Thép Đã
Tôi Thế Đấy Phần 1 - Chương 8
Trong
sương sớm lúc mặt trời chưa mọc, dòng sông ánh lên bàng bạc và êm đềm chảy rì
rầm giữa hai bờ sỏi đá. Gần bờ, mặt nước sông lặng màu xám nhạt dường như không
động, đôi lúc long lanh sáng. Nhưng giữa dòng sông, nước thăm thẳm sóng nhấp
nhô quằn quại hối hả trôi đi. Con sông xinh đẹp, hùng vĩ ấy là con sông
Đơ-nhi-ép, con sông Đơ-nhi-ép mà nhà văn Gô-gôn đã viết nên áng văn tuyệt diệu:
“Tươi đẹp thay, con sông Đơ-nhi-ép...” Bờ sông bên phải, núi đá dựng đứng.
Dường như núi ấy chạy đến đây, sắp sửa đâm sầm vào bờ sông thì thốt nhiên dừng
chân đứng sững lại, ngây ngất trước khoảng bao la trời nước. Bờ sông bên trái
thoai thoải những bãi cát.
Sau vụ
nước lớn mùa xuân, dòng sông thu mình vào bờ sỏi, để lại những bãi cát ấy. Bên
bờ sông có năm người nấp trong hầm chật hẹp, giữ khẩu súng Mắc-xim. Đấy là đội
viễn tiêu của sư đoàn bộ binh thứ bảy. Xéc-gây nằm nghiêng bên súng máy, mặt
ngoảnh ra sông.
Hôm qua,
bộ đội ta giao chiến liên miên với giặc. Đại bác Ba Lan, như bão táp làm cho
tan tác. Sau cùng, kiệt sức, họ đành để thành Ki-ép lọt vào tay giặc và lui về
cố thủ ở tả ngạn sông Đơ-nhi-ép.
Đã phải
rút lui, lại thương vong nặng và cuối cùng mất Ki-ép đã làm cho các chiến sĩ
đau buồn. Sư đoàn thứ bảy này đây đã chiến đấu anh dũng vượt qua vòng vây của
địch, mở đường lách qua rừng rậm, tiến đến gần ga Ma-lin-nơ. Họ tấn công rất
gắt, đánh tan bọn Ba Lan chiếm đóng nhà ga, dồn chúng vào rừng, giải phóng
đường đi Ki-ép.
Bây giờ
thì thành Ki-ép diễm lệ đã mất vào tay giặc rồi. Các chiến sĩ mặt mày ủ dột và
buồn bực trong lòng.
Quân Ba
Lan đã đánh bật các đơn vị Hồng quân khỏi Đác-nhi-xa và chiếm được một căn cứ
nhỏ bên tả ngạn sông, cạnh chiếc cầu đường xe lửa.
Chúng ra
sức đánh rộng ra nữa, nhưng gặp sức phản công mãnh liệt của Hồng quân, chúng
chẳng nhích thêm được bước nào cả.
Xéc-gây
ngắm dòng sông đang chảy và anh không thể không hồi tưởng lại chuyện xảy ra
ngày hôm qua.
Hôm qua,
vào lúc mặt trời đứng bóng, anh đang cùng anh em hăng máu xông lên thì đụng
phải quân Ba Lan trắng trong một đợt phản công quyết liệt. Lần đầu tiên,
Xéc-gây đứng trước mặt đối mặt một kẻ thù. Một thằng lê-dương Ba Lan, không
râu, không ria, cầm súng cắm lưỡi lê Pháp dài như thanh kiếm, chạy lại đâm
Xéc-gây. (Bọn can thiệp Ba Lan lúc bấy giờ do các đế quốc Pháp, Anh, Mỹ trang
bị). Nó nhảy như choi choi, miệng kêu xì xà xì xồ. Xéc-gây chỉ còn kịp nhận ra
hai mắt nó trợn trừng điên cuồng. Chưa đầy một giây đồng hồ, Xéc-gây đã lấy đầu
lưỡi lê của mình đánh bật lưỡi lê tên Ba Lan. Chiếc lưỡi lê Pháp sáng loáng rơi
bắn sang bên.
Tên Ba
Lan ngã vật xuống...
Xéc-gây
đâm lưỡi lê không có run tay. Anh biết anh còn phải giết nhiều nữa. Chính anh
là người biết yêu tha thiết, đối với tình bạn rất mực thủy chung, anh có phải
đâu là một đứa hung tàn độc ác. Song anh biết rằng những người lính bị lừa dối
kia, ăn phải thuốc của bọn sâu mọt toàn thế giới, đang xông lại đánh nước Cộng
hòa của anh với một thú điên giận thật là của loài súc vật.
Và
Xéc-gây thẳng tay giết cho chóng đến ngày trên trái đất này không còn có người
chém giết người nữa.
Pa-ra-mô-nốp
lắc vai Xéc-gây:
- Này,
Xéc-gây xuống hầm đi, kẻo chúng nó trông thấy chúng mình đấy.
*
Đã một
năm nay, Pa-ven hành quân đi dọc ngang khắp miền quê hương xứ sở, khi ngồi trên
một chiếc xe kéo súng máy, khi leo lên bệ một khẩu đại bác, khi cưỡi trên con
ngựa xám cụt tai. Khỏe ra, cứng rắn ra, anh đã lớn lên trong gian lao khổ cực.
Người
anh đeo bao đạn sát vào da đến bật máu, chỗ sát đã thành sẹo và dây súng lằn
trên vai đã chai lên thành một ụ thịt không bao giờ tan được nữa.
Trong có
một năm trời, mắt anh đã thấy biết bao nhiêu cảnh đời ghê gớm. Cùng hàng ngàn
chiến sĩ khác, áo quần tả tơi, chân đất như mình, nhưng lòng hừng hực bốc cháy
ngọn lửa không bao tắt của cuộc đấu tranh vì chính quyền giai cấp, Pa-ven đã
bước chân đi khắp các ngả của Tổ quốc U-cơ-ren và chỉ bị dứt ra khỏi cơn bão
táp ấy có hai lần.
Lần thứ
nhất, bị thương vào đùi, lần thứ hai, vào một ngày tháng Hai lạnh buốt của năm
1920, anh giãy giụa trong cơn sốt nhớp nháp của bệnh chấy rận.
Cái bệnh
chấy rận truyền nhiễm đã tác hại các trung đoàn và sư đoàn của tập đoàn quân
thứ mười hai ghê gớm hơn cả những cỗ súng máy Ba Lan kia. Tập đoàn quân lúc đó
đóng ở một khu rộng lớn, rải hầu khắp miền Bắc U-cơ-ren, ngăn đường tiến của
quân Ba-lan. Vừa dứt bệnh, Pa-ven đã trở về đơn vị ngay.
Bây giờ,
trung đoàn của Pa-ven đóng ở một vị trí cơ động gần ga Phơ-rông-tốp-ca, trên
con đường ngoặt từ Ca-da-chim đi U-mân.
Ga ở
giữa rừng. Những túp nhà bị tàn phá xúm quanh khu ga bé nhỏ. Đấy là những căn
nhà hoang trống trải, dân bỏ đi vì không thể nào ở được yên. Hai năm qua, chập
chờn có lúc yên tĩnh, có lúc lại đánh nhau dữ. Suất hai năm trời, ga
Phơ-rông-tốp- ca đã chứng kiến biết bao nhiêu là chuyện!
Lại sắp
sửa xảy ra nhiều việc lớn. Trong lúc sư đoàn mười hai bị tổn thất nặng, tan rã
từng phần, trước sức thọc mạnh của quân đội Ba Lan, phải rút lui về gần Ki-ép
thì nước Cộng hòa vô sản chuẩn bị giáng một đòn chí tử vào quân thù lúc đó đang
say sưa thừa thắng tiến.
Những sư
đoàn kỵ binh dạn dày lửa đạn của tập đoàn kỵ binh thứ nhất đã mở cuộc trường
chinh chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, từ vùng Bắc Cô- ca-dơ xa xôi
chuyển đến U-cơ-ren. Các sư đoàn kỵ binh thứ tư, thứ sáu, thứ mười một và thứ
mười bốn lần lượt tiến đến U-mân và tập kết ở sau trận tuyến của ta. Trên đường
xông tới những cuộc chiến đấu ác liệt kỵ binh đã quét sách bọn phỉ Ma-khơ-nô.
Một vạn
sáu ngàn năm trăm thanh kiếm, một vạn sáu ngàn năm trăm chiến sĩ da rám nắng
đồng cỏ.
Bộ Tổng
tư lệnh Hồng quân và Bộ Tổng tư lệnh mặt trận Tây-nam hết sức giữ bí mật để cho
quân Ba Lan của phát-xít Điu-xuýt-ski không thể nào đối phó kịp với cuộc hành
quân có tính chất quyết định đang chuẩn bị. Bộ tham mưu của nước Cộng hòa và
các mặt trận trực tiếp phụ trách tập hợp khối kỵ binh này.
Chiến sự
ngừng hẳn ở mặt trận U-mân, đường dây liên lạc thẳng từ Mát-xcơ-va đến Bộ tham
mưu mặt trận Khác-cốp làm việc không ngừng. Từ Khác-cốp, điện lại báo đi các bộ
tham mưu các tập đoàn quân thứ mười bốn, thứ mười hai. Điện báo tạch tè ghi
những mệnh lệnh mật mã lên những băng điện hẹp: “Không để cho quân Ba Lan chú ý
đến quân đoàn kỵ binh của ta tập kết”. Chiến sự ngừng trên khu vực U-mân. Chỉ
giao chiến khi nào và nơi nào bọn Ba Lan tiến quân uy hiếp đoàn kỵ binh của
Bu-đi- on-ny, tránh cho kỵ binh khỏi bị dồn vào tình thế phải giao chiến quá
sớm.
Đống lửa
trú quân bập bùng ngọn lửa màu hung, khói bốc lên xoắn tít hình trôn ốc. Loài
nhặng rừng không chịu được hơi khói bay tứ tung như ong vỡ tổ. Các chiến sĩ
ngồi quanh ngọn lửa theo hình vòng cung, lửa hồng làm mặt họ ánh lên bóng như
màu đồng.
Những
chiếc cà-mèn vùi trong tro biếc ánh lửa. Nước sôi sùng sục. Một ngọn lửa từ
khúc gỗ cháy lóe ra bén sém một chiếc đầu bù. Người bị cháy tóc bực mình phát
bẳn:
- Rõ
khỉ!
Anh em
chung quanh bật cười khúc khích.
Một
người lính già mặc áo dạ, râu mép xén ngắn, đang chìa nòng súng ra ánh lửa xem,
thấy vậy nói khẽ:
- Thằng
bé này mải đọc khoa học quá, đến nỗi sán vào lửa cháy mà cũng không biết.
- Pa-ven
ơi! Đọc gì thế, kể cho chúng tớ nghe với.
Pa-ven,
người lính trẻ ấy, vừa lấy tay mân mê mớ tóc sém của mình, vừa mỉm cười nói:
- Đồng
chí An-đơ-rơ-súc ạ! Cuốn sách hay tuyệt. Đã đọc vào là tôi không thể nào buông
ra được nữa.
Người
ngồi cạnh Pa-ven là Xê-rê-đa, một thanh niên có cái mũi ngắn, hếch lên, đang
chăm chú vá lại dây đeo bao đạn, hai răng cắn chặt lấy sợi chỉ xám to, nghe bạn
nói vậy thì tò mò hỏi:
- Thế
cuốn sách viết về ai hở cậu? - Xê-rê-đa tay cuộn đoạn chỉ còn lại vào cái kim
cắm trên mũ dạ, nói thêm:
- Nếu
nói về tình yêu thì mình thú lắm đấy.
Chung
quanh cười rộ lên. Mát-vây-súc nhô cái đầu tóc cắt ngắn lên, nheo mắt láu lỉnh
nói trêu Xê-rê-đa:
- Tình
yêu là chuyện cũng hay, Xê-rê-đa ạ. Cậu đẹp trai, trông rất bảnh! Hễ quân ta đi
đến đâu, các cô ả thấy cậu đều mê tít. Chỉ phải một cái tật nhỏ: Mũi cậu quá
ngắn và hếch lên làm cho mưa cứ rơi tọt vào trong. Nhưng mà có thể chữa được.
Cậu cứ lấy quả lựu đạn Nô-vít-ki treo vào đầu mũi, chỉ một đêm là mũi dài ra và
quặp xuống thôi.
(Thứ lựu
đạn tay, nặng gần bốn cân, dùng để phá hàng rào dây thép gai).
Câu nói
bông đùa ấy làm mọi người phá ra cười sằng sặc. Nghe tiếng cười, mấy con ngựa
buộc ở những xe súng máy cũng phải rùng mình phì hơi một cách hoảng hốt.
Xê-rê-đa
lừ đừ quay mặt lại:
- Hơn nhau
chẳng phải ở cái đẹp trai, mà ở cái sọ này. - Xê-rê-đa đập tay lên trán như ra
hiệu chỉ cái đầu to - Đấy nhớ, lưỡi cậu cay như ớt thế mà cậu cứ vẫn là một
thằng hết sức khờ. Với lại cậu có đôi tai lạnh như tiền nữa.
Hai
chiến sĩ chực xông vào vật nhau, nhưng đồng chí tiểu đội trưởng Ta-ta-ri-nốp đã
can ngay:
- Này,
này, các cậu ơi, vặc nhau làm gì! Thôi để Pa-ven nó đọc sách cho mà nghe còn
hơn.
- Phải
đấy! Đọc đi Pa-ven ạ! - Tiếng hưởng ứng nhao nhao lên.
Pa-ven
kéo cái yên ngựa lại gần ánh lửa, ngồi cưỡi lên yên, mở trên đầu gối cuốn sách
khổ nhỏ song khá dày.
- Báo
cáo các đồng chí, cuốn truyện này tên là Ruồi trâu. Đồng chí chính ủy tiểu đoàn
cho tôi mượn đấy. Cuốn truyện rất thấm thía đối với tôi. Các đồng chí ngồi yên
đừng đùa, tôi đọc cho mà nghe.
- Thôi
đọc đi, nhanh lên. Chẳng ai phá đám đâu.
Khi đồng
chí trung đoàn trưởng Pu-dư-rếp-ski cùng đồng chí ủy viên quân sự Đô-rê-nin đi
ngựa, lẳng lặng đến gần đống lửa, thì trông thấy mười một cặp mắt châu châu vào
một chiến sĩ đang đọc to quyển truyện.
Pu-dư-rếp-ski
quay đầu lại phía đồng chí chính ủy viên lấy tay chỉ nhóm người:
- Đây là
một nửa số anh em quân báo của trung đoàn, trong đó có bốn thanh niên cộng sản,
ít tuổi lắm, song mỗi cậu đều bằng một chiến sĩ cừ. Anh trông cậu đang đọc
truyện, và cậu kia nữa có cặp mắt y như cặp mắt của con sói con, đấy là
Ca-rơ-sa- ghin và Giác-ki. Hai cậu bé thân với nhau lắm, nhưng cũng ganh ngầm
với nhau lắm. Trước kia thì Pa-ven là một tay quân báo giỏi nhất của tôi. Giờ
có Giác- ki là tay địch thủ khá lợi hại của cậu ta. Anh trông kìa, các cậu ta
đang làm công tác chính trị đấy. Nhìn thì chẳng ai biết là làm công tác, nhưng
tác dụng lại rất lớn. Anh em gọi họ là “Đội thanh niên cận vệ”, tên ấy thật
đúng quá.
Đồng chí
ủy viên quân sự hỏi:
- Đồng
chí đang đọc kia có phải là chính trị viên đội quân báo không?
- Không.
Chính trị viên là Cơ-ra-me.
Trung
đoàn trưởng cho ngựa bước lên. Đồng chí cất giọng nói to:
- Chào
các đồng chí!
Mọi
người quay lại. Trung đoàn trưởng nhẹ nhàng xuống ngựa, đi lại gần các chiến sĩ
đang ngồi.
- Các
đồng chí ngồi sưởi đấy à? - Trung đoàn trưởng hỏi, nụ cười rộng rãi ở trên môi.
Trên khuôn mặt cứng cỏi của đồng chí với đôi mắt bé hơi giống mặt người Mông
Cổ, vẻ nghiêm khắc đã biến đi.
Các đồng
chí niềm nở đón đồng chí chỉ huy như một người đồng đội hiền từ, như một người
bạn thân. Đồng chí ủy viên quân sự vẫn ngồi trên ngựa định đi tiếp sang đơn vị
khác.
Pu-dư-rếp-ski
kéo bao súng Mô-de ra phía sau, rồi lại ngồi cạnh Pa-ven và nói:
- Mời
các đồng chí, ta hút một điếu thuốc. Tôi có thuốc lá hút cũng tạm được.
Châm
thuốc xong, trung đoàn trưởng quay ra nói với đồng chí ủy viên quân sự:
- Đồng
chí cứ về trước đi, đồng chí Đô-rê-nin ạ. Tôi ở lại chơi với anh em một lát.
Nếu ở bộ tham mưu cần đến tôi, đồng chí tin cho tôi biết nhé.
Khi Đô
rê-nin đã đi khỏi, Pu-dư-rếp-ski quay lại bảo Pa-ven:
- Chú
đọc tiếp đi, tôi cũng nghe với.
Đọc xong
những trang cuối, Pa-ven đặt sách lên gối và bâng khuâng nhìn chăm chăm vào
ngọn lửa, nghĩ ngợi.
Trong
mấy phút đồng hồ, không ai nói một lời. Tất cả mọi người đều xúc động vì cái
chết của “Ruồi trâu”.
Pu-dư-rếp-ski
hút một hơi thuốc lá, chờ đợi anh em lên tiếng.
Lời phát
biểu của Xê-rê-đa phá tan cái không khí yên lặng.
- Câu
chuyện bi thảm thật. Ai mà tưởng có được những con người bản lĩnh như thế trên
đời này. Một người thường không thể chịu được cực hình đến độ ấy Nhưng khi
người ấy đã vì lý tưởng mà chiến đấu thì nhất định giữ vững được tinh thần.
Giọng
Xê-rê-đa hết sức xúc động. Câu chuyện làm anh cảm xúc sâu xa.
An-đơ-ru-sa,
một người thợ học việc đóng giày vùng Bê-lai-a Xéc-cốp, bừng bừng phẫn nộ:
- Thằng
ác tăng khốn nạn đó mà vớ phải tay tôi thì tôi đâm chết nó ngay tại chỗ!
An-đơ-rơ-súc
lấy que củi ấn thêm chiếc cả-mèn của mình vào bếp, rồi nói bằng một giọng tin
tưởng:
- Chết
mà biết mình chết vì một sự nghiệp gì thì chết cũng đáng lắm. Trong trường hợp
ấy anh thấy mình có đủ sức mạnh để không sợ chết. Ta sẵn sàng đi đến cái chết
một cách kiên nhẫn khi ta cảm thấy có chính nghĩa ở phía ta. Chính cái đó làm
con người ta trở thành anh hùng đấy. Tôi biết một đồng chí trẻ tuổi tên gọi là
Pô-rai-ca. Cái hôm bọn giặc trắng thọc vào Ô-đét-xa, một mình anh ta xung phong
đánh cả một trung đội chúng nó. Bọn chúng chưa kịp giở lưỡi lê đâm anh, anh đã
rút lựu đạn ra, quăng ngay dưới chân mình. Người anh tan ra từng mảnh, nhưng cả
bọn Ba Lan cũng tan xác. Ấy thế mà trông anh ta bề ngoài chẳng có vẻ gì đâu.
Không ai viết sách nói về anh ta. Song chuyện anh ta thật đáng chép vào sách.
Hàng ngũ ta có vô số đồng chí ưu tú như thế.
An-đơ-rơ-súc
lấy thìa quấy cà-mèn, thè lưỡi ra nhắp ngụm trà, rồi nói tiếp:
- Cũng
có cái chết như chó chết, chết đục, chết ô nhục. Bữa chúng tôi đánh nhau ở
I-di-a-sláp, một thị trấn cổ, xây từ đời vua nào ngày trước trên sông Gô- rin,
đấy có một nhà thờ Ba Lan, y như cái pháo đài, khó lắm. Thế mà cũng vào được
tất. Quân ta hàng một trèo vào, leo lên các lối đi nhỏ ngoằn ngoèo, sườn bên
phải có anh em người Lét-tô-ni kiềm chế cho rồi. Còn ta đổ ra phố lớn. Ra đến
phố lớn thì trông thấy gì? Gần vườn hoa có ba con ngựa đóng yên sẵn buộc vào
hàng rào.
Bọn tôi
trước tình huống ấy tất nhiên bảo nhau: Phen này tóm cổ bọn Ba Lan. Cả mười
người hết cả vào sân. Đồng chí đại đội trưởng người Lét-tô-ni tay lăm lăm cầm
khẩu Mô-de đi trước.
Vào đến
nhà chính thì cửa đã mở. Bọn tôi đi vào. Tưởng tóm được bọn Ba Lan, hóa ra
không phải. Trong đó có sẵn một tổ của ta. Họ vào trước chúng mình. Chẳng hay
hớm gì cái chuyện đang xảy ra ở đấy. Nhà này vốn có một thằng sĩ quan Ba Lan ở.
Bọn mất dạy ở tổ ấy vào đè ngay mụ vợ thằng ấy ra để cưỡng hiếp. Đồng chí chỉ
huy người Lét-tô-ni của chúng mình tên là Bơ-rê-đi, trông thấy thế thét lên câu
gì bằng tiếng Lét-tô-ni. Rồi cho tóm cổ ba đứa kia lôi ra sân. Hôm ấy chỉ tôi
và một đồng chí nữa là người Nga, còn toàn người Lét-tô-ni cả. Họ nói gì với
nhau, mình nghe không hiểu, song cũng thấy câu chuyện rõ ràng: Kẻ nào phạm lỗi
thì sẽ bị xử. Người Lét-tô-ni, tính thẳng, rắn chắc như đá lửa. Họ ấn ba thằng
kia vào sát vách chuồng ngựa. Mình nghĩ thầm: Chết, chắc là họ định bắn tan xác
ba tên này đây. Trong số ba đứa đó có một tên vạm vỡ, chắc nịch cố cưỡng lại,
mồm chửi rủa, văng tục lung tung. Hắn la ầm lên: Ai lại nỡ vì một mụ đàn bà mà
treo cổ tôi? Hai tên kia cũng van xin rối rít.
Trông
thấy như thế mà ớn lạnh cả người. Mình chạy lại nói với Bơ-rê-đi: “Đồng chí đại
đội trưởng, đồng chí bắn làm gì, dính vào máu chúng nó cho bẩn tay? Để đưa tòa
án binh xử. Trong thành phố, chiến đấu đang tiếp tục mà ta lại đứng đây để xử
tội”. Tức thì Bơ-rê-đi quay lại nhìn mình và mình thấy hối ngay là đã trót nói
mất rồi. Mắt Bơ-rê-đi nhìn mình y như mắt hổ. Anh ấy gí súng vào tận miệng
mình. Mình chiến đấu đã bảy năm rồi, bây giờ nói ra thật khỉ, song lúc ấy thật
tình là mình hoảng thật. Mình nghĩ bụng: Không khéo thì mất mạng phen này,
chẳng còn nói năng gì nữa. Anh ta bảo mình bằng tiếng Nga lơ lớ, mình khó lòng
mới nghe rõ, nhưng cũng hiểu ý như thế này: “Ngọn cờ của ta là máu nhuộm đỏ.
Vậy mà quân chó này làm ô danh cả quân đội ta. Quân thổ phỉ phải lấy xác để đền
tội”.
Mình
không dám ở nán lại nữa, chạy một mạch từ sân ra đến phố thì nghe thấy tiếng
súng nổ ở phía sau. Mình nghĩ thầm: Thế là xong. Khi mình đi theo kịp đơn vị
mình thì thành phố đã hoàn toàn về tay ta. Câu chuyện như thế đấy. Những tên ấy
chết, thật chết như giống chó. Nghe đâu bọn đó trước là quân phỉ của Ma-khơ-nô,
mới chạy sang theo ta ở gần Mê- li-tô-pôn. Bọn chúng chỉ là một lũ ô hợp, phức
tạp.
Nói đến
đây, An-đơ-rơ-súc, đặt cái cà-mèn xuống chân, tay mở túi dết lấy bánh mì ra:
- Có thể
nào một đống phân bẩn như thế lại dính vào hàng ngũ chúng ta? Không sao kiểm
tra hết được. Trông chúng, người ta tưởng như chúng cũng chiến đấu vì cách
mạng. Thật ra, chính vì chúng mà bùn vấy cả lên mặt chúng ta. Dù sao thấy vậy
cũng đau lòng. Chuyện đó cho đến bây giờ mình vẫn không quên được.
An-đơ-rơ-súc
kết luận câu chuyện, rồi bắt đầu nhắp trà.
Đội quân
báo kỵ binh mãi tận đêm khuya mới ngủ. Xê-rê-đa ngủ say hếch mũi lên kéo gỗ.
Pu-dư-rép-ski cũng đã ngủ, đầu gối trên chiếc yên ngựa. Đồng chí chính trị viên
Cơ-ra-me thì đang ghi sổ tay.
Ngày hôm
sau, đi trinh sát về, Pa-ven buộc ngựa vào cây thấy đồng chí chính trị viên
Cơ-ra-me vừa uống trà xong, bèn mời lại nói chuyện.
- Đồng
chí chính trị viên ạ, tôi có ý định như thế này, đồng chí nghĩ có được không?
Tôi định bỏ đây sang bên Quân đoàn kỵ binh thứ nhất. Bên ấy, sắp nóng sốt đến
nơi rồi. Vì nhất định là họ tập trung đông người như thế chắc không phải để mà
chơi. Còn ta ở đây thì cứ chết gí một chỗ. Tôi chán ngấy lắm rồi.
Cơ ra-me
sửng sốt nhìn Pa-ven:
- Sao,
thế nào, chú định bỏ đây chuồn đi à? Chú nghĩ thế nào? Vậy ra theo chú, Hồng
quân là rạp chiếu bóng hay sao mà đòi đổi đơn vị như đổi chỗ ngồi thế? Nếu ai
cũng đòi đổi đơn vị thế thì còn ra thế nào nữa?
Pa-ven
ngắt lời đồng chí chính trị viên:
- Cốt
sao đánh hăng là được. Ở đấy hay bên ấy cũng thế cả, không có gì quan trọng.
Tôi có đào ngũ chuồn về hậu phương đâu!
Cơ-ra-me
một mực can ngăn Pa-ven:
- Thế
chú cho kỷ luật là cái gì? Pa-ven ạ, chú có nhiều ưu điểm, song chú phải cái
tính vô chính phủ. Chú thích sao, chú làm vậy. Chú quên rằng Đảng và Đoàn thanh
niên dựa vào kỷ luật sắt ư? Đảng trên hết. Đảng cần mình ở đâu thì mình phải ở
đấy, chứ không phải mình muốn ở đâu thì ở. Đồng chí trung đoàn trưởng đã không
cho phép chú đổi đơn vị nữa rồi phải không? Thế là quyết định rồi, không bàn gì
nữa.
Cơ-ra-me
người mảnh khảnh dong dỏng cao, nước da vàng nhợt, ho sù sụ vì xúc động. Bụi
chì của nhà in đã ngấm sâu vào hai lá phổi, thỉnh thoảng những quầng đỏ tật
bệnh của chứng lao lại hiện trên đôi má. Khi Cơ-ra-me dứt cơn ho, Pa-ven nói
thấp giọng, nhưng cương quyết:
- Tất cả
những điều đồng chí nói đều rất phải, song mai tôi sẽ cứ sang đoàn kỵ binh
Bu-đi-on-ny, thật đấy!
Và tối
hôm sau không còn bóng Pa-ven bên đống lửa trú quân nữa.
*
Ở thôn
bên, trước cửa trường học trên gò cao, các chiến sĩ kỵ binh tập hợp thành một
vòng lớn. Một chiến sĩ kỵ binh khỏe mạnh thuộc đơn vị Bu-đi-on- ny ngồi mé sau
chiếc xe ngựa, mũ cát-két hất ra sau gáy, đang kéo rên rỉ chiếc đàn gió. Trong
tay đồng chí ấy chiếc đàn kêu rú lên, nhịp điệu hỗn loạn, làm lạc cả bước chân
của chiến sĩ mặc chiếc quần thủng màu đỏ đang nhảy một cách điên cuồng điệu
nhảy dân gian xứ U-cơ-ren.
Trai gái
trong làng tò mò kéo ra, leo lên chiếc xe ngựa và những hàng rào bên cạnh để
xem những nhà vũ đạo rất liều của lữ đoàn kỵ binh vừa mới đến đóng ở làng này.
-
Tốp-tan ơi! Kéo hăng lên nào! Làm một quắn nữa chứ! Cho thêm chất nóng vào đi!
Nhưng
những ngón tay to lớn của anh bộ đội kéo đàn gió, chỉ quen gò móng ngựa, nên
ngó ngoáy một cách khó nhọc trên phím đàn.
Anh
chiến sĩ da rám nắng đang nhảy, bỗng than phiền:
- Chà,
tiếc thằng Cu-láp-cơ quá. Quân thổ phỉ Ma- khơ-nô khốn kiếp đã giết chết mất
cậu ấy. Cu-láp- cơ kéo đàn gió còn phải nói. Hạng nhất... Chiến đấu luôn luôn
đi hàng đầu trung đội mình. Tiếc cậu ấy quá! Vừa là một chiến sĩ cừ, vừa là một
tay chơi nhạc giỏi.
Pa-ven
cũng đứng trong đám dự cuộc vui. Nghe mấy lời vừa rồi, anh liền len đến chiếc
xe ngựa, lấy tay ấn vào hòm xếp của chiếc đàn. Tiếng đàn im bặt. Chiến sĩ kéo
đàn gió quắc mắt nhìn anh:
- Cậu
muốn gì?
Tốp-tan
ngừng lại, không kéo nữa, làm mọi người chung quanh nhao nhao, giọng không bằng
lòng nổi lên:
- Cái gì
thế? Sao dừng lại thế?
Pa-ven
chìa tay về phía dây kéo đàn:
- Đưa
cho mình chơi một lát.
Tốp-tan
nhìn người đồng đội lạ mặt với cặp mắt hoài nghi do dự, rồi gỡ dây đeo khỏi
vai.
Bằng một
cử chỉ quen thuộc, Pa-ven để đàn lên gối. Anh dìu dặt kéo nếp đàn lượn khúc mở
ra hình cánh quạt, rồi sau từng nấc, từng nấc dồn dập, Pa- ven dạo bản nhạc với
tất cả sức mạnh của chiếc đàn:
"Quả
táo hồng hồng
Mày lăn
đằng nào
Lăn vào
Sê-kha
Chẳng ra
được sớm"
(Sê-kha:
Cơ quan đặc biệt chống phản cách mạng trong những năm đầu của chính quyền
Xô-viết)
Tốp-tan
cất giọng bắt ngay lấy điệu hát quen thuộc. Anh dang hai tay lên như hai cánh
chim, lượn vòng tròn, hai chân đập vào nhau, tay vỗ chan chát vào ống giày vào
gối, vào sau gáy, vào trán, vào đế giày và cuối cùng vào cái mồm đang hát to.
Tiếng
đàn gió rung lên, kích thích, thúc giục chiến sĩ đang nhảy trong điệu hùng
mạnh, hừng hực, tới tấp như những luồng gió cuồng liên tiếp. Tốp-tan bắt đầu
quay tít đi như con cù đinh, vừa quay vừa nhảy một vòng tròn hết chân nó đến
chân kia đá vút vào không khí, miệng hét lên đến hết hơi:
- Hích
hắc! Hích hắc!
*
Ngày
mồng năm tháng Sáu năm 1920, sau mấy cuộc giao chiến chớp nhoáng nhưng khốc
hệt, tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất, do Bu-đi-on-ny chỉ huy, đã chọc vỡ phòng
tuyến Ba Lan ở điểm đóng giáp nhau của quân đoàn thứ hai và quân đoàn thứ tư
của địch, đánh tan được lữ đoàn của tướng địch Xa-vi-ski và thừa thế tiến về
hướng Ru-gin.
Bộ chỉ
huy Ba Lan muốn đối phó với cuộc tiến quân đột phá ấy liền hối hả cho lập một
đội xung kích. Năm xe tăng bọc sắt chở từ xe lửa tới ga Pô-gờ-rê- bích cấp tốc
đến tiếp viện.
Chúng
chuẩn bị đối phó ở Da-rút-nhích, nhưng kỵ binh Hồng quân đã vòng qua
Da-rút-nhích, lọt vào hậu phương của các quân đoàn Ba Lan.
Chúng
tung sư đoàn kỵ binh Ba Lan do tướng Coóc- nhi-ski chỉ huy ra đuổi theo vết
chân tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn kỵ binh
Coóc-nhi-ski có nhiệm vụ đánh tập hậu bằng được vào cánh quân đỏ mà bộ chỉ huy
Ba Lan cho là có ý định tấn công vào Ca-da-chin, điểm chiến lược trọng yếu nhất
của hậu phương Ba Lan. Nhưng kế hoạch đó cũng không cứu vãn nổi tình hình nguy
ngập của quân bạch vệ Ba Lan. Tuy ngày hôm sau quân Ba Lan có lấp được chỗ trận
tuyến bị chọc thủng và khép được phòng tuyến sau đường đánh thọc của kỵ binh đỏ
nhưng lúc đó trong lòng hậu phương của chúng, cả một đoàn quân đỏ mạnh như vũ
bão đã hoành hành rồi. Tập đoàn quân này sau khi đã tiêu diệt các căn cứ hậu phương
của địch, tiến lên đánh vào những lực lượng của Ba Lan đóng ở Ki-ép. Dọc đường
tiến quân, các sư đoàn kỵ binh đỏ đã phá hủy các cầu và đường sắt để chặn đường
rút lui của quân Ba Lan.
Theo tin
tù binh khai thì tham mưu quân đoàn địch đóng ở Gi-tô-mia, nhưng thật ra ở đấy
là cả bộ tham mưu mặt trận của địch. Chỉ huy tập đoàn quân kỵ binh của ta quyết
định chiếm lấy những đầu mối đường xe lửa quan trọng và những trung tâm hành
chính quan trọng là Gi-tô-mia và Béc-đi-sép. Và ngày mồng bảy tháng Sáu, khi
trời vừa tảng sáng, sư đoàn kỵ binh thứ tư của ta đã ập đến Gi-tô-mia.
Pa-ven
được bổ sung vào một trung đội kỵ binh, đi xung kích thay chân Cu-láp-cơ đã hy
sinh. Cả tập thể chiến sĩ không muốn rời bỏ người kéo đàn gió cừ ấy, nên đã đề
nghị thu nạp anh vào trung đội.
Đến gần
Gi-tô-mia, quân ta chia làm nhiều mũi theo hình cánh quạt đánh tỏa vào. Không
ai muốn ghìm vó ngựa đang phi hăng. Ánh nắng rọi vào lưỡi kiếm, bật ra muôn tia
sáng óng ánh bạc.
Đất
chuyển, ngựa hí, chiến sĩ rướn người trên bàn đạp. Mặt đất chạy lướt nhanh, lùi
lại dưới vó ngựa. Thành phố Gi-tô-mia to lớn có những công viên xinh như chạy
đến đón sư đoàn kỵ mã. Đã vượt qua những vườn hoa ngoại thành. Và giờ đây, sư
đoàn ập vào trung tâm, tiếng thét “xung phong” ghê rợn như thần chết, rung
chuyển không trung.
Bọn Ba
Lan kinh hoàng hầu như không dám chống cự lại. Quân đóng ở đây bị tiêu diệt tan
tành.
Pa-ven
cúi rạp xuống bờm ngựa, phi như bay. Bên cạnh là Tốp-tan đang phi trên con ngựa
đen nhánh chân thon.
Mắt
Pa-ven trông thấy nhát kiếm ác liệt của chiến sĩ Tốp-tan quả cảm bổ xuống một
thằng lê dương Ba Lan, tên này không kịp đưa lưỡi lê lên đỡ.
Móng sắt
của vó ngựa nện siết đường phố. Rồi bất chợt, ở ngã tư, một khẩu súng máy nhô
ra. Ba tên mặc binh phục xanh, đầu đội ca-lô cúi rạp trên khẩu súng, một tên
nữa, cổ áo có dải vàng như con rắn, chĩa súng lục nhằm bắn những người đi ngựa.
Không
ghìm được dũng mã, cả Tốp-tan lẫn Pa-ven cứ lao tới khẩu súng, đi thẳng vào
nanh vuốt của thần chết. Thằng sĩ quan cầm súng lục nhằm thẳng Pa-ven. Bắn
trượt... Đạn víu như chim sẻ kêu, sượt qua má. Và thằng sĩ quan địch bị ngựa xô
ngã lộn nhào, đầu vập xuống đường đá. Cùng lúc ấy, những súng máy hối hả nhả
đạn như bật ra những dịp cười điên cuồng ghê rợn. Như bị đàn ong bằng sắt châm
đốt, Tốp-tan và ngựa bị trúng chừng chục viên đạn ngã nhào xuống cả người lẫn
ngựa.
Con ngựa
của Pa-ven hoảng sợ, rống lên, cất vó nhảy chồm qua xác người và ngựa của
Tốp-tan, rơi vào giữa bọn giặc giữ súng máy. Mũi kiếm Pa-ven hoa lên một vòng
sáng rực, xả vào một chiếc ca-lô-xanh. Lưỡi kiếm lại vung lên không, nhằm bổ
vào một chiếc đầu khác. Nhưng con dũng mã đang phi hăng đã nhảy tót sang bên.
Như thác
lũ tràn về cả trung đội ập đến ngã tư này, hàng chục mũi kiếm hoa lên ngang dọc
trên không...
Những
hành lang hẹp và dài của nhà pha Gi-tô- mia vang ầm những tiếng kêu hét.
Trong
các xà-lim đầy ắp những người bị giam, mặt hốc hác, đau khổ. Ngoài phố đang
đánh nhau to, có thể nào tin được là giải phóng đến nơi? Có thể nào tin được
đấy là quân mình đã bất ngờ từ đâu hiện đến?
Trong
sân nhà pha đã có tiếng súng nổ rồi. Dọc các hành lang, người chạy vội vã. Rồi
có tiếng đột ngột nói lên thân thiết, vô cùng thân thiết.
- Ra đi,
các đồng chí ơi!
Pa-ven
dừng lại trước tấm cửa đóng kín. Hàng chục cặp mắt nhìn qua lỗ nhỏ. Hăng máu
lên, Pa-ven dùng báng súng cố ghè khóa cửa. Ghè nữa, ghè nữa!
- Để tớ
làm cho. Lấy mìn mà phá. - Mi-rô-nốp gạt Pa-ven sang bên, rồi thò tay rút quả
lựu đạn trong bao ra.
Trung
đội trưởng Xi-ga-sên-cơ giằng lấy quả lựu đạn:
- Dừng
lại, đồ ngốc! Mày điên à? Đợi mang chìa khóa mở đến. Không bẻ được đâu, để
người ta lấy khóa mở cho chúng mình.
Bọn canh
ngục, có súng ta gí sau lưng, bị dẫn đến mở khóa xà-lim. Hành lang một lát đã
đầy những người quần áo tả tơi, lâu ngày không được tắm rửa. Lòng họ đang vui
như điên.
Pa-ven
mở rộng cửa sắt, chạy vào nhà giam.
- Các
đồng chí ơi! Các đồng chí đã được giải phóng rồi! Chúng tôi là chiến sĩ kỵ binh
của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn chúng tôi đã chiếm được thành phố rồi.
Một
người đàn bà, nước mắt giàn giụa, ôm chầm lấy Pa-ven như ôm người nhà thân
thiết, khóc nức nở.
Giải
phóng bằng ấy đồng chí bôn-sê-vích của mình, đối với các chiến sĩ của sư đoàn,
thật quý hơn tất cả mọi thứ chiến lợi phẩm, quý hơn cả chiến thắng. Trong những
hộp bằng đá này, bọn Ba Lan trắng nhốt của ta năm ngàn bảy mươi mốt đồng chí
bôn-sê-vích đang đợi ngày chúng đem đi bắn hay đi treo cổ và hai ngàn chính trị
viên Hồng quân. Đối với bảy ngàn chiến sĩ cách mạng được giải phóng ấy, đêm tối
không cùng vừa qua phút chốc đã chuyển ngay thành ánh sáng chan hòa của một
ngày tháng Sáu tươi nắng.
Một đồng
chí bị giam mặt vàng như vỏ chanh ủng, sung sướng chạy đến gặp Pa-ven. Đấy là
Xa-miên Lê-khe, người thợ sắp chữ ở xưởng in Sê-pê-tốp-ca.
Nghe
Xa-miên kể chuyện, mặt Pa-ven cứ xám dần. Một tấn thảm kịch đẫm máu đã xảy ra ở
thị trấn quê hương. Mỗi tiếng Xa-miên nói ra rơi vào lòng anh như từng giọt sắt
nung lỏng.
- Có một
thằng khiêu khích khốn nạn báo, nên chúng tôi bị tóm tất cả. Cả bọn chúng tôi
rơi vào tay hiến binh. Chúng nó đem ra tra tấn ngay rất dã man. Tôi bị đau ít
hơn các đồng chí khác: Vì bị chúng nó đánh mấy tua đầu là tôi lăn ra bất tỉnh
ngay. Còn các cậu khác thì khỏe hơn tôi... Cũng chẳng có gì mà giấu chúng nó
nữa. Bọn sen đầm biết mọi chuyện hơn cả chúng tôi kia. Chúng nắm được chẳng sót
một tý gì.
Làm sao
mà chúng không biết, khi có một thằng chó phản bội đã len được vào tổ chức. Kể
đến chuyện những ngày đó thật đau lòng. Những anh chị em bị bắt, Pa-ven quen
biết gần hết đấy. Va-li-a Bơ-ru- giắc, Rô-da Gơ-rít-sman, người ở quận lỵ, anh
nhớ ra Rô-da chứ, một cô bé con, một nữ thanh niên mười bảy tuổi, can đảm lắm,
có đôi mắt người ta cứ nhìn vào là tin ngay, rồi đến Xa-sa Bun-sáp, Pa-ven nhớ
chứ, thợ sắp chữ ở chỗ chúng tôi ấy mà, một thằng bé vui tính lắm, lúc nào cũng
vẽ nghịch lão chủ xưởng. Cậu ấy rồi đến hai học sinh nữa: Nô-vô-xen-ki và Tu-
gít. Những người ấy Pa-ven đều biết cả. Còn những người khác là người ở quận và
ở thôn ngoại ô. Hai mươi chín người tất cả, trong đó có sáu phụ nữ. Ai cũng bị
đánh dã man hết sức. Va-li-a và Rô-da bị chúng hiếp ngay hôm đầu. Thôi thì quân
khốn kiếp tha hồ làm nhục hai người con gái tội nghiệp. Lúc chúng nó lôi hai
người về xà-lim thì đã chết dở cả. Sau lần đó, Rô-da bắt đầu nói huyên thuyên
và vài hôm sau thì phát điên hẳn.
Song
quân giết người không muốn tin là chị điên. Cho là giả vờ, mỗi lần hỏi cung,
lại đánh chị tàn tệ. Hôm chúng đem chị đi bắn, thật nhìn mà ghê sợ. Mặt bị đánh
thâm tím khắp cả, đôi mắt dữ và dại đi. Trông y như một bà lão.
Va-li-a
cho đến lúc chết vẫn hiên ngang. Anh chị em đã chết ra cái chết của những chiến
sĩ chân chính. Tôi không biết anh chị em đó đã lấy đâu ra sức mạnh mà dũng cảm
phi thường như vậy. Pa-ven ơi! Có tài nào thuật lại được hết về cái chết của
họ? Không, Pa- ven ạ. Cái chết của họ ghê gớm hơn tất cả những lời kể lại...
Va-li-a nguy nhất trong bọn: Chị phụ trách bắt liên lạc với cánh làm vô tuyến
điện cho tham mưu Ba Lan. Chị được phái đến quận để bắt liên lạc. Chúng vào
khám nhà chị thấy khẩu Bơ-rao-ninh và hai quả lựu đạn. Súng lục và lựu đạn đó
chính do tên khiêu khích đã đưa cho chị. Chúng nó bày trò ra tất cả, để buộc
tội chị âm mưu dùng mìn ám sát ban tham mưu.
Pa-ven
ạ, tôi thật đau lòng mà kể lại những giờ phút cuối cùng của anh chị em, nhưng
Pa-ven đã yêu cầu thì tôi xin kể hết. Tòa án binh của chúng đã tuyên án:
Va-li-a và hai người làm việc với chị thì bị treo cổ, những đồng chí khác thì
xử bắn.
Những
lính Ba Lan mà chúng tôi đã vận động được bị đem ra xử trước chúng tôi hai
ngày.
Đồng chí
vô tuyến điện tên là Snê-guốc-cô liên lạc với Va-li-a bị buộc tội phản quốc và
tuyên truyền cộng sản trong binh lính. Đồng chí người còn trẻ, đóng cai, trước
chiến tranh làm thợ máy điện ở Lốt. Chúng kết tội xử bắn. Đồng chí từ chối
không ký giấy chống án, và bị đem đi bắn ngay, hai mươi bốn giờ sau khi tuyên án.
Va-li-a
bị gọi đến làm chứng xử vụ Snê-guốc-cô, về có kể lại là Snê-guốc-cô nhận đã
tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, song cực lực phản đối án kết tội anh là phản
quốc. Anh nói:
“Tổ quốc
của tôi là nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa Ba Lan. Phải, tôi là đảng
viên Đảng cộng sản Ba Lan, bị cưỡng ép mà đi lính. Vào lính, tôi phải tìm hết
cách để mở mắt cho các bạn đồng ngũ cũng bị ép ra mặt trận như tôi. Các ông
viện cớ đó muốn treo cổ tôi thì treo cổ, nhưng không bao giờ tôi phản bội Tổ
quốc của tôi, không bao giờ cả. Duy có một điều: Tổ quốc của các ông và Tổ quốc
của tôi không phải là một. Tổ quốc của các ông là tổ quốc của bọn vương bá. Tổ
quốc của tôi là Tổ quốc của thợ thuyền và dân cày. Tổ quốc của tôi - phải,
tương lai sẽ có Tổ quốc của tôi, tôi tin tưởng sâu xa điều đó. - Trong Tổ quốc
của tôi, không ai nói rằng tôi là phản quốc cả”.
Bị kết
án xong, chúng tôi bị giam tập trung vào một chỗ. Trước khi bị đem đi hành
hình, chúng lại chuyển chúng tôi về nhà pha. Đêm trước chúng trồng cột treo cổ
ngay trước nhà pha bên cạnh nhà thương. Chỗ bắn lại ở nơi khác, hơi xa đấy, bên
rừng, gần con đường men theo bờ lạch. Chúng đã đào sẵn một cái huyệt chung để
vùi chúng tôi.
Bản án
dán khắp nơi, trong thành phố ai cũng biết. Chúng rắp tâm định hành án chúng
tôi giữa ban ngày, có mặt dân, để cho nhân dân ai cũng trông thấy mà sợ. Từ
sáng sớm, chúng lùa hàng phố ra chỗ cột treo cổ. Một số người vì tò mò mà kéo
đến. Trông xử treo cổ ghê mắt thật, nhưng họ vẫn đến. Quần chúng vây quanh
những cột treo cổ đông lắm. Nhìn đâu cũng thấy đầu người như sóng biển. Pa-ven
nhớ có cái tường bao quanh nhà pha bằng gỗ cây ghép đấy nhỉ. Cột treo cổ trồng
dựa lưng vào nhà pha cho nên chúng tôi nghe rõ tiếng rào rào của đám đông bên
ngoài. Trên đường phố, phía sau lưng quần chúng, đã đặt sẵn súng máy, sen đầm
đi ngựa và đi chân đều dồn về đây canh gác. Một tiểu đoàn bộ binh vây lấy các
vườn rau và các thành phố. Chúng đã đào sẵn một hố riêng chôn những người bị
treo cổ ngay bên cột treo cổ. Chúng tôi im lặng chờ đợi trong ngục, thỉnh
thoảng nói với nhau vài lời. Đêm hôm trước, chúng tôi đã nói hết mọi chuyện với
nhau rồi và đã gửi nhau lời vĩnh biệt. Chỉ có Rô-da đứng lẩm bẩm một mình ở góc
tường. Va-li-a bị đánh, bị hiếp, kiệt sức không bước được nữa, thường phải nằm
liệt một chỗ. Có hai chị em ruột, đảng viên ở thôn ngoại ô, ôm lấy nhau chào
vĩnh biệt và không nén nổi, nấc lên khóc nức nở. Stê-pa-nốp, một thanh niên ở
quận khỏe như đô vật, khi mới bị bắt đã choảng hai tên sen đầm bị thương, nghe
khóc, lại gần hai chị ấy, nhắc đi nhắc lại: “Đừng khóc, các đồng chí! Nếu khóc
ở đây để chốc nữa đừng khóc ngoài kia thì các đồng chí cứ khóc. Đừng cho đàn
chó khát máu thấy chúng ta yếu lòng mà chúng phởn bụng. Thế nào thì chúng cũng
chẳng thương gì chúng ta đâu, thế nào rồi cũng chết. Vì vậy phải chết cho cứng
cỏi. Đừng có ai trong chúng ta được quỳ gối, cúi đầu cả. Các đồng chí nhớ lấy,
chết thì phải chết cứng cỏi”.
Rồi
chúng đến dẫn chúng tôi đi. Đi đầu là thằng Sơ-vác-cốp, trưởng ban phản gián
trắng, một thằng cuồng dâm điên loạn, một đứa trông thấy đàn bà nếu chính nó
không đè ra hiếp, thì cũng để cho lũ sen đầm hiếp ngay trước mặt để nhìn cho
sướng mắt. Từ nhà ga ra đến cột treo cổ, xếp song song hai hàng rào sen đầm.
Bọn “vện” đeo lon vàng ấy đứng nghiêm, gươm tuốt trần sáng loáng.
Chúng nó
lấy báng súng dồn chúng tôi ra sân nhà pha, rồi bắt chúng tôi xếp hàng tư điệu
ra chỗ cột treo cổ, định tâm bắt chúng tôi phải chứng kiến cái chết của đồng
chí mình, trong khi chờ đợi đến lượt mình đi chết. Cột treo cổ bằng những thanh
gỗ to sù, cao dựng đứng, lủng lẳng ba thòng lọng bằng thừng to bện lại. Chung
quanh, biển người náo động, xì xào. Dân nhìn chúng tôi... Chúng tôi nhìn dân.
Mỗi người nhận ra người nhà của mình.
Xa xa,
trên thềm cao, tất cả bọn quý tộc Ba Lan đã ngồi chầu sẵn, tay cầm ống nhòm.
Nhiều đứa là võ quan. Chúng đến xem treo cổ người bôn-sê-vích.
Dưới
chân chúng tôi, tuyết êm lắm, rừng chung quanh trắng xóa, cây cối như có bông
bao phủ, hoa tuyết quay tròn rơi từ từ và tan trên da mặt nóng bừng của chúng
tôi. Bệ dưới cột treo cổ cũng có tuyết. Mặc phong phanh mà chúng tôi cũng chẳng
thấy rét, Stê-pa-nốp cũng không biết là chân mình chỉ đi tất không mang giày.
Tên
chưởng lý tòa án binh và các sĩ quan cao cấp đứng trước cột treo cổ. Rồi chúng
dẫn Va-li-a và hai người nữa bị xử treo cổ ra khỏi nhà giam. Ba người khoác tay
nhau, Va-li-a đi giữa. Hai người đỡ cho chị đi, chị không còn sức nữa, cố lê
bước chân, mình không áo khoác, trần một chiếc áo sợi. Chị cố đi thẳng người,
có lẽ chị đang nhớ tới lời Stê-pa-nốp: “Phải chết cho cứng cỏi!” Thằng
Sơ-vác-cốp trông thấy ba người tử tù khoác tay nhau mà đi thì lấy làm cáu lắm.
Nó gạt hai người đàn ông đỡ chị ra. Chị cự lại nó ngay. Thế là có một thằng sen
đầm đi ngựa đến quất roi da vào mặt chị, tay này mỏi hắn lại đưa roi sang tay khác
quất lấy quất để.
Trong
đám quần chúng có một người đàn bà rú lên, tiếng rú của một người mất trí khôn,
bà ta lăn xả vào lách qua hàng rào lính, chạy đến hàng người bị xử, nhưng bà bị
giữ lại và bị dẫn đi đâu không rõ. Chắc là bà mẹ chị Va-li-a. Khi ba người đến
dưới chân cột treo cổ, Va-li-a cất tiếng hát. Chưa bao giờ tôi được nghe thấy
một giọng hát như thế. Chỉ có một người bị xử tử, dũng cảm đi ra trước cái
chết, mới hát say mê đến nhường ấy được. Va-li-a cất tiếng hát lên Bài hát của
người dân thành Vác-xô-vi. Hai người cùng bị tội với chị đồng thanh hát theo.
Thế là bọn sen đầm quất roi như bão táp vào mặt họ thật cực kỳ hung tợn. Nhưng
họ dường như không biết đau nữa. Rồi bọn chúng đánh họ ngã lăn ra, lôi lại cột
treo cổ như lôi những bì gạo. Chúng hấp ta hấp tấp đọc bản án, rồi vứt thòng
lọng vào cổ họ. Thế là đến lượt chúng tôi hát lên.
Vùng
lên, hỡi các nô lệ ở thế gian!...
Chúng nó
tứ phía bổ lại nện chúng tôi túi bụi. Tôi chỉ còn kịp trông thấy một tên lính
lấy báng súng đánh bật cọc giữ chân ra và ba thân người lủng lẳng, giãy giụa ở
đầu dây thừng treo cổ.
Mười
người trong bọn tôi, trong số đó có tôi được ân giảm: Khi chúng tôi đã bị đứng
lấp quay mặt vào tường để ăn đạn chì, thì chúng đọc cho chúng tôi nghe lệnh của
tên tướng cho giảm xuống mười năm khổ sai thay vào tội xử tử. Mười bảy đồng chí
kia bị bắn chết gục bên cạnh chúng tôi.
Xa-miên
cởi giật cúc áo cổ dường như bị nghẹt thở, rồi kể tiếp:
- Trong
ba ngày, những người bị treo cổ cứ lủng lẳng ở đấy, ngày đêm có một tiểu đội
lính gác bên cột treo cổ. Anh em bị bắt vào sau cho chúng tôi biết như thế. Đến
ngày thứ tư thì xác đồng chí Tô-bôn- đin nặng nhất rơi xuống. Bấy giờ, chúng
mới cởi hai cái xác kia, chôn ngay tại chỗ. Còn cột treo cổ vẫn để đấy, hôm
chúng dẫn bọn tôi vào đây, bọn tôi vẫn còn trông thấy. Cả cột lẫn dây thòng
lọng vẫn còn nguyên để đợi những người khác bị xử tử.
Xa-miên
ngừng kể, mắt nhìn chằm chằm vào một cái gì mơ hồ ở đằng xa. Câu chuyện kể hết
vào lúc nào, Pa-ven cũng không để ý nữa. Trước mắt anh hiện rõ ra hình ảnh ba
xác người, đong đưa, im lặng, đầu rũ về bên một cách thê thảm.
Ngoài
kia, kèn gọi tập hợp. Tiếng kèn oai hùng đưa anh về với thực tại. Anh nói khẽ,
tiếng bật ra trong hơi thở.
-
Xa-miên ạ, chúng ta ra khỏi đây đi thôi!
Ngoài
phố, tù binh Ba Lan lê bước giữa hai hàng kỵ binh của ta áp giải. Ở cửa trại
giam, đồng chí chính ủy trung đoàn đứng viết nốt mệnh lệnh vào cuốn sổ tay đi
trận. Đồng chí đưa mảnh giấy cho người trung đội trưởng thấp lùn:
- Danh
sách tù binh đây, đồng chí An-ti-pốp cầm lấy. Lấy một tổ đi theo và áp giải họ
về Nô-vô-gơ-rát.
-
Vô-lưn-xki. Cho băng bó những người bị thương, rồi đặt họ nằm trên xe và cũng
đưa về đấy cả. Áp giải họ chừng hai mươi dặm, sau đó để họ tự đi tiếp. Ở đây
chúng ta còn bận việc khác. Song cẩn thận nhé, đừng để xảy ra chuyện gì ngược
đãi đối với họ.
Pa-ven
lên ngựa, quay bảo Xa-miên:
- Anh
nghe rõ chứ? Chúng nó treo cổ anh chị em ta, mà chúng ta thì dẫn họ đi không
được ngược đãi họ! Không dễ như thế đâu!
Đồng chí
chính ủy quay lại, nhìn vào mặt Pa-ven và đồng chí nói những tiếng gọn, rắn
rỏi, như nói với chính mình:
- Ai
ngược đãi tù binh giải giáp rồi sẽ bị xử bắn. Chúng ta không có như bọn bạch
vệ.
Rời trại
giam, Pa-ven nhớ lại những lời cuối trong bản mệnh lệnh của Hội đồng quân sự
cách mạng đã đem ra đọc trước toàn thể trung đoàn:
“Đất
nước của thợ thuyền và dân cày yêu mến Hồng quân của mình và lấy làm tự hào về
Hồng quân. Đất nước đòi hỏi phải giữ cho lá cờ của Hồng quân trong sạch, không
một vết nhơ”.
Pa-ven
nhủ thầm trên môi: “Không một vết nhơ”.
*
Trong
khi sư đoàn kỵ binh đỏ thứ tư chiếm lĩnh Gi-tô-mia thì lữ đoàn thứ hai mươi của
sư đoàn khinh binh thứ bảy vượt sông Đơ-nhi-ép ở quãng thôn Ô- cu-nhi-nô-vô. Lữ
đoàn thứ hai mươi này nhập vào binh đoàn xung kích của đồng chí Gô-li-cốp.
Đoàn này
gồm có sư đoàn khinh binh 25 và lữ đoàn kỵ binh Ba-sơ-kia, nhận lệnh sau khi
vượt sông Đơ- nhi-ép, thì cắt đường rút quân của địch từ Ki-ép đến Cô-rô-ten,
gần ga La-sa. Do thế vận động đó mà quân Ba Lan mất đường rút lui duy nhất.
Chính trong cuộc vượt sông Đơ-nhi-ép này mà Mi-sa, người thanh niên cộng sản
thành Sê-pê-tốp-ca, đã hy sinh.
Lúc ấy
bộ đội như đang chạy thi vượt nhanh nhịp cầu nổi rung rinh, thì có một quả đại
bác, từ phía đằng kia, sau ngọn đồi, rú lên, ghê rợn, bay trên đầu các chiến sĩ
rồi rơi tõm xuống nước. Mi-sa bị bắn, người lộn nhào ngay xuống dưới đáy một
chiếc thuyền làm cầu. Dòng nước cuốn nuốt chửng anh đi không buông tha nữa. Chỉ
có I-a-ki-men-cô, một thanh niên tóc vàng hoe, đội mũ mất lưỡi trai, kêu lên
kinh ngạc:
- Cậu
không trông thấy gì à? Mi-sa bị nước cuốn mất rồi. Tội nghiệp thằng bé rơi
xuống đã biến mất, như bị con bò thè lưỡi liếm phăng đi! - I-a-ki-men- cô đứng
sững lại, hoảng hốt, nhìn dòng nước thăm thẳm, nhưng đoàn quân từ phía sau tiến
lên xô tới, giục anh:
- Sao
cậu đứng há mồm ra nhìn như thằng ngố thế? Tiến lên đi nào!
Thời giờ
không có để mà suy nghĩ về người đồng đội mất tích ấy nữa: Lữ đoàn của họ đã bị
các đơn vị khác chiếm xong bên hữu ngạn, bỏ rớt lại xa rồi.
Bốn ngày
sau, Xéc-gây mới biết tin bạn chết. Khi đó lữ đoàn đã chiếm được ga Bu-sa và
chuyển thế trận quay sang Ki-ép, chống lại những đợt tấn công ác liệt của quân
Ba Lan đang tìm cách đánh thọc vào Cô-rô-ten.
I-a-ki-men-cô
nằm ngay cạnh cùng hàng xạ kích với Xéc-gây. Anh ngừng nhịp bắn điên giận, đẩy
quy- lát một cách khó nhọc trên nòng súng nóng bỏng, cúi đầu xuống đất, quay
lại nói với Xéc-gây:
- Khẩu
súng của mình nó đòi nghỉ. Ái chà nòng súng nóng như lửa!
Tiếng nổ
ầm ầm át đi làm Xéc-gây chỉ thoáng nghe thấy tiếng nói của bạn. Khi tiếng súng
im một lát, I-a-ki-men-cô mới báo tin qua cho Xéc-gây biết:
- Bạn
cậu bị chết đuối ở Đơ-nhi-ép rồi. Lúc ấy một quả đại bác bắn tung tóe vào chúng
tớ. Mình chưa kịp kêu lên, Mi-sa đã lăn tòm xuống nước rồi không thấy ngoi lên
nữa.
I-a-ki-men-cô
nói rồi lấy tay kéo quy-lát, móc túi dết lấy đạn ra và vội vã lắp vào súng.
*
Sư đoàn
mười một tấn công vào chiếm lĩnh Béc- đi-sép vấp phải sức kháng cự mãnh liệt
của quân Ba Lan.
Chiến
đấu gay go, máu loang các phố. Liên thanh nổ giòn chặn đường kỵ binh. Nhưng rồi
thành phố cũng bị ta chiếm, tàn quân địch bỏ chạy. Trên ga, ta thu được nhiều
đoàn tàu chở quân trang, quân dụng của chúng. Thiệt hại nặng nhất của địch là
kho dự trữ đạn dại bác của toàn mặt trận chừng một triệu viên bị nổ tung. Các
cửa kính trong phố vỡ vụn ra, nhà cửa bị tiếng nổ mạnh rung chuyển, tưởng như
làm bằng giấy bồi.
Bị đánh
vào Gi-tô-mia và Béc-di-sép đối với quân Ba Lan tức là bị đánh quật từ sau lưng
lại, cho nên chúng vội vàng chia ngay làm hai mũi như hai dòng thác người hấp
tấp chuồn khỏi Ki-ép, cố sống cố chết đánh một cách tuyệt vọng để mở đường chạy
thoát vòng vây sắt của quân ta.
Pa-ven
đã không còn nghĩ gì về cá nhân mình. Những ngày đang sống say sưa trong những
trận xung sát ác liệt, anh hòa hẳn mình vào tập thể và cũng như mỗi người trong
các chiến sĩ, anh như đã quên hẳn tiếng “tôi” chỉ còn nói tiếng “ta” : Trung
đoàn “ta”, trung đội “ta”, lữ đoàn “ta”.
Mà tình
hình thì dồn dập, diễn biến nhanh như gió bão. Mỗi ngày đều mang đến một chuyện
mới. Đoàn kỵ mã lao đến đâu cuốn phăng phăng đến đấy. Đoàn kỵ binh quang vinh
của tướng Bu-đi-on- ny đánh hết trận này đến trận khác, đã làm tiêu hao, kiệt
sức tất cả hậu phương của Ba Lan. Say sưa trước thắng lợi ngày càng một lớn,
các sư đoàn kỵ binh đỏ hùng dũng tấn công vào Nô-vô-gơ-rát-vô-lưn-ski, trái tim
của hậu phương quân địch.
Quân ta
lùi lại như những đợt sóng đập vào bờ sông có đá dựng đứng, bị đẩy ra, rồi lại
chồm lên với tiếng thét “xung phong” mãnh liệt.
Không gì
cứu nổi quân Ba Lan nữa rồi, cả những hệ thống hàng rào dây thép gai và cuộc
kháng cự liều chết cố sống của quân giữ thành này cũng chẳng ăn thua gì. Sáng
hai mươi bảy tháng Sáu, quân kỵ mã của ta thúc ngựa lội qua sông Xi-lút, ập vào
thành, truy kích quân địch ở phía làng Cô-rét. Cùng lúc ấy, sư đoàn bốn mươi nhăm
cũng vượt qua sông này ở quãng Mi-rô-pôn, còn lữ đoàn kỵ binh Cô-tốp-ski thì đã
phóng tới Lu-ba.
Vô tuyến
điện của tập đoàn quân kỵ mã thứ nhất nhận được lệnh của Bộ tư lệnh mặt trận:
Đưa toàn bộ quân kỵ mã xung phong chiếm lấy Rốp-nô. Cuộc tấn công ồ ạt không
sức gì cản nổi của các sư đoàn đỏ truy kích quân Ba Lan, làm chúng bị chia cắt
tán loạn, rời rạc, mất tinh thần, cố chạy dài bán sống bán chết để tháo thân.
Một hôm,
Pa-ven được lữ đoàn trưởng phái đến chỗ ga có đoàn xe bọc sắt đỗ. Tới đấy, anh
được gặp một người mà anh không ngờ là có thể gặp. Con ngựa của anh nhảy tót
qua bờ dốc của đường xe lửa. Pa- ven kéo cương dừng lại trước toa xe đầu sơn
xám. Đoàn xe bọc sắt kiên cố ghê sợ đứng lù lù, ló những chiếc mõm đen của nòng
súng giấu trong tháp pháo. Chung quanh nhiều bóng người bê bết dầu mỡ đang loay
hoay ỳ ạch nâng những tấm thép nặng bọc ngoài bánh.
Gặp một
chiến sĩ mặc áo da đang xách thùng nước, Pa-ven hỏi:
- Đồng
chí có biết đồng chí chỉ huy đoàn tàu bọc thép này ở đâu không?
Chiến sĩ
kia hất đầu chỉ về phía đầu tàu:
- Ở đằng
kia kìa.
Pa-ven
đi lại đầu tàu hỏi:
- Ở đây
ai là đồng chí chỉ huy xin cho biết.
Một
người mặc toàn đồ da từ đầu đến chân, mặt rỗ, quay lại:
- Tôi
đây.
Pa-ven
thò vào túi lấy ra một phong thư:
- Đây là
mệnh lệnh của lữ đoàn trưởng. Đề nghị đồng chí ký nhận trên phong bì cho.
Đồng chí
chỉ huy tì phong bì lên đầu gối ký tên.
Một bóng
người đang cầm bình dầu lúi húi gần bánh xe giữa của đầu máy. Pa-ven chỉ nhìn
thấy cái lưng rộng của người ấy và báng súng lục lòi ra ngoài túi quần da.
Đồng chí
chỉ huy trao lại phong bì cho Pa-ven:
- Gửi
đồng chí. Tôi đã ký nhận rồi đấy.
Pa-ven
cầm dây cương ngựa định ra về. Giữa lúc đó bóng người bên đầu tàu đứng thẳng cả
người lên quay lại. Thì ngay lúc ấy, Pa-ven nhảy tót xuống như thoắt có một cơn
gió cuốn khỏi yên ngựa:
- Anh
A-rơ-chom!
Người
thợ máy khắp người nhọ nhem dầu ma-dút, đặt bình dầu xuống đất và ôm chặt lấy
anh chiến sĩ Hồng quân trẻ tuổi trong cánh tay khỏe như gấu của mình.
-
Pa-ven! Ra mày đấy à, hở thằng nhãi con. - A- rơ-chom kêu lên thế, mắt nhìn còn
ngỡ là nhầm.
Đồng chí
chỉ huy đoàn tàu nhìn cảnh đó rất lấy làm lạ. Anh em pháo thủ chung quanh cười
ran cả lên:
- Trông
kìa, hai anh em gặp nhau.
Ngày
mười chín tháng Tám, trong trận đánh ở vùng Lơ-vốp, Pa-ven để rơi mất mũ
cát-két. Vừa hãm ngựa lại nhặt mũ thì thấy trước mặt các trung đội đỏ đã đánh
thọc vào hàng ngũ khinh binh Ba Lan. Lúc đó, Đê-mi-đốp phi ngựa vun vút giữa
những lùm cây, vừa phi theo bờ dốc xuống sông, vừa kêu lên:
- Sư
đoàn trưởng đã bị chúng giết rồi.
Pa-ven
rùng mình. Đồng chí Lê-tu-nốp, người chỉ huy anh hùng của sư đoàn, người đồng
chí có lòng quả cảm vô biên, người ấy đã mất rồi. Pa-ven căm giận sôi người,
lấy đốc kiếm phát vào mông con ngựa Gơ-nê-đốc, ghì cương chặt, hàm thiếc siết
mạnh làm mõm ngựa bật máu tươi, anh lao sâu vào lòng cơn xung sát, thét lớn:
- Chém
hết đầu loài súc sinh nhơ bẩn ấy đi! Chém đi! Chém hết bọn quý tộc Ba Lan!
Chúng nó đã giết mất Lê-tu-nốp rồi.
Và
Pa-ven chém phập vào bóng một tên mặc binh phục xanh, anh chẳng ngoái lại nhìn
kẻ bị chém đó nữa. Điên tiết lên vì căm thù trước cái chết của sư đoàn trưởng,
quân kỵ mã đỏ chém chết cả một đơn vị lê-dương.
Họ xông
lên đến tận cánh đồng, truy kích lũ giặc đang chạy thì vừa lúc ấy pháo binh
địch bắn tới. Trái phá nổ vừa bung lên xé đứt không trung, mảnh đạn chết người
bắn tung tóe.
Trước
mắt Pa-ven, một ngọn lửa xanh bùng lên, lóe sáng, như chớp lòe xoẹt mạnh bên
tai nghe như tiếng sấm, mảnh đạn đỏ rực cháy sém vào đầu anh. Mắt Pa-ven hoa
lên, đất bắt đầu xoay như chong chóng, ghê sợ, quay cuồng, lảo đảo rồi như ngã
vật xuống bên anh.
Tiếng nổ
rung chuyển mạnh làm Pa-ven bắn khỏi mình ngựa nhẹ như chiếc lông. Anh lăn qua
đầu con ngựa Gơ-nê-đốc, nặng nề ngã nhào ra đất.
Và anh
thấy tối sầm lại.
Thép Đã
Tôi Thế Đấy Phần 1 - Chương 9
Trong
cơn mê man, Pa-ven thấy một con bạch tuộc. Mắt nó lồi lên, to bằng đầu con mèo,
đỏ ngầu, giữa thì xanh, sáng óng ánh một thứ ánh sáng chói lọi. Con bạch tuộc
ngọ nguậy hàng chục những tua càng xoắn lại như rắn rết, lớp vẩy trên da cọ sột
soạt. Con bạch tuộc nhúc nhích bò lên. Pa-ven thấy nó ngay trước tầm mắt mình.
Tua càng của nó bò trên mình anh tê lạnh mà làm người anh ngứa ran nóng bỏng
như bị lá han. Nó chìa vòi ra sắc như gươm rúc vào đầu anh như giống đỉa, co
mình lại giãy lên đành đạch, rồi thì hút máu của anh. Pa-ven cảm thấy dường như
máu mình thấm hết vào cái xác căng trương của con vật. Vòi nó hút máu hút lấy
hút để. Nó chui đến đâu thì anh lại thấy đầu anh đau nhói không tài nào chịu
được.
Có tiếng
người nói văng vẳng ở đâu xa lắm.
- Mạch
cậu ấy bây giờ bao nhiêu?
Rồi có
tiếng người phụ nữ đáp lại, giọng nói càng khẽ hơn:
- Mạch
138. Nhiệt độ 39,5. Không lúc nào ngớt mê sảng.
Con bạch
tuộc đã biến rồi, nhưng đầu anh vẫn còn đau. Pa-ven cảm thấy có ngón tay ai
chạm vào cổ tay mình. Anh cố mở mắt ra, nhưng hai hàng mi nặng trĩu không sao
hé ra được. Mà sao lại nóng thế nhỉ. Chắc là mẹ đốt lò nướng bánh rồi. Vẫn còn
giữa cơn nửa tỉnh nửa mê ấy thì anh lại nghe có tiếng người nói đâu đây:
- Mạch
bây giờ 122.
Anh lại
cố mở mắt ra. Trong người nóng như lửa đốt. Ngột ngạt quá.
Khát quá
đi mất! Anh định ngồi dậy uống nước cho thỏa cơn khát. Nhưng sao không dậy
được? Muốn cựa mình một cái, mà sao cái xác cứ ỳ ra, không nhích được, chẳng
phải là thân thể mình nữa rồi. Anh vẫn còn mê man nghĩ đến mẹ sắp đem nước tới,
anh sẽ nói với mẹ: “Con muốn uống nước”. Có cái gì cựa quậy bên anh. Hay lại
con bạch tuộc rồi. Đấy mắt nó đỏ ngầu kia kìa...
Từ xa có
tiếng nói nhỏ vọng lại:
-
Phơ-rô-xi-a, mang nước lại!
“Phơ-rô-xi-a?
Tên ai đấy nhỉ?” Pa-ven cố nhớ lại xem là tên ai, nhưng sự cố gắng đó lại nhấn
chìm anh vào bóng tối. Anh cố ngoi lên và một lần nữa lại nhớ ra: “Mình khát
lắm”.
Có tiếng
nói:
- Tôi
thấy cậu ta tỉnh lại rồi đấy.
Và ngay
đó có tiếng dịu dàng, lần này nói nghe rõ hơn, gần hơn, hỏi Pa-ven:
- Đồng
chí bệnh binh muốn uống nước phải không?
“Té ra
mình là bệnh nhân hay sao? Hay là không phải người ta nói với mình đâu? Ừ, ta
bị bệnh chấy rận thật rồi mà”. Và lần thứ ba, Pa-ven định mở mắt ra. Lần này
thì mở được. Qua khe nhỏ của bên mắt mở, cảm giác đầu tiên mà anh cảm thấy là
một quả cầu đỏ lơ lửng trên đầu anh, nhưng rồi một vật gì tối om đã che mất;
Bóng tối om ấy cứ cúi xuống gần anh và làn môi anh nhận ra cái thành cứng cửa
chiếc cốc rồi là nước, một thứ nước mát rượi uống tỉnh người. Lửa nóng trong
người nguội đi.
Anh
khoan khoái thì thầm:
- Bây
giờ dễ chịu rồi.
- Đồng
chí bệnh binh! Đồng chí có nhìn thấy tôi không?
Người
hỏi đó chính là cái bóng tối om đang ngả xuống người anh. Pa-ven thiu thiu ngủ,
miệng vẫn còn kịp đáp lại:
- Không
thấy, nhưng nghe thấy.
- Ai có
thể nói là cậu ấy qua khỏi được. Thế mà, cậu ấy hồi lại rồi đấy. Thật là một cơ
thể rắn khỏe lạ thường. Chị Nhi-na ạ, chị có thể tự hào là đã cải tử hoàn sinh
cho cậu ta.
Và giọng
người phụ nữ, xúc động, trả lời:
- Cậu ta
khỏi được, tôi mừng lắm.
Sau mười
ba ngày mê thiếp đi, Pa-ven đã hồi tỉnh lại.
Tấm thân
trẻ của anh không muốn chết sớm, dần dần lại sức. Thật như sống lại; Mọi vật, mọi
thứ đối với anh đều mới lạ khác thường. Chỉ có cái đầu nặng trình trịch nằm
cứng trong hộp bó thạch cao không nhúc nhích. Nhưng cảm giác toàn thân đã trở
lại và những ngón tay anh đã có thể nắm vào duỗi ra rồi.
Nhi-na,
y sĩ của một quân y viện, ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong gian phòng vuông đang
lật từng tờ quyển vở dày bìa trắng bạch. Mỗi trang ghi những dòng nhật ký ngắn,
nét chữ thanh, viết nghiêng:
26 tháng
Tám 1920.
Chuyến
xe lửa quân y hôm nay đưa về một lô chiến sĩ bị thương nặng. Trên giường ở góc
toa, gần cửa sổ, có một chiến sĩ Hồng quân mới mười bảy tuổi bị thương ở sọ.
Tên cậu ta là Ca-rơ-sa-ghin Pa-ven An-đơ-rê- vích. Người ta trao cho tôi những
giấy má tìm thấy trong túi chiến sĩ, bỏ trong một chiếc phong bì, cùng với y bạ
của thầy thuốc. Trong phong bì có một tấm thẻ đã nhàu nát của Đoàn thanh niên
cộng sản U- cơ ren số 967, một cuốn sổ quân bạ đã rách, trong đó có ghi Pa-ven
được tuyên dương vì đã hoàn thành tốt một nhiệm vụ quân báo, và một mẩu giấy có
lẽ chính tay Pa-ven viết:
“Nếu tôi
chết, xin các đồng chí báo cho thân nhân tôi: Thành Sê-pê-tốp-ca, sở đầu máy xe
lửa, ông thợ nguội A-rơ-chom Ca-rơ-sa-ghin”.
Người
thương binh ấy đã bất tỉnh từ lúc bị một mảnh trái phá bắn bị thương, từ ngày
19 tháng Tám. Ngày mai, bác sĩ A-na-tôn Stê-pan-nô-vích sẽ khám bệnh cho cậu
ta.
27 tháng
tám.
Hôm nay
đã xem vết thương của Pa-ven. Sâu lắm, nặng lắm. Hộp sọ bị thủng cho nên cả nửa
đầu bên phải bị liệt hẳn. Mắt phải bị đứt mạch máu, sưng vù lên.
Bác sĩ
giải phẫu A-na-tôn muốn lấy cả mắt đi cho khỏi sưng. Tôi can mãi vì còn có thể
hy vọng chỗ sưng sẽ bớt tấy lên. Bác sĩ đồng ý.
Tôi đề
nghị thế chỉ vì nghĩ đến vẻ đẹp của con người: Nếu cậu ta sống được, thiếu một
mắt là xấu đi bao nhiêu, mà lấy mắt ấy đi có lợi gì đâu.
Người
thương binh trẻ tuổi ấy vật vã, mê hoảng liên miên. Phải cho người gác luôn ở
bên. Tôi để phần lớn thời giờ trông nom cậu ta. Thấy cậu ta trẻ măng mà thương
quá. Ước gì cứu được cậu ta khỏi chết!
Hôm qua
sau khi hết phiên, tôi đã ở lại rất lâu trong phòng cậu ta, vì cậu ta là người
bị nặng nhất. Tôi nghe hết những lời nói mê của cậu ta. Đôi khi nói mê như kể
chuyện ấy. Vì cậu ta mê hoảng mà tôi được biết thêm về đời cậu ta. Nhưng đôi
lúc cậu ta hét chửi ghê quá. Nghe những câu hét chửi như thế ở miệng cậu ta ra,
sao tôi thật đau lòng. Bác sĩ A-na-tôn thì cho là không sao qua khỏi được. Ông
già ấy cứ phàn nàn: “Tôi không hiểu cớ sao người ta lại nhận những thiếu niên
bé tí tuổi đầu như thế vào bộ đội. Thật vô lý”.
30 tháng
Tám.
Pa-ven
vẫn chưa tỉnh. Cậu ta nằm riêng ra một nơi ở buồng những người hấp hối. Chị hộ
lý Phơ-rô- xi-a trông nom cậu ta, không rời cậu ta một bước. Đâu chị có quen
biết cậu ta. Trước kia hai người cùng làm ở một khách sạn. Cô ta phục vụ người
bệnh này hết sức ân cần, hết sức chu đáo. Bây giờ tôi cũng bắt đầu thấy rằng
không có hy vọng gì cứu sống được cậu ta.
2 tháng
Chín.
Mười một
giờ đêm. Hôm nay ngày vô cùng tươi đẹp của tôi! Người bệnh Pa-ven của tôi đã
tỉnh, đã hồi sinh. Qua được độ bệnh trầm trọng nhất rồi. Hai ngày nay, tôi
không về nhà.
Thật tôi
không thể nói hết nỗi vui mừng của mình: Lại cứu sống thêm được một người bệnh
nữa. Thôi thế là bớt được một người chết bệnh trong ban tôi. Trong công tác mệt
nhọc của tôi, nguồn vui trong trẻo nhất là thấy những người bệnh qua khỏi đang
hồi lại sức. Họ quấn quít lấy tôi như một đám trẻ nhỏ.
Tình
thân của họ giản dị, thật thà, và đến khi cùng họ chia tay, nhiều lần tôi phải
khóc. Buồn cười thật, song thật như thế đấy, không sao cầm lòng được.
10 tháng
Chín.
Hôm nay,
tôi viết hộ Pa-ven bức thư thứ nhất gửi cho người nhà cậu ta. Cậu ta bảo tôi
viết là vết thương nhẹ thôi, sắp khỏi và sẽ về thăm nhà. Thật ra, cậu ta mất
nhiều máu lắm, người xanh bệch, hãy còn yếu lắm.
14 tháng
Chín.
Cái cười
thứ nhất của Pa-ven. Cười ngoan lắm. Thường cậu ta có vẻ mặt khắc khổ ít thấy ở
số người cùng lứa tuổi với cậu. Cậu đã bình phục lại nhanh chóng quá, thật
không ngờ. Phơ-rô-xi-a và cậu ta là đôi bạn thân. Tôi luôn thấy Phơ-rô-xi-a ở
bên giường cậu ta. Chắc là cô ấy có nói cho cậu ta biết, tôi đã chăm sóc thế
nào, có lẽ còn nói quá lên nữa. Cậu ta thấy tôi đến thì hớn hở cười.
Hôm qua,
cậu ta hỏi tôi: “Thưa bác sĩ tại sao cánh tay bác sĩ có nhiều vết tím bầm thế”.
Tôi không muốn nói cho cậu ta biết đấy là vết móng tay cậu ta: Trong cơn mê
hoảng, cậu ta ôm ghì lấy cánh tay tôi, cào cấu rất đau.
17 tháng
Chín.
Vết
thương Pa-ven đã khá. Tất cả các thầy thuốc đều ngạc nhiên trước tinh thần chịu
đựng kiên nhẫn khác thường của cậu ta trong những buổi làm thuốc. Thường thường
trong những ca như vậy, người bệnh rên la và khó tính lắm. Thế mà Pa-ven thì
không hề rên la và cho đến khi bôi canh-ki-dết lên vết thương, thì người cậu ta
co lại, căng thẳng như chiếc dây thừng. Thường khi cậu ta ngất đi.
Ở nhà
thương, ai cũng hiểu: Nếu Pa-ven rên la, ấy là cậu ta đã bất tỉnh rồi. Làm sao
mà cậu ta gan thế nhỉ? Tôi cũng không biết nữa.
21 tháng
Chín.
Lần đầu
tiên, Pa-ven được ra ngoài hiên chơi. Người ta đặt cậu ta ngồi trên cái ghế
bành có bánh xe đun. Cậu nhìn vườn hoa bằng con mắt háo hức vô chừng, hít lấy
hít để không khí tươi mát ngoài trời. Mặt cậu ta quấn băng kín mít chỉ để hở
con mắt trái. Con mắt đó sáng và nhanh ngắm nhìn sự vật y như người mới nhìn
thấy lần đầu.
26 tháng
Chín.
Hôm nay,
người ta gọi tôi xuống phòng khách gặp hai cô thiếu nữ. Trong hai cô đó có một
cô rất xinh. Cả hai đều đến xin gặp Pa-ven. Một cô tên là Tô-nhi- a, cô kia là
Ta-chi-a-na. Tôi đã nghe đến tên Tô-nhi- a. Trong lúc mê, Pa-ven hay nhắc đến
tên cô ta. Tôi cho phép vào thăm.
8 tháng
Mười.
Lần đầu
tiên Pa-ven đã đi bách bộ một mình ngoài vườn được rồi. Nhiều lần cậu ta hỏi
tôi khi nào thì ra viện được. Tôi đáp: Chóng thôi. Hai cô bé bạn cậu ta ngày
nào cũng đến thăm.
Giờ tôi
mới biết tại sao cậu ta không rên la. Tôi hỏi thì cậu ta trả lời:
- Bác sĩ
đọc truyện Ruồi trâu tất hiểu.
14 tháng
Mười.
Pa-ven
ra viện. Chúng tôi chia tay nhau một cách rất trìu mến. Băng ở mắt Pa-ven đã bỏ
ra, chỉ còn băng ở trán. Một mắt hỏng, song trông ngoài không ai biết được. Từ
biệt người đồng chí tất ấy, tôi thấy hết sức buồn trong lòng.
Ở bệnh
viện thường như vậy, các anh chị em thương binh chữa khỏi rồi ra đi, xa chúng
tôi để có lẽ rồi không bao giờ gặp nữa. Lúc từ giã, Pa-ven có than thở:
- Giá
hỏng mắt trái thì hơn, bác sĩ ạ! Hỏng mắt phải thế này làm sao còn ngắm bắn
được nữa?
Chưa chi
cậu ta đã nghĩ đến mặt trận rồi.
*
Ở nhà
thương ra, thời gian đầu Pa-ven ở nhà Ta- chi-a-na là nhà bà con với Tô-nhi-a,
Tô-nhi-a về ở đấy trong thời gian đến thăm anh.
Anh nghĩ
ngay đến chuyện đưa dần người yêu vào công tác chung. Một hôm anh rủ Tô-nhi-a
đến dự cuộc họp của Đoàn thanh niên thành phố. Tô-nhi-a nhận lời. Nhưng khi
thấy Tô-nhi-a từ trong buồng riêng bước ra diện rất sang, cầu kỳ nữa, Pa-ven
cắn môi. Anh cảm thấy rất ngượng ngùng khó chịu phải dẫn Tô-nhi-a như thế đến
với các đồng chí của mình.
Thế là
xảy ra sự va chạm đầu tiên giữa hai người. Khi Pa-ven hỏi Tô-nhi-a tại sao lại
ăn mặc như thế, thì Tô-nhi-a không bằng lòng:
- Em
không bao giờ hòa với cái điệu tầm thường của mọi người được. Nếu anh thấy cùng
đi với em không tiện, thì em ở nhà để anh đi một mình.
Ở câu
lạc bộ, giữa anh chị em thanh niên cộng sản mặc toàn quần áo bạc phếch, nhìn
Tô-nhi-a mặc diêm dúa quá, Pa-ven cảm thấy khổ tâm. Các đồng chí coi Tô-nhi-a
như một người xa lạ lạc điệu. Tô-nhi-a cũng cảm thấy thế. Cô nhìn mọi người
bằng cặp mắt khinh bỉ có vẻ khiêu khích.
Anh công
nhân khuân vác Pan-cơ-ra-tốp, vai rộng mặc áo vải bạt thô là bí thư chi đoàn,
kéo Pa-ven ra một chỗ, quắc mắt nhìn anh, rồi nheo mắt về phía Tô-nhi-a:
- Có
phải cậu dắt cái của ấy đến đây phải không?
Pa-ven
đáp lại cộc lốc:
- Phải,
mình đấy.
Pan-cơ-ra-tốp
bĩu môi:
- Chà!
Cái bộ ấy chẳng hợp với chúng mình đâu, sặc mùi tư sản. Sao lại để cho nó vào
đây được cơ chứ?
Pa-ven
cảm thấy hai thái dương nóng rực lên:
- Đấy là
một đồng chí của tôi, và chính tôi đưa đến đây, cậu rõ chưa? Đối với chúng ta,
cô ta không phải là thù địch. Còn về cách ăn mặc, cô ta thích thế, có thế thật.
Song không thể cứ nhìn cách ăn mặc mà chụp mũ cho người ta được đâu. Mình cũng
hiểu như cậu những ai có thể vào đây được. Cho nên chĩa mũi dùi vào nhau thì
không có lợi đâu, đồng chí ạ.
Pa-ven
suýt bốp chát thêm nữa. Song nén được vì hiểu rằng Pan-cơ-ra-tốp đã nói lên ý
kiến chung của anh chị em. Anh quay ra bực với Tô-nhi-a.
“Đã bảo
mà! Cứ thích lên khung lòe loẹt làm gì?”
Từ buổi
tối hôm ấy, tình cảm giữa hai người bắt đầu rạn nứt. Pa-ven nhận ra ngay vết
rạn ngày một to trong tình yêu mà anh tưởng bồi đắp đến thế là bền vững. Anh
ngơ ngác và đau xót.
Qua mấy
ngày, mỗi lần gặp gỡ, mỗi lần trò chuyện lại càng làm không hiểu nhau thêm, hai
bên dần dần cảm thấy đối với nhau lạnh nhạt, có phần không ưa nhau nữa mà nói
ra. Chủ nghĩa cá nhân rẻ tiền của Tô-nhi-a đối với Pa-ven đã trở nên không thể
nào chịu được.
Mỗi bên
đều thấy rõ đến nông nỗi này thì cần phải cắt đứt.
Ngày hôm
ấy, hai người đưa nhau đến công viên thương mại, để nói với nhau những lời
quyết định. Lá khô vàng úa phủ đầy dưới đất. Tựa vào hàng lan can nhô ra trên
vực sâu, hai người cùng nhìn xuống con sông Đơ-nhi-ép lấp lánh màu nước xám.
Một cái tàu kéo, từ một chiếc cầu lớn ló ra, chạy ngược dòng đang kéo hai chiếc
sà-lan to phình, cánh guồng uể oải đập vào nước. Nắng xế chiều dát vàng lên hòn
cù lao Tơ-ru-kha-nốp. Cửa kính những căn nhà nhỏ chói nắng ánh lên rực màu vàng
tía.
Tô-nhi-a
nhìn những tia nắng vàng, buồn rầu nói:
- Có thể
nào tình bạn của chúng ta lại nguội đi như mặt trời sắp tắt kia được?
Pa-ven
cau mày nhìn Tô-nhi-a không chớp, thấp giọng trả lời:
-
Tô-nhi-a, chúng ta đã nói chuyện với nhau rồi đấy. Em đã biết anh yêu em đến
thế nào và bây giờ tình yêu đó vẫn còn có thể trở lại nữa. Nhưng muốn thế, thì
Tô-nhi-a phải đi với các anh. Anh bây giờ chẳng còn là cậu bé Pa-vơ-lu-sa như
hồi trước kia nữa đâu. Và anh đối với Tô-nhi-a sẽ chỉ là một người chồng rất
đáng khinh bỉ nếu Tô-nhi-a đòi rằng anh trước hết là của em rồi sau mới là
người của Đảng. Không, anh trước hết phải là của Đảng, rồi mới đến là của em và
của những người thân khác.
Tô-nhi-a
buồn rầu nhìn dòng nước xanh biếc, trên khóe mắt nhòa ánh lệ.
Nhìn
bóng dáng thân yêu quá ấy, với mái tóc dày màu hạt dẻ, lòng Pa-ven cảm thấy ái
ngại vô hạn. Người con gái này trước đây đối với anh thân thiết và gần gũi biết
nhường nào!
Tay anh
đặt nhẹ lên vai Tô-nhi-a.
-
Tô-nhi-a ơi, em hãy trút hết những cái gì còn ràng buộc em đi. Em hãy đi đến
với các anh, cùng nhau hạ nốt bọn quyền quý. Trong hàng ngũ các anh có rất
nhiều người con gái can đảm, cùng các anh gánh vác nhiệm vụ chiến đấu ác liệt,
cùng chia gian khổ với các anh. Các chị ấy có thể không học thức bằng Tô-nhi-a.
Vậy mà tại sao, tại làm sao Tô-nhi- a lại từ chối không muốn đi với các anh?
Tô-nhi-a bảo tại Tru-gia-nin đã chực dùng vũ lực mà chiếm lấy thân thể
Tô-nhi-a. Nhưng thằng Tru-gia-nin ấy là một con quái vật, chứ không phải là một
chiến sĩ cách mạng. Tô-nhi-a bảo tại anh chị em trong Đoàn thanh niên khinh khỉnh
với Tô-nhi-a, có phải không? Nhưng tại làm sao Tô-nhi-a đi họp lại tô son điểm
phấn như đi dự hội khiêu vũ của bọn tư sản ấy thế? Chính là tính kiêu ngạo
khiến Tô-nhi-a làm ra như vậy. Tô-nhi-a không muốn hòa mình vào những người mặc
toàn quần áo nhem nhuốc. Tô-nhi-a đã từng có gan yêu một công nhân, nhưng
Tô-nhi-a không có đủ can đảm để yêu một lý tưởng. Phải xa Tô-nhi-a, anh rất
tiếc, và đối với Tô-nhi-a anh muốn còn giữ những kỷ niệm tốt đẹp.
Pa-ven
im không nói nữa.
Ngày hôm
sau, Pa-ven đọc thấy ngoài phố bản mệnh lệnh của ủy ban chống phản cách mạng
tỉnh, ký tên Giu-khơ-rai là chủ tịch ủy ban này. Lòng Pa-ven bồi hồi. Anh vất
vả lắm mới đến tìm gặp được Giu-khơ- rai vì người ta không cho vào. Pa-ven làm
om lên khiến những đồng chí đứng gác đã chực bắt giữ lại. Cuối cùng vẫn vào
được.
Cuộc gặp
gỡ thật thắm thiết. Giu-khơ-rai bị một viên đạn đại bác cụt mất một tay. Hai
anh em đồng ý với nhau ngay về công tác. Giu-khơ-rai nói:
- Chú
cũng chưa được khỏe lắm để trở ra tiền tuyến. Vậy thì chú ở lại làm việc với
anh ở đây vậy, hai anh em ta sẽ cùng nhau bóp chết hết bọn phản cách mạng ở đây
đi. Mai chú đến đây ngay tìm anh nhé.
Chiến
tranh với bọn Ba Lan trắng kết liễu. Những đạo Hồng quân đã tiến đến chân thành
Vác-sa-va, tiêu hết sức người sức của. Xa hậu phương không tiếp viện kịp, họ
không chiếm được chiến tuyến cuối cùng, nên đành rút lui. Cuộc rút lui của ta
trước thành Vác-sa-va là “phép lạ trên sông Vi-stuyn” như bọn thù địch Ba Lan
thường nói. Nước Ba Lan của bọn bạch vệ thế là sống sót. Trong lúc này, ta đành
chưa thực hiện được ước mơ có một Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết Ba
Lan.
Đất nước
bị ngập trong máu lửa cần có một thời gian hòa hoãn.
Pa-ven
không về thăm nhà được vì Sê-pê-tốp-ca lại bị quân Ba Lan trắng chiếm đóng lại
và tạm thời lấy làm thành phố giới tuyến của hai bên. Ta và địch đang tiến hành
đàm phán lập lại hòa bình. Ngày đêm, Pa-ven công tác trong Ban đặc biệt chống
phản cách mạng, làm mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho. Anh ở cùng phòng với
Giu-khơ-rai. Được tin quê hương nằm trong vùng chiếm đóng của Ba Lan, Pa-ven
buồn rười rượi:
- Đồng
chí Giu-khơ-rai ạ, nếu sau khi đình chiến vẫn giữ được nguyên tình trạng ấy thì
mẹ em hóa ra thành sống ở nước ngoài mất ư?
Giu-khơ-rai
giải thích cho Pa-ven yên tâm:
- Chắc
giới tuyến sẽ chạy qua Gô-rin, dọc theo bờ sông. Như thế thì Sê-pê-tốp-ca vẫn
là của ta. Chúng ta sẽ chóng được tin chắc chắn. Những sư đoàn Hồng quân rời
mặt trận Ba Lan đổ về phía Nam. Lợi dụng thời cơ ngừng chiến, tên Vơ-ran-ghen
đã bò ra khỏi Cơ-ri-mê. Và trong khi nước Cộng hòa tuôn hết sức ra mặt trận Ba
Lan thì tên tướng Nga trắng ấy đã từ phương Nam lần lần tiến về phía Bắc, dọc
sông Đơ-nhi-ép, tìm cách chiếm tỉnh Ê-ca-chê-rin.
Nhân lúc
chiến tranh với quân Ba Lan chấm dứt, đất nước ta điều quân đến Cơ-ri-mê để
tiêu diệt cái ổ cuối cùng này của bọn phản cách mạng.
Những
chuyến tàu chất đầy người, đầy xe cộ, chở những bếp cấp dưỡng lưu động, những
khẩu đại bác, chạy qua Ki-ép, đổ về phương Nam. Ủy ban đặc biệt địa phương của
ngành vận tải làm việc sốt vó. Tất cả làn sóng những chuyến tàu như thác lũ đổ
về đó bị ứ lại mắc nghẽn. Nhà ga chật ăm ắp, sự đi lại bị tắc vì đường nào cũng
mắc cả. Máy điện đài nhả ra hàng loạt băng ghi những bức điện tối hậu thư,
những bản mệnh lệnh khẩn cấp mở đường cho sư đoàn này, sư đoàn khác. Những băng
điện vô tận ấy chi chít những chấm, gạch cứ bò ra dài dằng dặc và gần như điện
nào cũng đọc thấy “tối khẩn... Mệnh lệnh chiến đấu có đường ngay lập tức” và
bức điện nào cũng nhắc ai không chấp hành mệnh lệnh sẽ phải đưa ra tòa án quân
sự cách mạng.
Bao
nhiêu chuyện mắc nghẽn, trách nhiệm đều đổ lên đầu ủy ban đặc biệt về giao
thông vận tải cả thôi.
Luôn
luôn có những cán bộ chỉ huy đơn vị xồng xộc ập tới ủy ban, khoa súng ngắn và
đòi phải có đường ngay cho đơn vị mình đi, chiểu theo điện thượng khẩn số nọ số
kia của tư lệnh trưởng tập đoàn quân.
Chẳng ai
chịu hiểu cho rằng những việc yêu cầu của họ thật không thể nào làm nổi được.
“Mặc kệ! Các đồng chí cứ giải quyết đường cho chúng tôi đi ngay thôi”. Thôi thì
tiếng la, tiếng chửi om sòm suốt ngày trong trụ sở. Gặp những trường hợp nan
giải nhất, người ta phải cấp tốc mời Giu-khơ-rai đến. Có thế mới trấn tĩnh được
đám người hùng hổ sắp sửa xông vào cấu xé lẫn nhau.
Nét mặt
rắn rỏi như đúc bằng thép, bình tĩnh lạnh lùng, giọng nói cứng không thể cãi
lại được của Giu- khơ-rai, buộc họ phải chịu ngoan ngoãn cho súng vào bao.
Ở phòng
làm việc bước ra ke, Pa-ven thấy đầu đau nhoi nhói. Công tác ở đây rất hại đến
thần kinh của anh.
Có một
hôm, trên một chiếc toa không mui chở đấy những hòm đạn, Pa-ven nhìn thấy
Xéc-gây. Cùng lúc ấy Xéc-gây nhảy bổ xuống suýt nữa xô ngã bạn và ôm ghì lấy
Pa-ven:
-
Pa-ven, thằng quỷ, tao nhận ngay ra mày.
Đôi bạn
gặp nhau, không biết hỏi nhau, kể cho nhau nghe chuyện gì bây giờ. Thời gian
gấp lắm mà từ lúc xa nhau, hai người đã sống biết bao chuyện trong đời. Hỏi
nhau câu này, chưa kịp nghe trả lời, đã lại nói luôn. Còi tàu giục đi, cũng
không nghe thấy nữa. Mãi khi đoàn xe chuyển bánh, từ từ bò đi, đôi bạn mới chịu
buông nhau ra.
Làm thế
nào bây giờ? Cuộc gặp gỡ thế là bị ngắt. Con tàu mở thêm tốc độ. Để khỏi bị rớt
lại, Xéc-gây choàng đuổi theo xe, chạy dọc bờ ke, ngoái lại phía Pa-ven, kêu gì
lần cuối không nghe rõ, rồi nhảy tót lên bám lấy cửa một toa chở hàng. Những
bàn tay từ trong toa thò ra nắm lấy tay anh, kéo vào trong. Pa-ven đứng lại,
bàng hoàng, nhìn theo con tàu xa dần. Mãi bây giờ anh mới sực nhớ ra là thằng
bạn nó chưa biết tin Va-li-a chết rồi. Ừ, nó có về qua Sê- pê-tốp ca đâu mà
biết. Pa-ven ngây người vì cuộc gặp gỡ bất ngờ nên đã quên khuấy không nói với
bạn.
“Thế
càng hay, không biết tin đó, nó đi càng yên tâm hơn”. Pa-ven tự bảo thế. Anh có
ngờ đâu là anh gặp bạn lần ấy là lần cuối cùng. Xéc-gây đứng trên nóc toa xe
lửa, phanh ngực ra hứng gió mùa thu, cũng không biết là mình đang đi ra trước
cái chết.
Đô-rô-sen-cô,
một chiến sĩ mặc áo ca-pốt, lưng áo bị cháy sém, nói với Xéc-gây:
- Ngồi
xuống không bị ngộ gió đấy, Xéc-gây ạ.
Xéc-gây
cười đáp lại:
- Không
hề gì. Mình với gió là bạn đấy mà. Cứ để mình đứng, gió thổi cho mát.
Và một
tuần sau, Xéc-gây hy sinh ngay trong trận đầu của cuộc Nam hạ giữa đồng cỏ vàng
úa mùa thu của xứ U-cơ-ren.
Một viên
đạn lạc trúng vào anh.
Anh bị
đạn, rùng mình, giúi thêm một bước, ngực đau buốt như xé, miệng không kêu không
nói, lảo đảo tay sờ soạng không gian, rồi hai bàn tay đưa lên ôm ghì lấy ngực,
khom khom mình như người chực chạy, thân thể bỗng chốc nặng như chì, anh ngã
vật xuống, đôi mắt xanh thao láo trừng lên nhìn như dán vào khoảng mênh mông
đồng cỏ.
*
Công
việc hết sức căng thẳng ở ủy ban đặc biệt đã ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của
Pa-ven vốn yếu sẵn, chưa lại người. Vết thương cũ lại luôn luôn đau nhói lên và
sau hai đêm mất ngủ, Pa-ven bị ngất đi. Vì thế Pa-ven lại hỏi Giu-khơ-rai:
- Anh
Giu-khơ-rai ạ, em muốn đổi công tác, ý kiến anh thấy có đúng không? Em thì rất
muốn trở lại nghề cũ, ở phân xưởng chính nhà máy xe lửa. Không có làm ở đây em
thấy sức em yếu quá. Tiểu ban y tế khám lại sức khỏe nói là em yếu sức không
thể tòng quân được nữa. Nhưng ở đây còn gay hơn ngoài mặt trận kia. Mấy hôm vừa
rồi, đi tiễu bọn phỉ Xu- tưa đã làm em mệt lả người đi. Cứ sau loạt bắn là em
lại phải nghỉ tay để thở. Anh Giu-khơ-rai ạ, chắc anh cũng hiểu, chân em đứng
cũng chẳng còn vững nữa, thì em làm công tác tốt thế nào được ở ủy ban đặc biệt
này.
Giu-khơ-rai
nét mặt lo lắng nhìn Pa-ven:
- Phải
đấy, tôi thấy chú yếu lắm. Đáng lẽ phải đổi công tác cho chú từ trước đây rồi.
Khuyết điểm ở tôi. Bận công tác quá không nhìn đến.
Sau buổi
nói chuyện đó, Pa-ven được điều động sang tỉnh đoàn thanh niên cộng sản nhận
công tác.
Một tay
trẻ măng tính hay cựa quậy luôn, mũ cát- két kéo sụp xuống tận mắt rất ngang,
nhìn lướt qua mảnh giấy, rồi vui vẻ nháy mắt hỏi Pa-ven:
- Cậu ở
ủy ban đặc biệt đến à? Cơ quan đó dễ chịu đấy! Chờ nháy mắt là chúng mình giao
công tác cho cậu ngay. Bên mình bấn người quá. Thật là nạn thiếu cán bộ. Cậu
muốn sang đâu? Ủy ban cung cấp? Không à? Ừ đừng sang đó. Sang cơ sở tuyên
truyền ngoài bến sông? Không à? Thế thì dại quá. Chỗ này bở lắm, sinh hoạt phí
theo chế độ xung phong đấy.
Pa-ven
ngắt lời: “Mình muốn sang đường sắt làm ở các phân xưởng chính”.
Gã kia
trố mắt nhìn Pa-ven:
- Sang
phân xưởng chính à? Hừ, ở đấy có cần người đâu. Thôi cậu cứ đến gặp chị Ri-ta,
chị ấy sẽ xếp công việc cho.
Sau cuộc
nói chuyện ngắn với người con gái nước da ngăm ngăm bánh mật, Pa-ven được chỉ
định làm bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản xí nghiệp xe lửa, vừa công tác vừa
tham gia sản xuất.
*
Giữa lúc
đó, trước cửa ngõ vùng Cơ-ri-mê, tại những đường biên giới cổ xưa đã từng là
ranh giới giữa những người Tác-ta xứ Cơ-ri-mê và những trung đoàn người
Da-pô-rô, ở chỗ thắt lại của bán đảo, nổi lên pháo đài của bọn bạch vệ mới xây
lại, chung quanh có những công sự kiên cố rất lợi hại: Pháo đài Pê-rê-cốp.
Sau pháo
đài ấy, cả cái xã hội cũ đã bị lên án, từ khắp xó xỉnh trong nước chúi vào xó
Cơ-ri-mê này, yên trí ở đấy an toàn, say sưa túy lúy với nhau trong hơi men
rượu nho.
Một đêm
mùa thu băng giá, hàng vạn người con của nhân dân lao động đã đổ xuống eo biển
nước giá lạnh để đêm tối vượt vịnh Xi-vát đánh vào sau lưng kẻ địch đã chui tọt
vào các công sự. Đi trong hàng quân đó có Giác-ki, hai tay nâng niu khẩu súng
máy đội trên đầu.
Và khi
rạng đông, cả vùng eo biển Pê-rê-cốp sôi lên sùng sục trong cơn sốt rét điên
cuồng; Hàng ngàn người ào ào ập vào hàng rào dây thép gai, những mũi quân tiến
đầu tiên lội qua vịnh Xi-vát, đặt chân lên những bờ đá lởm chởm của bán đảo
Li-tốp ở sau lưng quân địch. Và một trong những chiến sĩ đầu tiên đổ bộ lên
được là Giác-ki.
Chiến
đấu ác liệt chưa từng thấy. Bọn trắng tung kỵ binh vào đám người vừa lội dưới
nước lên; Kỵ binh của chúng lao vào như thú dữ. Giác-ki không ngừng bắn, khẩu
liên thanh của anh nhả đạn như khạc cái chết vào kẻ địch. Từng đống xác người
và ngựa địch chồng chất lên nhau trong trận mưa chì này. Giác- ki, nhanh đến
run tay lên, lắp hết băng đạn này đến băng đạn khác bắn vào kẻ địch.
Hàng
trăm khẩu pháo nổ ầm ầm ở Pê-rê-cốp. Dường như cả eo đất này cũng sụt xuống
biển sâu thẳm không đáy. Hàng ngàn quả đại bác rú lên ghê rợn, bay nhằng nhịt
trên trời, rắc tung cái chết, rơi xuống tóe ra thành từng mảnh nhỏ. Mặt đất bị
cày nát, bị nghiền vụn, bị bắn tóe lên. Những tảng đất đen lớn do đại bác cày
đã hất lên, che lấp cả ánh mặt trời.
Đầu con
rắn độc đã bị đánh giập rồi. Dòng thác đỏ lại băng mình về phía Cơ-ri-mê, các
sư đoàn của đoàn quân kỵ mã thứ nhất băng mình vào Cơ-ri-mê giáng cho quân địch
một đòn cuối cùng ác liệt. Lũ bạch vệ kinh hoảng, sợ run lên, hớt ha hớt hải cố
chạy xô nhau bám lấy những tàu biển sắp rời bến.
Trên
những bộ quân phục đã sờn đã bạc. Tổ quốc Cộng hòa gắn vào chỗ trái tim người
ta thường đập những đồng tròn vàng của huân chương Cờ đỏ. Trong số những quân
phục được gắn huy chương ấy có áo của người đoàn viên thanh niên cộng sản giữ
súng máy: Giác-ki.
Hòa ước
với Ba Lan đã ký và đúng như Giu-khơ- rai hy vọng, Sê-pê-tốp-ca trở về với xứ
U-cơ-ren Xô- viết. Giới tuyến là con sông cách thành phố ba mươi lăm cây số.
Tháng Chạp năm 1920, Pa-ven về quê thăm nhà, buổi sớm đó, anh ghi nhớ mãi trong
lòng.
Pa-ven
bước xuống sân ga chớm tuyết, đưa mắt nhìn thấy tấm biển “Sê-pê-tốp-ca, ga thứ
nhất” liền quay sang trái, đi vào sở đầu máy. Hỏi anh A-rơ-chom, nhưng anh
chẳng có ở đấy. Pa-ven khép vạt áo choàng cho thêm khít vào người, rồi đi ngang
qua rừng vào thành phố.
Anh gõ
cửa. Lúc ấy bà mẹ đang ngồi ở ghế nghe tiếng đập cửa, quay lại mời khách vào
nhà. Nhưng khi cửa mở rồi, một người mình đầy tuyết trắng hiện ra trong khung
cửa, bà cụ nhận ra khuôn mặt yêu dấu, liền đưa tay lên ôm lấy ngực. Mừng quá,
bà cụ không nói được nên lời nữa.
Bà ấp tấm
thân già, gầy còm vào ngực con trai, hôn lấy hôn để lên mặt con, nước mắt trào
ra, mừng mừng tủi tủi.
Pa-ven
ôm lấy mẹ, nhìn nét mặt mẹ răn reo, hốc hác vì lo buồn và mong nhớ con, anh im
lặng chờ mẹ bình tâm lại.
Bà cụ
đau khổ đã nhiều, hôm nay mắt lại sáng lên vì sung sướng. Ngày hôm ấy và mấy
ngày liền, bà nói không chán, nhìn con không chán. Bà đã tưởng chẳng còn hy
vọng gì gặp lại con nữa. Ba ngày sau A-rơ-chom nửa đêm đeo ba-lô trên vai cũng
trở về căn nhà cũ bé nhỏ này. Nỗi mừng của bà cụ càng không để đâu cho hết.
Dưới mái
nhà nhỏ bé của gia đình Ca-rơ-sa-ghin, những người đi xa đã trở về đông đủ. Sau
bao nhiêu thử thách gian khổ, hai anh em không ai tổn thất, đã được gặp lại
nhau.
Mẹ hỏi
các con:
- Giờ
thì các con tính làm gì?
A-rơ-chom
đáp:
- Con
lại sẽ trở về với ổ bi bánh xe, làm nghề như trước, mẹ ạ.
Còn
Pa-ven thì ở nhà được mười lăm ngày, rồi lại trở về Ki-ép. Ở đấy công việc đang
chờ anh.
Thép Đã
Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 1
Nửa đêm.
Chuyến tàu điện cuối cùng kéo lê thân tàu ọp ẹp chạy qua đã được một lúc lâu
rồi. Trăng suông trải lên thành cửa sổ, ánh trăng lọt vào nhà như trải lên mặt
giường một tấm màng xanh, bỏ khoảng còn lại của gian phòng trong bóng tối lờ
mờ. Trên chiếc bàn ở góc phòng, một vầng ánh sáng loe dưới chao đèn. Ri-ta cặm
cụi với tập nhật ký thân thiết.
Đầu bút
chì nhọn nguệch ngoạc trên giấy:
"24
tháng Năm,
Lại thử
ghi lại cảm nghĩ của mình. Thế là bỏ một khoảng trống nữa trong nhật ký. Sáu
tuần qua, không viết một chữ. Đành vậy thôi.
Lấy đâu
ra thời giờ ghi nhật ký thân yêu này được. Giờ này, đêm khuya, mình mới có thời
giờ viết. Không ngủ được. Đồng chí Xê-gan về công tác ở Trung ương. Tin ấy làm
tất cả bọn mình ngao ngán. Xê-gan của chúng mình thật là một người ưu tú. Mãi
bây giờ, mình mới thấy rõ tình thân giữa bọn mình và Xê- gan thật quý vô ngần.
Cố nhiên, Xê-gan đi là nhóm học tập duy vật biện chứng sẽ tan. Hôm qua bọn mình
họp ở nhà anh đến tận khuya để kiểm điểm bước tiến của “các con đỡ đầu” của chúng
mình. Đến dự, có A- kim bí thư Tỉnh đoàn thanh niên, và anh chàng trưởng phòng
quản lý cán bộ Túp-ta đáng ghét. Không thể nào chịu được hạng người tự phụ “cái
gì tôi cũng biết” ấy! Xê-gan thì hớn hở. Người học trò anh là Pa-ven
Ca-rơ-sa-ghin đã đập gãy Túp-ta ra trò về môn lịch sử Đảng. Phải, hai tháng qua
thật đã không phí. Khi có được những kết quả như thế, người ta chẳng thấy tiếc
sức. Có tin Giu-khơ-rai sang công tác ở Ban đặc biệt của Quân khu. Tại sao thế
nhỉ? Mình chẳng biết nữa.
Xê-gan
đã giao phó người học trò của anh cho mình.
Khi chia
tay, anh nói: “Hãy làm cho xong công tác mà tôi đã bắt đầu ở đây nhớ. Đừng bỏ
dở nửa đường. Ri-ta ạ, đối với chị cũng như anh ta, cả hai đều có những điều
học hỏi lẫn nhau được. Chàng thanh niên ấy, chưa bỏ hẳn được tính bồng bột tự
phát. Tình cảm anh ta sôi sục, khiến anh ta không tự chủ được và có thể đẩy anh
ta đi chệch con đường đúng. Ri-ta ạ, theo chỗ tôi hiểu chị, chị sẽ là người
hướng dẫn thích hợp nhất đối với Pa-ven. Chúc chị may mắn. Đừng quên viết thư
về Mát-xcơ-va cho tôi nhé!”
Hôm nay,
Trung ương phái Giác-ki đến làm bí thư mới của Quận đoàn Xô-lô-men-ca. Mình
quen Giác- ki từ hồi ở bộ đội.
Ngày
mai, Đu-ba-va sẽ dẫn Pa-ven đến giới thiệu với mình. Hình dạng anh chàng
Đu-ba-va: Vóc người tầm thước, khỏe, bắp thịt nở nang. Vào Đoàn thanh niên cộng
sản từ 1918, vào Đảng từ 1920. Đấy là một trong số ba người đã bị khai trừ ra
khỏi tỉnh đoàn vì thuộc “khối đối lập thợ thuyền”. Giúp Đu-ba-va học tập thật
không dễ. Lần nào anh ta cũng phá kế hoạch, phóng ra nhiều câu hỏi quay mình,
làm mình nói lạc ra ngoài đề. Giữa Ôn-ga I-u-rê-nê-va, cô học trò thứ hai của
mình, và anh chàng Đu-ba-va, hay xảy ra cãi nhau. Ngay tối học đầu tiên, anh ta
nhìn Ôn-ga suốt từ đầu đến chân, rồi nhận xét:
- Trang
bị của bà không đủ lệ bộ, bà cụ non ơi! Bà thì phải mặc quần da, mang đinh ba,
đội mũ kiểu Bu-đi-on-ny đeo kiếm vào, chứ ăn mặc như bà thì thật chẳng ra nạc,
cũng chẳng ra mỡ.
Ôn-ga
cũng không chịu lép. Mình phải can họ. Nếu mình không lầm thì Đu-ba-va là bạn
Pa-ven. Thôi, hôm nay ghi thế này đủ rồi. Đi ngủ".
*
Nóng như
thiêu rang khô kiệt mặt đất. Tay vịn bằng sắt ở cầu bắc vắt ngang qua nhà ga,
sờ vào nóng bỏng. Đoàn người dãi nắng mệt lử, uể oải bước lên cầu Họ không phải
là hành khách. Phần đông là dân khu nhà bên đường sắt qua cầu sang bên phố.
Đứng
trên đầu thang lên cầu, Pa-ven trông thấy Ri-ta. Ri-ta đã tới ga trước Pa-ven
và đang nhìn hành khách xuống tàu.
Đến Cách
Ri-ta vài ba bước, Pa-ven dừng lại. Ri- ta không trông thấy Pa-ven. Anh đứng
ngắm Ri-ta với cặp mắt tò mò khác thường. Ri-ta mặc áo sơ-mi cộc tay kẻ dọc,
bận váy xanh ngắn bằng vải thường, chiếc áo khoác ngoài bằng da mềm vắt lên
vai, đầu không mũ, mớ tóc ngang ngược bao quanh lấy khuôn mặt rám nắng. Ri-ta
đứng hơi ngả đầu về phía sau, nắng chói làm chị nheo mắt lại. Lần đầu tiên
Pa-ven nhìn người bạn và người phụ đạo của mình bằng cặp mắt ấy, và cũng lần
đầu tiên trong đầu anh nảy ra ý nghĩ: Ri-ta không phải chỉ là ủy viên Ban
Thường vụ Tỉnh đoàn, mà còn là... Giận mình đã có ý nghĩ “tội lỗi”, Pa-ven gọi
giật Ri-ta:
- Tôi
đứng suốt một tiếng đồng hồ nhìn Ri-ta, thế mà Ri-ta không trông thấy. Đến lúc
đi rồi, tàu đã vào ga.
Hai
người dẫn nhau đến lối ra ke.
Hôm qua,
Tỉnh đoàn đã cử Ri-ta làm đại biểu đi dự hội nghị của một huyện đoàn. Pa-ven
được cử đi phụ với Ri-ta. Hôm nay thế nào cũng phải lên xe lửa đi cho bằng
được, chuyện đó không phải dễ. Thời buổi hiếm tàu xe đi lại, vào giờ tàu chạy,
nhà ga do một ban xếp người lên tàu rất có uy quyền điều khiển, ai không có
giấy của ban này không được bước ra ke. Tất cả các cửa ra vào đều có người của
ban này đứng chắn. Tàu đầy ắp mà vẫn chỉ mới chở được một phần mười những người
cần đi. Không ai muốn ở lại để chờ ngày nọ qua ngày kia, họa ra mới có một
chuyến tầu khác. Hàng nghìn người vây các lối ra ke, cố chen ra tới những toa
xanh. Nhà ga mấy ngày nay sống trong cảnh bị bao vây thật sự, đôi khi xảy ra ẩu
đả. Pa-ven và Ri-ta định chen ra ke, nhưng không sao len được.
Vốn biết
hết ngõ ngách ra vào, anh liền dẫn người bạn gái đi qua kho chứa hành lý.
Vất vả
lắm, hai người mới đến được toa tàu số bốn. Anh công an đặc biệt, ướt đẫm mồ
hôi đứng trước cửa xe, giữ cho đám đông khỏi chen lên. Anh nhắc đi nhắc lại có
đến trăm lần:
- Tôi
nói với đồng bào là toa chật ních rồi. Còn những chỗ nối toa vào mái tàu, lệnh
trên cấm ngặt không được ai trèo lên cả.
Có những
người hùng hổ xấn đến chỗ anh công an, ấn vào mũi anh những vé do ban xếp người
phát cho họ đi toa số bốn. Trước toa tàu nào cũng có tiếng chửi rủa giận dữ,
tiếng kêu la, xô đẩy nhau. Pa-ven hiểu là lên tàu theo lối thường thì không thể
nào lên được Mà việc thì cần, không đi được thì hội nghị không thành mất.
Pa-ven
kéo Ri-ta ra bên, trình bày kế hoạch hành động của mình. Pa-ven sẽ len vào
trong toa, bỏ cửa kính xuống và kéo Ri-ta lên qua cửa sổ. Không có cách nào
khác.
- Ri-ta
đưa tôi chiếc áo da của Ri-ta, đấy là cái chứng minh thư tốt nhất.
http://truyencuatui.net/
Pa-ven
khoác chiếc áo của Ri-ta lên người, nhét súng ngắn vào túi, cố ý để lòi báng
súng và dây súng ra ngoài. Anh đặt túi lương ăn xuống chân Ri-ta, rồi lại chỗ
toa xe. Pa-ven không nể nang ai, lấy cùi tay chen lấn đám hành khách, với được
thành sắt bậc lên tàu.
- Này,
đồng chí đi đâu?
Pa-ven
ngoảnh lại nhìn người công an béo lùn.
- Tôi là
người của Ban đặc biệt Quân khu. Tôi kiểm tra xem hành khách các đồng chí cho
lên tàu có đủ vé của ban xếp người không. - Giọng Pa-ven không để cho ai mảy
may ngờ vực uy quyền của mình.
Người
công an nhìn túi Pa-ven, lấy tay áo lau mồ hôi trán và nói bằng một giọng hờ
hững:
- Ừ đồng
chí cứ việc vào mà kiểm tra, nếu đồng chí chen vào được.
Pa-ven
chen lách bằng tay, bằng vai và có lúc bằng nắm tay, trườn lên vai người khác,
rướn tay đánh đu lấy giá ghế trên; Tiếng la chửi đổ lên đầu anh như mưa đá;
Chửi thì chửi, Pa-ven cũng len được vào giữa toa tàu.
“Quỷ tha
ma anh đi đâu mà anh chen gớm thế hở cái nhà anh trời đánh thánh vật kia!”. Một
mụ béo phị mắng Pa-ven khi anh giẫm chân lên đầu gối mụ ta. Mụ đã thu cái thân
hình nặng hơn một tạ vào thành ghế dài ở hàng dưới, hai chân đang kẹp lấy cái
bình đựng đầy bơ. Bình đựng nước, hộp đựng sữa, hòm, bao và thùng ngổn ngang
các ghế dài. Không khí ngạt thở.
Đáp lời
chửi rủa của mụ ta, Pa-ven hỏi:
- Bà cho
tôi xem vé của ban xếp người!
Mụ phát
khùng với nhà anh soát vé chẳng ai khiến ai cần đó:
- Cái
gì?
Một cái
đầu du côn từ ghế tầng ba thò xuống, và giọng ồ ồ rống lên:
-
Vát-ca, nó là cái thứ gì mà đến đây nhiễu sự? Mày cho nó một vé vào mõm ấy!
Ngay
trên đầu Pa-ven nhô ra một tên dáng chừng là Vát-ca: Người nó lực lưỡng, ngực
đầy lông, giương cặp mắt to như mắt bò mộng nhìn Pa-ven chòng chọc.
- Mày
nhiễu sự cái gì với người đàn bà này? Mày hỏi vé gì?
Từ giá
ghế bên, bốn đôi chân buông thõng xuống. Bốn tên ngồi sát nhau, thi nhau cắn
hạt hướng dương lách tách. Rõ ràng đây là một bọn trộm cắp buôn lậu chợ đen.
Pa-ven không có thời giờ gây chuyện với chúng. Phải đưa Ri-ta vào trong toa đã.
Pa-ven
chỉ tay vào cái hòm gỗ đặt bên cửa sổ, hỏi một công nhân đường sắt đứng tuổi:
- Hòm
này của ai đây?
Bác công
nhân chỉ tay về phía hai cái chân to trùng trục, đi tất màu hạt dẻ:
- Của
nhà chị này!
Phải kéo
cửa kính xuống. Cái hòm chắn mất cửa, không chuyển đi đâu được. Pa-ven nâng hòm
lên và đưa cho chủ nó đang ngồi ở giá ghế trên:
- Đồng
bào giữ cho một chút để tôi mở cửa sổ.
Khi
Pa-ven đặt chiếc hòm lên đùi mụ kia thì nhà mụ mũi tẹt ấy tru tréo lên:
- Cái
nhà anh này sao lại mó vào đồ đạc của người ta?
Rồi mụ
cầu cứu lão bên cạnh.
- Mốt-ca
ơi! Cái nhà anh kia là ai mà đến đây làm nháo cả lên thế!
Tên gọi
Mốt-ca ngồi giá ghế trên, chẳng buồn nhổm dậy, lấy chân đi dép nện vào lưng
Pa-ven:
- Ê đồ
muỗi tép kia! Xéo ngay không ông đập cho vỡ mặt bây giờ!
Pa-ven
nín lặng chịu cái đạp. Anh cắn môi mở cửa và nói với bác công nhân đường sắt:
- Đồng
chí lùi ra cho một chút.
Pa-ven
dẹp một cái thùng ra bên để lấy chỗ, rồi đứng sát ngay cửa sổ. Ri-ta đã chờ ở
ngoài, chị nhanh tay đưa cái túi cho Pa-ven. Pa-ven ném cái túi lên đùi mụ đang
kẹp bình đựng bơ, rồi cúi xuống nắm tay Ri-ta kéo lên. Đồng chí Hồng quân trong
đội tuần tra chưa kịp trông thấy và ngăn việc trái phép đó thì Ri-ta đã ở trong
toa rồi. Đồng chí bộ đội chậm chạp ấy không làm sao được, chỉ còn cách càu nhàu
bỏ đi. Thấy Ri-ta vào, lũ trộm cắp chợ đen nhao nhao lên, làm cho Ri-ta bối rối
và lo ngại. Chị không có chỗ nào đặt chân, đành phải đứng lên mép giá ghế dưới,
tay víu lấy chỗ vịn của giá ghế trên. Lời chửi rủa từ mọi chỗ dồn lại. Giọng ồ
ồ ở phía trên phì ra:
- Rõ
thằng đê mặt, nó đã lên rồi còn tha cả “mèo” lên nữa!
Một tên
ngồi khuất đâu trên cao hết lên: “Mốt-ca! Cậu cho nó dăm quả tống cho tối mắt
đi!”
Mụ mũi
tẹt định đặt cái hòm gỗ lên đầu Pa-ven. Chung quanh toàn những bộ mặt ti tiện,
hằn học. Pa-ven tiếc là Ri-ta có mặt ở đây, nhưng thế nào cũng phải thu xếp cho
có chỗ ngồi.
- Này
anh, cất hộ những bao ở lối đi đi, lấy chỗ cho nữ đồng chí này đứng. - Pa-ven
nói với tên mà người ta gọi là Mốt-ca, nhưng nó đã đáp lại một câu thô tục bần
thỉu làm cho anh sôi cả người lên. Anh cảm thấy tức tối, đau nhức trên mu mắt
phải.
- Được
mày chờ một chút, đồ du côn, mày sẽ biết tay tao - Pa-ven cố nén, nói với tên
lưu manh như vậy, nhưng vừa dứt lời anh bị liền bị một cái đá vào đầu. Bọn
chúng ở bốn chung quanh thét lên ầm ĩ:
-
Vát-ca, cứ nện đi, cho nó nảy đom đóm mắt ra!
Bao
nhiêu giận dữ từ nãy Pa-ven cố nén trong lòng bây giờ bật ra, và trong những
lúc như thế này, cử chỉ của anh bao giờ cũng nhanh và quyết liệt.
- Bọn
đầu cơ chó má, chúng mày tưởng có thể trêu được tao đấy phải không? - Pa-ven,
tay bíu lấy giá ghế thứ hai, đánh đu lên như lò xo và giáng một quả đấm vào cái
mặt đểu giả vênh váo của Vát-ca. Quả đấm mạnh làm tên con buôn đầu cơ ngã bổ
nhào lên đầu những đứa khác, rồi lăn kềnh xuống lối đi.
“Bọn
khốn nạn! Bỏ ghế, cút ngay không tao bắn chết cả như chó ấy!” Pa-ven giận dữ
quát lên, tay vung khẩu súng ngắn vào mặt bốn tên côn đồ.
Câu
chuyện đã xoay ra chiều hướng khác. Ri-ta chăm chú theo dõi, sẵn sàng nổ súng
vào bất cứ kẻ nào định chạm đến người Pa-ven. Trong nháy mắt ghế dài tầng trên
đã quang hẳn. Lũ gian vội vã chuồn sang toa bên.
Khi
Pa-ven đã đưa Ri-ta lên ngồi trên ghế đã quang người anh rỉ tai với Ri-ta:
- Ri-ta
ngồi đây nhớ, để tôi đi thanh toán với bọn chúng.
Ri-ta
ngăn anh lại:
- Pa-ven
định đi đánh nhau với chúng đấy à?
Pa-ven
nói cho Ri-ta yên tâm:
- Không,
tôi sẽ về ngay.
Pa-ven
lại mở cửa sổ và nhảy xuống thềm nhà ga. Vài phút sau, anh đã có mặt ở phòng
làm việc của Bua-mây-stơ, cục trưởng Cục công an đặc biệt và là người phụ trách
cũ của anh. Đồng chí Bua-mây-stơ là người Lét-tô-ni. Sau khi nghe Pa-ven kể,
đồng chí hạ lệnh cho hành khách ra khỏi toa và kiểm tra lại giấy tờ của mọi
người.
Bua-mây-stơ
lẩm bẩm:
- Tôi
nói y như rằng, tàu vào đến ga là đã đầy ắp bọn con buôn đầu cơ rồi.
Một đội
công an đặc biệt gồm mười người đến kiểm soát toa tàu. Theo thói quen, Pa-ven
giúp việc kiểm tra lại cả chuyến tàu. Tuy thôi công tác ở Cục công an đặc biệt,
Pa-ven vẫn đi lại với các bạn mình ở đấy. Khi còn làm bí thư đoàn thanh niên
đường sắt, anh đã đưa nhiều đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú vào công tác ở
Cục công an đặc biệt. Kiểm tra xong, Pa- ven về chỗ Ri-ta. Toa tàu bây giờ đầy
hành khách mới: Những cán bộ đi công tác và các chiến sĩ Hồng quân.
Trên ghế
tầng ba ở góc toa chỉ đủ chỗ cho Ri-ta thôi. Những bó báo đã choán hết chỗ.
Ri-ta
nói:
- Không
sao, rồi thế nào cũng thu xếp được chỗ ngồi.
Đoàn tàu
chuyển bánh.
Nhìn qua
cửa sổ, hai người lại trông thấy mụ lắm điều lúc nãy ngồi trên đống bao bì.
Tiếng kêu của mụ vẳng lại: “Man-ca ơi, cái bình toong của tao đâu rồi?”.
Ri-ta và
Pa-ven ngồi ở một chỗ hẹp, những bó báo ngăn cách họ với những người bên cạnh.
Hai người giở bánh mì và táo ra ăn một cách ngon lành, vui vẻ ôn lại câu chuyện
chẳng lấy gì làm vui lắm vừa qua.
Xe lửa
bò chậm chạp. Những toa tàu xộc xệch chở quá nặng, chạy lắc lư, bánh xe khô
nghiến ken két và răng rắc, toa rùng mình nảy lên khi bánh lăn qua chỗ đường
sắt nối. Trời nhá nhem, cảnh vật bên ngoài chìm trong màu xanh dày đặc. Rồi đêm
tối giăng màn đen lên những khoang cửa sổ mở toang. Trong toa cũng tối như
bưng.
Ri-ta
mệt mỏi thiu thiu ngủ, đầu gối lên túi dết.
Pa-ven
ngồi hút thuốc lá ở mép ghế, chân buông thõng xuống. Anh cũng mệt nhoài, nhưng
không có chỗ đặt lưng. Gió hiu hiu đưa hơi đêm lạnh mát lọt vào cửa sổ. Tàu lắc
mạnh, Ri-ta sực tỉnh. Nhìn thấy chấm đỏ ở đầu điếu thuốc của Pa-ven, Ri-ta nghĩ
thầm: “Cậu Pa-ven ngồi mãi thế được cho đến sáng đấy. Đích là anh chàng ngại
không muốn làm phiền mình đây”. Ri-ta nói giọng thương mến: “Đồng chí Pa-ven,
bỏ những kiểu cách tư sản ấy đi, nằm xuống mà nghỉ!”
Pa-ven
ngả mình bên cạnh Ri-ta và khoan khoái duỗi cặp giò đã mỏi tê.
“Mai
chúng mình phải làm khối việc. Ngủ đi, ông tướng hay đánh nhau ạ”. Cánh tay
Ri-ta ôm chặt lấy người đồng chí một cách tin cậy. Pa-ven cảm thấy làn tóc
Ri-ta áp vào má mình.
Đối với
anh, Ri-ta là thiêng liêng. Một người bạn thân, người đồng chí cùng chung lý
tưởng, giảng viên chính trị của anh. Thế nhưng Ri-ta dù sao cũng vẫn là phụ nữ.
Khi ở gần cầu đường sắt, anh cũng đã lần đầu tiên cảm thấy điều đó, cho nên cái
ôm của người bạn gái hôm nay mới làm lòng anh xúc động đến thế. Pa-ven nghe
thấy hơi thở mạnh và đều của Ri-ta; Đôi môi Ri-ta ở đâu đây, gần lắm. Sự gần
gũi đó như thúc giục, khêu gợi Pa-ven tìm đến đôi môi hấp dẫn ấy. Cuối cùng,
Pa-ven phải dùng hết ý chí để nén lòng mình lại.
Hình như
đoán biết tình cảm của Pa-ven, Ri-ta mỉm cười trong tối. Ri-ta đã từng trải qua
niềm sung sướng trong tình yêu say đắm, cũng như nỗi kinh sợ khi tổn thất.
Ri-ta đã yêu hai người bôn-sê-vích, và những viên đạn của bọn Nga trắng đã cướp
mất của Ri-ta cả hai người. Một người to lớn, dũng cảm, tư lệnh một lữ đoàn.
Còn người kia là một thanh niên có đôi mắt trong sáng.
Chẳng
mấy chốc, tiếng bánh xe lăn đã ru ngủ Pa- ven. Mãi đến sáng, tiếng còi tàu rú
lên mới đánh thức anh dậy.
*
Ri-ta
khuya mới về nhà. Trong cuốn nhật ký ít khi mở ra, có ghi thêm mấy đoạn ngắn:
"11
tháng Tám,
Xong hội
nghị, A-kim, Sum-ski và các đồng chí khác đã đi Khác-cốp để dự hội nghị toàn xứ
U-cơ-ren. Mọi công việc hành chính đều trút lên đầu mình. Đu-ba- va và Pa-ven
được đề bạt vào Ban chấp hành Tỉnh đoàn. Từ khi Đu-ba-va được phái đi làm bí
thư Huyện đoàn Pê-séc thì không đến học tối nữa. Anh ta bận quá. Pa-ven còn cố
tiếp tục học, nhưng lúc thì mình không có thời giờ, lúc thì Pa-ven bận đi công
tác. Tình hình ngành đường sắt trở nên nghiêm trọng nên bên ấy phải ra lệnh
động viên thường xuyên. Hôm qua, Giác-ki đến gặp mình tỏ vẻ không bằng lòng, vì
bên mình đã lấy của anh nhiều người, anh ta kêu là số người đó cũng rất cần
thiết đối với bên ấy".
"23
tháng Tám,
Hôm nay,
mình đang đi ngoài hành lang thì thấy Pan-cơ-ra-tốp, Pa-ven và một người lạ nữa
đứng ở cửa phòng hành chính. Mình lại gần, nghe tiếng Pa- ven đang kể:
- Ở đấy
toàn những quân đáng ăn đạn. Chúng dám nói: “Các anh không được phép can thiệp
vào quyền hạn sử dụng của chúng tôi. Ở đây là do ủy ban vận chuyển gỗ làm chủ,
chứ chẳng biết có đoàn Côm-xô-môn nào cả”. Mồm nó nói thế đấy, các cậu ạ. Lũ ăn
hại nó nấp ở những chỗ ấy đấy chứ ở đâu.
Tiếp đó,
Pa-ven buông lời chửi rủa rất tục, Pan- cơ-ra-tốp nhìn thấy mình, liền máy
Pa-ven. Pa-ven quay lại thấy mình, mặt anh ta tái đi, không dám nhìn thẳng rồi
lỉnh đi ngay. Chắc Pa-ven sẽ tránh đến đây gặp mình một dạo lâu cho mà xem.
Pa-ven biết là mình không tha thứ cho ai hay nói tục".
"27
tháng Tám,
Ban
thường vụ họp kín. Tình hình trở nên phức tạp. Bây giờ thì chưa thể ghi mọi
chuyện vào nhật ký được. Nhỡ lộ bí mật. A-kim ở huyện về, mặt mày buồn bực. Hôm
qua, bên Chê-chê-rếp, bọn chúng lại làm trượt một chuyến xe chở lương thực
xuống chân đường. Có lẽ đến bỏ không ghi nhật ký. Lâu nay chỉ ghi toàn những
mầu chuyện vụn vặt. Đợi Pa-ven. Hôm trước thấy Pa-ven: Pa-ven đang cùng Giác-ki
lập công xã năm người".
*
Đang
giữa trưa ở xưởng máy, người ta gọi Pa-ven đến dây nói. Ri-ta báo cho anh biết
tối nay Ri-ta rỗi rãi có thể giảng cho xong vấn đề đang nói dở: “Nguyên nhân
thất bại của Công xã Pa-ri”.
Tối hôm
ấy, Pa-ven đến gần ngôi nhà phố Cơ-rúc U-ni-ve, ngước mắt nhìn lên cửa sổ phòng
Ri-ta có ánh đèn. Pa-ven chạy lên thang gác và như mọi lần, lấy nắm tay đập cửa
và không chờ trả lời, đã bước vào ngay.
Một cán
bộ quân đội đang nằm trên giường Ri-ta; Giường này các bạn Ri-ta không một ai
được phép ngồi lên dù chỉ một chốc lát. Khẩu súng ngắn, cái xà-cột và chiếc mũ
đính sao nằm trên bàn. Ri-ta ngồi bên cạnh, tay ôm chặt lấy người đàn ông kia.
Hai người đang nói chuyện gì với nhau, sôi nổi lắm... Pa- ven vào, Ri-ta quay
ra nhìn, mặt hớn hở.
Anh cán
bộ quân đội gỡ tay Ri-ta ra và đứng dậy.
Ri-ta
bắt tay Pa-ven và giới thiệu:
- Đây
là...
Người
đàn ông đó bắt tay Pa-ven rất chặt và đỡ lời Ri-ta:
- Tôi là
Đa-vít Uốt-chi-nô-vích.
Ri-ta
vừa cười vừa nói với Pa-ven:
- Anh ấy
đến bất ngờ quá. Như hòn ngói rơi xuống đầu mình...
Cái bắt
tay của Pa-ven thì lạnh nhạt. Đôi mắt anh ngầm nảy lửa. Anh còn kịp nhận ra
trên tay áo cán bộ quân đội của Đa-vit có bốn gạch.
Ri-ta
chưa nói, thì Pa-ven cướp lời ngay:
- Tôi
chạy đến báo cho Ri-ta biết là hôm nay tôi bận tham gia dỡ gỗ ở ngoài bến. Để
Ri-ta khỏi phải chờ tôi... Hơn nữa, hôm nay Ri-ta lại có khách. Thôi, tôi đi
kẻo anh em đang đợi ở dưới chân thang.
Pa-ven
đến một cách đột ngột và cũng đột ngột biến đi ngay. Tiếng chân anh chạy nhanh
thoăn thoắt xuống cầu thang. Cửa đóng lại kêu đánh rầm một cái. Rồi lại im
phăng phắc.
Trước
cái nhìn ngạc nhiên của Đa-vít, Ri-ta nói một giọng không vững lòng lắm:
- Chắc
anh ấy có chuyện gì đây.
... Dưới
gầm cầu, chiếc đầu tàu thở hồng hộc, lồng ngực rắn chắc của nó phun ra hàng đàn
đom đóm loé vàng. Vòng đom đóm muôn hình, muôn vẻ tung lên và tắt biến đi trong
khói cuộn.
Pa-ven
đứng dựa lưng vào lan can cầu, nhìn những đèn hiệu nhiều màu nhấp nháy trên ngã
ba đường. Anh nhắm mắt lại.
Anh tự
mình mỉa mai hỏi mình:
“Đồng
chí Pa-ven ơi, dù thế nào đi nữa, không hiểu cớ sao đồng chí lại thấy lòng đau
đớn đến như thế khi biết Ri-ta đã có chồng kia chứ? Có khi nào Ri- ta nói với
đồng chí là Ri-ta chưa chồng đâu? Mà dù có nói chăng nữa, thì đã sao? Cớ sao
đồng chí lại bực dọc? Thôi, xin đồng chí thân mến, đồng chí đã chẳng cho là
giữa hai người chỉ có tình bạn, tình đồng chí cùng chung lý tưởng và chỉ có thế
thôi đấy ư? Thế thì cớ sao đồng chí lại...? Và nhỡ người đó không phải là chồng
Ri-ta? Đa-vít Uốt-chi-nô-vích có thể là anh hay là chú Ri-ta... Nếu như thế thì
hóa ra, chàng ngố ạ, anh đã giận oan người ta. Rõ ràng đồng chí cũng chỉ là một
đứa nhỏ nhen như những đứa đàn ông khác. Có phải anh Ri-ta hay không, chuyện đó
cũng dễ biết thôi. Nhưng nếu là anh hay là chú, thì đồng chí sẽ ăn nói với
Ri-ta ra sao về thái độ của mình? Không! Từ nay trở đi, đừng có đến gặp Ri-ta
nữa!”
(Uốt
chi-nô-vích là tên họ của Ri-ta. Ở Liên Xô, cha con, anh em, chú cháu, vợ chồng
đều lấy một tên họ trùng nhau. Nghe qua tên Đa- vít Uốt chi-nô-vích có thể hiểu
là anh hay chú, và cũng có thể là chồng, cho nên Pa-ven thắc mắc)
Còi tàu
rú lên, ngắt luồng ý nghĩ của Pa-ven. “Muộn rồi. Nghĩ vẩn vơ mãi! Đã đến giờ
về!”.
*
Ở xóm
Xô-lô-men-ca (tên gọi khu công nhân đường sắt ở) năm thanh niên lập nên một
tiểu công xã. Xã viên gồm có Giác-ki, Pa-ven, một thanh niên Tiệp tóc hoe, vui
tính tên là Cơ-la-vi-sếch, Ô-cu-nhép và đồng chí A-chu-khin, bí thư chi đoàn
đoạn đầu máy kiêm nhân viên Ban đặc biệt ngành đường sắt; Cách đây không lâu,
đồng chí ấy còn là thợ đốt lò ở xưởng trung tu đầu máy.
Họ kiếm
được một căn phòng, rồi ba ngày liền, cứ đi làm về là họ lau chùi, quét tước,
quét lại vôi. Tiếng xô xách nước loảng xoảng ầm ĩ khiến lắm lúc hàng phố tưởng
là chữa cháy. Họ đóng phản nằm, lấy lá khô ngoài công viên nhồi vào bao làm
đệm. Sang đến ngày thứ tư thì họ treo lên tường bức chân dung Pê- tơ-rốp-ski
(Một cán bộ lâu năm của Đảng hồi đó làm Chủ tịch toàn U-cơ-ren) và một bản đồ
lớn. Gian phòng bóng lộn, trắng tinh.
Giữa hai
cửa sổ gian phòng là giá xếp đầy sách. Hai hòm gỗ không lót bìa dày thay nệm
dùng làm ghế ngồi, hòm nữa to hơn làm tủ. Giữa phòng có kê một bàn bi-a thật
rộng, do các xã viên lấy lưng ra khiêng đến: Mặt bàn dạ lót màu xanh đã bị bóc
đi rồi, bàn ấy ban ngày dùng làm bàn viết, ban đêm là giường ngủ của
Cơ-la-vi-sếch. Tất cả của riêng tây của mỗi người đều đem đến đây.
Cơ-la-vi-sếch tính rất tỉ mẩn, đã làm bản kiểm kê tài sản của công xã, định
treo lên tường, nhưng bị anh em phản đối rầm rầm lại thôi. Trong phòng cái gì
cũng thành của chung. Tiền lương tháng, thực phẩm được cấp phát và cả những quà
bà con thân thích gửi cho đều đem chia đều. Chỉ có vũ khí thì được coi là của
riêng mà thôi. Các xã viên nhất trí quyết nghị: Ai vi phạm nội quy tài sản công
cộng và bất tín với anh em thì bị khai trừ ra khỏi công xã. Ô-cu-nhép và
Cơ-la-vi-sếch còn nèo ghi thêm: Và bị đuổi ra khỏi nhà này.
Hôm ăn
mừng thành lập công xã, tất cả cán bộ Đoàn ở khu phố công nhân đường sắt đều
đến dự. Mượn hàng xóm được một ấm pha chè gộc và cho ra hết cả số đường dự trữ.
Anh chị em làm xong tuần trà thì hát đồng ca vang lên.
Thế gian
này nước mắt tràn đầy
Đời
chúng ta nhục nhằn, lao khổ.
Nhưng
rồi nhất định sẽ đến ngày...
Ta-li-a,
nữ công nhân xưởng thuốc lá, chỉ huy ban đồng ca. Khăn trùm sợi đỏ tuột ra bên
đầu, chị có đôi mắt của trẻ em tinh nghịch. Chưa ai được ghé sát nhìn gần vào
cặp mắt ấy. Cái cười của Ta-li-a làm ai cũng vui lây. Cô thợ làm hộp này nhìn
đời qua tuổi trẻ đang nở hoa, nhìn đời trên bậc thang của tuổi mười tám. Tay
Ta-li-a đánh nhịp vung lên và điệp khúc vang như tiếng kèn đồng.
Bài ca
ta bay xa, bay khắp bốn phương
Ngọn cờ
ta phấp phới khắp thế gian,
Đấy là
máu đào của ta rực cháy
In trên
cờ đỏ thắm sáng chói...
Khuya
lắm họ mới chia tay ra về. Tiếng hát chia tay vang lên rộn rã làm mất giấc hàng
phố đang yên ngủ.
Giác-ki
choài tay ra với ống nghe dây nói. Trong phòng đồng chí bí thư phụ trách này,
anh chị em đoàn viên đứng chật, chuyện ồn ào. Giác-ki phải kêu lên:
- Các
cậu ơi! Khẽ một chút, chẳng còn nghe thấy gì cả.
Tiếng
chuyện trò hạ thấp hẳn giọng xuống.
- Tôi
nghe đây. Đồng chí đấy à? Vâng, vâng. Ngay bây giờ. Chương trình họp à? Vẫn vấn
đề ấy: Vấn đề dỡ củi ngoài bến? Không, cậu ta không đi công tác đâu cả. Đang ở
đây. Có muốn gọi cậu ta không? Được chờ nhé!
Giác-ki
vẫy gọi Pa-ven:
- Nữ
đồng chí Ri-ta Uốt-chi-nô-vích hỏi cậu.
Và anh
chuyển ống nghe cho Pa-ven.
- Ri-ta
cứ tưởng là Pa-ven không có đấy. May quá, tối nay Ri-ta không bận. Đến nhé. Hôm
trước anh Ri-ta đi qua rẽ vào chơi, anh em đã hai năm nay mới gặp nhau đấy.
Hóa ra
là anh Ri-ta!
Pa-ven
không còn để tai nghe Ri-ta nói những gì nữa. Anh nghĩ đến buổi tối hôm ấy,
nghĩ đến điều mà lòng anh đã quyết định lúc đứng trên cầu. Ừ, ngay hôm nay,
phải đến gặp Ri-ta và tuyên bố cắt đứt. Tình yêu bắt phải nghĩ ngợi nhiều và
gây ra khá là đau đớn cho lòng. Lúc này không phải là lúc nghĩ đến yêu.
Tiếng
bên kia ống nói:
- Sao
thế? Pa-ven không nghe rõ Ri-ta nói phải không?
- Có
đang nghe. Đồng ý. Họp xong sẽ đến.
Nói rồi,
bỏ ống nói xuống.
*
Pa-ven
nhìn thẳng vào mắt bạn, tay bám chặt mép chiếc bàn gỗ sên và nói:
- Chắc
chắn là tôi không thể tiếp tục đến với Ri- ta được nữa đâu.
Hàng
lông mi dày của người bạn gái đập đập vào nhau. Chiếc bút chì trên tay đang
lướt trên trang giấy bỗng ngừng lại và ngả xuống nằm yên trên cuốn vở để mở.
- Sao
thế?
- Thời
giờ mỗi lúc một khó thu xếp quá. Ri-ta cũng biết đấy: Càng ngày công tác càng
gay. Bỏ học cũng đáng tiếc lắm, nhưng đành phải gác lại...
Pa-ven
cảm thấy lời nói về cuối mình thiếu bề chắc chắn. Anh nghĩ thầm:
“Sao lại
nói quanh thế Ra mi chẳng có can đảm lấy tay đấm thẳng một cái vào trái tim mi
ư?”
Nghĩ
thế, Pa-ven nói tiếp, giọng quả quyết hơn:
- Ngoài
ra, từ lâu đã định nói với Ri-ta là Pa-ven nghe Ri-ta giảng thật ra không hiểu
lắm đâu. Khi học với Xê-gan thì trong đầu nhớ được hết. Còn với Ri-ta thì
Pa-ven học không có kết quả. Cứ mỗi lần nghe Ri-ta giảng xong, Pa-ven lại phải
tìm đến hỏi đồng chí Tô-ca-rếp. Đầu óc Pa-ven chẳng chịu làm việc nữa. Ri-ta
nên tìm một người học trò vào sáng dạ mà giúp thì hơn.
Và
Pa-ven quay đi để tránh cái nhìn chằm chằm của bạn. Anh nói thêm, nhất quyết:
- Cho
nên, chúng ta không nên tiếp tục làm mất thì giờ chung của cả hai người.
Pa-ven
đứng dậy, chân nhẹ nhàng đẩy lùi chiếc ghế, mắt nhìn xuống đầu Ri-ta đang cúi
gục; Ánh đèn soi rõ mặt Ri-ta tái nhợt đi. Pa-ven đội mũ cát- két lên đầu:
- Thôi,
từ biệt đồng chí Ri-ta nhớ. Tiếc rằng lâu nay đã làm phiền Ri-ta. Đáng lẽ phải
nói với Ri-ta ngay từ lâu rồi. Đấy là lỗi của Pa-ven.
Ri-ta
đưa tay ra bắt. Vẻ lạnh nhạt không ngờ của Pa-ven làm chị lặng đi. Chị chỉ còn
nói được mấy tiếng:
- Pa-ven
ạ, Ri-ta không oán trách gì Pa-ven hết. Ri-ta đã không làm cho Pa-ven hiểu
Ri-ta, thì Ri-ta đành phải chịu lấy điều xảy ra hôm nay.
Chân
Pa-ven bước ra nặng nề. Anh lặng lẽ khép cửa lại, rồi đi ra. Đến cổng, anh đứng
lại suy nghĩ:
“Có lẽ
nên trở lại chăng? Nói cho Ri-ta hiểu... Nói để làm gì cơ chứ? Để nhận một lời
khinh bỉ đốp vào mặt và lại bước ra cổng như thế này ư? Không!”
Trên các
ngả đường sắt vào nhà kho đoạn đầu máy, những toa tàu xơ xác, những đầu tàu
lạnh ngắt nằm lổng chổng trông y như những bãi tha ma. Gió lùa vào thổi bay mù
mạt cưa trong nhà kho chứa gỗ từ nay bỏ trống không.
Bọn phỉ
của tên O-rơ-lích đang như thú dữ rình mồi quanh thị trấn. Chúng men theo những
khe sâu, men theo các lối mòn trong rừng. Ban ngày lũ phỉ nghỉ chân trong những
bản lân cận, náu mình trong nhà của bọn chủ trại nuôi ong giàu có, đêm đến
chúng mò ra các ngả đường sắt, lấy nanh vuốt cào cấu bóc đi từng mảng đường
ray; Khi đã làm xong cái trò ghê tởm ấy, chúng lại bò về thu mình trong sào
huyệt.
Thường
có những chuyến tàu bị lăn nhào xuống chân dốc nền đường, những toa xe bật tung
lên vỡ tan tành, đè bẹp gí những hành khách còn đang ngon giấc; Những hạt lúa
mì quý đổ vãi ra mặt đường, trộn lẫn với máu và đất.
Bọn phỉ
tấn công những thị trấn thanh bình trong tổng. Đàn gà mái hoảng sợ, kêu quang
quác, chạy túa ra khắp ngả. Một tiếng súng nổ vang trước ngôi nhà trắng của trụ
sở Xô-viết tổng, nghe như những cành khô kêu răng rắc dưới chân người. Bọn phỉ
cưỡi những con ngựa béo tốt, chạy sục sạo khắp bản làng, gặp người là chém
ngay. Chúng vung kiếm vun vút, chém như bổ củi. Súng nổ thưa thớt: Chúng còn để
dành đạn.
Lũ phỉ
hiện ra rất nhanh, rồi cũng biến đi rất nhanh. Bọn chúng có tai mắt rình mò
khắp nơi. Những cặp mắt cú vọ ấy đã nhìn như xoáy vào trụ sở Xô-viết tổng mà
lão thầy tu và bọn cu-lắc thường rình mò. Có những đường dây liên lạc vô hình
từ đấy đến tận đám rừng rậm. Đạn dược, những súc thịt lợn tươi, những chai rượu
mạnh xanh xanh đều được lén lút chở vào đấy. Cả tin tức cũng thậm thụt thì thầm
truyền đến tai những tên tiểu đầu lĩnh, rồi qua một mạng lưới thông tin phức
tạp hơn, đến tận tai tên trùm O-rơ-lích.
Đám phỉ
này tất cả chỉ gồm vẻn vẹn độ hai ba trăm tay chuyên môn chặt đầu người, nhưng
chia ra đến mấy toán hoạt động cùng một lúc ở hai ba huyện. Ta vẫn chưa tóm
được chúng vì không sao theo dõi được chúng. Ban đêm, nó làm phỉ, ban ngày nó
lại khoác áo nông dân hiền lành, loay hoay làm lụng ở sân, cho ngựa ăn và kéo
tẩu thuốc. Đứng trước thềm nhà chúng nhếch mép cười thầm, đưa mắt lấm lét nhìn
theo những đội kỵ binh tuần tra đi lùng dõi chúng.
Pu-dư-rếp-ski
lâu nay mất cả nghỉ, mất cả ngủ: Đồng chí đã chỉ huy cả trung đoàn của mình phi
ngựa lùng khắp ba huyện. Đồng chí không biết mệt, kiên tâm lùng riết lũ giặc,
đôi khi đã nắm được đuôi của bọn chúng.
Trong
vòng một tháng tên phỉ O-rơ-lích phải rút bọn lâu la của nó ra khỏi hai huyện.
Nó bị ép trong một vòng vây khép chặt đang giãy giụa.
Trong
thành phố, dòng đời cứ trôi xuôi như thường lệ. Khắp năm khu chợ người lúc nhúc
đông nghìn nghịt, tiếng huyên náo rào rào, ầm ĩ. Hai xu hướng ngự trị ở nơi
đây: Kẻ bán muốn bán giá cắt cổ, người mua muốn mua giá hời nhất. Bọn bịp bợm
đủ loại tha hồ mà trổ tài đánh xoáy. Có đến hàng trăm dứa lùi lùi rình mò như
một đàn rệp, cử chỉ nhanh thoăn thoắt, cứ nhìn mắt chúng, người ta có thể biết
được đủ mọi tính tình, trừ bản chất làm ăn lương thiện. Cả lũ cặn bã của thành
phố đều tụ tập ở đây như bu vào một đống phân với mục đích duy nhất: “Xoay” của
những ai lớ ngớ mới đến. Những chuyến tàu thưa chạy đến như khạc ra bên đường
hàng đám người tay xách, lưng đeo nặng trĩu những bao với bị. Bọn họ đều đi đến
các ngả chợ này.
Chiều
tối, chợ nào cũng vắng tanh. Những phố buôn bán, những dãy cửa hàng tối om,
trông chẳng khác gì những phố hoang. Họa hoằn mới có những tay cứng bóng vía
ban đêm dám mạo hiểm đi vào khu phố chết này, nơi đây mỗi căn phố lặng ngắt đều
như có quân bất lương nấp sẵn và sắp sửa xồ ra hăm dọa. Đêm đêm lại hay có
tiếng súng nổ đánh đẹt một cái nghe như tiếng búa đập vào mảnh tôn, rồi có
tiếng người kêu ú ớ, máu sặc trong họng. Và chờ cho đến lúc mấy anh công an ở
các đồn gần đấy cùng chạy đến (họ không dám đi từng người một) thì ngoài cái
xác người còn đang giãy chết ra chẳng còn thấy bóng một ai. Bọn giết người đã
đi xa rồi và tiếng nổ làm những người còn đi chơi đêm lánh cho xa khu phố chợ.
Phía trước là rạp chiếu bóng “Ô-ri-ông” ánh điện dãi trên đường phố và vỉa hè,
công chúng đang chen chúc nhau ở đấy.
Trong
rạp máy chiếu phim lẹt xẹt. Trên màn ảnh, những cặp tình nhân bất hạnh giết lẫn
nhau, và mỗi lần phim đứt, người xem lại la ó dữ dội.
Ở khu
trung tâm và ở các ngoại ô, cuộc sống xem ra như không đi chệch vết xe cũ, và
ngay ở Tỉnh ủy, nơi đầu não của chính quyền cách mạng này, mọi sự vẫn trôi theo
dòng thường lệ. Song đấy chỉ là vẻ yên tĩnh bề ngoài.
Cơn bão
táp đang chín mùi, sắp nổ ra giữa thành phố.
Có nhiều
kẻ biết cơn bão táp sắp đến: Chúng là những kẻ từ các nơi kéo lên tỉnh, giấu không
kín khẩu súng trường trong tà áo dài nông dân. Chúng còn là những đứa giả dạng
làm bọn con buôn đầu cơ lương thực ngồi trên mái các toa xe lửa đến đây, đáng
lẽ đi tới chợ, lại mang những bao bị ấy đến những địa chỉ mà chúng nhớ như in
trong óc.
Bọn chúng
thì biết rõ, còn các xóm thợ và ngay cả những người bôn-sê-vích thì lại không
hay gì về cơn giông tố đang kéo đến gần.
Trong
thành phố, chỉ có năm người bôn-sê-vích là nắm vững tình hình chuẩn bị làm loạn
của lũ phản động.
Tàn quân
Pết-lu-ra bị Hồng quân đuổi chạy sang nước Ba Lan trắng đã câu kết chặt chẽ với
các phái đoàn nước ngoài ở Vác-xô-vi, chuẩn bị tham gia vào cuộc nổi loạn đã dự
định.
Số tàn
dư của các trung đoàn Pết-lu-ra được bí mật lập thành đội xung kích.
Bọn đầu
sỏ phiến loạn của chúng cũng có bộ phận ở Sê-pê-tốp ca nữa, gồm bốn mươi bảy
tên, phần lớn là những tên tích cực phản cách mạng mà trước đây ủy ban đặc biệt
địa phương vì cả tin, nên đã tha bổng chúng.
Tổ chức
này đo lão cố Vát-xi-li, lão chuẩn úy Vin- ních và lão võ quan của bọn
Pết-lu-ra là Cu-mên-cơ cầm đầu. Hai đứa con gái lão cố, em và bố tên Vin- ních
và cả lão Xa-mô-tư-nha đã len lỏi được vào ủy ban hành chính sở tại làm chân
thư ký chép công văn, tiến hành do thám lượm tin cho chúng.
Bọn
phiến loạn đã quyết định trong đêm khởi sự sẽ ném lựu đạn vào phân đồn công an
biên phòng đặc biệt, đánh tháo tù và nếu có thể được thì chiếm nhà ga.
Giữa khu
phố lớn, trung tâm của cuộc nổi loạn sắp tới chúng đang hết sức bí mật tập
trung bọn sĩ quan lại. Trong khi đó thì bầy thổ phỉ cũng tụ tập ở những khu
rừng lân cận ngoại ô. Từ những khu rừng ấy, chúng phái những tay chân tin cậy
của chúng sang Ru-ma-ni và đến tận nơi báo cáo với đích thân Pết-lu-ra.
*
Giu-khơ-rai
làm việc ở ủy ban đặc biệt quân khu chống phản cách mạng. Đêm này nữa là sáu
đêm ròng anh thức trắng chưa hề nhắm mắt lấy một phút. Anh là một trong năm
người bôn- sê-vích biết rõ mọi chuyện. Giu-khơ-rai có cảm giác như người đi săn
đã dõi thấy vết chân con thú dữ giữa lúc nó sắp nhảy xổ ra cắn.
(Ủy ban
đặc biệt, một cơ quan vừa là công an, vừa là tình báo còn được gọi là công an
đặc biệt nữa)
Song
biết mà không thể kêu lên, không thể báo động được. Phải đập chết con ác thú.
Có đập chết tươi nó, mới có thể yên ổn làm ăn được, đi đâu khỏi phải nơm nớp
nhìn từng bụi rậm. Cần nhất đừng làm cho con thú dữ kia kinh động. Trong trận
tử chiến này, chiến sĩ phải có trí sáng suốt, lòng kiên tĩnh và cánh tay vững
mạnh mới đảm bảo được thắng lợi.
Ngày ấy,
giờ ấy sắp đến nơi rồi.
Tại một
nơi nào đó ở thành phố, trong ngóc ngách của tổ chức bí mật của chúng, bọn
chúng đã họp kín với nhau quyết định: Đêm mai.
Nhưng
năm người bôn-sê-vích biết chuyện đã trù tính chặn trước. Không, phải ra tay
ngay hôm nay, ngay đêm nay.
Lúc tối,
một chuyến xe lửa bọc sắt lặng lẽ không kéo còi, từ từ chạy ra khỏi nhà ga, và
xe vừa ra khỏi, cổng lớn nhà kho khép ngay lại, im ắng như không.
Các
đường dây điện báo trực tiếp hối hả truyền những bức mật điện; Những hàng chữ
số đó bay đến đâu là bộ đội biên phòng ở đấy quên cả ngủ, tróc cho tiệt ổ thú
dữ.
A-kim
gọi dây nói cho Giác-ki.
- Các
hội nghị chi bộ đã triệu tập xong chưa? Thế nào? Tốt. Đồng chí cùng với đồng
chí bí thư Đảng ủy khu phố lại họp ngay nhớ. Vấn đề tiếp tế củi thế mà trầm
trọng hơn ta tưởng đấy. Đến đây ta sẽ bàn - Giác-ki nghe xong câu nói nhanh,
với giọng quả quyết của A-kim, vừa đặt ống nói xuống vừa càu nhàu:
- Vẫn
vấn đề củi. Còn là điên đầu với nó.
Hai
người bí thư Đảng và Đoàn từ trong chiếc xe của anh lái Lít-kê bước ra. Lên đến
tầng hai, họ hiểu ngay không phải vấn đề củi.
Một khẩu
súng máy “Mác-xim” nằm trên bàn giấy đồng chí phụ trách. Các chiến sĩ súng máy
của đơn vị đặc công đang tíu tít chung quanh. Ngoài hành lang, những đảng viên
và đoàn viên trung kiên của thành phố lặng lẽ đứng gác. Trong phòng làm việc
của đồng chí bí thư Tỉnh ủy, cuộc họp bất thường của ban thường vụ sắp sửa kết
thúc.
Đường
dây từ ngoài phố mắc qua cửa sổ con nối với hai máy nói kiểu dùng khi hành
quân.
Người ta
thì thầm nói chuyện với nhau. Giác-ki gặp A-kim, Ri-ta và Mi-khai-lô ở trong
phòng. Ri-ta mặc quân phục, như hồi còn làm chính trị viên đại đội: Mũ
Bu-đi-on-ny, váy ka-ki, thắt lưng đeo súng “Mô-de” nặng trĩu.
Giác-ki
sửng sốt hỏi:
- Thế
này nghĩa là thế nào?
Ri-ta
nói cho anh biết:
- Tập
báo động đấy, Giác-ki ạ. Chốc nữa, tất cả sẽ đến khu phố đồng chí. Có hiệu lệnh
là tập hợp ở Trường Lục quân thứ năm. Anh chị em họp chi bộ xong thì cứ đến
thẳng đấy ngay. Chủ yếu là tập hợp thế nào cho không ai để ý đến mình.
Im lặng
bao trùm khu rừng “Học sinh quân”.
(Thời
trước ở đây có trường “Học sinh quân” của chính phủ Nga hoàng nên gọi là rừng
“Học sinh quân” )
Hàng cây
sên đại thụ đứng yên không lay động. Mặt nước ao tù phủ đầy những mảng bèo đang
yên ngủ. Những lối đi rộng kín cỏ. Giữa rừng, sau bức tường trắng cao là những
tòa nhà của trường “Học sinh quân” trước kia, ngày nay là Trường Lục quân thứ
năm của Hồng quân. Đêm đã khuya. Từng nhà trên không thắp đèn sáng. Đứng ngoài
trông vào có vẻ tịch mịch lắm. Ai qua đây cũng tưởng trong mấy tòa nhà này mọi
người đang ngủ say. Song nếu ngủ thì tại sao hai cánh cửa đúc bằng gang nặng
trình trịch lại mở toang ra và ngoài của có hai đống đứng lù lù như hai con cóc
khổng lồ thế? Người ở khắp các ngả trong khu công nhân đường sắt kéo đến đều
biết rằng có báo động đêm thì trong trường chẳng ai ngủ đâu. Từ những cuộc họp
chi bộ Đảng, sau khi được nghe chỉ thị vắn tắt, họ liền đi thẳng đến đây, lẳng
lặng, không trò chuyện. Họ đi từng người một hay từng đội, nhưng không quá ba
người, trong túi người nào cũng có chứng minh thư trên đề “Đảng cộng sản bôn-sê-vích”
hoặc “Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ- ren”. Có chìa một trong hai giấy chứng
nhận đó mới qua được hai cánh cửa đúc bằng gang này.
Trong
phòng họp lớn, người đã đông. Gian phòng này thắp đèn sáng. Vải bạt che kín các
cửa sổ. Những người bôn-sê-vích họp mặt ở đây nói đùa nhau rằng cách tập báo
động này có vẻ công thức. Họ thản nhiên hút thuốc như không có chuyện gì xảy
ra. Không ai cảm thấy có biến cả. Ai cũng tưởng tập hợp lại như thế chỉ là để
kiểm tra tinh thần kỷ luật của các đơn vị công tác đặc biệt mà thôi. Song những
cựu chiến binh dày kinh nghiệm hơn, vừa bước chân vào cổng trường Lục quân, đã
cảm thấy ngay có một cái gì hoàn toàn không phải là tập báo động cả. Mọi việc
đều tiến hành một cách quá lặng lẽ. Theo tiếng hô khe khẽ, từng trung đội học
viên sĩ quan im lặng xếp thành hàng ngũ, và súng máy xách tay, họ tiến ra ngoài
đường. Ở ngoài nhìn vào, không một ngôi nhà nào có chút ánh đèn.
Pa-ven
đến gần Đu-ba-va, khẽ hỏi:
- Có gì
nghiêm trọng không, Đu-ba-va?
Đu-ba-va
đang ngồi ở thành cửa sổ, cạnh một cô con gái mà Pa-ven chỉ mới thoáng gặp ở
nhà Giác-ki hôm kia. Nghe hỏi, Đu-ba-va vỗ vai Pa-ven nói đùa:
- Thế ra
cậu lo mất hồn rồi à? Chẳng ngại gì đâu! Rồi chúng mình sẽ dạy cậu đánh nhau.
À, cậu không quen cô này hay sao? - Đu-ba-va hất đầu chỉ về phía thiếu nữ kia:
- Đây là cô An-na. Họ gì, mình không biết, còn chức vụ: Phụ trách cơ sở tuyên
truyền.
Thiếu nữ
nghe lời giới thiệu tinh nghịch của Đu- ba-va, đưa mắt nhìn kỹ Pa-ven. Cô vuốt
lại mái tóc tuột ra ngoài khăn quàng màu hoa cà.
Cặp mắt
cô bạn mới bắt gặp mắt Pa-ven. Nhìn nhau không nói mấy giây. Đôi mắt cô bạn đen
xanh, ánh lên, hơi kiêu kỳ dưới hàng mi dày mượt. Pa-ven quay sang nhìn
Đu-ba-va. Cảm thấy mặt mình đỏ lên, Pa- ven bực mình cau mày và cố nhếch mép
mỉm cười, hỏi cô bạn mới:
- Vậy
thì trong hai đồng chí, ai là người đang tuyên truyền thuyết phục ai?
Giữa lúc
ấy, trong phòng họp có tiếng ồn ào. Đại đội trưởng trèo lên ghế, hô lớn:
- Các
đảng viên cộng sản thuộc đại đội thứ nhất! Sắp đội ngũ trong phòng này! Mau
lên, các đồng chí, mau lên!
Vừa lúc
ấy, Giu-khơ-rai, đồng chí chủ tịch Ban chấp hành tỉnh và A-kim bước vào. Cả ba
vừa mới tới đây. Gian phòng chật ních người đứng sắp thành hàng. Đồng chí chủ
tịch bước lên chỗ đặt khẩu súng máy thường ngày dùng để tập, giơ tay lên, cất
tiếng nói:
- Các
đồng chí, hôm nay chúng ta họp nhau ở đây vì một công việc rất khẩn trương.
Việc đó đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm cao. Bây giờ thì tôi có thể nói ra
điều mà hôm qua chưa thể nói được, vì đấy là một bí mật quân sự quan trọng. Đêm
mai, trong thành phố này và các thành phố khác của U-cơ-ren sẽ nổ ra cuộc nổi
loạn của bọn phản cách mạng. Thành phố đã đầy rẫy bọn võ quan trắng. Lũ phỉ đã
tập trung quanh thành. Một bộ phận của bọn phiến loạn ấy đã chui vào tiểu đoàn
thiết giáp của ta làm chân lái xe. Ủy ban đặc biệt của ta đã khám phá ra vụ này
và hôm nay, chúng tôi huy động tất cả tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản
tới đây để vũ trang đi dẹp phiến loạn. Tiểu đoàn cộng sản thứ nhất và thứ hai
sẽ cùng phối hợp hành động với các đơn vị học sinh sĩ quan và Ban đặc biệt đã
từng quen chiến đấu. Học viên sĩ quan đã đi trước rồi. Giờ đến lượt các đồng
chí. Các đồng chí có mười lăm phút để nhận vũ khí và xếp đội ngũ cho xong. Đồng
chí Giu-khơ-rai đây sẽ chỉ huy chiến đấu. Các đội trưởng sẽ nhận chỉ thị cụ thể
ở đồng chí Giu-khơ-rai. Tôi thiết tưởng không cần nói nhiều với tiểu đoàn cộng
sản ta đây về tính chất nghiêm trọng của giờ phút này. Cuộc phiến loạn sắp nổ
ngày mai, chúng ta phải bóp chết nó ngay hôm nay.
Mười lăm
phút sau, toàn tiểu đoàn đã vũ trang đầy đủ đội ngũ chỉnh tề đứng trong sân
trường. Giu-khơ-rai đưa mắt nhìn những hàng người đứng im.
Đứng
trước, cách hàng ba bước, hai người nai nịt gọn gàng: Tiểu đoàn trưởng
Mê-nhay-lô, vóc người to lớn, vốn làm nghề thợ đúc ở U-ran, và bên cạnh là
A-kim làm chính ủy. Bên trái, những trung đội thuộc đại đội thứ nhất. Trước đại
đội hai bước là đồng chí đại đội trưởng và đồng chí chính trị viên. Sau lưng
họ, những hàng quân im lặng của tiểu đoàn cộng sản. Ba trăm tay súng.
Giu-khơ-rai
ra hiệu lệnh:
- Đến
giờ rồi! Tiến lên, bước!
Ba trăm
chiến sĩ tiến bước vào các ngả phố vắng tanh.
Thành
phố đang ngủ yên.
Tiểu
đoàn dừng chân tại phố Lơ-vốp, ngay chỗ đối diện với phố Đi-cai. Bắt đầu hành
động từ địa điểm này.
Các khối
nhà đều bị bao vây một cách lặng lẽ. Cơ quan tham mưu đóng ngay trên thềm một
cửa hiệu. Một chiếc ô-tô từ khu trung tâm đổ xuống, xuôi dọc con đường Lơ-vốp,
đèn pha rọi lên hè phố. Chiếc xe đỗ xịch trước cơ quan tham mưu.
Anh
thanh niên Guy-gô, con trai Lít-kê, lẩn này lái xe đưa cha tới. Cha anh là tư
lệnh đơn vị bảo vệ thành phố. Ông nhảy xuống đường nói với con mấy câu vắn tắt
bằng tiếng Lét-tô-ni. Chiếc xe lại nhảy chồm lên phía trước và trong nháy mắt
đã biến vào lối rẽ sang phố Đơ-ni-tơ-rép. Guy-gô mắt nhìn không chớp, hai tay
như gắn chặt vào tay lái, ngoặt sang phải, ngoặt sang trái.
Cái tính
lái xe táo bạo của Guy-gô thế mà cũng có lúc được việc! Chẳng ai còn có ý muốn
bắt phạt giam anh hai đêm vì cái tội cầm lái điên cuồng này nữa.
Và
Guy-gô bay khắp phố phường như một trận cuồng phong.
Guy-gô
đưa Giu-khơ-rai thoắt từ đầu này thành phố, trong nháy mắt đã vụt đến đầu kia
thành phố, làm cho Giu-khơ-rai cũng phải khen:
- Guy-gô
ạ, nếu đêm nay không chẹt phải ai thì mai cậu sẽ được thưởng một chiếc đồng hồ
vàng.
Guy-gô
mừng quýnh, đáp lại bằng giọng Lét-tô- ni lơ lớ của anh:
- Em thì
cứ tưởng là em đến phải ngồi tù mười ngày vì cái tội lái bạt mạng này mất.
Những
đòn đầu tiên nhằm giáng vào tổng hành dinh bọn phiến loạn. Những tên bị bắt và
những tài liệu thu được đưa ngay đến Ban đặc biệt.
Trên phố
Di-cai, ở ngõ cũng mang cái tên lạ lùng ấy tại nhà số 1 có một đứa tên là
Xuy-béc. Căn nhà nó ở có cửa sổ nhìn ra một khu vườn, vườn này chỉ cách có bức
tường ngăn với ngôi nhà trước kia là nhà tu kín. Lúc quân ta đến thì căn nhà
không có ai ở đấy. Láng giềng nói là hôm ấy Xuy-béc không về nhà. Khám trong
nhà thì thấy có một hòm lựu đạn cùng với bản danh sách có kèm địa chỉ. Đồng chí
Lít-kê hạ lệnh phục kích sẵn ở những địa chỉ ấy, còn mình thì đứng lại bên bàn
một phút xét qua những tài liệu tìm được.
Người
đứng gác ở trong công viên là một học viên sĩ quan trẻ tuổi. Cậu ta trông thấy
rõ cửa sổ có ánh sáng. Đứng ở trong góc này, có một mình thôi, chẳng thú tí
nào; Cậu thấy ngài ngại. Người ta ra lệnh cho cậu gác bức tường bao phủ khu
vườn. Nhưng từ chỗ tường đến chỗ ánh sáng yên ổn ở cửa sổ kia còn xa lắm. Hơn
nữa, mặt trăng quái ác kia lại cứ bị mây che mờ luôn. Trong bóng tối, bụi cây
nào cũng như có người trong ấy. Cậu học viên sĩ quan lấy lưỡi lê dò dẫm quanh mình:
Chẳng có gì cả.
“Sao lại
đặt mình gác ở đây? Tường cao thế thì ai mà leo vào được kia chứ. Thôi mình lại
gần cửa sổ ngó vào xem cái đã!”. Nghĩ thế, cậu ta nhìn đầu tường cao chót vót
một lần nữa, rồi bước khỏi góc tối sặc mùi ẩm mốc ấy. Cậu dừng lại bên cửa sổ
một lát. Đồng chí Lít-kê thu nhặt nhanh những giấy tờ và định bước ra khỏi
phòng. Giữa lúc đó trên đầu tường hiện ra một bóng đen. Bóng đen đó từ trên
tường nhìn thấy rõ người đứng gác trước cửa sổ và cả người đang đứng ở trong
phòng. Nhẹn như một con mèo, nó chuyền sang một ngọn cây rồi bò xuống đất, rón
rén đến chỗ anh lính gác, tay nó vung lên và anh học viên sĩ quan quỵ xuống.
Lưỡi đoản kiếm cắm phập vào cổ người gác lút đến tận cán.
Tiếng
súng nổ giữa khu vườn đập vào tai các chiến sĩ đang vây quanh khu phố như một
luồng điện giật.
Sáu
người lộp cộp chạy đến.
Đồng chí
Lít-kê đã chết, xác ngã trong chiếc ghế bành, đầu đẫm máu gục trên bàn. Kính
cửa sổ vỡ toang. Kẻ địch không có thời giờ lấy lại tài liệu.
Tiếng nổ
tới tấp vang lên ở chân tường khu nhà tu kín. Hung thủ đã nhảy ra phố và chuồn
về khoảng đất trống ở đường Lu-ki-an, vừa chạy hắn vừa bắn trở lại. Nhưng thoát
sao được: Một viên đạn của ta đã bắn theo trúng.
Khám xét
suốt đêm. Hàng trăm người không có tên trong danh sách hộ khẩu, nhưng có vũ khí
và những tài liệu khả nghi trong người, đã bị giải đến Ban đặc biệt, ở đây có
bộ phận chuyên môn tra xét.
Ở một
vài chỗ bọn phiến loạn đã dùng vũ trang kháng cự. Ở phố Gi-liên, đồng chí
An-tô-sa bị chúng bắn chết giữa lúc ta đang khám xét một nhà.
Tiểu
đoàn Xô-lô-men-ca đêm ấy mất đi năm chiến sĩ. Ban đặc biệt mất đồng chí Lit-kê,
lão đồng chí bôn-sê-vích, người lính gác trung thành và mẫn cán của nước cộng
hòa.
Âm mưu
phiến loạn đã bị chặn đứng.
Cũng đêm
ấy Ở Sê-pê-tốp-ca, lão cố Vát-xi-li, hai con gái và cả bè lũ nhà hắn đã bị bắt.
Tình thế
nguy ngập đã dịu dần.
Song một
kẻ thù mới lại đe dọa thành phố: Thiếu củi, đường xe lửa bị tê liệt, và tiếp
sau đó là giặc đói và giặc rét.
Bánh mì
và củi sẽ quyết định tất cả.
Thép Đã
Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 2
Giu-khơ-rai
trầm ngâm suy nghĩ; Anh rút tẩu thuốc lá đang ngậm ở miệng ra và khẽ lấy ngón
tay sờ vào tàn thuốc. Tẩu đã tắt ngóm.
Chừng
mười điếu thuốc lá tỏa khói xám, cuộn khúc trên cao gần những ngọn đèn trần
bóng mờ, lượn trên chiếc ghế bành của đồng chí chủ tịch Ban chấp hành tỉnh. Nét
mặt những người ngồi quanh bàn trong góc phòng làm việc trông chỉ thấy lờ mờ
như bị một làn sương nhẹ bao phủ.
Tô-ca-rếp
ngồi cạnh đồng chí chủ tịch Ban chấp hành, ngực tì vào bàn. Ông già bứt chòm
râu, cử chỉ đầy vẻ bực tức. Chốc chốc Tô-ca-rếp lại đưa mắt liếc nhìn một tên
hói trán lùn tịt: Tên này giọng the thé đang nói liến thoắng hàng tràng những
câu rỗng tuếch như trứng đã mút hết lòng.
A-kim
bắt gặp cái liếc mắt của người thợ nguội già Tô-ca-rếp, cái nhìn đó làm anh nhớ
lại thời thơ ấu: Hồi đó nhà bố mẹ anh có một con gà chọi, anh thường gọi đùa là
“con Móc mắt”. Trước khi nhảy xổ vào đối thủ, con gà chọi ấy cũng nhìn như kiểu
Tô-ca-rếp đang nhìn bây giờ.
Cuộc họp
tỉnh ủy đã kéo dài hơn một tiếng rồi. Tên hói trán là chủ tịch ủy ban vận
chuyển gỗ củi. Hắn vừa lấy những ngón tay rất nhẹn lật lật tập giấy, vừa nói
thao thao:
- Chính
vì những lý do khách quan ấy mà quyết nghị của tỉnh ủy và của cục quản lý đường
sắt không thể thực hiện được. Tôi xin nhắc lại: Dù hạn cho một tháng nữa, chúng
tôi cũng không thể cung cấp được hơn bốn trăm thước khối củi gỗ. Còn con số
mười tám vạn thước khối mà các đồng chí ấn định thì là... - Tên hói trán nghĩ để
tìm ra tiếng muốn nói. - Thì là chuyện không tưởng! - Nói xong hắn mím cái
miệng nhỏ xíu mắm môi lại, vẻ bực tức.
Im lặng
thấy càng kéo dài.
Giu-khơ-rai
lấy móng tay gõ cái tẩu cho tàn thuốc rơi ra. Giọng khàn khàn trong cổ họng
Tô-ca-rếp phá tan không khí im lặng:
- Cần
quái gì phải nhai đi nhai lại mãi như thế. Anh bảo rằng ở ủy ban vận chuyển gỗ
của anh trước đây không sẵn củi, giờ cũng không có nốt và sau này các anh cũng
không đào đâu ra được... Có phải anh nói thế không?
Tên hói
trán nhún vai:
- Xin
lỗi đồng chí, củi thì chúng tôi đã trữ sẵn, chỉ phải cái không có xe chở đi...
- Hắn ho lên một tiếng, lấy khăn tay kẻ ô vuông ra lau cái trán bóng. Lau xong,
bàn tay lần mãi không thấy túi áo đâu, hắn bực mình nhét cái khăn vào cặp giấy.
Đê
nhếch-cô từ góc phòng lên tiếng:
- Thế
anh đã tìm cách gì để chở củi chưa? Vì từ khi bọn phụ trách chuyên môn dính vào
cuộc âm mưu phiến loạn bị bắt đến nay kể đã lâu rồi còn gì!
Tên hói
trán quay lại phía Đê-nhếch-cô:
- Tôi đã
ba lần báo cáo với cục đường sắt là không có phương tiện vận tải thì không làm
ăn gì được...
Tô-ca-rếp
ngắt lời hắn:
- Cái đó
chúng tôi đều đã nghe lắp đi lắp lại mãi rồi - Tô-ca-rếp hằn học nhìn hắn,
giọng bực tức ra mặt - Thế ra anh cho chúng tôi là đồ ngu cả hay sao?
Câu hỏi
ấy làm cho tên hói trán thấy lạnh cả gáy.
Lần này
hắn hạ thấp giọng nói khẽ:
- Tôi
không chịu trách nhiệm về những hành động của bọn phản cách mạng.
A-kim
hỏi:
- Nhưng
anh hẳn phải biết là nơi các anh cho đốn gỗ ở cách đường xe lửa quá xa.
- Tôi có
nghe nói thế, song đấy không phải là phạm vi tôi phụ trách, nên tôi không thể
báo cáo cấp trên về tình trạng bất thường xảy ra ở phạm vi người khác được.
Chủ tịch
hội đồng công đoàn hỏi:
- Anh có
bao nhiêu người làm?
- Gần
hai trăm.
Tô-ca-rếp
cáu tiết:
- Thế ra
một năm mỗi tên ăn hại chỉ làm được độc một thước khối!
Chủ tịch
công đoàn nói tiếp:
- Chúng
tôi đã cấp phát cho ủy ban vận chuyển của các anh khẩu phần lương ăn gấp đôi,
chúng tôi phải rút của anh chị em công nhân để cấp cho các anh như thế, ngược
lại thì các anh làm được những gì? Hai toa bánh mì đưa cho các anh để phát cho
công nhân, các anh đã nhét đâu mất?
Những
câu nói từ bốn phía dồn dập trút lên đầu tên trán hói, nhưng hắn ta tìm cách
đánh lảng như con nợ trốn chủ nợ.
Hắn nói
quanh co, trơn tuột như chạch, không trả lời thẳng, mắt lấm lét nhìn sang hai
bên. Hắn đã cảm thấy nguy đến nơi rồi. Rúm mình trong nỗi lo sợ hoảng hốt, hắn
chỉ ước muốn một điều độc nhất: Chóng rời khỏi được chốn này để về ăn bữa cơm
chiều thịnh soạn với con vợ còn trẻ của hắn giờ đây đang đọc cuốn truyện của
Pôn-đờ-cốc để giết thời giờ.
Giu-khơ-rai
vừa chú ý nghe những câu trả lời của hắn, vừa ghi vào tờ giấy sổ tay: “Phải
điều tra kỹ thằng cha này hơn, đây không phải đơn thuần là vấn đề thiếu tích
cực. Đã có một số tài liệu về hắn... Thôi, nói chuyện với hắn đã đủ rồi. Để hắn
cút đi cho rảnh. Còn chúng ta thì bắt tay vào việc của ta đi thôi”.
Đồng chí
chủ tịch Ban chấp hành đọc mảnh giấy ghi mấy hàng chữ đó và nhìn Giu-khơ-rai
gật đầu.
Giu-khơ-rai
đứng dậy đi ra phòng ngoài gọi dây nói. Lúc anh trở vào, chủ tịch Ban chấp hành
đã đọc đến đoạn cuối của nghị quyết.
“Cách
chức toàn ban phụ trách cơ quan vận chuyển gỗ vì hành động phá hoại hiển nhiên.
Đưa vụ đốn gỗ này ra tòa”.
Cơ sự đã
không đến nỗi nguy như hắn chờ đợi. Thật ra, cách chức vì phá hoại thì chắc là
đặt vấn đề nghi ngờ lòng trung thành của hắn, nhưng đấy chẳng qua là chuyện
vặt. Còn việc đốn gỗ ở công trường Bai-a-rơ-ca thì hắn không phải lo, vì nó
không phải phạm vi của hắn. “Chà mình cứ tưởng là tụi nó đã lần ra được manh
mối gì rồi kia...”
Hắn gần
như đã yên trí lắm, vừa cho giấy má vào cặp vừa nói:
- Phải,
tôi là một nhà chuyên môn ngoài Đảng, nên các anh có quyền không tin tôi là
phải. Nhưng lương tâm tôi trong sạch. Tôi không làm được việc chỉ vì thực tế
tôi không thể làm nổi thôi.
Không ai
trả lời hắn. Hắn bước ra, vội vã xuống thang gác và mở cửa ra phố, thấy nhẹ
nhõm cả người.
Một
người mặc áo khoác bộ đội hỏi hắn:
- Vị cho
biết tên là gì?
Hắn chột
dạ trả lời ấp úng:
- Séc...
Vin-ski...
Phần tử
lạc loài ấy vừa ra khỏi, trong phòng giấy của chủ tịch Ban chấp hành tỉnh, mười
ba cái đầu chụm sát vào nhau trên chiếc bàn lớn.
Giu-khơ-rai
ấn ngón tay trên tấm bản đồ mở rộng:
- Các
đồng chí xem... Đây là ga Bai-a-rơ-ca, cách chỗ lấy gỗ bảy dặm. Ở đấy có hai
mươi mốt vạn thước khối gỗ đang xếp đống. Đội quân lao động đã khó nhọc tám
tháng trời, mất bao nhiêu là công lao động. Kết quả thế nào? Chúng nó đã phản
ta, xe lửa và thành phố vẫn không có củi để đốt. Gỗ đốn rồi phải chở sáu dặm
đường nữa mới tới được nhà ga. Muốn thế phải dùng ít nhất là năm nghìn xe ngựa
chở suốt một tháng, mà phải chở mỗi ngày hai chuyến mới được. Thôn gần nhất ở
đấy cũng cách mười lăm dặm. Lại phải cái vạ tên O-rơ-lích và lũ phỉ lâu la của
hắn luôn quấy phá ở những vùng này. Các đồng chí có hiểu tình hình như vậy là
thế nào không?... Thế này đây: Theo kế hoạch thì đáng lẽ công trường khai thác
gỗ bắt đầu từ đây và làm dần về phía nhà ga. Nhưng quân khốn nạn chúng nó lại
vào mãi tận rừng sâu mở công trường. Chúng đã tính sát: Chúng ta không thể nào
chở gỗ đã chặt tới đường sắt được. Thật thế, chúng ta cũng chẳng đào đâu ra lấy
trăm chiếc xe ngựa. Chúng đã chơi chúng ta những đòn như thế đấy. Lợi hại chẳng
kém gì cái ban bạo động của chúng.
Quả đấm
nắm chặt của Giu-khơ-rai nặng nề rơi chát xuống tấm bản đồ.
Cả mười
ba người đều tưởng tượng thấy rất rõ tai họa đang ập đến, tai họa mà
Giu-khơ-rai không nói ra. Mùa đông đã kề bên cửa. Nhà thương, trường học, các
cơ quan và hàng trăm ngàn nhân dân lâm vào cảnh gió rét cắt da mà không củi
đốt, còn ở các nhà ga, hành khách đông như kiến mà xe lửa mỗi tuần chỉ chạy
được có một chuyến.
Mỗi
người suy nghĩ miên man.
Giu-khơ-rai
buông nắm tay ra:
- Có một
biện pháp, các đồng chí ạ: Phải làm cho xong trong vòng ba tháng một con đường
sắt nhỏ từ ga tới chỗ đẵn gỗ - bảy dặm. Tính thế nào để trong một tháng rưỡi
thì đã làm được đến đầu chỗ đẵn gỗ. Việc này tôi đã nghĩ tám ngày nay rồi...
Muốn làm được thì... Giọng Giu-khơ-rai rít lên trong cổ họng khô - Thì cần ba
trăm năm mươi công nhân và hai kỹ sư. Ở kho đoạn đầu máy Pu-sa Vô-đi-xa, chúng
ta đã có sẵn đường ray và bảy chiếc đầu máy do thanh niên cộng sản tìm được.
Trước chiến tranh người ta đã định đặt một con đường sắt nhỏ từ đấy vào thành
phố. Nhưng ở Bai-a-rơ-ca, công nhân không có chỗ ở tại đấy chỉ có độc một cái
trường lâm nghiệp cũ đã đổ nát ở mãi tít trong rừng. Phải chia công nhân thành
từng toán đến làm việc, hai tuần thay phiên một lần, vì mỗi phiên làm lâu hơn
nữa thì không chịu nổi. Ta phải phái các đoàn viên thanh niên cộng sản đến đấy,
anh A-kim thấy thế nào?
Và không
đợi trả lời, Giu-khơ-rai nói tiếp:
- Đoàn
thanh niên cộng sản phải cố hết sức điều động tất cả những đoàn viên nào có thể
điều động được đến đấy trước hết là tổ chức đoàn ở Xô-lô-men- ca và một bộ phận
ở trong thành phố. Nhiệm vụ rất khó khăn, nhưng nếu giải thích cho lứa trẻ biết
rằng có thế mới cứu được thành phố khỏi chết rét, cứu được đường xe lửa khỏi bị
tê liệt thì bọn trẻ sẽ làm bằng được.
Đồng chí
phụ trách đường sắt lắc đầu tỏ vẻ không tin, giọng đồng chí mệt mỏi:
- Không
biết giải quyết thế có ổn hay không. Tôi tính không tài nào làm được đoạn đường
sắt dài bảy dặm, trên một khoảng đất không trơ trụi, trong hoàn cảnh hiện nay
đang tiết trời mùa thu, sắp bắt đầu có mưa rồi, lại sắp mùa đông tháng giá...
Giu-khơ-rai,
không quay lại nhìn đồng chí ấy cắt ngay:
- Đồng
chí An-đrây Va-xi-li-ê-vích ạ, đồng chí cần phải để tâm săn sóc hơn việc đốn
gỗ! Còn con đường này, chúng ta sẽ làm được.. Chẳng có ai lại chịu ngồi khoanh
tay chờ chết rét đâu
Những
hòm dụng cụ cuối cùng đã xếp lên toa xe. Người làm trên xe lửa, ai nấy đã về
phần việc của mình rồi. Ngoài trời mưa nhỏ hạt, buốt cóng. Những giọt mưa trong
như những hạt pha lê lăn trên chiếc áo da ướt bóng loáng của Ri-ta.
Từ biệt
Tô-ca-rếp, Ri-ta bắt chặt tay đồng chí già và khẽ nói:
- Chúc
các đồng chí thành công.
Cụ già
ngước hàng lông mày xám, thân thiết nhìn Ri-ta. Cụ nói lẩm bẩm, thốt lên những
tiếng như đáp lại ý nghĩ của chính mình:
- Phải,
cái quân khốn ấy đã làm chúng mình mất ăn mất ngủ. Ở đây các đồng chí phải để ý
theo dõi. Nếu bên chúng tôi có chuyện gì rắc rối thì bất cứ việc gì cần đến,
các đồng chí phải giúp ngay một tay mới được. Vì cái lũ đểu ấy không có làm cái
gì mà không ba hoa kiểu cách ngoài miệng bao giờ. Thôi, tàu sắp chạy, già phải lên
rồi, con ạ.
Ông già
khép chặt cái áo vét-tông lại. Phút cuối cùng, Ri-ta làm ra vẻ vô tình hỏi:
- Kìa,
thế Pa-ven không cùng đi với các đồng chí hay sao? Trong đám anh chị em đi đây,
chẳng thấy anh ấy đâu cả.
- À, cậu
ấy hôm qua đã cùng đồng chí phụ trách công trình ngồi xe goòng đi trước để
chuẩn bị cho chúng tôi tới sau.
Trên sân
ga, Giác-ki và Đu-ba-va đang vội vã đi lại phía cụ Tô-ca-rếp và Ri-ta. Cùng đi
với họ có cả An-na Bô-khác, áo ngắn mặc ngoài vắt thõng ngang vai, những ngón
tay mảnh khảnh của chị cặp một điếu thuốc lá đã tắt.
Nhìn về
phía ba người đang đi tới, Ri-ta hỏi rốn cụ Tô-ca-rếp:
- Pa-ven
học với bác ra sao rồi, bác?
Tô-ca-rếp
ngạc nhiên nhìn chị:
- Học
gì? Cậu ấy lâu nay do cháu hướng dẫn học tập cơ mà? Đã nhiều lần cậu ta nói với
bác về cháu đấy. Thằng bé nó khen cháu không ngớt lời.
Ri-ta
nghe ông cụ nói, bụng vẫn chưa tin.
- Có
thật thế không, đồng chí Tô-ca-rếp? Theo cháu biết, anh ấy vẫn thường đến nhà
bác để nhờ bác giảng lại bài cháu hướng dẫn.
Ông già
phá ra cười:
- Đến
nhà bác à?... Tôi có thấy cậu ấy đến hỏi tôi bao giờ đâu!
Còi tàu
rú lên, Cơ-la-vi-sếch từ trong toa kêu to:
- Đồng
chí Ri-ta ơi! Đồng chí để cho bố già đi với chúng tôi thôi chứ. Ai lại cứ giữ
mãi ông cụ lại mà chuyện thế! Không có bố già thì chúng tôi biết làm ăn thế
nào?
Anh
chàng người Tiệp Khắc đó còn đang muốn nói thêm gì nữa, nhưng nhận ra ba đồng
chí đang đi đến gần toa xe, anh im ngay. Trong khoảnh khắc, đôi mắt anh bắt gặp
cái nhìn lo lắng của An-na; Trông thấy An-na mỉm cười từ biệt Đu-ba-va, anh rời
cửa sổ quay phắt ngay vào trong toa, lòng buồn rười rượi.
*
Mưa thu
quất vào mặt người. Những đám mây xám nghịt mọng nước kéo lê thê trên nền trời
thấp. Cảnh thu muộn, những cánh rừng đã trút hết lá. Hàng cây cổ thụ đứng chau
mày, giấu lớp vỏ nhăn nheo dưới màng rêu màu nâu. Mùa thu tàn nhẫn đã lột trần
bộ áo sặc sỡ tươi màu của rừng để thân cây đứng trơ trụi và hốc hác.
Ga xép
hiu quạnh này náu mình chính giữa rừng vắng. Từ ke bốc hàng lát đá, mới đắp
thêm một dải đất lầy nhầy chạy về phía rừng. Chung quanh, người hì hục làm,
đông như kiến.
Bùn nhầy
nhụa, dính lấy mỗi bước đi. Ủng da lội bì bà bì bõm nghe lớp nhớp khó chịu.
Người ta hùng hục xúc đất, đổ nền. Xà beng chạm loảng xoảng, cuốc bổ vào đá
chan chát.
Mưa tuôn
như rây bột. Hạt mưa lạnh thấm qua quần áo. Mưa đang cuốn đi công trình lao
động của con người. Đất thó vữa ra như cháo đặc sệt cứ từ những chỗ mới đắp tùn
xuống.
Quần áo
bị ướt sũng, vừa nặng, vừa lạnh buốt. Nhưng ngày này qua ngày khác, người ta
vẫn cố làm rốn đến tận tối mịt mới nghỉ tay.
Dải đất
mới đắp mỗi ngày một chui thêm mãi vào rừng sâu.
Cách nhà
ga không xa, ngôi nhà đá sừng sững đứng trơ xương, trông dữ tợn. Những thứ gì
có thể dỡ được, tháo được hoặc phá được thì đã bị lấy trộm đi từ bao giờ rồi.
Các cửa sổ, cửa ra vào giờ chỉ còn là những lỗ hổng. Các cửa lò dưới bếp chỉ
còn là những khoảng đen ngòm. Mái nhà trơ những khe, lỗ, để lộ ra kèo cột bên
trong.
Chỉ có
nền nhà bằng bê-tông của bốn phòng rộng là còn nguyên thôi. Tối đến, bốn trăm
con người quần áo ướt sũng, bê bết bùn lầy, chen chúc nhau nằm lên đấy rét run
cầm cập. Người ta đứng lại ngoài cửa vắt quần áo, từng dòng nước bùn đục rỏ
tong tong xuống đất. Họ nguyền rủa trời mưa gió, cảnh lầy lội. Trên ổ rơm rải
mỏng dính lên nền bê-tông, họ nằm thành hàng san sát quắp lấy nhau mà ngủ cho
ấm. Quần áo bốc hơi ngùn ngụt mà không tài nào khô được. Cửa sổ mất kính, che
tạm bằng mấy chiếc bao tải, nước mưa hắt vào rỉ xuống nền nhà. Từng cơn mưa đổ
hồi như trống giục, trút nước lên những mảnh tôn còn lại trên mái; Gió gào luồn
qua khe liếp chặn cửa, thổi ùa vào trong.
Sáng
dậy, đoàn người kéo đến túp lều xiêu vẹo xưa kia là bếp; Họ làm một bát nước
chè rồi ra công trường. Trưa nào cũng chỉ độc một món đậu nấu không chán ngấy
với sáu lạng bánh mì đen thui như than đá. Thành phố chỉ có thể cung cấp cho họ
được đến thế thôi.
Phụ
trách công trình là ông già Va-lê-ri-an Pa-tô- sơ-kin, người cao lớn khô đét,
hai má hóp nhăn nheo. Cán bộ kỹ thuật là Va-cu-lên-cô, người lùn tịt, mũi sư tử
ngồi chòm chõm trên khuôn mặt xương xẩu như lấy rìu mà đẽo vậy. Họ đều ở nhờ
nhà người trưởng ga.
Tô-ca-rếp
ngủ ở trong phòng đồng chí công an đặc biệt công tác ở ga này. Đồng chí ấy tên
là Khô-li-a- va, có hai cẳng ngắn ngủn, tính người cựa quậy luôn chân luôn tay,
y như giọt thủy ngân.
Đoàn
người xây dựng đường sắt kiên cường chịu đựng mọi sự thiếu thốn.
Nền
đường mới đắp mỗi ngày một thọc sâu vào rừng.
Trong
đoàn đã có chín người đào ngũ. Mấy ngày sau lại có năm người nữa bỏ trốn.
Sang
tuần thứ hai, công trường bị nó chơi một vố đầu tiên: Chuyến tàu chiều từ tỉnh
lên không chở bánh mì cho công trường.
Đu-ba-va
đánh thức cụ Tô-ca-rếp dậy và báo tin ấy cho đồng chí.
Người bí
thư già của Đảng bộ công trường buông thõng hai chân đầy lông xuống đất, tay
gãi sồn sột vào nách một cách giận dữ. Đồng chí vừa mặc quần áo vừa lẩm bẩm:
- Chúng
đã giở trò rồi!
Vừa lúc
ấy, anh chàng Khô-li-a-va béo tròn như một quả bóng lăn vào. Tô-ca-rếp liền ra
lệnh cho anh ta:
- Đi
nhanh ra dây nói, gọi đến Ban đặc biệt. - Rồi quay lại dặn Đu-ba-va: - Còn cậu
thì đừng có hở cái việc bánh mì này cho một ai nhé!
Mất nửa
tiếng quặc nhau với các nhân viên tổng đài điện thoại, nhờ thái độ cương quyết,
Khô-li-a-va đã liên lạc được với đồng chí phó chủ nhiệm Ban đặc biệt là
Giu-khơ-rai. Nghe thấy Khô-li-a-va cãi nhau hoài với các nhân viên tổng đài,
Tô-ca-rếp sốt ruột quá giậm chân thình thịch.
Tiếng
Giu-khơ-rai thét lên trong ống nói:
- Sao?
Không chở bánh mì tới à? Được, để tôi hỏi ngay lập tức xem ai làm ra cái chuyện
này?
Tô-ca-rếp
bực tức la to vào máy:
- Đồng
chí cho tôi biết ngay điều này thì hơn: Mai chúng tôi lấy gì cho anh em ăn đây.
Giu-khơ-rai
suy nghĩ. Một lát khá lâu sau, ông già bí thư Đảng ủy công trường nghe đáp lại:
- Bánh
mì, chúng tôi sẽ chở đến ngay đêm nay. Tôi sẽ phái Guy-gô đánh xe tới, cậu ấy
biết đường. Sáng mai, các đồng chí sẽ có bánh ăn.
Tờ mờ
sáng hôm sau, một chuyến xe bùn bắn bê bết chở bánh mì tới ga. Lít-kê con, mệt
nhoài, bước ra khỏi xe, mặt mày phờ phạc vì suốt đêm không ngủ.
Cuộc đấu
tranh để làm xong con đường ngày càng gay go quyết liệt. Phân cục đường sắt báo
cho biết là không có tà vẹt. Ở thành phố thì không đào đâu ra phương tiện để
chuyển đường ray và đầu máy đến công trường. Ngay đến cả các đầu máy nhỏ cũng
cần phải sửa chữa lại khá nhiều mới chạy được. Toán công nhân thứ nhất sắp hết
hạn, thế mà toán đến thay phiên vẫn chưa thấy mặt đâu cả. Không thể nào cứ giữ
những người đã kiệt sức này ở lại làm tiếp được nữa.
Trong
nếp nhà cũ kỹ, dưới ánh đèn dầu le lói, hội nghị cán bộ kéo dài cho đến tận
khuya.
Sáng sớm
hôm sau, Tô-ca-rếp, Đu-ba-va, Cơ-la-vi- sếch mang sáu người về thành phố để
chữa đầu máy và lấy đường ray. Cơ-la-vi-sếch nguyên là công nhân nướng bánh mì
nên được phái đến ban tiếp phẩm để kiểm tra, còn những anh em khác thì đi cả về
Pu- sa Vô-đi-sa.
Mà mưa thì
vẫn trút xuống.
*
Pa-ven
vất vả mới rút được chân ra khỏi vũng vùn nhầy nhụa. Cảm thấy bần chân bỗng
nhiên tê buốt, anh biết là chiếc đế giày mục đã tụt mất hẳn rồi. Ngay từ ngày
đầu tới đây cho đến giờ, anh đã khổ sở vì đôi giày ống hỏng, đôi giày lúc nào
cũng ướt sũng, cũng bết bùn. Bây giờ thì một chiếc đã mất hẳn đế, bàn chân giẫm
thẳng trong bùn lạnh thấu xương. Chân tê giá quá chừng, anh không còn sức để
làm việc nữa. Anh móc chiếc đế giày mới tụt ra khỏi bùn, nhìn nó mà thất vọng.
Anh quên cả lời anh tự hứa với mình hôm trước, buột mồm văng tục chửi rủa,. Rồi
bỏ đi vào túp lều nay dùng làm bếp. Ngồi cạnh bếp, anh tháo chiếc tất ướt đầm
đìa ra và hơ bàn chân đã tê cứng vào lửa.
Chị
Ô-đác-ca, vợ bác gác đường sắt, được người cấp dưỡng đưa vào làm phụ, đang thái
củ cải trên chiếc bàn nhà bếp. Trời phú cho chị vợ còn trẻ ấy của bác gác đường
sức vóc hơn người, đôi vai lực điền, bộ ngực dữ như vâm, đôi hông dư sức, thẳng
đứng. Chị ta đưa dao thoăn thoắt, đống rau thái rồi chẳng mấy chốc đã chất cao trên
bàn.
Thấy mặt
Pa-ven, chị ta nhìn có vẻ khinh bỉ và hằn học hỏi:
- Định
đến chực ăn đấy à? Còn hơi sớm một chút. Chắc lại trốn việc chứ gì? Mà sao lại
thò chân vào đấy? Đây là nhà bếp chứ có phải nhà tắm đâu.
Chị ta
đang chửi Pa-ven thì đồng chí cấp dưỡng đứng tuổi bước vào.
Pa-ven
giải thích tại sao mình lại vào bếp:
- Chiếc
giày ống của tôi tan nát mất rồi.
Đồng chí
cấp dưỡng nhìn chiếc giày ống rách nát và hất đầu về phía chị Ô-đác-ca:
- Chồng
chị ấy cũng võ vẽ nghề thợ giày đấy, nói bác ta khâu hộ cho, kẻo ở đây không có
giày thì tong đời.
Nghe
nói, chị Ô-đác-ca nhìn Pa-ven và cảm thấy hơi ngượng. Chị thú thật:
- Thế mà
tôi đã tưởng lầm là anh trốn việc vào đây.
Pa-ven
cười. Đến lượt chị Ô-đác-ca ngắm nghía chiếc giày có vẻ là tay lành nghề lắm:
- Giày
này chồng tôi chẳng buồn chữa đâu, giầy thế này chữa chỉ toi công. Thôi để tôi
mang đến cho anh một chiếc giày cao-su cũ, tôi thấy bỏ vương ở nhà tôi ấy. Anh
xỏ vào cũng đỡ lạnh chân. Chứ ai đời lại để giầy không có đế mà đi được, thật
tội nợ. Nay mai lại sắp đại hàn, giày với dép như thế thì anh đến quỵ mất.
Lần này
thì chị Ô-đác-ca nói có chiều thương hại Pa-ven lắm. Và chị đặt dao xuống, đi
ra.
Một lát,
chị mang về chiếc giày cao su đi tuyết và một miếng vải băng. Chân hơ nóng, lấy
vải bọc lại, thọc vào giày rồi, Pa-ven lặng nhìn chị Ô-đác-ca thầm tỏ ý cảm ơn.
Tô-ca-rếp
ở tỉnh về, nét mặt hầm hầm, giận dữ.
Đồng chí
triệu tập các cán bộ lại nhà Khô-li-a-va và báo cho mọi người biết những tin
chẳng có gì là phấn khởi cả. Đồng chí báo cáo với anh em:
- Chỗ
nào cũng ỳ ra. Đi đến đâu cũng thấy bánh xe quay nhưng quay chổng lên trời cả.
Phải thấy rằng chúng ta chưa trừ tiệt được bọn chó trắng. Khi chúng không còn
thò ra mống nào nữa thì nghĩa là chúng vẫn còn. Tôi nói toạc ra cho anh em biết
là công việc không được chạy lắm. Toán thứ hai đến thay phiên giờ vẫn chưa tập
hợp xong. Sẽ gửi đến đây được bao nhiêu người cũng chưa rõ. Đại hàn sắp tới nơi
rồi. Trước khi trời bắt đầu vào rét, dù chết chúng ta cũng phải vượt qua được
đoạn lầy. Nếu không, rét đến, có lấy răng mà gặm đất cũng không nổi đoạn đường.
Ở trên tỉnh, bọn nào làm láo rồi sẽ bị trùy cẩn thận. Còn chúng ta ở đây phải
ra sức làm nhanh gấp đôi mới được. Dù có chết đi chết lại năm lần cũng phải làm
cho xong nhánh đường sắt này. Không xong thì còn mặt mũi nào làm người
bôn-sê-vích nữa. Không xong thì chỉ là một bọn ươn hèn mà thôi. - Tô-ca- rếp
nói, giọng hôm nay không khàn khàn như mọi khi, tiếng cụ rung lên lanh lảnh như
tiếng thép. Đôi mắt sáng quắc dưới hàng lông mày cau cau đủ tỏ quyết tâm ngoan
cường của đồng chí già.
- Ngay
hôm nay chúng ta sẽ họp kín, đánh thông trong nội bộ. Ngày mai sẽ đi làm cả.
Sáng mai thì cho những người ngoài Đảng họ về. Còn chúng ta thì ở lại. Quyết
nghị của tỉnh ủy đây. - Tô-ca-rếp đưa tờ giấy gấp tư cho Pan-cơ-ra-tốp.
Nhìn qua
vai Pan-cơ-ra-tốp, Pa-ven thấy trong giấy có những hàng chữ: “Cần thiết giữ lại
ở công trường tất cả các đoàn viên. Cho đến khi nào chở được chuyến gỗ thứ nhất
về mới được thay phiên. Thừa lệnh bí thư Ban chấp hành Tỉnh. Ri-ta
Uốt-chi-nô-vích”.
Căn nhà
chật chội, không còn chỗ mà len vào nữa. Một trăm hai mươi con người chen chúc
nhau, người đứng dựa tường, người leo lên bàn, có người leo lên cả lò bếp.
Cuộc họp
do Pan-cơ-ra-tốp khai mạc. Lão đồng chí Tô-ca-rếp nói ngắn thôi, nhưng đoạn
cuối làm choáng váng mọi người:
- Ngày
mai, các đảng viên và đoàn viên đều ở lại.
Ông già
giơ tay đập vào khoảng không như để nhấn mạnh là quyết nghị ấy như đanh đóng
cột rồi. Cử chỉ ấy làm tan vỡ mọi hy vọng muốn về tỉnh, về với những người
thân, tan hết hy vọng rút chân ra khỏi chốn bùn lầy này. Lúc đầu tiếng nhao
nhao nổi lên đến nỗi không còn nghe thấy gì nữa. Ngọn đèn dầu nhỏ tí lay lắt
như cũng phấp phỏng. Tối quá, không còn trông rõ mặt người. Tiếng nói ồn ào mỗi
lúc một to. Nhóm này kháo nhau, mơ mộng gợi lại cảnh gia đình đầm ấm, nhóm kia
tức giận kêu mệt nhọc. Có nhiều người không nói gì cả. Và chỉ có một người nói
ra miệng muốn đào ngũ. Giọng căm phẫn của hắn từ trong góc nhà ném ra những câu
nói chêm lời văng tục.
- Mẹ
kiếp! Tôi đếch vào ở đây lấy một ngày nào nữa. Đày ai đi khổ sai thì cũng phải
có tội tình gì mới đày người ta được chứ. Chúng tôi đây thì có tội gì? Đã giam
chúng tôi ở đây nửa tháng, xin đủ lắm rồi. Người ta là người chứ không phải là
sung rụng. Ai quyết định làm chỗ này thì kẻ ấy tự dẫn xác đến đây mà làm lấy.
Ai muốn thì cứ đến mà lăn mình vào đống bùn này, còn tôi, đời tôi chỉ sống có
một lần, tôi phải giữ lấy thân tôi. Ngay ngày mai là tôi chuồn.
Ô-cu-nhếp
đứng ngay trước mặt tên vừa la đó, anh quẹt diêm soi xem mặt tên đào ngũ đó là
đứa nào. Ánh lửa diêm khoảnh khắc lóe lên trong bóng tối, làm lòi cả cái mặt
méo xệch, nhăn nhó, tức tối, mồm há hốc kia. Ô-cu-nhếp nhận ra nó là con lão
thư ký kế toán ở ban tiếp tế của tỉnh.
- Mày
soi cái gì? Tao có phải ăn trộm ăn cắp đâu mà phải giấu mặt.
Diêm
tắt, Pan-cơ-ra-tốp vùng đứng phắt dậy. Anh đưa mắt nặng nề, nhìn những người
đứng gần, giọng ồ ồ:
- Kẻ nào
dám há mồm sủa láo đấy? Đứa nào bảo nhiệm vụ Đảng trao cho là khổ sai? Các anh
em, chúng ta không thể nào trở về tỉnh được. Chỗ của chúng ta là ở đây. Nếu
chúng ta bỏ đi tức là nhân dân sẽ bị chết rét. Ta càng làm xong sớm thì càng về
sớm. Còn đánh bài chuồn như cái thằng khốn nạn vừa rồi thì lý tưởng của chúng
ta, kỷ luật của chúng ta không cho phép.
Pan-cơ-ra-tốp
- anh công nhân bốc vác - vốn không ưa nói dài, nhưng ngay mấy câu vắn tắt của
anh cũng đã lại bị cái giọng ban nãy cắt lời:
- Người
ngoài Đảng, ngoài Đoàn thì được về phải không?
Pan-cơ-ra-tốp
trả lời đốp:
- Được.
Tức thì
một tên mặc chiếc bành-tô ngắn diện phố lách tới chỗ bàn. Hắn quăng ra một cái
thẻ. Cái thẻ như cánh dơi liệng, chạm vào ngực Pan-cơ-ra-tốp, rồi bắn ra, rơi
tõm xuống mặt bàn.
- Thẻ
đây, xin các anh cầm lấy hộ. Xin phép các anh, chết vì mảnh bìa này mà tội vào
thân thì tôi xin đủ.
Hắn chưa
dứt lời, tiếng phẫn nộ nhao nhao lên khắp gian nhà:
- Mày
quẳng cái gì đi đấy! Không biết nhục à!
- Đồ chó
chết, cút đi!
- Cái
thứ mặt ấy chui vào Đoàn cốt chỉ để kiếm một chỗ nào ấm cái thần xác!
- Tống
cổ nó đi!
- Được
rồi chúng tao cho mày chỗ ấm, rõ cái đồ rận tha bệnh thương hàn!
Tên vừa
vứt thẻ Đoàn đó cúi gằm mặt lùi lũi bước ra. Hắn đi qua, ai nấy đều giãn ra như
tránh một con bệnh truyền nhiễm. Hắn ra khỏi, cửa đóng kẹt lại.
Pan-cơ-ra-tốp
vò cái chứng minh thư hắn bỏ, gí vào ngọn đèn dầu.
Mảnh bìa
bốc cháy, tàn quặn lại.
*
Có tiếng
súng nổ. Từ phía túp nhà tồi tàn một bóng người cưỡi ngựa phóng trốn vào rừng,
biến trong đêm tối. Người từ trong trường học và căn nhà đổ ùa ra. Có người
đụng phải tấm biển bằng gỗ dán đút vào kẽ cửa lớn. Người ta quẹt diêm và lấy
vạt áo che gió; Ánh diêm lập lòe, soi lên thì đọc thấy mấy chữ: “Chúng bay cút
ngay khỏi nhà ga này, ở đâu đến thì lại về đấy ngay lập tức. Kẻ nào ở lại chúng
ông sẽ cho ăn đạn vào sọ. Quân ta sẽ giết sạch, không tha một mống. Gia hạn cho
đến tối mai là cùng, phải tuân lệnh này” Dưới có chữ ký: “Đầu lĩnh Sê-nốc”.
Sê-nốc
là bè đảng O-rơ-lích.
Trong
phòng Ri-ta, cuốn nhật ký của chị để mở trên bàn.
"Mồng
hai tháng Chạp
Sáng nay
có tuyết đầu mùa rồi. Trời lạnh ghê người. Gặp Vê-rê-sláp Ôn-sin-ski ở cầu
thang. Mình và anh ta cùng đi ra ngoài. Ôn-sin-ski nói:
- Tôi
bao giờ cũng thích tuyết đầu mùa. Chà lạnh! Cảnh tuyết đẹp ghê, phải không chị?
Mình
nghĩ đến công trường Bai-a-rơ-ca nên trả lời anh ta là mình rét và tuyết chẳng
làm mình vui tí nào, trái lại chỉ làm mình khổ tâm. Mình nói cho anh ta hiểu vì
sao lại thế.
- Đấy là
cách nhìn chủ quan của chị thôi. Nếu phát triển quan điểm của chị thì, chẳng
hạn như trong lúc chiến tranh, không thể nào cho phép có tiếng cười và nói
chung tất cả những gì biểu hiện vui sống được ư? Nhưng thực tế có như thế đâu
chị? Thảm kịch là chỉ ở nơi hỏa tuyến. Ở đấy mối cảm về cuộc sống luôn luôn bị
cái chết kề bên cạnh bóp nghẹt. Nhưng ngay ở đấy, vẫn có tiếng cười. Còn ở hậu
phương cuộc sống thế nào thì nó vẫn như thế: Tiếng cười và tiếng khóc, đau khổ
và mừng vui, khao khát kịch hát hoan lạc tình cảm, rạo rực tình yêu.
Trong
những lời của Ôn-sin-ski, khó mà phân biệt là châm biếm hay nói thật.
Ôn-sin-ski là phái viên của Bộ dân ủy ngoại giao. Vào Đảng từ năm 1917. Mặc
theo lối phương Tây, râu bao giờ cũng cạo nhẵn, người lúc nào cũng bôi tí nước
hoa. Anh ta ở phòng đồng chí Xê-pan, cùng nhà với bọn mình. Chiều nào cũng đến
thăm mình. Nói chuyện với anh chàng cũng thấy hay hay. Anh ta đã từng ở Pa-ri
lâu, hiểu nhiều về phương Tây. Nhưng mình không hề nghĩ rằng anh ta với mình có
thể thành bạn thân được. Lý do: Đối với mình, anh ta trước hết coi mình là một
phụ nữ, rồi sau nữa mới là một đồng chí Đảng. Thật ra, anh ta không che đậy gì
những ý nghĩ, những thèm muốn của anh ta cả. Kể cũng là một tay bạo nói thật.
Và cái thú của anh ta cũng không thô bạo đâu. Anh ta khéo nói tô vẽ cho nó đẹp.
Nhưng mình không ưa anh ta.
Tác
phong chất phác tuy hơi cục cằn của Giu-khơ- rai làm cho mình dễ gần hơn là cái
nước sơn hào nhoáng Âu hóa của Ôn-sin-ski.
Nhận
được báo cáo ngắn từ Bai-a-rơ-ca gửi về. Mỗi ngày đặt được hơn hai trăm thước
đường. Tà-vẹt đặt ngay trên đất đóng băng, lấy rìu và xà beng khoét đất ấy ra,
rồi đặt tà-vẹt vào đấy. Tất cả chỉ còn hai trăm bốn mươi người. Toán thứ hai
đến thay phiên đã bỏ trốn mất một nửa. Điều kiện làm việc thật là gay. Giá
tuyết như vậy không biết rồi làm ăn ra sao?... Đu ba-va ở đấy đã được một tuần.
Trong số tám đầu máy ở Pu-sa Vô-đi-xa chỉ chọn được năm. Những cái còn lại đều
thiếu mất nhiều bộ phận.
Cục quản
lý xe điện kiện Đu-ba-va vì anh ta cùng toàn đội đã dùng vũ lực giữ tất cả các
xe điện đi từ Pu-sa Vô-đi-xa về tỉnh. Đu-ba-va bắt hành khách xuống, lấy toa
tàu chở đường ray đến công trường. Mười chín toa xe điện theo đường quanh tỉnh
chạy về ga. Công nhân xe điện hết sức giúp họ.
Ở nhà
ga, số đoàn viên thanh niên cộng sản Xô- lô-men-ca còn lại suốt đêm hì hục xếp
ray đi, và Đu- ba-va cùng anh em trong đội chở những thanh ray về công trường
Bai-a-rơ-ca.
A-kim
gạt đi không xét vụ khiếu nại về Đu-ba-va này ở hội nghị thường vụ. Đu-ba-va đã
trình bày với chúng tôi tình trạng quan liêu lề mề quá quắt ở Cục xe điện. Họ
khăng khăng chỉ cho anh hai chiếc tàu điện và nhất định không cho hơn. Túp-ta
lên lớp Đu-ba-va:
- Thời
buổi này phải bỏ tác phong du kích ấy đi, bây giờ mà còn thế nữa thì có phen
ngồi tù sớm. Làm như không thể nào dàn xếp thương lượng được, nên cứ phải dùng
tay súng nói chuyện với nhau hay sao?
Mình
chưa bao giờ thấy Đu-ba-va giận dữ đến thế. Anh ta thét ầm khiến phòng họp Tỉnh
đoàn rung lên.
- Đồ cạo
giấy sao không vác mặt đứng ra mà thương lượng? Chỉ ngồi ở đây như con đỉa hút
mực lại còn cứ xoen xoét cái lưỡi. Tớ mà về Bai-a-rơ-ca không có ray thì người
ta hớt mõm tớ đi! Được rồi, phải gửi cậu lên công trường mới chừa cái thói ngồi
một chỗ làm vướng chân người khác. Để cho cụ Tô-ca-rếp cụ ấy dạy cho cậu biết
thân?
Túp-ta
đã viết đơn kiện Đu-ba-va, nhưng A-kim đề nghị mình đi ra trước, còn anh ngồi
lại nói chuyện với Túp-ta độ mươi phút. Sau đó, Túp-ta hầm hầm đi ra, đỏ mặt
tía tai vì giận dữ.
3 tháng
Chạp.
Tỉnh ủy
lại nhận được đơn khiếu nại của Ban đặc biệt ngành giao thông về một vụ mới xảy
ra. Số là Pan-cơ-ra-tốp, Ô-cu-nhếp cùng mấy đồng chí nữa đến ga Mô-lô-vi-lốp-ca
dỡ cửa lớn và cửa sổ của các tòa nhà bỏ không. Lúc họ khiêng những thứ này lên
tàu thì có một anh công an đặc biệt của nhà ga định bắt họ. Họ tước vũ khí của
anh kia. Mãi đến khi tàu chạy, họ mới trả súng ngắn cho anh, nhưng lại moi hết
đạn đi. Họ cuỗm tất cả cửa giả đi. Phòng vật liệu sở công chính lại còn tố cáo
Tô-ca-rếp không được phép đã tự động lấy hai mươi put đinh ở kho Bai-a-rơ-ca.
Thật ra thì số đinh này Tô-ca-rếp đã chia cho nông dân, thế vào tiền công họ đã
chuyển gỗ từ nơi đẵn đến công trường để làm tà-vẹt. (Một pút bằng 16,3 ki-lô)
Mình đã
đem những chuyện này nói với đồng chí Giu-khơ-rai. Anh cười bảo: “Tất cả những
chuyện ấy, rồi chúng ta sẽ dàn xếp đâu vào đấy cả”.
Trên
công trường, tình hình hết sức căng thẳng, quý từng ngày một. Việc vặt gì cũng
phải dùng đến hết mọi áp lực. Luôn luôn phải kéo cổ những tên kìm hãm công việc
lên Tỉnh ủy. Đám thanh niên trên công trường ngày càng hay phá nội quy.
Ôn-sin-ski
mang đến cho mình một cái lò sưởi điện nhỏ. Ôn-ga I-u-rê-nhê-va và mình dùng để
sưởi tay. Nhưng trong phòng có lò cũng chẳng ấm thêm. Không hiểu các anh em làm
trên công trường, nằm trong rừng, đêm nay ngủ làm sao được? Ôn-ga kể chuyện:
Trong nhà thương lạnh quá, bệnh nhân không dám thò đầu ra khỏi chăn. Cách ba
ngày mới được đốt củi sưởi một lần.
Không,
đồng chí Ôn-sin-ski ạ, thảm kịch ở tiền tuyến cũng, là thảm kịch của hậu
phương.
4 tháng
Chạp,
Tuyết
suốt đêm. Tuyết xuống rất dày. Anh em ở Bai-a-rơ-ca viết thư cho mình biết: Mọi
vật đều bị tuyết phủ hết. Công việc bị đình lại. Người ta đổ ra quét tuyết lấy
đường đi. Hôm nay tỉnh ủy quyết nghị: Công tác đợt thứ nhất trên công trường
trước ngày mồng một tháng Giêng năm 1922 phải làm xong đến giáp giới khu vực
đốn gỗ. Người ta kể lại rằng khi nghị quyết truyền đạt tới Bai-a-rơ-ca, thì
Tô-ca-rếp trả lời: “Nếu anh em chúng tôi không đổ hết, thì nhất định làm được”.
Chẳng
nghe thấy nói gì về Pa-ven. Cũng lạ là chẳng có “vụ”, nào về Pa-ven tương tự
như kiểu Pan-cơ-ra- tốp đã làm cả. Đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao
Pa-ven cứ tránh mặt tôi.
5 tháng
Chạp.
Hôm qua
thổ phỉ lại bắn vào công trường".
*
Ngựa rón
rén đặt chân lên lớp tuyết mềm, xốp. Đôi lúc móng ngựa giẫm gẫy cành cây nằm
dập dưới tuyết kêu răng rắc, con ngựa phì hơi, né sang một bên, nhưng bị nòng
súng trường không cắm lưỡi lê thúc vào đôi tai, liền phi lên, đuổi theo những
con đi trước.
Gần chục
tên cưỡi ngựa vượt ngọn đồi ở đầu dải đất nâu còn chưa bị tuyết phủ.
Chúng
kìm ngựa lại đấy. Bàn đạp ngựa chạm vào nhau xoang xoảng. Con ngựa đi đầu rùng
mình quẫy mạnh, toàn thân nó đã đẫm mồ hôi sau một đoạn đường dài. Thằng đi đầu
nói:
- Quân
khốn kiếp chúng nó đang rúc trong cái nhà kia kìa. Làm thế nào đuổi chúng đi
như gạt sạch tuyết mới được! Đầu lĩnh đã bảo chậm lắm ngày mai phải xua sạch
cái lũ châu chấu ấy ra khỏi đây. Vì nếu không thì cái lũ “công nhân” chó chết
ấy có thể mò được đến tận những đống gỗ đã đốn kia.
Bọn đi
ngựa xếp hàng dọc men theo nhánh đường sắt tiến gần vào nhà ga. Chúng mon men
từng bước đến khoảng rừng trống mé trước cái trường học cũ rồi đứng nấp sau
những lùm cây.
Loạt
súng nổ phá tan cái im lặng của đêm tối. Chùm tuyết từ trên cành cây bạch dương
có ánh trăng bạc dãi lên rơi xuống như sóc chuyền cành. Giữa những hàng cây,
lóe lên những tia lửa đạn bắn lỗ chỗ những mảnh tường đắp thạch cao; Những mảnh
kính Pan- cơ-ra-tốp lấy về lắp trên cửa sổ bị vỡ tan tành.
Loạt
súng đã lôi những người ngủ trên sàn bê-tông choàng dậy, nhưng khi có những
viên đạn chì như những con dế độc bay vù vù trong phòng thì họ sợ hãi nằm rạp
cả xuống, mất hết trật tự, người này ngã vào người kia.
Đu-ba-va
túm lấy áo ca-pốt Pa-ven.
- Cậu đi
đâu?
- Ra
ngoài.
Đu-ba-va
rỉ tai nói hổn hển:
- Nằm
xuống, thằng ngu! Mày ló mặt ra, nó bắn chết tươi ngay tại chỗ.
Họ nằm
bò sát vào nhau, gần ngưỡng cửa ra vào. Đu-ba-va nằm rạp xuống sàn nhà, tay
chĩa súng ngắn ra phía ngoài cửa. Pa-ven ngồi xổm, hồi hộp sờ ổ đạn súng ngắn.
Có năm viên tất cả. Sờ đến lỗ không đạn, anh quay ổ đạn lại.
Súng
ngừng nổ. Yên lặng đột ngột làm mọi người ngạc nhiên. Đu-ba-va khẽ ra lệnh cho
những người đang nằm:
- Anh em
ai có vũ khí hãy tập hợp lại đây!
Pa-ven
rón rén mở cửa. Ngoài khoảng rừng quang vắng, không một bóng người. Bông tuyết
rơi xuống quay chầm chậm. Trong rừng sâu, lúc đó có mười tên kỵ mã đang quất
ngựa chạy.
Gần
trưa, một chiếc xe goòng từ thành phố lao như bay tới. Giu-khơ-rai và A-kim ở
trong xe bước ra. Tô-ca-rếp và Khô-li-a-va ra đón. Người ta tháo từ trên xe
xuống khẩu súng Mác-xim với mấy băng đạn và hai chục khẩu súng trường. Khẩu
súng máy bố trí ngay ở sân ga.
Mọi
người vội vã đi đến chỗ làm việc. Tà áo ca- pốt của Giu-khơ-rai quét trên mặt
đất phủ tuyết, vẽ thành đường ngoằn ngoèo. Anh đi như gấu chạy, người vặn bên
này vặn bên kia, chân hơi khoèo. Anh vẫn còn quen cái lối đi ấy như bước trên
boong rập rình của chiếc phóng ngư lôi hạm hồi xưa. A-kim người cao, chân dài,
nên vẫn theo kịp Giu-khơ-rai. Chỉ có cụ Tô-ca-rếp chốc chốc lại phải cắm cổ
chạy theo.
Cụ nói:
- Việc
thổ phỉ tập kích hãy còn là chuyện mệt vừa. Mệt nhất là có gò đất chắn ngáng
ngay lấy đường chúng tôi đang làm. Ma xui quỷ khiến nó nằm lù lù ra đấy. Phải
đào đi cả một đống đất tướng.
Ông già
dừng lại, quay lưng chắn gió, châm thuốc lá một lòng bàn tay úp như cái phễu để
che gió; Cụ rít một hơi, rồi lại đuổi theo các đồng chí. A-kim đứng lại chờ.
Giu-khơ-rai vẫn rảo bước đi trước.
A-kim
hỏi Tô-ca-rếp:
- Sao,
bác xem liệu ở đây ta có đủ sức làm xong con đường đúng thời hạn không?
Tô-ca-rếp
đắn đo một lát, rồi mới trả lời:
- Chắc
chú cũng biết, thật ra, nói chung thì không thể nào làm xong được, nhưng không
làm xong cũng không được. Cho nên phải xong.
Hai
người đuổi kịp Giu-khơ-rai và cả ba cùng đi ngang hàng với nhau. Ông già nói
bằng một giọng phấn khởi:
- Then
chốt vấn đề là trông vào chỗ “nhưng” ấy. Ở đây chỉ có hai người, Pa-tô-sơ-kin
và tồi biết được trong những điều kiện chó má này, với mớ dụng cụ thô sơ và
nhân lực thiếu thốn như thế này thì không thể nào làm xong được con đường.
Nhưng được cái tất cả anh em ở đây đều thấy là không xong con đường này cũng
không được. Cho nên tôi đã dám nói rằng: “Nếu anh em chúng tôi không đổ hết thì
nhất định làm được”. Các đồng chí thử nhìn mà xem. Chúng tôi làm hùng hục đã
sang tháng thứ hai rồi. Ba đợt dân công đã kế tiếp nhau làm ở đây và toán đang
làm là toán thứ tư, nhưng đám đoàn viên thanh niên cộng sản là lực lượng cốt
cán thì vẫn làm quần quật không nghỉ. Chính vì họ trai trẻ nên họ mới đứng vững
được như thế. Cũng đã có đến một nửa anh em bị cảm mạo. Hễ cứ nhìn đám trẻ ấy
là không sao cầm lòng được, thật tội và thương. Thanh niên như họ thật quý vô
giá... Cái xó chết tiệt này rồi sẽ làm nhiều anh em gục mất...
Nhánh
đường sắt đã làm xong đoạn đầu tiên đến cách nhà ga một cây số.
Xa hơn
nữa độ một cây rưỡi trên nền đường mới san bằng, những thanh gỗ dài nằm bám
xuống đất trông như những cột hàng rào bị gió thổi bạt đi, đổ lăn ra. Đấy là
tà-vẹt. Xa nữa, đến chân gò đất là con đường mới đắp chưa đặt ray.
Đây là
nhóm làm đường số một của Pan-cơ-ra-tốp.
Bốn mươi
người đặt tà-vẹt. Bác nông dân râu hoe, đi giày rơm mới, đang từ từ kéo từng
cây gỗ trên xe trượt tuyết đẩy ra mặt đường. Xa xa, cũng có mấy chiếc xe nữa
đang dỡ gỗ xuống. Hai thanh sắt dài nằm trên đất, đó là kích thước đường ray để
đo tà- vẹt cho đều. Búa, xà beng, cuốc xẻng thi nhau bổ xuống để san phẳng nền
đất.
Đặt
tà-vẹt là một công việc tỉ mỉ và phải làm từ từ. Tà-vẹt đặt trên mặt đường phải
bám rõ chặt và phải để thế nào cho đường ray đặt lên dựa đều vào mỗi thanh
tà-vẹt, thanh nào cũng như thanh nào.
Ở đây
chỉ độc cụ già trưởng toán La-gu-chin là thạo kỹ thuật đặt đường ray. Cụ là bố
đẻ Ta-li-a. Tuy đã năm mươi tư tuổi rồi mà đầu cụ không một sợi tóc bạc, râu
vểnh ra hai bên, đen như hắc ín. Cụ đã tự nguyện ở lại làm, đến lượt thay phiên
thứ tư vẫn không về. Cụ lăn lộn với đám thanh niên, đồng cam cộng khổ; Được
toàn đội yêu kính. Tuy là một người ngoài Đảng, bao giờ cụ cũng được mời vào
ngồi ghế danh dự trong tất cả các cuộc họp Đảng. Tự hào với điều đó, cụ đã hứa
là việc chưa xong thì quyết không bỏ công trường về.
- Đời
nào tôi có thể bỏ anh em mà về được, anh em thử nghĩ mà xem. Rời tôi ra, anh em
đặt tà-vẹt sẽ lúng túng mất: Công việc này cần phải có con mắt tinh, có tay
quen mới làm được. Còn tôi thì trong đời đã đặt không biết bao nhiêu là tà-vẹt
trên khắp đất nước Nga ta rồi... - Cứ mỗi lần có chuyến thay phiên thì cụ lại
nói bằng một giọng hồn nhiên như thế và tự nguyện ở lại làm.
Pa-tô-sơ-kin
tin ông cụ nên ít khi đến kiểm tra đoạn đường cụ làm. Lúc Giu-khơ-rai, A-kim và
Tô- ca-rếp đến chỗ anh em làm việc thì Pan-cơ-ra-tốp đang bổ búa xuống moi đất
chôn tà-vẹt, người anh mồ hôi nhễ nhại, mặt đỏ gay.
A-kim
mãi mới nhận ra được anh chàng công nhân khuân vác đó. Pan-cơ-ra-tốp gầy xọp
đi. Hai gò má cao bây giờ càng gồ lên, mặt rửa quấy quá, trông càng xám xịt và
hốc hác thêm.
- Kìa,
các đồng chí phụ trách trên tỉnh đã xuống.
Anh nói
và chìa bàn tay nóng bỏng, ướt đẫm mồ hôi ra bắt tay A-kim.
Tiếng
cuốc xẻng ngừng lại. A-kim thấy chung quanh đều là những khuôn mặt xanh vàng.
Áo ca-pốt và áo ngắn mặc ngoài của họ cởi ra, ném lăn lóc ngay trên mặt đất phủ
tuyết.
Nói
chuyện với cụ La-gu-chin xong, Tô-ca-rếp kéo Pan-cơ-ra-tốp đi và dẫn hai đồng
chí tỉnh ủy đến đám đất đã san bằng. Chàng công nhân khuân vác ít nói đi cạnh
Giu-khơ-rai.
Giu-khơ-rai
nghiêm giọng hỏi Pan-cơ-ra-tốp:
- Pan-cơ-ra-tốp,
chú cho tôi biết việc xảy ra ở Mô- tô-vi-lốp-ca giữa chú và nhân viên công an
đặc biệt! Chú nghĩ sao, có thấy là tước vũ khí của người ta như thế thì quá lắm
không?
Pan-cơ-ra-tốp
mỉm cười, luống cuống:
- Chúng
tôi tước vũ khí của hắn ta là do có sự thoả thuận cả; Chính tự hắn ta yêu cầu
như thế. Hắn là một thằng quen chúng tôi. Chúng tôi nói hết với hắn hoàn cảnh
khó khăn của chúng ta. Nghe xong, hắn ta nói: “Các cậu ạ, mình không đủ quyền
cho các cậu chở cửa đi được đâu. Có lệnh của đồng chí Gie-din- ski (Đồng chí
Gie-din-ski phụ trách công an tình báo ở trung ương lúc bấy giờ) bảo phải ngăn
ngừa tình trạng trộm cướp tài sản của nhà ga cơ mà. Cái thằng cha trưởng ga
khốn nạn ở đây vốn thù với mình. Nó hay ăn cắp mà mình thì không để cho nó ăn
cắp. Nếu để các cậu lấy cửa đi nó nhất định sẽ tố cáo mình với cấp trên và đưa
mình ra tòa án cách mạng. Đấy, thà các cậu cứ tước vũ khí của mình rồi hãy
khuân đồ chở đi. Nếu thằng trưởng ga không báo cáo lên trên thì coi như là ổn”.
Chúng tôi đã làm y như thế. Những cánh cửa cái, cửa sổ ấy, chúng tôi có phải
lấy dùng cho chúng tôi đâu.
Nhận
thấy tia sáng nụ cười long lanh trên đôi mắt Giu-khơ-rai, Pan-cơ-ra-tốp nói
thêm:
- Đồng
chí Giu-khơ-rai ạ, nếu có phạt thì cứ để mình chúng tôi chịu phạt, đừng làm tội
thằng bé ấy.
- Việc
đó đã giải quyết xong đâu vào đấy rồi, không nói nữa. Nhưng từ nay về sau đừng
có làm những chuyện ấy nữa. Làm như thế là phá kỷ luật đấy. Chúng ta có đủ sức
mạnh để đấu tranh có tổ chức mà tiêu diệt bệnh quan liêu. Thôi được. Giờ ta nói
đến chuyện quan trọng hơn. - Và Giu-khơ-rai bắt đầu hỏi tỉ mỉ đầu đuôi chuyện
thổ phỉ tập kích hôm vừa rồi.
*
Chỗ ấy
cách ga bốn cây số rưỡi, những chiếc xẻng thi nhau khoét đất kịch hệt. Anh em
đang xẻ cái gò đứng chắn giữa đường.
Chung
quanh có bảy người đứng gác, vũ khí trong tay có khẩu ca-ra-bin của Khô-li-a-va
và mấy khẩu súng ngắn của Pa-ven, Pan-cơ-ra-tốp, Đu-ba-va và Khô-mu-tốp. Vũ khí
của toàn đội chỉ có thế.
Kỹ sư
Pa-tô-sơ-kin ngồi trên dốc đang ghi mấy con số vào sổ tay. Chỉ còn một mình kỹ
sư Pa-tô-sơ-kin ở lại vì tên kỹ sư Va-cu-lên-cô sáng nay đã chuồn mất về tỉnh.
Hắn cho là thà chịu xử tội đào ngũ còn hơn phải ăn đạn của bọn phỉ, chết uổng
mạng.
Pa-tô-sơ-kin
quay lại khẽ nói với Khô-mu-tốp đứng trước mặt mình:
- Bốc
cái gò này đi phải mất nửa tháng. Đất có tuyết đóng thành băng cứng quá.
Khô-mu-tốp
vốn người ít nói, mặt lúc nào cũng cau cau, nghe thế thì cắn môi vào ria mép,
tỏ vẻ tức giận đáp lại:
- Hạn
trên cho chúng ta tất cả chỉ có hăm nhăm ngày, thế mà cụ định lấy nghiến nửa
tháng cho đoạn đường này à?
- Hạn
trên cho như thế là không sát. Thật ra suốt đời tôi chưa bao giờ làm đường
trong điều kiện như thế này và với số lượng thành phần người như thế này. Tôi
cũng có thể tính sai, mà thật tôi đã tính sai hai lần rồi.
Giữa lúc
đó, Giu-khơ-rai, A-kim và Pan-cơ-ra-tốp tới gần chỗ san nền đất. Từ trên gò
đất, anh em trông thấy ngay ba người đang đi đến.
Một cậu
mắt lác, mặc áo len thủng, hở cả khuỷu tay, thích vào người Pa-ven. Đấy là
Pết-ca Tơ-rô-phi- mốp, vốn là một thợ bắt bù loong ở xưởng đường sắt. Anh ta
giơ tay chỉ về phía dưới chân gò đất:
- Cậu
trông kìa! Ai thế nhỉ?
Tức thì,
Pa-ven, tay vẫn cầm xẻng, chạy xuống dốc băng băng. Dưới vành mũ, đôi mắt anh
mỉm cười thắm thiết. Giu-khơ-rai nắm chặt tay anh lâu hơn những người khác.
- Chào
chú Pa-ven. Chú ăn mặc quần nọ áo kia như thế, có trời nhận ra được!
Pan-cơ-ra-tốp
cười gượng, nói đùa với A-kim:
- Được
cái năm ngón chân cậu ta cũng khéo bảo nhau, lúc nào cũng tòi ra ngoài cả. Lại
được mấy cái thằng đào ngũ còn thông đồng nhau xoáy của cậu ấy cái áo ca-pốt.
May mà Ô-cu-nhếp, cùng tổ với cậu ta, cho cậu ta cái áo vét-tông. Hai tay ấy
thật là con chấy cắn đôi, - Pan-cơ-ra-tốp giọng buồn buồn quay về phía A-kim
nói thêm. - Không hề gì đâu, Pa-vơ- lu-sa là một anh chàng máu nóng. Cậu ấy đến
sẽ sưởi ấm trên sàn bê-tông một tuần vì ổ rơm thì mỏng dính gần như là nằm
không. Rồi đến cái nước mặc “thứ áo ván gỗ bốn dài hai ngắn” mất thôi.
Ô-cu-nhếp
lông mày da đen, mũi hơi cong, nheo cặp mắt láu lỉnh cãi lại:
- Chúng
tôi chẳng để Pa-vơ-lu-sa đổ đâu. Nếu cho biểu quyết thì chúng tôi tán thành
ngay để cậu ấy vào bếp làm chân cấp dưỡng, giữ chức lính trù bị cho Ô-đác-ca. Ở
đấy nếu cậu ta không phải tay ngốc thì vừa được no bụng, lại vừa được ấm thân,
hoặc là vì ở gần bếp, hoặc là vì có hơi bà Ô-đác-ca.
Chuỗi
cười vui vẻ của mọi người vang lên làm át cả tiếng nói của Ô-cu-nhếp.
Lần đầu
tiên người ta cười trong ngày hôm ấy.
Giu-khơ-rai
xem xét gò đất, rồi cùng Tô-ca-rếp và Pa-tô-sơ-kin ngồi xe trượt tuyết đến khu
vực đốn gỗ, xong lại quay về. Mọi người vẫn kiên tâm đào đất trên gò. Nhìn
những nhát cuốc sáng loáng, nhìn những cái lưng khom đem hết sức ra làm,
Giu-khơ-rai nói khẽ với A-kim:
- Chẳng
mít-tinh làm quái gì nữa. Bác Tô-ca-rếp ạ bác nói đúng đấy, đám trẻ thật là
những người quý vô giá. Thép tôi là ở chỗ này đây.
Giu-khơ-rai
nhìn những anh em đào đất làm việc, cặp mắt vốn nghiêm của anh đầy mến thương
âu yếm lẫn tự hào cương nghị. Cách đây không lâu, một số trong đám chàng trai
trẻ này đã từng nhô lưỡi lê thép xông lên trong đêm đi dẹp phiến loạn. Và bây
giờ đây chính họ lại đang ôm ấp một ý nguyện duy nhất: Khơi mạch máu thép đường
ray nối đến tận những đống củi quý như vàng, nguồn sức nóng và sự sống.
Ôn tồn
nhưng giọng rất tự tin, kỹ sư Pa-tô-sơ-kin trình bày cho Giu-khơ-rai biết là
không thể nào mở thông đường qua gò đất trong vòng hai tuần lễ được.
Giu-khơ-rai
tai vẫn lắng nghe con tính của kỹ sư, trong óc nghĩ thầm cách giải quyết.
- Các
đồng chí hãy rút hết người sang bên kia gò để mở đường tiếp, còn quả đồi này
thì chúng ta sẽ có cách khắc phục.
Giu-khơ-rai
ngồi nói chuyện hồi lâu ở dây nói nhà ga. Khô-li-a-va đứng gác ngoài cửa. Anh
ta nghe rõ đằng sau lưng mình tiếng nói trầm trầm của Giu-khơ-rai.
- Gọi
điện ngay cho đồng chí tham mưu trưởng quân khu, bảo tôi đề nghị với đồng chí
ấy cho trung đoàn của Pu-dư-rếp-ski đến khu vực công trường. Phải quét sạch bọn
phỉ ở khu này. Gửi cả chiếc tàu bọc sắt và công binh từ căn cứ đến đây. Còn
những việc khác, tôi sẽ tự giải quyết lấy. Đêm tôi sẽ về. Bảo Guy- gô mười hai
giờ đêm nay đánh xe ra ga.
Trong
căn nhà, sau mấy lời ngắn của A kim, Giu- khơ-rai bắt đầu nói chuyện. Một tiếng
đồng hồ qua mà không ai để ý đến thời gian. Chuyện trò thân mật giữa đồng chí
và đồng chí. Giu-khơ-rai nói cho anh em biết không thể nào kéo dài được thời
hạn đã ấn định, đến mồng một tháng Giêng phải làm xong công trình đường sắt
này.
- Chúng
ta chuyển công tác của công trường sang chế độ quân sự. Các đảng viên cộng sản
phải tổ chức thành đại đội công tác đặc biệt. Chỉ định đồng chí Đu-ba-va làm
đại đội trưởng. Sáu phân đội thì mỗi phân đội một nhiệm vụ nhất định. Công việc
còn lại chia đều làm sáu phần. Mỗi phân đội có phần việc của mình. Trước ngày
mồng một tháng Giêng, tất cả mọi việc phải xong. Phân đội nào xong trước thì
nghỉ trước và được về tỉnh. Ngoài ra, chủ tịch đoàn Ban chấp hành tỉnh sẽ đề
nghị Ban chấp hành Trung ương U-cơ-ren (Hội đồng bộ trưởng U-crai-na) tặng
thưởng huân chương Cờ Đỏ cho người lao động khá nhất trong mỗi phân đội.
Đã chỉ
định xong đội trưởng của các đội. Đội một: Đồng chí Pan-cơ-ra-tốp, đội hai:
Đồng chí Đu-ba-va, đội ba: Đồng chí Khô-mu-tốp, đội bốn: Đồng chí La- gu-chin,
đội năm: Đồng chí Pa-ven, đội sáu: Đồng chí Ô-cu-nhếp.
Giu-khơ-rai
kết thúc bài nói chuyện:
- Còn
người phụ trách chung toàn bộ công trường, nghĩa là nhà lãnh đạo tư tưởng và tổ
chức của công trường thì vẫn là đồng chí An-tôn Nhi-ki-phô-rô-vích Tô-ca-rếp.
Từng
nhịp vỗ tay rào rào dường như có cả một đàn chim cất cánh bay lên. Những khuôn
mặt khắc khổ hôm nay cười tươi nở. Câu nói đùa thân mật, trong đoạn cuối câu
chuyện, từ miệng một người xưa nay vốn nghiêm nghị, đã làm nổ ra một chuỗi cười
tiêu tan hết căng thẳng trong óc từ nãy đến giờ của người nghe chăm chú.
Hai mươi
con người tiễn chân A-kim và Giu-khơ- rai đến tận chiếc xe goòng.
Lúc bắt
tay chào Pa-ven, nhìn chiếc giày bám đầy tuyết của Pa-ven, Giu-khơ-rai nói khẽ:
- Anh sẽ
gửi giày xuống cho chú. Chân chú bị tê cóng rồi còn gì nữa?
- Xem
chừng tê cứng rồi, anh ạ. Đã buốt buốt và bắt đầu sưng. - Pa-ven đáp lại và sực
nhớ đến lời ngỏ xin từ lâu, anh nắm tay áo Giu-khơ-rai: - Anh có thể cho em mấy
viên đạn súng ngắn được không anh? Em chỉ còn ba viên đạn tốt thôi.
Giu-khơ-rai
ngậm ngùi lắc đầu, nhưng trông thấy vẻ thất vọng trong cặp mắt Pa-ven, anh
không do dự, cởi ngay khẩu Mô-de của mình đưa cho Pa-ven.
- Đây
anh tặng chú.
Pa-ven
vẫn chưa tin ngay là mình được một vật tặng từ lâu hằng mơ ước, nhưng
Giu-khơ-rai đã khoác cây súng lên vai Pa-ven:
- Cầm
lấy, cầm lấy. Anh biết mắt chú đã mê nó từ lâu. Nhưng chú phải cẩn thận, chớ bắn
phải người nhà đấy nhớ. Còn ba hộp đạn đầy đấy, anh cho chú cả.
Những
cặp mắt thèm muốn đều nhìn chòng chọc vào Pa-ven. Có người kêu lên:
- Páp-ca
ơi, đưa tớ đổi cho cậu lấy đôi giày ống lót dạ và thêm cả một chiếc áo da ngắn
nào!
Pan-cơ-ra-tốp
lấy tay phát vào lưng Pa-ven nói trêu:
- Thằng
khập khiễng, đổi lấy đôi giày đi cho được việc. Cứ kéo lê mãi chiếc giày cao su
thì chẳng sống đến ngày lễ Thiên Chúa giáng sinh đâu!
Đặt chân
lên bậc xe goòng, Giu-khơ-rai tỳ vào gối viết giấy phép cho khẩu súng vừa tặng
Mới sáng
tinh sương ngày hôm sau đã thấy ầm ầm ở ngã ba đường, đoàn tàu bọc sắt đi vào
ga. Hơi tỏa ra trắng xóa như lông ngỗng trời, bốc lên thành những lùm khói dày
đặc rồi tan vào bầu trời trong và lạnh giá. Những người mặc áo da từ những toa xe
bọc sắt bước ra. Mấy giờ sau, ba anh công binh đến chôn sâu hai quả mìn to
tướng màu thép nâu nâu; Họ buộc hai dây dài vào mìn và bắn mấy phát súng hiệu.
Nghe súng hiệu, người ta vội vàng chạy tản, tránh xa cái gò trở nên ghê sợ.
Diêm châm vào đầu ngòi mìn, làm phụt lửa lân tinh.
Trong
một lúc, hàng trăm con người có mặt hồi hộp như thắt lòng lại. Một phút, hai
phút chờ đợi sợ hãi... Bỗng nhiên mặt đất chuyển mình, một sức mạnh ghê gớm đã
cuốn bay những đỉnh dốc của ngọn đồi, tung lên cao những mảnh đất lớn. Tiếng nổ
thứ hai mạnh hơn tiếng thứ nhất. Tiếng nổ ghê người vang khắp khu rừng, ầm ầm,
hỗn loạn, kèm theo tiếng rào rào của những tảng đất bị bắn tung lên rơi xuống.
Chỗ ấy
vừa rồi còn là ngọn đồi, giờ đã biến thành hố sâu toác ra, chung quanh trong
vòng hai chục thước, đất vụn bắn tung tóe khắp mặt tuyết trắng như đường.
Mọi
người cầm xà beng và xẻng cuốc chạy túa lại chỗ hố sâu do mìn nổ vừa đào lên.
Sau khi
Giu-khơ-rai đi khỏi, ở công trường, không khí thi đua mở ra sôi nổi: Ai sẽ là
người lao động khá nhất?
Trời còn
rất lâu mới sáng, Pa-ven đã khẽ trở dậy để không làm thức giấc anh em. Anh cố
lê đôi chân tê cứng trên sàn nhà lạnh buốt, vào bếp, đun nước sôi pha chè, rồi
trở ra đánh thức toàn đội dậy.
Khi toàn
công trường sẵn sàng thì bên ngoài trời đã sáng rõ.
Buổi
uống nước chè sáng ở nhà bếp, Pan-cơ-ra-tốp chen đến bàn Đu-ba-va và đội của
anh ta là đám thanh niên xưởng sửa chữa vũ khí. Pan-cơ-ra-tốp nói với Đu-ba-va,
giọng có vẻ bực tức:
- Cậu
thấy chưa, thằng cha Páp-ca đã đánh thức đội của nó dậy từ lúc trời chưa sáng.
Tớ đoán chắc chúng nó đã đặt được hai mươi thước đường rồi. Anh em trong đội tớ
nói là Páp-ca khéo động viên các anh em thợ các phân xưởng chính nhà máy xe lửa
của nó, bọn họ định ngày hăm nhăm tháng Chạp là đã làm xong đoạn đường của đội.
Ra nó muốn xách mũi tất cả chúng ta đấy chắc. Nhưng xin lỗi các tướng ấy để rồi
xem ai hơn!
Đu-ba-va
cười nhạt. Anh thừa hiểu tại sao cách làm của phân đội công nhân các phân xưởng
chính nhà máy xe lửa lại chạm đến lòng người bí thư thanh niên khu bến tàu như
vậy. Việc làm của Pa-ven là một roi quất mạnh vào cả bản thân Đu-ba-va nữa:
Lặng lẽ không nói, Pa-ven đã lên tiếng thách thức công trường.
Pan-cơ-ra-tốp
nói:
- Tình
bạn là một chuyện, còn đây là chuyện khác: Đây là vấn đề ai hơn ai.
Gần giữa
trưa, công việc đang hăng hái của đội Pa-ven bỗng nhiên bị ngừng lại. Người gác
đứng bên giá súng trông thấy một toán kỵ binh xuất hiện trong rừng, liền bắn
báo động.
- Cầm
lấy súng anh em ơi! Có phỉ! - Pa-ven la to và quẳng xẻng xuống, rồi nhảy bổ lại
gốc cây có treo khẩu súng mô-de của anh.
Lấy súng
xong, cả đội nằm dàn ngay ra mặt tuyết cạnh đường. Những người kỵ binh đi đầu
vẫy mũ. Một người trong bọn họ kêu to:
- Dừng
lại, các đồng chí! Người nhà đây mà!
Chừng
năm mươi chiến sĩ kỵ binh, đội mũ Bu-đi-on-ny có sao đỏ, đang men theo đường
cái, tiến lại gần.
Thì ra
đó là một trung đội của trung đoàn Pu-dư- rếp-ski đến thăm công trường. Pa-ven
để ý đến cái tai cụt của con ngựa người chỉ huy cưỡi. Con ngựa cái lông xám đẹp
có đốm trắng trên trán không chịu đứng yên một chỗ, cứ đi xoay vòng tròn dưới
tay cương của người cưỡi nó. Thốt nhiên, Pa-ven nhảy bổ đến chỗ con ngựa, và
lúc Pa-ven chạy đến tóm lấy bờm thì nó sợ hãi lùi lại.
-
Lư-sca, con nỡm này, không ngờ ta lại gặp mi ở đây! Con yêu mĩ miều cụt tai của
ta xông pha lửa đạn mà vẫn còn sống yên lành đấy ư?...
Pa-ven
âu yếm ôm lấy cái cổ mềm mại của con ngựa và lấy tay vuốt ve cái mũi phập phồng
của nó.
Người
chỉ huy chăm chú nhìn Pa-ven. Sau khi đã nhận ra người quen, đồng chí sửng sốt
kêu lên:
- Ơ kìa!
Pa-ven đấy à? Cậu nhận ra ngựa của cậu mà sao không nhận ra Xê-rê-đa. Chào
người anh em.
*
Trên
tỉnh đều dồn sức “chạy” cho công trường. Cố gắng đó đã ảnh hưởng tốt đến công
việc ở đây ngay. Giác-ki đã dốc hết lực lượng ở quận ủy, gửi toàn bộ đoàn viên
còn lại đến Bai-a-rơ-ca. Ở khu Xô-lô-men- ca chỉ còn lại có số nữ đồng chí. Ở
Trường kỹ thuật cầu đường, Giác-ki đã tìm cách lập được một đội sinh viên nữa
gửi ra công trường.
Lúc báo
tin đó cho A-kim, Giác-ki nói nửa đùa, nửa thật:
- Chỉ
còn độc mình tôi với phái vô sản giống cái ở lại nhà. Tôi sẽ để Ta-li-a, con cụ
La-gu-chin, thay tôi sẽ viết lên cánh cửa: “Ban phụ nữ”. Còn tôi thì cũng chạy
đến Bai-a-rơ-ca nốt thôi. Bởi vì đồng chí có thấy không, giống đàn ông ở lại có
độc mình tôi. Thật là không tiện. Các cô ấy cứ nhìn tôi bằng cặp mắt nghi ngờ.
Chắc thế nào các cô ấy cũng nói với nhau: “Cái anh chàng ngỗng đực đầu đàn này
phái tụi con trai đi hết, còn mình thì ở lại”. Hay có khi còn nói những câu tệ
hơn nữa kia. Đề nghị đồng chí đồng ý cho tôi đi.
A-kim
cười nhưng không đồng ý.
Người
kéo đến Bai-a-rơ-ca rất đông, trong số đó có cả sáu mươi sinh viên trường kỹ
thuật cầu đường.
Giu-khơ-rai
đã lấy được ở Cục đường sắt bốn toa xe gửi đến chỗ công trường làm chỗ tạm trú
cho những công nhân mới đến.
Phân đội
Đu-ba-va được lệnh rút ra khỏi công trường đi Pu-sa Vô-đi-xa để lấy một số đầu
máy nhỏ và sáu mươi lăm toa trần cho nhánh đường sắt này. Công việc này được
tính vào nhiệm vụ trên công trường của họ.
Trước
khi đi, Đu-ba-va góp ý kiến với cụ Tô-ca-rếp là nên gọi Cơ-la-vi-sếch lên công
trường và giao cho anh ta một phân đội mới tổ chức. Tô-ca-rếp đồng ý và ra lệnh
ngay, không ngờ đến duyên cớ chính đã làm Đu-ba-va nghĩ đến chàng trai người
Tiệp kia ở trên đời. Duyên cớ ấy là bức thư của An-na vừa gửi cho anh, do các
anh em ở Xô-lô-men-ca mới đến mang tới. An-na viết:
"Anh
Đu-ba-va! Em và anh Cơ-la-vi-sếch đã chọn cho các anh một đống sách. Gửi anh và
toàn thể những chiến sĩ xung kích ở Bai-a-rơ-ca lời chào nồng nhiệt. Các anh là
những tay rất cừ. Chúc các anh can đảm và nghị lực. Hôm qua đã phát hết nhẵn số
củi cuối cùng còn lại trong kho. Cơ-la-vi-sếch nhờ chuyển lời thăm anh. Anh ấy
là một thanh niên rất trội. Chính tự tay anh ấy nướng bánh mì cho các anh đấy.
Anh ấy không giao cho ai làm cả. Tự tay anh ấy rây lấy bột mì, nhào lấy bột
bánh. Không biết anh ấy khéo kiếm đâu ra được thứ bột mì tốt nên bánh mì làm ra
rất ngon, khác hẳn với thứ bánh em vẫn lĩnh hàng ngày. Tối đến, anh chị em đều
họp mặt ở nhà em: Có Ta-li-a, con cụ La-gu-chin, A-rơ-chu-kin, Cơ-la- vi-sếch
và đôi khi cả Giác-ki cũng đến. Có đẩy mạnh được việc học, nhưng phần lớn là
nói đến tất cả mọi chuyện và tất cả mọi người, nhất là thường nói đến các anh
trên công trường. Chị em đều bực mình vì chuyện đồng chí Tô-ca-rếp từ chối
không nhận họ lên công trường làm việc. Chị em quả quyết gian khổ thế nào đi
nữa cũng sẽ chịu được như mọi người. Ta- li-a nói: "Mình sẽ mặc áo của
thầy mình và sẽ lên gặp ông cụ, xem ông cụ có đuổi ra khỏi đấy được không
nào".
Chắc nó
sẽ làm thế thật đấy. Anh chuyển hộ lời em thăm anh chàng mắt đen. An-na".
*
Bão
tuyết bỗng nổi lên dữ dội. Trời bị mây xám nghịt kéo đến phủ kín vòm trời tụt
xuống thấp hẳn. Tuyết rơi dày đặc. Đến chiều tối, gió rít vào các ống khói, gào
thét giữa rừng cây, chạy đuổi theo những cơn lốc tuyết xoáy tròn, làm cho khu
rừng ngập những tiếng hú ghê rợn.
Bão gầm
thét, phá phách suốt đêm. Tuy lò đốt cả đêm, người vẫn thấy rét buốt thấu
xương. Gian nhà ga đổ nát này không còn giữ được hơi nóng cho người.
Sáng hôm
sau, các đội lao động ra làm việc, thụt chân sâu vào tầng tuyết dày cồm cộm.
Nhưng trên rừng cây, mặt trời đỏ rực và nền trời trong xanh không chút vẩn mây.
Phân đội
Pa-ven quét tuyết trên phần đường của mình bị ngập tuyết. Cho đến lúc này,
Pa-ven mới cảm thấy hết khổ cực của giá rét. Chiếc áo cũ Ô-cu- nhếp cho chẳng
làm anh ấm được, còn chiếc giày cao- su thì nhét đầy tuyết đóng băng. Đã mấy
lần giày thụt vào đống tuyết. Vì anh ngủ trên sàn nhà rắn như đá nên ở cổ mọc
lên hai cái nhọt tướng. Cụ Tô-ca-rếp cho anh cái khăn mặt dùng làm khăn quàng
cổ.
Pa-ven
cầm cái xẻng to bằng gỗ hùng hục gạt tuyết, người anh gầy rạc đi, hai mắt sưng
đỏ húp lên.
Giữa lúc
đó, một chuyến tàu chở hành khách đang ì ạch bò đến tận ga. Chiếc đầu máy hết
hơi cố sức lắm mới lôi được con tàu về đây. Trong toa than, không còn lấy một
thanh củi, những thanh củi cuối cùng sắp cháy rụi hết trong lò.
Người
thợ máy kêu với trưởng ga:
- Cho
củi thì chúng tôi đi, bằng không thì bây giờ trong máy cũng hãy còn có cái để
chạy được một tí, xin cho lái dẹp vào khu tàu trú.
Thế là
người ta lái tàu dẹp sang bên và giải thích cho đám hành khách thất đảm kia
biết lý do dừng lại. Người trong các toa chật ních, kẻ thở vắn than dài, đứa
chửi rủa ầm ĩ.
Trưởng
ga mách nước cho những người lái chuyến tàu:
- Các anh
lại nói chuyện với cụ già kia kìa, ông cụ đang đi ở ke ấy. Cụ ấy là phụ trách
công trường ở đây. Cụ ta có thể hạ lệnh xe trượt tuyết chở củi đến cho đầu tàu.
Ở đây họ vẫn dùng củi gỗ làm tà vẹt đấy mà.
Mấy
người lái tàu đến gặp Tô-ca-rếp. Ông cụ bảo họ:
- Chúng
tôi sẽ cho gỗ, nhưng không cho không đâu. Vì đây là vật liệu xây dựng của chúng
tôi. Hiện công trường chúng tôi đang bị tuyết phủ làm ngăn trở công việc mà
trong tàu các anh có sáu bảy trăm hành khách. Đàn bà, trẻ con thì có thể ở lại
trong toa, còn những người khác thì xuống vác xẻng đi xúc tuyết độ đến chiều
tối là được. Có làm thế thì mới được cấp củi cho tàu chạy. Bằng không thì xin
mời họ cứ ngồi với con tàu chết tiệt đến sang năm mới vậy.
Có tiếng
người sửng sốt la lên nhao nhao phía sau lưng Pa-ven:
- Anh em
ơi, trông kìa! Trông tất cả đám người kia xuống đông quá! Lại có cả phụ nữ nữa
kia!
Pa-ven
quay lại.
Tô-ca-rếp
đi đến gần nói:
- Đấy
giao cho chú một trăm người. Chú giao việc cho họ và trông họ làm, đừng để họ
khoanh tay đứng không.
Pa-ven
phân công cho những người mới đến. Một anh chàng cao lêu nghêu mặc đồng phục
ngành đường sắt có cổ bằng lông cừu, đầu đội mũ da dê ấm. Hắn ta đang quay cái
xẻng trên tay, tỏ vẻ bực tức và quay sang phía người đàn bà trẻ tuổi đứng cạnh
đội mũ da rái cá, trên mỏm có chiếc núm bằng lông nõn, hắn càu nhàu:
- Không
đời nào anh lại xúc tuyết, chẳng ai có quyền bắt anh được cả. Anh là kỹ sư cầu
đường, nếu họ cầu xin anh giúp thì anh có thể giúp đỡ chỉ huy công việc cho họ.
Còn như xúc tuyết thì không phải việc của anh, không phải việc của em. Không ai
bắt ta làm được. Không có chỉ thị cấp nào quy định làm như thế cả. Cái lão già
ấy đã làm trái nguyên tắc. Anh sẽ kiện cho lão ta biết tay. - Rồi hắn hỏi một
công nhân đứng gần hắn ta nhất: - Ai là đội trưởng ở đây?
Pa-ven
đi tới:
- Sao
anh không làm việc?
Thằng
kia đưa mắt khinh bỉ nhìn Pa-ven từ đầu đến chân:
- Còn
anh là ai?
- Tôi là
công nhân.
- Thế
thì tôi chẳng thèm nói với anh. Cứ bảo đội trưởng hay là giám thị lại đây.
Pa-ven
quắc mắt nhìn hắn:
- Không
muốn làm à? Tùy đấy. Nhưng nếu vé không có dấu của chúng tôi thì đừng hòng lên
tàu. Đây là mệnh lệnh của đồng chí phụ trách công trường.
Nói
xong, Pa-ven quay sang phía người phụ nữ:
- Còn
chị nữa, chị cũng không chịu làm phải không?
Nhưng bỗng
Pa-ven ngẩn người ra trong giây lát: Trước mặt anh là Tô-nhi-a Tu-ma-nô-va.
Tô-nhi-a
khó khăn lắm mới nhận ra cái người mặc rách rưới này là Pa-ven. Pa-ven đứng
ngay đó, trước mặt Tô-nhi-a, mình khoác manh áo rách bươm, chân xỏ đôi ủng kỳ
quái, cổ buộc cái khăn mặt cáu bẩn, mặt đã lâu không rửa. Chỉ độc có đôi mắt là
vẫn như xưa, đôi mắt ánh lên một ngọn lửa không gì dập tắt được. Đôi mắt
Pa-ven. Thế mà cái người rách rưới y như ma cà bông này cách đây không lâu đã
là người mà Tô-nhi-a yêu dấu! Không ngờ được. Mới chẳng bao lâu mà sự đời đã
thay đổi cả!
Tô-nhi-a
mới lấy chồng, lần này theo chồng về một thành phố lớn, nơi chồng đảm nhiệm một
chức vụ trọng yếu ở Cục đường sắt. Và trên đường đi, tại chốn này đây, Tô-nhi-a
lại phải tình cờ gặp lại người tình thuở ấy! Tô-nhi-a thấy ngại ngùng không dám
đưa tay ra bắt. Va-xi-li, chồng chị, sẽ nghĩ thế nào, nếu chị bắt tay Pa-ven?
Đời Pa-ven đã xuống dốc đến thế thì mình cũng ngượng với mình thật. Rõ ràng là
anh chàng đốt lò này đã chẳng ngóc đầu lên được: Anh ta chẳng làm được nghề
ngỗng gì hơn cái nghề đi xúc đất!
Tô-nhi-a
đứng ngây, mặt đỏ bừng, thẹn thùng, luống cuống. Tên kỹ sư, thấy gã rách rưới
cứ nhìn vợ mình chằm chằm không rời mắt, thì cho là gã ta xấc xược, tức điên
người. Hắn quẳng xẻng xuống đất, lại gần Tô-nhi-a.
- Lại
đằng này Tô-nhi-a. Anh không thể nhìn cái thằng khố rách áo ôm la-da-rôn này mà
yên được.
(La-da-rôn,
dân bị coi là hạ lưu xừ Náp-lơ trong truyện Giu-dép-pê Ga-ri-ban-đi)
Pa-ven
đã đọc truyện Giu-dép-pê Ga-ri-ban-đi, nên thừa hiểu thế nào là la-da-rôn rồi.
- Nếu
tao là la-da-rôn thì mày chỉ là một thằng tư sản mà người ta chưa cắt cổ nốt. -
Pa-ven thét lên cự lại tên kỹ sư, rồi quay nhìn Tô-nhi-a, nói gọn lỏn mấy
tiếng: - Còn đồng chí Tu-ma-nô-va, đồng chí hãy nhặt xẻng đứng vào hàng mà làm
đi. Đừng có bắt chước cái loài bò đực ăn no béo xác ấy. Xin lỗi, nhưng tôi
không biết hắn với đồng chí là thế nào.
Pa-ven
nhìn đôi giày đi tuyết của Tô-nhi-a, mỉm cười không thiện cảm và nói thêm:
- Tôi
chẳng khuyên ai lần chần ở lại đây làm gì. Hôm mới rồi, bọn phỉ vừa đến quấy
chúng tôi đấy.
Nói
xong, Pa-ven quay đi, lê gót giày cao su, bon về chỗ anh em mình.
Lời nói
vừa rồi của Pa-ven tác động ngay cả đến anh chàng kỹ sư.
Tô-nhi-a
đã bảo được hắn ở lại và đi xúc tuyết vậy.
Chiều
đến, xong việc, hành khách lại trở về ga. Chồng Tô-nhi-a nhảy tót đi trước, vội
chiếm chỗ tốt trong toa. Tô-nhi-a dừng lại để anh em công nhân đi hết. Pa-ven
mệt nhoài chống xẻng đi sau cùng. Khi hai người đi ngang nhau, Tô-nhi-a lên
tiếng:
- Chào
Pa-vơ-lu-sa. Nói thật với anh, tôi không ngờ lại thấy anh như thế này. Hóa ra
chính quyền Xô-viết không có việc gì khác tốt hơn đáng giao cho anh hay sao mà
lại để anh đi xúc đất như vậy? Tôi cứ tưởng đã từ lâu anh làm chính ủy hay là
giữ một chức vụ gì đại khái như vậy rồi kia đấy. Đời anh thật cũng chẳng lấy gì
được may mắn lắm nhỉ...
Pa-ven
dừng lại, ngạc nhiên nhìn Tô-nhi-a từ đầu đến chân.
- Còn
tôi, tôi cũng không ngờ gặp cô lại đến nỗi... Bọc đường thế này - Nghĩ mãi anh
mới tìm được tiếng nói bóng bẩy thích hợp và nhẹ hơn.
Tai
Tô-nhi-a đỏ tía lên.
- Anh
vẫn cái tật cục cằn như trước.
Pa-ven
vác xẻng lên vai và rảo bước đi. Được vài bước, anh mới đáp lại:
- Tính
cục cằn của tôi, nói cô đừng giận, nó còn hơn cái điệu lịch sự của cô, đồng chí
Tu-ma-nô-va ạ! Về đời tôi, không mượn lo cô phải lo hộ. Đâu vẫn vào đấy. Chỉ có
đời cô thì tôi không ngờ là nó đốn đến thế. Cách đây hai năm, cô khá hơn nhiều,
lúc đó cô còn dám bắt tay một người thợ và cô không lấy đó làm xấu hổ. Nhưng
bây giờ thì người cô sặc mùi băng phiến. Nói thật tình ra, tôi chẳng có gì để
nói với cô nữa.
*
Pa-ven
nhận được thư của A-rơ-chom. Anh cho biết sắp cưới vợ và khẩn khoản giục Pa-ven
thế nào cũng phải về dự.
Gió dứt
lá thư khỏi tay Pa-ven, lá thư bay lên không như con chim bồ câu. Không, anh
chẳng đi dự đám cưới được đâu. Có thể nào lại nghĩ đến đi được! Từ hôm qua,
thằng gấu Pan-cơ-ra-tốp đã đuổi kịp phân đội của anh và đang tiến với một đà
nhanh ai cũng phải sợ. Anh công nhân bến tàu này dốc toàn lực lao lên phía
trước, quyết chí vươn lên hàng đầu, vẻ trầm tĩnh ngày thường của anh đã biến
đi, anh luôn luôn động viên toàn anh em “bến tàu” của mình làm việc với một
nhịp điệu như điên cuồng.
Pa-tô-sơ-kin
theo dõi cuộc thi đua giữa những người làm đường, một cuộc thi im lặng mà ác
liệt này. Ông già gãi đầu ngạc nhiên tự hỏi mình: “Không hiểu họ là những con
người thế nào mà làm được như vậy nhỉ? Cái sức mạnh thật khó hiểu kia là thế
nào? Thật nếu trời cứ thế này cho được tám ngày nữa thì chúng mình sẽ làm được
tới khu rừng đã đốn gỗ. Tục ngữ nói rất đúng: Có sống hết đời, học hành trọn
kiếp, cho đến già vẫn còn thấy là mình dốt. Việc làm của những con người này đã
làm đảo lộn hết mọi con tính và tất cả các chỉ tiêu”.
Cơ-la-vi-sếch
ở dưới tỉnh lên mang đến số bánh mì cuối cùng do chính tay anh làm ra. Thăm
Tô-ca-rếp xong, anh đến chỗ làm việc tìm Pa-ven. Đôi bạn gặp nhau thân thiết.
Cơ-la-vi-sếch mỉm cười rút trong bao túi ra một cái áo bông Thụy Điển màu vàng
rất choáng. Anh lấy tay vỗ mặt da mềm của chiếc áo và nói với Pa-ven:
- Áo gửi
cho cậu đây. Có đoán được ai gửi không?... Hừ, cậu ngốc quá đi thôi! Đồng chí
Ri-ta gửi cho cậu đấy vì chị ấy không muốn cậu chết rét, ngốc ạ! Chẳng là anh
A-kim nói với chị ấy là cậu mặc trần có cái vét-tông, chịu rét mà làm việc. Áo
này do đồng chí Ô-sin-ski tặng chị ấy, mới cầm lấy ở tay anh ta tặng, chị ấy
đưa ngay cho mình và bảo: “Mang ra cho Pa- ven”. Ôn-sin-ski nhăn nhó nói: “Tôi
có thể gửi cho đồng chí ấy chiếc áo ca-pốt”. Nhưng Ri-ta cười hơ hớ: “Thôi, anh
ấy mặc áo khoác ngắn làm việc tiện hơn. Cơ-la-vi-sếch mang hộ nhớ!”.
Pa-ven
cầm tấm áo sang trọng đó trong tay, lòng xiết nỗi ngạc nhiên. Anh ngập ngừng
một hồi mới khoác nó lên người đang rét run cầm cập. Lớp lông mềm làm cho vai
và ngực anh thấy ấm lại ngay.
*
Ri-ta
ghi trong nhật ký:
20 tháng
Chạp.
Đang mùa
bão. Tuyết xuống nhiều, gió rít mạnh. Các anh em ở Bai-a-rơ-ca đã gần đến đích
thì những cơn rét dữ và bão tuyết làm cho họ phải dừng lại. Họ bị ngập trong
tuyết. Đất có tuyết phủ đông cứng lại, đào đất gay thật. Chỉ còn lại tất cả bảy
trăm năm mươi thước nữa thôi, nhưng là những thước đường ác liệt nhất.
Tô-ca-rếp
báo tin: Trên công trường chớm có dịch thương hàn, có ba người đã mắc bệnh.
22 tháng
Chạp.
Không ai
ở Bai-a-rơ-ca về dự cuộc họp toàn thể chấp hành tỉnh đoàn thanh niên. Bọn phỉ
vừa làm trúc chuyến tàu chở bánh mì ở đoạn đường cách Bai- a-rơ-ca mười bảy cây
số. Theo mệnh lệnh của đại diện Ban dân ủy cung cấp, toàn thể công nhân xây
dựng đường sắt phải điều đến chỗ xảy ra tai nạn.
23 tháng
Chạp.
Lại thêm
bảy người mắc thương hàn từ Bai-a-rơ- ca đưa về tỉnh. Trong số đó có Ô-cu-nhếp.
Mình có ra ga. Người ta đưa xuống những xác đã chết cứng vì lạnh từ các thành
toa của chuyến tàu mới ở Khác- cốp tới. Ở nhà thương rét lắm. Trận bão tuyết
tai ác! Bao giờ mới hết bão cho?
24 tháng
chạp.
Vừa ở
đằng Giu-khơ-rai về. Té ra là đúng: Đêm qua O-rơ-lích đã dẫn cả lũ phỉ tập kích
vào Bai-a- rơ-ca. Ta với chúng đánh nhau trong hai tiếng đồng hồ. Quân phỉ cắt
mất đường dây, nên mãi sáng nay Giu-khơ-rai mới nhận được báo cáo đích xác. Thổ
phỉ bị đánh lui. Cụ Tô-ca-rếp bị thương, đạn xuyên vào ngực. Hôm nay người ta
sẽ đưa cụ về đây. Cơ-la-vi- sếch bị chém chết. Đêm ấy, anh đến phiên đi gác.
Chính anh trông thấy bọn phỉ, anh liền vừa báo động, vừa bắn chặn bọn giặc nhảy
xổ vào, nhưng vì không chạy kịp đến trường học, nên đã bị bọn phỉ chém chết.
Trong đội công nhân làm đường có mười một người bị thương. Hiện giờ có chiếc
tàu bọc sắt và hai đội kỵ binh đang tuần tiễu ở đấy.
Pan-cơ-ra-tốp
lên thay cụ Tô-ca-rếp phụ trách công trường. Ban ngày, Pu-dư-rếp-ski đã vây một
bộ phận phỉ ở đồi Gơ-lu-bô-ki và đã giết sạch không còn một mống. Nhiều công
nhân làm đường ngoài Đảng không đợi tàu đến nữa, đã bỏ công trường lần theo
đường tà-vẹt trốn về.
25 tháng
Chạp.
Người ta
dã đưa cụ Tô-ca-rếp và những anh em bị thương khác về đây và đem ngay vào bệnh
viện cứu chữa. Các bác sĩ đều hứa cứu sống ông già. Cụ ta nằm mê man không biết
gì. Tính mệnh của những người khác không nguy lắm, có thể qua được.
Tỉnh ủy
và chấp hành tỉnh đoàn chúng mình nhận được bức điện từ Bai-a-rơ-ca gửi về: “Để
trả lời vụ quấy rối của bọn thổ phỉ, chúng tôi, những người xung phong xây dựng
đường sắt, đã họp mít-tinh cùng với đơn vị tàu bọc sắt mang tên” Vì chính quyền
Xô-viết “và các chiến sĩ Hồng quân trung đoàn kỵ binh, xin hứa với các đồng
chí, dù trở lực thế nào, đúng ngày mồng một tháng Giêng, chúng tôi sẽ cung cấp
được củi cho thành phố. Chúng tôi nguyện tiếp tục làm việc với dũng khí càng
tăng lên gấp bội. Đảng cộng sản, người đã tin cậy gửi chúng tôi tới đây, muôn
năm! Chủ tịch buổi mít-tinh: Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Bí thư: Béc-din”.
Thi hài
Cơ-la-vi-sếch đã được an táng tại Xô-lô- men-ca, theo tang lễ quân đội.
*
Đống củi
ta hằng mong gần tới rồi, chẳng còn bao xa nữa, nhưng công việc tiến hành chậm
chạp không thể chịu được, vì bệnh thương hàn mỗi ngày cướp mất hàng chục bàn
tay có ích, lúc này cần vô cùng, quý vô cùng.
Pa-ven
đi về phía ga, bước lảo đảo như người say rượu hai chân chỉ chực khuỵu xuống.
Anh bị sốt từ lâu nhưng hôm nay cảm thấy người khó chịu hơn hẳn mọi khi.
Bệnh
thương hàn lâu nay phá tỉa đội làm đường, bây giờ đã bắt đầu tấn công đến
Pa-ven. Nhưng sức vóc rắn chắc của anh đã chống cự lại, và năm hôm nay, anh vẫn
còn đủ sức nhấc mình khỏi sàn bê tông loáng thoáng phủ rơm, để cùng anh em đi
làm. Ngay cả cái áo lông ấm của Ri-ta biếu và đôi giày ống lót dạ của
Giu-khơ-rai gửi cho đang bọc lấy đôi chân tê buốt, cũng không thể cứu anh khỏi
nguy được.
Mỗi bước
đi, anh thấy ngực đau nhói như dao đâm, răng đánh vào nhau lập cập, mắt hoa lên
và cây cối chung quanh đối với anh hình như đang quay cuồng một cách lạ lùng.
Khó nhọc
lắm anh mới lê bước được đến ga. Tiếng ồn ào khác thường làm anh ngạc nhiên. Cố
nhìn xem: Thì ra có một chuyến tàu dài dằng dặc đỗ dọc suốt nhà ga. Trên những
toa trần, toàn là các đầu máy nhỏ, đường ray, tà-vẹt. Những người đi theo đoàn
tàu mới đến đang bốc những hàng ấy xuống. Pa-ven đi mấy bước nữa, người đã thấy
loạng choạng mất thăng bằng. Rồi đầu anh từ từ chạm đất. Má đang nóng bừng áp
vào tuyết thấy lành lạnh, dễ chịu.
Mấy giờ
sau, có người đi qua vấp phải người anh, người ta mới đưa anh về căn nhà.
Pa-ven thở dốc, tâm thần mê man, không nhận ra được ai nữa. Y sĩ ở chiếc tàu
bọc sắt được mời đến khám, chẩn đoán:
“Bị sưng
phổi nặng và bị thương hàn. Nhiệt độ 41,5. Còn nhức đầu xương và sưng cổ, nhưng
không đáng kể vì so với hai chứng trên chỉ là bệnh vặt. Chỉ hai bệnh trên cũng
đủ qua đời”.
Pan-cơ-ra-tốp
và Đu-ba-va vừa đi chuyến tàu dài tới đã hết sức tìm mọi cách cứu sống Pa-ven.
A-li-ô-sa
Cô-khan-ski là người cùng quê với Pa- ven được giao trách nhiệm đưa người bệnh
về Sê-pê- tốp-ca.
Nhờ toàn
đội của Pa-ven giúp tay vào, chủ yếu là nhờ áp lực của Khô-li-a-va, nên
Pan-cơ-ra-tốp và Đu- ba-va mới đưa được Pa-ven mê man bất tỉnh và A- li-ô-sa
vào một toa tàu đã chật ních người. Vì sợ bệnh thương hàn truyền nhiễm, hành
khách không cho đưa vào toa. Họ phản đối ầm ĩ và dọa khi tàu chạy, họ sẽ quẳng
người bệnh xuống đường.
Khô-li-a-va
vung súng lục trước mũi những ai cản trở việc đưa người bệnh lên tàu. Anh thét
lên:
- Người
ốm này không có bệnh truyền nhiễm! Thế nào cũng phải để cho người bệnh đi, dù
cho có phải đuổi tất cả mọi người xuống thì cũng cứ phải đưa đi! Nói cho bọn
các anh nhớ rằng, nếu định chạm tay vào người anh ta, tôi sẽ báo cho các nhân
viên công an đặc biệt ở các ga dọc đường: Đuổi tất cả xuống tàu và tống giam
ngay. A-li-ô-sa này, đây là khẩu Mô- de của Pa-ven, cầm lấy, nếu đứa nào dám
đầu têu cho Pa-ven xuống thì cứ bắn ngay.
Khô-li-a-va
nói dọa thêm câu ấy.
Tàu
chuyển bánh. Trên sân ga vắng, Pan-cơ-ra- tốp đi lại gần Đu-ba-va.
- Cậu
thấy thế nào, liệu có sống được không?
Không có
tiếng trả lời.
- Về
thôi. Đu-ba-va, nó sẽ thế nào thì cũng đành thôi. Tất cả công việc giờ do chúng
mình phải gánh vác cả. Đêm nay, phải chuyển các đầu máy xuống để sáng mai còn
đốt lò thử xem.
Khô-li-a-va
gọi điện thoại suốt dọc đường tàu, nói chuyện với các bạn công an đặc biệt của
mình và tha thiết đề nghị họ không để cho hành khách khiêng bệnh nhân Pa-ven
xuống tàu. Mãi đến lúc nhận được lời các bạn hứa chắc chắn sẽ làm theo lời anh
yêu cầu anh mới đi ngủ.
Đến một
nhà ga lớn, người ta khiêng từ chuyến tàu chở khách xuống ngay sân ga một xác
chết, xác một người thanh niên lạ mặt tóc hoe. Anh ta là ai, vì sao chết, chẳng
ai biết cả. Các nhân viên công an đặc biệt của nhà ga nhớ tới lời yêu cầu của
Khô-li- a-va, bèn chạy lại toa xe để ngăn cản không cho khiêng xuống, nhưng đến
lúc chính mắt trông thấy người thanh niên kia đã chết thật, họ đành phải cho
phép khiêng xác đến nhà xác của trạm tiêu chuyển.
Họ gọi
ngay dây nói về Bai-a-rơ-ca báo cho Khô- li a-va biết tin bạn anh đã chết, số
phận của người bạn đó bấy lâu đã làm cho anh rất lo ngại.
Một bức
điện ngắn từ Bai-a-rơ-ca báo về Tỉnh ủy tin Pa-ven từ trần.
Còn
A-li-ô-sa Cô-khan-ski thì sau khi đã đưa được Pa-ven về tới gia đình, chính
A-li-ô-sa lại bị bệnh thương hàn quật ngã.
*
"9
tháng Giêng.
Sao lòng
tôi thấy đau đớn nặng nề như vậy? Trước khi ngồi vào bàn, tôi đã khóc nhiều. Ai
tưởng được rằng Ri-ta này lại có thể khóc được, có thể khóc đau xót như thế
được! Có phải bao giở nước mắt cũng là dấu hiệu của sự yếu lòng không? Hôm nay
ta khóc vì đau đớn sâu xa trong lòng. Tại sao đau đớn này lại đến với ta giữa
một ngày thắng lợi lớn, khi giặc rét rùng rợn đã bị đánh bại rồi, khi các ga xe
lửa đã có củi gỗ quý giá chất đầy ăm ắp trong kho? Tại sao nó lại đến vào giữa
ngày mà tôi vừa được dự lễ chiến thắng trong cuộc hội nghị mở rộng của Xô-viết
thành phố, lễ mừng những người anh hùng xây dựng đường sắt? Phải, chúng ta đã
thắng lợi, nhưng để góp vào thắng lợi đó, hai người đã hy sinh: Cơ-la-vi-sếch
và Pa-ven.
Cái chết
của Pa-ven đã làm cho tôi thấy một sự thật: Đối với tôi, Pa-ven thân quý hơn là
tôi vẫn tưởng.
Thôi từ
nay tôi bỏ không viết cuốn nhật ký này nữa. Rồi có khi nào tôi bắt đầu một cuốn
nhật ký mới nữa không? Không biết thế nào. Ngay mai viết thư đến Khác-cốp báo
tin tôi đồng ý nhận công tác ở Trung ương đoàn thanh niên cộng sản
U-cơ-ren".
Thép Đã
Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 3
Tuổi
thanh xuân đã thắng. Pa-ven qua khỏi trận sốt thương hàn. Lần này là lần thứ
tư, anh đã thập tử nhất sinh mà sống trở lại. Nằm mất một tháng rồi Pa-ven mới
gượng dậy được, người gầy và xanh, chân đứng còn run; Tay vịn vào tường, anh
lần tập đi vài bước trong phòng. Mẹ phải đỡ anh mới ra được đến cửa sổ, và đứng
đấy nhìn con đường cái rất lâu. Từng vũng tuyết tan óng ánh trên mặt đường.
Tuyết bắt đầu tan, báo hiệu mùa xuân.
Ngay
trước cửa sổ, trên cành anh đào, có con chim sẻ đậu đang tỉa lông, giơ bụng
xám, mắt ranh mãnh liếc nhìn Pa-ven. Pa-ven lấy ngón tay gõ vào kính cửa sổ,
khẽ mở miệng nói:
- Thế là
ta với mi đã qua mùa đông rồi đấy, chim nhỉ.
Mẹ hốt
hoảng nhìn anh:
- Con
nói với ai thế?
- Con
nói với con chim sẻ... Thôi nó bay đi mất rồi, con chim nỡm!
Và
Pa-ven mỉm một nụ cười yếu ớt.
Mùa xuân
rồi. Pa-ven nghĩ đến trở về thành phố. Anh thấy sức thì đã khá, có thể đi được,
nhưng trong cơ thể có một cái gì khác thường. Một hôm anh đang dạo chơi ngoài
vườn, bỗng thấy đau nhói trong xương sống, khiến anh ngã vật ra đất. Khó nhọc
lắm anh mới dậy và bò về phòng được. Ngày hôm sau, bác sĩ khám bệnh anh rất kỹ.
Bác sĩ gõ những đốt xương sống, thấy có lỗ thủng sâu hoắm trong xương, lấy làm
lạ, hỏi anh:
- Sao
lưng đồng chí lại bị thủng sâu thế này?
- Thưa
bác sĩ, đấy là vết một viên đá lát đường bắn vào lưng tôi. Trước thành Rốp-nô,
có một quả đại bác 81 ly nổ tung mặt đất...
- Thế
đồng chí làm thế nào mà đi được nữa? Viên đá bắn thủng lưng như thế không đau
sao?
- Không.
Tôi bị đá bắn vào lưng, nằm lăn ra đất đến ngót hai hai tiếng đồng hồ, rồi lại
lên ngựa đi. Mãi đến bây giờ mới thấy đau là lần đầu.
Bác sĩ
cau mày suy nghĩ, tay nắn mãi vết lõm trên lưng.
- Hừ!...
Bị một cú như thế, gay đấy, chú ạ! Xương sống con người ta không ưa bị đá giáng
vào như thế đâu. Hy vọng là đồng chí sẽ không thấy đau nữa. Thôi, mặc áo vào,
đồng chí Pa-ven ạ.
Bác sĩ
ái ngại nhìn người bệnh, không giấu nổi vẻ lo âu.
A-rơ-chom
về ở nhà Schi-ô-sa, vợ anh, một người đàn bà chẳng có gì là đáng ưa cả. Nhà vợ
là nông dân nghèo. Một hôm, Pa-ven đến thăm anh. Một đứa bé con nhếch nhác, mắt
lác, đang chạy nhông ở sân nhỏ bẩn thỉu. Thấy Pa-ven vào, thằng bé giương mắt
ti hí nhìn chòng chọc, rồi hí hoáy thọc ngón tay một cách nghiêm túc vào lỗ
mũi, cất tiếng hỏi:
- Hỏi
gì? Định vào nhà người ta ăn cắp chắc? Cút đi ngay, không mẹ người ta chửi cho
đấy!
Túp lều
cũ kỹ, thấp lè tè, cánh cửa sổ bé tí xíu mở ra. A-rơ-chom gọi Pa-ven:
- Vào
đây Pa-vơ-lu-sa!
Một mụ
già mặt vàng như nghệ đang loay hoay trước cửa lò. Mụ gườm gườm đưa mắt lườm
Pa-ven và né người tránh cho khách đi. Xong mụ lại về với mấy cái nồi của mụ,
mụ xê đi dịch lại làm nồi va chạm vào nhau loảng xoảng.
Hai đứa
bé gái, bím tóc lơ thơ vài sợi, trèo phắt lên trên lò bếp ngồi và trố mắt nhìn
người khách lạ một cách tọc mạch.
A-rơ-chom
ngồi ở bàn, có vẻ ngượng ngùng. Cả mẹ lẫn em đều không tán thành anh lấy
Schi-ô-sa. Anh đã ba năm đi lại với nhà cô Ga-li-a xinh đẹp làm nghề khâu, con
gái bác thợ đá. Chẳng hiểu làm sao, vốn con nhà vô sản gốc, anh lại bỏ Ga-li-a
để lấy nhà chị Schi-ô-sa chẳng ra gì, đâm đầu vào cái gia đình năm miệng ăn mà
chẳng có ai là tay thợ cả. A-rơ-chom xong việc ở sở đầu máy về nhà, lại nai
lưng ra với cái cày, đem hết sức gây dựng lại cơ đồ cho nhà chị Schi-ô-sa đang
lụn bại này.
A-rơ-chom
hiểu rằng Pa-ven không tán thành bước đường tụt lại đằng sau của anh, bước
đường “tiểu tư sản hóa”, như Pa-ven thường nói. Giờ đây, anh để ý xem em sẽ xử
sự như thế nào trong cái cảnh nhà mình thế này.
Hai anh
em hỏi han nhau qua loa mấy câu sáo chẳng ra đâu vào đâu rồi Pa-ven tỏ ý muốn
ra về. A-rơ-chom giữ lại.
- Ở chơi
đã, ăn với chúng tao tí chút. Chị sắp mang sữa đến. Mai mày định đi thật đấy à?
Trông mày còn yếu lắm, Páp-ca ạ.
Schi-ô-sa
bước vào, chào Pa-ven và gọi A-rơ-chom xuống nhà dưới khiêng vật gì giúp một
tay. Mình Pa-ven ở lại với mụ già ít nói. Tiếng chuông nhà thờ vọng vào cửa sổ.
Mụ già buông gậy chọc lò, càu nhàu:
-
Giê-su-ma, lạy Chúa tôi, đầu tắt mặt tối thế này chẳng có lúc nào mà ngắm
nguyện nữa.
Mụ tụt
khăn quàng ra khỏi cổ, rồi vừa nhìn gườm gườm người khách lạ, vừa đi đến góc
buồng, chỗ bày những ảnh tượng lạnh lẽo, lâu ngày trông đã sỉn. Mụ đưa ba ngón
tay phải gầy giơ xương chụm vào nhau, rồi bắt đầu làm dấu. Mấp máy đôi môi khô
héo, mụ lâm râm cầu nguyện.
- Lạy
Cha chúng tôi ở trên đời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng...
Ngoài sân
thằng bé cưỡi lên lưng con lợn sề đen trùi trũi có đôi tai chảy lòng thòng. Nó
lấy chân không thúc vào sườn lợn, tay bíu chặt mớ lông; Con vật đang xoay tròn,
vừa quẫy vừa gầm gừ. Thằng bé thét lên:
- Hư,
đi! Đi! Hê, gượm tí đã nào!
Con lợn
sề lồng lên trong sân, cố vật thằng bé trên lưng ngã xuống đất. Song thằng bé
ngồi chắc lắm.
Mụ già
bỏ kinh, bỏ nguyện, thò đầu ra cửa sổ:
- Đồ quỷ
sứ! Rồi tao dạy cho mày cưỡi ngựa. Có xuống ngay không, thằng chết tiệt. Ngã
chết bây giờ! Nghịch thế thì thôi!
Con lợn
sề đã tìm cách thoát được tay kỵ mã. Mụ già yên trí lại quay về với ảnh tượng.
Nét mặt sùng kính, mụ tiếp tục cầu kinh.
- Nước
Cha trị đến...
Thằng bé
con nước mắt chảy quanh, bước vào cửa. Nó lấy cánh tay áo quệt lên cái mũi bị
ngã dập xuống đất và khóc mếu vì mũi đau. Nó vòi:
- Mẹ ơi,
cho con cái kẹo.
Mụ già
phát khùng quay lại:
- Đồ quỷ
mắt lác, mày không để cho bà xong buổi nguyện. Đồ chó đẻ, đợi đấy, rồi bà lấy
kẹo cho mày.
Nói rồi,
mụ nhặt cái roi trên ghế dài. Thằng bé biến ngay lập tức. Hai đứa bé gái nằm
sau lò bếp phì cười. Mụ lại quay vào cầu nguyện, lần này nữa là lần thứ ba.
Pa-ven
đứng dậy và đi ra ngay, chẳng đợi A-rơ- chom nữa. Khi anh ra khỏi, quay lại
khép cổng, thì thấy mụ già còn ngó qua cửa sổ ở ngách nhà nhìn theo anh.
“Không
hiểu thế quái nào mà ông A-rơ-chom lại chúi đầu vào đây. Rồi đến chết cũng
không rút cũng ra được. Bà Schi-ô-sa rồi sẽ đẻ sòn sòn năm một. Ông A-rơ-chom
rồi sẽ sa lầy vào đấy như con bọ hung trong đống phân. - Pa-ven chán ngán bước
theo con đường vắng ngắt của thị trấn nhỏ, vừa đi vừa nghĩ ngợi. - Lo cho ông
ấy có thể còn đổ đốn hơn nữa đến bỏ cả công việc ở sở đầu máy về nhà ở lỳ với
vợ. Thế mà mình cứ định bụng lôi ông ấy đi công tác, đi hoạt động!”
Pa-ven
sung sướng ngày mai được đi rồi, ngày mai trở về thành phố lớn, gặp lại bạn bè
và những người mà anh yêu quý. Thành phố đồ sộ, sức sống tràn trề, vẻ náo nhiệt
của dòng người không lúc nào ngớt, tiếng xe điện ầm ầm, tiếng còi xe hơi inh
ỏi, tất cả hấp dẫn anh. Song, cái chính là anh cảm thấy tâm hồn anh bị thu hút
bởi những lớp nhà rộng mênh mông, xây bằng gạch; Những công xưởng ám khói, các
thứ máy móc và tiếng dây chuyền da lướt ngọt trên bánh xe. Anh bị hút về nơi có
những bánh lái khổng lồ quay tít theo đà máy chạy hối hả về nơi có mùi đầu máy,
về những thứ đối với anh đã trở thành thân thuộc. Ở đây trong cái thị trấn nhỏ
lầm lì này, đi dạo chơi quanh ngoài phố, Pa-ven cảm thấy rất là khó thở. Thị
trấn nhỏ này đối với anh trở nên xa lạ và chán ngấy, điều đó anh chẳng lấy làm
ngạc nhiên. Anh chán ngấy đến nỗi ban ngày ra phố đi quanh cũng đủ thấy khó
chịu. Mỗi khi đi ngang qua nhà những mụ lắm điều đang ngồi lê trên thềm nhà,
Pa-ven nghe thấy các mụ nói liến thoắng huyên thiên.
- Các bà
ơi, xem kìa. Cái thằng kia nó chui ở đâu ra mà trông rõ khiếp!
- Chắc
nó là thằng ho lao, cái ngực sắp đi đời rồi.
- Nhưng
cái áo ngoài của nó trông có vẻ đắt tiền đấy.
- Chắc
nó xoáy ở đâu chứ gì...
Và
chuyện các mụ cứ rặt như thế. Pa-ven nghe lắm, rác cả tai.
Từ lâu,
anh thấy mình đã đứt rễ hẳn với nơi này. Thành phố lớn ngoài kia đối với anh
gần gũi hơn, thân thiết hơn. Các đồng chí với anh là một gia đình bền chặt, vui
tươi. Với lại, ngoài ấy, anh còn có công tác.
Pa-ven
bước chân đến rừng thông từ lúc nào cũng không để ý đến nữa. Anh dừng lại ở chỗ
đường rẽ đôi. Bên phía tay phải, sau hàng rào cao với những cọc nhọn hoắt, ngăn
cách với rừng, là nhà pha cổ lỗ, âm u hình thù đáng ghét, và sau nhà pha là
những nếp nhà quét vôi trắng của nhà thương.
Chính ở
bãi rộng này đây, Va-li-a và các đồng chí đã bị treo cổ. Pa-ven đứng im lặng
một lúc lâu trước nơi ngày trước đặt giá treo cổ. Rồi anh lần bước xuống lối
hào sâu, lững thững đi ra huyệt chung của anh chị em ở trên gò.
Những
bàn tay trìu mến đã đặt lên các ngôi mộ những vòng hoa kết bằng cành thông và
rào quanh nghĩa địa nhỏ này một hàng rào cây lá tươi. Đỉnh gò có những cây
thông cao vút trấn ngự. Cỏ non như tơ xanh phủ lên sườn gò thoai thoải.
Thị trấn
nhỏ đến đây là hết phố. Cảnh vật nơi này tịch mịch, rầu rầu. Rừng thông hiu
hắt. Không gian phảng phất mùi lá khô rữa và mùi đất mùa xuân nhuần lại.
Nơi đây,
anh chị em ta đã anh dung hy sinh để cho cuộc đời cười được với những kẻ sinh
ra trong cùng khổ, những kẻ từ thuở lọt lòng mẹ là đã bắt đầu kiếp làm trâu
ngựa.
Pa-ven
từ từ ngả mũ, lòng tràn ngập một mối buồn vô hạn.
Cái quý
nhất của con người ta là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao
cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ
thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay có
thể nói rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao
đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người. Và ta phải sống
gấp lên mới được. Vì tật bệnh vô lý hay một sự tình cờ bi đát nào đó có thể
bỗng nhiên cắt đứt cuộc đời.
Mang
nặng trong lòng những ý nghĩ ấy, Pa-ven rời khỏi nghĩa địa.
Mẹ buồn
rầu sửa soạn hành lý cho con lên đường. Pa-ven nhìn mẹ: Mẹ khóc nhưng quay mặt
đi không để anh trông thấy.
- Con ở
lại có được không, con? Con xem, mẹ già rồi. Cứ lủi thủi ở một mình thì khổ mẹ
lắm, con ạ. Đấy, đẻ ra ngần ấy đứa con, nhưng chúng nó vừa lớn lên thì mỗi đứa
đi một ngả. Cái gì nó kéo mày ra tỉnh thế, hở Pa-ven? Ở đây sống cũng được chứ
sao? Hay mày cũng đã có món nào? Chắc mày đã phải lòng một con mái tóc ngắn nào
rồi? Cấm đứa nào nói với mụ già này một câu. Thằng A-rơ-chom lấy vợ chẳng bảo
qua tao một tiếng. Mày lại càng tệ nữa. Chỉ khi nào chúng mày ốm đau què quặt,
mẹ mới được trông thấy mặt chúng mày thôi.
Mẹ dịu
dàng bảo Pa-ven như thế, vừa nói vừa xếp mớ quần áo của con vào túi đã giặt
sạch.
Pa-ven
ôm lấy vai mẹ, kéo mẹ lại gần:
- Không
đâu. Con chẳng có con mái nào đâu, mẹ ạ. Gà thì lấy gà có phải không mẹ. Mẹ gọi
thế chẳng hóa ra con là gà sống à?
Anh làm
mẹ phải bật cười.
- Mẹ ơi,
con đã thề không nghĩ gì đến gái, nếu ta chưa diệt hết bọn tư sản trên khắp thế
gian này. Chắc mẹ lại bảo như thế thì phải chờ lâu lắm phải không? Không đâu,
mẹ ạ, bọn tư sản chẳng đứng được lâu nữa... Rồi tất cả loài người sẽ là một
nước cộng hòa. Và các cụ ông, cụ bà già như mẹ đã suốt đời làm lụng thì sẽ được
sang nghỉ bên Ý, ở đấy ấm áp, chung quanh toàn là biển cả. Ở bên nước Ý, không
bao giờ có mùa đông, mẹ ạ. Chúng con sẽ đưa mẹ, những người già như mẹ, đến ở
trong những dinh cơ của bọn tư sản, và mẹ sẽ ngồi sưởi nắng ấm. Còn chúng con,
chúng con sẽ đi sửa nốt bọn tư sản bên Mỹ.
- Con ạ,
mẹ chẳng còn sống được đến ngày có câu chuyện tiên phật của con đâu... Ông con
xưa kia cũng ngỗ ngược như con, ông làm thủy thủ, đi khắp năm châu bốn biển.
Nói trộm vía ông, cụ thật là tay ghê gớm. Trận Xê-va-xtô-pôn, cụ đánh hăng thế
nào mà khi về nhà thì thấy cụ thiếu một chân một tay. Người ta gắn cho cụ hai
huân chương thập tự và hai mề đay có cuống của Nga hoàng. Nhưng rồi ông cụ cũng
chỉ chết cực chết khổ. Cụ bướng lắm. Một lần cụ vác nạng nện vào đầu người Nhà
nước. Thế là bị tù một năm. Người ta tống vào nhà pha, huân chương thập tự cũng
chả cứu thoát được. Mẹ thấy tính con dễ thường theo về tính ông ngày trước.
- Mẹ ơi,
con sắp xa mẹ, mẹ nói chuyện không vui ấy làm gì? Thôi, mẹ đưa cho con cái đàn
gió, đã lâu lắm con chẳng mó đến nó.
Pa-ven
cúi xuống hàng phím bọc xà cừ. Mẹ sửng sốt vì tiếng đàn của anh lạ đi, nghe
không như ngày trước nữa. Hết vẻ ngỗ nghịch vô tư lự, chất hăng say xốc nổi,
những ngón láy và ngón đệm mà cả thị trấn đều biết tài tay chơi đàn gió trẻ
tuổi Pa-ven. Nhạc anh chơi bây giờ thánh thót, trầm bổng, nghe không kém phần
mạnh mà càng thêm có chiều sâu nữa.
Pa-ven
ra ga một mình.
Anh đã
nói được cho mẹ ở lại nhà: Anh không để mẹ đi tiễn vì không muốn thấy mẹ khóc
khi chia tay.
Xe lửa
phải xông xáo mà lên, toa nào toa ấy đứng ngồi chen chúc. Pa-ven chiếm giường
trên tầng cao nhất và nhìn xuống đám người hầm hầm la lối đứng chật cả chỗ đi.
Cảnh
chuyến tàu nào cũng vậy, người ta kéo những bao, những túi lê sền sệt, nhét vào
dưới gầm ghế.
Đến khi
tàu chuyển bánh, hành khách mới bớt nóng nảy, và bao giờ cũng thế, cứ đến lúc
này thì người ta bắt đầu giở bánh ra ăn nghiến ngấu.
Pa-ven
chẳng mấy chốc đã ngủ lăn.
Nhà đầu
tiên anh muốn đến thăm ở trung tâm thành phố, trên đường lớn Ca-rét-sa-tích.
Anh từ từ leo lên thang cầu. Cảnh chung quanh quen mắt, chẳng có gì khác cả.
Anh bước qua cầu nhà ga, để tay lướt trên thành cầu nhẵn trơn. Đến chỗ xuống
thang, anh dừng lại: Trên cầu vắng ngắt. Ngửa trông lên cao thăm thẳm, bóng tối
mượt như nhung phủ lấy nền trời.
Trên vòm
trời cao, hằng hà sa số vì sao lấp lánh ánh sáng màu lân tinh. Ở phía dưới, chỗ
mặt đất lẫn với chân trời, không biết đâu là ranh giới, thành phố rắc trong đêm
hàng triệu ánh đèn điện.
Có đông
người đi lên qua mặt Pa-ven. Tiếng nói gay gắt của đám người tranh cãi nhau một
câu chuyện gì phá sự yên tĩnh của đêm tối. Và Pa-ven, mắt rời những ánh đèn của
thành phố, bước xuống thang.
Trong
phòng phát giấy của Ủy ban đặc biệt quận ở đường Cơ-rét-sa-tích, người phụ
trách cho Pa-ven biết là Giu-khơ-rai đã đổi đi tỉnh khác từ lâu.
Đồng chí
đó hỏi đi hỏi lại Pa-ven; Mãi đến khi đã tin là Pa-ven có quen riêng
Giu-khơ-rai, mới cho biết qua loa thêm. Cách đây hai tháng, Giu-khơ-rai được
lệnh điều đi Ta-sơ-ken, đến công tác ở mặt trận Tuốc- kết-stan. Pa-ven nghe tin
chán đến nỗi không buồn hỏi thêm nữa. Chẳng nói chẳng rằng, anh quay gót đi ra.
Mệt quá, anh ngồi xuống bậc cửa nghỉ một lát.
Tàu điện
chạy qua, bánh xe sắt lăn rầm rầm vang cả phố. Trên các vỉa hè dòng thác người
lũ lượt tràn đi. Náo nhiệt quá! Lúc thì có tiếng cười rúc rích của đàn bà, lúc
thì giọng trầm trầm của đàn ông, lúc thì giọng lanh lảnh của một chàng trai trẻ
măng, lúc thì giọng ồ ồ của ông già. Làn sóng người trôi đi không lúc nào ngớt,
ai nấy dáng dấp vội vàng. Xe điện sáng trưng, đèn pha xe hơi rọi lên đột ngột,
hàng điện bật lên chói rực quanh biển quảng cáo của rạp chiếu bóng bên cạnh. Và
chỗ nào cũng là đám đông ngồn ngộn, làm cho phố xá không lúc nào vắng tiếng
huyên náo. Đấy là buổi tối ở một thành phố lớn.
Cảnh tấp
nập ồn ào của đại lộ này làm Pa-ven khuây khỏa nỗi buồn vì tin Giu-khơ-rai đã
được điều động đi nơi khác. Biết đi đâu bây giờ? Hay về phố Xô-lô- men-ca với
lũ bạn? Xa quá! Và anh nhớ ra một nhà quen ở gần đây, ngay phố Trường đại học
Cơ-rúc-lô. Phải đến ngay đấy mới được.. Bởi vì sau Giu-khơ-rai thì Ri-ta chính
là đồng chí mà anh muốn gặp trước tiên. Vả chăng, đến đây, có thể ngủ buồng
A-kim được.
Từ xa,
anh đã nhìn thấy ánh đèn sáng ở cửa sổ trên tầng gác. Để trấn tĩnh lòng mình,
anh áp người vào cánh cửa gỗ sên. Lên đến cầu thang, lại đứng dừng mấy giây
nữa. Trong buồng Ri-ta, có tiếng người nói chuyện, có tiếng đàn ghi-ta.
“Tiếng
đàn ghi-ta? Thế ra được chơi cả ghi-ta nữa kia à? Chế độ bây giờ có vẻ nới ra
tợn”. Pa-ven nghĩ bụng như vậy và khẽ gõ cửa buồng. Cảm thấy mình hồi hộp, anh
cắn chặt môi.
Một
người đàn bà trẻ lạ mặt, có để tóc mai quăn, ra mở cửa. Người ấy nhìn Pa-ven:
- Anh
hỏi ai?
Người
đàn bà không khép cửa, và trông cách Pa- ven đưa mắt nhìn vào đồ đạc trong
buồng, chị ta cũng đủ đoán hiểu ý.
- Tôi
muốn hỏi chị Ri-ta Uốt-chi-nô-vích.
- Chị ấy
không ở đây nữa. Hồi tháng Giêng chị ấy đổi đi Khác-cốp và giờ nghe đâu lại đổi
đi Mát-xcơ-va.
- Thế
đồng chí A-kim còn ở đây hay cũng đi rồi?
- Đồng
chí A-kim cũng không có đây, hiện nay đồng chí ấy làm bí thư thanh niên cộng
sản ở Ô-đét-xa.
Pa-ven
chỉ có cách là quay đi. Niềm vui trở về thành phố thế là mờ mất rồi..
Giờ thì
phải liệu lo đi tìm chỗ ngủ đêm thôi.
“Cứ chạy
quanh tìm các bạn thân như thế, mình có mỏi nhừ chân cũng chẳng thấy ai”.
Pa-ven
càu nhàu, cau có, cố nén thất vọng. Tuy nhiên, anh cũng còn cầu may chuyến nữa,
đến tìm Pan-cơ-ra-tốp. Pan-cơ-ra-tốp ở gần bến tàu, đến cậu ấy không xa bằng đi
đến phố Xô-lô-men-ca.
Tìm đến
được nhà Pan-cơ-ra-tốp thì người anh đã mệt nhoài. Anh gõ cánh cửa trước kia có
hồi sơn đỏ, định bụng: “Nếu cậu ta cũng đi nơi khác nốt rồi thì mình chẳng đi
đâu lang thang mãi nữa. Tìm béng cái thuyền nào chui xuống ngủ qua đêm nay
thôi”.
Một bà
cụ nhỏ nhắn, đội vuông khăn giản dị chít dưới cằm, ra mở cửa. Bà cụ là mẹ
Pan-cơ-ra-tốp.
- Thưa
mẹ, anh Pan-cơ-ra-tốp có nhà không ạ?
- Em nó
vừa mới về.
Bà cụ
không nhận ra Pa-ven và quay vào gọi con:
-
Pan-cơ-ra-tốp ơi, có anh nào hỏi con đấy.
Pa-ven
bước theo bà cụ vào nhà, đặt túi xuống đất. Pan-cơ-ra-tốp đã ngồi vào ăn ở bàn,
quay ra nhìn Pa-ven:
- Có
phải anh hỏi tôi thì mời anh ngồi chơi và cho biết có việc gì. Anh cho tôi làm
nốt bát xúp này vì từ sáng, tôi chỉ độc nốc nước lã trừ bữa.
Và
Pan-cơ-ra-tốp cầm lấy cái thìa gỗ to tướng.
Pa-ven
ngồi xuống ghế dựa, mặt ghế đã thủng.
Anh bỏ
mũ cát-két ra rồi theo thói quen lấy mũ lau mồ hôi trán.
“Chẳng
lẽ mặt mũi mình thay đổi đến nỗi cậu ta không nhận ra được mình nữa ư?”
Pan-cơ-ra-tốp
húp luôn hai thìa xúp, rồi thấy khách chưa nói gì, liền quay ra hỏi khách lần
nữa.
- Anh
nói cho nghe đi. Có chuyện gì thế anh?
Bàn tay
cầm mẩu bánh chưa đưa tới mồm đã dừng lại nửa chừng, Pan-cơ-ra-tốp bàng hoàng
chớp chớp mắt.
- Ô
kìa... Hãy khoan... Thế này là thế nào, hở trời?
Thấy mặt
bạn đỏ bừng, rúm lại vì nghĩ lung, Pa- ven không nhịn được nữa, phì cười.
- Páp-ca
ơi! Chúng tao ngỡ mày chết rồi!... Hãy khoan! Tên anh là gì?
Nghe
Pan-cơ-ra-tốp kêu rú lên, mẹ và chị gái anh ở buồng bên chạy ra. Rồi cuối cùng
cả ba người nắm chắc là chính Pa-ven đang ngồi trước mặt họ.
Cả nhà
đã ngủ lâu rồi, Pan-cơ-ra-tốp còn ngồi kể mãi những việc xảy ra trong bốn tháng
qua.
- Mùa
rét vừa rồi, Giác-ki và Đu-ba-va được đi Khác-cốp. Chẳng phải công tác vớ vẩn
đâu. Tụi nó được vào Đại học cộng sản, học lớp dự bị. Tất cả mười lăm đứa được
triệu tập đến. Lúc bấy giờ, có phong trào sôi nổi đòi đi học, tao cũng làm đơn.
Tao nghĩ bụng: Mình phải ních thêm vào cái túi khôn của mình, vì trong đầu mình
hiểu biết ít ỏi quá. Nhưng tiểu ban lấy học sinh cho tao rơi, mày ạ.
Pan-cơ-ra-tốp
thở ra bực dọc, rồi nói tiếp:
- Mới
đầu, việc tao có vẻ trôi chảy lắm. Tao đủ hết tiêu chuẩn: Tao có thẻ đảng viên,
tao đã đủ thời hạn công tác dự bị ở Đoàn; Về thành phần xuất thân và bản thân,
không có gì lôi thôi, tao không vấp vì những cái đó. Nhưng khi sát hạch tao về
chính trị thì tao bị bương.
Tao vào
vấn đáp trước một đồng chí trong tiểu ban. Đồng chí ấy ra cho tao câu hỏi hóc
này: “Đồng chí Pan-cơ-ra-tốp, đồng chí hiểu gì về triết học thì nói đi”. Mày
biết tao thì hiểu quái gì về triết học. Nhưng tao nhớ ra, có một thằng cha
khuân vác trước kia cùng làm với chúng tao, một thằng giang hồ có đi học lít-xê
lít xiếc. Nó đi làm cho ra vẻ ta đây lao động ấy mà. Nó có lần kể cho chúng tao
nghe, xưa kia ở bên nước Hy Lạp, có những nhà thông thái nghĩ ra nhiều cái lắm.
Người ta gọi họ là những nhà triết học. Trong những tay triết học loại đó, có
một tay tao quên khuấy mất tên, hình như là I-đê-ô-ghen thì phải, tay này suốt
đời chui trong cái thùng tô-nô ở và đại khái những chuyện như thế.. Giỏi nhất
đám triết học ấy là một tay có thể chứng minh bốn mươi lần liền: Cái gì đen là
trắng, và ngược lại, trắng là đen. Nói tóm lại là một bọn nghĩ cách úm người
ta. Vì vậy cho nên lúc bấy giờ tao mới nghĩ đến câu chuyện thằng học trò lít-xê
kể và tao tự bảo: “Tay ủy viên tiểu ban này định quay mình đây”. Mà lão ta ngồi
đấy nhìn tao ranh mãnh thật. Cho nên tao mới sa chân vào đĩa. Tao nói: “Triết
học là trò bịp đời và nhồi sọ. Tôi không ưa học gì những của ngớ ngẩn ấy, các
đồng chí ạ! Còn lịch sử Đảng thì khác, tôi để hết tâm trí nghiên cứu lịch sử
Đảng”. Tao nói thế xong thì các tay trong tiểu ban mới truy tao thêm, hỏi vặn
tao học ở đâu mà hiểu triết học như thế. Tao mới nói thêm mấy điều nữa mà thằng
học trò lít-xê đã nói với tao. Thế là cả tiểu ban lăn ra cười. Tao phát cáu.
Tao bảo rằng: “Có cái gì mà các đồng chí nhạo báng tôi như chế thằng ngu thế?”
Tao nhặt lấy mũ và đi ngay về nhà.
Sau đó,
đồng chí đã hỏi tao lại gặp tao ở tỉnh ủy. Nói chuyện ba tiếng đồng hồ liền.
Tao mới hiểu ra thằng học trò lít-xê nói lòe chúng tao. Bởi vì tao nghe nói thì
ra triết học một sự vĩ đại và rất là tinh anh sáng suốt.
Thằng
Đu-ba-va và thằng Giác-ki thì trúng. Thằng Đu ba-va thì tao chịu nó, nó học ra
trò. Song còn Giác- ki thì chẳng hơn tao mấy. Nó nhờ cái huân chương mà thoát,
nhất định là như thế. Nói tóm lại tao lại quay về làm ăn với sông nước. Tao
được chỉ định về ban quản lý bến tàu. Tao thay đồng chí phụ trách ke bốc hàng.
Trước kia cả ngày tao to tiếng với chính quyền về một đống vấn đề dính dáng đến
Đoàn. Nay chính tao phải lãnh đạo cái khoản ấy. Thỉnh thoảng xảy đến như thế
này: Có tên nào giả ốm, hay tên nào nhác rơi vào tay tao, tao vừa lấy cương vị
phụ trách chính quyền, vừa lấy cương vị bí thư chi đoàn đì cho cẩn thận. Song,
cuộc đời không phải chỉ có tao, xin lỗi mày nhé. Tao sẽ kể về tao sau. Còn cái
gì tao chưa kể cho mày nghe nữa nhỉ? Về tin tức A-kim, mày đã hỏi thăm được
rồi. Các chấp ủy cũ, còn lại có Túp- ta, vẫn làm công tác cũ. Tô-ca-rếp thì bí
thư Đảng ủy Xô-lô-men-ca, Ô-cu-nhếp trước cũng ở tổ công xã với mày thì ở quận
đoàn thanh niên. Ta-li-a thì làm giảng viên chính trị. Svê-tai-ép thay chân mày
ở xí nghiệp. Tao không biết nó lắm. Thỉnh thoảng gặp ở tỉnh đoàn, trông không
đụt đâu, nhưng tự ái ra dáng. Mày nhớ An-na Bô-khác chứ? Cô ấy cũng ở Xô-lô-
men-ca, phụ trách công tác phụ vận ở quận ủy. Tao đã kể hết cho mày nghe về tin
tức các cậu quen. Đấy mày xem, Đảng cho nhiều cậu đi học. Hiện nay ở đây tất cả
cán bộ cũ đang cày khỏe ở Trường Đảng. Trên hứa sang năm cũng cho tao theo học
ở đấy.
Hai
người mải chuyện, quá nửa đêm lâu rồi mới ngủ. Sáng hôm sau, Pa-ven dậy thì
Pan-cơ-ra-tốp đã ra bến tàu. Em gái Pan-cơ-ra-tốp là Đu-xi-a, một cô gái to
khỏe giống anh như đúc, bưng nước chè mời Pa-ven uống và nói đến mọi chuyện
vặt. Cha Pan- cơ-ra-tốp không có nhà. Ông cụ làm thợ máy trên tàu thủy, còn
đang ngược tàu.
Pa-ven
sửa soạn ra phố. Sắp đi, Đu-xi-a dặn lại:
- Nhớ về
ăn cơm, anh nhé. Nhà em chờ cơm anh đấy.
*
Trụ sở
tỉnh đoàn thanh niên thường vẫn tấp nập. Cửa mở ra rồi lại đóng sập vào luôn
tay. Trong hành lang và các buồng, người chờ đông; Phòng hành chính, tiếng máy
chữ gõ inh tai.
Pa-ven
dừng lại ngoài hiên một lát, ngó vào hy vọng gặp mặt nào quen. Chẳng thấy ai,
anh mới đi vào phòng đồng chí bí thư. Đồng chí bí thư mặc sơ- mi xanh, ngồi
trước một bàn giấy đồ sộ. Pa-ven vào, đồng chí ấy chỉ nhìn qua, rồi lại cúi
xuống viết.
Pa-ven
ngồi đối diện và chăm chú nhìn người bí thư thay chân A-kim ấy.
Đồng chí
bí thư đánh dấu chấm hết lên trang giấy anh đang viết và hỏi Pa-ven:
- Đồng chí
muốn gì?
Pa-ven
trình bày trường hợp của mình:
- Phải
cải tử hoàn sinh cho tôi trên danh sách tổ chức của Đoàn và cho tôi trở lại
phân xưởng chính nhà máy xe lửa. Đề nghị đồng chí chỉ thị cho bên tổ chức như
vậy.
Đồng chí
bí thư ngả người dựa vào ghế và trả lời, giọng lưỡng lự.
- Tất
nhiên chúng tôi sẽ khôi phục đoàn tịch cho đồng chí, điều đó không còn phải nói
gì nữa. Nhưng điều đồng chí về phân xưởng chính nhà máy xe lửa thì không tiện.
Svê-tai-ép đang phụ trách ở đấy, cậu ấy là chấp ủy viên tỉnh đoàn mới bầu lại
khóa vừa rồi. Chúng tôi sẽ điều đồng chí đi nơi khác vậy.
Mắt
Pa-ven hơi nhíu lại:
- Tôi về
đấy không phải để làm khó cho công tác của đồng chí Svê-tai-ép đâu. Tôi muốn về
làm chuyên môn của tôi, chứ không phải làm bí thư chi đoàn. Với lại trong người
tôi chưa được khỏe, đề nghị đừng điều tôi đi nơi khác.
Đồng chí
bí thư gật đầu, ghi mấy chữ vào mảnh giấy.
- Đồng
chí đưa mảnh giấy này cho Túp-ta, cậu ta sẽ bố trí cho đâu vào đấy.
Bên
phòng cán bộ, Túp-ta đang mắng như tát nước người giúp việc thống kê của mình.
Pa-ven nghe hai bên cãi nhau nửa phút, nhưng thấy câu chuyện có vẻ kéo dài,
liền ngắt lời anh chàng Túp-ta đang nóng như lửa:
- Thôi,
cậu sẽ chỉnh đồng chí ấy sau. Đây là giấy giới thiệu, cậu làm hộ giấy chính
thức cho mình đi.
Túp-ta
hết nhìn giấy lại nhìn Pa-ven. Sau cùng mới nói ra lời:
- Sao,
cậu chưa chết à? Vậy làm thế nào bây giờ? Tên cậu đã gạch khỏi danh sách rồi.
Chính mình gửi trả Trung ương thẻ đoàn viên của cậu. Với lại vừa rồi Trung ương
mới lấy lại danh sách đoàn viên cả nước. Theo thông tri của Trung ương Đoàn, ai
không ghi tên lại thì coi như bị khai trừ. Cậu chỉ còn có cách nộp đơn xin gia
nhập đoàn lại, theo đúng những quy định thường lệ.
Túp-ta
tuyên bố thẳng cánh như vậy. Pa-ven cau mặt lại:
- Vậy ra
cậu ta vẫn chứng nào tật ấy. Cậu còn trẻ mà tệ hại hơn một con chuột già rúc
trong đống công văn. Bao giờ cậu mới ra hồn người được?
Túp-ta
chồm lên, như bị rệp đốt:
- Cậu
đừng lên lớp đây. Đây phụ trách công việc đây làm. Thông tri thảo ra không phải
để cho người ta vi phạm nó. Còn cậu gọi đây là chuột già thì cậu sẽ phải trả
lời về câu phỉ báng đó.
Túp-ta
nói câu sau này có vẻ hăm dọa. Hắn đưa rộng tay vơ lấy chồng phong bì chưa mở:
Thái độ tỏ vẻ không muốn nói chuyện thêm nữa.
Pa-ven
thong thả đứng dậy ra cửa. Chợt nghĩ lại điều gì anh quay trở vào nhặt mảnh
giấy đồng chí bí thư giới thiệu còn để trên bàn trước mặt Túp-ta. Túp-ta nhìn
Pa-ven. Ông cụ non cáu kỉnh và tỉ mẩn ấy có đôi tai to vểnh ra, trông vừa đáng
ghét, vừa buồn cười.
- Thôi
được, kết tội đây là “làm đảo lộn thống kê” thì cứ kết tội, nhưng đây hỏi lại:
Tại sao cậu lại dám thi hành kỷ luật một người đã chết mà cứ tự tiện, không có
giấy tờ văn bản nào quyết định trước hẳn hoi? Trường hợp này có thể xảy ra với
tất cả mọi người: Người ta ốm rồi chết. Nhất định không có thông tri nào cho
phép cậu làm như thế.
- Hì,
hì, hì - Người giúp việc Túp-ta không thể giữ trung lập được mãi nữa, bật lên
cười thích chí.
Túp-ta
ấn gãy đầu bút chì. Hắn cầm mầu chì gãy ném xuống sàn, chưa kịp trả lời đối
phương, thì người đông đã kéo ùa vào phòng, cười nói bô bô. Trong bọn mới vào
có Ô-cu-nhếp. Thế là chỉ còn nghe thấy những tiếng reo vui và sửng sốt, những
câu hỏi không bao giờ hết. Vài phút sau, lại một đám thanh niên nữa vào trong
bọn đó có Ôn-ga. Chị nắm lấy tay Pa-ven rất lâu, ngạc nhiên, nhưng tươi sáng
hẳn lên.
Người ta
lại bắt Pa-ven kể chuyện lại. Nguồn vui thật thà của những đồng chí, tình bạn
chân thành, lòng mến thương thông cảm, những nắm tay chặt, những bàn tay vỗ lên
vai, chắc nịch và thân ái, tất cả làm Pa-ven quên hẳn chuyện Túp-ta.
Gần
cuối, Pa-ven kể thêm cho các đồng chí nghe câu chuyện giữa mình và Túp-ta vừa
rồi. Ai cũng tức giận. Ôn-ga quắc mắt lườm Túp-ta, rồi đi đến phòng đồng chí bí
thư.
- Cánh
ta đi tìm đồng chí Nhê-giơ-đa-nốp để đồng chí ấy cạo cho hắn một mẻ.
Ô-cu-nhếp
nói thế và choàng lấy vai Pa-ven kéo đi theo Ôn-ga cùng với đám đông các đồng
chí. Ôn-ga nóng giận bừng bừng:
- Túp-ta
này quan liêu hạng nặng! Phải truất cổ hắn khỏi ban tổ chức và điều đến chỗ
Pan-cơ-ra-tốp cho làm nghề khuân vác lấy một năm mới được.
Ô-cu-nhếp,
Ôn-ga và các đồng chí khác đòi đuổi cổ Túp-ta khỏi phòng cán bộ. Đồng chí bí
thư nghe họ nói, cười độ lượng. Nhê-giơ-đa-nốp cố làm cho Ôn- ga nguôi giận:
- Về
việc khôi phục quyền lợi sinh hoạt Đoàn cho Pa-ven thì chẳng cần phải nói lại
nữa. Sẽ phát ngay thẻ đoàn viên cho cậu ta. Còn như Túp-ta là một anh chàng máy
móc thì rất đồng ý với các đồng chí như thế. Đấy là khuyết điểm chính của cậu
ấy. Nhưng cũng phải thú thật với các đồng chí rằng cậu ấy tổ chức công việc rất
khá. Trong tất cả những cơ quan lãnh đạo của Đoàn mà tôi đã làm từ trước đến
nay, công tác tổ chức và thống kê này thật rắc rối như chui vào rừng rậm vậy.
Chẳng còn biết tin vào con số nào. Nhưng ở đây thì làm thống kê rất tốt. Các
đồng chí cũng biết Túp-ta thức suốt đêm hì hục làm ở bàn giấy. Cho nên ý kiến
tôi là các đồng chí muốn cất chức cậu ấy thì cất chức lúc nào cũng được. Song
lấy một cậu khác tốt mà làm thống kê tồi thay hắn ta thì không còn tình trạng
quan liêu, điều đó đã hẳn đi rồi, nhưng đồng thời thống kê cũng sẽ không ra đâu
vào đâu. Vậy cứ nên để cho cậu ấy làm. Tôi sẽ phê bình thật lực cậu ấy. Sẽ có
tác dụng tốt đối với cậu ấy trong một thời gian. Rồi có thế nào, sau này sẽ
hay.
- Thôi,
thế cũng được. - Ô-cu-nhếp gật đầu rồi nói với Pa-ven: - Pa-ven, ta về
Xô-lô-men-ca đi. Hôm nay có họp đoàn ở câu lạc bộ chúng mình. Chưa ai biết cậu
về. Rồi bất thình lình, ta giới thiệu: “Xin nhường lời cho Pa-ven!”. Hoan hô
Pa-ven. Mày không chết là phải lắm. Giai cấp vô sản mạnh thêm vì cái cẳng mày.
- Ô-cu-nhếp kết luận một cách khôi hài như vậy và lấy hai tay ôm lấy Pa-ven đẩy
ra hành lang.
- Ôn-ga
cũng đến đấy chứ?
- Nhất
định đến chứ!
*
Nhà
Pan-cơ-ra-tốp đợi mãi không thấy Pa-ven về ăn cơm. Đêm cũng không thấy về ngủ.
Ô-cu-nhếp đã đưa Pa-ven về ở nhà mình. Anh có một phòng riêng ở trụ sở Xô-viết.
Về đến nhà, có gì là cho bạn ăn nấy, rồi mang đến cho Pa-ven hai bó báo và hai
quyển sổ cái - sổ ghi biên bản các buổi họp của thường vụ quận đoàn thanh niên.
Anh bảo bạn:
- Cậu
nghiên cứu tất cả những tài liệu này đi. Trong khi cậu mất thời giờ với bệnh
thương hàn của cậu thì thời gian như nước chảy đi đã nhiều rồi đấy! Đọc đi để
hiểu việc đã qua và việc trước mắt. Tối mình về đón cậu rồi cùng đến câu lạc
bộ. Nếu mệt thì cứ ngả lưng làm một giấc.
Người bí
thư quận đoàn thanh niên nhét vội một đống thư với tài liệu và giấy chứng nhận
vào túi, (Ô- cu-nhếp ghét những cặp da, cặp của anh quẳng ở gậm giường), rồi đi
quanh phòng xem lại một lượt trước khi ra cửa.
Tối đến,
anh về thì thấy khắp phòng báo chí tung bừa bãi, đống sách để dưới gầm giường
cũng bị lôi ra. Nhiều quyển khác chất trên bàn làm việc. Pa-ven ngồi trên
giường đọc tập thư của Trung ương mới gửi đến mà anh tìm thấy dưới gối của bạn.
- Thằng
tướng cướp, mày lục gì cái ổ của tao thế?- Ô-cu-nhếp làm bộ quát lên, giả vờ
tức giận. - Xem nào, xem nào, đồng chí! Tôi bắt được đồng chí đọc tài liệu mật.
Cứ để cho quân này chui vào buồng mình thì có ngày hỏng!
Pa-ven
mỉm cười, để lá thư xuống.
- Cậu
nhỡ tàu rồi. Thư này có gì mà mật. Trái lại, chính cậu lấy tài liệu riêng tối
mật làm chao đèn kia kìa. Trông xem! Bị sém cả rìa nữa là khác.
Ô-cu-nhếp
cầm lấy tờ giấy đã bị làm chao đèn đó, anh vừa đọc qua tiêu đề đã lấy tay vỗ
lên trán:
- Thế mà
mình tìm mãi ba hôm nay cái mảnh giấy tai ác này. Nó biến mất, tưởng rơi xuống
sông, xuống biển, giờ mình nhớ ra rồi. Hôm kia, thằng Vô-lưn- xếp đến đây,
chính là nó máy tay lấy làm chao đèn. Rồi nó lại quần quật đi tìm.- Ô-cu-nhếp
gấp mảnh giấy lại cẩn thận rồi đút xuống dưới đệm, nói giọng không lo nữa -
Thôi chốc nữa hãy xếp dọn lại. Giờ chén một miếng đã rồi còn đi ra câu lạc bộ.
Nào Pa- vơ-lu sa, ngồi xuống đây.
Ô-cu-nhếp
ngồi vào bàn, hàm nhai nghiến ngấu. Rất vui, anh kể tin mới cho Pa-ven nghe,
vừa nói chuyện đứng đắn, vừa chêm câu bông đùa.
Đến câu
lạc bộ, Ô-cu-nhếp đưa Pa-ven vào cửa sau, giấu ở hậu trường. Trong góc phòng
rộng thênh thang, Ta-li-a con cụ La-gu-chin và An-na Bô-khác đang ngồi mé bên
phải sân khấu, cạnh chỗ đặt cây đàn dương cầm, chung quanh hai chị là nhóm
thanh niên cộng sản đường sắt. Trước mặt An-na, ngồi vắt vẻo trên ghế dựa là
Vô-lưn-xép, bí thư chi đoàn sở đầu máy, mặt đỏ chót như một quả táo đang mùa
tháng Tám, mặc áo da cũ, trước kia màu đen, nay đã bạc phếch.
Vô
lưn-xép có tóc và lông mày vàng như lúa chín. Ngồi cạnh Vô-lưn-xép là
Svê-tai-ép, đẹp trai, tóc màu hạt dẻ, môi cong rõ nét, ngồi thơ thẩn dựa tay
vào nắp dương cầm. Cổ áo khoác của Svê-tai-ép để hở.
Ô-cu-nhếp
đến gần họ, còn nghe thấy An-na đang nói hết câu:
- Có
những người cứ muốn làm rắc rối quá lắm việc kết nạp những đồng chí mới.
Svê-tai-ép là một.
Svê-tai-ép
không chịu, cãi lại, giọng khinh bạc ra mặt:
- Đoàn
không phải là quán trọ.
Ta-li-a
nhìn thấy Ô-cu-nhếp reo lên:
- Kìa,
trông Ô-cu-nhếp mà xem. Anh ấy hôm nay có vẻ phởn thế, mặt mày rạng rỡ như cái
ấm đồng mới đánh bóng ấy.
Mấy
người kéo Ô-cu-nhếp lại hỏi chuyện tới tấp:
- Cậu ở
đâu đến thế?
- Ta bắt
đầu đi thôi chứ.
Ô-cu-nhếp
giơ tay can họ.
- Đợi
một tí các cậu ạ. Đồng chí Tô-ca-rếp sắp đến và sẽ khai mạc hội nghị.
- Vừa
vặn bố già đến kia rồi! - An-na trông thấy Tô-ca-rếp, vội nói.
Đồng chí
bí thư Đảng ủy quận đang đi về phía họ. Ô-cu-nhếp chạy ra đón:
- Bố ơi,
bố vào đằng sau sân khấu, tôi đưa bố gặp một cậu quen bố. Chắc là bố sẽ ngạc
nhiên!
- Cái gì
nữa thế? - Ông già lẩm bẩm, kéo nốt hơi thuốc lá nữa. Nhưng Ô-cu-nhếp đã nắm
lấy tay ông cụ kéo đi rồi.
Ô-cu-nhếp
lắc chuông dữ dội đến nỗi những người hay chuyện xấu thói nhất cũng phải tin.
Đằng sau
Tô-ca-rếp là pho tượng Mác, người sáng tạo thiên tài ra bản Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản, đầu Người như đầu con sư tử nổi lên trong đám cành thông trang trí.
Trong khi Ô-cu-nhếp nói lý do buổi họp, đồng chí Tô-ca-rếp không rời mắt nhìn
Pa-ven còn đứng ở hậu trường.
- Thưa
các đồng chí, trước khi vào chương trình nghị sự, tôi xin giới thiệu một đồng
chí muốn xin nói mấy lời với chi bộ. Đồng chí Tô-ca-rếp và tôi đã đồng ý để
đồng chí ấy nói.
Tiếng vỗ
tay đồng ý nổi lên. Ô-cu-nhếp giới thiệu:
- Xin
mời đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin nói chuyện!
Trong
một trăm người có mặt, có đến tám mươi người biết Pa-ven. Và khi bóng dáng quen
thuộc hiện ra trước diễn đàn và người thanh niên xanh xao, dong dỏng cao, bắt
đầu nói thì những tiếng reo vui mừng và một tràng dài vỗ tay hoan hô như bão
dậy chào anh.
- Các
đồng chí thân mến! Giọng Pa-ven từ tốn song không sao giấu nổi cảm động: -
Không ngờ hôm nay tôi được trở lại với các đồng chí, trở về vị trí của tôi
trong đội ngũ của chúng ta. Tôi sung sướng lắm. Tôi được gặp lại ở đây rất
nhiều bạn thân của tôi. Tôi ở nhà Ô-cu-nhếp được đọc báo cáo biết rằng: Khu
Xô-lô-men-ca ta có thêm một phần ba đoàn viên mới, những anh chị em mới của
chúng ta; Ở các xưởng và ở sở đầu máy thì bọn “chế tạo bật lửa” đã không còn
nữa và ta đã lôi những đầu tàu vứt đi ngoài “nghĩa địa sắt” về chữa lại dùng.
Tất cả điều đó chứng tỏ đất nước chúng ta đang sống lại và đang lấy lại sức.
Như thế thì đời đáng sống lắm chứ! Giữa lúc thế này, hỏi tôi nhắm mắt mà chết
làm sao được?
Đôi mắt
Pa-ven long lanh nét cười sung sướng.
Khi
Pa-ven đi xuống, lại ngồi gần An-na và Ta- li-a thì tiếng hoan hô nồng nhiệt cứ
kéo dài tiễn theo anh mãi. Anh đưa tay ra bắt vội vàng hết người này đến người
khác. Các bạn ngồi xít lại nhường chỗ cho anh. Bàn tay của Ta-li-a đặt lên bàn
tay anh, nắm rất chặt, rất chặt.
An-na
tròn mắt nhìn anh, hàng mi dài khẽ mấp máy, cái nhìn niềm nở có một cái gì đó
sửng sốt.
*
Ngày qua
ngày trôi đi. Không thể nào gọi là những ngày bình thường được. Mỗi ngày mang
lại một cái gì mới. Sáng dậy, định chương trình làm việc hằng ngày, Pa-ven buồn
rầu nhận thấy ngày có phần ngắn quá và công việc anh định làm, nhiều việc đến
không xong mất.
Pa-ven
trọ ở nhà Ô-cu-nhếp và làm chân phụ lắp máy điện ở xưởng.
Anh phải
bàn cãi rất lâu với Ô-cu-nhếp: Ô-cu-nhếp nhất định không đồng ý để Pa-ven, dù
tạm thời đi nữa, không tham gia công tác lãnh đạo.
- Chúng
ta đang thiếu người mà cậu lại muốn thảnh thơi dưới xưởng. Cậu đừng viện bệnh
cậu ra nữa. Mình đây mình cũng bị sốt thương hàn, vừa ốm dậy, mệt suốt một
tháng trời, nhưng mình chống gậy đến quận đoàn làm việc. Mình biết tính cậu, chắc
còn có lý do gì chính nữa, chứ chẳng phải tại bệnh đâu. - Và Ô- cu-nhếp hỏi dồn
Pa-ven: - Thật thế nào, nói cho mình nghe đi.
- Cậu
đoán không lầm: Sự thật là mình muốn có thời giờ học thêm.
Ô-cu-nhếp
đắc chí, nói oang oang:
- A,
a!... Ra thế đấy! Cậu muốn học. Thế cậu cho mình là không muốn học hay sao? Như
thế là ích kỷ, ông bạn già của tôi ạ! Nếu thế thì hóa ra chúng mình công tác
như đẩy xe bò, còn cậu thì học. Không được, chú mình ạ. Ngay sáng mai, cậu phải
đến ban tổ chức.
Song,
bàn cãi hồi lâu. Ô-cu-nhếp cuối cùng đã phải nhân nhượng:
- Thôi
được, mình để cậu yên trong hai tháng, không đụng đến. Cậu biết thế là mình tốt
bụng đấy! Nhưng theo mình nghĩ, cậu có lẽ không ăn ý với Svê-tai-ép đâu: Thằng
cha ấy hợm mình quá lắm.
Pa-ven
lại về xưởng. Svê-tai-ép lấy làm nghi ngại. Hắn đinh ninh cho là Pa-ven về
xưởng thế nào cũng xảy ra tranh chấp về lãnh đạo với hắn. Vốn tự ái thành bệnh,
hắn liền chuẩn bị đối phó. Nhưng, ngay những ngày đầu, hắn đã thấy ra ngay là
hắn nghi ngại không đâu. Khi Pa-ven được tin anh em định cử mình vào thường vụ
Đoàn thì anh thân đến ban bí thư ngay và viện cớ đã được Ô-cu-nhếp đồng ý, anh
trình bày thì được anh em rút không đem vấn đề đó ra bàn nữa. Trong chi đoàn
thành niên xưởng máy, Pa-ven phụ trách nhóm nghiên cứu chính trị, nhưng anh
không muốn vào thường vụ. Tuy về tổ chức, anh đứng ngoài lãnh đạo, ảnh hưởng
của anh vẫn thấy rõ trong mọi công tác. Với một thái độ thân ái và không để ai
nhận thấy, anh đã giúp Svê-tai- ép nhiều phen thoát khỏi tình thế khó xử.
Một hôm,
Svê-tai-ép vào đến xưởng, lấy làm lạ: Toàn thể chi đoàn thanh niên cộng sản và
chừng ba mươi anh chị em ngoài tổ chức đang lau cửa sổ, chùi máy móc, cọ ghét
bụi đã cáu lại từ bao năm nay, dọn sắt vụn và các thứ rác bẩn linh tinh đổ ra
sân. Pa- ven thì cầm một chiếc chổi gộc, hì hục kỳ cọ nền xi- măng bê bết dầu
mỡ.
Svê-tai-ép
sửng sốt hỏi Pa-ven:
- Lau
chùi dọn dẹp để làm gì thế này?
Pa-ven
trả lời vắn tắt:
- Bọn
tôi không muốn làm việc trong ghét bụi cáu bẩn nữa. Ở đây đã hai mươi năm nay,
chẳng lau chùi, dọn dẹp gì cả. Trong tám ngày, chúng tôi sẽ quét dọn sạch, làm
cho xưởng ta mới lại.
Svê-tai-ép
nhún vai bỏ đi.
Đám anh
em thợ điện không những chỉ dọn xưởng mình làm mà còn động đến cả sân lớn nhà
máy từ lâu đã trở thành chỗ đổ rác. Ở đây chẳng còn thiếu một thứ gì. Hằng trăm
bộ trục các toa xe lửa, hàng núi sắt gỉ, nào đệm nối toa, nào đường ray, nào ổ
bánh... Hàng ngàn tấn sắt bỏ hủy, bỏ hoại ngoài trời. Nhưng đang tấn công vào
đống rác lớn thì hành chính ngăn lại:
- Còn
nhiều việc quan trọng hơn. Cái sân không dọn cũng chẳng chết ai, không vội gì.
Thấy
hành chính nói vậy, anh em thợ điện đành chỉ lấy gạch lát bậc thang đi lên
xưởng mình, rồi đặt lưới sắt để cọ giày thôi, không dọn ngoài sân nữa. Nhưng
bên trong xưởng, mỗi tối, sau giờ làm, vẫn tiếp tục lau chùi. Được một tuần lễ,
kỹ sư chính Stơ- ri có việc bước chân vào xưởng thấy xưởng tràn ngập ánh sáng.
Những cửa sổ lớn có khung sắt, trước kia bị bụi lẫn với dầu ma-dút bám từ đời
kiếp nào, giờ đã sạch trơn, làm thông được ánh mặt trời rọi vào buồng để máy,
nắng ánh lên những bộ phận đồng bóng loáng của những máy nổ Đi-ê-den. Nhũng bộ
máy thì sơn lại màu xanh; Trên nan hoa các bánh xe, một bàn tay nắn nót lại còn
vẽ cả những mũi tên màu vàng.
Kỹ sư
Stơ-ri sửng sốt:
- Hừ...
Ở góc
cuối buồng máy, có mấy người đã xong việc. Stơ-ri lại đấy. Gặp Pa-ven đang cầm
trong tay một hộp sắt tây đầy sơn, kỹ sư Stơ-ri gọi lại:
- Đồng
chí dừng lại tôi hỏi. Tôi tán thành sáng kiến của các đồng chí. Song các đồng
chí lấy đâu ra sơn này mà dùng thế? Nhà máy đang thiếu sơn. Tôi đã cấm không ai
được lấy sơn ra dùng nếu không có lệnh tôi. Để sơn những bộ phận đầu máy xe lửa
cần hơn dùng vào việc các đồng chí làm.
- Đồng
chí hỏi sơn này ở đâu? Chúng tôi bòn lấy ở những hộp sơn vứt đi ngoài đống rác.
Cạo vét hai hôm được mười ki-lô. Thưa đồng chí, tất cả những việc chúng tôi làm
đều đúng nguyên tắc.
Người kỹ
sư lại “hừ” một cái nữa, lần này có vẻ bối rối thật.
- Nếu
thế thì lẽ tất nhiên các đồng chí cứ sơn... Hừ... Quái thật. Tại sao bỗng dưng
lại có cái lối tự mình làm tội mình để cho xưởng sạch thế này? Các đồng chí lau
chùi quét dọn thế này ngoài giờ làm cả thì phải?
Pa-ven
thấy trong giọng nói người kỹ sư có vẻ ngạc nhiên một cách thật thà.
- Phải.
Đồng chí nghĩ thế nào?
- Được
Nhưng...
- Không
có tiếng “nhưng” nào đứng vững được, đồng chí Stơ-ri ạ. Ai bảo đồng chí là
người bôn-sê- vích thấy ghét bẩn chất đống mà để yên được? Rồi đồng chí xem,
chúng tôi sẽ mở rộng phong trào. Đồng chí chưa hết ngạc nhiên đâu.
Nói rồi,
Pa-ven đi thẳng ra cửa, né tránh người kỹ sư để sơn khỏi quệt vào ông ta.
*
Tối nào
cũng vậy, Pa-ven ra ngồi đọc sách ngoài thư viện công cộng đến tận khuya. Anh
chơi thân với ba người giữ sách và giở hết khoa tán ra, anh gạ được họ cho cái
quyền mơ mãi mới được là tha hồ lục chọn sách. Pa-ven mang chiếc ghế cao đến
bắc áp vào những ngăn tủ lớn đựng sách, rồi ngồi vắt vẻo trên đó hàng giờ, giở
hết quyển này đến quyển khác, tìm những sách anh cần hay anh thích. Phần lớn là
sách cũ. Chỉ có vẻn vẹn một số sách mới chứa trong chiếc tủ không lấy gì làm to
lắm. Trong tủ ấy xếp lẫn lộn những sách của thời nội chiến, bộ Tư bản luận của
Mác, cuốn Gót-sắt (Tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn tiến bộ Mỹ Giắc Lơn đơn)
và một số sách khác. Trong đám sách cũ, Pa-ven lục ra một cuốn tiểu thuyết nhan
đề là Spác-ta-quýt-xơ (Một lãnh tụ nô lệ chống lại chủ nô thời đế quốc La Mã
trước công lịch). Anh đọc ngốn cuốn sách đó trong hai đêm và đọc xong xếp nó
vào tủ, bên cạnh những sách của Mác-xim Gooc-ki. Những sách anh thích, anh
thường xếp lại với nhau như vậy.
Những
người giữ sách thấy anh xếp lại như thế cũng mặc. Đối với họ, sách xếp thế nào
chẳng được.
*
Tình
hình của chi đoàn thanh niên cộng sản đang yên ắng đột nhiên náo động lên bởi
một việc rắc rối, mới đầu cũng thường thôi. Cốt-sca Phi-đin là ủy viên thường
vụ chi đoàn các xưởng trung tu, một anh chàng mũi tẹt, mặt sần sùi, dáng dấp
chậm chạp; Trong khi khoan một tấm sắt, anh ta đánh gãy một mũi khoan Mỹ, đắt
tiền lắm. Nguyên nhân vì anh ta làm ẩu một cách quá quẩn. Tệ hơn thế nữa: Anh
ta gần như là cố ý làm ra như thế. Chuyện xảy ra vào buổi sáng. Đốc công
Khô-đô-rốp bảo anh ta khoan tấm sắt. Lúc đầu anh ta từ chối. Nhưng vì
Khô-đô-rốp nhất định bắt làm, nên anh ta phải cầm lấy tấm sắt đưa vào bàn máy
và bắt đầu khoan. Khô-đô-rốp vốn khó tính, lại hay chấp nhặt, cả xưởng chẳng ai
ưa. Ông ta trước kia là men-sê-vích, nay chẳng tham gia sinh hoạt tập thể gì
cả, nhìn thanh niên cộng sản thì nhìn lệch lạc nhưng được cái thạo nghề ra trò
và đối với công việc thì tận tuỵ. Thấy Cốt-sca khoan “khô”, nghĩa là không cho
dầu vào mũi khoan, Khô-đô-rốp đùng đùng chạy lại chỗ máy khoan, giữ tay Cốt-sca
lại.
- Anh mù
à? Hay anh mới trên trời rơi xuống? - Khô-đô-tốp hét váng lên, biết rõ là dùng
như thế thì chỉ nháy mắt là mũi khoan đi đời mất thôi.
Nhưng
Cốt-sca cự lại tay đốc công và cứ cho máy chạy. Khô-đô-rốp đi mách xưởng
trưởng. Cốt-sca hãm máy, chạy đi lấy vịt dầu lại, để khi xưởng trưởng đến thì
đã cho dầu đâu vào đấy rồi. Khi hắn trở về đến máy thì mũi khoan gãy tan tành.
Xưởng trưởng viết giấy đề nghị đuổi Cốt-sca. Thường vụ chi đoàn bênh anh ta,
lấy cớ là Khô-đô-rốp hay trù thanh niên. Chính quyền không chịu và việc ấy lại
đem ra bàn trong ban thường vụ thanh niên toàn xưởng. Câu chuyện bắt đầu như
vậy.
Năm ủy
viên thường vụ thì ba chủ trương cảnh cáo Cốt-sca và đuổi anh đi công tác khác.
Svê-tai-ép cũng trong số ấy. Hai người nữa giữ ý kiến là Cốt- sca không có lỗi
gì hết.
Thường
vụ họp trong buồng giấy Svê-tai-ép. Ở đây có một chiếc bàn lớn phủ vải đỏ,
nhiều chiếc ghế dài và ghế đẩu do anh em thanh niên ban mộc đóng; Trên tường có
ảnh các vị lãnh tụ; Sau bàn họp, lá cờ Đoàn thanh niên cộng sản phủ khắp chiều
ngang bức tường. Svê tai-ép, vốn nghề thợ rèn, thoát ly sản xuất làm cán bộ
Đoàn. Nhờ có năng lực nên chỉ trong vòng bốn tháng vừa qua đã được đề bạt vào
công tác lãnh đạo thanh niên. Hắn có chân trong thường vụ thanh niên quận và cả
cấp ủy thanh niên tỉnh. Hắn trước làm thợ rèn ở nhà máy cơ khí, mới về đường
sắt ít lâu nay. Ngay từ buổi đầu, hắn đã nắm chặt mọi quyền hành trong tay
mình. Tự phụ và đã định là làm bằng được hắn đi ngay tới chỗ bóp chết sáng kiến
của thanh niên, muốn thò tay vào mọi việc và vì hắn không thể làm lấy tất cả
một mình, hắn đâm cáu với những người giúp việc, cho họ là ỳ ra không biết làm
gì hết. Cả đến trong phòng làm việc của hắn, hắn cũng tự đứng trông coi, bắt
anh em sắp đặt theo ý kiến riêng của mình.
Svê-tai-ép
chủ tọa buổi họp, ngả người trong chiếc ghế bành bọc da độc nhất mượn của góc
đỏ (câu lạc bộ nhà máy) đem kê ở đây. Buổi họp này là một buổi họp kín. Khi
đồng chí Khô-mu-tốp, bí thư chi bộ Đảng, đề nghị nói thì có tiếng người gõ vào
cánh cửa đã cài then. Svê-tai- ép lấy làm phật ý, nhăn mặt lại. Vẫn tiếng gõ
cửa. Nữ đồng chí Ca-chi-u-sa Dê-lê-nô-va đứng dậy mở cửa. Người gõ cửa là
Pa-ven. Ca-chi-u-sa để anh vào.
Pa-ven đã
đến một chiếc ghế đầu không có người ngồi. Svê-tai-ép gọi giật anh lại:
- Đồng
chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin, đây là một buổi họp riêng của thường vụ chúng tôi.
Má đỏ
bừng, Pa-ven từ từ quay lại phía bàn:
- Tôi
biết thường vụ họp kín. Song, quan tâm đến việc các đồng chí giải quyết vụ
Cốt-sca như thế nào, tôi muốn nhân vụ này đề ra một vấn đề mới. Có phải đồng
chí phản đối không muốn cho tôi dự họp không?
- Tôi
không phản đối, nhưng chắc đồng chí hiểu rằng những buổi họp kín thế này, chỉ
có các ủy viên thường vụ được họp thôi. Nhiều người quá, khó thảo luận. Thôi,
đồng chí đã đến thì đồng chí cứ ngồi.
Lần đầu
tiên Pa-ven bị nói như tát đốp vào mặt như thế. Mày anh nhíu lại, trán nhăn
sâu.
Đồng chí
Khô-mu-tốp càu nhàu, giọng nói có vẻ không bằng lòng Svê-tai-ép:
- Giở
nguyên tắc ra với nhau làm quái gì mới được?
Nhưng
Pa-ven giơ tay ra hiệu cho đồng chí Khô- mu-tốp đừng nói nữa và ngồi xuống ghế.
Đồng chí
Khô-mu-tốp bắt đầu vào vấn đề:
- Đây là
ý kiến tôi. Về phần Khô-đô-rốp, anh ta không hòa với anh em, có thế. Song,
trong đoàn viên của ta, kỷ luật rất tồi. Nếu tất cả thanh niên cộng sản nhà ta
đánh gãy hết mũi khoan thì ta lấy gì mà làm. Với lại làm như thế thì chẳng phải
là gương tốt cho người ngoài Đảng! Tôi nghĩ rằng phải cảnh cáo Cốt-sca lần thứ
nhất.
Svê
tai-ép không để đồng chí bí thư chi bộ Đảng nói hết lời, phản đối ngay. Nghe
Svê-tai-ép nói suốt mười phút đồng hồ, Pa-ven hiểu thái độ của thường vụ. Đến
khi sắp sửa biểu quyết thì anh xin phát biểu.
Svê-tai-ép
cố kìm mình lại, để cho anh nói.
- Thưa
các đồng chí, tôi xin trình bày ý kiến của tôi về Cốt-sca. - Giọng nói Pa-ven
tuy anh không muốn gay gắt mà vẫn cứ gay gắt. - Vụ Cốt-sca này là một dấu hiệu
đáng lo ngại. Nhưng vấn đề chủ yếu không phải chỉ có việc Cốt-sca. Hôm qua tôi
lấy được mấy con số. - Pa-ven móc túi lấy sổ tay ra. - Những con số này, bộ
phận điểm giờ cho tôi biết. Xin các đồng chí chú ý nghe cho: Ngày nào cũng thế,
hai mươi ba phần trăm thanh niên cộng sản vào làm việc chậm từ năm đến mười lăm
phút. Đi làm chậm đã thành một cái lệ. Mười bảy phần trăm đoàn viên thanh niên
nghỉ việc dứt khoát một hay hai ngày mỗi tháng, trong khi đó thanh niên ngoài
Đoàn chuồn việc như thế có mười bốn phần trăm. Những con số quất vào đầu óc ta
mạnh hơn cả rồi. Nhân tiện đây, tôi ghi được mấy số liệu nữa: Trong các đảng
viên, mỗi tháng có bốn phần trăm trốn việc một ngày và bốn phần trăm đi chậm.
Thợ lớn tuổi ngoài Đảng mỗi tháng mười một phần trăm trốn việc một ngày và mười
ba phần trăm đi chậm. Về làm hỏng máy móc dụng cụ thì chín mươi phần trăm do
thợ trẻ, trong số đó chỉ có bảy phần trăm do thợ mới. Do đó, có thể kết luận là
thanh niên chúng ta làm ăn rất là tồi so với đảng viên và thợ lớn tuổi. Nhưng
tình hình không phải ban nào cũng như vậy. Tổ rèn rất tốt, đáng làm gương cho
toàn nhà máy noi theo. Tổ điện cũng tạm được. Còn các tổ khác thì tình hình đại
khái như trên tôi đã nói. Theo ý tôi, đồng chí Khô-mu-tốp nói rằng thanh niên
kỷ luật rất tồi mới chỉ nói có một phần tư sự thật. Nhiệm vụ của chúng ta là
phải uốn nắn những sự chuệch choạc ấy. Tôi nói ở đây không phải là tuyên truyền
hay diễn thuyết mít-tinh, song thật là chúng ta phải đem hết nghị lực đấu tranh
với cái tính làm ẩu và mặc sao hay vậy. Các bác thợ già thường bảo thẳng vào
mặt chúng ta: Xưa kia làm cho chủ còn tốt hơn thế, làm cho thằng tư bản có
lương tâm nhà nghề hơn thế. Bây giờ ta làm chủ, ta không có lý do gì để tha thứ
cho ta cả. Và kẻ có lỗi, không phải chỉ là Cốt- sca hay ai, mà trước hết là các
đồng chí và tôi, bởi vì chúng ta đã chẳng đấu tranh cho ra trò để chống cái tệ
đó mà đôi khi lại còn viện cớ này cớ khác bênh những tên như Cốt-sca nữa.
Vừa rồi,
các đồng chí Xa-mô-khin và Bu-ti-li-ắc có nói rằng Cốt-sca Phi-đin là một người
của ta. Nào anh ta là “trung kiên” như ta vẫn nói, nào là anh ta tích cực, tổ
chức trao cho việc gì cũng làm tròn. Còn việc anh ta đánh gãy mũi khoan thì
chẳng qua là chuyện không may. Ai mà chẳng có lúc đánh gãy thế! Hơn nữa anh ta
lại là người mình, còn lão đốc công kia thì là người ngoài... Cái lối nói như
vậy đấy. Thử hỏi, cho đến nay, nào có ai là người đi sát Khô-đô- rốp?... Ông
già tủn mủn ấy có ba mươi năm làm nghề! Hãy để tạm ra một bên, khoan nói đến
thái độ chính trị của ông ta. Trong trường hợp này, ông ta phải, ông ta là
người ngoài, nhưng ông ta đã gìn giữ của công. Còn chúng ta thì phá hoại dụng
cụ mua của nước ngoài. Cái tội ấy là tội gì? Tôi thấy rằng phải trị ngay cú đầu
tiên mới được, phải mở cuộc tấn công vào mặt ấy.
Tôi đề
nghị như sau: Cốt-sca Phi-đin là kẻ lười nhác, làm ẩu, phá hoại sản xuất, phải
khai trừ khỏi Đoàn. Đưa toàn bộ việc này lên báo tường và không sợ người ta bàn
tán xôn xao, cứ công bố những con số tôi nói ở trên lên xã luận của báo tường.
Chúng ta đủ mạnh để làm như thế, chúng ta có chỗ dựa để làm như thể. Đại đa số
đoàn viên thanh niên là những người lao động tốt. Trong số đó, sáu người đoàn
viên đã từng trải qua công tác ở Bai-a-rơ-ca, và đấy là trường đào luyện đáng
tin cậy nhất. Có họ ủng hộ, có họ tham gia, chúng ta sẽ uốn thẳng được những
cái chuệch choạc. Nhưng chúng ta phải bỏ hẳn cái lối nhìn, lối giải quyết việc
hiện giờ của chúng ta đi.
Pa-ven
thường trầm tĩnh và ít lời, lần này nói rất hăng và gay gắt. Lần đầu tiên,
Svê-tai-ép nhìn ra đúng cái chất của người thợ điện ấy. Hắn hiểu là Pa- ven nói
có lý, song chính lòng đố kỵ đã khiến hắn không đồng ý với Pa-ven. Hắn hiểu
trệch lời tham luận của Pa-ven là phê bình đả kích toàn bộ tình hình tổ chức,
là một sự xúc phạm đến uy tín cá nhân của bản thân hắn. Và hắn rắp tâm đánh gãy
gục Pa- ven. Hắn bắt đầu chỉ trích lại bằng cách buộc Pa-ven là biện bạch cho
tên men-sê-vích Khô-đô-rốp.
Tranh
luận sôi nổi ròng rã ba tiếng đồng hồ. Đến khuya, hội nghị tổng kết các ý kiến.
Svê-tai-ép bị cái lý cứng của những sự việc đánh bại và đa số không ủng hộ hắn
nữa mà ngả về Pa-ven. Hắn đi tới một bước sai - vi phạm dân chủ nội bộ: Trước
khi biểu quyết lần cuối, hắn yêu cầu Pa-ven ra khỏi phòng họp.
- Được,
tôi xin ra, tuy rằng đồng chí đuổi tôi ra thì đồng chí chẳng vẻ vang gì. Nhưng
tôi xin nói trước cho đồng chí biết: Nếu ở đây đồng chí bức được người ta theo
ý kiến đồng chí thì mai họp toàn thể nhà máy, tôi sẽ xin phát biểu trong cuộc
họp toàn thể đó, đồng chí sẽ không có đa số đâu, tôi tin như thế. Đồng chí sai
rồi, đồng chí Svê-tai-ép ạ. Còn đồng chí Khô-mu- tốp tôi nghĩ đồng chí cần phải
nêu vấn đề này lên trong tổ chức Đảng, trước phiên họp toàn thể nhà máy ngày
mai.
Svê-tai-ép
thét lên, giọng như thách thức:
- Anh
tưởng dọa được tôi à? Không cần đến thứ anh dạy tôi con đường đấu tranh trong
tổ chức đó. Trước tổ chức, tôi sẽ đem chính vấn đề anh ra để tổ chức xét. Anh
đã không muốn mó tay vào làm gì thì đừng cản trở người khác làm.
Cửa
phòng đóng lại, Pa-ven đưa tay lên trán nóng bỏng và đi qua một buồng giấy bỏ
không ra phía cửa. Ra đến ngoài, anh thở căng lồng ngực. Rồi châm một điếu
thuốc hút, đi về phía túp nhà nhỏ trên đồi Ba- ti-ép chỗ ở của cụ Tô-ca-rếp.
Pa-ven
bước vào nhà Tô-ca-rếp thì người thợ lắp máy ấy đang ăn tối.
- Có
chuyện gì thế? Kể đi, chú. - Lão đồng chí Tô- ca-rếp kéo Pa-ven ngồi vào bàn,
nói với vợ - Bà Đa- ri-a nó ơi, bà mày dọn cả cho chú ấy ăn với.
Vợ đồng
chí, bà Đa-ri-a Phô-mi-nít-sơ-na, to lớn và béo khỏe trái hẳn chồng, bưng đến
cho Pa-ven một đĩa xúp kê, và lấy khăn ăn trắng chùi môi ướt, bà ân cần mời
Pa-ven:
- Ăn đi,
chú.
Trước
kia, khi đồng chí Tô-ca-rếp còn làm ở xưởng, Pa-ven hay đến chơi khuya với đồng
chí, song từ ngày ốm khỏi ra tỉnh đến nay, lần này là lần đầu tiên anh đến tìm
đồng chí già.
Người
thợ lắp máy chăm chú nghe anh. Không nói gì thêm, ông cụ đưa thìa xúc mạnh vào
đĩa, miệng “hèm, hèm” ra vẻ nghe thủng câu chuyện.
Ăn xong
đĩa xúp, ông cụ lấy khăn tay lau bộ ria, rồi húng hắng ho rặn ra cho giọng nói
đỡ khàn.
- Lẽ tất
nhiên chú nói có lý. Đáng lẽ chúng ta phải thật sự đề thẳng vấn đề ấy ra từ
sớm. Các xưởng của nhà máy xe lửa là cơ sở chủ chốt trong quận này. Phải bắt
đầu từ đấy. Nhưng do việc này, chú va chạm mạnh với Svê-tai-ép phải không? Như
thế thì không tốt. Tính cậu ta khó bảo lắm. Song công tác thanh vận thì chú
biết làm cơ mà? Nhân tiện hỏi chú, giờ chú công tác gì trong tổ chức bên xưởng
máy.
- Cháu công
tác ở bộ phận chuyên môn của cháu. Nói chung thì hoạt động mỗi chỗ một tí.
Trong chi đoàn, cháu lãnh đạo một nhóm nghiên cứu chính trị.
- Thế
chú làm gì ở thường vụ Đoàn.
Pa-ven
bối rối.
- Cháu
mới về, người còn yếu, lại muốn để thời giờ học tập một chút, cháu không chính
thức tham gia lãnh đạo.
- Ấy, ấy
thế đấy! - Cụ Tô-ca-rếp cao giọng nói, không tán thành ý kiến Pa-ven. - Chú
hiểu rằng chú chỉ viện được cái cớ sức yếu nên tôi không chỉnh chú mà thôi.
Nhưng bây giờ sức khỏe khá hơn rồi chứ?
- Vâng.
- Nếu
thế thì phải nhận lấy công tác đi, mà nhận thật sự. Không nên giữ kẽ làm gì.
Chú xem có ở đâu đứng ở ngoài rìa mà làm được việc nên hồn? Ai cũng có thể bảo
chú là trốn tránh trách nhiệm và chú không nói lại thế nào được. Ngay từ mai
phải sửa chỗ sai đó đi. Còn cậu Ô-cu-nhếp, tôi phải khép cậu ta vào khuôn phép
mới được.
Cụ
Tô-ca-rếp kết luận như thế, giọng lộ ra vẻ phật ý.
- Xin bố
đừng phê bình Ô-cu-nhếp. Chính cháu nằn nì cậu ấy đừng giao công tác gì cho
cháu bây giờ.
Cụ
Tô-ca-rếp xì một tiếng chế nhạo:
- Chú
nằn nì và nó chịu chú? Các chú thanh niên cộng sản mà như thế? Thôi, lần này bỏ
qua cho các chú. Chú cầm báo đọc cho lão nghe như trước kia đi. Mắt lão kém lắm
rồi.
Thường
vụ Đảng ủy đồng ý với ý kiến của đa số trong thường vụ Đoàn. Một nhiệm vụ quan
trọng và khó khăn đề ra với tổ chức của Đảng và của Đoàn, đảng viên và đoàn
viên phải lấy việc làm của mình nêu gương chấp hành kỷ luật lao động. Trong
buổi họp của thường vụ. Svê-tai-ép bị phê bình kịch liệt. Mới đầu hắn nổi tự ái
cãi lại, song bị lời phát biểu của đồng chí bí thư Lô-pa-khin, một người đứng
tuổi, mặt tái vì lao, dồn vào chỗ bí, hắn đành phải nhượng bộ và nhận một phần
sai lầm của mình.
Ngày hôm
sau, báo tường các nhà máy đăng những bài làm cho công nhân hết sức chú ý.
Người ta đọc to các bài báo đó lên và thảo luận sôi nổi. Buổi tối, họp Đoàn,
đông khác hẳn mọi khi, người ta chỉ nói toàn về những bài báo đó thôi.
Cốt-sca
bị khai trừ, và Pa-ven được cử vào thường vụ Đoàn, phụ trách công tác chính
trị.
Mọi
người nghe Nhê-giơ-đa-nốp nói, yên lặng và chăm chú một cách khác thường. Diễn
giả nói về những nhiệm vụ mới, về giai đoạn phấn đấu mới mà các xưởng nhà máy
xe lửa phải vượt qua.
Họp
xong, Pa-ven ra ngoài đứng đợi Svê-tai-ép.
Anh đón
gặp người bí thư Đoàn:
- Chúng
ta cùng đi về đi, hai chúng mình có chuyện phải nói với nhau.
Svê-tai-ép
hỏi lại, giọng khản đi.
- Chuyện
gì mới được?
Pa-ven
khoác tay Svê-tai-ép, đi vài bước, rồi dừng lại trước một tấm ghế dài.
- Chúng
mình ngồi đây một chốc.
Và anh
ngồi xuống trước.
Lửa ở
đầu điếu thuốc trong tay Svê-tai-ép khi sáng đỏ khi tắt dụi.
-
Svê-tai-ép này, tại sao cậu cứ mâu thuẫn với mình?
Mấy phút
im lặng.
- Chuyện
có thế thôi ư? Thế mà mình cứ tưởng cậu có chuyện công tác muốn nói với mình.
Giọng
Svê-tai-ép không bình thường. Hắn làm bộ ngạc nhiên.
Pa-ven
quả quyết đặt tay lên đầu gối Svê-tai-ép, gọi hắn bằng tên thân:
-
Đim-ca, cậu đừng đánh trống lảng. Cái lối ấy chỉ tốt với những nhà ngoại giao
thôi. Cậu bảo thẳng cho tớ biết: Vì sao cậu không ưa tớ?
Svê
tai-ép cử động có vẻ bực tức:
- Cậu có
gì mà lôi thôi với tớ thế? Mâu thuẫn gì? Chính tớ đã đề nghị cậu tham gia lãnh
đạo. Cậu từ chối và bây giờ lại làm như là tớ cho cậu ra rìa.
Giọng
nói của hắn không thật. Pa-ven, tay không rời đầu gối bạn, run run nói:
- Cậu
không muốn nói thật thì tớ nói toạc ra vậy. Cậu tưởng mình muốn ngáng đường
cậu. Cậu tưởng mình mơ ước cái chức bí thư của cậu. Nếu không phải thế thì
chẳng đến nỗi nào có chuyện to tiếng vì cái vụ Cốt-sca. Cách đối xử với nhau
như vậy hại đến mọi công việc. Nếu chỉ là hai thằng khó chịu với nhau thì chẳng
quan hệ gì lắm. Cậu muốn nghĩ thế nào thì nghĩ. Nhưng từ mai, hai chúng mình sẽ
làm việc với nhau rồi. Nếu cứ hục hặc như thế thì công việc sẽ ra sao? Cậu hãy
nghe tớ nói, không có gì chia rẽ chúng ta hết. Cậu cũng như tớ là con nhà công
nhân. Nếu cậu cho sự nghiệp chung là quý báu hơn cả thì cậu bắt tay tớ và ngày
mai chúng mình sẽ bắt đầu thân thiết làm việc với nhau. Song nếu cậu không bỏ
những tính khí ấy đi, nếu cậu cứ luẩn quẩn với những chuyện đôi co bần tiện,
thì mỗi va chạm xảy ra trong công tác chỉ tổ làm cho hai chúng mình chống nhau
kịch liệt. Tay tớ đây, nếu cậu cho tay tớ còn là tay đồng chí thì cậu bắt tay
tớ.
Lòng vui
sướng, Pa-ven cảm thấy những ngón tay gân guốc của Svê-tai-ép nằm trong lòng
bàn tay của mình.
Một tuần
qua. Ở trụ sở Đảng ủy quận, đã hết giờ làm việc. Trong phòng của các ban đã im
lặng, không một tiếng động. Nhưng đồng chí Tô-ca-rếp vẫn chưa rời cơ quan. Ngồi
trong ghế bành đồng chí mải miết đọc tài liệu mới gửi đến. Có tiếng gõ cửa.
- Cứ vào
Pa-ven
vào đặt trước mặt đồng chí bí thư hai bản khai đã ghi đầy đủ.
- Cái gì
thế chú?
- Bố ơi,
cháu nộp giấy tờ này để xin nhận trách nhiệm với Đảng. Cháu nghĩ là đã đến lúc.
Nếu bố đồng ý, đề nghị bố đảm bảo cho đơn xin gia nhập Đảng của cháu.
Cụ
Tô-ca-rếp đọc qua, rồi nhìn người thanh niên trong mấy giây và không nói gì,
cầm lấy bút. Trên cột ghi tuổi đảng của những đảng viên giới thiệu đồng chí
Ca-rơ-sa-ghin Pa-ven An-đơ-rê-ê-vích được làm đảng viên dự bị Đảng cộng sản
(bôn-sê-vích) Nga, đồng chí Tô-ca-rếp đưa tay vũng chắc viết lên: “Vào Đảng từ
1903” và bên cạnh hạ một chữ ký chân phương.
- Ký rồi
đây, chú mày. Tôi biết chú không bao giờ làm nhơ mái tóc bạc của lão.
Trong
phòng, không khí ngột ngạt. Ai cũng chỉ có một ý nghĩ: Làm sao mau đến phía
đằng ấy, đến những con đường hai bên trồng cây hạt dẻ ở khu phố Xô- lô-men-ca,
gần nhà ga.
Svê
tai-ép mồ hôi nhễ nhại, nói như van nài:
- Đề
nghị cho nghỉ thôi, Páp-ca ạ. Mình nóng quá không chịu được nữa.
Ca-chi-u-sa
và sau chị, nhiều người khác cũng đều đồng thanh tán thành ý kiến Svê-tai-ép.
Pa-ven
gấp sách lại. Buổi học của nhóm nghiên cứu hôm đó đến đây là xong.
Toàn
nhóm đứng dậy nói cười huyên náo. Giữa lúc ấy chuông dây nói reo lên hối hả.
Svê-tai-ép cầm ống nghe và trả lời, cố nói to át mọi giọng ồn ào trong phòng.
Nói
xong, buông máy, Svê-tai-ép quay về phía Pa-ven:
- Pa-ven
ơi, ngoài ga có hai toa ngoại giao của lãnh sự quán Ba Lan đang đỗ. Họ bị hỏng
điện mà một giờ nữa tàu chạy. Phải chữa dây điện. Cậu cầm hòm đồ đi ngay đi.
Việc cần lắm.
Hai toa
xe lộng lẫy của công ty toa xe giường ngủ quốc tế đậu ở ke thứ nhất ngoài ga.
Toa phòng khách thì đèn sáng trưng, còn toa bên cạnh thì tối om. Pa-ven lại gần
toa xe, nắm lấy thành sắt của bậc toa, định trèo lên.
Từ tường
nhà ga, một người đàn ông chạy vội đến, nắm lấy vai anh.
- Anh
này đi đâu?
Giọng
nói quen quen, Pa-ven quay lại. Người ấy mặc áo khoác da, đội mũ cát-két vành
rộng, mũi lõ mỏng dính, mắt nhìn trừng trừng ra ý dò xét.
Đến lúc
ấy, Ác-chu-khin mới nhận ra Pa-ven. Anh buông vai người trẻ tuổi, nét mặt tươi
dần, song cặp mắt lại nhìn hòm đồ như dò hỏi:
- Cậu đi
đâu thế?
Pa-ven
trả lời vắn tắt. Một bóng người nữa từ sau toa hiện ra:
- Để tớ
đi gọi người liên lạc của họ.
Pa-ven
theo chân người liên lạc bước vào. Trong toa phòng khách, có mấy người ngồi, ăn
mặc cầu kỳ, quần áo du lịch sang trọng. Ở bàn khách phủ khăn thêu hoa hồng, một
người đàn bà ngồi quay lưng ra cửa. Lúc Pa-ven bước vào, người đàn bà ấy đang
nói chuyện với một viên sĩ quan cao lớn đứng trước mặt. Người thợ điện vừa bước
vào thì họ im ngay không nói chuyện nữa.
Pa-ven
xem xét rất nhanh những dây điện từ bóng đèn cuối cùng của toa này đi sang toa
sau. Thấy không việc gì, Pa-ven ra khỏi phòng khách, cố tìm ra chỗ hỏng. Người
liên lạc bụng phệ, cổ như cổ trâu, mặc đồng phục có đốm khuy đồng mang hình
diều hâu một đầu. Hắn ta theo sát anh không rời một bước.
- Ta
sang toa bên, ở đây không có gì hỏng, pin đèn vẫn chạy. Chắc là hỏng ở bên kia.
Người
liên lạc khóa trái cửa lại, rồi đi vào lối đi tối mò của toa sau. Pa-ven bấm
đèn soi những đường dây; Anh tìm ra ngay chỗ chập dây. Chỉ mấy phút, bóng đèn
đầu tiên bật lên trong lối đi, tỏa ánh sáng đục mờ. Pa-ven bảo người liên lạc
đi theo anh:
- Phải
mở buồng này ra để thay bóng. Bóng trong buồng cháy hết rồi.
- Thế
thì phải gọi bà ấy sang. Bà ta giữ chìa khóa.
Người
bảo vệ không dám để Pa-ven đứng đấy một mình, kéo anh đi theo. Người đàn bà
bước vào trong buồng trước. Pa-ven đi theo ngay sau. Người liên lạc đứng ở
ngưỡng cửa, thân hình phì nộn chật cả lối ra vào. Pa-ven nhìn qua gian phòng:
Hai hòm da xinh treo trên lưới, một áo khoác lụa quàng trên giường, một lọ nước
hoa và một hộp phấn bé xíu bằng ngọc thạch để trên bàn con gần cửa sổ. Người
đàn bà ngồi vào góc giường, rồi vừa quấn lại mớ tóc màu gai, vừa trông người
thợ làm.
Tên liên
lạc cúi cổ trâu xuống, trịnh trọng thưa:
- Xin
phép bà cho con đi một phút. Quan “pan” thiếu tá gọi con lấy rượu bia ướp lạnh
để ngài xơi.
(Pan:
Tiếng Ba Lan nghĩa là “ông, ngài” )
Người
đàn bà trả lời, giọng uốn éo, đỏng đảnh:
- Cho
người đi.
Vệt sáng
của ngọn đèn ngoài hành lang rọi vào, đổ ngang vai người đàn bà. Tấm áo dài
bằng lụa nõn Ly-ông, do nhà hàng thợ may giỏi nhất Pa-ri cắt, để lộ hai cánh
tay và đôi vai. Một viên kim cương óng ánh như một giọt nước chấm sáng ở vành
tai nhỏ nhắn. Pa-ven chỉ nhìn thấy cánh tay và vai người đàn bà, nõn nà như tạc
bằng ngà voi. Mặt người ấy lẩn trong tối. Pa-ven lấy tuốc-nơ-vít xoay xoay mấy
cái thay bóng đèn trần và chỉ một phút sau, cả gian phòng lại sáng. Chỉ còn phải
xem lại cái bóng đèn thứ hai mắc ở mé trên chiếc giường người đàn bà đang ngồi.
Pa-ven dừng lại trước mặt người đàn bà ấy.
Hai
người nói với nhau bằng tiếng Ba Lan.
- Tôi
cần thử cái bóng này.
- À
phải, tôi cản trở việc anh làm.
Người
đàn bà trả lời bằng tiếng Nga rất đúng giọng, rồi nhẹ nhàng ngồi dậy và đứng
gần Pa-ven. Giờ thì anh nhìn rõ cả người. Đôi mày gãy góc, đôi môi mím chặt
kiêu kỳ. Không còn nghi ngờ gì nữa: Nó là con Nen-ly Lê-sinh-ski. Đứa con gái
lão thầy kiện cũng vừa nhận ra cái nhìn sửng sốt của Pa-ven. Nhưng nếu Pa-ven
nhận ra nó, thì nó lại không nhận ra được người thợ điện này là thằng bé láng
giềng ngỗ ngược, mới có bốn năm qua mà đã lớn hẳn lên.
Để trả
lời vẻ ngạc nhiên của Pa-ven, nó cau mày khinh khỉnh đi ra cửa phòng; Đứng ở
đấy nó gõ mũi giày nhỏ tí bóng nhoáng vào tường gỗ, tỏ ý sốt ruột. Pa-ven tháo
bóng thứ hai, soi lên ánh sáng xem và chính anh không ngờ tới, cả con Nen-ly
Lê-sinh-ski lại càng không ngờ tới nữa, anh buột mồm hỏi nó bằng tiếng Ba Lan:
-
Vích-to cũng có ở đây chứ?
Pa-ven
hỏi thế, song không quay mặt lại. Anh không trông thấy mặt con Nen-ly, nhưng
thấy lâu nó không đáp, đủ hiểu nó nghe hỏi thì ngơ ngác đến thế nào.
- Thế
anh biết Vích-to à?
- Sao
lại không biết! Ta trước ở cạnh nhà nhau mà. - Pa-ven quay lại nhìn nó.
- Anh là
Pa-ven, con mụ.. - Nen-ly nói nửa chừng.
Pa-ven
nhắc tiếp:
- Con mụ
nấu bếp đấy.
- Ô anh
lớn nhanh thật. Tôi nhớ ra anh trước kia là một thằng bé con rất gấu.
Nen-ly
nhìn anh từ đầu đến chân một cách sống sượng:
- Anh
hỏi Vích-to làm gì? Nếu tôi không nhớ lầm thì anh với Vích-to có ưa nhau đâu.
Nen-ly
nói giọng lanh lảnh như chim, những mong cuộc gặp gỡ bất ngờ này làm nó đỡ sốt
ruột chờ tàu. Đồ nghề của người thợ điện bắt rất nhanh vào tường gỗ một chiếc
đinh ốc mới.
- Vích-to
còn nợ tôi. Nếu cô gặp hắn thì cô bảo hắn là tôi vẫn đợi có dịp hắn trả nợ đấy.
- Anh
cho biết Vích-to nợ anh bao nhiêu để tôi trả hộ.
Nó rất
hiểu cái “nợ” Pa-ven đòi là cái nợ gì. Nó biết chuyện xảy ra với tên lính nguy
Pết-lu-ra ngày trước, nhưng nó thích trêu “thằng nhãi này” nên giở giọng chọc
tức chơi.
Pa-ven
im không nói. Nen-ly buồn rầu hỏi thăm:
- Anh
này, có phải biệt thự nhà tôi đã bị cướp phá tan tành và giờ đổ nát rồi, phải
không anh? Giàn cây và những bồn hoa cũng bị phá trụi sạch rồi phải không?
- Nhà ấy
nay thuộc về chúng tôi rồi, không phải của các người nữa. Việc gì chúng tôi lại
phá.
Nen-ly
cười mỉa:
- Ô ô!
Tôi xem ra cả anh nữa cũng bị người ta lên lớp cho rồi. Nhưng toa này là toa
của phái đoàn Ba Lan. Trong toa này, tôi là chủ và anh vẫn là thằng hầu của tôi
như ngày trước. Giờ anh đang chữa điện cho tôi có đèn dùng, để tôi nằm đọc sách
thoải mái trên chiếc giường này. Trước kia thì mẹ anh giặt quần áo cho nhà tôi,
còn anh thì xách nước. Bây giờ ta lại gặp nhau nhưng phận người nào vẫn phận
người ấy, không có gì khác trước.
Nó nói
với vẻ đắc thắng, lấy làm thú vị một cách tinh ác. Pa-ven vừa lấy dao con cạo
đầu dây điện vừa nhìn con bé Ba Lan, chẳng giấu vẻ chế nhạo.
- Nếu
chỉ vì nhà chị thì chỉ một chiếc đinh gỉ tôi cũng chẳng thèm chịu đóng cho chị
nhờ. Nhưng vì bọn tư sản đã sinh ra cái giống ngoại giao thì chúng ta đây,
chúng ta cũng muốn tỏ ra cho chúng nó biết ta đã có chính quyền trong tay,
chúng ta không thèm lấy đầu các người, chúng ta lại còn tỏ ra lễ độ nữa. Chứ chẳng
có ăn nói xách mé như nhà chị.
Nen-ly
đỏ chín má.
- Giá
các anh chiếm được Vác-sa-va thì chẳng biết các anh sẽ định làm gì tôi? Bắt tôi
làm nàng hầu hay băm thịt tôi ra làm ba-tê?
Nó đứng
ưỡn ở cửa, điệu bộ đỏm dáng; Hai lỗ mũi rất dâm quen mùi thuốc phiện trắng,
phập phồng, mấp máy. Đèn bật sáng trên đầu giường, Pa ven đứng nhổm dậy:
- Ai
người ta thiết gì nhà chị? Ngữ ấy thì chết non sớm vì thuốc phiện trắng, chứ
chẳng phải đợi đến gươm đây chém cổ. Cái con người chị như thế, cho đây ngủ đây
cũng chẳng thèm.
Pa-ven
nhặt hòm đồ, đi hai bước ra cửa. Nen-ly nép về bên. Ra đến đầu lối đi, anh mới
nghe thấy. Tiếng nó chửi thầm:
- Thằng
bôn-sê-vích chết tiệt!
*
Tối hôm
sau, Pa-ven đang đi ra thư viện thì gặp Ca-chi-u-sa. Chị đưa bàn tay nhỏ xíu
nắm lấy áo Pa- ven, vừa cười vừa chặn đường.
- Chạy
đi đâu thế hở ông Chính trị và Huấn luyện?
Pa-ven
cũng đùa, đáp lại:
- Thưa
mẹ ranh, con ra thư viện. Xê ra cho người ta đi.
Anh khẽ
nắm lấy vai Ca-chi-u-sa, đẩy nhẹ cô xuống đường. Ca-chi-u-sa gỡ tay anh ra và
quay lại đi theo anh.
-
Pa-vơ-lu-sa này, người ta không thể lúc nào cũng học tập. Hôm nay, anh có biết
không, anh phải đến dự tối vui của chúng tôi. Bà con hôm nay tụ tập ở nhà Di-na
Gơ-la-đúc. Bọn con gái bảo tôi phải kéo anh đến. Nhưng anh thì anh chỉ biết độc
có cắm đầu vào chính trị thôi. Có thể nào anh chẳng nghĩ gì đến vui chơi, giải
trí cả. - Ca-chi-u-sa cố nài ép. - Thôi, hôm nay anh nghỉ đọc sách một tối thì
ngày mai đầu óc anh lại càng nhẹ nhõm!
- Tối
vui gì mới được? Ở đấy người ta làm gì nào?
Ca-chi-u-sa
nhại lại anh, giọng chế nhạo:
- Người
ta làm gì ấy à? Người ta không cầu kinh là được rồi. Đến đấy vui một lúc, thế
thôi. Anh chơi được đàn gió phải không? Tôi chưa được nghe anh chơi bao giờ.
Nào, anh chiều lòng tôi một chút. Chú con Di-na có cái đàn gió, nhưng ông ta
chơi tồi lắm. Bọn con gái chú ý đến anh lắm, mà anh cứ gầy khô đi trên đống
sách. Có luật nào cấm thanh niên cộng sản vui chơi giải trí đâu? Tôi còn khẩn
khoản mời thì anh đến đi. Nếu không tôi giấn đấy, giận rõ một tháng cho mà xem.
Người
con gái có đôi mắt to làm nghề thợ sơn ấy là một đồng chí tốt và một đoàn viên
khá. Pa-ven không muốn mếch lòng cô, tuy nghĩ đến tối vui ấy, anh thấy có một
cái gì không quen và ngớ ngẩn nữa.
Nhà
người thợ chữa đầu máy xe lửa Gơ-la-đúc tối nay đông người và rất ồn ào. Để cho
bọn trẻ tha hồ vui chơi, người lớn rút cả vào phòng trong. Ở buồng lớn phía
trước và ở hàng hiên trông ra vườn nhỏ, có chừng mười lăm thanh niên nam nữ
quây quần. Lúc Pa-ven tới thì ở đấy họ đang chơi trò gọi là “mớm cho chim bồ
câu ăn”. Giữa hiên ngoài, hai ghế dựa áp lưng vào nhau, cô chủ nhà làm trưởng
trò ra lệnh: Một anh con trai và một chị con gái ngồi vào ghế. Trưởng trò hô
lên: “Mớm chim bồ câu!” Thế là gã trai và ả gái đang ngồi áp lưng vào nhau,
quay ngay đầu lại hai miệng gặp nhau và hôn môi nhau giữa công chúng. Rồi người
ta gọi chơi trò “cái nhẫn”, trò “người đưa thư”, trò nào cũng có ôm nhau hôn.
Khi chơi đến trò “người đưa thư” thì vì ngoài hiên sáng, người ta đưa nhau vào
trong buồng tắt đèn hôn nhau để không ai trông thấy. Ai không thú những trò ấy
thì ở một góc, trên mặt bàn tròn, có cỗ bài để chơi trò “lơn hoa”. Cô bé ngồi
cạnh Pa-ven, mới mười sáu tuổi, tên gọi Mua-ra, đưa đôi mắt xanh liếc anh và
chìa ra cho anh một lá bài, thủ thỉ:
- Hoa
tím này.
Mấy năm
trước đây, Pa-ven cũng đã dự những buổi tối như thế này. Tuy bấy giờ anh chẳng
trực tiếp chơi mấy, anh còn cho cái cách chơi ấy hết sức tự nhiên. Song bây giờ
anh đã thoát ly hẳn cuộc đời tủn mủn tiểu tư sản của thị trấn nhỏ, buổi vui tối
nay đối với anh có một cái gì kỳ quái và hơi lố bịch nữa.
Dù sao,
tay anh cũng đã cầm lá bài “chim chuột” rồi. Trên lá bài, cạnh chữ “hoa tím”,
có dòng chữ “Em ưa anh lắm”.
Pa-ven
nhìn cô bé. Cô bé nhìn lại, chẳng bối rối chút nào.
- Thế
nào?
Câu hỏi
của Pa-ven hơi nặng nề. Mua-ra đã nghĩ sẵn câu trả lời.
Cô bé
chìa một lá bài nữa cho Pa-ven.
- Hoa
hồng nữa này.
Cạnh chữ
“hoa hồng”, có dòng chữ: “Anh là người trong mộng của em”. Pa-ven quay sang cô
bé, dịu giọng hỏi:
- Tại
sao em cứ nghịch trò vớ vẩn này?
Mua-ra
bối rối, xấu hổ.
- Em bộc
lộ tình cảm của em làm cho anh bực mình hay sao?
Rồi bĩu
môi đỏng đảnh.
Pa-ven
không trả lời. Nhưng lại muốn hiểu xem cô bé là con nhà ai. Anh hỏi lại mấy
câu, cô bé vui vẻ trả lời. Mấy phút sau, anh được biết cô bé đang học trường
bảy năm, cha là công nhân đường sắt, đã gặp Pa-ven từ lâu và muốn làm thân với
Pa-ven.
- Tên em
là gì?
- Mua-ra
Vô-lưn-xép.
- Có
phải anh trai em là bí thư chi đoàn sở đầu máy không?
- Vâng.
Giờ thì
Pa-ven hiểu cô bé là ai rồi. Rõ ràng là Vô- lưn-xép, một trong những đoàn viên
thanh niên tích cực nhất quận này, đã không chú ý đến giáo dục em gái mình, và
cô bé cứ là một cô ả tiểu tư sản tầm thường mãi. Từ một năm nay, cô bé năng lui
tới những tối vui tổ chức ở nhà bạn, đem đến đấy những chiếc hôn làm chóng mặt
được. Cô bé đã gặp Pa-ven nhiều lần đến chơi với anh mình.
Mua-ra
nhận ra người con trai ngồi bên không tán thành thái độ của mình; Khi người ta
gọi cô vào chơi “mớm cho chim bồ câu ăn”, cô thấy Pa-ven cau mày, liền từ chối
thẳng. Hai người ngồi với nhau mấy phút nữa, Mua-ra kể chuyện đời mình.
Ca-chi-u-sa đến tìm họ.
- Mình
mang đàn gió lại nhớ, Pa-ven chơi hộ vài bài!
Rồi nheo
mắt nhìn Mua-ra một cách láu lỉnh, Ca- chi-u-sa hỏi:
- Thế
nào, quen nhau rồi chứ?
Pa-ven
kéo Ca-chi-u-sa ngồi cạnh anh, và nhân lúc chung quanh đang cười đùa, la hét ầm
ĩ, anh bảo bạn:
- Mình
không chơi đâu. Mình đi dạo với Mua-ra một lúc.
- A, a,
có người cắn câu. - Ca-chi-u-sa hỏi, ra dáng hiểu cả rồi.
- Phải.
Cắn câu rồi đấy. Tôi hỏi Ca-chi-u-sa, ở đây ngoài hai chúng ta, có ai là đoàn
viên nữa không? Hay chỉ có hai chúng ta rơi vào một “ổ chim bồ câu” ?
Ca-chi-u-sa
làm lành, nói cho Pa-ven biết:
- Họ
thôi không làm trò điên nữa đâu. Sắp nhảy rồi.
Pa-ven
đứng dậy:
- Thế
thì tốt. Mời mụ cứ nhảy. Còn tôi với Mua- ra đi đây.
Một buổi
tối, An-na Bô-khác đến nhà Ô-cu-nhếp. Chỉ gặp có Pa-ven ở đấy.
- Anh
bận lắm phải không? Đi dự phiên họp toàn thể của Xô-viết đi nào. Để lúc về, đi
có bạn cho vui, chứ họp về khuya lắm.
Một lát,
Pa-ven mặc xong quần áo. Đầu giường anh treo khẩu Mô-de: Khẩu súng này nặng
quá. Anh mở ngăn kéo Ô-cu-nhếp, lấy khẩu Bơ-rao-ninh cho vào túi. Rồi viết lại
mẩu giấy cho Ô-cu-nhếp và giấu chìa khóa vào chỗ đã hẹn với nhau.
Ở rạp
hát, hai người gặp Pan-cơ-ra-tốp và Ôn-ga. Mấy người cùng ngồi gần nhau. Những
lúc phiên họp tạm nghỉ, họ đi dạo chơi với nhau ngoài sân. Như An-na đã đoán
trước, buổi họp kéo dài đến một giờ khuya. Ôn-ga đề nghị:
- Hay
các cậu về cả nhà mình ngủ. Khuya lắm rồi mà các cậu lại ở xa.
An-na từ
chối:
- Thôi,
mình đã hẹn với Pa-ven đi về rồi.
Pan-cơ-ra-tốp
và Ôn-ga cứ dọc đường cái đi xuôi, còn bọn về khu phố Xô-lô-men-ca thì đi ngược
lên. Đêm ngột ngạt, tối mịt như bưng lấy mắt. Cả thành phố đã ngủ kỹ. Các đại
biểu ra về, mỗi người mỗi ngả, đi theo các phố im phăng phắc. Tiếng nói và
tiếng chân họ cứ chìm dần trong đêm. Pa-ven và An- na đã đi khỏi các phố lớn
một quãng xa. Đến phố chợ, vào giờ này vắng tanh, vắng ngắt thì gặp đội tuần
tra họ giữ lại hỏi giấy rồi cho đi. Qua con đường lớn, vào một phố vắng không
có đèn. Phố này chạy ngang một bãi đất bỏ hoang. Hai người rẽ sang trái, rồi
men theo con đường chạy dọc những kho chính của nhà máy xe lửa. Những nếp nhà
dài bằng bê-tông, trông tối đen và ghê sợ. An-na đột nhiên đâm lo. Chị len lét
nhìn vào đêm tối, trả lời Pa-ven nhát gừng chẳng ra đâu vào đâu. Đến khi cái
bóng đen làm chị hoảng hóa ra là cái cột dây thép thì chị cười phá lên, cắt
nghĩa cho Pa-ven hiểu điều làm mình sợ. An-na khép cánh tay mình dưới cánh tay
Pa-ven, sát vai mình vào vai bạn và thấy vững lòng hơn.
- Mình
năm nay mới có hai mươi hai tuổi đầu nhưng thần kinh bị rão như một bà lão rồi,
Pa-ven có thể cho mình là nhát gan. Mình không phải nhát gan đâu. Nhưng hôm nay
không hiểu tại sao mình thấy não cân bị kích thích lạ. Giờ có Pa-ven đi bên cạnh,
mình không lo nữa và thấy xấu hổ là đã hốt hoảng.
Vẻ trấn
tĩnh của Pa-ven, đầu lửa đỏ của điếu thuốc lá anh cầm chốc chốc lại soi lên một
bên mặt anh, đôi mày của anh cong một cách cứng cỏi, tất cả những điều đó làm
An-na tiêu tan hết nỗi hoảng sợ vì đêm hôm tối mịt, vì cảnh hoang vắng của bãi
đất bỏ không, cả vì câu chuyện giết người khủng khiếp xảy ra hôm qua ở khu phố
Pa- dôn, vừa được nghe kể chuyện xong lúc ở rạp hát.
Hai
người đã vượt qua dãy nhà kho, đi qua cái cầu nhỏ bắc ngang con lạch và đi vào
con đường phố ga; Con đường này đưa tới khúc đường hầm dưới gầm đường xe lửa
chạy, khúc đường hầm nối thông mé bên thành phố với cả khu phố đường sắt.
Hai
người đã bỏ xa nhà ga ở mé bên tay phải. Một đoàn xe chạy vào đường đỗ xe, ở
cuối dãy nhà kho. Đây đã là giang sơn mà họ quen thuộc rồi. Trên kia, đường tàu
chạy, ánh sáng màu óng ánh ở những đèn kho và đèn hiệu; Gần kho đầu máy, một
chiếc đầu máy chạy đi chạy lại, thở dốc ra như một con vật mệt lử sắp được nghỉ
đêm.
Cửa vào
đường hầm, có cái đèn treo trên móc sắt gỉ. Gió hiu hiu khẽ đưa đẩy ngọn đèn,
ánh sáng mờ vàng ệch đong đưa, hắt lên tường bên này rồi lại hắt lên tường bên
kia của đường hầm.
Khỏi
đường hầm mười bước, ngay bên đường có nếp nhà nhỏ trơ trụi, chính giữa căn nhà
ấy có vết thủng lớn há hốc. Hai năm trước đây, một quả trái phá hạng nặng tương
trúng ngôi nhà, làm trong nhà bể tung từng mảng và mặt nhà đổ vỡ tan nát. Trông
nếp nhà ấy chẳng khác một ông lão ăn mày ngồi bên vệ đường chìa vết thương của
mình ra cho người qua lại trông thấy. Trên mặt đường cao, một chuyến tàu chạy
qua.
An-na
thở phào.
- Ta gần
đến nhà rồi.
Pa-ven
gỡ tay An-na ra. Song An-na không chịu bỏ. Hai người qua một căn nhà đổ nát.
Bỗng có
tiếng động sau lưng. Tiếng chân chạy gấp, tiếng thở hồng hộc. Có người đuổi
theo họ.
Pa-ven
giật tay ra định đối phó, nhưng An-na thất kinh cứ ôm ghì lấy anh. Đến khi
Pa-ven gỡ tay ra được thì muộn quá rồi: Những ngón tay cứng như sắt đã nắm lấy
cổ anh; Anh quẫy mạnh nhưng kẻ hành hung đã sấn đến trước mặt. Nó lấy tay sờ cổ
họng anh, nắm lấy cổ áo vặn mạnh, rồi ngẩng đầu anh lên trước nòng một khẩu
súng ngắn, khẩu súng từ từ giơ lên vẽ thành một vòng cung.
Mắt
người thợ điện như bị thôi miên, nhìn theo khẩu súng giơ lên theo đường vòng
cung, óc anh căng thẳng quá sức người chịu đựng. Cái chết từ nòng súng đen ngòm
nhìn thẳng vào mắt anh, và Pa-ven không đủ sức nhìn đi chỗ khác, dù chỉ là một
phần trăm giây đồng hồ. Anh đợi phát súng, nhưng không thấy nổ. Mắt anh tròn
xoe nhìn thấy mặt thằng cướp. Sọ nó to, cằm nó bạnh, râu ria đen sì tua tủa;
Mắt nó nấp dưới bóng đen vành rộng mũ cát-két.
Pa-ven
liếc nhìn An-na mặt trắng bệch như vôi.
Một đứa
trong ba thằng cướp kéo An-na vào xó thủng của căn nhà đổ. Nó vặn tay người con
gái, đè ra đất. Một bóng đen nữa đi kèm Pa-ven, anh chỉ thấy bóng nó in trên
tường hầm. Đằng sau, trong gian nhà đổ nát, có tiếng vật lộn. An-na cố giãy
không chịu; Tiếng kêu cứu bỗng im bặt: An-na bị nó lấy mũ cát-két nhét vào mồm.
Tên cướp to đầu đang ôm ghì Pa-ven không chịu để đứa khác hiếp mà nó chỉ đứng xem:
Như con thú dữ, nó muốn sán ngáy đến mồi ngon. Hình như nó là chủ tướng và nó
không ưa làm cho đứa khác ăn. Anh con trai nó nắm trong tay này mặt non choẹt
ấy mà. Trông cách ăn mặc, dáng chừng là “một thằng mọi” làm ở sở đầu máy thì
phải. Thằng nhãi con này chẳng có gì nguy hiểm cả.
“Ta gõ
hai ba lần cái củ tỏi này vào hoa cái nó, rồi ta chỉ cho nó con đường chạy qua
bãi hoang thì nó sẽ chạy biến về phố, không dám ngoái cổ lại”. Và thằng cướp
nới nắm tay đang siết chặt của nó ra.
- Xéo!
Chạy đi khỏi đây ngay lập tức. Hễ mở mồm kêu, ông cho kẹo vào mồm ngay. - Và nó
lấy nòng súng cốc vào trán Pa-ven. - Cút đi ngay! Nó rống lên, rồi hạ súng
xuống cho nạn nhân của nó chạy đi, khỏi sợ nó cho ăn đạn vào lưng.
Pa-ven
lùi lại phía sau, đi chếch hai bước, mắt không rời thằng cướp. Thằng cướp lại
tưởng gã thanh niên non choẹt ấy vẫn còn sợ nó bắn vào đầu và không để ý cứ đi
về phía căn nhà.
Tay
Pa-ven thò ngay vào túi. “Chỉ cốt là đừng chậm quá!”, Anh quay phắt lại, giơ
thẳng tay trái, nhằm đúng thằng cướp. Nó nhận ra nó đã tính lầm thì chậm quá
mất rồi. Viên đạn chọc thủng mạng mỡ.
Nó không
kịp giơ tay lên trời, loạng choạng ngã khuỵu vào tường hầm, rồi kêu lên không
ra tiếng, ngón tay bíu chặt lấy tường, xác nó từ từ rơi phịch xuống đất. Từ chỗ
thủng của căn nhà đổ, một bóng đen vụt ra, nhảy phắt xuống rãnh sân. Pa-ven bắn
phát thứ hai theo nó. Một bóng nữa lom khom, ba chân bốn cẳng chạy vụt vào hầm
tối. Súng lại nổ. Đạn bật vào tường bê-tông, bụi trắng rắc theo lên bóng đen.
Nó nhảy né sang bên, rồi biến mất vào đêm tối. Khẩu Bơ-rao-ninh còn bắn theo ba
phát inh tai nữa. Dưới chân tường hầm, thằng cướp to đầu hấp hối, quằn quại như
con giun.
Pa-ven
đỡ An-na dậy. Chị chưa hết kinh hoàng, nhìn tên cướp già giãy giụa, còn chưa
tin hẳn là thoát nạn.
Pa-ven
dìu An-na đi trong đêm tối, về phía phố, xa dần chỗ có ánh đèn. Hai người cùng
chạy về phía nhà ga. Trên bờ cao của đường sắt, gần đường hầm, có ánh đèn đi
tuần soi rối rít. Một tiếng súng báo động nổ ầm trên đường sắt.
Khi hai
người về đến nhà An-na thì gà nhà ai đã gáy sáng trên đồi Ba-ti-sep. An-na nằm
dài trên giường. Pa-ven ngồi bên bàn. Anh hút thuốc, nhìn những vòng khói tỏa
đang bay lên trần nhà... Thằng cướp vừa bị bắn chết là người thứ tư anh đã giết
trong đời.
Nói
chung, trên đời này, có thể nào có một đức can đảm tuyệt đối, bao giờ cũng biểu
hiện một cách toàn vẹn không nhỉ? Nhớ lại những cảm nghĩ của mình trong việc
xảy ra vừa qua, Pa-ven thú thật với mình là những phút đầu tiên, con mắt đen
ngòm của nòng súng đã làm anh sợ hết hồn. Và anh đã bắn trượt hai bóng đen chạy
trốn, có phải chỉ vì anh hỏng một bên mắt, phải dùng tay trái bắn không? Không.
Cách có vài bước mà thôi, anh có thể bắn tin hơn nhiều. Thế mà lại bắn không
trúng, tại anh đã cuống, đã hấp tấp, điều đó chứng tỏ tâm thần anh có phần nào
hốt hoảng.
Đèn để
bàn chiếu lên đầu anh. An-na nhìn bạn, theo dõi từng nét cử động trên mặt.
Thoạt trông, Pa- ven có vẻ bình tĩnh. Chỉ có nếp nhăn trên trán tỏ ra anh đang
nghĩ lung.
- Nghĩ
gì thế Pa-ven?
Những ý
nghĩ của anh bị câu hỏi đột ngột đánh bạt, bay đi đâu mất như làn khói thuốc
đang tỏa ra khỏi ánh đèn. Anh trả lời theo ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong óc:
- Tôi
phải tìm đến đồng chí chỉ huy đơn vị bảo vệ thành phố. Tôi phải báo cáo với
đồng chí ấy mới được.
Anh cố
nén mệt mỏi, miễn cưỡng đứng dậy.
An-na
không chịu buông tay anh ngay; Chị không muốn phải ở lại nhà một mình. An-na
tiễn Pa-ven ra cửa, đứng nhìn theo mãi con người đối với mình từ nay thân quý
và gần gũi quá. Chờ cho đến khi Pa-ven đã đi khuất vào bóng tối, chị mới trở
vào đóng cửa lại.
Có
Pa-ven đến gặp cho biết, cơ quan bảo vệ của đường sắt mới hiểu ra vụ giết người
khó hiểu này. Người ta nhận ngay ra mặt tên bị giết là Phim-ca Sê-rếp, một tên
cướp đường và giết người đã tái phạm nhiều lần mà các bộ phận điều tra hình sự
đã nhẵn mặt.
Ngày hôm
sau, ai cũng biết chuyện xảy ra ở đường hầm.
Nhân đó
mà có chuyện va chạm bất ngờ xảy ra giữa Pa-ven và Svê-tai-ép.
Giữa lúc
cả xưởng đang mải miết làm việc thì Svê- tai-ép bước vào, gọi Pa-ven ra ngoài
hành lang, kéo đến một chỗ xa, có vẻ cảm động lắm, lúc đó không biết bắt đầu
câu chuyện thế nào, cuối cùng hỏi Pa-ven:
- Cậu
cho mình biết chuyện xảy ra đêm qua thế nào?
- Cậu
biết cả rồi còn gì?
Svê-tai-ép
nhún vai một cách cáu kỉnh. Người thợ điện hiểu đâu là câu chuyện ở đường hầm
động đến lòng Svê-tai-ép hơn người khác. Pa-ven không biết anh chàng thợ rèn bề
ngoài phớt lạnh này trong bụng rất cảm An-na. Đối với An-na, chẳng phải mình
anh chàng có thiện cảm, song cảm tình ở hắn ta phức tạp hơn người khác. Được
Ta-li-a vừa cho biết chuyện xảy ra đêm qua ở đường hầm, Svê-tai-ép nghe xong,
một câu hỏi làm hắn ta nhức óc. Hắn biết không thể nào đem hỏi trực tiếp Pa-ven
được; Song hắn muốn biết rõ sự thật thế nào. Hắn cũng cảm thấy lờ mờ những điều
mình lo ngại đây có phần ích kỷ bần tiện; Song lần này, trong cuộc đấu tranh
của những tình cảm mâu thuẫn ở lòng hắn; Bản năng thô bạo, bản năng thú vật đã
thắng mất rồi. Hắn bắt đầu nói với Pa-ven bằng giọng khàn khàn:
- Pa-ven
này, câu chuyện mình hỏi, cậu đừng kế với ai. Cậu hiểu mình muốn cậu đừng nói
với An-na, làm An-na nghĩ ngợi. Mà cậu cũng có thể tin là mình cũng không nói
với ai hết. Mình đề nghị cậu cho mình biết, khi thằng cướp giữ chịt lấy cậu thì
mấy thằng kia có hiếp được An-na không?
Nói đến
đoạn cuối của câu, Svê-tai-ép sượng mặt quá quay đi nhìn chỗ khác.
Pa-ven
bắt đầu lờ mờ hiểu Svê-tai-ép: “Nếu cậu ta đối với An-na không có gì thì cậu ta
cũng chẳng lo cuống cuồng như thế. Nhưng nếu cậu ta yêu An-na thì...”. Pa-ven
thấy có điều gì tổn thương đến An-na.
- Cậu
hỏi thế làm gì?
Svê-tai-ép
nói lí nhí, chẳng hiểu nói gì cả, rồi thấy người ta đã đoán được bụng mình, hắn
đâm cáu:
- Tại
sao cậu lại nói lảng đi như thế? Tôi hỏi cậu để cậu trả lời tôi. Cậu lại đi hỏi
vặn lại tôi.
- Cậu
yêu An-na phải không?
Im lặng.
Rồi Svê-tai-ép khó nhọc dằn ra tiếng:
- Phải.
Pa-ven
không nén được phẫn nộ, quay gót đi ra hiên, không thèm ngoái lại nhìn.
*
...
Ô-cu-nhếp đứng quanh quẩn ở gần giường bạn, lúng ta lúng túng hồi lâu rồi mới
đến ngồi sát xuống mép giường, để tay lên cuốn sách Pa-ven đang đọc.
-
Pa-vơ-lu-sa ơi, cậu có biết không, mình phải kể cậu nghe chuyện này, cậu biết
chưa nhỉ? Câu chuyện có vẻ vớ vẩn mà lại chẳng vớ vẩn tí nào. Chuyện là... Giữa
Ta-li-a La-gu-chi-na với mình. Cậu hiểu, mình ưa cô ấy. - Ô-cu-nhếp, vẻ ngượng
ngùng, đưa tay gãi đầu nhưng không thấy bạn chế, đánh bạo nói nốt.
- Và
Ta-li-a cũng thế... Chắc cậu hiểu rồi. Mình chẳng phải kể nữa. Câu chuyện rõ
ràng chẳng phải soi đèn mới hiểu. Hôm qua, hai chúng mình bàn nhau, tính xem
duyên phận thế nào, định lập gia đình với nhau. Mình hai mươi hai tuổi, hai đứa
cùng có quyền bầu cử cả rồi. Mình định xây dựng với Ta-li-a trên nguyên tắc
bình đẳng. Cậu nghĩ thế nào?
Pa-ven
suy nghĩ một lát.
- Cậu
bảo mình còn nghĩ thế nào nữa? Cậu cũng như Ta-li-a là bạn thân của mình. Bọn
chúng ta như người ta nói là cùng một dòng máu mủ. Các mặt lợi ích khác, ta
cũng đều giống nhau cả. Với lại Ta-li-a là một nữ thanh niên rất tốt... Rõ ràng
là nên lắm rồi.
Hôm sau,
Pa-ven mang hòm xiểng sang với anh em ở tập thể gần sở đầu máy. Vài ngày sau ở
nhà An-na có tổ chức một tối vui, chẳng có rượu chè nhậu nhẹt gì, thật là một
buổi tối vui cộng sản, để mừng cặp vợ chồng mới Ta-li-a La-gu-chi-na và
Nhi-ca-lai Ố-cu-nhếp. Một buổi tối gợi lại những kỷ niệm xưa và đọc những quyển
sách say mê nhất. Người ta hát đồng ca với nhau, hát nhiều bài và hát rất hay
nữa. Những bài ca chiến đấu vang bay đi xa. Đến khuya, Ca-chi-u-sa và Mua-ra
mang đàn gió lại. Tiếng đàn trầm mượt và tiếng láy đệm thánh thót như nhịp
chuông bạc, vang âm khắp gian phòng. Tối hôm ấy, Pa-ven lại cầm lấy đàn chơi
như ngày nào. Và đến khi chàng gấu Pan-cơ-ra-tốp lại xông ra nhảy nữa là điều
mà mọi người lạ nhất thì Pa-ven bốc hẳn; Đàn gió của anh lại như xưa, dốc hết
nhiệt tình:
Này kìa,
đường phố, đường phố với bao ánh sáng!
Thằng
chó đểu Đê-ni-kin đang giận điên người!
Ở
Xi-bê-ri Ủy ban đặc biệt chống phản cách mạng!
Đã đập
chết tan tành bọn Côn-sắc, Ha! Ha!...
Đàn gió
ca ngợi dĩ vãng, những năm rực ánh lửa và tình bạn ngày nay, ca ngợi đấu tranh
và lòng yêu đời. Nhưng khi Vô-lưn-xép đỡ lấy đàn chơi bài “Ô này! Quả táo!”...
Hết sức vui nhộn của những người thủy thủ thì chỉ có Pa-ven nhảy, làm điệu vũ
say sưa đến điên cuồng ấy! Bị điệu nhạc hầm hập sôi nổi lôi cuốn Pa-ven đã nhảy
cuộc nhảy thứ ba và cũng là cuộc nhảy cuối cùng trong đời anh.
Thép Đã
Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 4
Biên
giới là hai cột biểu. Hai cột biểu đối diện nhau, im lặng và thù địch, là hiện
thân của hai thế giới. Một chiếc làm bằng thân cây bào nhẵn, trơn tru, sơn vằn
đen trắng như chòi canh của cảnh sát. Con diều hâu một đầu bằng gỗ đóng chắc
bằng đinh to tướng vào đỉnh cột. Con diều hâu xù lông cánh, móng như bíu lấy
cột sơn vằn, mỏ cong vênh vểnh ra đằng trước, mắt càu cạu nhìn cái biển sắt
trước mặt. Cách sáu bước chân là chiếc cột khác, tròn trĩnh, bằng gỗ sên để
mộc, chôn thật sâu xuống đất. Trên cột có một tấm biển bằng sắt mang hình búa
liềm. Hai cột biển đều trồng trên một dải đất bằng, thế mà giữa hai thế giới đó
là một vực sâu thăm thẳm. Người nào liều mạng mới dám vượt qua sáu bước chân
đó.
Biên
giới là đây.
Trên một
khoảng dài hàng ngàn cây số, từ Hắc Hải chạy đến cực Bắc, cho đến tận đại dương
băng giá dựng lên cả một dãy cột biển sừng sững, không động. Những người lính
gác không biết nói ấy, mang trên những tấm mộc bằng sắt huy hiệu vĩ đại của lao
động, đứng canh phòng cho các nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa. Chiếc cột
biển đầu gắn con diều xòe cánh ấy đánh dấu biên giới giữa hai Nhà nước U-cơ-ren
Xô-viết và nước Ba Lan của bọn địa chủ quý tộc. Thôn Bê-rê-dơ-đốp nhỏ xíu khuất
vào rừng sâu. Cách thôn đó mười cây số là biên giới. Chỗ ấy giáp mặt với thôn
Cô-rê-xơ bé nhỏ của Ba Lan. Giữa khoảng thôn Xư-la-vút và thôn A-na-pô- li là
khu đóng quân của tiểu đoàn biên phòng X.
Hàng cột
biển nối tiếp nhau chạy ngang cánh đồng phủ tuyết, xuyên qua các ngả rừng, đổ
xuống các vực nước, rồi lại bò lên các gò cao, nhấp nhô trên các đồi núi và khi
tới một con sông thì từ trên bờ cao, hàng cột đưa mắt dò xét nhìn xuống dải
đồng bằng tuyết phủ trắng xóa bên kia của nước ngoài.
Trời
lạnh cóng, nước đóng băng. Tuyết vỡ tan kêu răng rắc dưới gót ủng lông cừu.
Trước cột biển mang hình búa liềm nổi bật lên bóng người đội mũ chiến đấu kiểu
dũng sĩ, với bước đi chắc nịch, đang đi tuần trong khu vực mình. Người Vệ quân
đỏ tầm vóc cao lớn ấy mặc áo ca-pốt xám, ren cổ xanh, chân đi ủng dạ. Ngoài
chiếc áo ca-pốt lại khoác thêm một chiếc áo tơi cao cổ rộng bằng da cừu, đầu
đội một chiếc mũ dạ ấm áp. Anh mang bao tay bằng da cừu. Cái áo tơi dài chấm
gót dù bão tuyết dữ dội đến đâu cũng giữ được cho người ấm. Khẩu súng trường
khoác vai đè lên áo tơi. Anh Vệ quân đỏ khoái trá hút khói thuốc mộc, đi theo
lối mòn, áo dài quét tuyết. Trên biên cương Xô-viết, giữa đồng quang, các chiến
sĩ biên phòng đứng người nọ cách người kia một cây số để mắt vừa nhìn thấy
nhau. Bên phía Ba Lan, mỗi cây số có hai lính đứng.
Đi ngược
lại phía anh Vệ quân đỏ là một người lính Ba Lan cũng đang đi tuần bên địa phận
mình. Người lính Ba Lan mang đôi giày cao cổ thô kệch, mặc quần áo xanh ngả
xám, ngoài khoác áo ca-pốt có hai hàng khuy lấp lánh. Trên đầu đội mũ “liên
bang” mang huy hiệu diều hâu trắng; (Một thứ mũ của dân tộc Ba Lan gọi là
“Konfédératka” mà những người cách mạng thời cách mạng liên minh ở Ba Lan năm
1768 đã dùng. Về sau bọn phản động Ba Lan cũng dùng mũ này cho quân lính để che
giấu những dã tâm phản cách mạng của chúng) trên ngù dạ ở cầu vai cũng diều
hâu, trên nẹp cổ áo cũng diều hâu. Nhưng ngần ấy con diều hâu cũng không làm
cho người lính thấy ấm hơn. Rét cóng làm anh ta buốt thấu xương. Anh ta lấy tay
xát hai tai đã tê cóng, vừa đi vừa đập đế giày vào nhau, hai bàn tay mang găng
mỏng cũng bị tê cóng. Không một phút nào anh ta có thể dừng chân được, dừng lại
thì giá rét như khóa lấy chân tay. Vì thế, lúc nào anh ta cũng cứ bước, đôi lúc
lại chạy như ngựa phi nước kiệu. Khi hai người lính biên phòng đã đi gần nhau,
người lính Ba Lan quay lại và đi song song với đồng chí Vệ quân đỏ.
Hai bên
biên giới không được nói chuyện với nhau. Nhưng khi mà chung quanh vắng tanh
vắng ngắt, cách một cây số mới có bóng người, thì ai biết được hai người lính này
im lặng mà đi hay đang vi phạm luật lệ quốc tế?
Người
lính Ba Lan thèm hút thuốc, nhưng lại bỏ quên bao diêm ở trại. Đang lúc ấy, gió
cứ cố tình tạt cái mùi thuốc lá mộc quyến rũ từ phía Xô-viết sang mới hại chứ!
Người lính Ba Lan ngừng tay xát tai tê buốt của mình và quay nhìn ra đằng sau:
Vì đôi khi có đội ba tui, thường do tên đội dẫn đi, có lúc do chính tên quan
hai dẫn đi nữa, từ trên một đỉnh núi cao nào đó nhô ra bất ngờ, để kiểm soát
các trạm gác. Nhưng lần này chung quanh không một bóng người. Tuyết óng ánh
sáng dưới ánh nắng. Trên trời không một bông tuyết rơi.
- Đồng
chí ơi, cho tôi xin que diêm. - Anh ta là người đầu tiên vi phạm điều luật quốc
tế ác hại. Anh ta hất ra sau lưng khẩu súng trường kiểu bắn được mấy phát liền
của Pháp, đầu có lắp lưỡi lê con kiếm, tay anh ta lóng cóng vất vả lắm mới móc
trong túi áo ca-pốt ra được gói thuốc lá rẻ tiền.
Đồng chí
Vệ quân đỏ nghe rõ lời khẩn cầu của anh lính Ba Lan. Song điều lệnh quân sự
trong công tác biên phòng ngăn cấm chiến sĩ không được bắt chuyện với người bên
kia biên giới. Hơn nữa, đồng chí không hoàn toàn hiểu hết những tiếng Ba Lan
của anh lính kia. Cho nên đồng chí lại tiếp tục đi, đặt mạnh chân xỏ ủng lông
cừu êm ấm lên lớp tuyết vỡ kêu lạo xạo.
- Đồng
chí bôn-sê-vích ơi, cho tôi xin tí lửa hút thuốc, ném cho tôi mượn bao diêm. -
Lần này người lính Ba Lan nói tiếng Nga.
Người Vệ
quân đỏ nhìn anh ta chăm chú. “Hình như giá rét làm cho” pan “buốt thấu gan
rồi. Gọi là anh lính tư sản mà đời anh ta thật cực như con chó. Rét cóng thế
này mà bọn chúng bắt anh ta ra đây, chỉ cho được manh áo ca-pốt nhỏ xíu thổ tả.
Đấy, anh ta nhảy cẫng lên như thỏ, và không có thuốc thì nhảy thế cũng chẳng ấm
được”. Đồng chí Vệ quân đỏ không quay đầu lại, ném sang bên kia bao diêm. Anh
lính Ba Lan bắt ngay lấy và đánh luôn mấy que, mãi mới châm được thuốc. Bao
diêm lại theo đường cũ ném trả lại qua biên giới. Lúc đó đến lượt anh Vệ quân
đỏ vô tình phạm luật.
- Giữ
lấy mà dùng, tôi còn bao khác.
Nhưng từ
bên kia biên giới có tiếng đáp lại.
- Thôi,
xin cảm ơn. Tôi mà cầm cái bao diêm này thì ăn hai năm tù mất.
Đồng chí
Hồng quân nhìn bao diêm. Trên nhãn bao vẽ một chiếc máy bay. Ở chỗ đáng lẽ vẽ
cánh quạt lại vẽ một quả đấm khỏe có đề chữ “Tối hậu thư”. Anh nghĩ thầm: “Ừ,
mà phải, của này không hợp với họ”.
Người
lính Ba Lan vẫn tiếp tục đi song song một chiều với đồng chí Hồng quân. Vì đi
một mình giữa đồng không mông quạnh, chẳng có một bóng người, anh lính Ba Lan
đó cũng thấy buồn.
*
Đôi yên
nghiến kĩu kịp nhịp nhàng, hai con ngựa chạy nước kiệu đều và vững. Lông quanh
mũi con ngựa giống đen nhánh dính nước đông lại: Mũi nó thở ra thành lớp hơi
trắng tan vào không khí. Con ngựa cái lang trắng mà người tiểu đoàn trưởng cưỡi
có một dáng đi đẹp, nó nhằn nhằn dây cương, cúi cái cổ thon thon xuống thành
một đường vòng cung. Hai người đi ngựa đều mặc áo ca-pốt xám, thắt dây lưng to
bản, ở mỗi ống tay có ba gạch vuông đỏ, nhưng người tiểu đoàn trưởng
Ga-vơ-ri-lốp thì mang lon xanh và người đồng hành của anh ta thì mang lon đỏ.
Ga- vơ-ri-lốp là chiến sĩ biên phòng. Các trạm của tiểu đoàn do anh chỉ huy
đóng rải ra trên một khoảng dài bảy mươi cây số. Ở đây, anh là “chủ nhân”.
Người bạn cùng đi với anh là khách từ Bê-rê-dơ-đốp đến, đấy là chính ủy tiểu
đoàn tổng huấn luyện quân sự tên là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin.
Đêm ấy
có tuyết rơi. Tuyết mềm mại, mịn màng phủ lấy mặt đất; Chưa có một móng ngựa,
một vết chân người chạm tới lớp tuyết trắng xóa. Hai người từ trong rừng cây đi
ngựa ra bất thình lình phi nước kiệu trên cánh đồng. Độ bốn mươi thước lại có
hai cột biển.
- Pơ-ru...
U...!
Ga-vơ-ri-lốp
ghì riết cương ngựa. Pa-ven quay ngoắt con hắc mã lại để biết tại sao bạn mình
dừng ngựa. Ga-vơ-ri-lốp từ yên ngựa rướn người ra cúi xuống, nhìn chăm chú một
vết lạ lùng kéo dài trên tuyết, trông hình như có ai lăn bánh xe nhỏ qua. Có
một con thú ranh mãnh nào đã qua đây, chân nó bước chồng lên nhau, vẽ lên thành
một đường mắt xích rất tinh khôn để đánh lạc dấu vết. Khó mà biết được dấu chân
con vật đi từ đâu, nhưng đồng chí tiểu đoàn trưởng dừng ngựa lại không phải vì
vết chân con thú ấy. Cách hai bước nữa, lớp dấu chân hình mắt xích lấm chấm
tuyết phủ ấy lại có những dấu chân khác nữa. Có một người đã qua đây. Hắn không
làm rối dấu chân mà đi thẳng về phía rừng. Xem dấu chân thì thấy rõ là người đó
từ phía Ba Lan sang.. Đồng chí tiểu đoàn trưởng thúc ngựa theo dấu chân trên
tuyết đi lại phía con đường vẫn đi tuần. Bên phía Ba Lan, dấu chân người đi xa
có đến mươi thước nữa.
Tiểu
đoàn trưởng càu nhàu:
- Đêm
qua có kẻ vượt biên giới. Lại một lần nữa, trung đội ba đã để lọt, vậy mà trong
báo cáo sáng nay không nói gì hết! Lơ mơ thật.
Ga-vơ-ri-lốp
có bộ ria đã hoa râm, hơi thở đông lại làm bạc bộ ria ấy và bộ ria bám vào làn
môi trên, trông rất nghiêm.
Có hai
bóng người đi lại phía tiểu đoàn trưởng và chính ủy. Một bóng người bé nhỏ đen
ngòm, có đeo lưỡi lê Pháp ánh nắng sáng loáng; Còn bóng kia thì to lớn bận áo
tơi da cừu vàng. Con ngựa cái màu lang trắng bị thúc rảo bước chạy và hai người
đi ngựa chẳng mấy chốc đã đến gần hai bóng người kia. Người lính Hồng quân sửa
lại dây đeo súng trên vai và nhổ mẩu thuốc lá đã hút tàn xuống bãi tuyết.
- Chào
đồng chí! Thế nào, khu vực đồng chí ở đây ra sao? - Anh lính Hồng quân to cao
đến nỗi tiểu đoàn trưởng hầu như không phải cúi xuống khi giơ tay bắt. Anh
chiến sĩ to lớn vội rút găng tay ra. Tiểu đoàn trưởng bắt tay anh.
Người
lính Ba Lan từ xa theo dõi cảnh tượng đó. Hai sĩ quan Hồng quân bắt tay người
lính như những người bạn rất hẩu với nhau. Trong nháy mắt, anh lính Ba Lan bỗng
nảy ra mong ước: Giá mình cũng được bắt tay lão quan tư Giắc-rếp-ski của mình
như thế nhỉ! Và mơ tưởng hão huyền ấy đột nhiên làm cho anh quay mặt đi.
Anh lính
Hồng quân báo cáo:
- Báo
cáo đồng chí tiểu đoàn trưởng, tôi vừa mới ra nhận gác.
- Đồng
chí đã thấy dấu chân người đằng kia chưa?
- Báo
cáo chưa thấy.
- Thế
đêm qua ai gác từ hai giờ đến sáu giờ?
- Báo
cáo đồng chí tiểu đoàn trưởng, lúc ấy Xu- rô-ten-cô gác.
- Thôi
được! Đồng chí nhìn cho kỹ nhớ.
Và lúc
sắp đi tiểu đoàn trưởng giọng nghiêm nghị dặn trước:
- Đồng
chí đừng có đi đi lại lại nhiều với bọn đó nhớ.
Khi đôi
ngựa đã phi nước kiệu dọc con đường rộng chạy dài từ biên giới về thôn
Bê-rê-dơ-đốp, tiểu đoàn trưởng kể chuyện:
- Ở biên
giới phải tỉnh mắt mới được. Sơ ý một phút là có khi ân hận cay người. Chúng
tôi ở đây làm việc là phải chịu mất ngủ. Ban ngày ban mặt, chúng vượt biên giới
còn khó chứ ban đêm thì mình phải thính tai mới được. Đồng chí Pa-ven ạ, đồng
chí nghĩ mà xem. Ở khu vực của tôi, có bốn thôn bị cắt làm hai (Hồi này có
nhiều thôn ở biên giới Liên Xô- Ba Lan bị cắt làm đôi. Liên Xô một nửa, Ba Lan
một nửa) cho nên rất nhiều khó khăn. Đặt bao nhiêu trạm gác cũng chẳng ăn thua
gì. Cứ hễ có đám cưới hay có việc vui mừng gì là bà con phía bên kia lại kéo
sang. Không có cách nào khác nữa: Nhà bên này bên kia chỉ cách nhau có hai chục
bước, con sông con thì con gà cũng lội qua được. Thêm vào đấy cái nạn buôn lậu.
Hàng buôn lậu lặt vặt thôi, quả như thế. Một mụ đàn bà mang sang được chừng vài
chai rượu Ba Lan 40 độ chẳng hạn. Nhưng cũng không ít những tên buôn lậu lớn có
vốn rất to. Đồng chí có biết bọn Ba Lan làm gì không? Trong tất cả các thôn
biên thùy, chúng đều mở cửa hàng bách hóa lớn: Ai muốn mua gì cũng có. Tất
nhiên, chúng làm thế chẳng phải vì nông dân nghèo khổ bên nước chúng nó đâu.
Pa-ven
chăm chú nghe người tiểu đoàn trưởng. Cuộc sống của những chiến sĩ biên phòng
thật là một công tác quân báo thường xuyên.
- Đồng
chí Ga-vơ-ri-lốp này, việc đó chỉ là buôn lậu hay còn là thế nào nữa?
Tiểu
đoàn trưởng, không cười nữa, đáp lại:
- Cái
hóc là ở chỗ ấy đấy.
Bê-rê-dơ-đốp
là một thôn bé nhỏ trong tỉnh, xưa kia là khu cư trú của người Do-thái. Hai ba
trăm nóc nhà dựng lên lộn xộn chẳng ra sao. Một bãi đất to họp chợ, giữa bãi là
vài chục cửa hàng tạp hóa. Bãi đất bẩn thỉu, phủ đầy phân rác. Những nóc nhà
nhỏ của nông dân như một cái dây lưng đánh đai lấy thôn này. Ở giữa khu người
Do-thái ở, dọc đường đi đến lò lợn, có một cái nhà thờ Do-thái. Tòa nhà cũ kỹ
trông thật ảm đạm. Thật ra, vào các ngày thứ bảy thì nhà thờ này không phải
than phiền là vắng vẻ đâu: Người đi lễ đến đông chật. Nhưng cũng chẳng được như
ngày trước và cuộc đời của ông thầy tu “ráp-banh” (tên gọi thầy tu của đạo
Do-thái) không được như ý ông mong muốn nữa. Nhất định là đã có chuyện gì rất tệ
xảy ra vào năm 1917, vì ngay cả ở đây, là nơi hẻo lánh mà bọn thanh niên nhìn
thầy “ráp-banh” không còn cung kính cho phải đạo nữa. Thật ra thì những người
già vẫn kiêng những món ăn Chúa cấm, nhưng đã có biết bao gã trai hư hỏng ăn
thứ xúc-xích lợn mà Chúa đã từng nguyền rủa. Chỉ nghĩ đến không thôi cũng đã đủ
thấy tởm! Thầy tu Bô-rúc hầm hầm giận dữ, lấy chân đá con lợn sề đang rúc mõm
vào đống rác kiếm ăn. Phải, thầy chẳng ưa gì việc thôn Bê-rê-dơ-đốp trở thành
một trung tâm của quận này một tí nào. Một lũ cộng sản không hiểu từ đâu kéo
đến, bày đặt ra lắm trò đời và mỗi ngày một đẻ ra thêm nhiều chuyện khó chịu.
Hôm qua, một thầy ráp-banh đã từng thấy ở cổng biệt thự cũ của lão cố đạo một
cái biển mới: “Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ-ren, Ban chấp hành quận đoàn
Bê-rê-dơ-đốp”.
Cái biển
ấy chẳng phải điềm lành. Lão thầy tu đang mải suy nghĩ thì mắt chạm ngay vào tờ
yết thị nhỏ dán ở cửa nhà thờ của lão.
“Hôm
nay, tại câu lạc bộ, có cuộc họp của thanh niên lao động. Li-xi-xưn, chủ tịch
Ban chấp hành và Ca-rơ-sa-ghin, quyền bí thư quận đoàn thanh niên, sẽ đọc báo
cáo. Sau cuộc họp sẽ có hòa nhạc của học sinh trường chín năm”.
Lão thầy
tu Do-thái giận dữ xé tờ giấy:
- Đã bắt
đầu giở trò!
Cái khu
vườn rộng của lão cố đạo ôm lấy hai bên nhà thờ nhỏ thôn này. Trong vườn có một
tòa nhà cổ rất lớn. Hơi mốc xông lên trong những gian phòng vắng vẻ, chán ngắt,
nơi này trước kia là chỗ ở của lão cố đạo từ lâu đã chán ghét nhau, cả hai cùng
già khọm và tẻ lạnh như cái nhà vậy. Nhưng từ khi có những người chủ mới đến ở
thì vẻ tẻ lạnh biến đi ngay. Trong phòng khách, chỗ trước kia chủ cũ chỉ tiếp
khách vào những dịp lễ lớn, bây giờ lúc nào cũng đông người. Nhà lão cố đạo đã
trở thành trụ sở của Đảng ủy Bê-rê-dơ-đốp. Trên cánh cửa một phòng nhỏ phía bên
phải lối vào, có mấy chữ viết bằng phấn: “Quận đoàn thanh niên cộng sản”. Tại
đây, ngày nào Pa-ven cũng đến làm việc một buổi. Anh vừa làm chính ủy của tiểu
đoàn tổng huấn luyện quân sự thứ hai, vừa kiêm bí thư của quận đoàn thanh niên
cộng sản vừa mới thành lập.
Kể từ
buổi tối các anh chị em liên hoan ở nhà An-na đến nay đã tám tháng trôi qua.
Thế mà Pa-ven có cảm tưởng như chỉ mới hôm qua. Anh gạt chồng tài liệu sang
bên, ngả lưng ra ghế bành, nghĩ ngợi...
Đêm đã
khuya. Trụ sở Đảng ủy không còn ai. Im ắng, tịch mịch. Đồng chí Tô-rô-phi-mốp,
bí thư quận Đảng ủy, là người ở lại sau cùng cũng vừa đi khỏi. Và bây giờ
Pa-ven một mình ở lại nhà. Nước đóng băng vẽ lên cửa kính những nét chạm trổ
muôn hình muôn vẻ. Trên bàn một ngọn đèn dầu, lò sưởi tỏa hơi nóng ấm. Pa-ven
nhớ lại những chuyện xảy ra cách đây không lâu... Tháng Tám, tổ chức ở nhà máy
đã phái anh đi phụ trách thanh niên trong “chuyến tàu sửa chữa” đến
E-ca-chê-ri-nô-sláp. Suốt cả mùa thu, một trăm rưởi thợ đã đi từ ga này đến ga
kia, dọn dẹp vết tích chiến tranh và tàn phá, thu vén những toa tàu bị cháy, bị
đổ nát. Chuyến tàu đi từ Xi-nhen- nhi-cốp đến Pô-lốc. Vùng này chính là đất
xưng hùng xưng bá trước kia của tên phỉ Ma-khơ-nô, cho nên mỗi bước đều gặp dấu
vết phá hoại và giết chóc. Ở Gu-lay Pô-lê, mất một tuần lễ để sửa chữa kho nước,
đặt những mảnh tôn vào lòng thùng nước đã bị mìn làm thủng đáy. Pa-ven vốn là
thợ điện nên không thuộc nghề và không am hiểu kỹ thuật và những khó khăn của
nghề thợ nguội, vậy mà bàn tay anh với cái lắc-lê đã vặn đến mấy nghìn đinh ốc
gỉ sét.
Cuối mùa
thu, chuyến tàu lại trở về nhà máy. Nhà máy lại nhận một trăm rưởi đôi tay
thợ...
Người ta
thấy người thợ điện Pa-ven năng đến nhà An-na hơn. Trên trán anh, nếp nhăn đã
biến đi và lại hay nghe thấy những tiếng cười lôi cuốn của anh vang lên.
Bạn bè
dự các nhóm học tập lại được nghe Pa-ven kể chuyện những năm đấu tranh qua đã
lâu rồi. Anh kể về nước Nga xưa kia xơ xác, tả tơi, thân nô lệ mà lòng bất
khuất, nước Nga đã từng vươn lên lật đổ con ác quỷ Nga hoàng. Anh kể về những
cuộc khởi nghĩa của Stê-pan Ra-din và Pu-ga-sốp.
(Stê-pan
Ra-din, người anh hùng Cô-dắc sông Đông đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lớn chống
phong kiến của nông dân và dân tộc Cô-dắc chống lại Nga hoàng, từ năm 1667 đến
năm 1671.
E-mê-liên
Pu-ga-sốp, nhà lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa rất lớn có phạm vi toàn quốc chống
phong kiến của nông dân Cô-dắc nước Nga vào thế kỷ 18.
Một buổi
tối, anh em thanh niên đến họp ở nhà An-na, người thợ điện Pa-ven hôm đó đột
nhiên bỏ một thói quen có hại, mắc từ lâu. Anh quen hút thuốc, gần như từ bé đã
hút, thế mà tuyên bố bằng một giọng quả quyết, dứt khoát rằng:
- Tôi
không hút thuốc nữa.
Chuyện
ấy xảy ra đột ngột. Đang nói chuyện có một người nêu lên thói quen là bản năng
thứ hai của con người, do đó, gây ra tranh luận; Người đó lấy tật nghiện thuốc
lá ra làm ví dụ. Ý kiến bất đồng. Anh thợ điện Pa-ven không tham gia vào cuộc
tranh luận. Nhưng Ta-li-a kéo Pa-ven vào, bắt nói. Anh nói điều mình nghĩ:
- Chính
con người chỉ huy thói quen của mình, chứ không phải thói quen chỉ huy con
người. Nếu không thế thì con người ta sẽ đi đến đâu?
Svê-tai-ép
từ góc anh ta ngồi, nói to ra:
- Nói
thế nghe thì kêu lắm. Pa-ven vẫn thích cái lối nói như thế. Nhưng nếu đem bắc
cân lời nói và việc làm thì thấy gì? Bản thân Pa-ven có hút không? Có hút.
Pa-ven có biết hút thuốc lá có hại không? Có biết. Nhưng bỏ thuốc thì muộn rồi.
Cậu ta không có gan bỏ. Gần đây, Pa-ven lại mới khởi xướng ra một “phong trào
văn hóa” trong các nhóm học tập đấy. - Và Svê-tai-ép đổi giọng, hỏi có vẻ chế
nhạo: - Hãy để cho Pa-ven trả lời chúng ta: Pa-ven có còn văng tục nữa không?
Ai biết Pa-ven cũng đều phải nói: Cậu ấy đã ít chửi tục, nhưng đã chửi thì lại
chửi rất tệ. Nghề đời, thuyết pháp người ta vẫn dễ hơn là tự mình làm thánh.
Gian
phòng trở nên im lặng. Giọng đả kích của Svê tai-ép làm cho mọi người cảm thấy
khó chịu. Người thợ điện Pa-ven không trả lời ngay. Anh từ từ rút điếu thuốc
đang ngậm ở miệng ra, vò nát điếu thuốc và nói, giọng vẫn như thường:
- Tôi
không hút thuốc nữa.
Im lặng
một lát, anh nói thêm:
- Tôi
làm thế trước hết là ích cho tôi và đồng thời cũng ích phần nào cho Svê-tai-ép.
Kẻ nào không bỏ được tật xấu của mình thì kẻ đó chẳng đáng một đồng kẽm. Tôi
còn tật chửi tục nữa. Tôi vẫn chưa hoàn toàn thắng hẳn được cái thói nhục nhã
ấy. Nhưng ngay Svê-tai-ép cũng nhận rằng ít nghe thấy tôi chửi tục nữa. Văng ra
một lời nói tục còn dễ hơn châm một điếu thuốc hút. Vì vậy cho nên ngay bây
giờ, tôi chưa dám nói là đã bỏ hẳn được chửi tục. Nhưng rồi tôi sẽ bỏ được,
chắc chắn là như vậy.
*
Bước vào
mùa đông, gỗ trôi về ngáng lấy cả dòng sông. Cơn nước lũ mùa thu đã xô vỡ hết
các bè củi và củi gỗ cứ thế bị nước cuốn trôi về xuôi. Khu Xô- lô-men-ca lại
tung thanh niên đi cứu lấy của rừng.
Pa-ven
không muốn rớt lại sau anh em, nên giấu không cho anh em biết là mình đã bị cảm
mạo nặng. Và một tuần sau, khi trên các bến sông, củi gỗ vớt lên đã chất đống
cao như núi thì nước lạnh buốt và khí ẩm mùa thu đã làm thức tỉnh kẻ thù lâu
nay còn ngủ im trong máu Pa-ven: Anh bị sốt, nóng như than, nằm liệt giường.
Trong hai tuần lễ, cơ thể anh bị bệnh tê thấp ác tính giày vò và khi ra bệnh
viện, anh đứng chưa vững, làm việc cứ phải ngồi buông hai chân trên bàn thợ như
“cưỡi ngựa”. Đốc công nhìn anh chán ngán lắc đầu. Mấy ngày sau, ủy ban công
bằng (ở các nhà máy có lập ra ủy ban này, làm việc không thiên vị ai nên gọi là
ủy ban vô tư hay công bằng) đã công nhận anh là người không thể lao động được
nữa. Người ta thanh toán tiền công còn lại cho anh và cho lĩnh thêm một số tiền
trợ cấp nữa, làm anh nổi giận; Từ chối không nhận số tiền ấy.
Anh giã
từ công xưởng, lòng nặng trĩu, chống gậy lững thững ra về, mỗi bước chân nhấc
đi lại đau điếng người. Mẹ đã nhiều lần viết thư cho anh, mong con về thăm. Và
bây giờ đây, anh nghĩ đến bà cụ, nhớ lại lời mẹ nói lúc ra đi: “Chỉ khi nào
chúng mày bị ốm đau thương tật, mẹ mới được trông thấy mặt chúng mày thôi!”
Đến tỉnh
ủy, anh nhận hai tập hồ sơ cá nhân cuộn tròn lại: Hồ sơ Đoàn và hồ sơ Đảng. Để
khỏi làm tăng nỗi đau buồn cho mình, anh chẳng đến chào biệt ai cả, về thẳng
nhà với mẹ. Suất hai tuần, bà cụ chườm nước nóng và xoa bóp hai chân sưng cho
con; Được một tháng thì Pa-ven đã đi được không cần chống gậy nữa: Nỗi vui mừng
tràn ngập trong lòng anh và buổi chiều tàn thế là lại đổi ra cảnh bình minh.
Con tàu đưa anh đến tỉnh lỵ. Ba ngày sau, ban tổ chức cấp cho anh giấy giới
thiệu điều anh đến nhận công tác của ủy ban quân sự tỉnh, làm chính trị viên ở
cơ quan tổng huấn luyện quân sự đang thành lập lúc bấy giờ.
Sau đấy
một tuần nữa, anh đến đây, đến thôn nhỏ ngập trong tuyết này, làm chính ủy tiểu
đoàn số hai. Ở Liên quận Đoàn thanh niên cộng sản, anh nhận nhiệm vụ tập hợp
các đoàn viên lâu nay bị phân tán lại và lập ra tổ chức đoàn ở khu mới này.
Đấy, đời anh đã xoay chiều ra như vậy đấy.
*
Ngoài
trời nóng dữ. Cành anh đào ngó đầu vào cửa sổ bỏ ngỏ nơi phòng làm việc của chủ
tịch Ban chấp hành. Mặt trời rọi sáng cây thập tự mạ vàng trên gác chuông kiểu
gô-tích của nhà thờ ở phía bên kia đường, đối diện với trụ sở Ban chấp hành.
Trong khu vườn nhỏ, trước cửa sổ, đàn ngỗng con bé tí xíu của bà gác cổng trụ
sở ủy ban nhanh nhảu chạy tìm ăn. Những con ngỗng mới nhú lông tơ màu xanh dịu
như cỏ non quanh mình chúng.
Chủ tịch
ủy ban đã đọc xong bức điện vừa nhận được Một bóng tối chạy qua mặt đồng chí.
Bàn tay to gân guốc của đồng chí thọc vào mái tóc quăn rậm và nằm yên ở đấy.
Nhi-ca-lai
Nhi-ca-lai-ê-vích Li-xi-xưn là chủ tịch Ban chấp hành Bê-rê-dơ-đốp: Đồng chí
chỉ mới hai mươi bốn tuổi, nhưng anh chị em cán bộ Đảng và những người giúp
việc chẳng ai ngờ là đồng chí ít tuổi đến thế cả. Li-xi-xưn người to lớn, khỏe
mạnh, nét mặt nghiêm nghị và đôi khi dữ tướng, trông bề ngoài tưởng chừng như
tuổi đã ba mươi lăm. Người đồng chí rắn chắc lại, đầu to cắm trên cái cổ vạm
vỡ, cặp mắt nâu minh mẫn nhìn hơi lạnh nhạt, cằm bạnh đầy nghị lực. Li-xi-xưn
mặc quần cộc xanh thẫm, áo lót xám, túi trên bên trái mang huân chương Cờ đỏ.
Trước
tháng Mười, Li-xi-xưn “chỉ huy” chiếc máy tiện ở nhà máy chế tạo vũ khí Tu-la.
Ông đồng chí, cha đồng chí và bản thân đồng chí hầu như từ lúc còn bé đã cắt và
gọt sắt ở đấy.
Từ cái
tối mùa thu ấy, lần đầu tiên trong đời, Li-xi-xưn cầm vũ khí mà trước kia anh
chỉ làm ra thôi; Bão táp đã cuốn anh đi. Cuộc cách mạng và Đảng đã kéo anh từ
trận lửa này đến trận lửa khác. Người thợ quân khí vùng Tu-la đó đã trải qua cả
một con đường quang vinh: Mới đầu là binh nhì, anh đã trở thành sĩ quan chỉ huy
và chính ủy trung đoàn của Hồng quân.
Lửa
cháy, đạn réo đã thuộc về dĩ vãng rồi. Hiện nay, Li-xi-xưn công tác ở biên khu
này. Cuộc đời lặng lẽ trôi đi. Ngày ngày, anh ngồi đến tối khuya nghiên cứu
những báo cáo về tình hình mùa màng; Nhưng bức điện hôm nay bỗng làm anh vụt
sống lại trong chốc lát dĩ vãng lửa đạn. Bức điện viết gọn, ngắn:
"Tối
mật. Gửi chủ tịch Ban chấp hành Bê-rê-dơ-đốp: Đồng chí Li-xi-xưn.
Ở biên
giới, quan sát thấy bọn Ba Lan tích cực chuyển đến một đám thổ phỉ quan trọng
có thể gây khủng bố các vùng biên thùy. Đồng chí thi hành ngay những biện pháp
đề phòng. Đề nghị tiền bạc và vàng của ngân khố cho chuyển đến liên quận ngay,
đừng giữ tiền thuế ở nhà đồng chí".
Nhìn qua
cửa sổ phòng làm việc của mình, Li-xi- xưn trông thấy được hết những ai đi vào
trụ sở Ban chấp hành. Pa-ven đang leo lên thềm. Một phút sau, anh đập cửa.
Li-xi-xưn
bắt tay Pa-ven.
- Cậu
ngồi xuống, mình bàn chuyện này.
Suốt một
tiếng đồng hồ, chủ tịch Ban chấp hành không tiếp một ai.
Pa-ven ở
phòng làm việc của Li-xi-xưn bước ra thì trời đã đứng bóng. Cô bé Nhu-ra, em
gái Li-xi-xưn, từ trong vườn chạy ra. Pa-ven thường gọi em bé là A-nhu-ca. Cô
bé hay thẹn và tuy còn nhỏ tuổi mà vẻ người rất đoan trang, hễ cứ gặp Pa-ven là
chào, miệng bao giờ cũng chúm chím cười đến ngoan. Hôm nay, cô bé cũng chào với
một vẻ ngượng nghịu trẻ con, hất ngược chùm tóc cắt ngắn xòa trên trán.
Nhu-ra
hỏi:
- Có ai
trong buồng anh em không anh. Nãy giờ, chị Ma-ri-a đợi mãi anh em về ăn cơm.
- Có
mình anh ấy trong phòng thôi. Em vào gọi được đấy A-nhu-ca ạ.
Sớm hôm
sau, trời còn lâu mới sáng, có ba chiếc xe đóng ngựa béo tốt, dừng trước trụ sở
Ban chấp hành. Những người đi áp tải xe nói chuyện nhỏ với nhau. Họ mang từ
trong phòng tài vụ ra nhiều túi niêm phong, xếp lên xe và mấy phút sau, bánh xe
đã lăn ầm ầm trên đường nhựa. Pa-ven chỉ huy một tiểu đội đi áp tải. Vượt bốn
chục cây số (trong đó có hai mươi nhăm cây số đường rừng) đến liên quận không
một trở ngại gì. Tiền và vàng được cất vào các két sắt của của ty tài chính
liên quận. Mấy ngày sau, một người đi ngựa từ phía biên giới phi về phía Bê-
rê-dơ-đốp. Những người vô công rồi nghề trong thôn ngơ ngác nhìn theo người đi
ngựa và con ngựa ướt đẫm mồ hôi, sùi bọt mép.
Đến
trước cửa trụ sở Ban chấp hành, người đi ngựa tụt xuống đất, và tay cầm kiếm,
anh ta lọc cọc nện gót ủng trên bậc thềm. Li-xi-xưn cau mày, nhận thư trong tay
người kia, bóc ra và ký lên phong bì. Người lính biên phòng đó không để ngựa
nghỉ, nhảy phốc lên yên, phi nước đại trở về.
Không ai
biết được nội dung bức thư kia, ngoài đồng chí chủ tịch Ban chấp hành. Nhưng
những người dân ở thôn này đã đánh hơi thính như chó săn. Cứ ba người bán hàng
tạp hóa ở đây, ít nhất cũng có hai đứa là dân buôn lậu vặt và cái nghề ấy vốn
rèn linh tính đoán trước nguy biến.
Có hai
người bước nhanh trên hè phố đi về phía bộ tham mưu của tiểu đoàn tổng huấn
luyện quân sự. Một trong hai người đó là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Nhân dân ở đấy
đều biết anh, lúc nào anh cũng mang vũ khí bên mình. Nhưng hôm nay, người cùng
đi với Pa-ven là Tơ-rô-phi-mốp, bí thư Đảng ủy, cũng mang một khẩu súng ngắn ở
dây lưng, thì đấy là một dấu hiệu không hay rồi.
Mấy phút
sau đã có chừng mươi mười lăm người, từ trong bộ tham mưu chạy ra, người nào
cũng có súng lắp lưỡi lê tuốt trần; Họ chạy về phía cối xay máy ở ngã tư. Các
đảng viên và đoàn viên thì nhận vũ khí phát ở trụ sở Đảng ủy. Đồng chí chủ tịch
Ban chấp hành phi ngựa, đầu đội mũ Cô-dắc, khẩu súng Mô-de muôn thuở đeo bên
hông. Không còn ngờ gì nữa: Lại có chuyện gì không ổn xảy ra. Quảng trường và
các phố nhỏ vắng tanh như chết: Không một bóng người lảng vảng. Chỉ trong nháy
mắt, các cửa hàng tạp hóa đã đóng hết cửa chớp, những chiếc khóa to tướng kiểu
cổ, khóa kín các cổng. Chỉ còn những con gà mái táo gan và những con lợn mình
nhẽo ra vì nóng nực là còn cố rúc vào đống rác bẩn hí húi kiếm ăn. Bộ đội vào
bố trí trong vườn cây ăn quả ở rìa thôn. Từ đấy là bắt đầu cánh đồng làng, và
bố trí ở đấy nhìn thấy rõ đằng xa con đường cái thẳng tắp. Thông báo mà
Li-xi-xưn nhận được chỉ có mấy dòng chữ ngắn:
"Đêm
qua trong khu vực thôn Pết-đúp-xi, một toán phỉ đi ngựa có chừng một trăm tay
kiếm và hai súng liên thanh, sau một trận xô xát với ta, đã vượt qua được biên
giới lọt vào lãnh thổ Xô-viết. Đồng chí hãy thi hành mọi biện pháp đối phó. Dấu
vết bọn phỉ đến khu rừng Sla-vút thì mất. Ngày hôm nay sẽ có một đại đội chiến
sĩ Cô-dắc đỏ chạy qua Bê-rê-dơ-đốp truy kích bọn phỉ. Báo đồng chí biết để khỏi
nhầm...
Tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn độc lập biên phòng.
Ga-vơ-ri-lốp".
Một giờ
sau, có người đi ngựa hiện ra trên con đường chạy về phía thôn Bê-rê-dơ-đốp.
Cách một cây số, sau người đó, có một đại đội kỵ binh. Pa-ven chăm chú nhìn ra
phía trước. Người đi ngựa tiến lại gần, vẻ thận trọng, nhưng không nhìn thấy ta
bố trí trong vườn cây. Đấy là một chiến sĩ Hồng quân trẻ tuổi của Trung đoàn
Hồng quân Cô-dắc thứ mười bảy. Lần đầu tiên, anh được phái đi trinh sát. Những
người từ trong vườn đổ ra vây lấy anh đột ngột; Anh thấy trên áo va-rơ của họ
đều có huy hiệu Đoàn thanh niên cộng sản thì mỉm cười vẻ hơi lúng túng. Sau mấy
lời trao đổi ngắn, anh quay ngựa lại, phi đến đại đội kỵ binh đang chạy nước
kiệu. Anh em bộ đội địa phương để cho các chiến sĩ Hồng quân Cô-dắc đi rồi mới
trở lại vị trí trong vườn như cũ.
Nhiều
ngày lo âu trôi qua. Li-xi-xưn nhận được bản tin báo bọn phỉ không mở rộng được
hoạt động biệt kích của chúng: Bị kỵ binh Cô-dắc đỏ lùng riết, chúng bắt buộc
phải vội vàng vượt biên giới trở về bên kia.
Nhóm
đảng viên bôn-sê-vích ở đây số lượng quá ít: Trong toàn khu chỉ có mười chín
người. Họ làm việc rất khẩn trương trong công cuộc xây dựng Xô- viết. Cơ sở
trong quận còn non yếu. Phải xây dựng lại tất cả. Vị trí gần biên giới bắt mọi
người phải cảnh giác.
Việc
tuyển cử lại các Xô-viết, cuộc đấu tranh chống phỉ, công tác văn hóa, cuộc đấu
tranh chống bọn buôn lậu, công tác quân sự của Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản
- đấy là cả một cái vòng công tác quay cuồng suốt từ sáng tinh sương cho đến
tận đêm khuya, công việc ấy thu hút tất cả cuộc đời của Li-xi-xưn, của Tơ-
rô-phi-mốp, của Pa-ven và một số cán bộ mà các anh đã tập hợp được.
Từ trên
mình ngựa nhảy xuống là đến ngay bàn giấy, từ bàn giấy lại nhảy ra quảng
trường, nơi các trung đội thanh niên tập luyện quân sự; Rồi lại đến câu lạc bộ,
trường học, hai ba cuộc họp. Còn ban đêm thì ngựa, súng Mô-de bên hông và tiếng
quát: “Ai, đứng lại”, tiếng bánh xe ngựa mang hàng lậu nước ngoài phóng chạy
trốn - đấy tất cả ngần ấy thứ chiếm hết ngày và nhiều khi hết cả đêm nữa của
người chính ủy tiểu đoàn hai.
Quận
đoàn thanh niên cộng sản Bê-rê-dơ-đốp gồm Pa-ven, Li-đa Pô-lê-vích - một cô gái
vùng sông Vôn- ga mắt híp, phụ trách nữ thanh niên - và Ra-dơ-va- li-khin
Giên-ca - một tay học trò ly-xê ngày trước, người cao dong dỏng, vẻ bảnh trai,
“còn non tuổi mà đã sớm hiểu nhiều điều” như người ta thường nói, một tay
thích. Những chuyện kỳ hùng mạo hiểm, rất thuộc những chuyện Xéc-lốc Hôm và
Luy-y Bút-xê- na. Ra-dơ-va-li-khin trước đã từng làm trưởng phòng hành chính
của đảng ủy quận, cách đây bốn tháng mới vào Đoàn thanh niên cộng sản, nhưng
trong đám đoàn viên thì vẫn ra vẻ ta đây là “đảng viên bôn-sê- vích lão thành”.
Không còn ai để gửi đến Bê-rê-dơ- đốp nên sau khi suy nghĩ khá lâu, liên quận
ủy đã phái Ra-dơ-va-li-khin đến đây làm “cán bộ chính trị”.
Mặt trời
lên đúng ngọ. Hơi nóng ùa vào cả những chỗ mát nhất, mọi loài vật đều nấp dưới
mái nhà; Ngay những con chó con cũng bò xoài dưới những kho chứa rơm và nằm uể
oải ngã vật vã, mình nhẽo ra vì nóng. Hình như mọi sinh vật đều bỏ làng này đi
cả, chỉ còn có con lợn sề đang nằm rúc trong vũng bùn cạnh giếng, miệng kêu ủn
ỉn có vẻ thú vị lắm.
Pa-ven
cởi dây buộc ngựa và đôi môi cắn chặt với nhau để nén cơn đau buốt nhoi nhói ở
đầu gối chân, anh trèo lên ngựa. Cô giáo đứng trên thềm nhà trường, tay che mặt
cho khỏi chói nắng.
- Thôi
chào đồng chí chính ủy. - Cô nói và mỉm cười.
Con ngựa
giậm chân sốt ruột, cổ gập lại mà giật dây cương.
- Chào
đồng chí Ra-ki-chi-na nhé! Thế là đã quyết định rồi đấy: Mai đồng chí sẽ đến
dạy bài đầu.
Con ngựa
cảm thấy dây cương thả lỏng liền phi nước kiệu. Ngay lúc ấy có tiếng gào thét
dữ tợn đưa đến tai Pa-ven. Những khi xảy ra cháy nhà thì những người đàn bà nhà
quê vẫn thường kêu la inh ỏi như thế. Dây cương giật mạnh kéo con ngựa quay
phắt trở lại, và Pa-ven trông thấy một chị nông dân trẻ thở hồng hộc từ ria
làng chạy ra. Cô giáo Ra-ki-chi- na bước ra giữa đường, ngăn chị lại. Dân làng
lũ lượt kéo ra cổng, số đông là các ông già bà cả. Những người trai tráng đều
bận làm ngoài đồng.
- Các
ông các bà ơi, lại xem ngoài kia kìa! Có trời đất nào như thế được không? Có
thể nào như thế được không?
Khi
Pa-ven phi ngựa lại gần thì dân làng từ khắp các ngả đã chạy đến. Người ta quây
lấy chị nông dân, kéo tay chiếc áo trắng của chị, tiếng hỏi dồn, giọng hoảng
hốt, nhưng nghe chị nói lung tung chẳng còn ai hiểu đầu cua tai nheo ra sao! Có
một ông cụ già râu xồm xoàm, một tay giữ cái quần vải ngắn, nhảy cẫng lại gần
trông bộ rất kỳ quặc, cụ sấn sổ hỏi chị ta:
- Đừng
la gào lên như người điên ấy! Người ta đánh nhau ở đâu? Tại sao lại đánh nhau?
Thôi, đừng có la ồn lên nữa, trời ạ!
- Làng
ta với dân Pốt-đúp-xi đánh nhau... Vì chuyện bờ ruộng! Bên Pốt-đúp-xi đang đánh
người làng ta chết đến nơi kia kìa!
Mọi
người đã hiểu cơn tai họa. Ngoài đường, tiếng phụ nữ rống lên, các cụ già tru
tréo điên cuồng. Và tiếng la hét chạy khắp làng, nhao lên khắp sân các nhà, như
tiếng báo động cấp cứu: “Bọn Pốt-đúp-xi, vì chuyện bờ ruộng, lấy liềm giết chết
người làng ta!” Dân làng ai có thể đi được là từ nhà chạy túa ra, vác đinh ba,
vác rìu hay vác độc có chiếc cọc rào nhổ lên. Họ chạy ra đồng đến chỗ ẩu đả đổ
máu, nơi dân hai thôn đang giải quyết vấn đề tranh chấp hàng năm về chuyện bờ
ruộng.
Pa-ven
quất dữ vào mình ngựa, con ngựa lồng lên phi ngay lập tức. Hăng lên vì tiếng
thúc của chủ, con ngựa vượt toán người đang chạy, phi nhanh lên phía trước. Hai
tai rạp vào đầu, co chân giơ cao, con ngựa cắm cổ chạy như bay. Trên một quả
đồi, chiếc cối xay gió giương cánh quạt ra tứ phía như cản đường. Bên phải cối
xay, ở bãi đất thấp, cạnh bờ sông là cánh đồng cỏ. Bên trái, một cánh đồng lúa
mạch chạy dài xa tắp, lúc thì đổ xuống những bờ lạch. Gió hây hây lướt trên lúa
chín như vuốt ve. Hoa mào gà rực bên đường. Sự yên lặng và nồng nực khó chịu
bao trùm lấy chỗ này. Chỉ có xa xa, ở chỗ dòng sông lấp lánh như con rắn bạc
uốn mình sưởi nắng là có tiếng kêu vọng lại.
Con ngựa
nhào xuống dốc, lao vút về phía đồng cỏ. Một ý nghĩ thoáng qua đầu Pa-ven: “Nếu
vấp chân thì cả mình lẫn nó đều chết mất!”. Nhưng không thể nào ghìm ngựa được
nữa. Rạp mình sát bờm ngựa, Pa-ven nghe gió rít bên tai. Con ngựa trổ ra đồng
cỏ, hăng như điên. Người ta đang đánh nhau dữ tợn như cuồng như dại ở đằng ấy.
Mấy người mình đẫm máu nằm sóng sượt trên đất.
Một
người nhiều râu, tay cầm cái cán liềm gãy, đang đuổi theo một anh con trai mặt
bê bết máu; Người nhiều râu chạy xô vào ức con ngựa bị ngã lộn nhào ra đất. Một
nông dân chắc khỏe da sạm nắng đang lấy giày ống nặng trịch đá lấy đá để đối
thủ đã ngã vật trên đất, cố tình muốn cho anh ta đến phải “hồn lìa khỏi xác”.
Dồn tất
cả sức nặng của con hắc mã, Pa-ven phi ngựa thọc sâu vào đám đông, làm cho bọn
đang ấu đả nhau chạy tán loạn. Không để cho họ hoàn hồn, anh điên người quay
ngoắt ngựa lại lao vào đám đông hầm hầm hung hãn như thú dữ. Cảm thấy chỉ có
cách cũng làm ra hung hãn, cũng làm cho khiếp sợ mới giản tán được đám người bê
bết máu này, anh điên người thét lên:
- Hãy
buông nhau ra, lũ khốn! Tao sẽ bắn chết hết này, bọn thổ phỉ!
Và rút
khẩu Mô-de trong bao ra, Pa-ven bắn lướt qua một cái mặt đang nhăn nhó giận dữ.
Con ngựa nhảy một cái - một phát súng nữa. Nhiều người vất liềm quay đầu chạy.
Người chính ủy phi ngựa khắp đồng cỏ như điên giận, không để cho khẩu súng im
miệng, và anh đã đạt được ý muốn: Đám người từ cánh đồng cỏ chạy tỏa ra bốn
phía để tránh mang vạ vào mình và tránh cái con người không hiểu ở đâu tới lồng
lộn, dữ tợn, đáng sợ với “cái máy thổ tả” bắn không ngừng đó.
Ít lâu
sau, tòa án quận đến Pốt-đúp-xi. Đồng chí chánh án nhân dân hỏi những người làm
chứng rất lâu mà không tìm ra kẻ thủ mưu. Sau cuộc ẩu đả, không có ai chết,
những người bị thương cũng đã lành. Đồng chí chánh án bền bỉ, với đức tính kiên
nhẫn của người bôn-sê-vích, đã cố gắng giải thích cho những người nông dân đang
đứng sầm mặt ở trước đồng chí tất cả tính chất dã man và không thể nào tha thứ
được của cuộc ẩu đả mà họ đã gây ra.
- Thưa
đồng chí chánh án, đấy là lỗi tại cái bờ ruộng, ranh giới bờ ruộng của chúng
tôi bị lẫn lộn. Vì thế cho nên năm nào cũng sinh ra đánh nhau.
Tuy thế
vài người cũng phải trả lời về những việc làm của họ.
Sau đấy
một tuần, có một ủy ban đến cắm cột mốc ở chỗ xảy ra tranh chấp trên đồng cỏ.
Ông cụ già làm nghề đo đất, mình đẫm mồ hôi, mệt lử vì say nắng và vì phải đi
lại nhiều, vừa cuộn cái thước dây, vừa nói với Pa-ven:
- Tôi đã
đo đất ba mươi năm trời nay rồi và ở đâu cũng thế, bao giờ cũng thế, cái bờ
ruộng là duyên cớ gây ra bất hòa. Đồng chí cứ nhìn đường phân giới các đồng cỏ
mà xem! Thật là kỳ quái! Người say rượu bước đi còn thẳng hơn. Còn những đám
ruộng? Rộng có ba thước mà cũng đám này lấn lên đám kia. Phân giới thế nào bây
giờ? Phân giới được thì cũng đủ loạn óc mất. Thế mà hàng năm các đám ruộng cứ
bị chia nhỏ, chia nhỏ ra mãi. Con ra ở riêng, tách khỏi bố - thế là đám ruộng
lại tách ra làm đôi. Tôi dám chắc với đồng chí là chỉ hai mươi năm nữa, cái
cánh đồng chỉ còn toàn là bờ ruộng dày chi chít, rồi chẳng có chỗ mà gieo lúa
nữa đâu. Ngay bây giờ đã có mười phần trăm đất để làm bờ ruộng, không trồng
trọt gì được.
Pa-ven
mỉm cười:
- Đồng
chí đo đất ạ, hai mươi năm nữa thì ở ta chẳng còn một cái bờ ruộng nào cho mà
xem.
Ông già
nhìn người nói chuyện với mình bằng cặp mắt độ lượng.
- Ý đồng
chí nói đến xã hội cộng sản có phải không? Chà, chắc đồng chí thừa hiểu rằng
cái đó còn là chuyện xa xôi lắm.
- Thế cụ
có biết nông trang tập thể Bu-đa-nốp không?
- À ra
đồng chí nghĩ đến cái nông trang ấy đấy?
- Phải.
- Tôi có
đến Bu-đa-nốp... Nhưng đấy dù sao vẫn là chuyện ngoại lệ, khác thường, đồng chí
Pa-ven ạ.
Ủy ban
đo xong. Hai thanh niên cắm cọc xuống. Hai bên cánh đồng, bà con nông dân đứng
giương mắt chăm chăm theo dõi; Cọc cắm ở chỗ cũ, mốc cũ là những chiếc gậy vót
nhọn đã mục dở, chỉ còn từng quãng, từng quãng nhú lên trong cỏ rậm.
*
Người
đánh xe quất mạnh đầu roi vào con ngựa gầy và quay lại phía những người khách
ngồi trên xe. Bác ta là một người chất phác hay nói bô bô. Bác ta kể:
- Ai mà
biết được những ông côm-xô-môn (Đoàn viên thanh niên cộng sản) ấy ở đâu hiện
ra? Trước ở đây chẳng hề có. Tất cả chuyện đó tôi cho là khởi đầu tự cái cô
giáo tên là Ra-ki-chi-na, chắc bà con đều biết chứ? Cô ấy còn trẻ, nhưng có thể
nói là người đến tai hại. Cô ấy khuấy tất cả các mụ già trong làng này lên, tập
hợp họ lại rồi làm náo cả lên. Vì thế mà làng này không yên nữa. Ngày trước,
đáng lẽ công bằng ra thì phải cho mụ nhà tôi cái tát vào miệng, làm thế là mụ
sụt sịt mấy cái và câm ngay. Nhưng bây giờ tốt nhất là đừng có đụng đến mụ,
đụng vào mụ là phải biết. Mụ lôi ngay tòa án nhân dân ra mà nói vào mặt mình; Còn
nếu là các bà còn trẻ thì là dọa ngay ly dị và kể vanh vách ra mọi thứ đạo
luật. Cái mụ Gan-ca nhà tôi thật hiền như cục đất, không có ai lại hiền và ít
lời như mụ, thế mà bây giờ làm đại biểu đại biếc đấy. Chừng như là làm trùm món
phụ nữ ở thôn tôi ấy mà. Tất cả các bà trong làng đều kéo đến tìm gặp mụ. Lúc
đầu, tôi những muốn dần cho mụ Gan-ca nhà tôi mấy roi ngựa, nhưng sau nghĩ lại
tôi lại thôi. Thôi, mặc xác họ! Cứ để cho họ lắm miệng cho thích. Mụ nhà tôi
việc nhà việc cửa được cái đảm đang, thế là đủ, tôi cũng chẳng phàn nàn gì về
mụ nó cả.
Bác đánh
xe đưa tay lên gãi cái ngực lông lá, áo sơ mi để hở, rồi lấy roi quất vào bụng
ngựa. Trên xe có Ra-dơ-va-li-khin và Li-đa, cả hai đều có việc ở Pốt- đúp xi:
Li-đa muốn đến tổ chức họp các nữ đại biểu, còn Ra-dơ-va-li-khin thì đến sắp
xếp công tác của chi bộ thanh niên cộng sản.
Li-da
hỏi đùa bác đánh xe ngựa:
- Thế ra
bác không ưa thanh niên côm-xô-môn hay sao?
Bác ta
kéo râu và chậm rãi trả lời:
- Nói
thật ra, tôi chẳng có gì phản đối... Tuổi trẻ có thể chơi bời được. Diễn một vở
kịch hay làm một cái gì đấy. Chính tôi khi nào có vở kịch vui gì đáng xem là
tôi rất thích xem. Lúc đầu, chúng tôi cũng tưởng là bọn trẻ sẽ họp nhau lại làm
ba lăng nhăng. Nhưng không, câu chuyện lại ngược hẳn lại. Người ta nói rằng bọn
họ rất nghiêm khắc đối với những chuyện rượu chè, du côn vô lại và các chuyện
chơi bời bậy bạ khác. Họ lại chăm học hành. Chỉ phải cái họ hay nhạo đức Chúa
lời và cứ khăng khăng đòi lấy cái nhà thờ làm câu lạc bộ. Trong việc này họ
trái hẳn đi rồi. Vì cái chuyện này mà các cụ già xem những người côm-xô-môn
chẳng ra gì và ghét cay ghét đắng bọn họ. Nhưng ngoài chuyện ấy ra thì được
thôi! Chỉ có một điều làm tôi thắc mắc là họ chỉ kết nạp con nhà cùng khổ, cố
nông hay bần nông thôi. Họ không cho con nhà giàu vào.
Chiếc xe
ngựa xuống dốc và đỗ trước cửa trường học.
Bà cụ
gác cổng dọn giường cho khách nằm trong phòng mình, còn bà thì ra ngủ ngoài nhà
kho chứa cỏ khô. Li-đa và Ra-dơ-va-li-khin vừa mới ở hội nghị về. Cuộc họp đã
kéo dài quá. Trong căn nhà tranh, tối om om, Li-đa tháo giày ra, leo lên giường
và ngủ thiếp ngay. Hai bàn tay Ra-dơ-va-li-khin chạm rất thô bạo vào người chị
làm chị thức giấc dậy: Hắn định giở trò, điều đó thế nào, chẳng còn phải ngờ gì
nữa.
- Anh
làm cái gì thế?
- Khẽ chứ,
Li đa, Li-đa nói to thế? Li-đa hiểu cho, tôi nằm trơ một mình một giường chán
quá. Khỉ thật. Thế Li-đa, Li-đa không biết có gì thú hơn là ngủ say như chết à?
- Buông
tay ra và xéo ngay khỏi giường tôi lập tức, cút đi đâu thì cút!
Li-đa ẩy
tay ra. Từ xưa nay, chị đã không thể nào chịu được cái cười khả ố của
Ra-dơ-va-li-khin. Lúc này chị muốn nói vào mặt Ra-dơ-va-li-khin một điều gì
thật nhục và thật đau cho hắn. Nhưng chị buồn ngủ quá, nhắm nghiền mắt lại
ngay.
- Cứ màu
mè làm gì thế? Làm như là thượng lưu trí thức không bằng? Hay là cô tốt nghiệp
trường dạy con nhà trâm anh thế phiệt ra đấy? Cô tưởng tôi tin được như thế hay
sao? Thôi, đừng có vớ vẩn nữa. Nếu em giác ngộ thì em hãy cho lòng anh được
thỏa rồi tha hồ ngủ.
Cho là
không cần nói lắm, hắn một lần nữa rời ghế dài, lại ngồi xuống giường và đặt
tay lên vai Li- đa, làm y như là hắn đã làm chủ hoàn toàn người con gái.
Li-đa
thức giấc dậy ngay, mắng vào mặt hắn:
- Đồ quỷ
xéo đi ngay! Mai tôi sẽ kể hết mọi chuyện cho Pa-ven biết, tôi nói thật đấy.
Ra-dơ-va-li-khin
nắm lấy tay Li-đa và tức tối rỉ vào tai:
- Tôi
cóc cần cái thằng Pa-ven nhà cô; Cô cưỡng lại cũng vô ích, thế nào tôi cũng ngủ
được với cô.
Vật lộn
giữa hai người trong giây lát. Túp nhà im ắng vang lên tiếng tát “bốp” rồi
“bốp” nữa... Ra-dơ- va-li-khin lăn kềnh ra đất. Trong tối Li-đa chạy vội đến
cửa, đẩy cửa ra và chạy ra ngoài sân. Chị đứng lại ngoài ấy, người tắm ánh
trăng, trong lòng tức giận vô kể.
Ra-dơ-va-li-khin
tức tối quát lên:
- Thôi,
đi vào nhà, đồ ngu như bò.
Rồi hắn
dọn giường ra mái hiên và nằm ngủ ở ngoài ấy. Còn Li-đa, sau khi cài then cửa
lại, cuộn mình nằm co trên giường.
Sáng hôm
sau, hai người ra về; Ngồi trên xe cạnh cụ già đánh xe, Ra-dơ-va-li-khin hút
hết điếu thuốc này đến điếu khác.
“Cái con
bà cô không thể sờ đến được này có thể đem kể hết chuyện với Pa-ven thật đấy.
Con bé cũng lắm mồm lắm đấy! Thà như nó đẹp gì cho cam. Đằng này nó xấu như ma.
Phải làm lành với con bé mới được không thì đến phiền mất. Pa-ven vốn chẳng ưa
gì mình”.
Nghĩ
vậy, Ra-dơ-va-li-khin bèn lại ngồi bên Li-đa. Hắn làm ra bộ hổ thẹn, đôi mắt có
vẻ như sầu não; Ấp a ấp úng thanh minh câu trước mâu thuẫn với câu sau, hắn tỏ
ra hắn đã ăn năn hối hận rồi.
Và
Ra-dơ-va-li-khin đã đạt được ý muốn: Đến đầu thôn, Li-đa hứa sẽ không kể lại
câu chuyện xảy ra đêm qua với ai cả.
*
Các chi
đoàn thanh niên cộng sản lần lượt ra đời trong các xã biên khu. Các đồng chí ủy
viên của quận đoàn thanh niên cộng sản đã hiến nhiều thì giờ và sức lực cho
những mầm non đầu tiên đó của phong trào cộng sản. Pa-ven và Li-đa Pô-lê-vích
suốt cả ngày công tác ở các làng vùng đó.
Ra-dơ-va-li-khin
không thích về xã. Hắn không biết làm thân với anh em thanh niên nông dân,
không được họ tin và làm việc gì cũng hỏng. Còn Li-đa và Pa-ven thì khác hẳn,
cả hai đều có một tác phong làm việc giản dị và tự nhiên. Li-đa tập hợp được
các chị em trẻ, kết bạn và liên hệ chặt chẽ với họ, làm cho chị em tự nhiên
thích thú với sinh hoạt và công tác của Đoàn thanh niên cộng sản. Trong khắp
quận, toàn thể anh em đều biết Pa-ven. Tiểu đoàn tổng quân huấn thứ hai đã có
một ngàn sáu trăm thanh niên chưa đến lượt gọi nhập ngũ, vào học tập quân sự.
Chưa bao giờ tiếng đàn gió lại giữ một vài trò lớn trong công tác tuyên truyền
như là ở đây, trong những tối liên hoan của dân làng ở ngoài trời. Chiếc đàn
gió đã làm Pa-ven thành “bạn cố tri” của mọi người. Đối với khá nhiều chàng
trai, con đường đi đến vội Đoàn thanh niên cộng sản Lê-nin vĩ đại thường bắt
đầu bằng cái đàn gió có sức thu hút mê người, lúc thì lôi cuốn say sưa và làm
rung động trái tim với nhịp điệu đầy nhiệt huyết của bài hành quân, lúc lại dịu
ngọt và mơn man bởi những làn ngân não ruột của những bài dân ca U-cơ-ren.
Người ta nghe tiếng đàn gió, người ta nghe cả người chơi đàn gió - trước kia
anh là công nhân, ngày nay là chính ủy bộ đội và “bí thư tí hon” thanh niên
cộng sản. Âm điệu của đàn gió và những lời nói chuyện của người chính ủy trẻ
tuổi thấm vào lòng mọi người, êm ái và hòa nhịp với nhau. Những bài hát mới đã
bắt đầu vang lên trong các thôn xóm; Trong những túp nhà tranh, bây giờ không
phải chỉ cố độc những tập Thánh thi và những sách dạy đoán mộng, mà đã có cả
những loại sách khác rồi.
Cuộc đời
của bọn buôn lậu trở nên gay go. Đối với chúng bây giờ không phải chỉ độc có
những chiến sĩ biên phòng mới là đáng gờm thôi: Chính quyền Xô- viết đã tranh
thủ được những bạn trẻ, những người giúp sức tích cực của mình. Đôi khi, vì bốc
lên muốn tự mình tóm được kẻ thù, nên các chi đoàn thanh niên cộng sản biên
thuỳ đã vượt quá phạm vi của họ. Và lúc đó thì Pa-ven lại tìm cách gỡ ra cho
anh em. Có một hôm, Gơ-ri-sút-ca Khô-rô-vết-cô, bí thư chi đoàn thanh niên cộng
sản ở Pốt-đúp-xi, một tay mắt xanh, nhanh nhẹn, rất hăng say trong những cuộc
thảo luận chống tôn giáo, được báo bằng nguồn tin riêng của anh là đêm nay sẽ
có chuyến hàng lậu tới nhà tên chủ máy xay trong thôn. Lập tức anh huy động
toàn chi đoàn thanh niên đi. Cả chi đoàn do Gơ- ri-sút-ca đứng đầu, võ trang
bằng khẩu súng tập và hai lưỡi lê, ngay đêm ấy, thận trọng đến nấp trước cái
máy xay rình con thú dữ. Đồn biên thùy của Cục chính trị Nhà nước đã biết tin
về bọn buôn lậu và đã phái một đơn vị đến. Đêm hôm ấy, hai bên chạm trán nhau
và nhờ có tinh thần kiên nhẫn sáng suốt của các chiến sĩ biên phòng mà các đoàn
viên thanh niên đã không bị bắn chết trong trận chạm trán đó. Người ta chỉ tước
vũ khí những chàng trai mà thôi và các cậu bị dẫn đến giam ở một làng bên cạnh
cách đấy bốn cây số.
Lúc đó
Pa-ven đang ở nhà Ga-vơ-ri-lốp. Sáng hôm sau, tiểu đoàn trưởng cho biết bản báo
cáo vừa nhận được về việc trên, bí thư quận đoàn Pa-ven liền phi ngựa đi cứu
bọn trẻ của anh.
Đồng chí
đại diện Cục chính trị Nhà nước vừa cười vừa kể lại chuyện xảy ra đêm qua cho
Pa-ven nghe:
- Bây
giờ chúng ta làm thế này, đồng chí Pa-ven ạ. Các chú ấy là những tay thanh niên
can đảm đấy. Chúng tôi cũng chẳng làm to chuyện với họ làm gì. Nhưng để từ nay
về sau, họ đừng giẫm chân vào nhiệm vụ của chúng tôi, thì đồng chí cẩn phải
chỉnh cho họ một chập ra trò mới được.
Người
gác mở cửa nhà giam. Mười một chàng thanh niên nhổm dậy, lúng ta lúng túng,
chân nhúc nhích mà không dám bước.
Đồng chí
đại diện Cục chính trị Nhà nước chìa hai tay ra dáng bất bình:
- Đấy,
đồng chí xem. Mấy chú cứ vẽ ra thêm chuyện cho nên tôi bắt buộc phải giải mấy
chú lên tỉnh thôi.
Nghe nói
thế, Gơ-ri-sút-ca rất đỗi xúc động:
- Thưa
đồng chí Xa-kha-rốp, chúng tôi có làm gì bậy đâu? Chúng tôi muốn phục vụ chính
quyền Xô- viết. Từ lâu, chúng tôi đã đặt người theo dõi cái tên buôn lậu đó
rồi. Thế mà các đồng chí lại tống giam chúng tôi như thể chúng tôi là thổ phỉ.
Gơ-ri-sút-ca
tủi thân quay đi.
Pa-ven
và Xa-kha-rốp khó khăn lắm mới giữ mãi được vẻ mặt nghiêm nghị. Sau một hồi làm
ra vẻ phải điều đình với nhau găng lắm, hai người thôi không “chỉnh” toán thanh
niên nữa.
Xa-kha-rốp
nói với Pa-ven:
- Nếu
đồng chí đảm bảo cho các chú ấy và hứa với chúng tôi là từ nay về sau, các chú
không đi ra biên giới nữa, còn giúp đỡ chúng tôi thì giúp đỡ bằng cách khác, có
thế tôi mới tha cho các chú ấy.
- Được
tôi xin chịu trách nhiệm về các anh em ấy. Tôi hy vọng anh em sẽ không làm
phiền cho tôi nữa.
Thế là
cả chi đoàn thanh niên lại hát vang trên đường trở về Pốt-đúp-xi. Việc rắc rối
vẫn chưa lộ ra. Còn tên chủ máy xay thì sau đó ít lâu bị bắt quả tang. Lần này,
việc tóm cổ nó làm rất đúng nguyên tắc.
Bọn chủ
trại Đức sống giàu sang trong những làng vùng rừng Mai-đan Vin-la. Những trại
ấp sung túc của bọn cu-lắc ở cách nhau từng nửa cây số một; Những tòa nhà đèo
thêm những nhà phụ trông giống như những đồn lũy nhỏ. Bọn thổ phỉ An-tô-nhúc
được bọn cu-lắc ở đây chứa chấp. Tên quan hai cũ ấy của Nga hoàng đã tập hợp họ
hàng bà con nó, lập thành một nhóm gồm bảy tên phỉ và bắt đầu dùng đến khẩu
súng ngắn của hắn trên các ngả đường lân cận, làm đổ máu nhiều người. Hắn chẳng
từ gì bọn buôn lậu, nhưng cũng không tha các cán bộ Xô-viết qua lại. Bọn hắn di
động rất nhanh. Hôm nay, chúng giết chết hai xã viên hợp tác xã trong thôn,
ngày mai, cách đấy hai mươi cây số, đã thấy hắn tước vũ khí một nhân viên bưu
điện và móc hết của anh từng hào, từng xu. An-tô-nhúc thi nhau với tên đồng
nghiệp của nó là Goóc-đi; Thằng này chẳng kém gì thằng kia, cả hai đứa đã làm
mất khá nhiều thời giờ của dân quân và Cục chính trị Nhà nước của liên quận.
An- tô-nhúc đã mò đến tận ngoại vi thị trấn Bê-rê-dơ- đốp. Các ngả đường vào
thị trấn đã trở thành nguy hiểm. Khó mà tóm cổ được tên phỉ ấy; Cứ khi nào bị
dồn bí quá thì hắn chuồn sang bên kia biên giới, ngồi rúc ở đấy, rồi những lúc
nào người ta ít để tâm nhất đến hắn thì hắn lại thò đầu ra. Mỗi lần con thú dữ
nguy hiểm và không tài nào bắt được đó xồ ra cắn chảy máu thì đồng chí Li-xi-xưn
lại một phen cắn môi tức tối.
- Còn để
cho tên mạt kiếp này cắn chúng mình đến bao giờ? Cuối cùng rồi mình đến phải tự
tay trừ nó mới được. - Tiếng đồng chí rít qua hai hàm răng cắn chặt. Có hai lần
đồng chí chủ tịch cùng đi với Pa-ven và ba đảng viên cộng sản nữa đã đuổi theo
vết chân còn mới của tên phỉ. Song An-tô-nhúc đã đi khỏi rồi.
Trên
liên quận đã phái về Bê-rê-dơ-đốp một đội chống phỉ, do anh chàng Phi-la-tốp
rất diện chỉ huy. Vì kiêu căng, vênh váo như một con gà trống mới lớn,
Phi-la-tốp đã không chấp hành đúng điều lệnh công tác hiện hành ở vùng biên
giới, cho việc đến trình diện với đồng chí chủ tịch là không cần thiết, nên cứ
dẫn đội của mình đến thẳng một làng bên cạnh là Xê-ma-ki. Đến vào lúc đêm,
Phi-la-tốp cho đóng quân trong túp nhà ngay đầu thôn. Toán người lạ có vũ khí,
hành động lại rất bí mật ấy, làm cho một đoàn viên thanh niên cộng sản ở bên
hàng xóm để ý. Người đoàn viên này liền chạy đến báo cho chủ tịch Xô-viết thôn.
Chủ tịch Xô-viết thôn không hiểu gì về đội này, tưởng nhầm đấy là bọn phỉ, thế
là cho người đoàn viên thanh niên đi ngựa hỏa tốc lên quận. Sự sơ suất của
Phi-la-tốp suýt nữa thì làm toi mạng rất nhiều người. Li-xi-xưn đang đêm nghe
tin có “phỉ”, liền huy động dân quân và mang theo độ chục người phi ngựa đến
Xê-ma-ki. Họ chạy thộc vào tận sân, xuống ngựa và nhảy qua hàng rào, tiến vào
nhà. Người gác đứng ở ngưỡng cửa bị một cú báng súng ngắn vào đầu ngã lăn xuống
như cái bị rơi. Li-xi-xưn lấy vai hích mạnh cánh cửa bật tung ra, và toán người
ùa vào gian nhà le lói ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn treo trên trần. Một tay cầm
quả lựu đạn vung ra sau người chực ném, tay kia lăm lăm khẩu súng ngắn Mô-de,
Li-xi-xưn thét lên, mạnh đến nỗi làm rung cả cửa kính:
- Giơ
tay hàng, không tao xé tan xác chúng bay ra bây giờ.
Chỉ
thiếu một giây nữa là người của Li-xi-xưn lia cho toán người còn ngái ngủ kia
một làn mưa đạn. Nhưng cái vẻ đáng sợ của người lăm lăm cầm lựu đạn kia làm cho
hàng chục cánh tay giơ cao lên. Một lát sau, khi các người trong đội diệt phỉ
mặc độc có áo ngủ bị dẫn ra sân, Phi-la-tốp nhìn thấy chiếc huân chương đính
trên áo Li-xi-xưn mới khỏi ríu lưỡi.
Li-xi-xưn
nhổ nước bọt tức tối và phát bẳn lên, giọng khinh bỉ:
- Thật
là đồ ngu!
*
Tiếng
vang của cách mạng Đức vọng đến tận quận này. Những tràng đạn nổ đổ hồi réo
trên các chiến lũy Hăm-bua vang tới. Biên giới không còn yên tĩnh như xưa nữa.
Người ta đọc báo, lòng náo nức mong đợi. Gió của tháng Mười từ phía Tây thổi
lại. Ở quận đoàn thanh niên, đơn gửi đến như mưa xin gia nhập Hồng quân, làm
quân chí nguyện. Pa-ven phải giải thích nhiều cho đại biểu các chi đoàn hiểu
chính sách của nước Xô-viết là chính sách hòa bình, và hiện nay thì Nhà nước
Xô-viết không có ý định gây chiến với bất cứ một nước láng giềng nào cả. Nhưng
những lời giải thích đó ít tác dụng lắm. Chủ nhật nào, những đoàn viên thanh
niên tất cả các chi đoàn cũng kéo tới thị trấn, và họp ngay trong khu vườn nhà
lão cố đạo.
Một hôm
vào giữa trưa, toàn chi đoàn thanh niên Pốt-đúp-xi đông đủ mặt, hàng ngũ chỉnh
tề kéo đến cái sân rộng trước trụ sở quận đoàn. Pa-ven nhìn qua cửa sổ, trông
thấy, liền đi ra thềm. Mười một người thanh niên do Gơ-ri-sút-ca dẫn đầu, người
nào cũng đi giày ống, đeo ba-lô to tướng trên lưng. Họ dừng lại trước cửa.
Pa-ven
ngạc nhiên hỏi:
- Chuyện
gì thế, Gơ-ri-sút-ca?
Nhưng
Gơ-ri-sút-ca nháy mắt ra hiệu và cùng Pa- ven đi vào trong nhà. Khi Li-đa,
Ra-dơ-va-li-khin và hai đoàn viên thanh niên nữa xúm quanh lấy Gơ-ri- sút-ca
thì anh này đóng cửa và cau đôi mày nhợt lại một cách nghiêm nghị, giải thích
rằng:
- Các
đồng chí ạ, đây là tôi làm báo động diễn tập đấy mà. Hôm nay, tôi có tuyên bố
với những đoàn viên chi đoàn tôi rằng: Ở quận có điện xuống, tất nhiên là điện
tối mật: Chiến tranh với bọn tư sản Đức bắt đầu rồi, và không bao lâu nữa sẽ nổ
ra chiến tranh chống bọn chúa đất Ba Lan. Vì thế ở Mát-xcơ-va ra lệnh: Tất cả
đoàn viên thanh niên cộng sản đều ra tiền tuyến; Còn ai sợ, cứ viết đơn xin, sẽ
cho ở nhà. Tôi nói với họ là không được nói gì về chiến tranh cả mỗi người mang
theo một miếng bánh mì và một ít mỡ, ai không có mỡ thì mang đi mấy nhánh hành
hay nhánh tỏi, một giờ sau phải bí mật tập hợp ở sau làng. Chúng ta sẽ đi lên
quận và từ quận lên liên quận nhận vũ khí. Chuyện đó có tác dụng rất lớn đối
với anh em. Họ bắt đầu hỏi vặn tôi nhiều lắm, song tôi cắt đứt: Không có nói
chuyện lôi thôi gì cả. Ai đi thì đi. Còn ai từ chối thì cứ việc viết đơn. Đi
đây là đi tình nguyện. Nghe tôi nói xong, các bạn đoàn viên của tôi ai về nhà
nấy. Lúc đó tim tôi đập mạnh lắm: Nếu không ai đến đi cả thì sao? Nếu vậy tôi
chỉ còn cách giải tán chi đoàn, còn mình thì bỏ đi nơi khác. Tôi ngồi đợi ở gần
thôn và theo dõi. Họ đến từng người một. Một vài người mặt mũi còn ngấn nước
mắt, nhưng bề ngoài họ làm ra vẻ thản nhiên. Cả mười người đều đến, không một
ai bỏ trốn cả. Đấy, chi đoàn Pốt-đúp- xi như thế đấy! - Gơ-ri-sút-ca kết luận,
giọng rất phởn, nắm tay lại hãnh diện đập lên ngực.
Và khi
Li-đa bực mình mắng Gơ-ri-sút-ca như tát nước thì Gơ-ri-sút-ca nhìn chị bằng
một con mắt ngạc nhiên không hiểu ra làm sao cả.
- Chị
Li-đa nói gì lạ thế? Thử hỏi Li-đa, để tập báo động, còn có sáng kiến nào hơn
nữa? Có như thế thì mới nhìn người kỹ được, nhìn ai cũng mới khỏi bị lầm. Muốn
có thêm tác dụng, tôi còn muốn đưa họ lên liên quận nữa kia, nhưng họ đều mệt
cả rồi. Thôi để cho họ về. Song anh Pa-ven ạ, thế nào anh cũng nên nói chuyện
với họ, được chứ anh? Anh không nói thì còn ra thế nào nữa. Cứ nói là lệnh động
viên đã bãi bỏ rồi, song danh dự và quang vinh thuộc về những người thanh niên
anh dũng như họ.
Pa-ven
ít lên liên quận. Những chuyến đi như thế thường mất đến mấy ngày, mà công tác
thì cần ngày nào cũng có mặt ở quận. Trái lại, Ra-dơ-va-li-khin động có dịp là
nhảy tót lên thị xã ngay. Võ trang từ đầu đến chân, trong lòng cứ những sánh
mình với một trong những nhân vật của Cu-pơ ( (Phê-mi-no Cu-pơ, tác giả Mỹ thế
kỷ 19, viết nhiều tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm về những bộ lạc người da đỏ ở
Châu Mỹ) ), đi du ngoạn như thế hắn ta lấy làm thích thú lắm. Hắn tạt vào rừng,
đem súng ra bắn vào đàn quạ hoặc bắn vào con sóc chạy nhanh thoăn thoắt, chặn
khách qua đường nào đi một mình, hỏi người ta như là dự thẩm tòa án hỏi cung:
Ông là ai, ở đâu đến và đi đâu. Đến gần thị xã, Ra-dơ-va-li-khin bỏ súng trường
giấu xuống lớp rơm trên xe ngựa, súng ngắn thì nhét vào túi và cố giữ vẻ bình
thường, đi vào liên quận đoàn thanh niên cộng sản.
- Thế
nào, ở Bê-rê-dơ-đốp các anh có gì mới không?
Trong
phòng Phê-đô-tôp, bí thư của liên quận đoàn, người lúc nào cũng đông. Ai cũng
tranh nói lấy được. Phải biết làm việc trong hoàn cảnh ấy thì mới làm nổi, một
lúc nghe bốn người nói, đồng thời lại viết và trả lời cho một người thứ năm.
Phê-đô-tốp còn trẻ măng, song đã vào Đảng từ 1919. Chỉ có ở cái thời sóng gió
ấy mới có thể mười lăm tuổi đã được kết nạp vào Đảng.
Nghe câu
hỏi của Phê-đô-tốp, Ra-dơ-va-li-khin uể oải đáp lại:
- Nhiều
chuyện mới lắm, không thể kể hết được. Tôi chạy ngược chạy xuôi suốt từ sáng
cho đến tận tối khuya. Phải lấp hết mọi lỗ hổng hiện nay, phải làm từ đầu mọi
việc trên một vùng cơ sở trắng. Tôi đã tổ chức được thêm hai chi đoàn mới nữa.
Các đồng chí triệu tập về đây có việc gì thế? - Và nói xong, hắn làm ra bộ quan
trọng ngồi xuống ghế bành.
Đồng chí
Cơ-rưm-ski, trưởng ban kinh tế, từ nãy giờ cúi mình trên tập tài liệu, nghe hắn
nói thì ngẩng đầu lên nhìn lại:
- Chúng
tôi triệu tập Pa-ven, chứ không triệu tập anh.
Ra-dơ-va-li-khin
thở phun ra một làn khói thuốc dày đặc.
- Pa-ven
không thích đến đây, tôi cứ phải vất vả đi lại thay hắn... Có một số bí thư láu
cá như thế đấy. Bản thân họ chẳng muốn động xác làm gì, chỉ đẩy những con lừa
như hạng tôi đi. Khi nào Pa-ven đi ra biên giới, thế là ở lại đấy hàng hai ba
tuần. Tôi lại phải nai lưng gánh hết mọi việc cho hắn.
Ra-dơ-va-li-khin
chẳng úp mở gì, có ý muốn tỏ cho mọi người biết lẽ ra chính hắn mới thực đáng
làm bí thư quận đoàn kia.
Khi
Ra-dơ-va-li-khin ra rồi, đồng chí Phê-đô-tốp nói thẳng với các đồng chí trong
chấp ủy:
- Tôi
thấy chẳng ưa cái thằng cha này chút nào cả.
Những
cách luồn lọt xúc xiểm thâm hiểm của Ra- dơ-va-li-khin bị phơi ra ánh sáng một
cách tình cờ. Một hôm, Li-xi-xưn rẽ vào nhà đồng chí Phê-đô-tốp nhận thư từ,
công văn. Thường hễ có ai ở quận lên là nhận luôn thư cho mọi người khác.
Phê-đô-tốp nói chuyện lâu với Li-xi-xưn. Trong câu chuyện đó, Ra- dơ-va-li-khin
đã bị lột mặt nạ.
Khi tiễn
đồng chí chủ tịch quận ra về, Phê-đô-tốp dặn:
- Nhưng
dù sao đồng chí cũng cứ cho Pa-ven lên đây nhé. Chúng tôi ở đây vẫn chưa quen
biết đồng chí ấy lắm.
- Được.
Nhưng phải định trước với nhau mới được: Các đồng chí đừng nhằm lấy mất của
chúng tôi Pa- ven kia, nếu lấy, chúng tôi kiên quyết phản đối đấy.
Năm ấy,
ở biên giới, quốc khánh tháng Mười cử hành trong không khí phấn khởi chưa từng
có. Pa- ven được bầu làm chủ tịch ban tổ chức lễ kỷ niệm Cách mạng tháng Mười ở
các xã biên giới. Sau cuộc mít tinh ở Pốt-đúp-xi, khối quần chúng năm ngàn
người, gồm nam nữ nông dân ở ba xã lân cận họp lại, xếp hàng trên một cây số
rưỡi, bắt đầu đi về phía các xã biên giới. Đi đầu là đội kèn và tiểu đoàn quân
huấn, với những lá cờ đỏ tung bay. Đoàn biểu tình rất trật tự và có tổ chức bắt
đầu tiến hành trên đất xô-viết, dọc theo các cột biển, tiến về phía những thôn
xã biên giới cắt làm đôi. Dân Ba Lan chưa bao giờ được trông thấy cảnh tượng
ấy. Đi trước hàng quân là tiểu đoàn trưởng Ga-vơ-ri-lốp và Pa-ven, cả hai cùng
cưỡi ngựa; Phía sau hai người, tiếng kèn đồng rung lên như sấm động, cờ bay
phần phật và những bài hát, những bài hát vang lên. Thanh niên nông dân mặc
toàn quần áo ngày hội. Những nhịp cười của các cô gái vang đi xa, nghe như
tiếng róc rách của một dòng thác bạc; Nét mặt người lớn thì nghiêm túc, các cụ
già thì trịnh trọng. Cả dòng sông người ấy cứ chảy mãi, đến nơi xa tít; Bờ của
dòng sông ấy là biên giới. Không một bàn chân nào rời khỏi mảnh đất Xô-viết,
không một bước chân nào chạm vào đường phân giới nghiêm cấm. Pa-ven đứng ra
bên, nhường cho thác người chảy qua trước mặt mình. Bài hát của thanh niên cộng
sản vang lên:
"Từ
rừng Tai-ga đến tận biển nước Anh
Hồng
quân là hùng mạnh nhất".
Nối tiếp
bài đồng ca của nữ thanh niên:
"Kìa
trên, đồi cao,
Chị em
thợ gặt đang gặt lúa vàng".
Các
chiến sĩ biên phòng Xô-viết vui sướng mỉm cười chào mừng đoàn biểu tình; Những
lính gác Ba Lan thì đứng nhìn, đầy vẻ bối rối hốt hoảng. Cuộc tuần hành dọc
biên giới, tuy đã có báo trước cho bộ Tư lệnh Ba Lan, vẫn làm cho phía bên kia
lo lắng. Những đội tuần tra của hiến binh tiền tuyến hối hả đâm bổ đi sục sạo;
Mỗi chỗ gác tăng lên gấp năm, ở trong các giao thông hào thì bố trí thêm quân
dự bị để đề phòng mọi việc bất ngờ xảy đến. Nhưng, đoàn biểu tình chỉ tiến bước
trên đất nước nhà mình, náo nhiệt và vui vẻ, tiếng hát vang dậy khắp không
trung.
Trên một
mô đất, một người lính Ba Lan đứng gác. Đoàn người đi đều bước, tiến gần lại.
Âm điệu đầu tiên một bài hành khúc cất tiếng bay lên. Người lính Ba Lan trút
súng khỏi vai đặt xuống chân, đứng nghiêm. Pa-ven nghe rõ tiếng hô: “Công xã
muôn năm!”.
Trông
đôi mắt của người lính thấy đúng là chính anh ta vừa hô khẩu hiệu đó. Pa-ven
nhìn anh ta không chớp mắt, nhìn anh ta hết sức nhiệt tình.
Đấy là
một người bạn! Dưới vạt áo lính, trái tim anh ta đang đập hòa nhịp với đoàn du
hành. Và Pa- ven khẽ đáp lại bằng tiếng Ba Lan:
- Chào
đồng chí!
Người
lính gác đứng lại đằng sau. Anh ta nhường bước cho đoàn người, súng vẫn để dựng
nguyên như cũ. Pa-ven nhiều lần ngoái cổ lại nhìn cái bóng bé nhỏ đen đen đó.
Kia lại một người Ba Lan khác nữa. Râu mép bạc lốm đốm. Hai con mắt nhìn không
động trông dài dại dưới vành mạ kền của chiếc mũ “liên bang”. Pa-ven trong đầu
vẫn còn mang máng lời nói của người lính Ba Lan trước mà anh vừa nghe, liền nói
trước như là nối thầm với mình bằng tiếng Ba Lan:
- Chào
đồng chí.
Không có
tiếng đáp lại.
Ga-vơ-ri-lốp
mỉm cười. Ga-vơ-ri-lốp hiểu hết chuyện. Anh nói:
- Cậu
tham quá, Pa-ven ạ! Ngoài những lính bộ binh thường, ở đây còn có cả bọn hiến
binh đi chân nữa kia. Cậu không thấy cái lon hình chữ V trên tay áo hắn à? Đấy
là một thằng hiến binh.
(Lon chữ
V thường thêu trên tay áo bọn quân nhân đế quốc để ghi công trạng và niên hạn
tại ngũ của chúng)
Đoạn đầu
của đoàn người đã từ trên núi kéo về phía làng bị biên giới cắt đôi. Nửa làng
bên Xô-viết đã chuẩn bị đón tiếp một cách long trọng. Cả thôn Xô-viết đều tập
hợp gần cầu biên giới, trên bờ dòng sông con. Trai, gái trong làng đứng thành
hàng rào hai bên vệ đường. Bên nửa thôn phía Ba Lan, mái các nhà, mái các quán
đều đầy kín những người trèo lên chăm chú nhìn xem những việc đang xảy ra bên
kia sông. Nông dân xúm lại trên ngưỡng cửa các nhà và dọc các hàng rào. Khi
đoàn biểu tình tiến vào dãy hàng rào người kia thì đội nhạc cử bài ca “Quốc
tế”. Trên bục diễn đàn vừa làm vội, trang hoàng bằng lá cây lớp thanh niên mái
tóc còn xanh và nhũng cụ già đầu bạc, đọc những diễn văn cảm động. Pa-ven cũng
lên nói chuyện bằng tiếng U-cơ-ren, tiếng mẹ đẻ của anh. Những lời nói của anh
bay vượt qua biên giới và những người đứng bên kia bờ sông cũng nghe được rõ. Ở
bên kia, chúng nó đã quyết không để cho bài nói này làm bốc cháy lòng người.
Đội ba-tui của hiến binh bắt đầu phi ngựa đi khắp làng, lấy roi ngựa quất đuổi
nhân dân vào trong nhà. Tiếng súng nổ đì đẹt lướt qua các mái nhà.
Đường sá
trở nên vắng tanh. Đám thanh niên bị đạn xua chạy, đã tụt xuống khỏi các mái
nhà. Từ phía bên bờ Xô-viết, nhân dân đã nhìn sang thấy thế đều cau mày. Một
ông lão chăn cừu có các thanh niên đỡ bước lên diễn đàn. Lòng sôi sục căm giận,
ông lão nói bằng một giọng cảm động:
- Khá
thật! Các con hãy nhìn xem! Ngày trước, chúng ta cũng đã từng bị quân chúng nó
đánh đập như vậy rồi. Nhưng bây giờ, trong làng chẳng còn ai thấy cảnh chính
quyền dùng roi ngựa đánh một nông dân bao giờ. Chúng ta đã tiêu diệt được hết
đời bọn địa chủ quý tộc và cái roi da nện trên lưng chúng ta cũng hết đời luôn.
Các con hãy giữ gìn chính quyền mới này cho vững, các con ạ. Lão già rồi, lão
chẳng biết nói chuyện. Nhưng lão muốn nói nhiều lắm. Dưới ách Nga hoàng, suốt
đời chúng ta đã phải chịu vất vả cay đắng như thân con bò kéo xe, cho nên bây
giờ nhìn thấy cảnh đó vẫn còn đang tiếp tục ở bên kia, thật đau lòng!... - Nói
đến đây ông lão giơ bàn tay xương xẩu vẫy sang phía con sông và bắt đầu khóc hu
hu lên, thật chỉ có các trẻ em và các cụ già mới khóc như vậy.
Gơ-ri-sút-ca
lên tiếp lời cụ già. Nghe bài nói đầy căm hờn của Gơ-ri-sút-ca, Ga-vơ-ri-lốp
quay ngựa lại nhìn xem bên kia bờ sông có kẻ nào đứng ghi những lời nói của
Gơ-ri-sút-ca không. Nhưng bờ sông bên kia vắng vẻ, ngay cả người lính gác cạnh
cầu cũng bị gọi về rồi.
Ga-vơ-ri-lốp
nói đùa:
- Thế
thì chắc chẳng có công hàm phản đối gửi đến Ban dân ủy ngoại giao của ta đâu.
Vào một
đêm mưa thu vào cuối tháng Mười Một, tên phỉ An-tô-nhúc và bảy đứa bộ hạ của nó
đã phải ngừng làm đổ máu người trên các đường nó qua lại. Cái đàn chó sói đó mò
đến dự đám cưới của một tên chủ trại giàu có ở Mai-đan Vin-la. Các đảng viên
vùng Khơ-rô-lin-ski đã bám riết và tóm được chúng trong đám cưới.
Mồm các
mụ đàn bà lắm điều đã truyền cái tin những tay khách ấy sẽ đến dự đám cưới tên
chủ trại. Trong nháy mắt, cả mười hai đảng viên của chi bộ đã họp lại, ai có
thứ khí giới gì thì mang thứ nấy. Họ đi xe ngựa đến thôn Mai-đan Vin-la, còn
người liên lạc hỏa tốc thì phi ngựa như bay về Bê-rê-dơ- đốp. Đến Xi-ma-ki thì
đồng chí liên lạc tìm được đội của Phi-la-tốp. Phi-la-tốp dẫn quân của mình phi
nước kiệu đuổi theo dấu chân còn mới của địch. Các đảng viên Khơ-rô-lin-ski vây
lấy thôn Mai-đan, và cuộc nói chuyện bằng súng đạn giữa họ với bọn phỉ An-tô-
nhúc thế là bắt đầu. An-tô-nhúc cùng bọn thủ hạ nấp vào một chái nhà bên và cứ
thế bắn bất cứ ai sa vào tầm súng của chúng. Hắn muốn liều sức thử mở đường máu
chạy, song các chiến sĩ Khơ-rô-lin-ski sau khi bắn chết một thằng phỉ, dồn cả
bọn chúng chui vào chái nhà trở lại. Nhiều phen An-tô-nhúc cũng đã bị hãm vào
đường cùng như thế. Nhưng lần nào hắn cũng thoát thân vô sự: Thủ pháo và đêm
tối đã giúp cho hắn thoát. Có thể lần này nữa, hắn cũng quyết chạy thoát vì các
chiến sĩ công xã đã mất đi hai người trong cuộc chiến đấu. Nhưng đang lúc đó,
Phi-la-tốp vừa kịp đến tiếp viện. An-tô-nhúc hiểu rằng hắn bị kẹp chặt rồi và
lần này không lối nào thoát. Đạn từ trong các cửa sổ chái nhà phụt ra cho đến
tận sáng, nhưng tảng sáng thì người ta bắt được hắn. Cả bảy thằng chẳng thằng
nào chịu hàng phục cả. Việc tiêu diệt cái ổ chó sói đó đã phải hy sinh mất bốn
mạng người. Chi đoàn trẻ tuổi thanh niên cộng sản Khô- rô-lin-ski đã hiến ba
người trong số bốn liệt sĩ đó
Tiểu
đoàn Pa-ven bị gọi đi tham gia cuộc diễn tập mùa thu của các đơn vị địa phương.
Tiểu đoàn bắt đầu hành quân từ sáng sớm, đi suốt một ngày dưới mưa rào, vượt
bốn mươi cây số, tối mịt mới đến doanh trại của sư đoàn địa phương. Tiểu đoàn
trưởng Gu- xếp và chính ủy hành quân bằng ngựa. Tám trăm thanh niên vừa đến
trại đã lăn ra ngủ. Bộ tham mưu sư đoàn địa phương đã triệu tập tiểu đoàn này
quá chậm: Sáng mai đã bắt đầu diễn tập rồi. Tiểu đoàn mới dàn ra trên thao
trường để duyệt. Một chốc thì đã có nhiều kỵ binh từ tham mưu sư đoàn phi đến.
Tiểu đoàn mặc quân phục và mang súng rồi thì trông như là thay hình đổi dạng
hẳn. Cả Gu-xếp lẫn Pa- ven đã bỏ ra nhiều sức lực và thời giờ rèn luyện tiểu
đoàn của mình, cho nên đến tham gia diễn tập lòng bình tĩnh không lo lắng. Khi
cuộc duyệt chính thức đã xong và tiểu đoàn đã tỏ rõ tài vận động và lập đội
hình của mình, thì có một người trong cấp chỉ huy, mặt bảnh trai nhưng phị mỡ,
lại hỏi Pa-ven bằng một giọng xẵng:
- Tại
sao đồng chí lại đi ngựa? Chỉ huy và chính ủy của một tiểu đoàn tổng quân huấn
không được có ngựa. Tôi ra lệnh đồng chí cho ngựa vào chuồng, diễn tập toàn
phải đi đất hết.
Pa-ven
biết rằng nếu anh xuống ngựa thì không thể nào tham gia cuộc diễn tập được:
Chân anh không thể đi bộ được lấy một cây số. Làm thế nào để giải thích điều đó
cho chàng công tử nhặng ngậu xị, mình buộc đầy những dây lòng thòng này?
- Không
đi ngựa, tôi không thể tham gia diễn tập được.
- Tại
sao?
Biết là
không thể giải thích cách nào khác, Pa-ven trả lời một cách gọn lỏn:
- Chân
tôi bị sưng. Tôi không thể chạy và đi bộ trong một tuần được. Hơn nữa, tôi
không biết đồng chí là ai.
- Tôi là
tham mưu trưởng trung đoàn của anh, đấy là một điều tôi nói với anh. Còn điều
thứ hai là một lần nữa tôi ra lệnh cho anh xuống ngựa, còn nếu anh là người có
thương tật mà vẫn ở trong bộ đội thì đấy không phải là lỗi của tôi.
Pa-ven
có cảm tưởng như bị roi quất vào mặt. Anh quất mạnh roi vào con ngựa, nhưng bàn
tay chắc của Gu-xếp đã giữ anh lại. Mấy phút qua, trong người Pa-ven có hai thứ
tình cảm đấu tranh với nhau: Ức không chịu được và kiên tĩnh. Song Pa-ven ngày
nay không còn là cậu lính Hồng quân ngày trước không hề do dự chạy từ đơn vị
này sang đơn vị khác. Pa- ven bây giờ là chính ủy của một tiểu đoàn, tiểu đoàn
đó đang đứng sắp hàng sau anh. Cách xử sự của anh sẽ nêu một gương chấp hành kỷ
luật như thế nào cho cả đơn vị? Bởi vì anh đã huấn luyện giáo dục tiểu đoàn
mình có phải vì cái thằng cha bắng nhắng này đâu! Anh bỏ chân ra khỏi bàn đạp,
từ trên ngựa tụt xuống và cố bấm bụng chịu đau đớn ghê gớm trong các khớp
xương, anh đi về chỗ đứng của anh, ở sườn bên phải tiểu đoàn.
Liên
tiếp trong nhiều ngày, trời nắng đẹp không chê vào đâu được. Cuộc diễn tập đã
gần xong. Đến ngày thứ năm thì cuộc diễn tập tiến hành ở quanh thị trấn
Sê-pê-tốp-ca. Đây là địa điểm diễn tập cuối cùng. Tiểu đoàn Bê-rê-dơ-đốp nhận
nhiệm vụ từ phía làng Cơ-li-men-tô-vích tiến công chiếm lĩnh nhà ga. Pa-ven đã
thông thạo vùng này quá đi rồi, anh chỉ cho Gu-xếp biết hết các ngõ ngách ra
vào. Tiểu đoàn chia làm hai, không cho “kẻ địch” biết, đi vòng một đường sân
luồn vào tung thâm và thét to những tiếng “hoan hô” rồi ập vào nhà ga. Những
người trọng tài diễn tập đều công nhận đấy thật là một trận đánh rất cừ. Nhà ga
bị các chiến sĩ Bê-rê-dơ-đốp chiếm lĩnh, còn tiểu đoàn giữ nhà ga thì sau khi
bị “thiệt hại” năm mươi phần trăm số quân, đã rút lui vào rừng.
Pa-ven
chỉ huy một nửa tiểu đoàn. Cùng với đại đội trưởng và chính trị viên đại đội ba
đứng ở giữa đường phố, anh ra lệnh cho bố trí tuyến xạ kích.
Một
chiến sĩ Hồng quân chạy đến vừa thở vừa báo cáo:
- Báo
cáo chính ủy. Tiểu đoàn trưởng hỏi là các chỗ đường xe lửa và đường xe hơi gặp
nhau đã có các chiến sĩ súng máy chiếm lĩnh chưa? Ban giám khảo diễn tập sẽ đến
đóng ở đấy.
Pa-ven
và một đại đội trưởng tới chỗ hai đường xe lửa và xe hơi gặp nhau. Ban chỉ huy
trung đoàn đã họp mặt cả ở đây. Người ta khen Gu-xếp đã khéo chỉ huy trận đánh
thành công. Các đại biểu của tiểu đoàn bị thua day chân ngượng nghịu và cũng
không buồn nói năng bào chữa gì nữa.
- Đây
không phải công lao của tôi, mà chính là công đồng chí Pa-ven người địa phương
đây, đã chỉ huy chúng tôi nên mới đánh được như thế.
Tham mưu
trưởng cho ngựa sát lại gần Pa-ven và nói giọng chế giễu:
- À té
ra đồng chí có thể chạy được rất cừ, đồng chí ạ. Còn lúc trước đồng chí đi ngựa
thì chắc là để diện thôi, có phải không?
Hắn định
nói gì thêm nữa, nhưng cái nhìn của Pa- ven đã làm hắn dừng ngay lại và đứng
tưng hửng.
Khi ban
chỉ huy trung đoàn đã đi rồi, Pa-ven khẽ hỏi Gu-xếp:
- Cậu có
biết thằng cha ấy tên là gì không?
Gu-xếp
vỗ vai Pa-ven:
- Thôi
cậu đừng để ý đến cái thằng khốn ấy làm gì. Tên hắn đâu là Tru-gia-nin. Hình
như thời trước hắn là một tên chuẩn úy của quân đội cũ thì phải.
Ngày hôm
ấy, Pa-ven đã mấy lần cố nhớ ra xem cái tên ấy anh đã nghe được ở đâu rồi, song
mãi vẫn không tài nào nhớ được.
Cuộc
diễn tập đã xong. Sau khi đã được giấy chứng nhận thành tích diễn tập xuất sắc,
tiểu đoàn lại kéo về Bê-rê-dơ-đốp. Pa-ven thân thể bị đau nhừ, đem ngựa gửi ở
nhà A-rơ-chom, rồi về chỗ mẹ nghỉ hai ngày. Suốt hai ngày, ngày nào Pa-ven cũng
ngủ mười hai tiếng đồng hồ. Đến ngày thứ ba, anh đến xưởng đầu máy tìm
A-rơ-chom. Trong tòa nhà kho đầu máy ám khói đen sì này, Pa-ven thấy hình như
được về chính nhà mình: Anh thở hít một cách say sưa mùi khói than. Cái khung
cảnh này đây, quen thuộc từ tấm bé, có một sức mạnh quyến rũ anh mãnh liệt. Chính
ở nơi đây, anh đã lớn lên. Anh có cảm tưởng như thời gian qua mình đã mất đi
một cái gì rất yêu rất quý. Bao nhiêu tháng trời ròng rã, anh không được nghe
tiếng rú của còi tàu. Giờ đây, cảnh thân thuộc này của nhà máy thu hút tâm hồn
anh thợ đốt lò và thợ lắp máy điện, y như một người thủy thủ sau một thời gian
xa biển, lòng bồi hồi xúc động mỗi lần được trông thấy khoảng nước biếc bao la.
Phải một lúc lâu Pa-ven mới nén được bồi hồi. Chuyện với A-rơ-chom, Pa-ven nói ít.
Anh nhìn thấy một nếp răn mới hiện ra trên trán A-rơ-chom. A-rơ-chom làm việc ở
cầu di động. Anh đã có thêm một đứa con nữa. Rõ ràng cuộc sống của anh gay go
vất vả. A-rơ-chom không nói gì đến cảnh nhà, song chỉ nhìn anh cũng đủ rõ cảnh
nhà anh như thế nào.
Anh em
cùng làm việc với nhau trong hai tiếng đồng hồ rồi chia tay nhau. Đến chỗ hai
đường xe lửa và xe hơi gặp nhau, Pa-ven dừng ngựa lại và nhìn nhà ga một hồi
lâu, rồi quất ngựa như bay dọc theo con đường đi về phía rừng.
Đường
rừng bây giờ không còn nguy hiểm đối với người qua lại nữa. Những người
bôn-sê-vích đã tiêu diệt hết tất cả bọn phỉ lớn nhỏ rồi, đã đốt hết sào huyệt
của chúng. Bà con các thôn xóm đã bắt đầu được sống yên ổn.
Pa-ven
phi ngựa đến Bê-rê-dơ-đốp vào khoảng gần trưa. Li-đa vui sướng ra tận thềm trụ
sở quận đoàn đón anh.
- Anh về
đấy à! Vắng anh, chúng tôi đã bắt đầu thấy buồn rồi - Và Li-đa khoác vai Pa-ven
cùng đi vào nhà.
Pa-ven
vừa cởi áo ca-pốt vừa hỏi:
-
Ra-dơ-va-li-khin đâu?
Li-đa
đáp lại, có một vẻ gì không thích:
- Chẳng
biết anh ấy đi đâu. À, tôi nhớ ra rồi. Sáng nay, anh ta nói là anh ta đi đến
trường học lên lớp bài khoa học xã hội thay anh. Anh ta bảo: “Đấy là nhiệm vụ
trực tiếp của tôi, chứ không phải của Pa-ven”.
Chuyện
ấy làm Pa-ven ngạc nhiên một cách khó chịu. Chẳng bao giờ anh thấy ưa
Ra-dơ-va-li-khin cả. Pa-ven bực mình nghĩ thầm: “Cái thứ ấy lại đến trường để
bày trò gì đây!”.
- Thôi
được, chị kể xem ở nhà có chuyện gì hay không nào? Chị có đến Gơ-ru-sốp-ca
không? Thế nào công việc ở đó ra sao?
Li-đa kể
hết mọi chuyện cho Pa-ven nghe. Pa-ven nhoài ra đi-văng, duỗi hai chân mỏi nhừ
cho đỡ mệt.
- Ngày
hôm kia vừa kết nạp Ra-ki-chi-na làm đảng viên dự bị. Thế là chi bộ Pốt-đúp-xi
của chúng ta được tăng cường hơn. Ra-ki-chi-na là một nữ thanh niên tốt, tôi
rất thích cô ấy. Anh có thấy không, trong đám giáo viên đã bắt đầu có chuyển,
một số bây giờ hoàn toàn đi hẳn với chúng ta.
Đôi khi
buổi tối ở nhà Li-xi-xưn, ba người: Li-xi-xưn, Pa-ven và đồng chí bí thư mới
của Đảng ủy, khu Lư-xi-cốp, ngồi quanh cái bàn lớn, nói chuyện cho đến tận
khuya.
Cửa vào
phòng ngủ đã đóng kín. A-nhút-ca là vợ li-xi-xưn đang ngủ, còn ba người đang
ngồi quanh bàn cặm cụi trên một cuốn sách nhỏ. Chỉ ban đêm, Li-xi-xưn mới có
thời giờ học tập. Những ngày Pa-ven ở nông thôn trở về, buồn rầu nhận thấy
Li-xi-cốp và Li-xi-xưn đã học bỏ xa mình rồi.
Một tin
buồn từ Pốt-đúp-xi đến: Đêm qua không biết có bọn nào đã giết chết mất
Gơ-ri-sút-ca. Được tin ấy, Pa-ven quên cả chân vẫn còn bị đau nhói. Chỉ mấy
phút sau anh đã chạy đến chuồng ngựa của Ủy ban. Giận như điên, anh vội thắng
yên ngựa và lấy roi da thúc hai hông ngựa, chạy như bay về phía biên thùy.
Trong
căn nhà rộng của Xô-viết làng, Gơ-ri-sút-ca nằm trên chiếc bàn kết lá xanh,
người anh phủ lá cờ Xô-viết. Trước khi chính quyền đến, không ai được lại gần
thi hài anh; Ngoài ngưỡng cửa có một chiến sĩ biên phòng của Hồng quân và một
Đoàn viên thanh niên cộng sản đứng canh. Pa-ven đi vào nhà, lại gần bàn, cuốn
lá cờ lên: Gơ-ri-sút-ca nằm không động, gục đầu vào vai, mặt anh tái nhợt, hai
mắt mở to còn ghi sâu cơn giãy giụa trước khi mất. Gáy anh bị một thứ vũ khí gì
nhọn đâm, người ta đã lấy một cành thông phủ lên vết thương đó.
Bố
Gơ-ri-sút-ca trước là một người đi ở cho tên chủ máy say, sau trở thành ủy viên
của Ban dân cày nghèo và đã hy sinh cho cách mạng. Bàn tay kẻ nào đã phạm vào
Gơ-ri-sút-ca, vào người thanh niên này, vào đứa con một của bà mẹ góa
Khô-rô-vốt-cô này?
Con bị
giết, bà cụ đau đớn ngã vật ra đất. Hàng xóm đến ân cần săn sóc bà cụ đã nửa
sống nửa chết; Con bà chết đi, đem theo những điều bí mật về cái chết của mình.
Cái chết
của Gơ-ri-sút-ca làm chấn động cả xã. Rõ ràng là Gơ-ri-sút-ca, người phụ trách
trẻ tuổi của thanh niên cộng sản và người bảo vệ quyền lợi cho anh chị em cố
nông này, có nhiều bạn hơn là thù ở trong thôn xã.
Xúc động
vì cái chết của người đồng chí, Ra-ki-chi-na òa lên khóc ở phòng riêng. Và khi
Pa-ven đến, chị cũng chẳng ngẩng đầu lên nữa.
Pa-ven
nặng nề đặt mình xuống ghế, hỏi Ra-ki-chi-na:
-
Ra-ki-chi-na nghĩ thế nào? Ai đã giết Gơ-ri-sút-ca?
- Còn ai
ngoài bọn chủ máy say nữa? Vì Gơ-ri-sút-ca là cái gai trước mắt đối với những
quân buôn lậu ấy.
Hai xã
đến đưa đám Gơ-ri-sút-ca. Pa-ven đẫn cả tiểu đoàn của anh tới. Toàn thể tổ chức
Đoàn thanh niên cơ sở đến tiễn biệt người đồng chí của mình. Ga-vi-rơ-lốp cho
dàn hai trăm rưởi chiến sĩ của đại đội biên phòng bồng súng đứng trước trụ sở
Xô-viết thôn. Theo điệu nhạc buồn vĩnh biệt, người ta chuyển quan tài phủ màu
cờ đỏ đến đặt trên khu đất đã đào sẵn trong đám huyệt, cạnh những mộ các chiến
sĩ du kích bôn-sê- vích đã hy sinh trong thời nội chiến.
Máu của
Gơ-ri-sút-ca đã thắt chặt thêm nữa hàng ngũ những người mà lúc sống anh đã suốt
đời đem toàn sức ra bênh vực. Thanh niên bần cố nông hứa hết lòng ủng hộ chi
đoàn thanh niên. Tất cả những người lên phát biểu đều căm phẫn vô cùng, đòi kết
tội tử hình bọn giết người, đòi phải tìm ra được bọn chúng và xử ngay ở đây, trước
nấm mồ này, để mỗi người đều được trông thẳng vào mặt kẻ thù.
Súng
vang ba loạt vĩnh biệt người bạn chiến đấu và những cành thông đã phủ lên nấm
mồ mới. Ngay tối hôm ấy, chi đoàn cử người bí thư mới: Ra-ki-chi- na. Trạm biên
thuỳ của Cục chính trị Nhà nước báo tin cho Pa-ven biết là ngoài ấy đã dõi được
hành tung của lũ giết người.
Một tuần
sau, cuộc đại hội lần thứ hai của Xô-viết quận họp tại nhà hát địa phương.
Li-xi-xưn, vẻ mặt nghiêm nghị, trịnh trọng bắt đầu bản báo cáo.
- Thưa
các đồng chí! Tôi sung sướng có thể báo cáo với đại hội rằng một năm qua, tất
cả chúng ta đã cố gắng rất lớn. Chúng ta đã củng cố vững mạnh chính quyền
Xô-viết trong quận, đã diệt đến tận gốc bọn phỉ và tróc được tận rễ bọn buôn
lậu. Những tổ chức vững mạnh của bần cố nông trong các xã đã lớn lên, những tổ
chức thanh niên cộng sản đã đông lên gấp mười lần, những tổ chức Đảng đã được
mở rộng. Âm mưu ngóc đầu dậy gần đây của bọn phú nông ở Pốt-đúp-xi mà đồng chí
Gơ-ri-sút-ca của chúng ta đã là nạn nhân, âm mưu đó cũng đã bị khám phá. Bọn
thủ phạm giết người là tên chủ máy xay và con rể hắn, cả hai đều bị bắt. Ngày
sắp tới, tòa án tỉnh sẽ tới đây xử bọn chúng. Rất nhiều đoàn đại biểu xã đã đến
gặp văn phòng Xô-viết và yêu cầu đại hội ra quyết nghị đòi xử tử bọn phỉ khủng
bố giết người...
Cả phòng
họp rung lên những tiếng hô vang:
- Ủng hộ
đề nghị đó! Kẻ thù của chính quyền Xô- viết phải chết!
Có bóng
Li-đa hiện ra ở cửa nách.
Chị lấy
ngón tay ra hiệu gọi Pa-ven.
Ngoài
hành lang, Li-đa đưa cho Pa-ven một bì thư có dấu “Cần”.
Pa-ven
bóc ra:
“Gửi
Quận đoàn thanh niên cộng sản quận Bê-rê- dơ-đốp. Sao gửi Đảng ủy quận. Ban
thường vụ Tỉnh đoàn ra quyết nghị điều động đồng chí Pa-ven từ quận về tỉnh để
giao một công tác phụ trách của Đoàn”.
Pa-ven
từ biệt quận mà anh đã từng công tác trong một năm nay. Trong cuộc họp vừa qua,
đảng ủy quận đã thảo luận hai vấn đề: Thứ nhất là công nhận đồng chí Pa-ven làm
đảng viên chính thức Đảng cộng sản; Thứ hai, sau khi cho đồng chí từ chức bí
thư quận đoàn thanh niên cộng sản rồi thì nhận xét về phẩm chất của đồng chí
ấy.
Li-xi-xưn
và Li-đa siết chặt tay Pa-ven, siết đến đau và ôm lấy anh thân thiết. Khi con
ngựa Pa-ven cưỡi rời khỏi sân nhà bước ra đường cái thì mười khẩu súng ngắn bắn
lên trời chào biệt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét