MẬT MÃ DA VINCI
Tác giả:Dan Brown
Thể loại:Huyền Huyễn, Thám Hiểm, Trinh Thám
Một mật mã khuất phục trí tuệ được giấu trong những tác phẩm của
LEONARDO DA VINCIN.
Một cuộc chạy đua tuyệt vọng qua các nhà thờ lớn và lâu đài của
Châu Âu.
Một sự thật gây kinh ngạc bị che giấu trong nhiều thế kỷ... Cuối
cùng cũng được hé mở.
Đây là một tuyệt phẩm thuần khiết
(Nelson Demille).
Trong khi đang công tác ở Pari, nhà biểu tượng học của trường Đại
học Harvard, Robert Langdon nhận được một cuộc điện thoại khẩn cấp lúc tối
muộn. Người quản lý lớn tuổi của bảo tàng Louvre đã bị sát hại trong bảo tàng,
một mật mã khó hiểu được tìm thấy gần thi thể nạn nhân. Khi Langdon và nhà mật
mã học người Pháp tài năng, Sphie Neveu, giải mã những bí ẩn kỳ quái này, họ đã
hết sức sửng sốt khi phát hiện ra một chuỗi các manh mối được giấu trong các
tác phẩm của Da Vinci những đầu mối rõ ràng để mọi người nhìn thấy nhưng lại
được nguỵ trang một cách tài tình bởi người hoạ sĩ.
Sự khẩn cấp tăng lên khi Langdon hé mở một mối liên hệ làm người ta
phải giật mình: Người quản lý quá cố tham gia Tu viện của dân Do Thái - một tổ
chức bí mật có thật mà trong số các thành viên của nó cả Ngài Isaac Newton,
Bottcelli, Victor Hugo, và Da Vinci. Langdon có linh cảm rằng họ đang theo đuổi
một bí mật lịch sử gây kinh ngạc, đã chứng minh trong nhiều thế kỷ là sáng tỏ
và cũng rất nguy hiểm. Trong cuộc chạy đua điên cuồng qua Pari và các nơi khác,
Langdon và Neveu nhận thấy rằng học đang đối chọi với một kẻ buôn đồ cổ đầy thế
lực giấu mặt, hắn luôn xuất hiện để chặn trước mọi hàng động của họ. Trừ khi họ
có thể giải mã câu đố hóc búa ấy, nếu không bí mật của Tu viện - và một sự thật
lịch sử gây chấn động - sẽ biến mất mãi mãi.
Phá vỡ khuôn mẫu của các tiểu thuyết trinh thám truyền thống, mật
mã Da Vinci vừa là bước đột phá nổi bật, đầy chất trí tuệ, vừa đươc sắp lớp một
cách phức tạp với những chi tiết và những tìm tòi đáng chú ý. Từ những trang mở
đầu cho đến phần kết không thể đoán trước và gây ngạc nhiên, tác giả của cuốn
sách bán chạy nhất Dan Brown, đã chứng tỏ mình là người kể chuyện bậc thầy.
Mật mã Da Vinci là một cuốn tiểu thuyết . Hơn thế, nó còn là một
cuốn tiểu thuyết đặc biệt. Tính đến thời điểm này, Mật mã Da Vinci của tác giả
Dan Brown đã nắm giữ vị trí bestseller liên tục 132 tuần tại Mỹ,được dịch sang
44 thứ tiếng, hơn 36 triệu bản sách đã được tiêu thụ và đang được dựng thành
phim. Giới bản bắt đầu nhắc đến cuốn sách như một siêu phẩm của mọi thời đại.
Với Mật mã Da Vinci tác giả Dan Brown đã châm ngòi một cuộc tranh cãi
không tiền khoáng hậu trong lịch sử văn học phương Tây: tung hô và phản dối.
Những hệ lụy của cuốn sách xuất phát từ chỗ nó hư cấu quá thành công...
Những lời tán thưởng gần đây dành cho Mật mã Da Vinci:
Dan Brown là một trong những nhà văn giỏi nhất, thông minh nhất của
nước ta. Mật mã Da Vinci có nhiều điểm vượt khỏi một câu truyện trinh thám; đó
là một tuyệt phẩm thuần khiết(Nelson Demille, Thời báo New York, tác giả của
nhiều cuốn sách bán chạy nhất).
Mưu mô và những mối đe doạ đan xen trong những điều huyền bí nhất
mà tôi đã từng đọc. Một câu chuyện gây kinh ngạc với những điều bí ẩn chồng
chất (Clive Cussler, Thời báo new York, Tác giả của những cuốn sách bán chạy
nhất).
Mật mã Da Vinci là đỉnh cao của mọi đỉnh cao, làm cho người ta kinh
ngạc qua mỗi lần giở sang trang. Bạn không thể dễ dàng đặt quyển truyện này
xuống. Các độc giả khắp mọi nơi sẽ nhanh chóng nhận ra Dan Brown là một bậc
thầy. (Vince Flynn, Thời báo New York, Tác giả của cuốn sách bán chạy Sự Chia
Sẻ Quyền Lực).
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 1
Robert Langdon từ từ tỉnh giấc. Điện thoại reo trong bóng tối-
tiếng chuông leng keng nghe lạ lẫm. Ông dò dẫm tìm ngọn đèn cạnh giường và bật
lên. Nheo mắt nhìn xung quanh ông nhận thấy đó là một phòng ngủ kiểu Phục Hưng
sang trọng với đồ đạc theo phong cách thời Louis XVI với những tranh vẽ thẳng
lên tường, và một chiếc giường gỗ gụ đồ sộ bốn cột.
Mình đang ở chỗ quái quỷ nào thế này?
Chiếc áo tắm mắc trên cột giường mang dòng chữ: Hotel Ritz Paris.
Màn sương tan dần.
Langdon nhấc ống nghe: "Hello?".
"Ông Langdon phải không ạ?", một giọng đàn ông vang lên.
"Tôi hy vọng là không đánh thức ông chứ ạ?".
Ngạc nhiên, Langdon nhìn đồng hồ cạnh giường. 0 giờ 32’ sáng. Ông
mới ngủ được một tiếng mà cảm thấy như lâu lắm.
"Tôi là người trực khách sạn, thưa ông. Tôi xin lỗi vì sự
đường đột này, nhưng có một vị khách khăng khăng đòi gặp ông, nói là có việc
khẩn cấp".
Langdon vẫn cảm thấy lơ mơ. Một vị khách? Tia mắt ông tập trung vào
một tờ bướm bị vò nhàu trên bàn cạnh giường.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ TẠI PARIS
Trân trọng giới thiệu
MỘT TỐI GẶP GỠ VỚI ROBERT LANGDON
GIÁO SƯ KHOA KÝ TƯỢNG TÔN GIÁO, ĐẠI HỌC HARVARD
Langdon hầm hừ. Buổi thuyết giảng tối nay - một bài giảng về hệ ký
tượng vô tôn giáo ẩn chứa trong các phiến đá của Nhà thờ lớn Chartres, có minh
họa bằng phim đèn chiếu - chắc đã làm xù lông một vài vị bảo thủ trong đám
thính giả. Rất có thể là một học giả nghiên cứu tôn giáo nào đó đã bám theo ông
về tận khách sạn để đòi tranh luận.
"Tôi xin lỗi", Langdon nói, "nhưng tôi rất mệt
và…".
"Mais monsieur" (1) người trực khách sạn nằn nì, hạ thấp
giọng xuống thành một tiếng thì thào khẩn thiết, "vị khách này là người
rất quan trọng".
Langdon hơi nghi ngờ. Các cuốn sách của ông về tranh tôn giáo và ký
tượng thờ cúng đã làm ông nổi danh trong giới nghệ thuật khiến mọi người miễn
cưỡng phải công nhận ông và năm ngoái danh tiếng của Langdon đã tăng lên gấp
trăm lần sau khi ông tham gia vào một sự kiện được công chúng biết đến rộng rãi
ở Vatican. Từ đó, các nhà sử học và chuyên gia nghệ thuật tự cao tự đại nườm
nượp kéo đến nhà ông không ngớt.
"Xin ông vui lòng", Langdon nói, cố gắng hết sức để giữ
lịch sự "ghi lại tên và số điện thoại của vị khách đó, và nói với ông ta
rằng tôi sẽ cố gắng gọi lại cho ông ta trước khi tôi rời Paris vào thứ ba. Cảm
ơn ông". Ông gác máy trước khi người trực khách sạn kịp phản đối.
Lúc này Langdon đã ngồi dậy, ông cau mày nhìn cuốn Sổ tay liên hệ
với khách có bìa ghi những lới huênh hoang: "Hãy ngủ như một hài nhi ở
Kinh đô ánh sáng. Hãy liên hệ với khách sạn Ritz Paris". Ông quay đầu và
nhìn một cách mệt mỏi vào tấm gương soi cả người ở đầu kia căn phòng. Người đàn
ông đang nhìn ông là một người xa lạ - tóc tai rối bù và mệt mỏi.
Anh bạn cần một kỳ nghỉ đấy, Robert.
Năm làm việc vừa qua đã làm ông tiêu hao sức lực nặng nề, nhưng ông
không khoái nhìn thấy bằng chứng của điều đó trong gương. Đôi mắt màu xanh
thường ngày sắc sảo đêm nay có vẻ lờ đờ và mệt mỏi. Một lớp râu đen lởm chởm
phủ kín quai hàm khỏe và cái cằm chẻ. Quanh thái dương, những sợi hoa râm đang
tăng lên, thâm nhập sâu hơn vào mái tóc đen dày. Mặc dù các đồng nghiệp nữ một
mực nói rằng tóc bạc chỉ làm tôn thêm sức quyến rũ bác học của ông, nhưng
Langdon thừa biết là đâu phải thế.
Giá Boston Magazine nhìn thấy mình lúc này.
Tháng trước, Langdon rất bối rối khi tờ BostonMagazine xếp ông vào
danh sách mười người đàn ông hấp dẫn nhất thành phố - một vinh dự đáng ngờ
khiến ông trở thành mục tiêu trêu chọc không dứt của các đồng nghiệp ở trường
Harvard. Tối nay, ở cách xa đất nước ba ngàn dặm, sự đề cao đó vẫn trở lại ám
ảnh ông ngay trong buổi thuyết giảng ông vừa thực hiện.
"Thưa quý ông quý bà…", người giới thiệu tuyên bố trước
thính phòng đầy ắp của Cung Dauphine trường Đại học Mỹ ở Paris. "Khách mời
tối nay của chúng ta chắc tôi không cần giới thiệu. Ông là tác giả của nhiều
cuốn sách: Hệ ký hiệu của các giáo phái bí mật, Nghệ thuật của dòng Chúa khai
sáng, Ngôn ngữ tượng hình thất truyền, và khi tôi nói ông đã viết cuốn Khoa
nghiên cứu thánh tượng và hình ảnh tôn giáo, là nói đúng theo nghĩa đen. Nhiều
người trong số các bạn đang dùng những giáo trình của ông trên lớp".
Các sinh viên trong đám đông gật đầu nhiệt liệt tán thưởng.
"Tối nay tôi đã định giới thiệu ông bằng cách chia sẻ với các
bạn lý lịch đầy ấn tượng của ông. Tuy nhiên…", cô ta tinh nghịch nhìn
Langdon, lúc này ông đã ngồi trên sân khấu, "một khán giả vừa đưa cho tôi
một lời gìới thiệu… có thể nói là… hấp dẫn hơn nhiều". Cô ta giơ lên một
số Boston Magazin.
Langdon co rúm người lại. Cô ta kiếm đâu ra cái của nợ này?
Người giới thiệu bắt đầu đọc những đoạn trích chọn lọc từ bài báo
sáo rỗng kia và Langdon cảm thấy mình càng lúc càng lún sâu thêm trong ghế. Ba
mươi giây sau, đám đông nhăn nhở cười và người phụ nữ kia không hề tỏ dấu hiệu
muốn dừng lại:
"Và việc ông Langdon từ chối công bố vai trò đặc biệt của ông
trong cuộc họp kín bầu Giáo hoàng ở Vatican năm ngoái chắc chắn sẽ ghi thêm
điểm cho ông trên hấp-dẫn-kế của chúng ta".
Người giới thiệu kích động đám đông: "Các bạn có muốn nghe
thêm không?".
Đám đông vỗ tay tán thưởng.
Ai đó hãy ngăn cô ta lại, Langdon thầm cầu xin khi cô ta lại đọc
tiếp bài báo.
"Dù Giáo sư Langdon có thể không được xem là người đẹp trai
tuyệt vời như một vài người được bầu chọn trẻ hơn, nhưng vị giáo sư ngoài bốn
mươi tuổi này có cái gì đó ngoài phong độ học giả của ông. Vẻ ngoài quyến rũ
của ông được tôn thêm bởi giọng nói trầm và âm nam trung hiếm có, điều mà các
sinh viên nữ miêu tả là "ngọt như mía lùi".
Cả phòng cười phá lên.
Langdon cố gượng cười vụng về. Ông biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo
- lại một tràng những câu lố bịch kiểu "Harrison Ford trong chiếc áo tuýt
hiệu Harris" - và bởi vì tối nay ông mặc áo tuýt hiệu Harris và áo cao cổ
hiệu Burberry, nên ông quyết định hành động.
"Cảm ơn, Monique". Langdon nói, vội vã đứng lên và đảy cô
ta ra khỏi bục diễn đàn, "Boston Magazine quả có năng khiếu hư cấu".
Ông quay về phía cử tọa với một tiếng thở dài bối rối.
"Và nếu tôi tìm ra ai trong số các bạn đã cung cấp bài báo đó,
tôi sẽ bảo tổng lãnh sự trục xuất các bạn".
Đám đông cười rộ.
"Vậy thưa các bạn, như các bạn đã biết, tối nay tôi tới đây để
nói về quyền năng của biểu tượng…".
Chuông điện thoại trong phòng khách sạn của Langdon một lần nữa lại
phá tan im lặng.
Càu nhàu, bán tín bán nghi, ông nhấc máy: "Vâng?".
Quả nhiên, lại là người trực khách sạn: "Ông Langdon, một lần
nữa xin lỗi ông. Tôi gọi để thông báo với ông rằng vị khách của ông bây giờ
đang trên đường đến phòng ông. Tôi nghĩ là nên báo trước cho ông".
Langdon lúc này đã tỉnh hắn: "Ông cho phép ai đó đến phòng của
tôi?".
"Tôi xin lỗi, thưa ông, nhưng một người như vậy…tôi không dám
mạo quyền ngăn lại!".
"Chính xác thì ông ta là ai?". Nhưng người trực khách sạn
đã gác máy.
Gần như ngay lập tức, một nắm tay nặng nề đập cửa phòng Langdon
thình thình.
Phân vân, Langdon tụt khỏi giường, cảm thấy những ngón chân nhấn
sâu trên tấm thảm. Ông mặc áo choàng của khách sạn và đi tới cửa:
"Ai?".
"Ông Langdon? Tôi cần nói chuyện với ông". Tiếng Anh của
người này trọ trẹ - một giọng sủa gắt, hách dịch. "Tôi là trung uý Jérôme
Collet. Direction (2) DCP.
Langdon dừng lại. Cục cảnh sát Pháp. Đại loại như FBI của Mỹ.
Vẫn để nguyên dây xích an toàn, Langdon hé cửa ra vài phân. Gương
mặt đối diện ông mỏng và nhợt nhạt. Người đàn ông gầy khác thường này mặc một
bộ đồng phục màu xanh chính quy.
"Tôi có thể vào được không?", viên cảnh sát hỏi.
Langdon do dự, cảm thấy không thoải mái khi đôi mắt xám của người
lạ mặt nhìn ông chăm chú: "Chuyện này là thế nào?".
"Capitaine (3) của tôi cần đến sự giám định của ông trong một
vấn đề riêng tư".
"Ngay bây giờ?". Langdon hỏi. "Đã quá nửa đêm
rồi".
"Ông có một buổi hẹn gặp mặt với ông phụ trách bảo tàng Louvre
tối nay, đúng không?".
Langdon chợt cảm thấy bồn chồn. Ông và ông phụ trách bảo tàng đáng
kính Jacques Saunière đã sắp xếp chương trình gặp nhau uống chút gì sau buổi
thuyết giảng tối nay của ông, nhưng Saunière đã không đến. "Vâng. Làm thế
nào mà ông biết chuyện đó?".
"Chúng tôi thấy tên ông trong sổ ghi công việc hàng ngày của
ông ấy".
"Chắc không có gì bất ổn chứ?".
Viên cảnh sát buông một tiếng thở dài dễ sợ và luồn một tấm ảnh
chụp lấy ngay Polaroid qua khe cửa hé mở.
Khi Langdon thấy tấm ảnh, toàn thân ông cứng sững.
"Tấm ảnh này được chụp cách đây chưa đầy một tiếng. Trong bảo
tàng Louvre".
Khi Langdon nhìn kỹ hình ảnh kì quái đó, sự ghê tởm và choáng váng
ban đầu nhường chỗ cho một cơn giận trào lên đột ngột: "Ai có thể làm
chuyện này?".
"Chúng tôi hy vọng ông có thể giúp chúng tôi trả lời chính câu
hỏi đó, bằng kiến thức của ông về khoa ký tượng học và việc ông định gặp ông
ấy".
Langdon trân trân nhìn tấm ảnh, sự kinh tởm giờ đây hoà cùng nỗi sợ
hãi. Hình ảnh khủng khiếp và quái lạ đó kèm theo một cảm giác bất an về một
điều đã thấy ở đâu đó. Hơn một năm trước, Langdon nhận được tấm ảnh một xác
chết và một lời đề nghị giúp đỡ tương tự. Hai mươi tư giờ sau, ông suýt mất
mạng trong thành phố Vatican. Bức ảnh này hoàn toàn khác, tuy nhiên có một cái
gì quen thuộc trong kịch bản khiến ông lo lo.
Viên cảnh sát nhìn đồng hồ: "Capitane của tôi đang chờ, thưa
ông".
Langdon chỉ nghe thấy loáng thoáng. Mắt ông vẫn dán vào bức ảnh.
"Cái biểu tượng này và cách đặt thi thể ông ấy thật kỳ lạ…".
"Vị trí?" Viên cảnh sát hỏi.
Langdon gật đầu, cảm thấy ớn lạnh khi ông ngẩng lên:
"Tôi không thể tưởng tượng là ai có thể làm việc này đối với
người khác".
Viên cảnh sát có vẻ nghiêm nghị: "Ông không hiểu sao, ông
Langdon. Những gì ông nhìn thấy trong bức ảnh này…", anh ta dừng lại,
"Ông Saunière đã tự làm điều đó với chính mình".
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: Nhưng thưa ông
(2) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: Cục Cảnh sát tư pháp trung ương.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: đại úy
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 2
Chương 2Cách có một dặm, tên bạch tạng to con có tên Silas tập tễnh
qua cổng trước của tòa nhà bằng đá xám sang trọng ở phố La Bruyère. Chiếc dây
lưng hành xác bằng vải canh có ngạnh mà hắn quấn quanh bắp đùi cứa vào thịt
hắn, nhưng tâm hồn hắn lại đang ca hát với niềm thỏa mãn với việc phụng sự
Chúa.
Đau đớn là tốt.
Đôi mắt đỏ ngàu của hắn rà khắp sảnh khi hắn vào nhà. Vắng tanh.
Hắn lặng lẽ lên cầu thang, không muốn đánh thức ai trong số bạn đồng môn. Cửa
phòng ngủ của hắn mở, việc khóa cửa ở đây bị cấm. Hắn vào phòng, đóng cửa lại
sau lưng.
Căn phòng rất đơn giản- sàn gỗ cứng, một cái tủ áo bằng gỗ thông,
một cái chiếu vải bạt ở trong góc dùng làm giường ngủ.
Hắn là khách ở đây trong tuần này, nhưng nhiều năm nay, hắn có ân
phước được ở một thánh đường tương tự ở New York City.
Chúa cho ta chỗ ở và lẽ sống cho cuộc đời ta.
Cuối cùng, tối nay, Silas cũng cảm thấy bắt đầu đễn đáp được món nợ
đó. Hối hả chạy đến tủ áo, hắn tìm chiếc điện thoại di động giấu dưới ngăn đáy
và bấm số gọi.
"Hử?" Một giọng đàn ông trả lời.
"Trình Thầy, con đã trở về".
"Nói đi", giọng nói kia ra lệnh, có vẻ hài lòng khi nghe
hắn nói.
"Cả bốn đều đã chết. Ba pháp quan… và cả Đại sứ".
Giọng nói ngừng lại trong chốc lát, như để cầu nguyện: "Vậy ta
chắc ngươi đã lấy được thông tin?".
"Cả bốn đều nói giống nhau. Riêng rẽ từng người".
"Và ngươi tin chúng?".
"Họ nói y hệt nhau nên không thể là sự trùng hợp ngẫu
nhiên".
Một nhịp thở phấn khích: "Tuyệt. Hội kín này nổi tiếng là kiên
định bảo vệ bí mật, ta đã lo chúng nêu cao tinh thần ấy".
"Cái chết kề cổ là một động cơ mạnh mẽ buộc họ phải nói
ra".
"Vậy thì, học trò của ta, hãy nói những gì ta cần phải
biết". Silas biết những thông tin hắn lượm đưọc từ những nạn nhân của hắn
sẽ là một cú sốc: "Thưa Thầy, cả bốn đều khẳng định sự tồn tại của viên đá
đỉnh vòm… viên đá đỉnh vòm trong truyền thuyết".
Hăn nghe thấy tiếng hít sâu bên kia đầu dây và có thể cảm thấy sự
phấn khích của Thầy: "Viên đá đỉnh vòm. Đúng như chúng ta đã ngờ
ngợ".
Theo truyền thuyết, hội kín này đã tạo ra một bản đồ bằng đá - một
viên đá đỉnh vòm - và khắc vào đó bảng chỉ dẫn tới vị trí cuối cùng của bí mật
lớn nhất của tổ chức… thông tin này có quyền lực lớn đến mức sự bảo vệ nó chính
là lý do tồn tại của hội.
"Khi chúng ta có được viên đá đỉnh vòm". Thầy Giáo nói,
"thì chỉ còn cách bí mật đó một bước".
"Chúng ta đang ở gần hơn Thầy nghĩ đấy ạ. Viên đá đỉnh vòm đó
ở đây, tại Paris này".
"Tại Paris? Thật không thể tin được. Vậy thì quá dễ".
Silas lần lượt kể lại những sự kiện hồi đầu buổi tối… cả bốn nạn
nhân của hắn, ít phút trước khi chết, đã cố gắng tuyệt vọng như thế nào để hòng
giữ cái mạng sống vô đạo lý của họ bằng cách nói ra bí mật. Mỗi người đều khai
với Silas cùng một điều y hệt nhau - rằng viên đá đỉnh vòm đã được giấu khéo
léo ở một vị trí trong một nhà thờ cổ của Paris- Nhà thờ Saint- Sulpice.
"Bên trong một ngôi nhà của Chúa", Thầy Giáo la lên,
"Chúng giễu chúng ta làm sao!".
"Như chúng đã làm thế từ nhiều thế kỷ nay".
Thầy Giáo im lặng như để niềm đắc thắng của giây phút này tràn ngập
mình. Cuối cùng, ông ta nói: "Con đã làm một việc lớn phụng sự Chúa. Chúng
ta đã chờ đợi điều này nhiều thế kỷ. Con phải lấy lại viên đá đó cho ta. Ngay
lập tức. Đêm nay.
"Con biết số tiền thưởng rồi đấy".
Silas biết số tiền thưởng nhiều không đếm xuể, tuy nhiên điều Thầy
Giáo ra lệnh có vẻ là bất khả thi. "Nhưng nhà thờ đó là một pháo đài, nhất
là vào ban đêm. Con sẽ vào bằng cách nào?".
Với giọng tự tin của một người có thế lực lớn, Thầy Giáo giảng giải
những việc phải làm.
Khi Silas gác máy, da hắn râm ran đợi.
Một giờ, hắn tự bao, thầm cảm ơn Thầy đã cho hắn thời gian để thực
hiện sự sám hối cần thiết trước khi bước vào một ngôi nhà của Chúa. Mình phải
gột rửa linh hồn khỏi những tội lỗi của ngày hôm nay. Những tội lỗi hắn phạm
phải trong ngày hôm nay có mục đích thiêng liêng. Người ta đã phạm những hành
động chiến tranh trong nhiều thế kỷ để chống lại kẻ thù của Chúa.
Sự tha thứ đã được đảm bảo.
Mặc dù thế, Silas biết sự miễn xá đòi hỏi hy sinh.
Kéo rèm che, hắn cời quần áo và quỳ xuống giữa phòng.
Nhìn xuống, hắn kiểm tra chiếc dây lưng hành xác cột quanh bắp đùi.
Tất cả những môn đồ chân chính theo Đạo đều mang vật này- một dây da có găm
những ngạnh kim loại sắc cứa vào thịt như một nhắc nhở thường xuyên về khổ đau
của Chúa. Sự đau đớn gây ra bởi vật này cũng giúp họ chống lại những dục vọng về
xác thịt.
Mặc dù Silas đã đeo vật này lâu hơn yêu cầu hai tiếng, hắn biết hôm
nay không phải là một ngày bình thường. Nắm lấy chiếc khóa. hắn xiết chặt nó
lại thêm mộl nấc nữa, nhăn mặt khi những ngạnh sắc đâm sâu hơn vào da thịt. Thở
ra từ từ, hắn khoan khoái tiếp nhận lễ thức thanh lọc bằng đau đớn.
Đau đớn là tốt. Silas thì thầm, nhắc lại những lời thiêng liêng của
Cha Josemaria Escrivá - Người Thầy của mọi Thầy. Dù Escrivá đã chết năm 1975,
minh triết của ông vẫn sống mãi, những lời của ông vẫn được hàng nghìn tôi tớ
trung thành của Chúa trên toàn thế giới nhắc tới khi họ quỳ gối trên sàn để
thực hành cái thông lệ thiêng liêng gọi là "tự hành xác".
Silas chuyển sự chú ý đến sợi dây thừng to thắt nút cuộn gọn gàng
đặt trên sàn bên cạnh. Kỷ luật. Những nút thắt bết máu khô.
Khao khát được thấy tác dụng gột rửa của nỗi đau đớn của chính
mình. Silas đọc nhanh một lới cầu nguyện. Sau đó, nắm chặt một đầu sợi dây, hắn
nhắm mắt và vung sợi dây qua vai, cảm nhận những nút thắt quất mạnh vào lưng.
Hắn lại giật nó qua vai, quất mạnh vào thịt hắn. Giật đi, giật lại! cứ thế hắn
quất hoài.
Castigo corpus meum (1)
Cuối cùng, hắn cảm thấy máu bắt đầu chảy.
Chú thích:
(1) Tiếng La-tinh: Trừng phạt thân thể tôi, tự hành xác
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 3
Chương 3Không khí khô hanh tháng tư táp qua cửa xe để mở cửa chiếc
Citroen ZX khi nó theo hướng Nam qua Nhà hát ôpêra và Quảng trường Vendôme.
Ngồi ở ghế cạnh ghế tài xế, Langdon cảm thấy thành phố vùn vụt qua trong khi
ông cố soạn lại ý nghĩ của mình cho rành rọt tỏ tường. Sau khi tắm và cạo râu ù
một cái, nom ông đã tương đối bảnh, nhưng trong lòng vẫn không nguôi lo lắng.
Những hình ảnh đáng sợ về thi thể của ông phụ trách bảo tàng vẫn chốt lại trong
tâm trí ông.
Jacques Saunière đã chết.
Langdon không khỏi cảm thấy sâu sắc sự mất mát to lớn với cái chết
của người phụ trách bảo tàng. Mặc dù Saumère có tiếng là ưa biệt lập, nhưng sự
công nhận đối với lòng tận tụy vì nghệ thuật của ông đã khiến ông được kính
yêu. Những cuốn sách của ông về những mật mã bí mật ẩn chứa trong những bức họa
của Poussin và Teniers nằm trong số những giáo trình ưa thích của Langdon.
Cuộc gặp mặt tối nay là điều mà Langdon rất mong đợi, và ông đã rất
thất vọng khi ông phụ trách bảo tàng không xuất hiện.
Một lần nữa hình ảnh thi thể của người phụ trách bảo tàng vụt hiện
lên trong tâm trí ông. Jacques Saunière đã làm điều đó với chính mình sao?
Langdon quay đầu và nhìn qua cửa xe, cố xua hình ảnh đó ra khỏi tâm trí.
Bên ngoài, thành phố đang ngơi nghỉ - những người bán hàng rong
đang đẩy những chiếc xe chở hạnh đào ướp đường, các bồi bàn mang bao rác ra vỉa
hè, một đôi tình nhân ấp ủ nhau để giữ ấm trong gió nhẹ hòa quyện với hương hoa
nhài.
Chiếc Citroen uy nghi đi giữa hỗn độn, tiếng còi hai âm chối tai sẻ
đôi dòng xe cộ như một lưỡi dao.
"Capitaine rất hài lòng khi biết ông vẫn còn ở Paris tối
nay", viên cảnh sát nói, lần đầu tiên mở lời kể từ lúc họ rời khách sạn.
"Một sự trùng hợp may mắn".
Langdon tuyệt nhiên không hề cảm thấy may mắn, và sự trùng hợp là
một khái niệm mà ông không hoàn toàn tin tưởng.
Là một người dành cả đời để khảo sát tính tương liên tàng ẩn giữa
những biểu tượng và ý thức hệ khác hẩn nhau, Langdon xem thế giới như một mạng
lưới bện xoắn những lịch sử và sự kiện một cách sâu sắc. Những mối liên hệ có
thể là vô hình, ông thường hay giảng vậy cho các lớp khoa ký tượng học tại
trường Harvard, nhưng chúng luôn ở đó, lấp ngay dưới bề mặt "Tôi
đoán". Langdon nói, "rằng Trường Đại học Mỹ ở Paris đã nói cho các
ông biết chỗ tôi đang ở".
Người lái xe lắc đầu: "Interpol".
Interpol (Cảnh sát quốc tế), Langdon nghĩ thầm. Tất nhiên rồi. ông
đã quên mất rằng yêu cầu có vẻ vô hại của tất cả các khách sạn châu Âu đòi xem
hộ chiếu khi nhận phòng còn quan trọng hơn một thủ tục kỳ quái - nó là luật.
Vào bất kỳ buổi tối nào, trên toàn châu Âu, các quan chức Interpol có thể định
vị chính xác ai đang ngủ ở đâu. Việc tìm ra Langdon ở khách sạn Ritz chắc chắn
chỉ mất năm giây.
Khi chiếc Citroen tăng tốc độ hướng về phía Nam thành phố, mặt
nghiêng sáng rực của tháp Eifíel hiện ra, đâm thẳng lên trời ở phía bên phải.
Thấy nó, Langdon nghĩ tới Vittoria, chợt nhớ lời hứa hẹn vui giữa hai người một
năm trước rằng cứ sáu tháng một lần, họ sẽ gặp lại nhau tại một địa điểm lãng
mạn khác nhau trên thế giới. Tháp Eiffel, Langdon nghĩ, có thể cũng nằm trong
danh sách của họ. Buồn thay, lần cuối cùng ông hôn Vittoria là ở một sân bay
náo nhiệt tại Roma cách đây hơn một năm.
"Ông đã trèo lên bụng nó chưa?", viên cảnh sát liếc mắt
hỏi.
Langdon ngước lên, chắc chắn là mình (1). "Xin lỗi, tôi nghe
chưa rõ?".
"Đẹp tuyệt vời phải không?" Viên cảnh sát hất hàm qua
kính chắn gió về phía tháp Eiffel. "Ông đã từng leo lên đó chưa?".
Langdon đảo mắt: "Chưa, tôi chưa từng trèo lên tháp".
"Đó là biểu tượng của nước Pháp. Tôi nghĩ nó thật hoàn
hảo".
Langdon lơ đãng gật đầu. Các nhà ký tượng học thường nhận xét rằng
Pháp - một đất nước nổi tiếng về thói tự đắc với cái chất đàn ông của mình, về
thói giăng hoa và về những lãnh tụ tướng ngũ đoản như Napoléon và Pepin Lùn -
ắt không thể chọn một biểu tượng quốc gia nào thích hợp hơn một cái dương vật
cao cả ngàn mét.
Khi họ tới ngã tư phố Rivoli, đèn giao thông bật đỏ, nhưng chiếc
Citroen không đi chậm lại. Viên cảnh sát nhấn ga cho chiếc xe nhỏ vọt qua ngã
tư và tăng tốc đi vào khu vực nhiều cây cối của phố Castiglion, lối vào phía
Bắc của Vườn Tuileries nổi tiếng - một thứ Central Park của Paris. Hầu hết
khách du lịch đều dịch nhầm cụm từ Jardil des tuileries là có liên quan đến
cảnh hàng nghìn bông hoa tulip nở rộ ở đây, nhưng thực tế Tuileries liên quan
đến một vài điều ít lãng mạn hơn nhiều.
Công viên này từng là một cái hố mênh mông, rất ô nhiễm mà từ nó,
các nhà thầu khoán ở Paris đã đào đất sét để sản xuất những viên ngói đỏ nổi
tiếng của thành phố, gọi là tuiles.
Khi vào trong công viên trống vắng, viên cảnh sát với tay xuống
dưới bảng điều khiển, tắt cái còi đang rú ầm ĩ. Langdon thở phào, thưởng thức
sự im lặng đột ngột. Bên ngoài chiếc xe, ánh sáng nhạt của những ngọn đèn pha
halôgien lướt trên con đường rải sỏi vụn, tiếng lốp xe nghiến lạo xạo thành một
nhịp ru ngủ. Langdon luôn coi khu vườn này như một nơi linh thiêng. Đây là khu
vườn mà (2) đã thể nghiệm khối hình và màu sắc, và thực sự truyền cảm hứng cho
sự ra đời của trào lưu ấn tượng chủ nghĩa. Tối nay, tuy nhiên, chỗ này lại mang
một hào quang khác thường của điềm gở.
Chiếc Citroen lúc này rẽ trái, chếch hướng tây, xuôi đại lộ trung
tâm của công viên. Đang chạy quanh một cái hồ hình tròn, người lái xe cắt ngang
qua một đại lộ vắng vẻ và đi vào một cái sân rộng mở ra bên ngoài. Langdon giờ
đây có thể nhìn thấy chỗ cuối của Vườn Tuileries, đánh dấu bởi một cổng tò vò
lớn bằng đá gọi là Arc du Carrousel.
Mặc dù những lễ thức truy hoan đã từng được tổ chức ở Arc du
Carrousel, những người hâm mộ nghệ thuật sùng kính nơi này vì một lý do hoàn
toàn khác. Từ nơi dạo mát ở cuối Vườn Tuilenes, người ta có thể nhìn thấy bốn
trong số những bảo tàng nghệ thuật tuyệt với nhất trên thế giới… ở bốn hướng
Đông, Tây, Nam, Bắc.
Nhìn ra ngoài cửa xe bên phải, theo hướng nam bên kia sông Seine và
Bến Voltaire, Langdon có thể thấy mặt ngoài sáng trưng của nhà ga xe lửa cũ -
nay là Bảo tàng Orsay sang quý.
Đưa mắt sang trái, Langdon có thể thấy đỉnh của Trung tâm Pompidou
tối tân, là nơi đặt Bảo tàng nghệ thuật hiện đại.
Đằng sau ông về phía tây, Langdon biết đó là đài tưởng niệm cổ xưa
của Ramses vươn lên trên cây cối, đánh dấu chỗ của Bảo tàng Jeu de Paume.
Thẳng trước mặt, về hướng Đông, qua cái cổng tò vò, Langdon có thể
nhìn thấy tòa lâu đài kiểu Phục Hưng làm bằng đá nguyên khối giờ đây đã trở
thành một trong những lâu đài nghệ thuật nổi tiếng nhất trên thế giới.
Bảo tàng Louvre.
Langdon cảm thấy ngàng thường thấy khi mắt ông cố gắng tột bậc vẫn
không bao quál hết toàn bộ khối nhà đồ sộ. Bên kia một plaza (3) rộng mênh
mông, mặt tiền uy nghi của Louvre vút lên như một tòa thành trên nền trời
Paris.
Được tạo hình như một cái móng ngựa khổng lồ, Bảo tàng Louvre là
tòa nhà dài nhất châu Âu, dài hơn ba cái tháp Eiffel nối liền với nhau. Thậm
chí, cả mười vạn mét (4) diện tích của cái plaza nằm giữa hai cánh của tòa nhà
cũng không đọ nổi sự bề thế của chiều ngang tòa nhà. Langdon đã từng đi bộ
quanh toàn bộ Louvre, một chuyến đi dài ba dặm đầy thú vị.
Mặc dù, theo ước tính, một khách thăm quan phải mất khoảng năm tuần
mới chiêm ngưỡng hết toàn bộ 65.500 tác phẩm nghệ thuật trong tòa nhà này, phần
lớn du khách đều chọn con đường rút ngắn mà Langdon gọi là "Louvre thu
nhỏ" - một cuộc chạy nước rút qua bảo tàng để ngắm ba kiệt tác nổi tiếng
nhất: Nàng Mona Lisa, Thần Vệ nữ Milo, Thần chiến thắng có cánh. Art Buchard
từng khoe khoang rằng ông ta đã xem cả ba kiệt tác đó trong vòng năm phút năm
mươi sáu giây.
Người lái xe lôi ra chiếc máy bộ đàm cầm tay và nói bằng tiếng Pháp
rất nhanh: "Monsieur Langdon esl arrivé. Deux ". (5)
Đáp lại là một câu xác nhận lạo xạo nghe không rõ.
Viên cảnh sát cất máy, quay sang Langdon: "Ông sẽ gặp
capitaine ở lối vào chính".
Người lái xe không đếm xỉa đến những biển báo cấm ô-tô đi trên
plaza, cứ rồ ga, và phóng chiếc Citroen qua lề đường. Lối vào chính của bảo
tàng Louvre bây giờ đã có thể nhìn thấy, sừng sững ở đằng xa, với bảy hồ nước
hình tam giác bao quanh, từ đó vọt lên những vòi phun lung linh ánh sáng.
Kinh đô ánh sáng Lối vào mới của bảo tàng Louvre Paris cũng trở nên
nổi tiếng gần như chính bảo tàng vậy. Kim tự tháp bằng kính theo lối hiện đại
và gây nhiều tranh cãi do kiến trúc sư người Mỹ gốc Hoa I. M. Pei thiết kế vẫn
còn bị các vị bảo vệ truyền thống bỉ báng, họ cảm thấy nó phá hủy vẻ trang
nghiêm của cái sân theo phong cách Phục Hưng. Cloethe đã miêu tả kiến trúc như
là âm nhạc ngưng đọng, và những người chỉ trích Pei miêu tả Kim tự tháp này như
những móng tay trên cái bảng đen. Tuy nhiên, những người ngưỡng mộ tiến bộ, thì
ca ngợi Kim tự tháp trong suốt cao 24 mét như một sự kết hợp gây sửng sốt giữa
kiến trúc cổ điển và phương pháp hiện đại - một mối liên kết tượng trưng giữa
cái cũ và cái mới - góp phần đưa bảo tàng Louvre vào thiên niên kỷ mới.
"Ông có thích Kim tự tháp của chúng tôi không?". Viên
cảnh sát hỏi.
Langdon cau mày. Người Pháp có vẻ như thích hỏi người Mỹ câu hỏi
này. Tất nhiên đó là một câu hỏi đầy hàm ý. Thừa nhận là mình thích cái Kim tự
tháp đó sẽ biến bạn trở thành người Mỹ vô vị, còn nói không thích thì là một sự
lăng mạ đối với người Pháp.
"Tổng thống Mitterrand là một người bạo gan", Langdon đáp
đánh bài trung dung. "Người ta bảo vị cựu tổng thống Pháp người đã đặt làm
Kim tự tháp này - bị mắc cái "mặc cảm Pharaông". Một mình gánh trách
nhiệm làm cho Paris tràn ngập những bia tưởng niệm, nghệ thuật và đồ tạo tác Ai
Cập, Francois Mitterrand mê thích văn hóa Ai Cập cuồng nhiệt đến nỗi người Pháp
đến giờ vẫn còn gọi ông là Nhân Sư.
"Tên ông đại úy là gì nhỉ?", Langdon hỏi, chuyển đề tài.
"Bezu Fache", người lái xe nói, đi về phía lối vào chính
của Kim tự tháp. "Chúng tôi gọi ông ấy là Bò mộng".
Langdon liếc nhìn anh ta, tự hỏi liệu có phải mỗi người Pháp đều có
một biệt danh đặt theo tên các con vật huyền bí không:
"Ông gọi capitaine là Bò mộng sao?".
Người kia nhướn mày: "Tiếng Pháp của ông khá hơn là ông tự
nhận đấy, thưa ông Langdon".
Tiếng Pháp của tôi rất tệ, Langdon nghĩ thầm, nhưng hiểu biết về
các hình vẽ miêu tả cung hoàng đọo của tôi thì khá tốt. Chòm sao Taurus bao giờ
cũng được tượng hình bằng con bò đực. Thuật chiêm tinh luôn là một hằng số
tượng trưng khắp thế giới.
Viên cảnh sát dừng xe và chỉ giữa hai đài phun nước một cánh cửa
lớn ở mé Kim tự tháp: "Đó là lối vào. Chúc may mắn, thưa quý ông".
"Ông không cùng đi sao?".
"Tôi được lệnh để ông lại đây. Tôi có nhiệm vụ khác để
làm".
Langdon thở dài và ra khỏi xe. Đó là trò chơi của các ông mà.
Viên cảnh sát rồ ga và phóng đi.
Khi Langdon đứng một mình và nhìn những đèn hậu xe xa dần, ông nhận
ra rằng ông có thể dễ dàng suy xét lại, rời khỏi cái sân này, bắt một chiếc
taxi và đi thẳng về lên giường đi ngủ.
Một điều gì đó nói với ông rằng đó là một ý chẳng hay ho gì.
Đi về phía đám sương của đài phun nước, Langdon có một cảm giác lo
lắng như thể ông đang bước qua một cái ngưỡng ảo để vào một thế giới khác. Cái
tính chất như mơ của buổi tối nay lại vây lấy ông. Hai mươi phút trước ông đang
ngủ trong phòng khách sạn. Giờ đây ông đang đứng trước một Kim tự tháp trong
suốt do Nhân Sư xây nên, chờ một tay cảnh sát mà người ta gọi là Bò mộng.
Mình bị mắc kẹt trong một bức calvador Dali (6) , ông nghĩ.
Langdon đi thẳng tới lối vào chính - một cánh cửa quay đồ sộ. Phòng
chờ bên ngoài sáng lờ mờ và vắng vẻ.
Mình có phải gõ cửa không nhỉ?
Langdon tự hỏi không biết đã có nhà Ai Cập học tôn kính nào của
Harvard gõ cửa một Kim tự tháp và chớ đợi sự đáp lại chưa. Ông giơ tay toan đập
vào tấm kính, nhưng từ trong bóng tối phía dưới, một người đã xuất hiện, chạy
lên chiếc cầu thang cong. Người chắc nịch và da sậm, gần giống như người
Neanderthal, mặc chiếc áo vét cài chéo màu tối căng ra ôm chặt lấy đôi vai
rộng. Dáng đi của ông ta trên đôi chân mập lùn, lực lưỡng rõ ra là người có uy
quyền. Ông ta đang nói chuyện điện thoại di động nhưng kết thúc cuộc gọi ngay
khi tới nơi. Ông ra hiệu mười Langdon vào.
"Tôi là Bezu Fache", ông ta tuyên bố khi Langdon qua cánh
cửa quay, "Đại uý của Cục Cảnh sát tư pháp trung ương". Giọng ông ta
thật phù hợp - một thứ âm cổ họng ì ầm… như trời sắp có giông.
Langdon giơ tay ra bắt: "Robert Langdon".
Bàn tay kếch xù của Fache bao lấy tay Langdon với sức mạnh như
nghiền nát.
"Tôi đã xem tấm ảnh", Langdon nói. "Nhân viên của
ông nói rằng Jacques Saunière đã làm việc đó…".
"Ông Langdon", đôi mắt đen như gỗ mun của Fache nhìn như
xoáy vào da thịt, "Điều ông nhìn thấy trong ảnh chỉ là khởi đầu của những
gì ông Saunière đã làm".
Chú thích:
(1) Viên cảnh sát nói "mounted her". Động từ "to
mount"ngoài nghĩa trèo lên còn có nghĩa tục chỉ sự ăn nằm với đàn bà.
Trong tiếng Anh, để chỉ con vật hoặc đồ vật ở số ít, thông thưởng người ta dùng
đại từ trung tính it, nhưng thảng hoặc, đối với súc vật hay đồ vật thân thiết,
đôi khi người ta dùng đại từ giống cái số ít her để tỏ ý âu yếm. Câu nói của
viên cảnh sát nằm trong trường hợp này. Vì Langdon đang nghĩ tới Vittoria,
người tình của mình, nên rất có thể hiểu chữ "mounted" theo nghĩa
tục. Khi dịch sang tiếng Việt, hầu như không thể chuyển tál được nét tinh tế
ngôn ngữ này.
(2) Một trong những họa sĩ cha đẻ của chủ nghĩa ấn tượng Pháp.
(3) Bãi trống rộng, quảng trường.
(4) Trong nguyên bản là một triệu feet vuông (hệ đo lường Anh).
chúng tôi chuyển sang hệ mét quen thuộc với độc giả Việt nam hơn, để dễ hình
dung hơn. Sau đây, chúng tôi cũng sẽ làm thế với những chỗ dùng đơn vị đo lường
Anh.
(5) Ông Langdon đã tới. Hai phút.
(6) Hoạ sĩ siêu thực nổi tiếng của Tây Ban Nha (1904 - 1988)
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 4
Chương 4Đại uý Bezu Fachequả có phong
thái của một con bò đang cơn giận với bờ vai rộng ngửa về phía sau và cái cằm
ấn chặt vào ngực. Mái tóc đen chuốt dầu bóng càng làm nổi bật đường ngôi thẳng
như mũi tên chia đôi cái trán dô ra phía trước như mũi chiến hạm. Khi ông dấn
bước, đôi mắt đen dường như thiêu đốt mặt đất phía trước, tỏa ánh rực lửa, báo
trước tmh cách nghiêm khắc không khoan nhượng nổi tiếng của ông trong mọi vấn
đề.
Langdon theo viên đại uý xuống chiếc
cầu thang cẩm thạch nổi tiếng đi vào lòng nhà hõm sâu bên dưới Kim tự tháp bằng
kính. Trên đường đi xuống, họ qua giữa hai vệ binh của Cục Cảnh sát tư pháp lăm
lăm súng máy. Thông điệp rất rõ ràng: Không ai có thể ra vào tối nay mà không
có sự cho phép của đại uý Fache.
Xuống dưới sâu hơn mặt đất, Langdon
phải cố dẹp một cơn run đang dâng lên. Sự hiện diện của Fache không có chút gì
là nồng nhiệt, và vào giờ phút này, bản thân bảo tàng Louvre cũng nhuốm một màu
gần như tang tóc. Cầu thang, tựa lối đi trong một rạp chiếu bóng tối om, chỉ có
đèn gắn ở mỗi bậc chiếu sáng lờ mờ. Langdon có thể nghe thấy tiếng chân của
chính mình dội lại từ tấm kính trên đầu. Ngước lên, ông có thể nhìn thấy những
làn sương tử những vòi phun nước tan dần phía bên ngoài mái nhà trong suốt.
"Ông thấy có được không?"
Fache hỏi, hất cái cằm rộng về phía trên.
Langdon thờ dài, quá mệt mỏi để chơi
trò đánh đố: "Vâng, Kim tự tháp của các ông thật lộng lẫy.
Fache lầm bầm: "Một cái sẹo trên
bộ mặt Paris".
Lạ đấy. Langdon có cảm nhận vị chủ nhân
này là người khó có thể làm vừa lòng. Ông tự hỏi liệu Fache có biết rằng Kim tự
tháp này, theo yêu cầu rõ ràng của tổng thống Mitterrand, đã được xây dựng bằng
đúng 666 tấm kính - một yêu cầu kỳ quái luôn là chủ đề tranh luận nóng bỏng
trong các chuyên gia, họ cho rằng con số 666 là số của quỷ Satan.
Langdon quyết định không nói điều ấy
ra.
Khi họ đi xa hơn vào phòng chờ dưới
đất, khoảng không rộng mở từ từ hìện ra từ trong bóng tối. Nằm dưới mặt đất 19
mét, đại sảnh rộng khoảng 7.600 mét vuông mới xây dựng của bảo tàng Louvre trải
ra như một cái hang bất tận. Được xây bằng đá cẩm thạch màu vàng nâu ấm áp để
tương hợp với đá màu mật ong của mặt tiền bên trên, đại sảnh dưởi mặt đất
thường rung lên bởi ánh sáng mặt trời và khách du lịch. Tuy nhiên, tối nay,
sảnh trống rỗng và tối tăm, khíến cho toàn bộ đắm trong một không khí lạnh lẽo
tựa như hầm mộ.
"Còn đội báo vệ thường trực của
bảo tàng thì sao?", Langdon hỏi.
"En " (1). Fache đáp, cứ như
thể Langdon đang nghi ngờ tính chính trực của đội ông ta. "Hiển nhiên là
đã có kẻ đột nhập. Tất cả những người canh đêm ở Louvre bên cánh Sully đều đang
bị thẩm vấn. Việc đảm bảo an ninh buối tối nay cho bảo tàng được chuyển giao
cho các nhân viên của tôi".
Langdon gật đầu, đi nhanh để theo kịp
Fache.
"Ông biết Jacques Saunière đến mức
nào?" Viên đại úy hỏi.
"Thực ra là chẳng mấy tí. Chúng
tôi chưa từng gặp nhau".
Fache có vẻ ngạc nhiên: "Tối nay
mới là buổi hẹn gặp đầu tiên ư?".
"Vâng. Chúng tôi dự định gặp nhau
tại buổi chiêu đãi của trường Đại học Mỹ sau bài giảng của tôi nhưng không thấy
ông ấy tới".
Fache ghi nguệch ngoạc vài dòng vào một
cuốn sổ nhỏ. Khi họ đi tiếp, Langdon thoáng thấy khối Kim tự tháp ít nổi tiếng
hơn của bảo tàng Louvre - Kim tự tháp đảo ngược - một cửa mái khổng lồ lộn
ngược rủ xuống từ trên trần tựa một thạch nhũ ở khu vực kế đó. Fache dẫn
Langdon đi lên một vài bậc thang đến cửa một hành lang có khung vòm, phía trên
có biển đề dòng chữ: DENON. Cánh Denon là phần nổi tiếng nhất trong ba phần
chính của Louvre.
"Ai là người yêu cầu có cuộc gặp
mặt tối nay?" Fache đột ngột hỏi. "Ông hay ông ấy?".
Câu hỏi có vẻ kỳ lạ. "Ông
Saunière", Langdon đáp khi họ vào đường hầm. "Thư ký của ông ấy đã
liên lạc với tôi vài tuần trước bằng thư điện tử. Cô ấy nói rằng ông phụ trách
bảo tàng biết tôi sẽ thuyết giảng ở Paris tháng này và muốn bàn chuyện gì đó
với tôi trong khi tôi ở đây".
"Bàn chuyện gì?".
"Tôi không biết. Chắc là về nghệ
thuật. Chúng tôi có cùng mối quan tâm".
Fache có vẻ không tin: "Ông không
hề biết cuộc gặp của các ông nhằm việc gì?".
Langdon không biết. Lúc đầu ông cũng tò
mò nhưng thấy không tiện hỏi cụ thể. Tôn ông Jacques Saunière nổi tiếng là
thích sự riêng tư và rất ít khi cho ai gặp, chỉ riêng việc có cơ hội gặp ông
cũng đủ khiến Langdon phải cảm ơn rồi.
"Ông Langdon, chí ít ông có thể
đoán xem nạn nhân bị giết của chúng ta có thể muốn bàn luận gì với ông vào cái
đêm ông ấy bị giết chứ? Điều đó có thể sẽ rất có ích".
Sự thẳng thừng của câu hỏi đó làm cho
Langdon cảm thấy không thoải mái.
"Tôi thực sự không thể đoán được.
Tôi đã không hỏi. Tôi cảm thấy vinh dự được tiếp xúc với ông ấy. Tôi là người
ngưỡng mộ công trình của ông Saunière. Tôi thường dùng các bài viết của ông ấy
trên lớp".
Fache ghi điều đó vào sổ.
Hai người đã đi được nửa đường hầm dẫn
vào cánh Denon và Langdon có thể nhìn lhấy những cầu thang cuốn kép đôi ở phía
xa, cả hai bên lên, xuống đều đứng im.
"Vậy là ông có cùng những mối quan
tâm với ông ấy?" Fache hỏi.
"Vâng, trên thực tế, năm ngoái tôi
đã dành nhiều thời gian soạn thảo một cuốn sách bàn về lĩnh vực giám định chủ
yếu của ông Saunière. Tôi mong sao lượm lặt dược chút tri thức của ông
ấy".
Fache ngước mắt: "Gì cơ?".
Rõ ràng ông ta không hiểu câu thành
ngữ?
"Tôi mong sao học hỏi những suy
nghĩ của ông ấy về đề tài này".
"Tôi hiểu. Và đề tài đó là
gì?".
Langdon do dự, không biết diễn tả như
thế nào cho chính xác: "Về cơ bản, bản thảo viết về khoa nghiên cứu các
hình tượng thờ nữ thần - khái niệm về tính thánh nữ và nghệ thuật cùng những
biểu tượng gắn kết với nó".
Fache giơ bàn tay mập ú vuốt tóc:
"Và Saunière rành về đề tài này?".
"Không ai hơn ông ấy".
"Tôi hiểu".
Langdon cảm thấy Fache chẳng hiểu gì
hết. Jacques Saunière đuợc xem là nhà mô tả các hình tượng về nữ thần hàng đầu
trên thế giới. Saumère không chỉ có niềm đam mê cá nhân đối với những thánh
tích có liên quan đến sự phồn thực, các nghi lễ cúng tế nữ thần, (2)và lính nữ
linh thiêng, mà trong suốt hai mươi năm phụ trách bảo tàng! Saunière đã giúp
Louvre tập hợp được bộ sưu tập nghệ thuật nữ thần lớn nhất thế giới - những cái
rìu của các nữ tu ở những điện thờ cổ xưa nhất của Hy Lạp ở Delphi, những cây
quyền trượng bằng vàng, hàng trăm thập giá hình khóa giống như những thiên thần
nhỏ của vùngTjet, những chiếc trống lắc được sử dụng ở Ai Cập cổ đại để xua
đuổi tà ma, và một bộ tượng kỳ thú miêu tả cảnh Horus được nữ thần Isis cho bú.
"Có lẽ Jacques Saunière nghe nói
về bản thảo của ông?".
Fache gợi ý. "Và ông ấy sắp đặt
cuộc gặp gở để đề nghị giúp đỡ cho cuốn sách của ông".
Langdon lắc đầu: "Thực sự, chưa ai
biết về bản thảo này. Nó vẫn ở dạng nháp, và tôi không đưa nó cho bất kỳ ai trừ
người biên tập của tôi".
Fache im lặng.
Langdon không nói thêm lý do khiến ông
chưa cho ai xem tập bản thảo. Bản nháp dày ba trăm trang - tạm đặt tên là Những
biểu tượng của tính nữ thiêng liêng bị thất truyền - đưa ra một số diễn giải
rất khác thường về hệ hình tượng tôn giáo đã chế định, những diễn giải chắc
chắn sẽ gây tranh cãi.
Khi Langdon đi gần đến chiếc cầu thang
cuốn vẫn đứng im, ông dừng lại, nhận thấy Fache không còn ở bên cạnh mình.
Quay lại, Langdon nhìn thấy Fache đang
đứng cách đó vài mét về phía sau ở chỗ thang máy dành cho người phục vụ.
"Ta sẽ đi thang máy", Fache
nói khi cửa thang máy mở ra.
"Tôi chắc ông biết Hành Lang Lớn
khá xa nếu đi bộ".
Tuy Langdon biết đi thang máy lên hai
tầng dài để đến Cánh Denon sẽ nhanh hơn, ông vẫn đứng im.
"Có chuyện gì không ổn?"
Eache giữ cửa, có vẻ sốt ruột.
Langdon thở hắt ra, quay lại nhìn đầy
thèm muốn về phía cầu thang cuốn ngoài trời. Chẳng có chuyện gì không ổn cả,
ông tự dối mình, lụi hụi trở lại thang máy. Hồi bé, Langdon đã ngã xuống một
cái giếng bỏ đi và suýt chết vì ngâm nước trong cái khoảng hẹp đó nhiều giờ
trước khi có người đến cứu.
Kể từ đó, ông bị ám ảnh bởi chứng sợ
những khoảng khép kín - thang máy, đường điện ngầm, sân chơi bóng quần. Thang
máy là một cái máy tuyệt đối an toàn, Langdon tự nhủ nhưng không bao giờ tin
điều đó cả. Nó là một hộp kim loại nhỏ xíu treo trong một cái ống thông khép
kín. Nín thở, ông bước vào buồng thang, cảm thấy cái giật thon thót quen thuộc
mỗi khi cửa thang máy khép lại.
Hai tầng. Mười giây.
"Ông và ông Saunière", Fache
nói khi thang máy bắt đầu chuyển, "các ông chưa hề nói gì với nhau? Chưa
hề thư từ? Chưa hề gửi cho nhau bất cứ thứ gì qua bưu điện?".
Lại một câu hỏi kỳ lạ. Langdon lắc đầu:
"Không. Chưa bao giờ".
Fache nghếch đầu, như thể ghi thẳng vào
dầu sự việc đó.
Không nói gì, ông ta nhìn trân trân vào
cánh cửa bằng crôm.
Khi họ lên cao, Langdon cố tập trung
vào những cái khác hơn là bốn bức vách xung quanh. Qua sự phản chiếu của cánh
cửa thang máy sáng bóng, ông thấy cái kẹp cavát của viên đại uý một cây thánh
giá bằng bạc có gắn mười ba viên mã não có vân đen. Langdon thấy hơi là lạ.
Biểu tượng này gọi là crux gemmata - một cây thánh giá gắn mười ba viên ngọc -
một biểu tượng Thiên Chúa giáo ám chỉ Chúa và mười hai vị thánh tông đồ của
Ngài. Không hiểu sao, Langdon không ngờ người chỉ huy của Cảnh sát Pháp lại phô
bày tôn giáo của ông ta quá lộ liễu như vậy. Hơn nữa đây là Pháp, ở đây Thiên
Chúa giáo không phải là một tôn giáo được xem như quyền tự nhiên.
"Đó là một crux gemmata",
Fache đột ngột nói.
Giật mình, Langdon ngước lên thấy Fache
dán mắt vào mình trong ánh phản chiếu.
Thang máy dừng sững, cửa mở ra.
Langdon bước vội ra, đi nhanh vào hành
lang, thèm khát khoảng không rộng thoáng tạo nên bởi những trần cao nổi tiếng
của những phòng tranh trong Louvre. Tuy nhiên, thế giới ông bước vào chẩng có
gì giống với những gì ông mong đợi.
Ngạc nhiên, Langdon dừng sững lại.
Fache liếc sang: "Tôi rút ra kết
luận là ông chưa bao giờ thấy Louvre sau giờ công sở, ông Langdon?".
Tôi đoán là thế. Langdon nghĩ, cố định
thần lại.
Vốn được chiếu sáng hoàn hảo nhưng tối
nay, các phòng trưag bầy của Louvre đột nhiên tối om. Thay cho ánh sáng trắng
toả tuôn xuống từ bên trên, là một vầng đỏ lừ dường như tỏa ra từ ván chân
tường - những vệt sáng đỏ lập lòe đổ tràn ra trên sàn lát đá.
Khi nhìn dọc theo hành lang tối tăm,
Langdon nhận ra đáng lẽ ông nên hình dung trước cảnh tượng này. Hầu như tất cả
các phòng trưng bầy chính đều để đèn đỏ vào buổi tối - những ngọn đèn được đặt
ở tầm thấp theo chủ định, không tỏa sáng rộng đủ để cho các nhân viên đi lại
trong các hành lang mà vẫn giữ cho các bức họa trong bóng tối tương đối để hãm
chậm tác động phai màu do phơi sáng quá nhiều. Tối nay, bảo tàng có vẻ gần như
ngột ngạt. Bóng tối lan dài xâm lấn mọi nơi, và những trần vòm thường khi cao
vút bỗng có vẻ như những khoảng trống thấp tối đen.
"Đường này" - Fache nói, rẽ
phắt sang phải và đi qua một dãy dài các phòng trưng bày nối liền với nhau.
Langdon đi theo, mắt ông cũng dần dần
quen với bóng tối. Xung quanh, những bức tranh sơn dầu khổ to bắt đầu hiện ra
trước mắt ông như tiến trình rửa ảnh trong một buồng tối khổng lồ mắt các nhân
vật trong tranh dõi theo ông khi ông đi qua các phòng. Ông có thể ngửi thấy mùi
vị quen thuộc của không khí bảo tàng - mùi tinh dầu giải iôn hăng hắc thoang
thoảng chút carbon - sản phẩm của máy hút ẩm công nghiệp, với bộ lọc chạy bằng
than, các máy này chạy suốt ngày để trung hòa khí CO2 gây ăn mòn, tỏa ra theo
hơi thở của khách tham quan.
Lắp đặt cao trên tường, các camera an
ninh lộ liễu gửi thông điệp rõ ràng đến khách tham quan: Chúng tôi nhìn thấy
bạn, đừng chạm vào bất kỳ vật gì.
"Có cái nào là thật không?".
Langdon hỏi chỉ về phía các camera.
Fache lắc đầu: "Tất nhiên là
không".
Langdon không ngạc nhiên. Sự giám sát
bằng video trong các bảo tàng cỡ này chi phí cao và không có tác dụng gì. Để
giám sát các phòng trưng bày rộng hàng ngàn mét vuông, Louvre ắt phải cần đến
hàng trăm kỹ thuật viên, chỉ đơn thuần để theo dõi liên tục các hiện vật. Hầu
hết các bảo tàng lớn đều dùng biện pháp "an ninh ngăn chặn". Hãy quên
đi việc giữ các tên trộm ở ngoài, hãy giữ chúng ở bên trong. Thiết bị ngăn chặn
hoạt động sau giờ công sở, nếu một kẻ xâm nhập tháo đi một tác phẩm nghệ thuật,
các lối ra sẽ được đóng kín quanh phòng trưng bày đó, và tên trộm sẽ thấy mình
bị cầm tù ngay cả trước khi cảnh sát đến.
Nhiều giọng nói vang vọng trong hành
lang cẩm thạch phía trước. Tiếng ồn dường như đến từ một khoang hõm rộng đằng
trước mé tay phải. Một ngọn đèn sáng toả xuống cả hành lang.
"Văn phòng của ông phụ trách bảo
tàng", viên đại uý nói.
Khi họ đến gần khoang hõm hơn, Langdon
dõi mắt qua đoạn hành lang ngắn nhòm vào phòng làm việc sang trọng của Saunière
- gỗ ấm, những bức họa của các bậc thày thời xưa, và một bàn giấy kiểu cổ đồ
sộ, trên đó có mô hình một hiệp sĩ mặc giáp trụ đầy đủ cao khoảng 0,60 m. Một
nhóm cảnh sát bận rộn trong căn phòng, nói chuyện điện thoại và ghi chép. Một
trong số họ ngồi ở bàn của Saunière, đang sử dụng máy tính xách tay.
Rõ ràng tối nay, phòng riêng của ông
phụ trách bảo tàng đã trở thành sở chỉ huy tạm thời của DCPJ.
"Messieurs", Fache gọi và mọi
người quay lại, "Ne nous dérangez pas sous aucun prétexte.
Entendu?"(3) .
Mọi người trong văn phòng gật đầu hiểu
ý.
Langdon đã từng treo khá nhiều biển
mang dòng chữ NE PAS DÉRANDER trên các cửa phòng khách sạn đủ để hiểu nội dung
mệnh lệnh của viên đại úy. Fache và Langdon sẽ không bị quấy rầy trong bất kỳ
hoàn cảnh nào.
Để nhóm nhỏ nhân viên lại phía sau,
Fache dẫn Langdon đi xa hơn nữa vào hành lang tối. Lù lù trước mặt, cách khoảng
ba mươi mét là cổng vào phần nổi tiếng nhất của Louvre - Hành Lang Lớn - một
hành lang dường như vô tận, nơi để những kiệt tác quý nhất của Ý tại bảo tàng
Louvre. Langdon đã nhận ra đây là nơi thi thể Saunière nằm, sàn gỗ nổi tiếng
của Hành Lang Lớn không thể lẫn đi đâu trong bức ảnh chụp lấy ngay.
Khi họ đến gần, Langdon nhìn thấy lối
vào bị chắn bởi một hàng rào thép khổng lồ giống như ở các lâu đài thời Trung
cổ nhằm ngăn chặn kẻ thù cướp bóc.
"An ninh ngăn chặn", Fache
nói, khi họ tới sát những thanh thép.
Ngay cả trong bóng tối, hàng rào chắn
vẫn có vẻ như có thể chặn được cả xe tăng. Từ bên ngoài, Langdon nhìn qua song
sắt vào các hốc lờ mờ sáng của Hành Lang Lớn.
"Mời ông qua trước, ông
Langdon", Fache nói.
Langdon quay lại. Qua trước, qua chỗ
nào chứ?
Fache ra hiệu về phía sàn nhà, phần
dưới của rào chắn.
Langdon nhìn xuống. Trong bóng tối, ông
không nhận thấy.
Hàng rào chắn đã được nâng cao lên
khoảng sáu mươi phân, tạo ra một khoảng trống xệch xẹo bên dưới.
"Khu vực này ngoài tầm kiểm soát
an ninh của Louvre". Fache nói. "Đội của tôi từ Cục cảnh sát khoa học
và kỹ thuật cảnh sát vừa hoàn thành cuộc điều tra của họ". Ông ta chỉ vào
khe hở: "Xin hãy luồn mé dưới".
Langdon nhìn vào khoảng hẹp có thể
trướn qua được dưới chân mình và rồi lại nhìn hàng rào sắt kếch xù bên trên.
Ông ta đang đùa đúng không? Hàng rào chắn trông giống như một cái máy chém chờ
đợi để nghiền nát những kẻ đột nhập.
Fache lầm bầm điều gì đó bằng tiếng
Pháp và xem đồng hồ.
Sau đó, ông ta quỳ xuống và lách cái
thân hình đồ sộ của mình dưới hàng rào. Sang tới bên kia, ông ta đứng dậy và
nhìn Langdon qua song sắt.
Langdon thở dài. Chống tay lên sàn gỗ
bóng lộn, ông nằm sấp và trườn về phía trước. Trong khi lách qua, cổ áo tuýt
hiệu Harris chạm vào đáy của hàng rào, và ông va gáy vào đó.
Lịch sự nhỉ, Robert, ông nghĩ, dò dẫm
và rồi cuối cùng cũng kéo được người qua. Đứng dậy, Langdon bắt đầu tin chắc
đây sẽ là một đêm rất dài.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: cách
ly.
(2) Thuyết thần học phù thuỷ, theo đó,
nữ giới được trao quyền cai quản đất trời.
(3) Tiếng Pháp
trong nguyên bản: "Các ông, xin đừng quấy rầy chúng tôi vì bắt cứ lý do
gì. Rõ chưa?"
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 5
Chương 5Quảng trường Murray Hill - Tổng
Hành Dinh Quốc Gia mới của Opus Dei, trung tâm hội nghị - tọa lạc ở 243 Đại lộ
Lexington, New York. Với giá hơn bốn mươi bảy triệu đôla, nó là một tòa tháp
rộng gần 15.000 mét vuông được ốp gạch đỏ và đá vôi vùng Indiana. Do May &
Pinska thiết kế, tòa nhà bao gồm trên một trăm phòng ngủ, sáu phòng ăn, thư
viện, phòng ở phòng họp, và văn phòng. Tầng hai, tầng tám và tầng mười sáu là
các nhà nguyện được trang trí đồ gỗ và đá cẩm thạch.
Tầng mười bảy hoàn toàn là nhà ở. Đàn
ông vào tòa nhà qua cổng chính ở phía Đại lộ Lexington. Phụ nữ vào qua phố bên
cạnh và "cách biệt hẳn, không nghe thấy và không nhìn thấy" đám đàn
ông vào bất kỳ lúc nào trong tòa nhà.
Từ chiều nay, trong căn phòng tôn
nghiêm ở tầng trên cùng của mình, Giám mục Manuel Aringarosa đã đóng một túi đồ
du lịch nhỏ và mặc chiếc áo thày tu truyễn thống màu đen. Bình thường, ông quấn
dây lưng màu tía quanh hông, nhưng tối nay ông sẽ ra nơi công cộng, và ông
không muốn gây ra sự chú ý tới chức vụ cao của mình. Chỉ những người với con
mắt tinh tường mới có thể để ý đến chiếc nhẫn Giám mục bằng vàng 14 kara với
viên thạch anh tím cùng những viên kim cương to, và miếng vải đính mũ tế. Quàng
túi du lịch qua vai, ông thầm đọc một câu kinh và rời phòng đi xuống sảnh trước
- nơi người lái xe đang chờ để đưa ông ra sân bay.
Giờ đây ngồi trên một máy bay thương
mại đi Roma, Aringarosa nhìn ra ngoài cửa sổ xuống Đại Tây Dương sẫm màu.
Mặt trời vừa lặn, nhưng Aringarosa biết
sao chiếu mệnh của mình đang lên. Tối nay trận chiến sẽ thắng lợi, ông nghĩ,
kinh ngạc vì chỉ vài tháng trước, ông vẫn còn cảm thấy chẳng có quyền uy gì
chống lại những bàn tay đe dọa phá hủy đế chế của ông.
Là chủ tịch của Opus Dei, Giám mục
Aringarosa đã dành mười năm qua của cuộc đời để truyền bá thông điệp "Tác
phẩm của Chúa", nghĩa đen của từ Opus Dei. Giáo đoàn này được thầy tu
người Tây Ban Nha Jose Maria Escrivá thành lập năm 1928, nhằm thúc đẩy sự quay
về với các giá trị Thiên Chúa giáo bảo thủ và khuyến khích các thành viên thực
hành các nghi lễ gột rửa hàng ngày để làm Tác phẩm của Chúa.
Triết lý truyền thống của Opus Dei đã
bắt rễ ở Tây Ban Nha trước chế độ Franco, nhưng với sự xuất bản vào năm 1934
cuốn sách tinh thần Đạo của Josemaria Esscrivá - 999 điểm về việc thực hiện
nhiệm vụ của Chúa trong đời sống cá nhân - thông điệp của Escrivá bùng nổ trên
toàn thế giới. Giờ đây, với hơn bốn triệu bản của cuốn Đạo - phát hành bằng bốn
mươi hai ngôn ngữ, Opus Dei đã trở thành lực lượng toàn cầu. Người ta có thể
tìm thấy những khu nhà ở, các trung tâm giáo huấn, và thậm chí cả các trường
đại học của Opus Dei ở hầu hết các thành phố lớn khắp thế giới. Opus Dei là tổ
chức Thiên Chúa giáo phát triển nhanh nhất và vững vàng nhất về mặt tài chính
trên thế giới. Thật không may, Aringarosa được biết, trong một thời đại nghi
ngờ tôn giáo, các giáo phái, quyền lực và của cải mỗi lúc một leo thang của
Opus Dei thành một cục nam châm thu hút sự ngờ vực. "Nhiều người gọi Opus
Dei là một kiểu thờ cúng tẩy não".
Các phóng viên thường chất vấn.
"Một số khác lại gọi các ông là tổ chức Cơ đốc giáo bí mật bảo thủ cực
đoan. Vậy các ông là gì?".
"Opus Dei không phải cả hai thứ
đó", giám mục kiên nhẫn trả lời. "Chúng tôi là một Giáo hội Thiên
Chúa giáo. Chúng tôi là một giáo đoàn của những người Thiên Chúa giáo lấy việc
tuân theo học thuyết Thiên Chúa giáo một cách nghiêm ngặt hết mức có thể trong
đời sống hàng ngày làm ưu tiên".
"Liệu Tác phẩm của Chúa có nhất
thiết bao gồm những nguyện thề giữ gìn sự trong trắng, thu hoa lợi cho nhà thờ,
và chuộc tội lỗi bằng tự hành xác?".
"Các bạn chỉ mới miêu tả một phần
nhỏ dân số của Opus Dei", Aringarosa nói. "Có rất nhiều mức độ tham
gia. Hàng nghìn thành viên của Opus Dei đã kết hôn, có gia đình, và thực hiện
các công việc của Chúa trong cộng đồng của chính họ.
Những người khác chọn cuộc sống tu khổ
hạnh trong các tu viện của chúng tôi. Những lựa chọn này hoàn toàn là cá nhân,
nhưng mọi người trong Opus Dei đều chia sẻ mục đích làm cho thế giới tốt đẹp
hơn bằng việc thực hiện Tác phẩm của Chúa.
Chắc chắn đây là một sự kiếm tìm đáng
ngưỡng mộ".
Tuy nhiên, lẽ phải hiếm khi phát huy
tác dụng, các phương tiện truyền thông luôn xoay quanh các vụ tai tiếng, và
Opus Dei, cũng như hầu hết các tổ chức lớn, luôn có một vài linh hồn lầm lạc
trong số các thành viên của mình, làm ô danh cả nhóm.
Hai tháng trước, một nhóm Opus Dei ở
một trường đại học miền Trung Tây nước Mỹ bị bắt quả tang cho những hội viên
mới dùng mescaline gây ảo giác nhằm tạo trạng thái khinh khoái mà các tân tín
đồ sẽ cảm nhận như là một trải nghiệm tôn giáo. Một sinh viên đại học khác dùng
chiếc dây lưng hành xác có ngạnh quá mức yêu cầu hai tiếng mỗi ngày và bị nhiễm
trùng gần chết. Ở Boston không lâu trước đây, một chủ ngân hàng đầu tư trẻ được
giác ngộ đã hiến tất cả tiền tiết kiệm cả đời mình cho Opus Dei trước khi tự
tử.
Những con chiên lạc lối, Aringarosa
nghĩ, trái tim hướng về họ.
Tất nhiên, mất mặt nhất là phiên tòa xử
tên gián điệp của FBI Robert Hanssen, một vụ được công bố rộng rãi. Ngoài việc
là một thành viên nổi bật của Opus Dei, tên này hóa ra còn là kẻ bệnh hoạn tình
dục. Vụ xét xử hắn đã tiết lộ những chứng cứ cho thấy hắn đã lắp camera quay
trộm trong phòng ngủ để các bạn hắn có thể xem cảnh hắn làm tình với vợ.
"Thật khó có thể là trò tiêu khiển của một người Thiên Chúa giáo mộ
đạo", quan tòa nhấn mạnh.
Đáng buồn là tất cả những sự kiện này
góp phần sinh ra một nhóm quan sát mới gọi là Mạng nhận thức Opus Dei (ODAN).
Trang web nổi tiếng của nhóm -
www.odan.org kể lại những câu chuyện ghê sợ từ miệng những cựu thành viên Opus
Dei.
Những người này cảnh báo mối nguy hiểm
của việc gia nhập giáo phái. Các phương tiện truyền thông giờ đây gọi Opus Dei
là "Mafia của Chúa" và "Sùng bái Kirixitô".
Chúng ta sợ những gi chúng ta không
hiểu. Aringarosa nghĩ, tự hỏi liệu những người chỉ trích này có biết có bao
nhiêu cuộc đời đã được Opus Dei làm tốt đẹp thêm lên. Giáo đoàn đã dược Vatican
xác nhận đầy đủ và ban phước. Opus Dei là đoàn giáo sĩ cao cấp của riêng Giáo
hoàng.
Tuy nhiên, gần đây, Opus Dei thấy mình
đang bị đe dọa bởi một thế lực có sức mạnh gấp bội các phương tiện truyền
thông… một kẻ thù bất ngờ mà Aringarosa không thể trốn chạy.
Năm tháng trước, sự biến ảo của quyền
lực đã bị lung lay, và Aringarosa vẫn còn đang lảo đảo vì cú đòn đó.
"Chúng không biết cuộc chiến mà
chúng châm ngòi", Aringarosa thì thầm với chính mình, nhìn qua cửa sổ máy
bay xuống đại dương tối sẫm bên dưới. Trong giây lát, ông quay lại nhìn hình
ảnh phản chiếu gương mặt không cân đối của mình - đen, dài, nổi bật lên là cái
mũi khoằm, tẹt dí do đã từng bị đấm gẫy ở Tây Ban Nha khi ông còn là một nhà
truyến giáo trẻ tuổi. Cái khuyết tật thể chất ấy giờ chả mấy ai để ý. Thế giới
của Aringarosa là thế giới của linh hồn, đâu phải của thể xác.
Khi chiếc phi cơ đi qua bờ biển Bồ Đào
Nha, điện thoại trong tấm áo thầy tu của Aringarosa rung lên theo chế độ tắt
chuông.
Mặc dù luật hàng không cấm sử dụng điện
thoại trong các chuyến bay, nhưng Aringarosa biết đây là cuộc gọi mà ông không
thể để lỡ. Chỉ có một người biết số này, người đã gửi chiếc điện thoại này qua
đường bưu điện cho Aringarosa.
Hồi hộp, Giám mục trả lời nhỏ nhẹ:
"Vâng?".
"Silas đã biết chỗ của viên đá
đỉnh vòm", người gọi nói, "Nó ở Paris. Trong nhà thờ Saint
Sulpice".
Giám mục Aringarosa mỉm cười: "Thế
thì chúng ta đang ở gần nó".
"Chúng tôi có thể đoạt nó ngay lập
tức nhưng chúng tôi cần ảnh hưởng của cha".
"Tất nhiên rồi. Hãy nói cho tôi
biết tôi phải làm gì".
Khi Aringarosa tắt máy, tim ông đập
thình thịch. Một lần nữa, ông lại nhìn xuống khoảng không đêm tối, cảm thấy
mình bé nhỏ hẳn bên cạnh những sự kiện do chính ông đã phát động.
Cách đó năm trăm dặm, gã bạch tạng tên
là Silas cúi mình trên một bồn nước nhỏ và thấm máu trên lưng, nhìn những vệt
đỏ loang tròn trong nước. Gột rửa mình với cây bàỉ hương và ta sẽ sạch sẽ, hắn
cầu nguyện, trích dẫn Thánh ca. Hãy gột rửa, và ta sẽ trắng hơn tuyết.
Silas cảm thấy một linh tính được đánh
thức - điều mà hắn chưa từng cảm thấy trong cuộc đời trước đây. Nó vừa gây kinh
ngạc vừa kích thích hắn. Trong thập kỷ vừa rồi, hắn đã đi theo Đạo gột sạch bản
thân khỏi tội lỗi… xây dựng lại cuộc đời… xóa sạch bạo lực trong quá khứ. Nhưng
tối nay, tất cả đã ào trở lại.
Lòng căm thù mà hắn khó khăn vật lộn để
chôn vùi đã được khơi dậy. Hắn bàng hoàng thấy quá khứ lại nổi lên nhanh biết
bao. Và cùng với nó, tất nhiên, là kỹ năng của hắn. Đã cùn mòn nhưng còn được
việc chán.
Thông điệp của Chúa Jesu là một thông
điệp về hòa bình… về phi bạo lực…về tình yêu. Đây là thông điệp mà Silas được
dạy ngay từ đầu và là thông điệp hắn luôn giữ trong trái tim. Nhưng đây cũng là
thông điệp mà kẻ thù của Chúa Jesus đang đe dọa hủy hoại. Những kẻ đe dọa Chúa
bằng vũ lực sẽ được đáp trả bằng vũ lực. Bất di bất dịch và kiên định.
Trong hai thiên niên kỷ, những người
lính của Chúa đã bảo vệ đức tin của họ chống lại những kẻ định gạt bỏ nó. Tối
nay, Silas đã được gọi tham gia trận chiến.
Lau khô các vết
thương, hắn mặc chiếc áo choàng dài đến mắt cá chân, có mũ chùm đầu. Nó xấu xí,
bằng len tối màu, làm nổi bật nước da và mái tóc trắng. Thắt chặt dây áo choàng
quanh hông, hắn kéo mũ chùm lên đầu và ngắm nhìn mình trong gương bằng đôi mắt
đỏ lừ. Các bánh xe đang chuyển động.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 6
Chương 6Sau khi khép mình chui dưới
hàng rào bảo vệ, Robert Langdon giờ đây đứng bên trong lối vào Hành Lang Lớn.
Ông nhìn dõi vào miệng một hành lang dài, sâu như hẽm núi. Hai bên hành lang,
những bức tường vút lên với độ cao mười mét, như tan biến vào bóng tối bên
trên. Những bóng đèn bảo quản đỏ kệch hướng lên trên, tỏa một ánh sáng mờ không
tự nhiên lên bộ sưu tập kỳ vĩ gồm những tác phẩm của Da Vinci, Titian, và
Caravaggio treo lơ lửng từ những dây cáp trên trần. Tĩnh vật, các cảnh tôn giáo
và phong cảnh đẹp cùng với chân dung của các quý tộc và chính trị gia.
Mặc dù Hành Lang Lớn cất giữ nghệ thuật
Ý nổi tiếng nhất của Louvre, nhiều khách du lịch lại cảm thấy món quà gây ấn
tượng nhất của cánh này, trên thực tế, lại là cái sàn gỗ nổi tiếng của nó. Được
sắp đặt theo một thiết kế ngoạn mục mang tính kỷ hà với những lát gỗ sồi xếp
chéo góc, mặt sàn tạo ra một ảo giác thoáng qua - một mạng lưới đa chiều mang
lại cho du khách cảm giác là họ đang trôi trong phòng trưng bày trên một bề mặt
thay đổi theo mỗi bước đi.
Khi cái nhìn của Langdon bắt đầu dõi
theo đường ván lát, mắt ông bỗng dừng phắt trên một vật bất ngờ nằm trên sàn
chỉ cách ông vài mét về bên trái, khoanh giữa dải băng đánh dấu của cảnh sát.
Ông quay về phía Fache. "Có phải… một bức Caravaggio ở trên sàn không?".
Fache gật đầu mà không cần nhìn.
Bức tranh, Langdon đoán, đáng giá tới
hai triệu đôla, mà nằm chỏng chơ trên sàn như một tấm quảng cáo vất đi.
"Thế quái nào mà nó lại nằm trên sàn như vậy?".
Fache nhìn trừng trừng, rõ ràng không
hề xúc động: "Đây là hiện trường vụ án, ông Langdon ạ. Chúng ta không được
đụng vào bất kỳ thứ gì. Bức tranh đó đã bị ông phụ trách bảo tàng kéo xuống. Đó
là cách ông ấy khởi động hệ thống an ninh".
Langdon nhìn vào cánh cổng, cố gắng
mường tượng những gì đã xảy ra.
"Ông phụ trách bảo tàng bị tấn
công trong phòng làm việc, trốn chạy vào Hành Lang Lớn, và khới động cửa bảo vệ
bằng cách kéo bức vẽ đó từ trên tường xuống. Cổng bảo vệ sập ngay lập tức chặn
mọi lối ra vào. Đây là cánh cửa duy nhất để ra vào Hành Lang Lớn".
Langdon cảm thấy không rõ: "Vậy là
ông ta dã thực sự bắt được kẻ tấn công mình trong Hành Lang Lớn sao?".
Fache lắc đầu: "Cổng bảo vệ đã
ngăn cách Saunière với kẻ tấn công ông. Tên sát thủ bị chặn lại ở hành lang
ngoài và bắn Saunière qua cánh cổng này". Fache chỉ về phía miếng kim loại
màu cam lủng lầng ở một song sắt của cánh cổng mà họ vừa chui qua bên dưới.
"Đội canh sát khoa học - kỹ thuật (PTS) đã tìm thấy vết khói đạn phụt lại
của khẩu súng. Hắn đã bắn qua chấn song. Saunière đã chết một mình trong
này".
Langdon nhớ lại bức ánh chụp thi thể
Saunière. Họ nói ông ấy đã làm điều đó với chính mình. Langdon nhìn hành lang
mênh mông phía trước. "Vậy xác ông ấy ở đâu?".
Fache chỉnh thẳng cái kẹp cà vạt hình
thánh giá và bắt đầu đi.
"Chắc ông đã biết, Hành Lang Lớn
này khá dài".
Độ dài chính xác, nếu Langdon nhớ đúng,
thì là khoảng 500 mét, bằng ba đài tưởng niệm Washington nối liền nhau. Chiều
rộng của hành lang cũng hoành tráng như thế, có thể dễ dàng chứa hai đoàn tàu
chở khách xếp hàng ngang cạnh nhau. Điểm suốt dọc trục trung tâm hành lang là
những pho tượng hoặc những thạp sứ lớn, tạo thành một đường ngăn trang nhã, giữ
cho dòng khách tham quan theo chiều đi lên ở một bên và theo chiều đi xuống ở
bên kia.
Fache im lặng, thoăn thoắt sải bước
theo mé bên phải của hành lang, mắt nhìn trân trân về phía trước. Langdon cảm
thấy gần như bất kính khi đi qua bao kiệt tác như vậy mà không dừng lại dù chỉ
để ìiếc nhìn.
Không phải bởi mình chẳng nhìn thấy gì
trong ánh sáng này, ông nghĩ.
Tệ thay, cái ánh sáng đỏ lịm này lại
làm Langdon nhớ đến trải nghiệm lần trước của mình trong ánh sáng mờ ảo của
Viện Tư liệu mật Vatican. Đây là lần thứ hai trong buổi tối hôm nay ông liên
tưởng đến lần suýt chết ở Roma. Ông lại chợt nhớ đến Vittoria. Cô đã vắng mặt
trong những giấc mơ của ông nhiều tháng nay. Langdon không thể tin rằng chuyện
ở Roma mới chỉ cách đây một năm, mà đã như hàng thế kỷ rồi. Một cuộc đời khác.
Lần cuối cùng ông nhận được thư
Vittoria là vào tháng 12 - một bưu ảnh nói rằng cô đang trên đường đến biển
Java để tiếp tục nghiên cứu về vật lý của cá đuối một dề tài về việc sử dụng vệ
tinh để theo dấu sự di trú của cá đuối? Langdon chẳng bao giờ nuôi ảo tưởng
rằng một phụ nữ như Vittoria Vetra lại có thể sống hạnh phúc với ông trong một
học xá đại học, nhưng cuộc gặp gỡ bất ngờ ở Roma mở ra nơi ông một khát khao mà
ông không bao giờ tưởng tượng là mình có thể cảm thấy. Ham muốn sống độc thân
suốt đời của ông cùng những tự do giản đơn mà nó đem lại, chợt lung lay… thay
thế bởi một cảm giác trống rỗng bất ngờ dường như cứ lớn dần suốt trong năm
qua.
Họ tiếp tục bước đi, nhưng Langdon vẫn
không nhìn thấy cái xác nào hết. Jacques Saunière đi được xa thế sao? Ông
Saunière bị một viên đạn găm vào bụng. Ông ấy chết từ từ. Có thể là trong vòng
mười lăm - hai mươi phút. Ông ấy rõ ràng là người có sức chịu đựng tốt".
Langdon quay lại, thất kinh: "Nhân
viên bảo vệ mất mười lăm phút mới đến được đây sao?".
"Tất nhiên là không. Bảo vệ bảo
tàng Louvre phản ứng ngay lập tức với tiếng chuông báo động và phát hiện ra Hành
Lang Lớn đã đóng. Qua cánh cổng, họ có thể nghe thấy có người đang di chuyển ở
đầu đằng kia hành lang, nhưng họ không thể nhìn thấy đó là ai. Họ quát hỏi,
nhưng không được trả lời. Đoán chắc rằng đó chỉ có thể là kẻ trộm, họ đã làm
theo quy định và gọi điện cho Cảnh sát tư pháp . Chúng tôi đã chiếm lĩnh vị trí
trong vòng mười lăm phút. Khi đến, chúng tôi nâng hàng rằo chắn lên đủ để có
thể trườn qua bên dưới, và tôi đã điều mười hai cảnh sát vũ trang vào bên
trong. Họ đã kiểm tra hết chiều dài Hành Lang Lớn để vây bắt kẻ đột nhập".
"Và?".
Họ chẳng thấy ai bên trong. Trừ…",
ông ta chỉ về phía xa hơn trong hành lang, "Ông ấy".
Langdon dõi theo ngón tay chỉ thắng của
Fache. Đầu tiên ông nghĩ Fache đang chỉ một bức tượng bằng đá cẩm thạch to ở
giữa hành lang. Tuy nhiên, khi họ đi tiếp, Langdon bắt đầu nhìn xa hơn bức
tựơng. Sâu vào hành lang ba mươi thước, một ngọn đèn chiếu đơn trên cột di động
rọi xuống sàn, tạo thành một quầng sáng trắng trong căn phòng đỏ thẫm. Ở giữa
quầng sáng đó, như một con côn trùng dưới kính hiển vi, là xác của ông phụ
trách bảo tàng nằm trần truồng trên sàn gỗ.
"Ông đã xem bức ảnh", Fache
nói, "vậy thì cảnh tượng này không có gì bất ngờ".
Langdon cảm thấy rợn cả người khi họ
tiến về phía thi thể.
Trước mắt ông là một trong những hình
ảnh kỳ lạ nhất mà ông từng thấy.
Thi thể tái nhợt của Jacques Sainière
nằm trên sàn gỗ y hệt như trong ảnh. Đứng bên cái xác và nheo mắt trong ánh
sáng chói loà Langdon kinh ngạc tự nhắc mình rằng Saunière đã dùng những phút
cuối cùng của đời mình để sắp đặt cơ thể mình theo tư thế kỳ lạ như thế này.
Saunière trông đặc biệt tráng kiện đối
với một người ở tuổi của ông… và tất cả các cơ bắp nổi lên rõ ràng. Ông đã cởi
tất cả quần áo, đặt gọn gàng trên sàn, và nằm ngửa giữa hành lang rộng, chính
xác theo trục dọc của căn phòng. Tay chân ông dang ra như đại bàng xòe cánh,
tựa một đứa trẻ làm một thiên thần bằng tuyết… hoặc, có lẽ ví thế này thì thích
hợp hơn, tựa một người đàn ông bị phanh thây bởi một lực vô hình.
Ngay bên dưới xương ức của Saunière,
một vết máu đánh dấu nơi viên đạn găm vào thịt ông. Lạ thay, vết thương chảy
máu rất ít, chỉ để lại một vũng máu nhỏ đã đen lại.
Ngón trỏ tay trái của Saunière cũng
dính máu, hiển nhiên là do nhúng vào vết thương để tạo ra cái nét gây hoang mang
nhất nơi giường lâm chung ma quái của ông; dùng máu mình làm mực và cái bụng
trần làm toan, Saunière đã vẽ một biểu tượng đơn giản trên da thịt mình - năm
dòng kẻ thẳng cắt chéo nhau tạo thành một hình sao năm cánh.
Hình sao năm cánh.
Ngôi sao đẫm máu, ở giữa rốn Saunière,
mang đến cho thi thể ông một hào quang rành là ma quái. Bức ảnh Langdon nhìn
thấy đã đủ ớn lạnh, nhưng bây giờ, chứng kiến tận mắt khung cảnh này, Langdon
cảm thấy mỗi lúc một thêm bồn chồn.
Ông ấy tự làm điều đó cho chính mình.
"Ông Langdon?" Đôi mắt đen
của Fache lại nhìn ông.
"Đó là một hình sao năm
cánh", Langdon nói, giọng ông nghe vang vọng trong không gian rộng lớn.
"Một trong những biểu tượng cổ xưa nhất trên trái đất. Được dùng hơn bốn
nghìn năm trước Công nguyên".
"Và nó có ý nghĩa gì?".
Câu hỏi này bao giờ cũng khiến Langdon
do dự. Nói với ai đó một biểu tượng có ý nghĩa gì cũng giống như nói họ nên cảm
nhận một bài hát như thế nào - điều đó với mỗi người một khác. Chiếc mũ trắng
trùm đầu của Đảng 3K (Ku Klux Klan) gợi lên ở Mỹ những hình ảnh của căm thù và
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nhưng cùng trang phục ấy lại mang ý nghĩa về
niềm tin tôn giáo ở Tây Ban Nha.
Các biểu tượng mang những ý nghĩa khác
nhau trong từng hoàn cảnh khác nhau!", Langdon nói. "Ban đầu, ngôi
sao năm cánh là biểu tượng vô tôn giáo".
Fache gật đầu: "Thờ ma quỷ".
"Không", Langdon sửa lại,
ngay lập tức nhận ra rằng sự lựa chọn từ ngữ của ông nên rõ ràng hơn.
Ngày nay, từ pagan (vô đạo) đã trở
thành đồng nghĩa với thờ mạ quỷ - một cách hiểu sai thô thiển. Gốc của từ này
thực sự bắt nguồn từ chữ Latinh paganus, nghĩa là người nhà quê.
"Pagan" là những người dân
quê chưa được truyền giáo thực sự nên cứ bám lấy những tôn giáo cổ xưa và thôn
dã thờ Tự Nhiên Trên thực tế, Nhà Thờ sợ những người sống ở làng quê đến nỗi
một từ vô thưởng vô phạt để chỉ "dân làng (villain) - cũng bị biến nghĩa
thành kẻ xấu.
"Ngôi sao năm cánh", Langdon
cố làm cho nó dễ hiểu hơn, "là một biểu tượng trước Công Nguyên có liên
quan đến tín ngưỡng tôn thờ Tự nhiên. Người cổ đại luôn hình dung thế giới của
họ thành hai nửa - nam tính và nữ tính. Các nam thần và nữ thần của họ cùng
nhau giữ cho cân bằng quyền lực âm và dương. Khi tính nam và tính nữ cân bằng
thì có sự hài hòa trong thế giới. Khi chúng mất cân bằng, thì sẽ xuất hiện sự
lộn xộn".
Langdon chỉ vào bụng của Saunière.
"Hình sao năm cánh này tiêu biểu nửa cái của mọi sự vật - một khái niệm mà
các sứ gia tôn giáo gọi là "tính nữ thiêng liêng" hay "nữ thần
siêu phàm".
Saunière ở trong số ít người biết được
điều này".
"Saunière vẽ một biểu tượng nữ
thần trên bụng mình sao?".
Langdon phải thừa nhận, điều đó có vẻ
kỳ lạ: "Theo cách diễn giải cụ thể nhất, thì hình sao năm cánh tượng trưng
cho thần Vệ nữ - nữ thần của tình yêu xác thịt và sắc đẹp".
Fache nhìn người đàn ông lõa thể và lầm
bầm.
"Tôn giáo sơ khai dựa trên trật tự
thiêng liêng của Tự nhiên.
Thần Vệ nữ và sao Kim là một. Nữ thần
này có một chỗ trên bầu trời đêm và được gọi bằng nhiều tên- Vệ nữ, Ngôi Sao
Phương Đông, Ishtar, Astarte - tất cả đều là những khái niệm mang tính nữ đầy
quyền uy với mối liên hệ chặt chẽ với Tự nhiên và Mẹ Đất".
Fache lúc này có vẻ còn hoang mang hơn,
như thể, cách nào đó, ông ta vẫn thích cái ý nghĩa thờ ma quỷ hơn.
Langdon quyết định không nói cho ông ta
biết đặc điểm kỳ lạ nhất của hình sao năm cánh - nguồn gốc những liên hệ mang
tính đồ họa của nó với sao Kim. Khi còn là một sinh viên trẻ khoa chiêm tinh
học, Langdon đã sửng sốt khi biết rằng cứ tám năm một lần, sao Kim lại vẽ trên
bầu trời một hình sao năm cánh hoàn hảo. Người cổ đại đã quá kinh ngạc khi quan
sát hiện tượng này đến mức sao Kim cùng hình vẽ này trở thành biểu tượng của sự
hoàn hảo, vẻ đẹp, và những phẩm chất chu kỳ của tình yêu nhục dục. Để tỏ lòng
tôn kính đối với phép thuật của sao Kim, người Hy Lạp đã dùng chu kỳ tám năm để
tổ chức thế vận hội Olympic. Ngày nay, rất ít người nhận ra rằng chu kỳ bốn năm
của Olympic hiện đại vốn theo nửa chu kỳ của sao Kim. Càng hiếm hơn nữa những
người biết rằng hình sao năm cánh đã từng gần như trở thành con dấu chính thức
của thế vận hội Olympic nhưng đã bị cải biên vào phút cuối - năm đỉnh của nó
chuyển thành năm vòng tròn giao nhau để phản ánh tốt hơn tinh thần đoàn kết và
hòa đồng của các cuộc chơi.
"Ông Langdon", Fache đột
nhiên nói. "Rõ ràng, hình sao năm cánh chắc cũng liên quan đến ma quỷ.
Những bộ phim Mỹ kinh dị của các ông chứng tỏ rõ điểm đó".
Langdon cau mày.
Cảm ơn ngài, Hollywood. Giờ đây, trên thực tế hình sao năm cánh là hình ảnh rập
khuôn trong những bộ phim truyền hình nhiều tập thuộc loại dao găm súng lục,
thường được vẽ trên tường nhà của những kẻ thờ quỷ Satan cùng với những biểu
tượng khác được cho là gắn với ma quỷ.
Langdon luôn luôn
thất vọng khi ông thấy biểu tượng sao năm cánh trong khung cảnh như vậy; nguồn
gốc đích thực của hình sao năm cánh thực sự linh thiêng.
"Tôi cam đoan
với ông", Langdon nói, "dù ông nhìn thấy bất kỳ điều gì trong các bộ
phim, thì cách giải thích mang tính ma quỷ về hình sao năm cánh vẫn là không
chính xác về mặt lịch sử. Ý nghĩa nữ tính ban đầu là chính xác, nhưng tính biểu
tượng của hình sao năm cánh đã bị bóp méo qua cả thiên niên kỷ.
Trong trường hợp
này, là thông qua chém giết".
"Tôi không
chắc là tôi hiểu những điều ông nói".
Langdon liếc nhìn
cây thánh giá của Fache, không biết làm thế nào để diễn đạt ý tiếp theo của
mình: "Giáo hội, thưa ông.
Các biểu tượng
thường rất lâu bền nhưng biểu tượng hình sao năm cánh đã bị Giáo hội Thiên Chúa
giáo La Mã cổ thay đổi.
Như một phần trong
chiến dịch của Vatican nhằm tiêu diệt tôn giáo vô thần và cải đạo cho dân chúng
sang Thiên Chúa giáo, Giáo hội đã thực thi một chiến dịch bôi nhọ các nam thần
và nữ thần ngoại đạo, biến những biểu tượng thần thánh của họ thành ma
quỷ".
"Tiếp tục
đi".
Điều này rất phổ
biến trong thời loạn", Langdon tiếp tục. "Một thế lực mới nổi lên sẽ
lấy các biểu tượng đang tồn tại và làm mất giá trị của chúng qua thời gian nhằm
xóa đi ý nghĩa của chúng. Trong trận chiến giữa các biểu tượng vô đạo và biểu
tượng của Thiên Chúa giáo, những người vô đạo đã thua; chiếc đinh ba của thần
biển trở thành cái chĩa của quỷ, cái mũ nhọn của bà già thông thái trở thành
biểu tượng của một phù thủy, và hình sao năm cánh của thần Vệ nữ trở thành một
dấu hiệu của ma quỷ". Langdon dừng lại. "Thật không may, quân đội Mỹ
cũng hiểu sai hình sao năm cánh; giờ đây nó trở thành biểu tượng hàng đầu của
chiến tranh. Chúng tôi vẽ nó trên tất cả các máy bay chiến đấu và gắn nó trên
vai của mọi tướng lĩnh của chúng tôi". Chừng ấy điều xâm phạm đối với nữ
thần tình yêu và sắc đẹp".
"Hay
đấy", Fache hất đầu về phía cái xác nằm dang tay dang chân. "Còn vị
trí của thi thể thì sao? ông nghĩ gì về điều đó?".
Langdon nhún vai:
"Vị trí chỉ đơn giản là để củng cố thêm gợi ý về hình sao năm cánh và tính
nữ thiêng liêng".
Vẻ mặt Fache sa
sầm: "Làm ơn nhắc lại giùm?".
"Bản sao. Việc
nhắc lại một biểu tượng là cách đơn giản nhất để tăng cường ý nghĩa của nó.
Jacques Saunière đặt cơ thể mình trong tư thế của hình sao năm cánh". Nếu
một hình sao năm cánh là tốt, thì hai là tốt hơn".
Mắt Fache nhìn theo
năm đỉnh tay, chân, đầu của Saunière trong khi tay ông ta vuốt mái tóc trơn
bóng. "Một sự phân tích thú vị". Ông ta dừng lại. "Còn tình
trạng lõa thể" Ông ta làu bàu khi nói từ này, vẻ ghê tởm cơ thể của một
người đàn ông có tuổi. "Tại sao ông ấy lại cởi hết quần áo ra?".
Câu hỏi quá hay,
Langdon nghĩ. Ông cũng đã tự hỏi như vậy từ lúc đầu tiên nhìn thấy bức ảnh
polaroid. Phỏng đoán có lý nhất của ông là một hình người khỏa thân là một dạng
biểu hiện khác của thần Vệ nữ - nữ thần của dục tính con người. Mặc dù văn hóa
hiện đại đã xóa đi đa phần quan niệm gắn Vệ nữ với sự hòa hợp thể xác nam - nữ,
một con mắt sắc bén về từ nguyên vẫn sc phát hiện ra dấu tích ý nghĩa ban đầu
của Vệ nữ trong từ venereal (1). Langdon quyết định không nói đến điều đó.
"Ông Fache,
tôi thực sự không thể nói cho ông biết tại sao ông Saunière lại vẽ biểu tượng
đó trên người mình hay tại sao ông ấy lại xếp mình theo tư thế đó, nhưng tôi có
thể nói với ông rằng một người như Jacques Saunière ắt coi hình sao năm cánh là
biểu tượng của nữ thần. Sự tương quan giữa biểu tượng này và tính nữ thiêng
liêng được biết đến rộng rãi bởi các sử gia tôn giáo và các nhà ký tượng
học".
"Tốt. Còn
chuyện ông ấy dùng máu mình làm mực viết?".
"Chắc chắn là
do ông ấy không có gì khác để viết".
Fache im lặng trong
giây lát: "Thực ra tôi chắc ông ấy dùng máu như vậy để cảnh sát có thể
theo một số quy trình pháp lý".
"Xin lỗi, tôi
không hiểu?".
"Hãy nhìn tay
trái của ông ấy".
Mắt Langdon rà suốt
chiều dài cánh tay cho đến bàn tay trái trắng trợt của ông phụ trách bảo tàng
nhưng chẳng thấy gì.
Không chắc chắn,
ông đi vòng quanh xác chết và cúi xuống, ngạc nhiên nhận thấy ông ta nắm chặt
một chiếc bút dạ lớn.
"Nó ở trong
tay Saunière khi chúng tôi tìm thấy ông ta".
Fache nói, rời khỏi
Langdon và đi vài mét về phía một cái bàn xách tay bầy đầy các dụng cụ điều
tra, các dây cáp, và các đồ điện. "Như tôi đã nói với ông", ông ta
nói, lục tung cái bàn, chúng tôi không động vào bất kỳ vật gì. Ông có biết loại
bút này không?".
Langdon quỳ xuống
thấp hơn để nhìn thấy nhãn của cây bút.
STYLO DE LUMLÈRE NOIRE.(2)
Ông ngạc nhiên ngước nhìn.
Bút dùng tia tử ngoại dạng đặc biệt của
bút dấu ban đầu được thiết kế bởi các bảo tàng, các nhà phục chế, và cảnh sát
chống hàng giả để vạch những dấu không thể nhìn thấy trên hiện vật. Bút này
viết bằng mực huỳnh quang làm từ cồn, không ăn mòn và chỉ có thể nhìn thấy dưới
tia tử ngoại. Ngày nay, nhân viên bảo quản của các bảo tàng mang theo bút này
trên đường đi kiểm tra hàng ngày để đánh những "dấu kiềm" vô hình
trên khung của các bức tranh cần sửa chữa.
Khi Langdon đứng lên, Fache tiến về
phía bóng đèn và tắt đi. Căn phòng chìm vào bóng tối.
Loá mắt trong chốc lát, Langdon cảm
thấy một nỗi hồ nghi dâng lên. Bóng Fache hiện ra, rực trong ánh hồng nhạt. Ông
ta tiến đến, mang theo một ngọn đèn xách tay, bao quanh ông ta một vầng tím.
"Như ông có thể cũng biết",
Fache nói, "Mắt ông ta phát quang trong ánh sáng màu tím, cảnh sát dùng
tia tử ngoại nghiên cứu hiện trường vụ án để tìm máu và các chứng cứ pháp lý
khác. Vì thế ông có thể tưởng tượng ra sự kinh ngạc của chúng tôi…". Ông
ta chĩa phắt ngọn đèn về phía xác chết.
Langdon nhìn xuống và giật lùi lại vì
sốc.
Tim ông đập dồn dập khi nhìn vào cảnh
tượng kỳ quái đang rực lên trước mắt trên sàn gỗ. Những dòng chữ nguệch ngoạc
cuối cùng của ông phụ trách bảo tàng, viết bằng mực phát quang, giờ chuyển sang
màu tía bên cạnh xác ông. Khi Langdon nhìn vào những dòng chữ lờ mờ, ông cảm
thấy màn sương bao trùm buổi tối hôm nay đang dày thêm lên..
Langdon đọc lại lời nhắn và ngước nhìn
Fache: "Điều này nghĩa là thế nào?".
Mắt Fache long lanh: "Điều đó,
thưa ông, chính xác là câu hỏi mà ông có mặt ở đây để giải đáp".
Cách đó không xa, trong văn phòng của
Saunière, trung úy Collet đã trở lại Louvre và đang lúi húi trên bảng điều
khiển âm thanh đặt trên cái bàn đồ sộ của ông phụ trách bảo tàng.
Ngoại trừ cái mô hình chàng hiệp sĩ
thời trung cổ, kỳ bí và giống như rô-bốt, đang nhìn chằm chằm vào mình từ góc
bàn, Collet thấy rất thoải mái. Anh điều chỉnh ống nghe và kiểm tra đầu vào
trên hệ thống ghi âm đĩa cứng. Cả hệ thống đều chạy tốt. Micro hoạt động hoàn
hảo và tiếng trong veo.
Le moment de virite(3) , anh lẩm bẩm.
Mỉm cười, Collet nhắm mắt và ngồi yên
lắng nghe phần còn lại của cuộc đối thoại đang được ghi âm trong Hành Lang Lớn.
Chú thích
(1) Liên quan đến giao hợp
(2) Bút máy dùng tia tử ngoại.
(3) Tiếng Pháp
trong nguyên bản: Thời điểm của chân lý.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 7
Chương 7Nơi ở khiêm tốn trong nhà thờ
Saint Sulpice nằm trên tầng hai phía bên trái ban-công của dàn đồng ca. Một dãy
hai phòng với nền đá và những đồ đạc tối thỉểu là nơi ở của Xơ Sandrine Bieil
hơn mười năm qua. Tu viện gần ngay cạnh là chỗ ở trước đây của bà, nhưng bà
thích sự yên tĩnh của nhà thờ và tự trang bị thêm cho mình một cái giướng, điện
thoại và một lò sưởi nhỏ.
Là quản lý hành chính của nhà thờ, Xơ
Sandrine chịu trách nhiệm lo liệu mọi khía cạnh phi tôn giáo như duy tu bảo
dưỡng chung, thuê người giúp việc và hướng dẫn viên, giữ an toàn cho toà nhà
sau giờ làm việc, đặt mua hàng dự trữ như rượu lễ và bánh thánh.
Đêm nay, đang ngủ trên chiếc giường
nhỏ, bà bị tiếng điện thoại kêu lanh lảnh đánh thức. Mệt mỏi, bà nhấc ống nghe
nhận điện.
"Xơ Sandrine, Nhà thờ Saint
Sulpice".
"Xin chào Xơ" người đàn ông
nói tiếng Pháp.
Xơ Sandrine ngồi dậy. Mấy giờ rồi? Bà
nhận ra giọng bề trên của mình mặc dù trong mười lăm năm qua, bà chưa bao giờ
bị ông đánh thức. Trưởng tu viện là một người ngoan đạo sâu sắc!
Ông thường về nhà và lên giường đi ngủ
ngay sau lễ chầu.
"Ta xin lỗi nếu ta đánh thức
Xơ", trưởng tu viện nói, giọng ông nghe yếu và bồn chồn. "Ta có một
việc phải nhờ Xơ. Ta vừa nhận được một cú điện thoại tử một giám mục người Mỹ
có thế lực. Có thể Xơ cũng biết ông ta? Manuel Aringarosa?".
"Người đứng đầu Opus Dei phải không
ạ?". Tất nhiên là con biết ông ta. Ai trong Giáo hội không biết ông ta
chứ? Giám mục đoàn bảo thủ của Aringarosa đã trở nên hùng mạnh trong những năm
gần đây. Sự thăng tiến của họ đạt được bước nhảy vọt bắt đầu từ năm 1982 khi
Giáo hoàng John Paul II bất ngờ nâng họ lên thành một "giám mục đoàn riêng
của Giáo hoàng", phê chuẩn chính thức mọi thông tục của họ. Thật đáng ngờ,
việc thăng cấp của Opus Dei xẩy ra vào đúng năm cái giáo phái giàu có chuyển
gần một tỉ đô la vào Viện Công trình tôn giáo của Vatican - thường được gọi là
Ngân hàng Vatican - giúp nó thoát khỏi một cuộc phá sản phiền toái. Hành xử thứ
hai cũng gây ngạc nhiên: Giáo hoàng đã đặt người sáng lập Opus Dei trên
"đường tắt "đến chức vị thánh, rút ngắn thời gian chờ đợi phong thánh
thường là cả thế kỷ xuống còn hai mươi năm. Xơ Sandrine không khỏi cảm thấy địa
vị cao của Opus Dei ở Roma là đáng ngờ, nhưng ai mà dám tranh cãi với Tòa
Thánh.
"Giám mục Aringarose gọi đến nhờ
ta một việc", linh mục nói với bà, giọng e ngại. "Một trong số những
môn đồ của ông ấy đang ở Paris tối nay…".
Khi Xơ Sandrine nghe thấy yêu cầu kỳ lạ
đó, bà càng cảm thấy khó hiểu: "Con xin lỗi, cha nói là chuyến viếng thăm
của thành viên Opus Dei không thể chờ đến sáng mai hay sao?".
"Ta e là không. Chuyến bay của anh
ta sẽ cất cánh lúc sáng sớm. Anh ta luôn mơ ước được ngắm nhìn nhà thờ
Saint-Sulpice".
"Nhưng nhà thờ ngắm ban ngày ắt
thú vị hơn nhiều. Những tia nắng mặt trới chiếu qua những mắt kính, những cái
bóng được phân độ trên đồng hồ mặt trời cái ấy mới làm cho Saint-Sulpice trở
thành có một không hai".
"Xơ, ta đồng ý với Xơ, nhưng nếu
Xơ để cho anh ta vào tối nay, ta sẽ coi đó là một ân huệ cá nhân đối với ta.
Anh ta có thể có mặt ở đó lúc… lúc một giờ được chứ? Tức là khoảng hai mươi
phút nữa".
Xơ Sandrine cau mày: "Tất nhiên.
Con xin vui lòng".
Linh mục cảm ơn bà rồi gác máy.
Bối rối, Xơ Sandrine ngồi trong cái
giường ấm áp thêm một chút, cố gắng tống khứ cơn buồn ngủ. Cơ thể sáu mươi tuổi
của bà không tỉnh giấc nhanh như trước đây được nữa, mặc dù cuộc điện thoại đêm
nay chắc chắn đã đánh thức các giác quan của bà. Opus Dei luôn làm bà khó chịu.
Ngoài việc giáo đoàn này một mực theo những nghi lễ huyền bí của sự tự hành
xác, quan điểm của họ về phụ nữ tiến bộ nhất cũng chỉ ở mức trung cổ.
Bà đã bị sốc khi biết rằng những môn đồ
nữ bị buộc phải lau dọn phòng ở của nam giới không công trong khi đám này dự lễ
chầu; phụ nữ ngủ trên sàn gỗ cứng, trong khi đàn ông có những chiếc chiếu rơm;
và phụ nữ buộc phải chịu thêm những quy định bổ sung trong hành xác… tất cả
những cái đó xem như hình phạt bổ sung vì tội tổ tông truyền. Có vẻ như việc
Eva cắn vào quả táo tri thức là một món nợ mà phụ nữ bị kết án phải trả đời
đời. Thật đáng buồn, trong khi hầu hết các nhà thờ Thiên Chúa giáo đang dần dần
đi theo con đường đúng đắn với sự tôn trọng phụ nữ, thì Opus Dei lại đe dọa đảo
ngược tiến trình. Mặc dù vậy, Xơ Sandrine đã nhận lệnh.
Ra khỏi giường, bà từ từ đứng dậy, ớn
lạnh vì sàn đá dưới đôi chân trần. Khi cảm giác ớn lạnh ngấm vào da thịt, bà
cảm thấy một nỗi lo sợ bất ngờ.
Linh cảm của phụ nữ?
Là con chiên của
Chúa, Xơ Sandrine biết là phải tìm sự yên bình trong tiếng nói xoa dịu của linh
hồn bà. Tuy nhiên, tối nay, những tiếng nói ấy cũng im lặng như nhà thờ trống
không bao quanh bà.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 8
Chương 8Langdon không thể rời mắt khỏ
những dòng chữ nguệch ngoạc màu tía đang rực lên trên sàn gỗ. Điều truyền đạt
cuối cùng của Jacques Saunière xem ra không giống một lời trăng trối mà Langdon
có thể tưởng tượng.
Lời nhắn như sau:
13-3-2-21-1-1-8-5
Ôi quỷ hà khắc!
Ôi thánh yếu đuối.
Mặc dù hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của
thông điệp này- nhưng Langdon chợt hiểu chính bản năng đã mách Fache rằng hình
sao năm cánh là một cái gì đó có liên quan đến sự tôn thờ ma quỷ.
Ôi quỷ hà khắc!
Saunière đã để lại một ám chỉ rành rành
đến quỷ. Cũng kỳ quái không kém là dãy số. "Một phần của nó có vẻ giống
như mật mã số".
"Đúng", Fache nói. "Nhân
viên mật mã của chúng tôi đang giải mã nó. Chúng tôi tin rằng những con số này
có thể là chìa khóa dẫn đến kẻ sát nhân. Có thể là một tổng đài điện thoại hoặc
một thứ thẻ căn cước nào đó. Liệu những con số này có ý nghĩa biểu tượng nào
với ông không?".
Langdon nhìn lại những con số, cảm thấy
sẽ mất nhiều giờ để rút ra một ý nghĩa biểu tượng nào đó. Nếu Saunière định đưa
vào một ý nghĩa biểu tượng nào đó. Đối với Langdon, các con số trông hoàn toàn
ngẫu nhiên. Ông quen với những dãy biểu tượng có vẻ có tương quan ý nghĩa,
nhưng mọi thứ ở đây- hình sao năm cánh, đoạn văn, các con số - dường như hoàn
toàn khác biệt về cơ bản.
Ban nãy ông đã khẳng định", Fache
nói, "rằng những hành động của Saunière ở đây đều nhằm nỗ lực gửi lại một
lời nhắn ngắn gọn… sự tôn thờ nữ thần hay một điều gì tương tự? Lời nhắn này ăn
nhập như thế nào?".
Langdon biết câu hỏi này chỉ là mỹ tự.
Thông điệp kỳ quặc này rõ ràng không ăn khớp với kịch bản về sự tôn thờ nữ thần
của Langdon một chút nào.
Ôi quỷ hà khắc là gì? Ôi, thánh yếu
đuối là gì?
Fache hỏi: "Đoạn văn này có vẻ như
một kiểu kết tội. Ông đồng ý không?".
Langdon cố gắng tướng tượng ra những
phút cuối cùng của ông phụ trách bảo tàng khi ông mắc kẹt trong Hành Lang Lớn,
biết rằng mình sắp chết. Có vẻ lôgic đấy. "Kết tội kẻ sát hại ông là có
lý, tôi cho là như vậy".
"Công việc của tôi, tất nhiên là
tìm ra tên của kẻ đó. Cho phép tôi hỏi ông điều này, ông Langdon. Đập vào mắt
ông ngoài những con số, thì lời nhắn này có gì lạ nhất?".
Lạ nhất. Một người sắp chết dựng rào
chắn tự hãm mình trong hành lang, vẽ một ngôi sao năm cánh lên người mình, và
viết nguệch ngoạc một lời kết tội bí ẩn trên sàn. Có cái gì trong kịch bản này
là không lạ?
"Từ "hà
khắc" (dracoman) thì sao?" Ông đánh bạo nói ra ý nghĩ đầu tiên xuất
hiện trong đầu. Langdon tin chắc chả có lý nào một người sắp chết lại nghĩ tới
Draco - một chính trị gia hà khắc thế kỷ VII trước Công nguyên(1). "Quỷ hà
khắc" xem ra là một sự lựa chọn từ ngữ kỳ quặc".
"Hà
khắc?" Giọng Fache có vẻ hơi sốt ruột. "Việc Saunìere chọn từ ngữ khó
có thể xem là vấn đề ưu tiên".
Langdon không biết
chắc Fache nghĩ đến vấn đề gì trong đầu, nhưng ông bắt đầu ngờ ngợ rằng Draco
và Fache có thể ăn ý với nhau.
"Saunière là người Pháp",
Fache nói dứt khoát. "Ông ấy sống ở Paris. Nhưng ông ấy chọn viết lời nhắn
này…".
"Bằng tiếng Anh!", Langdon
nói, bây giờ thì ông đã nhận ra ý của viên đại uý.
Fache gật đầu: "Chính xác. Ông có
biết tại sao lại thế không?".
Langdon biết Saunière nói tiếng Anh
không chê vào đâu được, nhưng lý do khiến ông ta chọn tiếng Anh để viết những
lời cuối cùng, hoàn toàn lọt khỏi sự chú ý của ông.
Ông nhún vai.
Fache chỉ lại vào hình sao năm cánh
trên bụng Saunière:
"Không có gì liên quan đến sự tôn
thờ ma quỷ sao? ông vẫn chắc như vậy chứ?".
Langdon không còn chắc chắn bất kỳ điều
gì nữa: "Hệ ký hiệu và văn bản xem ra không trùng khớp. Tôi xin lỗi là tôi
không thể giúp gì hơn".
"Có thể điều này sẽ làm cho mọi sự
rõ ràng". Fache lùi xa khỏi thi thể, giơ chiếc đèn tia tử ngoại lên một
lần nữa, để chùm sáng tỏa ra một góc rộng hơn. "Còn bây giờ thì
sao?".
Langdon kinh ngạc thấy một vòng tròn
thô sáng lên quanh thi thể ông phụ trách bảo tàng. Vẻ như Saunière đã nằm
xuống, lấy bút khoanh mấy vành cung quanh người, cốt lồng mình trong vòng tròn.
Loáng một cái, ý nghĩa của nó vụt trở
nên rõ ràng.
"Người Vitruvian". Langdon há
hốc miệng. Saunière đã tạo một bản sao với kích thước người thật bức ký họa nổi
tiếng nhất của Leonardo Da Vinci.
Được xem là bức vẽ đúng nhất về mặt
giải phẫu học ở thời đại đó bức Người Vitruvian của Da Vinci giờ đã trở thành
bức thánh tượng thời nay của văn hóa, xuất hiện trên tranh ảnh quảng cáo, đệm
di chuột máy tính, áo phông trên toàn thế giới.
Bức ký họa trứ danh này gồm một vòng
tròn trong đó có một hình khoả thân nam… tay chân dang thẳng.
Da Vinci. Langdon cảm thấy run lên vì
sửng sốt. Chủ ý của Saunière đã rõ rành rành không thể chối cãi. Trong những
khoảng khắc cuối cùng của đời mình, ông phụ trách bảo tàng đã cởi bỏ hết quần
áo và sắp xếp cơ thể mình thành một hình ảnh rõ ràng mô phỏng bức Người
Vitruvian của Leonardo Da Vinci.
Vòng tròn chính là yếu tố cơ bản bị thiếu.
Là biểu tượng nữ về sự bảo vệ, vòng tròn xung quanh người đàn ông khoả thân
hoàn tất chủ ý của Da Vinci - sự hài hòa giữa nam và nữ. Tuy nhiên, câu hỏi bây
giờ là tại sao Saunière lại mô phỏng một bức vẽ nổi tiếng.
"Ông Langdon", Fache nói,
"chắc chắn một người như ông phải biết Leonardo Da Vinci có khuynh hướng
thiên về ma thuật".
Langdon ngạc nhiên vì hiểu biết của
Fache về Da Vinci, và chắc chắn phải mất nhiều công mới giải thích được những
hồ nghi của viên đại uý về sự tôn thờ ma quỷ. Da Vinci luôn là một đề tài khó
xử đối với các nhà sử học, đặc biệt trong truyền thống Thiên Chúa giáo. Mặc dù
là một thiên tài thấu thị, ông lại là một người đồng tính luyến ái phô trương
và là người tôn sùng trật tự thần thánh của Tự nhiên, cả hai điều đó đặt ông vào
trạng thái thường xuyên phạm tội với Chúa. Hơn thế nữa, tính lập dị kỳ quái của
người nghệ sĩ này phóng chiếu ra một vòng hào quang rành là ma quỷ: Da Vinci
khai quật các xác chết để nghiên cứu giải phẫu con người; ông ghi những cuốn
nhật ký kỳ bí bằng chữ viết tay đảo ngược không thể đọc được; ông tin rằng ông
có sức mạnh giả kim thuật để biến chì thành vàng và thậm chí lừa dối Chúa bằng
việc tạo ra một loại rượu thuốc để trì hoãn cái chết và những sáng chế của ông
bao gồm các vũ khí chiến tranh và dụng cụ tra tấn khủng khiếp chưa từng ai
tưởng tượng ra.
Hiểu lầm sinh ra ngờ vực. Langdon nghĩ.
Thậm chí số lượng lớn những tác phẩm
nghệ thuật Thiên Chúa giáo kỳ vĩ của Da Vinci chỉ càng khiến ông khét tiếng là
giả dối về tâm linh. Nhận hàng trăm đơn đặt hàng béo bở của Vatican, Da Vinci
vẽ đề tài Thiên Chúa giáo không phải như một sự bộc lộ đức tin của chính mình
mà thực chất là vì một sự kinh doanh thương mại - một phương tiện để chu cấp
cho một lối sống hoang phí. Khốn thay, Da Vinci là kẻ thích chơi khăm, ông
thường hay tiêu khiển bằng cách thản nhiên gặm nhấm bàn tay nuôi sống ông. Ông
đưa vào nhiều bức vẽ Thiên Chúa giáo của mình các biểu tượng tàng ẩn không mảy
may Cơ đốc - những vật cống nạp cho những tín ngưỡng của riêng ông và một sự
chế nhạo tinh vi đối với Giáo hội. Langdon thậm chí đã từng có bài thuyết giảng
ở Bảo tàng Quốc gia London nhan đề: Cuộc sống bí mật của Leonardo: Hệ biểu
tượng vô đạo trong Nghệ Thuật Thiên Chúa giáo.
"Tôi hiểu những lo ngại của
ông", bây giờ Langdon mới nói. "Nhưng Da Vinci quả thật chưa bao giờ
thực hiện bất kỳ ma thuật nào. Ông là người giàu tâm linh phi thường mặc dù hay
có xung đột với Nhà Thờ". Khi Langdon nói điều này, một ý nghĩ kỳ lạ chợt
nẩy ra trong đầu ông. Ông dưa mắt nhìn xuống lời nhắn trên sàn một lần nữa. Ôi,
quỷ hà khắc! Ôi, thánh yếu đuối!
"Gì thế?" Fache nói.
Langdon thận trọng cân nhắc từng lời:
"Tôi chỉ đang nghĩ rằng Saunière chia sẻ nhiều hệ ý thức tâm linh với Da
Vinci, kể cả mối quan tâm đến việc Nhà Thờ loại bỏ tính nữ thiêng liêng khỏi
tôn giáo hiện đại. Có thể, bằng việc bắt chước một bức vẽ nổi tiếng của Da
Vinci, Saunière chỉ đơn thuần phản ánh một vài điều thất vọng chung của họ đối
với việc Giáo hội hiện đại quỷ hóa nữ thần".
Mắt Fache đanh lại: "Ông nghĩ rằng
Saunière gọi Giáo hội là quỷ hà khắc và thánh yếu đuối sao?".
Langdon buộc phải thừa nhận rằng ý này
có vẻ gượng ép, nhưng hình sao năm cánh dường như xác nhận ý tưởng đó ở một mức
độ nào đó. "Tất cả những gì tôi đang nói là ông Saunière đã cống hiến cả
cuộc đời cho việc nghiên cứu lịch sử nữ thần, và không ai làm nhiều hơn Giáo
hội Thiên Chúa giáo để xóa đi lịch sử ấy. Dường như có lý khi cho rằng Saunière
có thể đã quyết định biểu lộ sự thất vọng của mình trong lời vĩnh biệt cuối
cùng".
"Thất vọng?", Fache hỏi,
giọng dữ dằn. "Lời nhắn này nghe có vẻ tức giận hơn là thất vọng, đúng
không?".
Langdon đã hết kiên nhẫn: "Đại uý,
ông hỏi tôi linh cảm thế nào về điều Saunière định nói ở đây, và đó là câu trả
lời của tôi".
"Như vậy thì đây là một bản kết
tội Giáo hội?" Quai hàm Fache siết lại khi ông nói qua hàm răng nghiến
chặt. "Ông Langdon, tôi đã nhìn thấy nhiều cái chết trong công việc của
tôi và hãy để tôi nói với ông vài điều. Khi một người bị kẻ khác giết hại, tôi
không tin rằng những ý nghĩ cuối cùng của người đó là viết ra một phát biểu tâm
linh mù mờ đến mức không ai hiểu nổi. Tôi tin ông ấy chỉ nghĩ đến một thứ mà
thôi".
Giọng nói thì thầm của Fache xẻ vào
không khí: "La vengeance"(2). Tôi tin Saunière viết những lới này để
nói với chúng ta ai là kẻ giết ông ấy".
Langdon nhìn trân trân: "Nhưng như
thế chẳng có nghĩa gì hết".
"Không ư?".
"Phải", ông quặc lại, mệt mỏi
và thất vọng, "Ông nói với tôi rằng Saunière đã bị tấn công trong văn
phòng ông ấy bởi một ai đó mà rõ ràng ông đã mời vào".
"Đúng thế".
"Vậy có vẻ hợp lý khi kết luận
rằng ông phụ trách bảo tàng biết rõ kẻ tấn công ông ấy".
Fache gật đầu: "Tiếp tục đi".
"Vậy nếu Saunière biết rõ kẻ giết
ông ấy, thì đây là một bản cáo trạng kiểu gì?". Ông chỉ xuống sàn.
"Mật mã số? Những vị thánh yếu đuối? Những con quỷ hà khắc? Hình sao năm
cánh trên bụng ông ấy? Tất cả đều kỳ bí".
Fache cau mày như thể ông ta chưa từng
nghĩ đến điều đó.
"Ông có lý".
"Xét các tình huống", Langdon
nói, "tôi cho rằng nếu Saunière muốn nói cho ta biết ai đã giết ông ấy,
thì ông ấy tất sẽ viết tên một ai đó chứ".
Khi Langdon nói những lời này, lần đầu
tiên trong cả buổi tối nay một nụ cười tự mãn vụt qua trên môi Fache.
"Précisément"(3) , Fache nói,
"Précisément".
Mình đang chứng kiến công việc của một
bậc thầy, trung úy Collet trầm ngâm khi anh vặn cần máy audio của mình và nghe
giọng Fache qua tai nghe. Viên cảnh sát biết những khoảnh khắc như thế này sẽ
đẩy viên đại uý lên đến cực điểm trong việc thi hành luật pháp của Pháp.
Fache sẽ làm những việc mà không ai khác
dám làm.
Nghệ thuật phỉnh dụ tinh tế là một kỹ
năng thất truyền trong việc thi hành luật pháp hiện đại, một điều đòi hỏi bản
lĩnh phi thường dưới áp lực. Rất ít người có được sự bình tĩnh lạnh lùng cần
thiết cho loại hoạt động này, nhưng Fache hình như sinh ra là để dành cho nó.
Sự kiềm chế và kiên nhẫn của ông ta mấp mé tới độ như người máy.
Xúc cảm duy nhất của Fache trong buổi
tối nay dường như là một quyết tâm mãnh liệt, tựa hồ cuộc bắt giữ này, cách nào
đó, là chuyện cá nhân của ông ta vậy. Thông báo của Fache cho nhân viên của
mình một giờ trước đây ngắn gọn khác thường và chắc như đinh đóng cột. Tôi biết
ai giết Saunière, Fache nói.
Các bạn biết phải làm gì. Tối nay không
được phép có sai lầm. Và cho đến bây giờ, chưa một sai lầm nào xảy ra.
Collet chưa biết bằng chứng nào đã
khiến Fache tin chắc về tội của nghi phạm, nhưng anh không mảy may nghi ngờ
trực giác của Bò Mộng. Trực giác của Fache đôi lúc dường như là siêu nhiên.
Chúa thì thầm vào tai ông ta, một cảnh sát đã nhấn mạnh sau một lần giác quan
thứ sáu của Fache được biểu thị một cách đặc biệt ấn tượng. Collet phải thừa
nhận, nếu như có Chúa, thì Bezu Fache ắt nằm trong danh sách loại A của Ngài.
Người đại úy này đi lễ nhà thờ và xưng
tội đều đặn nhiệt thành - đều đặn hơn nhiều so với việc dự các cuộc giao tế dân
sự cần thiết vào ngày nghỉ mà các viên chức khác thực hiện dưới danh nghĩa quan
hệ quần chúng tốt. Khi Giáo hoàng thăm Paris vài năm trước, Fache đã dùng mọi
khả năng để được vinh dự là khán giả. Một bức ảnh của Fache với Giáo hoàng đang
được treo trong phòng làm việc của ông. Con Bò Mộng của Giáo hoàng, các nhân
viên ngầm gọi nó như thế.
Điều Collet thấy nực cười là một trong
những thái độ công khai hợp lòng dân hiếm hoi của Fache trong những năm gần
đây, là phản ứng thẳng thắn của ông ta với vụ tai tiếng về lạm dụng tình dục
trẻ em trong Thiên Chúa giáo. Những thày tu này đáng bị treo cổ hai lần! Fache
tuyên bố. "Một lần vì tội ác của chúng với trẻ con. Và một lần vì sự bôi
nhọ thanh danh của Nhà Thờ Thiên Chúa giáo. Collet có cảm giác kỳ lạ rằng chính
điều thứ hai lại khiến Fache phẫn nộ hơn.
Quay lại máy tính xách tay của mình,
Collet làm nốt phần sau thuộc trách nhiệm tối nay của anh - hệ thống truy tìm
CPS.
Hình ảnh trên màn hình cho thấy sơ đồ
mặt sàn chi tiết của Cánh Denon, một lược đồ cấu trúc lấy từ Phòng An Ninh
Louvre. Đưa mẩt dò theo mê cung các phòng trưng bày và hành lang, Collet tìm ra
cái anh ta đang tìm kiếm.
Sâu trong trung tâm của Hành Lang Lớn
nhấp nháy một chấm đỏ nhỏ xíu.
La marque (4)
Tối nay Fache đang giữ con mồi trong
một sợi dây buộc chặt.
Cũng khôn ngoan không kém, Robert
Langdon tỏ ra là một vị khách điềm tĩnh.
Chú thích:
(1) dracoman (hà khắc) có gốc từ Draco
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: sự báo
thù.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Đích
thị.
(4) Tiếng Pháp
trong nguyên bản: dấu chỉ điểm (trong trường hợp này chỉ Robert Langdon, ngưởi
đang bị theo dõi bằng hệ thống IPS).
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 9
Chương 9
Cho điểm 5 sao 4 sao 3 sao 2 sao 1 sao
5161 Phiếu
Đã xem 2391983 lần.
Trinh Thám, Hình Sự
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 9
Để đảm bảo cuộc trò chuyện của mình với
Langdon không bị ngắt quãng, Bazu Fache đã tắt máy di động. Tệ thay, đó là một
"mô-đen" mới đắt tiền với chức năng máy thu thanh hai chiều. Do vậy,
trái với mệnh lệnh, một nhân viên đang sử dụng nó để gọi cho ông ta.
"Capitaine?", Điện thoại kêu
lạo xạo như tiếng bộ đàm.
Fache cảm thấy răng mình nghiến chặt
giận dữ. Ông ta không thể tưởng tượng có việc gì quan trọng đến mức Collet cắt
ngang cuộc urveillance cachée này (1) - đặc biệt vào lúc gay cấn này.
Ông ta nhìn Langdon với ánh mắt xin
lỗi: "Tôi xin phép một lát thôi". Ông ta rút điện thoại ra từ thắt
lưng và nhấn nút nghe: "Vâng?".
"Capitaine, un agent du
Département de Cryptographie est arrie"(2)
Sự tức giận của Eache tạm lắng xuống.
"Một người giải mật mã. Dù rơi vào thời điểm tồi tệ này, đây có lẽ là một
tin tốt lành.
Fache, sau khi tìm thấy cái văn bản khó
hiểu của Saunière trên sàn, đã gửi những bức ảnh về toàn bộ hiện trưclng vụ án
đến Phòng Mật Mã với hy vọng ai đó có thể cho ông ta biết Saunière định nói
điều quái quỷ gì. Nếu chuyên gia mật mã đến, thì rất có thể là ai đó đã giải mã
được lời nhắn của Saunière.
"Tôi đang bận vào lúc này",
Fache trả lời, bộc lộ rõ qua giọng nói là lệnh của ông ta đã bị vi phạm.
"Bảo người giải mã chờ tôi ở trụ sở chỉ huy. Tôi sẽ nói chuyện với anh ta
sau khi xong việc".
"Cô ta", giọng nói kia sửa
lại, "Đó là nhân viên Neveu".
Fache trở nên mỗi lúc một kém thích thú
với cuộc điện đàm này. Sophie Neveu là một trong những sai lầm lớn nhất của
DCPJ. Là một déchiffreuse(3) trẻ của Paris từng học khoa mật mã ở Anh tại
trường Hoàng gia Holloway, Sophie Neveu được ấn vào tay Fache buộc ông ta phải
nhận hai năm trước như là một phần trong nỗ lực của Bộ nhằm đưa thêm phụ nữ vào
lực lượng cảnh sát. Việc Bộ nhảy vào can thiệp để chỉnh đốn chính trị, Fache
lập luận, đang làm cho Cục yếu đi. Phụ nữ không chỉ thiếu thể chất cần thiết
cho công việc cảnh sát, mà sự hiện diện của họ còn gây một sự phân tâm nguy
hiểm cho những người đàn ông trong ngành. Đúng như Fache đã lo sợ, Sophie Neveu
đang gây ra sự xao lãng nhiều nhất.
Ở tuổi ba mươi hai, cô có một quyết tâm
bướng bỉnh gần đến mức ngoan cố. Việc cô hăm hở theo phương pháp giải mã mới
của Anh đã không ngừng làm các nhà mật mã học Pháp kỳ cựu tức tối. Và điều khó
chịu nhất đối với Fache là cái sự thật phổ quát không sao tránh khỏi này: trong
một văn phòng của những người đàn ông trung niên, một phụ nữ hấp dẫn luôn khiến
họ rời mắt khỏi công việc đang làm.
Người đàn ông trong máy liên lạc vô
tuyến nói: "Nhân viên Neveu một mực đòi nói chuyện với ông ngay lập tức,
thưa đại úy. Tôi đã cố ngăn cô ấy, nhưng cô ấy đang trên đường vào Hành Lang
Lớn".
Fache chùn lại, vẻ hoài nghi:
"Thật không thể chấp nhận được! Tôi đã nói rất rõ mà…".
Trong chốc lát, Robert Langdon nghĩ
Bezu Fache đang bị choáng. Viên đại uý ngừng nói giữa chừng, quai hàm thôi
chuyển động và mắt lồi ra. Cái nhìn tức giận dường như dính chặt vào một cái gì
đó qua vai của Langdon. Trước khi Langdon có thể quay lại nhìn xem đó là gì,
thì ông nghe thấy một giọng phụ nữ nhẹ nhàng phía sau ông.
"Excusez-moi, messieurs (4)
Langdon quay lại nhìn người thiếu phụ
đang đi tới. Cô đi xuôi hành lang, tiến về phía họ với những sải chân dài, uyển
chuyển… một dáng đi đầy tự tin khó quên. Mặc xuề xòa một chiếc váy len Ailen
màu kem, dài đến đầu gối phủ lên đôi tất đen, cô trông quyến rũ và khoảng ba
mươi tuổi. Mái tóc dày màu đỏ xõa không kiều cách xuống bờ vai, đóng khung
khuôn mặt ấm áp. Không giơng những nàng tóc vàng ẽo ợt vô cá tính dán đầy trên
tường phòng ngủ tập thể của trường Harvard, người phụ nữ này trông khỏe mạnh
với vẻ đẹp không trang điểm và sự chân chất tỏa ra một vẻ tự tin kỳ lạ.
Trước sự ngạc nhiên của Langdon, người
phụ nữ đi thắng đến chỗ ông và chìa tay ra một cách lịch sự. "Ông Langdon,
tôi là Sophie Neveu đến từ Phòng Mật Mã của DCPJ". Những từ cô phát âm
quyện theo cái giọng Anh lơ lớ Pháp. "Hân hạnh".
Langdon nắm bàn tay mềm mại của cô
trong tay mình và cảm thấy mình cứng sững trong cái nhìn mạnh mẽ của cô. Mắt cô
màu xanh ôliu - sắc và trong.
Fache hít một hơi dài, rõ ràng là chuẩn
bị đưa ra lời quở trách.
"Đại uý", cô nói, nhanh chóng
quay sang và chặn trước đòn tấn công của ông ta, "xin thứ lỗi cho sự xen
vào ngắt quãng, nhưng…".
"Ce n est pas le moment!"(5)
- Fache lắp bắp.
"Tôi đã cố gọi cho ông",
Sophie tiếp tục nói bằng tiếng Anh, như để thể hiện sự lịch thiệp đối với
Langdon. "Nhưng ông đã tắt điện thoại".
"Tôi tắt máy là có lý do",
Fache rít lên. "Tôi đang nói chuyện với ông Langdon".
"Tôi đã giải được mật mã số",
cô nói dứt khoát.
Langdon cảm thấy phấn khích. Cô ấy đã
giải được mật mã số sao?
Fache trông có vẻ phân vân không biết
nên phản ứng thế nào.
"Trước khi tôi giải thích",
Sophie nói, "Tôi có một lời nhắn khẩn cấp cho ông Langdon".
Thái độ của Fache chuyển sang sự quan
tâm sâu sắc: "Cho ông Langdon?".
Cô gật đầu, quay sang Langdon:
"Ông cần liên lạc ngay với Đại sứ quán Mỹ. Họ có một tin nhắn cho ông tử
Mỹ".
Langdon ngạc nhiên, sự phấn khích về
mật mã nhường chỗ cho một thoáng lo lắng bất chợt. Một tin nhắn từ Mỹ sao? Ông
cố nghĩ xem ai đang cố gắng liên lạc với ông. Chỉ một vài đồng nghiệp biết ông
đang ở Paris.
Quai hàm rộng của Fache nghiến chặt khi
nghe tin đó: "Đại sứ quán Mỹ à?", ông ta hỏi lại, nghe có vẻ nghi
ngờ. "Làm thế nào họ biết có thể tìm thấy ông Langdon ở đây?".
Sophie nhún vai: "Chắc chắn họ đã
gọi đến khách sạn của ông Langdon, và người trực đã nói cho họ biết ông Langdon
đã bị một nhân viên DCPJ đưa đi".
Fache trông có vẻ hoang mang: "Và
đại sứ quán đã liên lạc với Phòng Mật~Mã của DCPJ sao?".
"Không, thưa ông", Sophie
nói, giọng rắn rỏi. Khi tôi gọi đến tổng đài của DPCJ để cố gắng liên lạc với
ông, họ đã có lời nhắn cho ông Langdon và nhờ tôi chuyển nếu tôi liên lạc được
vởi ông".
Trán Fache nhăn lại, rõ ràng là bối
rối. Ông ta định nói, nhưng Sophie đã quay lại với Langdon.
"Ông Langdon", cô nói, rút ra
lừ túi áo một mảnh giấy, "đây là số điện thoại bộ phận dịch vụ nhắn tin
của đại sứ quán. Họ bảo ông gọi càng sớm càng tốt". Cô đưa cho ông tờ giấy
với cái nhìn chăm chú. "Trong khi tôi giải thích mật mã cho Đại uý Fache,
ông nên gọi cho số này".
Langdon nhìn chằm chằm vào mảnh giấy
nhỏ. Có một số điện thoại Paris cùng số máy con nội bộ. "Cảm ơn cô".
Ông nói, cảm thấy lo lắng, "tôi có thể tìm thấy đíện thoại ở đâu?".
Sophie định rút chiếc điện thoại di
động ra khỏi túi áo len, nhưng Fache phất tay ra hiệu bảo cô cất đi. Lúc này
trông ông như núi lửa Vesuvius sắp phun. Không rời mắt khỏi Sophie, ông lấy
điện thoại di động của mình chìa ra. "Đường dẫn này an toàn, ông Langdon.
Ông có thể dùng nó".
Langdon cảm thấy bối rối bởi sự giận dữ
của Fache với người thiếu phụ. Cảm thấy không thoải mái, ông nhận chiếc điện
thoại của viên đại uý. Ngay lập tức Fache kéo Sophie ra cách đó vài bước và bắt
đầu thấp giọng quở trách cô. Càng lúc càng không ưa viên đại uý, Langdon ngoảnh
đi khỏi cuộc đối đầu kỳ lạ và bật máy điện thoại. Xem lại mảnh giấy Sophie vừa
đưa cho, Langdon bấm số.
Đường dây bắt đầu đổ chuông.
Một hồi…hai hồi…ba hồi…
Cuối cùng cũng đã kết nối được.
Langdon chờ đợi giọng người trực tổng
đài của đại sứ quán, nhưng ông nhận ra rằng mình đang nghe một máy trả lời tự
động. Lạ thay, giọng nói trong cuốn băng rất quen. Đó là giọng của Sophie
Neveu.
"Bonjour, vous etes bien chez Sophie
Neveu…" giong ngutfi phu nil vang len. "Je suis absente pour le
moment, mais…"(6)
Bối rối, Langdon quay sang Sophie:
"Tôi xin lỗi, cô Neveu. Tôi nghĩ cô đã đưa cho tôi…".
"Không, đó là số đúng đấy",
Sophie đột ngột ngắt lời, như thể đoán được sự bối rối của Langdon, "Đại
sứ quán có hệ thống tin nhắn tự động. Ông phải bấm mã vào để nghe thấy tin nhắn
của ông".
Langdon ngớ ra nhìn:
"Nhưng…".
"Nó là mã số gồm ba con số trên
mảnh giấy tôi đã đưa cho ông".
Langdon mở miệng toan giảỉ thích sự
aihầm lẫn kỳ lạ, nhưng Sophie nhìn ông ra hiệu im lặng trong khoảnh khắc. Đôi
mắt màu ôliu của cô gửi đi một thông điệp rất rõ ràng.
Đừng hỏi. Cứ làm thế.
Hoang mang, Langdon bấm số nội bộ trên
mảnh giấy nhỏ: 454.
Lời nhắn của Sophie ngay lập tức dừng
lại, và Langdon nghe thấy một giọng ghi âm điện tử nói tiếng Pháp: "Bạn có
một tin nhắn". Vẻ như 454 là mã số kết nối từ xa để Sophie nhận tin nhắn
khi cô đi vắng.
Mình đang nghe các tin nhắn của cô ấy?
Langdon có thể nghe thấy tiếng cuộn
băng đang tua. Sau cùng, nó dừng lại và cái máy lại hoạt động. Langdon lắng
nghe khi tin nhắn bắt đầu vang lên. Giọng nói trên đường dây lại là của Sophie.
"Ông Langdon", tin nhắn bắt
đầu với lời thì thầm dễ sợ. "Đừng phản ứng gì với tin nhắn này. Hãy bình
tĩnh lắng nghe. Ngay lúc này ông đang gặp nguy hiểm. Hãy làm theo thật sát sao
những chỉ dẫn của tôi".
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: giám
sát ngầm.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Thưa
đại úy, một nhân viên Phòng Mật mã đã đến.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên ban: nữ
giải mã viên.
(4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Xin
các ông thứ lỗi.
(5) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Đây
không phải lúc.
(6) Tiếng Pháp
trong nguyên bản : Xin chào, đây là nhà của Sophie Neveu.. Hiện nay tôi đang đi
vắng, nhưng…
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 10
Silas ngồi sau tay lái chiếc Audi màu
đen mà Thầy Giáo đã xếp đặt cho hắn và nhìn ra bên ngoài, dán mắt vào Nhà thờ
lớn Saint - Sulpice. Được chiếu sáng từ bên dưới bởi những dãy dèn pha, hai
tháp chuông vươn lên như những lính gác lực lưỡng bên trên phần thân chính của
nhà thờ. Cả hai bên sườn, một hàng cột trụ mờ tối nhô ra như những chiếc xương
sườn của một con quái vật.
Bọn vô đạo dùng một ngôi nhà của chúa
để cất giấu viên đá đỉnh vòm của chúa, Một lần nữa hội kín này lại khẳng định
tiếng tăm về tài lừa lọc và mưu mô đã thành huyền thoại của nó. Silas mong tìm
thấy viên đá và đưa nó cho Thầy Giáo để có thể lấy lại những gì mà bao lâu nay
hội kín đó đã đánh cắp của các tín đồ.
Điều đó sẽ làm cho Opus Dei hùng mạnh
xiết bao.
Đỗ chiếc Audi trên Quảng trường
Saint-Sulpice vắng vẻ, Silas thở mạnh, tự nhủ phải sáng trí cho nhiệm vụ trước
mắt. Cái lưng rộng vẫn còn đau nhức vì sự hành xác hắn đã chịu đựng trước đó,
nhưng đau đớn này thấm vào đâu so với nỗi thống khổ của cuộc đời hắn trước khi
Opus Dei cứu sống hắn.
Những ký ức vẫn ám ảnh tâm hồn hắn.
Hãy cởi bỏ lòng hận thù, Silas ra lệnh
cho mình. Hãy tha thứ cho nhng kẻ đã xúc phạm ngươi.
Nhìn lên những tháp đá của nhà thờ
Saint - Sulpice, Silas cố dẹp cái đợt sóng ngầm quen thuộc… cái lực thường kéo
tâm trí hắn trở ngược thời gian, một lần nữa giam hắn trong nhà tù đã từng là
thế giới của hắn khi còn trẻ. Như thường lệ, tựa một cơn bão, những ký ức ngục
tù trở lại với giác quan của hắn… mùi thối của bắp cải hỏng, mùi thối của những
xác chết, nước tiểu và phân người. Những tiếng khóc tuyệt vọng trên nền cơn gió
thét gào trong dãy Pyrenees. Và tiếng thổn thức của những con người bị lãng
quên.
Andorra, hắn nghĩ, cảm thấy cơ bắp siết
chặt.
Không thể tin được là chính ở nơi khô
cằn và bị lãng quên đó giữa Tây Ban Nha và Pháp, run rẩy trong xà lim bằng đá,
chỉ muốn chết, Silas đã được cứu sống.
Hắn đã không nhận chân ra điều đó ngay
lúc đó.
Sau tiếng sấm hồi lâu mời thấy chớp
lóe.
Tên của hắn dạo ấy không phải là Silas,
mặc dù hắn không thể nhớ nổi cái tên mà bố mẹ hắn đặt cho. Hắn bỏ nhà đi lúc
lên bảy. Cha hắn nghiện rượu, một người bốc vác vạm vỡ, nổi điên bởi sự ra đời
của dứa con trai bạch tạng, đã thường xuyên đánh mẹ hắn, đổ lỗi cho bà về khiếm
khuyết của đứa trẻ. Khi đứa bé cố gắng bảo vệ mẹ mình, nó cũng bị đánh tàn tệ.
Một đêm, cuộc ẩu đả đến hồi khủng khỉếp
và mẹ nó không trở dậy nữa. Đứa bé đứng nhìn người mẹ đã chết và thấy cảm giác
phạm tội trào dâng không sao chịu nổi vì đã để chuyện đó xảy ra.
Lỗi tại mình!
Như thể ma quỷ đang điều khiển thân xác
nó, đứa bé đi vào bếp và chụp lấy con dao thái thịt. Như bị thôi miên, nó đi
vào phòng ngủ nơi bố nó nằm trên giường trong trạng thái say xỉn.
Không nói một lời, nó đâm vào lưng ông
ta. Bố nó la lên đau đớn và cố lăn, nhưng thằng con lại tiếp tục đâm nữa, đâm
hoài cho đến khi căn phòng hoàn toàn tĩnh lặng.
Thằng bé bỏ trốn khỏi nhà nhưng nó thấy
đường phố của Marseilles cũng không thân thiện. Vẻ ngoài kỳ dị khiến nó trở
thành lạc lõng giữa những đứa trẻ bụi đời khác, và nó buộc phải sống trong tầng
hầm của một xưởng máy đổ nát, ăn những hoa quả và cá sống lấy trộm được ở cảng.
Bầu bạn duy nhất của nó là những tờ báo rách nát nó tìm thấy trong đống rác, và
nó tự học để đọc chúng. Thời gian trôi đi, nó lớn lên khỏe mạnh. Khi nó mười
hai tuổi, một kẻ lang bạt khác - một cô gái gấp đôi tuổi nó - đã chế nhạo nó
trên đường phố và định ăn cắp đồ ăn của nó. Cô gái bị nó đánh thừa sống thiếu
chết. Khi nhà chức trách kéo nó ra khỏi cô ta, họ ra cho nó một tối hậu thư:
hoặc là rời Marseilles hoặc là vào trại cải tạo thanh thiếu niên.
Đứa bé di chuyển theo bờ biển xuống đến
Toulon. Cùng với thời gian, những ánh mắt thương hại trên đường phố chuyển
thành những cái nhìn sợ hãi. Đứa bé đã trờ thành một gã trai hùng sức. Khi mọi
người đi qua, hắn có thể nghe thấy họ thì thầm với nhau. Một con ma, họ khẽ
nói, mắt giương to hoảng sợ khi nhìn làn da trắng của hắn. "Một con ma với
đôi mắt của quỷ!".
Và hẩn cảm thấy mình như một con ma…
trong suốt… trôi giạt từ thành phố cảng này sang thành phố cảng khác.
Mọi người dường như nhìn xuyên qua hắn.
Ở tuổi mười tám, tại một thị trấn cảng,
trong khi tìm cách lấy trộm một hòm thịt muối từ một tàu chở hàng, hắn đã bị
hai thủy thủ bắt. Hai người đánh hắn sặc mùi bia, giống bố hắn. Những hồi ức về
sự sợ hãi và lòng căm thù nổi lên giống như một con quái vật từ trong sâu thẳm.
Gã trai mới lớn bẻ gẫy cổ người thủy thủ thứ nhất bằng tay không, và chỉ sự
xuất hiện của cảnh sát mới cứu người thủy thủ còn lại thoát khỏi tình trạng tương
tự.
Hai tháng sau, bị còng tay, hắn đến một
nhà tù ở Andorra.
Mày trắng như ma vậy, những người bạn
tù nhạo báng hắn khi người quản giáo đưa hắn vào, trần truồng và lạnh cóng. Có
thể ma sẽ xuyên qua tường được!
Qua hai mươi năm, thân xác và linh hồn
hắn héo hon đến mức hắn biết rằng hắn đã trở nên trong suốt.
Ta là một con ma.
Ta không trọng lượng.
Yo say un espectro pdlido como un
fantasma caminando este mundo a solas(1).
Một tối, con ma tỉnh dậy bởi tiếng la
hét của những người bạn tù. Hắn không biết sức mạnh vô hình nào đang lắc sàn
nhà nơi hắn đang nằm ngủ, cũng không biết bàn tay vĩ đại nào đang rung vữa của
căn phòng giam bằng đá, nhưng khi hắn đứng dậy, một tảng đá cuội khổng lồ rơi
xuống rất gần chỗ hắn đang ngủ. Ngước lên để xem hòn đá rơi từ đâu, hắn nhìn
thấy một lỗ hổng trên bức tường đang rung động, và bên ngoài, một hình ảnh mà
suốt hơn mười năm qua hắn không được thấy. Mặt trăng.
Trong khi mặt đất vẫn còn rung chuyển,
con ma thấy mình đang bò qua một đường hầm hẹp, lảo đảo bước ra một không gian
rộng lớn và bổ nhao bổ nhào xuống một sườn núi khô cằn lao vào rừng. Hắn chạy
suốt đêm, luôn luôn theo chiều đi xuống, mê sảng vì đói và kiệt sức.
Lúc bình minh, gần tỉnh trí lại, hắn
thấy mình đang ở một khoảng rừng phát quang nơi đường xe lửa cắt một vệt xuyên
qua khu rừng. Men theo đường xe lửa, hắn đi tiếp như trong mơ. Nhìn thấy một
toa xe chở hàng rỗng, hắn bò vào trú và nghỉ ngơi. Khi hắn tỉnh dậy, con tàu
đang chuyển động. Bao lâu?
Bao xa? Một cơn đau dâng lên trong ruột
hắn. Mình sắp chết? Hắn lại ngủ. Lần này hắn bị đánh thức bởi một ai đó đang
quát tháo, đánh đập hắn, quăng hắn ra khỏi toa xe. Người đầy máu, hắn lang
thang ngoài bìa một ngôi làng nhỏ, tìm kiếm cái ăn trong vô vọng. Cuối cùng quá
yếu không đủ sức bước thêm bước nào nữa, hắn nằm xuống bên vệ đường và rơi vào
trạng thái bất tỉnh.
Ánh sáng đến từ từ và con ma tự hỏi hắn
đã chết được bao lâu Một ngày? Ba ngày? Điều đó không quan trọng. Giường hắn
nằm êm như mây và không khí xung quanh hắn thơm mùi nến.
Chúa Jesus ở đó nhìn xuống hắn. Ở đây,
Người nói. Hòn đá đã được gạt sang một bên và con được tái sinh.
Hắn ngủ và dậy. Sương mù bao quanh ý
nghĩ của hắn. Hắn chưa từng tin vào thiên đường, vậy mà Chúa Jesus đang chăm
sóc hắn. Thức ăn bên cạnh giường và con ma ăn, gần như có thể cảm nhận thấy
thịt đầy dần lên trên xương mình. Hắn lại ngủ. Khi hắn tỉnh dậy, Chúa Jesus vẫn
mỉm cười và nói. Con đã được cứu sống, con trai của ta. Ta ban phước lành cho
những kẻ theo đường của ta.
Một lần nữa hắn lại ngủ.
Một tiếng thét đau đớn làm con ma giật
mình tỉnh giấc. Hắn nhảy ra khỏi giường, lảo đảo đi theo một hành lang hướng về
phía có tiếng thét. Hắn đi vào nhà bếp và nhìn thấy một người đàn ông to lớn
đang đánh một người nhỏ con hơn. Không cần biết lý do, con ma túm lấy người đàn
ông to lớn và lẳng hắn vào tường. Tên này bỏ chạy, để lại con ma đứng nhìn
xuống một người đàn ông trẻ tuổi trong chiếc thầy tu. Người thầy tu bị vỡ mũi.
Bế người thầy tu mình đầy máu lên, con ma đưa anh ta đến một cái giường.
Người thầy tu nói bằng một thứ tiếng
Pháp trọ trẹ. "Tiền cúng nhà thờ là thứ cám dỗ bọn trộm cướp. Anh đã nói
tiếng pháp trong giấc ngủ. Anh biết nói tiếng Tây Ban Nha chứ?".
Con ma lắc đầu.
"Tên anh là gì?" Anh ta tiếp
tục bằng thứ tiếng Pháp bập bõm.
Con ma không thể nhớ được tên mà bố mẹ
hắn đặt cho hắn.
Tất cả những gì hắn nghe thấy chỉ là
những lời mắng nhiếc chế giễu của những người cai ngục.
Người thầy tu mỉm
cười: "No hay problema"(2) . Tên tôi là Manuel Aringarosa. Tôi là
một người truyền giáo đến từ Madrid. Tôi được phái đến đây để xây một nhà thờ
cho dòng tu Obra de Dios"(3).
"Tôi đang ở đâu?", Giọng hắn
nghe oang oang.
"Oviedo. Miền
Bắc Tây Ban Nha".
"Làm sao tôi
đến được đây?".
"Ai đó đã để
anh ở ngưỡng cửa nhà tôi. Anh ốm. Tôi đã cho anh ăn. Anh đã ở đây nhiều
ngày".
Con ma chăm chú
nhìn người chăm sóc trẻ tuổi của mình. Đã bao năm mới có người tỏ từ tâm với
hắn. Hắn nói: "Cảm ơn, Cha".
Người thầy tu sờ
làn môi tướp máu của mình. "Tôi mới là người phải cảm ơn, bạn của
tôi".
Thức giấc vào buổi
sáng, con ma thấy thế giới của mình sáng rõ hơn. Hắn nhìn lên cây thánh giá
trên tường bên trên giường hắn. Mặc dù nó không nói gì với hắn, hắn vẫn cảm
thấy một vầng sáng an ủi trong sự hiện diện của nó. Ngồi dậy, hắn ngạc nhiên
khi nhìn thấy một mảnh báo cắt đặt cạnh giường. Bài báo bằng tiếng Pháp một
tuần trước. Khi đọc bài đó, hắn sợ hãi. Nó nói vế trận động đất trong dãy núi
đã phá hủy một nhà tù và giải thoát rất nhiều tù nhân nguy hiểm.
Tim hắn bắt đầu đập
thình thịch. Người thầy tu biết mình là ai!
Điều hắn cảm thấy lúc này là một cảm
giác đã khá lâu rồi chưa đến với hắn. Xấu hổ. Phạm lỗi. Kèm theo nó là nỗi sợ
bị bắt lại. Hắn nhảy khỏi giường. Mình chạy đi đâu?
"Sách Thiên Tai"(4) , một
giọng nói từ phía cửa.
Con ma quay đầu lại sợ hãi.
Người thầy tu trẻ tuổi mỉm cười đi vào.
Mũi anh ta được băng lại một cách vụng về, và anh ta đưa ra một quyển Kinh
Thánh cũ. "Tôi tìm thấy một bản bằng tiếng Pháp cho anh. Chương này đã
được đánh dấu".
Phân vân, con ma cầm quyển Kmh thánh và
nhìn vào chương được người thầy tu đánh dấu.
Thiên Tai - Chương 16.
Những câu thơ nói về một người tù tên
là Silas nằm trần truồng và bị đánh đập trong xà lim, vẫn hát thánh ca ca ngợi
Chúa. Khi con ma đọc đến Tiết 26, hắn há hốc mồm ngạc nhiên.
Và đột nhiên có một trận động đất lớn
khiến nền nhà tù rung chuyển và tất cả cả các cánh cửa của nhà tù bật mở".
Hắn nhìn chằm chằm vào người thầy tu
đang mỉm cười ấm áp: "Từ giờ trở đi, anh bạn, nếu anh không có một cái tên
nào khác tôi sẽ gọi anh là Silas".
Con ma gật đầu dứt khoát. Silas. Hắn đã
có thể xác, không còn là ma nữa. Tên ta là Silas.
"Đã đến giờ ăn sáng", người
thầy tu nói. "Anh sẽ cần đến sức khỏe nếu anh muốn giúp tôi xây nhà thờ
này".
Ở độ cao hơn sáu nghìn mét bên trên
biển Địa Trung Hải, chuyến bay Aitalia 1618 rung lên, làm cho các hành khách
dao động.
Giám mục Aringarosa hầu như không để ý.
Ý nghĩ của ông đang hướng về tương lai của Opus Dei, sung sướng khi biết những
kế hoạch ở Paris đang tiến triển tốt, ông ước mình có thể gọi điện cho Silas.
Nhưng ông không thể. Thầy Giáo đã lo liệu việc đó.
"Đó là vì sự an toàn của bản thân
ông", Thầy Giáo giải thích bằng tiếng Anh lơ lớ giọng Pháp. "Tôi đã
khá quen liên lạc điện tử để biết là nó có thể bị nghe trộm. Hậu quả đối với
ông có thể là thảm hoạ đấy".
Aringarosa biết ông ta đúng. Thầy Giáo
là người cẩn thận hiếm có, ông ta không tiết lộ danh tính của mình cho
Aringarosa nhưng ông đã tỏ ra là người đáng được nghe lời. Bằng cách nào đó ông
ta đã lấy được những thông tin rất bí mật. Tên của bốn thành viên đứng đầu của
tu viện Sion. Đây là một trong những thành công thuyết phục giám mục rằng Thầy
Giáo thực sự có khả năng mang về chiến lợi phẩm đáng kinh ngạc mà ông ta đã
khẳng định là mình có thể moi ra.
"Giám mục", Thầy Giáo nói với
ông, "tôi đã sắp xếp mọi việc. Để kế hoạch của tôi thành công, ông phải để
Silas chỉ được nhận điện của tôi trong vòng vài ngày. Hai thầy trò ông không
được nói chuyện với nhau, tôi sẽ liên lạc với anh ta qua những kênh an
toàn".
"Ông sẽ tôn trọng anh ta
chứ?".
"Một người trung thành xứng đáng
được tôn trọng nhất".
"Tuyệt! Vậy thì tôi hiểu rồi.
Silas và tôi sẽ không liên lạc với nhau cho đến khi việc này kết thúc".
"Tôi làm điều này để bảo vệ danh
tính của ông, danh tính của Silas, và sự đầu tư của tôi".
"Sự đầu tư của ông?".
"Giám mục, nếu vì lòng khát khao
muốn sánh ngang tầm sự tiến bộ mà ông phải vào tù thì ông sẽ không thể trả công
cho tôi".
Giám mục mỉm cười: "Một điểm tuyệt
vời. Khát vọng của chúng ta hợp nhau. Chúc may mắn".
Hai mươi triệu euro, giám mục nghĩ, đăm
đăm nhìn ra ngoài cửa sồ máy bay. Khoản tiền này quy sang đô-la Mỹ cũng xấp xỉ
con số đó. Một khoản thù lao nhỏ để đạt được một thứ đầy quyền năng đến thế.
Ông cảm thấy lại càng tin rằng Thầy
Giáo và Silas sẽ không thất bại, tiền và sự trung thành là những động lực mạnh
mẽ.
Chú thích:
(1) Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản:
Tôi thấy một bóng ma… nhợt nhạt như một con ma… lủi thủi một mình đi trong thế
giới này…
(2) Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản:
Không thành vấn dề, không hề gì
(3) Tiếng Tây Ban Nha: Tác phẩm của
Chúa.
(4) Trong Tân ước,
Kinh Thánh.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 11
Chương 11Un plasaniterie numericque(1)
, Bezu Fache tái mặt nhìn Sophie Neveu không tin. Một trò đùa bằng số?
"Theo đánh giá chuyên môn của cô thì mật mã của Saunière là một loại trò
chơi toán học sao?".
Fache hoàn toàn không hiểu nổi sự táo
tợn của người phụ nữ này. Cô ta không chỉ xông bừa vào chỗ Fache không xin phép
mà giờ đây còn đang cố gắng thuyết phục ông ta rằng Saunière, trong những khoảnh
khắc cuối cùng của cuộc đới mình đã nổi hứng để lại một câu đố toán học?
"Mật mã này", Sophie giải
thích nhanh bằng tiếng Pháp, "giản đơn đến mức phi lí. Jacques Saunière
chắc chắn đã biết chúng ta sẽ hiểu nó ngay lập tức". Cô lôi ra một miếng
giấy nhỏ từ túi áo len và đưa cho Fache. "Đây là lời giải mã".
Fache nhìn vào tờ giấy.
1-2-3-5-8-13-21
"Đây là nó sao?". Ông ta ngắt
lời. "Tất cả những gì cô làm là đặt những con số theo một trật tự tăng
dần!".
Sophie thực sự có gan dám nớ một nụ
cười thỏa mãn: "Chính xác".
Giọng Face hạ xuống thành một tiếng gầm
gừ trong cố họng:
"Nhân viên Neveu, tôi không biết
cô sẽ đi đến đâu với cái trò ma này, nhưng tôi khuyên cô hãy kết thúc cho
nhanh". Ông ta ném một cái nhìn lo âu về phía Langdon đang đứng gần đó,
điện thoại áp sát trào tai, hiển nhiên là đang nghe tin nhắn qua điện thoại từ
Đại sứ quán Mỹ. Bằng vào vẻ mặt tái mét của Langdon, Fache cảm thấy đó là tin
xấu.
"Đại uý", Sophie nói, giọng
đầy thách thức, "dãy số mà ông có trong tay ngẫu nhiên lại là một trong
những cấp số toán học nổi tiếng nhất trong lịch sử".
Fache không biết thậm chí còn có một
cấp số toán học được đánh giá là nổi tiếng, và ông ta chắc chắn không đánh giá
cao cái giọng sàm sỡ của Sophie.
"Đây là dãy số Fibonacci" -
cô tuyên bố, hất đầu về phía mảnh giấy trong tay Fache. "Một dãy số trong
đó mỗi số là tổng của hai số đứng liền trước nó".
Fache nhìn chăm chú các con số. Mỗi số
đúng là tổng của hai số liền trước, nhưng Fache không thể hình dung ra được nó
có liên quan gì với cái chết của Saunière.
"Nhà toán học Leonardo Fibonacci
đã tạo ra dãy số này vào thế kỷ XIII. Rõ ràng, khi tất cả các con số Saunière
viết trên sàn đều thuộc dãy số nối tiếng của Fibonacci thì không thể là trùng
hợp ngẫu nhiên được".
Fache trừng trừng nhìn người thiếu phụ
mấy giây: "Tốt, nếu không có sự trùng hợp, cô có thể nói cho tôi biết tại
sao Saunière lại làm như thế. Ông ấy định nói gì? Điều này nghĩa là thế
nào?".
Cô nhún vai: "Tuyệt đối không có
nghĩa gì cả. Đó chính là vấn đề. Nó là một trò đùa mật mã giản đơn. Giống như
lấy những chữ trong một bài thơ nổi tiếng xáo trộn lung tung lên để xem liệu có
ai nhận ra tất cả các chữ ấy có điểm gì chung nhau".
Fache tiến lên một bước đầy vẻ hăm dọa,
mặt ông ta chỉ cách mặt Sophie vài phân: "Tôi dứt khoát hy vọng cô có một
sự giải thích thỏa đáng hơn thế nhiều".
Nét mặt dịu dàng của Sophie bỗng trở
nên nghiêm nghị lạ lùng: "Đại uý, xét tình thế bất ổn của ông ở đây tối
nay, tôi đã tưởng ông có thể hàm ơn khi được biết rằng Jacques Saunière đang
chơi trò chơi với ông. Nhưng rõ ràng là không. Tôi sẽ thông báo với chỉ huy
phòng Mật mã rằng ông không còn cần đến sự phục vụ của chúng tôi nữa".
Nói xong, cô quay gót, và đi ra ngoài
theo lối mà cô đã vào.
Choáng váng, Fache nhìn cô biến mất
trong bóng tối. Cô ta mất trí hay sao? Sophie vừa định nghĩa lại thuật ngữ le
suicide Professionnel(2).
Fache quay sang Langdon, vẫn đang áp
máy điện thoại vào tai, có vẻ lo lắng hơn lúc trước, lắng nghe chăm chú tin
nhắn.
Đại sứ quán Mỹ. Bazu Fache khinh thường
nhiều thứ… nhưng ít thứ gây phẫn nộ hơn Đại sứ quán Mỹ.
Fache và đại sứ Mỹ thường xuyên đọ sừng
với nhau về những vấn đề Nhà nước mà hai bên cùng quan tâm - đấu trường thông
thường nhất là sự tuân thủ luật pháp đối với những du khách người Mỹ - gần như
hàng ngày DCPJ bắt giữ các du học sinh người Mỹ sở hữu ma túy, các thương nhân
Mỹ vì khuyến dụ các hành vi mãi dâm trẻ em, các khách du lịch Mỹ vì tội lấy cắp
hàng trong các cửa hàng hoặc phá hoại tài sản. Đại sứ quán Mỹ có thể can thiệp
một cách hợp pháp vào việc trao trả các công dân vi phạm về Mỹ, ở đó họ chắng
phải nhận bất kỳ sự trừng phạt nào ngoài một hình phạt lấy lệ.
Và trước sau như một, Đại sứ quán Mỹ
chỉ làm có thế.
L emasculation de la Police
Judiciere(3), Fache gọi điều đó như vậy Paris Match gần đây đã vẽ một bức tranh
biếm họa miêu tả Fache như một con chó cảnh sát, đang cố cắn một phạm nhân
người Mỹ, nhưng không thể bởi vì nó bị xích vào Đại sứ quán Mỹ.
Không phải tôí nay, Fache tự nhủ. Có
quá nhiều thứ đang bị đe doạ.
Khi Langdon gác máy, ông trông như ốm.
"Mọi chuyện đều ổn cả chứ?"
Fache hỏi.
Một cách yếu ớt, Langdon lắc đầu.
Tin xấu từ gia đình, Fachc linh cảm, để
ý thấy Langdon hơi toát mồ hôi khi Fache nhận lại điện thoại.
"Một tai nạn", Langdon lắp
bắp, nhìn Fache với sắc mặt khác lạ, "một người bạn…" ông do dự.
"Tôi cần phải bay về nhà trong chuyến bay đầu tiên vào buổi sáng".
Fache tin chắc vẻ bàng hoàng trên mặt
Langdon là chân thật. nhưng ông ta linh cảm còn có một xúc cảm khác ở đó, như
thể một nỗi sợ hãi xa xăm đột nhiên sôi âm ỉ trong đôi mắt của người Mỹ này.
"Tôi rất tiếc", Fache nói, nhìn Langdon kỹ càng.
"Ông có muốn ngồi xuống
không?". Ông ta chỉ vào một cái ghế dài để ngồi ngắm tranh trong hành
lang.
Langdon gật đầu một cách lơ đãng và
bước vài bước về phía chiếc ghế dài. Ông dừng lại, coi bộ mỗi lúc một thêm bối
rối: "Thực sự, tôi nghĩ tôi muốn dùng nhà vệ sinh".
Trong thâm tâm, Fache thấy khó chịu vì
sự trì hoãn này: "Nhà vệ sinh. Tất nhiên. Ta hãy tạm nghỉ vài phút".
Ông ta chỉ trở lui theo hướng họ đã đi vào. "Nhà vệ sinh ở về phía văn
phòng của ông phụ trách bảo tàng".
Langdon ngập ngừng, chỉ về đầu đằng kia
Hành Lang Lớn: "Tôi nghĩ có một nhà vệ sinh gần hơn nhiều ở đầu kia".
Fache nhận ra rằng Langdon nói đúng. Họ
đã đi được hai phần ba quãng đường, và Hành Lang Lớn có hai nhà vệ sinh ở hai
đầu. "Tôi có cần đưa ông đi không?".
Langdon lắc đầu, đã dấn sâu hơn vào
hành lang: "Không cần thiết. Tôi nghĩ tôi muốn có vài phút một mình".
Fache không khoái gì cái ý để Langdon
lang thang một mình trong quãng đường còn lại của hành lang, nhưng ông ta biết
rằng Hành Lang Lớn là một ngõ cụt mà mọi người chỉ có thể đi ra ở đầu kia -
cánh cổng mà họ đã bò qua. Dù những quy định phòng cháy của Pháp yêu cầu một
vài cầu thang thoát hiểm cho không gian rộng lớn này, nhưng các cầu thang này
đã tự động đóng lại khi Saunière khởi động hệ thống bảo vệ. Cứ cho là hệ thống
đó đã được khởi động lại, không khóa các cầu thang thoát hiểm, nhưng cũng không
hề gì - các cửa bên ngoài, nếu mở, sẽ khởi động chuông báo cháy và có các nhân
viên DCPJ gác ở bên ngoài. Langdon không thể rời đây mà Fache không biết.
"Tôi cần trở lại văn phòng ông
Saunière một lát", Fache nói.
"Hãy đến thắng đó tìm tôi, ông
Langdon. Chúng ta cần bàn luận thêm".
Langdon vẫy tay ra hiệu đồng ý, rồi
biến mất trong bóng tối.
Quay gót, Fache bước giận dữ theo hướng
ngược lại. Đến cánh cổng bảo vệ, ông trướn qua, ra khỏi Hành Lang Lớn, đi xuống
sảnh, và đi vào trung tâm chỉ huy ở văn phòng ông Saunière.
"Ai đã cho phép Sophie Neveu vào
tòa nhà này?" Fache gầm lên.
Collet là người đầu tiên trả lờil:
"Cô ấy nói với lính gác bên ngoài là cô ấy đã giải được mật mã".
Fache nhìn quanh: "Cô ấy đi khỏi
chưa?".
"Cô ấy không ở chỗ ông sao?".
"Cô ấy đã bỏ di". Fache nhìn
ra hành lang tối tăm. Xem ra Sophie chắc chẳng hứng thú gì dừng lại trò chuyện
với những nhân viên khác trên đường ra.
Trong một khoảnh khắc, ông nghĩ đến
việc gọi cho lính gác trong tầng xép và bảo họ ngăn và lôi cô ta trở lại đây
trước khi cô rời khỏi ngôi nhà. Rồi ông ta nghĩ là không nên làm thế. Đó chỉ là
tính tự cao của ông đang lên tiếng… muốn giành tiếng nói cuối cùng. Ông đã có
quá đủ sự rối trí trong buổi tối hôm nay.
Xử lý nhân viên Neveu sau, ông ta tự
nhủ, đã tính tới chuyện sa thải cô ta.
Đẩy Sophie ra khỏi đầu, Fache liếc nhìn
bức tượng kỵ sĩ đang đứng trên bàn ông Saumère. Rồi ông ta quay lại phía
Collet: "Cậu có thấy ông ta không?".
Collet gật đầu rồi quay cái máy tính
xách tay về phía Fache.
Chấm đỏ hiện rõ trên tấm bản đồ, nhấp
nháy đều đặn trong một căn phòng có ghi: VỆ SINH CÔNG CỘNG.
"Tốt", Fache nói, đốt một
điếu thuốc lá và oai vệ đi vào sảnh. "Tôi phải gọi một cuộc điện thoại.
Phải thật đảm bảo rằng phòng vệ sinh là nơi duy nhất Langdon đến".
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Một
trò đùa bằng số
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: tự sát
nghề nghiệp.
(3) Tiếng Pháp
trong nguyên bản: Sự làm suy yếu Cảnh sát tư pháp.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 12
Chương 12Robert Langdon thấy đầu óc
quay cuồng khi lê bước về cuối Hành Lang Lớn. Tin nhắn điện thoại của Sophie cứ
tua đi tua lại trong tâm trí ông. Ở cuối hành lang, các bảng phản quang với
hình vẽ tượng trưng chỉ phòng vệ sinh đã dẫn ông đi qua hàng loạt nhằng nhịt
những tấm ngăn đôi hành lang theo chiều dọc, phô những ký họa Ý và che phòng vệ
sinh khỏi tầm nhìn.
Tìm thấy cửa phòng dành cho nam,
Langdon đi vào và bật đèn.
Căn phòng trống rỗng.
Đi tới bồn rửa mặt, ông té nước lạnh
lên mặt và cố tỉnh táo.
Những bóng đèn huỳnh quang chói chang
chiếu xuống sàn lát đá ảm đạm, căn phòng sực mùi amôniăc. Khi ông lau mặt, cánh
cửa nhà vệ sinh kêu kẽo kẹl, mở ra sau lưng ông. Ông quay lại.
Sophie Neveu đi vào, đôi mắt xanh ánh
lên nỗi lo sợ: "Đội ơn Chúa, ông đã đến. Chúng ta không có nhiều thời
gian".
Langdon đứng cạnh bồn rửa, ngỡ ngàng
nhìn nhân viên mật mã của DCPJ Sophie Neveu. Chỉ một phút trước, Langdon đã
nghe tin nhắn điện thoại của cô, nghĩ rằng nữ nhân viên mật mã mới đến này chắc
là bị mất trí. Nhưng càng nghe, ông càng cảm thấy Sophie đang nói chân thành.
"Đừng phản ứng gì với tin nhắn này. Hãy bình tĩnh lắng nghe. Ngay lúc này
ông đang gặp nguy hiểm. Hãy làm theo thật sát sao những chỉ dẫn của tôi".
Dù còn hoài nghi, Langdon đã quyết định làm đúng theo lời Sophie khuyên. Ông
nói với Fache rằng tin nhắn điện thoại liên quan đến một người bạn bị thương ở
nhà. Sau đó ông hỏi dùng nhà vệ sinh ở cuối Hành Lang Lớn Bây giờ Sophie đã
đứng trước mặt ông, vẫn còn hổn hển lấy lại hơi sau khi vòng lại phòng vệ sinh.
Trong ánh đèn huỳnh quang, Langdon ngạc nhiên nhìn thấy vẻ mạnh mẽ thực sự tỏa
ra từ nét mặt dịu dàng đến bất ngờ. Chỉ cái nhìn là sắc, và sự chồng xếp ấy gợi
nhớ đến những hình ảnh trong một bức chân dung nhiều lớp của Renoir… kín đáo mà
rõ rành, với một sự táo bạo mà cách nào đó, vẫn giữ được tấm mạng đầy huyền bí.
"Tôi muốn cảnh báo ông, ông
Langdon…" Sophie bắt đầu, vẫn hổn hển, "Ông đang sous surveillance
cachee(1) dưới sự giám sát chặt chẽ. Những câu tiếng Anh lơ lớ của cô dội vào
tường ốp đá khiến giọng cô nghe ồm ồm.
"Nhưng… tại
sao?". Langdon hỏi. Sophie đã giải thích với ông trên điện thoại, nhưng
ông muốn nghe nó từ chính miệng cô.
"Bởi vì",
cô nói, tiến về phía ông, "nghi phạm chính của Fache trong vụ án mạng này
là ông".
Langdon cố nắm bắt
từng lời, nhưng nghe vẫn hết sức kỳ cục. Theo Sophie, đêm nay Langdon bị gọi
đến bảo tàng Louvre không phải với tư cách là một nhà ký tượng học mà như một
nghi phạm và hiện tại đang là mục tiêu của một trong những phương pháp tra hỏi
ưa thích nhất của DCPJ mà không biết - sous surveillance cachee - một mánh khóe
khéo léo trong đó cảnh sát thản nhiên mời kẻ tình nghi đến hiện trường vụ án và
phỏng vấn anh ta với hy vọng anh ta sẽ hoảng sợ và tự buộc tội mình.
"Hãy nhìn vào
túi bên trái áo vét-tông của ông", Sophie nói.
"Ông sẽ tìm ra
bằng chứng của việc họ đang theo dõi ông".
Langdon cảm thấy
nỗi lo sợ dâng lên. Nhìn vào túi? Nó nghe có vẻ giống một trò ảo thuật rẻ tiền.
"Cứ nhìn
xem".
Hoang mang, Langdon
cho tay vào túi bên trái của chiếc áo vet-tông tuýt - cái túi ông không bao giờ
dùng đến. Sờ khắp bên trong một lượt, ông không tìm thấy gì. Cô chờ đợi cái
quái gì chứ? ông bắt đầu tự hỏi rút cục, Sophie có điên không. Thế rồi, những
ngón tay ông chạm phải một vật gì đó. Nhỏ và cứng.
Kẹp vật tí hon giữa
các ngón tay, Langdon lôi ra và giương mắt nhìn kinh ngạc. Đó là một cái đĩa
kim loại, hình khuy, có kích thước bằng viên pin đồng hồ. Ông chưa từng nhìn
thấy nó trước đây "Vật này…?".
"Đó là thiết
bị theo dấu tích GPS", Sophie nói. "Liên tục truyền vị trí của nó với
một vệ tinh thuộc Hệ thống định vị toàn cầu mà DPCJ kiểm soát được. Chúng tôi
sử dụng nó để theo dõi vị trí của mọi người. Nó chuẩn xác tới mức trong bán
kính sáu mươi centimét ở mọi nơi trên thế gỉới. Họ xích ông bằng một sợi dây
điện tử. Viên cảnh sát đến đón ông ở khách sạn đã nhét nó vào túi ông trước khi
ông rời phòng.
Langdon nhớ lại lúc
ở phòng khách sạn… Ông tắm qua, mặc quần áo, nhân viên DPCJ lịch sự đưa cho ông
chiếc áo ngoài bằng vải tuýt khi họ rời khỏi phòng. Bên ngoài rất lạnh, ông
Langdo, viên cảnh sát nói. Mùa xuân ở Paris không hoàn toàn như trong bài hát
đâu. Langdon cảm ơn và mặc chiếc áo vào.
Đôi mắt màu ôliu
của Sophie thật sắc sảo: "Tôi đã không nói với ông về thiết bị này lúc
trước vì tôi không muốn ông kiểm tra túi áo trước mặt Fache. Ông ta không thể
biết là ông đã tìm ra nó".
Langdon không biết
phải phản ứng như thế nào.
"Họ theo dõi
ông với thiết bị GPS vì họ nghĩ ông có thể chạy trốn", cô ngừng lại. trên
thực tế, họ hy vọng ông sẽ chạy, điều đó sẽ làm cho lập luận của họ thêm vững
chắc".
"Tại sao tôi
phải chạy?" Langdon hỏi. "Tôi vô tội!".
"Fache thì
nghĩ khác".
Tức giận, Langdon
đi thắng về phía thùng rác định vất cái đĩa GPS.
"Không!"
Sophie chụp lấy tay ông, ngăn lại. "Hãy để nó vào túi áo ông. Nếu ông vất
nó đi, tín hiệu sẽ không di chuyển, và họ sẽ biết là ông đã tìm ra vật nhỏ xíu
đó. Lý do duy nhất mà Fache để ông ở một mình là vì ông ta có thể kiểm soát ông
đang ở đâu. Nếu ông ta nghĩ ông phát hiện ra việc ông ta đang làm…" Sophie
không nói hết suy nghĩ của mình. Thay vào đó, cô lấy cái đĩa nhỏ kim loại từ
tay Langdon và cho nó vào túi áo ngoài của ông: "Vật nhỏ này phải ở lại
với ông. Ít nhất là trong lúc này".
Langdon cảm thấy
hoang mang: "Làm thế quái nào mà Fache có thể tin là tôi giết Jacques
Saunière chứ?".
"Ông ta có một
vài lý do tương đối thuyết phục để nghi ngờ ông". Vẻ mặt Sophie nghiêm
nghị. "Có một tang chứng ở đây mà ông chưa thấy. Fache đã thận trọng giấu
khuất mắt ông".
Langdon chỉ biết
giương mắt nhìn.
"Ông còn nhớ
ba dòng chữ Saunière viết trên sàn chứ?".
Langdon gật đầu.
Những con số và chữ ấy đã in sâu trong tâm trí ông. Sophie hạ thấp xuống thành
một tiếng thì thầm: "Thật không may, những gì ông nhìn thấy không phải là
toàn bộ lời nhắn. Có một dòng thứ tư mà Fache đã chụp ảnh rồi xóa đi trước khi
ông tới".
Dù Langdon biết mực
hòa tan của loại bút nỉ ngấm nước có thể dễ dàng xóa đi, ông cũng không thể
tưởng tượng tại sao Fache lại xóa tang chứng.
"Dòng cuối của
lời nhắn", Sophie nói "là điều Fache không muốn ông biết", cô
dừng lại, "ít nhất cho đến khi ông ta buộc tội được ông một tấm ảnh in từ
máy tính ra khỏi túi áo và giở ra. Fache đã gửi những hình ảnh về hiện trường
vụ án đến Phòng Mật Mã lúc tối nay với hy vọng chúng tôi có thể chỉ ra lời nhắn
của Saunière định nói gì. Đây là ảnh của lời nhắn đầy đủ". Cô đưa tờ giấy
cho Langdon.
Ngỡ ngàng, Langdon
nhìn vào hình ảnh đó. Một ảnh cận cảnh phơi bày lới nhắn rực sáng trên sàn gỗ.
Dòng cuối cùng làm Langdon lo đến thắt ruột.
13-3-2-2~8-5
Ôi quỷ hà khắc!
Ôi, thánh yếu đuối!
Tái bút. Tìm Robert
Langdon.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong
nguyên bản: bị giám sát ngầm.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 13
Chương 13Trong vài giây, Langdon nhìn
vào dòng tái bút của Saunière. Tái bút. Tìm Robert Langdon. Ông thấy như thể
nền nhà đang chao đảo dưới chân. Saunière đã để lại lời tái bút với tên mình trên
đó? Trong những giấc mơ cuồng dại nhất, Langdon cũng không thể tìm ra lý do tại
sao.
"Bây giờ thì ông hiểu chứ",
Sophie nói, mắt cô thúc giục. "Tại sao Fache yêu cầu ông đến đây đêm nay
và tại sao ông là nghi phạm số một?".
Điều duy nhất mà Langdon có thể hiểu
lúc này là tại sao Fache lại có vẻ tự mãn đến thế khi Langdon nêu ý kiến rằng
lẽ ra Saunière phải chỉ đích danh kẻ giết ông ta.
Tìm Robert Langdon "Tại sao
Saunière viết dòng này?" Langdon hỏi, sự bối rối giờ nhường chỗ cho cáu
giận. "Tại sao tôi lại muốn giết ông Jacques Saunière chứ?".
Fache còn phải tìm ra một động cơ,
nhưng ông ta đã ghi âm toàn bộ cuộc nói chuyện của ông ta với ông đêm nay với
hy vọng ông có thể để lộ một điều gì đó".
Langdon mở miệng, nhưng không nói được
lời nào.
"Ông ta cài một micrô nhỏ xíu
trong người", Sophie giải thích. "Nó được nối với một máy phát trong
túi áo ông ta và truyền tín hiệu về sớ chỉ huy".
"Điều này là không thể",
Langdon lắp bắp. "Tôi có bằng chứng ngoại phạm. Tôi về thẳng khách sạn sau
buổi thuyết giảng. Các người có thể hỏi quầy tiếp tân của khách sạn".
Fache đã làm việc đó. Báo cáo của ông
ta chỉ ra rằng ông lấy chìa khóa từ người thường trực lúc khoảng 10 giờ 30 tối.
Thật không may, thời gian của vụ giết người lại là lúc gần 11 giờ. Ông có thể
dễ dàng lẻn ra khỏi phòng khách sạn mà không ai thấy".
"Điều này thật điên rồ? Fache
không có bằng chứng".
Mắt Sophie mở to
như để nói: Không có bằng chứng sao? "Ông Langdon, tên ông được viết trên
sàn nhà cạnh thi thể nạn nhân, và cuốn sổ ghi các cuộc hẹn của ông Saunière nói
rằng ông ở cùng với ông ta gần khớp với thời gian của vụ sát hại". Cô dừng
lại "Fache có thừa bằng chứng để tạm bắt ông để hỏi cung".
Langdon chợt cảm
thấy mình cần một luật sư: "Tôi không làm việc này".
Sophie thở dài: "Đây
không phải là truyền hình Mỹ, ông Langdon. Ở Pháp, luật pháp bảo vệ cảnh sát,
chứ không phải bọn tội phạm. Thật không may, trong trường hợp này, còn có cả sự
chú ý của phương tiện thông tin đại chúng. Jacques Saunière là một người rất
nổi tiếng và là nhân vật được yêu quý ở Paris, vụ sát hại ông sẽ được đưa tin
ngay sáng hôm sau. Dưới áp lực tức thời, Fache sẽ phải đưa ra một tuyên bố, và
ông ta sẽ chắc chân hơn nếu đã có một kẻ tình nghi trong phòng tạm giam. Dù ông
có tội hay không, chắc chắn ông cũng sẽ bị DCPJ giữ cho đến khi họ khám phá ra
điều đã thực sự xảy ra".
Langdon cảm thấy
như con thú trong chuồng: "Tại sao cô nói cho tôi tất cả những chuyện
này?".
"Bởi vì, ông
Langdon, tôi tin ông vô tội". Sophie nhìn đi chỗ khác trong một khoảnh
khắc và rồi lại nhìn vào mắt ông. "Và cũng vì tôi có một phần lỗi khi để
ông vướng vào chuyện này".
"Tôi xin lỗi?
Là lỗi của cô khi Saunière cố mưu hại tôi sao?".
"Saunière
không cố mưu hại ông. Đó là một lầm lẫn. Lời nhắn trên sàn nhà đó là dành cho
tôi".
Langdon cần một phút để kịp hiểu:
"Cô làm ơn nhắc lại?".
"Lời nhắn đó đó không phải cho
cảnh sát. Ông ấy viết nó cho tôi. Tôi nghĩ ông ấy đã bị buộc phải làm mọi thứ
trong lúc quá vội vã đến mức ông không nhận ra là nó sẽ được cảnh sát nhìn nhận
như thế nào". Cô dừng lại. "Mật mã số là vô nghĩa. Saunière đã viết
nó để đảm bảo rằng cuộc điều tra sẽ cần đến nhân viên giải mã, đảm bảo rằng tôi
sẽ biết càng sớm càng tốt những gì đã xảy ra với ông ấy".
Langdon thấy mình nhanh chóng mất liên
hệ với thực tại.
Việc Sophie Neveu có mất trí hay không,
đến thời điểm này, là chuyện dành cho bất cứ ai, nhưng chí ít giờ đây Langdon
hiểu tại sao cô cố gắng giúp ông. Tái bút. Tìm Robert Langdon. Rõ ràng cô tin
rằng ông phụ trách bảo tàng đã để lại một lời tái bút khó hiểu bảo cô ấy tìm
Langdon. "Nhưng tại sao cô nghĩ lời nhắn của ông ấy là dành cho cô?".
"Người Vitruvian",, cô nói
dứt khoát, "bức ký họa đó xưa nay vốn là tác phẩm của Da Vinci mà tôi yêu
thích nhất. Tối nay ông ấy đã dùng nó để lưu ý tôi".
"Khoan đã. Cô đang nói là ông phụ
trách biết tác phẩm nghệ thuật yêu thích của cô sao?".
Cô gật đầu: "Tôi xin lỗi. Chuyện
này ra khỏi thói thường. Jacques Saunière và tôi…".
Giọng Sophie nghẹn lại, và Langdon nghe
thấy một sự sầu muộn đột ngột, một quá khứ đau thương, âm ỉ ngay dưới bề mặt.
Rõ ràng Sophie và Jacques Saunière có mối quan hệ đặc biệt. Langdon chăm chú
nhìn người thiếu phụ trẻ đẹp trước mặt ông, biết rõ rằng những người đàn ông có
tuổi ở Pháp thường có những cô tình nhân trẻ tuổi. Dù là thế, việc Sophie Neveu
là "gái bao" dường như không phù hợp.
"Mười năm trước chúng tôi đã có
một mối bất hòa", Sophie nói, giọng cô thì thầm. "Từ đó, chúng tôi
hầu như không nói với nhau. Đêm nay, khi phòng Mật Mã nhận được cú điện thoại
báo là ông ấy đã bị sát hại, và khi tôi nhìn thấy những hình ảnh của thi thể và
những dòng chữ trên sàn của ông, tôi hiểu ra rằng ông đang cố gửi cho tôi một
tin nhắn".
"Do vì Người
Vitruvian sao?".
"Vâng. Và
những chữ cái P.S".
"Post
Scrip?"(1)
Cô lắc đầu
"P.S. là tên viết tắt của tôi".
Nhưng tên cô là Sophie Neuve".
Cô nhìn đi chỗ khác: "P.S. là biệt
danh ông đặt cho tôi khi tôi sống với ông". Cô đỏ mặt. "Đó là chữ
viết tắt của Princesse Sophie (Công chúa Sophie)".
Langdon không phản ứng gì.
"Thật ngớ ngẩn, tôi biết", cô
nói. "Nhưng đó là nhiều năm trước đây. Khi tôi còn là một cô bé".
"Cô biết ông ấy khi cô là một cô
bé sao?".
"Đúng vậy", cô nói, mắt rưng
rưng xúc động, "Jacques Saunière là ông tôi".
Chú thích:
(1) Nghĩa là tái
bút.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 14
Chương 14"Langdon đang ở
đâu?" Fache hỏi, phả hơi cuối cùng của điếu thuốc khi ông ta quay trở lại
sở chỉ huy.
"Vẫn ở trong nhà vệ sinh nam, thưa
ông", trung uý Collet trả lời Fache lầm bầm: "Nhẩn nha nhỉ".
Viên đại úy nhìn chấm GPS qua vai của
Collet, và Collet gần như có thể nghe thấy những bánh xe đang chuyển động.
Fache đang cố dẹp nỗi thôi thúc muốn đi kiểm tra xem Langdon còn đó hay không.
Về mặt lý tưởng, đối tượng của một cuộc giám sát được cho phép tối đa thời gian
và tự do trong phạm vi có thể, để ru ngủ hắn trong cảm giác an toàn giả tạo.
Cần phải để Langdon tự ý trở lại. Tuy nhiên đã gần mười phút rồi.
Quá lâu.
"Liệu có khả năng là Langdon biết
chúng ta theo dõi không?". Fache hỏi.
Collet lắc đầu: "Chúng ta vẫn đang
nhìn thấy những chuyển động nhỏ trong phòng vệ sinh nam, vì thế đĩa GPS chắc
chắn vẫn còn trên người ông ta. Có thể ông ta thấy không khỏe? Nếu ông ta tìm
thấy cái đĩa, chắc ông ấy đã vứt nó đi, rồi tìm cách trốn chạy".
Fache nhìn đồng hồ: "Tốt".
Tuy nhiên, Fache vẫn có vẻ băn khoăn.
Cả buổi tối, Collet cảm thấy một sự hăm hớ không xác định được nơi người chỉ
huy của mình. Bình thường vốn thản nhiên và tỉnh bơ dưới mọi áp lực nhưng tối
nay dường như Fache đầy xúc động, như thể đó là một vấn đề cá nhân đối với ông
ấy.
Không có gì đáng ngạc nhiên, Collet
nghĩ. Fache cần cuộc bắt giữ này ghê gớm. Gần đây, Hội đồng chính phủ và báo
chí đã có những chỉ trích công khai hơn đối với những chiến thuật hung dữ của
Fache, những va chạm của ông ta với các đại sứ quán của các cường quốc, và sự
vượt quá ngân sách cho công nghệ mới. Đêm nay cuộc vây bắt một người Mỹ với
công nghệ cao sẽ khiến Fache đi được một quãng đường dài tỉến tới dập tẩt những
lời chỉ trích, giúp ông ta giữ cương vị này thêm vài năm nữa cho đến khi có thể
về hưu với một khoản lương hưu hậu hĩnh. Chúa biết rằng ông ấy cần lương hưu.
Collet nghĩ. Sự hăng hái của Fache đối với công nghệ gây tổn hại cho ông cả về
mặt nghề nghiệp lẫn cuộc sống cá nhân. Người ta đồn rằng Fache đã đầu tư toàn
bộ tiền tiết kiệm của mình vào niềm ham mê công nghệ vài năm qua và ông mất
sạch, cho đến chiếc sơ-mi cuối cùng. Mà Fache lại là một người chỉ mặc áo sơmi
thượng hảo hạng.
Đêm nay, vẫn còn nhiều thời gian. Sự
cắt ngang của Sophie Neveu, dù không may, chỉ là một gợn sóng nhỏ. Giờ thì cô
ấy đã đi, và Fache vẫn còn những quân bài để chơi. Ông ta chưa nói cho Langdon
biết rằng tên ông ấy bị nạn nhân viết trên sàn.
Tái búl. Tìm Robert Langdon. Phản ứng
của người Mỹ này đối với cái chứng cứ nho nhỏ đó sẽ thực sự có tác dụng.
"Đại úy!" một nhân viên DCPJ
gọi từ phía bên kia văn phòng. "Tôi nghĩ ông nên nghe cuộc gọi này".
Anh ta giơ ống nghe ra, vẻ lo lắng.
"Ai đó?" Fache nói.
Người nhân viên cau mày: "Chỉ huy
của Phòng Mật Mã".
"Thì
sao?".
"Về Sophie Neveu, thưa ông. Có
điều gì đó không ổn".
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 15
Chương 15Đã đến lúc rồi Silas cảm thấy
khỏe khoắn khi bước ra khỏi chiếc xe Audi màu đen, một cơn gió nhẹ ban đêm thổi
tung chiếc áo choàng rộng thùng thình của hắn. Những cơn gió của sự thay đổi
đang thổi. Hắn biết nhiệm vụ trước mắt đòi hỏi sự khéo léo hơn là sức lực, và
hắn để lại súng trong xe. Thầy Giáo trang bị cho hắn khẩu Heckler mười ba băng
và khẩu Koch USP 40.
Một vũ khí giết người không có chỗ
trong ngôi nhà của Chúa.
Lúc này, quảng trường phía trước nhà
thờ lớn vắng vẻ!
Những linh hồn hiển hiện duy nhất ờ mé
kia của Quảng trường Saint - Sulpice là hai gái điếm vị thành niên đang phô
"hàng" với khách đi chơi khuya. Thân thể dậy thì của họ đánh thức một
thèm muốn quen thuộc nơi hông Silas. Đùi hắn gập lại theo bản năng, làm cho
chiếc dây lưng hành xác có ngạnh sắc cứa sâu vào thịt đau nhói.
Cơn khát dục tan biến ngay lập tức.
Trong mười năm qua, Silas một lòng một dạ khước từ mọi phóng túng tình dục,
thậm chí kể cả thủ dâm. Đó là Đạo. Hắn biết hắn đã hy sinh nhiều khi đi theo
Opus Dei, nhưng hắn nhận lại còn hơn thế rất nhiều.
Một lời nguyền sống độc thân và từ bỏ
mọi của cải cá nhân hầu như chưa phải là hy sinh. So với xuất thân nghèo khổ và
những bạo hành tình dục khủng khiếp mà hắn đã phải chịu đựng trong tù thì cuộc
sống độc thân là một sự thay đổi thú vị.
Giờ đây, trở về Pháp lần đầu tiên kể tử
khi bị bắt và đưa đến nhà tù ở Andorra, Silas có thể nhận thấy quê hương đang
thử thách hắn, đang gợi lại những ký ức đầy bạo lực từ linh hồn đã được cứu rỗi
của hắn. "Mày đã được tái sinh", hắn tự nhắc nhở mình. Hôm nay, việc
phụng sự Chúa buộc phải phạm vào tội lỗi giết người, và nó là một sự hy sinh mà
Silas biết sẽ phải lặng lẽ chôn chặt trong tim mình suốt đời.
"Thước đo sự trung thành của con là
thước đo sự đau đớn mà con có thể chịu đựng", Thầy Giáo đã nói với hắn.
Silas không phải là người lạ lẫm với sự đau đớn, vì thế hắn rất háo hức được tự
thể hiện mình với Thầy Giáo, người đã đảm bảo với hắn rằng mọi hành động của
hắn đều được sắp đặt bởi một quyền lực trên cao.
Sáng danh Chúa ở trên cao, Silas thì
thầm, đi về phía cổng vào nhà thờ.
Dừng lại trong bóng tối của cánh cổng
to đùng, hắn hít một hơi thở sâu. Đến tận lúc này, hắn mới thực sự nhận ra hắn
sắp làm gì và cái gì đang chờ đợi hắn ở bên trong.
Viên đá đỉnh vòm. Nó sẽ dẫn chúng ta
đến đích cuối cùng.
Hắn giơ bàn tay trắng như ma lên và gõ
ba lần vào cánh cửa.
Ngay sau đó, then của cánh cổng gỗ
khổng lồ bắt đầu dịch chuyển.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 16
Chương 16Sophie tự hỏi không biết phải
mất bao lâu Fache mới nhận ra rằng cô chưa rời khỏi tòa nhà. Thấy Langdon rõ
ràng đang choáng ngợp, Sophie lại tự hỏi liệu mình có làm đúng không khi dồn
ông ấy vào đây, trong phòng vệ sinh nam.
Mình có thế làm gì khác đây?
Cô hình dung xác ông cô, trần truồng,
chân tay dang ra trên sàn. Đã có thời ông là cả thế giới đối với cô, thế mà đêm
nay, Sophie ngạc nhiên cảm thấy mình gần như không buồn thương cho ông. Giờ đây
Jacques Saunière là một người xa lạ với cô.
Quan hệ của họ đã tan biến trong khoảnh
khắc vào một buổi tối tháng ba khi cô hai mươi hai tuổi. Mười năm trước. Sophie
về nhà sớm vài ngày sau khi tốt nghiệp đại học ở Anh và đã vô tình chứng kiến
ông ngoại làm một việc mà hiển nhiên Sophie không có phận sự gì để thấy. Đó là
một hình ảnh mà cho đến giờ cô vẫn không thể tin được.
Nếu mình không chính mắt nhìn thấy…
Quá xấu hổ và choáng váng không chịu
nổi những lời giải thích đau đớn của ông, ngay lập tức Sophie đã chuyển ra sống
ở ngoài một mình, mang theo số tiền dành dụm được, thuê một căn hộ nhỏ ở chung
với vài người nữa. Cô thề sẽ không bao giờ nói với bất kỳ ai về điều cô đã nhìn
thấy. Ông cô cố gắng một cách tuyệt vọng để liên lạc với cô, gửi thiếp và thư,
van xin Sophie cho gặp để ông có thể giải thích. Giải thích như thế nào? Sophie
không bao giờ trả lời trừ một lần - để cấm ông không bao giờ được gọi điện
thoại cho cô hoặc tìm cách gặp cô ở nơi công cộng. Cô sợ sự giải thích của ông
sẽ còn khủng khiếp hơn cả bản thân sự việc.
Thật khó tin, Saunière không bỏ cuộc
vẫn đeo đuổi cô, và bây giờ Sophie có cả một chồng thư chưa mở của mười năm
trong một ngăn tủ. Phải công nhận là ông chưa bao giờ làm trái yêu cầu của cô
và gọi cho cô.
Cho đến chiều nay.
"Sophie phải không?". Giọng
ông nghe già lạ lùng trong chiếc máy trả lời tự động của cô. "Ông đã tuân
theo ý muốn của cháu bao lâu rồi… và ông đau lòng mà phải gọi điện cho cháu,
nhưng ông phải nói chuyện với cháu. Một điều khủng khiếp vừa xảy ra".
Đứng trong bếp của căn hộ ở Paris của
mình, Sophie cảm thấy ớn lạnh khi nghe thấy giọng ông sau từng ấy năm. Giọng
nói nhẹ nhàng của ông mang lại cả một dòng lũ kỉ niệm mến thương thời thơ ấu.
"Sophie, xin cháu hãy nghe".
Ông đang nói tiếng Anh với cô, như ông vẫn luôn làm khi cô còn là một bé gái.
Thực hành tiếng Pháp ở trường. Thực hành tiếng Anh ở nhà. "Cháu không thể
giận mãi thế được. Cháu đã đọc những bức thư ông gửi trong suốt những năm qua
chưa? Cháu chưa hiểu sao?". Ông dừng lại.
"Chúng ta phải nói chuyện ngay lập
tức. Xin cho ông của cháu được toại cái ước nguyện duy nhất này. Hãy gọi cho
ông ở Louvre. Ngay lập tức. Ông nghĩ ông cháu mình đang trong tình thế nguy
hiểm nghiêm trọng".
Sophie nhìn cái máy trả lời tự động.
Nguy hiểm? ông đang nói về chuyện gì vậy?
"Công chúa…" Giọng ông cô vỡ
ra vì một xúc cảm mà Sophie không thể gọi tên ra được. "Ông biết ông đã
giấu cháu nhiều chuyện và ông biết điều đó đã khiến ông mất tình yêu của cháu.
Nhưng đó là vì sự an toàn của cháu. Bây giờ, cháu phải biết sự thật. Xin cháu
hãy nghe nhé, ông phải nói với cháu sự thật về gia đình cháu".
Sophie đột nhiên có thể nghe thấy tiếng
trái tim mình. Gia đình mình sao? Cha mẹ Sophie đã chết khi cô mới bốn tuổi. Xe
ô tô của họ văng ra khỏi cầu và rơi xuống dòng nước chảy siết. Bà và em trai cô
cũng ở trên xe, và cả gia đình Sophie bị xóa sạch trong phút chốc. Cô có cả một
hộp các mảnh báo cắt khẳng định điều đó.
Lời nói của ông bất ngờ làm trào lên
khát khao trong cô. Gia đình mình! Trong khoảnh khắc thoáng qua đó, Sophie nhìn
thấy những hình ảnh trong cái giấc mơ đã đánh thức cô không biết bao nhiêu lần
khi cô còn là một cô bé. Gia đình mình vẫn còn còn sống! Họ đang về nhà! Nhưng,
giống như trong giấc mơ, những hình ảnh đó tan biến vào quên lãng.
Gia đình mày đã chết, Sophie ạ. Họ
không thể trở về nhà.
"Sophie…", ông cô nói trong
máy trả lời tự động, "Ông đã chờ nhiều năm để nói với cháu. Chờ thời điểm
thích hợp, nhưng bây giờ không còn thời gian nữa. Hãy gọi cho ông ở Louvre.
Ngay khi cháu nghe được tin nhắn này. Ông sẽ chờ ở đây cả đêm. Ông e rằng cả
hai ông cháu ta đều đang gặp nguy hiểm. Có quá nhiều chuyện cháu cần
biết".
Tin nhắn kết thúc.
Trong yên lặng, Sophie đứng run hồi
lâu, có dễ đến mấy phút. Suy đi xét lại cái tin nhắn của ông cô, chỉ có một khả
năng có lý và ý đồ thực sự của ông hé lộ.
Đó là mồi nhử.
Hiển nhiên là ông cô muốn gặp cô ghê
gớm. Ông đang thử mọi cách. Sự ghê tởm đốl với ông càng sâu sắc thêm. Sophie tự
hỏi liệu có phải ông ốm thập tử nhất sinh nên đã quyết định thử mọi kế sách có
thể nghĩ ra để làm Sophie đến thăm ông lần cuối. Nếu như vậy, ông đã lựa chọn
một cách khôn ngoan.
Gia đình tôi.
Giờ đây, đứng trong bóng tối của nhà vệ
sinh nam trong bảo tàng Louvre, Sophie có thể nghe thấy tiếng vọng của tin nhắn
điện thoại lúc chiều. Sophie, cả hai ông cháu ta đều có thể đang gặp nguy hiểm.
Hãy gọi cho ông.
Cô đã không gọi cho ông. Cũng chẳng có
ý định gọi. Tuy nhiên, giờ đây, sự hoài nghi của cô đang lung lay sâu sắc. Ông
cô bị giết trong bảo tàng của chính ông. Và ông đã viết một mật mã trên sàn.
Một mật mã cho cô. Về điều này thì cô
chắc chắn.
Dù không hiểu ý nghĩa lời nhắn của ông,
nhưng Sophie chắc chắn tính chất khó hiểu của nó là một bằng chứng thêm nữa
rằng những dòng chữ đó là dành cho cô. Niềm đam mê và năng khiếu về mật mã của
Sophie là kết quả của việc lớn lên bên cạnh Jacques Saunière - bản thân ông
cũng mê các mật mã, các trò chơi đố chữ. Chúng ta đã dành bao chủ nhật để giải
những bảng mã hóa và ô chữ trên báo?
Ở tuổi mười hai, Sophie đã có thề giải
ô chữ trên tờ Le Monde mà không cần ai giúp, và ông cô nâng mức lên các ô chữ
tiếng Anh, các câu đố toán học, các mật mã thay thế.
Sophie giải được hết. Cuối cùng, cô
chuyển niềm đam mê thành nghề nghiệp bằng cách trở thành nhân viên giải mật mã
của Cảnh sát tư pháp .
Đêm nay, người giải mật mã trong Sophie
buộc phải kính nể cái cách hiệu quả mà ông cô đã vận dụng một mật mã đơn giản
để liên kết hai người hoàn toàn xa lạ - Sophie Neveu và Robert Langdon.
Câu hỏi là tại sao?
Khốn thay, bằng vào cái vẻ ngơ ngác
trong mắt Langdon, Sophie cảm thấy người Mỹ này cũng chẳng biết gì hơn cô về lý
do tại sao ông cô đầy họ lại với nhau.
Cô lại gặng hỏi: "Ông và ông tôi
dự định gặp nhau tối nay đúng không. Về chuyện gì vậy?".
Langdon có vẻ thực sự lúng túng:
"Thư ký của ông cụ đã sắp đặt một cuộc gặp mặt và không đưa ra lý do cụ
thể nào, mà tôi cũng không hỏi. Tôi đồ rằng ông cụ biết là tôi sẽ thuyết giảng
về những hình tượng ngoại đạo trong các nhà thờ lớn của Pháp, rằng ông cụ quan
tâm đến đề tài đó và nghĩ sẽ thú vị nếu hai chúng tôi gặp nhau làm vài ly sau
bài nói chuyện của tôi".
Sophie không tin
thế. Lý do không thuyết phục. Ông cô biết rõ về hệ hình tượng ngoại đạo hơn bất
cứ ai khác trên thế giới.
Hơn thế nữa, ông là
người sống riêng tư khác thường, không mấy ưa tán gẫu với các giáo sư người Mỹ
tình cờ gặp, trừ khi có một lý do quan trọng.
Sophie hít một hơi
thật sâu và thăm dò thêm: "Chiều nay, ông tôi gọi cho tôi, bảo là hai ông
cháu tôi đang trong tình thế rất nguy hiểm. Điều đó có ý nghĩa gì với ông
không?".
Đôi mắt xanh của
Langdon giờ đây bị nỗi lo lắng che phủ: "Không, nhưng xét những gì vừa xảy
ra…".
Sophie gật đầu. Xét
những sự kiện tối nay cô có họa là đồ ngu mới không sợ hãi. Cảm thấy cạn kiệt,
cô đi về phía cửa sổ làm bằng kính dầy ở cuối phòng vệ sinh và nhìn ra không
gian tĩnh lặng bên ngoài qua mạng băng lưới báo động gắn vào cửa kính. Họ đang
ở trên cao - ít nhất là 12-13 mét.
Thở dài, cô đưa mắt
nhìn ra khung cảnh tráng lệ của Paris. Bên trái cô, bên kia sông Seine là Tháp
Eiffel rực rỡ. Thẳng phía trước là Khải Hoàn Môn. Và bên phải, ở đỉnh đồi
Montmartre dốc đứng, là mái vòm duyên dáng của nhà thờ Sacré - Coeur, lớp đá
mài nhẵn rực lên trắng lóa như một thánh đường lộng lẫy.
Tại đây, ở đầu mút
cực tây của Cánh Denon, đại lộ Place du Carrousel theo hướng bắc-nam gần như
chạy ngang bằng với tòa nhà, chỉ trừ một vỉa hè hẹp ngăn cách mặt đường với
tường bao của Louvre. Tít bên dướỉ, một đoàn xe tải thường giao hàng ban đêm
trễ nải đứng, chờ cho đèn giao thông đổi màu, những ngọn đèn nhỏ như nháy mắt
trêu chọc Sophie.
"Tôi không
biết phải nói gì", Langdon tiến đến đằng sau cô.
"Hiển nhiên là
ông cô đang cố nói với chúng ta điều gì đó. Tôi xin lỗi, tôi chắng giúp được
gì".
Sophie quay từ phía
cửa sổ lại, cảm thấy sự chân thành trong giọng trầm của Langdon. Thậm chí với
tất cả những rầy rà bủa vây ông, ông vẫn thực sự muốn giúp cô. "Người thầy
giáo trong ông" cô nghĩ, bởi cô đã đọc bản miêu tả chi tiết của DCPJ về kẻ
tình nghi của họ. Đây là một giáo sư đại học rõ ràng không coi thường sự thông
cảm.
Chúng ta có điểm
này chung, cô nghĩ.
Là người giải mật mã,
cô kiếm sống bằng cách đi tìm ý nghĩa từ những dứ liệu có vẻ như vô nghĩa. Tối
nay, dự đoán tối ưu của cô là Robert Langdon, dù hữu thức hay vô thức, đang nắm
giữ cái thông tin mà cô rất cần. Công chúa Sophie, Tìm Robert Langdon. Lời nhắn
của ông cô còn có thể rõ ràng đến thế nào nữa? Sophie cần có nhiều thời gian
với Langdon hơn. Thời gian để suy nghĩ. Thời gian giải mã điều bí ẩn này cùng
nhau. Thật không may, thời gian đang cạn dần.
Chăm chú nhìn
Langdon, Sophie đánh ngón bài duy nhất mà cô có thể nghĩ ra: "Bezu Fache
sẽ tạm giam ông bất cứ lúc nào.
Tôi có thể đưa ông
ra khỏi tòa nhà bảo tàng này. Nhưng chúng ta cần hành động ngay bây giờ".
Mắt Langdon mở to:
"Cô muốn tôi chạy trốn sao?".
"Đó là điều
thông minh nhất mà ông có thể làm. Nếu bây giờ ông để cho Fache tạm giam mình,
ông sẽ phải ở trong nhà tù của Pháp nhiều tuần trong khi PCPJ và Đại sứ quán Mỹ
cãi nhau xem tòa án nào sẽ xét xử vụ của ông. Nhưng nếu chúng ta đưa được ông
ra khỏi đây để giải thích với Đại sứ quán Mỹ thì chính phủ ông sẽ bảo vệ quyền
lợi của ông trong khi chúng ta chứng minh rằng ông không liên quan gì đến vụ
sát hại này".
Langdon có vẻ không
mảy may bị thuyết phục: "Quên nó đi! Fache có lính gác vũ trang ở mọi lối
ral Thậm chí nếu chúng ta trốn thoát mà không bị bắn, thì chỉ riêng việc chạy
trốn cũng đủ khiến chúng ta giống như có tội. Cô cần nói với Fache rằng lời
nhắn trên sàn nhà là dành cho cô, và tên của tôi không phải ở đó như một lời
cáo buộc".
"Tôi sẽ làm
việc đó", Sohie nói, vội vã, "nhưng chỉ sau khi ông đã an toàn ở
trong Đại sứ quán Mỹ". Nó chỉ cách đây khoảng một dặm và xe của tôi đỗ
ngay bên ngoài bảo tàng. Đối phó với Fache từ đây là một trò may rủi. Ông không
thấy sao?
Fache đã xác định
nhiệm vụ của ông ta đêm nay là chứng minh rằng ông có tội. Lý do duy nhất khiến
ông ta trì hoãn việc bắt ông là để tiến hành sự giám sát này với hy vọng ông sẽ
làm một điều gì đó khiến cho lập luận của ông ta vững vàng hơn".
"Chính xác.
Như là chạy trốn!".
Điện thoại di động
trong túi áo len của Sophie đột nhiên đổ chuông. Chắc là Fache. Cô luồn tay vào
túi áo len và tắt máy.
"Ông
Langdon", cô nói một cách vội vã, "tôi cần hỏi ông một câu cuối
cùng!". Và có thể toàn bộ tương lai của ông phụ thuộc vào nó. "Lời
viết trên sàn nhà hiển nhiên không phải là bằng chứng kết tội ông, nhưng Fache
nói với đội chúng tôi rằng ông ta chắc chắn ông là kẻ gây án. Ông có thể nghĩ
ra lý do nào khác nữa khiến ông ta tin chắc rằng ông có tội?".
Langdon im lặng
trong vài giây: "Hoàn toàn không".
Sophie thở dài. Có nghĩa là Fache đang
nói dối. Tại sao, Sophie chưa nghĩ ra, nhưng đó không phải là vấn đề vào thời
điểm này. Thực tế vẫn cứ là đêm nay Bezu Fache quyết tâm bắt giam Langdon bằng
mọi giá. Sophie cần Langdon vì chính bản thân mình, và tình thế nan giải này
khiến cô chỉ còn một kết luận duy nhất lô-gích.
Mình cần đưa được Langdon đến Đại sứ
quán Mỹ.
Quay về phía cửa sổ, Sophie phóng mắt
qua mạng lưới báo động gắn trên những tấm kính dầy nhìn xuống đường từ độ cao
chóng mặt khoảng mười hai mét. Một cú nhảy từ độ cao này sẽ khiến Langdon gãy
cả hai chân. Thế đã là may nhất rồi.
Tuy nhiên, Sophie vẫn quyết định.
Robert Langdon sắp thoát khỏi Louvre,
dù ông có muốn hay không.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 17
Chương 17"Anh nói cô ta không trả
lời nghĩa là sao?", Fache có vẻ không tin. "Anh gọi vào máy di động
của cô ta, đúng không? Tôi biết cô ta có mang theo mà".
Collet đã cố liên lạc với Sophie trong
vài phút vừa qua: "Có thể máy cô ấy hết pin. Hoặc hỏng chuông".
Fache có vẻ lo lắng kể từ khi nói
chuyện qua điện thoại với chỉ huy Phòng Mật Mã. Sau khi gác máy, ông ta đi đến
chỗ Conet và yêu cầu anh liên lạc với Sophie Neveu. Giờ đây Collet đã gọi mãi
không được và Fache đi đi lại lại như con sư tử.
"Tại sao Phòng Mật Mã lại gọi
tới?" Collet đánh bạo hỏi.
Fache quay lại: "Để nói với chúng
ta rằng họ không tìm ra tài liệu tham khảo nào có nhắc đến "quỷ hà khắc và
thánh yếu đuối".
"Có thế thôi ư?".
"Không, cũng để nói rằng họ đã
nhận ra mật mã để lại là dãy số Fibonacci, nhưng họ ngờ rằng dãy số này là vô
nghĩa".
Collet bối rối: "Nhưng họ vừa cử
nhân viên Neveu đến để nói với chúng ta điều đó".
Fache lắc đầu: "Họ không cử Neveu
đến".
"Gì cơ?".
"Người chỉ huy nói rằng theo mệnh
lệnh của tôi, ông ấy đã gọi tất cả đội đến xem những bức ảnh tôi gửi cho ông
ta. Khi nhân viên Neveu đến, cô nhìn những tấm ảnh chụp Saunière và mật mã rồi
rời văn phòng mà không nói một lời nào. Người chỉ huy nói ông ta không thắc mắc
về ứng xử của cô ấy vì cũng dễ hiểu là cô ta bị xáo đảo bởi những bức ảnh
đó".
"Xáo đảo?". Cô ấy chưa bao giờ
nhìn thấy một bức ảnh chụp một xác chết sao?".
Fache im lặng trong giây lát:
"Hình như Sophie Neveu là cháu gái gọi Jacques Saunière bằng ông. Tôi đã
không biết điều này và có vẻ như người chỉ huy cũng không biết cho đến khi một
đồng nghiệp nói với ông ta".
Collet lặng đi.
Người chỉ huy nói rằng cô ta không bao
giờ nhắc đến Saunière với ông ta, và ông ta cho rằng đó là do có thể cô ta
không muốn được ưu đãi vì có một người ông nổi tiếng".
Không có gì là lạ khi cô ấy bị xáo đảo
bởi các bức ảnh. Collet khó có thể quan niệm được sự trùng hợp bất hạnh đã xui
khiến một phụ nữ trẻ đến giải một mật mã bí ẩn được viết bởi một người thân đã
chết trong gia đình. Tuy nhiên, những hành động của cô ấy chẳng có nghĩa gì cả.
"Nhưng rõ ràng cô ta đã nhận ra các con số đó là dãy số Fibonacci bởi vì
cô ấy đã đến đây và nói cho chúng ta biết. Tôi không hiểu tại sao cô ấy rời
khỏi phòng Mật Mã mà không nói với ai là cô đã tìm ra nó".
Collet chỉ có thể nghĩ ra một kịch bản
duy nhất để giải thích cho những diễn tiến phức tạp đó: Saunière đã viết một
mật mã số trên sàn với hy vọng Fache sẽ yêu cầu những người giải mật mã tham
gia vào cuộc điều tra, và như thế sẽ có cháu gái của ông ta. Về phần còn lại
của lời nhắn, liệu có phải Saunière bằng cách nào đó đang liên lạc với cháu ông
ta? Nếu thế, lời nhắn nói với cô ta điều gì? Và Langdon có liên quan như thế
nào?
Trước khi Collet có thể suy nghĩ kỹ
càng hơn, sự tĩnh lặng của bảo tàng bị phá vỡ bởi tiếng chuông báo động. Tiếng
chuông nghe như phát ra từ bên trong Hành Lang Lớn.
"Alarme!"(1) một trong số các
nhân viên hét lên, quan sát con mồi của anh ta từ trong trung tâm An ninh của
Louvre: "Grande Galerie! Toilettes Messieurs!"(2).
Fache chạy tới chỗ Collet:
"Langdon đang ở đâu?".
"Vẫn trong phòng vệ sinh
naml" Collet chỉ vào chấm đỏ đang nhấp nhảy trên bản đồ trong máy tính
xách tay: "Chắc ông ta đã phá cửa sổ!" Collet biết Langdon sẽ không
thể đi xa.
Mặc dù các qui định về cứu hỏa của
Paris yêu cầu các cửa sổ trên mười lăm mét trong các tòa nhà công cộng phải có
thể phá vỡ được trong trường hợp hỏa hoạn, nhưng việc nhảy qua cửa sổ tầng hai
của Louvre mà không có sự trợ giúp của móc sắt và thang sẽ chẳng khác nào tự
sát. Hơn nữa, không có cây cối hay thảm cỏ ở phía tây của Cánh Denon để làm đệm
cho người ngã. Ngay bên dưới cửa sổ phòng vệ sinh đó là đường Place du Carousel
với hai làn xe chạy chỉ cách tường bao của bảo tàng chừng một mét. "Lạy
Chúa tôi", Collet kêu lên, nhìn trừng trừng vào màn hình, "Langdon
đang đi đến rìa cửa sổ".
Nhưng Fache đã sẵn sàng hành động. Rút
khẩu Manurhin MR-93 từ bao súng ở vai, viên đại uý lao ra khỏi văn phòng.
Collet hoang mang nhìn màn hình khi
chấm nhấp nháy đến rìa cửa sổ rồi làm một điều gì đó hoàn toàn bất ngờ. Điểm
sáng đã di chuyển ra bên ngoài chu vi của tòa nhà.
Điều gì đang diến ra? Anh tự hỏi.
Langdon đang ở trên rỉa cửa sổ hay…
"Chúa ơi!" Collet chồm dạy
khi chấm sáng nhảy xa hơn, ra bên ngoài bức tường. Tín hiệu dường như rùng mình
trong giây lát và rồi sau đó chấm nhấp nháy dừng đột ngột ở một điểm cách
khoảng mười mét bên ngoài chu vi tòa nhà.
Rở rẫm với bộ điều khiển, Collet bấm
gọi một bản đồ đường phố Paris để xác định vị trí của chấm GPS. Sau khi phóng
to ra, anh có thể nhìn thấy vị trí chính xác của tín hiệu.
Nó không còn di chuyển nữa.
Nó nằm im ở ngay giữa đường Place du
Carrousel.
Langdon đã nhảy xuống.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Báo
động!
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Hành
Lang Lớn! Phòng vệ sinh nam!
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 18
Chương 18Fache chạy hết tốc lực theo
Hành Lang Lớn trong khi tiếng Collet oang oang trên điện đàm át cả tiếng chuông
báo động đằng xa.
"Ông ta nhảy rồi!" Collet la
lên. "Tôi nhìn thấy tín hiệu trên đường Place du Carrousel? Bên ngoài cửa
sổ phòng vệ sinh? Và nó không di chuyển nữa. Chúa ơi, tôi nghĩ Langdon vừa tự
tử!".
Fache nghe thấy những lời này, nhưng
chúng chẳng có nghĩa gì. Ông ta vẫn chạy. Hành lang dường như bất tận. Khi chạy
qua thi thể Saunière, ông ta nhìn về phía những vách ngăn ở phía cuối của Cánh
Denon. Chuông báo động lúc này kêu to hơn.
"Khoan!". Giọng của Collet
lại vang lên thất thanh trên điện đàm. "Ông ta đang di chuyển! Chúa ơi,
ông ta còn sống. Langdon đang di chuyển!".
Fache vẫn chạy, mỗi bước lại nguyền rủa
cái hành lang dài bất tận.
"Langdon đang di chuyển nhanh hơn!"
Collet vẫn gào lên trên radio. "Ông ta đang chạy theo đường Carousel.
Khoan…
Ông ta đang tăng tốc. Ông ta đang di
chuyển quá nhanh!".
Đến chỗ những vách ngăn, Fache chạy
ngoằn ngoèo qua chúng, nhìn thấy phòng vệ sinh, ông chạy tới đó.
Tiếng điện đàm lúc này rất khó nghe qua
tiếng còi báo động: "Chắc là ông ta dang ở trong một chiếc ô tô! tôi nghĩ
ông ta đang ở trong một chiếc ô tô! Tôi không thể…".
Những lời của Collet bị nuốt chửng bởi
tiếng còi báo động khi cuối cùng Fache xông vào phòng vệ sinh nam với khẩu súng
trong tay. Nhăn mặt vì tiếng còi chói tai, ông ta lia mắt nhìn khắp.
Các khoang đều trống không. Phòng vệ
sinh không có ai.
Mắt Fache ngay lập tức nhìn vào cái cửa
sổ bị phá vỡ ở phía cuối phòng. Ông ta chạy tới lỗ hổng và nhìn qua na cửa sổ.
Chẳng thấy Langdon đâu. Fache không thể tướng tượng có ai dám liều một cú như
thế. Nếu rớt xa từ độ cao này, chắc chắn ông ta sẽ bị thương nặng.
Cuối cùng, chuông báo động cũng ngừng
kêu, và giọng của Collet lại có thể nghe thấy qua điện đàm.
"Đi về hướng nam… nhanh hơn… vượt
qua sông Seine trên cầu Carrousel!".
Fache quay sang trái. Chiếc xe duy nhất
trên cầu Carrousel là chiếc xe tải giao hàng to gồm hai thùng xe nối nhau hiệu
Trailor đang đi về phía nam xa dần khỏi Louvre. Thùng xe được phủ tấm bạt bằng
nhựa, giống như một cái võng khổng lồ.
Fache cảm thấy sợ hãi. Chiếc xe tải đó,
chỉ một vài khoảnh khắc trước đây, có thể đã dừng ở cột đèn đỏ thẳng ngay bên
dưới cửa sổ phòng vệ sinh.
Một sự liều lĩnh điên rồ! Fache tự nhủ.
Langdon không biết cái xe chở gì bên dưới tấm bạt. Điều gì sẽ xảy ra nếu chiếc
xe đó chở thép? Hay xi măng? hoặc thậm chí là rác? Một cú nhảy mười ba mét ư?
Đó quả là điên rồ.
"Điểm sáng đang chuyển
hướng?", Collet nói. "Ông ta đang rẽ phải vào đường Pont des Saints -
Pères?".
Chắc chắn rồi, chiếc xe tải Trailor đã
lên cầu đang chầm chậm đi xuống và rẽ phải vào đường Pont des Saints - Peres.
Đúng là nó rồi, Fache nghĩ. Ngạc nhiên, ông thấy cái xe tải biến mất ở góc phố.
Collet đang gọi cho các nhân viên ra ngoài, rút khỏi bảo tàng và lên xe tuần
tra đuổi theo, tất cả những thông báo về vị trí đang thay đổi của chiếc xe tải
giống một bài phát thanh trực tiếp kỳ lạ. Chuyện này rồi cũng kết thúc thôi,
Fache biết. Lính của ông sẽ bao vây chiếc xe tải sau vài phút. Langdon sẽ không
thể đi bất cứ đâu.
Cất khẩu súng, Fache rời khỏi phòng vệ
sinh và gọi cho Collet: "Mang xe ra cho tôi, tôi muốn có mặt ở đó khi
chúng ta bắt ông ta".
Khi Fache chạy ngược lại dọc Hành Lang
Lớn, ông ta tự hỏi liệu Langdon còn sống sau cú ngã không.
Điều đó không quan trọng.
Langdon chạy trốn, vậy là phạm tội như
đã cáo buộc.
Chỉ cách phòng vệ sinh mười lăm mét,
Langdon và Sophie đứng trong bóng tối của Hành Lang Lớn, lưng áp chặt vào một
trong những vách ngăn che khuất phòng vệ sinh khỏi hành lang. Họ chỉ vừa kịp
nấp ngay trước khi Fache phóng qua họ, súng đã rút ra, và mất hút trong phòng
vệ sinh.
Sáu mươi giây vừa qua như một cảnh mờ
ảo.
Langdon đã đứng trong phòng vệ sinh
nam, không chịu chạy trốn khỏi một tội ác mà ông không hề phạm phái, trong khi
Sophie quan sát cánh cửa sổ bằng kính dày và mạng lưới báo động dăng trên đó.
Sau đó cô nhìn xuống đường như thể đo cự ly rơi.
"Với một chút cố gắng nhằm cho
trúng, ông có thể ra khỏi đây cô nói".
"Nhằm trúng!". Lo lắng, ông
nhìn qua cửa sổ phòng vệ sinh.
Trên phố, một chiếc xe khổng lồ mười
tám bánh hai thùng đang chạy về phía trụ đèn giao thông ngay dưới cửa sổ. Một
tấm bạt vi-ni-lông màu xanh căng qua thùng chở hàng rộng, che hàng hóa một cách
lỏng lẻo. Langdon hy vọng Sophie không nghĩ những điều mà có vẻ như cô đang
nghĩ tới.
"Sophie, tôi không thể
nhảy…".
"Ông lấy cái đĩa GPS ra đi".
Ngỡ ngàng, Langdon dò trong túi cho đến
khi tìm lhấy cái đĩa kim loại tí hon. Sophie đón lấy nó từ tay Langdon và ngay
lập tức bước về phía bồn nước. Cô lấy một bánh xà phòng to, đặt cái đĩa lên
trên rồi lấy ngón tay cái ấn nó vào trong bánh xà phòng. Khi cái đĩa lún sâu
vào bề mặt mềm, cô miết cho cái lỗ hổng kín lại, khép chặt thiết bị đó trong
bánh xà phòng.
Đưa bánh xà phòng cho Langdon, Sophie
lấy cái thùng rác nặng, hình trụ từ bên dưới bồn nước. Trước khi Langdon kịp
phản kháng, Sophie chạy tới cửa sổ, giơ cái thùng ra đằng trước như cây trụ phá
thành thời xưa. Thúc mạnh đáy thùng vào giữa cửa sổ, cô phá tan mặt kính.
Chuông báo động kêu như xé tai ngay
trên đầu.
"Đưa cho tôi bánh xà phòng!"
Sophie hét lên, tiếng cô hầu như không nghe thấy qua tiếng chuông báo động.
Langdon nhét bánh xà phòng vào tay cô.
Giữ chặt bánh xà phòng, cô nhìn qua cửa
sổ bị vỡ xuống cái xe mười tám bánh đang đỗ bên dưới. Mục tiêu rất lớn - một
tấm bạt rộng, đứng yên - và chỉ cách sườn tòa nhà không đến ba mét. Khi đèn
giao thông chuẩn bị chuyển màu, Sophie thở sâu và ném bánh xà phòng vào màn
đêm.
Bánh xà phòng lao thắng về phía xe tải,
rơi xuống mép của tấm bạt vào trong thùng hàng ngay khi đèn giao thông chuyển
sang màu xanh.
"Chúc mừng", Sophie nói, lôi
Langdon về phía cửa. "Ông vừa thoát ra khỏi Louvre".
Chạy khỏi phòng vệ sinh nam, họ chìm
vào bóng tối ngay khi Fache chạy qua.
Bây giờ, còi báo động đã tắt, Langdon
có thể nghe thấy tiếng còi xe của DCPJ đang rời khỏi Louvre. Cảnh sát lũ lượt
kéo đi.
Fache cũng vội vã rời đi, để lại Hành
Lang Lớn trống không.
"Có một cầu thang thoát hiểm cách
đây khoảng năm mươi mét, trở lui vào Hành Lang Lớn", Sophie nói. "Bây
giờ lính gác đã đi khỏi tòa nhà, chúng ta có thể ra khỏi đây".
Langdon quyết định không nói một lời
nào nữa trong suốt buổi tối. Sophie Neveu rõ ràng thông minh hơn ông rất nhiều.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 19
Chương 19Nghe nói Nhà thờ ờ Saint -
Sulpice có lịch sử khác thường nhất so với bất kỳ tòa nhà nào khác ở Paris. Xây
dựng trên đống đổ nát của một đền thờ cổ xưa thờ nữ thần Ai Cập Isis, nhà thờ
có mặt bằng kiến trúc xấp xỉ với Nhà thờ Đức Bà chỉ xê xích nhau vài phân.
Thánh đường này đã từng là nơi diễn ra lễ rửa tội của Marquis de Sade và
Baudelaire, cũng như đám cưới của Victor Hugo. Trường dòng gắn liền với nhà thờ
có lịch sử được ghi chép cẩn thận về sự không chính thống, nó đã từng là phòng
họp bí mật của nhiều hội kín.
Đêm nay, gian chính thăm thầm của nhà
thờ Saint-Sulpice yên ắng như một hầm mộ, dấu hiệu duy nhấl của sự sống là mùi
thoang thoảng của hưưng trầm từ buổi lễ trước đó. Silas nhận thấy sự không
thoải mái trong thái độ của Xơ Sandrine khi bà dẫn hắn vào nơi tôn nghiêm. Hắn
không ngạc nhiên vì điều này. Silas đã quen với việc mọi người không thoải mái
với sự xuất hiện của hắn.
"Cậu là người Mỹ", bà nói.
"Gốc Pháp", Silas trả lời.
"Con gia nhập dòng tu của mình ở Tây ban nha, và hiện nay con đang học ở
Mỹ".
Xơ Sandrine gật đầu. Bà là một người
nhỏ bé với đôi mắt hiền từ: "Và cậu chưa từng nhìn thấy
Saint-Sulpice?".
"Con nhận ra rằng điều đó tự thân
nó đã gần như là một tội lỗi".
"Nhà thờ đẹp hơn vào ban
ngày".
"Con chắc chắn là thế. Dù sao, con
vẫn đội ơn Xơ đã cho con cơ hội đêm nay".
"Cha trưởng tu viện đã yêu cầu như
thế. Cậu rõ ràng là có những người bạn đầy quyền lực".
Bà chẳng biết mô tê gì, Silas nghĩ.
Trong khi theo Xơ Sandrine đi dọc lối
đi chỉnh, Silas ngạc nhiên trước sự khắc khổ của thánh đường này. Không giống
Notre Dame với những bức tranh tường nhiều màu sắc, những bàn thờ mạ vàng và gỗ
ấm, Saint - Sulpice trơ trụi và lạnh lẽo, mang một tính chất gần như cằn cỗi
gọi nhớ đến các nhà thờ khổ hạnh của Tây Ban Nha. Sự thiếu vắng các đồ trang
hoàng làm cho bên trong càng có vẻ rộng hơn, và khi Silas nhìn lên mái vòm cao
vút, hắn tưởng tượng như đang đứng dưới một con thuyền khổng lồ úp xấp.
Một hình ảnh thích hợp, hắn nghĩ. Con
thuyền của hội kín đó sẽ bị úp xấp mãi mãi. Cảm thấy háo hức muốn bắt tay vào
việc, Silas những muốn Xơ Sandrine cứ để mặc hắn. Bà là một người nhỏ bé mà
Silas có thể vô hiệu hóa dễ dàng, nhưng hắn đã thề không dùng bạo lực trừ phi
thực sự cần thiết. Bà là một nữ tu sĩ, đâu phải lỗi tại bà khi hội kín đó chọn
nhà thờ của bà làm nơi cât giấu viên đá đỉnh vòm. Bà không đáng bị trừng phạt
vì tội lỗi của người khác.
"Con thật áy náy đã đánh thức Xơ
vì lợi ích cá nhân mình".
"Không sao.
Cậu ở Paris trong thời gian ngắn. Cậu không nên bỏ lỡ dịp tham quan
Saint-Sulpice. Cậu quan tâm đến nhà thờ này về kiến trúc hay lịch sử?".
"Thực chất,
thưa Xơ, sự quan tâm của con là tâm linh".
Bà cười vui vẻ:
"Điều đó không cần phải nói. Tôi chỉ phân vân không biết bắt đầu dẫn cậu
đi xem từ đâu?".
Silas dồn mắt vào
bàn thờ: "Không cần thiết phải dẫn đâu ạ.
Xơ thật quá chu
đáo. Con có thể tự mình đi xem".
"Không sao
đâu", bà nói, "Tôi đã tỉnh ngủ".
Silas dừng lại. Họ
đã đến hàng ghế đầu, và bàn thờ chỉ cách đó mười lăm thước. Quay cả thân hình
đồ sộ lại phía người đàn bà nhỏ bé, hắn có thể cảm thấy bà co người lại khi
ngước nhìn vào đôi mắt đỏ đọc của hắn. "Nói thế này khí thô lỗ, thưa Xơ,
con không có thói quen bước vào ngôi nhà của Chúa chỉ đơn thuần để tham quan.
Xơ có phiền nếu con muốn thư thả một mình để cầu nguyện trước khi đi xem xung
quanh không?".
Xơ Sandrine do dự:
"Ồ, tất nhiên là không, tôi sẽ đợi cậu ở đằng sau nhà thờ".
Silas đặt bàn tay
mềm nhưng nặng lên vai bà và nhìn xuống:
"Xơ ạ con cảm
thấy có lỗi vì đã đánh thức Xơ dậy. Giờ lại yêu cầu Xơ thức chờ nữa thì thật
quá đáng. Xin Xơ hãy trở lại giường. Con có thể tự thưởng ngoạn thánh đường của
Xơ rồi tự ra về".
Bà có vẻ không an
tâm: "Cậu chắc là cậu sẽ không cảm thấy bị bỏ rơi chứ?".
"Hoàn toàn
không. Cầu nguyện là một niềm vui cô độc".
"Tùy cậu thôi!".
Silas rút tay lại:
"Chúc ngủ ngon! Xơ. Cầu cho sự an lành của Chúa luôn ở cùng Xơ".
"Và ở cùng cậu
nữa". Xơ Sandrine đi về phía cầu thang.
"Nhớ đóng chặt
các cánh cửa khi cậu ra về nhé".
"Con sẽ đảm
bảo điều đó", Silas nhìn theo cho đến khi bà đi khuất. Sau đó hắn quay lại
và quỳ trên ghế băng đằng trước, cảm thấy cái dây lưng hành xác cứa vào chân.
Chúa kính yêu, con
dâng lên Người công việc mà con làm hppm nay…
Cúi mình trong bóng
tối của ban công dàn thánh ca ở phía trên bàn thờ, Xơ Sandrine lặng lẽ nhìn qua
hàng lan can, quan sát người thầy tu mặc áo choàng dài đang quỳ gối một mình.
Nỗi khiếp sợ bất chợt trong linh hồn khiến bà khó có thể ngủ được.
Trong giây phút thoáng qua, bà tự hỏi
liệu vị khách bí ẩn này có thể là kẻ thù mà họ đã cảnh báo bà không, và liệu
đêm nay bà có phải chấp hành những mệnh lệnh mà bà vẫn ghi nhớ suốt những năm
qua không. Bà quyết định ở lại trong bóng tối và theo dõi mọi cử động của hắn.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 20
Chương 20Ra khỏi bóng tối, Langdon và
Sophie len lén đi ngược hành lang vắng lặng, tiến về phía cầu thang thoát hiểm.
Vừa bước đi, Langdon vừa cảm thấy như
đang cố làm một trò chơi ghép hình trong bóng tối. Khía cạnh mới nhất của bí ẩn
này là một điều làm ông hoang mang sâu sắc: Tay đại uý Cảnh sát tư pháp đang cố
tạo dựng chúng cớ để khép mình vào tội giết người.
"Cô có nghĩ", ông thì thầm,
"rằng có thể Fache là người viết lời nhắn trên sàn đó không?".
Sophie thậm chí không ngoảnh mặt lại:
"Không thể nào".
Langdon thì không chắc chắn như vậy:
"Ông ta dường như cố ý chứng minh là tôi phạm tội. Có lẽ ông ta nghĩ viết
tên tôi lên sàn sẽ giúp ông ta phá án chăng?".
"Thế còn dãy số Fibonacci? Hai chữ
P.S.? Và cả bức ký họa Da Vinci và biểu tượng nữ thần nữa? Tất cả thảy là của
ông tôi".
Langdon biết rằng cô ấy đúng. Tính biểu
tượng của các đầu mối ăn khớp với nhau quá hoàn hảo hình sao năm cánh, bức ký
họa Người Vitruvian của Da Vinci, nữ thần và cả cái dãy số Fibonacci ấy nữa.
"Một bộ biểu tượng nhất quán" như cách gọi của các nhà nghiên cứu
hình tượng minh họa. Tất cả kết nối với nhau chặt chẽ không cách chi gỡ ra nổi.
"Và chiều nay ông tôi đã gọi cho
tôi", Sophie nói thêm. "Ông bảo ông cần nói với tôi một điều gì đó.
Tôi chắc lời nhắn của ông tại bảo tàng Louvre là những nỗ lực tối hậu để nói
cho tôi biết điều gì đó quan trọng, một điều mà ông tôi nghĩ ông có thể giúp
tôi hiểu".
Langdon cau mày. Ôi, quỷ hà khắc! Ôi
thánh yếu đuối! Ông ước mình có thể hiểu rõ lời nhắn đó, vừa vì lợi ích của
Sophie vừa vì chính ông nữa. Sự thể rành là đã xấu đi kể từ khi ông nhìn thấy
lần đầu tiên những từ ngữ khó hiểu đó. Cái kẻ đóng giả ông nhảy qua cửa sổ nhà
vệ sinh sẽ chẳng khiến Fache mến mộ Langdon thêm chút nào. Cách nào đó, ông
không tin rằng viên đại uý cảnh sát Pháp có thể thấy được nét hài hước trong
việc đuổi bắt một bánh xà phòng.
"Lối vào không còn xa lắm
đâu", Sophie nói.
"Liệu có khả năng những con số
trong tin nhắn của ông cô chứa đựng chìa khoá để hiểu những dòng khác
không?".
Langdon đã từng nghiên cứu một loạt văn
bản viết tay của người Baconian, những văn tự có kí tự khắc trên bia đá, trong
đó mã số nằm ở một số dòng nhất định là đầu mối để giải mã những dòng khác.
Cả tối nay tôi đã nghĩ về những con số
đó. Những phép tính, thương số, kết quả. Tôi chẳng thấy được điều gì cả. Về mặt
toán học mà nói, chúng được sắp xếp một cách ngẫu nhiên. Một chuỗi kí tự tào
lao".
"Nhưng chúng là một phần của dãy
số Fibonacci. Đó không thể là sự trùng hợp được".
"Đúng thế. Sử dụng dãy số
Fibonacci là một cách khác để ông tôi thu hút sự chú ý của tôi - cũng như viết
lời nhắn bằng tiếng Anh, hoặc sắp xếp thân thể mình theo tư thế hệl như cái tác
phẩm nghệ thuật ưa thích của tôi, hoặc vẽ một hình sao năm cánh lên người mình.
Tất cả chỉ để thu hút sự chú ý của tôi".
"Hình sao năm cánh có ý nghĩa đối
với cô?".
"Vâng. Tôi chưa có cơ hội để nói
với ông, nhưng hình sao năm cánh là một kí hiệu đặc biệt giữa ông cháu tôi hồi
tôi còn nhỏ. Chúng tôi thường chơi bài Taro để giải trí, và con bài hiệu do tôi
rút bao giờ cũng nằm trong bộ sao năm cánh. Tôi dám chắc ông đã sắp bài cho nó
ra như thế, nhưng những bộ sao năm cánh chỉ là trò đùa nho nhỏ của chúng tôi
thôi".
Langdon cảm thấy rùng mình. Họ đã từng
chơi bài Taro ư? Trò chơi bài này của người Ý thời trung cổ tự nó đã ẩn giấu
quá nhiều những biểu tượng dị giáo đến nỗi Langdon đã dành toàn bộ một chương
trong bản thảo mới của ông để viết về bài Taro. Hai mươi hai quân bài của trò
chơi này có những cái tên như: "Nữ giáo hoàng, nữ hoàng và Ngôi sao".
Thoạt kỳ thuỷ, bài Taro được bày tạo ra như là một phương cách bí mật để truyền
đi những tư tưởng bị Nhà Thờ cấm đoán. Ngày nay, bí ẩn trên những quân bài Taro
dược những bà thầy bói thời hiện đại lưu truyền.
Bộ bài hiệu Taro hợp với tính nữ thiêng
liêng lò bộ sao năm cánh.
Langdon nghĩ, nhận ra rằng nếu Saunière
sắp bài cho cô cháu gái như thế cho vui thì bộ sao năm cánh là trò đùa có nội
dung thích hợp.
Họ đã đến cầu thang thoát hiểm, và
Sophie thận trọng đẩy cửa. Không có chuông báo động nào kêu cả. Chỉ có những
cánh cửa dẫn ra bên ngoài là có cài hệ thống báo động. Sophie dẫn Langdon xuống
một cầu thang hẹp ngoằn ngoèo dẫn đến tầng trệt, mỗi lúc một rảo bước nhanh
hơn.
"Khi nói về hình sao năm
cánh", Langdon nói, vội vã theo sau cô, "Ông cô có đề cập đến việc
thờ nữ thần hay bất cứ một phẫn uất nào đối với Nhà thờ Cơ đốc chính thống
không?".
Sophie lắc đầu: "Tôi quan tâm
nhiều hơn đến khía cạnh toán học của nó - Tỷ lệ thần thánh PHI, dãy số
Fibonacci, đại loại như thế.".
Langdon ngạc nhiên: "Ông cô dạy cô
về số PHI à?".
"Tất nhiên. Tỷ lệ thần thánh
đó". Vẻ mặt cô trở nên ngượng ngập. "Thực tế, ông thường hay nói đùa
rằng nửa phần tôi là thần thánh… Ông biết đấy, đó là do những chữ cái trong tên
tôi".
Langdon suy nghĩ trong chốc lát rồi lẩm
nhẩm.
s-o-P-H-I-e.
Vừa đi xuống Langdon vừa tập trung ngẫm
nghĩ lại số PHI.
Ông bắt đầu nhận ra rằng những đầu mối
của Saunière có thực chất hơn ông tưởng lúc đầu.
Da Vinci… dãy số Fibonacci… hình sao
năm cánh.
Không thể tin được, tất cả những điều
này đều được kết nối bởi độc một khái niệm cơ bản của lịch sử nghệ thuật mà
Langdon thường dành cả mấy tiết học để giảng về nó.
PHI
Ông cảm thấy như đột nhiên quay về đại
học Harward, đứng trong giờ giảng Chữ nghĩa tượng trưng trong nghệ thuật của
mình, viết con số ưa thích lên bảng đen.
1,618
Langdon quay mặt về phía đám đông sinh
viên dầy hào hứng: "Ai có thể nói cho tôi biết con số này là gì?".
Một sinh viên chân dài chuyên ngành
toán học ngồi ở phía sau giơ tay: "Đó là số PHI". Cậu ta dài giọng
ph-i-i.
"Tốt lắm Stettner", Langdon
nói, "xin giới thiệu PHI với tất cả".
"Đừng có nhầm lẫn với PI",
Stettner thêm vào rồi cười toét. Như cánh toán học chúng tôi thích nói:
"PHI hơn hẳn PI một con H".
Langdon cười nhưng dường như không ai
hiểu câu nói đùa đó.
Stettner buồn thiu.
"Số PHI
này". Langdon tiếp tục, "một-phấy-sáu-một-tám, là một con số vô cùng
quan trọng trong nghệ thuật. Ai có lhể nói cho tôi biết tại sao?".
Stettner cố chứng
tỏ mình lần nữa: "Bởi vì nó rất đẹp phải không ạ?".
Mọi người cười rộ
lên.
"Thực
ra", Langdon nói, "Stettner lại một lần nữa nói đúng. Nói tóm lại,
PHI được coi là con số đẹp nhất trong vũ trụ".
Tiếng cười đột ngột
dứt hắn, và Stettner đắc chí.
Vừa lắp phim vào
máy chiếu Slide, Langdon vừa giải thích rằng số PHI bắt nguồn từ dãy số
Fibonacci - một cấp số nổi tiếng không chỉ vì tổng số những số hạng kề nhau sẽ
bằng số hạng kế tiếp, mà còn bởi thương số của những số hạng kề nhau có một đặc
tính kỳ lạ là đều suýt xoát số l,618 - PHI!
Mặc dù nguồn gốc
toán học của số PHI có vẻ như huyền bí, Langdon giải thích, khía cạnh gây sửng
sốt thực sự của PHI lại nằm ở vai trò của nó với tư cách là một nhân tố xây
dựng mang tính nền tảng trong tự nhiên. Thực vật, động vật, và thậm chí cả con
người đều có những thuộc tính về kích thước gắn chặt với tỉ số giữa PHI và 1 tới
một dộ chính xác kỳ bí!
"Số PHI có mặt
khắp nơi trong tự nhiên", Langdon vừa nói vừa tắt đèn, "rõ ràng điều
đó vượt quá sự trùng hợp, và vì vậy nên người xưa cho rằng con số PHI hần là đã
được tiền định bởi Đấng Sáng Thế. Các nhà khoa học buổi ban đầu đã tuyên bố một
- phẩy - sáu - một - tám là Tỷ lệ thần thánh".
"Khoan",
một cô gái ở hàng ghế đầu lên tiếng, "Tôi là sinh viên chuyên khoa sinh
học và tôi chưa bao giờ thấy Tỷ lệ thần thánh này trong tự nhiên cả".
"Chưa à?", Langdon mỉm cười.
"Bạn đã bao giờ nghiên cứu con cái và con đực trong xã hội của loài ong
chưa?".
"Đương nhiên rồi. Sô ong cái luôn
nhiều hơn số ong đực".
"Chính xác. Và bạn có biết rằng
nếu bạn chia số ong cái cho số ong đực trong bất cứ một tổ ong nào trên thế
giới, bạn luôn được cùng một số thương không?".
"Thầy đã làm rồi ạ?".
"Đúng vậy. Số PHI".
Cô gái há hốc miệng: "Không thể
nào?".
"Hoàn toàn có thể!". Langdon
quặc lại, rồi mỉm cười chiếu một hình vỏ ốc trên slide. "Bạn nhận ra cái
này chứ?".
"Đó là một con ốc anh vũ", cô
sinh viên sinh học nói. "Một loài nhuyễn thể có vỏ cứng, có thể đẩy không
khí vào trong vỏ để điều chỉnh độ nổi hay chìm trong nước".
"Chính xác. Và bạn có thể đoán
được tỉ số của mỗi đường kính vòng xoắn này với đường kính vòng xoắn kế tiếp không?".
Cô gái có vẻ phân vân khi quan sát
những vòng tròn đồng tâm trên vỏ xoắn của con ốc anh vũ.
Langdon gật đầu: "PHI. Tỷ lệ thần
thánh. Một-phẩy-sáu-một-tám trên một".
Trông cô gái đầy vẻ kinh ngạc.
Langdon chuyển sang tấm slide tiếp theo
- bản chụp cận cảnh một đầu hạt hoa hướng dương: "Hạt hoa hướng dương có
những vòng xoáy đối ngược nhau. Bạn có thể đoán được tỉ số giữa đường kính vòng
tròn này với đường kính vòng trên kế tiếp không?".
"Là PHI?" Tất cả đồng thanh.
"Tuyệt". Bây giờ Langdon
chiếu nhanh tất cả các tấm slide các đường trôn ốc trên quả thông, cách sắp xếp
lá trên những nhánh cây các vạch trên bụng côn trùng, tất cá đều tuân theo Tỷ
lệ thần thánh đến mức kinh ngạc.
"Thật kỳ lạ", ai đó reo lên.
"Phải", một người khác nói,
"nhưng cái đó có liên quan gì đến nghệ thuật?".
"Aha", Langdon reo lên,
"rất vui vì bạn đã hỏi điều đó". Ông chiếu một tấm slide khác - một
tấm giấy da vàng nhạt có hình người đàn ông khoả thân nổi tiếng của Leonardo Da
Vinci Người Vitruvian được đặt tên theo Marcus Vitruvius, kiến trúc sư lỗi lạc
người La mã, người đã đánh giá rất cao Tỷ lệ thần thánh trong một cuốn sách của
ông mang tên Kiến trúc.
Không ai hiểu cấu trúc thần thánh của
con người hơn Da Vinci Thực tế Da Vinci đã khai quật các ngôi mộ để đo đạc
chính xác tỉ lệ các cấu trúc xương trong cơ thể con người. Ông là người đầu
tiên chứng minh rằng cơ thể con người, nói một cách chính xác theo nghĩa đen,
được làm bằng các khối mà tỉ lệ giữa chúng luôn luôn là PHI".
Mọi người trong giảng đường đều nhìn
ông với vẻ ngờ vực.
"Không tin tôi
phải không?". Langdon thách thức. "Lần tới các bạn tắm vòi hoa sen,
hãy thử đo mình bằng thước dây xem".
Hai cầu thủ bóng đá
cười khúc khích.
"Không chỉ hai
bạn vận động viên kia đâu", Langdon phản ứng lại ngay. "Mà là tất cả
các bạn. Nào các chàng trai, cô gái.
Thử nhé. Hãy đo
khoảng cách từ đỉnh đầu các bạn cho đến khi chạm đất. Rồi chia nó cho khoảng
cách từ rốn các bạn đến mặt đất. Hãy đoán xem con số mà các bạn đạt được".
"Không phải số
PHI!" Một trong hai gã vận động viên thốt lên, không tin.
"Là số
PHI", Langdon đáp lại, "một-phẩy-một-sáu-một-tám.
Cần một ví dụ khác
nữa không? Hãy đo khoảng cách từ vai đến các đầu ngón tay, rồi chia nó cho
khoảng cách từ khuỷu tay đến các đầu ngón tay. Lại một số PHI nữa. Một ví dụ
khác nhé? Hãy chia khoảng cách từ đầu gối đến mặt đất cho khoảng cách từ hông
đến mặt đất. Một số PHI nữa. Lòng bàn tay.
Ngón chân cái. Các
dốt sống. PHI. PHI. PHI. Các bạn của tôi ơi, mỗi người trong các bạn đều là một
minh chứng sống cho Tỷ lệ thần thánh".
Ngay cả trong bóng
tối, Langdon cũng có thể nhìn thấy tất cả bọn họ sững sờ. Ông cảm thấy một sự
ấm nóng quen thuộc trong lòng. Đây chính là lí do tại sao ông dạy học.
"Các bạn của tôi như các bạn đã thấy, bên dưới sự hỗn độn của thế giới,
vẫn có một trật tự. Khi người xưa phát hiện ra số PHI, họ chắc chắn rằng họ đã
tình cờ tìm thấy yếu tố cơ bản mà Chúa Trới dùng để tạo nên thế giới này, và họ
tôn thờ tự nhiên vì lí do đó. Và người ta có thể hiểu tại sao trong tự nhiên rõ
ràng có bàn tay của Chúa Trời, và cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại những tôn
giáo vô thần thờ Mẹ Đất. Nhiều người trong chúng ta tôn vinh tự nhiên theo cách
mà những tín đồ ngoại giáo vẫn làm, mà thậm chí không biết thế. Ngày mồng một
tháng năm là một thí dụ điển hình, ngày lễ tôn vinh mùa xuân… Trái Đất hồi sinh
để ban tặng sự hào phóng của mình. Ngay từ buổi sơ khai, người ta đã viết về
phép thuật bí ẩn cố hữu nơi Tỷ lệ thần thánh. Con người chỉ đơn giản hoạt động
theo những quy luật của tự nhiên, và bởi vì nghệ thuật chính là nỗ lực của con
người để bắt chước cho được vẻ đẹp từ bàn tay Đấng Sáng Thế, các bạn có thể
tướng tượng rằng chúng ta sẽ được tận mắt thấy rất nhiều bằng chứng về Tỷ lệ
thần thánh trong nghệ thuật học kỳ này".
Hơn một nửa giờ nữa
trôi qua, Langdon cho đám sinh viên xem những slide về các tác phẩm nghệ thuật
của Michelangelo, Albrecht, Dyrer, Da Vinci và nhiều người khác, để minh chứng
sự áp dụng triệt để và đầy chủ ý của mỗi nghệ sĩ đối với Tỷ lệ thần thánh trong
bố cục mỗi tác phẩm của mình. Langdon cũng chỉ rõ PHI trong các kích thước kiến
trúc của đền Parthenon Hi lạp, của các Kim tự tháp Ai cập, và thậm chí của cả
toà nhà trụ sở của Liên hợp quốc tại New York. PHI cũng xuất hiện trong cấu
trúc tổ chức của các bản sonate của Mozart, bản giao hướng số 5 của Beethoven,
cũng như các tác phẩm của Bartók, Debussy và Schubert. Số PHI, Langdon nói với
sinh viên, thậm chí còn được Stradivarius sử dụng để tính toán vị trí chính xác
của những khe hình chữ, khi ông tạo ra những cây đàn viôlông nổi tiếng của
mình.
"Để khép
lại". Langdon vừa nói vừa bước về phía chiếc bảng, "chúng ta quay trở
về với các biểu tượng". Ông vẽ năm đường giao nhau, tạo nên một ngôi sao
năm cánh: "Đây là một trong những hình ảnh đầy quyền năng nhất mà các bạn
sẽ thấy trong học kỳ này. Bình thường nó được biết đến như là một hình sao năm
cánh - hay pentacle như lổ tiên ta đã gọi - biểu tượng này được nhiều nền văn
hoá coi là linh thiêng và huyền bí. Có ai có thể nói cho tôi biết vì sao lại
thế không?".
Stettner, anh sinh
viên khoa toán đó, lại giơ tay: "Bởi vì nếu thầy vẽ một hình sao năm cánh,
các đường thẳng sẽ tự chia nó thành những đoạn theo Tỷ lệ thần thánh".
Langdon gật đầu đầy
tự hào với chàng sinh viên: "Rất tốt.
Đúng thế, tỉ lệ
giữa các đoạn thẳng trong hình sao năm cánh, tât cả đều bằng PHI, khiến cho
biểu tượng này trở thành biểu hiện rối hậu của Tỷ lệ thần thánh. Vì lí do này,
hình sao năm cánh luôn luôn là biểu tượng của vẻ đẹp và sự hoàn hảo gắn với các
nữ thần và tính nữ linh thiêng".
Các cô gái trong
lớp mỉm cười rạng rỡ.
"Các bạn, xin
lưu ý một điểm. Hôm nay chúng ta mới chỉ đụng đến Da Vinci một chút thôi, nhưng
rồi chúng ta sẽ còn tiếp xúc với ông nhiều hơn nữa trong học kỳ này. Leonardo
là một người say mê những phong cách cổ xưa của các nữ thần, về điều này chúng
ta có rất nhiều tài liệu. Ngày mai tôi sẽ cho các bạn xem bức bích hoạ Bữa ăn
tối cuối cùng của ông, đó là một trong những biểu hiện kỳ diệu nhất sự tôn kính
dối với tính nữ thiêng liêng mà các bạn sẽ có dịp được chiêm ngưỡng".
"Thầy đang nói
đùa bọn em, phải không ạ?" Ai đó lên tiếng.
"Em nghĩ Bữa
ăn tối cuối cùng là về Chúa Jesus?".
Langdon nháy mắt:
"Có những biểu tượng lẩn khuất ở những chỗ mà bạn không thể tướng tượng
nổi".
"Đi nào",
Sophie thì thầm. "Có chuyện gì thế? Chúng ta đã gần tới đích rồi. Nhanh
lên?".
Langdon ngước nhìn
lên, ông cảm thấy như mình vừa quay trở lại từ một nơi xa xăm trong tiềm thức.
Ông nhận ra là mình đang đứng đực ra trên cầu thang, sững lại bởi một phát hiện
đột ngột.
Ôi, quỷ hà khắc! Ôi
thánh yếu đuối (O, Draconian devil! Oh, lame saint!)
Sophie ngoái nhìn ông.
Nó không thể chỉ đơn giản như thế,
Langdon nghĩ.
Nhưng ông biết tất nhiên nó là như thế.
Nơi đây, trong lòng viện bảo tàng
Louvre… với hình ảnh PHI và Da Vinci xoáy lộn trong tâm trí, đùng một cái
Robert Langdon bất ngờ đã giải được mật mã của Saunière.
"O, Draconian devil!" ông
nói, "Oh, lame Saint! Đó là loại mật mã đơn giản nhất!".
Sophie dừng lại ở vài bậc cầu thang bên
dưới Langdon, cô nhìn lên không hiểu. "Một loại mật mã". Cô đã nghĩ
đi nghĩ lại những từ ngữ đó cả tối nay rồi và chẳng thấy ở đó một mật mã nào
cả. Nhất là một loại mật mã đơn giản.
"Chính cô đã nói điều này".
Giọng Langdon vang lên, phấn khích. "Dãy số Fibonacci chỉ có ý nghĩa trong
trật tự đúng của nó. Nếu không, nó chỉ là một trò toán học tào lao".
Sophie chẳng hiểu Langdon đang nói gì.
Dãy số Fibonacci? Cô chắc chắn rằng nó chẳng nhằm gì khác ngoài việc kéo Bộ
phận giải mật mã vào cuộc đêm nay. Nó có một mục đích khác chăng?
Cô thọc tay vào túi và lôi ra một bản
in, xem xét lại dòng tin nhắn của ông cô.
13-3-2-21-1-1-8-5
O, Draconian devil!
Oh, lame Saint!
Những con số này thì sao?
"Dãy số Fibonacci bên trên đó là
một đầu mối", Langdon vừa nói vừa cầm lấy bản in. "Những con số này
ám chỉ cách giải mã phần còn lại của tin nhắn. Ông ấy đã viết nó lộn xộn để nói
với chúng ta rằng hãy áp dụng cách tương tự cho phần bên dưới. O, Draconian
devil! Oh, lame Saint! ư? Những dòng chữ này chẳng có ý nghĩa gì cả. Đơn giản
chúng chỉ là những chũ cái viết lộn xộn thôi".
Sophie chỉ cần một thoáng để lĩnh hội
hàm ý của Langdon, và dường như nó đơn giản đến tức cười. "Ông nghĩ tin
nhắn này là… une anagramme?"(1) cô liếc nhìn ông: "Giống trò chơi đảo
chữ cái trên báo".
Langdon có thể thấy sự nghi ngờ trên
mặt của Sophỉe và tất nhiên ông hiểu điều đó. It người nhận biết được rằng
anagram, mặc dù là một trò giải trí nhàm chán của thời hiện đại, lại có một
lịch sử phong phú về biểu tượng linh thiêng.
Những giáo lý huyền bí của người Do
thái được viết ra hầu hết dựa trên cách đảo chữ cái - sắp xếp lại các âm tiết
trong các từ tiếng Hêbrơ sẽ tạo ra những ý nghĩa mới. Trong suốt thời kỳ Phục
hưng, các vua Pháp tin chắc rằng anagram nắm giữ một quyền năng ma thuật đến
nỗi họ đã bổ nhiệm những chuyên gia anagram trong hoàng gia để giúp họ đưa ra
những quyết định sáng suốt hơn bằng cách phân tích các từ ngữ trong những tài
liệu quan trọng. Người La Mã đã thực sự gọi việc nghiên cứu anagram là một ars
magna "nghệ thuật vĩ đại".
Langdon ngước nhìn Sophie, bốn mắt giao
nhau: "Ý của ông cô nằm ngay trước mắt chúng ta, ông ấy để lại cho chúng
ta quá đủ đầu mối để hiểu rõ nó".
Không nói một lời nào nữa, Langdon rút
từ trong túi ra một cây bút và sắp xếp lại các chữ cái ở mỗi dòng.
O, Draconian devil!
Oh, lame Saint! là một trò đảo chữ hoàn
hảo của…
Leonardo Da Vinci!
The Mona Lisa!
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: một
trò đảo chữ.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 21
Bức Mona Lisa Trong khoảnh khắc, đứng ở
lối cầu thang thoát hiểm, Sophie quên hẳn họ đang tìm cách rời khỏi Bảo tàng
Louvre.
Cú sốc bởi trò anagram này chỉ có thể
sánh với nỗi ngượng do cô không tự mình giải mã được lời nhắn. Sự thành thạo
của Sophie trong việc giải những dòng mật mã phức tạp đã khiến cô bỏ qua những
trò chơi chữ đơn giản mà cô biết đáng lẽ cô phải nhìn ra. Nói cho cùng, cô đâu
có lạ gì anagram - nhất là anagram bằng tiếng Anh.
Khi cô còn nhỏ, ông cô thường dùng
nanagram để luyện chính tả tiếng Anh cho cô. Có lần ông viết từ tiếng Anh
"planets" (các hành tinh) và bảo Sophie rằng có tới chín mươi hai từ
tiếng Anh khác có độ dài khác nhau có thể được ghép bằng cùng những chữ cái đó
một con số đáng kinh ngạc. Sophie đã mất ba ngày ngồi bên một cuốn từ điển cho
đến khi cô tìm thấy tất cả những từ ấy.
"Tôi không thể tưởng tượng được".
Langdon vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào tờ giấy, "Làm thế nào mà ông cô lại
nghĩ ra được một anagram rắc rối đến thế chỉ trong vòng vài phút trước khi
chết!".
Sophie biết lời giải thích cho thắc mắc
đó, và việc nhận ra điều đó càng khiến cô cảm thấy xấu hổ hơn. Đáng ra mình
phải thấy ra điều đó! Rồi cô nhớ ra rằng ông cô - một người say mê chơi chữ và
yêu nghệ thuật - đã tự tiêu khiển như một chàng trai trẻ bằng cách sáng tạo
những anagram bằng tên các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Trên thực tế, một trong
những anagram của ông đã từng khiến ông gặp rắc rối, đó là khi Sophie còn rất
nhỏ. Trong khi được một tạp chí nghệ thuật của Mỹ phỏng vấn, Saunière đã nhấn
mạnh sự chán ghét của mình đối với trào lưu chủ nghĩa lập thể hiện đại bằng
cách nhận xét rằng kiệt tác của Picasso "Les Demosielles d Avignon (Các cô
nàng vùng Avignon)" là một anagram hoàn hảo của cûa vile meaningless
doodles (những nét nguệch ngoạc xấu xí vô nghĩa). Những người hâm mộ Picasso
không cảm thấy hài lòng về chuyện này.
"Ông tôi có lẽ đã tạo ra cái
anagram về Mona Lisa này từ lâu rồi", Sophie nói, liếc nhìn Langdon. Và
tối nay ông bắt buộc phải sử dụng nó như một mật mã tạm thời. Như thể tiếng ông
cô từ thế giới bên kia vọng về với một độ chính xác rợn người.
Leonardo da Vinci!
Bức tranh la Lisa!
Tại sao những lời cuối của ông cho cô
lại quy chiếu về bức tranh nổi tiếng ấy nhỉ. Sophie không biết, nhưng cô có thể
nghĩ về một khả năng duy nhất. Một khả năng khiến cô thật rối trí.
Đó không phải là những lời cuối cùng
của ông…
Cô phải đến chỗ bức tranh Mona Lisa ư?
Liệu ông có để lại cho cô một lời nhắn nào ở đó không? Ý này có vẻ hoàn toàn
hợp lí. Rốt cuộc, bức tranh nổi tiếng ấy đang được treo ở Salle des Etats - một
phòng bày riêng biệt chỉ có thể vào từ Hành Lang Lớn. Thực tế - lúc này, Sophie
nhận ra - cửa vào phòng bày riêng đó chỉ cách nơi ông cô chết hai mươi mét.
Rât có thể ông đã đến thăm Mona Lisa
trước khi chết.
Sophie ngoái nhìn cầu thang thoát hiểm
và cảm thấy phân vân. Cô biết cô nên đưa Langdon ra khỏi bảo tàng ngay lập tức,
tuy nhiên linh tính lại mách cô làm ngược lại. Khi Sophie nhớ lại chuyến viếng
thăm đầu viên hồi còn nhỏ đến Cánh Denon, cô nhận ra rằng nếu ông cô có một bí
mật muốn nói với cô thì hiếm nơi nào trên trái đất này thích hợp hơn bức hoạ
Mona Lisa của Da Vinci.
"Cô ấy chỉ còn cách một chút xíu
nữa thôi", ông cô khẽ thì thầm, nắm chặt bàn tay nhỏ của Sophie sau khi
dẫn cô đi khắp bảo tàng vắng lặng hàng giờ liền.
Sophie sáu tuổi. Cô cảm thấy nhỏ bé và
chầng có ý nghĩa gì khi ngước lên thấy trần nhà to tướng, còn cúi xuống thì lại
thấy sàn rộng đến hoa mắt, chóng mặt. Bảo tàng vắng ngắt làm cô sợ mặc dù cô
không hề muốn ông biết điều đó. Cô cắn chặt răng và cứ để ông dắt đi.
"Ngay phía trước là Salle des
Etats đấy", ông cô nói khi bước đến căn phòng nổi tiếng nhất bảo tàng
Louvre. Dù thấy rõ là ông rất hào hứng, Sophie vẫn muốn về nhà. Cô đã nhìn thấy
những bức ảnh chụp Mona Lisa trong nhiều cuốn sách và chẳng thích nó chút nào
cả. Cô không hiểu tại sao mọi người lại làm rùm beng đến thế.
"C est ennllyeux"(1) Sophie
càu nhàu.
"Boring(2)
chứ", ông cô chữa lại. "Ở trường, nói tiếng Pháp. Ở nhà, nói tiếng
Anh".
"Le Louvre, c est pas chez
moi!"(3). Cô bé cãi.
Ông cười mệt mỏi: "Cháu nói đúng.
Vậy thì chúng ta nói tiếng Anh cho vui thôi".
Sophie dẩu môi rồi tiếp tục bước đi.
Khi họ bước vào Salle de Etats, cô bé đưa mắt khắp căn phòng hẹp rồi dừng lại ở
một vị trí danh dự chính giữa bức tướng bên phải, nơi có một bức chân dung lẻ
loi treo sau lớp plexiglas bảo vệ. Ông cô dừng lại nơi cửa ra vào và ra hiệu về
phía bức tranh.
"Bước tới đi, Sophie. Không mấy ai
có cơ hội tới thăm cô ấy một mình đâu".
Nén nỗi e sợ, Sophie chầm chậm đi ngang
căn phòng. Sau tất cả những gì cô nghe nói về bức họa Mona Lisa cô cảm thấy như
đang đến gần long nhan cô ấy. Tới trước tấm plexiglas, Sophie nín thở và ngước
lên, và ngay lập tức, cô bé cảm nhận được tất cả.
Sophie không hình dung được đích xác
điều mà cô chờ đợi sẽ cảm nhận dược, nhưng chắc chắn nó không phải như thế này.
Không giật mình kinh ngạc, không một
khoảnh khắc ngỡ ngàng. Gương mặt trứ danh này trông cũng y hệt như trong sách
thôi. Cô đứng yên lặng một hồi lâu tướng như bất tận, chờ một điều gì đó xảy
đến. lNào, cháu nghĩ thế nào?" ông cô thì thầm, lúc này đã tới đằng sau
cô. "Đẹp chứ".
"Cô ấy bé quá".
Ông Saunière mỉm cười: "Cháu cũng
bé mà vẫn đẹp đấy thôi!
Mình đâu có đẹp, cô nghĩ Sophie ghét
mái tóc đỏ quạch và những vết tàn nhang của mình và cô còn bự hơn tất cả bọn
con trai trong lớp nữa chứ. Cô quay lại nhìn bức Mona Lisa và lắc đầu:
"Thậm chí cô ấy còn xấu hơn cả trong sách. Mặt cô ta trông…
brumeux"(4).
"Foggy"(5) , ông dạy.
"Vâng, foggy", Sophie nhắc
lại, biết rằng cuộc trò chuyện sẽ không tiếp tục khi cô chưa nhắc lại cái từ
mới ấy.
"Người ta gọi đó là phong cách hội
họa sfumato". Ông nói với cô rất khó thực hiện. Leonardo da Vinci làm ngón
này giỏi hơn bất kì ai".
Sophie vẫn không thích bức tranh ấy:
"Trông cứ như thể cô ta biết một điều gì đó… giống như trẻ con ở trường có
một cái gì bí mật ấy".
Ông cô bé cười rộ. "Đó là một phần
lí do khiến cô ây trở nên nổi tiếng. Người ta thích đoán xem tại sao cô ấy tủm
tỉm cười".
"Ông biết tại sao cô ấy tủm tỉm
cười phải không ạ?".
"Có thể", ông cô bé nháy mắt,
"một ngày nào đó ông sẽ nói tất cả điều đó cho cháu".
Sophie giậm giậm chân. "Cháu đã
bảo ông rồi, cháu không thích những bí mật!".
"Này công chúa", ông mỉm
cười, "Cuộc sống chứa đầy những bí mật. Cháu không thể nào biết hết được
ngay lập tức đâu".
"Tôi sẽ quay trở lại", Sophie
tuyên bố, tiếng cô ồm ồm trong khoang cầu thang.
"Đến chỗ bức tranh Mona Lisa phải
không?". Langdon đáp lại.
"Ngay bây giờ sao?".
Sophie cân nhắc sự mạo hiểm: "Tôi
không bị tình nghi giết người. Tôi sẽ liều một phen. Tôi cần hiểu ông tôi định
nói gì với tôi "Thế còn đại sứ quán thì sao?".
Sophie cảm thấy có lỗi khi biến Langdon
thành một kẻ đào tẩu để rồi lại bỏ rơi ông, nhưng cô không thấy lựa chọn nào
khác. Cô chỉ xuống một cánh cửa kim loại. "Hãy đi qua cánh cửa đó, rồi
theo những biển đèn hiệu chỉ lối ra. Dạo xưa, ông tôi thường đưa tôi xuống đây.
Những đèn hiệu này sẽ đưa ông đến một cửa xoay an toàn. Cửa chỉ xoay một chiều
cho người đi ra". Cô đưa Langdon chìa khoá xe ôtô của mình: "Xe của
tôi là chiếc SmartCar màu đỏ ở khu vực để xe của nhân viên.
Ngay bên ngoài tường ngăn. Ông có biết
đường đến đại sứ quán không?".
Langdon gật đầu, đưa mắt nhìn chiếc
chìa khoá trong tay mình.
"Nghe này", Sophie nói, giọng
cô dịu hẳn đi. "Tôi nghĩ chắc ông tôi đã để lại cho tôi một lời nhắn ở chỗ
bức tranh Mona Lisa một thứ đầu mối để lần ra kẻ nào đã giết ông. Hoặc để biết
tại sao tôi đang gặp nguy hiểm". Hoặc điều gì đó xảy ra với gia đình mình.
"Tôi cần đến đó xem sao".
"Nếu ông cụ muốn nói với cô lý do
cô đang gặp nguy hiểm, thì tại sao ông lại không viết luôn điều đó lên sàn nơi
ông bị giết? Tại sao lại cần đến trò chơi chữ phức tạp này?".
"Bất kể điều ông tôi định nói với
tôi là gì, tôi nghĩ ông cũng không muốn bất kỳ ai khác cùng nghe. Kể cả cảnh
sát". Rõ ràng ông cô đã làm mọi thứ có thể trong phạm vi khả năng của mình
để gửi trực tiếp đến cô một thông điệp bí mật. Ông đã viết nó dưới dạng mật mã,
kể cả những chữ cái đầu tên biệt danh của cô và bảo cô đi tìm Robert Langdon -
một người thông thái nắm vững vấn đề bằng vào việc nhà ký tượng học người Mỹ
này đã giải được mật mã của ông. "Nghe thì có vẻ kì thật đấy", Sophie
nói, "nhưng tôi nghĩ ông tôi muốn tôi đến chỗ bức tranh Mona Lisa trước
khi ai đó kịp đến".
"Tôi sẽ cùng đến đó".
"Không! Chúng ta không biết Hành
Lang Lớn sẽ còn vắng vẻ bao lâu nữa. Ông phải đi đi".
Langdon có vẻ do dự, như thể tính tò mò
bác học trong ông Có nguy cơ lấn át óc nhận định tỉnh táo và đẩy ông rơi trở
lại vào tay Fache.
"Nào, ông đi đi chứ", Sophie
nở một nụ cưới tri ân với ông.
"Tôi sẽ gặp ông ở đại sứ quán, ông
Langdon".
Langdon có vẻ không thật hài lòng:
"Tôi sẽ gặp lại cô ở đó với một điều kiện", ông đáp, giọng nghiêm
nghị.
Cô dừng lại, giật mình: "Điều kiện
gì?".
"Rằng cô thôi không gọi tôi là ông
Langdon nữa".
Sophie phát hiện thấy một lời ám chỉ lờ
mờ đằng sau nụ cười gượng gạo trên gương mặt Langdon, rồi cô cảm thấy mình mỉm
cười đáp lại: "Chúc may mắn, Robert".
Khi Langdon đi hết cầu thang, một thứ
mùi không thể nhầm lẫn được của dầu hạt lanh và vôi vữa xông vào mũi ông. Phía
trước là tấm bảng sáng đèn ghi chữ SORTIE/EXIT (Lối ra) có mũi tên chỉ xuống
một hành lang dài.
Langdon bước vào đoạn hành lang.
Bên tay phải, một xưởng phục chế tối lờ
mờ từ trong đó ngó ra cả một đạo quân tượng ở các công đoạn sửa chữa khác nhau.
Bên trái, Langdon nhìn thấy một dãy
phòng trông giống như những lớp học nghệ thuật ở Đại học Harvard - hàng hàng
giá vẽ tranh, bảng màu, dụng cụ đóng khung - một dây chuyền lắp ráp mỹ thuật.
Đi xuôi theo hành lang, Langdon tự hỏi
liệu có thể đến lúc nào đó, ông giật mình tỉnh giấc thấy mình nằm trên chiếc giường
ở Cambridge. Ông cảm thấy cá buổi tối hôm nay giống như một giấc mơ kỳ quái.
Mình sắp sửa lao ra khỏi bảo tàng Louvre… một kẻ trốn chạy.
Lời nhắn thông minh vận dụng anagram
của Saunière vẫn ở trong đầu ông, và Langdon tự hỏi Sophie sẽ tìm thấy gì ở bức
Mona Lisa… nếu như quả là có gì. Xem ra cô tin chắc rằng ông mình cố ý bảo cô
đến thăm lại bức tranh nổi tiếng ấy một lần nữa. Mặc dù đây có vẻ là một kiến
giải hợp lý, lúc này đây Langdon vẫn cảm thấy bị ám ảnh bởi một nghịch lý rắc
rối.
P.S. Hãy tìm Robert Langdon.
Saunière đã viết tên của Langdon lên
sàn, bảo Sophie tìm ông. Nhưng tại sao chứ? Chỉ đơn thuần để Langdon giúp cô ấy
giải một anagram.
Điều này có vẻ vô lý.
Xét cho cùng, Saunière chẳng có lý do
gì để nghĩ rằng Langdon đặc biệt giỏi đoán anagram. Mình với với ông ta thậm
chí còn chưa hề gặp nhau cơ mà. Quan trọng hơn, Sophie đã tuyên bố thắng rằng
lẽ ra cô ấy đã có thể tự giải lấy anagram đó. Chính Sophie là người nhận ra dãy
số Fibonacci và chắc chắn là nếu có thêm một ít thời gian nữa, cũng chính
Sophie sẽ là người sẽ giải mã được lời nhắn đó mà chẳng cần sự giúp đỡ của
Langdon.
Sophie có phận sự phải tự giải lấy
anagram đó. Langdon dột nhiên cảm thấy tin chắc hơn về điều này. Nhưng kết luận
đó rõ ràng để toác ra một lỗ hổng trong logic hành động của Saunière.
Tại sao lại là mình? Langdon tự hỏi,
trong khi vẫn tiến về phía đầu toà nhà. Tại sao Saunière khi chết lại muốn đứa
cháu đến tìm mình? Cái gì là điều mà Saunière nghĩ rằng mình biết?
Bất ngờ giật thót người, Langdon dừng
phắt lại. Mắt mở to, ông thọc tay vào túi, lôi ra tờ giấy in từ máy tính. Ông
nhìn chằm chằm vào dòng cuối cùng trong lời nhắn của Saunière.
P.S Hãy tìm Robert Langdon.
Ông dán mắt vào hai chữ cái.
Trong khoảnh khắc đó, Langdon cảm thấy
cái mớ bòng bong các biểu tượng của Saunière đột nhiên sáng rõ. Tựa một hồi sấm
rền, hiểu biết về ký tượng học và sử học đủ cho cả một sự nghiệp nghiên cứu ào
ào đến quanh ông. Mọi thứ Jacqué Saunière đã làm đêm nay dột nhiên trở nên hoàn
toàn có nghĩa.
Những ý nghĩ của Langdon lướt nhanh
trong khi ông cố lắp ghép những ý nghĩa hàm chứa trong tất cả cái đó. Quay
ngoắt lại ông nhìn ngược về hướng mà từ đó ông đã đi đến.
Liệu còn kịp không.
Ông biết điều đó không quan trọng.
Không chút do dự, Langdon chạy như bay
về phía cầu thang thoát hiểm.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Thật
chán ngắt.
(2) tiếng Anh: chán ngắt
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Bảo
tàng Louvre đâu phải nhà mình.
(4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: mờ như
sương.
(5) tiếng Anh: mờ như sương
Chương 22Quỳ ở hàng ghế đầu, Silas giả
vờ cầu nguyện trong khi hắn lướt nhanh qua cách bố trí của toà thánh đường.
Saint-Sulpice, giống như hầu hết các nhà thờ khác, được xây theo hình một cây
thánh giá La Mã khổng lồ. Phần trung tâm kéo dài của nó gian giữa của giáo
đường dẫn thẳng đến bàn thờ chính, bị cắt ngang bởi một phần ngắn hơn, được gọi
là cánh ngang. Phần giao nhau của cánh ngang và gian giữa giáo đường nằm ngay
dưới mái vòm chính và được coi là trái tim của nhà thờ… nơi thần bí và linh
thiêng nhất.
Không phải tối nay, Silas nghĩ Saint-
Sulpice giấu những bí mật của mình ở nơi khác. Ngoảnh đầu về bên phải, hắn đưa
mắt nhìn sâu vào phần phía nam của cánh ngang về phía quãng sàn trống bên kia
mấy hàng ghế cuối, nhắm đến mục tiêu mà những nạn nhân của hắn đã miêu tả.
Nó kia.
Gắn sâu vào sàn đá granite xám, một
thanh đồng dài mảnh nhẵn bóng lấp lánh… một đường thẳng vàng xiên chéo qua sàn
nhà thờ. Đường thẳng có những dấu chia độ như một chiếc thước kẻ. Đó là thước
đồng hồ mặt trước. Silas đã được nói cho biết thế, một khí cụ thiên văn học thế
tục giống như một chiếc đồng hồ mặt trời. Các khách du lịch, các nhà khoa học,
sử học và cả những người ngoại đạo từ khắp nơi trên thế giới đổ về nhà thờ
Saint-Sulpice để chiêm ngưỡng đường thẳng nổi tiếng này.
Đường Hoa Hồng.
Chậm rãi, Silas đưa mắt dõi theo đường
đi của thanh đồng khi nó cắt ngang sàn từ phải sang trái, xiên chéo trước mặt
hắn theo một góc xệch xẹo, hoàn toàn trật khấc với sự đối xứng của nhà thờ. Nó
cắt ngang cả bàn thờ chính, Silas thấy nó như một vết thương rạch ngang một
khuôn mặt đẹp. Thanh đồng đó xẻ đôi hàng lan can chỗ làm lễ thánh thể, rồi chạy
suốt chiều rộng của nhà thờ và cuối cùng tới góc phía bắc của cánh ngang, nơi
nó bắt gặp đế của một cấu trúc cực kỳ bất ngờ.
Một bia tưởng niệm khổng lồ kiểu Ai
cập.
Tại đây, Đường Hoa Hồng lấp lánh quặt
một góc thẳng đứng chín mươi độ và tiếp tục ngay trên mặt bia tưởng niệm, lên
cao thêm khoảng mươi mét tới chót đỉnh của cái kiến trúc hình tháp đó để cuối
cùng chấm dứt ở đó.
Đường Hoa Hồng,
Silas nghĩ. Hội kín đó giấu viên đá đỉnh vòm dưới đường Hoa Hồng.
Chập tối, khi Silas
nói với Thầy Giáo rằng viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion được cất giấu bên
trong nhà thờ Saint-Sulpice, thầy đã tỏ ý nghi ngờ. Nhưng khi Silas nói thêm
rằng các thành viên của hội này đều đã nói cho hắn biết vị trí chính xác, liên
quan đến một dải đồng xuyên suốt nhà thờ Saint-Sulpice, thì thầy hức lên một
tiếng, ngộ ra: "Vậy là con nói về Đường Hoa Hồng?".
Thầy nhanh chóng
nói cho Silas biết về kiến trúc xây dựng kì lạ của nhà thờ Saint-Sulpice - một
thanh đồng dài, mảnh đã chia nhà thờ thành hai nửa tạo ra một trục bắc-nam hoàn
hảo.
Nó là một kiểu đồng
hồ mặt trời thời cổ, là một vết tích của đền thờ ngoại giáo từng có thời ngự ở
chính chỗ này. Các tia mặt trời, chiếu xuyên qua lăng kính trên bức tường phía
nam, mỗi ngày một dịch xuống, chỉ sự trôi chảy của thời gian, từ đông chí qua
hạ chí.
Cái dải bắc-nam đó
được biết đến dưới cái tên Rose Line: Đường Hoa Hồng. Trải qua hàng thế kỷ, kí
hiệu Rose (Hồng) đã gắn liền với những tấm bản đồ và với việc dẫn đúng đường,
chỉ đúng hướng. Vòng Hồng ghi hướng địa bàn - được vẽ trên hầu hết mọi tấm bản
đồ - xác định các hướng bắc, đông, nam, và tây. Thoạt kỳ thuỷ được gọi là Hoa
Hồng Gió (Wind Rose), nó chỉ hướng của ba mươi hai loại gió, thổi từ những
hướng của tám ngọn gió trưởng, tám ngọn gió nhị phân và mười sáu ngọn gió tứ
phân. Khi được đồ thị hóa trong một hình tròn, ba mươi hai điểm này của la bàn
trông giống hệt một bông hồng ba mươi hai cánh. Cho tới tận ngày nay, công cụ
định hưóng cơ bản trong hàng hải vẫn được gọi là Rose Compass (La bàn Hoa
Hồng), hướng cực bắc của nó được đánh dấu bằng một đầu mũi tên… hay phổ biến
hơn là kí hiệu hoa loa kèn.
Trên quá địa cầu,
một Đường Hoa Hồng cũng được gọi là kinh tuyến là bất kỳ một đường thẳng tưởng
tượng nào nối cực bắc với cực nam. Đương nhiên, số Đường Hoa Hồng là vô hạn bởi
vì từ mỗi điểm trên quả địa cầu đều có thể vẽ một kinh tuyến đi qua, nối cực
bắc và cực nam với nhau. Vấn đề đối với các hoa tiêu thời xưa là đường nào
trong các đường này là Đường Hoa Hồng đường kinh tuyến số không đường mà người
ta lấy làm gốc để đo các đường kinh tuyến khác.
Ngày nay, đường đó
nằm ở Greenwich, Anh.
Nhưng không phải
bao giờ nó cũng ở đó.
Rất lâu trước khi chế
định Greenwich là kinh tuyến gốc, thì kinh tuyến số không của trái đất đã đi
qua Paris, đi qua nhà thờ Sain-Sulpice. Thanh đồng đánh dấu ở nhà thờ
Saint-Sulpice trở thành một đài tưởng niệm kinh tuyến gốc đầu tiên của thế
giới, và mặc dù Greenwich đã tước đi của Paris vinh dự ấy vào năm 1883, đường
Hoa Hồng ban đầu vẫn còn hiển thị đến tận ngày nay.
"Vậy là truyền
thuyết đó là sự thật". Thầy Giáo nói với Silas. "Người ta nói viên đá
đỉnh vòm của Tu viện Sion nằm dưới Đường Hoa Hồng".
Lúc này, vẫn quỳ
trên một chiếc ghế, Silas liếc quanh nhà thờ và lắng tai nghe để chắc chắn rằng
không còn ai ở đây.
Trong một thoáng,
hắn nghĩ là nghe thấy tiếng xột xoạt trên ban công hợp xướng. Hắn quay người và
nhìn chăm chú trong vài giây. Chắng có gì cả.
Mình chỉ có một
mình thôi.
Đứng dậy, hắn quay
mặt về phía ban thờ và xuống gối ba lần. Rơi quay sang trái, hắn đi theo thanh
đồng về phía bắc dẫn đến bia tưởng niệm.
Cùng lúc đó, tại
Sân bay quốc tế Leonardo da Vinci ở Roma, lốp xe xóc nẩy mặt đường băng làm
giám mục Aringarosa tỉnh giấc.
Mình đã ngủ quên
mất, ông nghĩ ngạc nhiên thấy mình vẫn đủ thanh thản để ngủ.
"Benvenuto a
Roma"(1), hệ thống loa phóng thanh thông báo.
Ngồi dậy,
Aringarosa xốc thẳng lại chiếc áo choàng đen và tự cho phép mình nở một nụ cười
hiếm hoi. Đây là một chuyến đi mà ông sung sướng thực hiện. Mình đã thụ động
quá lâu rồi.
Nhưng đêm nay, quy
tắc đã thay đổi. Chỉ năm tháng trước đây thôi, Aringarosa còn lo sợ tương lai
của giáo phái này. Còn bây giờ, cứ như là ý Chúa, giải pháp cho vấn đề đã tự
hiện ra.
Sự can thiệp thần
thánh.
Nếu đêm nay ở Paris
mọi thứ diễn ra như đã định, Aringarosa sẽ sớm sở hữu một thứ sẽ khiến ông ta
trở thành người có quyền lực nhất trong cộng đồng Cơ đốc.
Chú thích:
(1) Tiếng Ý trong nguyên bản: Chào mừng
quý khách đến Roma
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét