MẬT MÃ DA VINCI
Chương 51
Chiếc Hawker đang trong giai đoạn tiếp đất cuối cùng.
Simon Edwards - quan chức Điều hành Dịch vụ tại sân bay Biggin Hill
Executive - đi tới đi lui trong đài quan sát, nheo mắt nhìn lo âu về đường băng
ướt mưa. Ông chẳng bao giờ ưa bị đánh thức sớm vào sáng thứ bẩy, nhưng đặc biệt
khó chịu khi bị gọi đến để giám sát việc bắt giữ một trong những khách hàng xộp
nhất của mình. Ngài Leigh Teabing không chỉ trả cho sân bay Biggin Hill tiền
thuê cái hăng-ga(1) riêng, mà còn cả một khoản "phí hạ cánh"cho mỗi
lần đến và đi đều đặn của ông. Thông thường, 8ân bay này được báo trước lịch
hành trình của Teabing và có thể tuân theo một thủ tục nghiêm ngặt đối với
những lần đến của ông. Teabing thích mọi sự phải được thực hiện đúng như thế.
Chiếc limousine có thể kéo dài mang nhãn hiệu Jaguar làm theo đơn đặt hàng của
khách mà ông giữ trong hăng-ga phải luôn đầy xăng, lau rửa bóng lộn, và một tờ
Thời báo Lonlon trong ngày để sẵn ở ghế sau. Một nhân viên hải quan đợi sẵn
chiếc máy bay tại hăng-ga để xúc tiến việc kiểm tra hành lý và tài liệu bắt
buộc. Thi thoảng, những nhân viên hải quan đã nhận những khoản tiền boa lớn từ
Teabing để lờ đi việc vận chuyển một số đồ hữu cơ vô hại - hầu hết là thức ăn
xa xỉ - ốc sên Pháp, một loại phomat Requefort đặc biệt không chế biến, một vài
loại hoa quả nào đó. Vả chăng nhiều luật của hải quan cũng vô lý, và nếu sân
bay Biggin Hill không chiều ý khách của mình thì chắc chắn các sân bay cạnh
tranh sẽ hứng ngay. Teabing được đáp ứng những gì ông ta muốn ở đây, tại sân
bay Biggin Hill và những nhân viên thì thu được lợi lộc.
Lúc này, Edward cảm thấy thần kinh căng thẳng khi nhìn chiếc phản
lực tiến vào. Ông tự hỏi phải chăng khuynh hướng hào phóng của Teabing, cách
nào đó, đã làm cho ông ta gặp rắc rối; nhà chức trách Pháp dường như quyết tâm
ngăn chặn ông. Edward còn chưa được cho bỉết là ông bị kết những tội gì nhưng
rõ ràng chúng rất nghiêm trọng. Theo yêu cầu của nhà chức trách Pháp, cảnh sát
Kent ra lệnh cho nhân viên kiểm soát không lưu đánh điện bằng rađiô cho phi
công của chiếc máy bay Hawker và yêu cầu anh ta đến thẳng ga hành khách thay vì
nhà chứa máy bay riêng của Teabing. Viên phi công đã đổng ý rõ ràng anh ta tin
câu chuyện khó tin về vụ rò rỉ khí ga.
Cho dù cảnh sát Anh không thường mang vũ khí, nhưng do tính nghiêm
trọng của tình hình nên vẫn xuất hiện một đội được trang bị vũ khí. Tám cảnh
sát với súng ngắn đứng ở bên trong ga hành khách, chờ lúc động cơ máy bay dừng
hẳn. Đến lúc đó người phục vụ đường băng sẽ đặt những cái nêm an toàn dưới lốp
xe để - máy bay không còn dịch chuyển được nữa.
Sau đó cảnh sát xuất hiện và khống chế những người trên máy bay cho
đến khi cảnh sát Pháp đến xử lý tình hình.
Chiếc Hawker đã xuống thấp, đang bay là là trên ngọn cây phía tay
phải họ. Simon Edwards đi xuống cầu thang để quan sát việc hạ cánh ngang tầm
đường băng. Toán cảnh sát Kent đã ở tư thế sẵn sàng, vừa vặn khuất lầm nhìn, và
người nhân viên bảo dưỡng đứng chờ đợi cùng với những cái nêm. Bên ngoài đường
băng mũi của chiếc Hawker nghếch lên và bánh xe khẽ chạm đất trong thời gian
một hơi thuốc. Chiếc máy bay giảm tốc độ lượn thành vệt từ phải sang trái trước
ga hành khách, thân màu trắng của nó sáng lấp lánh trong thời tiết ẩm ướt.
Nhưng thay vì phanh lại và quay đầu vào ga hành khách, thì chiếc
phản lực bình thản băng qua làn đường vào ga và tiếp tục đi về phía hăng-ga của
Teabing ở đằng xa.
Tất cả cảnh sát quay lại và nhìn chằm chằm vào Edwards: "Tôi
tưởng anh nói người phi công đã đồng ý đến thẳng ga hành khách".
Edwards ngớ ra: "Đúng thế mà!".
Lát sau, Edwards thấy mình ngồi kẹp trong chiếc xe cảnh sát phóng
qua đường băng về phía hăng-ga ở đằng xa. Tốp cảnh sát còn cách cả năm trăm
thước thì chiếc Hawker của Teabing đã thản nhiên tiến vào hăng-ga riêng và bìến
mất. Cuối cùng, khi tốp xe con tới và dừng kít lại bên ngoài hăng-ga, cảnh sát
ào ra, súng lăm lăm.
Edwards cũng nhảy ra.
Tiếng ồn ào đinh taỉ.
Động cơ của chiếc Hawker vẫn gầm lên khi chiếc phản lực chấm dứt
vòng quay thông thường bên trong hăng-ga, vào vị trí quay mũi ra, sẵn sàng cho
chuyến xuất phát sau. Khi chiếc máy bay hoàn thành động tác quay vòng 180o và
chạy về phía trước hăng-ga, Edwards có thể nhìn thấy mặt viên phi công, có thể
hiểu được anh ta kinh ngạc và sợ hãi như thế nào khi thấy cả một hàng rào xe
cảnh sát.
Phi công dừng hắn máy bay và tắt động cơ. Cảnh sát tràn vào, chiếm
lĩnh vị trí xung quanh chiếc phản lực. Edwards cùng với viên chánh thanh tra
cảnh sát quận Kent di chuyển một cách thận trọng về phía cửa máy bay. Sau một
vài giây, cửa máy bay mở ra.
Leigh Teabing xuất hiện ở khung cửa khi chiếc thang điện nhẹ nhàng
hạ xuống. Nhìn thấy cả một biển vũ khí nhằm vào mình, ông chống đôi nạng và gãi
đầu: "Simon, có phải là tôi trúng xổ số của cảnh sát trong khi vắng nhà
không?". Giọng ông có vẻ ngơ ngác hơn là lo lắng.
Simon Edwards bước lên, ráng nuốt cái cục chẹn ngang cổ họng:
"Chào ngài, tôi xin lỗi về sự nhầm lẫn. Chúng tôi có khí rò rỉ và phi công
của ngài nói anh ta đến thẳng ga hành khách".
"Vâng, vâng, phải, nhưng thay vì như thế, tôi bảo anh ta đến
đây. Tôi đang muộn một cuộc hẹn. Tôi trả tiền cho hăng-ga này, và cái chuyện vẽ
vời né tránh chỗ khí ga rò rỉ nghe có vẻ quá ư thận trọng".
"Tôi e rằng việc ngài đến đã làm chúng tôi hơi bất ngờ, thưa
ngài".
"Tôi biết Tôi về không đúng lịch chữa bệnh mà. Nói riêng với
nhau, phương pháp điều trị mới làm tôi bí tiểu tiện. Tôi nghĩ mình phải về để
điều chỉnh lại thuốc".
Đám cảnh sát đưa mắt nhìn nhau. Edwards nhăn nhó: "Rất tốt,
thưa ngài".
"Thưa ngài", chánh thanh tra cảnh sát quận Kent bước lên
phía trước, "tôi yêu cầu ngài ở lại trên máy bay khoảng nửa tiếng
nữa".
Teabing có ve không vui khi ông tập tễnh bước xuống cầu thang:
"Tôi e là không thể được. Tôi có một cuộc hẹn khám sức khoẻ". Ông
xuống tới đường băng. "Tôi không thể lỡ hẹn".
Chánh thanh tra tiến đến chặn không để cho Teabing rời khỏi máy
bay: "Tôi tới đây theo lệnh của Cảnh sát tư pháp Pháp.
Họ quả quyết ngài đang chở những kẻ lẩn trốn pháp luật trên chiếc
máy bay này".
Teabing nhìn chằm chằm vào viên chánh thanh tra hồi lâu rồi cười
phá lên: "Đây là một trong những chương trình quay phim được giấu kín phải
không? Hay đấy!".
Chánh thanh tra không nao núng: "Điều này là nghiêm trọng,
thưa ngài. Cảnh sát Pháp khẳng định ngài còn có một con tin trên máy bay".
Người hầu của Teabing là Rémy xuất hiện ở ô cửa đầu cầu thang:
"Tôi cảm thấy như mình là một con tin làm việc cho ngài Leigh, nhưng ngài
cam đoan với tôi rằng tôi được tự do đi khỏi". Rémy nhìn đồng hồ.
"Ông chủ, quả là chúng ta đang bị trễ đấy". Ông ta gật đầu về hướng
chiếc limousine có thể kéo dài mang nhãn hiệu Jaguar ở góc đằng kia hăng-ga.
Chiếc ô tô đồ sộ màu gỗ mun với kính mờ và lốp màu tường trắng. "Tôi sẽ
đưa xe lại". Rémy bắt đầu xuống cầu thang.
"Tôi e rằng chúng tôi không thể để các ông đi được",
chánh thanh tra nói. "Xin hãy trở lại máy bay. Cả hai ông. Đại diện của
cảnh sát Pháp sẽ hạ cánh trong chốc lát".
Lúc này, Teabing nhìn Simon Edwards: "Lạy Chúa, Simon, chuyện
này thật lố bịch! Chúng tôi không có bất cứ ai khác trên máy bay. Chỉ như mọi
khi - Rémy, viên phi công của chúng tôi và bản thân tôi. Có lẽ ông có thể làm
trung gian chứ? Hãy lên kiểm tra máy bay và chứng thực là không có ai cả".
Edwards biết mình bị mắc kẹt: "Vâng, thưa ngài. Tôi có thể xem
xét".
"Đừng hòng!" Chánh thanh tra quận Kent tuyên bố, rõ ràng
nắm khá vững về những sân bay hành chính đủ để ngờ rằng Simon Edwards rất có
thể nói dối về những người trên máy bay nhằm duy trì được quan hệ làm ăn với
Teabing tại sân bay Biggin Hill. "Tự tôi sẽ xem xét".
Teabing lắc đầu: "Không, ông không được làm thế, thanh
tra".
Đây là tài sản cá nhân và cho tới khi ông có lệnh khám xét, ông vẫn
phải ở ngoài máy bay của tôi. Tôi đang đề xuất với ông một phương án hợp lý
đấy. Ông Edwards co thể thực hiện việc kiểm tra này".
"Không thương lượng gì hết".
Thái độ của Teabing trở nên lạnh lùng: "Thanh tra, tôi e mình
không có thời gian để chiều theo trò chơi của ông. Tôi đã muộn, và tôi phải đi.
Nếu điều quan trọng đối với ông là ngăn chặn tôi thì ông sẽ phải bắn tôi".
Nói rồi, Teabing và Rémy đi quành qua viên chánh thanh tra và ngang qua hăng-ga
tới chỗ chiếc limousine đang đậu.
Chánh thanh tra quận Kent chỉ cảm thấy ghê tởm đối với Leigh
Teabing khi ông này tập tễnh đi quành qua ông, đầy vẻ thách thức. Những người
có đặc quyền đặc lợi luôn luôn cảm thấy như là họ đứng trên luật pháp.
Họ không thể. Chánh thanh tra quay lại và nhằm súng vào lưng
Teabing: "Đứng lại! Tôi sẽ bắn!".
"Bắn đi", Teabing nói mà không thèm dừng bước hoặc ngoái
lại. Luật sư của ta sẽ nấu xốt tinh hoàn của anh làm bữa điểm tâm. Và nếu anh
dám lên máy bay của ta mà không có lệnh khám xét, thì lá lách của anh sẽ là món
tiếp theo đấy".
Không lạ gì những ngón giương vây quyền lực, viên chánh thanh tra
chẳng hề run sợ. Về mặt thủ tục pháp lý, Teabing đã đúng và cảnh sát cần có
lệnh khám xét để lên chiếc phản lực của ông ta, nhưng vì chuyến bay này xuất
phát từ Pháp, và vì tay Bezu Fache đầy quyền lực đã trao quyền, nên chánh thanh
tra quận Kent cảm thấy chắc chắn sự nghiệp của mình sẽ tốt đẹp hơn bằng việc
khám phá ra những gì mà Teabing dường như cố gắng giấu kín trên chiếc máy bay
này.
"Chặn họ lại", chánh thanh tra ra lệnh. "Tôi sẽ lục
soát máy bay".
Người của ông ta lao tới, súng chĩa ra, chặn đường hai thày trò
Teabing, không cho tới chiếc limousine.
Bấy giờ Teabing mới quay lại: "Thanh tra, đây là lời cảnh cáo
cuối cùng dành cho anh. Đừng có nghĩ đến chuyện lên chiếc máy bay này. Anh sẽ
phải hối tiếc đấy".
Phớt lờ lời hăm dọa, chánh thanh tra nắm chặt vũ khí và bước lên
cầu thang rút của máy bay. Tới cửa sập, ông ngó vào bên trong. Lát sau, ông
bước vào cabin. Quái quỷ gì thế này?
Ngoại trừ viên phi công vẻ như thất đảm trong khoang lái, máy bay
trống không. Hoàn toàn không có sự sống của con người. Nhanh chóng kiểm tra
phòng vệ sinh, ghế và nơi dể hành lý, chánh thanh tra không tìm thấy dấu vết
của bất cứ một người lẩn trốn nào… chưa nói gì đến nhiều cá nhân.
Bezu Fache đã nghĩ ra chuyện quái quỉ gì vậy? Dường như Teabing đã
nói thật.
Chánh thanh tra đứng một mình trong cabin vắng teo và nuốt nghẹn.
Cứt. Mặt ông ta bừng đỏ, ông quay lại cầu thang rút, nhìn qua hăng-ga về phía
hai thầy trò Leigh Teabing đang đứng gần chiếc limousine trước những họng súng.
"Để họ đi", thanh tra ra lệnh. "Chúng ta nhận được thông tin sai
rồi".
Mắt Teabing đầy vẻ đe dọa, ngay cả qua chiều rộng của hăng-ga cũng
thấy rõ: "Anh hãy chờ một cuộc gọi từ các luật sư của ta. Và để tham khảo
sau này, nên nhớ rằng cảnh sát Pháp không thể tin cậy được".
Với lời đe doạ đó, người giúp việc của Teabing mở cửa sau chiếc
limousine và đỡ ông chủ tàn tật ngồi vào ghế sau. Rồi, đi theo chiều dài của xe,
ngồi vào sau vô lăng và khởi động. Cảnh sát tản ra khi chiếc Jaguar bứt khỏi
hăng-ga.
***
"Chơi tốt lắm, anh bạn", Teabing reo lên từ ghế sau khi
chiếc limousine tăng tốc ra khỏi sân bay. Ông quay mắt nhìn vào góc phía trước
lờ mờ sáng của khoang trong rộng rãi: "Mọi người đầy thoải mái chứ?".
Langdon gật đầu yếu ớt. Ông và Sophie vẫn nằm khom khom trên sàn
xe, bên cạnh gã bạch tạng bị bịt miệng và trói chặt.
Nhiều phút trước, lúc chiếc Hawker lăn bánh vào hăng-ga trống vắng,
Rémy đã bật mở cửa sập dưới bụng của máy bay trong khi nó khấp khểnh dừng lại
giữa chừng vòng của. Trong khi cảnh sát cấp tốc áp sát hăng-ga, Langdon và
Sophie kéo gã thầy tu xuống cầu thang rút đến ngang mặt đất và khuất tầm mắt
sau chiếc limousine. Sau đó, động cơ máy bay lại gầm lên, hoàn tất vòng của của
nó khi đoàn xe cảnh sát tràn vào hăng-ga.
Giờ đây, khi chiếc limousine phóng nhanh về phía Kent, Langdon và
Sophie lồm cồm đứng dậy đi về phía cuối khoang trong dài rộng của chiếc xe
thượng đẳng, để lại gã thầy tu bị trói trên sàn. Họ ngồi trên chiếc ghế dài đối
diện với Teabing. Ông già người Anh tặng cho cả hai một nụ cười tinh quái và mở
tủ rượu của quầy bar trong xe. "Tôi có thể mời các bạn một ly được không?
Một chút đồ nhắm nhé? Khoai tây rán? Hạt dẻ?".
Cả Sophie và Langdon đều lắc đầu.
Teabing cười tươi và đóng quầy rượu: "Vậy thì ta bàn về nấm mộ
của người hiệp sĩ…".
Chú thích:
(1) Hangar: nhà để máy bay,
từ này đã Việt hóa, tuy không phổ thông lắm.
"Phố Fleet?" Langdon hỏi, nhìn Teabing ở phía sau xe. Có
một hầm mộ ở phố Fleet ư? Cho đến giờ, Leigh vẫn chơi trò kín kín hở hở về nơi
mà ông nghĩ là họ có thể tìm thấy "mộ của người hiệp sĩ", mà theo bài
thơ, sẽ cung cấp mật khẩu cho việc mở cái hộp mật mã nhỏ hơn.
Teabing cười và quay sang Sophie: "Cô Neveu, hãy đưa cho chàng
trai Harvard xem qua bài thơ một lần nữa, được không?".
Sophie lục tìm trong túi và rút ra chiếc hộp mật mã màu đen, bọc
trong giấy da. Mọi người đã quyết định để lại chiếc hộp gỗ hồng mộc và hộp mật
mã lớn hơn trong két sắt của máy bay, chỉ mang theo cái họ cần là chiếc hộp mật
mã màu đen kín đáo và gọn nhẹ hơn nhiều. Sophie mở tấm giấy bọc và đưa cho
Langdon.
Mặc dù Langdon đã đọc bài thơ đó vài lần trên máy bay rồi nhưng ông
cũng không thể suy ra được một địa điểm cụ thể nào. Giờ đây, khi đọc lại những
từ trong bài thơ, ông từ từ nghiền ngẫm thật cẩn thận, hy vọng giờ đây, ở trên
mặt đất, tiết tấu ngũ bộ sẽ hé lộ ý nghĩa rõ ràng hơn.
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.
Kết quả công sức chàng chuốc lấy cơn thịnh nộ Thần Thánh.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.
Ngôn từ dường như khá đơn giản. Có một hiệp sĩ được chôn ở London.
Một hiệp sĩ đã khổ công làm một điều gì đó khiến Giáo hội tức giận. Một hiệp sĩ
mà mộ của chàng thiếu mất một quả cầu lẽ ra phải có ở đó. Hình tượng cuối cùng
được nhắc tới trong bài thơ - da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống - là một
ám chỉ rõ ràng đến Mary Magdalene, đóa Hồng mang hạt giống của Jesus.
Mặc dù bài thơ có vẻ dễ hiểu, Langdon vẫn không sao biết được hiệp
sĩ đó là ai hoặc được chôn ở đâu. Hơn nữa, một khi đã xác định được vị trí ngôi
mộ, xem ra còn phải tìm một cái gì đó bị thiếu. Trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ
chàng?
"Không nghĩ ra à?" Teabing tặc lưỡi ra vẻ thất vọng, mặc
dù Langdon cảm thấy nhà sử học Hoàng gia đang khoái vì đã nắm được một nguồn
tin. "Còn cô Neveu?".
Cô lắc đầu "Hai bạn sẽ làm gì nếu không có tôi?" Teabing
nói. "Được, tôi sẽ dẫn các bạn đi qua bài thơ này. Nó thực sự rất đơn
giản.
"Câu thứ nhất chính là chìa khóa. Xin đọc lên nào".
Langdon đọc to: "Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng
mai táng".
"Chính xác. Một hiệp sĩ được pope - Giáo hoàng mai táng".
Ông nhìn Langdon. "Theo anh, điều đó có nghĩa là gì?".
Langdon nhún vai: "Một hiệp sĩ đã được một Giáo hoàng chôn
cất. Một hiệp sĩ được một Giáo hoàng chủ trì tang lễ".
Teabing cười to: "Ồ, thật. Bao giờ cũng lạc quan, Robert. Hãy
xem câu thứ hai. Hiển nhiên là hiệp sĩ này đã làm điều gì đó để chuốc lấy cơn
thịnh nộ Thần Thánh của Giáo hội. Hãy nghĩ lại. Hãy xét năng động giữa Giáo hội
và các Hiệp sĩ Templar.
Một hiệp sĩ đã được một Giáo hoàng mai táng phải không?".
"Một hiệp sĩ bị một Giáo hoàng giết phải không?" Sophie
hỏi.
Teabing mỉm cười và vỗ vỗ vào đầu gối cô: "Suy luận tốt lắm,
cô bạn thân mến. Một hiệp sĩ bị một Giáo hoàng chôn. Tức bị giết".
Langdon nghĩ đến chiến dịch khét tiếng truy quét các Hiệp sĩ
Templar vào năm 1307 - ngày thứ sáu 13 bất hạnh - khi Giáo hoàng Clement đã
giết và chôn hàng trăm Hiệp sĩ Templar. "Nhưng hẳn phải có vô số mộ của
những hiệp sĩ bị Giáo hoàng giết".
"Aha, không phải như vậy!" Teabing nói. "Nhiều người
trong số họ bị thiêu trên giàn thiêu và bị ném thẳng xuống sông Tiber. Nhưng
bài thơ này nhắc đến một ngôi mộ. Một ngôi mộ ở London. Và có một số hiệp sĩ
được chôn ở London". Ông dừng lại nhìn Langdon như thể đang đợi ánh sáng
hé rạng trong đầu ông ta. Cuối cùng ông sốt ruột: "Robert, vì Chúa! Ngôi
nhà thờ do đội quân của Tu viện Sion xây dựng ở London - chính các Hiệp sĩ
Templar!".
"Nhà thờ Temple?", Langdon hít vào, kinh ngạc. "Ở đó
có hầm mộ?".
"Mười trong số những ngôi mộ ghê sợ nhất anh có thể
thấy".
Langdon chưa từng đến Nhà thờ Temple, mặc dù ông đã đọc rất nhiều
giới thlệu chiếu về nó trong quá trình nghiên cứu về Tu viện Sion. Đã từng một
thời là trung tâm cho mọi hoạt động của các Hiệp sĩ Templar và Tu viện Sion ở
nước Anh, Nhà thờ Temple được đặt tên như thế để tôn vinh Solomon s Temple (Đền
thờ Solomon) mà từ đó các Hiệp sĩ Templar rút ra danh hiệu của mình cũng như
những tài liệu Sangreal đã mang lại cho họ ảnh hưởng to lớn ở Roma. Có rất
nhiều truyện về các hiệp sĩ tiến hành những nghi thức kỳ lạ, bí mật bên trong
hậu cung khác thường của Nhà thờ Temple. "Nhà thờ Temple ở phố
Fleet?".
Thực tế, nó ở ngõ Inner Temple ngay sát phố Fleet". Nom
Teabing thật ranh mãnh. "Tôi muốn thấy anh đổ mồ hôi thêm tí nữa trước khi
tôi nói ra".
"Cảm ơn".
"Cả hai đều chưa đến đó phải không?".
Sophie và Langdon gật đầu.
"Tôi không ngạc nhiên", Teabing nói. "Giờ đây Nhà
thờ Temple đã bị che khuất sau những tòa nhà lớn hơn. Thậm chí rất ít người
biết có nó ở đó. Nơi cổ kính bí hiểm. Kiến trúc ngoại giáo đến tận cốt
lõi".
Sophie có vẻ ngạc nhiên: "Ngoại giáo?".
"Ngoại giáo mang tính chất đa thần!". Teabing thốt lên.
"Nhà thờ hình tròn. Các Hiệp sĩ Templar đã bỏ qua thiết kế quy hoạch hình
chữ thập theo truyền thống của người Cơ đốc và xây dựng một nhà thờ hình tròn
hoàn hảo để tôn vinh mặt trời". Lông mày ông biểu diễn một vũ điệu quỷ
quái. "Một lời chào không mấy tế nhị gửi tới những chàng trai ở Roma. Khác
nào họ khôi phục lại Stonehenge (1). Ở trung tâm London vậy".
Sophie nhìn Teabing: "Thế còn những câu sau của bài
thơ?".
Vẻ vui thích của nhà sử gia nhạt dần: "Tôi không chắc. Thật
khó mà lần cho ra. Chúng ta cần cẩn thận xem xét từng chiếc trong mười ngôi mộ.
Nếu may mắn, ta sẽ thấy một trong số đó rõ ràng là thiếu một quả cầu".
Langdon nhận thấy họ đã gần mục tiêu đến mức nào. Nếu quả cầu thiếu
vắng cho biết mật khẩu thì họ có thể mở cái hộp mật mã thứ hai. Ông thấy khó
tưởng tượng ra những gì họ có thể tìm thấy bên trong.
Langdon xem lại bài thơ. Nó giống như một loại trò chơi ô chữ thuở
xưa. Một từ có năm chữ cái nói về Chén Thánh? Trên máy bay, họ đã thử tất cả
những mật khẩu có vẻ là hiển nhiên, GRAIL, GRAAL, GREAL, VENUS, MARI JESUS,
SARAH - nhưng hình trụ không nhúc nhích. Quá hiển nhiên. Vẻ như có một từ năm
chữ cái nào khác liên quan đến tử cung mang thai của Rose. Việc một chuyên gia
như Leigh Teabing cũng không nắm bất được cái từ này cho Langdon thấy rằng đây
không phải là một từ quy chiếu đến Chén Thánh một cách thông thường.
"Ngài Leigh?" Rémy gọi qua vai. Ông ta đang nhìn họ trong
gương chiếu hậu qua tấm ngăn để ngỏ. "Ngài nói phố Fleet ở gần cầu
Blackriars phải không?".
"Đúng, đi theo đường Victoria Embankment".
"Tôi xin lỗi. Tôi không biết chắc nó ở quãng nào. Mọi khi
chúng ta chỉ đi đến bệnh viện".
Teabing nhìn Langdon và Sophie, mắt long sòng sọc và lầu bầu.
"Tôi thề, đôi khi thật cứ như làm bảo mẫu giữ trẻ vậy. Xin đợi cho một
lát. Các bạn cứ tự nhiên dùng đồ uống và nhấm nháp". Ông rời bọn họ, hì
hụi lết đến nói chuyện với Rémy qua tấm ngăn để ngỏ.
Lúc này Sophie quay sang Langdon, giọng của cô êm ả:
"Robert, không ai biết anh và tôi đang ở Anh".
Langdon thấy cô nói đúng. Cảnh sát quận Kent hẳn đã nói với Fache
là chiếc máy bay trống không, và Fache ắt phải cho là họ vẫn ở Pháp. Chúng ta
là vô hình. Cái mẹo nhỏ của Leigh đã kiếm được cho họ vô khối thời gian.
"Fache sẽ không bỏ qua dễ dàng", Sophie nói. "Ông ta
đã sa đà quá nhiều vào trò truy bắt này".
Langdon cố không nghĩ về Fache. Sophie đã hứa sẽ làm mọi thứ trong
khả năng của mình để miễn trách nhiệm cho Langdon khi vụ việc này kết thúc,
nhưng Langdon đã bắt đầu sợ là điều đó có thể không quan trọng. Fache dễ có thể
nằm trong âm mưu này. Mặc dù Langdon không thể tưởng tượng được là Cảnh sát tư
pháp lại dây dưa vào chuyện Chén Thánh, ông vẫn cảm thấy đêm nay có quá nhiều
trùng hợp ngẫu nhiên đến nỗi không thể bỏ qua khả năng Fache có thể là một tòng
phạm. Fache là người có đạo, và ông ta kiên quyêt đổ tội giết người cho ta. Lại
nữa, Sophie thì cứ biện luận rằng Fache đơn giản chỉ quá sốt sắng thực hiện
việc bắt giữ. Xét cho cùng, bằng chứng chống lại Langdon là đáng kể. Ngoài việc
tên của Langdon được viết nguệch ngoạc trên sàn bảo tàng Louvre và trong sổ ghi
các cuộc hẹn của Saunière, giờ đây đã rõ ra là Langdon đã nói dối về bản thảo
của mình rồi sau đó bỏ chạy. Theo gợi ý của Sophie.
"Robert, tôi lấy làm tiếc anh đã dính líu quá sâu",
Sophie nói, đặt tay lên đầu gối Langdon. "Nhưng tôi cũng rất vui mừng là
anh ở đây".
Lời bình luận nghe có vẻ thực dụng hơn là lãng mạn, tuy nhiên,
Langdon vẫn cảm thấy lóe lên bất ngờ một tương quan hấp dẫn giữa hai người. Ông
mỉm cười một cách mệt mỏi với cô: "Tôi sẽ vui hơn nhiều khi tôi được ngủ
một giấc".
Sophie im lặng khoảng vài giây: "Ông tôi yêu cầu tôi tin anh.
Tôi lấy làm vui mừng là đã nghe lời ông tôi lần này".
"Ông của cô thậm chí không hề biết tôi".
"Dù vậy, tôi vẫn không thể không nghĩ là anh đã làm mọi thứ
ông tôi muốn. Anh đã giúp tôi tìm ra viên đá đỉnh vòm, giải thích về Sangreal,
kể với tôi về nghi lễ trong tầng hầm", cô ngừng lại. "Không hiểu sao
đêm nay tôi cảm thấy gần gũi với ông tôi hơn nhiều năm trước đây. Tôi biết ông
tôi sẽ rất vui sướng về điều đó".
Đằng xa, đường chân trời của London đã bắt đầu hiện ra qua làn mưa
bụi lúc rạng đông. Trước kia, thống ngự ở London là đồng hồ Big Bellvà cây cầu
Tower Bridge, giờ đây, chân trời cúi chào Millennium Eye (Con mắt Thiên niên
kỷ) - chiếc bánh xe quay Ferris khổng lồ cực kỳ hiện đại leo tớỉ độ cao một
trăm năm mươi mét, từ đó ngắm quang cảnh thành phố thật ngây ngất. Langdon đã
thử lên đó một lần, nhưng những "khoang ngắm cảnh" khiến ông nhớ đến
những quan tài đá kín bưng, và ông quyết định đứng vững trên mặt đất mà thưởng
thức quang cảnh từ đôi bờ lộng gió của sông Thames.
Langdon cảm thấy ai đó bóp mạnh vào đầu gối, kéo ông quay lại và
thấy đôi mắt xanh của Sophie dán vào mình. Ông nhận ra là cô đang nói với mình:
"Anh nghĩ chúng ta nên làm gì với những tài liệu Sangreal nếu chúng ta tìm
thấy chúng?". Cô thì thầm.
"Những gì tôi nghĩ không thành vấn đề". Langdon nói.
"Ông cô đã trao hộp mật mã cho cô, và cô nên làm theo những gì mà linh
tính mách bảo rằng ông cụ muốn cô làm như vậy".
"Tôi muốn biết quan điểm của anh. Rõ ràng anh đã viết điều gì
trong bản thảo đó làm ông tôi tin vào nhận định của anh. Ông tôi đã lên lịch
một cuộc gặp riêng với anh. Điều đó là hi hữu".
"Có thể ông cụ muốn bảo tôi rằng tôi đã hiểu sai hoàn
toàn".
"Tại sao ông tôi lại bảo tôi tìm anh trừ phi ông tôi thích ý
tưởng của anh? Trong bản thảo của mình, anh ủng hộ ý kiến cho rằng tài liệu
Sangreal nên được công bố hay cứ để bị chôn vùi?".
"Cả hai ý đều không. Tôi không đưa ra nhận định theo một trong
hai cách đó. Bản thảo đó bàn về hệ biểu tượng của tính nữ thiêng liêng - truy
tìm những minh họa cho tính nữ thiêng liêng trong toàn bộ lịch sử. Chắc chắn
tôi không mạo nhận là mình biết chỗ Chén Thánh được cất giấu hoặc cho rằng nó
có nên được tiết lộ hay không".
"Tuy nhiên, anh đang viết một cuốn sách về nó, vậy rõ ràng là
anh cảm thấy thông tin nên được chia sẻ".
"Có một sự khác nhau rất lớn giữa việc tranh luận trên cơ sở
giả thuyết về một lịch sử khác của Christ và…". ông ngừng lại.
"Và gì?".
"Và việc trình ra trước thế giới hàng nghìn tài liệu cổ như là
bằng chứng khoa học rằng Tân ước là thư chứng sai".
"Nhưng anh đã nói với tôi rằng Tân ước được dựa trên những
điều bịa đặt".
Langdon mỉm cười: "Sophie, mọi niềm tin vào thế giới đều được
dựa trên những điều bịa đặt. Đó là đỉnh nghĩa về niêm tin - chấp nhận điều mà
chúng ta tưởng tượng là đúng, điều mà chúng ta không thể chứng minh. Mọi tôn
giáo đều miêu tả Thượng Đế qua ẩn dụ, ngụ ngôn và cường điệu, từ những người Ai
Cập cổ cho đến các trường đạo ngày Chủ nhật (2) hiện nay. Ẩn dụ là một cách để
giúp trí óc chúng ta xử lý những gì không thể xử lý được. Vấn đề chỉ phát sinh
khi chúng ta bắt đầu tin những ẩn dụ của chính chúng ta theo nghĩa đen".
"Vậy là anh tán thành để những tài liệu Sangreal bị chôn vùi
mãi mãi?".
"Tôi là một sử gia. Tôi chống lại sự hủy hoại tài liệu, và tôi
muốn thấy những học giả tôn giáo có được thông tin nhiều hơn để suy ngẫm về
cuộc đời khác thường của Jesus Christ".
"Anh đang lập luận cho cả hai phía trong vấn đề của tôi".
"Tôi á? Kinh Thánh là kim chỉ nam cơ bản cho hàng triệu người
trên hành tinh này, và bằng cách tương tự các kinh Koran, Torah và Pali Canon
dẫn dắt những người của các tôn giáo khác. Nếu cô và tôi có thể khai quật được
tài liệu nói ngược lại những câu chuyện thần thánh của tín ngưỡng Hồi giáo, tín
ngưỡng Do Thái, tín ngưỡng Phật giáo, tín ngưỡng của kẻ ngoại đạo, thì liệu
chúng ta có nên làm điều đó chăng? Chúng ta có nên phất lên một ngọn cờ và nói
với các Phật tử rằng chúng ta có bằng chứng là Phật tổ không sinh ra từ hoa
sen? Hoặc giả là Jesus không được sinh ra từ sự thụ thai trinh khiết theo nghĩa
đen? Những ai thực sự hiểu tín ngưỡng của mình đều hiểu những câu chuyện đó là
ẩn dụ".
Sophie có vẻ hoài nghi: "Bạn của tôi, một người sùng đạo Cơ
Đốc dưt khoát tin rằng Christ đi trên mặt nước theo nghĩa đen, biến nước thành
rượu vang theo nghĩa đen, và sinh ra từ sự thụ thai trinh khiết theo nghĩa
đen".
"Quan điểm của tôi chính xác là", Langdon nói, "Ngụ
ngôn tôn giáo đã trở thành một phần kết cấu của hiện thực. Và việc sống trong
hiện thực đó giúp hàng triệu người xử thế và trở thành người tốt hơn".
"Nhưng có vẻ như hiện thực của họ là giả dối".
Langdon tủm tỉm cười: "Cũng chẳng giả hơn hiện thực của một
người giải mã toán học lại tin vào số tưởng tượng "i" bởi vì nó giúp
cô ta giải những mật mã".
Sophie cau mày: "Cái đó không hợp lý".
Một khoảnh khắc trôi qua.
"Vừa nãy cô hỏi gì nhỉ?" Langdon hỏi.
"Tôi không nhớ được".
Langdon mỉm cười: "Lần nào cũng hiệu quả".
Chú thích:
(1) Công trình thời tiền sử gồm một vòng tròn lớn với các trụ đá đồ
sộ bao quanh một vòng tròn nhỏ hơn và bốn cổng đá.
(2) Lớp học tổ chức vào ngày Chủ nhật giảng dạy về tôn giáo cho trẻ
em.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 52
Chiếc đồng hồ đeo tay Chuột Mickey của Langdon chỉ gần 7 giờ 30 khi
ông từ chiếc limousine nhãn hiệu Jaguar bước xuống con hẻm Inner Temple với
Sophie và Teabing. Bộ ba đi ngoằn ngoèo qua một khu bàn cờ chen chúc nhà cửa để
tới cái sân nhỏ bên ngoài Nhà thờ Temple. Tường đá đẽo thô ánh lên mờ mờ trong
mưa, và chim câu gù trong các chi tiết kiến trúc trên đầu.
Nhà thờ cổ kính này của London được xây dựng hoàn toàn bằng đá
Caen. Gồm một toà nhà tròn gây ấn tượng với mặt tiền dữ dằn, một thấp nhỏ ở
trung tâm và gian giữa giáo đường nhô ra về một bên, nhà thờ nhìn giống một
pháo đài quân sự hơn là một nơi thờ cúng. Được Heraclius, giáo trưởng của
Jerusalem, làm phép vào ngày 10 tháng 2 năm 1185, nhà thờ đã tồn tại qua tám
thế kỷ hỗn loạn về chính trị, cuộc đại hoả hoạn ở London, chiến tranh thế giới
lần thứ nhất, và chỉ bị hư hỏng nặng nề nhất trong lần bị không quân Đức ném
bom cháy vào năm 1940.
Sau chiến tranh, nó đã được phục chế trở về dáng vẻ hùng vĩ hoang
dại ban đầu.
Nét giản dị của hình tròn. Langdon nghĩ thầm, lần đầu tiên được dịp
chiêm ngưỡng toà nhà. Kiến trúc thô nháp và đơn sơ, khiến người ta nhớ đến
Castel Sant Angelo xù xì ở Rôma hơn là Điện Pantheon tao nhã. Dãy nhà phụ hình
hộp nhô ra ở bên phải thật chướng mắt, mặc dù nó chẳng làm mấy tí để che khuất
hình thù ngoại giáo ban đầu của cấu trúc nguyên thủy.
"Ngày thứ bảy, giờ này vẫn là sớm", Teabing nói, tập tễnh
đi về phía lối vào, "cho nên tôi nghĩ chúng ta sẽ không vướng phải lễ chầu
nào đâu".
Cổng nhà thờ là một hốc đá, bên trong nó là một cánh cửa gỗ lớn. Ở
bên trái cửa, nom hoàn toàn lạc chỗ, treo một bảng thông tin dán đầy những
chương trình hoà nhạc và thông báo các buổi lễ chầu.
Teabing cau mày khi đọc bảng tin: "Hai giờ nữa họ mới mở cửa
cho khách tham quan". Ông đi tới cánh cửa và đẩy thử.
Cánh cửa không nhúc nhích. Teabing áp tai vào gỗ và lắng nghe. Sau
một lát, ông lùi lại, vẻ mưu mô hiện trên nét mặt khi ông chỉ lên bảng thông
báo. "Robert, kiểm tra lại lịch lễ chầu xem! Ai chủ trì tuần này?".
***
Bên trong nhà thờ, một lễ sinh đang sắp hoàn thành việc hút bụi
những gối quỳ làm lễ Thánh thể thì nghe thấy tiếng gõ cửa thánh đường. Cậu ta
lờ đi. Cha Harvey Knowles có chìa khoá riêng và hai tiếng nữa mới phải có mặt.
Tiếng gõ cửa có lẽ là của một khách du lịch tò mò hay một kẻ ăn xin. Cậu ta cứ
hút bụi tiếp, nhưng tiếng gõ vẫn tiếp tục. Không biết đọc à? Tấm bảng treo ở
cửa đã nói rõ là nhà thờ sẽ không mở cửa cho đến 9 giờ 30 ngày thứ bảy. Cậu bé
quay lại với công việc của mình.
Đột nhiên, tiếng gõ chuyển thành những cú đập rất mạnh như thể ai
đó đang nện vào cửa bằng một thanh kim loại vậy.
Cậu nhỏ tắt máy hút bụi và cáu kỉnh đi ra phía cửa. Mở khoá cửa từ
phía trong, cậu giật tung cánh cửa. Ba người đứng ngay ở lối vào. Khách du
lịch, cậu càu nhàu: "Chúng tôi mở cửa vào lúc 9 giờ 30".
Người đàn ông phục phịch, có vẻ là người dẫn đầu, chống đôi nạng
bằng kim loại bước lên phía trước: "Ta là Ngài Leigh Teabing", ông ta
nói, giọng Anh Saxon rõ ra là người trí thức, chắc hẳn cháu biết, ta đang tháp
tùng ông bà Christopher Wren đệ tứ", ông bước sang bên, điệu đàng vung tay
về phía cặp uyên ương hấp dẫn phía sau. Người phụ nữ nét mặt dịu dàng, mái tóc
rậm màu vang đỏ. Người đàn ông cao, tóc sẫm màu và trông quen quen.
Cậu lễ sinh không biết phản ứng ra sao. Ngài Christopher Wren là vị
mạnh thường quân nổi tiếng nhất góp công đức vào Nhà thờ Temple. Ông đã cho
trùng tu lại mọi hư hại của nhà thờ do cuộc Đại Hoả Hoạn gây ra. Ông đã mất từ
đầu thế kỉ 18.
"Ưm…rất hân hạnh được gặp ngài".
Người đàn ông chống nạng cau mày: "Thật may là cháu không phải
là chân bán hàng, cháu chẳng đon đả gì cho lắm. Cha Knowles đâu?".
"Hôm nay là thứ bảy. Chưa tới giờ Cha đến".
Vẻ cau có của người đàn ông chân què càng tăng thêm: "Thế mà
gọi là biết ơn đấy! Ông ta cam đoan với chúng ta rằng ông ta sẽ ở đây, nhưng
xem ra chúng ta phải tiến hành công việc mà không có ông ta. Sẽ không mất nhiều
thời gian đâu".
Cậu bé lễ sinh vẫn đứng chắn lối vào: "Xin lỗi, việc gì không
mất nhiều thời gian?".
Đôi mắt của vị khách quắc lên, và ông ta cúi người về phía trước
thì thầm như để tránh cho mọi người khỏi bối rối: "Này chú nhỏ, hình như
cháu là người mới ở đây thì phải. Hàng năm, hậu duệ của ngài Christopher Wren
đều mang một nhúm tro của ngài để rải trong điện thờ linh thiêng này. Đây là
một phần di chúc mà ngài để lại. Không ai thật sự sung sướng khi thực hiện
chuyến đi này, nhưng chúng ta biết làm thế nào?".
Cậu bé lễ sinh đã ở đây được hai năm nhưng chưa bao giờ nghe nói về
tục lệ này: "Tốt nhất là ngài đợi đến 9 giờ 30. Nhà thờ vẫn chưa mở cửa,
và cháu thì vẫn chưa hút bụi xong".
Người đàn ông chống nạng nhìn trừng trừng, giận dữ: "Này chú
nhỏ, lý do duy nhất khiến tòa nhà này còn lại được bất cứ cái gì để cho cậu hút
bụi là nhờ quí ngài trong túi áo của bà kia đấy".
"Cháu không hiểu?".
"Bà Wren", người đàn ông chống nạng nói, "bà vui
lòng cho cậu bé xấc xược này xem lọ tro trong túi bà chứ?".
Người phụ nữ do dự trong giây lát rồi, như tỉnh sau cơn nhập đồng,
thò tay vào túi áo len, lấy ra một vật hình trụ bọc trong một miếng vải.
"Kia, cậu thấy chứ?". người đàn ông chống nạng gắt:
"Bây giờ cậu có thể hoặc là tôn trọng ý nguyện của người đã khuất và để
chúng tôi rắc tro của ông ấy vào trong điện thờ, hoặc tôi sẽ thưa với cha
Knowles là chúng tôi vừa bị đối xử thế nào".
Cậu lễ sinh lưỡng lự vì đã quá quen với sự tuân thủ nghiêm ngặt của
cha Knowles với truyền thống nhà thờ… và, quan trọng hơn, với sự cáu giận của
cha khi bất cứ thứ gì toả lên nơi thờ cúng lâu đời này ngoại trừ ánh sáng thích
hợp. Có thể cha Knowles đã quên bẵng là những thành viên của gia đình này sẽ
tới. Nếu vậy, để họ ra đi còn nguy hại hơn là cứ để họ vào. Xét cho cùng, họ
nói chỉ mất một phút thôi mà. Có hại gì đâu?
Hai cậu lễ sinh đứng sang một bên để cho ba người đi qua, cậu dám
thề rằng ông bà Wren trông cũng có vẻ hoang mang về chuyện này như cậu. Vẫn ngờ
vực, nhưng cậu quay lại với mấy việc vặt của mình, theo dõi họ qua khoé mắt.
Langdon không khỏi mỉm cười khi ba người đi sâu hơn vào trong nhà
thờ: "Leigh", ông thì thầm, ngài nói dối quá giỏi".
Mắt Teabing lấp lánh: "Câu lạc bộ sân khấu Oxford mà. Họ vẫn
còn nói về vai Julius Caesar của tôi. Tôi chắc không ai khác đã từng diễn màn
đầu Hồi Ba với nhiều tâm huyết hơn".
Langdon liếc sang: "Tôi tưởng Ceasar đã chết ở màn này rồi kia
mà".
Teabing cười tự mãn: "Phải, nhưng cái áo choàng La Mã của tôi
mở toang ra khi tôi ngã, và tôi đã phải nằm trên sàn diễn suốt nửa tiếng đồng
hồ với thằng bé thòi lòi ra lủng lẳng. Thậm chí, tôi không dám động đậy một cơ
bắp nào. Rất chi là xuất sắc, xin thưa với anh thế".
Langdon co rúm người. Rất tiếc là tôi đã bỏ lỡ cảnh đó.
Khi cả nhóm đi xuyên qua gian nhà phụ hình chữ nhật về phía cổng tò
vò dẫn vào nhà thờ chính, Langdon rất ngạc nhiên về sự khắc khổ ở đây. Mặc dù
thiết kế của bàn thờ cũng giống như ở nhà thờ Cơ đốc, nhưng các đồ bày biện
thật ảm đạm và lạnh lẽo, không chút trang trí truyền thống. "Thật tiêu
điều".
Langdon thì thầm.
Teabing tặc lưỡi: "Nhà thờ của nước Anh mà. Những tín đồ Giáo
phái Anh uống ực tôn giáo của mình một cách trực tiếp.
Không có gì để làm sao lãng đi nỗi khổ cực của họ".
Sophie chỉ tay qua khoảng trống rộng nhường chỗ cho phần hình tròn
của nhà thờ. "Chỗ này trông như một pháo đài", cô nói nhỏ.
Langdon đồng ý. Thậm chí từ đây, những bức tường trông hùng dũng lạ
thường.
"Các Hiệp sĩ Templar là những chiến binh mà!" Teabing
nhắc nhở tiếng nạng nhôm của ông vang trong khoảng không. "Một xã hội tôn
giáo - quân sự. Nhà thờ là pháo đài và ngân hàng của họ".
"Ngân hàng?", Sophie hỏi, liếc nhìn Leigh.
"Chúa ơi, đúng vậy. Chính các Hiệp sĩ Templar đã phát minh ra
khái niệm ngân hàng hiện đại. Đối với giới quý tộc châu Âu, mang vàng theo
trong những chuyến đi là rất nguy hiểm, do đó các Hiệp sĩ Templar đã cho phép
giới quý tộc gửi vàng vào Nhà thờ Temple gần nhất và sau đó rút vàng ra từ bất
kỳ một nhà thờ nào khác của họ ở khắp châu Âu. Tất cả những gì họ cần là giấy
tờ hợp lệ". Ông nháy mắt. "Và một ít tiền hoa hồng. Họ là những cái
máy ATM nguyên thuỷ". Teabing chỉ về phía một cửa sổ kính mờ, nơi ánh mặt
trời mới ló khúc xạ qua một chiến binh áo trắng cưỡi một con ngựa hồng:
"Alanus Marcel", Teabing nói, "Ông Trùm của các Hiệp sĩ Templar
vào đầu những năm 1200. Ông và những người kế vị ông ta thực tế nắm giữ chức
Nghị viên vùng Primus Baro Angiae".
Langdon ngạc nhiên: "Nam tước đầu tiên của vùng này?".
Teabing gật đầu: "Ông Trùm của các Hiệp sĩ Templar, một số
người khắng định, nắm giữ nhiều quyền lực hơn cả nhà vua".
Khi họ đến bên ngoài điện thờ hình tròn, Teabing liếc nhanh nhìn
cậu lễ sinh đang hút bụi cách đó một quãng. "Cô biết không". Teabing
nói nhỏ với Sophie, "người ta kể là có lần Chén Thánh đã từng được giữ qua
đêm trong nhà thờ này khi các Hiệp sĩ Templar chuyển chỗ cất giấu nó. Cô có thể
tưởng tượng được bốn cái rương tài liệu Sangreal đã được đặt ở ngay đây cùng
với chiếc quan tài bằng đá của Mary Magdalene không? Nó làm tôi nổi da
gà".
Langdon cũng cảm thấy sởn da gà khi họ bước vào trong căn phòng
hình tròn này. Cặp mắt ông lướt theo đường lượn vòng của tường đá trắng, ngắm
nhìn những phù điêu trên máng xối - ma quỷ, quái vật, những mặt người đau đớn -
tất cả đều nhìn vào phía trong. Dưới những phù điêu là một hàng ghế đá cuộn
quanh chu vi căn phòng.
"Rạp hát hình tròn", Langdon nói khẽ.
Teabing nhấc một chiếc nạng, chỉ về góc xa bên trái của căn phòng
rồi lại sang góc xa bên phải. Langdon đã nhìn thấy.
Mười hiệp sĩ đá.
Năm ở bên trái. Năm ở bên phải.
Nằm ngửa trên sàn nhà, những hình người được tạc theo kích thước
bằng người thật nghỉ ngơi trong những tư thế rất thanh thản. Những hiệp sĩ được
thể hiện với đầy đủ áo giáp, khiên và kiếm, cùng những ngôi mộ khiến Langdon có
cái cảm giác bất an như thể có ai đó đã lẻn vào trong khi những hiệp sĩ này đang
ngủ và đổ một lớp thạch cao lên người họ vậy. Tất cả những hình người ở đây đã
dầu dãi phong sương và mặc dù vậy mỗi hình đều rất riêng, độc đáo - các bộ phận
áo giáp, tư thế tay chân rõ rành, nét mặt và dấu hiệu trên khiên, tất cả đều
khác nhau.
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.
Langdon cảm thấy run khi bước từng bước sâu hơn vào căn phòng hình
tròn.
Đây tất phải là nơi họ kiếm tìm.
Trong một con hẻm đầy rác rưới rất gần Nhà thờ Temple, Rémy
Legaludec lái chiếc limousine hiệu Jaguar tới đậu sau một dãy thùng đựng rác
thải công nghiệp. Tắt máy, ông ta kiểm tra xung quanh. Vắng tanh. Ông ta ra
khỏi xe, bước về phía sau, và lại trèo vào khoang chính của chiếc limousine nơi
đặt gã tu sĩ.
Cảm thấy sự có mặt của Rémy, gã thầy tu ở phía sau dứt ra khỏi
trạng thái nửa như cầu nguyện nửa như mê, đôi mắt đỏ của hắn trông có vẻ tò mò
hơn là sợ hãi. Suốt buổi tối, Rémy đã rất phục khả năng giữ bình tĩnh của con
người đang bị trói gô này. Sau đôi chút kháng cự ban đầu trong chiếc xe Range Rover,
gã tu sĩ có vẻ như chấp nhận cảnh ngộ và phó mặc sốphận cho quyền lực tối cao.
Nới lỏng nơ đeo cổ, Rémy mở khuy chiếc áo cổ cao, hồ bột xòe sang
hai bên của mình và cảm thấy như lần đầu tiên được thở sau nhiều năm. Đi tới
quầy rượu của chiếc limousine, ông ta tự rót cho mình một ly vodka Smirnoff,
ông ta tợp luôn một hơi, và rót tiếp ly thứ hai.
Chẳng bao lâu nữa ta sẽ thành người thư nhàn.
Lục trong quầy rượu, Rémy tìm thấy một cái mở rượu tiêu chuẩn và
bật mở lưỡi dao sắc nhọn. Con dao thường dùng để cắt lớp thiếc bọc trên đầu nút
những chai rượu vang loại tốt, nhưng sáng nay, nó sẽ phục vụ một mục đích ly kỳ
hơn nhiều. Rémy quay lại và đối mặt với Silas, giơ lưỡi dao sáng loáng lên.
Bây giờ đôi mắt đỏ ánh lên sự sợ hãi.
Rémy mỉm cười và đi về phía sau chiếc limousine. Gã tu sĩ lùi lại
vật lộn với dây trói.
"Nằm im", Rémy thì thầm, giơ con dao lên.
Silas không thể tin là Chúa đã bỏ hắn. Thậm chí nỗi đau thể xác do
bị trói cũng được Silas chuyển thành một bài tập tâm linh, biến cái giật thon
thót của những cơ bắp khát máu thành sự nhắc nhớ tới nỗi đau mà Chúa Kirixitô
đã phải chịu đựng. Mình đã cầu nguyện cả đêm cho sự giải thoát. Giờ đây, khi
con dao hạ xuống, Silas nhắm chặt mắt lại.
Một cơn đau xé xuyên qua bả vai. Hắn gào lên, không thể tin được là
hắn sắp chết ở đây, phía sau chiếc limousine này, không thể tự bảo vệ. Mình
đang làm công việc của Chúa. Thầy Giáo đã nói thầy sẽ bảo vệ mình.
Silas cảm thấy cái gì âm ấm nhoi nhói lan ra khắp lưng và vai, hắn
có thể hình dung máu của chính mình đang trào ra trên da thịt. Bây giờ cơn đau
nhức nhối xuyên qua đùi gã, và hắn cảm thấy ập tới con sóng ngẫm dội ngược lại
của sự mất phương hướng - cơ chế đề kháng của cơ thể chống lại nỗi đau.
Khi cơn đau rát xé dọc các cơ bắp, hắn nhắm mắt chặt hơn, quyết
định rằng hình ảnh cuối cùng của cuộc đời hắn sẽ không phải kẻ giết mình. Thay
vào đó, hắn tưởng tượng ra một giám mục Aringarosa trẻ hơn, đứng trước nhà thờ
nhỏ ở Tây Ban Nha… nhà thờ mà ông và Silas đã xây bằng chính đôi bàn tay họ. Sự
khởi đầu của cuộc đời mình.
Silas cảm thấy như thể thân xác đang bị thiêu trên lửa.
"Uống một ly đi", người đàn ông mặc xmôckinh thì thào
giọng Pháp, "nó sẽ giúp cho khí huyết lưu thông".
Silas mở choàng mắt, ngạc nhiên. Một hình ảnh nhạt nhòa cúi vế phía
hắn, đưa cho hắn một ly chất lỏng. Một đống băng dính bị xé vụn nằm trên sàn
bên cạnh con dao vấy máu.
"Uống đi", ông ta lặp lại, "cơn đau mà anh cảm thấy
là do máu dồn vào các cơ bắp".
Silas cảm thấy cơn dập dồn nóng rát giờ chuyển thành giậm giựt nhoi
nhói. Vị vodka thật kinh khủng, nhưng hắn vẫn uống, cảm thấy biết ơn vì mặc dù
số phận đã giáng cho hắn một phần lớn của cái rủi đêm nay, nhưng Chúa đã giải
quyết tất cả bằng một xoay chuyển diệu kì.
Chúa đã không bỏ rơi mình.
Silas biết giám mục Aringarosa ắt gọi diễn biến này là sự canthiệp
của Chúa.
"Tôi đã muốn giải thoát cho anh sớm hơn", người hầu biện
minh, nhưng không thể. Với sự xuất hiện của cảnh sát ở Château Villette, và sau
đó ở sân bay Biggin Hill, đây là thời điểm khả thi đầu tiên. Anh có hiểu không,
Silas?".
Silas giật mình lùi lại: "Ông biết tên tôi?".
Người hầu mỉm cười.
Silas ngồi dậy, xoa những cơ bắp tê cứng, cảm xúc của hắn lúc này
là một dòng lũ pha lẫn bán tín bán nghi, cảm phục và bối rối: "Ông có phải
là… Thầy Giáo?".
Rémy lắc đầu, cười cái câu hỏi hàm ý xác nhận: "Tôi ước gì tôi
có được quyền năng đó. Không, tôi không phải là Thầy Giáo. Như anh, tôi phục vụ
ông. Nhưng Thầy Giáo đánh giá cao anh. Tên tôi là Rémy.".
Silas kinh ngạc: "Tôi không hiểu. Nếu ông làm việc cho Thầy
Giáo, tại sao Langdon lại mang viên đá đỉnh vòm về nhà của ông?".
"Không phải nhà của tôi, mà là nhà của nhà sử học hàng đầu thế
giới về Chén Thánh, ngài Leigh Teabing".
"Nhưng ông sống ở đó. Có lẽ là…".
Rémy mỉm cười, dường như chẳng mắc mớ gì với việc Langdon chọn nơi
ẩn náu có vẻ như một sự trùng hợp: "Tất cả đều có thể đoán được. Robert
Langdon đang sở hữu viên đá đỉnh vòm, và ông ta cần sự giúp đỡ. Còn nơi nào hợp
lý hơn là nhà của Leigh Teabing? Trước hết việc tôi tình cờ sống ở đó là lý do
tại sao Thầy Giáo tiếp cận tôi". Ông ta dừng lại. "Anh nghĩ làm thế
nào mà Thầy Giáo biết nhiều như vậy về Chén Thánh?".
Bây giờ sự việc bắt đầu hiện rõ và Silas vô cùng sửng sốt. Thầy
Giáo đã tuyển một người hầu có thể truy nhập tất cả những gì mà ngài Teabing
nghiên cứu. Thật là xuất sắc.
"Có rất nhiều điều tôi cần nói với anh", Rémy nói, đưa
cho Silas khẩu Heckler & Knoch đã nạp đạn. Rồi ông ta với tay qua vách ngăn
để ngỏ, lấy ra từ hộp đựng găng một khẩu súng lục ổ quay nhỏ gọn trong lòng bàn
tay. "Nhưng trước tiên, anh và tôi có việc cần làm đã".
***
Đại uý Fache bước từ chiếc chuyên cơ xuống sân bay Biggin Hill và
lắng nghe đầy ngờ vực báo cáo của chánh thanh tra quận Kent về những gì đã xảy
ra trong hăng-ga của Teabmg.
"Chính tôi đã lục soát chiếc máy bay", chánh thanh tra
quả quyết "và không có một ai trong đó". Giọng ông ta trở nên ngạo
mạn. "Và tôi nên nói thêm rằng nếu ngài Leigh Teabing khiếu tố tôi, tôi
sẽ… ".
"Ông đã thẩm vấn người phi công chưa?".
"Tất nhiên là chưa. Anh ta là người Pháp, và quyền thực thi
pháp lý của chúng tôi yêu cầu… ".
"Đưa tôi tới chỗ chiếc máy bay".
Khi tới hăng-ga, Fache chỉ cần sáu mươi giây để phát hiện ra một
vết máu bất thường trên sàn lát gần chỗ chiếc limousine vừa đỗ. Fache bước lên
máy bay và gõ mạnh vào thân máy bay.
"Đây là đại úy Cảnh sát tư pháp Pháp. Mở cửa ra!".
Viên phi công sợ hãi mở cửa xập và hạ cầu thang rút.
Fache trèo lên. Ba phút sau, với sự trợ giúp của khẩu súng, ông ta
đã có được đầy đủ lời thú nhận, kể cả sự mô tả gã tu sĩ bạch tạng. Thêm vào đó,
ông ta còn biết rằng viên phi công đã thấy Langdon và Sophie để lại vật gì
trong két an toàn của Teabing, một thứ hộp gỗ gì đó. Mặc dù viên phi công phủ
nhận không biết có gì trong hộp, anh ta thừa nhận là Langdon chỉ tập trung chú
ý vào nó trong suốt chuyến bay tới London.
"Mở két an toàn ra", Fache yêu cầu.
Viên phi công có vẻ sợ hãi. "Tôi không biết mã khoá số!".
"Đáng tiếc. Tôi đang định đề nghị để anh được giữ bằng lái của
mình".
Viên phi công vặn hai tay vào nhau: "Tôi biết một vài người
trong bộ phận duy tu ở đây. Có lẽ họ có thể khoan nó chăng?".
"Anh có nửa giờ".
Viên phi công lao tới máy bộ đàm.
Fache bước về phía sau máy bay và tự rót rượu cho mình.
Lúc này vẫn sớm, nhưng vì ông ta chưa được chợp mắt nên đây không
kể là uống rượu trước buổi trưa. Ngồi xuống chiếc ghế bọc vải nhung, ông ta
nhắm mắt lại, cố gắng phân tích những gì đang diễn ra. Sai lầm của cảnh sát
quận Kelt có thể làm mình trả giá đắt. Giờ đây, mọi người đang dồn sức tìm kiếm
chiếc limousine Jaguar màu đen.
Chuông điện thoại của Fache vang lên, và ông ta ước có được một
phút bình yên. "Alô?".
"Tôi đang trên đường tới London", đó là giám mục
Aringarosa. "Tôi sẽ tới nơi trong vòng một giờ nữa".
Fache ngồi xuống: "Tôi tưởng ngài đang đi Paris?".
"Tôi rất lo lắng và đã thay đổi kế hoạch".
"Lẽ ra ngài không nên làm vậy".
"Ông đã tìm được Silas chưa?".
"Chưa. Những kẻ bắt giữ hắn đã qua mặt được cảnh sát địa
phương trước khi tôi hạ cánh".
Giọng Aringarosa gắt lên, giận dữ: "Ông đã cam đoan với tôi là
sẽ ngăn chiếc máy bay đó lại!".
Fache hạ thấp giọng: "Thưa giám mục, xét tình cảnh của ngài,
tôi khuyên ngài đừng thử thách lòng kiên nhẫn của tôi ngày hôm nay. Tôi sẽ tìm
thấy Silas cùng những tên kia trong thời hạn sớm nhất có thể. Ngài sắp hạ cánh
ở đâu?".
"Chờ một lát", Aringarosa che ống nghe, rồi nói tiếp,
"tay phi công đang xin phép hạ cánh ở Heathrow. Tôi là hành khách duy nhất
của anh ta, nhưng việc đổi hướng bay là ngoài kế hoạch".
"Hãy bảo anh ta tới sân bay Biggin Hill. Tôi sẽ xin cho anh ta
hạ cánh. Nếu tôi không có ở đây khi ngài hạ cánh, tôi sẽ cho xe đợi ngài".
"Cám ơn ông".
"Như tôi đã nói trong lần đầu chúng ta nói chuyện với nhau,
thưa giám mục, ngài nên nhớ kỹ rằng ngài không phải là người duy nhất sắp mất
hết mọi thứ".
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 53
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.
Mỗi tượng hiệp sĩ bên trong Nhà thờ Temple đều nằm ngửa, gối đầu
trên một phiến đá hình chữ nhật. Sophie cảm thấy ớn lạnh. Bài thơ nhắc tới trái
cầu gợi lại những hình ảnh về cái đêm trong tầng hầm của ông cô.
Hieros Gamos. Những quả cầu.
Sophie tự hỏi liệu phải chăng lễ tế đó đã từng được tiến hành trong
chính điện thờ này. Căn phòng hình tròn dường như được đặt hàng xây dựng riêng
cho một nghi thức ngoại giáo như vậy. Một hàng ghế đá dài được đặt thành hình
tròn ở khoảng trống giữa phòng. Một rạp hát vòng tròn, như Robert đã gọi nó.
Sophie tưởng tượng ra căn phòng về đêm, đầy những người đeo mặt nạ, cầu kinh
dưới ánh đuốc, tất cả chứng kiến sự "hợp nhất thần thánh" ở trung tâm
căn phòng.
Gắng xua đuổi hình ảnh đó ra khỏi tâm trí, cô tiến lên cùng với
Langdon và Teabing đến chỗ nhóm hiệp sĩ đầu tiên. Mặc dù Teabing nhấn mạnh là
phải xem xét thật tỉ mỉ, Sophie cảm thấy nôn nóng và dấn lên trước, lướt nhanh
qua năm hiệp sĩ ở bên trái.
Quan sát cẩn thận những ngôi mộ đầu tiên, Sophie ghi nhận những nét
giống và khác nhau giữa chúng. Mỗi hiệp sĩ đều nằm ngửa, nhưng ba trong số họ
chân duỗi thẳng hai người còn lại vắt chéo chân. Sự kỳ lạ này có vẻ chẳng có
liên quan gì tới quả cầu thiếu vắng. Xem xét y phục, Sophie nhận thấy hai hiệp
sĩ mặc áo dài ra ngoài áo giáp, trong khi ba người còn lại mặc áo chùng đến mắt
cá chân. Một lần nữa, những điều này chẳng giúp ích được gì. Sophie chuyển sự
chú ý của mình sang sự khác nhau hiển nhiên duy nhất còn lại - tư thế cánh tay.
Có hai hiệp sĩ tay nắm chặt kiếm, hai người đang cầu nguyện, và một người đứng
chống nạnh. Sau một lúc lâu ngắm nhìn những cánh tay, Sophie nhún vai, chẳng
thấy chỗ nào hé lộ dấu vết của quả cầu khuyết diện.
Cảm thấy trọng lượng của hộp mật mã trong túi áo len, cô quay lại
nhìn Langdon và Teabỉng. Họ thật chậm chạp, bây giờ mới đi qua người hỉệp sĩ
thứ ba, hình như cũng chẳng may mắn hơn. Chẳng có bụng dạ nào mà chờ, cô bỏ mặc
họ, hướng tới nhóm hiệp sĩ thứ hai. Khi đi ngang qua khoảng trống, cô nhẩm lại
bài thơ mà cô đã đọc thuộc lòng đến mức như khắc cào tâm khảm.
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.
Kết quả công sức chàng chuốc lấy cơn thịnh nộ Thần Thánh.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.
Khi Sophie đi đến chỗ nhóm hiệp sĩ thứ hai, cô thấy nhóm thứ hai
cũng tương tự như nhóm thứ nhất. Tất cả nằm ở những tư thế khác nhau, mang áo
giáp và kiếm.
Tất cả, ngoại trừ ngôi mộ thứ mười và cũng là cuối cùng.
Đi tới đó thật nhanh, cô nhìn chăm chăm xuống mộ.
Không gối. Không giáp trụ. Không áo dài. Không gươm.
"Robert? Leigh?" Cô gọi, giọng vang vọng trong phòng.
"Ở đây có cái gì thiếu vắng".
Hai người đàn ông cùng ngẩng lên và bắt đầu đi về phía cô ngay lập
tức.
"Một quả cầu?". Teabing hỏi đầy phấn khích. Đôi nạng của
ông lộc cộc theo một tiết tấu gấp, ngắt đoạn trong khi ông hối hả đi ngang
phòng. "Thiếu một quả cầu ư?".
"Không hẳn thế", Sophie trả lời, cau mày nhìn ngôi mộ thứ
mười. "Hình như thiếu cả một hiệp sĩ".
Tới bên cạnh cô, cả hai bối rối nhìn trân trân xuống ngôi mộ thứ
mười. Thay vì một hiệp sĩ nằm ở ngoài trời, ngôi mộ này là một quan tài đá đóng
kín. Quan tài hình thang, thon đằng chân, loe ra ở đằng đầu, với một cái nắp có
chóp nhọn.
"Tại sao hiệp sĩ này không được thể hiện ra ngoài?".
Langdon hỏi.
"Hấp dẫn đấy". Teabing nói, tay xoa cằm. "Tôi đã
quên mất về điều kỳ lạ này. Đã nhiều năm trôi qua từ khi tôi còn ở đây".
"Chiếc quan tài này," Sophie nói, có vẻ như được chạm
khắc vào cùng một thời điểm và cùng một người thợ với chín ngôi mộ kia. Vậy tại
sao hiệp sĩ này lại ở trong quan tài chứ không ở ngoài?".
Teabing lắc đầu: "Đây là một trong những điều kỳ bí của nhà
thờ này. Theo tôi biết thì chưa ai lý giải được điều này".
"Xin chào?". Cậu bé lễ sinh nói, chạy tới với vẻ lo lắng
hiện rõ trên nét mặt: "Xin thứ lỗi nếu điều này có vẻ thô lỗ nhưng ngài đã
bảo là các ngài muốn rải tro. Vậy mà các ngài hình như đang ngắm cảnh thì phải".
Teabing quắc mắt nhìn cậu bé và quay sang Langdon: "Ông Wren,
hình như lòng nhân đức của gia đình ông không mua được thời gian như trước đây,
có lẽ chúng ta nên lấy tro ra và bắt đầu công việc thôi". Teabing nhìn
sang Sophie. "Bà Wren?".
Sophie cũng diễn theo, lôi cái hình trụ bọc da ra khỏi túi áo.
"Nào bây giờ", Teabing gắt cậu bé, "cháu có thể cho
chúng ta chút riêng tư được chứ?".
Cậu bé lễ sinh vẫn không nhúc nhích. Nó nhìn Langdon chằm chằm:
"Trông ông rất quen".
Teabing sẵng giọng: "Có lẽ bởi vì ông Wren hàng năm đều tới
đây!".
Hoặc có lẽ, Sophie bắt đầu thấy sợ, bởi vì nó nhìn thấy Langdon
trên ti vi ở toà thánh Vatican năm ngoái.
"Tôi chưa từng gặp ông Wren", cậu bé khẳng định.
"Em nhầm đấy", Langdon trả lời nhã nhặn. "Tôi tin là
chúng ta đã gặp nhau thoáng qua hồi năm ngoái. Cha Knowles đã quên không chính
thức giới thiệu chúng ta với nhau, nhưng tôi đã nhận ra em ngay khi chúng tôi
vửa vào. Này, tôi biết đây là một sự đột nhập, nhưng nếu em có thể cho chúng
tôi thêm vài phút, tôi đã phải đi rất xa để rắc tro lên các ngôi mộ này".
Langdon nói những lời này với giọng điệu đáng tin đặc trưng của
Teabing.
Vẻ mặt cậu bé lễ sinh lại càng tỏ ra nghi ngờ: "Đây không phải
là mộ".
"Xin lỗi?". Langdon nói.
"Tất nhiên đây là những ngôi mộ", Teabing tuyên bố.
"Cháu đang nói về cái gì thế?".
Cậu lễ sinh lắc đầu: "Mộ thì phải có thi hàỉ. Đây là những
hình nộm. Tượng đá để tôn vinh người thật. Chẳng có cái xác nào dưới những bức
tượng đá này cả".
"Đây là một hầm mộ tượng trưng trong nhà thờ!" Teabing
nói.
"Cái đó chỉ có trong những quyển sách lịch sử lỗi thời mà
thôi. Trước kia chỗ này được tin là một hầm mộ nhưng trong cuộc cải cách 1950,
người ta đã phát hiện ra rằng không phải thế". Cậu thanh niên quay sang
Langdon. "Và tôi tưởng ông Wren phải biết điều đó chứ, vì chính gia đình
ông ta đã khám phá ra sự thật đó".
Im lặng đè nặng.
Rồi bị phá vỡ bởi tiếng xập cửa trong dẫy nhà phụ.
"Chắc hẳn là cha Knowles", Teabing nói, "có lẽ cháu
nên ra xem?".
Cậu lễ sinh vẫn có vẻ nghi ngờ nhưng lộn trở ra dẫy nhà phụ, để lại
Langdon, Sophie và Teabing nhìn nhau rầu rĩ.
"Leigh", Langdon thì thào, "không có xác sao? Nó vừa
nói cái gì vậy?".
Teabing có vẻ quẫn trí: "Tôi không biết. Tôi cứ nghĩ… chắc
chắn phải là chỗ này. Tôi không thể tưởng tượng thằng bé biết nó đang nói về
cái gì. Thật chẳng ra nghĩa lý gì!".
"Cho tôi xem lại bài thơ được không?". Langdon nói.
Sophie lôi cái ống hình trụ từ trong túi áo ra và cẩn thận đưa cho
Langdon.
Langdon mở miếng da ra và giữ hộp mật mã trong tay trong khi xem kỹ
lại bài thơ. "Phải, bài thơ dứt khoát nhằm chỉ một ngôi mộ hẳn hoi chứ
không phải một hình nộm".
"Bài thơ có thể sai không?" Teabing thắc mắc. "Có lẽ
nào Jacques Saunière cũng mắc cái sai lầm giống như tôi vừa rồi?".
Langdon suy xét và lắc đầu: "Leigh, chính miệng ngài nói ra
đấy. Nhà thờ này được xây bởi các Hiệp sĩ Templar, đội quân của Tu viện Sion.
Một cái gì đó nói với tôi rằng vị Đại Sư của Tu viện Sion ắt biết rõ các hiệp
sĩ có được chôn cất tạì đây hay không".
Teabing có vẻ kinh ngạc: "Nhưng nơi này quá hoàn hảo".
Ông quay lại chỗ những tượng hiệp sĩ. "Chúng ta chắc hẳn đã bỏ sót điều gì
đó!".
***
Bước vào khu nhà phụ, cậu lễ sinh rất ngạc nhiên khi thấy chẳng có
ai. "Cha Knowles?", mình nghe thấy tiếng xập cửa mà, cậu nghĩ, đi ra
cho đến khi nhìn thấy cổng vào.
Một người đàn ông gày guộc mặc xmôckinh đứng gần cửa ra vào, gãi
đầu, vẻ bối rối. Cậu lễ sinh thốt ra một tiếng gắt bực bội, nhận ra mình đã
quên không khoá cửa lại sau khi để cho mấy người kia vào. Bây giờ một gã bi đát
lang thang ngoài phố tạt vào tìm kiếm xem có lễ cưới nào để kiếm chác.
"Xin lỗi", cậu nói to, "chúng tôi đóng cửa rồi".
Một tiếng vái loạt xoạt đằng sau cậu, và trước khi cậu lễ sinh kịp
quay lại, đầu cậu giật về phía sau, một bàn tay to khoẻ bịt chặt miệng cậu,
không để cậu kêu. Bàn tay bịt miệng cậu lễ sinh trắng như tuyết, và cậu ngửi
thấy mùi rượu.
Người đàn ông điềm tĩnh trong bộ xmôckinh lạnh lùng dí khẩu súng
lục ổ quay vào giữa trán cậu lễ sinh.
Cậu lễ sinh cảm thấy vùng háng mình nong nóng và nhận ra rằng cậu
đã tè ra quần.
"Nghe cho kỹ đây", người đàn ông mặc xmôckinh nói khẽ,
"Hãy lặng lẽ ra khỏi nhà thờ, và chạy đi. Không được dừng lại. Rõ
chưa?".
Cậu gật đầu thật mạnh với bàn tay vẫn bịt miệng cậu.
Nếu mày gọi cảnh sát…". Người đàn ông mặc xmôckinh ấn khẩu
súng lên da cậu, "tao sẽ tìm ra mày đấy".
Điều tiếp theo cậu biết là chạy thật nhanh qua sân sau và không
dừng lại cho đến khi chân còn có thể chạy được.
Như một bóng ma, Silas lặng lẽ dượt sau mục tỉêu của mình. Sophie
Neveu cảm thấy sự có mặt của hắn quá muộn. Trước khi cô kịp quay lại, Silas đã
gí nòng súng vào xương sống và vòng cánh tay cường tráng qua ngực cô, kéo lưng
cô áp vào thân hình hộ pháp của hắn. Cô thét lên kinh ngạc. Teabing và Langdon
cùng quay phắt lại, vẻ mặt ngỡ ngàng và hoảng sợ.
"Chuyện gì…?", Teabing nghẹn lời. "Ngươi đã làm gì
Rémy!".
"Mối quan tâm duy nhất của ông", Silas nói rất bình tĩnh,
là để tôi ra khỏi đây cùng với viên đá đỉnh vòm. Nhiệm vụ thu hồi này, như Rémy
đã vạch rõ, phải gọn ghẽ và đơn giản: Vào nhà thờ, lấy viên đá đỉnh vòm và đi
ra, không giết người, không vật lộn.
Vẫn giữ chặt Sophie, Silas hạ tay khỏi ngực cô, lần xuống cổ tay
của cô và thọc sâu vào túi chiếc áo len chui đầu, lục lọi.
Hắn ngửi thấy hương thơm nhè nhẹ trên tóc cô qua hơi thở nặng mùi
rượu của hắn. "Nó đâu?". Hắn thì thào. Lúc trước viên đá đỉnh vòm nằm
trong túi áo len của cô ta. Vậy bây giờ nó ở đâu?
"Nó đây này", giọng trầm của Langdon vang lên từ phía bên
kia phòng.
Silass quay lại nhìn Langdon đang cầm chiếc hộp mật mã đen, giơ
trước mặt hắn vẫy qua vẫy lại như một võ sĩ đấu bò đang nhử một con thú lì lợm.
"Đặt nó xuống", Silas ra lệnh.
"Hãy để Sophie và Leigh ra khỏi nhà thờ", Langdon đáp.
"Tôi và ông có thể dàn xếp vụ này".
Silas đẩy Sophie ra và nhắm súng vào Langdon, tiến về phía ông.
"Không được bước tới gần hơn", Langdon nói, "cho đến
khi họ ra khỏi toà nhà này".
"Ông không có thể để yêu sách".
"Tôi không đồng ý vậy", Langdon giơ hộp mật mã cao quá
đầu Tôi sẽ không ngần ngại quật cái này xuống sàn và làm vỡ cái lọ bên
trong".
Mặc dù bề ngoài Silas cười nhạo nhưng hắn vẫn cảm thấy lóe lên một
nỗi sợ. Điều này thật bất ngờ. Hắn nhằm súng vào đầu Langdon và cố giữ cho
giọng nói cũng vững như bàn tay cầm súng. "Ông sẽ không bao giờ đập vỡ
viên đá đỉnh vòm. Ông cũng muốn tìm thấy Chén Thánh như tôi mà thôi".
"Ông nhầm rồi. Ông cần nó hơn tôi. Ông đã chứng tỏ ông sẵn
sàng giết người vì nó".
***
Cách đó hơn mười mét, nhòm ra từ hàng ghế phụ gần cửa tò vò Rémy
Legaludec cảm thấy một nỗi hoảng sợ dâng lên. Kế hoạch đã không được tiến hành
như dự kiến, và thậm chí từ chỗ này, ông ta cũng có thể thấy là Silas đang phân
vân không biết xử lý tình huống như thế nào. Theo lệnh của Thầy Giáo, Rémy đã
cấm Silas nổ súng.
"Hãy để cho họ đi", Langdon lại yêu cầu, giơ cao hộp mật
mã trên đầu và nhìn trừng trừng vào khẩu súng của Silas.
Đôi mắt ngầu đỏ của gã tu sĩ đầy vẻ giận dữ và thất vọng, và Rémy
cứng người vì sợ Silas có thể bắn Langdon thật trong khi ông ta còn đang cầm
hộp mật mã. Không thế để hộp mật mã rơi xuống!
Hộp mật mã đó phải là tấm vé để Rémy đi tới tự do và giàu sang. Hơn
một năm trước y chỉ là một lão người hầu năm mươi nhăm tuổi sống quanh quẩn
trong những bức tường của Château Villette, phục vụ cho những thói bốc đồng của
ngài Leigh Teabing, cái lão què không ai chịu nổi ấy. Rồi bỗng đâu có người
tiếp cận y với một đề nghị phi thường. Việc Rémy phục vụ cho Ngài Leigh Teabing
- nhà sử học về Chén Thánh nổi tiếng trên thế giới - sắp mang đến cho Rémy tất
cả những gì y hằng mơ ước trong đời. Từ đó, mỗi giây phút y sống trong Château
Villette đều dẫn dắt y đến chính khoảnh khắc này đây.
Mình đã tới gần kề rồi. Rémy tự nhủ, nhìn vào chính điện của Nhà
thờ Temple và viên đá đỉnh vòm nằm trong tay của Langdon. Nếu Langdon thả nó
xuống, tất cả sẽ tan biến.
Liệu mình có sẵn sàng ra mặt không? Đó là điều mà Thầy Giáo cấm
ngặt. Rémy là người duy nhất biết nhân thân của Thầy Giáo.
"Ông có chắc là ông muốn Silas thực hiện nhiệm vụ này
không?" Rémy đã hỏi Thầy Giáo khoảng nửa giờ trước khi y nhận lệnh đánh
cắp viên đá đỉnh vòm. "Bản thân tôi cũng làm được".
Thầy Giáo rất cương quyết: "Silas đã phục vụ tốt cho chúng ta
với việc thanh toán bốn thành viên Tu viện Sion. Hắn sẽ thu hồi được viên đá
đỉnh vòm. Anh phải giấu mặt. Nếu để những người kia thấy anh, ta sẽ buộc phải
khử họ, mà đến giờ đã quá đủ chuyện giết chóc rồi. Đừng để lộ mặt".
Mặt tôi rồi sẽ thay đổi thôi, Rémy nghĩ. Với những điều mà ông hứa
trả cho tôi tôi sẽ trở thành một người hoàn toàn mới. Thậm chí phẫu thuật có thể
thay đổi cả dấu vân tay của y, Thầy Giáo đã nói như vậy. Chẳng bao lâu nữa, y
sẽ tự do - một gương mặt khác tươi đẹp không ai nhận ra, tắm nắng trên bãi
biển. "Tôi hiểu rồi", Rémy nói. "Tôi sẽ giúp Silas từ trong bóng
tối".
"Nói để anh biết, Rémy", Thầy Giáo đã bảo y, "ngôi
mộ đó không ở trong Nhà thờ Temple đâu. Vì thế anh không phải sợ. Bọn chúng đã
tìm nhầm chỗ rồi".
Rémy kinh ngạc: "Và ông biết ngôi mộ thật sự ở đâu ư?".
"Đương nhiên. Ta sẽ nói với anh sau. Lúc này, anh phải hành
động nhanh chóng. Nếu bọn kia tìm ra vị trí thật của ngôi mộ và ra khỏi nhà thờ
trước khi anh lấy được hộp mật mã thì chúng ta sẽ mất Chén Thánh vĩnh
viễn".
Rémy bất cần Chén Thánh, ngoại trừ việc Thầy Giáo từ chối trả công
cho y trước khi viên đá đỉnh vòm được tìm thấy. Rémy cảm thấy ngây ngất mỗi khi
nghĩ đến số tiền mà chẳng bao lâu nữa y sẽ có. Một phần ba của hai mươi triệu
euro. Ê hề để biến mất vĩnh viễn. Rémy đã hình dung ra những thị trấn ven biển
trên Côte d Azur, nơi mà hắn dự tính sẽ sống những ngày đổi đời, phơi mình dưới
ánh mặt trời và có kẻ hầu người hạ.
Tuy nhiên, giờ đây, trong Nhà thờ Temple này, với Langdon đang đe
doạ sẽ đập nát viên đá đỉnh vòm, tương lai của Rémy đang lâm nguy. Không chịu
đựng nổi ý nghĩ miếng ăn đến mồm còn tuột mất, Rémy quyết định hành động táo
bạo. Khẩu súng trong tay y là một khẩu súng nhỏ dễ giấu, khẩu Medusa nòng J
nhưng ở tầm gần cũng rất lợi hại.
Bước ra từ bóng tối, Rémy tiến vào phòng thờ hình tròn và nhắm súng
thắng vào đầu Teabing: "Lão già, ta đã đợi bao lâu để làm điều này".
Tim ngài Leigh Teabing gần như khựng lại khi nhìn thấy Rémy nhắm
súng vào đầu mình. Hắn đang làm gì vậy? Teabing nhận ra khẩu Medusa nhỏ xíu của
mình, khẩu súng mà ông cất giữ cẩn thận trong hộp đựng găng của chiếc
limousine.
"Rémy ư?" Teabing lắp bắp vì bị sốc. "Điều gì đang
diễn ra thế này?".
Langdon và Sophie cũng ngớ ra như thế.
Rémy vòng ra sau Teabing và gí súng vào lưng ông, phía bên trái
ngay sau tim.
Teabing cảm thấy các cơ bắp mình tê cứng vì kinh hãi:
"Rémy, tôi không…".
"Tôi sẽ nói gọn thôi", Rémy gắt, đưa mắt theo dõi Langdon
qua vai Teabing. "Đặt viên đá đỉnh vòm xuống kẻo tôi sẽ bóp cò".
Langdon như bị liệt trong giây lát: "Viên đá đỉnh vòm là vô
giá trị đối với ông", Langdon lắp bắp, "Ông không thể mở được
nó".
"Đồ ngu ngốc hợm hĩnh", Rémy cười nhạo, "Các ngươi
không để ý là đêm nay ta đã nghe được các ngươi bàn luận về những bài thơ này
sao? Tất cả những điều ta nghe thấy, ta đã nói cho người khác. Họ còn biết
nhiều hơn các ngươi. Thậm chí các ngươi đã không tìm đúng chỗ. Ngôi mộ các
ngươi tìm kiếm ở một nơi hoàn toàn khác!".
Teabing hoảng sợ. Hắn đang nói gì vậy!
"Tại sao ông lại cần Chén Thánh?" Langdon hỏi. "Để
huỷ nó sao? Trước Ngày tận thế ư?".
Rémy ra lệnh cho gã tu sĩ: "Silas, lấy viên đá đỉnh òm từ ông
Langdon đi".
Khi gã tu sĩ tiến tới, Langdon lùi lại, giơ cao viên đá đỉnh vòm,
nom như sẵn sàng sẵn sàng ném nó xuống nền nhà.
"Ta thà đập vỡ nó", Langdon nói, còn hơn là nhìn thấy nó
trong những bàn tay không chính đáng".
Teabing lúc này cảm thấy một làn sóng khiếp sợ. Ông có thể nhìn
thấy sự nghiệp của đời mình đang bốc hơi ngay trước mắt. Tất cả mơ ước của ông
sắp tan tành.
"Robert, không!" Teabing kêu lên. "Đừng! Anh đang
cầm chính Chén Thánh đấy! Rémy không bây giờ bắn tôi đâu. Chúng tôi đã biết
nhau được mười…".
Rémy chĩa súng lên trần và nổ khẩu Medusa. Vũ khí nhỏ mà tiếng nổ
vang to như sấm.
Tất cả mọi người đông cứng lại.
"Ta không đùa đâu", Rémy nói, "viên đạn tiếp theo sẽ
là vào lưng ông ta. Đưa viên đá đỉnh vòm cho Silas".
Langdon miễn cưỡng giơ hộp mật mã ra. Silas bước tới, cầm lấy nó,
đôi mắt đỏ của hắn long lanh ánh lửa thỏa mãn của sự báo thù. Đút gọn viên đá
đỉnh vòm vào trong túi áo choàng, Silas lùi lại súng vẫn chĩa vào Langdon và
Sophie.
Teabing cảm thấy cánh tay Rémy kẹp quanh cổ mình khi tên người hầu
bắt đầu lùi ra khỏi toà nhà, kéo theo Teabing, khẩu súng vẫn gí vào lưng ông.
"Hãy buông ông ấy ra", Langdon đề nghị.
"Bọn ta sẽ mang theo ngài Teabing một đoạn đường", Rémy
nói, vẫn tiếp tục lùi. "Nếu anh gọi cảnh sát, ông ta sẽ chết. Nếu anh làm
bất kỳ điều gì để can thiệp, ông ta cũng sẽ chết. Rõ chưa?".
"Hãy mang tôi theo", Langdon đề nghị, giọng khàn đi vì
xúc động. "Hãy thả Leigh ra".
Rémy cả cười: "Ta không nghĩ vậy. Ông ấy và ta có một lịch sử
tốt đẹp Ngoài ra, ông ta vẫn còn có thể hữu ích".
Lúc này, Silas mới giật lùi, vẫn chĩa súng vào Langdon và Sophie
trong khi Rémy kéo Leigh về phía lối ra, đôi nạng lết quèn quẹt đằng sau.
Giọng Sophie không hề run: "Anh làm việc cho ai?".
Câu hỏi khiến một nụ cười tự mãn nở trên gương mặt Rémy:
"Cô sẽ ngạc nhiên đấy, thưa cô Neveu".
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 54
Lò sưởi trong phòng khách của Château Villette đã lạnh ngắt nhưng
Collet vẫn đi tới đi lui trước cưa lò, vừa đọc những tờ fax từ Interpol.
Tuyệt nhên không phải điều anh mong đợi.
André Vernet, theo như hồ sơ chính thức, là một công dân kiểu mẫu.
Không hề có hồ sơ hình sự, thậm chí một phiếu phạt đỗ xe trái phép cũng không.
Học ở trường dự bị và ở Sorbonne, ông ta đã tốt nghiệp loại ưu trong ngành tài
chính quốc tế.
Interpol nói rằng tên của Vernet thỉnh thoảng mới xuất hiện trên
báo, nhưng bao giờ cũng dưới một ánh sáng tích cực. Rõ ràng là ông này đã góp
phần thiết kế nên những thông số an toàn khiến cho Ngân hàng Ký thác Zurich giữ
vững ngôi vị hàng đầu trong thế giới tối tân của an toàn điện tử. Chi chép chi
tiêu trong thẻ tín dụng của Vernet cho thấy ông ta có sở thích là sách nghệ
thuật, rượu đắt tiền và những đĩa CD nhạc cổ điển - phần lớn là của Brahm - mà
ông ta khoái nghe trên dàn âm thanh nổi kỹ thuật tinh vi và đắt giá mà ông ta
đã mua cách đây vài năm.
Zero, Collet thở dài.
Điều đáng chú ý duy nhất đến từ Interpol đêm nay là một bộ dấu tay
có vẻ như thuộc về người hầu của Teabing. Chánh giám sát PTS đang đọc bản báo
cáo trên ghế ở bên kia phòng.
Collet nhìn sang: "Có gì không?".
Giám sát viên nhún vai: "Dấu vân tay là của Rémy Legaludec. Bị
truy nã vì tội vặt. Không có gì nghiêm trọng. Hình như hắn bị đuổi khỏi trường
đại học vì tội mắc lại dây điện thoại để hưởng dịch vụ miễn phí,…sau đó là một
số vụ ăn cắp vặt. Đập vỡ cửa kính và đột nhập. Một lần trốn chi trả viện phí
bệnh cho một ca mở khí quản cấp cứu". Anh ta ngước lên, cười tủm tỉm:
"Dị ứng với lạc".
Collet gật đầu, nhớ lại một cuộc điều tra ở một nhà hàng đã không
ghi rõ trên thực đơn là trong thành phần tương ớt có cả dầu lạc. Một khách hàng
vô tư đã chết vì sốc do dị ứng sau khi ăn có một miếng.
"Lagaludec có lẽ tá túc ở đây để tránh khỏi bị bắt". Giám
sát viên có vẻ thích thú. "Một đêm may mắn của hắn".
Collet thở dài: "Được rồi, tốt hơn là anh cứ chuyển tiếp thông
tin này đến đại uý Fache".
Giám sát viên đi khỏi thì một nhân viên PTS khác chạy bổ vào phòng
khách: "Trung uý! Chúng tôi phát hiện một thứ trong nhà để xe".
Bằng vào vẻ lo âu trên gương mặt người nhân viên, Collet suy đoán:
"Một xác người à?".
"Không, thưa sếp. Một thứ còn…". Anh ta ngập ngừng,
"bất ngờ hơn".
Rụi mắt, Collet theo người nhân viên đến nhà để xe. Khi họ bước vào
cái khoảng ẩm mốc như hang động, người nhân viên chỉ vào giữa nhà, nơi có một
cái thang gỗ bắc lên tận xà, tựa vào gờ một gác xép lơ lửng trên đầu họ.
"Lúc nãy cái thang đâu có ở đó", Colle nói.
"Không, thưa sếp. Tôi đã dựng nó lên. Chúng tôi đang tìm dấu
vân tay gần chiếc xe Rolls, thì tôi nhìn thấy cái thang nằm trên sàn. Tôi ắt đã
không buồn nghĩ thêm về nó, song có điều các bậc thang đều mòn và lấm bùn,
chứng tỏ thang này được sử dụng thường xuyên. Độ cao của gác xép khớp với cái
thang, vì vậy tôi dựng nó lên và trèo lên để ngó qua một cái".
Mắt Collet dõi theo chiều nghiêng của cái thang lên đến gác xép. Có
người lên đó thường xuyên. Từ dưới này nhìn lên, căn gác xép có vẻ hoang vắng
và phần lớn bị khuất tầm nhìn.
Một nhân viên cấp cao PTS xuất hiện ở đầu thang, nhìn xuống:
"Chắc chắn anh muốn thấy cái này, trung uý à", anh ta nói, giơ bàn
tay đeo găng nhựa vẫy Collet lên.
Gật đầu mệt mỏi, Collet bước tới chân chiếc thang cũ kĩ và nắm lấy
bậc dưới cùng. Cái thang được thiết kế thon nhỏ theo lối cổ và càng lên cao
càng hẹp lại. Khi gần tới nơi, Collet suýt trượt chân trên cái bậc mỏng mảnh.
Nền nhà như xoay tròn dưới chân. Giờ đây cảnh giác hơn, anh leo tiếp, cuối cùng
cũng lên đến đỉnh. Người nhân viên phía trên chìa tay ra đỡ. Collet chộp lấy và
vụng về bước lên sàn gác.
"Nó kia kìa", nhân viên PTS nói, chỉ sâu vào căn gác xép
rất sạch như lau như li. "Chỉ có một bộ vân tay trên này thôi.
Không bao lâu nữa chúng ta sẽ có một lý lịch".
Collet nheo mắt hướng về bức tường phía xa qua ánh sáng lờ mờ. Cái
quái quỉ gì thế này? Nép vào bức tường, là một trạm máy tính tinh vi - hai bộ
xử lý trung tâm, một màn hình phẳng kèm theo loa, một dàn ổ cứng và một bảng
điều khiển âm thanh nhiều kênh có thiết bị lọc riêng.
Tại sao trên đời lại có người làm việc tận trên này nhỉ? Collet đi
về phía các máy móc thiết bị đó: "Anh đã xem kỹ hệ thống này chưa?".
"Đó là một trạm nghe lén".
Collet quay ngoắt: "Theo dõi ư?".
Người nhân viên gật đầu: "Theo dõi rất tinh vi". Anh ta
chỉ một cái bàn ngổn ngang những linh kiện điện tử, sổ tay, dụng cụ, dây kim
loại, que hàn và những bộ phận điện tử khác. "Một kẻ biết rõ mình đang làm
gì. Rất nhiều thứ ở đây tinh vi chẳng kém gì thiết bị của chúng ta. Micrô mini,
tế bào quang điện, thanh RAM có dung lượng lớn. Thậm chí hắn có cả những ổ biều
thị tân tiến".
Collet rất kinh ngạc.
"Đây là một hệ thống hoàn hảo", người nhân viên nói, đưa
cho Collet một thiết bị không to hơn một cái máy tính bỏ túi. Dính lủng lẳng
vào dụng cụ này là một dây kim loại dài khoảng ba mươi centimet có gắn một mảnh
kim loại bằng con tem mỏng dính ở đuôi. "Cái đế này là một hệ thống ghi âm
dung lượng lớn với một bộ ắc quy có thể nạp điện. Lá kim loại ở cuối đây là một
kết hợp gồm cả micrô và tế bào quang điện".
Những thứ này, Collet biết rất rõ. Những cái micrô quang điện có
kích thước như những mảnh kim loại là một bước đột phá lớn cách vài năm trở lại
đây. Bây giờ, một máy ghi âm có thể được dán sau một cái đèn, ví dụ cái micrô
mỏng như là kim loại được dán vào đường viền đáy và nhuộm màu cho phù hợp với
cái đèn. Chừng nào micrô được định vị thì nó sẽ nhận được năng lượng ánh sáng
mặt trời khoảng vài tiếng một ngày. Tế bào quang điện sẽ nạp điện cho hệ thống.
Những "con rệp" (1) như thế có thể nghe vô kỳ hạn.
"Phương pháp nhận sóng ra sao?" Collet hỏi.
Người nhân viên chỉ một dây điện cách âm chạy từ sau máy tính lên
bức tường và qua cái lỗ ở mái nhà: "Sóng vô tuyến đơn giản. Ăngten nhỏ
trên mái".
Collet biết những hệ thống ghi âm này thường được đặt trong các cơ
quan, được khởi động bằng âm thanh để tiết kiệm chỗ trong đĩa cứng và ghi âm
những mẩu tin của những cuộc đàm thoại trong ngày, truyền những file âm thanh
nén vào buổi đêm để tránh bị phát hiện. Sau khi truyền đi, ổ cứng sẽ tự xoá và
chuẩn bị tái hoạt động vào ngày hôm sau.
Lúc này, Collet lia mắt tới một cái giá, trên đó chồng đống hàng
trăm băng cátxét ghi âm, tất cả các nhãn được ghi ngày tháng và số hiệu. Một
người khá bận rộn. Anh quay về phía người nhân viên: "Anh có biết gì về
mục tiêu của vụ nghe trộm này?".
"Vâng, thưa trung uý", người nhân viên nói, đi tới máy vi
tính và hiển thị một bộ phận phần mềm, "và đây là điều lạ nhất…".
Chú thích:
(1) Tiếng lóng chỉ micrô nghe trộm.
Langdon cảm thấy hoàn toàn kiệt sức khi ông và Sophie chạy vượt qua
cái cửa quay ở ga xe điện ngầm Temple và lao sâu vào mê cung nhằng nhịt những
đường hầm và sân ke đầy bụi bẩn. Cảm giác tội lỗi như xé lòng ông.
Mình đã kéo Leigh vào cuộc và bây giờ ông ta đang gặp nguy hiểm
lớn.
Việc Rémy nhảy vào cuộc là một cú sốc, tuy nhiên, nó có thể hiểu
được. Bất kỳ ai đang tìm kiếm Chén Thánh đều tuyển mộ một kẻ làm tay trong. Họ
đến chỗ Teabing vì cùng một lý do như mình. Xuyên suốt lịch sử, những người
biết tường tận về Chén Thánh bao giờ cũng là cục nam châm thu hút bọn trộm cắp
cũng như các học giả. Việc Teabing vốn đã là một mục tiêu như vậy lẽ ra phải
khiến Langdon đỡ cảm thấy có lỗi hơn trong việc làm Teabing liên luỵ, song lại
không như vậy. Chúng ta cần phải tìm Leigh và cứu ông. Ngay lập tức.
***
Langdon theo Sophie tới sân ke tuyến District và Circle đi về phía
tây, ở đó, cô vội vã đến một máy điện thoại công cộng, gọi cho cảnh sát, mặc dù
Rémy đã cảnh cáo không được làm thế. Langdon ngồi ở một ghế băng gần đó, cảm
thấy hối hận.
"Cách tốt nhất để cứu Leigh", Sophie nhắc lại trong khi
quay số là lôi các nhà chức trách ở London vào cuộc ngay lập tức.
"Tin tôi đi".
Langdon thoạt đầu không tán thành ý kiến này nhưng khi họ bàn tính
kế hoạch thì lô-gích của Sophie bắt đầu tỏ ra có lý.
Teabing hiện giờ vẫn còn an toàn. Thậm chí nếu Rémy và bọn kia biết
được mộ của các Hiệp sĩ Templar nằm ở đâu, chúng vẫn cần sự giúp đỡ của Teabing
trong việc giải mã những chỉ dẫn liên quan đến quả cầu. Điều lo lắng của
Langdon là chuyện gì sẽ xảy ra sau khi bản đồ Chén Thánh được tìm thấy. Lúc đó
Leigh sẽ trở thành gánh nặng lớn cho chúng.
Nếu Langdon muốn có cơ may cứu Leigh hoặc thậm chí thấy lại viên đá
đỉnh vòm, điều cốt yếu là ông phải tìm ra ngôi mộ trước nhất. Khốn thay! Rémy
lại có lợi thế xuất phát rất lớn.
Làm chậm bước tiến của Rémy trở thành nhiệm vụ của Sophie.
Tìm ra đúng ngôi mộ là nhiệm vụ của Langdon.
Sophie sẽ biến Rémy và Silas thành những kẻ phải chạy trốn cảnh sát
London, buộc chúng phải lẩn trốn hoặc tốt hơn nữa, bắt giữ chúng. Kế hoạch của
Langdon ít chắc chắn hơn - đi xe điện ngầm tới trường King s College gần đấy,
một nơi nổi tiếng về cơ sở dữ liệu thần học điện tử. Phương tiện nghiên cứu tối
hậu.
Langdon nghe nói vậy. Trả lời tức khắc cho mọi câu hỏi về lịch sử
tôn giáo. Ông tự hỏi không biết cơ sờ dữ liệu này sẽ nói gì về "một hiệp
sĩ được Giáo hoàng mai táng". Ông đứng dậy và đi bách bộ, mong sao tầu tới
nhanh hơn.
Bên máy điện thoại công cộng, cuối cùng cú gọi của Sophie đã tiếp
nối được với cảnh sát London.
"Đồn Snow Hill đây", người điều phối nói, "tôi có
thể chuyển tiếp cuộc gọi của cô đến bộ phận nào?".
"Tôi báo cáo về một vụ bắt cóc", Sophie nói ngắn gọn.
"Xin cho biết tên?".
Sophie ngừng lại: "Nhân viên Sophie Neveu, Cảnh sát tư pháp
Pháp".
Danh hiệu đó có hiệu lực như mong muốn: "Có ngay, thưa cô. Để
tôi kiếm một thám tử nói chuyện với cô".
Trong khi chờ cuộc gọi được kết nối, Sophie bắt đầu băn khoăn liệu
cảnh sát có tin vào sự mô tả của cô về những kẻ bắt cóc Teabing hay không. Một
tên mặc xmôckinh. Một kẻ tình nghi có thể dễ nhận dạng hơn đến mức nào? Thậm
chí nếu Rémy thay đổi trang phục, hắn vẫn phải cạ với một gã thầy tu bạch tạng.
Không thế trật được. Vả lại, chúng có một con tin và không thể leo lên những
phương tiện giao thông công cộng. Cô tự hỏi có bao nhiêu xe Jaguar thân dài ở
London.
Sự kết nối của Sophie với viên thám tử dường như bất tận.
Cố lên nào! Cô có thể nghe thấy tiếng lạo xạo trên đường dây như
thể cô đang được chuyển tiếp.
Mười lăm giây qua đi.
Cuối, cùng một người đàn ông tiếp máy: "Nhân viên
Neveu?".
Sững sờ, Sophia nhận ra ngay giọng nói cộc cằn đó.
"Nhân viên Neveu", Bezu Fache hỏi, "cô đang ở chỗ
quái quỷ nào thế?".
Sophie không thốt nên lời. Đại úy Bezu Fache đã yêu cầu người điều
phối của cảnh sát London báo động cho ông ta nếu Sophie gọi.
"Nghe này", Fache nói bằng tiếng Pháp ngắn gọn, "đêm
nay, tôi đã phạm sai lầm khủng khiếp. Rober Langdon vô tội. Tất cả những cáo
buộc chống lại ông ta đã được huỷ bỏ. Tuy vậy, cả hai người đang gặp nguy hiểm.
Hai người cần đến đây ngay".
Hàm Sophia trễ ra. Cô chẳng biết trả lời như thế nào. Fache không
phải là người sẵn sàng xin lỗi về bất cứ điều gì.
"Cô đã không cho tôi biết", Fache tiếp tục, "rằng
Jacques Saunière là ông của cô. Tôi hoàn toàn có ý định bỏ qua tội bất phục
tùng của cô đêm qua, xét vì cơn stress tình cảm mà hẳn là cô phải trải qua. Vào
thời điểm này, tuy nhiên, cô và Langdon cần đến ngay sở chỉ huy cảnh sát London
gần nhất để ẩn náu".
Ông ta biết mình đang ở London ư? Fachc còn biết được điều gì nữa?
Sophie nghe thấy cái gì tựa như tiếng khoan hay tiếng máy móc là âm thanh nền ở
đầu dây đằng kia. Cô cũng nghe thấy cả một tiếng lách cách kì lạ trong máy:
"Ông đang truy tìm cuộc gọi này à, Đại uý?".
Giọng Fache lúc này trờ nên cứng rắn: "Cô và tôi cần hợp tác,
nhân viên Neveu. Cả hai chúng ta có nhiều thứ để mất ở đây. Đó là cách khống
chế thiệt hại. Tôi đã phạm sai lầm trong nhận định đêm qua, nếu sai lầm đó lại
dẫn đến cái chết của vị giáo sư người Mỹ và chuyên viên giải mật mã DCP sự
nghiệp của tôi sẽ thất bại. Trong vài tiếng vừa qua, tôi đã cố gắng kéo hai
người trở về nơi an toàn".
Một ngọn gió ấm áp thổi qua sân ga khi một đoàn tàu ầm ầm tiến đến.
Sophie dự định bằng giá nào cũng phải lên tàu.
Langdon hình như cũng có cùng ý định, lúc này ông cố trấn tĩnh và
bước về phía cô.
"Kẻ ông muốn truy nã là Rémy Legaludec", Sophie nói,
"hắn là người hầu của Teabing. Hắn bắt cóc Teabỉng bên trong Nhà thờ
Temple và… ".
"Nhân viên Neveu!" Fache hét khi con tàu lao ầm ầm vào
sân ga: "Đây không phải là cái để thoả thuận trên điện thoại. Ngay bây giờ
cô và Langdon phải đến đây. Vì sự sống còn của chính hai người? Đó là mệnh lệnh
trực tiếp!".
Sophie cúp máy và cùng Langdon lao lên tàu.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 55
Cabin chiếc máy bay Hawker của Teabing, vốn sạch bong, giờ đầy phoi
bào thép và sực mùi khí nén và hydro cacbon. Bezu Fache đã ra lệnh cho mọi
người đi khỏi và ngồi một mình với ly rượu và chiếc hộp gỗ nặng tìm thấy trong
két sắt của Teabing.
Xoa ngón tay trên hình khảm Hoa Hồng, ông ta nhấc chiếc nắp được
trang trí tỉ mỉ lên. Fache tìm thấy trong đó một hình lăng trụ bằng đá với
những đĩa có khắc chữ. Năm đĩa đó được sắp xếp thành từ SOFIA. Fache nhìn chằm
chằm vào từ này hồi lâu rồi cầm hình trụ lên khỏi miếng đệm và xem xét rất kĩ.
Rồi, từ từ kéo cả hai đầu trụ, Fache rút một trong hai nắp tuột ra.
Hình trụ rỗng không.
Fache đặt lại hình trụ vào trong hộp và lơ đãng nhìn qua cửa sổ
chiếc phản lực vào hăng-ga, ngẫm ngợi về cuộc đàm thoại ngắn giữa ông ta và
Sophie, cũng như những thông tin đã nhận được từ PTS ở Château Villette. Chuông
điện thoại kéo ông ta ra khỏi sự suy tưởng mơ màng.
Đó là tổng đài DCPJ. Người điều hành xin lỗi. Chủ tịch của Ngân
hàng Ký thác Zurich đã gọi liên tục, và mặc dù anh đã nhiều lần nói rằng Đại uý
đang có công chuyện ở London, ông ta vẫn cứ gọi, Fache bực bội bảo người trực
tổng đài chuyển máy.
"Ông Vernet", Fache nói, trước khi ông kia kịp cất tiếng,
"tôi rất tiếc là đã không gọi cho ông sớm hơn. Tôi rất bận. Như đã hứa,
tên Ngân hàng của ông sẽ không xuất hiện trên phương tiện thông tin đại chúng.
Vì vậy, cụ thể điều ông lo lắng là gì?".
Giọng Vernet rất lo âu khi ông ta kể cho Fache nghe đầu đuôi câu
chuyện Langdon và Sophie đã lấy được chiếc hộp gỗ nhỏ ra khỏi Ngân hàng như thế
nào và sau đó, thuyết phục Vernet giúp họ trốn thoát ra sao. "Rồi khi tôi
nghe đài nói rằng chúng là những tên tội phạm". Vernet nói, "tôi bèn
dừng xe bên vệ đường và yêu cầu chúng trả lại chiếc hộp nhưng chúng đã tấn công
tôi và đánh cắp cả xe chở hàng".
"Ông đang lo lắng về một chiếc hộp gỗ", Fache nói, đưa
mắt nhìn hình khảm Hoa Hồng trên mặt hộp và một lần nữa nhẹ nhàng mở chiếc nắp
để lộ ra hình trụ màu trắng."Ông có thể nói cho tôi biết cái gì trong hộp
đó được không?".
"Cái gì bên trong không quan trọng", Vernet đáp trả,
"tôi đang lo lắng cho uy tín của Ngân hàng của tôi. Chúng tôi chưa bao giờ
có một vụ cướp nào. Chưa bao giờ. Điều này sẽ làm cho chúng tôi lụn bại nếu tôi
không thu hồi lại được tài sản này nhân danh thân chủ của tôi".
"Ông nói rằng nhân viên Neveu và Robert Langdon có mật khẩu và
chìa khóa. Thế thì điều gì khiến ông lại nói rằng họ đã đánh cắp chiếc
hộp?".
"Đêm nay chúng đã giết nhiều người. Trong đó có cả ông của
Sophie Neveu. Hiển nhiên chìa khóa và mật khẩu đã bị cướp đoạt".
"Ông Vernet, người của tôi đã kiểm tra lai lịch cùng những
quan tâm của ông. Ông thực sự là một người rất có văn hóa và lịch lãm. Tôi hình
dung ông là một người có danh dự. Cũng như tôi đây. Đã có lời như vậy rồi, tôi
xin hứa với tư cách một sĩ quan chỉ huy của Police Judiciare rằng chiếc hộp
cùng với uy tín Ngân hàng của ông đang nằm trong những bàn tay gìn giữ an toàn
nhất".
Trên chiếc gác xép ở Château Villette, Collet kinh ngạc nhìn trân
trân vào màn hình máy vi tính: "Hệ thống này nghe lén tất cả các vị trí
này phải không?".
"Vâng", người nhân viên nói, "có vẻ như dữ liệu đã
được tập hợp hơn một năm nay".
Collet đọc lại danh sách, không thốt nên lời.
COLBERT SOSTAQUE - Chủ tịch Hội đồng lập pháp JEAN CHAFÉE - Phụ
trách Bảo tàng Jeu de Paume.
DOUARD DESROCHERS - Chuyên viên lưu trữ cấp cao, Thư viện
Mitterand.
JACQUES SAUNIÈRE - Phụ trách Bảo tàng Louvre.
MICHEL BRETON - Đứng đầu DAS (Tình báo Pháp).
Người nhân viên chỉ trên màn hình: "Số bốn hiển nhiên được
quan tâm".
Collet gật đầu, thẫn thờ. Anh đã chú ý tới nó ngay lập tức. Jacques
Saunière bị đặt rệp nghe trộm. Anh nhìn vào phần còn lại của danh sách lần nữa.
Làm sao có kẻ xoay sở đặt được rệp nghe trộm những người nổi tiếng? "Anh
đã nghe cái nào trong số những file âm thanh này chưa?".
"Một số. Đây là một trong những cái gần đây nhất", người
nhân viên nhấn một vài phím máy tính. Loa lạo xạo phát tiếng: "Đại úy,
nhân viên của phòng mật mã đã đến".
Collet không thể tin nổi vào tai mình nữa: "Đó là tôi. Đó là
giọng nói của tôi". Anh nhớ lại lúc ngồi bên bàn làm việc của Saunère và
gọi bộ đàm báo cho Fache đang ở Hành Lang Lớn là Sophie Neveu vừa đến.
Người nhân viên gật đầu: "Rất nhiều điều về cuộc điều tra tối
nay của chúng ta ở Louvre có thể bị nghe lén nếu có kẻ quan tâm làm việc
đó".
"Anh đã cử ai đến quét rệp chưa?".
"Không cần. Tôi biết chính xác nó ở chỗ nào". Người nhân
viên bước tới một chồng phác thảo và giấy tờ ghi chép cũ trên bàn làm việc. Anh
nhặt một tờ giấy đưa cho Collet: "Trông có quen không?".
Collet rất kinh ngạc. Anh đang cầm bản phôtôcopy một sơ đồ mô tả
một cái máy thô sơ. Anh không đọc được những nhãn viết tay bằng tiếng ý, nhưng
anh biết rõ mình đang nhìn vào cái gì. Mô hình một hiệp sĩ Pháp thời trung cổ
với đầy đủ các khớp tứ chi.
Bức tượng hiệp sĩ trên bàn làm việc của Saunère!
Collet nhìn lề tờ giấy, ai đó đã viết nguệch ngoạc lên bản
photocopy những ghi chú bằng bút dạ đỏ. Đây là những ghi chú bằng tiếng Pháp về
ý tưởng đặt một thiết bị nghe lén vào trong bức tượng hiệp sĩ này một cách tối
ưu.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 56
Silas ngồi ở ghế hành khách trong chiếc xe limousine Jaguar đang đỗ
gần Nhà thờ Temple. Tay hắn cảm thấy nhâm nhấp trên viên đá đỉnh vòm khi hắn
đợi Rémy trói và bịt miệng Teabing ở đằng sau bằng chiếc dây thừng tìm thấy
trong thùng xe.
Cuối cùng, Rémy ra khỏi khoang sau xe, đi vòng quanh rồi vào ghế
ngồi lái bên cạnh Silas.
"Chắc rồi chứ?", Silas hỏi.
Rémy cười tủm tỉm, giũ sạch nước mưa, ngoái mắt qua tấm ngăn để ngỏ
nhìn cái thân hình dúm đó của Leigh Teabing ở phía sau: "Lão ta không thể
đi đâu cả".
Silas nghe thấy tiếng ú ở của Teabing và hiểu rằng Rémy đã dùng
băng keo cũ để bịt miệng ông ta.
"Fame ta gueule"(1), Rémy quát với Teabing. Với tay sang
bảng điều khiển, Rémy ấn một nút nhỏ. Một tấm ngăn mờ đục dựng lên bịt kín phía
sau. Teabing biến mất và tiếng ông ta câm bặt. Rémy liếc nhìn Silas: "Tôi
đã nghe tiếng rền rĩ khốn khổ của lão ta quá đủ rồi".
Vài phút sau khi chiếc limousine Jaguar lao nhanh trên đường phố
thì điện thoại của Silas reo. Thầy Giáo. Hắn phấn khởi trả lời: "Xin chào
Thầy?".
"Silas", giọng Pháp quen thuộc của Thầy Giáo nói,
"nghe thấy tiếng con, ta nhẹ cả người. Điều đó có nghĩa là con vẫn an
toàn".
Silas cũng yên tâm hẳn khi nghe thấy giọng nói của Thầy Giáo. Suốt
nhiều giờ qua, kế hoạch hành động đã bị đối hướng xoay chiều xoành xoạch. Cuốì
cùng, giờ đây dường như đâu lại vào đấy: "Con đã có được viên đá đỉnh
vòm".
"Đây là tin tuyệt vời", Thầy Giáo nói với hắn, "Rémy
ở cùng con chứ?".
Silas rất ngạc nhiên khi nghe thấy Thầy Giáo gọi tên Rémy:
"Vâng, Rémy đã giải thoát cho con".
"Vì ta đã ra lệnh cho hắn làm thế, ta chỉ ân hận là con đã
phải chịu đựng sự giam giữ quá lâu".
"Gò bó thân xác không có nghĩa ý gì cả. Điều quan trọng là
chúng ta đã có được viên đá đỉnh vòm".
"Đúng vậy, ta cần con trao nó cho ta ngay lập tức, thời gian
rất quan trọng".
Silas rất háo hức vì cuối cùng cũng được gặp Thầy Giáo mặt đối mặt:
"Vâng, thưa Thầy, con rất vinh dự".
"Silas, ta muốn Rémy sẽ mang nó đến cho ta".
Rémy? Silas tiu nghỉu. Sau mọi việc Silas đã làm cho Thầy Giáo, hắn
đã tin rằng chính hắn sẽ là người được tự tay trao vật báu. Thầy Giáo biệt đãi
Rémy sao?
"Ta cảm thấy được sự thất vọng của con", Thầy Giáo nói.
"Điều đó nói lên rằng con không hiểu ý ta". Thầy Giáo hạ giọng xuống
thành một tiếng thì thầm: "Con phải tin rằng ta muốn nhận được viên đá
đỉnh vòm từ con - Người của Chúa - hơn là từ tay của một tên tội phạm. Nhưng
Rémy phải bị xử lý.
Hắn đã không tuân lệnh của ta và phạm phải một sai lầm nghiêm trọng
khiến cho sứ mệnh của chúng ta lâm nguy".
Silas cảm thấy ớn lạnh và liếc qua Rémy. Việc bắt cóc Teabing không
nằm trong kế hoạch và quyết định làm gì với ông ta đặt ra một vấn đề mới.
"Con và ta là người của Chúa". Thầy Giáo thì thầm,
"chúng ta không thể bị ngăn chặn khỏi mục đích của chúng ta". Một
thoáng dừng dễ sợ trên đường dây. "Duy chỉ vì lý do đó, ta sẽ yêu cầu Rémy
mang viên đá đỉnh vòm cho ta. Con hiểu chứ?".
Silas cảm nhận được sự tức giận trong giọng nói của Thầy Giáo và
rất ngạc nhiên là Thầy Giáo đã không thông cảm hơn.
Việc Rémy lộ diện là không thế tránh khỏi, Silas nghĩ. Rémy đã làm
điều hắn phải làm. Hắn đã cứu viên đá đỉnh vòm."Con hiểư" Silas gượng
đáp.
"Tốt. Vì chính sự an toàn của con, con cần phải rời khỏi đường
phố ngay lập tức. Cảnh sát sẽ sớm tìm kiếm chiếc limousine và ta không muốn con
bị bắt. Opus Dei có một dinh thự ở London, con biết chứ?".
"Tất nhiên rồi".
"Con được chào đón ở đó chứ?".
"Với tư cách là một đạo hữu".
"Thế thì hãy đi đến đó và ra khỏi tầm ngắm. Ta sẽ gọi con ngay
khi ta có được viên đá đỉnh vòm và giải quyết được vấn đề hiện nay của
ta".
"Thầy đang ở London chứ?".
"Hãy làm như ta dặn và mọi việc sẽ tốt đẹp".
"Vâng, thưa Thầy".
Thầy Giáo trút một tiếng thở dài, như thể điều mà Thầy phải làm bây
giờ là rất đáng tiếc: "Đã đến lúc ta nói chuyện với Rémy".
Silas đưa máy cho Rémy, hắn cảm thấy đây có thể là cuộc điện đàm
cuối cùng của Rémy Legaludec.
Khi Rémy cầm lấy điện thoại, y biết tên thầy tu tội nghiệp dị hợm
này không hề biết số phận nào đang đợi hắn sau khi hắn đã hết phận sự.
Thầy Giáo đã lợi dụng ngươi, Silas.
Và giám mục của ngươi chỉ là một con tốt.
Rémy vẫn còn ngạc nhiên trước sức thuyết phục của Thầy Giáo. Giám
mục Aringarosa đã tin tưởng mọi thứ. Ông đã mù quáng bởi chính sự liều lĩnh
tuyệt vọng của mình. Aringarosa quá ham hố đâu còn bụng dạ nào mà tin. Mặc dù
Rémy không thích Thầy Giáo lắm, y vẫn tự hào là đã chiếm được lòng tin của Thầy
Giáo và giúp đỡ Thầy đáng kể. Mình xứng với số tiền được trả.
"Nghe kỹ nhé", Thầy Giáo nói. "Hãy đưa Silas tới
dinh thự của Opus Dei và thả nó xuống cách đó mấy con phố. Sau đó lái xe tới
Công viên Saint James. Nó ở cạnh Nhà Quốc hội và tháp Big Bell. Anh có thể đỗ
chiếc limousine ở Horse Cuards Parade. Chúng ta sẽ nói chuyện ở đó".
Nói đoạn, ông ta tắt máy.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Câm cái mõm của người lại!
Đại học Hoàng gia do vua George IV lập vào năm 1829, đặt Khoa Thần
học và Nghiên cứu Tôn giáo ở cạnh Nhà Quốc hội trên đất do Vương quốc cấp. Khoa
tôn giáo Đại học Hoàng gia tự hào không chỉ về một trăm năm mươi năm kinh
nghiệm giảng dạy và nghiên cứu, mà còn về Viện Nghiên cứu Thần học Hệ thơng
thành lập năm 1982. Viện này sở hữu một trong những thư viện nghiên cứu tôn
giáo đầy đủ nhất, với thiết bị điện tử tiên tiến nhất trên thế giới.
Langdon vẫn cảm thấy run rẩy khi ông và Sophie từ ngoài trời mưa
bước vào thư viện. Phòng nghiên cứu chính đúng như Teabing đã mô tả - một căn
phòng hình bát giác đầy ấn tượng với một chiếc bàn tròn đồ sộ ở ngôi vị thống
ngự; quanh chiếc bàn đó, hẳn vua Arthur cùng các hiệp sĩ của người có thể cảm
thấy thoải mái nếu không có sự hiện diện của mười hai dàn vận hành máy vi tính
màn hình phẳng. Ở đầu đằng kia căn phòng, một nữ thủ thư giữ sách tham khảo
đang rót một bình trà và bắt đầu ngày làm việc.
"Chúc một buổi sáng thú vị", cô nói với giọng Anh vui vẻ,
để bình trà lại và đi tới. "Tôi có thể giúp được gì cho ông?".
"Vâng, cảm ơn", Langdon đáp lại. "Tên tôi là…".
"Robert Langdon!" Cô nở một nụ cười khả ái. "Tôi
biết ông là ai".
Trong phút chốc, Langdon bỗng sợ là Fache đã đưa hình ông lên kênh
truyền hình Anh, nhưng nụ cười của cô thủ thư gợi lên một điều khác hẳn.
Langdon vẫn chưa quen với những lúc bất ngờ phải vào vai người nổi tiếng như
vậy. Lại nữa, trên đời có người nhận ra khuôn mặt ông, thì lại là một cô thủ
thư ở bộ phận sách tham khảo về nghiên cứu tôn giáo!
"Pamela Gettum", cô thủ thư nói và chìa tay ra. Cô có một
khuôn mặt thông minh và giọng lưu loát rất dễ thương. Cặp kính gọng sừng lủng
lẳng nơi cổ cô thật là dầy.
"Rất vui được biết cô", Langdon nói, "đây là bạn của
tôi, Sophie Neveu!".
Hai người phụ nữ chào nhau và Gettum ngay lập tức chuyển sang
Langdon. "Tôi không biết là ông đến".
"Cả chúng tôi cũng không biết. Nếu không quá phiền hà, cô có
thể tìm giúp chúng tôi một vài thông tin được không?".
Gettum có vẻ phân vân: "Bình thường sự phục vụ của chúng tôi
phải có phiếu yêu cầu và có hẹn trước, tất nhiên trừ phi ông là khách của ai đó
trong trường này".
Langdon lắc đầu: "Tôi e rằng chúng tôi đến không báo trước.
Một người bạn của tôi rất ca ngợi cô. Ngài Leigh Teabing, cô biết
chứ?". Langdon cảm thấy day dứt khi nhắc đến cái tên đó.
Nhà sử học Hoàng Gia Anh".
Bây giờ thì Gettum tươi tỉnh và cười: "Ôi trời, vâng. Thật là
một tính cách đặc biệt. Cuồng tín! Đến lần nào cũng chỉ tìm độc một mục. Chén
Thánh. Chén Thánh. Chén Thánh. Tôi thề là con người này sẽ chết trước khi từ bỏ
công cuộc tìm kiếm đó". Cô nháy mắt. "Có nhiều thời gian và tiền bạc
mởi đủ điều kiện chơi những thứ xa xỉ thú vị như thế, phải không? Một Don
Kihote chính cống".
"Liệu cô có thể giúp chúng tôi được không?" Sophie hỏi.
"Thực sự quan trọng đấy".
Gettum liếc quanh thư viện vắng vẻ và sau đó nháy mắt ra hiệu cho
cả hai: "Ồ, tôi không thể viện cớ là đang quá bận, đúng không? Nếu hai vị
kí nhận, tôi nghĩ sẽ không có ai quá phiền lòng. Hai vị quan tâm đến điều gì
nào?".
"Chúng tôi đang tìm một ngôi mộ ở London".
Gettum có vẻ nghi ngờ: "Chúng tôi có khoảng hai mươi nghìn
ngôi mộ. Hai vị có thể nói cụ thể hơn một chút không?".
"Đó là ngôi mộ của một hiệp sĩ. Chúng tôi không có tên".
"Một hiệp sĩ. Điều đó sẽ khoanh hẹp phạm vi một cách đáng kể.
Bớt chung chung đi nhiều".
"Chúng tôi không có nhiều thông tin về hiệp sĩ mà chúng tôi
đang tìm kiếm", Sophie nói,. "Nhưng đây là điều chúng tôi biết".
Cô đưa ra một mảnh giấy, trên đó cô chỉ chép hai câu đầu của bài thơ.
Không muốn đưa toàn bộ bài thơ cho một người ngoài cuộc, Langdon và
Sophie quyết định chỉ dưa ra hai câu đầu, những câu xác định nhân thân chàng.
"Mật mã phân khoảnh", Sophie gọi nó như thế. Khi một cơ quan tình báo
bắt được một mã số chứa những dữ liệu nhạy cảm, mỗi nhân viên mật mã sẽ làm
việc trên một phân đoạn riêng rẽ. Theo cách này, không một người giải mật mã
nào có thể độc chiếm được trọn thông điệp đã giải mã.
Trong trường hợp này, sự phòng xa có lẽ là thái quá; ngay cả nếu
người thủ thư này xem được toàn bộ bài thơ, xác định được ngôi mộ của người
hiệp sĩ và biết được quả cầu bị mất tích là cái gì, thì thông tin cũng sẽ vô
dụng vì không có hộp mật mã.
Gettum cảm nhận thấy một vẻ rốt ráo trong mắt vị học giả Mỹ nổi
tiếng này, như thể việc nhanh chóng tìm ra ngôi mộ là một vấn đề có tầm quan
trọng sống còn đối với ông. Người phụ nữ mắt xanh đi cùng ông cũng có vẻ lo âu.
Bối rối, Gettum đeo kính lên và xem kỹ mảnh giấy họ vừa đưa cho cô.
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.
Kết quả công sức chàng chuốc lấy cơn thịnh nộ Thần Thánh.
Cô liếc nhìn những vị khách của mình: "Đây là cái gì? Một kiểu
bởi rác tìm vàng của Harvard?".
Tiếng cười của Langdon nghe gượng gạo: "Ờ, đại loại như
thế".
Gettum ngừng lời, cảm thấy cô chưa hiểu được toàn bộ câu chuyện.
Mặc dù thế, trí tò mò của Gettum bị kích thích và cô thấy mình suy nghĩ rất
lung về bài thơ: "Theo như bài thơ, một hiệp sĩ đã làm điều gì đó khiến
Chúa phật ý, tuy nhiên một Giáo hoàng đã có hảo tâm chôn cất chàng ở
London".
Langdon gật đầu: "Nó có gợi ý gì cho cô không?".
Gettum tiến về một trong những dàn máy vi tính: "Tức thời thì
chưa, nhưng ta hãy xem những gì có thể có được trong cơ sở dữ liệu".
Trong hai thập kỉ qua, Viện nghiên cứu về Thần học Hệ thống của Đại
học Hoàng gia đã sử dụng phần mềm nhận mặt chữ bằng quang học với các thiết bị
dịch ngôn ngữ để số hoá và lập danh mục một bộ sưu tập văn bản khổng lồ - từ
điển bách khoa về tôn giáo, tiểu sử tôn giáo, thánh thư bằng hàng tá ngôn ngữ,
lịch sử, thư tín của Toà Thánh Vatican, nhật kí của các giáo sĩ, bất cứ những
gì được coi là viết về tâm linh con người. Vì bộ sưu tập đồ sộ này giờ đây ờ
dưới dạng bit và bye thay vì trên các trang giấy, nên các dữ liệu có thể truy
nhập dễ hơn trước nhiều.
Ngồi vào một dàn vận hành máy vi tính, Gettum nhìn mẩu giấy và bắt
đầu đánh chữ: "Để bắt đầu, ta sẽ đi thẳng đến tổng mục lục với một vài từ
khoá hiển nhiên và xem điều gì xảy ra".
"Cảm ơn".
Gettum đánh mấy từ.
LONDON, HIỆP SĨ, GIÁO HOÀNG
Khi ấn vào nút SEARCH (tìm), cô có thể cảm thấy tiếng ro ro của máy
vi tính lớn ở tầng dưới đang quét hình dữ liệu với tốc độ 500MB/giây. "Tôi
đang yêu cầu hệ thống này chỉ ra cho chúng ta bất kì văn bản nào chứa đựng tất
cả ba từ khoá vừa rồi. Sẽ ra nhiều văn bản hơn ta muốn, nhưng đó là một căn cứ
tốt để bắt đầu".
Màn hình đã hiển thị những truy cập đầu tiên.
Tranh vẽ Giáo hoàng. Bộ sưu tập chân dung của Ngài Joshua Reynols,
nhà xuất bản trường Đại học London.
Gettum lúc lắc đầu: "Rõ ràng không phải cái ông đang tìm
kiếm". Cô chuyển sang cái thu được tiếp theo.
Những bài viết về Alexander Pope (1) ở London của Hiệp sĩ G.
Wilson.
Một lần nữa cô lại lắc đầu.
Hệ thống tiếp tục vận hành và những truy cập được hiển thị nhanh
hơn bình thường. Hàng tá văn bản xuất hiện, nhiều trong số đó đề cập đến nhà
văn Anh thế kỉ mười tám Alexander Pope. tác giả của những tập thơ chống tôn
giáo, nhái chất tráng ca, trong đó nói rất nhiều đến các hiệp sĩ và London.
Gettum lướt nhanh qua các con số dưới đáy màn hình. Máy tính này,
bằng cách tính toán số lượng những truy cập hiện có và đem nhân lên với số phần
trăm của cơ sở dữ liệu còn chưa được tìm kiếm, sẽ cung cấp một ước đoán sơ bộ
về số lượng thông tin có thể tìm thấy. Sự thăm dò đặc biệt này có vẻ như sẽ cho
một lượng dữ liệu lớn kinh khủng.
Ước tính tổng số những truy cập: 2,692
"Chúng ta cần lọc bớt các thông số đi nữa". Gettum nói,
ngừng việc thăm dò. "Đây là toàn bộ thông tin các vị có về ngôi mộ? Không
có gì khác nữa sao?".
Langdon liếc sang Sophie Neveu, vẻ phân vân.
Đây không phải là cuộc bớ rác tìm vàng, Gettum cảm thấy thế. Cô đã
nghe người ta xì xào về trải nghiệm của Robert Langdon ở Roma năm ngoái. Người
Mỹ này được phép tiếp cận thư viện kín cổng cao tường nhất trên trái đất -
Phòng lưu trữ bí mật Vatican. Cô tự hỏi không biết Langdon đã lượm được loại bí
mật nào trong đó và liệu cuộc săn tìm vô vọng hiện nay của ông về một ngôi mộ
bí mật ở London có thể liên quan tới thông tin ông lượm được trong Toà thánh
Vatican hay không. Gettum là một thủ thư có đủ thâm niên để biết rành lý do
chung nhất khiến mọi người đến London để tìm các hiệp sĩ. Đó là Chén Thánh.
Gettum mỉm cười và chỉnh lại kính: "Ông là bạn của Leigh
Teabing, ông đang ở nước Anh và đang tìm kiếm một hiệp sĩ?". Cô chắp tay
lại. "Tôi chỉ có thể giả định là ông đang tìm kiếm Chén Thánh".
Langdon và Sophie giật mình nhìn nhau.
Gettum cười: "Các bạn của tôi ơi, thư viện này là một cơ sở
cho những người tìm kiếm Chén Thánh. Leigh Teabing cũng nằm trong số đó. Tôi
ước sao mình được một silinh cho mỗi lần giúp dò tìm về Rose, Mary Magdalne,
Sangreal, Merovingien, Tu viện Sion, vân vân và vân vân. Ai nấy đều thích
chuyện âm mưưu" Cô tháo kính và nhìn họ. "Tôi cần thêm thông
tin".
Trong yên lặng, Gettum cảm thấy ý muốn giữ bí mật của hai vị khách
đang nhanh chóng bị lấn át bởi nỗi háo hức sớm có được kết quả.
"Đây", Sophie Neveu bật ra, "đây là những thứ mà
chúng tôi biết". Mượn một cây bút của Langaon, cô viết hai dòng trên mẩu
giấy và đưa nó cho Gettum.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.
Gettum mỉm cười. Chén Thánh thực vậy, cô nghĩ, nhận thấy đoạn nhắc
đến Hồng và tử cung mang hạt giống. "Tôi có thể giúp được các vị", cô
nói, ngước lên khỏi mảnh giấy. "Tôi có thể hỏi bài thơ này có nguồn gốc từ
đâu không? Và tại sao các vị lại tìm kiếm quả cầu?".
"Cô có thể hỏi", Langdon nói, với một nụ cười thân thiện.
"Nhưng đó là một câu chuyện dài mà chúng tôi có rất ít thời gian".
Nghe có vẻ như là cách nói lịch sự của câu "Đừng chõ vào việc
của người khác!".
"Chúng tôi sẽ mang ơn cô mãi mãi, Pamela", Langdon nói,
"nếu cô tìm ra được hiệp sĩ này là ai và được chôn cất ở đâu".
"Tốt lắm!", Gettum nói, lại quay ra đánh chữ trên máy
tính.
"Tôi sẽ tiếp tục hợp tác. Nếu đây là một vấn đề liên quan đến
Chén Thánh, chúng ta nên tham khảo chéo đối chiếu với những từ khoá về Chén
Thánh. Tôi sẽ thêm một tham số cận kề và bỏ đi phần tiêu đề rườm rà. Như vậy sẽ
hạn chế những truy cập của chúng ta xuống mức chỉ còn những trường hợp từ khoá
văn bản ở gần một từ liên quan đến Chén Thánh".
Tìm;
HIỆP SĨ, LONDON, GIÁO HOÀNG, NGÔI MỘ.
Trong vòng 100 từ gần với:
CHÉN THÁNH, HOA HỒNG, SANGREAL, CHIẾC LI.
"Việc này sẽ mất bao lâu?". Sophie hỏi.
"Một vài trăm terabye với nhiều trường tham chiếu chéo".
Mắt Gettum long lanh khi cô nhấn nút SEARCH. "Chỉ mười lăm
phút thôi.
Langdon và Sophie không nói gì nhưng Gettum cảm nhận thấy khoảng
thời gian này có vẻ như dài vô tận đối với họ.
"Trà nhé?" Gettum hỏi, đứng lên và đi về phía bình trà mà
cô đã pha trước đó. "Leigh Teabing bao giờ cũng khoái trà của tôi".
Chú thích:
(1) Pope tên của nhà thơ cũng
có nghĩa là Giáo hoàng
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 57
Trung tân Opus Dei ở London là một nhà gạch khiêm tốn ở số 5 phố
Orme Court, trông xuống đường North Walk ở vườn Kensington. Silas chưa bao giờ
đến đây, nhưng hắn cảm thấy đây là nơi an toàn để ẩn náu khi hắn bước lại gần
ngôi nhà.
Mặc dù trời mưa, Rémy vẫn thả hắn xuống cách đó một đoạn ngắn để
giữ cho chiếc limousine tránh khỏi những phố chính.
Silas đâu có ngại phải đi bộ. Mưa có tác dụng gột rửa mà.
Theo gợi ý của Rémy, Silas đã chùi sạch dấu tay trên khẩu súng của
mình và vứt nó qua một cửa cống. Hắn rất vui vì tống khứ được nó. Hắn cảm thấy
nhẹ nhõm hơn. Lúc này, chân hắn vẫn còn đau vì vết trói, nhưng Silas đã từng
chịu đựng những nỗi đau lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, hắn tự hỏi về Teabing, người
mà Rémy đã trói go vứt ở phía sau chiếc xe. Giờ đây, chắc chắc lão già người
Anh hắn đang phải cảm thấy đau đớn lắm.
"Anh sẽ làm gì với lão ta?", trên đường tới đây, Silas đã
hỏi Rémy.
Rémy nhún vai: "Đó là một quyết định dành cho Thầy Giáo".
Có một sự dứt khoát kì lạ trong giọng y.
Lúc này, khi Silas gần đến tòa nhà Opus Dei, mưa bắt đầu nặng hạt
hơn, thấm đẫm chiếc áo choàng to của hắn, làm nhói đau vết thương của ngày hôm
trước. Hắn sẵn sàng bỏ lại phía sau những tội lỗi của hai mươi tư giờ trước và
thanh lọc tâm hồn mình. Công việc của hắn đã hoàn thành. ".
Đi qua một cái sân nhỏ tới cửa trước, Silas không ngạc nhiên khi
thấy cánh cửa không khóa. Hắn mở cửa và bước vào căn phòng chờ nhỏ. Một hồi
chuông điện tử khe khẽ vang lên trên gác khi Silas bước lên tấm thảm. Chuông
báo là một nét chung của những sảnh kiểu này, nơi những người cư ngụ hầu như
suốt ngày cầu nguyện ở trong phòng. Silas có thể nghe thấy tiếng đi lại trên
các sàn gô kêu cót két.
Một người đàn ông mặc áo chùng bước xuống gác: "Tôi có thể
giúp gì được anh?". Ông ta có đôi mắt dường như thậm chí không hề ghi nhận
vẻ bề ngoài kì dị của Silas.
"Cảm ơn. Tên tôi là Silas. Tôi là một thành viên Opus
Dei".
"Người Mỹ à?".
Silas gật đầu: "Tôi chỉ ở trong thành phố ngày hôm nay. Tôi có
thể nghỉ ở đây không?".
"Thậm chí anh không cần phải hỏi. Có hai phòng trống ở trên
tầng ba. Tôi có phải mang trà và bánh mì cho anh không?".
"Cảm ơn ông", Silas đang đói ngấu.
Silas lên gác, vào căn phòng khiêm nhường có một cửa sổ, hắn cởi bỏ
chiếc áo chùng ướt sũng và quỳ gối cầu nguyện trong bộ đồ lót. Hắn nghe thấy
chủ nhân đi lên và đặt một cái khay bên ngoài cửa phòng. Silas thôi cầu nguyện,
dùng bữa, đặt mình xuống và chìm vào giấc ngủ.
Dưới đó ba tầng, điện thoại vang lên. Thành viên Opus Dei đã đón
tiếp Silas trả lời điện thoại.
"Đây là cảnh sát London", người gọi nói. "Chúng tôi
đang tìm một thầy tu bạch tạng. Chúng tôi được tin báo rằng hắn ta có thể đang
ở đó. Ông có trông thấy hắn không?".
Thành viên Opus Dei giật mình: "Vâng, anh ta đang ở đây. Có gì
không ổn?".
"Hắn hiện sống ở đó sao?".
"Vâng, đang cầu nguyện trên gác. Chuyện gì xáy ra vậy?".
"Hãy để anh ta ở nguyên đó", sĩ quan cảnh sát yêu cầu.
"Đừng nói một lời nào với bất kỳ ai. Tôi sẽ phái người đến ngay".
Công viên Thánh Jeam là một biển cây xanh giữa London, một công
viên công cộng giáp ranh các cung điện Westminster, Buckingham và nhà thờ Thánh
James. Trước kia, vua Henry VIII cho rào kín công viên này, thả nai rừng để săn
bắn. Đến nay, công viên Thánh James mở cửa thường xuyên cho công chúng. Vào
những buổi chiều đầy ánh nắng, những người dân London pích-ních dưới những gốc
liễu và cho đàn bồ nông cư ngụ trong hồ ăn, tổ tiên của chúng là món quà do đại
sứ Nga tặng vua Charles II.
Thầy Giáo không thấy một con bồ nông nào hôm nay. Thế chỗ chúng,
thời tiết giông bão đã xua những con hải âu từ biển cả về đậu kín các bãi cỏ -
hàng trăm cơ thể nhỏ trắng toát cùng quay về một hướng, kiên nhẫn vượt ra ngoài
cưn gió ẩm ướt.
Bất chấp màn sương sớm, công viên vẫn bày ra trước mắt quang cảnh
tráng lệ của Nhà Nghị viện và Tháp Big Bell. Phóng mắt qua những bãi cỏ thoai
thoải, qua hồ thả vịt và những bóng liễu rủ thướt tha, Thầy Giáo có thể thấy
những chóp nhọn của toà nhà có chứa phần mộ của những chàng hiệp sĩ - lý do
hoàn hảo khiến ông ta thuyết phục được Rémy đến nơi này.
Khi Thầy Giáo lại gần cửa trước bên phía ghế hành khách của chiếc
limousine đang đỗ, Rémy nhoài người sang mở cửa.
Thầy Giáo dừng lại bên ngoài, tợp một ngụm từ chai cô nhắc mang
theo. Rồi lau miệng, ông ta ngồi xuống bên cạnh Rémy và đóng cửa lại.
Rémy giơ viên đá đỉnh vòm lên như một chiến lợi phẩm:
"Suýt nữa thì mất tiêu".
"Anh đã làm tốt đấy", Thầy Giáo nói.
"Chúng tôi i đã làm tốt", Rémy đáp, đặt viên đá đỉnh vòm
vào đôi bàn tay háo hức của Thầy Giáo.
Thầy Giáo ngắm nhìn nó hồi lâu, mỉm cười: "Còn khẩu súng? Anh
đã chùi sạch dấu tay rồi chứ?".
"Để lại vào hộp đựng găng, nơi tôi đã thấy nó".
"Thật tuyệt!" Thầy Giáo tu một ngụm cô-nhắc nữa và đưa
chai cho Rémy. "Nào cùng uống chúc mừng cho sự thành công của chúng ta.
Kết thúc đã gần kề rồi".
Rémy đầy lòng biết ơn nhận lấy chai rượu. Rượu cô-nhắc hơi mặn,
nhưng Rémy bất cần. Giờ đây, y và Thầy Giáo là những đối tác thực sự. Y có thể
cảm thấy mình đã vươn lên được một vị trí cao hơn trong cuộc sống. Ta vẽ không
bao giờ lại làm một tên đầy tớ nữa! Khi Rémy nhìn bờ đắp cao của hồ vịt phía
dưới, Château Villitte dường như ở xa lắc tận đâu đâu.
Uống thêm một hớp rượu nữa, Rémy có thể cảm thấy rượu cô nhắc làm
máu mình ấm lên. Tuy nhiên, hơi ấm trong cổ họng Rémy nhanh chóng chuyển thành
một hơi nóng không thoải mái chút nào. Nới lỏng chiếc nơ, Rémy nếm phải một cái
gì sàn sạn thật khó chịu và trả chai rượu lại cho Thầy Giáo: "Có lẽ tôi đủ
rồi", y gượng nói một cách yếu ớt.
Cầm lấy chai rượu, Thầy Giáo nói: "Rémy, như anh biết đấy, anh
là người duy nhất biết mặt tôi. Tôi đặt niềm tin rất lớn ở anh".
"Vâng", y đáp, cảm thấy như lên cơn sốt khi y nới cái nơ
lỏng thêm ra, "và nhân dạng của ngài sẽ theo tôi xuống mồ".
Thầy Giáo im lặng hồi lâu: "Tôi tin anh". Bỏ chai rượu và
viên đá đỉnh vòm vào túi, Thầy Giáo với tay vào hộp đựng găng, lấy ra khẩu súng
lục Medusa nhỏ xíu. Trong khoảnh khắc, Rémy cảm thấy nỗi sợ dâng trào, nhưng
Thầy Giáo chỉ đơn giản bỏ tọt nó vào túi quần mình.
Ông ta đã làm gì vậy? Đột nhiên Rémy thấy toát mồ hôi.
"Tôi biết mình đã hứa cho anh tự do". Thầy Giáo nói,
giọng nghe đầy hối tiếc. "Nhưng xét hoàn cảnh của anh, đây là điều tốt
nhất tôi có thể làm".
Chỗ sưng phồng trong cổ họng Rémy bùng lên như động đất. Y gục
xuống cần tay lái, ôm cuống họng và thấy vị nôn ở trong khí quản đang thít lại.
Y thốt ra một tiếng kêu nghẹt lại, thậm chí không đủ to để nghe được từ bên
ngoài xe. Vị mặn chát trong rượu cô nhắc giờ đây phát tác.
Ta đang bị mưu sát.
Bán tín bán nghi, Rémy quay sang Thầy Giáo đang thản nhiên ngồi bên
cạnh mình, mắt nhìn thẳng về phía trước bên ngoài kính che gió. Mắt Rémy nhòa
đi, y thở hổn hển. Ta đã làm mọi thứ có thể cho hắn. Làm sao hắn nỡ thế được!
Có phải Thầy Giáo đã chủ định giết Rémy từ lâu hay đó là do những hành động của
Rémy ở Nhà thờ Temple đã khiến cho Thầy Giáo mất lòng tin, Rémy sẽ không bao
giờ biết. Lúc này đây, kinh hoàng và cuồng nộ đang lồng lên trong y. Rémy cố
lao vào Thầy Giáo, nhưng cơ thể cứng đờ của y hầu như không cử động được. Ta đã
tin mi mọi điều!
Rémy cố giơ nắm tay xiết chặt để ấn còi xe, nhưng thay vì, y trượt
sang một bên, lăn trên ghế ngồi, nằm vật bên cạnh Thầy Giáo, tay vẫn nắm lấy cổ
họng. Bây giờ mưa đã rơi nặng hạt hơn. Rémy không nhìn thấy gì nữa, nhưng y có
thể cảm thấy bộ óc cạn kiệt ôxy của mình đang ráng hết sức níu lấy chút sáng
suốt thoi thóp cuối cùng. Khi thế giới của y từ từ tối đen lại, Rémy Legeludes
có thể thề rằng hắn đã nghe thấy tiếng sóng Riviera êm dịu vỗ bờ.
Thầy Giáo bước ra khỏi chiếc limousine, hài lòng thấy không có ai
nhìn về phía mình. Ta không có sự lựa chọn nào hết, ông ta tự nhủ, ngạc nhiên
thấy mình chẳng thấy hối hận gì mấy về điều vừa làm. Rémy đã tự định đoạt số
phận của hắn đấy chứ! Suốt bao nhiêu lâu, Thầy Giáo đã sợ rằng Rémy có thể cần
bị thủ tiêu khi nhiệm vụ đã hoàn thành, nhưng bằng cách trâng tráo chường mặt
ra ở Nhà thờ Temple, Rémy đã đẩy nhanh quá trình tất yếu ấy một cách đầy kịch
tính. Việc Robert Langdon bất ngờ đến Château Villette đã cùng một lúc mang đến
cho Thầy Giáo cả một món bở ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống lẫn một tình thế
khó xử phức tạp. Langdon đã trao viên đá đỉnh vòm ngay giữa cuộc, một bất ngờ
thú vị, nhưng đồng thời lại tạo cho cảnh sát truy sát mình. Dấu tay của Rémy ở
khắp nơi trong Château Villette cũng như ở nơi đặt máy nghe trộm trong nhà để
xe, nơi Rémy đã tiến hành những hoạt động do thám. Thầy Giáo hài lòng vì đã hết
sức cấn thận ngăn chặn mọi liên hệ giữa các hoạt động của Rémy và của chính ông
ta. Không ai có thể với tới được Thầy Giáo trừ phi Rémy nói ra và đó không còn
là mối lo phiền của ông ta nữa.
Vãn còn một đầu dây lỏng lẻo cần thắt chặt lại ở đây, Thầy Giáo
nghĩ, đi về phía sau của chiếc ô tô. Cảnh sát sẽ không biết gì về chuyện đã xảy
ra và không còn một nhân chứng sống nào để khai với họ. Liếc nhìn xung quanh để
bảo đảm không có ai đang theo dõi, ông ta mở cửa và trèo vào khoang sau rộng
rãi.
***
Vài phút sau đó, Thầy Giáo băng qua công viên Thánh James. Giờ chỉ
có hai người còn lại, Langdo và Neveu. Họ phức tạp hơn. Nhưng có thể xử trí
được. Tuy nhiên, lúc này, Thầy Giáo còn phải lo toan đến chiếc hộp mật mã đã.
Đắc ý nhìn qua công viên, ông ta có thể thấy đích đến của mình. Ở
London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng. Ngay sau khi Thầy Giáo
nghe được bài thơ, ông ta đã biết câu trả lời. Dù vậy, không lấy gì làm lạ là
những người kia không đoán ra. Ta có một lợi thế không công bằng. Đã từng nghe
những cuộc trò chuyện của Saunière trong nhiều tháng, đôi khi Thầy Giáo thấy vị
Đại Sư nhắc đến chàng hiệp sĩ nổi tiếng, thể hiện sự tôn kính với chàng hầu như
ngang bằng với chính Da Vinci. Sự ám chỉ của bài thơ đến chàng hiệp sĩ thật đơn
giản đến mức thô thiển một khi ta đã trông thấy nó - nhờ trí tuệ của Saunière -
và tuy nhiên, bằng cách nào ngôi mộ này có thể tiết lộ mật khẩu cuối cùng thì
vẫn là một điều bí ẩn.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.
Thầy Giáo mơ hồ nhớ lại những tấm ảnh chụp ngôi mộ nổi tiếng và đặc
biệt là những nét nổi bật của nó. Một quả cầu đẹp. Hình cầu lớn gắn trên mộ to
gần bằng chính ngôi mộ. Sự hiện diện của quả cầu dường như làm Thầy Giáo vừa
phấn khởi lại vừa bối rối. Một mặt, nó như một cây cột mốc chỉ đường nhưng theo
bài thơ, cái miếng thiếu trong trò chắp hình lại là một quả cầu lẽ ra phải ở
trên mộ chàng… chứ không phải là cái đã có sẵn ở đó. Thầy Giáo tính xem xét
ngôi mộ kỹ hơn để tìm ra câu trả lời.
Mưa trở nên nặng hạt hơn, Thầy Giáo đút viên đá đỉnh vòm sâu vào
trong túi áo bên phải của mình dể tránh cho nó khỏi bị ướt. Ông ta để khẩu súng
lục Medusa nhỏ xíu trong túi bên trái, không thể trông thấy được. Vài phút, ông
ta bước vào nơi tôn nghiêm yên tĩnh của tòa nhà chín trăm năm tuổi nguy nga
nhất London.
***
Đúng lúc Thầy Giáo bước ra khỏi cơn mưa thì Giám mục Arigarosa bước
vào trong mưa. Trên đường băng ướt mưa ở phi trường Biggin Hill Excutive,
Arigarosa chui ra từ chiếc máy bay chật hẹp, khép chặt chiếc áo thầy tu để
tránh ướt lạnh. Ông đã hi vọng được Đại uý Fache ra đón. Thay vào đó là một sĩ
quan cảnh sát người Anh trẻ tuổi với một cái ô.
"Giám mục Arigarosa phải không ạ? Đại uý Fache phải đi nên ông
ấy yêu cầu tôi chăm sóc ông. Ông ta gợi ý tôi nên đưa ông đến Scotland Yard(1).
Ông ấy nghĩ đó sẽ là nơi an toàn nhất".
An toàn nhất. Arigarosa nhìn xuống cái cặp nặng đầy trái phiếu của
Vatican ghì chặt trong tay. Ông hầu như đã quên: "Vâng, cảm ơn anh".
Arigarosa trèo vào chiếc xe cảnh sát, tự hỏi Silas có thể ở đâu.
Vài phút sau đó, máy quét hình của cảnh sát lạo xạo cho câu trả lời.
Số 5 Orme Court.
Arigarosa nhận ra địa chỉ này ngay lập tức.
Trung tâm Opus Dei ở London.
Ông quay sang phía người lái xe: "Cho tôi đến ngay chỗ
đó".
Chú thích:
(1) Sở chỉ huy cảnh sát
London.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 58
Langdon không rời mắt khỏi màn hình máy vi tính kể từ khi cuộc tìm
kiếm bắt đầu.
Năm phút. Cả hai truy cập. Cả hai đều không phù hợp.
Ông bắt đầu lo lắng.
Pamela Gettum ở phòng bên cạnh, đang chuẩn bị đồ uống nóng. Langdon
và Sophie hỏi xin cà phê đi kèm với thứ trà mà Gettum mời, và từ tiếng bíp của
lò vi sóng trong phòng bên, Langdon ngờ rằng yêu cầu của họ sẽ được đáp ứng
bằng cà phê tan Nescafé.
Cuối cùng, máy tính reo lên hân hoan.
"Nghe như ông đã có được một truy cập nữa", Gettum gọi với
sang từ phòng kế bên. "Tiêu đề là gì?".
Langdon nhìn màn hình.
Ngụ ngôn về Chén Thánh trong văn học thời trung cổ:
Một khái luận về ngài Gawain của Hiệp Sĩ Xanh.
"Ngụ ngôn về Hiệp Sĩ Xanh", ông đáp.
Không phù hợp", Gettum nói, "chẳng có mấy người khổng lồ
huyền thoại mặc đồ xanh được chôn ở London đâu".
Langdon và Sophie kiên nhẫn ngồi trước màn hình và đợi qua hai kết
quả khác còn đáng ngờ hơn. Tuy nhiên, khi máy vi tính lại reng lên, món quà
thật bất ngờ.
DIE OPERA VON RICHARD WAGNER
"Opera của Wagner?", Sophie hỏi.
Gettum ngó lại từ khung cửa, tay cầm một gọi cà phê tan. "Có
vẻ là một sự kết hợp lạ kỳ. Wagner là một hiệp sĩ phải không?".
"Không", Langdon đáp, cảm thấy một tình tiết dột ngột.
"Nhưng ông là thành viên Hội Tam Điểm nổi tiếng. Cùng với Mozart,
Beethoven, Shakespeare, Gershwin, Houdini va Disney. Có nhiều tập sách viết về
mối quan hệ giữa những thành viên Hội Tam điểm và các Hiệp sĩ Templar, Tu viện
Sion, và Chén Thánh. "Tôi muốn xem cái đó. Làm thế nào để xem được toàn
văn?".
"Ông không cần cả bài đâu", Gettum nói với ra. "Ấn
vào tiêu đề siêu văn bản(1). Máy vi tính sẽ hiện ra các truy cập từ khóa của
ông cùng với những mono prelog và triple postlog (2) làm văn cảnh".
Langdon không hiểu cô nói gì, nhưng vẫn nhấn chuột.
Một cửa sổ mới đột hiện.
… Hiệp sĩ huyền thoại tên là Parsifal, người… cuộc đi tìm Chén
Thánh ẩn du, điều còn chưa ngã ngũ…
… dàn nhạc giao hưởng London năm 1855…
Rbecca tuyển tập ca kịch của Pope - DIVA…
… mộ của Wagner ở Breyth, Đức …
"Không phải Pope (3) này", Langdon nói, thất vọng. Mặc dù
vậy ông vẫn ngạc nhiên vì thấy hệ thống rất dễ sử dụng. Những từ khóa có văn
cảnh đủ để nhắc ông rằng vở opera Parsifal của Wagner là để tôn vinh Mary
Magdelene và dòng máu của Jesus Christ qua câu chuyện một chàng hiệp sĩ trẻ đi
tìm chân lý.
"Hãy kiên nhẫn", Gtum động viên. "Đây là một trò
chơi số. Cứ để cho máy chạy".
Trong vài phút tiếp theo, máy vi tính cho thêm mấy tư liệu tham
khảo về Chén Thánh, trong đó có một bài về trolbadour - những người hát rong
nổi tiếng của Pháp. Langdon biết việc hai từ minstrel (người hát rong) và
minister (linh mục, mục sư) có chung một gốc từ nguyên không phải là một sự
trùng hợp.
Những người hát rong là những đầy tớ lưu động, hay "mục
sư" Nhà thờ, của Mary Magdalene, họ dùng âm nhạc để truyền bá câu chuyện
về tính nữ thiêng liêng trong quần chúng. Đến tận ngày nay, những người hát
rong vẫn ca ngợi phẩm hạnh của "Công Nương của chúng ta", một giai
nhân bí ẩn mà họ nguyện mãi mãi phụng thờ.
Hăm hở, Langdon kiểm tra… nhưng không thấy gì.
Máy tính lại reng.
Hiệp sĩ, lưu manh, Giáo hoàng và hình sao năm cánh.
Lịch sử của Chén Thánh qua bộ bài Tây.
"Chẳng có gì là lạ", Langdon nói với Sophie. "Một số
từ khóa của chúng ta trùng tên với những quân bài lẻ". Ông với lấy con
chuột để kích vào một đường siêu kết nối liên văn bản. "Tôi không chắc
liệu ông cô có đề cập tới nó khi cô chơi bài Tarot với cụ không, Sophie, nhưng
trò chơi này là một thứ sách giáo lý vấn đáp bằng thẻ chữ to kể câu chuyện về
"Cô dâu thất lạc" và bị chinh phục bởi Giáo hội ác độc".
Sophie nhìn ông, vẻ không tin: "Tôi không biết".
"Đó là vấn đề. Bằng cách dạy thông qua một trò chơi ẩn dụ,
những tín đồ của Chén Thánh nguỵ trang thông điệp của mình khỏi con mắt cú vọ
của Giáo hội". Langdon thường tự hỏi bằng cách nào mà nhiều người chơi bài
hiện đại lại suy ra được rằng những bộ bốn hoa của họ - pích, cơ, tép, rô - là
những biểu tượng có liên quan đến Chén Thánh, bắt nguồn trực tiếp từ bộ bốn
trong bài Tarot - gươm, ly, vương trượng và hình sao năm cánh.
Pích là Gươm - lưỡi dao. Nam.
Cơ là Ly - Chén Thánh. Nữ.
Tép là Vương Trượng - Dòng Hoàng tộc. Cậy quyền uy.
Rô là hình sao năm cánh - Nữ thần Tính nữ thiêng liêng.
Bốn phút sau, khi Langdon bắt đầu cảm thấy sợ rằng họ sẽ không tìm
thấy cái mà họ đến để tìm, thì máy tính lại đưa ra kết quả khác Trọng lực của
thiên tài:
Tiểu sử của một hiệp sĩ hiện đại.
"Trọng lực của thiên tài?". Langdon nói vọng sang với
Gettum.
"Tiểu sử của một hiệp sĩ hiện đại?".
Gettum thò đầu vào: "Hiện đại đến mức nào? Xin đừng nói với
tôi đó là Ngài Rudy Giuliani của ông. Cá nhân tôi thấy ông ta hơi có chút kỳ
quặc".
Langdon cũng có những thắc mắc riêng về việc Ngài Mick Jagger mới
được phong tước hiệp sĩ, nhưng bây giờ dường như không phải lúc để tranh cãi về
chính sách về danh hiệu hiệp sĩ của nước Anh thời hiện đại. "Hãy nhìn
xem", Langdon gọi các từ khóa siêu văn bản.
… hiệp sĩ tôn kính, ngài Isaac Newton… London năm 1727, và mộ Ngài
Westminster Abbey… Alexander Pope, bạn và đồng nghiệp…
"Tôi đoán hiện đại là một khái niệm tương đối thôi",
Sophie nói với Gettum. "Đây là một cuốn sách cổ. Nói về Ngài Isaac
Newton".
Gettum lắc đầu ở khung cửa: "Không phù hợp. Newton đã được mai
táng ở Tu viện Westminster/ trụ sở của Đạo Tin Lành nước Anh. Không có cách nào
để một Giáo hoàng Thiên Chúa giáo hiện diện được. Dùng kem và đường chứ?".
Sophie gật đầu.
Gettum đợi: "Còn ông, Robert?".
Tim của Langdon dập thình thình. Ông rời mắt khỏi màn hình và đứng
lên. "Ngài Isaac Newton chính là chàng hiệp sĩ của chúng ta".
Sophie vẫn ngồi: "Ông đang nói về cái gì?".
"Newton đã được chôn cất ở London"! Langdon nói.
"Công sức lao động của ông tạo ra những ngành khoa học mới chuốc lấy cơn
thịnh nộ của Giáo hội. Và ông đã từng là một Đại Sư của Tu viện Sion. Chúng ta
có thể muốn điều gì hơn thế nữa?".
"Điều gì nữa ư?". Sophie chỉ vào bài thơ. "Còn đoạn
được Giáo hoàng mai táng thì sao? Cô nghe đấy chứ, Gettum? Newton không hề được
mai táng bởi một Giáo hoàng Thiên Chúa giáo".
Langdon với lấy con chuột: "Có ai nói là một Giáo hoàng Thiên
Chúa giáo đâu?", ông kích vào chữ "Pope"qua đường siêu kết nối,
và thông tin đầy đủ hiện ra.
Đám tang của Ngài Isaac Newton với sự tham gia của các vị vua và
quý tộc dưới sự chủ trì bởi Alxandrer Pope và đồng nghiệp, người đã cất lời ca
tụng xúc động trước khi rắc đất lên mộ.
Langdon nhìn sang Sophie: "Lượt truy cập thứ hai đã cho chúng
ta chữ Pope chính xác". Ông dừng lại. A. Pope(4).
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được A. Pope mai táng.
Sophie đứng lặng sững sờ.
Jacques Saunière, bậc thày về chữ nghĩa nước đôi đã lại chứng tỏ
một lần nữa rằng ông là một người thông minh dễ sợ.
Chú thích:
(1) Hypertext: những đơn vị
thông tin riêng rẽ được nối kết với nhau để truy cập dưới dạng không kế tiếp.
(2) Đoạn này nhiều thuật ngữ
chuyên môn về tin học, một số từ như prelog hay postlog chúng tôi để nguyên vì
không có điều kiện tra cứu chính xác, không dám đoán mò. Vả chăng, như ta thấy
ở câu sau, chính học giả Langdon cũng không hiểu Gettum nói gì nữa là.
(3) Langdon và Sophie tìm
Pope nghĩa là Giáo hoàng mà họ nghĩ là liên quan đến câu thơ "Ở London yên
nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng" chứ không tìm Alexander Pope
nhà thơ.
(4) Pope là họ của Alexander
và cũng có nghĩa là Giáo hoàng, chính sự đồng âm khác nghĩa này đã gây bối rối
lầm lẫn trong việc diễn giải câu thơ đầu tiên từ đầu đến giờ.
Silas choàng tỉnh giấc.
Hắn không rõ cái gì đã đánh thức hắn hoặc hắn đã ngủ bao lâu rồi.
Phải chăng mình đang mơ. Ngồi dậy trên chiếc chiếu rơm, hắn lắng nghe tiếng thở
nhẹ nhàng của sảnh chính ngôi nhà Opus Dei, sự im lặng chỉ bị quấy động bởi
tiếng lầm rầm khe khẽ của ai đó đang cầu nguyện trong một phòng bên dưới. Đó là
những âm thanh thân thuộc và có thể an ủi hắn.
Tuy nhiên, hắn cảm thấy một sự cảnh giác đột ngột và bất ngờ.
Đứng dậy, chỉ mặc nguyên đồ lót, Silas bước tới cửa sổ. Ban nãy
mình có bị bám theo không nhỉ? Cái sân phía dưới vắng teo, hệt như hắn đã thấy
nó khi vào đây. Hắn lắng nghe. Tịch lặng. Vậy tạt sao mình lại lo lắng? Đã từ
lâu, Silas đã học cách tin vào trực giác của mình. Trực giác đã giữ mạng sống
cho hắn khi còn là một đứa trẻ trên đường phố Marseilles trước khi bị bỏ tù…
Trước khi hắn được sinh ra một lần nữa nhờ bàn tay của Giám mục Arigarosa. Ngó
ra cửa sổ, giờ hắn nhìn thấy lờ mờ dáng nét của một chiếc xe hơi qua hàng rào.
Trên nóc xe là một cái còi cảnh sát. Một tấm ván gỗ kêu cót két ở hành lang.
Chốt cửa chuyển động.
Silas phản ứng theo bản năng, di chuyển qua căn phòng và dừng lại
ngay sau cánh cửa khi nó bị xô mạnh và mở ra. Viên sĩ quan cảnh sát đầu tiên
xông vào, lia khẩu súng từ trái sang phải vào chỗ có vẻ như một căn phòng trống
không. Trước khi anh ta nhận ra Silas đang đứng đâu, Silas đã dùng vai xô cánh
cửa rập mạnh vào viên cảnh sát thứ hai đang lao vào. Khi viên sĩ quan thứ nhất
quay lại để bắn, Silas nhào người túm lấy chân anh ta. Súng nổ, viên đạn vèo
qua trên đầu Silas, đúng lúc hắn vớ được ống chân viên sĩ quan, kéo mạnh và
quật anh ta đập đầu xuống sàn nhà. Sĩ quan cảnh sát thứ hai loạng choạng đứng
dậy trong khung cửa và Silas huých đầu gối vào háng anh ta, rồi bước qua cái thân
hình đang quằn quại đó để lao ra sảnh lớn.
Gần như trần truồng, Silas lao cái thân hình trắng trợt xuống cầu
thang. Hắn biết mình đã bị phản, nhưng bởi ai? Khi hắn tới phòng chờ, nhiều sĩ
quan cảnh sát khác đã ập vào qua cửa trước. Silas quay sang hướng khác và lao
sâu hơn vào đại sảnh. Lối vào dành cho phụ nữ. Mọi ngôi nhà của Opus Dei đều có
một cửa như thế này. Ngoằn ngoèo theo những hành lang hẹp, Silas chạy xuyên một
nhà bếp, vượt qua những người làm công hoảng hốt né tránh tên bạch tạng trần
như nhộng trong khi hắn va phải bát đĩa và những đồ bạc, lao vào một hành lang
tối gần phòng đun nước. Giờ thì hắn đã nhìn thấy cái cửa hắn tìm, một ngọn đèn
chỉ lối ra lờ mờ sáng ở cuối đường.
Chạy hết tốc độ qua cửa ra ngoài trời mưa, Silas nhảy khỏi thềm
nghỉ thấp, không nhìn thấy người cảnh sát từ đằng kia chạy tới, khi nhận ra thì
đã quá muộn. Hai người va vào nhau, bả vai trần to rộng của Silas xô vào xương
ức của người kia với sức mạnh nghiền nát. Hắn xô viên cảnh sát ngã ngửa trên
vỉa hè, đè mạnh cả người lên anh ta. Khẩu súng của viên sĩ quan lách cách văng
ra xa. Silas có thể nghe thấy nhiều người vừa chạy xuôi hành lang vừa kêu to.
Lăn mình, hắn chộp lấy khẩu súng bị rơi, đúng lúc đám cảnh sát xuất hiện. Một
tiếng súng vang lên tử phía cầu thang, và Silas cảm thấy đau rát phía dưới
xương sườn. Tức điên lên, hắn nổ súng vào cả ba cảnh sát, máu của họ bắn tung
toé.
Một bóng đen lờ mờ phía sau, không biết tử đâu tới. Đôi bàn tay
giận dữ túm lấy đôi vai trần của hắn như thể được truyền sức mạnh của chính quỷ
Satan. Người đó hét vào tai hắn.
SILAS, KHÔNG!
Silas quay lại và bóp cò. Mắt của họ gặp nhau. Silas kêu lên kinh
hãi khi Giám mục Arigarosa ngã xuống.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 59
Hơn ba nghìn người được chôn cất hoặc lập miếu thờ trong Tu viện
Westminster. Phần bên trong bằng đá rộng mênh mông đầy những di hài của các
hoàng đế, chính khách, các nhà khoa học, nhà thơ và nhạc sĩ. Những ngôi mộ của
họ, lèn vào từng hốc từng khoang còn lại, đủ các tầm cỡ từ những lăng tẩm vương
giả nhất - Lăng của Nữ hoàng Elizabeth với chiếc quan tài đá có trướng rủ ngự
trong miếu thờ riêng hình cung có mái vòm - đến những phiến đá lát khiêm nhường
nhất mà những chữ khắc trên đó đã bị dấu chân làm mờ hẳn đi qua nhiều thế kỉ,
để khách tham quan phải ráng tưởng tượng ra di hài của ai nằm dưới những viên
đá lát trong nhà mồ này.
Thiết kế theo kiểu các nhà thờ lớn của vùng Amiens, Chartres, và
Canterbury, Tu viện Westminster không được coi là nhà thờ lớn, cũng chẳng phải
nhà thờ xứ. Nó được xếp vào loại Hoàng gia đặc biệt, chỉ trực thuộc Nữ hoàng.
Từ khi lễ phong vương của William Người Chinh Phục được tổ chức tại đây vào dịp
Giáng sinh năm 1066, thánh đường rực rỡ này đã chứng kiến một loạt bất tận các
nghi lễ hoàng gia và các sự kiện quốc gia - từ việc phong thánh cho Edward Cha
Rửa Tội, đến hôn lễ của Hoàng tử Andrew và nàng Sarah Ferguson, tới những đám
tang của vua Henry V, Nữ hoàng Elizabeth I và Diana, Công chúa xứ Wales.
Mặc dù vậy, lúc này Robert Langdon cảm thấy không quan tâm gì tới
lịch sử cổ xưa nào của tu viện - ngoại trừ một sự kiện - đám tang của hiệp sĩ
người Anh Ngài Isaac Newton.
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được A. Pope mai táng.
Hối hả đi qua cổng lớn cánh phía bắc của tu viện, Langdon và Sophie
được những người gác lịch sự dẫn qua thiết bị mới nhất của tu viện - một máy dò
kim loại rất lớn người đi qua được loại máy hiện có mặt trong hầu hết các toà
nhà lịch sử ở London. Cả hai người đi qua máy mà không gây ra một tiếng báo
động nào và tiếp tục đi tới lối vào tu viện.
Bước qua ngưỡng cửa Tu viện Westminster, Langdon cảm thấy thế giới
bên ngoài tan biến trong một im lặng đột ngột. Không còn tiếng ầm ầm của xe cộ.
Không còn tiếng rào rào của mưa. Chỉ một im lặng inh tai, tựa hồ dộl qua dội
lạl, như thể toà nhà đang thì thầm với chính mình.
Giống như các khách tham quan khác, Langdon và Sophie lập tức ngước
mắt nhìn lên trời: ở đó cái vực thẩm tu viện dường như bùng nổ trên đầu. Những
cột đá xám vút lên như những cây căm xe, lẫn vào bóng tối, uyển chuyển vồng qua
những khoảng không rộng lớn đến chóng mặt, rồi lại đâm thắng xuống nền đá. Phía
trước chúng, cánh phía Bắc như một con hẻm rộng trải ra tựa một hẽm núi sâu
thầm với những vách đá thẳng đứng hai bên là những tấm kính màu. Trong những
ngày trời nắng, nền nhà tu viện giống như một tấm khăn kết nối những mảng ánh
sáng đủ các màu sắc cầu vồng. Hôm nay, mưa và bóng tối trùm lên khoảng trũng
lớn này một quầng sáng ma quái… ma quái hơn cả cái hầm mộ mà nó thật sự là thế.
"Gần như trống rỗng", Sophie thì thầm.
Langdon cảm thấy thất vọng. Ông đã hy vọng là sẽ có đông người hơn
nhiều. Một nơi công cộng hơn. Trải nghiệm trước đó trong Nhà Thờ Temple hoang
vắng không phải là điều mà Langdon muốn lặp lại. Ông đã dự tiên một cảm giác an
toàn ở điểm du lịch nổi tiếng này, nhưng những hồi ức của Langdon về đám đông
nhộn nhịp trong một tu viện sáng trưng đã được hình thành trong mùa du lịch cao
điểm. Hôm nay là một buổi sáng tháng tư có mưa. Thay vì những đám đông và ánh
lung linh của kính màu, Langdon chỉ thấy hàng mẫu sàn đá hoang vu cùng những
hốc tối trống rỗng.
"Chúng ta đã qua những cái máy dò kim loại", Sophie nhắc,
rõ ràng cảm nhận thấy nỗi lo âu của Langdon. "Nếu có ai đó ở trong này thì
cũng không thể có vũ khí".
Langdon gật đầu nhưng vẫn cảm thấy phải thận trọng. Ông đã muốn có
cảnh sát London đi cùng, nhưng Sophie sợ có người can dự vào nên tránh mọi tiếp
xúc với nhà chức trách. Chúng ta cần lấy lại hộp mật mã, Sophie đã nhấn mạnh,
đó là chìa khoá cho tất cả mọi thứ.
Tâ nhiên cô ấy đúng.
Chìa khoá để cứu sống Leigh Cha khoá để tìm ra Chén Thánh.
Chìa khoá để khám phá ra ai đứng đằng sau vụ này.
Khốn thay, cơ may duy nhất của họ để lấy lại viên đá đỉnh vòm dường
như chỉ là ở đây và ngay bây giờ… tại ngôi mộ của Isaac Newton.
Bất cứ ai giữ hộp mật mã sẽ phải tới ngôi mộ để giải mã đầu mối
cuối cùng, và nếu như họ vẫn chưa đến và đi khỏi thì Sophie và Langdon chủ định
sẽ ngăn chặn họ.
Sải bước về phía bức tường bên trái để ra khỏi quãng trống, họ đi
vào một lối đi bên cạnh mờ tối sau một hàng cột vuông xây nửa chìm nửa nổi vào
tường. Langdon không sao xua nổi hình ảnh Leigh Teabing có lẽ đang bị trói chặt
ở khoang sau chiếc limousie của chính mình. Dù kẻ ra lệnh giết những người đứng
đầu Tu viện Sion là ai, thì họ cũng sẽ không ngần ngại loại trừ những người
khác chắn đường họ. Việc Teabing - một hiệp sĩ người Anh thời hiện đại - bị bắt
làm con tin trong việc tìm kiếm người đồng hương của ông, Ngài Isaac Newton, có
vẻ như một điều mỉa mai tàn nhẫn.
"Đi lối nào đây?". Sophie nhìn quanh và hỏi.
Ngôi mộ. Langdon không biết: "Chúng ta nên tìm một người canh
mộ để hỏi xem".
Langdon biết là không nên đi lang thang vô mục đích ở nơi này. Tu
viện Westminster là một khu bàn cờ nhằng nhịt những lăng mộ, những phòng vành
ngoài và những hốc đặt mộ đủ lớn để bước vào được. Giống như Hành Lang Lớn của
Louvre, nó chỉ có một lối vào - cái cửa họ vừa đi qua - vào dễ, khó ra. Một cái
bẫy xập theo nghĩa đen đối với du khách, một trong những đồng nghiệp của
Langdon, có lần lạc lối, đã gọi nó như vậy. Giữ nguyên kiến trúc truyền thống,
tu viện được quy hoạch theo hình một cây thánh giá khổng lồ. Tuy nhiên, khác
với hầu hết Các nhà thờ, nó có cửa vào ở bên sườn chứ không theo quy chuẩn mở
lối vào ở phần sau nhà thờ qua lối đi rào kín ở cuối gian giữa giáo đường.
Ngoài ra, tu viện còn có một loạt hàng hiên trải dài. Chỉ lỡ bước qua nhầm cổng
tò vò là khách tham quan sẽ lạc vào một mê cung những đường hẻm bên ngoàỉ với
tường cao vây quanh.
"Các hướng dẫn viên thường mặc áo dài đỏ", Langdon nói và
tiến lại gần trung tâm nhà thờ. Nhìn xéo qua ban thờ mạ vàng cao ngất, đến đầu
đằng kia cánh phía nam, Langdon thấy mấy người đang bò lổm ngổm. Cái kiểu hành
hương trong tư thế phủ phục này thường xảy ra trong Góc Thi nhân, mặc dù nó kém
linh thiêng hơn nhiều so với vẻ bề ngoài. Du khách chà xát mộ.
"Tôi không nhìn thấy người hướng dẫn nào", Sophie nói, có
lẽ chúng ta phải tự tìm lấy ngôi mộ".
Không nói lời nào, Landor dẫn cô thêm vài bước tới trung tâm tu
viện và chỉ về phía bên phải.
Sophie hít một hơi dài sửng sốt khi nhìn suốt chiều dài của gian
giữa giáo đường toàn bộ sự hoành tráng của toà nhà bây giờ đã lộ rõ.
"A", cô thốt lên, "ta hãy đi tìm một hướng dẫn viên thôi".
***
Cùng lúc, cách đó khoảng một trăm mét xuôi gian giữa, khuất sau màn
chắn của đội thánh ca, ngôi mộ uy nghi của Ngài Isaac Newton có một du khách lẻ
loi. Thầy Giáo đã xem xét kĩ đài tưởng niệm này được mười phút.
Mộ Newton bao gồm một quan tài đồ sộ bằng đá cẩm thạch đen mặt trên
có hình chạm khắc của Ngài Isaac Newton trong trang phục cổ điển, hãnh diện dựa
vào chồng sách do chính mình viết ra - Tính thần thánh, Bên niên ký, Quang học,
và Triết luận về những nguyên lý tự nhiên của toán học. Dưới chân Isaac Newton
có hai thiên thần có cánh đang cầm một cuốn thư.
Đằng sau thân hình nằm nghiêng của Isaac Newton nhô lên một kim tự
tháp nghiêm cẩn. Tuy kim tự tháp đã có vẻ kì dị, nhưng chính cái hình khối to
đùng từ kim tự tháp đâm lên nửa chừng mới là điều gợi trí tò mò của Thầy Giáo.
Một hình cầu.
Thầy Giáo đã ngẫm nghĩ về câu đố hấp dẫn của Saunière.
Người kiên tìm trái cầu lẽ ta phải ở trêl nộ chàng. Hình cầu lớn
nhô ra từ bề mặt của kim tự tháp được khắc theo kiểu chạm nổi và mô tả tất cả
các thiên thể - những chòm sao, những cung Hoàng Đạo, sao chổi, những vì sao và
hành tinh. Bên trên là hình ảnh Nữ thần Thiên văn dưới một trời sao.
Vô số là những hình cầu.
Trước đó, Thầy Giáo đã tin chắc rằng một khi tìm thấy ngôi mộ, sẽ
dễ dàng nhận ra hình cầu nào thiếu vắng. Bây giờ thì ông ta không chắc chắn
lắm. Ông ta nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ vũ trụ phức tạp. Có thiếu hành tinh
nào không nhỉ? Phải chăng một chòm sao nào đó đã bị khuyết mất một tinh cầu?
Ông ta chịu không biết. Cho dù thế, Thầy Giáo vẫn không khỏi ngờ rằng đáp án sẽ
gọn ghẽ và đơn giản một cách tài tình - "một hiệp sĩ được một giáo hoàng
mai táng". Mình đang tìm kiếm hình cầu nào đây? Chắc chắn một tri thức
tiên tiến về vật lý thiên văn chưa phải là điều tiên quyết để tìm ra Chén
Thánh.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.
Sự tập trung của Thầy Giáo bị ngắt quãng bởi một số du khách đang
lại gần. Ông ta đút hộp mật mã vào túi quần và nhìn với con mắt cảnh giác khi
các du khách đến một cái bàn gần đó, đặt tiền quyên góp vào trong chiếc cốc và
lấy thêm đồ chà mộ do tu viện bày ra biếu không. Được trang bị những chiếc bút
chì than mới và những tờ giấy dày khổ lớn, họ đi về phía trước của tu viện, có lẽ
tới Góc Thi nhân nổi tiếng để tỏ lòng kính trọng đối với Chaucer, Tenryson và
Dickens bằng việc cọ thật lực lên mộ của các nhà thứ đó.
Còn lại một mình, Thầy Giáo lại gần ngôi mộ hơn, rà lại nó từ chân
đến đầu. Ông ta bắt đầu từ hình đôi chân có móng vuốt bên dưới chiếc quan tài
đá, tiến lên phía trên qua hình khắc nổi Newton, qua những cuốn sách của ông
viết về khoa học, qua hai tiểu thiên thần với cuốn thư về toán học, lên đến bề
mặt của kim tự tháp, đến hình cầu khổng lồ với những chòm sao và cuối cùng lên
đến chiếc tán đầy sao của hốc mộ.
Hình cầu nào đó lẽ ra phải ở đây… mà lại thiếu vắng?
Ông ta chạm vào hộp mật mã trong túi quần cứ như thể bằng cách đó,
ông ta có thể đoán ra câu trả lời từ hình trụ cẩm thạch gia công của Saunière.
Chỉ còn năm chữ cái ngăn cách mình với Chén Thánh.
Bước tới gần góc bình phong của đội hát thánh ca, ông ta hít một
hơi thở sâu và đưa mắt nhìn suốt gian chính diện dài về phía ban thờ chính đằng
xa. Tia nhìn của ông ta lướt từ ban thờ mạ vàng xuống cái áo dài đỏ rực của một
hướng dẫn viên được hai người nom rất quen đang vẫy lại.
Langdon và Neveu.
Bình tĩnh, Thầy Giáo lùi lại hai bước sau tấm bình phong của đội
đồng ca. Nhanh đấy. Ông ta đã đoán trước được Langdon và Sophie cuối cùng sẽ
giải mã được ý nghĩa bài thơ và tới ngôi mộ của Newton, nhưng điều này xảy ra
sớm hơn ông ta tưởng. Hít một hơi thật sâu! Thầy Giáo cân nhắc những lựa chọn
của mình. Ông ta đã quen đối phó với những bất ngờ.
Mình đang giữ hộp mật mã.
Ông ta thọc tay vào túi quần, chạm vào vật thứ hai đem đến cho ông
ta sự tự tin: Khẩu súng lục Medusa. Như đã đoán trước, chiếc máy dò kim loại
của tu viện reng lên khi Thầy Giáo đi qua với khẩu súng được giấu kín. Và cũng
như đã đoán trước, mấy tay bảo vệ đã lập tức thôi không hỏi gì thêm khi Thầy
Giáo quắc mắt phẫn nộ và chìa chứng chỉ đặc biệt của ông ta ra. Chức tước cao
bao giờ cũng phải được tôn trọng đúng mực.
Mặc dù thoạt đầu, Thầy Giáo đã hy vọng sẽ giải quyết hộp mật mã một
mình và tránh được những phiền phức bên lề, nhưng bây giờ ông ta cảm thấy sự
xuất hiện của Langdon và Neveu lại là một diễn biến đáng đón chào. Xét vì ông
ta bất lực không giải nổi ẩn ý trong câu thơ về "hỉnh cầu". Ông ta có
thể lợi dụng kiến thức chuyên môn của họ. Xét cho cùng, nếu Langdon đã giải mã
được bài thơ để tìm ra ngôi mộ thì hắn cũng có thể biết điều gì đó về hình cầu.
Và nếu Langdon biết mật khẩu thì vấn đề sẽ chỉ còn là gây áp lực thích đáng.
Tất nhiên là không phải ở dây mà ở một nơi riêng tư nào đó.
Thầy Giáo nhớ lại một bảng thông báo nhỏ mà ông ta đã nhìn thấy
trên lối đi vào tu viện. Ngay lập tức, ông ta đã biết địa điểm hoàn hảo để nhử
họ đến.
Bây giờ câu hỏi duy nhất là… lấy cái gì làm mồi đây!
Langdon và Sophie chậm rãi theo lối đi bên cạnh phía Bắc, cố giữ
không ra khỏi bóng tối sau hàng cột lớn bằng cẩm thạch ngăn cách lối đi này với
gian chính diện trống trải. Mặc dù đã đi được hơn nửa gian giữa nhưng họ vẫn
chưa nhìn thấy thật rõ phần mộ của Newton. Chiếc quan tài đá được đặt thụt vào
trong một hốc tường và khuất tầm nhìn từ góc nghiêng này.
"Chí ít cũng không có ai ở đó", Sophie thì thầm.
Langdon gật đầu, nhẹ nhõm. Không có ai trong toàn bộ gian chính
điện gần phần mộ của Newton. "Tôi sẽ tới đó", ông thì thầm, "cô
nên tiếp tục nấp kín đề phòng trường hợp có ai đó đang theo dõi".
Sophie đã bước ra khỏi bóng tối và đi ngang qua mặt sàn trống.
Langdon thở dài, vội vàng đi theo cô.
Đi xéo qua gian chính điện lớn, Langdon và Sophie vẫn im lặng trong
khi phần mộ tinh xảo lộ ra mỗi lúc một thêm trêu ngươi… một chiếc quan tài cẩm
thạch đen… một bức tượng nằm của Newton… hai thiên thần có cánh… một kim tự
tháp to đùng… và… một hình cầu lớn.
"Anh đã biết về điều này chưa?". Sophie nói, giọng ngỡ
ngàng.
Langdon cũng ngạc nhiên lắc đầu.
"Những thứ này trông giống như những chòm sao được chạm trồ
trên đó", Sophie nói.
Khi họ lại gần hốc mộ, Langdon có cảm giác như đang chìm dần. Bao
phủ ngôi mộ của Newton toàn là những hình cầu - những vì sao, những ngôi sao
chổi, những hành tinh.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng? Khác nào bắt
tìm một lá cỏ bị mất trên cả một sân gôn.
"Những thiên thể thiên văn học", Sophie nói, vẻ băn
khoăn, "sao mà lắm thế".
Langdon cau mày. Mối liên hệ duy nhất giữa các hành tinh và Chén
Thánh mà Langdon có thể tưởng tượng được là hình năm cánh của Sao Kim, và trên
đường tới Nhà thờ Temple, ông đã thử mật khẩu "Sao Kim" rồi.
Sophie tới thắng chiếc quan tài đá nhưng Langdon lùi lại mấy bước
trong khi vẫn để mắt quan sát tu viện xung quanh.
"Tính thần thánh", Sophie nói, nghiêng đầu đọc đầu đề
những quyển sách mà Newton dựa vào, "Biên niên ký, Quang học, và Triết
luận về những nguyên lý tự nhiên của toán học?". Cô quay lại phía Langdon:
"Anh có nhận ra gợi ý nào không?".
Langdon bước lại gần hơn và xem xét: "Những nguyên lý toán
học, như tôi nhớ thì có cái gì đó liên quan đến lực hấp dẫn của các hành tinh…
những hành tinh này được thừa nhận là những hình cầu nhưng dường như có một
chút gượng ép".
"Còn những cung Hoàng đạo này thì sao?", Sophie nói, chỉ
vào những chòm sao trên hình cầu. "Lúc nãy anh nói đến cung Song Ngư và
cung Bảo Bình, phải không?".
Ngày tận thế! Langdon nghĩ: "Kết thúc cung Song Ngư và bắt đầu
cung Bảo Bình được coi là cái mốc lịch sử đánh dấu thời điểm mà Tu viện Sion
định công bố những tài liệu Sangreal ra với thế giới". Nhưng thiên niên kỷ
mới đã đến và đi mà chẳng có gì xảy ra cả, khiến các sử gia hoang mang không
biết khi nào thì sự thật sẽ đến.
"Xem ra có thể là kế hoạch tiết lộ sự thật của Tu viện Sion
liên quan đến dòng cuối cùng của bài thơ", Sophie nói.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.
Langdon cảm thấy rùng mình. Trước đó, ông đã không xem xét dòng thơ
này theo cách như vậy.
"Anh đã nói với tôi trước đây", Sophie nói, "rằng
thời điểm Tu Viện Sion dự định sẽ tiết lộ sự thật về "Hoa Hồng" và
"tử cung mang hạt giống" có mối liên hệ trực tiếp với vị trí của các
hành tinh - những trái cầu".
Langdon gật đầu, cảm thấy những ý sơ khởi lờ mờ đang dần trở nên rõ
nét. Mặc dầu thế, trực giác vẫn mách ông rằng thiên văn học không phải là chìa
khoá. Những đáp án trước đó của vị Đại Sư đều có ý nghĩa tượng trưng đầy sức
thuyết phục - Mona Lisa, Madonna bên núi đá, SOFIA. Sức thuyết phục này dứt
khoát không có trong khái niệm về những hành tinh hình cầu và các Cung Hoàng
Đạo. Cho tới giờ, Jacques Saunière luôn chứng tỏ mình là một người viết mật mã
rất tỉ mỉ, và Langdon buộc phải tin rằng mật khẩu cuối cùng của ông - năm chữ
cái sẽ mở ra bí mật tối hậu của Tu viện Sion - sẽ không chỉ phù hợp về mặt biểu
tượng mà còn phải rõ ràng như pha lê nữa. Nếu lời giải này có gì giống với
những lời giải khác thì nó ắt sẽ rành rành đến độ nhức nhối ngay khi nó mới hé
lộ.
"Nhìn này!" Sophie thở hổn hển, ngắt ngang những suy nghĩ
của Langdon khi cô túm lấy cánh tay ông. Bằng vào nỗi sợ mà Langdon cảm thấy
qua bàn tay cô túm chặt, ông ngỡ là ai đó đang tiến lại gần nhưng khi ông quay
lại phía Sophie, cô đang kinh hãi nhìn trân trân vào mặt quan tài cẩm thạch
đen. "Ai đó đã ở đây…", cô thì thầm và chỉ vào một vết trên chiếc
quan tài đá gần chân phải của Newton.
Langdon không hiểu được sự lo lắng của Sophie. Một du khách đã vô ý
để lại một cây bút chì than chà mộ trên nắp quan tài đá gần chân của Newton. Có
gì đâu. Langdon với tay định nhặt nó lên, nhưng khi ông cúi mình về phía chiếc
quan tàì đá thì ánh sáng chuyển dịch trên phiến đá cẩm thạch đen bóng và
Langdon như đông cứng lại. Ông chợt nhận ra tại sao Sophie lại sợ hãi.
Ánh lên lờ mờ rất khó thấy trên nắp quan tài đá, ở chỗ chân Newton,
là một lời nhắn viết nguệch ngoạc bằng bút chì than.
Ta đang có Teabing, Đi qua Nhà Nguyện.
Theo lối ra phía Nam, tới khu vườn công cộng.
Langdon đọc hai lần, tim đập thình thình.
Sophie quay lại và đưa mắt rà khắp gian chính điện.
Mặc dù cảm thấy toàn thân run lên khi nhìn thấy những dòng chữ đó,
Langdon tự nhủ đây chính là tin tốt lành. Leigh vẫn còn sống. Còn có một hàm ý
khác nữa ờ đây: "Chúng cũng không biết mật khẩu", ông thì thầm.
Sophie gật đầu. Nếu không tội gì chúng phải bộc lộ sự hiện diện của
mình?
"Có thể chúng muốn đổi Leigh lấy mật khẩu".
"Hoặc đó là một cái bẫy".
Langdon lắc đầu. "Tôi không nghĩ vậy. Khu vườn nằm bên ngoài
những bức tường tu viện. Một nơi rất đông đúc".
Langdon đã từng thăm Khu Vườn nổi tiếng của trường Đại học thuộc tu
viện - một vườn cây ăn quả và thảo dược nhỏ - còn lại từ những ngày các thầy tu
trồng các phương thuốc dược liệu tự nhiên ở đây. Với những cây ăn quả sống lâu
nhất ở nước Anh, Khu Vườn của trường Đại học là một địa điểm nổi tiếng cho du
khách tới thăm mà không phải vào trong tu viện. "Tôi nghĩ chúng đề nghị ta
ra bên ngoài là cách bày tỏ sự tin cậy. Như vậy để chúng ta cảm thấy an
toàn".
Sophie có vẻ ngờ vực: "Ông muốn nói rằng ở bên ngoài, nơi
không có máy dò kim loại?".
Langdon cau mày. Cô ấy có lý.
Quay lại nhìn đăm đăm vào ngôi mộ đầy những hình cầu, Langdon ước
gì mình biết được chút gì về mật khẩu… một cái gì đó làm vốn để đàm phán. Mình
đã làm Leigh dính líu vào chuyện này, và mình sẽ làm bất cứ điều gì nếu có cơ
hội giúp đỡ ông ấy.
"Lời nhắn nói rằng phải đi qua Nhà Nguyện đến lối ra phía
Nam", Sophie nói. "Liệu chúng ta có thể nhìn thấy khu vườn từ lối ra
này không? Bằng cách đó, chúng ta có thể đánh giá tình hình trước khi bước ra
và phơi mình trước nguy hiểm".
Đây là một ý hay. Langdon nhớ mang máng rằng Nhà Nguyện là một đại
sảnh hình bát giác rộng lớn - nơi hội họp của Nghị viện Anh trước khi có Toà
nhà Nghị viện hiện đại. Đã nhiều năm rồi kể từ ngày ông tới đó, nhưng ông nhớ
nó ở đâu đó bên ngoài khu nhà tu kín. Lùi lại khỏi ngôi mộ vài bước, Langdon
nhìn quanh bức bình phong của đội hát thánh ca ở bên phải, ngang qua gian giữa
tới phía đối diện - tới chỗ họ đã đi xuống.
Có một lối đi gần đó, với một bảng chỉ dẫn lớn.
"ĐƯỜNG NÀY DẪN TỚI:
CÁC HÀNG HIÊN
NHÀ Ở CỦA TU VIỆN TRƯỞNG
ĐẠI SẢNH CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC
NHÀ BẢO TÀNG
PHÒNG CHÉN BÁNH THÁNH
NHÀ NGUYỆN THÁNH FAITH
NHÀ NGUYỆN"
Langdon và Sophie chạy qua bên dưới bảng chỉ dẫn, quá nhanh nên
không trông thấy lời thông báo nhỏ xin lỗi rằng khoảng đất nhỏ này đang bị đóng
cửa để sửa chữa.
Họ lập tức ra tới một cái sân có tường cao với mái mở qua đó cơn
mưa buổi sáng trút xuống. Phía trên họ, gió hú lên từng hồi qua khoảng mở ở mái
như ai đó đang thổi qua miệng một cái chai. Đi vào con đường đi bộ hẹp thấp men
theo chu vi cáỉ sân, Langdon cảm thấy nỗi bất an quen thuộc luôn luôn xâm chiếm
ông trong những không gian bị bao kín. Những lối đi này được gọi là cloister
(hàng hiên) và Langdon bồn chồn nhận thấy những cloister đặc biệt này tỏ ra
tương xứng với gốc La tinh của chúng: claustrophobic - chứng sợ nơi khép kín.
Tập trung tâm trí tiến thẳng về phía cuối đường hầm, Langdon theo
những biển chỉ dẫn để tới Nhà Nguyện. Lúc này chỉ mưa lất phất và lối đi bộ thì
lạnh và ẩm với những cơn gió tạt mưa qua bức tường dài có cột là nguồn ánh sáng
duy nhất cho "hàng hiên". Một cặp khác chạy ngược lại qua họ, vội vã
trốn khỏi thời tiết mỗi lúc một xấu hơn. Các hàng hiên lúc này trông vắng ngắt,
phải thửa nhận đây là khu ít hấp dẫn nhất của tu viện trong mưa gió.
Xuôi theo hàng hiên phía đông khoảng bốn mươi mét, bên trái họ hiện
ra một cổng tò vò, mở lối vào một hành lang khác.
Mặc dù đây là lối vào mà họ đang tìm, nhưng chỗ này lại bị phong
tỏa bởi một dây hoa lá chăng ngang và một bảng chỉ dẫn trông khá chính quy:
"ĐÓNG CỬA ĐỂ NÂNG CẤP
PHÒNG CHÉN BÁNH THÁNH
NHÀ NGUYỆN THÁNH FAITH
NHÀ NGUYỆN"
Dãy hành lang dài vắng ngắt bên kia dây chắn ngổn ngang những giàn
giáo và những mảnh vải vứt vương vãi. Ngay bên kia dây chắn, Langdon có thể
nhìn thấy lối vào phòng Chén Bánh Thánh và Nhà Thờ Thánh Faith ở bên phải và
bên trái.
Tuy nhiên, lối vào Nhà Nguyện lại khá xa, ở tận cuối hành lang dài.
Thậm chí từ đây, Langdon vẫn có thể nhìn thấy cái cửa gỗ nặng nề được mở rộng
và nội thất hình bát giác thênh thang tắm trong thứ ánh sáng tự nhiên xam xám
tràn vào từ những cửa sổ lớn nhìn ra Vườn Đại học. Đi qua Nhà Nguyện. Theo lối
ra phía Nam, tới khu vườn công cộng.
"Chúng ta vừa rời khỏi hàng hiên phía Đông", Langdon nói,
"Vậy lối ra phía Nam tớỉ khu vườn hẳn phải qua đó và ở bên phải".
Sophie đã bước qua đống đồ và đi tiếp về phía trước.
Khi họ rảo bước đi xuôi theo hành lang tối om, tiếng mưa gió tử
hàng hiên trống nhỏ dần sau họ. Nhà Nguyện là một thứ công trình vệ tinh - một
nhà phụ không cố định ở cuối hành lang dài để đảm bảo sự bí mật của những cuộc
họp Nghị viện ở đó "Trông đồ sộ nhỉ", Sophie thì thầm khi họ đến gần.
Langdon đã quên căn phòng này rộng như thế nào. Thậm chí từ bên
ngoài lối vào, ông có thể nhìn vượt qua khoảng rộng của nền nhà tới những cửa
sổ hùng vĩ ở cạnh xa hình bát giác, cao tới năm tầng đến tận trắn hình vòm.
Chắc chắn, từ đây họ có thể nhìn rất rõ ra khu vườn.
Bước qua ngưỡng cửa, cả Langdon và Sophie phải nheo mắt lại. Sau
những hàng hiên tăm tối, Nhà Nguyện tựa như một nhà dưỡng bệnh bằng ánh sáng
mặt trời. Họ tiến sâu vào trong ba - bốn mét, tìm bức tường phía nam cho đến
khi họ nhận ra rằng cái cửa mà họ đã được hứa hẹn không có ở đó.
Họ đang đứng ở một ngõ cụt khổng lồ.
Tiếng kẽo kẹt của một cánh cửa nặng phía sau khiến họ quay lại vừa
lúc nó đóng đánh thịch và cái chốt sập xuống.
Người đàn ông đứng một mình sau cánh cửa trông trầm tĩnh khi ông ta
chĩa một khẩu súng lục nhỏ vào họ. Ông ta có vẻ oai nghiêm và tựa trên một đôi
nạng nhôm.
Trong giây phút, Langdon nghĩ hẳn là mình đang mơ.
Đó là Leigh Teabing.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 60
Ngài Leigh Teabing cảm thấy rầu rĩ khi phóng mắt bên trên nòng khẩu
Medusa nhìn Robert Langdon và Sophie Neveu. "Các bạn", ông ta nói,
"kể từ lúc các bạn bước vào nhà tôi đêm qua, tôi đã làm tất cả trong phạm
vi quyền lực của mình để giữ cho các bạn được an toàn. Nhưng sự cố chấp của các
bạn giờ đây đã đặt tôi vào một tình thế khó khăn".
Ông ta có thể thấy trên mặt Sophie và Langdon vẻ choáng váng vì bị
phản bội, tuy nhiên ông ta tin rằng cả hai sẽ sớm hiểu ra cái chuỗi sự kiện đã
dẫn cả ba người bọn họ đến ngã ba tắc tị này.
"Có quá nhiều điều tôi phải nói với cả hai người … nhiều điều
các bạn chưa hiểu. "Xin hãy tin tôi", Teabing nói, "tôi chưa bao
giờ có ý định để các bạn dính líu vào. Các bạn đã đến nhà tôi. Chính các bạn đã
đến tìm tôi".
"Leigh?", Cuối cùng Langdon cũng nói được. "Ngài
đang làm cái quỉ gì vậy? Chúng tôi tưởng ngài đang gặp rắc rối. Chúng tôi đến
đây để giúp ngài!".
"Đúng như tôi tin là anh sẽ làm thế…", Teabing nói.
"Chúng ta có nhiều điều để bàn".
Langdon và Sophie dường như không thể rời cái nhìn kinh ngạc của
mình khỏi khẩu súng lục đang nhằm vào họ.
"Chỉ cốt đảm bảo là các người phải chú ý đầy đủ thôi",
Teabing nói, "Nếu tôi muốn gây hại thì các người đã chết từ bao giờ rồi.
Đêm qua khi các người vào nhà tôi, tôi đã liều tất cả để cứu sinh mạng của các
người. Tôi là một người trọng danh dự và tôi nguyền trong sâu thẳm lương tâm
mình rằng tôi chỉ hiến sinh những kẻ đã phản bội Sangreal".
"Ông đang nói về cái gì vậy?". Langdon nói. "Phản
bội Sangreal ư?".
"Tôi đã khám phá ra một sự thật khủng khiếp", Teabing thở
dài, nói, "tôi đã biết tại sao những tài liệu Sangreal không bao giờ được
phơi bày với thế giới. Tôi biết rằng cuối cùng, Tu viện Sion đã quyết định
không công bố sự thật. Đó là lý do tại sao một thiên niên kỉ đã qua đi mà không
có bất kì chuyện gì được tiết lộ không có chuyện gì xảy ra khi chúng ta bước vào
Ngày Tận Thế".
Langdon hít một hơi, định phản đối.
"Tu viện Sion", Teabing tiếp tục, "được giao trách
nhiệm thiêng liêng để chia sẻ sự thật, để công bố những tài liệu Sangreal khi
Ngày Tận Thế đến. Trong nhiều thế kỉ, những người như Da Vinci, Botticelli và
Newton, đã bất chấp tất cả để bảo vệ những tài liệu đó và thực hiện trọng trách
đó. Và giờ đây, vào thời điểm tối hậu của sự thật thì Jacques Saunière lại thay
đổi ý định. Con người được vinh dự gánh trách nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử
Cơ đốc giáo đó đã trốn tránh bổn phận của mình. Ông ta quyết định rằng thời
điểm này là không thích hợp". Teabing quay sang Sophie. "Ông ta đã
phụ Chén Thánh. Ông ta đã phụ Tu viện Sion và ông ta đã phụ hương hồn của tất
cả các thế hệ đã tốn bao công sức để thời điểm này có thể tới".
"Là ông sao?". Sophie tuyên bố, ngước lên, đôi mắt xanh
như khoan vào Teabing, giận điên lên khi vỡ lẽ ra. "Ông là kẻ chủ mưu giết
ông tôi?".
Teabing mỉa mai: "Ông cô và các ssénéchal của ông ta là những
kẻ phản bội lại Chén Thánh".
Sophie cảm thấy một nỗi cuồng giận dâng lên từ đáy lòng.
Ông ta nói dối!
Giọng Teabing tàn nhẫn: "Ông cô và các ssénéchal của ông ta đã
bán mình cho Giáo hội. Hiển nhiên là họ đã gây áp lực để bắt ông ta giữ bí
mật".
Sophie lắc đầu: "Giáo hội không có chút ảnh hưởng nào đối với
ông tôi!".
Teabing cười lạnh lùng: "Cô bạn thân mến của tôi ơi, Giáo hội
có hai nghìn năm kinh nghiệm trong việc gây áp lực với những người đe doạ vạch
trần những lời dối trá của họ. Kể từ thời Constantine, Giáo hội đã thành công
trong việc bưng bít sự thật về Mary Magdalene và Jesus. Chúng ta không nên ngạc
nhiên rằng giờ đây, một lần nữa họ lại tìm ra cách để giữ sao cho thế giới vẫn
mù tịt. Giáo hội có thể thôi không dùng thập tự quân để tàn sát những người
không theo đạo nữa, nhưng sự ảnh hưởng của họ vẫn không kém thuyết phục. Không
kém xảo quyệt".
Ông ta dừng lại như để nhấn mạnh ý tiếp theo của mình. "Cô
Neveu, trong một khoảng thời gian gần đây, ông cô đã muốn nói cho cô biết sự
thật về gia đình cô".
Sophie sửng sốt: "Làm sao ông biết được điều đó?".
"Phương pháp của tôi là phi vật thể. Điều quan trọng cô cần
nắm biết ngay bây giờ là thế này". Ông ta hít sâu. "Cái chết của mẹ
cô, cha cô, bà cô và anh trai cô không phải là tai nạn".
Câu nói làm cảm xúc của Sophie quay cuồng. Cô mở miệng định nói
nhưng không thể.
Langdon lắc đầu: "Ông đang nói gì vậy?".
"Robert, điều đó giải thích mọi thứ. Tất cả các mảnh chắp vừa
khít. Lịch sử lặp lại. Giáo hội có tiền lệ sát nhân khi cần ỉm tài liệu
Sangreal đi. Với việc Ngày Tận Thế có thể sắp đến, việc giết những người thân
yêu của Đại Sư đã truyền đi một thông điệp rất rõ ràng. Hãy im lặng kẻo ông và
Sophie sẽ là người tiếp theo".
"Đó là một tai nạn xe hơi", Sophie lắp bắp, cảm thấy nỗi
đau thời thơ ấu dâng ngập lòng mình. "Một tai nạn!".
"Những truyện kể lúc đi ngủ để bảo vệ sự ngây thơ của
cô", Teabing nói."Hãy lưu ý rằng chỉ hai thành viên trong gia đình là
không bị đụng đến - Đại Sư của Tu viện Sion và đứa cháu gái duy nhất của ông ta
- một bộ đôi hoàn hảo để Giáo hội nắm lấy nhằm kiểm soát hội kín này. Tôi chỉ
có thể tưởng tượng sự khủng bố mà Giáo hội đã treo trên đầu ông cô suốt nhiều
năm qua, đe doạ sẽ giết cô nếu ông ta dám công bố bí mật Sangreal, đe doạ kết
thúc công việc mà họ đã bắt đầu, trừ phi Saunière dùng ảnh hưởng của mình ép Tu
viện Sion xét lại lời nguyền xưa".
"Leigh", Langdon cãi, rõ ràng lúc này đã bực, "chắc
chắn ông không có bằng chứng gì rằng Giáo hội liên quan đến những cái chết này,
hoặc Giáo hội gây ảnh hướng để khiến Tu viện Sion họ quyết định giữ im
lặng".
"Bằng chứng ư?", Teabing quặc lại. "Anh muốn bằng
chứng rằng Tu viện Sion đã bị ảnh hưởng ư? Thiên niên kỷ mới đã đến nhưng thế
giới vẫn chẳng biết gì! Điều đó không đủ là bằng chứng sao?".
Trong dư âm những lời của Teabing, Sophie nghe thấy một giọng khác
đang nói. Sophie, ta phải nói với con sự thật về gia đình con. Cô nhận ra mình
đang run rẩy. Liệu đây có phải là sự thật mà ông cô muốn nói với cô? Rằng gia
đình cô đã bị sát hại? Cô thực sự đã biết gì về vụ tai nạn đã cướp đi cả gia
đình cô? Chỉ là những chi tiết sơ sài. Cả những bài trên báo chí cũng mơ hồ.
Một vụ tai nạn ư? Những truyện kể lúc đi ngủ ư? Sophie chợt nhớ lại
sự quan tâm bảo vệ thái quá của ông cô - hồi cô còn nhỏ ông không bao giờ ưng
để cô một mình. Thậm chí ngay cả khi Sophie đã lớn và vào đại học, cô vẫn có
cảm giác là ông cô đang để mắt đến cô. Cô tự hỏi liệu có những thành viên của
Tu viện Sion suốt đời chăm sóc cô trong bóng tối hay không.
"Ông ngờ là ông ấy bị điều khiển ư?". Langdon nói, nhìn
trừng trừng vào Teabing, đầy hồ nghi. "Nên ông đã giết ông ấy?".
"Tôi không bóp cò súng", Teabing nói, "Saunière đã
chết nhiều năm trước, khi Giáo hội đã cướp mất gia đình ông ấy.
Ông ta bị buộc phải thoả hiệp. Giờ đây ông ấy được giải phóng khỏi
nỗi đau đó, giải thoát khỏi nỗi hổ thẹn do bất lực không thực hiện được bổn
phận thiêng liêng của mình. Hãy xem xét khả năng lựa chọn. Một điều gì đó cần
phải được thực hiện. Lẽ nào cứ để thế giới mãi mãi không biết gì? Có nên để
Giáo hội được phép cố định vĩnh viễn tất cả những lời dối trá đó trong những
cuốn sách lịch sử của chúng? Có nên để Giáo hội được phép gây ảnh hưởng vô thời
hạn bằng giết người và tống tiền?
Không, một điều gì đó cần được làm sáng tỏ! Và giờ đây, chúng ta
đang ở tư thế sẵn sàng thực hiện di sản của Saunière và chữa lại điều sai trái
khủng khiếp". Ông ta dừng lại. "Cả ba chúng ta. Cùng nhau".
Sophie chỉ cảm thấy hoài nghi: "Làm sao ông có thể tin rằng
chúng tôi sẽ giúp đỡ ông?".
"Bởi vì, cô bạn thân mến của tôi ơi, cô chính là lý do khiến
Tu viện Sion không công bố được những tài liệu. Tình yêu của ông cô dành cho cô
đã ngăn ông không dám thách thức Giáo hội. Nỗi sợ sự trả đũa nhằm vào thành
viên duy nhất của gia đình đã làm ông tê liệt. Ông chưa bao giờ có cơ hội giải
thích sự thật, bởi vì cô đã chối bỏ ông, trói tay ông khiến ông ta phải chờ
đợi. Giờ đây cô nợ thế giới sự thật đó. Cô nợ hương hồn ông cô".
***
Robert Langdon đã thôi không cố gắng định hướng nữa. Mặc dù cả một
thác lũ câu hỏi ào ào trong đầu, ông biết rằng giờ đây chỉ có một điều quan
trọng - đưa Sophie sống sót rời khỏi đây. Tất cả mặc cảm tội lỗi mà trước đó,
do ngộ nhận, Langdon đã cảm thấy đối với Teabing, giờ đây đã chuyển sang đối
với Sophie.
Mình đã đưa cô ấy đến Château Villete. Mình phải chịu trách nhiệm.
Langdon không thể lường được liệu Leigh Teabing có thể lạnh lùng
giết họ ngay ở đây, trong Nhà Nguyện hay không, tuy nhiên, Teabing chắc chắn đã
dính líu đến việc giết những người khác trong cuộc truy tìm sai lầm của ông ta.
Langdon có cái cảm giác bất an rằng súng nổ trong căn phòng biệt lập, tường dày
này sẽ không ai nghe thấy, đặc biệt giữa lúc trời mưa như thế này. Và Leigh vừa
mới thừa nhận tội với chúng ta.
Langdon liếc nhìn Sophie, trông cô run rẩy. Có phải Giáo hội đã
giết gia đình Sophie để bịt miệng Tu viện Sion? Langdon cảm thấy chắc chắn rằng
Giáo hội hiện đại không giết người. Hẳn phải có một cách giải thích nào khác.
"Hãy để Sophie đi", Langdon tuyên bố, nhìn Leigh chằm
chằm, "Ông và tôi nên bàn riêng chuyện này".
Teabing phát ra một tiếng cười không tự nhiên: "Tôi e rằng đó
là một sự biểu thị lòng tin mà tôi không thể làm. Tuy nhiên, tôi có thể đưa cho
anh cái này". Dựa cả người lên đôi nạng, vẫn thô lỗ chĩa khẩu súng vào
Sophie, Teabing lấy viên đá đỉnh vòm ra khỏi túi quần. Ông ta hơi lảo đảo một
chút khi đưa nó cho Langdon. "Dấu hiệu của sự tin cậy, Robert".
Robert cảm thấy cảnh giác và không cử động. Leigh đang trả lại viên
đá đỉnh vòm cho chúng ta?
"Cầm lấy", Teabing nói, đẩy viên đá đỉnh vòm về phía
Langdon một cách vụng về.
Langdon chỉ có thể tưởng tượng ra một lý do duy nhất khiến Teabing
trả lại viên đá đỉnh vòm: "Ông đã mở nó ra rồi và lấy đi tấm bản đồ".
Teabing lắc đầu: "Robert, nếu tôi đã giải mã được viên đá đỉnh
vòm thì tôi đã biến khỏi đây để tự đi tìm Chén Thánh, không để các người dính
líu vào. Không, tôi không biết câu trả lời. Và tôi có thể thừa nhận điều đó
thoả mái. Một hiệp sĩ chân chính phải học lấy tính khiêm tốn trước Chén Thánh.
Học tuân theo những dấu hiệu đặt ra trước bản thân mình. Khi tôi nhìn thấy anh
đi vào Tu viện, tôi đã hiểu. Anh có mặt ở đây vì một lí do. Để giúp đỡ. Tôi
không tìm kiếm niềm vinh quang riêng ở đây. Tôi phục vụ một người chủ vĩ đại
hơn nhiều so với niềm kiêu hãnh cá nhân. Sự thật. Loài người xứng đáng được
biết sự thật đó. Chén Thánh đã tìm thấy cả ba chúng ta và giờ đây Chén Thánh
cầu xin được phơi bày. Chúng ta phải làm việc cùng nhau".
Mặc dù miệng Teabing đang khẩn cầu hợp tác và tin cậy, súng của ông
ta vẫn nhằm vào Sophie khi Langdon bước tới nhận lấy hình trụ bằng cẩm thạch
giá lạnh. Dấm ở bên trong ùng ục khi Langdon nắm lấy nó và lùi lại phía sau.
Các đĩa chữ vẫn lộn xộn và hộp mật mã vẫn khoá.
Langdon nhìn Teabing: "Làm sao ông biết tôi sẽ không đập tan
nó ngay lập tức?".
Tiếng cười của Teabing nghe thật kì quái: "Lẽ ra tôi đã phải
nhận ra sự đe doạ đập vỡ nó của anh trong Nhà thờ Temple chỉ là một lời đe doạ
suông. Robert Langdon ắt không bao giờ đập viên đá đỉnh vòm. Robert, anh là một
sử gia. Anh đang giữ chìa khoá mở hai nghìn năm lịch sử - chiếc chìa thất lạc
để mở bí mật Sangreal. Anh có thể cảm thấy linh hồn của tất cả các hiệp sĩ bị
thiêu cháy trên cột để bảo vệ bí mật của bà. Anh sẽ để họ chết uổng ư? Không.
Anh sẽ minh oan cho họ. Anh sẽ gia nhập hàng ngũ những con người vĩ dại mà anh
mơ ước từ lâu Da Vinci, Botticelli, Newton - mỗi người trong số họ ắt lấy làm
vinh dự nếu được ở vị thế của anh lúc này. Cái nằm bên trong viên đá đỉnh vòm
đang kêu gọi chúng ta. Nó khao khát được tự do. Thời điểm đã đến. Số mệnh đã
dẫn chúng ta đến thời điểm này".
Tôi không thể giúp ông, Leigh. Tôi không biết làm thế nào để mở được
hộp mật mã này. Tôi chỉ mới thấy ngôi mộ của Newton một lát thôi, và thậm chí
nếu tôi biết được mật khẩu…". Langdon dừng lại, nhận ra rằng mình đã nói
quá nhiều.
"Anh cũng sẽ không nói cho tôi chứ gì?". Teabing thở dài.
"Robert, tôi thất vọng và ngạc nhiên rằng anh không đánh giá đúng anh chịu
ơn tôi đến mức nào. Nhiệm vụ của tôi sẽ đơn giản hơn biết bao nếu Rémy và tôi
đã thủ tiêu hai người khi các người đến Château Villitte. Thay vào đó, tôi đánh
liều tất cả để chọn con đường cao thượng hơn".
"Cái này là cao thượng ư?". Langdon hỏi, nhìn khẩu súng.
"Lỗi tại Saunière", Teabing nói. "Ông ta và các
ssénéchal của ông ta đã nói dối Silas. Nếu không thì tôi đã giành được viên đá
đỉnh vòm mà không có bất kì sự rắc rối nào. Làm sao tôi tưởng tượng được là vị
Đại Sư lại đi đến chỗ lừa dối tôi và truyền viên đá đỉnh vòm lại cho cô cháu
gái đã khước từ ông?".
Teabing nhìn Sophie với thái độ khinh bỉ. "Một người không đủ
trình độ nắm được kiến thức này đến nỗi phải cần một nhà kí tượng học làm bảo
mẫu". Teabing lại liếc nhìn Langdon. "May mắn thay, Robert, việc anh
vào cuộc hoá ra lại là một ân sủng đối với tôi. Thay vì để viên đá đỉnh vòm vmh
viễn bị khoá chặt trong cái Ngân hàng Ký thác đó, anh đã lấy được nó ra và xộc
đến nhà tôi".
Mình còn có thể chạy đi đâu được nữa? Langdon nghĩ. Cộng đồng các
sử gia về Chén Thánh quá ít ỏi, mà Teabing và mình thì đã từng làm việc cùng
nhau.
Lúc này trông Teabing thật tự mãn: "Khi nghe tin Saunière để
lại cho các người một lời trối trăng, tôi biết rõ rằng các người đang nắm giữ
thông tin đầy giá trị về Tu viện Sion. Liệu đó chính là viên đá đỉnh vòm, hay
là thông tin về nơi cất giấu nó, tôi không chắc lắm. Nhưng với việc cảnh sát
truy nã các người ráo riết thì tôi trộm nghĩ là các người có thể sẽ phải đến
ngưỡng cửa nhà tôi".
Langdon quắc mắt: "Còn nếu chúng tôi không đến thì sao?".
"Tôi đã vạch một kế hoạch để chìa tay ra giúp đỡ anh. Bằng
cách này hay cách khác, viên đá đỉnh vòm cũng tới Château Villette. Việc anh
giao nó vào bàn tay chờ đợi của tôi đã chứng tỏ rằng sự nghiệp của tôi là chính
nghĩa".
"Cái gì?", Langdon kinh hoàng.
Silas có nhiệm vụ đột nhập vào và đánh cắp viên đá đỉnh vòm từ anh
ở Château Villette - bằng cách đó, gạt hai người ra ngoài cuộc mà không gây
thương tổn và miễn trừ cho tôi mọi nghi ngờ về tội đồng loã. Tuy nhiên, khi tôi
thấy những mật mã của Saunière quá rắc rối, tôi bèn quyết định giữ cả hai người
tham gia cuộc tìm kiếm lâu hơn chút nữa. Tôi có thể sai Silas ăn cắp viên đá
đỉnh vòm sau đó, một khi tôi biết đủ thông tin để tiến hành công việc một
mình".
"Nhà Thờ Temple", Sophie nói, giọng cô tràn ngập cảm giác
bị phản bội.
***
Ánh sáng bắt đầu ló dạng, Teabing nghĩ. Nhà Thờ Temple là địa điểm
hoàn hảo để đánh cắp viên đá đỉnh vòm từ Robert và Sophie, và việc nó có vẻ ứng
hợp với bài thơ đã biến nó thành một mồi nhử hợp lý. Lệnh cho Rémy là rõ ràng -
không ra mặt trong khi Silas thu hồi viên đá đỉnh vòm. Rủi thay, lời đe doạ của
Langdon đập viên đá đỉnh vòm trên sàn nhà nguyện đã làm cho Rémy hoảng sợ. Giá
như Rémy đã không lộ diện, Teabing tiếc nuối nghĩ nhớ lại màn kịch giả vờ bắt
cóc chính ông ta.
Rémy là mắt xích duy nhất đối với mình và hắn đã lộ mặt! May thay,
Silas đã không nhận ra nhân thân thực sự của Teabing và dễ dàng bị lừa vào vai
trò áp giải ông ta ra khỏi nhà thờ và rồi ngây thơ đứng nhìn trong khi Rémy giả
bộ trói con tin của họ ở phía sau chiếc limousine. Với tấm vách ngăn cách âm
được dựng lên, Teabing có thể gọi điện cho Silas đang ngồi phía trước. Dùng
giọng Pháp giả của Thầy Giáo, ông ta đã chỉ đạo Silas đến thẳng Opus Dei. Một
cú gọi nặc danh đơn giản là đủ để cảnh sát xoá Silas khỏi bức tranh.
Một đầu dây đã được thắt lại.
Đầu dây kia còn buông thì khó thắt hơn. Rémy.
Teabing đã đấu tranh với quyết định này khá căng thẳng, nhưng cuối
cùng, chính Rémy đã tỏ ra là một bất lợi. Mọi cuộc tìm kiếm Chén Thánh đều đòi
hỏi sự hiến tế. Giải pháp sạch sẽ nhất đã bày ra ngay trước mắt Teabing từ quầy
rượu trên chiếc limousine: một cái lọ, một chút rượu cô-nhắc và một hộp lạc.
Bột dưới đáy hộp quá đủ để gây nên cú dị ứng chết người cho Rémy.
Khi Rémy đỗ chiếc limousine trên đường Horse Guards Parade, Teabing đã trèo ra
khỏi đằng sau xe, vào qua cửa bên ghế hành khách và ngồi vào phía trước cạnh
Rémy. Vài phút sau, Teabing ra khỏi xe và trèo lại vào khoang sau, xoá sạch dấu
vết và cuối cùng, xuất hiện để hoàn thành nốt giai đoạn chót trong sứ mạng của
mình.
Tu viện Westminster chỉ cách đó một đoạn đường đi bộ và mặc dù
nạng, nẹp chân và súng lục của Teabing đã làm máy dò kim loại kêu reng reng,
mấy tay cớm thuê vẫn không biết nên xử trí ra sao. Yêu cầu ông ta tháo nẹp, bỏ
nạng ra và bò qua ư?
Lục soát cơ thể biến dạng của ông ta. Teabing trình ra với đám bảo
vệ bối rối một giải pháp dễ dàng hơn nhiều - một tấm các chạm nổi xác nhận ông
ta là Hiệp sĩ của Vương quốc.
Mấy thằng cha tội nghiệp gần như vấp giúi giụi vào nhau cuống quít
mời ông ta vào.
Giờ đây, khi thấy Langdon và Neveu đang hoang mang, Teabing cố nén
nỗi thôi thúc muốn cho biết làm thế nào mà ông ta đã xuất sắc kéo được Opus Dei
tham gia vào âm mưu của mình, mà vụ này chẳng bao lâu nữa sẽ dẫn đến sự sụp đổ
của toàn bộ Giáo hội. Điều đó còn phải đợi đã vì bây giờ còn có việc để làm.
"Mes amis", Teabing tuyên bố bằng một thứ tiếng Pháp hoàn
hảo, "vous ne trouvez pas le Saint-Graal, c est le Saint-Graal qui vous
trouve"(1). Ông ta mỉm cười. "Chúng ta cùng đi chung đường, không thể
rõ ràng hơn được nữa. Chén Thánh đã tìm thấy chúng ta".
Im lặng.
Lúc này, lão ta thì thầm nói với họ: "Hãy lắng nghe. Các bạn
có nghe thấy không? Chén Thánh đang nói với chúng ta xuyên qua nhiều thế kỷ. Nó
đang năn nỉ xin được cứu thoát khỏi sự rồ dại của Tu viện Sion. Tôi khẩn cầu cả
hai người hãy nhận ra cơ hội này. Không thể có ba người có khả năng hơn được tụ
hợp vào lúc này để phá vỡ mật mã cuối cùng và mở cái hộp mật mã". Teabing dừng
lại, mắt sáng lên. "Chúng ta cần phải nguyện thề cùng nhau. Một lời thề
trung thành với nhau. Sự trung thành của một hìệp sĩ để khám phá và công bố sự
thật".
Sophie nhìn sâu vào mắt Teabing và nói bằng một giọng đanh thép:
"Tôi sẽ không bao giờ thề với kẻ đã giết ông tôi. Ngoại trừ một lời thề sẽ
đưa ông vào tù".
Trái tim của Teabing trở nên nghiêm nghị, rồi kiên quyết:
"Tôi lấy làm tiếc là cô lại cảm nhận theo cách ấy".
Lão ta quay sang cha súng vào Langdon: "Còn anh, Robert? Anh
sẽ ủng hộ hay chống lại tôi?".
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: Các bạn ơi, không phải các bạn tìm thấy Chén Thánh mà chính Chén Thánh tìm
thấy các bạn.
Cơ thể g;ám mục Manuel Aringarora đã chịu đựng nhiều kiểu đau đớn,
nhưng cái nóng thiêu đốt của vết đạn trong lồng ngực thật lạ đối với ông ta.
Sâu và nghiêm trọng. Không phải là vết thương ở phần da thịt… mà gần với tâm
hồn.
Aringarosa mở mắt ra, cố nhìn, nhưng mưa giàn giụa trên mặt đã làm
nhòa mắt ông ta. Mình đang ở đâu thế này? Ông ta cảm thấy những cánh tay lực
lưỡng đang bế mình, mang cái thân hình mềm oặt của ông ta như một con búp bê
bằng vải. Nhấc cánh tay rã rời lên, Aringarosa rụi mắt và thấy người đàn ông
đang ôm mình chính là Silas. Gã bạch tạng khổng lồ đang hì hụi chạy theo một
vỉa hè mù mịt sương, la lớn để tìm bệnh viện, giọng hắn rên rỉ đau khổ đến não
lòng. Đôi mắt đỏ trân trân dõi về phía trước, nước mắt tuôn trào trên bộ mặt
trắng trợt lấm tấm máu.
"Con trai", Aringarosa thì thầm, "con bị thương
đấy".
Silas liếc nhìn xương, mặt rúm lại vì đau khổ: "Con xin lỗi
Cha". Hắn quá đau đớn để thốt lên lời.
"Không đâu, Silas", Aringarosa đáp, "chính ta mới
phải xin lỗi. Đây là lỗi tại ta". Thầy Giáo đã hứa với ta là sẽ không có
giết chóc và ta đã bảo con tuân lệnh lão ta hoàn toàn. "Ta đã quá háo hức.
Quá sợ hãi. Ta và con đều bị lừa rồi". Thầy Giáo sẽ không bao giờ đưa cho
chúng ta Chén Thánh cả.
Được ẵm trong vòng tay của người mà nhiều năm trước đây ông đã cưu
mang, giám mục Aringarosa cảm thấy mình như quay trở ngược lại thời gian. Quay
về Tây Ban Nha. Về những khởi đầu khiêm nhường của mình, xây dựng một nhà thờ
Ki tô giáo nhỏ ở Oviedo cùng Silas. Và rồi đến New York - nơi ông đã sáng danh
Chúa với Trung tâm Opus Dei cao ngất trên đại lộ Lexington.
Năm tháng trước đây, Aringarosa đã nhận được những tin choáng váng.
Công việc cả đời của ông đang gặp nguy hiểm. Ông nhớ lại cuộc gặp gỡ bên trong
lâu đài Gandolfo với những chi tiết sinh động, cuộc gặp gỡ đã thay đổi cuộc đời
ông. Cái tin đã khởi phát toàn bộ đại hoạ này.
Aringarosa đã bước vào Thư viện Thiên văn học của Gandolfo, đầu
ngẩng cao, tràn đầy hi vọng được hàng loạt cánh tay chào đón ca ngợi, tất cả
đều háo hức muốn vỗ vai khen ngợi ông ta về việc đại diện tuyệt vời cho Ki tô
giáo tại Mỹ.
Nhưng chỉ ba người có mặt.
Thư ký của Toà thánh Vatican. Béo phệ. Nghiêm nghị.
Hai Hồng Y giáo chủ cao cấp người Ý. Ra vẻ đạo đức hơn người. Tự
mãn.
"Thư ký ư?", Aringarosa nói, cảm thấy bối rối.
Con người béo tròn phụ trách các vấn đề pháp lý của Tòa thánh bắt
tay Aringarosa và chỉ cái ghế đối diện với ông ta: "Xin cứ thoải mái tự
nhiên".
Aringarosa ngồi xuống, cảm thấy có điều gì đó không ổn.
"Tôi vốn không khéo nói chuyện phiếm, thưa Đức Giám mục",
vị thư ký nói. "Bởi vậy, hãy cho phép tôi nói thẳng về lý do cuộc viếng
thăm của ngài hôm nay".
"Xin mời. Hãy nói một cách cởi mở", Aringarosa liếc qua
hai Đức Hồng Y, dường như họ đang đánh giá ông với sự đoán định tự cho là đúng.
"Như ngài đã biết", vị thư ký nói, "Đức Giáo hoàng
và những người khác ở Roma gần đây rất lo lắng những hậu quả chính trị do những
thực hành gây tranh cãi của Opus Dei".
Aringarosa lập tức nổi giận. Ông đã nhiều lần cảm thấy thế đối với
vị giáo chủ mới, hóa ra Ngài lại rất nhiệt thành ủng hộ sự thay đổi theo khuynh
hướng tự do trong Giáo hội khiến Aringarosa hết sức kinh ngạc.
"Tôi muốn đảm bảo với ngài", vị thư ký vội nói thêm,
"rằng Đức Giáo hoàng không tìm cách thay đổi gì trong cách ngài điều hành
giáo phận của ngài".
Tôi hy vọng là thế. "Vậy tại sao tôi lại ở đây?".
Ông béo thở dài: "Thưa Đức Giám mục, tôi không biết làm thế
nào để diễn đạt điều này một cách tế nhị, vậy tôi xin nói thẳng. Hai ngày trước
đây, Hội đồng thư ký đã bỏ phiếu nhất trí rút sự chấp thuận của Toà thánh
Vatican đối với Opus Dei".
Aringarosa chắc chắn rằng mình nghe nhầm: "Tôi xin ngài hãy
nhắc lại?".
"Nói thẳng ra, sáu tháng nữa kể từ ngày hôm nay, Opus Dei sẽ
không còn được xem là một giáo phận của Vatican nữa. Ngài sẽ thuộc một giáo hội
của riêng mình. Toà Thánh sẽ tách rời khỏi ngài. Đức Giáo hoàng đã đồng ý và
chúng tôi đã soạn thảo giấy tờ hợp pháp".
"Nhưng… điều đó là không thể".
"Trái lại, điều đó hoàn toàn có thể. Và cần thiết. Đức Giáo
hoàng trở nên lo lắng với chính sách tuyển mộ thô bạo và thông lệ hành xác của
các ngài". Ông ta dừng lại. "Những chính sách của ngài đối với phụ nữ
cũng thế. Nói một cách rất thẳng thắn, Opus Dei đã trở thành một thứ gây bất
lợi và phiền hà".
Giám mục Aringarosa sững sờ: "Phiền hà ư?".
"Chắc chắn ngài không thể ngạc nhiên là sự thể đi đến mức
này".
"Opus Dei là một tổ chức duy nhất của Thiên Chúa giáo có số
lượng thành viên tăng trưởng! Chúng tôi hiện có hơn 1100 giáo sĩ!".
"Đúng. Một vấn đề rắc rối cho tất cả chúng ta".
Aringarosa đứng bật dậy: "Hãy hỏi Đức Giáo hoàng liệu Opus Dei
có phải là một sự phiền hà hay không vào năm 1982 khi chúng tôi giúp đỡ Ngân
hàng Vatican!".
"Toà thánh Vatican sẽ luôn biết ơn về điều đó", vị chánh
thư ký nói, giọng xoa dịu. "Tuy nhiên có nhiều người vẫn tin rằng sự hào
phóng về tài chính của ngài năm 1982 là lý do duy nhất khiến ngài được ban chức
giám mục".
"Không đúng!". Sự ám chỉ đó xúc phạm Aringarosa sâu sắc.
"Dù thế nào đi nữa, chúng tôi cũng chủ trương hành động với
thiện ý. Chúng tôi đang thu xếp hoàn trả lại những khoản đã nhận. Nó sẽ được
chi trả làm năm lần".
"Ngài đang mua chuộc tôi đấy à?". Aringarosa hỏi.
"Trả tiền cho tôi để tôi lặng lẽ ra đi? Khi mà Opus Dei là tiếng nói duy
nhất còn lại của lý trí!".
Một trong số Hồng Y ngước nhìn: "Tôi xin lỗi, ngài vừa nói lý
trí?".
Aringarosa ngả người qua mặt bàn, giọng sắc nhọn như một mũi tên:
"Ngài có thật sự tự hỏi tại sao các tín đồ Thiên Chúa giáo bỏ nhà thờ
không? Hãy nhìn xung quanh ngài, thưa Đức Hồng Y. Người ta đã đánh mất niềm
kính trọng. Sự nghiêm ngặt của tín ngưỡng không còn nữa. Học thuyết trở thành
một thứ hỗn độn. Sự kiêng khem, xưng tội, lễ thánh thể, lễ rửa tội, lễ chầu -
hãy chọn đi - chọn bất kỳ sự kết hợp nào ngài ưng và bỏ qua những gì còn lại.
Giáo hội đang đề ra cái kiểu dẫn dắt tâm linh gì vậy?".
"Những luật lệ ở thế kỉ III", vị Hồng Y thứ hai nói,
"không thể ứng dụng cho những môn đệ hiện đại của Thiên Chúa.
Những luật lệ đó không có hiệu quả trong xã hội ngày nay".
"Ồ, dường như chúng lại đang có hiệu quả tại Opus Dei!".
"Giám mục Aringarosa", vị chánh thư ký nói, giọng dứt
khoát, "vì sự kính trọng mối quan hệ giữa tổ chức của ngài với Đức Cựu
Giáo hoàng, Đức Đương kim Giáo hoàng sẽ cho Opus Dei sáu tháng để tự nguyện
tách ra khỏi Vatican. Tôi đề nghị ngài hãy liệt kê những ý kiến khác biệt của
ngài với Tòa Thánh và tự thiết lập tổ chức Cơ đốc giáo cho chính mình".
"Tôi từ chối!", Aringarosa tuyên bố. "Và đích thân
tôi sẽ nói điều đó với Giáo hoàng!".
"Tôi e rằng, Đức Giáo hoàng không cần gặp ngài nữa".
Aringarosa đứng dậy: "Ngài sẽ không dám huỷ bỏ một giáo phận
được thiết lập bởi Đức Giáo hoàng tiền nhiệm!".
"Tôi rất tiếc", vị chánh thư ký nhìn không nao núng,
"Chúa Trời ban cho và Chúa Trời cũng lấy đi".
Aringarosa lảo đảo rời khỏi cuộc gặp gỡ đó trong tâm trạng hoang
mang và hoảng sợ. Trở lại New York, suốt bao ngày, ông cứ thao láo nhìn ra
đường chân trời, vỡ mộng, lòng nặng trĩu nỗi buồn cho tương lai của Thiên Chúa
giáo.
Chính vài tuần sau đó, Aringarosa nhận được cú điện thoại đã làm
thay đổi tất cả. Người gọi đến nghe như giọng Pháp và xưng danh là Thầy Giáo -
một tước hiệu phổ biến trong Giáo đoàn. Ông ta nói ông ta biết là Vatican dự
định rút bỏ sự ủng hộ đối với Opus Dei.
Làm thế nào mà ông ta có thề biết được điều đó? Aringarosa tự hỏi.
Ông đã hy vọng là chỉ một dúm người trung gian quyền lực của Vatican biết về
chủ trương sắp huỷ bỏ Opus Dei. Rõ ràng tin đã lọt ra ngoài. Nói đến việc ngăn
chặn lời đồn đại thì không có bất kỳ bức tường nào trên thế giới dễ thẩm thấu
như những bức tường quanh thành phố Vatican.
"Tôi có tai mắt ở khắp nơi, thưa Giám mục", Thầy Giáo thì
thầm. "Và với những tai mắt này tôi đã thu thập được một số thông tin. Với
sự giúp đỡ của ngài, tôi có thể khám phá ra nơi ẩn giấu một thánh thể linh
thiêng, mà điều đó sẽ mang đến cho ngài quyền lực rất lớn… đủ để bắt Vatican
phải cúi đầu trước ngài. Một quyền lực đủ để cứu lấy Niềm tin". Ông ta
dừng lại.
"Không chỉ cho Opus Dei mà còn cho tất cả chúng ta".
Chúa trời lấy đi… và Chúa trời lại ban cho. Aringarosa cảm thấy
bừng lên một tia hy vọng huy hoàng. "Hãy nói cho tôi biết kế hoạch của
ông".
***
Giám mục Aringarosa đã bất tỉnh khi những cánh cửa của bệnh viện
St. Mary kẹt mở. Silas chệnh choạng lao vào, gần như mê sảng vì kiệt sức. Khuỵu
gối xuống nền gạch, hắn gào lên cầu cứu. Mọi người trong khu tiếp tân há hốc
miệng kinh ngạc trước cảnh gã bạch tạng gần như trần truồng bế một giáo sĩ đầy
máu.
Người bác sĩ đã giúp Silas đưa vị Giám mục đang mê sảng vào phòng
cấp cứu trông có vẻ bi quan khi xem mạch Aringarosa: "Ông ấy mất quá nhiều
máu. Tôi không hy vọng lắm".
Mắt Aringarosa chớp chớp, và ông tỉnh lại một lúc, cái nhìn đăm đăm
hướng về Silas: "Con ta…".
Tâm hồn Silas nổi sấm sét hối hận và cuồng giận: "Cha ơi, dù
có phải mất cả cuộc đời, con cũng sẽ tìm ra kẻ đã lừa gạt chúng ta và con sẽ
giết hắn".
Aringarosa lắc đầu, vẻ buồn bã khi người ta chuẩn bị đẩy xe đưa ông
đi: "Silas… nếu con chưa học được gì từ cha, thì giờ xin con…hãy học lấy
điều này". Ông cầm tay Silas và xiết chặt. "Tha thứ là món quà lớn
nhất của Chúa".
" Nhưng Cha ơi…".
Aringarosa nhắm mắt lại: "Silas, con hãy cầu nguyện đi".
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 61
Robert Langdon đứng dưới vòm mái cao vút của Nhà Nguyện vắng vẻ,
nhìn chằm chằm vào nòng súng của Leigh Teabing.
Robert, anh ủng hộ tôi hay chống lại tôi? Những lời của nhà sử học
Hoàng gia âm vang trong tịch lặng của tâm trí Langdon.
Không thể có câu trả lời, Langdon biết vậy. Trả lời ủng hộ tức là
bán đứng Sophie. Trả lời chống, thì Teabing sẽ không còn lựa chọn nào khác
ngoài việc giết cả hai.
Những năm theo học ở nhà trường không dạy cho Langdon thấm nhuần kỹ
năng nào phù hợp với việc xử lý tình huống đối đầu với ngọn súng, song nhà
trường có dạy ông một điều gì đó về việc trả lời những câu hỏi nghịch lý. Khi
một câu hỏi không có câu trả lời chính xác, chỉ có duy nhất một câu trả lời
trung thực.
Vùng mù mờ giữa có và không.
Im lặng.
Nhìn chằm chằm vào hộp mật mã trong tay, Langdon chọn giải pháp đơn
giản là thoát ra.
Không hề ngước mắt lên, Langdon lùi lại, đi vào khoảng trống rộng
của căn phòng. Vùng trung lập. Ông hy vọng sự tập trung của mình vào hộp mật mã
là tín hiệu cho Teabing rằng khả năng cộng tác có thể là một lựa chọn, còn sự
im lặng là tín hiệu cho Sophie là ông không bỏ mặc cô.
Trong khi đó tranh thủ thời gian để suy nghĩ.
Hành động suy nghĩ, Langdon ngờ rằng đó đích thị là điều mà Teabing
muốn ông làm. Đó là lý do tại sao lão ta lại đưa hộp mật mã cho mình. Để mình
có thể cảm thấy sức nặng quyết định của mình. Nhà sử học người Anh hy vọng việc
chạm tay vào hộp mật mã của vị Đại Sư sẽ làm cho Langdon nắm được đầy đủ tầm
lớn lao của những gì chứa đựng trong đó, dụ dỗ trí tò mò học thuật trong ông
đến chỗ áp đảo mọi cái khác, buộc ông nhận thức được rằng không mở được viên đá
đỉnh vòm cũng có nghĩa là mất luôn cả lịch sử.
Với Sophie bị đe dọa trước mũi súng ở đầu phòng đằng kia, Langdon
sợ rằng việc tìm ra cái mật khẩu khó bề nắm bắt của hộp mật mã sẽ là hy vọng
duy nhất còn lại ngõ hầu giải thoát Sophie. Nếu mình mở được bản đồ, Teabing sẽ
phải thương lượng. Vắt óc để làm nhiệm vụ cấp bách này, Langdon chậm rãi tiến
về những cửa sổ phía xa… để tâm trí tràn đầy những hình ảnh chiêm tinh về ngôi
mộ của Newton.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.
Quay lưng lại với những người khác, ông bước về phía những khung
của sổ cao vút, tìm cảm hứng trong trang trí môzaic trên những ô kính màu.
Chẳng thấy gì hết.
Hãy tự đặt mình vào tâm thế của Saunière, ông tự nhắc nhở, mắt đăm
đăm nhìn ra Vườn Đại học. Cái mà Saumère tin là hình cầu lẽ ra phải ở trên mộ
Newton là gì nhỉ? Những hình ảnh nhấp nháy trong mưa rơi - sao, sao chổi, hành
tinh, nhưng Langdon bỏ qua. Saunière không phải là một nhà khoa học. Ông ta là
một con người nhân văn, con người của nghệ thuật, lịch sử. Nữ tính thiêng
liêng… chiếc ly… Hoa Hồng… Nàng Mary Magdalene bị xua đuổi… sự suy tàn của nữ
thần…Chén Thánh.
Truyền thuyết luôn miêu tả Chén Thánh như là một người nữ độc ác,
nhảy múa trong bóng tối vừa vặn ngoài tầm nhìn, thì thầm vào tai ta, nhử ta
bước thêm một bước nữa rồi tan biến trong sương mù.
Nhìn ra hàng cây xào xạc trong Vườn Đại học, Langdon cảm thấy sự
hiện diện đùa bỡn của Chén Thánh. Chỗ nào cũng thấy dấu hiệu. Như một bóng dáng
trêu ngươi đột nhiên từ sương mù, những cành của cây táo già nhất nước Anh bỗng
nở ra những bông hoa năm cánh, tất cả sáng long lanh như sao Kim.
Nữ thần đang ở trong khu vườn. Nàng đang nhảy múa dưới mưa, hát
những bài ca từ bao đời, ngó ra từ sau những cành đầy chồi non như thể nhắc nhở
Langdon rằng trái quả tri thức đang mọc ngay ngoài tầm với của ông.
***
Đầu phòng đằng kia, ngài Leigh Teabing theo dõi với lòng tự tin khi
Langdon nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ như bị bùa mê.
Đúng như ta hi vọng, Teabing nghĩ vậy, hắn sẽ qui thuận.
Từ ít lâu nay, Teabing đã ngờ ngợ rằng có thể Langdon đang nắm
chiếc chìa khoá dẫn đến Chén Thánh. Không phải ngẫu nhiên trùng hợp mà Teabing
khởi sự thực thi kế hoạch của mình vào đúng buổi tối Langdon được sắp xếp để
gặp Jacques Saunière. Nghe trộm ông phụ trách bảo tàng, Teabing biết chắc việc
ông này tha thiết muốn gặp riêng Langdon chỉ có một ý nghĩa duy nhất. Bản thảo
bí mật của Langdon đã chạm đến một diểm nhạy cảm đối với Tu viện Sion. Langdon
đã tình cờ tìm thấy một sự thật và Saunière sợ điều này được công bố. Teabing
tin chắc vị Đại Sư triệu Langdon đến để tìm cách bịt miệng ông.
Sự thật bị bưng bít lâu nhu thế, là đủ rồi.
Teabing biết là mình phải hành động nhanh chóng. Đòn tấn công của
Silas sẽ hoàn thành hai mục tiêu. Thứ nhất, ngăn chặn việc Saunière thuyết phục
Langdon giữ im lặng, và thứ hai, bảo đảm rằng một khi viên đá đỉnh vòm đã nằm
trong tay Teabing, Langdon sẽ có mặt ở Paris để chiêu mộ nếu Teabing cần đến
ông ta.
Sắp đặt cuộc gặp mặt dẫn đến cái chết của Saunière giữa ông ta và
Silas là điều quá dễ dàng. Ta đã có những thông tin nội bộ về những nỗi sợ sâu
kín nhât của Saunièrc. Chiều hôm qua, Silas đã gọi cho người phụ trách bảo tàng
và sắm vai một linh mục quẫn trí. "Ông Saunière, hãy thứ lỗi cho tôi, tôi
phải nói chuyện với ông ngay lập tức. Lẽ ra tôi không được vi phạm tính thiêng
liêng của việc xưng tội, nhưng trong trường hợp này, tôi cảm thấy phải làm thế.
Tôi vừa nghe lời xưng tội của một người tuyên bố là đã ám sát các thành viên
trong gia đình ông".
Phản ứng của Saunière là giật mình nhưng vẫn rất thận trọng:
"Gia đình tôi đã chết trong một vụ tai nạn. Bản tường trình của cảnh sát
đã kết luận dứt khoát vậy".
"Vâng đúng, một vụ tai nạn xe hơi", Silas nói, thả mồi
câu, "người đàn ông đến xưng tội nói anh ta đã dồn ép chiếc xe của họ vào
kịch mép đường đến độ nhào xuống sông".
Saunière im lặng.
"Ông Saunière, tôi ắt sẽ chẳng bao giờ gọi trực tiếp cho ông
nếu không vì người đàn ông này đã bình một câu mà đến bây giờ nghĩ lại, tôi
thấy lo cho sự an toàn của ông". Hắn ngừng lại.
"Anh ta cũng nhắc đến cô cháu gái Sophie của ông".
Việc nhắc đến tên Sophie chính là chất xúc tác. Vị phụ trách bảo
tàng tức tốc bắt tay vào hành động. Ông bảo Silas đến gặp ông ngay ở nơi an
toàn nhất mà Saunière biết: văn phòng của ông trong bảo tàng Louvre. Rồi ông
gọi điện thoại cho Sophie, cảnh báo rằng cô có thể gặp nguy hiểm. Cuộc hẹn gặp
với Robert Langdon lập tức bị hủy bỏ.
Giờ đây, với Langdon cách xa Sophie cả chiều dài của căn phòng,
Teabing cảm thấy rằng lão ta đã thành công, tách rời được hai người bạn đồng
hành. Sophie Neveu vẫn ra mặt thách thức, nhưng Langdon rõ ràng có tầm nhìn
rộng hơn, đang cố tìm ra mật khẩu. Hắn hiểu tầm quan trọng của việc tìm ra Chén
Thánh và giải thoát cho Chén Thánh khỏi cảnh bị giam hãm.
Sophie lạnh lùng nói: "Anh ấy sẽ không mở nó cho ông đâu, kể
cả khi anh ấy có thể".
Teabing liếc nhìn Langdon, vẫn chĩa súng vào Sophie. Lão khá chắc
chắn rằng bây giờ sắp phải sử dụng đến vũ khí này. Dù cho ý nghĩ ấy làm lão ta
băn khoăn, lão biết rằng sẽ không được chần chừ nếu sự thể đến nước ấy. Ta đã
cho cô ta mọi cơ hội để làm điều đúng đắn. Chén Thánh quan trọng hơn bất kỳ ai
trong chúng ta.
Đúng lúc đó, Langdon từ cửa sổ quay lại: "Ngôi mộ…", ông
bỗng nói, nhìn họ với tia hi vọng yếu ớt loé lên trong đôi mắt, tôi biết phải
tìm ở chỗ nào trên ngôi mộ của Newton. Vâng, đúng rồi, tôi nghĩ tôi có thể tìm
thấy mật khẩu!".
Tim Teabing như bay bổng: "Chỗ nào, Robert? Nói tôi nghe
nào".
Giọng Sophie khiếp đảm. "Robert, không! Anh sẽ không giúp lão
ta chứ?".
Langdon tiến lại với sải chân dứt khoát, giơ hộp mật mã ra trước
hai người: "Không", ông nói, mắt đanh lại khi quay sang nhìn Leigh,
"không, cho đến khi ông để cô ấy đi".
Vẻ rạng rỡ lạc quan của Teabing tối sầm lại: "Chúng ta đã tới
gần sát rồi, Robert. Đừng giờ trò với tôi?".
"Không có trò gì hết". Langdon nói. "Để cho cô ấy
đi. Rồi tôi sẽ đưa ông đến ngôi mộ của Newton. Chúng ta sẽ cùng mờ hộp mật
mã".
"Tôi chẳng đi đâu cả", Sophie tuyên bố, mắt nheo lại giận
dữ. "Hộp mật mã đó, ông tôi truyền lại cho tôi. Ông không có tư cách để
mở".
Langdon quay lại, vẻ sợ hãi: "Sophie, tôi xin cô! Cô đang gặp
nguy hiểm, tôi đang cố gắng giúp cô!".
"Như thế nào? Bằng cách phơi bày bí mật mà ông tôi đã liều
chết bảo vệ sao? Ông tôi tin anh và tôi cũng tin anh".
Đôi mắt xanh của Langdon lộ vẻ hoảng hốt, và Teabing không khỏi mỉm
cười khi thấy hai người đang chống lại nhau. Cố gắng của Langdon để nịnh đầm
thật là lâm ly hết chỗ nói. Sắp đến lúc tiết lộ một trong những bí mật lịch sử
lớn nhất thế mà hắn còn bấn bíu với một ả phụ nữ đã tỏ ra không xứng đáng với
cuộc tìm kiếm này.
"Sophie". Langdon van nài, "tôi xin cô… Cô phải đi
thôi".
Sophie lắc đầu: "Không, trừ phi anh hoặc là chuyển cho tôi hộp
mật mã hoặc đập tan nó trên sàn nhà".
"Cái gì?". Langdon há hốc miệng.
"Robert, ông tôi sẽ thích bí mật của mình biến mất mãi mãi còn
hơn là nhìn thấy nó nằm trong tay kẻ đã giết mình". Đôi mắt Sophie như thể
tràn đầy nước mắt nhưng không phải. Cô quay lại nhìn thẳng vào Teabing.
"Bắn tôi đi nếu như ông có thể làm vậy. Tôi sẽ không để di sản của ông tôi
rơi vào tay ông đâu".
Rất tốt. Teabing nhằm súng.
"Không?", Langdon quát, giơ cánh tay lên, treo hộp mật mã
lơ lửng trên nền đá cứng, "Leigh, nếu ông rắp tâm làm thế, dù mới chỉ trên
ý định, tôi sẽ thả cái này xuống ngay".
Teabing cười: "Cách hù dọa ấy chỉ có tác dụng với Rémy thôi.
Không phải với tôi. Tôi biết anh rõ hơn thế".
"Thật không, Leigh?".
Phải, tôi biết. Anh cần phải luyện nhiều hơn nữa mới có được bộ mặt
tỉnh bơ, anh bạn của tôi ạ. Tôi chỉ mất vài giây là thấy rõ anh đang nói dối.
Anh không biết câu trả lời nằm ở chỗ nào trên mộ Newton.
"Đúng không, Robert? Anh biết cần phải nhìn vào chỗ nào trên
ngôi mộ chứ?".
"Tôi biết".
Vẻ do dự chỉ thoáng qua trong mắt Langdon nhưng Leigh đã bắt kịp.
Đây là một lời nói dối. Một mánh khoé tuyệt vọng, bi thiết hòng cứu Sophie.
Teabing cảm thấy một nỗi thất vọng sâu sắc nơi Robert Langdon.
Ta là một hiệp sĩ cô độc, xung quanh toàn là những linh hồn không
xứng đáng. Và ta sẽ phải tự mình giải mã viên đá đỉnh vòm.
Giờ đây Langdon và Neveu chẳng là gì khác ngoài một mối đe doạ đối
với Teabing… và đối với Chén Thánh. Dù giải pháp này sẽ rất đau đớn, Teabing
cũng biết là mình sẽ tiến hành nó với một lương tâm trong sạch. Thử thách duy
nhất là thuyết phục Langdon đặt viên đá đỉnh vòm xuống! Như vậy Teabing sẽ có
thể kết thúc câu đố này một cách an toàn.
"Đây là một sự biểu lhị lòng tin", Teabing nói, hạ thấp
mũi súng đang đe doạ Sophie. "Đặt viên đá đỉnh vòm xuống và chúng ta sẽ
nói chuyện".
Langdon biết lời nói dối của mình đã thất bại.
Ông có thể thấy rõ quyết tâm đen tối trên mặt của Teabing và biết
giây phút quyết định đã đến. Khi mình đặt viên đá đỉnh vòm này xuống, hắn sẽ
giết cả hai chúng ta. Không cần nhìn Sophie, ông vẫn nghe thấy trái tim cô cầu
khẩn ông trong nỗi tuyệt vọng câm lặng. Rober người này không xứng đáng với
Chén Thánh, xin đừng đặt nó vào tay lão ta. Bât kể phải trả giá như thế nào?
Langdon đã có quyết định riêng vài phút trước đó, trong khi đứng
một mình tại cửa sổ nhìn ra Vườn Đại học.
Bảo vệ Sophic.
Bảo vệ Chén Thánh.
Suýt nữa Langdon đã gào lên, tuyệt vọng. Nhưng tôi không biết phải
làm thế nào!
Những khoảnh khắc vỡ mộng khắc nghiệt đã đem lại cùng với chúng một
sự sáng tỏ không giống với bất cứ cái gì mà ông đã từng cảm thấy. Sự thật đang
ở ngay trước mắt mi đó, Robert. Ông không biết sự hiển linh từ đâu đến. Chén Thánh
không giễu mi, Chén Thánh đang lên tiếng gọi một linh hồn xứng đáng.
Lúc này, cúi đầu như một thần dân tái mét trước mặt Leigh Teabing,
Langdon hạ thấp viên đá đỉnh vòm chỉ cách nền đá dăm phân.
"Thế, Robert", Teabing thì thầm chĩa súng vào ông,
"đặt nó xuống".
Mắt Langdon ngước lên trới, nhìn vào khoảng trống rộng hoác của Nhà
Nguyện. Cúi thấp hơn nữa, Langdon hạ tia nhìn ngang tầm khẩu súng của Teabing
đang chĩa thẳng vào ông.
"Tôi xin lỗi, Leigh".
Bằng một động tác uyển chuyển, Langdon nhảy vọt lên, vung tay lên
trời, ném thẳng chiếc hộp mật mã về phía mái vòm.
Leigh Teabing không cảm thấy ngón tay mình đang bóp cò, nhưng khẩu
Medusa khạc ra một tiếng nổ vang ầm. Từ tư thế cúi rạp, Langdon giờ đã vươn
thẳng đứng, gần như bay lên, và viên đạn nổ trên sàn ngay sát chân ông. Một nửa
bộ não của Teabing cố chỉnh lại tầm ngắm để điên cuồng bắn tiếp, nhưng nửa còn
lại mạnh hơn bắt lão phải ngước mắt lên vòm nhà.
Viên đá đỉnh vòm!
Thời gian như ngưng đọng, chuyển thành một giấc mơ chậm trong khi
toàn bộ thế giới của Teabing quy lại thành viên đá đỉnh vòm bay lên. Lão theo
dõi nó lên tới đỉnh điểm, bồng bềnh một thoáng trong khoảng trống… rồi rơi
xuống, lộn phộc, về phía nền đá.
Tất cả hi vọng và ước mơ của Teabing đang rớt. thẳng xuống đất. Không
thể để nó đập xuống sàn nhà! Ta có thể bắt được nó!
Toàn thân Teabing phản ứng theo bản năng. Lão buông súng, phóng
người về phía trước, bỏ cả nạng khi vươn hết tầm đôi bàn tay mềm mại, cắt sửa
móng cẩn thận. Xòe cả cánh tay và ngón tay, lão chộp lấy viên đá đỉnh vòm.
Chúi về phía trước với viên đá đỉnh vòm được tóm chặt một cách đắc
thắng trong tay, Teabing biết lão đang ngã quá nhanh.
Không cách chi gượng nổi, hai cánh tay duỗi dài của lão đập xuống
trước, rồi đến viên đá đỉnh vòm va mạnh vào sàn đá.
Có tiếng vỡ rợn người của thuỷ tinh bên trong.
Trong cả một giây, Teabing không thở được. Nằm sóng xoài trên sàn
nhà lạnh giá, nhìn trân trân dọc theo hai cánh tay duỗi thẳng tới hình trụ cẩm
thạch trong lòng bàn tay, lão cầu sao chiếc lọ nhỏ bằng thuỷ tinh bên trong
đừng vỡ. Thế rồi mùi dấm xông lên trong không khí và Teabing cảm thấy cái chất
lỏng mát lạnh tràn qua những đĩa chữ chảy vào lòng bàn tay mình.
Nỗi hoảng hốt cuồng dại bóp chặt tim lão. KHÔNG! Lúc này dấm đang
trào ra, và Teabing hình dung cuộn giấy papyrus đang phân huỷ bên trong.
Robert, mày thật ngu xuẩn! Bí mật không còn nữa!
Teabing cảm thấy mình khóc nấc lên không kìm nổi. Chén Thánh đã mất
rồi. Tất cả đã tan tành. Rùng mình không tin nổi vào hành động của Langdon,
Teabing cố bửa chiếc hộp hình trụ ra, mong sao thoáng nhìn thấy tư liệu lịch sử
trước khi nó tan ra vĩnh viễn. Trước sự bàng hoàng của Teabing, khi lão kéo
mạnh hai đầu viên đá đỉnh vòm, hình trụ bỗng tách rời ra.
Lão há hốc miệng ngó vào trong. Nó trống rỗng ngoại trừ những mảnh
thuỷ tinh ướt. Không có cuộn giấy papyrus nào mủn ra cả. Teabing xoay người
ngước nhìn Langdon. Sophie đứng cạnh ông và chĩa súng vào Teabing.
Hoang mang, Teabing nhìn lại viên đá đỉnh vòm và hiểu ra.
Những đĩa chữ không phải là lộn xộn hú họa. Chúng xếp thành một từ
năm chữ cái: APPLE (Quả táo).
***
"Quả cầu mà Eva chia sẻ với Adam", Langdon bình thản nói,
"và chuốc lấy cơn thịnh nộ của Chúa. Tội tổ tông truyền. Biểu tượng cho sự
sa đọa của tính nữ thiêng liêng".
Teabing cảm thấy sự thật ập xuống đầu một cách nghiêm khắc đau đớn.
Trái cầu lẽ ra phải có trên mộ Newton, không thể là gì khác ngoài trái táo Hồng
rơi xuống từ thiên đàng, rơi trúng vào đầu Newton, thành nguồn cảm hứng cho sự
nghiệp của đời ông. Thành quả lao động của ông! Da thịt hồng với một tử cung
mang hạt giống!
"Robert", Teabing lắp bắp, ê chề, "anh đã mở nó ra.
Vậy chiếc bản đồ… đâu?".
Không chớp mắt, Langdon thò tay vào túi ngực chiếc áo vải tuýt và
cẩn thận lôi ra một cuộn giấy papyrus mỏng. Langdon trải cuộn giấy ra chỉ cách
chỗ Teabing nằm vài mét, và xem xét. Sau một lúc lâu, một nụ cười thông tỏ nớ
trên mặt Langdon.
Hắn biết! Lòng Teabing khao khát sự hiểu biết đó. Ước mơ cả đời lão
đang ở ngay trước mặt: "Nói cho tôi đi!" Teabing cầu xin. "Làm
ơn? Ôi, lạy Chúa, làm ơn đi! Chưa phải là quá muộn đâu!".
Có tiếng những bước chân thình thịch dọc theo hành lang về phía Nhà
Nguyện và Langdon lặng lẽ cuộn tờ giấy papyrus lại, nhét vào túi.
"Không!". Teabing hét lên, cố đứng lên nhưng vô ích.
Khi những cánh cửa mở tung ra, Bezu Fache bước vào như một con bò
tót vào vòng đấu, cặp mắt hung dữ lia khắp rồi tìm thấy mục tiêu - Leigh
Teabing - nằm trơ trên sàn nhà. Thở hắt ra nhẹ nhõm, Fache tra khẩu Manurhin
vào vỏ và quay sang Sophie: "Nhân viên Neveu, tôi nhẹ cả người thấy cô và
ông Langdon đã an toàn. Hai người lẽ ra nên đến khi tôi yêu cầu".
Tốp cảnh sát Anh theo chân Fache vào, tóm cổ tên tù đau khổ và còng
tay lão lại.
Sophie dường như sững sờ khi nhìn thấy Fache: "Làm sao ông tìm
thấy chúng tôi?".
Fache chỉ vào Teabing: "Hắn đã phạm sai lầm khi trình giấy tờ
căn cước để vào tu viện. Những người gác đã nghe đài thông báo của cảnh sát về
Cuộc truy tìm hắn của chúng tôi".
"Nó ở trong túi của Langdon!". Teabing rít lên như một
người điên: "Chiếc bản đồ chỉ dẫn đến Chén thánh!".
Khi họ nhấc Teabing khiêng ra ngoài, lão vẫn ngoái đầu lại và gào
lên: "Robert! Làm ơn nói cho tôi biết nó được giấu ở đâu!
Khi Teabing đi ngang qua, Langdon nhìn vào mắt lão: "Chỉ những
người xứng đáng mới tìm thấy Chén thánh, Leigh. Chính ông đã dạy tôi điều
đó".
Sương mù giăng thấp trên Vườn Kensington, Silas tập tễnh lê bước
vào một chỗ trũng yên tĩnh khuất tầm nhìn. Quỳ gối trên bãi cỏ đẫm sương, hắn
cảm thấy dòng máu ấm chảy tràn ra từ vết đạn dưới xương sườn. Tuy nhiên, hắn
vẫn chằm chằm nhìn thẳng ra phía trước.
Sương mù đã khiến nơi đây trông giống như thiên đàng.
Giơ hai bàn tay vấy máu lên cầu nguyện, hắn nhìn những hạt mưa mơn
man những ngón tay mình, trả lại màu trắng cho chúng. Khi mưa rơi nặng hạt hơn
trên lưng và vai hắn cảm thấy như cơ thể mình đang từng chút một tan biến vào
trong sương mù.
Ta là một bóng ma.
Một làn gió xào xạc lướt qua hắn, mang theo hương thơm dậy mùi đất
ẩm của sự sống mới. Silas cầu nguyện bằng tất cả những tế bào sống trong cơ thể
kiệt quệ của mình. Hắn cầu xin sự tha thứ. Hắn cầu xin lòng thương xót. Và trên
hết, hắn cầu nguyện cho người thầy của mình… Giám mục Aringarosa… cầu xin Chúa
Trời đừng bắt ông ra đi trước thời hạn. Ông con biết bao nhiêu việc phải làm.
Sương mù đang xoáy lộn quanh hắn và Silas cảm thấy nhẹ bẫng đến nỗi
hắn dám chắc những làn sương sẽ cuốn hắn đi. Hắn nhắm chặt mắt lại, nói lời cầu
nguyện cuối cùng.
Từ đâu đó trong màn sương, tiếng Manuel Aringarosa thì thầm với
hắn.
Chúa của chúng ta là một vị chúa nhân từ và độ lượng.
Cuối cùng, nỗi đau dớn của Silas bắt đầu tiêu tan, và hắn biết vị
giám mục đã nói đúng.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 62
Đó và là lúc chiều muộn khi mặt trời London đột hiện và thành phố
bắt đầu khô ráo. Bezu Fache cám thấy mệt mỏi khi ra khỏi phòng thẩm vấn và gọi
một chiếc xe taxi. Ngài Leigh Teabing vẫn la lối tuyên bố mình vô tội, tuy
nhiên, qua những lời huyên thiên đầu ngô mình sớ của ông ta về Chén Thánh, về
các tài liệu bí mật, và các hội kín, Fache ngờ rằng nhà sử học xảo trá này đang
dàn cảnh cho các luật sư của mình viện cớ thân chủ bị mất trí để bào chữa.
Chắc chắn thế. Fache nghĩ. Mất trí. Teabing đã tỏ ra chính xác một
cách tài tình trong việc xây dựng một kế hoạch bảo vệ sự vô tội của ông ta
trong từng bước đi. Ông ta đã khai thác cả Vatican và Opus Dei, hai nhóm hoá ra
hoàn toàn vô tội. Công việc bẩn thỉu của ông ta đã được một thầy tu cuồng tín
và một vị giám mục tuyệt vọng tiến hành một cách vô tri giác. Thông minh hơn
nữa, Teabing đã đặt trạm điện tử nghe lén ở chỗ duy nhất mà một người mắc căn
bệnh bại liệt không thể nào tới được.
Thực tế việc theo dõi do người hầu của ông ta đảm nhiệm, Rémy -
ngưởi duy nhất biết nhân thân thực sự của Teabing - giờ đây đã chết một cái
chết thật gọn vì một ca dị ứng.
Khó có thể là công trình của một người thiểu năng trí tuệ, Fache
nghĩ.
Thông tin từ Collet tại Château Villete cho thấy mưu mô của Teabing
thâm sâu đến nỗi chính Fache cũng có thể học hỏi từ đó. Để giấu được
"rệp" vào một số cơ quan quyền lực nhất ở Paris, nhà sử học Anh đã
làm theo cách những người Hy Lạp.
Những con ngựa thành Troa. Một vài trong số những mục tiêu dự tính
của Teabing đã nhận được những món quà cực kỳ đắt tiền là các tác phẩm nghệ
thuật, những người khác thì lại được trả giá mà không hay biết trong các cuộc
bán đấu giá mà Teabing đã đặt những lô đặc biệt. Trong trường hợp của Saunière,
ông phụ trách bảo tàng đã nhận được một lời mời ăn tối ở Château Villette để
bàn về khả năng Teabing sẽ tài trợ một cánh mới dành riêng cho Da Vinci ở bảo
tàng Louvre. Thiếp mời Saunière có một dòng tái bút vô hại bày tỏ sự ngưỡng mộ
đối với một hiệp sĩ rô-bốt nghe nói do Saunière chế tác. Hãy mang chàng tới.
Teabing gợi ý. Hình như Saunière đã làm đúng như vậy và để chàng hiệp sĩ đơn
độc một mình khá lâu, đủ để cho Rémy Legaludec thêm vào một bộ phận do thám kín
đáo.
Bây giờ, ngồi ở ghế sau của taxi, Fache nhắm mắt lại. Thêm một điều
phải làm trước khi mình trở về Paris.
***
Phòng hồi sức của bệnh viện St. Mary tràn ngập ánh nắng.
"Cha đã khiến tất cả chúng con ngạc nhiên", cô y tá nói,
mỉm cười với ông. "Đúng là phép thần kỳ".
Giám mục Aringarosa nớ một nụ cười yếu ớt: "Cha luôn được phù
hộ mà".
Cô y tá ngừng làm việc vặt, để vị giám mục được yên. Ánh mặt trời
sưởi ấm mặt ông, thật dễ chịu. Đêm qua là đêm đen tối nhất đời ông.
Buồn bã, ông nghĩ đến Silas, xác hắn đã được tìm thấy trong công
viên.
Hãy tha thứ cho ta, con trai.
Aringarosa đã ao ước Silas có phần trong kế hoạch vinh quang của
mình. Tuy nhiên, đêm qua, Aringarosa đã nhận được một cuộc gọi của Bezu Fache,
cật vấn ông về mối quan hệ rõ ràng là có giữa ông với một nữ tu sĩ bị giết ở
Saint-Sulpice.
Aringarosa nhận ra rằng buổi tối hôm qua đã lái theo một bước ngoặt
khủng khiếp. Tin tức về bốn vụ giết người nữa đã biến nỗi kinh hoàng của ông
thành đau đớn. Silas, ngươi đã làm gì vậy! Không liên lạc được với Thầy Giáo,
Giám mục biết mình đã bị bỏ rơi. Bị lợi dụng. Cách duy nhất để chặn đứng chuỗi
sự kiện hãi hùng đó là thú nhận tất cả với Fache và từ lúc đó trở đi,
Aringarosa và Fache đã chạy đua để bắt kịp được Silas trước khi Thầy Giáo
thuyết phục hắn tiếp tục giết người.
Cảm thấy xương cốt rã rời, Aringarosa nhắm mắt lại và nghe tivi đưa
tin về việc bắt giữ một Hiệp sĩ người Anh nối tiếng, Ngài Leigh Teabing. Thầy
Giáo đã phanh phui cho tất cả mọi người thấy. Teabing đã ngửi thấy được kế
hoạch của Vatican định tách khỏi Opus Dei. Ông ta đã chọn Aringarosa làm một
con tốt đen hoàn hảo trong kế hoạch của mình. Xét cho cùng, ai là người dễ bề
lao theo Chén Thánh mù quáng hơn một người ở thế được ăn cả, ngã về không như
ta? Chén Thánh sẽ mang quyền to lớn cho ai sở hữu nó.
Leigh Teabing đã bảo vệ nhân thân của mình một cách ranh ma - giả
giọng Pháp, vờ ngoan đạo, đòi trả nhiều tiền - thứ duy nhất mà ông ta không
cần. Aringarosa quá háo hức nên không nghi ngờ gì. Cái giá đặt là hai mươi
triệu euro không đáng kể lắm nếu so với phần thưởng là có được Chén Thánh và
với số tiền do Vatican trả để tách khỏi Opus Dei, phần tài chính đã có hiệu quả
tốt. Người mù thì chỉ thấy những gì họ luôn thấy. Sự xúc phạm tối hậu của
Teabing dĩ nhiên là việc đòi trả bằng hối phiếu của Vatican, để nếu có gì trục
trặc thì cuộc điều tra sẽ dẫn đến Roma.
"Tôi rất vui thấy cha bình phục, thưa Đức Cha".
Aringarosa nhận ra cái giọng cộc cằn vang lên từ cửa phòng, nhưng
còn bộ mặt thì ngoài sự chờ đợi - nghiêm khắc, nét thô khỏe, tóc chải lật ra
sau và cổ to bạnh ra trên nền bộ đồ màu đen. "Đại uý Fache?"
Aringarosa hỏi. Lòng thương cảm và quan tâm mà viên đại uý tỏ ra với tình cảnh
của Aringarosa đêm qua khiến ông hình dung ra một ngoại hình tao nhã hơn thế
này nhiều.
Viên đại uý tiến lại gần giường và nhấc một chiếc cặp số đen nặng
quen thuộc đặt lên ghế: "Tôi tin rằng cái này thuộc về cha".
Aringarosa nhìn cái cặp số đầy ắp hối phiếu và ngay lập tức ngoảnh
đi, lòng chỉ cảm thấy xấu hổ. "Vâng… cám ơn ông".
Ông dừng lại một chút trong khi các ngón tay sờ lần các đường may
của khăn trải giường, rồi nói tiếp. "Đại uý, tôi đã suy nghĩ rất kĩ và tôi
cần xin ông một ân huệ".
"Tất nhiên".
Gia đình của những người ở Paris mà Silas…", ông dừng lại nén
xúc cảm. "Tôi hiểu không khoản tiền nào có thể đủ để bù đắp những mất mát
của họ, tuy nhiên, xin ông làm ơn chia các thứ trong chiếc cặp này cho họ… gia
đình của những người đã chết".
Đôi mắt đen của Fache nhìn Aringarosa hồi lâu: "Một cử chỉ đức
độ thưa Đức Cha. Tôi sẽ lo lỉệu để ước nguyện của cha được thực hiện".
Im lặng nặng nề giữa hai người.
Trên tivi, một sĩ quan cảnh sát Pháp gày mảnh đang họp báo ngay
trước tòa nhà dài rộng. Fache nhận ra anh ta và hướng sự chú ý lên màn hình.
"Trung uý Collet", một phóng viên đài BBC nói, giọng lên
án, "đêm qua, đại uý của các ông đã công khai khép hai người vô can vào
tội giết người. Liệu Robert Langdon và Sophie Neveu có đòi sở cảnh sát các ông
phải chịu trách nhiệm không? Liệu điều đó có làm Đại uý Fache mất việc
không?".
Nụ cười của trung uý Collet mệt mỏi nhưng điềm tĩnh: "Kinh
nghiệm của tôi cho rằng đại uý Bezu Fache hiếm khi phạm sai lầm. Tôi chưa nói
với Đại uý về chuyện này, nhưng vốn biết phương cách hành động của ông, tôi ngờ
rằng việc truy tìm công khai nhân viên Neveu và ông Langdon nằm trong mưu kế
của ông nhằm dụ tên giết người thật sự ra mặt".
Các phóng viên nhìn nhau ngạc nhiên.
Collet nói tiếp: "Liệu ông Langdon và nhân viên Neveu có tự
nguyện tham gia kế sách này hay không, tôi không rõ. Đại uý Fache có khuynh
hướng giữ kín những phương pháp sáng tạo của mình. Tất cả những gì tôi có thể
khẳng định vào thời điểm này là đại uý đã bắt được kẻ gây án, và cả ông Langdon
lẫn nhân viên Neveu đều vô tội và an toàn".
Fache nở nụ cười yếu ớt khi quay về phía Aringarosa: "Một
người tốt, cái anh chàng Collet đó".
Nhiều giây trôi qua. Cuối cùng, Fache vuốt trán, vuốt tóc ra sau,
nhìn xuống Aringarosa: "Thưa Đức Cha, trước khi tôi trở về Paris, có một
vấn đề cuối cùng tôi muốn bàn với cha: chuyến bay đột xuất của cha về London.
Cha đã đút lót cho viên phi công để thay đổi lịch trình. Làm như vậy, cha đã vi
phạm một số luật quốc tế, Aringarosa suy sụp: "Tôi đã tuyệt vọng".
"Phải. Giống như viên phi công khi anh ta bi người của tôi
thẩm ấn". Fache móc túi lấy ra một chiếc nhẫn bằng thạch anh tím gắn cây
gậy phép quen thuộc.
Anngarosa cảm thấy trào nước mắt khi nhận chiếc nhẫn và đeo nó trở
lại vào ngón tay. "Ông thật quá tốt". Ông chìa tay nắm chặt tay
Fache, "cám ơn".
Fache phẩy tay từ chối cử chỉ đó, tiến về phía cửa sổ và nhìn ra
thành phố, rõ ràng đang nghĩ tận đâu đâu. Khi quay lại, ông ta có một vẻ gì
phân vân: "Thưa Đức Cha, rồi đây cha sẽ đi đâu?".
Aringarosa cũng được hỏi một câu đúng như vậy khi ông rời Castel
Gandolfo đêm trước: "Tôi ngờ rằng con đường của tôi cũng không chắc chắn
như của ông".
"Vâng", Fache dừng lời, "tôi nghĩ tôi sẽ nghỉ hưu
sớm".
Aringarosa mỉm cười: "Một chút niềm tin cũng có thể làm nên
những điều kì diệu, đại uý ạ? Một chút niềm tin thôi".
Nhà thờ Rosslyn - thường được gọi là Cathedral of Codes -
Nhà thờ của những mật mã - cách Edinburgh, Scotland, bảy dặm về
phía nam, trên nền cũ của một ngôi đền Mithre cổ. Do các Hiệp sĩ Templar xây
vào năm 1446, nhà thờ được chạm khắc cả một loạt kỳ thú các biểu tượng từ những
truyền thống Do Thái, Cơ đốc, Ai Cập, Hội Tam Điểm và ngoại đạo.
Tọa độ địa lý của nhà thờ nằm chính xác trên kinh tuyến Bắc - Nam
chạy qua Glastonbury. Đường kinh tuyến Rose Line (Đường Hồng) là mốc truyền
thống đánh dấu đảo Avalon của vua Arthur và được coi là cột trụ trung tâm của
hình thiêng nước Anh. Chính chữ Rose Line thánh hóa này là xuất xứ của cái tên
Rosslyn - thoạt đầu viết là Roslin.
Những chóp tháp gồ ghề của Rosslyn vẫn đang đổ bóng dài trong chiều
khi Robert Langdon và Sophie Neveu lái chiếc xe thuê vào bãi đậu xe rậm cỏ ở
chân gò nơi nhà thờ toạ lạc.
Chuyến bay ngắn của họ từ London đến Edinburgh rất thoải mái, mặc
dù không ai ngủ được do nghĩ đến những gì đang chờ đợi ở phía trước. Nhìn lên
toà nhà ảm đạm in bóng trên nền trời đầy mây, Langdon cảm thấy mình như Alice
rơi cắm đầu xương hang thỏ. Đây hẳn là một giấc mơ. Tuy nhiên ông biết văn bản
bức thông điệp cuối cùng của Saunière không thể cụ thể hơn.
Chén Thánh chờ bên dưới Roslin cổ.
Langdon đã mường tượng sơ đồ Chén Thánh của Saunière sẽ là một biểu
đồ - một bản vẽ với chữ X đánh dấu - tuy nhiên, bức màn bí mật cuối cùng của Tu
viện Sion mới chỉ được vén lên theo cùng một cách Saunière đã dùng từ đầu. Thơ
mộc mạc. Bốn câu rành mạch chỉ đúng điểm này không còn ngờ gì nữa. Cộng với
việc chỉ đích danh Rosslyn, đoạn thơ còn nhắc tới vài đặc điểm kiến trúc nổi
tiếng của nhà thờ.
Mặc dù tiết lộ cuối cùng của Saunière thật rõ ràng, Langdon vẫn cảm
thấy dao động hơn là sáng tỏ. Với ông, nhà thờ Rosslyn dường như là một địa
điểm quá hiển nhiên. Trong nhiều thế kỉ, nhà thờ đá này đầy những lời xì xào về
sự hiện diện của Chén Thánh. Những lời xì xào đã trở nên ầm ĩ trong những thập
kỉ gần đây khi hệ thống rada xuyên đất phát hiện là bên dưới nhà thờ có một công
trình kiến trúc kỳ lạ - một hầm ngầm đồ sộ. Khoang hầm sâu này không những lớn
hơn nhà thờ bên trên nhiều, mà hình như còn kín bưng, không có cửa vào cũng
chẳng có lối ra. Các nhà khảo cổ kiến nghị cho nổ xuyên nền đá để vào được
khoang hầm bí hiểm, nhưng Tập đoàn Rosslyn dứt khoát cấm bất kì sự khai quật
nào tại nơi linh thiêng này. Tất nhiên, điều này chỉ càng làm bùng thêm ngọn
lửa suy đoán. Tập đoàn Rosslyn đang cố giấu điều gì?
Rosslyn đã trờ thành điểm hành hương cho những kẻ tìm kiếm sự bí
ẩn. Một số người khẳng định rằng họ bị hút tới đây bởi một từ trường rất mạnh
phát xuất một cách không thể giải thích nổi từ những tọa độ này, số khác lại
tuyên bố rằng họ đến khảo sát sườn đồi để tìm cho ra lối vào bị che giấu của
hầm ngầm, nhưng đa số thừa nhận họ đến đây đơn giản chỉ để lang thang trên vùng
đất này và hấp thụ vào lòng những truyền thuyết về Chén Thánh.
Mặc dù trước nay, Langdon chưa tửng tới Rosslyn, ông vẫn luôn cười
tủm khi nghe người ta mô tả nhà thờ này như là nơi hiện đặt Chén Thánh. Phải
thừa nhận, Rosslyn có thể đã từng là nơi đặt Chén Thánh, lâu lắm rồi… nhưng
chắc chắn nay không còn nữa. Quá nhiều sự chú ý đã dồn vào Rosslyn trong nhiều
thập kỉ qua, và sớm muộn, cũng sẽ có người tìm ra đường để đột nhập vào căn
hầm.
Những học giả chân chính về Chén Thánh nhất trí rằng Rosslyn là một
cái mồi nhử - một trong những ngõ cụt quanh co do Tu viện Sion bày đặt một cách
dầy thuyết phục. Tuy nhiên, tối nay, với viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion cùng
bài thơ chỉ thẳng đến nơi này, Langdon không còn cảm thấy quá tự mãn nữa. Một
câu hỏi phức tạp đã ám ảnh tâm trí ông cả ngày:
Tại sao Saunière lại phải tốn công sức đến như thế để chỉ dẫn chúng
ta đến một nơi rành rành như vậy?
Xem ra chỉ có một câu trả lời hợp lý duy nhất.
Có điều gì đó mà chúng ta vẫn chưa hiểu.
"Robert?", Sophie đang đứng ngoài xe, quay lại nhìn ông.
"Anh có định vào không?" Cô đang cầm hộp gỗ hồng mộc mà
đại uý Fache đã trả lại cho họ. Bên trong, cả hai hộp mật mã đã được lắp ráp
lại và nằm gọn như khi chúng được tìm thấy. Bài thơ viết trên giấy sậy papyrus
được cất an toàn tận trong lõi của nó - trừ lọ dấm đã bị vỡ.
Đi lên con đường dài rải sỏi, Langdon và Sophie qua bức tường nồi
tiếng phía tây của nhà thờ. Khách vãng lai cho rằng bức tường chòi ra khác
thường ấy là một phần của nhà thờ chưa được hoàn tất. Sự thực, Langdon nhớ lại,
nó còn gây tò mò hơn thế.
Bức tường phía Tây của ngôi đên thờ Solomon.
Các Hiệp sĩ Templar đã thiết kế nhà thờ Rosslyn như một bản sao
chính xác từ bản thiết kế kiến trúc ngôi đền Solomon ở Jerusalem - hoàn chỉnh
với một bức tường phía tây, một điện thờ hình chữ nhật hẹp, và một căn hầm ngầm
như nội điện, nơi chín Hiệp sĩ sơ khởi lần đầu đào lên được kho báu vô giá của
họ. Langdon phải thừa nhận là có một sự đối xứng kì lạ trong ý tưởng của các Hiệp
sĩ Templar khi xây dựng nơi lưu giữ mới của Chén Thánh để gợi lại nơi giấu Chén
Thánh ban đầu.
Lối vào nhà thờ Rosslyn khiêm nhường hơn Langdon nghĩ. Cánh cửa gỗ
nhỏ có hai bản lề sắt với tấm biển đơn sơ bằng gỗ sồi.
ROSLIN
Cách viết cổ này. Langdon giải thích cho Sophie, bắt nguồn từ kinh
tuyến Rose Line mà nhà thờ nằm trên đó; hay như các học giả về Chén Thánh muốn
tin như vậy, từ "Line of Rose" - dòng dõi của bà tổ Mary Magdalene.
Nhà thờ chắc sắp đóng cửa, và khi Langdon đẩy cửa, một luồng không
khí ấm áp toả ra, như thể ngôi nhà cổ đang trút một tiếng thở dài mệt mỏi cuối
một ngày dài. Cổng vòm của ngôi nhà chạm khắc đầy những hình ngũ diệp hoa.
Những bông hồng. Tử cung của nữ thần.
Bước vào cùng Sophie, Langdon phóng mắt qua khắp điện thờ nổi tiếng
và thấy được toàn cảnh. Mặc dù ông đã đọc nhiều bài mô tả công trình chạm đá
phức tạp một cách quyến rũ của Rosslyn, nhưng việc trực tiếp mục kích vẫn là
một cuộc hội ngộ choáng ngợp.
Thiên đường ký tượng học, một trong những đồng nghiệp của Langdon
đã gọi như vậy.
Mọi mặt phẳng của nhà thờ đều được chạm khắc các biểu tượng - hình
chữ thập của Thiên Chúa giáo, hình sao của đạo Do Thái, các dấu ấn của Hội Tam
điểm, chữ thập của các Hiệp sĩ Templar, sừng dê kết hoa quả, kim tự tháp, các
kí hiệu thiên văn, cây cối, rau quả, hình sao năm cánh và hoa hồng. Các Hiệp sĩ
Templar vốn là những thợ xây đá lão luyện, họ xây các nhà thờ Templar khắp châu
Âu, nhưng Rosslyn được xem là công trình trác tuyệt nhất về tình yêu và lòng
tôn kính của họ. Những người thợ xây lành nghề đã chạm khắc không sót một viên
đá nào. Rosslyn là một đền thờ cho tất cả các tín ngưỡng… cho tất cả truyền
thống… và, trên hết, cho thiên nhiên và nữ thần.
Hậu điện trống không trừ một nhúm du khách đang lắng nghe một chàng
trai hướng dẫn đợt tham quan cuối trong ngày.
Anh ta đang dẫn khách thành một hàng dọc theo một tuyến nổi tiếng
trên sàn - một con đường vô hình nối sáu điểm kiến trúc chủ yếu trong hậu điện.
Nhiều thế hệ du khách đã đi theo những đường thẳng này nối các điểm, và vô số những
dấu chân của họ đã khắc một biểu tượng khổng lồ trên sàn nhà.
Ngôi sao David, Langdon nghĩ. Không có sự trùng hợp ngẫu nhiên ờ
đây. Còn được gọi là Vương Ấn của Solomon, ngôi sao sáu cạnh này từng là biểu
tượng bí mật của các chiêm tinh gia và sau đó được các vị vua Do Thái chọn -
David và Solomon.
Người hướng dẫn nhìn thấy Langdon và Sophie bước vào, và mặc dù đã
đến giờ đóng của, anh vẫn mỉm cười hòa nhã và ra hiệu cho họ cứ xem thoải mái.
Langdon gật đầu cảm ơn và bắt đầu đi sâu hơn vào chính điện. Nhưng
Sophie vẫn đứng chôn chân ờ cửa ra vào, với một vẻ bối rối trên mặt.
"Chuyện gì vậy?" Langdon hỏi.
Sophie trân trân nhìn quanh nhả thờ: "Tôi nghĩ tôi đã từng đến
đây".
Langdon ngạc nhiên: "Nhưng cô nói cô thậm chí chưa từng nghe
nói đến Rosslyn".
"Đúng thế…". Cô lia mắt nhìn khắp chính điện, vẻ phân
vân. "Ông tôi hẳn đã đưa tôi đến đây khi tôi còn rất nhỏ. Tôi không biết
nữa. Tôi cảm thấy rất quen". Khi cô nhìn khắp lượt căn phòng, cô bắt đầu
gật gù với vẻ chắc chắn hơn: "Đúng". Cô chỉ ra phía trước chính điện.
"Hai cái cột này…Tôi đã nhìn thấy chúng".
Langdon nhìn bộ đôi cột chạm trổ phức tạp ở đầu kia điện thờ. Những
hình chạm màu trắng chằng chịt trên đó như âm ỉ một ánh rực hồng khi những tia
nắng cuối ngày tràn qua cửa sổ phía Tây. Đặt ở chỗ mà theo thông lệ lẽ ra là
bàn thờ, hai cây cột này hình thành một cặp kì lạ. Cột bên trái được chạm khắc
với đường nét đơn giản, thẳng đứng, trong khi cột bên phải được trang trí cầu
kỳ hoa mỹ bằng những đường xoáy trôn ốc.
Sophie đi về phía chúng. Langdon vội vã theo sau, và khi họ tới chỗ
hai cột, Sophie gật đầu như thể không tin nổi: "Đúng, tôi chắc chắn là tôi
đã từng thấy chúng?".
"Tôi không nghi ngờ việc cô đã từng thấy chúng", Langdon
nói, "nhưng không nhất thiết là ở chính chỗ này".
Cô quay lại: "Anh nói vậy nghĩa là thế nào?".
"Hai cột này là những cấu kiện kiến trúc được sao chép nhiều
nhất trong lịch sử. Các bản sao này có ở khắp nơi trên thế giới".
"Bản sao của Rosslyn?". Cô có vẻ hoài nghi.
"Không, của hai cột thôi. Cô có nhớ lúc trước tôi đã nói bản
thân Rosslyn là một bản sao của ngôi đền Solomon không? Hai cột đó là bản sao
chuẩn xác của hai cột ở đầu ngôi đền Solomon". Langdon chỉ vào cột bên
trái. "Cái này gọi là Boaz hay còn gọi Cột Thợ Xây. Cái kia là Jachin -
hay Cột Học Việc". Ông dừng lại một lát. "Trên thực tế, hầu như tất
cả các ngôi đền Hội Tam điểm trên thế giới đều có hai cột như thế này".
Langdon đã giảng cho Sophie về những ràng buộc lịch sử bền vững
giữa các Hiệp sĩ Templar với các hội kín hiện đại thuộc Hội Tam Điểm, mà các
thứ bậc chủ yếu - Học Việc, Thợ Chính và Thợ Cả (1) - của các hội đó có nguồn
gốc từ thuở ban đầu các Hiệp sĩ Templar. Bài thơ cuối của Saunière quy chiếu
trực tiếp về những Thợ Cả đã trang hoàng cho Rosslyn bằng những lễ vật dưới
dạng chạm khắc nghệ thuật của họ. Cũng đáng chú ý là trần nhà trung tâm của
Rosslyn, được chạm đầy những hình sao và hành tinh".
"Tôi chưa từng vào ngôi đền nào của Hội Tam Điểm", Sophie
nói, vẫn nhìn các cột. "Tôi gần như dám chắc rằng tôi đã nhìn thấy chúng ở
đây". Cô quay lại nhìn vào nhà thờ, như để tìm một cái gì khác nhằm kích
thích trí nhớ.
Số khách tham quan còn lại giờ đang ra về, và người hướng dẫn viên
băng qua nhà thờ tới chỗ họ với một nụ cười lịch thiệp. Anh ta là một thanh
niên đẹp trai khoảng gần ba mươi, với giọng Scotland và mái tóc vàng nhạt:
"Tôi sắp đóng cửa.
Liệu tôi có thể giúp các vị tìm gì chăng?".
Muốn tìm Chén Thánh thì sao? Langdon định nói.
"Mật mã". Sophie bật ra, trong một lóe sáng đột ngột,
"Ở đây có một mật mã!".
Người hướng dẫn viên có vẻ hài lòng với sự hăm hở của cô.
"Vâng, có đấy, thưa bà".
"Nó ở trên trần nhà", cô nói, quay sang bức tường phía
tay phải, "chỗ nào đó… ở kia".
Anh ta mỉm cười: "Tôi thấy đây không phải lần đầu bà đến
Rosslyn".
Mật mã, Langdon nghĩ. Ông đã quên bẵng cái chi tiết nhỏ này trong
truyền thuyết. Trong số nhiều bí ẩn của Rosslyn, có một cổng vòm từ đó hàng
trăm phiến đá nhô ra, tạo thành một bề mặt nhiều khía cạnh kì lạ. Mỗi phiến đá
được chạm một kí hiệu, có vẻ như tuỳ tiện, tạo ra một mật mã không thể hiểu
được. Một số người tin rằng mật mã tiết lộ lối vào khoang hầm phía dưới nhà
thờ. Những người khác tin rằng nó cho biết câu chuyên thực về Chén Thánh. Đó
không phải là vấn đề - các chuyên gia giải mật mã đã cố gắng hàng thế kỉ nay để
giải mã ý nghĩa của nó. Cho đến nay, Tập đoàn Rosslyn đã treo giải thưởng hào
phóng cho ai có thể khám phá ra ý nghĩa bí hiểm, nhưng mật mã vẫn còn là một bí
ẩn.
"Tôi rất vui được chỉ cho…".
Giọng người hướng dẫn viên kéo dài.
***
Mật mã đầu tiên của mình, Sophie nghĩ, bước đi như trong cơn hôn mê
về phía cổng vòm đầy mật mã. Chiếc hộp hồng mộc đã giao cho Langdon, cô cảm
thấy có thể tạm thời quên hết về Chén Thánh, Tu viện Sion cùng tất cả những bí
ẩn của ngày vừa qua. Khi cô đến phía dưới trần nhà có khắc mật mã và thấy những
biểu tượng trên đầu, ký ức tràn về như dòng lũ. Cô nhớ lại lần đầu tiên đến
thăm nơi này, và lạ thay, hồi ức đó gợi lên một nỗi buồn bất ngờ.
Dạo ấy cô còn bé… khoảng một năm gì đó sau cái chết của gia đình
cô. Ông cô đã đưa cô đến Scotland trong một kì nghỉ ngắn ngày. Họ đã đến thăm
nhà thờ Rosslyn trước khi trở lại Paris. Lúc đó vào cuối chiều và nhà thờ đã
đóng cửa. Nhưng họ vẫn còn ở trong.
"Chúng ta về nhà được không, grand-pere?"(2), Sophie nài
nỉ, cảm thấy mệt mỏi.
"Nhanh thôi, cháu yêu, rất nhanh mà", giọng ông buồn
buồn. "Ông có một việc cuối cùng cần làm ở đây. Cháu chờ trong xe được
không?".
"Ông lại làm một việc người lớn nữa à?".
Ông gật đầu: "Ông sẽ làm thật nhanh. Ông hứa đấy".
"Cháu có thể giải mã ở cổng vòm lần nữa được không? Nó thú vị
lắm".
"Ông không biết. Ông phải ra ngoài. Cháu sẽ không sợ ở trong
này một mình chứ?".
"Tất nhiên là không rồi!" Cô nói với giọng gắt gỏng.
"Ở trong này thậm chí còn chưa tối mà!".
Ông cười: "Vậy thì tốt rồi". Ông dẫn cô tới cổng vòm được
trang trí công phu mà ông đã chỉ cho cô trước đó.
Sophie ngay lập tức ngồi phịch xuống sàn đá, nằm ngửa ra và chăm
chú nhìn những mảnh chắp trên đầu: "Cháu sẽ giải được mật mã này trước khi
ông trở lại!".
"Vậy hai ông cháu mình thi đua nhé". Ông cúi xuống, hôn
lên trán cô, và tiến về cánh cửa ngách gần đó. "Ông sẽ ở ngay ngoài thôi.
Ông sẽ để cửa mở. Nếu cháu cần, chỉ việc gọi". Ông bước ra khoảng ánh
chiều êm dịu.
Sophie nằm đó trên sàn, chăm chú nhìn mật mã. Đôi mắt cô díu lại vì
buồn ngủ. Sau vài phút, các biểu tượng mờ dần. Rồi biến mất tăm.
Khi Sophie tỉnh dậy, sàn nhà lạnh cóng.
"Grand-père?"
Không có tiếng trả lời. Đứng dậy, cô phủi bụi. Cửa ngách vẫn mở.
Trời đang tối sẫm hơn. Cô bước ra ngoài và có thể thấy ông đang đứng ở cổng của
một ngôi nhà đá gần đó ngay sau nhà thờ. Ông cô đang nói chuyện khe khẽ với một
người chỉ thấy mờ mờ sau cánh cửa che mành.
"Grand-père!" Cô gọi.
Ông cô quay lại và vẫy tay, ra hiệu cho cô chờ tí chút nữa.
Rồi, chậm rãi, ông nói mấy lời cuối với người phía trong và hôn gió
về phía cánh cửa che mành. Ông quay về chỗ cô, mắt đẫm lệ.
"Sao ông lại khóc, Grand-père?".
Ông bế cô lên và ôm chặt: "Ôi, Sophie, năm nay ông cháu mình
phải từ biệt biết bao người. Thật khó khăn".
Sophie nghĩ đến vụ tai nạn, đến việc phải mãi mãi lìa xa cha mẹ, bà
và em trai mình. "Ông vừa từ biệt một người nữa ạ?".
"Với một người bạn thân thiết mà ông rất yêu quý!" Ông
trả lời, giọng nặng tnu cảm xúc, "và ông sợ ông sẽ không gặp lại bà ấy
trong thời gian dài nữa".
***
Đứng bên người hướng dẫn viên, Langdon rà soát toàn bộ các bức
tường của nhà thờ và cảm thấy mỗi lúc một thêm cảnh giác với một ngõ cụt có thể
lù lù trước mặt. Sophie lang thang nhìn các mật mã và để Langdon giữ cái hộp gỗ
hồng mộc, chứa cái bản đồ Chén Thánh giờ đây dường như vô dụng. Mặc dù bài thơ
của Saunière chỉ rõ Rosslyn, Langdon vẫn không chắc bây giờ phải làm gì khi mà
họ đã tới đúng chỗ. Bài thơ nhắc đến một "lưỡi dao và chiếc ly" mà
Langdon chẳng thấy ở đâu cả.
Chén Thánh chờ bên dưới Roslin cổ.
Lưỡi dao và chiếc ly canh các cửa vào.
Một lần nữa, Langdon cảm thấy một khía cạnh nào đó của điều bí ẩn
này vẫn chưa hé lộ.
"Tôi ghét dính mũi vào việc của người khác", hướng dẫn
viên nói, mắt nhìn vào chiếc hộp gỗ hồng mộc trong tay Langdon, "nhưng
chiếc hộp này… liệu tôi có thể hỏi ông lấy nó ở đâu được không?".
Langdon nở một nụ cười mệt mỏi: "Đó là một câu chuyện dài khác
thường ".
Chàng trai trẻ ngập ngừng, mắt lại dán vào chiếc hộp.
"Quả là điều kì lạ hết sức - bà tôi có một cái hộp giống hệt
thế này - một hộp nữ trang. Gỗ hồng mộc nhẵn bóng y chang, cũng khảm một bông
hồng y chang, thậm chí các bản lề cũng y chang".
Langdon biết chàng trai này chắc hẳn đã nhầm lẫn. Nếu có chiếc hộp
nào thuộc loại độc bản, thì chỉ có thể là cái này - chiếc hộp làm riêng theo
yêu cầu cho viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion. "Hai chiếc hộp có thể giống
nhau nhưng…".
Cánh cửa ngách sập mạnh, khiến cả hai quay nhìn về phía đó. Sophie
lúc nãy đã ra ngoài không nói một lời và giờ đây đang tha thẩn đi xuống con dốc
về phía một ngôi nhà đá gần đó Langdon nhìn theo cô. Cô ấy định đi đâu nhỉ? Cô
đã hành động rất lạ từ khi họ bước vào toà nhà. Ông quay sang người hướng dẫn
viên: "Cậu biết đó là nhà gì chứ"?
Anh ta gật đầu, cũng bối rối khi thấy Sophie đi xuống đó: "Đó
là nhà của người cai quản nhà thờ. Bà phụ trách sống ở đó. Bà ấy đồng thời là
người đứng đầu Tập đoàn Rosslyn". Anh ngập ngừng một lát. "Và là bà
tôi".
"Bà cậu đứng đầu Tập đoàn Rosslyn?".
Chàng trai gật đầu: "Tôi sống với bà trong nhà đó và giúp vào
việc trông nom nhà thờ và hướng dẫn du lịch". Anh ta nhún vai. "Tôi
đã sống cả đời ở đây. Bà tôi đã nuôi dạy tôi trong căn nhà đó".
Lo lắng cho Sophie, Langdon đi về phía cửa để gọi cô. Đi được nửa
chừng, ông chợt dừng lại. Lúc này, ông mới kịp ghi nhận một điều gì đó trong
những lời của chàng trai trẻ.
Bà tôi đã nuôi dạy tôi.
Langdon nhìn Sophie trên con dốc; rồi nhìn xuống chiếc hộp gỗ hồng
mộc trong tay mình. Không thể. Chậm rãi, Langdon quay lại phía chàng trai.
"Cậu nói bà cậu có một chiếc hộp như thế này?".
"Giống hệt".
"Bà ấy lấy nó ở đâu?"
"Ông tôi làm nó cho bà. Ông mất khi tôi còn bé, nhưng bà tôi
vẫn nói về ông. Bà nói ông là một thiên tài với đôi tay của mình. Ông làm được
đủ thứ".
Langdon thoáng thấy hiện ra một mạng các quan hệ dây mơ rễ má nhằng
nhịt không thể tưởng tượng nổi: "Cậu nói bà cậu đã nuôi dạy cậu. Cậu có
phiền nếu tôi hỏi chuyện gì đã xảy ra với cha mẹ cậu?".
Chàng trai có vẻ ngạc nhiên: "Họ mất từ khi tôi còn nhỏ".
Anh ngừng một lát. "Cùng ngày với ông tôi".
Tim Langdon đập thình thình: "Trong một tai nạn ô tô?".
Người hướng dẫn viên lùi lại, vẻ hoang mang lộ rõ trong đôi mắt
xanh màu ô liu.
"Đúng. Trong một tai nạn ô tô. Cả gia đình tôi mất trong ngày
đó. Tôi đã mất ông, bố mẹ và…". Anh ngừng lại, nhìn xuống sàn.
"Và chị gái cậu", Langdon nói.
Bên ngoài, trên con đường dốc, ngôi nhà đá đúng hệt như trong trí
nhớ Sophie. Đêm đang xuống, ngôi nhà toả ra một thứ hào quang ấm và mời gọi.
Mùi bánh mì phả ra qua cánh cửa che mành để ngỏ và một ánh sáng vàng rực lung
linh nơi cửa sổ. Khi Sophie lại gần, cô có thể nghe thấy những tiếng thổn thức
từ bên trong.
Qua cánh cửa che mành, Sophie nhìn thấy một bà già trong nhà. Bà
quay lưng ra cửa, nhưng Sophie có thể thấy bà đang khóc. Người phụ nữ có mái
tóc dài, dày, bạc trắng gợi một chút hồi ức bất ngờ. Cảm thấy bị lôi cuốn tới
gần hơn, Sophie bước lên những bậc thềm. Người phụ nữ đang giữ chặt khung ảnh
của một người đàn ông và đưa ngón tay rờ khuôn mặt ông với một nỗi buồn âu yếm.
Sophie biết rõ khuôn mặt đó.
Grand-père.
Hiển nhiên là bà đã nghe tin ông chết đêm qua.
Một ván sàn kêu cót két dưới chân Sophie, và người phụ nữ chậm chạp
quay lại, mắt bà bắt gặp mắt Sophie. Sophie muốn bỏ chạy, nhưng cô đứng như
chôn chân. Cái nhìn nồng cháy của người phụ nữ không hề dao động khi bà đặt tấm
ảnh xuống và tiến lại gần cửa. Dường như cả một thiên thu trôi qua trong khi
hai người phụ nữ nhìn nhau qua tấm lưới mỏng. Rồi, giống như sự gom tụ dần của
một cơn sóng đại dương, mặt người phụ nữ chuyển từ phân vân… đến không tin… đến
hy vọng…và cuối cùng, thành vui sướng tột cùng.
Qua cánh cửa mở, bà bước ra, vươn đôi bàn tay mềm mại, ấp lấy khuôn
mặt còn sững sờ của Sophie: "Ôi, cháu yêu… nhìn cháu này!".
Mặc dù Sophie không nhận ra bà, nhưng cô biết người phụ nữ này là
ai. Cô ráng nói nhưng thấy là thậm chí cô không thở được.
"Sophie" người phụ nữ nức nở, hôn lên trán cô.
Những lời của Sophie là những tiếng thì thầm tắc nghẹn.
"Nhưng… Grand-père nói bà đã…".
"Ta biết". Người phụ nữ đặt nhẹ tay lên vai Sophie và
nhìn cô với đôi mắt thân thuộc. "Ông con và ta buộc phải nói biết bao điều
như vậy. Chúng ta làm những gì chúng ta nghĩ là đúng. Ta xin lỗi. Đó chỉ vì sự
an toàn của con, công chúa ạ".
Sophie nghe thấy từ cuối của bà, và lập tức nghĩ đến ông cô, người
đã gọi cô là công chúa trong nhiều năm. Giọng ông giờ đây như âm vang trong
những tường đá cổ của Rosslyn, qua lòng đất và dội lại trong những hốc chưa ai
biết đến bên dưới.
Người phụ nữ quàng tay ôm lấy Sophie, nước mắt trào ra nhanh hơn:
"Ông con rất muốn kể cho con tất cả. Nhưng sự thể quá khó giữa hai ông
cháu. Ông đã hết sức cố gắng. Có quá nhiều điều cần giải thích. Quá nhiều
điều". Bà hôn lên trán Sophie lần nữa, rồi thì thầm vào tai cô.
"Không còn bí mật nào nữa, công chúa ạ. Đã đến lúc để con biết sự thật về
gia đình chúng ta".
Hai bà cháu Sophie đang ngồi ôm nhau, nước mắt giàn giụa, trên bậc
thềm thì chàng trai hướng dẫn viên lao qua bãi cỏ, mắt long lanh hy vọng pha
lẫn không tin.
"Sophie?".
Qua làn nước mắt, Sophie gật đầu và đứng lên. Cô không biết mặt
chàng trai, nhưng khi họ ôm nhau, cô có thể cảm nhận được sức mạnh của huyết
thống chảy trong huyết quản… họ có cùng dòng máu.
Khi Langdon băng qua bãi cỏ để nhập bọn với họ, Sophie không thể
tưởng tượng được chỉ mởi hôm qua cô còn cảm thấy thật cô đơn trên đời, thế mà
giờ đây, cách nào đó, ở nơi xa lạ này, bên cạnh ba con người cô mới chỉ biết sơ
sơ, cô bỗng cảm thấy, cuối cùng, mình đã trở về nhà.
Chú thích:
(1) Mason, Hội Tam Điểm, có nghĩa là thợ xây, vì vậy các ngôi thứ
trong nội bộ được đặt tên như vậy.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: ông (nội hoặc ngoại).
--------------------------------------------------------------------------------
Chương 105(Hết)Đêm đã buông xuống Rosslyn.
Robert Langdon đứng một mình ngoài hiên ngôi nhà, thích thú nghe
tiếng cười cùng những thanh âm của niềm vui đoàn tụ vẳng qua khung cửa che rèm
đằng sau ông. Cốc cà phê Brazil đặc sánh trong tay đã khiến ông mơ hồ cảm thấy
như tạm thời nguôi đi cơn mệt lử đang dâng lên trong mình, tuy nhiên ông biết
đó chỉ là thoáng qua thôi. Sự mệt nhọc trong cơ thể ông đã ăn vào xương tủy
rồi.
"Ông lẻn ra ngoài thật lặng lẽ", một giọng nói vang lên
phía sau ông.
Langdon quay lại. Người bà của Sophie hiện ra, mái tóc bạc ánh lên
mờ mờ trong đêm. Tên bà, chí ít trong hai mươi tám năm qua, là Marie Chauvel.
Langdon nớ một nụ cười mệt mỏi: "Tôi nghĩ tôi nên để gia đình
ta có thời gian sum vầy một chút". Qua khung cửa sổ, ông có thể thấy
Sophie đang nói chuyện với em trai.
Marie tiến lại và đứng cạnh ông: "Ông Langdon, khi mới thoạt
nghe tin Jacques bị giết hại, tôi đã khiếp đảm, sợ cho sự an toàn của Sophie.
Tối nay, thấy nó đứng trong khung cửa nhà tôi đó là nỗi nguôi dịu lớn nhất của
đời tôi. Tôi khó có thể bày tỏ hết lòng biết ơn đối với ông".
Langdon không biết phải đáp lại như thế nào. Mặc dù ông đã tự
nguyện để cho hai bà cháu có thời gian trò chuyện riêng, Marie đã đề nghị ông ở
lại cùng nghe. Chồng tôi rõ ràng đã tin cậy ông, ông Langdon, cho nên tôi cũng
thế.
Và vì thế Langdon đã ở lại, đứng bên cạnh Sophie và lắng nghe trong
bàng hoàng câm lặng khi Marie kể chuyện về cha mẹ quá cố của Sophie. Kì lạ
thay, cả hai đều xuất thân từ những gia đình Merovinge - hậu duệ trực hệ của
Mary Magdalene và Jesus Christ. Cha mẹ và tổ tiên của Sophie, để tự bảo vệ, đã
dổi họ là Plantard và Saint-Clair. Con cái họ hiện tại là những người trực hệ
mang dòng máu hoàng gia còn sống sót và vì vậy được Tu viện Sion bảo vệ sát
xao. Khi bố mẹ Sophie bị giết trong một tai nạn ô tô không xác định được nguyên
nhân, Tu viện Sion sợ rằng nhân thân của dòng dõi hoàng gia đã bị phát hiện.
"Ông cháu và bà", Marie giải thích bằng một giọng nghẹn
ngào đau đớn, "phải có một quyết định nghiêm trọng ngay lúc nhận được cú
điện thoại. Chiếc xe của bố mẹ cháu vừa được tìm thấy dưới sông". Bà chấm
nước mắt. "Cả sáu chúng ta - gồm cả hai cháu - đã định đi cùng nhau trên
chiếc xe đêm đó.
May sao, ông bà đã thay đối kế hoạch vào phút chót, thành thử chỉ
còn mình cha mẹ cháu. Khi nghe tin về tai nạn đó, ông bà chẳng có cách nào để
biết được điều gì đã thực sự xảy ra… liệu đây có phải là một tai nạn thực sự
hay không". Marie nhìn Sophie. "Ông bà biết là phải bảo vệ các cháu
và ông bà đã làm điều mà ông bà cho là tốt nhất. Ông cháu báo cáo với cảnh sát
là bà và em trai cháu cũng ở trong chiếc xe đó… và có vẻ như thi thể của hai bà
cháu đã bị dòng nước cuốn đi. Sau đó, hai bà cháu phải lặn vào bí mật với Tu
viện. Ông cháu, vốn là một nhân vật nổi bật, chẳng thể lặng lẽ biến đi. Chỉ có
chuyện đứa con lớn Sophie ở lại Paris để Jacques nuôi dạy, gần kề trái tim và
sự bảo vệ của Tu viện Sion, là nghe có lý". Giọng bà nhỏ dần thành một
tiếng thì thầm: "Xé lẻ gia đình là điều cực nhất mà chúng ta từng phải
làm. Ông bà họa hoằn lắm mới gặp nhau, mà bao giờ cũng phải bố trí hết sức bí
mật… dưới sự bảo vệ của Tu viện Sion. Có một số nghi lễ mà hội luôn luôn phải
tuân thủ".
Langdon cảm thấy câu chuyện còn đi sâu hơn nữa, nhưng ông cũng cảm
thấy mình không có phận sự phải nghe. Vì thế ông đã bước ra ngoài. Giờ đây nhìn
lên những ngọn tháp của Rosslyn, Langdon không sao thoát khỏi nỗi nhay nhứt
khoan sâu của điều bí ẩn chưa giải được của Rosslyn. Có phải Chén Thánh thực sự
ở Rosslyn không? Và nếu vậy, thì lưỡi dao và chiếc ly mà Saunière đề cập đến
trong bài thơ của ông nằm ở đâu?
"Ông đưa cho tôi", Marie nói, chỉ vào bàn tay Langdon.
"Ôi cảm ơn bà", Langdon đưa ly cà phê đã hết cho bà cụ.
Bà đăm đăm nhìn ông: "Tôi chỉ bàn tay kia cơ, ông
Langdon".
Langdon nhìn xuống và nhận ra mình đang giữ tờ giấy sậy papyrus của
Saunière. Ông đã lấy nó ra một lần nữa từ hộp mật mã với hy vọng thấy ra điều
gì đó đã bị bỏ qua trước đây. "Dĩ nhiên rồi, tôi xin lỗi".
Marie có vẻ thích thú khi cầm tờ giấy: "Tôi biết một người
trong một nhà băng ở Paris có lẽ rất thiết tha muốn thấy sự trở lại của chiếc
hộp gỗ hồng mộc này. André Vernet là một người bạn thân của Jacques, còn
Jacques rõ ràng là tin ông ta thực lòng. André ắt sẽ làm bất cứ điều gì để thực
hiện những yêu cầu của Jacques về việc giữ gìn chiếc hộp này".
Kể cả vệc bắn tôi, Langdon nhớ lại, quyết định không nhắc đến
chuyện ông có thể đã đập vỡ mũi ông già tội nghiệp đó.
Nghĩ về Paris, Langdon sực nhớ đến ba ssénéchal bị giết đêm hôm
trước. "Còn Tu viện Sion? Giờ đây ra sao rồi?".
"Các bánh xe đã chuyển động, ông Langdon ạ. Hội kín này đã
chịu đựng suốt bao thế kỷ, và sẽ chịu đựng được đòn này.
Bao giờ cũng có những người chờ đợi để tiến lên xây dựng lại".
Suốt tối Langdon đã ngờ ngợ rằng bà của Sophie gắn bó chặt chẽ với
những hoạt động của Tu viện Sion. Xét cho cùng, Tu viện Sion luôn có những
thành viên nữ. Đã có bốn Đại Sư là phụ nữ. Theo truyền thống, các ssénéchal là
nam - những người bảo vệ - tuy nhiên phụ nữ cũng nắm giữ những cương vị tôn quý
hơn nhiều trong Tu viện Sion và hầu như có thể từ bất kỳ thứ bậc nào tiến lên
tới địa vị cao nhất.
Langdon nghĩ với Leigh Teabing và Tu viện Wesminster.
Dường như đã cách đây cả một đời người vậy. "Có phải Giáo hội
đang gây áp lực để chồng bà không công bố những tài liệu Sangreal vào Ngày Tận
thế không?".
"Chúa ơi, không. Ngày Tận thế là một truyền thuyết của những
đầu óc hoang tưởng. Trong học thuyết của Tu viện Sion, chẳng có gì chỉ định đến
ngày nào Chén Thánh sẽ được tiết lộ.
Thực ra Tu viện Sion luôn luôn bảo đảm rằng Chén Thánh sẽ không bao
giờ được tiết lộ cả".
"Không bao giờ ư?" Langdon sửng sốt.
"Đó là điều bí ẩn và kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn chúng tôi, chứ
không phải bản thân Chén Thánh. Vẻ đẹp của Chén Thánh nằm trong bản chất cao cả
của nó". Marie Chauvel nhìn lên Rosslyn. "Đối với một số người, Chén
Thánh là một cái ly mang đến cho họ một cuộc sống vĩnh cửu. Đối với một số
khác, đó là cuộc tìm kiếm những tài liệu thất lạc và lịch sử bí mật. Còn đối
với đa số, tôi ngờ rằng Chén Thánh chỉ đơn giản là một ý tưởng cao cả… một kho
báu huy hoàng không thể đạt tới mà, ngay cả trong thế giới hỗn mang ngày nay,
cách nào đó, nó vẫn làm chúng ta nức lòng".
"Nhưng nếu tài liệu Sangreal vẫn bị giấu kín, thì câu chuyện
của Mary Magdalene sẽ mãi mãi mất đi", Langdon nói.
"Thật không? Hãy nhìn xung quanh ông xem! Câu chuyện của nàng
đang được kể trong nghệ thuật, âm nhạc, và những cuốn sách. Mỗi ngày một nhiều
hơn. Quả lắc vẫn đang đung đưa. Chúng ta đang bắt đầu cảm thấy những mối nguy
hiểm của lịch sử của chúng ta… và của những con đường hủy diệt của chúng ta.
Chúng ta đang bắt đầu cảm thấy cần thiết phải khôi phục lại nữ tính thiêng
liêng". Bà dừng lại. "Ông có nói là ông đang viết một bản thảo về những
biểu tượng của tính nữ thiêng liêng, phải không?".
"Vâng".
Bà mỉm cười: "Viết nốt đi, ông Langdon. Hãy hát bài hát của
nàng. Thế giới cần những người hát rong hiện đại đấy".
Langdon im lặng, cảm nhận được sức nặng của bức thông điệp của bà
đối với mình. Qua những khoảng không rộng mở, một vầng trăng tròn đầy đang lên
trên những rặng cây. Quay mắt về phía Rosslyn, Langdon cảm thấy một nỗi khao
khát trẻ thơ muốn biết những bí mật của nhà thờ này. Dừng hỏi, ông tự nhủ. Đây
không phải lúc. Ông liếc nhìn tờ giấy papyrus trong tay Marie, rồi lại nhìn
Rosslyn.
"Cứ hỏi đi, ông Langdon". Marie nóỉ vẻ vui thích.
"Ông có quyền chính đáng mà".
Langdon cảm thấy mình đỏ mặt.
"Ông muốn biết liệu Chén Thánh có ở Rosslyn không chứ
gì?".
"Bà có thể nói cho tôi biết không?".
Bà thở dài, giả vờ bực tức: "Tại sao con người ta không thế
đơn giản để cho Chén Thánh nghỉ ngơi nhỉ?". Bà cười to, rõ ràng rất thích
thú. "Tại sao ông lại nghĩ nó ở đây nhỉ?".
Langdon chỉ vào tờ giấy papyrus trong tay bà: "Bài thơ của
chồng bà nói rõ ràng cụ thể về Rosslyn, ngoài ra còn nhắc đến một lưỡi dao và
chiếc ly canh chừng cho Chén Thánh. Tôi chẳng thấy biểu tượng nào của lưỡi dao
và chiếc ly ở đó cả".
"Lưỡi dao và chiếc ly?" Marie hỏi. "Chính xác ra,
nom chúng như thế nào?" Langdon cảm thấy bà cụ đang đùa giỡn với mình,
nhưng ông cũng hùa theo, mô tả qua loa những biểu tượng đó.
Vẻ hồi tưởng mơ hồ thoáng qua nét mặt bà: "À, vâng, dĩ nhiên
rồi. Lưỡi dao biểu trưng cho tất cả những gì thuộc về đàn ông. Tôi tin nó được
vẽ như thế này, đúng không?". Dùng ngón trỏ, bà phác một hình trên lòng
bàn tay mình.
"Vâng!" Langdon nói. Marie đã vẽ hình dạng
"dóng" ít thông dụng hơn của lưỡi dao, mặc dù Langdon từng thấy biểu
tượng này được vẽ theo cả hai cách.
"Còn dạng đảo ngược", bà nói, lại vẽ vào lòng bàn tay,
"chính là chiếc ly, biểu tượng cho tính nữ".
"Đúng", Langdon nói.
Và ông nói rằng trong tất cả hàng trăm biểu tượng chúng ta thấy ở
đây trong nhà thờ nhỏ Rosslyn, thì hai hình này chẳng xuất hiện ở đâu ư?".
"Tôi chưa thấy chúng".
"Và nếu tôi chỉ ra cho ông thấy, thì ông có chịu ngủ một chút
không?".
Trước khi Langdon kịp trả lời, Marie Chauvel đã bước ra khỏi cổng
và hướng về phía nhà thờ nhỏ. Langdon vội vã đi theo bà. Bước vào tòa nhà cổ,
Marie bật đèn và chỉ vào trung tâm của sàn chính điện. "Đây, thưa ông
Langdon. Lưỡi dao và chiếc ly".
Langdon trân trân nhìn sàn bằng đá mòn vẹt vì bao dấu chân. Trống
trơn. "Chẳng có gì ở đây cả".
Marie thở dài và bắt đầu bước theo vệt lối đi nổi tiếng đã mòn theo
dấu chân trên sàn nhà thờ, vẫn cái lối đi mà hồi chiều Langdon đã thấy các
khách tham quan bước trên đó. Khi mắt ông đã điều chỉnh thích hợp để thấy được
cái biểu tượng khổng lồ đó rồi, ông vẫn cảm thấy hoang mang: "Nhưng đó là
ngôi sao David…".
Langdon dừng bặt, câm lặng vì ngỡ ngàng khi chợt nhận ra.
Lưỡi dao và chiếc ly.
Quyện làm một.
Ngôi sao David… sự kết hợp hoàn hảo hoàn hảo của nam và nữ… Con dấu
của Solomon… đánh dấu Hậu Điện, nơi được coi là chỗ ở của thần nam và thần nữ -
Yahweh và Shekinah.
Langdon cần một phút để thốt nên lời: "Quả là đoạn thơ chỉ tới
đây, Rosslyn. Thật hoàn chỉnh, hoàn hảo!".
Marie mỉm cười: "Hiển nhiên rồi".
Hàm ý của bà khiến ông rùng mình: "Vậy Chén Thánh ở trong hầm
bên dưới chúng ta?".
Bà cụ cười to: "Chỉ trong tinh thần thôi, một trong những nhiệm
vụ cổ xưa nhất của Tu viện Sion là một ngày nào đó phải đưa Chén Thánh trở về
quê hương nơi đất Pháp của nó, nơi nó có thể an nghỉ vĩnh hằng. Qua hàng thế
kỷ, nó bị tha đi khắp chốn cùng quê để bảo đảm an toàn. Thật bệ rạc. Trách
nhiệm của Jacques khi trở thành Đại Sư là khôi phục lại danh dự cho Chén Thánh
bằng việc đưa nó trở lại Pháp và xây cho nó một nơi yên nghỉ phù hợp với một nữ
hoàng".
"Và ông ấy đã thành công?".
Lúc này, nét mặt bà trở nên nghiêm trang: "Ông Langdon, nể
tình những gì ông đã làm cho tôi tối nay, và với tư cách là người phụ trách Tập
đoàn Rosslyn, tôi có thể nói với ông một cách chắc chắn rằng Chén Thánh không
còn ở đây nữa".
Langdon quyết định gặng thêm: "Nhưng chức năng cúa viên đá
đỉnh vòm là chỉ ra nơi ẩn giấu hiện tại của Chén Thánh cơ mà. Tại sao nó lại
chỉ tới Rosslyn?".
"Có thể ông đang đọc sai nghĩa của nó. Nên nhớ rằng Chén Thánh
có thể làm người ta lầm lẫn. Như là chồng tôi đã nhầm".
"Nhưng ông ấy còn có thể rõ ràng cụ thể hơn đến đâu
nữa?".
Langdon hỏi. "Chúng ta đang đứng bên trên một hầm ngầm được
đánh dấu bởi lưỡi dao và cái ly, dưới một trần nhà đầy sao, bao quanh bởi nghệ
thuật của những Thợ Cả của Hội Tam điểm. Tất thảy đều nói về Rosslyn".
"Thôi được, để tôi xem đoạn thơ huyền bí này đã". Bà giở
tờ giấy papyrus ra và đọc to đoạn thơ bằng một giọng khoan thai.
Chén Thánh chờ bên dưới Roslin cổ.
Lưỡi dao và chiếc ly canh cửa vào.
Điểm tô bằng nghệ thuật đằm thắm của các bậc thầy.
Cuối cùng Chén nằm an nghỉ dưới bầu trời đầy sao.
Đọc xong, bà đứng im vài giây, cho đến khi một nụ cười thông hiểu
nở trên môi bà: "Ôi, Jacques".
Langdon nhìn bà chờ đợi: "Bà hiểu bài thơ này chứ ạ?".
"Như ông đã chứng kiến trên sàn nhà thờ, ông Langdon, có nhiều
cách nhìn những điều đơn giản".
Langdon cố sức để hiểu. Mọi thứ về Jacques Saunière dường như đều
có hai nghĩa, và Langdon chưa thể nhìn thấy được xa hơn.
Marie ngáp một cách mệt mỏi: "Ông Langdon, tôi sẽ thú nhận với
ông một điều. Tôi chưa bao giờ chính thức được biết Chén Thánh hiện đang ở đâu.
Nhưng, tất nhiên, tôi đã lấy một người có ảnh hưởng rộng lớn… và cái trực giác
phụ nữ của tôi là rất nhạy".
Langdon định nói nhưng Marie đã tiếp tục: "Tôi lấy làm tiếc là
sau bao khó nhọc, ông sẽ phải rời Rosslyn mà chẳng được câu trả lời thực sự
nào. Tuy nhiên một cái gì đó mách bảo tôi rằng, rốt cuộc ông sẽ có được điều
ông tìm kiếm. Một ngày nào đó nó sẽ bắt hé lộ với ông". Bà mỉm cười.
"Và khi đó, tôi tin rằng ông… có thể giữ bí mật".
Có tiếng ai đó tới cửa: "Cả hai người đều biến mất",
Sophie nói rồi đi vào.
"Ta định đi đây", người bà đáp lại và đi tới chỗ Sophie
đang đứng ở cửa. "Ngủ ngon nhé, công chúa". Bà hôn lên trán Sophie.
"Đừng để ông Langdon ở bên ngoài quá khuya nhé".
Langdon và Sophie nhìn bà đi trở về phía ngôi nhà đá. Khi Sophie
quay lại phía ông, mắt cô ướt đẫm trong niềm xúc động sâu xa: "Không hẳn
là cái kết cục mà tôi mong đợi".
Điều đó tạo nên hai chúng ta, ông nghĩ. Langdon có thể thấy cô tràn
ngập xúc động. Cái tin cô nhận được tối nay đã thay đổi mọi thứ trong cuộc đời
cô. "Cô ổn chứ? Có quá nhiều điều để tiếp nhận".
Cô mỉm cười lặng lẽ: "Tôi có một gia đình. Đó là điểm xuất
phát sắp tới của tôi. Chúng ta là ai và chúng ta từ đâu tới, trả lời câu hỏi
này cũng sẽ mất chút thời gian đấy".
Langdon im lặng.
Ngoài buổi tối nay, anh có ở với chúng tôi nữa không?.
Sophie hỏi. "Ít nhất là một vài ngày chứ?".
Langdon thở dài, chẳng muốn gì hơn nữa. "Cô cần ở đây với gia
đình một thời gian, Sophie ạ. Tôi sẽ về Paris vào sáng mai".
Cô có vẻ thất vọng nhưng dường như biết làm thế là phải.
Hồi lâu, cả hai đều chẳng nói gì. Cuối cùng Sophie với tay ra nắm
lấy tay Langdon và dẫn ông ra khỏi nhà thờ. Họ tới một gò nhỏ trên đầu dốc. Từ
đây, vùng quê Scotland trải ra trước mắt họ, tràn ngập ánh trăng nhợt nhạt lọc
qua những đám mây lang thang. Họ đứng lặng lẽ, nắm tay nhau, cả hai đều đang
chống lại cơn mệt rã rời như một tấm màn đang chụp xuống.
Sao mới chỉ lác đác xuất hiện, nhưng ở phía tây, một điểm sáng đơn
lẻ bừng sáng hơn tất cả. Langdon mỉm cười khi nhìn thấy nó. Đó là Sao Kim. Nữ
thần cổ xưa đã chiếu xuống Trái đất ánh sáng kiên định và nhẫn nại của mình.
Đêm trở nên lạnh hơn, một làn gió khô lạnh cuộn lên tử mặt đất
Langdon nhìn sang Sophie. Đôi mắt cô nhắm lại, đôi môi thư thái nở một nụ cười
mãn nguyện. Langdon cảm thấy mắt mình nặng trĩu. Miễn cưỡng, ông bóp mạnh tay
cô: "Sophie?".
Cô từ từ mở mắt và quay sang ông. Dưới ánh trăng, mặt cô thật đẹp.
Cô mỉm cười với ông, vẻ buồn ngủ: "Xin chào".
Langdon cảm thấy một nỗi buồn bất ngờ khi nhận ra rằng ông sẽ quay
về Paris mà không có cô: "Có lẽ tôi sẽ đi trước khi cô dậy". Ông dừng
lại, cổ tắc nghẹn. "Xin lỗi, em không giỏi lắm về…".
Sophie với ra, đặt bàn tay mềm mại lên một bên mặt ông.
Rồi rướn người, âu yếm hôn má ông. "Bao giờ tôi lại có thể gặp
lại anh?".
Trong thoáng chốc, Langdon lảo đảo, lạc trong mắt cô: "Bao giờ
nhỉ?", ông dừng lại, rất muốn biết liệu cô có hiểu là chính ông cũng tự
hỏi như thế với bao trăn trở. "À, thực ra, tháng tới tôi sẽ thuyết trình
tại một hội nghị ở Florence. Tôi sẽ ở đó một tuần, chẳng có mấy việc để
làm".
"Đó là một lời mời?".
"Chúng ta sẽ sống trong xa hoa. Họ dành cho tôi một phòng ờ
Brunelleschi".
Sophie mỉm cười tinh nghịch: "Ngài mạo muội quá đấy, ngài
Langdon".
Ông co rúm người không biết mình đã thất thố tới mức nào: "Ý
của tôi là…".
"Em không mong gì hơn là được gặp anh ở Florence, Robert.
Nhưng mà với một điều kiện", giọng cô chuyển sang nghiêm túc
"không bảo tàng, không nhà thờ, không lăng mộ, không nghệ thuật, thánh
tích gì hết".
"Ở Florence? Cả một tuần? Chẳng có gì khác để làm".
Sophie ngả người ra trước và lại hôn ông, lần này lên môi.
Thân thể họ hòa vào nhau, đầu tiên là nhẹ nhàng, rồi sau đó trọn
vẹn. Khi buông ra, đôi mắt cô tràn đầy hứa hẹn.
"Phải", Langdon thết được nên lời, "đây là một cuộc
hẹn".
Đoạn kết Robert Langdon giật mình tỉnh dậy. Ông vừa trải qua một
giấc mơ. Chiếc áo choàng tắm cạnh giường ngủ có in hình chữ lồng Khách sạn Ritz
- Paris. Ông thấy ánh sáng lờ mờ lọc qua mành. Bình minh hay hoàng hôn đây nhỉ,
ông tự hỏi.
Langdon cảm thấy toàn thân ấm áp và thỏa mãn sâu sắc. Ông đã ngủ
phần lớn thời gian trong hai ngày qua. Chậm rãi ngồi dậy trên giường, ông nhận
ra điều gì đã đánh thức ông… một ý nghĩ hết sức kì lạ. Suốt nhiều ngày, ông đã
cố gắng sắp xếp phân minh cả một mớ thông tin, nhưng bây giờ Langdon nhận thấy
mình đã cố định được một điều mà trước đó ông không hề xét đến.
Có thể là thế không?
Ông ngồi nguyên không động đậy hồi lâu.
Ra khỏi giường, ông đi tới phòng tắm lát đá hoa. Bước vào, ông để
những tia nước mạnh xoa bóp bờ vai. Ý nghĩ nọ vẫn làm ông say mê.
Không thể thế được.
Hai mươi phút sau, Langdon ra khỏi khách sạn Ritz đến Quảng trường
Vendome. Đêm đang buông xuống. Những ngày ngủ làm ông mất phương hướng… Ấy vậy
mà trí óc ông lại sáng suốt lạ lùng. Ông đã định bụng dừng lại ở sảnh khách
sạn, uống tách cà phê sữa cho tỉnh táo, nhưng thay vì điều đó, đôì chân cứ đưa
thẳng ông ra cửa để hoà vào cuộc sống ban đêm ở Paris.
Xuôi về phía đông trên phố Petits Champs, Langdon cảm thấy sự phấn
chấn tăng lên. Ông quay về phía nam trên phố Richelieu, nơi không khí trở nên
dịu ngọt với hương hoa nhài toả ra từ những khu vườn uy nghi của Cung điện
Hoàng gia.
Ông tiếp tục đi về phía nam cho đến khi thấy cái mà ông đang tìm
kiếm - hành lang thương mại Hoàng gia nổi tiếng - một vùng long lanh lát đá cẩm
thạch đen bóng loáng. Bước đi trên đó, Langdon rà soát bề mặt dưới chân mình.
Chỉ trong vài giây, ông đã tìm thấy điều mà ông biết có ở đây - mấy hình huy
chương đồng lớn gắn chặt dưới nền theo một đường thẳng hoàn hảo. Mỗi chiếc đĩa
có đường kính khoảng 8 cm và được khắc nổi hai chữ N và S.
Nod. Sud.(1)
Ông quay về phía nam, lia mắt kéo dài đường thắng tạo nên bởi những
hình huy chương. Ông lại bắt đầu di chuyển theo vệt đường ấy, vừa đi vừa quan
sát vỉa hè. Khi ông cắt ngang góc phố Comedie-Francaise, một hình huy chương
đồng khác nổi lên dưới chân ông. Đúng rồi!
Những đường phố Paris – điều này Langdon đã biết từ nhiều năm trước
– được đánh dấu bằng 135 hình huy chương đồng như thế, gắn trên những lề đường,
sân và phố, theo một trục bắc – nam xuyên suốt thành phố. Một lần ông từng theo
đường vạch này từ nhà thờ Sacre-Coeur, phía bắc bên kia sông Seine và cuối cùng
tới một đài Thiên văn cổ ở Paris. Ở đó, ông phát hiện được ý nghĩa của con
đường linh thiêng nó đã vạch ra.
Kinh tuyến gốc quan trọng nhất trái là:
Kinh độ 0 đầu tiên của thế giới.
Đường Hoa hồng cổ xưa của Paris.
Lúc này, khi rảo bước qua phố Rivoli, Langdon có thể cảm nhận được
điểm đến trong tầm tay. Cách không đầy một khối nhà.
Chén Thánh chờ bên dưới Rosslin cổ.
Giờ đây những phát hiện ào đến như những đợt sóng.
Saunière viết từ Rosslyn theo chính tả cổ xưa... lưỡi dao và chiếc
ly ngôi mộ trang trí bằng nghệ thuật của các thợ cả bậc thầy.
Đó phải chăng đó là lí do khiến Saunière cần nói chuyện với mình?
Mình đã đoá ra sự thật một cách vô thức chăng?
Ông chuyển sang chạy bộ, cảm thấy Đường Hoa hồng dưới chân đang dẫn
lối, đưa ông đến đích. Khi đi vào đường hầm dài của Passage Richelieu, tóc gáy
ông dựng lên vì dự cảm. Ông biết ở cuối đường hầm này, sừng sững đài tưởng niệm
bí ẩn nhất trong các tượng đài ở Paris – do chính Nhân Sư Francois Mitterrand
đề xướng và đặt hàng xây dựng, người mà nghe đồn là có tham gia sinh hoạt trong
những giới bí mật, người mà di sản cuối cùng để lại cho Paris là nơi Langdon
tới thăm chỉ mới vài ngày trước đó.
Lạ một quãng thời gian bằng cả một trời người.
Với một trào dâng cuối cùng của nghị lực, Langdon phăng phăng từ
đường hầm lao vào chiếc sân quen thuộc và dừng lại.
Hổn hển thở không ra hơi, ông từ từ ngước mắt nhìn lên công trình
kiến trúc long lanh trước mặt mình, lòng vẫn chưa tin.
Kim tự tháp Louvre.
Lung linh trong đêm tối.
Ông chỉ chiêm ngưỡng nó trong chốc lát. Ông quan tâm hơn tới cái
được đặt ở phía bên phải. Quay đi, ông lại cảm thấy chân mình lần theo vệt
đường mòn vô hình của Đường Hoa hồng cổ xưa, đưa ông qua sân tới Carrousel du
Louvre – cái vòng tròn cỏ khổng lồ, xung quanh những hàng rào cắt tỉa gọn gàng
– xưa là nơi diễn ra những lễ hội ban sơ thờ thiên nhiên... những lễ thức hân
hoan chào mừng Nữ thần và sự phồn thực.
Langdon cảm thấy như đang bước sang một thế giới khác khi băng qua
những lùm cây bụi tới bãi cỏ bên trong. Khu đất thánh hóa này giờ đây được đánh
dấu bằng một trong những đài tưởng niệm phi thường nhất của thành phố. Tại đây,
ngay trung tâm, tựa như một kẽ nứt bằng pha lê đâm thẳng vào đất, chiếc Kim tự
tháp đảo ngược bằng thủy tinh ngoác miệng ra, mấy đêm trước ông đã thấy nó khi
đi vào đường ngầm nằm dưới mặt đất của Louvre.
La Pyramidc Renvercée.(2)
Run rẩy, Langdon đi tới rìa ngó xuống tổ hợp trải dài dưới đất của
Louvre rực lên ánh sáng hổ phách. Mắt ông không chỉ nhằm vào cái Kim tự tháp
đảo ngược to lớn kia, mà vào cái nằm ngay bên dưới nó. Ở đó, trên nền của phòng
bên dưới, có công trình kiến trúc nhỏ nhất... một cấu trúc mà Langdon đã từng
đề cập tới trong bản thảo của mình.
Giờ đây Langdon cảm thấy mình hoàn toàn tỉnh táo đón nhận nỗi rạo
rực của cái khả năng khôn lường. Lại ngước nhìn Louvre, ông cảm nhận được các
cánh khổng lồ của bảo tàng bao bọc lấy mình... những hành lang lúp búp đầy
những nghệ thuật tuyệt tác nhất của thế giới.
Da Vinci... Botticelli...
Điểm tô bằng nghệ thuật đằm thắm của các bậc thày.
Lòng đầy ngỡ ngàng, ông đăm đăm nhìn một lần nữa qua kính vào cái
cấu trúc nhỏ xíu bên dưới.
Ta phải xuống đó!
Bước ra khỏi vòng tròn, ông vội vã đi qua sân hướng về phía lối vào
Kim tự tháp của Louvre. Những khách tham quan cuối cùng trong ngày đang lục tục
ra khỏi bảo tàng.
Dấn qua cánh cửa xoay, Langdon đi xuống cầu thang vòng để vào Kim
tự tháp. Ông có thể cảm nhận được không khí trở nên lạnh hơn. Khi xuống tới
đáy, ông chui vào đường hầm trải dài bên dưới sân Louvre, quay trở về phía La
Pyramidc Renvercée.
Ra khỏi đường hầm, ông bước vào một phòng lớn. Thẳng trước mặt ông,
lung linh từ trên cao rủ xuống chiếc Kim tự tháp đảo ngược – một đường viền
kính hình chữ V đáng kinh ngạc.
Chiếc ly.
Langdon đưa mắt theo hình hẹp dẫn về phía dưới xuống tới chóp nhọn
của nó, lơ lửng chỉ cách sàn không đầy hai mét. Ở đó, ngay bên dưới nó, có một
cấu trúc nhỏ xíu.
Một Kim tự tháp mini. Nó chỉ cao gần một mét. Đó là cấu trúc duy
nhất trong tổ hợp khổng lồ này được xây dựng theo một tỷ lệ nhỏ.
Bản thảo của Langdon, khi bàn về bộ sưu tập công phu về nghệ thuật
liên quan đến nữ thần của Louvre, đã ghi chú qua về chiếc Kim tự tháp khiêm tốn
này.
Bản thân cấu trúc mini này nhô ra khỏi sàn như thể nó là chóp nhọn
của một tảng núi băng – đỉnh của một hầm ngầm rất lớn hình chóp chìm bên dưới
như một phòng bí mật.
Được chiếu bằng ánh sáng dịu nhẹ của khoang hầm vắng vẻ, hai chiếc
Kim tự tháp châu đầu vào nhau, thân chúng hoàn toàn thẳng hàng, chóp gần như
chạm nhau.
Chiếc ly ở trên. Lưỡi dao ở dưới.
Lưỡi dao và chiếc ly canh cửa vào.
Langdon lắng nghe từng lời của Marie Chauvel. "Một ngày nào đó
nó sẽ hé lộ với ông.
Ông đang đứng bên dưới Đường Hoa hồng cổ xưa, được bao quanh bởi
tác phẩm của những bậc thầy. Còn có nơi nào tốt hơn cho Saunière để canh giữ.
Cuối cùng giờ đây, ông cảm thấy mình đã hiểu ý nghĩa thực sự của đoạn thơ của
vị Đại Sư. Ngước mắt lên nhìn qua lớp kính, ông ngắm bầu trời đêm rực rỡ đầy
sao.
Cuối cùng Chén nằm nghỉ dưới bầu trời đầy sao.
Tựa như tiếng rì rầm của những linh hồn trong bóng tối, những lời
bị lãng quên vọng lại. Việc tìm kiếm Ché Thánh là cuộc tìm kiếm để được quỳ gối
trước di hài của Mary Magdalene. Một cuộc hành trình để nguyện cầu dưới chân
một kẻ bị ruồng bỏ.
Với một niềm tôn kính trào dâng đột ngột, Robert Langdon quì xuống.
Trong thoáng chốc, ông tưởng như nghe thấy giọng nói của một người
phụ nữ... sự thông tuệ của bao thế kỉ... đang thì thầm cất lên từ những kẽ nứt
dưới lòng đất.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: Bắc. Nam.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: Kim tự tháp đảo ngược.
Hết
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét