ra cách giải quyết nào khác là được chứ gì. Lúc này anh lại đi nữa thì
không được đâu, đừng nghĩ tới chuyện ấy nữa.
Ruồi
trâu mím môi lại một cách bướng bỉnh :
-
Tôi...tôi không hiểu tại sao ?
- Anh cứ
bình tĩnh nghĩ một tí thì hiểu. Anh mới về đây được có năm tuần. Cảnh sát đã
đánh hơi được phần nào về ông khách thập phương già nua và bây giờ thì đang
lùng riết. Em biết anh trá hình rất khéo. Nhưng anh thử nhớ lại xem, anh đã cải
trang là Đi-ê-gô và nông dân bao nhiêu lần rồi. Còn dáng đi khập khiễng và vết
sẹo của anh, anh không thể giấu được.
- Trên
đời này thiếu...thiếu gì những người khập khiễng.
- Phải,
nhưng ở Rô-ma-nha, những người khập khiễng có vết dao chém ở má, tay bị tật mắt
xanh, da ngăm đen như anh không phải là nhiều.
- Mắt
thì không thành vấn đề. Tôi có thể dùng thuốc ben-la-đôn để thay đổi màu sắc.
- Thế
còn những đặc điểm khác ?...Không, không được đâu anh ạ. Nhận dạng như anh mà
đi đến đó ngay lúc này thì sẽ là tự chui vào cạm bẫy. Chúng tôm anh ngay tức
khắc.
-
Nhưng... nhưng phải có người giúp đỡ Đô-mi-ni-ki-nô chứ !
- Nếu
trong giờ phút gay go này anh bị bắt thì có giúp được gì cho Đô-mi-ni-ki-nô
không ? Anh mà bị bắt thì tan vỡ cả.
Song,
thuyết phục được Ruồi trâu không phải là dễ, và cuộc tranh luận cứ kéo dài
không đem lại kết quả gì. Bây giờ Giê-ma mới thật thấy con người ấy có một kho
ý chí kiên cường, bình tĩnh vô tận. Nếu đây là một vấn đề không quan trọng lắm
thì có lẽ Giê-ma đã chịu lún rồi. Nhưng vấn đề này không thể nhượng bộ được :
chị cho rằng không đáng mạo hiểm vì những lợi ích nhỏ mà chuyến đi của Ruồi
trâu có thể mang lại. Giê-ma ngờ rằng Ruồi trâu có ý định đi giúp
Đô-mi-ni-ki-nô chủ yếu không phải là một nhu cầu chính trị nghiêm trọng mà là
vì Ruồi trâu say mê mạo hiểm. Liều mạng xông vào những nơi hiểm nghèo là một cách
không cần thiết đã trở thành thói quen của Ruồi trâu. Anh say sưa lao vào nguy
hiểm như con ma men thấy rượu. Vì thế chị cần phải đấu tranh bình tĩnh mà kiên
quyết. Thấy mình không đủ lý lẽ để đẩy lùi quyết tâm sắt đá của Ruồi trâu,
Giê-ma viện nốt lý do cuối cùng :
- Thế
thì chúng ta đành thẳng thắn nói hết lẽ với nhau vậy. Không phải tại
Đô-mi-ni-ki-nô gặp khó khăn mà anh kiên quyết đòi đi đâu, trái lại chính là tại
anh yêu...
Ruồi
trâu sôi nổi cắt ngang :
- Không
phải thế đâu, Giê-ma ạ ! Ông ta đối với tôi chẳng có ý nghĩa gì cả. Dù suốt đời
không gặp ông ta nữa cũng chẳng sao...
Và Ruồi
trâu im bặt. Nhìn mặt chị, Ruồi trâu biết ngay rằng anh đã để lộ mình rồi.
Hai cặp
mắt nhìn nhau và cả hai đều nhìn xuống. Họ cùng nghĩ đến tến một người nhưng không
nói ra.
Ruồi
trâu gục mặt vào bộ lông êm dịu của con mèo. Cuối cùng anh lẩm bẩm :
- Không
phải tôi...tôi định đi cứu Đô-mi-ni-ki-nô. Nhưng tôi biết nếu không có người
đến giúp Đô-mi-ni-ki-nô thì công việc sẽ nguy hiểm vô cùng.
Giê-ma
không để ý đến những lời thanh minh tội nghiệp ấy, chị cứ nói tuồn tuột như
không hề có ai ngắt lời :
- Không,
đây chỉ vì anh say sưa mạo hiểm đó thôi. Khi nào tâm hồn anh không được bình
tĩnh thì anh lăn vào gian nguy, như khi ốm lăn vào thuốc phiện vậy.
Ruồi
trâu lại sôi lên :
- Có
phải lúc đó tôi đòi thuốc phiện đâu ! Người ta bắt tôi uống đấy chứ !
- Tất
nhiên ! Anh vẫn tự hào là anh chịu đựng giỏi, có khi nào anh lại xin thuốc
uống. Nhưng liều mạng để cố làm cho cân não khỏi căng thẳng đó lại là chuyện
khác hẳn !! Làm như vậy lòng tự hào của anh không bị thương tổn mà ! Nhưng xét
đến cùng cả hai sự việc chỉ khác nhau ở bề ngoài thôi.
Ruồi
trâu ngửa đầu con mèo lên và nhìn thẳng vào đôi mắt xanh tròn xoe của nó. Anh
nói :
- Pat,
mày nghĩ thế nào ? Những lời bà chủ mày nói xấu tao có đúng chút nào không ?
Thế nghĩa là Mea culpa, mea maxima culpa ( câu trích trong kinh đạo, tiếng la
tinh nghĩa là lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng) chứ gì ? Còn mèo này khôn,
chắc chẳng bao giờ mày đòi thuốc phiện nhỉ ? Ở Ai cập người ta thờ tổ tiên mày.
Nhưng nếu ta cầm một chân mày dí vào cây nến thì mày có giữ được thói bệ vệ
khinh lờn mọi đau khổ ở chốn trần gian này không ? Chắc lúc ấy mày sẽ xin thuốc
phiện chứ ? Phải không, Pát? Muốn thuốc phiên...hay là muốn chết ? Không, mèo ơi
chúng ta không có quyền chết yểu nếu chết chỉ là một lối thoát tiện lợi nhất
cho cá nhân mình. Nếu có thể tự an ủi được thì chúng ta hãy phỉ nhổ và nguyền
rủa đôi chút đi nào! Nhưng đừng...đừng có giơ chân ra làm gì, Pát ạ !
Giê-ma
giật lấy con mèo, đặt nó lên ghế đẩu.
- Thôi !
Những vấn đề ấy lần sau chúng ta sẽ bàn. Bây giờ hãy tính chuyện giúp
Đô-mi-ni-ki-nô đã... Gì thế Kê-ti ? Có khách à ? Tôi đang bận.
- Thưa
bà, có Rai-tơ cho người đem gói này đến !
Trong
gói bọc kỹ có một bức thư đóng dấu lãnh địa Giáo cũ của Giêma vẫn ở
Phơ-lo-răng-xơ và những thứ đặc biệt quan trọng thường được thận trọng gửi qua
địa chỉ của những người bạn ấy.
Giê-ma
đọc nhanh lá thư báo giá tiền học hè ở một trường có ký túc xá tại A-pe-nanh
rồi trỏ hai vết mực ở góc trang giấy nói :
- Đây là
ám hiệu của Mi-kê-lê. Anh ta viết bằng mực hoá học. Thuốc để thử cất trong bàn
viết, ô kéo thứ ba... Phải, đúng nó đấy.
Ruồi
trâu đặt thư lên bàn, lấy bút lông quệt thuốc lên. Khi dòng chữ xanh biết hiện
lên trên tờ giấy thì anh ngả mình vào ghế phá lên cười .
Giê-ma
vội hỏi :
- Cái gì
thế hở anh ?
Ruồi
trâu đưa cho chị bức thư.
"Đô-mi-ni-ki-nô
bị bắt. Anh đến ngay."
Giê-ma
gieo mình xuống ghế, tay không rời bức thư, nhìn Ruồi trâu một cách tuyệt vọng.
Buồn
quá, bao giờ mới hết một tuần nhỉ?
Post
giúp bạn silver light mấy đoạn nhé
Giê-ma
gieo mình xuống ghế, tay không rời bức thư, nhìn Ruồi Trâu một cách tuyệt vọng.
Cuối
cùng, với một giọng kéodài và chấm biếm, nhỏ nhẹ, anh nói:
- Thế
nhé... Bây giờ Giê-ma thấy rõ tôi phải đi rồi chứ?
Giê-ma
thở dài đáp:
- Vâng,
anh phải đi thôi. Và cả em nữa.
Ruồi
Trâu giật mình, ngước nhìn chị:
- Cả
Giê-ma nữa? Nhưng...
- Tất
nhiên. Không còn người nào ở lại Phơ-lô-răng-xơ thì đã đành là không tốt. Nhưng
bây giờ mọi chuyện đều không quan trọng mà chỉ cốt ở đó có thêm một vài người
nữa.
- Ở đó
lấy thêm bao nhiêu người chẳng được!
- Nhưng
không phải là những người có thể tin cậy được hoàn toàn. Chính anh nói ở đó cần
ít nhất là hai người tin cẩn. Nếu một mình Đô-mi-ki-nô đã không làm nổi thì một
mình anh cũng không làm nổi. Tính mệnh anh đang treo đầu sợi tóc, anh hoạt động
bí mật rất khó, chính anh cần có người giúp đỡ hơn ai hết. Anh định làm việc
với Đô-mi-ni-ki-nô, bây giờ em thay Đô-mi-ni-ki-nô làm việc với anh.
Ruồi
Trâu cau mày nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Phải,
Giê-ma nói đúng, và càng đi sớm chừng nào càng tốt. Nhưng chúng mình không nên
đi cùng một lúc. Nếu tối nay tôi đi, thì Giê-ma nên đợi đến chiều mai chẳng hạn
rồi hẵng lên xe ngựa.
- Thế em
nên đi hướng nào?
- Việc
đó cần bàn. Tôi thì tốt nhất là đi thẳng tới Pha-en-sta(1). Đêm nay tôi đi đến
Xan Lô-ren-dô, cải trang ở đó rồi lại đi luôn.
Giê-ma
cau mày lo lắng:
- Cũng
chẳng có cách nào hay hơn nữa nhỉ? Đã đi gấp lại cải trang ở chỗ những người
buôn lậu như thế thì rất là mạo hiểm. Ít nhất cũng phải vài ba ngày ròng rã anh
mới tới được biên giới, vì phải đi vòng vèo cho khỏi lộ vết tích.
Ruồi
Trâu mỉm cười đáp:
- Điều
đó Giê-ma đừng sợ. Nếu chúng bắt tôi thì bắt ở xa hơn nữa kia, chứ không thể
bắt ở biên giới được. Một khi đã ở trong núi thì tôi cũng an toàn chẳng kém gì
ở đây. Không một người buôn lậu nào ở A-pe-nanh phản lại tôi đâu. Nhưng còn
Giê-ma, tôi chưa hiểu Giê-ma sẽ vượt biên giới bằng cách nào.
- Việc
ấy không khó gì! Em sẽ lấy hộ chiếu của Lu-i-da Rai-tơ để đi lên núi nghỉ m>
Ở Rô-ma-nha, không ai không biết em, còn anh thì tên mật thám nào cũng rõ.
- Và may
mắn thay người buôn lậu nào cũng biết tôi nữa.
Giê-ma
nhìn đồng hồ:
- Hai
rưỡi rồi. Nếu anh định đi ngay đêm nay thì chỉ còn chiều và tối nay nữa thôi.
- Vậy
tôi phải về nhà sửa soạn ngay và phải tìm được một con ngựa cho tốt. Tôi sẽ đi
ngựa tới Xan Lô-ren-dô. Như thế an toàn hơn.
-Thuê
ngựa không phải là chuyện an toàn đâu anh ạ. Chủ ngựa sẽ...
- Không
phải thuê. Một người tin cẩn sẽ cho tôi mượn ngựa. Người này trước đã từng giúp
tôi. Hai tuần sau tôi sẽ cho một người chăn cừu mang ngựa về trả... vậy chừng
năm giờ hoặc năm rưỡi thtôi sẽ trở lại đây. Trong thời gian ấy, Giê-ma nên đi
tìm Mác-ti-ni và nói cho anh ấy rõ.
Giê-ma
quay lại, ngạc nhiên nhìn anh:
-
Mác-ti-ni à?
- Phải.
Chúng mình cần cho anh ấy biết việc chúng mình làm nếu Giê-ma không tìm được
người nào khác.
- Em
không hiểu tại sao phải làm như thế?
- Chúng
ta cần có người tin cẩn ở đây để đề phòng trường hợp khó khăn bất trắc. Trong
những bạn bè ở đây, tôi tin Mác-ti-ni hơn hết. Dĩ nhiên Ri-các-đô cũng hết sức
tận tâm, nhưng Mác-ti-ni chắc chắn hơn. Giê-ma biết Mác-ti-ni hơn tôi nhiều...
Giê-ma quyết định đi.
- Em
cũng tin chắc rằng Mác-ti-ni là người rất đáng tin cậy và có khả năng về mọi
mặt. Và em chắc Mác-ti-ni cũng sẵn lòng giúp chúng ta. Nhưng...
Ruồi
Trâu hiểu ngay:
- Giê ma
thử nghĩ xem, nếu một đồng chí khác gặp cơn hoạn nạn nhưng không dám nhờ Giê-ma
giúp đỡ vì sợ làm cho Giê-ma đau lòng, thì Giê-ma cảm thấy thế nào? Và liệu như
thế có tốt hay không?
Giê-ma
im lặng giây lát rồi nói:
- Thôi
được, em cho Kê-ti mời ngay Mác-ti-ni đến. Còn em thì đến nhà Lu-i-da mượn hộ
chiếu. Chị ấy đã hứa sẵn sàng cho mượn bất cứ lúc nào... Còn tiền nong thì sao
hở anh? Em có phải ra ngân hàng lấy tiền không?
- Thôi,
kẻo mất thì giờ. Tiền tôi cũng khá đủ cho cả hai chúng ta rồi, bao giờ cạn sẽ
dùng tới tiền của Giê-ma. Vậy ta sẽ gặp nhau lúc năm giờ rưỡi nhé. Lúc ấy
Giê-ma có nhà chứ?
- Tất
nhiên. Em sẽ về sớm hơn anh nhiều.
Sáu giờ,
Ruồi Trâu đến thì thấy Giê-ma và Mác-ti-ni ở ngoài hiên. Anh đoán biết câu
chuyện giữa hai người rất nặng nề vì vẻ xúc động vẫn còn lộ rõ trên nét mặt của
họ. Mác-ti-ni trầm lặng và không vui một cách khác thường.
Giê-ma
ngước nhìn Ruồi Trâu hỏi:
- Xong
cả rồi chứ, anh?
Ruồi
Trâu đáp:
- Phải,
tôi mang tiền đi đường lại cho Giê-ma đây. Một giờ đêm, ngựa sẽ chờ tôi ở trạm
cầu Rô-xô.
- Như
thế có muộn quá không anh? Anh phải tới Xan Lô-ren-dô trước khi trời sáng,
trước khi mọi người ngủ dậy kia mà?
- Kịp chán.
Ngựa tốt lắm. Vả lại tôi không muốn có người biết lúc tôi ra đi. Tôi không trở
về nhà nữa. Bây giờ mật thám đang rình trước cửa nhà tôi, tưởng tôi vẫn còn ở
nhà.
- Anh
lén ra thế nào mà hắn không trông thấy?
- Tôi
trèo qua cửa sổ nhà bếp tót ra vườn sau, rồi trèo qua tường sang vườn nhà bên
cạnh. Vì thế tôi đến muộn một chút. Suốt tối nay người chủ ngựa sẽ thắp đèn
ngồi trong phòng làm việc của tôi. Mật thám trông thấy ánh đèn và bóng người sẽ
yên trí rằng tôi đang viết lách ở nhà.
- Vậy
chưa đến giờ lên đường thì anh cứ ở lại đây nhé!
- Vâng,
tôi cũng không muốn ra ngoài phố cho người ta trông thấy. Mác-ti-ni, ta hút với
nhau một điếu xì gà nào. Tôi biết bà Bô-la không cấm chúng ta hút thuốc đâu.
- Tôi
cũng chẳng ngồi đây nữa đâu mà cấm. Tôi phải giúp Kê-ti làm bếp đây.
Giê-ma
vừa đi khỏi thì Mác-ti-ni đứng dậy, chắp tay sau lưng đi bách bộ trong phòng.
Ruồi Trâu lặng lẽ hút thuốc nhìn mưa rơi lâm thâm ngoài cửa sổ.
-
Ri-va-rét!
Mác-ti-ni
dừng bước trước mặt Ruồi Trâu, nhưng mắt vẫn nhìn xuống đất:
- Anh
định lôi kéo chị ấy vào chuyện gì thế?
Ruồi
Trâu rút điếu xì gà khỏi môi, phà ra một làn khói dài và chậm rãi trả lời:
- Quyết
định là ở chị ấy. Chẳng ai ép chị ấy làm chuyện gì cả.
- Phải,
phải, tôi hiểu. Nhưng anh hãy cho tôi biết...
Rồi anh
nín lặng.
- Cái gì
có thể nói tôi sẽ nói hết với anh.
- Tôi
rất ít biết chuyện anh làm ở trên núi. Nhưng tôi chỉ cần anh cho biết chị ấy có
phải trải qua nhiều nguy hiểm lắm không?
- Anh
muốn biết sự thật chứ?
- Lẽ dĩ
nhiên.
- Phải,
rất nguy hiểm.
Mác-ti-ni
quay đi, hết bước ngang lại bước dọc. Rồi anh lại dừng bước:
- Còn
một câu hỏi nữa. Câu hỏi này lẽ dĩ nhiên anh có thể không trả lời, nhưng nếu
anh muốn trả lời thì xin hãy trả lời cho thật: Anh có yêu Giê-ma không?
Ruồi
Trâu điềm nhiên vẩy tàn thuốc lá rồi lại lặng hút.
- Thế
nghĩa là... anh không muốn trả lời câu hỏi của tôi?
- Không,
tôi muốn trả lời. Nhưng tôi có quyền biết tại sao anh hỏi chuyện ấy?
- Trời
ơi! Anh mà không hiểu tại sao?
Ruồi
Trâu đặt điếu xì gà xuống, chăm chú nhìn thẳng vào mắt Mác-ti-ni:
- À, ra
thế!
Rồi anh
dịu dàng và chậm rãi nói tiếp:
- Phải,
tôi yêu Giê-ma. Nhưng anh đừng tưởng tôi sẽ tỏ tình với Giê-ma hoặc bận tâm về
chuyện đó đâu. Tôi chỉ sắp...
Những
tiếng cuối cùng của anh tắt dần và nhẹ như một hơi thở. Mác-ti-ni tiến lại gần:
- Anh
chỉ sắp làm sao?
- Chỉ
sắp chết.
Ruồi
Trâu nhìn thẳng về phía trước, đôi mắt lạnh lùng và đờ đẫn như đã chết rồi. Và
khi anh cất tiếng nói tiếp thì giọng anh đều đều, mất hết sức sống.
- Anh
không nên làm cho Giê-ma lo âu quá sớm. Tôi không hy vọng gì sẽ trở về được vẹn
toan. Việc này nguy hiểm cho mọi người. Tôi hiểu và Giê-ma cũng thừa hiểu điều
đó. Nhưng những người buôn lậu sẽ dùng mọi cách để Giê-ma khỏi bị bắt. Mặc dù
hơi thô lỗ nhưng họ đều là những người đồng đội rất tốt. Còn tôi thì cổ tôi đã
đút vào tròng từ lâu rồi. Vượt qua biên giới tôi chỉ còn việc rút thòng lọng mà
thôi.
-
Ri-va-rét! Thế là thế nào? Tất nhiên tôi biết việc này nguy hiểm, nhất là nguy
hiểm cho anh. Nhưng anh qua lại biên giới luôn luôn, lần nào cũng trót lọt cả.
- Phải,
nhưng lần này tôi sẽ sa lưới.
- Tại
sao thế? Tại sao anh lại biết trước như vậy?
Ruồi
Trâu nhăn nhó mỉm cười
- Anh
còn nhớ câu chuyện thần thoại nước Đức không? Chuyện một người chết vì gặp
người thứ hai giống hệt mình ấy mà! Không biết ? Chuyện như thế này: một đêm
anh ta gặp người này ở một nơi vắng vẻ... người này đang hết sức đau đớn trong
cơn tuyệt vọng và cái chết đã đến với anh ta. Vừa qua, tôi cũng gặp người giống
y như tôi ở A-pe-nanh, vì thế lần này tôi vượt biên giới thì không hòng trở lại
đâu.
Mác-ti-ni
lại gần anh, tay đặt lên ghế.
-
Ri-va-rét, anh nghe tôi. Tôi chẳng hiểu gì về câu chuyện siêu hình của anh cả,
nhưng tôi tin chắc một điều là: nếu anh đã cảm thấy trước như thế thì anh không
nên đi nữa. Chưa đi mà đã nghĩ rằng mình sẽ thất bại thì thế nào cũng bị sa
lưới. Chắc anh ốm hoặc có điều gì lo lắng nên mới nghĩ vớ vẩn như thế. Thôi anh
hãy ở lại đi, để tôi đi cho. Tôi sẽ làm việc đúng như ý anh. Anh chỉ việc viết
cho tôi một bức thư giới thiệu với các đồng chí của anh...
- Để anh
chết thay tôi à? Gớm, anh khôn quá nhỉ!
- Tôi
không chết được đâu! Ở đó chúng có biết tôi như anh đâu! Mà nếu có chết chăng
nữa thì...
Mác-ti-ni
nín lặng, và Ruồi Trâu từ từ ngước mắt nhìn anh như muốn dò hỏi điều gì. Bàn
tay Mác-ti-ni thõng xuống cạnh ghế. Anh nói một cách hết sức thực tế:
- Mất
anh, Giê-ma sẽ khổ nhiều hơn là mất tôi. Hơn nữa, Ri-va-rét ạ, việc này là việc
chung. Chỉ có một lối giải thoát duy nhất thôi, là làm sao đem lại lợi ích
nhiều nhất cho tuyệt đại đa số người. Nói theo các nhà kinh tế học thì
"giá trị cuối cùng" của anh cao hơn "giá trị cuối cùng" của
tôi. Tôi cũng còn đủ thông minh để hiểu điều đó. Mặc dù tôi không thích anh
lắm. Con người của anh lớn hơn con người của tôi. Anh và tôi ai tốt hơn, điều đó
tôi chưa rõ, nhưng anh có nhiều ưu điểm hơn tôi, và nếu anh chết đi thì tổn
thất nhiều hơn.
Mác-ti-ni
nói những câu đó y như người mặc cả cổ phần trong thị trường chứng khoán. Ruồi
Trâu nhìn anh, so vai như ớn lạnh:
- Anh
muốn tôi cứ chờ đợi để nấm mồ đến cướp tôi đi hay sao?
Ví bằng
ta phải chết
Thì ta
sẽ đón chào bóng đêm như đón chào vị hôn thế (1).
Ông bạn
của tôi ơi, chúng ta nói lăng nhăng nhiều quá rồi đấy!
Mác-ti-ni
bực mình nói:
- Chính
anh nói lăng nhăng thì có!
- Anh
cũng thế. Thôi ta đừng học đòi gương xả thân của Đông Các-lốt và hầu tước Pô-da
nữa.(2) Chúng ta đang sống ở thế kỷ mười chín. Nếu nhiệm vụ của tôi là phải
chết thì tôi sẽ chết.
- Và nếu
nhiệm vụ của tôi là phải sống thì tôi sẽ sống chứ gì? Anh thật là hạnh phúc,
Ri-va-rét ạ!
- Phải,
bao giờ tôi cũng gặp may.
Họ lặng
lẽ hút thuốc rồi cùng nhau bàn bạc tỉ mỉ hành trình sắp tới; và khi Giê-ma đến,
họ vẫn không để lộ ra tí gì tỏ ra rằng câu chuyện vừa rồi giữa họ không phải là
một câu chuyện bình thường.
Ăn xong
cả ba người lại quay ra bàn kế hoạch và chuẩn bị mọi việc cần thiết. Khi đồng
hồ điểm mười một tiếng thì Mác-ti-ni đứng dậy cầm mũ.
- Tôi về
lấy cho anh chiếc áo tơi đi đường, Ri-va-rét ạ. Anh mặc chiếc áo ấy vào thì sẽ
kho nhận hơn là mặc bộ quần áo này. Tiện thể tôi sẽ dò xét xem có mật thám rình
quanh nhà trước khi ta lên đường không
- Anh sẽ
cùng đi với tôi đến trạm à?
- Vâng.
Nếu có kẻ theo dõi thì bốn mắt chúng ta nhìn bảo đảm hơn. Khoảng mười hai giờ
tôi sẽ trở lại. Chờ nhé, tôi chưa đến thì đừng đi vội nhé… Chị Giê-ma ạ, tôi
mang chìa khóa đi để lúc trở lại khỏi gọi chuông phiền phức.
Khi
Mác-ti-ni cầm chùm chìa khóa. Giê-ma ngước mắt nhìn anh. Chị hiểu rằng anh đã
cố ý kiếm cớ để cho chị và Ruồi Trâu ở lại với nhau.
Chị nói:
- Mai
tôi sẽ cùng anh nói chuyện. Mai tôi thu xếp xong chúng ta sẽ có thời giờ
- Vâng,
còn có nhiều thời giờ… Và – Mác-ti-ni nói với Ruồi Trâu – Ri-va-rét ạ, tôi còn
muốn hỏi anh vài việc nhỏ nữa, nhưng để trên đường ra trạm ta sẽ nói sau…
Giê-ma, cho Kê-ti đi ngủ đi thôi và ả hai người nói khẽ chứ nhé. Thôi, xin
chào, nửa đêm tôi sẽ trở lại.
Mác-ti-ni
khẽ gật đầu chào và mỉm cười bước xuống thang gác. Anh đóng mạnh cửa ngoài để
hàng xóm biết rằng khách của bà Bô-la đã ra về.
Sau khi
xuống bếp cho Kê-ti về ngru, Giê-ma trở lại, tay bưng một khay cà phê đen…
Chị nói:
- Anh có
muốn ngả lưng một chút không? Đêm nay anh sẽ phải suốt đêm không ngủ đấy.
- Không,
chẳng sao đâu, Giê-ma thân yêu! Đến Xan Lô-ren-dô tôi sẽ ngủ để chờ lấy quần áo
và đồ hóa trang.
- Thế
anh uống cà phê nhé… Anh chò một chút em đi lấy bánh quy.
Chị quỳ
gối trước mặt tủ thức ăn. Ruồi Trâu lại gần và bỗng cúi xuống cạnh chi.
-
Giê-ma, có những gì thế? Sô-cô-la và kẹo ca-ra-men có phải không? Giê-ma sang
trọng như bà hoàng ấy!
Giê-ma
ngước nhìn bộ mặt tươi rói của Ruồi Trâu rồi mỉm cười:
- Anh
cũng thích của ngọt cơ à? Bao giờ em cũng có kẹo để mời Xê-da. Anh ấy thích kẹo
ngọt như trẻ con vậy.
- Thật…
thật à? Thế mai… mai mua cho anh ấy kẹo khác, còn kẹo này Giê-ma cho tôi nhé.
Tôi bỏ kẹo ca-ra-men vào túi. Nó sẽ an ủi tôi, một con người đã mất hết lạc thú
ở đời. Tôi… tôi mong ước trước khi chúng đưa tôi đi treo cổ, tôi còn được một
ít kẹo ca-ra-men để ngậm.
- Chờ em
một chút nhé. Em đi lấy hộp đựng, kẻo ướt ra túi… Thôi, ngồi xuống đi anh, đừng
bông đùa nữa. Chắc rằng từ nay cho đến khi một trong hai chúng ta bị giết,
chúng ta chẳng còn lúc nào nói chuyện ung dung như thế này với nhau được nữa
và…
Ruồi
Trâu khẽ lẩm bẩm:
- À ra
Giê-ma không… không thích sô-cô-la nhỉ!
Rồi anh
nói tiếp
- Vậy
thì tôi sẽ ăn một mình. Chẳng phải là bữa anư thỏa thích trước giờ xử tử đó
sao? Đêm nay Giê-ma phải chiều mọi sự vòi vĩnh của tôi. Trước hết tôi muốn
Giê-ma ngồi vào ghế bành này. Còn tôi thì ngả lưng xuống đây vì Giê-ma đã cho
phép tôi. Như thế này dễ chịu hơn.
Ruồi Trâu
nằm lên thảm trải dưới chân Giê-ma. Tựa tay vào ghế, anh nhìn thẳng vào mặt
chị.
-
Giê-ma, sao mặt Giê-ma tái đi thế! Chắc vì Giê-ma chỉ nhìn thấy mặt bi đát của
cuộc sống và vì không thích sô-cô-la chứ gì…
- Anh
hãy nghiêm chỉnh cho năm phút đi nào! Đây là chuyện sống chết chứ đâu phải
chuyện đùa.
- Hai
phút tôi cũng chẳng thể nghiêm chỉnh được đâu, Giê-ma thân yêu! Dù sống, dù
chết cũng chẳng lúc nào nên nghiêm nghị.
Ruồi
Trâu nắm lấy tay chị và vuốt ve đôi bàn tay ấy.
- Nữ
thần Mi-néc-vơ (1), xin bà đừng nghiêm nghị như thế. Tôi khóc lên bây giờ thì
bà sẽ phải thương tôi. Tôi muốn bà mỉm cười. Giê-ma có nụ cười vui, hồn nhiên
lắm… Chớ, chớ có mắng tôi, Giê-ma thân yêu ạ! Ta ăn bánh đi, ăn như hai đứa trẻ
ngoan ấy và đừng tranh giành nhau nhé, vì ngày mai chúng ta sẽ phải chết rồi.
Ruồi
Trâu lấy một chiếc bánh chia hai thật đều và cố bẻ cho phần nào cũng có nhân
đường
- Nào,
chúng ta cùng nhau chịu lễ đi, như người ta vẫn thường thường chịu lễ trong nhà
thờ vậy. “Này là mình tao, bay hãy nhận lấy mà ăn” (2). Và chúng ta phải uống…
uống chung một cốc rượu… Phải, phải, như thế đấy. “Bay hãy làm việc này nhớ đến
tao”.
Giê-ma
đặt cốc len bàn và nói bằng một giọng gần như nức nở.
- Thôi,
anh ơi!
Ruồi
Trâu nhìn Giê-ma và nắm lấy tay chị
- Thế
thôi nhé ! Yên tĩnh một lúc nhé! Nếu một trong hai ta chết đi thì người còn lại
hãy nhớ lấy giây phút này nhé. Chúng ta hãy quên đi, quên thế giới huyên náo
này, đừng để nó làm bận tai ta nữa, chúng ta sẽ dắt tay nhau tới những cung
điện bí ẩn của thần chết, và sẽ ngả xuống yên nghỉ ngàn thu giữa những đóa hoa
anh túc rắc đầy bốn phía. Ồ, lúc đó chúng ta mới thật là yên tĩnh.
Ruồi
Trâu ngả đầu vào lòng chị và lấy tay bưng lấy mặt.
Giê-ma
lặng lẽ cúi xuống vuốt mái tóc đen nhánh của anh. Thời gian cứ thế lặng lẽ trôi
qua… hai người vẫn ngồi yên, không nói nửa lời.
Cuối
cùng Giê-ma cất tiếng. Ruồi Trâu ngửng đầu lên.
- Anh
thân yêu, sắp nửa đêm rồi. Chúng ta chỉ còn vài phút nữa thôi. Mác-ti-ni sắp
trở lại. Có lẽ không bao giờ chúng ta còn được trông thấy nhau nữa. Chẳng lẽ
lúc này anh không có gì để nói với em cả ư?
Ruồi
Trâu từ từ đứng dậy, đi về phía cuối phòng. Họ im lặng trong giây lát.
Tiếng
nói của Ruồi Trâu chỉ như một hơi thở:
- Tôi sẽ
chỉ nói một điều thôi. Tôi sẽ nói với Giê-ma một điều…
Ruồi
Trâu nghẹn lời, ngồi bên cửa sổ, hai tay bưng lấy mặt. Giê-ma dịu dàng nói:
- Mãi
đến giờ đây anh mới thương em.
- Vì
cuộc đời tôi cũng có mấy lúc được yêu thương đâu. Lúc đầu tôi… tôi tưởng
Giê-ma… biết cũng chẳng để làm gì.
- Bây
giờ anh không nghĩ như thế nữa chứ, hở anh?
Không
đợi trả lời, Giê-ma tiến lại, đứng sát vào người anh. Chị thủ thỉ:
- Nói
thật đi anh! Vì nếu như lúc anh chết, em không có mặt ở đó, thì đến phút hai
tay buông xuôi em vẫn không tin chắc rằng…
Ruồi
Trâu nắm tay chị và ghì chặt lấy:
- Nếu
tôi chết… Giê-ma ơi, Giê-ma có biết không, lúc tôi đi sang Nam Mỹ… Ô kìa,
Mác-ti-ni đã đến rồi!
Ruồi
Trâu vùng dậy rời khỏi Giê-ma và mở rộng cửa phòng. Mác-ti-ni chùi giày cẩn
thận vào chiếc thảm con.
- Con
người lúc nào cũng đúng giờ, đúng… đúng từng phút một! Mác-ti-ni, anh thật là
một chiếc đồng hồ sống. Áo tơi đi… đi đường của anh đây phải không?
- Phải,
còn một vài thứ lặt vặt nữa. Tôi đã cố giữ cho khỏi ướt, nhưng trời cứ mưa tầm
tã. Đêm nay anh đi vất vả lắm đấy!
- Có hề
chi! Sao, ngoài phố thế nào anh, yên tĩnh cả chứ?
- Vâng.
Chắc mật thám về ngủ cả rồi. Trời sao mà xấu thế này, lạ thật… Cà phê đấy à,
chị Giê-ma? Chị phải cho anh Ri-va-rét uống cái gì thật nóng, kẻo đi mưa rất dễ
bị cảm lạnh.
- Cà phê
đen đấy. Đặc lắm. Để tôi đi đun ít sữa nhé.
Giê-ma
lủi thủi xuống bếp. Chị nghiến chặt răng và nắm chặt hai tay để khỏi bật ra
tiếng khóc. Khi Giê-ma mang sữa lên thì Ruồi Trâu đã khoác áo tơi và đang đi
ủng da do Mác-ti-ni cho mượn. Ruồi Trâu đứng uống cạn chén cà phê rồi cầm lấy
chiếc mũ rộng vành.
-
Mác-ti-ni, đến giờ rồi. Chúng ta phải đi đường vòng để tới trạm cho chắc chắn…
Thôi, xin tạm biệt Giê-ma. Nếu không có gì xảy ra, thứ sáu này tôi sẽ gặp
Giê-ma ở Phoóc-li.(3) Chờ một chút nhé, địa… địa chỉ đây.
Ruồi
Trâu giở sổ tay xé một tờ giấy và lấy bút chì viết mấy chữ.
Giê-ma
trả lời, giọng đều đều, yếu ớt:
- Địa
chỉ đó tôi có rồi, anh ạ.
- Thế à?
Không… không sao, Giê-ma cứ cầm thêm cho chắc chắn… Nào chúng ta lên đường,
Mác-ti-ni, suỵt, khẽ chứ! Đừng để cửa cọt kẹt một chút nào hết.
Họ thận
trọng bước xuống đường. Cửa ngoài khép chặt. Khi trở về phòng, Giê-ma bất giác
nhìn mẩu giấy Ruồi Trâu vừa dúi vào tay chị. Bên dưới địa chỉ viết:
“Khi gặp
nhau tôi sẽ nói hết với Giê-ma”.
---
------ ------ ----
(1) Pha-en-tsa - một thành phố lớn ở Ý nổi
tiếng về làm đồ gốm
(1) Mi-néc-vơ – Trong thần thoại Hy Lạp,
Mi-néc-vơ là nữ thần của trí khôn ngoan, nữ thần của nghệ thuật, khoa học và
công nghệ, và cũng được coi như vị thần hướng dẫn người ta trong thảm họa chiến
tranh.
(2) “Này là mình tao…” Câu nguyện khi làm phép
bánh thánh
(3) Phoóc-li - một thành phố ở Rô-ma-nha.
RUỒI
TRÂU
Chương
20
Hôm nay
là phiên chợ ở Bơ-ri-xi-ghê-la. Nông dân các xóm làng lân cận nườm nượp đổ về
khu chợ. Người thì mang lợn gà, người thì mang bơ, sữa, có người dong cả những
đàn gia súc vùng núi ngang tàng. Từng đoàn lũ lượt đi lại trên sân chợ, cười
đùa, mặc cả, mua những quả khô, bánh nước rẻ tiền và hạt quỳ. Những trẻ em da
cháy nắng, chân không guốc dép, nằm sấp bụng giữa đường cái, dưới ánh nắng gay
gắt, còn các bà mẹ của chúng thì ngồi cạnh những giỏ trứng và bơ dưới gốc cây.
Hồng y giáo
chủ Mông-ta-ne-li ra chợ để hỏi thăm giáo dân. Đám trẻ con ồn ào liền xúm lại.
Chúng tranh nhau dâng cho Hồng y giáo chủ những bó hoa chim én, hoa anh túc
thắm đỏ và thủy tiên trắng thơm ngát hái trên sườn núi. Ai cũng thông cảm tính
yêu hoa dại của Hồng y giáo chủ, coi đó là một nhược điểm của sự ham chuộng mà
người thông minh tài trí nào cũng thường mắc phải. Nếu một kẻ khác làm như
Mông-ta-ne-li, chất cỏ hoa cây cối đầy nhà, thì chắc hẳn người ta đã chê cười.
Nhưng “vị Hồng y giáo chủ tốt phúc” này thì được hưởng quyền có một vài sở
thích lạ đời vô hại như thế.
- À,
Ma-ru-tri-a!
Mông-ta-ne-li
dừng bước cạnh một cô bé, xoa đầu nó.
- Mới từ
dạo ấy đến nay mà con đã chóng lớn quá nhỉ! Thế bà con còn bị tê thấp nữa
không?
- Trình
đức cha, bà con đỡ rồi ạ. Nhưng mẹ con lại bị ốm.
- Khổ
chưa! Bảo mẹ con hôm nào đến nhà ông y sĩ Goóc-đa-ni để ông ấy khám cho. Còn ta
thì sẽ tìm cho mẹ con một chỗ ở đâu đây. May ra mà khỏi được. Lui-gi! Mắt con
thế nào, đỡ rồi chứ?
Mông-ta-ne-li
đảo khắp sân chợ, hỏi chuyện những người dân miền núi. Ông ta nhớ đến tên tuổi
con cái họ, nhớ mọi điều không may và mọi nỗi đau khổ của họ, ân cần hỏi thăm
cả con bồ mới ốm hôm lễ Nô-en, cả con búp bê bằng vải bị nghiến nát dưới bánh
xe phiên chợ trước. Khi ông trở về lâu đài của mình thì phiên chợ đang giữa lúc
náo nhiệt nhất. Một người chân khập khiễng, mình mặc áo sơ mi xanh, má có một
vết sẹo, tóc đen nhánh xõa xuống mắt, bước tới một quầy hàng. Anh ta hỏi mua
nước chanh bằng một thứ tiếng Ý lơ lớ.
Bà hàng
nước vừa rót nước vừa liếc nhìn anh:
- Hình
như ông không phải người ở đay?
- Không
phải người ở đây. Tôi ở đảo Coóc-xơ (1) đến.
- Ông đi
tìm công ăn việc làm à?
- Vâng,
sắp đến mùa cắt cỏ rồi. Có một ông chủ ấp ở gần Ra-ve-na (2) mới đến Ba-sti-a
(3) nói với tôi rằng ở đó có nhiều việc làm lắm.
- Tôi
cũng cầu trời phù hộ cho ông. Ở đây đang thời buổi khó khăn lắm.
- Mẹ ơi,
ở Coóc-xơ còn khó khăn gấp máy nữa ấy chứ. Chẳng biết dân nghèo chúng ta rồi sẽ
ra sao…
- Ông
đến đây có một mình thôi à?
- Không,
còn một anh bạn nữa. Kìa, cái anh mặc áo sơ mi đỏ kia kìa… Hola, Paolo! (4)
Nghe
gọi, Mi-ke-lê thọc hai tay vào túi, lê bước tới quầy hàng. Mặc dầu có bộ tóc
giả hung hung phủ trên đầu, anh vẫn giống một người Coóc-xơ chính cồng. Còn
Ruồi Trâu thì lại giống như đúc.
Hai
người từ từ bước trên sân chợ. Mi-ke-lê khẽ huýt sáo miệng. Ruồi Trâu thì mang
khăn gói nặng trên vai, đi lom khom và cố lê bước chân để giấu dáng khập
khiễng. Hò nóng lòng chờ đợi một đồng chí đến để nhận những chỉ thị quan trọng
mà họ sẽ truyền đạt. Bỗng Mi-ke-lê thì thầm:
- Kìa,
Mác-cô-nê đi ngựa đến góc chợ kia kìa.
Ruồi
Trâu vác khăn gói lê về phía đó.
Anh đưa
tay lên chiếc mũ rách, rồi sờ vào cương ngựa, hỏi:
- Thưa
ông, ông có mướn người cắt cỏ không ạ?
Đó là
mật hiệu. Người cưỡi ngựa trông ra vẻ chủ ấp nhảy xuống đất, vắt cương lên cổ
ngựa.
- Anh
biết làm nghề gì?
Ruồi
Trâu vò chiếc mũ trong tay.
- Thưa
ông, cắt cỏ, xén bờ rào…
Và anh
nói tiếp, không đổi giọng:
- Một
giờ đêm nay ở cửa hang tròn. Cần hai con ngựa tốt và một chiếc xe. Tôi đợi ngay
trong hang. Thưa ông, ngoài ra tôi còn biết đào đất… và…
- Thôi,
được rồi. Tôi cần một người cắt cỏ. Anh đã từng đi làm ở tỉnh ngoài bao giờ
chưa?
- Thưa
ông, có đi một lần rồi ạ!… Phải trang bị cẩn thận nhé. Có thể gặp kỵ binh cơ
động đấy. Đừng đi đường rừng, đi đường kia an toàn hơn. Nếu gặp mật thám thì
bắn ngay, không cần nhiều lời… Thưa ông, đội ơn ông nhận cho vào làm việc, tôi
mừng lắm,…
- Thôi,
thế là được! Nhưng tôi cần người cắt cỏ cho tốt đấy… Hôm nay tôi không có tiền
lẻ, ông lão ạ.
Một
người ăn mặc rách rưới tiến gần lại họ, kéo dài giọng đều đều, thiểu não:
- Kính
lạy đức Bà rất thánh, xin các ông các bà thương cho kẻ mù lòa… các đồng chí đi
ngay thôi, kỵ binh đến đấy… Kính lạy nữ vương trên trời rất thành, kính lạy đức
nữ đồng trinh… Ri-va-rét, chúng lùng bắt anh đấy, Ri-va-rét… hai phút nữa chúng
sẽ ập đến đây… Xin các thánh phù hộ các ông các bà… Các đồng chí phải phá vòng
vây mà ra, mật thám như rươi ấy, không lẻn ra được đâu.
Mác-cô-nê
dúi cương ngựa vào tay Ruồi Trâu:
- Mau
lên! Phóng ra phía cầu, vứt ngựa ở đấy rồi núp xuống vực. Chúng tôi có vũ khí
cả, sẽ cản chúng lại trong mươi phút.
- Không,
tôi không thể nào bỏ các đồng chí. Tập hợp ngay lại, bắn theo tôi. tiến về phía
cửa lâu đài, ngựa đã buộc sẵn ở đấy. Và rút dao sẵn sàng ra. Ta vừa đánh vừa
lui. Khi tôi vứt mũ xuống đất thì các đồng chí cắt dây thừng, nhảy lên yên
ngay. Có lẽ tất cả chúng ta đều kịp chạy thoát tới rừng bằng cách đó.
Họ nói
thầm với nhau rất bình tĩnh, bình tĩnh đến nỗi ngay những người đứng sát bên
cạnh cũng không thể ngờ rằng họ đang bàn tán một chuyện khác quan trọng hơn
chuyện cắt cỏ.
Mác-cô-nê
cầm cương, dắt ngựa về phía cửa lâu đài, nơi buộc các con ngựa khác. Ruồi Trâu
thất thểu đi bên cạnh, còn người ăn mày thì vẫn chìa tay, không ngớt mồm van
lơn thiểu não và bước theo. Mi-ke-lê vừa huýt sáo miệng vừa đi theo kịp cả bọn.
Lúc ấy người ăn mày vừa kịp rỉ tai với Mi-ke-lê và anh liền đi báo tin cho ba
người nông dân đang ngồi ăn hành tây sống dưới gốc cây. Ba người này lập tức
đứng dậy đi theo.
Thế là
cả bảy người đã ra đứng ở bậc cửa lâu đài, không bị một ai ngờ vực. Người nào
người nấy đều thủ sẵn súng ngắn trong ngực. Ngựa buộc ở cạnh cửa, chỉ cách họ
có vài bước.
Ruồi
Trâu nói khẽ khàng nhưng rành rọt từng lời:
- Tôi
chưa ra hiệu thì chứ nên để lộ mặt. Rất có thể chúng không biết chúng ta. Hễ
tôi bắn thì các đồng chí nổ súng ngay. Nhưng đừng bắn vào người, cứ nhằm vào
ngựa mà bắn, thì chúng mới không thể nào đuổi được chúng ta. Ba người bắn còn
ba người khác thì nạp đạn. Hễ tên nào đứng chắn ta và ngựa thì hạ thủ ngay lập
tức. Tôi sẽ cưỡi con ngựa đốm kia. Thấy tôi vứt mũ xuống đất thì các đồng chí
cứ việc rút lui theo kế hoạch, không cần chờ đợi gì cả.
Bỗng
Mi-ke-lê nói:
- Chúng
đến kia rồi
Phiên
chợ bỗng dưng nhốn nháo. Ruồi Trâu quay lại, ngơ ngác. Mười lăm tên kỵ binh vũ
trang từ một ngõ hẻm xông thẳng vào chợ. Chúng lách bừa giữa đám đông, và nếu
không có lười mật thám bao vây thì bảy chiến sĩ cách mạng bí mật đã có thể rút
lui dễ dàng, nhất là trong lúc đám đông còn mải nhìn đội kỵ binh.
Mi-ke-lê
nhích lại gần Ruồi Trâu:
- Ta
chạy thôi chứ?
- Không
thể được, khó thoát lắm, chúng ta đã bị mật thám bủa vây. Một tên chó săn vừa
nhận ra tôi. Kìa, hắn đã cho người đến báo viên đội trưởng rồi. Giờ chỉ còn một
cách nổ súng bắn vào ngựa.
- Thằng
chó săn ấy đâu hở anh?
- Tôi sẽ
bắn nó trước nhất. Sẵn sàng cả chưa? Chúng đã tiến về phía chúng ta và sắp tấn
công đấy.
Tên đội
trưởng kỵ binh hét:
- Giãn
ra! Nhân danh đức Thánh, ta ra lệnh giải tán.
Đám đông
hoảng hốt giạt ra và đội lính xô vào nhóm người đứng trước cửa lâu đài. Ruồi
Trâu rút súng ra khỏi áo, không bắn vào đội kỵ binh đang tiến đến mà bắn luôn
vào tên mật thám đang mon men tới chỗ buộc ngựa. Xương quai xanh gẫy vụn, tên
mật thám ngã lăn ra. Cùng lúc đó sáu phát súng thi nhau nổ, các chiến sĩ cách
mạng tiến dần tới chỗ buộc ngựa.
Một con
ngựa trong đội kỵ binh nhảy chồm lên và giạt sang một bên. Một con khác ngã lăn
ra kêu rống lên. Những tiếng ầm ĩ trong đám đông rồi loạn ấy vẫn không át được
tiếng tên sĩ quan đang oang oang ra lệnh. Hắn ta đứng lên bàn đạp rồi vung
gươm:
- Lại
đây! Theo ta!
Bỗng hắn
loạng choạng trên yên ngựa rồi ngã gục xuống. Ruồi Trâu lại nổ súng và bắn
không sai một phát. Một dòng máu nhỏ đã tuôn ra trên binh phục của tên đội
trưởng, nhưng hắn ráng hết sức điên cuồng, tay bám chặt bờm ngựa, rướn người,
gân cổ hét:
- Không
bắt sống được thằng quỷ thọt kia thì giết nó đi! Chính nó là Ri-va-rét đấy!
Ruồi
Trâu lên tiếng gọi các đồng chí của mình:
- Đưa
súng đây, mau lên! Và lên ngựa!
Rồi anh
ném mũ xuống đất. Rất đúng lúc. Những lưỡi gươm điên cuồng của kẻ địch đã loang
loáng trên đầu anh.
- Mọi
người bỏ cả vũ khí xuống!
Bóng
Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li bỗng hiện ra giữa hai bên đang chiến đấu. Một tên
lính hoảng hốt kêu lên:
- Đức
Hồng y! Trời ơi, họ giết chết Người mất!
Nhưng
Mông-ta-ne-li đã tiến lên bước nữa và đứng trước mũi súng của Ruồi Trâu.
Trong số
bảy người, năm người đã lên ngựa và phóng ngược lên đường phố dốc. Mác-cô-nê
vừa kịp nhảy lên yên. Nhưng trước khi thúc ngựa anh còn ngoảnh lại xem cần giúp
đỡ gì thủ lãnh của mình không. Con ngựa đốm đứng ngay gần đó. Chỉ nháy mắt nữa
là cả bảy người sẽ trốn thoát. Nhưng khi bóng người mặc áo choàng đỏ tiến lên
thì Ruồi Trâu bỗng do dự, khẩu súng trong tay từ từ hạ xuống. Khoảnh khắc ấy
quyết định hết thảy. Kỵ binh lập tức vây kín lấy anh, xô anh ngã xuống. Một tên
lính lấy gươm chém bật khẩu súng khỏi tay Ruồi Trâu. Mác-cô-nê thúc ngựa. Tiếng
vó ngựa dồn dập đuổi theo cách anh có vài bước. Ở lại không ích lợi gì nữa.
Ngồi trên yên anh còn xoay người lại, bắn một phát cuối cùng vào giữa mặt tên
lính đuổi sát sau anh. Giữa lúc đó, anh trông thấy Ruồi Trâu. Bộ mặt Ruồi Trâu
đẫm máu. Ngựa, lính và mật thám nhảy xổ vào giày xéo người anh, Mác-cô-nê nghe
rõ tiếng chửi rủa căm hờn xen lẫn tiếng reo đắc thắng. Mông-ta-ne-li không nhìn
thấy sự việc vừa xảy ra trước mắt. Ông mải lo phủ dụ đám người đang nhốn nháo
lên vì hoảng sợ, rồi cúi xuống nhìn tên mật thám bị thương. Nhưng đám người
bỗng xôn xao làm cho ông ta phải ngẩng đầu lên.
Đội lính
diễu qua chợ, kéo theo sau một người bị trói tay. Mặc dù mặt xám ngoét và thở
hồng hộc gấp gáp vì đau đớn và mệt lả, người ấy vẫn ngoái lại phía
Mông-ta-ne-li, đôi môi nhợt nhạt mỉm cười chua chát, người ấy khẽ nói:
- Thưa
đức Hồng y, tôi… tôi chúc mừng ngài…!
Năm ngày
sau Mác-ti-ni tới Phoóc-li. Giê-ma gửi cho anh một tập hình quảng cáo theo
đường bưu điện. Mật hiệu ấy có nghĩa là tình hình đòi hỏi anh phải có mặt ngay
tại chỗ. Mác-ti-ni sực nhớ tới buổi chuyện trò trên sân gác hôm nọ và đã đoán
ngay được sự thật. Suốt dọc đường anh luôn nhủ mình không có lý do gì để lo
lắng rằng Ruồi Trâu đã gặp nạn. Những ý nghĩ ngông cuồng, ngây ngô của con
người nhiều tưởng tượng ấy thì chú ý làm gì? Nhưng càng tự an ủi mình bao nhiều
thì anh lại càng nghĩ chính Ruồi Trâu đã gặp điều không may bấy nhiêu.
Bước vào
phòng Giê-ma, anh hỏi:
- Tôi
đoán biết là việc gì đã xảy ra, Ri-va-rét bị bắt rồi có phải không chị?
- Bị bắt
hôm thứ năm vừa rồi ở Bơ-ri-xi-ghê-la. Trước khi bị bắt anh ấy chống cự đến
phút cuối cùng, bắn bị thương tên đội trưởng kỵ binh và một thằng chó săn.
- Chống
chọi bằng súng. Hỏng chuyện rồi!
- Điều
đó không quan trọng. Anh ấy bị chúng theo dõi từ lâu. Dù có bắn thêm phát súng
cũng chẳng can hệ gì.
- Chị có
biết chúng định làm gì anh ta không?
Gương
mặt Giê-ma càng tái xanh tái mét:
- Theo ý
tôi, chúng ta không nên chờ xem chúng sẽ làm gì anh ấy.
- Chị
cho rằng chúng ta có thể cứu thoát anh ấy phải không?
- Nhất
định phải cứu thoát.
Mác-ti-ni
quay đi, chắp tay sau lưng và huýt sáo miệng. Giê-ma để mặc cho anh nghĩ ngợi.
Chị ngồi ngả đầu vào tựa ghế, mắt thờ thẫn, mơ hồ nhìn về phía trước. Vẻ mặt
chị gợi cho người ta nhớ tới bức tranh “Bi thảm” của Đuy-rơ (1).
Mác-ti-ni
dừng bước trước mặt chị, hỏi:
- Chị đã
kịp nói chuyện với anh ấy chưa?
- Chưa,
anh ấy định gặp tôi ở đây sáng hôm sau.
- Vâng,
tôi cũng còn nhớ. Bây giờ anh ấy bị giam ở đâu?
- Trong
pháo đài. Bị lính tráng canh phòng nghiêm ngặt và nghe nói chân tay bị cùm
Mác-ti-ni
nhún vai:
- Điều
đó không sao. Cùm nào cũng có thể dùng giũa mà phá. Miễn là Ruồi Trâu không bị
thương…
- Hình
như có bị thương nhẹ, nhưng bị như thế nào thì cũng chưa rõ… Bảo Mi-ke-lê kể
lại thì rõ hơn vì hôm Ruồi Trâu bị bắt anh ấy cũng ở đấy.
-
Mi-ke-lê làm sao chạy thoát được? Anh ta bỏ mặc Ri-va-rét hay sao?
- Không
phải lỗi tại anh ấy. Anh ấy cũng nổ súng với cả đoàn và chấp hành đúng mọi mệnh
lệnh. Không ai làm sai cả, chỉ trừ có Ri-va-rét. Hình như Ri-va-rét quên đi
hoặc là phút cuối cùng đã sơ hở. Điều đó không thể hiểu được… Anh chờ một chút
tôi đi gọi Mi-ke-lê.
Giê-ma
bước ra khỏi ohòng. Một lát sau chị trở vào với Mi-ke-lê và một dân miền núi
vai rộng.
Chị giới
thiệu:
- Đây là
Mác-cô-nê, một trong những người chuyên chở hàng lậu cho chúng ta. Chắc anh
cũng đã từng nghe tên. Anh ấy vừa mới tới mà có thể bổ sung thêm câu chuyện của
Mi-ke-lê… Mi-ke-lê, đây là Xê-da Mác-ti-ni mà tôi đã nói chuyện với anh. Anh
thấy những gì thì kể cho anh ấy nghe.
Mi-ke-lê
kể lại vắn tắt cuộc chiến đấu giữa các chiến sĩ cách mạng và đội kỵ binh.
Cuối
cùng, anh nói:
- Đến
tận bây giờ tôi vẫn chưa hiểu sự việc đã xảy ra thế nào. Nếu chúng tôi biết
Ri-va-rét có thể bị bắt thì không đời nào chúng tôi chạy cả. Các mệnh lệnh của
anh đều rất chính xác, và chúng tôi không thể ngờ rằng sau khi vứt mũ xuống đất
thì Ri-va-rét ở lại để cho lính bao vây mình. Anh ấy đã đứng ngay bên cạnh
ngựa, chính mắt tôi thấy anh ấy đã cắt dây thừng và chính tay tôi đã đưa cho
anh ấy khẩu súng nạp đạn sẵn rồi tôi mới nhảy lên yên ngựa. Điều duy nhất mà
tôi có thể dự đoán là có lẽ tại chân anh khập khiễng nên anh đã hụt chân không
nhảy lên ngựa được. Nhưng nếu thế thì tại sao lúc ấy anh ấy lại không bắn…
Mác-cô-nê
ngắt lời:
- Không,
không phải thế. Anh ấy cũng không tìm cách nhảy lên ngựa đâu. Con ngựa tôi sợ
súng giạt sang một bên nên tôi chạy sau cùng. Nhưng tôi cũng còn kịp nhìn xem
Ruồi Trâu có chạy thoát được không. Nếu lúc đó không có cái ông Hồng y giáo chủ
thì anh ấy chạy thừa sức đi chứ.
Giê-ma
buột mồm kêu khẽ:
- Thế à!
Còn
Mác-ti-ni thì ngạc nhiên nhắc lại:
- Hồng y
giáo chủ?
- Phải,
cái lão chết tiệt ấy lại nhảy xổ ra đứng ngay trước mũi súng của Ri-va-rét.
Chắc vì anh do dự nên tay phải hạ xuống, tay trái giơ lên… Như thế này này –
Mác-cô-nê đưa tay trái lên ngang tầm mắt- Thế là bọn chúng đổ xô vào.
Mi-ke-lê
nói:
- Tôi
chẳng hiểu ra sao cả. Thật chẳng giống Ri-va-rét ngày thường chút nào. Đến phút
hiểm nghèo thì lại mất bình tĩnh.
Mác-ti-ni
nhận xét:
- Có lẽ
Ruồi Trâu hạ súng vì ngại hạ sát một kẻ tay không chứ gì?
Mi-ke-lê
nhún vai:
- Kẻ tay
không đâm đầu vào giữa chỗ đánh nhau làm gì? Chiến tranh là chiến tranh. Nếu
Ri-va-rét cứ mời giáo chủ xơi một phát đạn, đừng để cho mình bị tóm như một con
thỏ con, thì có phải thế giới này thêm được một người chính trực và bớt được
một lão cố đạo không.
Anh quay
đi, mồm cắn ria mép. Chỉ một tí nữa là anh khóc lên vì tức giận.
Mác-ti-ni
nói:
- Dù sao
thì chuyện đã rồi. Thảo luận mãi mất thời giờ vô ích. Trước mắt cần làm sao tổ
chức cho Ri-va-rét trốn thoát. Tôi chắc mọi người đều dám làm việc ấy chứ?
Mi-ke-lê
thấy câu hỏi ấy là thừa không cần phải trả lời, anh ta cười ngạo nghễ nói:
- Em
ruột tôi mà không đồng ý cứu Ri-va-rét thì tôi cũng giết phăng.
- Thế
thì được rồi! Bây giờ ta bàn đi thôi. Trước hết, các anh có bản đồ trong pháo
đài không?
Giê-ma
mở khóa ô kéo lấy ra mấy tờ giấy:
- Tôi có
đủ các bản đồ đây. Đây là bản đồ tầng dưới cùng của pháo đài, đây là các tầng
gác dưới và các tầng gác trên cùng của tháp canh. Đây là bản đồ các tường
thành. Đây là đường chạy vào thung lũng. Còn đây là những đường hẻm, hầm bí mật
trong núi và đường hầm.
- Chị có
biết anh ấy bị giam ở tháp nào không?
- Tháp
phía đông, trong một xà lim tròn có cửa chấn song sắt. Tôi đã đánh dấu trên bản
đồ.
- Những
tài liệu này chị lấy ở đâu ra?
- Ở một
ngườilính canh trong pháo đài biệt hiệu là Dế mèn. Anh ta là em họ của Gi-nô,
một người đồng chí của chúng ta.
- Chị
chuẩn bị nhanh gớm nhỉ!
- Vâng,
không thể để chậm thời gian. Gi-nô đã đi ngay Bơ-ri-xi-ghê-la và trước đây
chúng tôi cũng đã dự kiến một vài kế hoạch. Ri-va-rét đã tự tay thống kê các
hầm bí mật trong núi. Các anh nhìn xem, chính chữ anh ấy viết đây.
- Thế
còn lính canh thì thế nào?
- Chưa
điều tra được. Dế mèn mới đến nên chưa biết rõ lắm.
- Cần
hỏi lại Gi-nô xem anh Dế mèn này là người thế nào. Chúng đã quyết định xem xử
Ri-va-rét ở đâu chưa? Ở Bơ-ri-xi-ghê-la hay ở Ra-ve-na?
- Chưa
biết. Ra-ve-na là tỉnh lỵ của một tỉnh thuộc quyền Giáo hoàng. Theo pháp luật
thì những việc quan trọng chỉ có thể xét xử ở đấy, ở tòa án cao cấp. Nhưng
trong địa phận Giáo hoàng người ta nào có đếm xỉa gì tới pháp luật. Thay đổi
pháp luật như thế nào là tùy sở thích riêng của nhà đương cục.
Mi-ke-lê
xen lời:
- Họ
chẳng đưa Ri-va-rét tới Ra-ve-na đâu.
- ;Tại
sao anh nghĩ thế?
- Tôi
tin chắc như vậy. Giám binh Bơ-ri-xi-ghê-la là viên đại tá Phe-ra-ri. Con thú
dữ ấy là chú tên đội trưởng đã bị Ri-va-rét bắn bị thương. Hắn ta sẽ không bỏ
lỡ dịp báo thù.
- Anh
cho rằng hắn sẽ cố giữ Ri-va-rét ở lại Bơ-ri-xi-ghê-la?
- Tôi
chắc hắn ta sẽ tìm cách treo cổ Ri-va-rét bằng được.
Mác-ti-ni
liếc nhìn gương mặt tái ngắt của Giê-ma. Mặc cho Mi-ke-lê nói, gương mặt đó vẫn
không hề biến sắc. Có lẽ ý nghĩ ấy của Mi-ke-lê đối với Giê-ma đã không phải là
mới.
Giê-ma
bình tĩnh nói:
- Nhưng
dù sao hắn cũng phải giữ những thủ tục tối thiểu. Chắc là hắn sẽ lập tòa án
binh tại chỗ, rồi mới tìm cách thanh minh, lấy cớ là để giữ gìn an ninh trong
thành phố.
- Thế
còn Hồng y giáo chủ chứ? Liệu ông ta có làm ngơ trước hành động trái phép như
thế không?
- Việc
quân sự ông ta can thiệp sao được!
- Nhưng
ông ta có thế lực lớn. Nếu ông ta không đồng ý thì giám binh chắc không dám
làm.
Mác-cô-nê
ngắt lời:
- Đời
nào giám binh hỏi ý kiến Mông-ta-ne-li, vì ông này bao giờ cũng phản đối việc
lập tòa án binh. Chừng nào Ri-va-rét còn ở Bơ-ri-xi-ghê-la thì tình hình không
đến nỗi nguy hiểm lắm vì Mông-ta-ne-li thường bênh vực những kẻ bị bắt. Tôi sợ
nhất là Ri-va-rét phải đi Ra-ve-na vì đến đó thì coi như tính mệnh đã đi đứt.
Mi-ke-lê
nói chắc nịch:
- Nhất
định không để chúng áp giải tới Ra-ve-na. Ta có thể tổ chức đánh tháo giữa
đường. Còn như đánh tháo ngay trong nhà tù thì đấy mới thật là khó.
Giê-ma
nói:
- Theo
tôi thì không nên hoài công đợi đến lúc Ri-va-rét bị giải đi Ra-ve-na. Chúng ta
phải tranh thủ cứu Ri-va-rét ngay tại Bơ-ri-xi-ghê-la. Xê-da, bây giờ ta nên
nghiên cứu bản đồ trong pháo đài và nghĩ cách bố trí cho Ri-va-rét trốn thoát
đi thôi. Tôi đã có một ý định nhưng còn một điểm chưa giải quyết được.
Mi-ke-lê
đứng dậy, nói:
-
Mác-cô-nê, ta đi đi, để cho hai người họ nghĩ. Chiều nay tôi phải đi Phô-nha-nô
(1), và tôi muốn anh cùng đi. Lẽ ra Vin-tren-xô phải gửi đạn cho chúng ta từ
hôm qua mà sao chưa thấy gửi tới nhỉ?
Khi hai
người đi rồi, Mác-ti-ni bước lại gần Giê-ma và lặng lẽ chìa tay cho chị. Chị
đặt tay mình giây lát trong tay Mác-ti-ni.
Sau
cùng, chị nói:
- Xê-da,
bao giờ đối với tôi anh cũng là người bạn tốt. Anh luôn luôn giúp tôi trong
những giờ phút khó khăn. Nào, bây giờ ta bàn các kế hoạch đi.
...
...... ......
(1) Coóc-xơ
- một hòn đảo ở phía Tây nước Ý
(2)
Ra-ve-na - thủ phủ của một trong bốn lãnh địa của khâm sứ đặc phái của Giáo
hoàng.
(3)
Ba-sti-a - Một hải cảng trên bờ biển Đông Bắc đảo Coóc-xơ
(4)
Hola, Paolo! (tiếng Ý) – Này, Paolo!
(5)
Phô-nha-nô: một địa điểm thuộc lãnh địa Giáo hoàng
RUỒI
TRÂU
Chương
21
- Thưa
đức Hồng y, về phần tôi, một lần nữa tôi xin khẩn thiết cam đoan với ngài rằng
nếu ngài không đồng ý thì an ninh của thành phố này sẽ bị đe dọa.
Trong
khi nói chuyện với đấng bề trên của giáo hội, viên đại tá giám binh cố giữ
giọng kính cẩn, nhưng lời nói của hắn ta đã rõ ràng đượm vẻ bực dọc. Hắn cáu
kỉnh hơn lúc nào hết vì vợ hắn đã làm cho hắn nợ nần quá nhiều. Ba tuần nay hắn
đã phải chịu đựng nhiều cơn thử thách tàn nhẫn. Tinh thần nhân dân thành phố
rất chán nản, không khí bất mãn ngày càng chín muồi và lan rộng một cách đáng
sợ. Khắp nơi chỗ nào cũng có hoạt động bí mật, chỗ nào cũng có cất giấu vũ khí.
Đồn Bơ-ri-xi-ghê-la thì quá yếu, và lòng trung thành của quân lính thì lại rất
đáng ngờ. Đã thế lại còn thêm một ông Hồng y giáo chủ nữa. Có lần nói chuyện
với phó giám binh, hắn đã gọi Hồng y giáo chủ là “con lừa bướng bỉnh”, hắn đã
phải thất vọng vì ông ta. Nhưng nay lại nẩy ra thêm một gã Ruồi Trau. Hắn cho
Ruồi Trâu là hình bóng của ma quỷ.
“Tên quỷ
thọt Tây Ban Nha” ấy đã bắn bị thương đứa cháu yêu và tên mật thám đắc lực nhất
của viên đại tá Phe-ra-ri. Đến nay thì Ruồi Trâu lại mê hoặc tất cả lính canh,
hăm dọa tất cả các sĩ quan thẩm vấn và “biến nhà tù thành một chuồng gấu trong
vườn bách thú”. Ruồi trâu bị nhốt trong pháo đài đã ba tuần nay mà các nhà
đương cục Bơ-ri-xi-ghê-la vẫn chưa biết nên xử trí vụ ấy như thế nào. Thẩm vấn
hết đợt này đến đợt khác. Phỉnh phờ, dọa dẫm và mọi thủ đoạn khác đều đã thi
thố cả rồi. Nhưng từ hôm bắt được Ruồi Trâu đến nay vẫn không nhích được bước
nào. Bây giờ người ta đã bắt đầu hối hận rằng giá tống cổ Ruồi Trâu đi Ra-ve-na
ngay từ đầu thì nhẹ nhõm biết bao nhiêu. Nhưng dù sao thì cũng đã muộn rồi. Sau
khi nghe Phe-ra-ri báo cáo, khâm sứ đặc phái của Giáo Hoàng đã xét yêu cầu của
Phe-ra-ri mà ban cho hắn đặc quyền tự tay xét xử vụ án này. Vì vậy giờ đây nếu
hắn rút lui thì có khác nào chịu nhục mà thừa nhận rằng đối thủ lợi hại hơn hắn
ta nhiều.
Như Giê-ma
và Mi-ke-lê đã đoán trước, viên đại tá đòi lập tòa án binh bằng được để tránh
khỏi mọi lôi thôi rắc rối. Việc Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li khăng khăng từ
chối kế hoạch ấy là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy chén nước nhẫn nại của
Phe-ra-ri.
Hắn nói:
- Thưa
đức Hồng y, nếu ngài biết tôi và những người giúp việc tôi đã chịu khổ sở biết
bao nhiêu vì tên quỷ sứ này, thì chắc ngài sẽ có một thái độ khác. Tôi cũng
biết rằng đức Hồng y không tán thành việc làm trái thủ tục tố tụng, và tôi rất
quý trọng lương tâm của ngài. Nhưng trong trường hợp đặc biệt này thì cần phải
có những biện pháp đặc biệt.
Mông-ta-ne-li
bẻ lại:
- Không
thể lấy trường hợp đặc biệt nào để bào chữa cho bất công được. Dùng tòa án binh
bí mật để xử thường dân là không công bằng và không hợp pháp..
- Thưa
đức Hồng y, chúng ta buộc lòng phải làm như thế! Kẻ bị bắt đã can dự rõ rệt vào
nhiều trọng tội. Y đã từng tham gia các cuộc nổi loạn, và nếu y không trốn đi
Tô-scan thì toàn án của ủy ban quân sự do đức ông Spi-nô-la làm chánh án đã kết
án y tử hình hoặc tù chung thân rồi. Từ đó đến nay Ri-va-rét vẫn liên tục tổ
chức hết âm mưu này đến âm mưu khác. Mọi người đều biết rằng y là một tay lợi
hại của một trong những hội kín phá hoại ghê gớm nhất. Có đầy đủ chứng cớ để
tình nghi rằng chính y đã gây phiến loạn hoặc đã đồng ý giết ít nhất là ba nhân
viên cảnh sát bí mật. Y bị bắt trong khi bí mật chở vụ khí vào địa phận Giáo
hoàng. Không những thế, y lại còn vũ trang kháng cự lại nhà đương cục và làm bị
thương nặng hai viên chức trong khi họ thừa hành nhiệm vụ. Bây giờ y là một mối
đe dạ thường xuyên cho an ninh và trật tự của thành phố. Đó là những lý do đầy
đủ để đưa y ra tòa án binh.
Mông-ta-ne-li
quả quyết:
- Bất kỳ
ai dù phạm tội nặng đến đâu chăng nữa cũng phải được xét xử theo pháp luật
- Thưa
đức Hồng y, nếu cứ theo thủ tục thông thường thì mất rất nhiều thời giờ mà hiện
nay thì mỗi phút đáng giá ngàn vàng. Tôi không ngớt lo sợ rằng y có thể trốn
thoát.
- Nếu có
nguy cơ đó thì nhiệm vụ của ông đại tá là phải canh gác cẩn thận hơn.
- Thưa
đức Hồng y, tôi đã làm hết sức, nhưng dù sao tôi cũng vẫn phải trông vào đội
lính gác nhà tù. Song toàn thể lính gác đã bị Ruồi Trâu mê hoặc. Trong ba tuần
qua, tôi đã thay lính gác cả thảy bốn lần, luôn luôn bắt phạt họ nhưng vẫn
không ăn thua gì. họ tiếp tục đưa thư của y ra ngoài và mang tin vào cho y mà
tôi vẫn không làm gì nổi. Những tên lính chó chết ấy mê y như mê đàn bà vậy.
- Thật
lạ. Có lẽ y không phải người thường.
- Y là
một tên quỷ sứ tinh ranh đặc biệt. Xin đức Hồng y tha lỗi, thật quá Ri-va-rét
có thể làm cho các đức thánh cũng không sao chịu nổi. Chắc ngài không tin,
nhưng chính tôi đã thân hành đứng ra thẩm vấn y, tôi biết. Những sĩ quan chị
trách nhiệm thẩm vấn đã không sao chịu nổi, nên tôi phải làm thay…
- Thế
nghĩa là thế nào?
- Thưa
đức Hồng y, điều ấy khó nói lắm, nhưng nếu ngài xem qua thái độ của Ri-va-rét
trong khi thẩm vấn thì tự khắc hiểu ngay. Ngài có thể thấy rằng trong lúc đó sĩ
quan tẩm vấn hóa ra tội phạm còn y thì lại trở thành quan tòa.
- Y làm
thế nào mà ghê gớm thế được? Y không trả lời câu hỏi của các ông hay sao? Ngoài
im lặng ra, y còn thứ vũ khí gì khác nữa đâu?
-
Ri-va-rét còn có một miệng lưỡi sắc bén như dao cạo nữa. Thưa đức Hồng y, chúng
ta đều là những kẻ tội lỗi, có ai là người không phạm phải sai lầm. Và dĩ nhiên
không ai muốn người khác đem tội của mình ra bêu riếu ầm ĩ khắp nơi. Đó là bản
tính của con người. Vậy mà nay lại có kẻ bới móc những tội lỗi cách đây hàng
hai chục năm ra văng vào mặt mình.
- Vậy
Ri-va-rét đã tố giác chuyện gì bí mật của viên sĩ quan thẩm vấn có phải không?
- Vâng…
thưa đức Hồng y… hồi viên sĩ quan đáng thương ấy còn là sĩ quan kỵ binh hắn đã
mắc nợ quá nhiều và có tạm vay một món tiền nhỏ trong quỹ quân đội…
- Nghĩa
là hắn đã ăn cắp tiền công chứ gì?
- Thưa
đức Hồng y, lẽ dĩ nhiên hắn làm thế là xấu, nhưng bạn bè đã góp ngay tiền cho
hắn trang trải và chuyện đó đã được ỉm đi. Hắn là con nhà tử tế và từ đó đến
nay giữ được hạnh kiểm tốt. Thế mà tôi không hiểu Ri-va-rét đào bới đâu ra mớ
chuyện cũ rích ấy. Ngay hôm hỏi cung đầu tiên, y đã nói toạc chuyện đó ngay
trước mặt viên sĩ quan và những người dưới quyền ông ta. Và y nói với một giọng
hiền lành như đọc kinh vậy. Lẽ dĩ nhiên đến nay chuyện đó đã được cả tỉnh bàn
tán xôn xao. Thưa đức Hồng y, nếu ngà idự một buổi hỏi cung thì chắc ngài sẽ rõ
ngay… Tất nhiên chúng tôi sẽ giấu không để cho Ri-va-rét biêt và ngài sẽ có thể
ngồi nghe kín đáo…
Mông-ta-ne-li
quay lại nhìn viên đại tá với cặp mắt khác thường.
- Tôi là
sứ thần của giáo hội chứ không phải là mật thám. Nghe trộm không phải là nhiệm
vụ của tôi.
- Tôi…
tôi không hề có ý làm phật lòng đức Hồng y…
- Tôi
thiết tưởng không cần đôi co làm gì nữa vô ích. Ông đưa tên đó lên để tôi nói
chuyện.
- Thưa
đức Hồng y, xin ngài cho phép tôi từ chối điều này. Ri-va-rét là kẻ không sao
còn tu tỉnh được. Lần này phải vượt qua pháp luật mà trừ khử hắn, đừng để hắn
gây ra tai họa mới, như thế là chắc chắn và phải lẽ hơn cả. Đức Hồng y đã nói
thì tôi cũng không dám van nài, nhưng xin ngài hiểu cho rằng tôi phải chịu
trách nhiệm trước đức khâm sứ đặc phái của đức Giáo hoàng về an ninh của thành
phố…
Mông-ta-ne-li
ngắt lời:
- Còn
tôi, tôi chịu trách nhiệm trước Thiên chúa và đức Thánh cha để cho trong địa
phận của tôi không ai được làm điều ám muội. Nếu ông đại tá vẫn không chịu thì
tôi xin phép ông dùng tới đặc quyền Hồng y giáo chủ của tôi. Trong hòa bình tôi
không thể đồng ý cho lập tòa án binh bí mật giữa thành phố này. Mười giờ sáng
mai một mình tôi sẽ tiếp kẻ bị bắt ở đây, không cần người làm chứng.
Viên đại
tá gượng gạo trả lời một cách kính cẩn:
- Xin
tùy đức Hồng y
Rồi hắn
ta vừa bước ra vừa lầu nhầu:
- Thật
là bướng bỉnh chẳng kém gì nhau.
Hắn giữ
kín việc Ruồi Trâu sắp gặp Hồng y giáo chủ cho mãi tới phút phải tháo cùm và
dẫn Ruồi Trâu đến trước lâu đài.
Hắn nói
với đứa cháu bị thương:
- Con
lừa Mông-ta-ne-li bây giờ cũng ti toe bàn chuyện pháp luật! để cho bạn lính ăn
cánh với Ri-va-rét và đồ đảng của y đánh tháo cho y dọc đường rồi mới trắng mắt
ra.
Mông-ta-ne-li
đang ngồi cạnh bàn chất đầy giấy má. Khi Ruồi Trâu bị bọn lính áp giải vào
phòng, anh sực nhớ tới ngày hè oi ả năm xưa, nhớ tới những bài giảng đạo mà anh
đã lần giở từng tập trong căn phòng giống hệt căn phòng này. Lúc ấy cửa chớp cũng
khép nửa chừng như bây giờ và ngoài phố tiếng người bán hoa quả cũng rao vang:
- Dâu
tây, dâu tây đây!
Ruồi
Trâu giận dữ lắc đầu, hất ngược mớ tóc xõa xuống mắt và cố mỉm cười.
Mông-ta-ne-li
ngẩng đầu lên nhìn anh.
Ông ta
nói với đội lính:
- Các
con hãy ra đợi ở phòng ngoài.
Viên đội
khẽ lắp bắp:
- Xin
đức Hồng y tha lỗi, quan giám binh nói tên này rất nguy hiểm và bảo…
Cặp mắt
Mông-ta-ne-li nẩy lửa, nhưng giọng ông vẫn ôn tồn nhắc lại:
- Các
con ra đợi ở phòng ngoài.
Viên đội
sợ hãi cúi chào, mồm lúng búng xin lỗi rồi cùng với đội lính bước ra khỏi
phòng.
Khi cửa
đã đóng lại. Mông-ta-ne-li cất tiếng:
- Mời
ngồi!
Ruồi
Trâu lặng lẽ ngồi xuống. Sau một phút im lặng, Mông-ta-ne-li mới giáo đầu:
- Ông
Ri-va-rét, tôi muốn hỏi ông mấy câu, nếu ông trả lời thì tôi rất cảm ơn.
Ruồi
Trâu mỉm cười:
- Công
việc chính… chính của tôi bây giờ là nghe… nghe người ta hỏi cung.
- Nghe
và không trả lời chứ gì? Phải, tôi có nghe nói, nhưngnhững câu hỏi của các sĩ
quan hỏi cung lại khác. Họ có nhiệm vụ lợi dụng những câu trả lời của ông để
kết tội ông…
- Thế
còn… những câu hỏi của ngài thì sao?
Giọng
nói của Ruồi Trâu lại còn châm chọc hơn cả lời nói của anh. Mông-ta-ne-li hiểu
ngay điều đó, nhưng ông ta vẫn giữ vẻ nghiêm trang và niềm nở.
- Dù ông
có trả lời hay không, những câu hỏi của tôi vẫn là giữa hai chúng ta mà thôi.
Nếu những câu hỏi ấy dính dáng tới những bí mật chính trị của ông thì lẽ dĩ
nhiên xin ông chớ trả lời. Mặc dù chúng ta chưa hề quen nhau nhưng mong rằng
ông cho phép tôi được tiếp chuyện ông.
- Thưa…
thưa đức Hồng y, tôi hoàn toàn theo ý ngài.
Dáng
nghiêng mình và vẻ mặt đi đôi với những lời nói ấy của Ruồi Trâu làm cho cả
những kẻ trắng trợn nhất cũng đành phải thôi, không muốn tiếp chuyện với anh
nữa. Nhưng Mông-ta-ne-li vẫn hỏi:
- Người
ta buộc ông vào tội chuyên chở súng ống vào địa phận này. Vậy ông dùng súng ống
để làm gì?
- Để… để
giết chuộc.
- Câu
trả lời của ông thật ghê gớm. Vậy ông coi những người đồng bào không cùng một
tư tưởng với ông là chuột ư?
- Một…
một số người trong bọn họ.
Mông-ta-ne-li
ngả người vào ghế và yên lặng nhìn Ruồi Trâu trong mấy phút liền.
Bỗng ông
ta hỏi:
- Tay
ông làm sao thế kia?
- Những
vết răng… răng của những con chuột ấy.
- Xin
lỗi ông, tôi hỏi về những vết thương còn mới ở bàn tay này kia.
Ruồi
Trâu giơ cánh tay nhỏ nhắn, mềm mại và đầy thương tật ấy lên. Cổ tay sưng vù,
tím bầm lại.
- Ồ, có
gì đáng kể đâu! Đội ơn đức Hồng y, hôm tôi bị bắt - Ruồi Trâu khẽ nghiêng mình
– tôi bị một tên lính chém vào tay.
Mông-ta-ne-li
cầm lấy cánh tay, chăm chú nhìn.
- Từ hôm
ấy đến nay đã ba tuần, tại sao vẫn cứ thế này?
- Có lẽ
tại mấy… mấy chiếc cùm quý hóa đấy thôi.
Mông-ta-ne-li
cau mày:
- Họ bắt
ông đeo cùm vào vết thương mới ư?
- Lẽ… lẽ
dĩ nhiên, thưa ngài. Vết thương mới chính là chỗ để đeo cùm. Đeo vào vết thương
cũ thì phỏng có ích gì. Vết thương cũ chỉ nhức nhối thôi chứ không thể cháy lên
như lửa đốt.
Mông-ta-ne-li
lại chăm chú nhìn Ruồi Trâu với đôi mắt dò hỏi. Rồi ông đứng dậy, lấy trong ô
kéo ra bộ đồ băng bó.
- Ông
đưa tay đây cho tôi.
Ruồi
Trâu nghe theo, mặt anh lạnh như thép nguội. Mông-ta-ne-li rửa sạch vết thương,
băng bó lại cẩn thận. Có lẽ ông ta đã quen với việc này.
- Tôi sẽ
nói chuyện với viên cai ngục về việc đeo cùm. Bây giờ tôi muốn hỏi ông một câu
khác: sau đây, ông định làm gì nữa?
- Thưa
ngài…, câu trả… trả lời của tôi đơn giản lắm. Tôi sẽ vượt ngục nếu có thể.
Không vượt ngục được thì chỉ còn có chết mà thôi.
- Tại
sao lại chết?
- Vì nếu
viên giám binh không tìm được cách xử bắn tôi thì tất nhiên tôi cũng bị kết án
khổ sai, mà như thế cũng chẳng khác gì xử tử vì sức tôi không chịu nổi tù khổ
sai.
Mông-ta-ne-li
tì tay lên bàn, nghĩ ngợi. Ruồi Trâu cũng ngồi im, anh tựa người vào ghế, mắt
lim dim tận hưởng những phút khoan khoái thoát khỏi gông cùm.
Mông-ta-ne-li
lại hỏi tiếp:
- Nếu
trốn thoát được thì ông sẽ làm gì cho đời ông?
- Tôi đã
thưa với ngài rồi, tôi sẽ lại giết chuột.
- Giết
chuột… Như vậy là nếu tôi có quyền giải thoát cho ông thì ông sẽ lợi dụng tự do
đó để xúc tiến, chứ không phải để ngăn ngừa bạo lực và đổ máu?
Ruồi
Trâu ngước nhìn cây thánh giá treo trên tường:
- “Không
phải là sự bằng an mà là lưỡi gươm” (1). Đấy ngài xem, tôi vẫn noi theo gương
sáng đấy chứ. Nhưng phải nói rằng tôi ưa dùng súng ngắn hơn”.
Mông-ta-ne-li
vẫn hết sức bình tĩnh:
- Ông
Ri-va-rét, tôi không hề xúc phạm tới ông và cũng không hề tỏ ý coi thường những
tư tưởng cùng những bạn bè của ông. Vậy tôi có thể nào mong ông cũng đối xử lại
với tôi tế nhị như thế không? Hay là ông muốn bắt tôi phải nghĩ rằng hễ người
vô thần thì không bao giờ biết lễ phép là gì cả?
- À, ra
tôi… tôi quên rằng đức Hồng y cho lễ phép là một trong những đức tính cao quý
nhất của đạo Thiên chúa. Tôi vẫn còn nhớ bài giảng của đức cha ở
Phơ-lô-răng-xơ, khi đức cha nói tới cuộc tranh luận giữa tôi và người bảo vệ
nặc danh của đức cha!
- Chính
tôi đang muốn hỏi ông chuyện ấy. Xin ông cho biết tại sao ông căm thù tôi đến
thế? Nếu ông chỉ cho tôi là một cái bia tốt để châm chọc thì đó là chuyện khác.
Bây giờ chúng ta không bàn cãi về phương pháp đấu tranh chính trị của ông làm
gì. Nhưng qua các bài văn châm biếm của ông thì tôi thấy hình như ông có thù
riêng gì với tôi. Tôi muốn hiểu tại sao ông lại có thái độ như thế đối với tôi.
Tôi đã từng làm điều gì có hại đến ông chưa?
Hừ, chưa
từng làm gì có hại cho anh! Ruồi Trâu đưa cánh tay quấn đầy băng lên cổ. Anh
cười khẩu nói:
- Xin
mời đức Hồng y hãy nhớ lại Sếch-xpia. Hẳn ngài còn nhớ trong một vở kịch của
ông ta có một nhân vật rất ghét mèo, một giống vật nuôi (2) hiền lành và rất có
ích. Ấy, tôi cũng thế đấy, tôi rất ghét giáo sĩ. Cứ trông thấy bộ quần áo cố
đạo là tôi cảm thấy nhức nhối đến tận… chân răng. (3)
Mông-ta-ne-li
thản nhiên khoát tay:
- Nếu
vấn đề chỉ là ở chỗ đó thì… Thôi được, xin ông cứ việc đả kích. Nhưng ông xuyên
tạc sự thật là gì! Khi trả lời bài giảng của tôi ông có nói rằng tôi biết kẻ
bảo vệ nặc danh của tôi là ai. Nhưng điều đó không đúng sự thật! Tôi không dám
kết tội ông cố tình nói dối, nhưng chắc là ông đã lầm. Cho tới ngày nay tôi
cũng không hề biết người đó là ai.
Ruồi
trâu nghiêng đầu chăm chú nhìn Hồng y giáo chủ. Rồi anh ngả người vào ghế cười
ha hả :
- Ôi,
s-s-sancta simplicitas! (tiếng Latinh : thật là thanh sạch như các đấng thánh!)
Đức Hồng y hiền lành chẳng kém gì người dân Ac-ca-đi! Có thật ngài không đoán
được là ai không? Có thật ngài không trông thấy rằng tuy hai vết móng nhưng chỉ
là một vó ngựa như bàn chân của quỷ sứ mà thôi hay sao ?
Mông-ta-ne-li
đứng dậy :
- Ông
Ri-va-ret, thế nghĩa là một mình ông đóng cả hai vai trong cuộc tranh luận ấy
có phải không ?
Đôi mắt
to và xanh biếc của Ruồi trâu nhìn xoáy vào mắt Hông y giáo chủ.
- Vâng,
làm như thế là rất xấu. Nhưng rôi đã được một mẻ cười vỡ bụng ! Là vì chuyện gì
ngài cũng nuốt hết, nuốt như nuốt ruột sò hến ý ấy ! Tuy vậy tôi cũng đồng ý
với ngài rằng thái độ ấy thật là xấu !
Mông-ta-ne-li
cười mím môi, ngồi xuống ghê. Ngay từ lúc đầu đã biết Ruồi trâu muốn chọc tức
mình, Mông-ta-ne-li đã cố sức trấn tĩnh. Nhưng bây giờ thì ông ta mới hiểu vì
sao viên đại tá lại giận dữ đến thế. Một con người mà ba tuần lễ liền n gày nào
cũng hỏi cung Ruồi trâu hàng hai tiếng đồng hồ thì dù có nói lỡ lời điều gì
cũng có thể tha thứ được.
Mông-ta-ne-li
vẫn bình tĩnh nói :
- Thôi,
ta gác chuyện ấy lại. Sở dĩ tôi muốn gặp ông chẳng qua là vì lí do sau đây :
tôi là Hồng y giáo chủ, tôi có quyền dự bàn về số mạng của ông. Nhưng tôi chỉ
dùng đặc quyền của tôi để giúp ông khi nào người ta dùng những biện pháp quá
nặng nề với ông mà thôi. Vì thế tôi muốn hỏi xem ông có điều gì phàn nàn không.
Về chuyện gông cùm thì ông không lo việc ấy sẽ dàn xếp ổn thoả. Nhưng có lẽ ông
còn muốn kêu ca điều gì khác nữa ? Ngoài ra, trước khi nói lên ý kiến của mình
toi cũng cần xem ông là người như thế nào đã.
- Thưa
đức Hồng y, tôi chẳng có gì để phàn nàn cả. À la guerre comme à la guerre
(tiếng pháp : đã chiến đấu thì cho ra chiến đấu). Tôi không phải là một cậu học
trò ngây thơ chờ đợi chính phủ xoa đầu mình về tội bí mật trở súng ống vào giáo
phận này. Lẽ tất nhiên chính phủ sẽ trừng trị tôi thẳng tay. Còn như tôi là
người như thế nào thì ngài đã có lần được nghe tôi xưng tội rồi tuy cách xưng
hô của tôi có hơi ngông một tí. Như thế chưa đủ hay sao ? Hay là ngài muốn
nghe.. Nghe lại một lần nữa ?
Mông-ta-ne-li
cầm chiếc bút chì gõ gõ vào ngón tay và lạnh lùng nói :
- Tôi
không hiểu ông muốn nói gì.
- Đức
Hồng y hẳn chưa quên ngươi khách thập phương già Đi-ê-gô chứ ?
Ruồi
trâu lấy giọng ông già "
-"Lão
là một kẻ không may có tội.."
Chiếc
bút chì gãy làm đôi trong tay Mông-ta-ne-li. Ông ta vừa đứng dậy vừa nói :
- Ông
quá quắt lắm rồi !
Ruồi
trâu ngửa mặt cười, rồi anh nhìn theo Hồng y giáo chủ đang lặng lẽ đi bách bộ
trong phòng.
Sau cùng
Mông-ta-ne-li dừng bước trước mặt anh.
- Ông
Ri-va-ret, ông đối xử với tôi còn tệ hơn cả một người do cha mẹ đẻ ra đối xử
với kẻ thù hung ác nhất của mình. Ông bới móc nỗi đau khổ riêng của tôi để bông
đùa và giễu cợt. Một lần nữa xin ông hãy cho tôi biết tôi đã từng làm điều gì
hại đến ông chưa ? Nếu không thì tại sao ông lại nhẫn tâm đùa cợt như thế ?
Ruồi
trâu ngả người trên đệm ghế, mỉm cười một cách bí ẩn, lạnh lùng và sâu cay.
- Thưa
đức Hồng y, ngài quá lưu ..lưu ý tới những lời nói của tôi làm tôi không thể
nhịn cười được và phần nào nhớ lại.. một gánh xiếc rong..
Đôi môi
tái nhợt, Mông-ta-ne-li quay ngoắt đi và rung chuông. Đội lính áp giải bước
vào, ông ta chỉ nói vắn tắt :
- Dẫn
người tù này về.
Khi họ
dẫn Ruồi trâu ra khỏi, Mông-ta-ne-li ngồi lặng trước bàn và vẫn run lên vì quá
tức giận. Ông cầm lấy tập báo cáo của các linh mục trong giáo phận gửi tới
nhưng rồi lại đẩy ngay ra, gục đầu xuống bàn hai tay bưng lấy mặt. Dường như
Ruồi trâu vẫn còn là một bóng đen lởn vởn trong phòng ghê gớm đến nỗi làm cho
Mông-ta-ne-li không dám buông tay ra khỏi mặt. Ông vẫn run lẩy bẩy và kinh
hoàng, chỉ sợ phải nhìn thấy bóng ma đó mặc dầu nó đã không còn ở đó nữa.
Mông-ta-ne-li biết chỉ tại thần kinh của mình rối loạn lên thôi nhưng ông vẫn
hãi hùng trước bóng đen đó.. cánh tay đầy thương tích nụ cười cay độc trên môi
cái nhìn sâu xa bí hiểm như biển cả...
Cố gắng
lắm Mông-ta-ne-li mới xua đuổi được sự ám ảnh ghê rợn ấy và bắt tay vào việc.
Suốt ngày không một phút nào rảnh nên không bị ký ức giày vò. Nhưng đêm khuya,
khi bước vào phòng ngủ thì Mông-ta-ne-li lại bủn rủn, lặng người đi trên ngưỡng
cửa. Nếu bóng ma ấy hiện ra trong giấc mộng thì biết làm sao đây ? Một lát sau,
Mông-ta-ne-li trấn tĩnh lại và quỳ trước tượng Chịu nạn. Nhưng suốt đêm ấy, ông
ta vẫn không sao chợp mắt được.
...
...... .....
(1) “Không phải là sự bằng an mà là lưỡi gươm”
– Câu nói của Chúa Giê-xu trong Kinh Thánh khi Chúa nói với các tông đồ: “Các
người đừng tưởng rằng ta đến đây là để mang lại hoà bình trên trái đất. Ta đến
đây không phải để mang lại sự bằng an, mà là mang lại lưỡi gươm”.
(2) trong bản dịch ghi là “gia súc” !!!
(3) Trích Sếch-xpia, “Người lái buôn thành
Vơ-ni-dơ”, màn 4,
RUỒI
TRÂU
Chương
22
Song cơn
giận cũng không làm cho Mông-ta-ne-li quên lời hứa của mình. Ông ta kịch liệt
phản đối gông cùm đến nỗi viên đại tá xấu số kia đâm ra hoang mang và đành phải
nhắm mắt ra lệnh tháo gông cùm cho Ruồi trâu.
Phe-ra-ri
phàn nàn với sĩ quan tuỳ tùng :
- Không
biết Mông-ta-ne-li còn định phản đối gì nữa không. Nếu lão ta cho gông cùm là
khắc nghiệt thì có lẽ chẳng bao lâu nữa lão ta cũng sẽ đòi bỏ nốt các chấn song
sắt và bắt tôi phải dâng sơn hào hải vị cho Ri-va-ret! Thời tôi còn trẻ thì
phạm nhân là phạm nhân và được xử trí thích đáng ! Lúc ấy chẳng ai cho kẻ phản
nghịch nhẹ tội hơn kẻ cắp cả. Nhưng bây giờ thì làm loạn đã thành mốt cả rồi và
Hồng y giáo chủ tưởng muốn tha hồ khuyến khích lũ côn đồ ấy thế nào cũng được.
Viên sĩ
quan tuỳ tùng nói :
- Không
hiểu lão ta nhúng tay vào làm gì . Không phải là đặc sứ không có quyền dính vào
việc dân sự và quân sự. Theo pháp luật thì...
- Còn
nói tới pháp luật làm gì nữa ! Từ khi đức Thánh cha đã ra lệnh mở cửa nhà tù để
cho bè lũ tự do chủ nghĩa khốn kiếp được tháo cũi sổ lồng thì còn ai kiêng nể
gì pháp luật ! Thật hoàn toàn điên rồi ! Ai chẳng biết Hồng y giáo chủ
Mông-ta-ne-li bây giờ lên mặt rồi. Hồi Đức cố Giáo hoàng ngài còn sống thì lão
ta nhũn lắm nhưng nay thì lão ta nghiễm nhiên trở thành nhất phẩm triều đình.
Một bước tót ngay lên địa vị cận thần của Giáo hoàng đương kim lão ta tha hồ mà
làm mưa làm gió. Mình địch lại sao nổi! Biết đâu lão ta lại chẳng đã nhận được
mật dụ của Va-ti căng. Bây giờ thời thế đảo điên chẳng hiểu mai đây như thế
nào. Ngày xưa thì còn có kỷ cương chứ thời buổi bây giờ..
Rồi
Phe-ra-ri chán ngán lắc đầu. Thật khó mà sống ở thời buổi này khi mà Hồng y
giáo chủ để mắt tới cả chế độ nhà tù bàn luận đến cả quyền lợi của các chính
trị phạm.
Còn về
phần ruồi trâu thì anh trở về nhà tù trong pháo đài với một tâm trạng hầu như
điên dại. Cuộc gặp Mông-ta-ne-li đã hút gần kiệt sức anh. Câu nói cuối cùng độc
ác về gánh xiếc rong buột ra giữa lúc anh đã quá tuyệt vọng chính là để tìm
cách cắt đứt cuộc nói chuyện ấy. Nếu chỉ kéo dài chừng năm phút nữa thì chắc
anh sẽ khóc oà lên mất.
Mấy
tiếng đồng hồ sau viên đại tá gọi Ruồi trâu lên. Nhưng để trả lời mọi câu hỏi
anh chỉ cười sằng sặc như điên như dại. Cho đến khi viên đại tá cáu tiết và
chửi bới ầm ĩ thì Ruồi trâu càng cười to hơn. Viên đại tá lại doạ dẫm bằng đủ
mọi hình phạt ghê gớm nhưng rốt cuộc cũng như Giêm-xơ Bớc tơn xưa kia hắn cho
rằng không hơi sức đâu mà đi thuyết phục một kẻ hoàn toàn mất lý trí.
Chúng
lại dẫn Ruồi trâu trở về ngục tối. Anh nằm lăn ra phản lòng đau buồn không sao
tả xiết. Mỗi khi trận cười điên dại qua đi thì buồn đau lại ập đến. Anh cứ nằm
như thế đến tận chiều không nhúc nhích không nghĩ ngợi. Xúc động mãnh liệt đã
nhường chỗ cho vô cảm giác. Nỗi đau khổ đè nặng lên tâm hồn thì cũng chỉ như
một vật thể đè nặng lên khúc gỗ mà thôi. Và nói cho cùng tương lai dù có kết
liễu như thế nào đối với anh cũng chẳng quan hệ gì. Điều quan trọng duy nhất
đối với anh cũng như đối với mọi sinh vật khác là làm sao thoát khỏi những nỗi
đau khổ vô cùng tận. Nỗi đau khổ ấy mất đi là do tình thế bên ngoài thay đổi
hay là do khả năng cảm xúc trong anh sẽ chết đi đó chỉ là vấn đề phụ. Anh có
thể trốn thoát được mà cũng có thể bị giết nhưng dù thế nào anh cũng sẽ không
bao giờ thấy mặt "cha" nữa.
Người
coi ngục mang cơm chiều lại cho Ruồi trâu. Anh nhìn lên với đôi mắt nặng chịch
mà thản nhiên.
- Mấy
giờ rồi ?
- Sáu
giờ. Thưa ông, bữa ăn chiều đây.
Ruồi
trâu rùng mình nhìn thức ăn đã lạnh và thiu thối. Anh quay mặt đi. Chán nản và
mệt mỏi. Nhìn thức ăn ruồi trâu thấy buồn nôn.
Người
coi ngục vội khuyên :
- Nếu
ông không ăn thì ốm mất. Cố ăn chút bánh cho lại sức ông ạ.
Và như
để ruồi trâu tin lời nói của mình hơn anh ta cầm miếng bánh ướt giơ lên khỏi
đĩa. Thói quen hoạt động bí mật bừng tỉnh dậy trong Ruồi trâu. Anh hiểu rằng
trong miếng bánh có giấu một điều gì bí mật.
- Anh để
đấy rồi tôi ăn.
Ruồi
trâu nói một cách hững hờ là vì cửa còn mở tên đội đứng ở cầu thang có thể nghe
thấy rõ ràng từng câu nói.
Khi cửa
ngục đã khoá lại và Ruồi trâu biết chắc không có ai nhìn qua lỗ nhòm thì anh
cầm lấy miếng bánh từ từ bẻ vụn ra thành từng mảnh. Quả nhiên trong bánh có mấy
chiếc giũa con bọc trong một mảnh giấy có mấy hàng chữ mờ mờ. Ruồi trâu thận
trọng vuốt thẳng mảnh giấy và đưa lên ánh đèn yếu ớt trong xà lim. Chữ viết rất
khó xem giấy lại mỏng dính rất khó đọc :
"Cửa
không khoá. Đêm không trăng. Cưa chấn song cho mau và chui xuống đường hầm vào
khoảng hai ba giờ đêm. Chúng tôi đã sẵn sàng. Có lẽ không còn dịp nào khác
đâu"
Ruồi
trâu vội vã vò nhàu mảnh giấy. Thế là mọi việc đều sẵn sàng. Anh chỉ việc cưa
cho được chấn song cửa sổ. Thoát khỏi gông cùm rồi may mắn biết bao ! Anh không
còn phải mất thời giờ cưa gông cùm nữa. Cửa sổ có bao nhiêu chấn song ?.. Hai..
bốn .. mỗi chấn song fải cưa hai chỗ cũng coi như là tám chấn song. Nếu không
để lỡ phút nào thì có thể cưa xong đêm nay. Giêma và Mac ti ni làm thế nào bố
trí được nhanh như thế ? Lại còn chuẩn bị cả quần áo để hoá trang, hộ chiếu,
tìm được chỗ ẩn núp nữa.. Có lẽ hai người đã làm việc suốt ngày đêm.. Lại chính
kế hoạch của Giê ma chứ gì ! Ruồi trâu cười thầm : kế hoạch của ai không quan
trọng miễn sao tốt là được ! Nhưng anh vẫn thấy khấp khởi trong lòng, vì Giê ma
là người đầu tiên nghĩ tới cách dùng đường hầm chứ không fải leo thang dây như
những người buôn lậu đề nghị. Kế hoạch của Giê ma tuy phức tạp và khó khăn hơn
nhưng không nguy hại tới tính mạng của người lính đứng gác ở mặt đường phía
đông. Vì thế khi Ruồi trâu được biết hai kế hoạch ấy thì anh không do dự, chọn
ngay kế hoạch của Giê ma.
Theo ké
hoạch đó thì người lính gác mang biệt hiệu Dế mèn phải bí mật khoá cánh cửa sắt
từ sân nhà tù dẫn tới đường hầm dưới chân thành rồi treo chìa khoá vào chỗ cũ.
Còn Ruồi trâu phải cưa chấn song xé áo sơ mi thành từng sải kết lại làm thành
dây mà tụt xuống mặt đường rộng phía đông. Tới tường rồi thì phải bò dọc theo
tường khi tên lính gác quay đi thì bò hễ hắn nhìn lại thì phải nằm nép vào
tường.
Góc
tường phía đông nam là một tháp canh nhỏ. Tháp này đã cũ nát mọc đầy dây leo
chằng chịt bên dưới là những đống đá vụn. Ruồi trâu fải lần theo những đám dây
leo và những đống đá vụn ấy tụt từ trên tháp xuống sân nhẹ nhàng đẩy cửa hầm đã
mở khoá mà men tới đường hầm. Cách đây mấy thế kỷ đường hâm này là một hành
lang bí mật nối liền pháo đài với tháp canh trên đồi bên cạnh. Giờ thì không ai
dùng tới nữa nên thỉnh thoảng đường hầm có chỗ bị đá lở xuống che lấp.
Những
người buôn lậu đã đào một con đường bí mật thông tới đường hầm này. Chỉ họ mới
biết con đường ấy . Không ai có thể ngờ rằng từng đống hàng lậu lâu nay vẫn nằm
hàng tuần dưới chân pháo đài trong khi bọn viên chức thế quan vẫn tức tối vì đã
phải lùng khắp nhà dân trên núi một cách vô hiệu quả.
Ruồi
trâu phải lăn theo đường bí mật ấy sang vườn đồi bên canh rồi nhân lúc đêm tối
đến chỗ có Mac ti ni và một người buôn lậu đứng đợi. Mở cửa sân sau giờ đi tuần
buổi chiều là điều khó khăn hơn cả. Không phải ngày nào cũng có thể mở cửa một
cách dễ dàng. Trèo từ cửa sổ xuông những đêm sáng trời thì lính canh có thể
trong thấy. Vì thế hôm nay Ruồi trâu không thể bỏ lỡ thời cơ.
Ruồi
trâu ngồi xuống giường nhai bánh. Bánh mỳ không đến nỗi ghê tởm như những thức
ăn khác của nhà tù. Anh cố nuốt để lấy sức. Rồi, anh ngả lưng và cố chợp mắt
một lát vì cưa ngay trước mười giờ thì mạo hiểm quá mà cưa đêm thì lại là một
công việc rất vất vả.
Như vậy
là dù sao "cha" vẫn nghĩ cách tạo điều kiện cho anh trốn. Thật đúng
là cái lối đối xử của "cha" từ trước đến nay. Nhưng không đời nào anh
chịu nhận sự giúp đỡ của cha. Không, không đời nào ! Nếu anh trốn thoát được
thì đó cũng là công của các đồng chí của anh và bản thân anh. Anh không thèm
nhờ sự ban ơn của các cha cố.
Nóng quá
! Chắc trời sẽ nổi cơn giông và nổ ra sấm sét. Không khí nặng nề và ngột ngạt
ruồi trâu sốt ruột trở mình trên phản và đưa cánh tay quấn đầy băng lên gối
đầu. Nhưng anh vội rút ra ngay. Cả cánh tay rần rật và nóng bừng như lửa đốt.
Các vết thương cũ lại bất đầu nhức nhối, day dứt.. Tại sao thế nhỉ ? Không,
không có gì đâu ! Chắc là tại thời tiết tại trời sắp nổi cơn giông đó thôi. Tốt
hơn là đánh một giấc cho tỉnh người rồi sẽ cầm lấy giũa.
Tám chấn
song mà toàn là những chấn song to và chắc! Còn bao nhiêu nưa ? Chắc chẳng còn
bao nhiêu nữa đâu. Nãy giờ anh cưa đã nhiều cưa nhức cả tay. Nhức lắm. Nhức
thấu xương ! Nhưng chả lẽ vì cưa mà tay nhức và chân cũng nhức nốt ! Nhức như
lửa đốt dùi đâm...
Ruồi
trâu vùng đứng dậy. Không, anh chưa ngủ. Anh mơ mà mắt vẫn mở to. Anh mơ thấy
tự tay mình cưa chấn song. Nhưng, kìa, những chấn song vẫn còn kia vẫn nguyên
vẹn vẫn to và chắc như bao giờ hết. Tiếng chuông từ tháp canh xa xôi vọng lại
đúng mười tiếng. Đã đến giờ ra tay. Ruồi trâu nhìn qua lỗ nhòm. Biết chắc không
có ai rình mò anh rút lấy một chiếc giũa giấu trong ngực.
*
* *
Không,
có việc gì đâu, chẳng sao cả ! Đó hoàn toàn chỉ là ảo tưởng. Ruồi trâu thấy đau
ở sườn. CHắc là tại cảm lạnh hoặc đau bụng đấy thôi. Điều ấy cũng không có gì
lạ vì ba tuần nay anh phải ăn những thức ăn ghê tởm của nhà tù và nằm giữa bốn
bức tường ẩm ướt. Còn toàn thân đau nhừ và mạch đập rộn rã thì chẳng qua chỉ là
do xúc động và bị tù túng lâu ngày . Đúng rồi, đúng như thế đấy, chỉ do tù túng
quá nhiều mà thôi. Thế mà bấy lâu vẫn không nghĩ ra. Phải tạm nghỉ cho bớt đau
đã. Chắc vài phút sẽ đỡ thôi.
Nhưng
mới ngồi xuống Ruồi trâu lại thấy toàn thân đau nhức nhối hơn mặt anh tái nhợt
đi vì kinh hoàng. Không, phải đứng dậy làm gì đi thôi. Phải cố gạt cơn đau đi.
Đau hay không là do ý chí của mình. Phải không biết đau, phải bắt cơn đau dịu
xuống.
Ruồi
trâu đứng dậy dõng dạc nói với chính mình :
- Ta
không ốm. Lúc àny không thể ốm được. Phải cưa cho được chấn song và ta đang
không ốm.
Và anh
lại cầm lấy giũa.
Mười giờ
mười lăm, mười giờ rưỡi, mười giờ bốn lăm... Ruồi trâu mải miết cưa cưa mãi và
anh nghe tiếng giũa xiết vào sắt như đang xiết vào thân thể và đầu óc mình.
Anh mỉm
cười tự bảo :
- Xem kẻ
nào sẽ bị cưa đứt trước : ta hay chấn song ?
Rồi anh
lại nghiến răng cưa đến mười một giờ rưỡi mặc dù tay đã sưng phồng tê cứng
tưởng chừng không nắm nổi chiếc giũa nữa. Không, anh không dám ngừng lại để
nghỉ vì nếu rời chiếc giũa khốn nạn này ra là sẽ không còn đủ can đảm để nhặt
lên.
Ngoài
cửa vang lên tiếng giày đinh người lính canh và tiếng báng súng đập vào khung
cửa sắt. Ruồi trâu ngừng cưa. Tay không rời chiếc giũa anh ngoái cổ lại. Phải
chăng bọn chúng đã nghe thấy ? Một vật gì ném qua lỗ nhòm lăn trên sàn xà lim.
Anh cúi xuống nhặt : thì ra một mẩu giấy vo tròn.
Sao tụt
mãi mà không đến đất ? Và dường như có những đợt sóng đen ngòm gầm thét ghê rợn
từ bốn phía xô lại phía mình.
À thôi,
hiểu rồi ! Không phải anh đang tụt xuống mà chỉ mới cúi xuống nhặt mẩu giấy lên
thôi. Đầu anh hơi choáng váng. Nhưng đó là chuyện thường khi người ta cúi
xuống. Có gì đặc biệt lắm đâu! Không, hoàn toàn không có gì hết.
Ruồi
trâu nhặt mẩu giấy đưa ra chỗ sáng và cẩn thận mở ra xem:
"Thế
nào anh cũng phải ra đêm nay. Đến mai Dế mèn sẽ bị chuyển đi nơi khác. Đây là
thời cơ duy nhất"
Anh xé
vụn mảnh giấy như đã xé vụn mảnh giấy nhận được trước đây cầm lấy giũa và lại
nghiến răng cưa, cưa một cách kiên nhẫn, lì lợm và cố sống cố chết.
Một giờ
đêm. Sau ba tiếng đồng hồ, sau chấn song đã hàng phục, chỉ còn hai cái nữa là
có thể tụt xuống đất được...
Những
cơn đau dữ dội trước kia thoáng hiện ra trong trí anh. Cơn đau cuối cùng vừa
xảy ra vào quãng đầu năm mới. Anh rùng mình nhớ lại năm đêm đau kinh khủng ấy.
Nhưng lần ấy cơn đau không đến đột ngột như thế này. Chưa bao giờ cơn đau nổi
lên đột ngột như bây giờ.
Ruồi
trâu bỏ rơi chiếc đũa và bất giác chắp hai tay. Và từ khi theo thuyết vô thần
lần đầu tiên trong cơn tuyệt vọng vô biên anh thốt lên lời cầu nguyện. Anh cầu
nguyện một cái gì đó nhưng không biết là cầu nguyện cái gì mà cũng có thể là
cầu nguyện hết thảy mọi cái.
-Đừng ốm
hôm nay! Mai hãy ốm ! Đến mai bất ta chịu đựng cái gì cũng được chứ đừng bắt
phải chịu đựng hôm nay.
Anh im
lặng một lát, hai tay bóp chặt thái dương rồi lại cầm lấy giũa tiếp tục cưa..
Một giờ
rưỡi. Chỉ còn một chấn song cuối cùng. Hai ống tay áo ruồi trâu đã rách tan,
đôi môi ứ máu trước mắt là một màn sương đỏ, mồ hôi chảy nhễ nhại trên trán
nhưng Ruồi trâu vẫn cưa, cưa mãi...
Mãi tới
rạng đông, Mông-ta-ne-li mới chợp mắt được. Ông ta bị dằn vặt vì thao thức. Mấy
phút đầu còn ngủ được yên giấc nhưng sau thì cứ nằm mê.
Mới đầu
những cơn mê còn lờ mờ và rối loạn. Nhưng sau những mẩu hình ảnh cứ hiện ra mỗi
lúc một rõ đã để lại cho ông một cảm giác đau đớn khắc khoải mơ hồ. Bây giờ ông
lại ước gì mình không ngủ được vì ông thấy mình lại đang chìm đắm vào một giấc
mơ quen thuộc và ghê gớm đã từng giày vò ông trong suốt mấy năm trời. Và mặc dù
là trong cơn mơ Mông-ta-ne-li vẫn biết không phải mình mơ như thế lần đầu tiên.
Này đây
ông thấy mình đang lang thang ở một nơi hiu quạnh, cố tìm một xó yên ổn để nghỉ
ngơi. Nhưng chỗ nào cũng thấy người ta đi lại, bàn tán cười đùa kêu la cầu kinh
và rung chuông ầm ĩ. Có lúc ông thấy mình đi thoát khỏi chốn huyên náo ấy lúc
thì lại nằm trên một chiếc ghế gỗ. Mông-ta-ne-li nhắm chặt mắt, lấy cả hai tay
bưng lấy mắt cho khỏi chói và tự nhủ thầm "Bây giờ chắc là sẽ ngủ được
đây" Nhưng đám người lại ồ lên kêu la ầm ĩ. Người ta gọi tên ông kêu váng
"Tỉnh dậy, tỉnh dậy nhanh lên chúng tôi đang cần ông đây"
Và, này
đây, Mông-ta-ne-li đang ở giữa những căn phòng sang trọng trong một toà lâu đài
nguy nga. Chỗ nào cũng đầy những ghế bành tráng lệ và đi văng thấp và êm ái.
Màn đêm buông xuống. Mông-ta-ne-li nghĩ thầm "Thôi tìm được chỗ yên tĩnh
này chắcc ta sẽ ngủ được" Rồi ông chọn một căn phòng thật tối vào đấy nằm.
Nhưng ánh đèn chói loá bỗng rọi tới mắt ông một cách tàn nhẫn. Rồi có tiếng hét
vào tai ông " Dậy đi, có người gọi ông kìa!"
Mông-ta-ne-li
lại đứng dậy , lảo đảo bước chân nam đá chân chiêu như một người bị thương
nặng. Chuông điểm một giờ và ông biết rằng một nửa khoảng đêm ngắn ngủi và quý
báu đã trôi qua. Hai ba bốn năm giờ. Đến khoảng sáu giờ thành phố sẽ tỉnh dậy
và sẽ không còn gì là yên tĩnh nữa.
Mông-ta-ne-li
lẻn vào một buồng khác. Vừa định ngả xuống giường đã nghe có kẻ hét " Đấy
là giường của tôi" Tuyệt vọng, ông lại bỏ đi nơi khác.
Từng giờ
cứ trôi qua Mông-ta-ne-li vẫn thất thểu trên những hành lang dài dằng dặc của
toà lâu đài. Đồng hồ điểm năm tiếng. Bình minh xám ngắt và ghê gớm đã bò lại
gần và đẩy lùi đêm tối nhưng ông vẫn không tìm được nơi yên tĩnh. Ôi! Đau khổ !
Trời sắp sáng rồi.. Lại một ngày đau khổ !
Trước
mặt Mông-ta-ne-li là một đường hầm dài vô tận, chan hoà ánh sáng chói lọi của
những chiếc đèn cây, đèn treo trên trần và những tiếng chân khiêu vũ, tiếng
cười nói, tiếng nhạc rộn ràng vẫn từ đâu phía trên vang lại qua các lớp chấn
song trên trần của gian hầm thấp bé ấy. Hình như trên ấy người trên thế giới
của những người sống người ta đang hội hè gì. Giá tìm được chỗ nào để chợp mắt
một tí thì sung sướng biết bao! Một chỗ nhỏ xíu thôi cũng được, một ngôi mồ
cũng được ! Chưa nghĩ xong thì Mông-ta-ne-li đã thấy mình đứng bên cạnh một lỗ
huyệt mở rộng. Dưới huyệt toả lên một mùi chết chóc, hôi thối. Nhưng có hề chi!
Chợp mắt được là tốt rồi.
Bỗng
Mông-ta-ne-li nghe thấy tiếng nói của Gơ-lê-đi-xơ :"Đây là mồ của
tôi!" Bà gạt chiếc khăn liệm đã rữa nát, ngẩng đầu lên, mắt trừng trừng
nhìn Mông-ta-ne-li.
Mông-ta-ne-li
quỳ sụp xuống giơ hai tay về phía bà mà cầu khấn :
"Gơ-lê-đi-xơ!
Gơ-lê-đi-xơ ! Thương tôi với! Cho tôi ngủ ở đây. Tôi không nài xin tình yêu của
em, tôi không đụng tới người em, tôi không dám nói với em một lời nào mà chỉ
xin em cho tôi nằm xuống bên cạnh và ngủ yên đi ! Gơ-le-đi-xơ thân yêu ! Tôi đã
khổ nhiều vì mất ngủ ! Tôi không thể sống được thêm một ngày nào nữa. Ánh sáng
đang đốt cháy linh hồn tôi, tiếng động đang làm vỡ nát đầu óc tôi. Gơ-lê-đi-xơ
Cho tôi xuống mồ của em và nằm ngủ bên em!"
Mông-ta-ne-li
định lấy khăn liệm của bà che lên mặt, nhưng bà lùi lại và hét lên:
-"Ông
làm thế là phạm tội với Chúa ! Ông nên nhớ ông là một Thầy cả!"
Mông-ta-ne-li
lại thất thểu lê bước đi hết nơi này đến nơi khác. Ông bước tới một bờ biển đá
lởm chởm tràn đầy ánh nắng. Sóng biển dạt dào xô vào bờ như tiếng rên rỉ thảm
thiết, vô tận.
Ông nói
:
- Biển
cả chắc sẽ thương ta ! Vì biển cả cũng như ta mệt đến chết rồi, nó cũng thao
thức mãi mà vẫn không sao ngủ được !
Giữa lúc
ấy thì Ac-tơ hiện lên trên vực mặn mà thét lên :"Đây là biển của
tôi!"
- Thân
lạy đức Hồng y! Thân lạy đức Hồng y!
Mông-ta-ne-li
vội vàng mở choàng đôi mắt. Có tiếng người gõ cửa, ông đứng dậy như một cái máy
và mở cửa ra cho người đầy tớ. Thấy mặt ông méo mó, nhăn nhúm lại vì khiếp sợ
anh ta nói :
- Thưa
đức Hồng y, ngài ốm phải không ạ ?
Mông-ta-ne-li
đưa cả hai tay lên sờ trán :
- Không,
ta ngủ đấy thôi. Con làm ta sợ quá.
- Xin
đức Hồng y tha lỗi lúc sáng sớm con mơ màng nghe tiếng chân của ngài trong
phòng vì thế con tưởng..
- Thế ra
bây giờ đã trưa lắm rồi ư ?
- Bẩm đã
chín giờ rồi ah. Đại tá Phe-ra-ri đã đến và có chuyện rất cần muốn gặp đức Hồng
y. Đại tá biết rằng ngài hay dậy sớm và..
- Ông ấy
ở dưới nhà phải không ?..Ta xuống bây giờ.
Mông-ta-ne-li
mặc quần áo rồi vội vã xuống nhà dưới.
Viên đại
tá lễ phép nói :
- Tôi
mạo muội xin đức Hồng y tha lỗi..
- Chắc
không có việc gì xảy ra chứ ?
- Chao
ôi ! Thưa đức cha ! Suýt nữa thì Ri-va-ret trốn thoát.
- Thế
nghĩa là chưa xảy ra việc gì quan trọng cả chứ gì. Chuyện ra làm sao ?
- Bẩm
chúng tôi bắt được hắn ta cạnh cửa sắt. Khoảng ba giờ sáng khi đội tuần tra đi
qua sân thì một người lính vấp phải một vật gì. Soi đèn thì thấy Ri-va-ret nằm
ngất ở ngay lối đi. Họ liền báo động và gọi tôi dậy. Tôi xuống xem xà lim thì
chấn song sắt đã bị cưa, trên cửa sổ có một đoạn dây bằng vải áo. Hắn ta theo
dây tụt xuống và bò dọc theo tường thành. Té ra cửa sắt dẫn tới đường hầm không
khoá. Chắc là toán lính canh đã bị mua chuộc.
- Nhưng
tại sao hắn lại nằm ngất ở lối đi? Ngã trên tường thành xuống à ?
- Lúc
đầu tôi cũng nghĩ thế nhưng y sĩ nhà tù khám không thấy có vết tích gì cả.
Người lính canh trực phiên ngày hôm qua báo rằng lúc đem cơm chiều đến thì
Ri-va-rét có vẻ mệt nặng không chịu ăn uống gì cả. Nhưng chuyện ấy là láo toét!
Người ốm thì làm sao cưa được chấn song, làm sao bò trên tường thành được! Vô
lý !
- Hắn có
khai gì không ?
- Thưa
đức Hồng y, hắn chưa tỉnh.
- Đến
giờ còn chưa tỉnh à ?
- Có lúc
hơi tỉnh, hắn rên rỉ rồi lại ngất đi.
- Lạ
nhỉ, y sĩ bảo sao ?
- Ông ta
cũng chẳng biết nghĩ sao . Ông ta không tìm được triệu chứng yếu tim nên cũng
không giải thích được bệnh trạng của Ri-va-ret. Nhưng dù sao cũng thấy rõ một
điều là lúc gần tới đích thì Ri-va-ret bỗng nhiên ngất đi. Tôi cho rằng Đức
chúa lời rủ lòng thương chúng ta.
Mông-ta-ne-li
hơi cau mày. Ông hỏi :
- Bây
giờ các ông định làm thế nào ?
- Đó là
vấn đề tôi phải giải quyết trong mấy ngày gần đây. Còn bây giờ thì tôi được
môtbại học tốt là hễ tháo gông cùm cho hắn thì kết quả như thế đấy.
Mông-ta-ne-li
ngắt lời :
- Tôi
mong rằng ông sẽ không gông cùm hắn ta lại nữa trong khi hắn ta còn ốm. Người
đã như thế thì còn chạy trốn làm sao được.
Bước ra
khỏi phòng viên đại tá lẩm bẩm một mình :
- Không
thể để xảy ra lôi thôi lần nữa. Mặc xác lão Hồng y muốn làm gì thì làm.
Ri-va-ret ốm hay khỏe ta cũng nhất định không chịu tháo cùm cho hắn.
*
* *
- Nhưng
sao lại thế được nhỉ? Đến phút cuối cùng sắp xong cả rồi, đã ra đến tận cửa rồi
mà còn ngất đi là làm sao?... Thật hết sức trớ trêu thế nào ấy.
Mác-ti-ni
đáp:
- Tôi
nói để anh biết nhé, theo tôi điều duy nhất có thể xảy ra là cơn đau hồi trước
đã trở lại với anh ấy. Lúc còn có sức bao nhiêu thì anh ấy cố vật lộn với nó
bấy nhiêu, nhưng xuống đến sân kiệt hết sức rồi thì anh ấy ngất đi.
Mác-cô-nê
giận điên lên, gõ tẩu thuốc thật mạnh cho tàn rơi xuống.
- Thôi,
dù sao thế cũng là hết rồi, cơ sự đã đến thế này thì chúng ta đành bó tay.
Thương hại anh ta quá!
- Ừ,
thương hại thật!
Mác-ti-ni
khẽ nhắc lại qua một hơi thở, và anh chợt bắt đầu hiểu rằng đối với cả bản thân
anh, nếu không có Ruồi Trâu thì thế giới này sẽ trở nên trống trải và buồn
thảm.
- Chị ấy
nghĩ thế nào?
Mác-cô-nê
hỏi vậy và nhìn vế phía cuối phòng. Giê- ma đang ngồi một mình, tay thẫn thờ
khoanh trên lòng, cặp mắt nhìn thẳng vào cõi hư vô phía trước mặt.
- Tôi
cũng chưa hỏi. Từ khi biết tin đến giờ chị ấy chẳng nói gì cả. Thôi, cứ để cho
chị ấy yên.
Giê- ma
dường như không biết rằng trong phòng còn có họ, nhưng cả hai người đều hạ thấp
giọng xì xào y như trước mặt họ là một xác chết vậy. Mấy phút im lặng nặng nề
trôi qua. Mác-cô-nê đứng dậy, nhét tẩu thuốc vào túi.
- Đến
chiều tôi sẽ quay lại.
Nhưng
Mác-ti-ni ra hiệu ngăn anh lại.
- Đừng
đi vội, tôi có chuyện cần bàn với anh - Mác-ti-ni càng hạ thấp giọng, thì thầm
- Theo anh thì thực không còn hy vọng gì nữa hay sao?
- Thì
còn hy vọng vào đâu được nữa. Không có cách nào bố trí cho Ri-va-ret vượt ngục
được lần thứ hai nữa đâu. Dù Ri-va-ret có khoẻ lại, đủ sức đảm đương chăng nữa,
thì chúng ta cũng đành chịu bó tay. Đám lính gác bị tình nghi đều đã bị thay cả
rồi, và Dế mèn cũng không thể giúp chúng ta được nữa, chắc chắn là như vậy.
Bỗng
Mác-ti-ni hỏi:
- Thế
nếu Ri-va-ret hồi sức lại, chúng ta có làm được gì bằng cách đánh lạc hướng sự
chú ý của tụi lính gác không?
- Đánh
lạc hướng sự chú ý của lính gác? Ý anh là thế nào?
- Tôi
chợt có ý nghĩ như thế này. Đến ngày lễ Viếng Mình Thánh (1), khi đám rước lễ
đi qua sát pháo đài, nếu trà trộn vào được, tôi sẽ chặn đường viên Giám binh,
bắn vào mặt hắn. Thể nào bọn lính canh cũng sẽ xô lại bắt tôi. Thừa lúc nhốn
nháo, có lẽ các anh có thể giúp cho Ri-va-ret tháo chạy được. Thật ra đấy chưa
đáng là một kế hoạch... mà mới chỉ là một ý thoáng hiện ra trong đầu.
Nét mặt
trở nên rất nghiêm trọng, Mác-cô-nê bảo:
- Tôi e
chưa chắc đã làm được thế. Tất nhiên cũng phải suy nghĩ rất nhiều xem sẽ có thể
làm gì được không. Nhưng...
Anh dừng
bước, nhìn Mác-ti-ni:
-
Nhưng... nếu có thể làm được thế, thì anh... có sẽ làm không?
Mác-ti-ni
vốn là con người thận trọng trong lúc bình thường, thế nhưng đây không phải là
lúc bình thường nữa rồi. Anh nhìn thẳng vào mắt Mác-cô-nê. Anh nhắc lại:
- Anh
hỏi tôi có sẽ làm không à? Anh thử nhìn chị ấy xem.
Không
cần giải thích gì thêm nữa. Những lời đó đã nói lên tất cả. Mác-cô-nê quay lại
nhìn xuống phía cuối buồng.
Từ lúc
họ bắt đầu câu chuyện đến giờ, Giê- ma vẫn không mảy may cử động. Gương mặt chị
không có vẻ gì là ngờ vực, sợ hãi và thậm chí cả đau đớn nữa, mà chỉ còn có
bóng đen của thần chết. Nhìn chị, Mác-cô-nê bỗng ứa nước mắt. Anh mở cánh cửa
trông ra hàng hiên mà gọi:
-
Mi-ke-lê, nhanh tay lên. Các anh sắp làm xong công việc chưa? Còn hàng trăm
việc trước mắt kia kìa!
Mi-ke-lê
vội từ hàng hiên bước vào, theo sau là Ginô.
- Xong
rồi đây. Tôi chỉ còn định hỏi bà...
Mi-ke-lê
đang định tiến đến chỗ Giê- ma thì Mác-ti-ni đã nắm tay kéo lại:
- Thôi
đừng. Nên để chị ấy ngồi một mình.
Mác-cô-nê
tiếp lời:
- Để cho
chị ấy yên. Chúng ta xen vào chẳng giúp được gì lắm đâu. Chúa biết chúng ta ai
cũng đau khổ cả. Nhưng chị ấy còn đau khổ hơn nhiều, tội nghiệp chị ấy!
--- ---------.
(1) Corpus Domini day (tiếng Latin): cũng gọi
là ngày Viếng Thánh Thể hoặc lễ Mình Máu Thánh, một trong những ngày lễ trọng
của Công giáo, thường tiến hành vào tháng sáu hàng năm.
RUỒI
TRÂU
Chương
23
Suốt một
tuần lễ liền, Ruồi Trâu đã mê man vật vã với một cơn đau dữ dội. Thế mà viên
Giám binh đã trở nên hung hãn hơn do sợ hãi và bối rối, chẳng những đã cho cùm
cả chân tay anh lại, còn đã đòi bằng được việc dùng dây da cột chặt anh vào
giường sắt. Dây da siết căng đến nỗi cứ hơi động đậy là cứa vào da thịt. Cho
tới tận chiều ngày thứ sáu, Ruồi Trâu vẫn cắn răng chịu đựng với tinh thần
quyết tâm khắc khổ và ngoan cường. Nhưng rồi ý chí kiêu hãnh của anh cũng đã
nhụt xuống và anh đành nuốt nước mắt xin người y sĩ nhà tù cho một liều thuốc
phiện. Người y sĩ rất muốn cho ngay. Nhưng viên Giám binh nghe được tin thì lập
tức cấm ngặt "mọi sự dại dột tương tự". Ông ta bảo:
- Ông
biết hắn xin thuốc phiện để làm gì? Hắn là chúa giả vờ, bây giờ hắn định đánh
thuốc mê lính canh hoặc lại định giở trò quái quỷ gì đấy. Ri-va-ret là thằng
tinh ranh ghê gớm lắm.
Người y
sĩ cố nhịn cười, đáp:
- Tôi
chỉ cho một liều nhỏ thôi, không đủ đánh thuốc mê lính canh được đâu. Còn
chuyện giả vờ thì cũng không đáng sợ lắm. Xem chừng anh ta sắp chết đến nơi
rồi.
- Dù
sao, tôi cũng không cho phép ai được cho hắn uống thuốc phiện. Nếu muốn ưa nhẹ
thì hắn phải biết điều mới được chứ. Hắn hoàn toàn đáng phải chịu một chế độ kỷ
luật nghiêm khắc một chút. Đó là một bài học dạy cho hắn chớ chơi trò bịp bợm
về chấn song xà lim một lần nữa.
Người y
sĩ đánh bạo nói:
- Nhưng
pháp luật không cho phép tra tấn, mà ông đang đi mấp mé đến chỗ đó một cách rất
nguy hiểm rồi đấy.
Viên
Giám binh đốp lại:
- Theo
tôi, pháp luật không hề nói gì tới thuốc phiện cả.
- Cái đó
tuỳ ông quyết định thôi, thưa đại tá. Nhưng tôi mong thế nào ông cũng nên cởi
bỏ dây da cho tù nhân. Trói như thế chỉ làm cho người ta thêm đau đớn một cách
không cần thiết. Bây giờ không lo Ri-va-ret chạy trốn được nữa rồi. Dù có thả
ra anh ta đứng cũng không vững nữa rồi.
- Ông
bạn thân mến của tôi ơi, ông nên nhớ rằng đốc tờ cũng vẫn có thể lầm lẫn như
mọi người đời. Tôi đã cho trói hắn an toàn rồi thì cứ để mặc cho hắn bị trói.
- Vậy,
chí ít ông cũng phải cho nới dây ra một chút. Trói căng như thế thì dã man quá.
- Trói
thế nào thì cứ để nguyên xi như thế. Và tôi xin ông đừng nói chuyện dã man hay
không dã man với tôi nưã. Nếu tôi đã làm là tôi có đủ lý do.
Cứ như
thế đêm thứ bảy trôi qua mà không có một sự nới lỏng nào. Suốt đêm nghe tiếng
rên xiết như xé lòng người của Ruồi Trâu, người lính gác đứng ngoài cửa xà lim
phát rùng mình, chốc chốc lại phải làm dấu thánh giá. Cuối cùng Ruồi Trâu đã
không chịu đựng nổi nữa rồi.
Sáu giờ
sáng, trước khi đổi gác, người lính khẽ mở khoá cửa bước vào xà lim. Anh ta
biết như thế là phạm kỷ luật rất nặng, nhưng nếu trước khi đi không thân tình
an ủi Ruồi Trâu lấy một câu thì anh không đành lòng.
Anh thấy
Ruồi Trâu nằm im không động đậy, mắt nhắm nghiền, mồm há hốc. Anh đứng im lặng
một lúc rồi cúi xuống hỏi:
- Thưa
ông, ông có cần tôi giúp gì không? Tôi chỉ ở đây được một phút thôi.
Ruồi
Trâu mở mắt và rên rỉ:
- Anh cứ
mặc tôi, anh cứ mặc tôi...
Người
lính chưa kịp quay ra thì Ruồi Trâu đã thiếp đi.
Mười
ngày sau, viên Giám binh lại đến lâu đài xin yết kiến, nhưng người ta cho biết
Hồng y giáo chủ đi thăm người ốm ở Piêvê Đốttavô (1) đến chiều mới về. Tối hôm
ấy, mới ngồi vào bàn ăn thì ông ta được đầy tớ vào báo:
- Đức
Hồng y muốn nói chuyện với ông.
Viên
Giám binh vội soi gương thấy sắc phục đã chỉnh tề bèn lên mặt rất oai nghiêm mà
bước vào phòng khách. Mông-ta-ne-li đang ngồi, trầm ngâm nhìn ra cửa sổ, ngón
tay khẽ gõ vào tay ghế, đôi hàng lông mày nhíu lại hằn xuống thành một vết giữa
trán, lộ vẻ lo âu.
Mông-ta-ne-li
cắt ngang những lời khách sáo của viên Giám binh bằng một giọng có chút uy nghi
mà người ta chưa từng thấy ông mang vẻ đó khi nói với con dân.
- Nghe
nói sáng nay ông đến gặp tôi. Và có lẽ ông đến cũng là vì câu chuyện mà bây giờ
tôi muốn nói với ông.
- Thưa
Đức Hồng y, sáng nay tôi đến để trình về việc Ri-va-ret.
- Tôi
cũng đoán thế. Mấy ngày qua tôi cũng đã suy nghĩ nhiều về việc này. Nhưng trước
khi bàn việc chính, tôi muốn biết ông có điều gì mới định nói với tôi.
Viên
Giám binh lúng túng giật ria mép:
- Thưa
Đức Hồng y, chính tôi cũng đến để định lĩnh ý ngài về việc đó. Nếu ngài vẫn
phản đối chủ trương tôi định tiến hành, thì tôi chân thành cảm ơn nếu ngài dạy
bảo cho bây giờ phải làm gì. Thật lòng tôi chẳng biết nên làm thế nào cả.
- Có
tình hình gì rắc rối hay sao?
- Thứ
năm sau, mùng ba tháng sáu, là lễ Viếng Mình Thánh. Dù thế nào cũng phải giải
quyết vấn đề bằng cách này hay cách khác trước ngày đó.
- Phải,
thứ năm đúng là lễ Viếng Mình Thánh. Nhưng tại sao lại phải đặc biệt giải quyết
trước ngày đó?
- Thưa
Đức Hồng y, tôi rất lấy làm tiếc nếu có vẻ gì như tôi đã làm trái ý ngài, nhưng
nếu chưa trừ khử được Ri-va-ret trước ngày hôm đó thì tôi không thể gánh chịu
trách nhiệm về sự yên bình của thành phố được. Chắc ngài đã biết, ngày hôm đó
những phần tử nguy hiểm nhất của sơn dân sẽ tập trung trong thành phố này. Rất
có thể họ sẽ phá bung các cửa vào pháo đài mà đánh tháo cho Ri-va-ret. Nhưng
nhất định họ sẽ thất bại, tôi sẽ không để cho họ làm như thế đâu. Ít nhất tôi
sẽ dùng súng đạn quét sạch họ ngay trước cửa pháo đài. Nhưng thể nào họ cũng sẽ
chơi ta một vố trong ngày hôm ấy. Dân Rômanha này tính khí ngổ ngáo lắm, khi họ
đã rút dao ra thì...
- Tôi
thiết nghĩ chỉ cần chú ý một tí là ta có thể ngăn chặn không để tình hình đi
đến chỗ đổ máu. Tôi vẫn luôn thấy rằng dân ở đây rất dễ bảo. Chỉ cốt đối xử với
họ cho hợp tình hợp lý là được. Doạ dẫm và cưỡng bức dân Rômanha sẽ không đem
lại kết quả gì, mà còn làm cho họ ương bướng hơn. Nhưng tại sao ông lại nghĩ
rằng đang có âm mưu đánh tháo cho Ri-va-ret một lần nữa?
- Ngày
hôm qua và sáng nay, các thám tử mật vụ đã báo cho tôi biết, trong toàn vùng
hiện có rất nhiều tin đồn cho thấy chắc chắn là dân chúng đang chuẩn bị gây ra
tai hoạ gì đó. Nhưng chúng tôi chưa biết được đích xác, nếu biết thì đã dễ có
biện pháp đề phòng. Còn về phần tôi, từ sau khi Ri-va-ret suýt trốn thoát, tôi
nghiêng về phía càng phải sao cho an toàn hơn. Với con cáo quỷ quyệt như
Ri-va-ret không thể có cái gì gọi là quá cẩn thận được.
- Gần
đây tôi nghe nói là Ri-va-ret ốm nặng, không nói năng, không đi lại được. Vậy
bây giờ anh ta khỏi rồi sao?
- Thưa
Đức Hồng y, bây giờ hắn khá hơn trước nhiều rồi. Trước hắn ốm nặng lắm... nếu
không phải là giả vờ.
- Ông có
lý do gì để dự tính khả năng đó?
- Thưa
Đức Hồng y, y sĩ tin chắc không phải hắn giả vờ, nhưng bệnh tật của hắn hết sức
bí hiểm. Dù sao chăng nữa, hắn đã khoẻ lại và đang càng trở nên bất trị hơn bao
giờ hết.
- Thế
hắn đã làm những gì?
Nhớ tới
việc trói bằng dây da, viên Giám binh mỉm cười đáp:
- May
thay, hắn chưa làm được gì lắm cả. Nhưng thái độ hắn có một cái gì rất khó tả.
Sáng hôm qua tôi có vào buồng giam hỏi hắn mấy câu. Hắn chưa khoẻ lắm nên không
gọi lên thẩm vấn được. Và chính vì thế lại càng hay, vì chừng nào hắn chưa khoẻ
hẳn thì tôi thấy tốt hơn là ngăn chặn nguy cơ không để cho dân chúng trông thấy
hắn. Nếu không làm như thế thì bao nhiêu chuyện tưởng là phi lý đều có thể diễn
ra được hết.
- Vậy
ông đã đến hỏi cung anh ta rồi sao?
- Thưa
Đức Hồng y, vâng. Và tôi hy vọng rằng bây giờ hắn đã biết điều hơn một chút.
Mông-ta-ne-li
xét nét ngắm nhìn viên Giám binh như đang cứu xét một giống thú kỳ dị, đáng
ghét nào vậy. Nhưng may thay viên Giám binh đang cúi xuống sửa đai đeo kiếm nên
không nhìn thấy. Y bình thản nói tiếp:
- Tôi
không dùng biện pháp gì đặc biệt khắc nghiệt đối với hắn cả, nhưng tôi vẫn phải
nghiêm ngặt hơn, vì đây là nhà tù quân sự. Và tôi cũng nghĩ rằng nếu bây giờ tỏ
ra khoan dung một chút thì chắc có kết quả tốt. Tôi bảo hắn rằng nếu chịu biết
điều thì tôi sẽ nới lỏng kỷ luật nhiều hơn. Nhưng, thưa Đức Hồng y, ngài có
biết hắn trả lời tôi như thế nào không? Hắn nhìn tôi một lát y như con chó sói
trong cũi sắt rồi trả lời khá nhẹ nhàng rằng: "Đại tá, tôi không đứng dậy
bóp cổ ông được, nhưng răng tôi khá chắc đấy. Ông hãy để cái cổ họng của ông ra
xa một chút!" Hắn hung dữ như một con mèo rừng vậy.
Mông-ta-ne-li
bình tĩnh trả lời:
- Tôi
thấy cái đó chẳng có gì là lạ cả. Nhưng tôi đến đây là để hỏi ông một điều. Ông
thành thực tin rằng nếu cứ giam Ri-va-ret trong nhà tù ở đây thì sẽ rất nguy
hại cho sự bình yên của địa phương này chứ?
- Thưa
Đức Hồng y, tôi hoàn toàn tin chắc như vậy.
- Ông
nghĩ rằng muốn ngăn ngừa nguy cơ đổ máu thì nhất thiết phải dùng cách này hay
cách khác để trừ khử anh ta trước ngày lễ Viếng Mình Thánh có phải không?
- Tôi
chỉ có thể nhắc lại rằng nếu đến thứ năm hắn còn ở đây, thì lễ hội sẽ không sao
tránh khỏi có đụng độ và có lẽ đụng độ kịch liệt nữa là khác.
- Và ông
nghĩ rằng nếu anh ta không có đây thì sẽ không còn nguy cơ đó nữa chứ?
- Vâng,
thì hoặc là sẽ không có rối loạn nữa, hoặc... có chăng thì cũng chỉ là hò hét
và ném đá đôi chút thôi. Nếu Đức Hồng y có cách nào trừ khử được Ri-va-ret thì
tôi xin đảm bảo giữ được bình yên. Nếu không sẽ lôi thôi to. Tôi tin chắc họ
đang âm mưu cứu thoát Ri-va-ret một lần nữa và rất có thể là vào thứ năm sắp
tới. Bây giờ giả dụ đúng vào sáng hôm ấy bọn họ đột nhiên phát hiện Ri-va-ret
không còn ở trong pháo đài nữa, thì tự khắc kế hoạch của họ sẽ không thành và
họ cũng sẽ không có cớ để gây ra đụng độ nữa. Nhưng nếu đợi đến lúc họ ùa tới
rồi mới phản kích và để cho hàng đàn lũ dân chúng rút dao ra đâm chém, thì e
rằng trước khi trời tối thành phố này sẽ bị đốt thành bình địa mất.
- Vậy
tại sao ông không cho giải anh ta đi Ravena?
- Trời
ơi, thưa Đức Hồng y, nếu làm được thế thì tôi xin đội ơn mà làm ngay. Nhưng làm
sao tôi ngăn được bọn họ đánh tháo hắn ngay giữa đường? Dân miền núi tên nào
cũng có dao và súng kíp, hoặc vài thứ vũ khí gì đó, nếu họ dùng vũ khí tấn công
thì tôi không sao đủ lính để đánh lại được.
- Như
vậy là ông vẫn một mực đòi lập toà án binh và ông muốn tôi đồng ý.
- Xin
Đức Hồng y tha lỗi, điều duy nhất tôi yêu cầu ngài là giúp tôi phòng ngừa rối
loạn và đổ máu. Tôi sẵn sàng thừa nhận rằng đôi khi lập ra các hội đồng quân sự
như kiểu của đại tá Freddi là quá khắc nghiệt và không cần thiết, sẽ chỉ làm
cho dân chúng nổi giận chứ không thu phục được họ. Nhưng trong trường hợp này,
toà án binh sẽ là một biện pháp sáng suốt và về lâu dài còn là nhân từ nữa. Nó
sẽ ngăn chặn được bạo loạn, mà bản thân bạo loạn nếu nó xảy ra sẽ là một tai
hoạ khủng khiếp và rất có thể còn dẫn đến việc lập lại những hội đồng quân sự
mà trước đây Đức Thánh Cha đã huỷ bỏ.
Viên
Giám binh kết thúc bài diễn văn ngắn ấy một cách rất long trọng và chờ Hồng y
giáo chủ trả lời. Hắn đã phải chờ lâu, và câu trả lời lại là điều hắn không
mong chờ, khiến hắn phải sửng sốt.
- Đại tá
Pherari, ông có tin Đức Chúa Trời không?
- Thân
lạy Đức Hồng y! - Viên đại tá há hốc mồm, giọng hắn ta đầy kinh ngạc.
- Ông có
tin Đức Chúa Trời không?
Mông-ta-ne-li
nhắc lại và đứng dậy trừng trừng nhìn hắn với cặp mắt nghiêm nghị và thử thách.
Viên đại
tá cũng đứng dậy.
- Thưa
Đức Hồng y, tôi là một tín đồ Kitô giáo, và cho đến nay tôi chưa bao giờ bị rút
phép giải tội (1).
Mông-ta-ne-li
nâng chiếc thánh giá ở trước ngực mình lên:
- Vậy
trước thánh giá của Đấng Cứu chuộc (2) đã vì ông mà chịu chết, ông hãy thề là
đang nói thật cùng tôi.
Viên đại
tá đứng trơ như pho tượng, hoang mang nhìn trừng trừng vào cây thánh giá, phân
vân không hiểu mình phát điên hay Hồng y giáo chủ phát điên?
Mông-ta-ne-li
nói tiếp:
- Ông đã
yêu cầu tôi chấp thuận cái chết của một con người. Nếu ông thật lòng thì ông
hãy cúi hôn thánh giá mà nói cùng tôi, rằng ông tin là không còn cách nào khác
để ngăn ngừa một cuộc đổ máu to lớn hơn. Và ông hãy nhớ rằng, nếu ông nói dối
thì ông sẽ làm cho linh hồn bất tử của ông bị lâm nguy.
Sau một
thoáng im lặng viên Giám binh cúi xuống, đưa thánh giá lên môi.
Hắn nói:
- Tôi
tin thế.
Mông-ta-ne-li
từ từ quay gót.
- Mai
tôi sẽ trả lời ông dứt khoát. Nhưng trước hết tôi phải gặp Ri-va-ret, một mình
nói chuyện với anh ta.
- Thưa
Đức Hồng y... nếu được phép trình ngài thì tôi nói tôi tin chắc rằng ngài sẽ
hối tiếc về việc đó. Ngày hôm qua chính Ri-va-ret cũng đã nhắn lời lính canh
xin tôi cho hắn được gặp Đức Hồng y nhưng tôi làm ngơ, vì rằng...
Mông-ta-ne-li
đai lời:
- Làm
ngơ! Một con người đến bước đường cùng, nhắn lời cùng ông mà ông lại làm ngơ!
- Đức
Hồng y xá lỗi, chỉ vì tôi không dám để ngài phải bận tâm về thái độ hoàn toàn
chỉ là xấc xược của hắn đấy thôi. Tôi thừa hiểu Ri-va-ret và tin chắc rằng hắn
chỉ muốn sỉ nhục ngài. Cũng xin ngài cho tôi nói thêm, là néu một mình lại gần
hắn sẽ là cực kỳ khinh suất. Hắn thực sự nguy hiểm, chính vì thế tôi đã phải áp
dụng một vài biện pháp kiềm chế về thể chất thuộc loại nhẹ nhàng với hắn...
- Có
thật ông cho rằng một người ốm, tay không vũ khí, lại còn bị kiềm chế về thể
chất khá nhẹ nhàng, mà hoá ra lại nguy hiểm hơn trước không?
Mông-ta-ne-li
nói một cách khá ôn tồn, nhưng viên đại tá cảm thấy ngay ý khinh bỉ sâu cay
trong lời của ông ta và hắn tức đỏ mặt.
- Đức
Hồng y thấy cần làm gì thì xin ngài cứ làm. Tôi chỉ mong sao ngài khỏi đau khổ
khi phải nghe những lời báng bổ tệ hại của tên đó thôi.
- Theo
ông thì nỗi bất hạnh nào đau khổ hơn cho người Kitô giáo? Nghe những lời báng
bổ hay bỏ mặc người ta trong cơn hoạn nạn?
Viên
Giám binh đứng ngay đơ, bộ mặt quan chức của hắn trơ như mặt tượng gỗ. Hắn rất
cay cú về cách đối xử của Mông-ta-ne-li và hắn tỏ vẻ đặc biệt lễ phép để biểu
lộ sự bất mãn của mình. Hắn hỏi:
- Thưa
Đức Hồng y, ngài định đến thăm tù nhân vào lúc nào?
- Tôi
đến chỗ anh ta ngay bây giờ.
- Xin
tuỳ ý Đức Hồng y. Nhưng xin ngài vui lòng chờ cho một chút để tôi phái người
đến chuẩn bị cho hắn.
Viên
Giám binh đành phải xuống nước, từ bệ cao của quan chức tụt xuống cho nhanh.
Hắn không muốn để Mông-ta-ne-li trông thấy cảnh đã dùng dây da để trói phạm
nhân.
- Cám ơn
ông. Tôi muốn xem hiện tình hắn ra sao, không có gì phải chuẩn bị cả. Tôi sẽ đi
thẳng đến pháo đài. Chào đại tá. Sáng mai ông sẽ nhận được sự phúc đáp của tôi.
---
--------.
(1) Absolution (tiếng Anh): Cũng là sự tha
tội, sự xá giải.
(2) Redeemer (tiếng Anh): Cũng là Đấng Chuộc
tội, tức Chúa Kitô.
RUỒI
TRÂU
Chương
24
Nghe
tiếng mở khoá cửa xà lim, Ruồi Trâu uể oải quay mặt nhìn đi nơi khác với vẻ
dửng dưng. Anh yên trí rằng lại chỉ là tên Giám binh đến quấy rầy anh bằng một
cuộc hỏi cung. Nhưng có tiếng chân nhiều tên lính bước lên cầu thang nhỏ hẹp,
tiếng báng súng lách cách đập vào tường.
Đoạn có
tiếng kính cẩn nói:
- Thưa
Đức Hồng y, bậc thang dốc lắm đấy ạ.
Ruồi
Trâu giật bắn người, nhưng dây da càng siết chặt khiến anh đau điếng phải co
người lại, thở hổn hển.
Mông-ta-ne-li
bước vào xà lim cùng với một viên đội và ba người lính gác.
Viên đội
có vẻ căng thẳng thần kinh, bẩm:
- Xin
Đức Hồng y vui lòng chờ một chút, con đã cho người đi lấy ghế. Xin Đức Hồng y
tha lỗi. Nếu chúng con được biết trước để nghênh tiếp ngài thì chúng con đã
chuẩn bị tề chỉnh từ lâu.
- Không
cần chuẩn bị gì cả. Ông đội hãy làm ơn để chúng tôi nói chuyện riêng một lát.
Ông cùng với lính của ông đợi tôi ở dưới chân cầu thang chứ?
- Bẩm
vâng... thưa Đức Hồng y, ghế đây ạ. ngài cho phép đặt ghế cạnh ông ta chứ?
Ruồi
Trâu nằm, mắt nhắm nghiền, nhưng anh vẫn cảm thấy Mông-ta-ne-li đang nhìn mình.
Viên đội
nói:
- Thưa
Đức Hồng y, có lẽ ông ta ngủ.
Nhưng
Ruồi Trâu đã mở mắt, nói:
- Không
đâu.
Toán
lính đang bước ra cửa xà lim, bỗng nghe Mông-ta-ne-li kêu rú lên, họ bèn dừng
bước và quay lại thì thấy ông ta đang cúi nhìn những vòng dây da trói quanh
mình Ruồi Trâu.
Ông hỏi:
- Ai làm
chuyện này?
Viên đội
vò chiếc mũ lính:
- Thưa
Đức Hồng y, đó là do lệnh khẩn cấp của ngài Giám binh.
Mông-ta-ne-li
phân trần, tỏ vẻ rất đau lòng:
- Ông
Ri-va-ret, chuyện này tôi không hề biết gì cả.
Ruồi
Trâu mỉm cười chua chát:
- Tôi đã
từng nói với ngài rằng không... không bao giờ tôi mong chờ người ta xoa đầu
mình.
- Ông
đội, lệnh ra từ lúc nào?
- Thưa
Đức Hồng y, từ sau hôm ông ấy định trốn.
- Nghĩa
là cách đây hơn hai tuần lễ ư? Mang dao đến đây, cắt ngay dây ra.
- Xin
Đức Hồng y tha lỗi, ông y sĩ đã định cởi trói nhưng đại tá Pherari không cho.
- Mang
ngay dao đến đây.
Mông-ta-ne-li
không cất cao giọng, nhưng những người lính thấy mặt ông tái đi vì giận dữ.
Viên đội rút dao díp ra khỏi túi quần và cúi xuống cắt dây trói tay Ruồi Trâu.
Nhưng không phải là người khéo tay, anh ta lóng ngóng làm cho dây càng siết
chặt hơn, khiến Ruồi Trâu rùng mình, không nén nổi đau đơớ, cắn chặt lấy môi.
Mông-ta-ne-li
bước ngay lại:
- Ông
không biết làm, đưa dao đây tôi.
- A...
a... a!
Ruồi
Trâu duỗi hai tay, trút một hơi thở dài sung sướng khi đoạn dây da rơi xuống.
Một lát
sau Mông-ta-ne-li đã cắt xong cả dây trói chân.
- Ông
đội, hãy tháo nốt cả cùm cho ông ta rồi lại đây tôi bảo.
Mông-ta-ne-li
đứng bên cửa sổ, theo dõi cho tới khi viên đội ném những chiếc cùm xuống sàn,
rồi tiến lại gần anh ta, ông bảo:
- Ông thuật
lại cho tôi nghe mọi việc xảy ra trong thời gian qua.
Viên đội
sốt sắng kể lại tất cả những chuyện mà anh ta biết, nào là chuyện Ruồi Trâu ốm,
chuyện viên đại tá dùng những "biện pháp xử lý kỷ luật" đối với Ruồi
Trâu và chuyện viên y sĩ đã can thiệp nhưng không hiệu quả.
Rồi anh
ta nói thêm:
- Nhưng
thưa Đức Hồng y, theo con thì đại tá cố tình không ra lệnh cởi trói là để lấy
khẩu cung.
- Khẩu
cung?
- Thưa
Đức Hồng y, vâng. Hôm kia con nghe đại tá nói nếu ông đây muốn được cởi trói
thì - viên đội liếc mắt nhìn Ruồi Trâu - phải trả lời một câu hỏi của đại tá.
Bàn tay
Mông-ta-ne-li tì trên bậu cửa sổ bỗng nắm chặt lại. Toán lính đưa mắt nhìn
nhau, vì chưa bao giờ họ thấy Đức Hồng y điềm đạm này nổi giận cả.
Còn Ruồi
Trâu lúc bấy giờ, anh không hề để ý tới họ. Anh quên hết cả họ và cả mọi sự
trên đời này, trừ cảm giác được tự do về thân thể. Bị tù túng lâu nay cả tứ
chi, giờ đây anh khoan khoái vươn mình và vùng vẫy, sau những ngày chân tay bị
tê dại.
Hồng y
giáo chủ nói:
- Ông
đội, bây giờ ông ra được rồi. Ông chớ sợ phạm kỷ luật, vì ông có trách nhiệm
phải trả lời tôi. Ông nhớ trông cho cẩn thận, đừng để cho ai quấy rầy chúng
tôi. Nói chuyện xong tôi sẽ ra.
Khi toán
lính đã lui, cửa đã đóng lại, Mông-ta-ne-li đứng tựa khuỷu tay vào bậu cửa sổ
nhìn mặt trời đang lặn trong giây lát và để đợi cho Ruồi Trâu hít thở không khí
thêm ít phút. Sau đó, ông rời cửa sổ, ngồi xuống cạnh giường mà nói:
- Tôi
được biết ông muốn nói chuyện riêng với tôi. Nếu ông thấy dễ chịu đôi chút để
có thể nói điều ông cần nói với tôi, thì tôi xin sẵn sàng hầu chuyện ông.
Giọng
nói của Mông-ta-ne-li rất lạnh lùng, cung cách của ông cứng nhắc và uy nghi
khác hẳn bản tính tự nhiên của ông. Đối với ông, Ruồi Trâu khi chưa được cởi
trói, chỉ là một sinh linh đang bị giày xéo và đoạ đày. Nhưng giờ đây
Mông-ta-ne-li đã nhớ lại cuộc nói chuyện bữa trước và nhớ tới lời sỉ nhục thậm
tệ đã khép lại cuộc nói chuyện hôm ấy.
Ruồi
Trâu uể oải gối đầu lên một tay, ngước nhìn lên.
Anh vốn
có những bộ điệu duyên dáng bẩm sinh. Khi mặt anh bị che khuất trong bóng tối
thì người ta khó lòng đoán biết anh đã từng nếm trải bao nhiêu cực nhục. Nhưng
giờ đây khi anh nhìn lên, quay mặt ra ánh chiều còn sáng sủa thì thấy mặt anh
hốc hác và tái nhợt xiết bao, và thấy mấy ngày vừa qua đã để lại trên gương mặt
ấy những vết tích khủng khiếp nhường nào. Cơn giận dữ của Mông-ta-ne-li bỗng
dưng biến mất. Ông nói:
- Tôi e
rằng ông ốm quá mất rồi. Tôi thành thực tiếc là tôi không được biết sớm tất cả
cơ sự này. Nếu biết sớm tôi đã chặn lại từ trước.
Ruồi
Trâu nhún vai, thản nhiên nói:
- Trong
chiến tranh, cái gì mà chẳng là có lý. Đứng về lý thuyết, trên quan điểm đạo Cơ
đốc, ngài phản đối lối trói bằng dây da, nhưng nếu mong chờ viên đại tá cũng có
quan điểm như vậy thì vị tất đã là có lý? Hẳn là ông ta chẳng muốn nếm mùi dây
da lên chính da thịt mình như... như tôi. Nhưng đó là vấn đề sở... sở thích cá
nhân. Làm thế nào được? Tôi là kẻ đang bị chà đạp mà. Dù sao chăng nữa, Đức
Hồng y đến thăm tôi là rất có nhã ý. Nhưng có lẽ ngài lại cũng đứng trên quan
điểm đạo Cơ... Cơ đốc mà làm việc này! Thăm hỏi tù nhân mà! À phải, thế mà tôi
quên khuấy đi mất. "Khi ngươi làm điều ấy cho một trong những kẻ hèn...
kèn mọn nhất này" (1). Kể ra thì thăm hỏi cũng chưa thật đáng khen lắm,
nhưng dù sao "kẻ hèn mọn nhất này" cũng vẫn phải đội ơn ngài.
Hồng y
giáo chủ ngắt lời Ruồi Trâu:
- Ông
Ri-va-ret, tôi đến đây là vì ông chứ không phải vì tôi. Nếu ông không phải là
kẻ bị chà đạp như ông vừa nói, thì sau những lời ông nói bữa trước, tôi chẳng
đến gặp ông một lần nữa làm gì. Tôi không thể từ chối được ông, vì ông có đặc
quyền kép: vừa là người tù và lại vừa là người bệnh. Có thật ông muốn cho tôi
biết điều gì không, hay là ông chỉ gọi thân già này đến để bỡn cợt và sỉ vả?
Không có
tiếng trả lời. Ruồi Trâu đã nằm quay mặt đi, đưa một tay che mắt. Cuối cùng,
giọng khàn khàn, anh nói:
- Xin
lỗi làm phiền ngài... ngài làm ơn cho xin ngụm nước.
Trên cửa
sổ có một bình nước. Mông-ta-ne-li đứng dậy mang bình nước đến. Khi cúi xuống
luồn tay dưới lưng Ruồi Trâu để vực anh dậy, ông bỗng cảm thấy những ngón tay
lạnh lẽo và nhớp nháp của Ruồi Trâu siết chặt lấy cổ tay mình như một chiếc kìm
sắt.
Ruồi
Trâu thều thào:
- Ngài
cho tôi cầm tay... nhanh lên... chỉ một tí thôi. Ôi, đối với ngài có sao đâu!
Chỉ một phút thôi!
Anh lả
mình xuống, úp mặt vào tay Mông-ta-ne-li, toàn thân run rẩy.
Một lát
sau, Mông-ta-ne-li nói:
- Uống
chút nước đi.
Ruồi
Trâu lặng lẽ nghe theo rồi lại nằm xuống giường nhắm mắt lại. Khi tay
Mông-ta-ne-li sờ vào má anh, anh đã không thể hiểu được tâm trạng mình ra sao,
chỉ biết rằng đó là giây phút kinh khủng nhất trong đời.
Mông-ta-ne-li
kéo ghế lại sát giường rồi ngồi xuống.
Ruồi
Trâu nằm bất động như một xác chết. Mặt anh tái nhợt, hốc hác. Sau một hồi lâu
im lặng, anh mở mắt trừng trừng nhìn Hồng y giáo chủ với tia mắt của một con
ma. Anh nói:
- Cảm ơn
ngài. Tôi xin... xin lỗi... tôi nghĩ là ngài có hỏi tôi điều gì?
- Bây
giờ chắc chưa tiện để ông nói chuyện được. Nếu ông có điều gì muốn nói với tôi,
thì ngày mai tôi lại xin cố gắng đến.
- Không,
xin Đức Hồng y đừng đi vội. Quả là tôi không sao đâu. Mấy... mấy ngày qua tôi
hơi bị rối trí đấy thôi, mà có đến một nửa là rối trí vờ chứ không phải là rối
trí thật, ngài cứ hỏi ông đại tá thì chắc chắn ông ta sẽ bảo như vậy.
Mông-ta-ne-li
trầm tĩnh trả lời:
- Tôi
vốn ưa tự kết luận lấy.
- Ông
đại tá cũng... cũng thế thôi. Và, ngài biết không, đôi khi những kết luận của
ông ta cũng khá sắc sảo. Trông mặt khó mà đoán được ông ta sắc sảo đến thế,
nhưng thỉnh... thỉnh thoảng ông ta lại nảy ra những ý nghĩ rất độc đáo. Ví dụ
như thứ sáu tuần trước, phải, tôi nhớ là thứ sáu đấy... trong những ngày cùng
tháng tận này, tôi có hơi... hơi lẫn ngày đôi chút, nhưng không sao... hôm ấy
tôi có xin một liều thuốc phiện... điều này tôi nhớ rõ lắm mà. Lúc ấy ông ta có
vào đây tuyên bố rằng, nếu tôi cung khai kẻ nào mở... mở cửa sân cho tôi trốn
thì ông ta mới... mới cho thuốc phiện. Tôi còn nhớ ông ấy bảo rằng: "Nếu
thật là anh ốm anh đồng ý khai đi. Nếu anh không chịu khai thì chúng tôi sẽ xem
đó là một chứng... chứng tỏ rõ anh giả vờ." Cả đời tôi... tôi chưa bao giờ
thấy có chuyện khôi hài đến thế. Thật là một câu... câu chuyện hết sức nực
cười...
Và Ruồi
Trâu phá lên cười, một trận cười nghe đến váng cả tai, chói cả óc. Rồi anh quay
ngoắt lại nhìn Hồng y giáo chủ đang nín lặng, mà nói mỗi lúc một gấp gáp và nói
lắp đến nỗi khó lòng mà nghe được:
- Ngài
không... không thấy chuyện đó buồn cười sao? Dĩ... dĩ nhiên là không rồi. Đã là
tín... tín đồ thì còn... còn có đâu tính hài hước nữa. Cái gì các ngài cũng cho
là bi... bi kịch cả. Ví... ví dụ như tối hôm ở nhà... nhà thờ chính toà, trông
ngài oai nghiêm ra trò. mà nhân thể cả... cả tôi nữa, trông tôi cũng phải vào
vai rất tội nghiệp trong bộ quần áo khách hành hương! Vì thế tôi tin rằng chắc
ngài cũng... cũng không thể thấy được cái gì là khôi... khôi hài trong việc
ngài đến thăm tôi chiều nay...
Mông-ta-ne-li
đứng dậy.
- Tôi
đến cốt để nghe xem ông có gì cần nói không. Nhưng có lẽ ông còn đang quá xúc
động chưa thể nói ra được. Tốt hơn là để y sĩ cho ông một liều thuốc an thần
đã, để ông ngủ được một giấc rồi đến mai ta sẽ lại nói chuyện.
- Ngủ...
ngủ à? Ồ, thưa Đức Hồng y, tôi sẽ... sẽ tha hồ được ngủ say khi nào ngài đồng ý
với kế hoạch của ông đại tá. Một viên... viên chì, đó là liều thuốc an thần
tuyệt... tuyệt vời.
Mông-ta-ne-li
ngạc nhiên quay lại nhìn anh:
- Tôi
không hiểu ông nói gì.
Ruồi
Trâu lại phá lên cười:
- Thưa
Đức Hồng y, thưa Đức Hồng y, thật thà là đức... đức tính quan trọng nhất của
đạo Cơ đốc! Ngài... ngài tưởng tôi không... không biết rằng ông Giám... Giám
binh nằng nặc đòi ngài đồng... đồng ý cho lập Toà án binh hay sao? Ngài nên
đồng... đồng ý ngai đi thôi Đức Hồng y ạ, ở địa vị của ngài, bạn đồng giám chức
(1) nào mà chẳng làm thế? Cosi fan tutti (2). Mà ngài lại làm được bao nhiêu
chuyện phúc đức ấy chứ, chẳng... chẳng thiệt hại gì mấy đâu. Chuyện cỏn con ấy
có đáng gì mà ngài phải mất... mất ngủ mấy đêm liền!
Mông-ta-ne-li
ngắt lời:
- Xin
ông ngừng cười cho một phút, và xin ông cho biết làm thế nào ông nghe được mọi
chuyện đó? Ai nói với ông?
- Ông
đại... đại tá chẳng đã trình với ngài rằng tôi là quỷ... quỷ sứ chứ không phải
là người đó sao? Không ư? Vậy mà ông ta luôn mồm nói... nói với tôi điều đó!
Phải, tôi đã là quỷ sức đến mức có đủ phép để nhìn thấu khá nhiều ý nghĩ của...
của người khác. Thưa Đức Hồng y, ngài cho tôi là nguồn quấy nhiễu đáng ghét và
ngài rất mong có một... một ai khác thu xếp cho việc xử lý tôi sao cho lương
tâm nhạy... nhạy cảm của ngài khỏi bị cắn... cắn rứt. Tôi đoán khá đúng đấy
chứ, thưa Đức Hồng y?
Mông-ta-ne-li
lại ngồi xuống bên anh, nét mặt hết sức nghiêm nghị:
- Ông
hãy nghe tôi. Mặc dù ông biết được điều đó bằng cách nào đi nữa, điều đó cũng
là sự thật. Đại tá Pherari sợ rằng bạn bè ông lại đánh tháo cho ông một lần
nữa, nên ông ta muốn ngăn chặn bằng... cách mà ông vừa nói. Ông xem, tôi rất
thật bụng đối với ông...
Ruồi
Trâu chêm ngay vào bằng một giọng chua chát:
- Đức...
Đức Hồng y xưa nay vốn nổi tiếng thành... thành thật.
Mông-ta-ne-li
nói tiếp:
- Chắc
ông thừa hiểu là về mặt pháp lý tôi không có thẩm quyền gì về việc người đời...
Tôi là giám mục (3) chứ không phải là đặc sứ của Giáo hoàng. Nhưng tôi có uy
tín khá lớn trong địa phận này, nên nếu không được sự đồng ý của tôi, dù chỉ là
sự đồng ý mặc nhiên, thì đại tá Pherari cũng chẳng dám dùng đến các biện pháp
quyết liệt. Cho tới ngày hôm nay tôi vẫn hoàn toàn phản đối kế hoạch của ông
ta. Bây giờ ông ta đang cố hết sức thuyết phục tôi đứng về phía ông ta. Ông ta
lấy cớ rằng, thứ năm tuần tới giáo hữu đi rước đông đảo thì các bạn bè của ông
có thể dùng bạo động vũ trang để cứu thoát ông và sẽ gây ra đổ máu. Ông có nghe
tôi nói không đấy?
Ruồi
Trâu đang lơ đãng nhìn ra cửa sổ. Anh quay lại uể oải trả lời:
- Có,
tôi vẫn nghe.
- Đêm
nay chắc ông thật sự là đang còn mệt, không thể nói chuyện nhiều. Sáng mai tôi
lại đến thì hơn. Vấn đề nghiêm trọng lắm, ông cần phải tập trung chú ý mới
được.
Ruồi
Trâu vẫn uể oải trả lời:
- Tôi
muốn kết thúc câu chuyện ngay bây giờ. Mỗi lời ngài nói tôi vẫn nghe thấy hết.
Mông-ta-ne-li
bèn nói tiếp:
- Thế
cho nên, nếu quả vì ông mà xảy ra bạo loạn và đổ máu thì chính tôi sẽ phải chịu
trách nhiệm rất lớn, vì tôi đã phản đối ông đại tá. Tôi cũng cho răng chí ít
ông ta nói có phần đúng, mặt khác, tôi cảm thấy nỗi hiềm khích cá nhân của ông
ta đối với ông đã làm cho ông ta không thể vô tư và đã khiến ông ta thổi phồng
nguy cơ lên. Tôi cảm thấy tình hình rất có khả năng là như vậy, kể từ lúc tôi
thấy sự tàn ác nhục nhã của ông ta - Mông-ta-ne-li đưa mắt nhìn đống dây da và
cùm gông ngổn ngang trên sàn nhà - Nếu tôi đồng ý thì tức là tôi giết ông! Nếu
tôi phản đối thì tôi sẽ đứng trước nguy cơ làm nguy hại tới tính mệnh của bao
nhiêu người vô tội. Tôi đã tận tâm suy nghĩ về việc này, hết lòng tìm một lối
thoát ra khỏi sự lựa chọn khủng khiếp đó. Và bây giờ tôi đã có một ý định rõ
rệt.
- Ý định
giết tôi để... để cứu bao nhiêu người vô tội chứ gì? Một người Cơ đốc nào cũng
chỉ có thể đi đến quyết định như thế mà thôi. "Nếu tay phải của bay gây...
gây nên tội cho bay... và v.v..." (1) Mà tôi cũng không được hân hạnh làm
tay... tay phải của ngài, lại còn xúc phạm cả đến ngài nữa. Kết... kết luận đã
rõ ràng rồi. Ngài không thể nói trắng ra như vậy hay sao mà phải giáo đầu dài
dòng thế?
Ruồi
Trâu uể oải nói với vẻ vừa thản nhiên vừa khinh bạc, dường như đã chán chường
về toàn bộ câu chuyện này rồi.
Sau một
phút im lặng, anh hỏi:
- Thế
nào ạ? Có phải quyết định của Đức Hồng y là như thế không?
- Không.
Ruồi
Trâu trở mình, gối đầu lên hai tay, mắt lim dim nhìn Mông-ta-ne-li. Hồng y giáo
chủ ngồi, cúi gục đầu miên man suy nghĩ, ngón tay khẽ gõ vào tay ghế. Trời,
đúng là cử chỉ xa xưa quen thuộc quá!
Cuối
cùng, Mông-ta-ne-li ngẩng đầu nói:
- Tôi đã
quyết định làm một việc mà có lẽ xưa nay chưa ai xử sự như tôi. Khi nghe nói
ông muốn gặp, tôi lập tức quyết định đến ngay. Tôi đã nói cho ông biết hết mọi
việc, như ông đã thấy, và đặt vấn đề vào tay ông.
- Vào...
tay tôi?
- Ông
Ri-va-ret, tôi đến đây thăm ông bình thường như người với người, chứ chẳng nhân
danh là Hồng y giáo chủ, là giám mục, hoặc là quan toà. Tôi không hề hỏi xem
ông có biết gì về một kế hoạch như ông đại tá đã nói. Tôi thừa hiểu rằng nếu
ông có biết chăng nữa, thì đó vẫn là điều bí mật mà ông không thể bộc lộ với
tôi. Nhưng xin ông hãy đứng vào địa vị tôi. Tôi già rồi, chắc chắn là chẳng còn
sống được bao lâu nữa. Tôi muốn nằm xuống mồ với hai tay không vấy máu...
- Hai
bàn tay ngài chưa hề vấy máu sao, thưa Đức Hồng y?
Gương
mặt hơi biến sắc, nhưng Mông-ta-ne-li vẫn bình tĩnh nói tiếp:
- Tôi đã
suốt đời chống lại các thủ đoạn đàn áp và sự tàn bạo ở bất cứ đâu, và bao giờ
tôi cũng phản đối xử tử dưới bất kỳ hình thức nào. Thời Giáo hoàng trước đây,
nhiều lần tôi kiên quyết chống các hội đồng quân sự nên đã bị mất lòng ưu ái
của Đức Thánh Cha. Cho tới nay, bao giờ tôi cũng dùng uy tín và quyền lực của
tôi vào việc từ thiện. Xin ông hãy tin tôi, chí ít ở chỗ là tôi đã nói thật.
Bây giờ tôi bị đặt trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu tôi từ chối cách
giải quyết của ông đại tá thì tôi sẽ đẩy thành phố vào nguy cơ bạo loạn cùng
với mọi hậu quả của nó. Mà lại là để cứu lấy một người vẫn thành lăng mạ tôn
giáo của tôi, vu cáo, bêu riếu và sỉ nhục cá nhân tôi (mặc dù điều này chỉ là
một tiểu tiết không quan trọng lắm), và tôi tin chắc rằng nếu được sống sót thì
người đó vẫn sẽ sử dụng cuộc đời mình vào mục đích xấu. Nhưng dù sao, đây vẫn
là vấn đề cứu vớt tính mạng một con người.
Mông-ta-ne-li
ngừng lời giây lát rồi nói:
- Ông
Ri-va-ret, tất cả những hoạt động của ông mà tôi được biết, đều buộc tôi phải
coi ông là một người xấu xa, độc ác và từ lâu tôi tin rằng ông là con người
liều lĩnh, vừa thô bạo lại vừa tàn nhẫn. Cho tới bây giờ tôi vẫn còn phần nào
vướng vất ý nghĩ đó. Nhưng hai tuần qua tôi thấy ông là người dũng cảm và trung
thành với đồng chí của mình. Ông cũng đã làm cho binh lính yêu mến và kính
phục, điều đó không phải ai cũng làm được. Có lẽ tôi đã xét lầm ông và nhất
định trong ông có một cái gì tốt hơn cái vẻ bề ngoài của ông. Tôi kêu gọi cái
bản chất tốt đẹp ấy trong ông, và tôi trang nghiêm, trân trọng yêu cầu ông, với
lương tâm mình, ông hãy thành thật cho tôi biết: ở vào địa vị tôi ông sẽ làm
thế nào?
Im lặng
hồi lâu. Rồi Ruồi Trâu ngước nhìn lên.
- Ít ra
tôi cũng sẽ tự mình quyết định lấy những hành động của mình và gánh lấy mọi hậu
quả. Tôi sẽ không hèn nhát theo kiểu Cơ đốc giáo, lén lút đến nhờ vả người khác
giải quyết hộ vấn đề cho mình.
Ngọn đòn
giáng xuống thật mãnh liệt và bất ngờ, và vẻ sôi nổi, phẫn nộ phi thường trái
ngược hẳn với thái độ uể oải vừa rồi, khiến người ta có cảm tưởng rằng anh đã
gỡ bỏ chiếc mặt nạ vẫn đeo trên mặt. Anh sôi sục nói tiếp:
- Những
người vô thần chúng tôi cho rằng, đã mang gánh nặng trên vai thì dù có nặng đến
đâu cũng cứ phải cố sức mà gánh, dù có gục xuống cũng mặc. Nhưng người Kitô
giáo thì lúc ấy lại rên rỉ, đi cầu cứu Chúa Trời và các vị thánh của Chúa; hoặc
là, nếu Chúa Trời và các thánh không giúp đỡ thì lại đi van xin đến cả các kẻ
thù, miễn sao tìm được một cái lưng của người khác để trút gánh nặng của mình
sang. Trong Kinh Thánh, trong sách kinh cầu nguyện (1) và cả trong bất cứ các
sách thần học giả dối nào của các ngài còn thiếu quy tắc gì nữa mà ngài phải
đến hỏi tôi làm thế nào? Trời đất ơi! Ngài ơi! Gánh nợ của tôi còn chưa đủ nặng
hay sao mà ngài còn đi trút cả trách nhiệm của ngài sang hai vai tôi? Hãy quay
về hỏi ông Giêsu của ngài đi, ông ấy đòi hỏi chi li đến từng đồng xu một ấy
chứ, ngài cứ làm theo ông ấy là hơn (2). Sau hết, vì rằng kẻ vô thần này nó
không thuộc mật khẩu (3) của các ngài, nên ngài cứ việc đem giết quách nó đi là
xong tất cả thôi mà. Việc giết chóc này có phải là một tội lỗi lớn gì cho cam?
Ruồi
Trâu nghẹn lời, lấy lại hơi thở, rồi lại bật ra:
- Ngài
mà cũng còn nói đến tàn bạo nữa cơ đấy! Nhưng ngài nên biết rằng con lừa ngu...
ngu ngốc ấy có thẩm vấn tôi đến một năm cũng không bằng ngài hành hạ tôi trong
mấy phút. Nó có đầu mà có óc đâu. Nó chẳng nghĩ được gì hơn là siết dây da cho
chặt, và khi dây đã chặt quá rồi thì nó chỉ ngồi bó tay. Việc đó kẻ ngu ngốc
nào cũng làm được! Còn ngài thì: "Xin ông ký cho một chữ vào bản án tử
hình của chính ông. Tim tôi mềm yếu lắm, tôi không dám làm." Ôi, chỉ có
người Cơ đốc giáo, một người Cơ đốc giáo hiền lành, đầy lòng trắc ẩn, trông
thấy dây da siết chặt quá là tái mặt đi, thì mới nghĩ ra thủ đoạn như thế. Khi
ngài bước chân tới đây, tôi trông ngài chẳng khác một vị thiên thần nhân từ,
công phẫn vì "hành vi dã man" của ông đại tá, là tôi có thể hiểu được
rằng bây giờ trò hay mới thực sự bắt đầu! Ngài cứ nhìn tôi mãi như thế làm gì?
Dĩ nhiên rồi, ngài ơi, ngài cứ việc đồng ý đi rồi về nhà mà ăn bữa tối kẻo
muộn. Chuyện cỏn con này chả đáng gì phải om xòm lên cả đâu. Ngài hãy về nói
với tên đại tá của ngài rằng hắn có thể bắn tôi đi, treo cổ tôi len hoặc dùng
bất kỳ cách nào tiện lợi nhất, kể cả rán sống tôi đi nữa, nếu hắn thấy cách ấy
mua vui được cho hắn, và bảo hắn làm cho xong chuyện đi!
Khó mà
nhận ra nổi Ruồi Trâu. Anh điên khùng và tuyệt vọng, thở hồng hộc, toàn thân
run lên, mắt loé ra tia xanh lét như mắt mèo dữ.
Mông-ta-ne-li
đứng dậy, lặng lẽ nhìn Ruồi Trâu. Ông không hiểu được dụng ý những lời trách
móc điên cuồng của anh, nhưng ông rất hiểu chỉ có người nào đã cùng cực thì mới
tuôn ra những lời gay gắt đến thế. Cho nên, bao nhiêu lời sỉ vả trước đó của
Ruồi Trâu, ông đều tha thứ cả. Ông bảo:
- Thôi
đi, ông. Tôi không muốn làm ông đau lòng thế đâu. Tôi cũng không có ý định trút
gánh nặng lên lưng ông làm gì vì ông đã quá nặng gánh rồi. Tôi không chủ tâm
làm vậy đối với bất kỳ một sinh linh nào...
Cặp mắt
toé lửa, Ruồi Trâu hét:
- Nói
dối! Thế còn chức giám mục thì sao?
- Chức
giám mục nào?
- À! Thế
ra ông quên rồi sao? Sao mà dễ quên thế! "Ác-tơ, nếu con muốn, cha sẽ nói
rằng cha không thể đi được." Mới mười chín tuổi đầu mà tôi đã phải quyết
định cuộc đời ông thay ông rồi đấy! Câu chuyện ấy nếu không phải xấu xa đến
thế, thì cũng là nực cười!
- Im đi!
Mông-ta-ne-li
rú lên một tiếng tuyệt vọng và đưa cả hai tay lên ôm lấy đầu.
Rồi ông
lại buông thõng tay xuống, từ từ bước ra phía cửa sổ. Đến cửa sổ, ông ngồi lên
bậu cửa, bíu một tay vào chấn song, rồi áp trán vào cánh tay ấy.
Nằm run
rẩy, Ruồi Trâu dõi nhìn theo.
Mông-ta-ne-li
đứng xuống, quay lại chỗ Ruồi Trâu, đôi môi tái xám một màu tro. Nhưng ông cố
gắng gượng một cách thảm hại để lấy lại vẻ bình tĩnh thường ngày.
- Xin
ông tha lỗi. Tôi phải về thôi... tôi không được khoẻ.
Mông-ta-ne-li
run lẩy bẩy như lên cơn sốt rét. Và cơn điên giận của Ruồi Trâu lập tức tiêu
tan.
- Padre,
lẽ nào cha vẫn không...
Mông-ta-ne-li
giật nảy mình, lùi lại đứng lặng người. Cuối cùng, ông thều thào:
- Không
phải thế đâu! Lạy Chúa tôi, sao cũng được miễn là không phải thế! Tôi phát điên
lên mất...
Ruồi
Trâu chống một tay nhổm dậy, còn một tay anh nắm lấy đôi tay run rẩy của
Mông-ta-ne-li.
- Padre,
con chưa chết đuối đâu, mà cha vẫn không sao hiểu ra được ư?
Đôi tay
đang run rẩy bỗng lạnh toát và cứng đờ. Trong khoảnh khắc, mọi vật đều chết
lặng. Rồi Mông-ta-ne-li quỳ gối, gục đầu vào ngực Ruồi Trâu.
*
* *
Khi
Mông-ta-ne-li ngẩng đầu lên thì mặt trời đã lặn, ráng chiều đỏ dần tắt ở đằng
tây. Họ đã lãng quên tất cả, quên cả thời gian và không gian, quên cả sự sống
và cái chết, thậm chí quên rằng hai người là kẻ thù của nhau.
Mông-ta-ne-li
thì thào:
- Ác-tơ,
có thật là con đấy không?... Con đã từ cõi chết trở về với cha đấy ư?
Ruồi
Trâu rùng mình nhắc lại:
- Từ cõi
chết trở về...
Anh gục
đầu vào vai Mông-ta-ne-li như một đứa bé ốm nằm trong lòng mẹ.
- Con về
rồi... thế là con đã về rồi!
Ruồi
Trâu nặng nhọc thở dài:
- Vâng,
và bây giờ cha phải đấu tranh với con hoặc giết con.
- Im đi
thôi, carino! Tất cả những chuyện đó bây giờ nói làm gì? Cha với con như những
đứa trẻ lạc nhau trong bóng tối, lầm nhau là ma quỷ. Bây giờ chúng ta đã tìm
được nhau và dắt nhau ra nơi sáng sủa. Con trai khốn khổ của cha, sao con khác
đi đến thế, sao con khác đi đến thế. Trước kia con tràn đầy niềm vui của cuộc
sống, mà nay trông con như đã từng bị vùi lấp dưới bể khổ của trần gian? Ác-tơ,
con có thật là Ác-tơ đấy không? Cha luôn luôn nằm mơ thấy con đã trở về cùng
cha, nhưng khi tỉnh lại thì cha thấy quanh cha chỉ toàn là âm thầm vắng vẻ. Vậy
giờ đây phải chăng cơn mê ấy vẫn còn giày vò cha? Con hãy cho cha biết những
điều đích xác và hãy kể cho cha biết mọi chuyện đã xảy ra thế nào!
- Có gì
đâu, giản đơn lắm, cha ạ. Con đã trốn xuống một chiếc tàu buôn và đi lậu vé
sang Nam Mỹ.
- Con
làm gì bên ấy?
- Nếu
cái đó có thể gọi là cuộc sống thì con đã sống ở bên đó... Ồ, và con đã được
thấy nhiều điều mới lạ ở ngoài những cái chủng viện thần học mà cha thường dạy
triết học cho con! Cha nói cha nằm mơ thấy con... vâng, con cũng nằm mơ thấy
cha.
Ruồi
Trâu nghẹn lời, rùng mình.
- Có một
lần, hồi ấy con làm ở mỏ bên Êcuađor...
- Làm
thợ mỏ ư?
- Không,
chỉ là phụ việc cho thợ mỏ thôi, cũng là chân sai vặt như những người culi lao
khổ khác. Con cùng ngủ với họ trong một lán trại ở ngay cửa hầm mỏ. Lúc ấy con
cũng ốm yếu như vừa rồi, trời nắng như thiêu đốt mà hôm nào cũng phải khuân đá
suốt cả ngày. Có một đêm, hình như con ngủ mê, vì con thấy cha mở cửa đi vào
lán. Tay cha cầm một chiếc thánh giá như chiếc thánh giá treo trên tường này.
Cha đang cầu nguyện và đi sát ngay bên cạnh con mà không ngoái lại. Con gọi to
lên để xin cha giúp đỡ con, cho con một liều thuốc độc, một lưỡi dao, hoặc bất
cứ một cái gì để chấm dứt những nỗi đau khổ của con trước khi con phát điên
phát rồ. Thế mà cha... ôi...?
Ruồi
Trâu một tay đưa lên che mắt, còn tay kia vẫn được siết chặt trong tay
Mông-ta-ne-li:
- Nhìn
mặt cha, con biết cha có nghe thấy tiếng con gọi, nhưng cha vẫn cứ tiếp tục cầu
nguyện. Rồi đến khi cha cầu nguyện xong, con thấy cha hôn chiếc thánh giá, đưa
mắt nhìn quanh mà nói khẽ: "Ác-tơ, cha rất thương con, nhưng cha không dám
tỏ lòng thương, vì sợ Người sẽ nổi giận." Và khi con nhìn lên Người, con
thấy tượng gỗ đó cười. Thế rồi, khi con tỉnh dậy, con vẫn chỉ thấy khu lán trại
với những người culi bị bệnh hủi, lúc ấy con mới vỡ lẽ. Con hiểu rằng cha chỉ
cốt lấy lòng ông Chúa quỷ sứ của cha thôi chứ không thiết gì cứu con ra khỏi
địa ngục nào cả. Từ đó con nhớ mãi. Và dù cho bây giờ, khi cha sờ vào người con
thì con đã bỗng dưng quên bẵng đi. Đó... là vì... là vì con đang ốm, vả lại
trước kia con đã có lúc rất yêu cha. Nhưng giờ đây giữa con và cha chẳng còn gì
mà chỉ có chiến tranh, chiến tranh và chiến tranh. Cha còn nắm tay con làm gì?
Cha có hiểu rằng chừng nào cha vẫn còn tin vào ông Giêsu của cha thì chúng ta
chỉ có thể là những kẻ thù của nhau mà thôi không?
Mông-ta-ne-li
cúi gục đầu, hôn vào bàn tay đầy thương tật của Ruồi Trâu:
- Ác-tơ,
cha không tin Người sao được? Nếu suốt trong những năm hãi hùng ấy mà cha vẫn
giữ được lòng tin và giờ đây khi Người đã cho con trở về với cha, thì cha còn
hoài nghi Người sao được? Con nên nhớ rằng cha những tưởng chính tay cha đã
giết con cơ đấy.
- Thì
cha vẫn sẽ làm như thế đấy.
- Ác-tơ!
Trong
tiếng kêu than đó có nỗi khủng khiếp thực sự. Nhưng Ruồi Trâu không để ý, vẫn
nói tiếp:
- Dù sao
đi nữa, cha con ta nên thật bụng với nhau cho tới cùng, không thể lấp lửng
được. Giữa cha và con co một vực thẳm ngăn cách, không hy vọng gì nối tay nhau
qua miệng vực thẳm được. Nếu cha quyết định rằng cha không thể hoặc không muốn
từ bỏ cái kia - Ruồi Trâu liếc nhìn cây thánh giá treo trên tường - thì cha
phải trả lời đồng ý với tên đại tá.
- Đồng
ý! Lạy Chúa tôi... đồng ý? Ác-tơ, nhưng cha yêu con!
Mặt Ruồi
Trâu quắt lại một cách đáng sợ.
- Cha
yêu ai hơn? Cha yêu con hơn hay yêu cái kia hơn?
Mông-ta-ne-li
từ từ đứng dậy. Kinh hoàng dường như đã làm cho chính linh hồn ông héo khô và
thân thể ông còm cõi. Ông cảm thấy mình yếu ớt, già nua và tàn tạ như chiếc lá
gặp cơn giá lạnh đầu mùa. Ông đã tỉnh giấc mơ và trước mặt ông chỉ toàn là âm
thầm vắng vẻ.
- Ác-tơ,
con hãy thương cha một chút!
- Vậy
khi cha lừa gạt con để đày đoạ con đi làm nô lệ trong các đồn điền mía thì cha
đã thương con được bao nhiêu?... Cha rùng mình đấy ư? Ôi, những vị thánh thần
từ bi ơi! Đây chính là con người vâng theo thánh tâm của Chúa, một người cứ ăn
năn hối lỗi rồi sống lấy một mình để mặc xác cho con chết. Cha nói cha yêu
con... con đã phải trả một giá khá đắt vì tình yêu ấy của cha rồi! Cha tưởng
chỉ vài lời ngon ngọt là con có thể xí xoá hết thảy, là con trở lại thành thằng
bé Ác-tơ ngày xưa hay sao? Cha nên nhớ rằng con đã phải rửa bát trong các nhà
chứa nhơ nhớp, đã phải rửa chuồng ngựa cho các chủ đồn điền, những người còn
tàn nhẫn hơn cả những súc vật của họ. Con đã phải đội mũ, đeo nhạc đóng vai hề
trong gánh xiếc rong, làm đầy tớ và đầu sai cho các võ sĩ đấu bò. Con đã làm nô
lệ cho mọi loài thú vật để chúng giẫm chân lên cổ mình! Con đã đói rách, bị phỉ
nhổ vào mặt và bị chà đạp dưới chân kẻ khác! con đã phải ngửa tay xin chút cơm
thừa canh cặn mà người ta vẫn không cho, vì những con chó còn được quyền ưu
tiên hàng đầu. Ôi, tất cả những chuyện đó nói ra nào có ích gì? Kể sao cho xiết
để cha nghe hết được những gì cha đã đem đến cho con? Vậy mà giờ đây... cha lại
nói yêu con! Cha yêu con được bao nhiêu? Có đủ để vì con mà từ bỏ ông Chúa của
cha được không? Ồ, cái ông Giêsu mãi không chết ấy đã làm gì cho cha? Ông ấy đã
hy sinh khổ sở gì cho cha mà cha lại phải yêu ông ấy hơn con? Vì bị đóng đinh
vào tay mà cha yêu ông ấy ư? Vậy cha hãy nhìn vào tay con đây! Cha hãy nhìn vào
đây, vào đây, và vào cả đây nữa...
Ruồi
Trâu xé toang áo, chỉ vào những vết thương ghê gớm trên người.
- Padre,
Chúa của cha là kẻ lừa gạt! Những vết thương của ông ta chỉ là giả vờ. Nỗi đau
của ông ta chỉ toàn là trò hề. Chỉ có con là được quyền nhận lòng yêu thương
của cha! Padre, không còn cảnh tra tấn nào mà cha chưa đẩy con vào. Nếu cha
biết được rằng đời con đã cực khổ biết bao nhiêu! Vậy mà dù sao con vẫn không
chết! Con đã chịu đựng hết thảy và làm chủ linh hồn mình trong nhẫn nại, vì con
quyết trở về để đấu tranh với ông Chúa này của cha. Con giữ vững mục đích ấy
làm tấm lá chắn che chở cho trái tim con, chính tấm lá chắn này đã cứu con khỏi
bị điên rồ, và khỏi bị chết đi lần nữa. Và giờ đây, khi đã trở về, con lại thấy
kẻ chiếm ngự địa vị của con vẫn là ông ta, một kẻ gặp nạn giả vờ, chỉ bị đóng
đinh trên giá chữ thập vẻn vẹn có sáu tiếng đồng hồ, rồi lại từ cõi chết ngóc
đầu dậy! Padre, con đã bị đóng đinh trên giá chữ thập năm năm ròng và con cũng
đã từ cõi chết trở về! Bây giờ cha định sẽ đối xử với con ra sao? Bây giờ cha
định sẽ đối xử với con như thế nào?
Ruồi
Trâu nghẹn ngào không nói nên lời. Mông-ta-ne-li ngồi im như một pho tượng đá,
hoặc như một xác chết vừa được dựng dậy. Thoạt đầu khi Ruồi Trâu mới trút lên
ông một suối lửa tuyệt vọng, thì ông oằn người lại đôi chút với sự quằn quại
máy móc của da thịt dưới làn roi da. Nhưng giờ đây ông đã rất bình tĩnh. Sau
một hồi lâu nín lặng, ông nhìn lên và cất lên một giọng mất hết sức sống và
nhẫn chịu.
- Ác-tơ,
con có thể nói cho cha rõ hơn không? Con làm cha hết sức bối rối và kinh sợ,
cha không thể hiểu được bây giờ con đòi hỏi gì ở cha?
Ruồi
Trâu quay lại nhìn ông, mặt anh tái nhợt như mặt một con ma.
- Con
không đòi hỏi gì cả. Có ai cưỡng ép tình yêu bao giờ? Cha được tự do lựa chọn
người mà cha yêu quý nhất trong hai người. Nếu cha yêu quý ông ta hơn thì cha
cứ việc chọn ông ta.
Mông-ta-ne-li
mệt mỏi nhắc lại:
- Cha
không thể hiểu được. Cha lựa chọn cái gì được đây? Cha làm sao xoá bỏ được quá
khứ?
- Cha
phải chọn một trong hai người. Nếu cha yêu con thì cha hãy tháo cái giá chữ
thập ia ra khỏi cổ và ra đi cùng con. Các bạn con đang bố trí cho con trốn một
lần nữa, nếu cha giúp đỡ thì họ có thể thực hiện được rất dễ dàng. Khi nào
chúng ta an toàn sang tới bên kia biên giới, cha hãy công khai thừa nhận con.
Còn nếu cha không đủ lòng yêu con, nếu cha quý cái ngẫu tượng bằng gỗ kia hơn
con, thì cha cứ việc đến nói với tên đại tá rằng cha đã đồng ý. Và nếu vậy thì
cha đi ngay đi, để con khỏi đau khổ khi còn nhìn thấy cha! Đối với con thế cũng
đã là quá đủ.
Mông-ta-ne-li
ngẩng đầu, run rẩy. Ông đã bắt đầu hiểu.
- Tất
nhiên cha sẽ liên lạc với các bạn con. Nhưng... đi với con thì không thể
được... cha là giáo sĩ.
- Nhưng
con không chấp nhận ơn huệ của giáo sĩ. Padre, con không thể thoả hiệp thêm
nữa. Con đã đau khổ biết bao nhiêu vì những sự thoả hiệp ấy cùng những hậu quả
của chúng rồi! Cha phải từ bỏ chức vị giáo sĩ ấy hoặc phải từ bỏ con đi.
- Cha từ
bỏ con sao được? Ác-tơ, cha bỏ con sao được!
- Thế thì
cha từ bỏ ông ấy đi! Cha phải chọn một trong hai người! Cha lại định gợi ý chia
cho con một phần tình yêu của cha, một nửa cho con, một nửa cho ông Chúa ma quỷ
của cha chăng? Con không thèm nhận cơm thừa canh cặn của ông ta. Nếu cha là của
ông ta thì cha không phải là của con.
- Ác-tơ,
Ác-tơ ơi! Con muốn xé lòng cha ra làm hai mảnh hay sao? Con muốn cha phát điên
lên hay sao?
Ruồi
Trâu vung tay đấm vào tường, nhắc lại một lần nữa:
- Cha
phải chọn một trong hai người!
Mông-ta-ne-li
bèn rút từ trong ngực áo ra một hộp nhỏ trong đựng một mảnh giấy đã nhàu nát và
cáu bẩn.
- Con
trông đây!
"Tôi
đã tin ông như đã tin Chúa Trời. Nhưng Chúa Trời chỉ là một tượng đất, đập một
búa là tan, còn ông thì ông đã lừa dối tôi suốt đời."
Ruồi
Trâu cười, trả lại tờ giấy:
- Mười
chín tuổi người ta ngây thơ một cách thú... thú vị như thế đấy! Cầm lấy búa rồi
đập tan vật này vật nọ sao mà dễ dàng. Ngày nay việc đó cũng dễ dàng thôi, chỉ
có điều chính con bây giờ lại nằm dưới búa. Còn cha, hiện có biết bao kẻ khác
cha có thể lừa dối mà họ thậm chí không sao phát hiện ra cha để vạch mặt chỉ
tên được.
Mông-ta-ne-li
nói:
- Con
muốn nói thế nào tuỳ con. Nếu cha ở vào địa vị con, biết đâu cha lại chẳng tàn
nhẫn như con, điều đó chỉ có Chúa mới biết được. Ác-tơ, điều con muốn, cha không
thể làm được. Nhưng cái gì làm được thì cha sẽ làm. Cha sẽ bố trí cho con trốn
và khi con đã ra đến nơi an toàn thì cha sẽ tự tìm lấy một tai nạn trên núi cao
hoặc sẽ dùng lầm một liều thuốc ngủ, cách nào tuỳ con lựa chọn. Chắc con bằng
lòng chứ? Đó là tất cả những gì cha có thể làm được. Đó là một tội lớn nhưng
cha mong Người sẽ tha tội cho cha. Người có lòng nhân từ hơn...
Ruồi
Trâu vung mạnh cả hai tay và thét lên:
- Thôi,
thôi, cha hãy thôi đi! Như thế là quá lắm rồi! Con đã làm gì để đến nỗi cha coi
thường con như vậy? Ai cho cha có quyền nghĩ về con như thế? Làm như con định
tìm cách báo thù cha hay sao? Cha không thấy rằng con chỉ muốn cứu cha thôi hay
sao? Cha không sao hiểu rằng con yêu cha ư?
Ruồi
Trâu níu lấy đôi tay Mông-ta-ne-li, vừa đặt lên đó những cái hôn nóng bỏng, vừa
giàn giụa nước mắt.
- Padre,
cha hãy đi với chúng con! Cha còn lưu luyến cái thế giới giáo sĩ và thần tượng
chết rấp ấy làm gì? Đó chỉ là tro bụi của những thế kỷ xa xưa! Nó đã mục nát,
thối tha và ô uế đến cực độ rồi! Cha hãy trốn thoát cơn dịch hạch của Giáo hội,
hãy cùng con tiến đến một thế giới sáng tươi. Padre, chúng con chính là lẽ sống
và tuổi thanh niên! Chúng con chính là mùa xuân vĩnh viễn! Chính chúng con mới
là tương lai! Bình minh sắp loé lên rồi, cha ạ. Lẽ nào cha không muốn đón lấy
ánh dương chói lọi hay sao? Cha hãy tỉnh dậy, và chúng ta sẽ quên hết những cơn
ác mộng đã qua! Cha hãy tỉnh dậy và chúng ta sẽ xây dựng lại cuộc đời. Cha ơi,
lúc nào con cũng yêu cha, lúc nào con cũng yêu! Con yêu cha ngay cả lúc cha
giết con trước kia! Lẽ nào bây giờ cha lại định giết con một lần nữa hay sao?
Mông-ta-ne-li
giật tay ra kêu lên:
- Ôi,
xin Chúa rủ lòng thương! Ác-tơ! Con mang đôi mắt của chính mẹ con.
Một bầu
im lặng lạ kỳ, sâu xa và kéo dài, đã đột nhiên bao trùm lấy họ. Họ nhìn nhau
trong ánh hoàng hôn xám xịt, con tim kinh hoàng của họ như đã ngừng đập.
Mông-ta-ne-li
thầm thì:
- Con
còn nói gì thêm với cha nữa không? Con có cho cha được một chút... hy vọng nào
không?
- Không.
Con chỉ cốt sống để đấu tranh chống các giáo sĩ. Con không phải là người, con
là một lưỡi dao găm (1). Nếu cha để con sống tức là cha thừa nhận những lưỡi
dao găm đó.
Mông-ta-ne-li
quay mặt về phía tượng Chịu nạn.
- Lạy
Chúa! Xin Người nghe cho...
Tiếng
nói của ông lặng tắt trong bầu không khí tịch mịch, trống trải mà không một
tiếng trả lời. Duy chỉ có con quỷ nhạo báng lại bừng tỉnh dậy trong Ruồi Trâu:
- Cha
gọi... gọi Người to lên! Có lẽ ông ta đang... đang ngủ (2).
Mông-ta-ne-li
đứng bật dậy như bị roi quất. Ông nhìn thẳng phía trước trong chốc lát. Đoạn
ông ngồi sụp xuống mép giường, đưa cả hai tay lên ôm mặt, nức nở khóc. Toàn
thân Ruồi Trâu run lên một cơn dài, rồi mồ hôi lạnh toát ra khắp người anh. Anh
hiểu những giọt nước mắt ấy có ý nghĩa gì.
Anh kéo
chăn lên kín đầu để khỏi nghe thấy gì nữa. Tình hình đã quá đủ để anh phải
chết, dù anh còn đang sống - sống mạnh mẽ và cừ khôi đến thế. Nhưng anh cũng
không sao bịt nổi âm thanh, nó vẫn vang trong tai, dội vào óc và rộn rã khắp
mọi mạch máu trong người anh. Mà Mông-ta-ne-li vẫn cứ nức nở và nức nở hoài,
nước mắt chan hoà luồn qua cả kẽ bàn tay.
Cuối
cùng những tiếng nức nở cũng lặng dần; và như một đứa trẻ con, ông lấy mùi xoa
ra chùi mắt. Khi ông đứng dậy, chiếc khăn lọt qua đầu gối, rơi xuống sàn. Ông
bảo:
- Nói
nữa cũng không ích gì. Con hiểu chứ?
Ruồi
Trâu đáp lại với giọng phục tùng đơn điệu:
- Con
hiểu. Đó không phải là lỗi tại cha. Chúa của cha đói rồi, phải cho ông ta ăn
thôi.
Mông-ta-ne-li
ngoái nhìn Ruồi Trâu. Phút im lìm nay của họ còn ghê rợn hơn cả sự im lìm của
lỗ huyệt sắp được đào lên. Họ lặng lẽ nhìn vào mắt nhau như một cặp tình nhân
bị ngăn cách, chỉ có thể ngó sang nhau qua một hàng rào chắn mà họ không thể
bước qua.
Ruồi
Trâu nhìn xuống trước tiên. Anh co người lại và giấu mặt đi. Mông-ta-ne-li hiểu
rằng cử chỉ đó có nghĩa là "Hãy đi đi!" Mông-ta-ne-li quay gót, bước
ra khỏi xà lim.
Một lát
sau, Ruồi Trâu vùng dậy:
- Ôi,
con không thể chịu được nữa! Padre, cha quay lại đi! Quay lại đi!
Cửa đã
đóng lại rồi. Ruồi Trâu chầm chậm nhìn bốn chung quanh với đôi mắt mở rộng và
ngơ ngác, và anh hiểu rằng thế là hết. Người xứ Galilê đã chiến thắng (3).
Trong
sân nhà tù phía dưới, tiếng cỏ xào xạc thâu đêm - những ngọn cỏ này chẳng bao
lâu nữa sẽ phải tàn héo, sẽ bị xới bật lên vì cuốc xẻng. Và thâu đêm, Ruồi Trâu
nằm thổn thức một mình trong bóng tối...
---
------ ----.
[color=#BF0000](1) Trích lời Chúa Giêsu trong
sách Phúc Âm, trong đó "điều ấy" là chỉ sự làm phúc cho người hoạn
nạn được ăn, uống, mặc, và săn sóc (nếu ốm đau) hoặc thăm hỏi (nếu ở tù). Và
nếu làm những điều ấy cho những người hèn mọn nhất thì cũng được coi như đã làm
cho Chúa. Ở đây Ruồi Trâu hàm ý nói Mông-ta-ne-li đến thăm hỏi anh (tù nhân)
cũng chỉ là vụ lợi, do đó "chưa thật đáng khen lắm".
(1) Brother prelates (tiếng Anh): Prelate nói
chung là người chức sắc cao trong Giáo hội, cụ thể ở đây có nghĩa là giám chức,
tức là một chức sắc cao (thường là cấp giám mục cai quản một địa phận lớn và có
quyền lớn ở đó, như Mông-ta-ne-li chẳng hạn). Brother ở đây có nghĩa là đồng
chức, đồng liêu với ý châm biếm.
(2) Cosi fan tutti (tiếng Ý): Mọi người đều
làm như thế cả.
(3) Ý nói: Tuy là Hồng y giáo chủ nhưng chỉ
kiêm giám mục ở giáo phận Bridighela mà thôi. Và cũng không phải là một đặc sứ
ở một đặc khu, nên cũng không có quyền hành đặc biệt gì lắm.
(1) Lời của Đức Kitô trong sách Phúc âm: nếu
tay phải của bay gây nên tội cho bay thì hãy chặt nó đi, mắt bay gây nên tội
cho bay thì hãy khoét nó đi.
(1) Missal (tiếng Anh): Cũng là sách lễ, sách
nguyện.
(2) Ý nói: làm như Chúa Giêsu yêu cầu các bổn
đạo phải hết lòng hết sức phụng sự Chúa.
(3) Sử dụng hài hước một tích trong Kinh Thánh
về một lực lượng trấn giữ một bến sông, đặt ra một mật khẩu, khi quân do thám
của địch (thuộc dân tộc khác) đi qua, phát âm không đúng mật khẩu, thì bị phát
hiện và bị tiêu diệt.
(1) Hàm ý lời của Chúa Kitô.
(2) Tích lấy trong Kinh Thánh: Sứ đồ bị bão
kêu cứu, Giêsu thì đang ngủ.
(3) The Galilean (tiếng Anh): theo Kinh Thánh,
Galilê (Galilee) là nơi sinh của Giêsu. Theo sử sách của đạo Cơ đốc thì Hoàng
đế La Mã Giuyliêng (Julian 331-363) vốn chống lại giáo lý của Giêsu, nhưng sự
nghiệp chưa thành thì đã chết năm 363. Tương truyền trước khi chết ông đã nói:
"Người xứ Galilê, anh đã thắng" có nghĩa là "Giêsu đã
thắng".[/color]
RUỒI
TRÂU
Chương
25
Toà án
binh mở vào sáng thứ ba.
Phiên
toà này rất ngắn và đơn giản. Đó chỉ là một hình thức trống rỗng diễn ra không
quá hai mươi phút. Thật vậy, có cần gì phải mất nhiều thời giờ? Không được
quyền bào chữa gì cả. Đứng ra làm chứng, chỉ có tên mật thám và tên sĩ quan bị
thương, cùng với mấy tên lính. Bản phán quyết đã được thảo sẵn từ trước,
Mông-ta-ne-li đã có thông báo đồng ý một cách không chính thức những gì họ yêu
cầu. Các quan toà là viên đại tá Pherari, một thiếu tá kỵ binh địa phương và
hai sĩ quan trong đội cận vệ của Giáo hoàng (1), họ chẳng có việc gì nhiều để
làm cả. Họ đọc to bản cáo trạng, rồi những người làm chứng đứng lên nêu chứng
cứ. Sau đó họ ký tên vào bản phán quyết rồi lấy giọng nghiêm trang đọc cho bị
cáo nghe. Ruồi Trâu lặng lẽ nghe bản án. Và, theo hình thức thông thường, khi
người ta hỏi có phát biểu gì không, anh chỉ vội vã xua tay gạt đi. Giấu trong
ngực anh là chiếc mùi xoa mà Mông-ta-ne-li đã đánh rơi. Suốt đêm qua anh đã hôn
và khóc chiếc khăn đó như hôn và khóc một sinh linh. Giờ đây gương mặt anh xanh
xao và thờ thẫn, và mắt anh vẫn còn ngấn lệ. Hai tiếng "Xử bắn" chẳng
tác động gì đến anh. Khi nghe hai tiếng ấy, anh chỉ mở to đồng tử trong đôi
mắt, và chỉ có thế thôi!
Khi mọi
thủ tục đã xong, viên Giám binh ra lệnh:
- Đưa
ông ta về phòng giam.
Viên đội
cố cầm nước mắt, sờ vào thân hình im phăng phắc ấy. Ruồi Trâu hơi giật mình
ngoảnh lại.
- À,
phải! Tôi quên mất.
Nét mặt
viên Giám binh phảng phất một vẻ gì như là thương hại. Hắn ta bản chất cũng
không phải là một người độc ác và vai trò hắn phải đóng mấy tuần nay làm cho
chính hắn trong thâm tâm cũng thấy ngượng ngùng. Giờ đây khi đã được việc của
mình, hắn sẵn lòng nhân nhượng trong mọi chuyện nhỏ nào thuộc quyền hắn.
Đưa mắt
nhìn cánh tay thâm tím sưng phồng của Ruồi Trâu, hắn bảo:
- Các
ông không cần cùm nữa cũng được. Có thể cho ông ta trở lại phòng giam cũ.
Rồi quay
về phía đứa cháu, hắn nói thêm:
- Buồng
giam tử tù ẩm ướt và âm u quá. Đây thực ra cũng chỉ là vấn đề thủ tục mà thôi.
Hắn bối
rối ho lên mấy tiếng và đổi chân đứng. Rồi hắn bỗng gọi giật tên đội vừa giải
Ruồi Trâu ra tới cửa.
- Ông
đội, chờ một chút. Tôi muốn nói với ông ta mấy câu!
Ruồi
Trâu đứng im không nhúc nhích. Hình như tiếng nói của Pherari không lọt vào tai
anh.
- Ông có
muốn nhắn gì với bạn bè và thân thích không?... Tôi chắc ông có người thân chứ?
Không
một tiếng trả lời.
- Vậy
ông cứ nghĩ đi rồi nói với tôi hoặc với linh mục tuyên uý (2). Tôi sẽ đôn đốc
thực hiện lời nhắn của ông. Nhưng tốt hơn là ông nhắn lại cha tuyên uý. Cha đến
ngay bây giờ và sẽ ở với ông suốt đêm nay. Nếu ông còn có nguyện vọng gì khác
nữa thì...
Ruồi
Trâu nhìn lên:
- Ông
hãy nói với linh mục rằng tôi chỉ muốn ở một mình. Tôi không có bạn bè mà cũng
chẳng nhắn gì cả.
- Nhưng
ông cũng muốn xưng tội (3) chứ.
- Tôi là
người vô thần. Tôi chẳng muốn gì khác hơn ngoài việc được yên tĩnh.
Ruồi
Trâu nói với giọng đơn điệu, bình thản, không có vẻ gì là khiêu khích hoặc bực
dọc, rồi từ từ quay gót bước ra cửa. Nhưng ra đến cửa thì anh lại dừng bước:
- Ông
đại tá, tôi còn quên một việc. Tôi chỉ yêu cầu ông chiếu cố một điều là: sáng
mai xin ông đừng để cho họ trói hoặc bịt mắt tôi. Tôi sẽ đứng yên.
*
* *
Tới sáng
ngày thứ tư, khi mặt trời vừa ló, Ruồi Trâu đã bị dẫn ra sân. Anh khập khiễng rõ
nét hơn mọi khi. Dựa hẳn vào tay viên đội, Ruồi Trâu lê bước, rõ ràng với vẻ
khó khăn và đau đớn.
Nhưng
mọi vẻ phục tùng mỏi mệt đã biến mất trên mặt anh. Những nỗi kinh hoàng ma quái
đã đánh gục anh trong cảnh tịch liêu, cùng những ảo ảnh và những giấc mơ trong
thế giới âm u nay đều đã tan theo đêm tối. Ngay sau lúc vầng đông toả sáng, khi
Ruồi Trâu phải đối diện với kẻ thù, thì tinh thần chiến đấu của anh đã trỗi
dậy, anh không có gì sợ hãi cả.
Trước
bức tường leo đầy dây thường xuân, sáu tay súng được lệnh chọn đi hành quyết đã
dàn thành hàng ngang. Đây chính là bức tường nứt nẻ và đổ nát mà anh đã trèo
xuống trong cái đêm bất hạnh ấy để hòng trốn thoát. Mấy người lính đứng nghiêm,
tay cầm súng mà vẫn rưng rưng nước mắt. Họ cảm thấy điều kinh khủng ngoài sức
tưởng tượng khi nghĩ rằng chính tay mình phải giết Ruồi Trâu. Con người có
những câu ứng đối sắc sảo, có tiếng cười vui bất tuyệt, có tinh thần dũng cảm
chói lọi và dễ lan truyền ấy đã như một tia nắng ấm soi rọi vào cuộc đời u ám,
buồn thảm của họ. Vậy mà giờ đây con người ấy phải chết, phải chết vì chính tay
họ, như thế khác nào họ sắp phải trông thấy mặt trời chói lọi phụt tắt.
Một lỗ
huyệt dưới gốc một cây vả cao lớn đang chờ đợi Ruồi Trâu. Lỗ huyệt đó do những
bàn tay không tình nguyện đã đào nên đêm qua và với những giọt nước mắt rơi
trên những bàn xẻng. Đi ngang qua đó, Ruồi Trâu mỉm cười nhìn lỗ huyệt tối đen,
nhìn những ngọn cỏ héo tàn bên cạnh huyệt. Anh khoan khoái hít một hơi dài để
thưởng thức mùi thơm của vạt đất mới tinh khôi.
Khi đến
gần thân cây, viên đội đứng sững lại. Ruồi Trâu ngoảnh lại nhìn anh ta, rồi nở
một nụ cười:
- Tôi
đứng đây phải chăng, ông đội?
Viên đội
nín lặng gật đầu. Anh ta nghẹn ngào, tiếc rằng đã không nói được một lời nào,
ví dù lời nói này có thể cứu sống được Ruồi Trâu. Trong sân đã tề tựu đông đủ
cả: viên Giám binh, cháu hắn, viên trung uý kỵ binh làm nhiệm vụ chỉ huy việc
hành quyết, người y sĩ và một linh mục. Họ bước lên với những bộ mặt nghiêm
trọng, nhưng đã nửa phần sượng sùng trước cặp mắt tươi cười và sáng ngời vẻ
ngạo nghễ của Ruồi Trâu.
-
Chào... chào các quý ông! Ái chà, cả Cha tuyên uý tôn kính (1) cũng dậy sớm thế
cơ à!... Đại uý, ông có mạnh giỏi không? Chắc đối với ông, cuộc gặp gỡ hôm nay
của chúng ta sẽ dễ chịu hơn lần trước phải không ạ? À, tôi thấy cánh tay ông
vẫn còn băng bó treo trước ngực kìa! Chỉ tại lần trước tôi bắn hụt đó thôi.
Những tay thiện xạ này chắc bắn khá hơn... phải không, các bạn?
Ruồi
Trâu đưa mắt nhìn một lượt những bộ mặt ủ dột của mấy người lính:
- Dù sao
lần này không phải băng bó treo trước ngực nữa đâu. Nào! Nào! Sao vẻ mặt các
bạn trông thiểu não đến thế? Nghiêm! Và bắn cho thật trúng vào nào. Rồi các bạn
sẽ có nhiều việc phải làm, mà cứ như thế này không biết có làm nổi không. Bây
giờ các bạn được quyền tập trước thì còn gì bằng.
- Hỡi
con...
Vị linh
mục tiến lên ngắt lời anh. Những người khác đều lùi lại phía sau, để mặc hai
người với nhau.
- Chỉ
còn ít phút nữa là con sẽ về với Đấng Sáng Tạo (2) ra con. Những giây phút cuối
cùng này là dành cho con để ăn năn sám hối, con chớ nên dùng vào việc nào khác.
Cha xin con, con thử nghĩ xem, nếu chết mà không được chịu phép giải tội, lòng
còn hung dữ thì đáng sợ biết bao! Chờ đến khi con đứng trước Đấng Phán Xét (3)
của con thì lúc ấy ăn năn đã muộn rồi. Sắp lại gần ngai báu vô cùng tôn nghiêm
của Người mà con vẫn cứ cười đùa như thế được sao?
- Cười
đùa ư, thưa cha tôn kính? Tôi tưởng cái bài giáo lý cỏn con ấy chỉ để cho những
người cùng phía với cha nghe thôi chứ! Bao giờ đến lượt chúng tôi, chúng tôi sẽ
dùng trọng pháo chứ chẳng dùng đến dăm khẩu súng khai hậu cũ kỹ này đâu! Và lúc
bấy giờ các vị sẽ thấy chúng tôi cười đùa đến đâu.
- Các
con sẽ dùng trọng pháo ư? Ôi! Thật là vô phúc cho con quá! Con vẫn chưa hiểu
rằng con đang đứng trên bờ vực thẳm đáng sợ như thế nào hay sao?
Ruồi
Trâu ngoái đầu nhìn lỗ huyệt mở rộng sau lưng mình.
- Vậy
cha... cha tôn kính tưởng rằng đặt được tôi xuống đấy là xong chuyện với tôi
rồi hay sao? Có lẽ các vị còn chặn một phiến đá lên mồ tôi để "ba ngày
sau" tôi... tôi khỏi sống lại chứ gì? (4) Chớ sợ, Cha tôn kính ạ! Tôi sẽ
không xâm phạm vào quyền của các vị trong những trò diễn kịch rẻ tiền này đâu.
Đặt tôi xuống đâu, tôi sẽ nằm yên ở đấy như một con... con chuột vậy. Nhưng, dù
sao mặc lòng, chúng tôi vẫn sẽ dùng đến trọng pháo đấy.
Vị linh
mục kêu lên:
- Ôi!
Lạy Chúa lòng lành vô cùng! Xin Chúa tha tội cho kẻ bất hạnh này!
Viên
trung uý kỵ binh, giọng ồ ồ khấn:
- Amen!
Còn viên
đại tá và đứa cháu thì sùng kính làm dấu thánh giá.
Thấy rõ
rằng khuyên bảo nữa cũng chẳng đi đến đâu, vị linh mục đành phải từ bỏ công
việc vô kết quả của mình. Ông bước sang bên cạnh, lắc đầu, mồm lầm rầm cầu
kinh. Chỉ trong phút chốc, công việc chuẩn bị ngắn gọn và đơn giản đều đã được
hối hả làm xong. Ruồi Trâu ra đứng đúng vào chỗ của mình và quay lại thoáng
nhìn lên cảnh huy hoàng chói chang ánh sáng vàng và đỏ của mặt trời đang mọc.
Một lần nữa Ruồi Trâu lại yêu cầu không bịt mắt. Nhìn vẻ mặt như thách thức của
anh, viên đại tá đành miễn cưỡng đồng ý. Cả hai người đều quên rằng như thế họ
có thể làm ảnh hưởng tới tinh thần quân sĩ.
Ruồi
Trâu đứng quay thẳng mặt về phía họ và mỉm cười. Những cánh tay cầm súng run
lên. Anh bảo:
- Tôi
hoàn toàn sẵn sàng rồi.
Viên
trung uý bước lên phía trước, người run run vì xúc động. Hắn chưa hề chỉ huy xử
bắn bao giờ.
- Chuẩn
bị... Nhằm! Bắn!
Ruồi
Trâu hơi lạng người đi, nhưng lấy ngay lại được thăng bằng. Một viên đạn bắn
không vững đã sượt trên má anh. Vài giọt máu loang trên cổ áo trắng. Một viên
khác trúng vào chân, phía trên đầu gối. Khi khói tan thì đám lính thấy anh vẫn
đứng, vẫn mỉm cười như cũ và đang lấy bàn tay tàn tật quệt máu trên má.
Anh nói:
- Bắn
xoàng quá rồi, các bạn ạ!
Giọng
nói trong trẻo và khúc triết của anh khắc sâu vào tim những người lính khốn khổ
đang hết sức bàng hoàng và bối rối.
- Các
bạn thử bắn lại xem nào!
Toàn bộ
hàng lính đều rùng mình sởn gáy và rên rỉ. Người nào người nấy nhằm chệch sang
bên cạnh, thầm mong viên đạn kết liễu tính mệnh Ruồi Trâu là của người bên cạnh
chứ không phải của mình. Ruồi Trâu thì vẫn cứ đứng thản nhiên, mỉm cười nhìn
họ. Họ chỉ biên cuộc xử tử thành một cuộc giết chóc trong lò mổ, và bây giờ họ
lại phải làm lại từ đầu cái công việc ghê rợn này. Đám lính đột ngột hoảng vía,
họ hạ súng đứng nghe những lời mắng mỏ và chửi rủa điên cuồng của các viên sĩ
quan. Họ sững sờ và hãi hùng giương mắt nhìn người vừa bị họ bắn mà chẳng hiểu
sao ông ta vẫn không chết.
Viên
Giám binh vung nắm đấm trước mặt họ. Hắn lồng lộn quát tháo, bắt họ phải đứng
vào vị trí, giương súng lên và hối hả làm mau cho xong chuyện. Nhưng chính hắn
cũng hoàn toàn mất tinh thần không khác gì bọn lính. Hắn không dám nhìn vào cái
thân hình khủng khiếp kia cứ đứng trơ trơ mà không chịu ngã xuống. Hắn giật nảy
mình và run bắn lên khi nghe giọng chế giễu của Ruồi Trâu:
- Đại
tá, sao sáng hôm nay ông lại đưa ra một đội lính xoàng thế. Để tôi xem tôi có
thể điều khiển họ khá hơn không! Nào, các bạn! Kìa, cậu đứng phía bên trái kia,
nâng súng cao lên chứ! Chúc phúc cho tấm lòng của cậu, cậu bạn ạ! Trong tay cậu
là súng trận đấy chứ không phải xoong chảo đâu nhé! Nhắm thẳng cả chưa? Nào,
bây giờ... chuẩn bị... nhằm!...
Viên đại
tá nhảy xổ lên, cướp lời anh, hét:
- Bắn!
Để cho
người bị bắn tự chỉ huy cuộc xử bắn của mình thì ai mà chịu được.
Sau loạt
đạn lộn xộn và vô tổ chức, đám lính bỏ hàng ngũ run rẩy đứng túm tụm lại với
nhau, mắt ngơ ngác, sững sờ nhìn về phía trước. Một tên lính thậm chí còn không
bấm cò, quăng súng, ngồi sụp xuống đất mà rên rỉ:
- Tôi
chịu thôi, tôi chịu thôi!
Khói dần
tan, bay lên hoà vào ánh nắng le lói của ban mai. Họ thấy Ruồi Trâu ngã ra, họ
còn thấy là Ruồi Trâu vẫn chưa chết. Phút đầu tiên cả quan lẫn lính đứng im như
đã hoá đá mà nhìn một vật gì dễ sợ đang lăn lộn, quằn quại trên mặt đất.
Rồi cả
người y sĩ và viên đại tá cùng kêu lên chạy ào đến chỗ Ruồi Trâu vì họ thấy anh
vẫn lết một chân, quỳ lên mà nhỏm dậy, vẫn nhìn vào toán lính và vẫn cười lên:
- Lại
bắn trượt rồi! Bắn... lại đi, các bạn! ... Để xem... nếu các bạn không thể...
Ruồi
Trâu bỗng lảo đảo rồi ngã vật sang một bên trên bãi cỏ.
Viên đại
tá khẽ hỏi:
- Ông ấy
chết chưa?
Người y
sĩ quỳ gối, đặt tay lên chiếc sơ mi đẫm máu của Ruồi Trâu, trả lời:
- Chắc
vậy... Tạ ơn Chúa!
Viên đại
tá nhắc theo:
- Tạ ơn
Chúa! Thế là xong!
Đứa cháu
kéo tay áo hắn:
- Chú
ơi... Hồng y giáo chủ đến! Ngài đang đứng ở cổng và cứ đòi vào đây.
- Cái
gì? Không, không được... tôi không cho vào được! Bọn lính gác đâu cả rồi? Thưa
Đức Hồng y...
Cửa mở
rồi lại đóng. Mông-ta-ne-li đã đứng trong sân, đôi mắt đầy kinh hoàng, trừng
trừng nhìn về phía trước.
- Thưa
Đức Hồng y! Tôi xin ngài... cảnh này ngài xem bất tiện! Việc hành quyết vừa kết
thúc, thi hài còn chưa...
Mông-ta-ne-li
nói:
- Tôi
đến nhìn nó một chút.
Giọng
nói và cả bộ dạng của Mông-ta-ne-li trong phút ấy đã khiến cho viên Giám binh
phải sửng sốt, ông ta như một kẻ mộng du.
Một
người lính bỗng kêu lên:
- Ối,
lạy Chúa tôi!
Viên
Giám binh quay ngoắt lại nhìn.
Quả
nhiên thế!
Tấm thân
đẫm máu trên bãi cỏ lại một lần nữa vật vã và rên rỉ.
Người y
sĩ ngồi sụp xuống, kê đầu kẻ hấp hối lên đùi mình.
Ông ta
tuyệt vọng kêu lên:
- Nhanh
lên! Nhanh lên, quân dã man! Cho ông ta chết hẳn đi, vì ơn Chúa! Để thế này tội
nghiệp quá!
Máu chảy
túa ra hai bàn tay người y sĩ. Run lẩy bẩy từ đầu đến chân, ông ta cố giữ yên
thân hình còn đang giãy giụa. Trong khi ông ta đang cuống quýt quay nhìn tứ
phía để cầu mong giúp đỡ, vị linh mục cúi xuống qua vai ông, kệ tượng Chúa chịu
nạn vào đôi môi người hấp hối.
- Nhân
danh Chúa cha, Chúa con...
Ruồi
Trâu tựa lên đùi người y sĩ, nhỏm dậy, mắt mở to nhìn chòng chọc vào tượng Chúa
chịu nạn. Rồi gữa bầu tịch mịch câm lắng và băng giá ấy, anh từ từ giơ cánh tay
phải bị bắn gãy lên, và gạt chiếc tượng thánh giá ra. Một vết máu đỏ tươi vấy
trên mặt tượng.
-
Padre... Chúa Trời... của cha... thoả mãn rồi chứ?
Đầu anh
lả xuống cánh tay người y sĩ.
*
* *
- Thưa
Đức Hồng y?
Thấy
Hồng y giáo chủ vẫn chưa tỉnh giấc kinh hoàng, đại tá Pherari lại gọi to hơn:
- Thưa
Đức Hồng y!
Mông-ta-ne-li
nhìn lên:
- Nó
chết rồi.
- Vâng,
chết hẳn rồi, thưa Đức Hồng y. Xin ngài ra thôi chứ ạ?... Cảnh tượng này rùng
rợn lắm...
- Nó
chết rồi - Mông-ta-ne-li nhắc lại và một lần nữa nhìn xuống mặt Ruồi Trâu - Ta
đã sờ vào người nó mà nay nó chết mất rồi (1).
Viên
trung uý xì xào một giọng khinh bạc:
- Nửa tá
đạn vào người, ông ta còn mong chờ gì nữa?
Người y
sĩ cũng thì thào đáp lại:
- Chắc
ông ấy kinh hãi vì trông thấy máu.
Viên
Giám binh kiên quyết kéo tay Mông-ta-ne-li:
- Xin
Đức Hồng y đừng nhìn hắn nữa. Ngài cho phép cha tuyên uý đưa ngài về chứ ạ?
-
Phải... tôi về.
Mông-ta-ne-li
từ từ quay gót ra khỏi bãi cỏ đẫm máu mà bước ra ngoài, vị linh mục và viên đội
theo sau. Đến cổng, ông ta dừng bước và vẫn ngoái lại nhìn với cặp mắt kinh
ngạc và đờ đẫn như mắt một con ma.
- Nó chết
rồi.
*
* *
Mấy
tiếng đồng hồ sau, Mác-cô-nê đến căn nhà nhỏ trên sườn đồi để báo cho Mác-ti-ni
biết là anh khỏi phải hy sinh thân mình một cách vô ích nữa.
Kế hoạch
giải cứu cho Ruồi Trâu lần thứ hai đã chuẩn bị xong, bởi vì lần này bố trí đơn
giản hơn lần trước nhiều. Họ quyết định đến sáng hôm sau, khi đám rước
"Mình Thánh" diễu qua chân đồi trên có pháo đài, Mác-ti-ni sẽ từ
trong đám đông tiên lên trước, rút súng ngắn giấu trong ngực áo ra, bắn vào mặt
viên Giám binh. Nhân lúc lộn xộn, hai mươi người đầy đủ khí giới sẽ thình lình
xông tới cổng, đánh phá tới tận tháp canh, dùng vũ lực bắt giữ tên giữ chìa
khoá ngục, buộc nó phải mở cửa xà lim, cõng Ruồi Trâu ra và bắn chết hoặc chế
ngự bất cứ kẻ nào định cản đường. Ra đến cổng họ sẽ vừa đánh vừa rút, đồng thời
yểm hộ cho một toán dân buôn lậu thứ hai có vũ trang và cưỡi ngựa đến để đem
Ruồi Trâu tới chỗ ẩn nấp an toàn trên núi cao.
Trong
nhóm cốt cán chỉ có Giê- ma là không biết tí gì về kế hoạch này. Mác-ti-ni đã
có nguyện vọng đặc biệt yêu cầu không để cho chị biết. Anh bảo:
- Chẳng
mấy chốc chị ấy vỡ tim ra mất.
Vừa thấy
Mác-cô-nê đến cổng, Mác-ti-ni đã mở cửa kính, bước ra hiên đón:
- Có tin
gì không, Mác-cô-nê? Ôi!...
Mác-cô-nê
không trả lời, chỉ hất chiếc mũ rơm rộng vành ra sau gáy.
Họ cùng
nhau ngồi dưới mái hiên.
Không ai
nói một lời. Nhưng chỉ thoáng nhìn vẻ mặt ẩn dưới vành mũ khi Mác-cô-nê bước
vào, Mác-ti-ni cũng đã hiểu rõ tình hình.
Một hồi
im lặng dài. Cuối cùng, anh hỏi:
- Xảy ra
lúc nào thế?
Chính
tai anh tự nghe, Mác-ti-ni cũng đã thấy giọng nói của mình uể oải và chán ngán
như cả thế giới này.
- Sáng
nay, lúc rạng đông. Viên đội cho tôi biết. Anh ta có mặt ở đó, trông rõ cả.
Mác-ti-ni
nhìn xuống, rứt đứt đoạn chỉ vướng ở tay áo.
Mọi sự
đều là hư không (1). Chuyện này cũng là hư không nốt. Đáng lẽ ngày mai anh sẽ
phải chết. Vậy mà bây giờ thế giới mơ ước của lòng anh đã tan đi, hệt như cái
thế giới thần tiên của những giấc mộng vàng lúc hoàng hôn tan đi khi màn đêm
buông xuống. và anh đã bị đuổi bật trở lại với cái thế giới buồn tẻ, lần hồi
ngày này qua tháng khác, cái thế giới của Gơ-rát-xi-ni và Gali, của mật mã và
những bài văn châm biếm, của những cuộc cãi vã giữa các đồng chí trong đảng,
của những mưu sâu chước hiểm của bọn mật thám Áo, và nói chung là của cái cối
xay (2) công tác hàng ngày khiến con tim chán ngắt. Giờ đây, Ruồi Trâu chết đi
làm cho dưới đáy tâm hồn anh chỉ còn là một khoảng trống rỗng lớn, một khoảng
trống không có gì và không ai lấp nổi.
Nghe có
tiếng ai đang hỏi mình, Mác-ti-ni ngẩng đầu ngạc nhiên, không biết bây giờ còn
có chuyện gì đáng mất công bàn luận nữa đây.
- Anh
vừa nói gì vậy?
- Tôi
đang bảo là tất nhiên anh sẽ nói cho chị ấy biết chứ?
Sự sống
cùng với nỗi ghê sợ về sự sống, đã trở lại trên gương mặt Mác-ti-ni. Anh kêu
lên:
- Làm
sao đi nói cho chị ấy biết được. Như thế khác nào anh bảo đi đến đâm chết chị
ấy. Ôi, tôi biết nói thế nào với chị ấy bây giờ? Tôi nói sao bây giờ?
Mác-ti-ni
đưa lại tay lên bưng kín mắt. Nhưng, tuy không nhìn, anh vẫn cảm thấy Mác-cô-nê
bỗng nhiên giật mình. Anh ngẩng đầu nhìn lên. Giê- ma đã đứng ngay trước cửa.
Chị nói:
-
Trê-da-rê, anh đã nghe tin chưa? Thế là hết, chúng đã bắn chết anh ấy rồi.
--- -------
(1) Nguyên văn là "theo Swiss
guards", tức Đội cận vệ Thuỵ Sĩ, vì đội cận vệ trong các đặc khu thuộc
Giáo hoàng có lệ đặc biệt thuê tuyển người Thuỵ Sĩ làm cận vệ.
(2) Linh mục chuyên việc giảng đạo, làm phép
đạo trong các trại giam (nhà tù), bệnh viện, trường học, quân đội. Thường gọi
là cha tuyên uý.
(3) To confess, confession (tiếng Anh): cũng
là thú tội, tự thú.
(1) His Reverence (tiếng Anh): cách xưng hô
kính trọng đối với linh mục.
(2) Your Maker (tiếng Anh): cũng là Đấng Tạo
Thành.
(3) Your Judge (tiếng Anh): tức Đấng Phán Xét
chí công (the Righteous Judge), tức Đức Kitô. Cũng là "Thẩm phán chí
công".
(4) Hàm ý tới truyền thuyết về Chúa Giêsu chết
đi ba ngày rồi sống lại (cũng gọi là sự phục sinh, do đó có Lễ Phục sinh).
(1) Câu này có hàm ý các tích trong Kinh Thánh
về việc nhiều lần Chúa Kitô sờ vào người mà chữa khỏi bệnh hoặc làm sống lại
người đã chết.
(1) Vanity of vanities (hoặc All is vanity)
(tiếng Anh): câu trích trong Kinh Thánh. Cũng là "mọi sự đều là phù
phiếm" (phù vân, phù hoa).
(2) Ý nói một công việc đều đều hàng ngày. Cối
xay ở đây là ở châu Âu hồi xưa, do lừa (ngựa) bị bịt mắt buộc vào càng cối, tự
đi vòng quanh kéo quay suốt ngày.
RUỒI
TRÂU
Chương
26
-"Introibo
ad altare Dei" (1)
Mông-ta-ne-li
đứng trước ban thờ, chung quanh là các vị thừa tác (2) và những người giúp lễ
(3). Ông ta cất cao giọng, rành rọt đọc kinh Introit. Toàn bộ nhà thờ chính toà
chan hoà ánh sáng và màu sắc. Từ những bộ áo lễ của những người chầu lễ cho đến
những hàng cột bọc vải đỏ chói, những dây tết hoa, tất cả đều không còn một chỗ
nào là u ám. Cửa ra vào mở toang, rủ đầy những tấm rèm to và đỏ tía dưới ánh
sáng nóng hổi của mặt trời tháng sáu như những cánh hoa anh túc trong cánh đồng
lúa mạch. Các nhà nguyện ở hai bên mọi khi vẫn âm u, nay sáng rực nến và đèn
sáp của các chức sắc và các dòng tu, và tấp nập những tháng giá và cờ ảnh của
các đoàn từ các giáo sứ. Cờ lụa treo cả ở các hành lang, rủ xuống tận đất. Chóp
cán cờ, ngù cờ lóng lánh dưới các vòm cửa. Ánh sáng ban ngày đổ qua các khung
kính màu, rọi vào những áo các phép (4) của các đội viên đội đồng ca làm thành
bảy sắc cầu vồng lấp lánh. Ánh sáng mặt trời rọi lên sàn nội điện thành những
vệt theo ô bàn cờ màu da cam, đỏ tía, xanh lá cây. Đằng sau ban thờ treo một
tấm màn gấm bạc óng ánh. Và giữa tấm màn cùng các đồ trang trí và những đèn nến
trên ban thờ nổi bật lên thân hình đứng im phăng phắc trong bộ áo lễ trắng dài
quét đất của Hồng y giáo chủ, trông chẳng khác gì một pho tượng đá hoa đã được
truyền sinh khí để trở nên sống động.
Theo tục
lệ, trong những ngày trước lễ, ông ta chỉ đứng chủ trì ở Thánh lễ chứ không tự
thân tiến hành cuộc lễ. Cho nên sau kinh Indulgentiam (5) ông rời ban thờ, từ
từ bước về phía ngai giám mục giữa những hàng lưng cúi gục của vị chánh tế và
những người thừa tác khi ông đi qua.
Hai kinh
sĩ nói thầm với nhau:
- Tôi e
rằng Đức Hồng y không được khoẻ. Hôm nay trông ngài lạ lắm.
Mông-ta-ne-li
cúi đầu để nhận mũ gầu (7) dát ngọc. Vị linh mục làm nhiệm vụ phó tế danh dự
(8) đặt mũ cho ông xong, chăm chú nhìn ông trong giây lát rồi cúi mình khẽ hỏi
ông:
- Thân
lạy Đức Hồng y, ngài có bị ốm không ạ?
Mông-ta-ne-li
hơi quay mặt lại. Cặp mắt ông không còn nhận thức được gì nữa cả.
Linh mục
lầm rầm nói:
- Xin
Đức Hồng y tha lỗi.
Ông ta
bái quỳ rồi trở về chỗ cũ, tự trách mình đã kinh động Đức Hồng y trong việc cầu
nguyện sùng kính của ngài.
Nghi lễ
tiến hành rất thông thuộc. Mông-ta-ne-li ngồi thẳng người, không nhúc nhích.
Ánh mặt trời long lanh trên chiếc mũ dát ngọc và ánh lăn trên bộ áo thêu kim
tuyến. Tà áo choàng lễ hội trắng muốt nặng nề phủ xuống tận tấm thảm đỏ dưới
chân ngài. Hàng trăm ngọn nến lung linh rọi sáng những viên hồng ngọc trên ngực
Hồng y giáo chủ. Nhưng đôi mắt sâu trũng và đờ đẫn của ông vẫn không có một tia
phản hồi nào.
Và khi
có tiếng xướng lên: "Benedicite, pater eminentissime" (1),
Mông-ta-ne-li cúi xuống làm phép bình hương. Ánh mặt trời nhảy nhót trên chiếc
mũ ngọc. Hình ảnh này gợi nhớ đến một hung thần băng tuyết nào đó của các đỉnh
núi cao, lộng lẫy mà dữ dội, đầu đội cầu vồng, mình mặc áo tuyết, đang giơ hai
tay ra để ban phát những lời chúc phúc hoặc để gieo rắc những lời nguyền rủa.
Khi dâng
Bánh Thánh (2), Hồng y giáo chủ bước xuống ngai, quỳ gối trước ban thờ. Trong
những cử chỉ đều đều cứng nhắc của ông có một vẻ gì khác thường, và khi ông
đứng dậy trở về chỗ cũ, viên thiếu tá kỵ binh mặc sắc phục ngày lễ ngồi sau
viên Giám binh, quay lại thì thào với viên đại uý bị thương:
- Lão
Hồng y giáo chủ suy sụp mất rồi, không hồ nghi gì nữa! Trông không ra người, mà
như cái máy ấy.
Viên đại
uý cũng thì thào đáp lại:
- Càng
tốt. Từ ngày có cái lệnh đại xá chết tiệt ấy, lão ta cứ như tấm đá cối xay
tròng quanh cổ chúng ta.
- Nhưng
lão ta cũng đã chịu thua rồi và phải đồng ý cho lập toà án binh.
- Phải,
nhưng mất bao nhiêu thời giờ lão ta mới chịu thế đấy. Trời, sao ngột ngạt thế
này. Tí nữa đi rước chúng ta sẽ say nắng, lăn ra cả lũ mất. Giá chúng ta được
làm Hồng y giáo chủ thì sướng biết bao, suốt dọc đường lúc nào cũng được che
phương du... Suỵt, chú tao đang nhìn lại kia kìa!
Đại tá
Pherari quay lại quắc mắt nhìn hai sĩ quan trẻ tuổi. Sau sự việc nghiêm trọng
ngày hôm qua, hắn ta đã trở nên sùng kính và ngoan đạo, và hắn rất sẵn sàng
nhiếc mắng lũ thanh niên khi chúng tỏ thái độ thiếu nghiêm túc trước "tình
thế đòi hỏi phải chịu nỗi khó nhọc".
Những
người trong ban tổ chức bắt đầu tập hợp và xếp vào hàng ngũ những ai tham dự
đám rước. Đại tá Pherari đứng dậy đi đến hàng rào nội điện và ra hiệu cho bọn
sĩ quan đi tháp tùng mình.
Khi buổi
Thánh lễ đã xong và Bánh Thánh đã được cất vào bình vàng (3) đặt trong chiếc
hộp pha lê, thì ông chủ tế và các vị thừa tác rút vào phòng thánh để thay áo.
Những tiếng rì rầm nói chuyện riêng vang lên. Nhưng Mông-ta-ne-li vẫn ngồi bất
động trên ngai, đôi mắt vẫn sững sờ nhìn về phía trước. Cả một biển người sống
động như dâng lên chung quanh và dưới chân ngai để rồi lặng tắt trong cõi tịch
mịch quanh chân ông. Bình hương đưa tới thì ông giơ tay lên như cái máy, bỏ
hương liệu vào bình, mắt vẫn trừng trừng nhìn thẳng.
Giới
giáo sĩ đã từ phòng thánh trở ra, tề tựu trong nội điện để chờ ông xuống ngai,
nhưng ông vẫn tiếp tục ngồi yên, hoàn toàn bất động. Vị phó tế danh dự cúi mình
về phía trước để cất mũ ngọc cho ông, rồi lại khe khẽ, ngập ngừng nói với ông:
- Thưa
Đức Hồng y!
Hồng y
giáo chủ nhìn quanh quẩn:
- Con
nói gì?
- Ngài
có chắc là cuộc rước lễ sẽ không quá sức đối với ngài không ạ? Trời nắng nóng
lắm.
- Nắng
thì có hề gì!
Nghe
Mông-ta-ne-li nói với vẻ lạnh lùng và có cân nhắc cẩn thận, vị linh mục lại một
lần nữa có cảm tưởng rằng mình đã xúc phạm đến ngài.
- Xin
Đức Hồng y tha lỗi. Con tưởng là ngài khó ở.
Mông-ta-ne-li
đứng dậy, không trả lời. Ông đứng im lặng một lát ở bậc cao nhất trên bệ ngai,
rồi cũng với giọng cân nhắc ấy, ông hỏi:
- Cái gì
kia?
Đuôi áo
choàng của ông phủ dài trên các bậc dưới chân ngai rồi toả rộng trên sàn nội
điện. Ông chỉ vào một vệt đỏ như lửa trên tà áo sa tanh trắng.
- Thưa
Đức Hồng y, đó chỉ là ánh mặt trời chiếu qua cửa kính màu.
- Ánh
mặt trời ư? Đỏ đến thế sao?
Ông bước
xuống bậc, quỳ trước ban thờ, cầm dây treo bình hương rồi từ từ lắc qua lắc lại
(1). Khi ông trả lại bình hương cho người giúp lễ, ánh nắng rọi thành những ô
bàn cờ lên mái đầu trần của Mông-ta-ne-li, chiếu thẳng vào đôi mắt mở to và đang
ngước lên của ông, hắt một vệt đỏ tươi lên chiếc khăn choàng vai (2) màu trắng
mà các vị thừa tác đang sửa lại nếp gấp quanh mình ông.
Vị phó
tế đưa chiếc bình vàng Mặt nhật thiêng liêng cho Mông-ta-ne-li. Ông đứng dậy
giữa lúc ca đoàn (3) cùng tiếng phong cầm cất vang một giai điệu khải hoàn.
Những
người giúp lễ từ từ tiến lại giương chiếc phương du bằng lụa che lên đầu ông.
Các vị phụ tế danh dự đến đứng vào chỗ của mình ở bên phải và bên trái ông, cầm
tà áo choàng của ông mà kéo về phía sau. Và khi những người giúp lễ cúi xuống
nâng tà áo của ông lên khỏi mặt sàn nội điện thì các hội giáo hữu tay cầm nến
sáng, chia thành hai hàng tả hữu, tiến lên trước, dẫn đầu đám rước bước ra lối
đi chính giữa nhà thờ và rồi từ từ tiến đi.
Đứng bất
động trên bệ cao bên ban thờ, đầu che phương du trắng, tay cầm chắc Mình Thánh
(4) mà nâng cao lên, Mông-ta-ne-li im lặng dõi theo đám rước đang diễu qua trước
mặt. Mọi người đi hàng đôi, mang nến, đèn sáp cùng với thánh giá, tượng thánh
và cờ, từ từ bước xuống bậc nội điện, đi giữa hai hàng cột kết đầy hoa, rồi
chui qua những chiếc rèm đỏ tía đã được cuốn lên ở cửa lớn mà tiến ra đường phố
đầy ánh nắng chói chang. Tiếng hát của tốp đi trước lắng dần, biến thành một
tiếng rì rầm mơ hồ, còn phía sau thì mỗi lúc một vang lên những giọng hát mới
tiếp theo. Đám rước kéo dài thành một dòng người trôi đi vô tận. Dưới vòm nhà
thờ âm vang, tiếng chân rậm rịch không ngớt dọc theo lối đi chính giữa nhà thờ.
Các đoàn
thuộc các giáo xứ diễu qua, họ choàng khăn liệm trắng, mạng che kín mặt; rồi
đến dòng anh em hội Misericordia (5) mặc đen từ đầu tới chân, chỉ thấp thoáng
ló ra hai con mắt lóng lánh qua những lỗ thủng ở mặt nạ. Kế đến các tu sĩ đi
theo hàng ngũ rất nghiêm trang: các đan sĩ khất thực đội mũ trùm đầu màu xám
xịt, chân màu nâu đi đất; các tu sĩ dòng Đaming khắc khổ mặc áo trắng. theo sau
là các quan chức thế tục ở địa phương, kỵ binh, pháo thủ, sĩ quan cảnh sát địa
phương và viên Giám binh mặc sắc phục lễ hội cùng với các sĩ quan tháp tùng.
Sau cùng là một vị phó tế mang một cây thánh giá rất to đi giữa hai người giúp
lễ cầm hai cây nến cao cháy sáng rực. Và do các tấm rèm ở cửa chính đã được
cuốn lên cao, từ vị trí đứng dưới chiếc phương du, Mông-ta-ne-li nhìn ra thấy
đường phố ngập nắng, rải đầy thảm, cờ xí phấp phới trên các bức tường, trẻ con
mặc áo trắng đang tung hoa hồng trên đường cái. Ôi! Hoa hồng! Sao những bông
hồng đỏ đến thế!
Đám rước
tiếp tục diễu đi, thong thả, rất có trật tự. Trang phục và màu sắc mỗi phút mỗi
đổi khác. Những chiếc áo các phép dài trắng, khắc khổ và gọn ghẽ, nhường chỗ
cho những áo lễ lộng lẫy và những áo choàng thêu kim tuyến. Kia là một cây
thánh giá mạ vàng, cao mà thon, đang chơi vơi trên những ngọn lửa nến. Nọ là
những vị kinh sĩ Nhà thờ chính toà cứng ngắc trong áo choàng trắng tuyền. Một
linh mục tuyên uý từ nội điện bước ra, tay mang chiếc trượng của giám mục (1),
đi giữa hai chiếc đèn sáp đang léo sáng. Rồi những người giúp lễ chân bước đều,
bình hương vung vẩy theo nhịp âm nhạc. Những người giúp lễ càng nâng cao phương
du, mồm lầm rầm đếm "một hai, một hai". Mông-ta-ne-li bắt đầu cất
bước trên "Đàng Thánh giá" (2).
Ông bước
xuống các bậc nội điện rồi đi theo lối đi rộng giữa nhà thờ, đi ngang dưới tầng
gác nơi đang vang ầm những hồi phong cầm oai hùng. Rồi ông đi dưới những rèm
cửa đã cuốn lên - rèm cửa cũng một màu đỏ chói đáng sợ - mà bước ra đường phố
chói loà ánh nắng, với những bông hồng đỏ như máu nằm ngổn ngang, đang héo tàn
và bị biết bao bước chân dẫm nát trên thảm đỏ.
Ra đến
cửa, đám rước ngừng một lát để các quan chức thế tục tiến lên cầm phương du
thay những người giúp lễ, rồi đám rước lại đi. Mông-ta-ne-li cũng cất bước, hai
tay cầm chắc bình Mặt nhật Thánh thể. Tiếng hát của ca đoàn lúc bổng, lúc trầm
quanh ông, hoà nhịp với tiếng lắc bình hương và tiếng bước chân dồn dập trên
đường.
Máu, chỗ
nào cũng có máu. Tấm thảm trải dài trước mặt ông như một dòng sông đỏ; những
đoá hồng rải rác trên các phiến đá trông như những vết máu tung toé!... Ôi!
Chúa ơi! Có lẽ nào tất thảy đất của Chúa, và tất thảy trời của Chúa cũng đều
nhuốm đỏ? Ôi! Đức Chúa Trời mạnh mẽ vô cùng! Cớ sao đến cả đôi môi của Chúa
cũng đà vấy máu?
Mông-ta-ne-li
nhìn Mình Thánh nằm trong hộp pha lê. Cái gì rỉ ra từ bánh thánh, nhỏ giọt
xuống giữa những tia nắng vàng và nhỏ giọt xuống cả áo choàng trắng của ông thế
này? Ông đã từng trông thấy sự nhỏ giọt như thế, sự nhỏ giọt từ một cánh tay
giơ lên chăng? Cỏ pháp trường hôm ấy nhàu nát và đỏ... đỏ hết..., sao nhiều máu
thế! Máu chảy ròng ròng trên má, nhỏ giọt từ cánh tay bên phải bị đạn bắn
thủng, ồng ộc chảy đỏ lòm và nóng hổi từ vết thương ở cạnh sườn (3). Cả một lọn
tóc văng vào bãi máu... phải, lọn tóc ướt đẫm và bết lại trên trán. À, đó là mồ
hôi lúc giãy chết, toát ra do đau đớn cùng cực.
Tiếng
hát của ca đoàn càng vút lên cao, oai hùng và đắc thắng.
Ôi!
Không lòng kiên nhẫn nào chịu nổi nữa! Chúa ngự trên ngai trời màu đồng sáng
láng, đôi môi vấy máu mỉm cười, nhìn xuống những cảnh hấp hối và chết chóc của
thế gian, như thế còn ít hay sao? Vẫn còn cần đến những lời ngợi ca và chúc
phúc nực cười ấy sao? Thân thể Chúa Giêsu đã bị vò xé để cứu rỗi người đời, máu
Chúa Giêsu đã đổ để chuộc tội cho người đời! Thế còn chưa đủ hay sao?
- À, Cha
gọi to lên! Có lẽ Người đang ngủ!
Con yêu
của cha, có thật là con đã ngủ rồi và sẽ không bao giờ con trở dậy nữa ư? Có
phải nấm mồ kia cứ khư khư giữ lấy chiến công của nó và lỗ huyệt đen sì dưới
gốc cây kia cũng không buông tha con ra một phút nào cho chút niềm vui sướng
của lòng cha?
Và lúc
ấy Vật Thánh (4) nói vọng ra từ sau nắp hộp pha lê, trong khi máu vẫn nhỏ giọt,
nhỏ giọt... Vật Thánh nói:
- Cha đã
lựa chọn rồi, bây giờ cha lại còn hối hận về sự lựa chọn của mình hay sao? Cha
chưa lấy làm mãn nguyện hay sao? Cha hãy nhìn đám người ăn mặc lụa là gấm vóc
đang đi trong ánh sáng kia. Chính vì họ mà con phải nằm trong lỗ huyệt đen sì.
Cha hãy nhìn đám trẻ con đang tung những bông hồng kia, cha hãy lắng nghe những
tiếng hát véo von của chúng. Chính vì chúng mà mồm con ngập đầy cát bụi, và
những bông hồng kia thắm đỏ cũng là nhờ nguồn tưới từ trái tim con. Cha thấy
không? Mọi người đang quỳ xuống để uống cạn máu nhỏ ra từ những đường viền
trong trang phục của cha. Máu ấy đổ ra là vì họ, là để họ giải được cơn khát
cháy cổ bỏng họng. Bởi chưng đã có sách viết rằng "Không tình yêu nào lớn
bằng tình yêu của người hiến đời mình cho bè bạn" (5).
- Ôi! Ác-tơ,
Ác-tơ! Vẫn có một tình yêu khác lớn hơn thế. Nếu có kẻ đem hiến dâng cả cuộc
đời của đứa con yêu quý nhất của mình, thì tình yêu đó có lớn không không?
Và từ
trong hộp bánh thánh, Vật Thánh lại trả lời:
- Ai là
đứa con yêu quý nhất của cha? Chắc chắn không phải là con đâu!
Khi
Mông-ta-ne-li định nói lại, thì những lời nói của ông đã đóng băng lại trên
lưỡi ông, bởi vì tiếng hát của ca đoàn đã lướt qua những lời ông định nói, hệt
như làn gió bấc quét trên những hồ lơ băng giá, xua chúng vào cõi câm lặng.
-
"Hỡi những người Kitô giáo! Tất cả các người hãy uống đi! Máu đỏ không
phải là vật sở hữu của các người sao? Vì các người mà dòng máu đỏ nhuộm ngập
cỏ, vì các người mà thịt người tươi sống đã phải chịu nướng chín và xé nát ra
từng mảnh! Hỡi những kẻ ăn thịt người, hãy ăn đi, tất cả các người hãy xúm lại
mà ăn đi! Đó là bữa tiệc, là cuộc đánh chén thả cửa của các người, ngày hoan
lạc của các người! Hãy mau chân đến dự lễ hội, mau chân tham gia vào đám rước
và đi diễu hành cùng ta! Hỡi nam phụ lão ấu, hãy đến mà chia phần thịt sống!
Hãy đến mà rót cho dòng rượu máu tuôn ra như suối, hãy uống nó đi khi nó còn
đang tươi đỏ! Hãy nhận và cắn xé thân người..."
Ôi! Lạy
Chúa! Pháo đài kia rồi. Pháo đài âm u, xám xịt với những công sự đổ nát và
những tháp canh đen tối giữa cảnh núi đồi quạnh quẽ. Nó cau có nhìn xuống đám
rước đang kéo dài trên con đường tắm bụi bên dưới. Những chiếc răng thép của
tấm rào chắn đã được kéo sập xuống che lấy miệng cổng. Pháo đài như một con thú
dữ nằm phục xuống bên sườn núi để giữ chặt lấy mồi. Nhưng dù cho những nanh
vuốt ấy có siết chặt đến đâu, chúng vẫn sẽ bị bẻ gẫy và bị bật tung ra, và nấm
mồ trong sân pháo đài sẽ phải nhả thi thể ra khỏi miệng. Là vì lũ chủ nhân Kitô
giáo đang hành quân và hành quân bằng một đám rước hùng hậu để xông tới bữa
tiệc máu theo bí tích (1) của họ, hệt như một đàn quân chuột đói đang xung
phong đến những bông thóc còn sót lại ngoài đồng sau vụ gặt. Và trong bọn họ ai
nấy đều gào lên: "Đưa đây! Đưa đây!", chứ không kẻ nào trong bọn họ sẽ
nói rằng: "Đã đủ!"
- Như
thế cha còn chưa thoả mãn hay sao? Con đã phải hy sinh vì những người đó. Cha
đã tiêu diệt con để cho họ được sống. Cha trông kìa, họ đang kéo đi, người nào
người nấy đi theo con đường trước mặt, và sẽ không khi nào chịu rời bỏ hàng ngũ
(2).
Đó là
đạo binh của những người Kitô giáo, của những người tin theo Đức Chúa Trời của
cha, một đạo binh mạnh mẽ, đông không kể xiết. Lửa ngùn ngụt cháy phía trước
dọn đường cho họ và lửa thiêu đốt cả phía sau theo vết chân họ. Đất đai trên
con đường ấy như vườn Địa đàng (3) trước mặt họ, nhưng khi đạo binh ấy đi qua
thì chỉ còn là cảnh hoang tàn mà thôi. Thật vậy, không gì thoát nổi tay chúng.
- Nhưng,
con yêu quý, dù sao con vẫn hãy quay lại, quay lại với cha đi con. Bởi vì cha
đã hối hận về quyết định của mình rồi! Con về với cha đi! Chúng ta sẽ cùng nhau
lẩn trốn đến một nấm mồ tăm tối, lặng lẽ, để cho đạo binh khát máu ấy khỏi tìm
thấy. Cha con ta sẽ nằm xuống đấy, sẽ ghì chặt lấy nhau mà ngủ, ngủ mãi. Khi
đạo binh Kitô giáo đói khát ấy tràn qua trên đầu chúng ta dưới ánh ban ngày tàn
nhẫn, và khi chúng hú rít lên đòi máu cho đỡ khát, đòi thịt cho đỡ đói, thì
tiếng gào của chúng vẫn sẽ tắt ngấm trong tai chúng ta và chúng sẽ phải bỏ đi,
để cho cha con ta được yên nghỉ.
Và Vật
Thánh lại đã trả lời.
- Con
biết ẩn nấp vào đâu cho được? Sách đã chẳng viết: "Chúng nó sẽ chạy nháo
khắp phố phường, leo lên tường, trèo vào nhà, chui qua cửa sổ như những tên
trộm cướp" (4) đó sao? Nếu con xây mồ trên đỉnh núi thì chúng chẳng phá
toang mồ ra được hay sao? Nếu con đặt mồ nơi đáy sông thì chúng lại không quật
mồ lên được hay sao? Con nói thật cho cha hay, chúng như giống chó săn thuần
chủng thính nhạy, chúng sẽ tìm ra con mồi, và những vết thương của con phải rỉ
máu để chúng uống cho qua cơn khát. Cha chẳng nghe thấy chúng hát gì hay sao?
Vừa đi
vừa hát, dòng người tiến vào giữa những tấm rèm cửa đỏ tía ở cửa Nhà thờ chính
toà. Bởi vì cuộc rước đã kết thúc và hết thảy các bông hồng đều đã tung hê sạch
cả rồi.
Và khi
họ đã thôi hát, Hồng y giáo chủ đi vào cửa chính giữa các hàng tu sĩ và giáo
sĩ, ai nấy đều quỳ gối ở chỗ của mình, tay giơ cao những ngọn nến leo lét cháy.
Và ông thấy những cặp mắt đói khát của họ hau háu nhìn vào Thánh Thể (5) trong
tay ông, ông hiểu rằng họ cúi đầu không nhìn theo ông là chỉ bởi vì một dòng đỏ
sẫm đã chảy xuống theo nếp gấp của bộ lễ phục trắng của ông và bởi vì những
bước chân ông đã để lại một vết đỏ sâu trên nền đá Nhà thờ.
Cứ như
vậy ông đi qua lối đi giữa nhà thờ mà vào đến hàng rào nội điện. Ở đây những
người giúp lễ đã dừng chân, ông ra khỏi chiếc phương du và một mình bước lên
các bậc ban thờ. Hai bên tả hữu ban thờ là những người giúp lễ quỳ gối tay cầm
bình hương và những linh mục tuyên uý tay cầm đèn sáp cháy dở. Mắt họ chăm chăm
nhìn vào Thân thể Đấng Hy Lễ (6) và loé lên những tia thèm khát dưới ánh sáng
lung linh của đèn nến.
Và khi
ông ra đứng trước ban thờ, dùng hai bàn tay vấy máu giơ cao thân thể bị cào xé
tàn hại của đứa con yêu dấu đã bị giết của mình, thì tiếng hát của những người
đến dự bữa tiệc Thánh Thể lại vang lên trong một bài thánh ca khác.
À, bây
giờ họ đến để nhận phần thân thể của con rồi... Đi đi thôi, con yêu của lòng
cha, con hãy làm theo số phận đắng cay đã an bài và con hãy mở rộng cánh cửa
thiên đàng cho những con chó sói háu đói không sao xua đuổi được ấy. Còn cánh
cửa mở ra cho cha sẽ là cánh cửa xuống đáy địa ngục.
Khi linh
mục phó tế đặt bình bánh thánh lên ban thờ, thì Mông-ta-ne-li quỳ sụp xuống chỗ
ông đang đứng và rồi từ trên ban thờ màu trắng trên đầu ông, máu túa xuống, nhỏ
giọt lên đầu ông. Các tiếng hát vang lên mỗi lúc một to, ngân lên dưới những
vòm cửa và vọng lại những dư âm theo vòm mái vút cao:
"Sine
termino... sine termino!" (1)
"Ôi,
Giêsu, khi Người gục xuống dưới giá chữ thập của mình, Người sung sướng vô
cùng! Khi Người nói được "Thế là xong!" (2) Người sung sướng vô cùng!
Còn số phận này thì vô tận, là vĩnh hằng như những tinh cầu đang xoay vần trên
thượng giới. Đây là một con sâu không bao giờ chết, một ngọn lửa không bao giờ
tắt (3) "Sine termino... sine termino!"
Hồng y
giáo chủ làm nốt phần lễ cuối cùng một cách mệt mỏi, miễn cưỡng. Ông hành lễ
như một cái máy theo những thói quen cũ và những nghi lễ mà giờ đây đối với ông
đã mất hết ý nghĩa. Rồi sau khi đã ban phép lành kết thúc nghi thức Chầu Thánh
thể, ông lại một lần nữa đến quỳ trước ban thờ và lấy tay bưng mặt. Tiếng một giáo
sĩ đang cất cao giọng đọc bản danh sách xá tội (4) chỉ vọng đến tai ông phảng
phất như một tiếng rì rầm xa xôi của một thế giới mà ông không bao giờ phụ
thuộc nữa. Tiếng đọc đã im bặt, vậy mà ông lại đứng dậy, giơ tay ra hiệu cho
mọi người im lặng. Một số giáo hữu đã ra tới cửa đều vội quay trở lại xì xào
bàn tán khi có tiếng thì thầm truyền đi trong nhà thờ rằng: "Đức Hồng y
giáo chủ sắp giảng thuyết..."
Các vị
thừa tác nhìn nhau sửng sốt và tiến lại gần ông. Một người hỏi khẽ và gấp:
- Thân
lạy Đức Hồng y, ngài định giảng thuyết cho con chiên ngay bây giờ?
Mông-ta-ne-li
lặng lẽ phẩy tay gạt ông ta ra. Các giáo sĩ lùi lại đồng thanh thì thào. Việc
này không những là khác thường mà còn là bất thường nữa, nhưng vẫn nằm trong
đặc quyền của Hồng y giáo chủ nếu ngài muốn làm như vậy. Hẳn là ngài sẽ tuyên
cáo một điều gì đặc biệt quan trọng, công bố một cuộc cải cách mới của La Mã
hoặc là một sắc dụ đặc biệt của Đức Thánh Cha.
Mông-ta-ne-li
đứng trên bậc cao trước ban thờ, nhìn xuống biển người đang ngửa mặt lên dưới
chân ông. Mọi người ngẩng đầu chăm chắm nhìn ông với lòng thiết tha chờ đợi,
vậy mà ông vẫn đứng trên cao, vừa im phăng phắc lại vừa trắng toát như một con
ma.
Các linh
mục áp lễ khẽ nhắc:
- Suỵt,
suỵt! Im lặng!
Và những
tiếng xì xào của mọi người tắt lặng dần như một làn gió đang lịm đi trong những
ngọn cây rì rào.
Tất cả
đám đông đều nín thở nhìn lên thân hình trắng toát đứng trên bậc ban thờ. Và
giọng nói vững chắc, chậm rãi của Hồng y giáo chủ cất lên:
- Sách
Phúc Âm theo Thánh John (1) viết rằng: "Vì Chúa thương xót thế gian nên
Người đã hiến người Con một của mình để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu
rỗi". Ngày hôm nay chúng ta làm lễ kính Mình Thánh và Máu Thánh của Đấng
Hy Lễ (2) đã chịu chết để cứu rỗi các ngươi, của Chiên Thiên Chúa (3) đã chịu
lấy tội lỗi của thế gian, của Con Thiên Chúa đã chết để chuộc tội cho các
người. Các ngươi tụ họp đông đủ và trang nghiêm ở đây để hưởng lấy của hy sinh
cho các ngươi, và để tạ ơn lòng thương xót cao cả ấy. Và ta biết rằng sáng nay
khi các ngươi đến để chia phần tiệc, để chịu Mình Thánh, thì lòng các ngươi
tràn đầy vui sướng, và các ngươi đã nhớ tới sự Thương Khó (4) mà Đức Chúa Con
đã phải chịu để cứu độ các ngươi.
Nhưng
cho ta hay: kẻ nào trong các ngươi đã nghĩ tới một điều khổ nạn khác, đó là sự
Thương Khó của Đức Chúa Cha, Người đã để cho con mình phải chịu đóng đinh trên
giá chữ thập? Kẻ nào trong các ngươi đã nhớ tới sự thương (5) của Đức Chúa Cha
khi Người từ trên ngai báu trên trời cúi mình nhìn xuống Canvê(6)?
Ngày hôm
nay, dõi nhìn các ngươi đi trong hàng ngũ rước lễ chỉnh tề, ta thấy các ngươi
hân hoan trong lòng vì đã được tha tội, vui sướng trong lòng vì đã được cứu
rỗi. Và ta cầu xin các ngươi một điều: các ngươi thử suy nghĩ xem công cứu độ
ấy đáng giá nhường nào? Hiển nhiên là công ấy quý giá vô ngần, công ấy còn quý
hơn cả châu báu, là vì giá công ấy tính bằng máu.
Một cơn
xao động nhẹ và kéo dài lướt trong đám người đang lắng nghe. Các giáo sĩ đứng
trong nội điện thì xì xào bàn tán, rướn cả người về phía trước.
Nhưng họ
yên lặng khi người rao giảng nói tiếp:
- Chỉnh
bởi thế ngày hôm nay ta nói với các ngươi rằng TA LÀ ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU (7).
Là vì ta đã chiếu cố tới sự yếu đuối và những nỗi đau buồn của các ngươi, ta đã
quan tâm đến các trẻ em đùa nghịch quanh chân các ngươi. Và lòng ta xót thương
cho số phận chúng vì chúng sẽ không sao tránh khỏi cái chết. Rồi ta nhìn vào
đôi mắt đứa con trai yêu dấu của ta, và ta đã thấy sự Đền Bù bằng Máu (8) chính
là ở đó. Thế là ta đành phải đi con đường của ta, để mặc con ta với số phận của
nó.
Đấy xá
tội là thế. Con ta đã chết thay cho các ngươi, bóng tối đã nuốt mất con ta; con
ta chết đi mà không bao giờ sống lại nữa; nó chết đi, ta không còn con nữa. Ôi,
con trai của ta, con trai của ta!
Hồng y
giáo chủ buông ra một tiếng kêu dài thảm thương, và những tiếng lao xao của đám
người kinh hoàng đã đáp lại lời kêu thương ấy như một tiếng vang. Tất cả các
giáo sĩ đều vụt đứng dậy, những người phó lễ danh dự tiến lại định đặt tay lên
cánh tay ông. Nhưng ông giật phắt tay ra, đột nhiên trợn mắt nhìn họ như một
con thú dữ đang trở nên hung hãn:
- Cái
gì? Máu như thế còn chưa đủ sao? Lũ chó rừng, các ngươi hãy đợi đến lượt mình!
Rồi tất thảy các ngươi đều sẽ được no nê!
Họ lùi
lại, đứng túm tụm lại với nhau mà run lẩy bẩy, họ hổn hển thở dốc ra nặng nhọc,
mặt họ trắng bệch như vôi. Mông-ta-ne-li lại quay về phía mọi người và biển
người dào dạt lên như cánh đồng lúa trước cơn gió bão.
- Các
ngươi đã giết con ta! Các ngươi đã giết con ta! Và ta đã phải cắn răng chịu
đựng, vì ta không muốn để cho các ngươi phải chết. Giờ đây, khi các ngươi đến
với những lời cầu nguyện nhơ nhớp và những lời ngợi khen lừa dối thì ta hối
hận, phải, ta hối hận vì ta đã xử sự như vậy! Lẽ ra cả lũ các ngươi phải bị vùi
dập thối tha trong tội lỗi, phải chịu nguyền rủa bêu riếu đời đời, và để cho
con ta phải được sống. Những linh hồn xấu xa ôn dịch của các ngươi có đáng được
cứu vớt với giá đắt như thế không?
Nhưng đã
muộn quá rồi, quá muộn rồi! Ta kêu to lên mà con ta không nghe thấy. Ta gõ cửa
mồ nó mà nó không tỉnh dậy. Một mình ta đứng giữa nơi hoang vắng và ta nhìn
chung quanh ta. Ta đưa mắt từ mặt đất vấy máu này, nơi chôn vùi tim của tim ta,
mà nhìn lên nơi thượng giới ghê rợn và trống rỗng là nơi duy nhất còn để lại
cho tấm thân cô độc của ta. Ôi, những kẻ dòng dõi rắn độc (1)! Ta đã phải từ bỏ
con ta, vì các ngươi mà ta đã phải từ bỏ con ta!
Đấy sự
cứu rỗi đối với các ngươi là như thế đấy! Các ngươi hãy đón lấy. Ta ném sự cứu
rỗi cho các ngươi như ném một khúc xương cho lũ chó dại đang nhe nanh gầm gừ!
Cái giá của bữa tiệc đã được trả sẵn cho các ngươi rồi. Hỡi những kẻ ăn thịt
người, những kẻ uống máu người, những thú dữ chuyên ăn xác chết, các ngươi hãy
tự đến mà ngốn cho thoả thích! Các người hãy nhìn vào nơi những dòng máu đang
tuôn xuống từ ban thờ, những dòng máu nóng hổi và sủi bọt từ tim đứa con yêu
dấu của ta, những dòng máu đã đổ ra vì các ngươi! Các ngươi hãy nốc cạn máu ấy,
liếm lấy máu ấy, và lấy máu ấy mà bôi lên mặt! Các ngươi hãy vồ lấy, hãy tranh
cướp nhau những miếng thịt người, hãy ăn ngấu nghiến đi, và đừng quấy rầy ta
nữa! Đây là thân thể đã hiến dâng vì các ngươi. Các ngươi nhìn xem, nó đầy vết
thương và đang còn rỉ máu, nó vẫn còn thoi thóp do cả đời bị hành hạ và nó vẫn
còn quằn quại vì đang hấp hối và ngắc ngoải! Hỡi lũ người Kitô giáo, các ngươi
hãy nhận lấy và ăn đi!
Ông nắm
lấy bình Mặt nhật trong có Mình Thánh Chúa, giơ lên khỏi đầu, và bây giờ ông
vung tay ném xuống sàn nhà thờ. Tiếng loảng xoảng của kim khí trên những phiến
đá vừa vang lên, lũ giáo sĩ đã kéo nhau đổ xô đến và hai chục bàn tay cùng một
lúc vươn ra túm lấy kẻ điên rồ.
Lúc đó,
và chỉ lúc đó, sự im lặng của quần chúng mới bùng lên thành những tiếng thét
điên cuồng và man rợ, và rồi cuống cuồng lật ngửa cả ghế tựa và ghế dài, họ xô đẩy
nhau để ra cửa, giẫm đạp lên nhau, giật tung các rèm cửa và dây tết hoa, dòng
lũ người đang dâng lên và còn đang nức nở ấy cuồn cuộn đổ ra đường phố.
---
------
(1)
Introibo ad altare Dei (tiếng Latin) - Ta hãy đến quỳ trước ban thờ Chúa - (Câu
mở đầu đoạn kinh "Introit", kinh nhập lễ).
(2)
Ministers (tiếng Anh): Những người giúp lễ cao cấp hơn.
(3)
Acolytes (tiếng Anh): Những người giúp lễ cấp thấp.
(4)
Surplices (tiếng Anh): áo dài trắng có nhiều nếp, cũng gọi là áo súpli, để các
giáo sĩ mặc khi phụng sự tôn giáo, nhất là khi hành lễ.
(5)
Indulgentiam (tiếng Latin): kinh xin tha tội.
(6)
Canons (tiếng Anh): cũng là quy sĩ.
(7)
Mitre (tiếng Anh, Pháp): mũ nhọn, mũ gầu (biểu thị chức sắc của giáo hoàng,
giám mục...) Đây là mũ giám mục.
(8)
Deacon (tiếng Anh): người phụ tá cho chủ tế. Có phó tế vĩnh viễn, phó tế chuyển
tiếp, phó tế danh dự (of honour)...
1)
Benedicite, pater eminentissime (tiếng Latin): lạy Cha rất tôn kính, xin ngài
hãy làm phép.
(2) Host
(tiếng Anh): cũng là Bánh Lễ.
(3)
Processional sun (tiếng Anh): bình đựng bánh thánh bằng vàng và pha lê hình mặt
nhật để chầu và kiệu bánh thánh cũng gọi là bình Mặt nhật để rước lễ.
(4)
Sacristy (tiếng Anh): phòng ở sát cung thánh, dùng để cất giữ áo lễ, đồ thờ...,
cũng gọi là phòng áo.
1)
Swinging the censer slowly to and fro (nguyên bản tiếng Anh): lắc bình hương để
khói hương toả ra (xông hương).
(2) Veil
(tiếng Anh): đây là loại khăn để người hành lễ lót tay khi cầm vào các vật lễ
linh thiêng.
(3)
Choir (tiếng Anh): là ca đoàn (hát thánh ca) trong nhà thờ, khác với Chorus là
hợp xướng biểu diễn văn nghệ.
(4)
Eucharist (tiếng Anh): bánh đã truyền phép.
(5)
Misericordia (tiếng Anh): lòng thương xót, tên một đoàn thể Công giáo từ thiện,
chuyên lo việc mai táng.
(1)
Crozier (tiếng Anh): gậy bên trên có thánh giá, tượng trưng cho quyền uy của
các chức sắc Công giáo từ giám mục trở lên.
(2) Way
of the Cross (tiếng Anh): các đoạn đường Giêsu phải vác giá chữ thập lên đồi
Calvary để chịu hình phạt rồi được mai táng, gồm tất cả mười bốn chặng. Nhưng ở
đây ngụ ý là "Đàng Thánh giá" của riêng Mông-ta-ne-li.
(3) Hàm
ý về Chúa Giêsu khi bị đóng đinh trên giá thập tự rồi, vẫn bị đâm một nhát giáo
vào mạng sườn.
(4) The
Thing (tiếng Anh): ở đây chính là vật được gọi là Mình Thánh (tức Chúa Kitô).
(5) Lời
Giêsu, theo Kinh Thánh.
(1)
Sacramental feast of blood (tiếng Anh): tức theo bí tích Thánh Thể (hoặc Mình
Thánh Chúa), một trong bảy bí tích (sacraments) do Chúa Giêsu đích thân thiết
lập.
(2)
trích Kinh Thánh.
(3)
Garden of Eden (tiếng Anh): cũng là Vườn cực lạc, Thiên đường trên mặt đất, mà
theo Kinh Thánh, Chúa Trời đã dành cho Adam và Eva đến ở đầu tiên.
(4)
trích Kinh Thánh.
(5) The
sacred Body (tiếng Anh): cũng là Mình Thánh, Bánh Thánh.
(6) The
Body of the Victim (tiếng Anh): Victim là người bị nạn, người thụ nạn, trong
Công giáo dịch là hy lễ, lễ vật hy sinh, đều là chỉ Chúa Giêsu chịu nạn, do vậy
gọi là Đấng Thọ nạn hoặc Đấng Hy Lễ. Ở đây là Thân thể (Mình) Đấng Hy Lễ.
(1) Sine
termino.. sine termino (tiếng Latin): đời đời chẳng cùng... đời đời chẳng cùng.
(2) Hoặc
"Thế là hết"; theo sách Phúc Âm của Thánh Joan, đó là lời của Giêsu
khi sắp chết.
(3) Ý
chỉ những sự trừng phạt đang chờ đợi mình nơi hoả ngục.
(4) List
of indulgences (tiếng Anh): Bản kê tên những người được Nhà thờ tha tội, sau
khi đã phải nộp vạ cho Nhà thờ. Cũng là ân xá, tha vạ.
(1) The
Gospel according to St.John (tiếng Anh): cũng gọi là sách Tin mừng; một trong
bốn sách đầu tiên của Tân Ước (New Testament) thuộc bộ Kinh Thánh. Tác giả của
bốn sách này vốn là bốn vị thánh cha đạo Kitô, trong đó cuốn thứ tư là của
St.John, thường gọi là sách "Tin Mừng (hoặc sách Phúc Âm) theo Thánh
John".
(2) The
Victim: lễ vật hy sinh, người thọ nạn, nhưng thường được gọi là Đấng Hy Lễ
(Hiến Lễ), tức Đức Kitô.
(3) The
Lamb of God: con chiên của Chúa Trời.
(4) The
passion: cũng là Khổ Nạn, Chịu Nạn, nỗi khổ đau.
(5) The
agony: sự quằn quại, đau đớn cùng cực về thể xác.
(6)
Calvary: theo đạo Kitô, Canvê (Canvariô) cùng với Gongôta (Golgotha) đều là tên
ngọn đồi (cũng gọi là núi Sọ) ở gần thị trấn Jerusalem, là nơi Giêsu bị đóng
đinh trên giá chữ thập.
(7) I AM
THAT I AM, gốc từ tiếng Latin là EGO SUM QUI SUM, trong Cựu Ước (Old
Testament).
(8)
Atonement of Blood: cũng là sự bồi thường, xá tội bằng máu.
(1) Theo
sách Phúc Âm, Giêsu đã gọi dân Do Thái lúc bấy giờ, đặc biệt là những giáo sĩ
của họ, là "dòng dõi rắn lúc (rắn độc)" (generation of vipers).
ĐOẠN KẾT
- Giê-
ma, dưới nhà có một người đàn ông đến muốn gặp chị.
Mác-ti-ni
nói bằng một giọng nén chịu mà hai người đã bất giác chấp nhận từ mười ngày
qua.
Giọng
nói đó, cùgn với những lời lẽ và cử chỉ đều đều, chầm chậm là biểu hiện duy
nhất nỗi đau buồn của từng người trong họ.
Giê- ma,
mình đeo tạp dề và tay áo xắn lên, đang đứng bày những gói đạn lên trên bàn để
chuẩn bị phân phát. Chị đã đứng làm việc từ sáng sớm tới giờ và giờ đây trông
mặt chị hốc hác hẳn đi dưới ánh nắng trưa gay gắt.
- Một
người đàn ông à, Trê-da-rê? Anh ta hỏi gì?
- Tôi
không rõ, Giê- ma thân mến. Anh ta chẳng nói gì cả, mà chỉ nhắn là muốn nói
chuyện riêng với chị.
Giê- ma
cởi tạp dề, kéo tay áo xuống.
- Thế
thì tôi phải xuống gặp vậy. Rất có thể chỉ là một tên mật thám.
- Để đề
phòng, tôi sẽ ngồi ngay ở buồng bên, chị cứ gọi một tiếng là tôi sang ngay. Khi
tiếp xong chị nên đi nằm nghỉ một chút. Hôm nay chị đứng suốt ngày rồi.
- Ồ,
không! Tôi cứ làm việc thì hơn.
Giê- ma
từ từ bước xuống thang gác. Mác-ti-ni lặng lẽ bước theo.
Mới chỉ
mấy ngày mà trông Giê- ma già đi hàng chục tuổi. Lọn tóc bạc trước kia nay đã
thành một dải lớn trên mái đầu. Chị hầu như không ngước mắt nhìn lên, nhưng mỗi
khi Mác-ti-ni ngẫu nhiên gặp đôi mắt của chị, anh rùng mình trước vẻ âm thầm
đáng sợ trong đôi mắt ấy.
Trong
buồng khách nhỏ, chị thấy một người đàn ông trông có vẻ vụng về, đang chụm gót
chân lại với nhau mà đứng ngay giữa phòng. Nhìn toàn bộ thân hình và bộ dạng có
vẻ sợ sệt của anh ta, Giê- ma đoán chắc anh ta là lính trong đội cận vệ Thuỵ
Sĩ. Anh ta mặc một chiếc áo nông dân ngắn, rõ ràng là đi mượn của người khác.
Anh ta lấm lét nhìn ngang nhìn ngửa dường như sợ bị người ta phát hiện.
- Bà có
nói được tiếng Đức không?
Anh ta
hỏi với thổ âm nặng chịch của vùng Zurich.
- Ít
thôi. Nghe nói ông muốn gặp tôi?
- Có
phải bà là bà Bôla không? Tôi mang đến cho bà một bức thư.
- Một...
bức thư?
Giê- ma
bắt đầu run lẩy bẩy, chị phải vịn một tay vào bàn để khỏi quỵ xuống.
- Tôi ở
trong đội lính gác ở đằng kia - người lính chỉ tay ra cửa sổ về phía pháo đài
trên sườn đồi - Đây là bức thư của... người bị xử bắn tuần trước. Ông ấy viết
thư này đêm trước đó. Tôi có hứa với ông là chính tôi sẽ trao tận tay cho bà.
Chị cúi
đầu. Thế là anh ấy vẫn có viết thư...
Người
lính nói tiếp:
- Vì thế
đến tận bây giờ tôi mới đưa đến được. Ông ấy có dặn tôi không được đưa cho ai
khác mà chỉ đưa cho bà, mà tôi lại không thể ra sớm được vì họ theo dõi tôi dữ
lắm. Tôi phải đi mượn những thứ này mặc vào mới đến được đây.
Người
lính lần tay vào ngực áo. Trời rất nóng nực, nên khi anh ta móc ra tờ giấy gấp
nhỏ thì tờ giấy chẳng những bẩn và nhàu nát, lại còn đẫm mồ hôi. Người lính áy
náy cứ đứng di hết chân nọ đến chân kia trên sàn nhà một lúc rồi lại đưa tay
lên gãi gáy.
Anh ta
đưa mắt nhìn Giê- ma với một vẻ nghi ngại và rụt rè nói:
- Bà chớ
nói với ai nhé! Tôi đã liều mạng ra đến đây.
- Tất
nhiên là tôi phải giữ hết sức kín rồi. Ông đợi cho một phút...
Người
lính quay gót định đi ra, nhưng chị đã ngăn lại, tay lục túi tiền, nhưng anh ta
lùi lại có vẻ giận và cục mịch nói:
- Tôi
không cần tiền của bà. Ông ấy nhờ thì tôi vì ông ấy mà làm. Lẽ ra tôi phải giúp
ông ấy nhiều hơn nữa. Chúa phù hộ cho tôi... ông ấy đối với tôi rất tốt...
Giọng
anh ta nghèn nghẹn khiến Giê- ma phải nhìn lên. Người lính đang chầm chậm đưa
ống tay áo cáu bẩn lên quệt mắt. Và thì thào qua một hơi thở, anh ta nói tiếp:
- Tôi
cùng các bạn lính không bắn không được, vì chúng tôi phải tuân theo mệnh lệnh.
Chúng tôi đã bắn chệch đi, rồi lại phải bắn lại... và ông ấy cười chúng tôi...
bảo chúng tôi là đội lính bắn tồi... ông ấy đối với tôi rất tốt...
Căn
buồng trở nên im ắng. Một lát sau, người lính đứng thẳng người, vụng về chào
theo kiểu nhà binh, rồi đi ra.
Giê- ma
đứng im lìm trong mấy phút với tờ giấy trong tay. Rồi chị ra ngồi bên cửa sổ mở
rộng để đọc thư.
Bức thư
viết bằng bút chì, chữ rất sít, đôi chỗ rất khó đọc. Nhưng ba chữ đầu tiên ngay
ở đầu trang nổi lên rất rõ ràng và bằng tiếng Anh.
"Dim
thân yêu!"
Những
dòng chữ bỗng nhạt nhoà và mờ mịt đi trước mắt Giê- ma. Thế là chị lại một lần
nữa mất anh, mất mất anh rồi. Ngay khi trông thấy tên gọi thân thuộc thuở thiếu
thời ấy, chị lại thấy niềm tuyệt vọng của sự mất mát đau thương tràn ngập lòng
mình. Chị buông xuôi tay với nỗi vô vọng mịt mù, dường như tất cả nấm đất chất
trên mình anh đang đè nặng lên trái tim chị.
Rồi chị
lại nâng tờ thư lên đọc tiếp:
"Sáng
sớm mai tôi sẽ bị xử bắn. Tôi đã hứa nói hết với Dim, và chỉ còn có lúc này mới
thực hiện được lời hứa đó. Nhưng phân bua dài dòng làm chi? Bao giờ chúng ta
cũng hiểu nhau mà không cần nhiều lời, ngay từ khi chúng ta còn bé bỏng.
Dim thân
yêu, chắc Dim cũng thấy rằng không cần gì phải vò xé trái tim mình về câu
chuyện cái tát ngày xưa ấy. Lúc đó tôi rất khổ tâm. Nhưng rồi sau tôi cũng nhận
bao nhiêu cái tát như thế nữa mà vẫn chịu được. Đôi lúc còn trả thù được nữa.
Và bây giờ tôi như con cá nhỏ trong cuốn sách trẻ con của chúng ta (tôi quên
tên cuốn sách đó rồi), "sống và quẫy đuôi", thật thế, quẫy đuôi lần
cuối cùng... còn sáng mai thì đã "Finita la Commedia!" (1) Đối với
Dim và tôi thì điều đó có nghĩa là: trò xiếc đã diễn xong rồi. Và dù sao chúng
ta sẽ tạ ơn các thánh thần về bao điều nhân từ này. Ơn ấy tuy chẳng là bao,
nhưng cũng vẫn là ơn. Chúng ta cũng vẫn nên biết cả ơn ấy cùng với mọi phúc
lành khác nữa chứ nhỉ. (2)
Còn về
phần sớm mai đây, thì tôi muốn cả Dim và Mác-ti-ni hiểu rõ rằng tôi rất sung
sướng và hài lòng, không ân hận gì về số phận cả. Dim hãy nói cho Mác-ti-ni
biết điều ấy, coi đó là lời nhắn nhủ của tôi. Anh ấy là bạn tốt lại vừa là một
đồng chí tốt... anh ấy sẽ hiểu. Dim thân yêu, tôi biết rằng khi những kẻ ngoan
cố kia quay lại dùng những thủ đoạn xử kín và hành quyết bí mật vội vã như vậy
thì chúng chỉ làm lợi cho chúng ta và tự chuẩn bị cho chúng một số phận không
hay. Tôi biết rằng, nếu các bạn còn sống, vẫn tiếp tục cùng nhau đứng vững và
tấn công mạnh mẽ thì rồi các bạn sẽ thấy những sự kiện vĩ đại. Còn tôi, mai
đây, tôi sẽ bước ra pháp trường với tấm lòng thanh thản, thanh thản như một cậu
học trò nhỏ rảo bước về nhà nghỉ hè. Tôi đã hoàn thành phần công tác của tôi
với một tinh thần tận tuỵ, và bản án tử hình đã chứng minh cho tôi điều đó.
Chúng giết tôi là vì tôi đã làm cho chúng hoảng sợ. Như thế lòng người còn muốn
gì hơn nữa?
Dẫu sao
tôi vẫn còn có điều mong muốn. Người nào sắp chết mà lại chẳng có quyền vòi
vĩnh đôi chút. Vòi vĩnh ở chỗ là tôi muốn giải thích cho Dim hiểu tại sao tôi
hay cục cằn với Dim và tại sao tôi lại khó có thể quên được chuyện cũ. Thật ra
Dim cũng đã tự hiểu, nhưng tôi muốn nhắc lại là chỉ bởi vì tôi thích viết lại
những dòng này mà thôi. Giê- ma ạ, tôi đã yêu Giê- ma từ khi Giê- ma còn là một
cô bé con xấu xí, từ khi Giê-ma còn mặc chiếc áo vải kẻ ca rô với cổ áo nhàu
nhĩ, và còn để bím tóc nhỏ xíu sau lưng. Đến bây giờ tôi vẫn yêu Giê-ma. Giê-ma
còn nhớ cái ngày tôi đã hôn tay Giê-ma và Giê-ma khẩn khoản xin tôi "đừng
bao giờ làm như thế nữa"? Tôi biết làm thế là bậy bạ nhưng Giê-ma phải tha
thứ cho tôi. Còn bây giờ tôi lại hôn tờ giấy đã viết tên Giê-ma. Như thế là tôi
đã hôn Giê-ma hai lần và cả hai lần đều không được Giê-ma cho phép.
Tất cả
chỉ có thế thôi. Giê-ma thân yêu, vĩnh biệt nhé!"
Không có
chữ ký. Cuối thư chỉ có bốn câu thơ ngắn mà hai người cùng học với nhau thời
thơ ấu:
Đó là
tôi
Dù kiếp
ruồi
Sống hay
chết
Vẫn tươi
vui. (3)
Nửa
tiếng sau, Mác-ti-ni bước vào phòng, và bừng tỉnh khỏi sự im lặng của nửa đời
người, anh quăng đi tờ cáo thị đang cầm trong tay, ôm chầm lấy chị.
-
Giê-ma! Sao thế? Chúa ơi! Giê-ma có khóc bao giờ đâu mà nay thổn thức thế!
Giê-ma! Giê-ma! Giê-ma thương yêu của tôi!
- Không
sao đâu, Trê-da-rê ạ. Để sau tôi sẽ kể lại anh nghe. Ngay bây giờ... tôi...
chưa kể được.
Chị vội
vã nhét bức thư ướt đẫm nước mắt vào túi, đứng dậy nghiêng người nhìn ra khỏi
cửa sổ, giấu mặt đi. Mác-ti-ni nín bặt, cắn lấy ria mép. Sau từng ấy năm trời,
lần đầu tiên anh để lộ tình cảm của mình như một cậu học trò nhỏ - vậy mà
Giê-ma vẫn không để ý thấy!
Một lát
sau đã tự chủ lại được, chị ngoảnh lại nói:
- Chuông
Nhà thờ chính toà đang đánh. Chắc là có người chết.
Mác-ti-ni
trả lời như thường ngày:
- Chính
là cái tôi mang đến để chị xem đây.
Mác-ti-ni
nhặt tờ cáo thị lên đưa cho chị. Bản thông cáo được in vội bằng cỡ chữ to, xung
quanh viền khung đen.
"Vị
giám mục yêu quý của chúng ta, Đức Hồng y giáo chủ Lôrentxô Mông-ta-ne-li do
chứng mạch tim phình to (4) bị vỡ tim đã đột ngột từ trần tại Ravena."
Từ tờ
cáo thị, chị mau lẹ đưa mắt nhìn lên. Anh nhún vai đáp lại ý tứ kín đáo trong
cặp mắt chị:
- Còn
muốn gì hơn nữa, Madonna? Vỡ tim do mạch tim phình to, - còn từ nào đủ nghĩa
hơn thế.
--- ------ -----
(1) Finita la Commedia (tiếng Ý): hết trò rồi!
Hài kịch đã diễn xong rồi!
(2) Đây là một sự châm biếm, nhắc tới lời cầu
nguyện của người theo đạo Tin lành trước mỗi bữa ăn.
(3) Nguyên văn tiếng Anh:
"Then am I
A happy fly
If I live
Or if I die"
Trích từ bài thơ "Con ruồi" (The
Fly) của nhà thơ và hoạ sĩ Anh William Blake (1757-1827)
(4) Aneurism (tiếng Anh).
Hết
Thư
mục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét