XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2019

Thép đã tôi thế đấy (Phần I Chương 8,9 - Phần II Chương 1-4)



Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 1 - Chương 8

Trong sương sớm lúc mặt trời chưa mọc, dòng sông ánh lên bàng bạc và êm đềm chảy rì rầm giữa hai bờ sỏi đá. Gần bờ, mặt nước sông lặng màu xám nhạt dường như không động, đôi lúc long lanh sáng. Nhưng giữa dòng sông, nước thăm thẳm sóng nhấp nhô quằn quại hối hả trôi đi. Con sông xinh đẹp, hùng vĩ ấy là con sông Đơ-nhi-ép, con sông Đơ-nhi-ép mà nhà văn Gô-gôn đã viết nên áng văn tuyệt diệu: “Tươi đẹp thay, con sông Đơ-nhi-ép...” Bờ sông bên phải, núi đá dựng đứng. Dường như núi ấy chạy đến đây, sắp sửa đâm sầm vào bờ sông thì thốt nhiên dừng chân đứng sững lại, ngây ngất trước khoảng bao la trời nước. Bờ sông bên trái thoai thoải những bãi cát.

Sau vụ nước lớn mùa xuân, dòng sông thu mình vào bờ sỏi, để lại những bãi cát ấy. Bên bờ sông có năm người nấp trong hầm chật hẹp, giữ khẩu súng Mắc-xim. Đấy là đội viễn tiêu của sư đoàn bộ binh thứ bảy. Xéc-gây nằm nghiêng bên súng máy, mặt ngoảnh ra sông.

Hôm qua, bộ đội ta giao chiến liên miên với giặc. Đại bác Ba Lan, như bão táp làm cho tan tác. Sau cùng, kiệt sức, họ đành để thành Ki-ép lọt vào tay giặc và lui về cố thủ ở tả ngạn sông Đơ-nhi-ép.

Đã phải rút lui, lại thương vong nặng và cuối cùng mất Ki-ép đã làm cho các chiến sĩ đau buồn. Sư đoàn thứ bảy này đây đã chiến đấu anh dũng vượt qua vòng vây của địch, mở đường lách qua rừng rậm, tiến đến gần ga Ma-lin-nơ. Họ tấn công rất gắt, đánh tan bọn Ba Lan chiếm đóng nhà ga, dồn chúng vào rừng, giải phóng đường đi Ki-ép.

Bây giờ thì thành Ki-ép diễm lệ đã mất vào tay giặc rồi. Các chiến sĩ mặt mày ủ dột và buồn bực trong lòng.

Quân Ba Lan đã đánh bật các đơn vị Hồng quân khỏi Đác-nhi-xa và chiếm được một căn cứ nhỏ bên tả ngạn sông, cạnh chiếc cầu đường xe lửa.

Chúng ra sức đánh rộng ra nữa, nhưng gặp sức phản công mãnh liệt của Hồng quân, chúng chẳng nhích thêm được bước nào cả.

Xéc-gây ngắm dòng sông đang chảy và anh không thể không hồi tưởng lại chuyện xảy ra ngày hôm qua.

Hôm qua, vào lúc mặt trời đứng bóng, anh đang cùng anh em hăng máu xông lên thì đụng phải quân Ba Lan trắng trong một đợt phản công quyết liệt. Lần đầu tiên, Xéc-gây đứng trước mặt đối mặt một kẻ thù. Một thằng lê-dương Ba Lan, không râu, không ria, cầm súng cắm lưỡi lê Pháp dài như thanh kiếm, chạy lại đâm Xéc-gây. (Bọn can thiệp Ba Lan lúc bấy giờ do các đế quốc Pháp, Anh, Mỹ trang bị). Nó nhảy như choi choi, miệng kêu xì xà xì xồ. Xéc-gây chỉ còn kịp nhận ra hai mắt nó trợn trừng điên cuồng. Chưa đầy một giây đồng hồ, Xéc-gây đã lấy đầu lưỡi lê của mình đánh bật lưỡi lê tên Ba Lan. Chiếc lưỡi lê Pháp sáng loáng rơi bắn sang bên.

Tên Ba Lan ngã vật xuống...

Xéc-gây đâm lưỡi lê không có run tay. Anh biết anh còn phải giết nhiều nữa. Chính anh là người biết yêu tha thiết, đối với tình bạn rất mực thủy chung, anh có phải đâu là một đứa hung tàn độc ác. Song anh biết rằng những người lính bị lừa dối kia, ăn phải thuốc của bọn sâu mọt toàn thế giới, đang xông lại đánh nước Cộng hòa của anh với một thú điên giận thật là của loài súc vật.

Và Xéc-gây thẳng tay giết cho chóng đến ngày trên trái đất này không còn có người chém giết người nữa.

Pa-ra-mô-nốp lắc vai Xéc-gây:

- Này, Xéc-gây xuống hầm đi, kẻo chúng nó trông thấy chúng mình đấy.

*

Đã một năm nay, Pa-ven hành quân đi dọc ngang khắp miền quê hương xứ sở, khi ngồi trên một chiếc xe kéo súng máy, khi leo lên bệ một khẩu đại bác, khi cưỡi trên con ngựa xám cụt tai. Khỏe ra, cứng rắn ra, anh đã lớn lên trong gian lao khổ cực.

Người anh đeo bao đạn sát vào da đến bật máu, chỗ sát đã thành sẹo và dây súng lằn trên vai đã chai lên thành một ụ thịt không bao giờ tan được nữa.

Trong có một năm trời, mắt anh đã thấy biết bao nhiêu cảnh đời ghê gớm. Cùng hàng ngàn chiến sĩ khác, áo quần tả tơi, chân đất như mình, nhưng lòng hừng hực bốc cháy ngọn lửa không bao tắt của cuộc đấu tranh vì chính quyền giai cấp, Pa-ven đã bước chân đi khắp các ngả của Tổ quốc U-cơ-ren và chỉ bị dứt ra khỏi cơn bão táp ấy có hai lần.

Lần thứ nhất, bị thương vào đùi, lần thứ hai, vào một ngày tháng Hai lạnh buốt của năm 1920, anh giãy giụa trong cơn sốt nhớp nháp của bệnh chấy rận.

Cái bệnh chấy rận truyền nhiễm đã tác hại các trung đoàn và sư đoàn của tập đoàn quân thứ mười hai ghê gớm hơn cả những cỗ súng máy Ba Lan kia. Tập đoàn quân lúc đó đóng ở một khu rộng lớn, rải hầu khắp miền Bắc U-cơ-ren, ngăn đường tiến của quân Ba-lan. Vừa dứt bệnh, Pa-ven đã trở về đơn vị ngay.

Bây giờ, trung đoàn của Pa-ven đóng ở một vị trí cơ động gần ga Phơ-rông-tốp-ca, trên con đường ngoặt từ Ca-da-chim đi U-mân.

Ga ở giữa rừng. Những túp nhà bị tàn phá xúm quanh khu ga bé nhỏ. Đấy là những căn nhà hoang trống trải, dân bỏ đi vì không thể nào ở được yên. Hai năm qua, chập chờn có lúc yên tĩnh, có lúc lại đánh nhau dữ. Suất hai năm trời, ga Phơ-rông-tốp- ca đã chứng kiến biết bao nhiêu là chuyện!

Lại sắp sửa xảy ra nhiều việc lớn. Trong lúc sư đoàn mười hai bị tổn thất nặng, tan rã từng phần, trước sức thọc mạnh của quân đội Ba Lan, phải rút lui về gần Ki-ép thì nước Cộng hòa vô sản chuẩn bị giáng một đòn chí tử vào quân thù lúc đó đang say sưa thừa thắng tiến.

Những sư đoàn kỵ binh dạn dày lửa đạn của tập đoàn kỵ binh thứ nhất đã mở cuộc trường chinh chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, từ vùng Bắc Cô- ca-dơ xa xôi chuyển đến U-cơ-ren. Các sư đoàn kỵ binh thứ tư, thứ sáu, thứ mười một và thứ mười bốn lần lượt tiến đến U-mân và tập kết ở sau trận tuyến của ta. Trên đường xông tới những cuộc chiến đấu ác liệt kỵ binh đã quét sách bọn phỉ Ma-khơ-nô.

Một vạn sáu ngàn năm trăm thanh kiếm, một vạn sáu ngàn năm trăm chiến sĩ da rám nắng đồng cỏ.

Bộ Tổng tư lệnh Hồng quân và Bộ Tổng tư lệnh mặt trận Tây-nam hết sức giữ bí mật để cho quân Ba Lan của phát-xít Điu-xuýt-ski không thể nào đối phó kịp với cuộc hành quân có tính chất quyết định đang chuẩn bị. Bộ tham mưu của nước Cộng hòa và các mặt trận trực tiếp phụ trách tập hợp khối kỵ binh này.

Chiến sự ngừng hẳn ở mặt trận U-mân, đường dây liên lạc thẳng từ Mát-xcơ-va đến Bộ tham mưu mặt trận Khác-cốp làm việc không ngừng. Từ Khác-cốp, điện lại báo đi các bộ tham mưu các tập đoàn quân thứ mười bốn, thứ mười hai. Điện báo tạch tè ghi những mệnh lệnh mật mã lên những băng điện hẹp: “Không để cho quân Ba Lan chú ý đến quân đoàn kỵ binh của ta tập kết”. Chiến sự ngừng trên khu vực U-mân. Chỉ giao chiến khi nào và nơi nào bọn Ba Lan tiến quân uy hiếp đoàn kỵ binh của Bu-đi- on-ny, tránh cho kỵ binh khỏi bị dồn vào tình thế phải giao chiến quá sớm.

Đống lửa trú quân bập bùng ngọn lửa màu hung, khói bốc lên xoắn tít hình trôn ốc. Loài nhặng rừng không chịu được hơi khói bay tứ tung như ong vỡ tổ. Các chiến sĩ ngồi quanh ngọn lửa theo hình vòng cung, lửa hồng làm mặt họ ánh lên bóng như màu đồng.

Những chiếc cà-mèn vùi trong tro biếc ánh lửa. Nước sôi sùng sục. Một ngọn lửa từ khúc gỗ cháy lóe ra bén sém một chiếc đầu bù. Người bị cháy tóc bực mình phát bẳn:

- Rõ khỉ!

Anh em chung quanh bật cười khúc khích.

Một người lính già mặc áo dạ, râu mép xén ngắn, đang chìa nòng súng ra ánh lửa xem, thấy vậy nói khẽ:

- Thằng bé này mải đọc khoa học quá, đến nỗi sán vào lửa cháy mà cũng không biết.

- Pa-ven ơi! Đọc gì thế, kể cho chúng tớ nghe với.

Pa-ven, người lính trẻ ấy, vừa lấy tay mân mê mớ tóc sém của mình, vừa mỉm cười nói:

- Đồng chí An-đơ-rơ-súc ạ! Cuốn sách hay tuyệt. Đã đọc vào là tôi không thể nào buông ra được nữa.

Người ngồi cạnh Pa-ven là Xê-rê-đa, một thanh niên có cái mũi ngắn, hếch lên, đang chăm chú vá lại dây đeo bao đạn, hai răng cắn chặt lấy sợi chỉ xám to, nghe bạn nói vậy thì tò mò hỏi:

- Thế cuốn sách viết về ai hở cậu? - Xê-rê-đa tay cuộn đoạn chỉ còn lại vào cái kim cắm trên mũ dạ, nói thêm:

- Nếu nói về tình yêu thì mình thú lắm đấy.

Chung quanh cười rộ lên. Mát-vây-súc nhô cái đầu tóc cắt ngắn lên, nheo mắt láu lỉnh nói trêu Xê-rê-đa:

- Tình yêu là chuyện cũng hay, Xê-rê-đa ạ. Cậu đẹp trai, trông rất bảnh! Hễ quân ta đi đến đâu, các cô ả thấy cậu đều mê tít. Chỉ phải một cái tật nhỏ: Mũi cậu quá ngắn và hếch lên làm cho mưa cứ rơi tọt vào trong. Nhưng mà có thể chữa được. Cậu cứ lấy quả lựu đạn Nô-vít-ki treo vào đầu mũi, chỉ một đêm là mũi dài ra và quặp xuống thôi.

(Thứ lựu đạn tay, nặng gần bốn cân, dùng để phá hàng rào dây thép gai).

Câu nói bông đùa ấy làm mọi người phá ra cười sằng sặc. Nghe tiếng cười, mấy con ngựa buộc ở những xe súng máy cũng phải rùng mình phì hơi một cách hoảng hốt.

Xê-rê-đa lừ đừ quay mặt lại:

- Hơn nhau chẳng phải ở cái đẹp trai, mà ở cái sọ này. - Xê-rê-đa đập tay lên trán như ra hiệu chỉ cái đầu to - Đấy nhớ, lưỡi cậu cay như ớt thế mà cậu cứ vẫn là một thằng hết sức khờ. Với lại cậu có đôi tai lạnh như tiền nữa.

Hai chiến sĩ chực xông vào vật nhau, nhưng đồng chí tiểu đội trưởng Ta-ta-ri-nốp đã can ngay:

- Này, này, các cậu ơi, vặc nhau làm gì! Thôi để Pa-ven nó đọc sách cho mà nghe còn hơn.

- Phải đấy! Đọc đi Pa-ven ạ! - Tiếng hưởng ứng nhao nhao lên.

Pa-ven kéo cái yên ngựa lại gần ánh lửa, ngồi cưỡi lên yên, mở trên đầu gối cuốn sách khổ nhỏ song khá dày.

- Báo cáo các đồng chí, cuốn truyện này tên là Ruồi trâu. Đồng chí chính ủy tiểu đoàn cho tôi mượn đấy. Cuốn truyện rất thấm thía đối với tôi. Các đồng chí ngồi yên đừng đùa, tôi đọc cho mà nghe.

- Thôi đọc đi, nhanh lên. Chẳng ai phá đám đâu.

Khi đồng chí trung đoàn trưởng Pu-dư-rếp-ski cùng đồng chí ủy viên quân sự Đô-rê-nin đi ngựa, lẳng lặng đến gần đống lửa, thì trông thấy mười một cặp mắt châu châu vào một chiến sĩ đang đọc to quyển truyện.

Pu-dư-rếp-ski quay đầu lại phía đồng chí chính ủy viên lấy tay chỉ nhóm người:

- Đây là một nửa số anh em quân báo của trung đoàn, trong đó có bốn thanh niên cộng sản, ít tuổi lắm, song mỗi cậu đều bằng một chiến sĩ cừ. Anh trông cậu đang đọc truyện, và cậu kia nữa có cặp mắt y như cặp mắt của con sói con, đấy là Ca-rơ-sa- ghin và Giác-ki. Hai cậu bé thân với nhau lắm, nhưng cũng ganh ngầm với nhau lắm. Trước kia thì Pa-ven là một tay quân báo giỏi nhất của tôi. Giờ có Giác- ki là tay địch thủ khá lợi hại của cậu ta. Anh trông kìa, các cậu ta đang làm công tác chính trị đấy. Nhìn thì chẳng ai biết là làm công tác, nhưng tác dụng lại rất lớn. Anh em gọi họ là “Đội thanh niên cận vệ”, tên ấy thật đúng quá.

Đồng chí ủy viên quân sự hỏi:

- Đồng chí đang đọc kia có phải là chính trị viên đội quân báo không?

- Không. Chính trị viên là Cơ-ra-me.

Trung đoàn trưởng cho ngựa bước lên. Đồng chí cất giọng nói to:

- Chào các đồng chí!

Mọi người quay lại. Trung đoàn trưởng nhẹ nhàng xuống ngựa, đi lại gần các chiến sĩ đang ngồi.

- Các đồng chí ngồi sưởi đấy à? - Trung đoàn trưởng hỏi, nụ cười rộng rãi ở trên môi. Trên khuôn mặt cứng cỏi của đồng chí với đôi mắt bé hơi giống mặt người Mông Cổ, vẻ nghiêm khắc đã biến đi.

Các đồng chí niềm nở đón đồng chí chỉ huy như một người đồng đội hiền từ, như một người bạn thân. Đồng chí ủy viên quân sự vẫn ngồi trên ngựa định đi tiếp sang đơn vị khác.

Pu-dư-rếp-ski kéo bao súng Mô-de ra phía sau, rồi lại ngồi cạnh Pa-ven và nói:

- Mời các đồng chí, ta hút một điếu thuốc. Tôi có thuốc lá hút cũng tạm được.

Châm thuốc xong, trung đoàn trưởng quay ra nói với đồng chí ủy viên quân sự:

- Đồng chí cứ về trước đi, đồng chí Đô-rê-nin ạ. Tôi ở lại chơi với anh em một lát. Nếu ở bộ tham mưu cần đến tôi, đồng chí tin cho tôi biết nhé.

Khi Đô rê-nin đã đi khỏi, Pu-dư-rếp-ski quay lại bảo Pa-ven:

- Chú đọc tiếp đi, tôi cũng nghe với.

Đọc xong những trang cuối, Pa-ven đặt sách lên gối và bâng khuâng nhìn chăm chăm vào ngọn lửa, nghĩ ngợi.

Trong mấy phút đồng hồ, không ai nói một lời. Tất cả mọi người đều xúc động vì cái chết của “Ruồi trâu”.

Pu-dư-rếp-ski hút một hơi thuốc lá, chờ đợi anh em lên tiếng.

Lời phát biểu của Xê-rê-đa phá tan cái không khí yên lặng.

- Câu chuyện bi thảm thật. Ai mà tưởng có được những con người bản lĩnh như thế trên đời này. Một người thường không thể chịu được cực hình đến độ ấy Nhưng khi người ấy đã vì lý tưởng mà chiến đấu thì nhất định giữ vững được tinh thần.

Giọng Xê-rê-đa hết sức xúc động. Câu chuyện làm anh cảm xúc sâu xa.

An-đơ-ru-sa, một người thợ học việc đóng giày vùng Bê-lai-a Xéc-cốp, bừng bừng phẫn nộ:

- Thằng ác tăng khốn nạn đó mà vớ phải tay tôi thì tôi đâm chết nó ngay tại chỗ!

An-đơ-rơ-súc lấy que củi ấn thêm chiếc cả-mèn của mình vào bếp, rồi nói bằng một giọng tin tưởng:

- Chết mà biết mình chết vì một sự nghiệp gì thì chết cũng đáng lắm. Trong trường hợp ấy anh thấy mình có đủ sức mạnh để không sợ chết. Ta sẵn sàng đi đến cái chết một cách kiên nhẫn khi ta cảm thấy có chính nghĩa ở phía ta. Chính cái đó làm con người ta trở thành anh hùng đấy. Tôi biết một đồng chí trẻ tuổi tên gọi là Pô-rai-ca. Cái hôm bọn giặc trắng thọc vào Ô-đét-xa, một mình anh ta xung phong đánh cả một trung đội chúng nó. Bọn chúng chưa kịp giở lưỡi lê đâm anh, anh đã rút lựu đạn ra, quăng ngay dưới chân mình. Người anh tan ra từng mảnh, nhưng cả bọn Ba Lan cũng tan xác. Ấy thế mà trông anh ta bề ngoài chẳng có vẻ gì đâu. Không ai viết sách nói về anh ta. Song chuyện anh ta thật đáng chép vào sách. Hàng ngũ ta có vô số đồng chí ưu tú như thế.

An-đơ-rơ-súc lấy thìa quấy cà-mèn, thè lưỡi ra nhắp ngụm trà, rồi nói tiếp:

- Cũng có cái chết như chó chết, chết đục, chết ô nhục. Bữa chúng tôi đánh nhau ở I-di-a-sláp, một thị trấn cổ, xây từ đời vua nào ngày trước trên sông Gô- rin, đấy có một nhà thờ Ba Lan, y như cái pháo đài, khó lắm. Thế mà cũng vào được tất. Quân ta hàng một trèo vào, leo lên các lối đi nhỏ ngoằn ngoèo, sườn bên phải có anh em người Lét-tô-ni kiềm chế cho rồi. Còn ta đổ ra phố lớn. Ra đến phố lớn thì trông thấy gì? Gần vườn hoa có ba con ngựa đóng yên sẵn buộc vào hàng rào.

Bọn tôi trước tình huống ấy tất nhiên bảo nhau: Phen này tóm cổ bọn Ba Lan. Cả mười người hết cả vào sân. Đồng chí đại đội trưởng người Lét-tô-ni tay lăm lăm cầm khẩu Mô-de đi trước.

Vào đến nhà chính thì cửa đã mở. Bọn tôi đi vào. Tưởng tóm được bọn Ba Lan, hóa ra không phải. Trong đó có sẵn một tổ của ta. Họ vào trước chúng mình. Chẳng hay hớm gì cái chuyện đang xảy ra ở đấy. Nhà này vốn có một thằng sĩ quan Ba Lan ở. Bọn mất dạy ở tổ ấy vào đè ngay mụ vợ thằng ấy ra để cưỡng hiếp. Đồng chí chỉ huy người Lét-tô-ni của chúng mình tên là Bơ-rê-đi, trông thấy thế thét lên câu gì bằng tiếng Lét-tô-ni. Rồi cho tóm cổ ba đứa kia lôi ra sân. Hôm ấy chỉ tôi và một đồng chí nữa là người Nga, còn toàn người Lét-tô-ni cả. Họ nói gì với nhau, mình nghe không hiểu, song cũng thấy câu chuyện rõ ràng: Kẻ nào phạm lỗi thì sẽ bị xử. Người Lét-tô-ni, tính thẳng, rắn chắc như đá lửa. Họ ấn ba thằng kia vào sát vách chuồng ngựa. Mình nghĩ thầm: Chết, chắc là họ định bắn tan xác ba tên này đây. Trong số ba đứa đó có một tên vạm vỡ, chắc nịch cố cưỡng lại, mồm chửi rủa, văng tục lung tung. Hắn la ầm lên: Ai lại nỡ vì một mụ đàn bà mà treo cổ tôi? Hai tên kia cũng van xin rối rít.

Trông thấy như thế mà ớn lạnh cả người. Mình chạy lại nói với Bơ-rê-đi: “Đồng chí đại đội trưởng, đồng chí bắn làm gì, dính vào máu chúng nó cho bẩn tay? Để đưa tòa án binh xử. Trong thành phố, chiến đấu đang tiếp tục mà ta lại đứng đây để xử tội”. Tức thì Bơ-rê-đi quay lại nhìn mình và mình thấy hối ngay là đã trót nói mất rồi. Mắt Bơ-rê-đi nhìn mình y như mắt hổ. Anh ấy gí súng vào tận miệng mình. Mình chiến đấu đã bảy năm rồi, bây giờ nói ra thật khỉ, song lúc ấy thật tình là mình hoảng thật. Mình nghĩ bụng: Không khéo thì mất mạng phen này, chẳng còn nói năng gì nữa. Anh ta bảo mình bằng tiếng Nga lơ lớ, mình khó lòng mới nghe rõ, nhưng cũng hiểu ý như thế này: “Ngọn cờ của ta là máu nhuộm đỏ. Vậy mà quân chó này làm ô danh cả quân đội ta. Quân thổ phỉ phải lấy xác để đền tội”.

Mình không dám ở nán lại nữa, chạy một mạch từ sân ra đến phố thì nghe thấy tiếng súng nổ ở phía sau. Mình nghĩ thầm: Thế là xong. Khi mình đi theo kịp đơn vị mình thì thành phố đã hoàn toàn về tay ta. Câu chuyện như thế đấy. Những tên ấy chết, thật chết như giống chó. Nghe đâu bọn đó trước là quân phỉ của Ma-khơ-nô, mới chạy sang theo ta ở gần Mê- li-tô-pôn. Bọn chúng chỉ là một lũ ô hợp, phức tạp.

Nói đến đây, An-đơ-rơ-súc, đặt cái cà-mèn xuống chân, tay mở túi dết lấy bánh mì ra:

- Có thể nào một đống phân bẩn như thế lại dính vào hàng ngũ chúng ta? Không sao kiểm tra hết được. Trông chúng, người ta tưởng như chúng cũng chiến đấu vì cách mạng. Thật ra, chính vì chúng mà bùn vấy cả lên mặt chúng ta. Dù sao thấy vậy cũng đau lòng. Chuyện đó cho đến bây giờ mình vẫn không quên được.

An-đơ-rơ-súc kết luận câu chuyện, rồi bắt đầu nhắp trà.

Đội quân báo kỵ binh mãi tận đêm khuya mới ngủ. Xê-rê-đa ngủ say hếch mũi lên kéo gỗ. Pu-dư-rép-ski cũng đã ngủ, đầu gối trên chiếc yên ngựa. Đồng chí chính trị viên Cơ-ra-me thì đang ghi sổ tay.

Ngày hôm sau, đi trinh sát về, Pa-ven buộc ngựa vào cây thấy đồng chí chính trị viên Cơ-ra-me vừa uống trà xong, bèn mời lại nói chuyện.

- Đồng chí chính trị viên ạ, tôi có ý định như thế này, đồng chí nghĩ có được không? Tôi định bỏ đây sang bên Quân đoàn kỵ binh thứ nhất. Bên ấy, sắp nóng sốt đến nơi rồi. Vì nhất định là họ tập trung đông người như thế chắc không phải để mà chơi. Còn ta ở đây thì cứ chết gí một chỗ. Tôi chán ngấy lắm rồi.

Cơ ra-me sửng sốt nhìn Pa-ven:

- Sao, thế nào, chú định bỏ đây chuồn đi à? Chú nghĩ thế nào? Vậy ra theo chú, Hồng quân là rạp chiếu bóng hay sao mà đòi đổi đơn vị như đổi chỗ ngồi thế? Nếu ai cũng đòi đổi đơn vị thế thì còn ra thế nào nữa?

Pa-ven ngắt lời đồng chí chính trị viên:

- Cốt sao đánh hăng là được. Ở đấy hay bên ấy cũng thế cả, không có gì quan trọng. Tôi có đào ngũ chuồn về hậu phương đâu!

Cơ-ra-me một mực can ngăn Pa-ven:

- Thế chú cho kỷ luật là cái gì? Pa-ven ạ, chú có nhiều ưu điểm, song chú phải cái tính vô chính phủ. Chú thích sao, chú làm vậy. Chú quên rằng Đảng và Đoàn thanh niên dựa vào kỷ luật sắt ư? Đảng trên hết. Đảng cần mình ở đâu thì mình phải ở đấy, chứ không phải mình muốn ở đâu thì ở. Đồng chí trung đoàn trưởng đã không cho phép chú đổi đơn vị nữa rồi phải không? Thế là quyết định rồi, không bàn gì nữa.

Cơ-ra-me người mảnh khảnh dong dỏng cao, nước da vàng nhợt, ho sù sụ vì xúc động. Bụi chì của nhà in đã ngấm sâu vào hai lá phổi, thỉnh thoảng những quầng đỏ tật bệnh của chứng lao lại hiện trên đôi má. Khi Cơ-ra-me dứt cơn ho, Pa-ven nói thấp giọng, nhưng cương quyết:

- Tất cả những điều đồng chí nói đều rất phải, song mai tôi sẽ cứ sang đoàn kỵ binh Bu-đi-on-ny, thật đấy!

Và tối hôm sau không còn bóng Pa-ven bên đống lửa trú quân nữa.

*

Ở thôn bên, trước cửa trường học trên gò cao, các chiến sĩ kỵ binh tập hợp thành một vòng lớn. Một chiến sĩ kỵ binh khỏe mạnh thuộc đơn vị Bu-đi-on- ny ngồi mé sau chiếc xe ngựa, mũ cát-két hất ra sau gáy, đang kéo rên rỉ chiếc đàn gió. Trong tay đồng chí ấy chiếc đàn kêu rú lên, nhịp điệu hỗn loạn, làm lạc cả bước chân của chiến sĩ mặc chiếc quần thủng màu đỏ đang nhảy một cách điên cuồng điệu nhảy dân gian xứ U-cơ-ren.

Trai gái trong làng tò mò kéo ra, leo lên chiếc xe ngựa và những hàng rào bên cạnh để xem những nhà vũ đạo rất liều của lữ đoàn kỵ binh vừa mới đến đóng ở làng này.

- Tốp-tan ơi! Kéo hăng lên nào! Làm một quắn nữa chứ! Cho thêm chất nóng vào đi!

Nhưng những ngón tay to lớn của anh bộ đội kéo đàn gió, chỉ quen gò móng ngựa, nên ngó ngoáy một cách khó nhọc trên phím đàn.

Anh chiến sĩ da rám nắng đang nhảy, bỗng than phiền:

- Chà, tiếc thằng Cu-láp-cơ quá. Quân thổ phỉ Ma- khơ-nô khốn kiếp đã giết chết mất cậu ấy. Cu-láp- cơ kéo đàn gió còn phải nói. Hạng nhất... Chiến đấu luôn luôn đi hàng đầu trung đội mình. Tiếc cậu ấy quá! Vừa là một chiến sĩ cừ, vừa là một tay chơi nhạc giỏi.

Pa-ven cũng đứng trong đám dự cuộc vui. Nghe mấy lời vừa rồi, anh liền len đến chiếc xe ngựa, lấy tay ấn vào hòm xếp của chiếc đàn. Tiếng đàn im bặt. Chiến sĩ kéo đàn gió quắc mắt nhìn anh:

- Cậu muốn gì?

Tốp-tan ngừng lại, không kéo nữa, làm mọi người chung quanh nhao nhao, giọng không bằng lòng nổi lên:

- Cái gì thế? Sao dừng lại thế?

Pa-ven chìa tay về phía dây kéo đàn:

- Đưa cho mình chơi một lát.

Tốp-tan nhìn người đồng đội lạ mặt với cặp mắt hoài nghi do dự, rồi gỡ dây đeo khỏi vai.

Bằng một cử chỉ quen thuộc, Pa-ven để đàn lên gối. Anh dìu dặt kéo nếp đàn lượn khúc mở ra hình cánh quạt, rồi sau từng nấc, từng nấc dồn dập, Pa- ven dạo bản nhạc với tất cả sức mạnh của chiếc đàn:

"Quả táo hồng hồng

Mày lăn đằng nào

Lăn vào Sê-kha

Chẳng ra được sớm"

(Sê-kha: Cơ quan đặc biệt chống phản cách mạng trong những năm đầu của chính quyền Xô-viết)
Tốp-tan cất giọng bắt ngay lấy điệu hát quen thuộc. Anh dang hai tay lên như hai cánh chim, lượn vòng tròn, hai chân đập vào nhau, tay vỗ chan chát vào ống giày vào gối, vào sau gáy, vào trán, vào đế giày và cuối cùng vào cái mồm đang hát to.

Tiếng đàn gió rung lên, kích thích, thúc giục chiến sĩ đang nhảy trong điệu hùng mạnh, hừng hực, tới tấp như những luồng gió cuồng liên tiếp. Tốp-tan bắt đầu quay tít đi như con cù đinh, vừa quay vừa nhảy một vòng tròn hết chân nó đến chân kia đá vút vào không khí, miệng hét lên đến hết hơi:

- Hích hắc! Hích hắc!

*

Ngày mồng năm tháng Sáu năm 1920, sau mấy cuộc giao chiến chớp nhoáng nhưng khốc hệt, tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất, do Bu-đi-on-ny chỉ huy, đã chọc vỡ phòng tuyến Ba Lan ở điểm đóng giáp nhau của quân đoàn thứ hai và quân đoàn thứ tư của địch, đánh tan được lữ đoàn của tướng địch Xa-vi-ski và thừa thế tiến về hướng Ru-gin.

Bộ chỉ huy Ba Lan muốn đối phó với cuộc tiến quân đột phá ấy liền hối hả cho lập một đội xung kích. Năm xe tăng bọc sắt chở từ xe lửa tới ga Pô-gờ-rê- bích cấp tốc đến tiếp viện.

Chúng chuẩn bị đối phó ở Da-rút-nhích, nhưng kỵ binh Hồng quân đã vòng qua Da-rút-nhích, lọt vào hậu phương của các quân đoàn Ba Lan.

Chúng tung sư đoàn kỵ binh Ba Lan do tướng Coóc- nhi-ski chỉ huy ra đuổi theo vết chân tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn kỵ binh Coóc-nhi-ski có nhiệm vụ đánh tập hậu bằng được vào cánh quân đỏ mà bộ chỉ huy Ba Lan cho là có ý định tấn công vào Ca-da-chin, điểm chiến lược trọng yếu nhất của hậu phương Ba Lan. Nhưng kế hoạch đó cũng không cứu vãn nổi tình hình nguy ngập của quân bạch vệ Ba Lan. Tuy ngày hôm sau quân Ba Lan có lấp được chỗ trận tuyến bị chọc thủng và khép được phòng tuyến sau đường đánh thọc của kỵ binh đỏ nhưng lúc đó trong lòng hậu phương của chúng, cả một đoàn quân đỏ mạnh như vũ bão đã hoành hành rồi. Tập đoàn quân này sau khi đã tiêu diệt các căn cứ hậu phương của địch, tiến lên đánh vào những lực lượng của Ba Lan đóng ở Ki-ép. Dọc đường tiến quân, các sư đoàn kỵ binh đỏ đã phá hủy các cầu và đường sắt để chặn đường rút lui của quân Ba Lan.

Theo tin tù binh khai thì tham mưu quân đoàn địch đóng ở Gi-tô-mia, nhưng thật ra ở đấy là cả bộ tham mưu mặt trận của địch. Chỉ huy tập đoàn quân kỵ binh của ta quyết định chiếm lấy những đầu mối đường xe lửa quan trọng và những trung tâm hành chính quan trọng là Gi-tô-mia và Béc-đi-sép. Và ngày mồng bảy tháng Sáu, khi trời vừa tảng sáng, sư đoàn kỵ binh thứ tư của ta đã ập đến Gi-tô-mia.

Pa-ven được bổ sung vào một trung đội kỵ binh, đi xung kích thay chân Cu-láp-cơ đã hy sinh. Cả tập thể chiến sĩ không muốn rời bỏ người kéo đàn gió cừ ấy, nên đã đề nghị thu nạp anh vào trung đội.

Đến gần Gi-tô-mia, quân ta chia làm nhiều mũi theo hình cánh quạt đánh tỏa vào. Không ai muốn ghìm vó ngựa đang phi hăng. Ánh nắng rọi vào lưỡi kiếm, bật ra muôn tia sáng óng ánh bạc.

Đất chuyển, ngựa hí, chiến sĩ rướn người trên bàn đạp. Mặt đất chạy lướt nhanh, lùi lại dưới vó ngựa. Thành phố Gi-tô-mia to lớn có những công viên xinh như chạy đến đón sư đoàn kỵ mã. Đã vượt qua những vườn hoa ngoại thành. Và giờ đây, sư đoàn ập vào trung tâm, tiếng thét “xung phong” ghê rợn như thần chết, rung chuyển không trung.

Bọn Ba Lan kinh hoàng hầu như không dám chống cự lại. Quân đóng ở đây bị tiêu diệt tan tành.

Pa-ven cúi rạp xuống bờm ngựa, phi như bay. Bên cạnh là Tốp-tan đang phi trên con ngựa đen nhánh chân thon.

Mắt Pa-ven trông thấy nhát kiếm ác liệt của chiến sĩ Tốp-tan quả cảm bổ xuống một thằng lê dương Ba Lan, tên này không kịp đưa lưỡi lê lên đỡ.

Móng sắt của vó ngựa nện siết đường phố. Rồi bất chợt, ở ngã tư, một khẩu súng máy nhô ra. Ba tên mặc binh phục xanh, đầu đội ca-lô cúi rạp trên khẩu súng, một tên nữa, cổ áo có dải vàng như con rắn, chĩa súng lục nhằm bắn những người đi ngựa.

Không ghìm được dũng mã, cả Tốp-tan lẫn Pa-ven cứ lao tới khẩu súng, đi thẳng vào nanh vuốt của thần chết. Thằng sĩ quan cầm súng lục nhằm thẳng Pa-ven. Bắn trượt... Đạn víu như chim sẻ kêu, sượt qua má. Và thằng sĩ quan địch bị ngựa xô ngã lộn nhào, đầu vập xuống đường đá. Cùng lúc ấy, những súng máy hối hả nhả đạn như bật ra những dịp cười điên cuồng ghê rợn. Như bị đàn ong bằng sắt châm đốt, Tốp-tan và ngựa bị trúng chừng chục viên đạn ngã nhào xuống cả người lẫn ngựa.

Con ngựa của Pa-ven hoảng sợ, rống lên, cất vó nhảy chồm qua xác người và ngựa của Tốp-tan, rơi vào giữa bọn giặc giữ súng máy. Mũi kiếm Pa-ven hoa lên một vòng sáng rực, xả vào một chiếc ca-lô-xanh. Lưỡi kiếm lại vung lên không, nhằm bổ vào một chiếc đầu khác. Nhưng con dũng mã đang phi hăng đã nhảy tót sang bên.

Như thác lũ tràn về cả trung đội ập đến ngã tư này, hàng chục mũi kiếm hoa lên ngang dọc trên không...

Những hành lang hẹp và dài của nhà pha Gi-tô- mia vang ầm những tiếng kêu hét.

Trong các xà-lim đầy ắp những người bị giam, mặt hốc hác, đau khổ. Ngoài phố đang đánh nhau to, có thể nào tin được là giải phóng đến nơi? Có thể nào tin được đấy là quân mình đã bất ngờ từ đâu hiện đến?

Trong sân nhà pha đã có tiếng súng nổ rồi. Dọc các hành lang, người chạy vội vã. Rồi có tiếng đột ngột nói lên thân thiết, vô cùng thân thiết.

- Ra đi, các đồng chí ơi!

Pa-ven dừng lại trước tấm cửa đóng kín. Hàng chục cặp mắt nhìn qua lỗ nhỏ. Hăng máu lên, Pa-ven dùng báng súng cố ghè khóa cửa. Ghè nữa, ghè nữa!

- Để tớ làm cho. Lấy mìn mà phá. - Mi-rô-nốp gạt Pa-ven sang bên, rồi thò tay rút quả lựu đạn trong bao ra.

Trung đội trưởng Xi-ga-sên-cơ giằng lấy quả lựu đạn:

- Dừng lại, đồ ngốc! Mày điên à? Đợi mang chìa khóa mở đến. Không bẻ được đâu, để người ta lấy khóa mở cho chúng mình.

Bọn canh ngục, có súng ta gí sau lưng, bị dẫn đến mở khóa xà-lim. Hành lang một lát đã đầy những người quần áo tả tơi, lâu ngày không được tắm rửa. Lòng họ đang vui như điên.

Pa-ven mở rộng cửa sắt, chạy vào nhà giam.

- Các đồng chí ơi! Các đồng chí đã được giải phóng rồi! Chúng tôi là chiến sĩ kỵ binh của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn chúng tôi đã chiếm được thành phố rồi.

Một người đàn bà, nước mắt giàn giụa, ôm chầm lấy Pa-ven như ôm người nhà thân thiết, khóc nức nở.

Giải phóng bằng ấy đồng chí bôn-sê-vích của mình, đối với các chiến sĩ của sư đoàn, thật quý hơn tất cả mọi thứ chiến lợi phẩm, quý hơn cả chiến thắng. Trong những hộp bằng đá này, bọn Ba Lan trắng nhốt của ta năm ngàn bảy mươi mốt đồng chí bôn-sê-vích đang đợi ngày chúng đem đi bắn hay đi treo cổ và hai ngàn chính trị viên Hồng quân. Đối với bảy ngàn chiến sĩ cách mạng được giải phóng ấy, đêm tối không cùng vừa qua phút chốc đã chuyển ngay thành ánh sáng chan hòa của một ngày tháng Sáu tươi nắng.

Một đồng chí bị giam mặt vàng như vỏ chanh ủng, sung sướng chạy đến gặp Pa-ven. Đấy là Xa-miên Lê-khe, người thợ sắp chữ ở xưởng in Sê-pê-tốp-ca.

Nghe Xa-miên kể chuyện, mặt Pa-ven cứ xám dần. Một tấn thảm kịch đẫm máu đã xảy ra ở thị trấn quê hương. Mỗi tiếng Xa-miên nói ra rơi vào lòng anh như từng giọt sắt nung lỏng.

- Có một thằng khiêu khích khốn nạn báo, nên chúng tôi bị tóm tất cả. Cả bọn chúng tôi rơi vào tay hiến binh. Chúng nó đem ra tra tấn ngay rất dã man. Tôi bị đau ít hơn các đồng chí khác: Vì bị chúng nó đánh mấy tua đầu là tôi lăn ra bất tỉnh ngay. Còn các cậu khác thì khỏe hơn tôi... Cũng chẳng có gì mà giấu chúng nó nữa. Bọn sen đầm biết mọi chuyện hơn cả chúng tôi kia. Chúng nắm được chẳng sót một tý gì.

Làm sao mà chúng không biết, khi có một thằng chó phản bội đã len được vào tổ chức. Kể đến chuyện những ngày đó thật đau lòng. Những anh chị em bị bắt, Pa-ven quen biết gần hết đấy. Va-li-a Bơ-ru- giắc, Rô-da Gơ-rít-sman, người ở quận lỵ, anh nhớ ra Rô-da chứ, một cô bé con, một nữ thanh niên mười bảy tuổi, can đảm lắm, có đôi mắt người ta cứ nhìn vào là tin ngay, rồi đến Xa-sa Bun-sáp, Pa-ven nhớ chứ, thợ sắp chữ ở chỗ chúng tôi ấy mà, một thằng bé vui tính lắm, lúc nào cũng vẽ nghịch lão chủ xưởng. Cậu ấy rồi đến hai học sinh nữa: Nô-vô-xen-ki và Tu- gít. Những người ấy Pa-ven đều biết cả. Còn những người khác là người ở quận và ở thôn ngoại ô. Hai mươi chín người tất cả, trong đó có sáu phụ nữ. Ai cũng bị đánh dã man hết sức. Va-li-a và Rô-da bị chúng hiếp ngay hôm đầu. Thôi thì quân khốn kiếp tha hồ làm nhục hai người con gái tội nghiệp. Lúc chúng nó lôi hai người về xà-lim thì đã chết dở cả. Sau lần đó, Rô-da bắt đầu nói huyên thuyên và vài hôm sau thì phát điên hẳn.

Song quân giết người không muốn tin là chị điên. Cho là giả vờ, mỗi lần hỏi cung, lại đánh chị tàn tệ. Hôm chúng đem chị đi bắn, thật nhìn mà ghê sợ. Mặt bị đánh thâm tím khắp cả, đôi mắt dữ và dại đi. Trông y như một bà lão.

Va-li-a cho đến lúc chết vẫn hiên ngang. Anh chị em đã chết ra cái chết của những chiến sĩ chân chính. Tôi không biết anh chị em đó đã lấy đâu ra sức mạnh mà dũng cảm phi thường như vậy. Pa-ven ơi! Có tài nào thuật lại được hết về cái chết của họ? Không, Pa- ven ạ. Cái chết của họ ghê gớm hơn tất cả những lời kể lại... Va-li-a nguy nhất trong bọn: Chị phụ trách bắt liên lạc với cánh làm vô tuyến điện cho tham mưu Ba Lan. Chị được phái đến quận để bắt liên lạc. Chúng vào khám nhà chị thấy khẩu Bơ-rao-ninh và hai quả lựu đạn. Súng lục và lựu đạn đó chính do tên khiêu khích đã đưa cho chị. Chúng nó bày trò ra tất cả, để buộc tội chị âm mưu dùng mìn ám sát ban tham mưu.

Pa-ven ạ, tôi thật đau lòng mà kể lại những giờ phút cuối cùng của anh chị em, nhưng Pa-ven đã yêu cầu thì tôi xin kể hết. Tòa án binh của chúng đã tuyên án: Va-li-a và hai người làm việc với chị thì bị treo cổ, những đồng chí khác thì xử bắn.

Những lính Ba Lan mà chúng tôi đã vận động được bị đem ra xử trước chúng tôi hai ngày.

Đồng chí vô tuyến điện tên là Snê-guốc-cô liên lạc với Va-li-a bị buộc tội phản quốc và tuyên truyền cộng sản trong binh lính. Đồng chí người còn trẻ, đóng cai, trước chiến tranh làm thợ máy điện ở Lốt. Chúng kết tội xử bắn. Đồng chí từ chối không ký giấy chống án, và bị đem đi bắn ngay, hai mươi bốn giờ sau khi tuyên án.

Va-li-a bị gọi đến làm chứng xử vụ Snê-guốc-cô, về có kể lại là Snê-guốc-cô nhận đã tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, song cực lực phản đối án kết tội anh là phản quốc. Anh nói:

“Tổ quốc của tôi là nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa Ba Lan. Phải, tôi là đảng viên Đảng cộng sản Ba Lan, bị cưỡng ép mà đi lính. Vào lính, tôi phải tìm hết cách để mở mắt cho các bạn đồng ngũ cũng bị ép ra mặt trận như tôi. Các ông viện cớ đó muốn treo cổ tôi thì treo cổ, nhưng không bao giờ tôi phản bội Tổ quốc của tôi, không bao giờ cả. Duy có một điều: Tổ quốc của các ông và Tổ quốc của tôi không phải là một. Tổ quốc của các ông là tổ quốc của bọn vương bá. Tổ quốc của tôi là Tổ quốc của thợ thuyền và dân cày. Tổ quốc của tôi - phải, tương lai sẽ có Tổ quốc của tôi, tôi tin tưởng sâu xa điều đó. - Trong Tổ quốc của tôi, không ai nói rằng tôi là phản quốc cả”.

Bị kết án xong, chúng tôi bị giam tập trung vào một chỗ. Trước khi bị đem đi hành hình, chúng lại chuyển chúng tôi về nhà pha. Đêm trước chúng trồng cột treo cổ ngay trước nhà pha bên cạnh nhà thương. Chỗ bắn lại ở nơi khác, hơi xa đấy, bên rừng, gần con đường men theo bờ lạch. Chúng đã đào sẵn một cái huyệt chung để vùi chúng tôi.

Bản án dán khắp nơi, trong thành phố ai cũng biết. Chúng rắp tâm định hành án chúng tôi giữa ban ngày, có mặt dân, để cho nhân dân ai cũng trông thấy mà sợ. Từ sáng sớm, chúng lùa hàng phố ra chỗ cột treo cổ. Một số người vì tò mò mà kéo đến. Trông xử treo cổ ghê mắt thật, nhưng họ vẫn đến. Quần chúng vây quanh những cột treo cổ đông lắm. Nhìn đâu cũng thấy đầu người như sóng biển. Pa-ven nhớ có cái tường bao quanh nhà pha bằng gỗ cây ghép đấy nhỉ. Cột treo cổ trồng dựa lưng vào nhà pha cho nên chúng tôi nghe rõ tiếng rào rào của đám đông bên ngoài. Trên đường phố, phía sau lưng quần chúng, đã đặt sẵn súng máy, sen đầm đi ngựa và đi chân đều dồn về đây canh gác. Một tiểu đoàn bộ binh vây lấy các vườn rau và các thành phố. Chúng đã đào sẵn một hố riêng chôn những người bị treo cổ ngay bên cột treo cổ. Chúng tôi im lặng chờ đợi trong ngục, thỉnh thoảng nói với nhau vài lời. Đêm hôm trước, chúng tôi đã nói hết mọi chuyện với nhau rồi và đã gửi nhau lời vĩnh biệt. Chỉ có Rô-da đứng lẩm bẩm một mình ở góc tường. Va-li-a bị đánh, bị hiếp, kiệt sức không bước được nữa, thường phải nằm liệt một chỗ. Có hai chị em ruột, đảng viên ở thôn ngoại ô, ôm lấy nhau chào vĩnh biệt và không nén nổi, nấc lên khóc nức nở. Stê-pa-nốp, một thanh niên ở quận khỏe như đô vật, khi mới bị bắt đã choảng hai tên sen đầm bị thương, nghe khóc, lại gần hai chị ấy, nhắc đi nhắc lại: “Đừng khóc, các đồng chí! Nếu khóc ở đây để chốc nữa đừng khóc ngoài kia thì các đồng chí cứ khóc. Đừng cho đàn chó khát máu thấy chúng ta yếu lòng mà chúng phởn bụng. Thế nào thì chúng cũng chẳng thương gì chúng ta đâu, thế nào rồi cũng chết. Vì vậy phải chết cho cứng cỏi. Đừng có ai trong chúng ta được quỳ gối, cúi đầu cả. Các đồng chí nhớ lấy, chết thì phải chết cứng cỏi”.

Rồi chúng đến dẫn chúng tôi đi. Đi đầu là thằng Sơ-vác-cốp, trưởng ban phản gián trắng, một thằng cuồng dâm điên loạn, một đứa trông thấy đàn bà nếu chính nó không đè ra hiếp, thì cũng để cho lũ sen đầm hiếp ngay trước mặt để nhìn cho sướng mắt. Từ nhà ga ra đến cột treo cổ, xếp song song hai hàng rào sen đầm. Bọn “vện” đeo lon vàng ấy đứng nghiêm, gươm tuốt trần sáng loáng.

Chúng nó lấy báng súng dồn chúng tôi ra sân nhà pha, rồi bắt chúng tôi xếp hàng tư điệu ra chỗ cột treo cổ, định tâm bắt chúng tôi phải chứng kiến cái chết của đồng chí mình, trong khi chờ đợi đến lượt mình đi chết. Cột treo cổ bằng những thanh gỗ to sù, cao dựng đứng, lủng lẳng ba thòng lọng bằng thừng to bện lại. Chung quanh, biển người náo động, xì xào. Dân nhìn chúng tôi... Chúng tôi nhìn dân. Mỗi người nhận ra người nhà của mình.

Xa xa, trên thềm cao, tất cả bọn quý tộc Ba Lan đã ngồi chầu sẵn, tay cầm ống nhòm. Nhiều đứa là võ quan. Chúng đến xem treo cổ người bôn-sê-vích.

Dưới chân chúng tôi, tuyết êm lắm, rừng chung quanh trắng xóa, cây cối như có bông bao phủ, hoa tuyết quay tròn rơi từ từ và tan trên da mặt nóng bừng của chúng tôi. Bệ dưới cột treo cổ cũng có tuyết. Mặc phong phanh mà chúng tôi cũng chẳng thấy rét, Stê-pa-nốp cũng không biết là chân mình chỉ đi tất không mang giày.

Tên chưởng lý tòa án binh và các sĩ quan cao cấp đứng trước cột treo cổ. Rồi chúng dẫn Va-li-a và hai người nữa bị xử treo cổ ra khỏi nhà giam. Ba người khoác tay nhau, Va-li-a đi giữa. Hai người đỡ cho chị đi, chị không còn sức nữa, cố lê bước chân, mình không áo khoác, trần một chiếc áo sợi. Chị cố đi thẳng người, có lẽ chị đang nhớ tới lời Stê-pa-nốp: “Phải chết cho cứng cỏi!” Thằng Sơ-vác-cốp trông thấy ba người tử tù khoác tay nhau mà đi thì lấy làm cáu lắm. Nó gạt hai người đàn ông đỡ chị ra. Chị cự lại nó ngay. Thế là có một thằng sen đầm đi ngựa đến quất roi da vào mặt chị, tay này mỏi hắn lại đưa roi sang tay khác quất lấy quất để.

Trong đám quần chúng có một người đàn bà rú lên, tiếng rú của một người mất trí khôn, bà ta lăn xả vào lách qua hàng rào lính, chạy đến hàng người bị xử, nhưng bà bị giữ lại và bị dẫn đi đâu không rõ. Chắc là bà mẹ chị Va-li-a. Khi ba người đến dưới chân cột treo cổ, Va-li-a cất tiếng hát. Chưa bao giờ tôi được nghe thấy một giọng hát như thế. Chỉ có một người bị xử tử, dũng cảm đi ra trước cái chết, mới hát say mê đến nhường ấy được. Va-li-a cất tiếng hát lên Bài hát của người dân thành Vác-xô-vi. Hai người cùng bị tội với chị đồng thanh hát theo. Thế là bọn sen đầm quất roi như bão táp vào mặt họ thật cực kỳ hung tợn. Nhưng họ dường như không biết đau nữa. Rồi bọn chúng đánh họ ngã lăn ra, lôi lại cột treo cổ như lôi những bì gạo. Chúng hấp ta hấp tấp đọc bản án, rồi vứt thòng lọng vào cổ họ. Thế là đến lượt chúng tôi hát lên.

Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian!...

Chúng nó tứ phía bổ lại nện chúng tôi túi bụi. Tôi chỉ còn kịp trông thấy một tên lính lấy báng súng đánh bật cọc giữ chân ra và ba thân người lủng lẳng, giãy giụa ở đầu dây thừng treo cổ.

Mười người trong bọn tôi, trong số đó có tôi được ân giảm: Khi chúng tôi đã bị đứng lấp quay mặt vào tường để ăn đạn chì, thì chúng đọc cho chúng tôi nghe lệnh của tên tướng cho giảm xuống mười năm khổ sai thay vào tội xử tử. Mười bảy đồng chí kia bị bắn chết gục bên cạnh chúng tôi.

Xa-miên cởi giật cúc áo cổ dường như bị nghẹt thở, rồi kể tiếp:

- Trong ba ngày, những người bị treo cổ cứ lủng lẳng ở đấy, ngày đêm có một tiểu đội lính gác bên cột treo cổ. Anh em bị bắt vào sau cho chúng tôi biết như thế. Đến ngày thứ tư thì xác đồng chí Tô-bôn- đin nặng nhất rơi xuống. Bấy giờ, chúng mới cởi hai cái xác kia, chôn ngay tại chỗ. Còn cột treo cổ vẫn để đấy, hôm chúng dẫn bọn tôi vào đây, bọn tôi vẫn còn trông thấy. Cả cột lẫn dây thòng lọng vẫn còn nguyên để đợi những người khác bị xử tử.

Xa-miên ngừng kể, mắt nhìn chằm chằm vào một cái gì mơ hồ ở đằng xa. Câu chuyện kể hết vào lúc nào, Pa-ven cũng không để ý nữa. Trước mắt anh hiện rõ ra hình ảnh ba xác người, đong đưa, im lặng, đầu rũ về bên một cách thê thảm.

Ngoài kia, kèn gọi tập hợp. Tiếng kèn oai hùng đưa anh về với thực tại. Anh nói khẽ, tiếng bật ra trong hơi thở.

- Xa-miên ạ, chúng ta ra khỏi đây đi thôi!

Ngoài phố, tù binh Ba Lan lê bước giữa hai hàng kỵ binh của ta áp giải. Ở cửa trại giam, đồng chí chính ủy trung đoàn đứng viết nốt mệnh lệnh vào cuốn sổ tay đi trận. Đồng chí đưa mảnh giấy cho người trung đội trưởng thấp lùn:

- Danh sách tù binh đây, đồng chí An-ti-pốp cầm lấy. Lấy một tổ đi theo và áp giải họ về Nô-vô-gơ-rát.

- Vô-lưn-xki. Cho băng bó những người bị thương, rồi đặt họ nằm trên xe và cũng đưa về đấy cả. Áp giải họ chừng hai mươi dặm, sau đó để họ tự đi tiếp. Ở đây chúng ta còn bận việc khác. Song cẩn thận nhé, đừng để xảy ra chuyện gì ngược đãi đối với họ.

Pa-ven lên ngựa, quay bảo Xa-miên:

- Anh nghe rõ chứ? Chúng nó treo cổ anh chị em ta, mà chúng ta thì dẫn họ đi không được ngược đãi họ! Không dễ như thế đâu!

Đồng chí chính ủy quay lại, nhìn vào mặt Pa-ven và đồng chí nói những tiếng gọn, rắn rỏi, như nói với chính mình:

- Ai ngược đãi tù binh giải giáp rồi sẽ bị xử bắn. Chúng ta không có như bọn bạch vệ.

Rời trại giam, Pa-ven nhớ lại những lời cuối trong bản mệnh lệnh của Hội đồng quân sự cách mạng đã đem ra đọc trước toàn thể trung đoàn:

“Đất nước của thợ thuyền và dân cày yêu mến Hồng quân của mình và lấy làm tự hào về Hồng quân. Đất nước đòi hỏi phải giữ cho lá cờ của Hồng quân trong sạch, không một vết nhơ”.

Pa-ven nhủ thầm trên môi: “Không một vết nhơ”.

*

Trong khi sư đoàn kỵ binh đỏ thứ tư chiếm lĩnh Gi-tô-mia thì lữ đoàn thứ hai mươi của sư đoàn khinh binh thứ bảy vượt sông Đơ-nhi-ép ở quãng thôn Ô- cu-nhi-nô-vô. Lữ đoàn thứ hai mươi này nhập vào binh đoàn xung kích của đồng chí Gô-li-cốp.

Đoàn này gồm có sư đoàn khinh binh 25 và lữ đoàn kỵ binh Ba-sơ-kia, nhận lệnh sau khi vượt sông Đơ- nhi-ép, thì cắt đường rút quân của địch từ Ki-ép đến Cô-rô-ten, gần ga La-sa. Do thế vận động đó mà quân Ba Lan mất đường rút lui duy nhất. Chính trong cuộc vượt sông Đơ-nhi-ép này mà Mi-sa, người thanh niên cộng sản thành Sê-pê-tốp-ca, đã hy sinh.

Lúc ấy bộ đội như đang chạy thi vượt nhanh nhịp cầu nổi rung rinh, thì có một quả đại bác, từ phía đằng kia, sau ngọn đồi, rú lên, ghê rợn, bay trên đầu các chiến sĩ rồi rơi tõm xuống nước. Mi-sa bị bắn, người lộn nhào ngay xuống dưới đáy một chiếc thuyền làm cầu. Dòng nước cuốn nuốt chửng anh đi không buông tha nữa. Chỉ có I-a-ki-men-cô, một thanh niên tóc vàng hoe, đội mũ mất lưỡi trai, kêu lên kinh ngạc:

- Cậu không trông thấy gì à? Mi-sa bị nước cuốn mất rồi. Tội nghiệp thằng bé rơi xuống đã biến mất, như bị con bò thè lưỡi liếm phăng đi! - I-a-ki-men- cô đứng sững lại, hoảng hốt, nhìn dòng nước thăm thẳm, nhưng đoàn quân từ phía sau tiến lên xô tới, giục anh:

- Sao cậu đứng há mồm ra nhìn như thằng ngố thế? Tiến lên đi nào!

Thời giờ không có để mà suy nghĩ về người đồng đội mất tích ấy nữa: Lữ đoàn của họ đã bị các đơn vị khác chiếm xong bên hữu ngạn, bỏ rớt lại xa rồi.

Bốn ngày sau, Xéc-gây mới biết tin bạn chết. Khi đó lữ đoàn đã chiếm được ga Bu-sa và chuyển thế trận quay sang Ki-ép, chống lại những đợt tấn công ác liệt của quân Ba Lan đang tìm cách đánh thọc vào Cô-rô-ten.

I-a-ki-men-cô nằm ngay cạnh cùng hàng xạ kích với Xéc-gây. Anh ngừng nhịp bắn điên giận, đẩy quy- lát một cách khó nhọc trên nòng súng nóng bỏng, cúi đầu xuống đất, quay lại nói với Xéc-gây:

- Khẩu súng của mình nó đòi nghỉ. Ái chà nòng súng nóng như lửa!

Tiếng nổ ầm ầm át đi làm Xéc-gây chỉ thoáng nghe thấy tiếng nói của bạn. Khi tiếng súng im một lát, I-a-ki-men-cô mới báo tin qua cho Xéc-gây biết:

- Bạn cậu bị chết đuối ở Đơ-nhi-ép rồi. Lúc ấy một quả đại bác bắn tung tóe vào chúng tớ. Mình chưa kịp kêu lên, Mi-sa đã lăn tòm xuống nước rồi không thấy ngoi lên nữa.

I-a-ki-men-cô nói rồi lấy tay kéo quy-lát, móc túi dết lấy đạn ra và vội vã lắp vào súng.

*

Sư đoàn mười một tấn công vào chiếm lĩnh Béc- đi-sép vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của quân Ba Lan.

Chiến đấu gay go, máu loang các phố. Liên thanh nổ giòn chặn đường kỵ binh. Nhưng rồi thành phố cũng bị ta chiếm, tàn quân địch bỏ chạy. Trên ga, ta thu được nhiều đoàn tàu chở quân trang, quân dụng của chúng. Thiệt hại nặng nhất của địch là kho dự trữ đạn dại bác của toàn mặt trận chừng một triệu viên bị nổ tung. Các cửa kính trong phố vỡ vụn ra, nhà cửa bị tiếng nổ mạnh rung chuyển, tưởng như làm bằng giấy bồi.

Bị đánh vào Gi-tô-mia và Béc-di-sép đối với quân Ba Lan tức là bị đánh quật từ sau lưng lại, cho nên chúng vội vàng chia ngay làm hai mũi như hai dòng thác người hấp tấp chuồn khỏi Ki-ép, cố sống cố chết đánh một cách tuyệt vọng để mở đường chạy thoát vòng vây sắt của quân ta.

Pa-ven đã không còn nghĩ gì về cá nhân mình. Những ngày đang sống say sưa trong những trận xung sát ác liệt, anh hòa hẳn mình vào tập thể và cũng như mỗi người trong các chiến sĩ, anh như đã quên hẳn tiếng “tôi” chỉ còn nói tiếng “ta” : Trung đoàn “ta”, trung đội “ta”, lữ đoàn “ta”.

Mà tình hình thì dồn dập, diễn biến nhanh như gió bão. Mỗi ngày đều mang đến một chuyện mới. Đoàn kỵ mã lao đến đâu cuốn phăng phăng đến đấy. Đoàn kỵ binh quang vinh của tướng Bu-đi-on- ny đánh hết trận này đến trận khác, đã làm tiêu hao, kiệt sức tất cả hậu phương của Ba Lan. Say sưa trước thắng lợi ngày càng một lớn, các sư đoàn kỵ binh đỏ hùng dũng tấn công vào Nô-vô-gơ-rát-vô-lưn-ski, trái tim của hậu phương quân địch.

Quân ta lùi lại như những đợt sóng đập vào bờ sông có đá dựng đứng, bị đẩy ra, rồi lại chồm lên với tiếng thét “xung phong” mãnh liệt.

Không gì cứu nổi quân Ba Lan nữa rồi, cả những hệ thống hàng rào dây thép gai và cuộc kháng cự liều chết cố sống của quân giữ thành này cũng chẳng ăn thua gì. Sáng hai mươi bảy tháng Sáu, quân kỵ mã của ta thúc ngựa lội qua sông Xi-lút, ập vào thành, truy kích quân địch ở phía làng Cô-rét. Cùng lúc ấy, sư đoàn bốn mươi nhăm cũng vượt qua sông này ở quãng Mi-rô-pôn, còn lữ đoàn kỵ binh Cô-tốp-ski thì đã phóng tới Lu-ba.

Vô tuyến điện của tập đoàn quân kỵ mã thứ nhất nhận được lệnh của Bộ tư lệnh mặt trận: Đưa toàn bộ quân kỵ mã xung phong chiếm lấy Rốp-nô. Cuộc tấn công ồ ạt không sức gì cản nổi của các sư đoàn đỏ truy kích quân Ba Lan, làm chúng bị chia cắt tán loạn, rời rạc, mất tinh thần, cố chạy dài bán sống bán chết để tháo thân.

Một hôm, Pa-ven được lữ đoàn trưởng phái đến chỗ ga có đoàn xe bọc sắt đỗ. Tới đấy, anh được gặp một người mà anh không ngờ là có thể gặp. Con ngựa của anh nhảy tót qua bờ dốc của đường xe lửa. Pa- ven kéo cương dừng lại trước toa xe đầu sơn xám. Đoàn xe bọc sắt kiên cố ghê sợ đứng lù lù, ló những chiếc mõm đen của nòng súng giấu trong tháp pháo. Chung quanh nhiều bóng người bê bết dầu mỡ đang loay hoay ỳ ạch nâng những tấm thép nặng bọc ngoài bánh.

Gặp một chiến sĩ mặc áo da đang xách thùng nước, Pa-ven hỏi:

- Đồng chí có biết đồng chí chỉ huy đoàn tàu bọc thép này ở đâu không?

Chiến sĩ kia hất đầu chỉ về phía đầu tàu:

- Ở đằng kia kìa.

Pa-ven đi lại đầu tàu hỏi:

- Ở đây ai là đồng chí chỉ huy xin cho biết.

Một người mặc toàn đồ da từ đầu đến chân, mặt rỗ, quay lại:

- Tôi đây.

Pa-ven thò vào túi lấy ra một phong thư:

- Đây là mệnh lệnh của lữ đoàn trưởng. Đề nghị đồng chí ký nhận trên phong bì cho.

Đồng chí chỉ huy tì phong bì lên đầu gối ký tên.

Một bóng người đang cầm bình dầu lúi húi gần bánh xe giữa của đầu máy. Pa-ven chỉ nhìn thấy cái lưng rộng của người ấy và báng súng lục lòi ra ngoài túi quần da.

Đồng chí chỉ huy trao lại phong bì cho Pa-ven:

- Gửi đồng chí. Tôi đã ký nhận rồi đấy.

Pa-ven cầm dây cương ngựa định ra về. Giữa lúc đó bóng người bên đầu tàu đứng thẳng cả người lên quay lại. Thì ngay lúc ấy, Pa-ven nhảy tót xuống như thoắt có một cơn gió cuốn khỏi yên ngựa:

- Anh A-rơ-chom!

Người thợ máy khắp người nhọ nhem dầu ma-dút, đặt bình dầu xuống đất và ôm chặt lấy anh chiến sĩ Hồng quân trẻ tuổi trong cánh tay khỏe như gấu của mình.

- Pa-ven! Ra mày đấy à, hở thằng nhãi con. - A- rơ-chom kêu lên thế, mắt nhìn còn ngỡ là nhầm.

Đồng chí chỉ huy đoàn tàu nhìn cảnh đó rất lấy làm lạ. Anh em pháo thủ chung quanh cười ran cả lên:

- Trông kìa, hai anh em gặp nhau.

Ngày mười chín tháng Tám, trong trận đánh ở vùng Lơ-vốp, Pa-ven để rơi mất mũ cát-két. Vừa hãm ngựa lại nhặt mũ thì thấy trước mặt các trung đội đỏ đã đánh thọc vào hàng ngũ khinh binh Ba Lan. Lúc đó, Đê-mi-đốp phi ngựa vun vút giữa những lùm cây, vừa phi theo bờ dốc xuống sông, vừa kêu lên:

- Sư đoàn trưởng đã bị chúng giết rồi.

Pa-ven rùng mình. Đồng chí Lê-tu-nốp, người chỉ huy anh hùng của sư đoàn, người đồng chí có lòng quả cảm vô biên, người ấy đã mất rồi. Pa-ven căm giận sôi người, lấy đốc kiếm phát vào mông con ngựa Gơ-nê-đốc, ghì cương chặt, hàm thiếc siết mạnh làm mõm ngựa bật máu tươi, anh lao sâu vào lòng cơn xung sát, thét lớn:

- Chém hết đầu loài súc sinh nhơ bẩn ấy đi! Chém đi! Chém hết bọn quý tộc Ba Lan! Chúng nó đã giết mất Lê-tu-nốp rồi.

Và Pa-ven chém phập vào bóng một tên mặc binh phục xanh, anh chẳng ngoái lại nhìn kẻ bị chém đó nữa. Điên tiết lên vì căm thù trước cái chết của sư đoàn trưởng, quân kỵ mã đỏ chém chết cả một đơn vị lê-dương.

Họ xông lên đến tận cánh đồng, truy kích lũ giặc đang chạy thì vừa lúc ấy pháo binh địch bắn tới. Trái phá nổ vừa bung lên xé đứt không trung, mảnh đạn chết người bắn tung tóe.

Trước mắt Pa-ven, một ngọn lửa xanh bùng lên, lóe sáng, như chớp lòe xoẹt mạnh bên tai nghe như tiếng sấm, mảnh đạn đỏ rực cháy sém vào đầu anh. Mắt Pa-ven hoa lên, đất bắt đầu xoay như chong chóng, ghê sợ, quay cuồng, lảo đảo rồi như ngã vật xuống bên anh.

Tiếng nổ rung chuyển mạnh làm Pa-ven bắn khỏi mình ngựa nhẹ như chiếc lông. Anh lăn qua đầu con ngựa Gơ-nê-đốc, nặng nề ngã nhào ra đất.

Và anh thấy tối sầm lại.

Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 1 - Chương 9

Trong cơn mê man, Pa-ven thấy một con bạch tuộc. Mắt nó lồi lên, to bằng đầu con mèo, đỏ ngầu, giữa thì xanh, sáng óng ánh một thứ ánh sáng chói lọi. Con bạch tuộc ngọ nguậy hàng chục những tua càng xoắn lại như rắn rết, lớp vẩy trên da cọ sột soạt. Con bạch tuộc nhúc nhích bò lên. Pa-ven thấy nó ngay trước tầm mắt mình. Tua càng của nó bò trên mình anh tê lạnh mà làm người anh ngứa ran nóng bỏng như bị lá han. Nó chìa vòi ra sắc như gươm rúc vào đầu anh như giống đỉa, co mình lại giãy lên đành đạch, rồi thì hút máu của anh. Pa-ven cảm thấy dường như máu mình thấm hết vào cái xác căng trương của con vật. Vòi nó hút máu hút lấy hút để. Nó chui đến đâu thì anh lại thấy đầu anh đau nhói không tài nào chịu được.

Có tiếng người nói văng vẳng ở đâu xa lắm.

- Mạch cậu ấy bây giờ bao nhiêu?

Rồi có tiếng người phụ nữ đáp lại, giọng nói càng khẽ hơn:

- Mạch 138. Nhiệt độ 39,5. Không lúc nào ngớt mê sảng.

Con bạch tuộc đã biến rồi, nhưng đầu anh vẫn còn đau. Pa-ven cảm thấy có ngón tay ai chạm vào cổ tay mình. Anh cố mở mắt ra, nhưng hai hàng mi nặng trĩu không sao hé ra được. Mà sao lại nóng thế nhỉ. Chắc là mẹ đốt lò nướng bánh rồi. Vẫn còn giữa cơn nửa tỉnh nửa mê ấy thì anh lại nghe có tiếng người nói đâu đây:

- Mạch bây giờ 122.

Anh lại cố mở mắt ra. Trong người nóng như lửa đốt. Ngột ngạt quá.

Khát quá đi mất! Anh định ngồi dậy uống nước cho thỏa cơn khát. Nhưng sao không dậy được? Muốn cựa mình một cái, mà sao cái xác cứ ỳ ra, không nhích được, chẳng phải là thân thể mình nữa rồi. Anh vẫn còn mê man nghĩ đến mẹ sắp đem nước tới, anh sẽ nói với mẹ: “Con muốn uống nước”. Có cái gì cựa quậy bên anh. Hay lại con bạch tuộc rồi. Đấy mắt nó đỏ ngầu kia kìa...

Từ xa có tiếng nói nhỏ vọng lại:

- Phơ-rô-xi-a, mang nước lại!

“Phơ-rô-xi-a? Tên ai đấy nhỉ?” Pa-ven cố nhớ lại xem là tên ai, nhưng sự cố gắng đó lại nhấn chìm anh vào bóng tối. Anh cố ngoi lên và một lần nữa lại nhớ ra: “Mình khát lắm”.

Có tiếng nói:

- Tôi thấy cậu ta tỉnh lại rồi đấy.

Và ngay đó có tiếng dịu dàng, lần này nói nghe rõ hơn, gần hơn, hỏi Pa-ven:

- Đồng chí bệnh binh muốn uống nước phải không?

“Té ra mình là bệnh nhân hay sao? Hay là không phải người ta nói với mình đâu? Ừ, ta bị bệnh chấy rận thật rồi mà”. Và lần thứ ba, Pa-ven định mở mắt ra. Lần này thì mở được. Qua khe nhỏ của bên mắt mở, cảm giác đầu tiên mà anh cảm thấy là một quả cầu đỏ lơ lửng trên đầu anh, nhưng rồi một vật gì tối om đã che mất; Bóng tối om ấy cứ cúi xuống gần anh và làn môi anh nhận ra cái thành cứng cửa chiếc cốc rồi là nước, một thứ nước mát rượi uống tỉnh người. Lửa nóng trong người nguội đi.

Anh khoan khoái thì thầm:

- Bây giờ dễ chịu rồi.

- Đồng chí bệnh binh! Đồng chí có nhìn thấy tôi không?

Người hỏi đó chính là cái bóng tối om đang ngả xuống người anh. Pa-ven thiu thiu ngủ, miệng vẫn còn kịp đáp lại:

- Không thấy, nhưng nghe thấy.

- Ai có thể nói là cậu ấy qua khỏi được. Thế mà, cậu ấy hồi lại rồi đấy. Thật là một cơ thể rắn khỏe lạ thường. Chị Nhi-na ạ, chị có thể tự hào là đã cải tử hoàn sinh cho cậu ta.

Và giọng người phụ nữ, xúc động, trả lời:

- Cậu ta khỏi được, tôi mừng lắm.

Sau mười ba ngày mê thiếp đi, Pa-ven đã hồi tỉnh lại.

Tấm thân trẻ của anh không muốn chết sớm, dần dần lại sức. Thật như sống lại; Mọi vật, mọi thứ đối với anh đều mới lạ khác thường. Chỉ có cái đầu nặng trình trịch nằm cứng trong hộp bó thạch cao không nhúc nhích. Nhưng cảm giác toàn thân đã trở lại và những ngón tay anh đã có thể nắm vào duỗi ra rồi.

Nhi-na, y sĩ của một quân y viện, ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong gian phòng vuông đang lật từng tờ quyển vở dày bìa trắng bạch. Mỗi trang ghi những dòng nhật ký ngắn, nét chữ thanh, viết nghiêng:

26 tháng Tám 1920.

Chuyến xe lửa quân y hôm nay đưa về một lô chiến sĩ bị thương nặng. Trên giường ở góc toa, gần cửa sổ, có một chiến sĩ Hồng quân mới mười bảy tuổi bị thương ở sọ. Tên cậu ta là Ca-rơ-sa-ghin Pa-ven An-đơ-rê- vích. Người ta trao cho tôi những giấy má tìm thấy trong túi chiến sĩ, bỏ trong một chiếc phong bì, cùng với y bạ của thầy thuốc. Trong phong bì có một tấm thẻ đã nhàu nát của Đoàn thanh niên cộng sản U- cơ ren số 967, một cuốn sổ quân bạ đã rách, trong đó có ghi Pa-ven được tuyên dương vì đã hoàn thành tốt một nhiệm vụ quân báo, và một mẩu giấy có lẽ chính tay Pa-ven viết:

“Nếu tôi chết, xin các đồng chí báo cho thân nhân tôi: Thành Sê-pê-tốp-ca, sở đầu máy xe lửa, ông thợ nguội A-rơ-chom Ca-rơ-sa-ghin”.

Người thương binh ấy đã bất tỉnh từ lúc bị một mảnh trái phá bắn bị thương, từ ngày 19 tháng Tám. Ngày mai, bác sĩ A-na-tôn Stê-pan-nô-vích sẽ khám bệnh cho cậu ta.

27 tháng tám.

Hôm nay đã xem vết thương của Pa-ven. Sâu lắm, nặng lắm. Hộp sọ bị thủng cho nên cả nửa đầu bên phải bị liệt hẳn. Mắt phải bị đứt mạch máu, sưng vù lên.

Bác sĩ giải phẫu A-na-tôn muốn lấy cả mắt đi cho khỏi sưng. Tôi can mãi vì còn có thể hy vọng chỗ sưng sẽ bớt tấy lên. Bác sĩ đồng ý.

Tôi đề nghị thế chỉ vì nghĩ đến vẻ đẹp của con người: Nếu cậu ta sống được, thiếu một mắt là xấu đi bao nhiêu, mà lấy mắt ấy đi có lợi gì đâu.

Người thương binh trẻ tuổi ấy vật vã, mê hoảng liên miên. Phải cho người gác luôn ở bên. Tôi để phần lớn thời giờ trông nom cậu ta. Thấy cậu ta trẻ măng mà thương quá. Ước gì cứu được cậu ta khỏi chết!

Hôm qua sau khi hết phiên, tôi đã ở lại rất lâu trong phòng cậu ta, vì cậu ta là người bị nặng nhất. Tôi nghe hết những lời nói mê của cậu ta. Đôi khi nói mê như kể chuyện ấy. Vì cậu ta mê hoảng mà tôi được biết thêm về đời cậu ta. Nhưng đôi lúc cậu ta hét chửi ghê quá. Nghe những câu hét chửi như thế ở miệng cậu ta ra, sao tôi thật đau lòng. Bác sĩ A-na-tôn thì cho là không sao qua khỏi được. Ông già ấy cứ phàn nàn: “Tôi không hiểu cớ sao người ta lại nhận những thiếu niên bé tí tuổi đầu như thế vào bộ đội. Thật vô lý”.

30 tháng Tám.

Pa-ven vẫn chưa tỉnh. Cậu ta nằm riêng ra một nơi ở buồng những người hấp hối. Chị hộ lý Phơ-rô- xi-a trông nom cậu ta, không rời cậu ta một bước. Đâu chị có quen biết cậu ta. Trước kia hai người cùng làm ở một khách sạn. Cô ta phục vụ người bệnh này hết sức ân cần, hết sức chu đáo. Bây giờ tôi cũng bắt đầu thấy rằng không có hy vọng gì cứu sống được cậu ta.

2 tháng Chín.

Mười một giờ đêm. Hôm nay ngày vô cùng tươi đẹp của tôi! Người bệnh Pa-ven của tôi đã tỉnh, đã hồi sinh. Qua được độ bệnh trầm trọng nhất rồi. Hai ngày nay, tôi không về nhà.

Thật tôi không thể nói hết nỗi vui mừng của mình: Lại cứu sống thêm được một người bệnh nữa. Thôi thế là bớt được một người chết bệnh trong ban tôi. Trong công tác mệt nhọc của tôi, nguồn vui trong trẻo nhất là thấy những người bệnh qua khỏi đang hồi lại sức. Họ quấn quít lấy tôi như một đám trẻ nhỏ.

Tình thân của họ giản dị, thật thà, và đến khi cùng họ chia tay, nhiều lần tôi phải khóc. Buồn cười thật, song thật như thế đấy, không sao cầm lòng được.

10 tháng Chín.

Hôm nay, tôi viết hộ Pa-ven bức thư thứ nhất gửi cho người nhà cậu ta. Cậu ta bảo tôi viết là vết thương nhẹ thôi, sắp khỏi và sẽ về thăm nhà. Thật ra, cậu ta mất nhiều máu lắm, người xanh bệch, hãy còn yếu lắm.

14 tháng Chín.

Cái cười thứ nhất của Pa-ven. Cười ngoan lắm. Thường cậu ta có vẻ mặt khắc khổ ít thấy ở số người cùng lứa tuổi với cậu. Cậu đã bình phục lại nhanh chóng quá, thật không ngờ. Phơ-rô-xi-a và cậu ta là đôi bạn thân. Tôi luôn thấy Phơ-rô-xi-a ở bên giường cậu ta. Chắc là cô ấy có nói cho cậu ta biết, tôi đã chăm sóc thế nào, có lẽ còn nói quá lên nữa. Cậu ta thấy tôi đến thì hớn hở cười.

Hôm qua, cậu ta hỏi tôi: “Thưa bác sĩ tại sao cánh tay bác sĩ có nhiều vết tím bầm thế”. Tôi không muốn nói cho cậu ta biết đấy là vết móng tay cậu ta: Trong cơn mê hoảng, cậu ta ôm ghì lấy cánh tay tôi, cào cấu rất đau.

17 tháng Chín.

Vết thương Pa-ven đã khá. Tất cả các thầy thuốc đều ngạc nhiên trước tinh thần chịu đựng kiên nhẫn khác thường của cậu ta trong những buổi làm thuốc. Thường thường trong những ca như vậy, người bệnh rên la và khó tính lắm. Thế mà Pa-ven thì không hề rên la và cho đến khi bôi canh-ki-dết lên vết thương, thì người cậu ta co lại, căng thẳng như chiếc dây thừng. Thường khi cậu ta ngất đi.

Ở nhà thương, ai cũng hiểu: Nếu Pa-ven rên la, ấy là cậu ta đã bất tỉnh rồi. Làm sao mà cậu ta gan thế nhỉ? Tôi cũng không biết nữa.

21 tháng Chín.

Lần đầu tiên, Pa-ven được ra ngoài hiên chơi. Người ta đặt cậu ta ngồi trên cái ghế bành có bánh xe đun. Cậu nhìn vườn hoa bằng con mắt háo hức vô chừng, hít lấy hít để không khí tươi mát ngoài trời. Mặt cậu ta quấn băng kín mít chỉ để hở con mắt trái. Con mắt đó sáng và nhanh ngắm nhìn sự vật y như người mới nhìn thấy lần đầu.

26 tháng Chín.

Hôm nay, người ta gọi tôi xuống phòng khách gặp hai cô thiếu nữ. Trong hai cô đó có một cô rất xinh. Cả hai đều đến xin gặp Pa-ven. Một cô tên là Tô-nhi- a, cô kia là Ta-chi-a-na. Tôi đã nghe đến tên Tô-nhi- a. Trong lúc mê, Pa-ven hay nhắc đến tên cô ta. Tôi cho phép vào thăm.

8 tháng Mười.

Lần đầu tiên Pa-ven đã đi bách bộ một mình ngoài vườn được rồi. Nhiều lần cậu ta hỏi tôi khi nào thì ra viện được. Tôi đáp: Chóng thôi. Hai cô bé bạn cậu ta ngày nào cũng đến thăm.

Giờ tôi mới biết tại sao cậu ta không rên la. Tôi hỏi thì cậu ta trả lời:

- Bác sĩ đọc truyện Ruồi trâu tất hiểu.

14 tháng Mười.

Pa-ven ra viện. Chúng tôi chia tay nhau một cách rất trìu mến. Băng ở mắt Pa-ven đã bỏ ra, chỉ còn băng ở trán. Một mắt hỏng, song trông ngoài không ai biết được. Từ biệt người đồng chí tất ấy, tôi thấy hết sức buồn trong lòng.

Ở bệnh viện thường như vậy, các anh chị em thương binh chữa khỏi rồi ra đi, xa chúng tôi để có lẽ rồi không bao giờ gặp nữa. Lúc từ giã, Pa-ven có than thở:

- Giá hỏng mắt trái thì hơn, bác sĩ ạ! Hỏng mắt phải thế này làm sao còn ngắm bắn được nữa?

Chưa chi cậu ta đã nghĩ đến mặt trận rồi.

*

Ở nhà thương ra, thời gian đầu Pa-ven ở nhà Ta- chi-a-na là nhà bà con với Tô-nhi-a, Tô-nhi-a về ở đấy trong thời gian đến thăm anh.

Anh nghĩ ngay đến chuyện đưa dần người yêu vào công tác chung. Một hôm anh rủ Tô-nhi-a đến dự cuộc họp của Đoàn thanh niên thành phố. Tô-nhi-a nhận lời. Nhưng khi thấy Tô-nhi-a từ trong buồng riêng bước ra diện rất sang, cầu kỳ nữa, Pa-ven cắn môi. Anh cảm thấy rất ngượng ngùng khó chịu phải dẫn Tô-nhi-a như thế đến với các đồng chí của mình.

Thế là xảy ra sự va chạm đầu tiên giữa hai người. Khi Pa-ven hỏi Tô-nhi-a tại sao lại ăn mặc như thế, thì Tô-nhi-a không bằng lòng:

- Em không bao giờ hòa với cái điệu tầm thường của mọi người được. Nếu anh thấy cùng đi với em không tiện, thì em ở nhà để anh đi một mình.

Ở câu lạc bộ, giữa anh chị em thanh niên cộng sản mặc toàn quần áo bạc phếch, nhìn Tô-nhi-a mặc diêm dúa quá, Pa-ven cảm thấy khổ tâm. Các đồng chí coi Tô-nhi-a như một người xa lạ lạc điệu. Tô-nhi-a cũng cảm thấy thế. Cô nhìn mọi người bằng cặp mắt khinh bỉ có vẻ khiêu khích.

Anh công nhân khuân vác Pan-cơ-ra-tốp, vai rộng mặc áo vải bạt thô là bí thư chi đoàn, kéo Pa-ven ra một chỗ, quắc mắt nhìn anh, rồi nheo mắt về phía Tô-nhi-a:

- Có phải cậu dắt cái của ấy đến đây phải không?

Pa-ven đáp lại cộc lốc:

- Phải, mình đấy.

Pan-cơ-ra-tốp bĩu môi:

- Chà! Cái bộ ấy chẳng hợp với chúng mình đâu, sặc mùi tư sản. Sao lại để cho nó vào đây được cơ chứ?

Pa-ven cảm thấy hai thái dương nóng rực lên:

- Đấy là một đồng chí của tôi, và chính tôi đưa đến đây, cậu rõ chưa? Đối với chúng ta, cô ta không phải là thù địch. Còn về cách ăn mặc, cô ta thích thế, có thế thật. Song không thể cứ nhìn cách ăn mặc mà chụp mũ cho người ta được đâu. Mình cũng hiểu như cậu những ai có thể vào đây được. Cho nên chĩa mũi dùi vào nhau thì không có lợi đâu, đồng chí ạ.

Pa-ven suýt bốp chát thêm nữa. Song nén được vì hiểu rằng Pan-cơ-ra-tốp đã nói lên ý kiến chung của anh chị em. Anh quay ra bực với Tô-nhi-a.

“Đã bảo mà! Cứ thích lên khung lòe loẹt làm gì?”

Từ buổi tối hôm ấy, tình cảm giữa hai người bắt đầu rạn nứt. Pa-ven nhận ra ngay vết rạn ngày một to trong tình yêu mà anh tưởng bồi đắp đến thế là bền vững. Anh ngơ ngác và đau xót.

Qua mấy ngày, mỗi lần gặp gỡ, mỗi lần trò chuyện lại càng làm không hiểu nhau thêm, hai bên dần dần cảm thấy đối với nhau lạnh nhạt, có phần không ưa nhau nữa mà nói ra. Chủ nghĩa cá nhân rẻ tiền của Tô-nhi-a đối với Pa-ven đã trở nên không thể nào chịu được.

Mỗi bên đều thấy rõ đến nông nỗi này thì cần phải cắt đứt.

Ngày hôm ấy, hai người đưa nhau đến công viên thương mại, để nói với nhau những lời quyết định. Lá khô vàng úa phủ đầy dưới đất. Tựa vào hàng lan can nhô ra trên vực sâu, hai người cùng nhìn xuống con sông Đơ-nhi-ép lấp lánh màu nước xám. Một cái tàu kéo, từ một chiếc cầu lớn ló ra, chạy ngược dòng đang kéo hai chiếc sà-lan to phình, cánh guồng uể oải đập vào nước. Nắng xế chiều dát vàng lên hòn cù lao Tơ-ru-kha-nốp. Cửa kính những căn nhà nhỏ chói nắng ánh lên rực màu vàng tía.

Tô-nhi-a nhìn những tia nắng vàng, buồn rầu nói:

- Có thể nào tình bạn của chúng ta lại nguội đi như mặt trời sắp tắt kia được?

Pa-ven cau mày nhìn Tô-nhi-a không chớp, thấp giọng trả lời:

- Tô-nhi-a, chúng ta đã nói chuyện với nhau rồi đấy. Em đã biết anh yêu em đến thế nào và bây giờ tình yêu đó vẫn còn có thể trở lại nữa. Nhưng muốn thế, thì Tô-nhi-a phải đi với các anh. Anh bây giờ chẳng còn là cậu bé Pa-vơ-lu-sa như hồi trước kia nữa đâu. Và anh đối với Tô-nhi-a sẽ chỉ là một người chồng rất đáng khinh bỉ nếu Tô-nhi-a đòi rằng anh trước hết là của em rồi sau mới là người của Đảng. Không, anh trước hết phải là của Đảng, rồi mới đến là của em và của những người thân khác.

Tô-nhi-a buồn rầu nhìn dòng nước xanh biếc, trên khóe mắt nhòa ánh lệ.

Nhìn bóng dáng thân yêu quá ấy, với mái tóc dày màu hạt dẻ, lòng Pa-ven cảm thấy ái ngại vô hạn. Người con gái này trước đây đối với anh thân thiết và gần gũi biết nhường nào!

Tay anh đặt nhẹ lên vai Tô-nhi-a.

- Tô-nhi-a ơi, em hãy trút hết những cái gì còn ràng buộc em đi. Em hãy đi đến với các anh, cùng nhau hạ nốt bọn quyền quý. Trong hàng ngũ các anh có rất nhiều người con gái can đảm, cùng các anh gánh vác nhiệm vụ chiến đấu ác liệt, cùng chia gian khổ với các anh. Các chị ấy có thể không học thức bằng Tô-nhi-a. Vậy mà tại sao, tại làm sao Tô-nhi- a lại từ chối không muốn đi với các anh? Tô-nhi-a bảo tại Tru-gia-nin đã chực dùng vũ lực mà chiếm lấy thân thể Tô-nhi-a. Nhưng thằng Tru-gia-nin ấy là một con quái vật, chứ không phải là một chiến sĩ cách mạng. Tô-nhi-a bảo tại anh chị em trong Đoàn thanh niên khinh khỉnh với Tô-nhi-a, có phải không? Nhưng tại làm sao Tô-nhi-a đi họp lại tô son điểm phấn như đi dự hội khiêu vũ của bọn tư sản ấy thế? Chính là tính kiêu ngạo khiến Tô-nhi-a làm ra như vậy. Tô-nhi-a không muốn hòa mình vào những người mặc toàn quần áo nhem nhuốc. Tô-nhi-a đã từng có gan yêu một công nhân, nhưng Tô-nhi-a không có đủ can đảm để yêu một lý tưởng. Phải xa Tô-nhi-a, anh rất tiếc, và đối với Tô-nhi-a anh muốn còn giữ những kỷ niệm tốt đẹp.

Pa-ven im không nói nữa.

Ngày hôm sau, Pa-ven đọc thấy ngoài phố bản mệnh lệnh của ủy ban chống phản cách mạng tỉnh, ký tên Giu-khơ-rai là chủ tịch ủy ban này. Lòng Pa-ven bồi hồi. Anh vất vả lắm mới đến tìm gặp được Giu-khơ- rai vì người ta không cho vào. Pa-ven làm om lên khiến những đồng chí đứng gác đã chực bắt giữ lại. Cuối cùng vẫn vào được.

Cuộc gặp gỡ thật thắm thiết. Giu-khơ-rai bị một viên đạn đại bác cụt mất một tay. Hai anh em đồng ý với nhau ngay về công tác. Giu-khơ-rai nói:

- Chú cũng chưa được khỏe lắm để trở ra tiền tuyến. Vậy thì chú ở lại làm việc với anh ở đây vậy, hai anh em ta sẽ cùng nhau bóp chết hết bọn phản cách mạng ở đây đi. Mai chú đến đây ngay tìm anh nhé.

Chiến tranh với bọn Ba Lan trắng kết liễu. Những đạo Hồng quân đã tiến đến chân thành Vác-sa-va, tiêu hết sức người sức của. Xa hậu phương không tiếp viện kịp, họ không chiếm được chiến tuyến cuối cùng, nên đành rút lui. Cuộc rút lui của ta trước thành Vác-sa-va là “phép lạ trên sông Vi-stuyn” như bọn thù địch Ba Lan thường nói. Nước Ba Lan của bọn bạch vệ thế là sống sót. Trong lúc này, ta đành chưa thực hiện được ước mơ có một Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết Ba Lan.

Đất nước bị ngập trong máu lửa cần có một thời gian hòa hoãn.

Pa-ven không về thăm nhà được vì Sê-pê-tốp-ca lại bị quân Ba Lan trắng chiếm đóng lại và tạm thời lấy làm thành phố giới tuyến của hai bên. Ta và địch đang tiến hành đàm phán lập lại hòa bình. Ngày đêm, Pa-ven công tác trong Ban đặc biệt chống phản cách mạng, làm mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho. Anh ở cùng phòng với Giu-khơ-rai. Được tin quê hương nằm trong vùng chiếm đóng của Ba Lan, Pa-ven buồn rười rượi:

- Đồng chí Giu-khơ-rai ạ, nếu sau khi đình chiến vẫn giữ được nguyên tình trạng ấy thì mẹ em hóa ra thành sống ở nước ngoài mất ư?

Giu-khơ-rai giải thích cho Pa-ven yên tâm:

- Chắc giới tuyến sẽ chạy qua Gô-rin, dọc theo bờ sông. Như thế thì Sê-pê-tốp-ca vẫn là của ta. Chúng ta sẽ chóng được tin chắc chắn. Những sư đoàn Hồng quân rời mặt trận Ba Lan đổ về phía Nam. Lợi dụng thời cơ ngừng chiến, tên Vơ-ran-ghen đã bò ra khỏi Cơ-ri-mê. Và trong khi nước Cộng hòa tuôn hết sức ra mặt trận Ba Lan thì tên tướng Nga trắng ấy đã từ phương Nam lần lần tiến về phía Bắc, dọc sông Đơ-nhi-ép, tìm cách chiếm tỉnh Ê-ca-chê-rin.

Nhân lúc chiến tranh với quân Ba Lan chấm dứt, đất nước ta điều quân đến Cơ-ri-mê để tiêu diệt cái ổ cuối cùng này của bọn phản cách mạng.

Những chuyến tàu chất đầy người, đầy xe cộ, chở những bếp cấp dưỡng lưu động, những khẩu đại bác, chạy qua Ki-ép, đổ về phương Nam. Ủy ban đặc biệt địa phương của ngành vận tải làm việc sốt vó. Tất cả làn sóng những chuyến tàu như thác lũ đổ về đó bị ứ lại mắc nghẽn. Nhà ga chật ăm ắp, sự đi lại bị tắc vì đường nào cũng mắc cả. Máy điện đài nhả ra hàng loạt băng ghi những bức điện tối hậu thư, những bản mệnh lệnh khẩn cấp mở đường cho sư đoàn này, sư đoàn khác. Những băng điện vô tận ấy chi chít những chấm, gạch cứ bò ra dài dằng dặc và gần như điện nào cũng đọc thấy “tối khẩn... Mệnh lệnh chiến đấu có đường ngay lập tức” và bức điện nào cũng nhắc ai không chấp hành mệnh lệnh sẽ phải đưa ra tòa án quân sự cách mạng.

Bao nhiêu chuyện mắc nghẽn, trách nhiệm đều đổ lên đầu ủy ban đặc biệt về giao thông vận tải cả thôi.

Luôn luôn có những cán bộ chỉ huy đơn vị xồng xộc ập tới ủy ban, khoa súng ngắn và đòi phải có đường ngay cho đơn vị mình đi, chiểu theo điện thượng khẩn số nọ số kia của tư lệnh trưởng tập đoàn quân.

Chẳng ai chịu hiểu cho rằng những việc yêu cầu của họ thật không thể nào làm nổi được. “Mặc kệ! Các đồng chí cứ giải quyết đường cho chúng tôi đi ngay thôi”. Thôi thì tiếng la, tiếng chửi om sòm suốt ngày trong trụ sở. Gặp những trường hợp nan giải nhất, người ta phải cấp tốc mời Giu-khơ-rai đến. Có thế mới trấn tĩnh được đám người hùng hổ sắp sửa xông vào cấu xé lẫn nhau.

Nét mặt rắn rỏi như đúc bằng thép, bình tĩnh lạnh lùng, giọng nói cứng không thể cãi lại được của Giu- khơ-rai, buộc họ phải chịu ngoan ngoãn cho súng vào bao.

Ở phòng làm việc bước ra ke, Pa-ven thấy đầu đau nhoi nhói. Công tác ở đây rất hại đến thần kinh của anh.

Có một hôm, trên một chiếc toa không mui chở đấy những hòm đạn, Pa-ven nhìn thấy Xéc-gây. Cùng lúc ấy Xéc-gây nhảy bổ xuống suýt nữa xô ngã bạn và ôm ghì lấy Pa-ven:

- Pa-ven, thằng quỷ, tao nhận ngay ra mày.

Đôi bạn gặp nhau, không biết hỏi nhau, kể cho nhau nghe chuyện gì bây giờ. Thời gian gấp lắm mà từ lúc xa nhau, hai người đã sống biết bao chuyện trong đời. Hỏi nhau câu này, chưa kịp nghe trả lời, đã lại nói luôn. Còi tàu giục đi, cũng không nghe thấy nữa. Mãi khi đoàn xe chuyển bánh, từ từ bò đi, đôi bạn mới chịu buông nhau ra.

Làm thế nào bây giờ? Cuộc gặp gỡ thế là bị ngắt. Con tàu mở thêm tốc độ. Để khỏi bị rớt lại, Xéc-gây choàng đuổi theo xe, chạy dọc bờ ke, ngoái lại phía Pa-ven, kêu gì lần cuối không nghe rõ, rồi nhảy tót lên bám lấy cửa một toa chở hàng. Những bàn tay từ trong toa thò ra nắm lấy tay anh, kéo vào trong. Pa-ven đứng lại, bàng hoàng, nhìn theo con tàu xa dần. Mãi bây giờ anh mới sực nhớ ra là thằng bạn nó chưa biết tin Va-li-a chết rồi. Ừ, nó có về qua Sê- pê-tốp ca đâu mà biết. Pa-ven ngây người vì cuộc gặp gỡ bất ngờ nên đã quên khuấy không nói với bạn.

“Thế càng hay, không biết tin đó, nó đi càng yên tâm hơn”. Pa-ven tự bảo thế. Anh có ngờ đâu là anh gặp bạn lần ấy là lần cuối cùng. Xéc-gây đứng trên nóc toa xe lửa, phanh ngực ra hứng gió mùa thu, cũng không biết là mình đang đi ra trước cái chết.

Đô-rô-sen-cô, một chiến sĩ mặc áo ca-pốt, lưng áo bị cháy sém, nói với Xéc-gây:

- Ngồi xuống không bị ngộ gió đấy, Xéc-gây ạ.

Xéc-gây cười đáp lại:

- Không hề gì. Mình với gió là bạn đấy mà. Cứ để mình đứng, gió thổi cho mát.

Và một tuần sau, Xéc-gây hy sinh ngay trong trận đầu của cuộc Nam hạ giữa đồng cỏ vàng úa mùa thu của xứ U-cơ-ren.

Một viên đạn lạc trúng vào anh.

Anh bị đạn, rùng mình, giúi thêm một bước, ngực đau buốt như xé, miệng không kêu không nói, lảo đảo tay sờ soạng không gian, rồi hai bàn tay đưa lên ôm ghì lấy ngực, khom khom mình như người chực chạy, thân thể bỗng chốc nặng như chì, anh ngã vật xuống, đôi mắt xanh thao láo trừng lên nhìn như dán vào khoảng mênh mông đồng cỏ.

*

Công việc hết sức căng thẳng ở ủy ban đặc biệt đã ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của Pa-ven vốn yếu sẵn, chưa lại người. Vết thương cũ lại luôn luôn đau nhói lên và sau hai đêm mất ngủ, Pa-ven bị ngất đi. Vì thế Pa-ven lại hỏi Giu-khơ-rai:

- Anh Giu-khơ-rai ạ, em muốn đổi công tác, ý kiến anh thấy có đúng không? Em thì rất muốn trở lại nghề cũ, ở phân xưởng chính nhà máy xe lửa. Không có làm ở đây em thấy sức em yếu quá. Tiểu ban y tế khám lại sức khỏe nói là em yếu sức không thể tòng quân được nữa. Nhưng ở đây còn gay hơn ngoài mặt trận kia. Mấy hôm vừa rồi, đi tiễu bọn phỉ Xu- tưa đã làm em mệt lả người đi. Cứ sau loạt bắn là em lại phải nghỉ tay để thở. Anh Giu-khơ-rai ạ, chắc anh cũng hiểu, chân em đứng cũng chẳng còn vững nữa, thì em làm công tác tốt thế nào được ở ủy ban đặc biệt này.

Giu-khơ-rai nét mặt lo lắng nhìn Pa-ven:

- Phải đấy, tôi thấy chú yếu lắm. Đáng lẽ phải đổi công tác cho chú từ trước đây rồi. Khuyết điểm ở tôi. Bận công tác quá không nhìn đến.

Sau buổi nói chuyện đó, Pa-ven được điều động sang tỉnh đoàn thanh niên cộng sản nhận công tác.

Một tay trẻ măng tính hay cựa quậy luôn, mũ cát- két kéo sụp xuống tận mắt rất ngang, nhìn lướt qua mảnh giấy, rồi vui vẻ nháy mắt hỏi Pa-ven:

- Cậu ở ủy ban đặc biệt đến à? Cơ quan đó dễ chịu đấy! Chờ nháy mắt là chúng mình giao công tác cho cậu ngay. Bên mình bấn người quá. Thật là nạn thiếu cán bộ. Cậu muốn sang đâu? Ủy ban cung cấp? Không à? Ừ đừng sang đó. Sang cơ sở tuyên truyền ngoài bến sông? Không à? Thế thì dại quá. Chỗ này bở lắm, sinh hoạt phí theo chế độ xung phong đấy.

Pa-ven ngắt lời: “Mình muốn sang đường sắt làm ở các phân xưởng chính”.

Gã kia trố mắt nhìn Pa-ven:

- Sang phân xưởng chính à? Hừ, ở đấy có cần người đâu. Thôi cậu cứ đến gặp chị Ri-ta, chị ấy sẽ xếp công việc cho.

Sau cuộc nói chuyện ngắn với người con gái nước da ngăm ngăm bánh mật, Pa-ven được chỉ định làm bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản xí nghiệp xe lửa, vừa công tác vừa tham gia sản xuất.

*

Giữa lúc đó, trước cửa ngõ vùng Cơ-ri-mê, tại những đường biên giới cổ xưa đã từng là ranh giới giữa những người Tác-ta xứ Cơ-ri-mê và những trung đoàn người Da-pô-rô, ở chỗ thắt lại của bán đảo, nổi lên pháo đài của bọn bạch vệ mới xây lại, chung quanh có những công sự kiên cố rất lợi hại: Pháo đài Pê-rê-cốp.

Sau pháo đài ấy, cả cái xã hội cũ đã bị lên án, từ khắp xó xỉnh trong nước chúi vào xó Cơ-ri-mê này, yên trí ở đấy an toàn, say sưa túy lúy với nhau trong hơi men rượu nho.

Một đêm mùa thu băng giá, hàng vạn người con của nhân dân lao động đã đổ xuống eo biển nước giá lạnh để đêm tối vượt vịnh Xi-vát đánh vào sau lưng kẻ địch đã chui tọt vào các công sự. Đi trong hàng quân đó có Giác-ki, hai tay nâng niu khẩu súng máy đội trên đầu.

Và khi rạng đông, cả vùng eo biển Pê-rê-cốp sôi lên sùng sục trong cơn sốt rét điên cuồng; Hàng ngàn người ào ào ập vào hàng rào dây thép gai, những mũi quân tiến đầu tiên lội qua vịnh Xi-vát, đặt chân lên những bờ đá lởm chởm của bán đảo Li-tốp ở sau lưng quân địch. Và một trong những chiến sĩ đầu tiên đổ bộ lên được là Giác-ki.

Chiến đấu ác liệt chưa từng thấy. Bọn trắng tung kỵ binh vào đám người vừa lội dưới nước lên; Kỵ binh của chúng lao vào như thú dữ. Giác-ki không ngừng bắn, khẩu liên thanh của anh nhả đạn như khạc cái chết vào kẻ địch. Từng đống xác người và ngựa địch chồng chất lên nhau trong trận mưa chì này. Giác- ki, nhanh đến run tay lên, lắp hết băng đạn này đến băng đạn khác bắn vào kẻ địch.

Hàng trăm khẩu pháo nổ ầm ầm ở Pê-rê-cốp. Dường như cả eo đất này cũng sụt xuống biển sâu thẳm không đáy. Hàng ngàn quả đại bác rú lên ghê rợn, bay nhằng nhịt trên trời, rắc tung cái chết, rơi xuống tóe ra thành từng mảnh nhỏ. Mặt đất bị cày nát, bị nghiền vụn, bị bắn tóe lên. Những tảng đất đen lớn do đại bác cày đã hất lên, che lấp cả ánh mặt trời.

Đầu con rắn độc đã bị đánh giập rồi. Dòng thác đỏ lại băng mình về phía Cơ-ri-mê, các sư đoàn của đoàn quân kỵ mã thứ nhất băng mình vào Cơ-ri-mê giáng cho quân địch một đòn cuối cùng ác liệt. Lũ bạch vệ kinh hoảng, sợ run lên, hớt ha hớt hải cố chạy xô nhau bám lấy những tàu biển sắp rời bến.

Trên những bộ quân phục đã sờn đã bạc. Tổ quốc Cộng hòa gắn vào chỗ trái tim người ta thường đập những đồng tròn vàng của huân chương Cờ đỏ. Trong số những quân phục được gắn huy chương ấy có áo của người đoàn viên thanh niên cộng sản giữ súng máy: Giác-ki.

Hòa ước với Ba Lan đã ký và đúng như Giu-khơ- rai hy vọng, Sê-pê-tốp-ca trở về với xứ U-cơ-ren Xô- viết. Giới tuyến là con sông cách thành phố ba mươi lăm cây số. Tháng Chạp năm 1920, Pa-ven về quê thăm nhà, buổi sớm đó, anh ghi nhớ mãi trong lòng.

Pa-ven bước xuống sân ga chớm tuyết, đưa mắt nhìn thấy tấm biển “Sê-pê-tốp-ca, ga thứ nhất” liền quay sang trái, đi vào sở đầu máy. Hỏi anh A-rơ-chom, nhưng anh chẳng có ở đấy. Pa-ven khép vạt áo choàng cho thêm khít vào người, rồi đi ngang qua rừng vào thành phố.

Anh gõ cửa. Lúc ấy bà mẹ đang ngồi ở ghế nghe tiếng đập cửa, quay lại mời khách vào nhà. Nhưng khi cửa mở rồi, một người mình đầy tuyết trắng hiện ra trong khung cửa, bà cụ nhận ra khuôn mặt yêu dấu, liền đưa tay lên ôm lấy ngực. Mừng quá, bà cụ không nói được nên lời nữa.

Bà ấp tấm thân già, gầy còm vào ngực con trai, hôn lấy hôn để lên mặt con, nước mắt trào ra, mừng mừng tủi tủi.

Pa-ven ôm lấy mẹ, nhìn nét mặt mẹ răn reo, hốc hác vì lo buồn và mong nhớ con, anh im lặng chờ mẹ bình tâm lại.

Bà cụ đau khổ đã nhiều, hôm nay mắt lại sáng lên vì sung sướng. Ngày hôm ấy và mấy ngày liền, bà nói không chán, nhìn con không chán. Bà đã tưởng chẳng còn hy vọng gì gặp lại con nữa. Ba ngày sau A-rơ-chom nửa đêm đeo ba-lô trên vai cũng trở về căn nhà cũ bé nhỏ này. Nỗi mừng của bà cụ càng không để đâu cho hết.

Dưới mái nhà nhỏ bé của gia đình Ca-rơ-sa-ghin, những người đi xa đã trở về đông đủ. Sau bao nhiêu thử thách gian khổ, hai anh em không ai tổn thất, đã được gặp lại nhau.

Mẹ hỏi các con:

- Giờ thì các con tính làm gì?

A-rơ-chom đáp:

- Con lại sẽ trở về với ổ bi bánh xe, làm nghề như trước, mẹ ạ.

Còn Pa-ven thì ở nhà được mười lăm ngày, rồi lại trở về Ki-ép. Ở đấy công việc đang chờ anh.


Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 1

Nửa đêm. Chuyến tàu điện cuối cùng kéo lê thân tàu ọp ẹp chạy qua đã được một lúc lâu rồi. Trăng suông trải lên thành cửa sổ, ánh trăng lọt vào nhà như trải lên mặt giường một tấm màng xanh, bỏ khoảng còn lại của gian phòng trong bóng tối lờ mờ. Trên chiếc bàn ở góc phòng, một vầng ánh sáng loe dưới chao đèn. Ri-ta cặm cụi với tập nhật ký thân thiết.

Đầu bút chì nhọn nguệch ngoạc trên giấy:

"24 tháng Năm,

Lại thử ghi lại cảm nghĩ của mình. Thế là bỏ một khoảng trống nữa trong nhật ký. Sáu tuần qua, không viết một chữ. Đành vậy thôi.

Lấy đâu ra thời giờ ghi nhật ký thân yêu này được. Giờ này, đêm khuya, mình mới có thời giờ viết. Không ngủ được. Đồng chí Xê-gan về công tác ở Trung ương. Tin ấy làm tất cả bọn mình ngao ngán. Xê-gan của chúng mình thật là một người ưu tú. Mãi bây giờ, mình mới thấy rõ tình thân giữa bọn mình và Xê- gan thật quý vô ngần. Cố nhiên, Xê-gan đi là nhóm học tập duy vật biện chứng sẽ tan. Hôm qua bọn mình họp ở nhà anh đến tận khuya để kiểm điểm bước tiến của “các con đỡ đầu” của chúng mình. Đến dự, có A- kim bí thư Tỉnh đoàn thanh niên, và anh chàng trưởng phòng quản lý cán bộ Túp-ta đáng ghét. Không thể nào chịu được hạng người tự phụ “cái gì tôi cũng biết” ấy! Xê-gan thì hớn hở. Người học trò anh là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin đã đập gãy Túp-ta ra trò về môn lịch sử Đảng. Phải, hai tháng qua thật đã không phí. Khi có được những kết quả như thế, người ta chẳng thấy tiếc sức. Có tin Giu-khơ-rai sang công tác ở Ban đặc biệt của Quân khu. Tại sao thế nhỉ? Mình chẳng biết nữa.

Xê-gan đã giao phó người học trò của anh cho mình.

Khi chia tay, anh nói: “Hãy làm cho xong công tác mà tôi đã bắt đầu ở đây nhớ. Đừng bỏ dở nửa đường. Ri-ta ạ, đối với chị cũng như anh ta, cả hai đều có những điều học hỏi lẫn nhau được. Chàng thanh niên ấy, chưa bỏ hẳn được tính bồng bột tự phát. Tình cảm anh ta sôi sục, khiến anh ta không tự chủ được và có thể đẩy anh ta đi chệch con đường đúng. Ri-ta ạ, theo chỗ tôi hiểu chị, chị sẽ là người hướng dẫn thích hợp nhất đối với Pa-ven. Chúc chị may mắn. Đừng quên viết thư về Mát-xcơ-va cho tôi nhé!”

Hôm nay, Trung ương phái Giác-ki đến làm bí thư mới của Quận đoàn Xô-lô-men-ca. Mình quen Giác- ki từ hồi ở bộ đội.

Ngày mai, Đu-ba-va sẽ dẫn Pa-ven đến giới thiệu với mình. Hình dạng anh chàng Đu-ba-va: Vóc người tầm thước, khỏe, bắp thịt nở nang. Vào Đoàn thanh niên cộng sản từ 1918, vào Đảng từ 1920. Đấy là một trong số ba người đã bị khai trừ ra khỏi tỉnh đoàn vì thuộc “khối đối lập thợ thuyền”. Giúp Đu-ba-va học tập thật không dễ. Lần nào anh ta cũng phá kế hoạch, phóng ra nhiều câu hỏi quay mình, làm mình nói lạc ra ngoài đề. Giữa Ôn-ga I-u-rê-nê-va, cô học trò thứ hai của mình, và anh chàng Đu-ba-va, hay xảy ra cãi nhau. Ngay tối học đầu tiên, anh ta nhìn Ôn-ga suốt từ đầu đến chân, rồi nhận xét:

- Trang bị của bà không đủ lệ bộ, bà cụ non ơi! Bà thì phải mặc quần da, mang đinh ba, đội mũ kiểu Bu-đi-on-ny đeo kiếm vào, chứ ăn mặc như bà thì thật chẳng ra nạc, cũng chẳng ra mỡ.

Ôn-ga cũng không chịu lép. Mình phải can họ. Nếu mình không lầm thì Đu-ba-va là bạn Pa-ven. Thôi, hôm nay ghi thế này đủ rồi. Đi ngủ".

*

Nóng như thiêu rang khô kiệt mặt đất. Tay vịn bằng sắt ở cầu bắc vắt ngang qua nhà ga, sờ vào nóng bỏng. Đoàn người dãi nắng mệt lử, uể oải bước lên cầu Họ không phải là hành khách. Phần đông là dân khu nhà bên đường sắt qua cầu sang bên phố.

Đứng trên đầu thang lên cầu, Pa-ven trông thấy Ri-ta. Ri-ta đã tới ga trước Pa-ven và đang nhìn hành khách xuống tàu.

Đến Cách Ri-ta vài ba bước, Pa-ven dừng lại. Ri- ta không trông thấy Pa-ven. Anh đứng ngắm Ri-ta với cặp mắt tò mò khác thường. Ri-ta mặc áo sơ-mi cộc tay kẻ dọc, bận váy xanh ngắn bằng vải thường, chiếc áo khoác ngoài bằng da mềm vắt lên vai, đầu không mũ, mớ tóc ngang ngược bao quanh lấy khuôn mặt rám nắng. Ri-ta đứng hơi ngả đầu về phía sau, nắng chói làm chị nheo mắt lại. Lần đầu tiên Pa-ven nhìn người bạn và người phụ đạo của mình bằng cặp mắt ấy, và cũng lần đầu tiên trong đầu anh nảy ra ý nghĩ: Ri-ta không phải chỉ là ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh đoàn, mà còn là... Giận mình đã có ý nghĩ “tội lỗi”, Pa-ven gọi giật Ri-ta:

- Tôi đứng suốt một tiếng đồng hồ nhìn Ri-ta, thế mà Ri-ta không trông thấy. Đến lúc đi rồi, tàu đã vào ga.

Hai người dẫn nhau đến lối ra ke.

Hôm qua, Tỉnh đoàn đã cử Ri-ta làm đại biểu đi dự hội nghị của một huyện đoàn. Pa-ven được cử đi phụ với Ri-ta. Hôm nay thế nào cũng phải lên xe lửa đi cho bằng được, chuyện đó không phải dễ. Thời buổi hiếm tàu xe đi lại, vào giờ tàu chạy, nhà ga do một ban xếp người lên tàu rất có uy quyền điều khiển, ai không có giấy của ban này không được bước ra ke. Tất cả các cửa ra vào đều có người của ban này đứng chắn. Tàu đầy ắp mà vẫn chỉ mới chở được một phần mười những người cần đi. Không ai muốn ở lại để chờ ngày nọ qua ngày kia, họa ra mới có một chuyến tầu khác. Hàng nghìn người vây các lối ra ke, cố chen ra tới những toa xanh. Nhà ga mấy ngày nay sống trong cảnh bị bao vây thật sự, đôi khi xảy ra ẩu đả. Pa-ven và Ri-ta định chen ra ke, nhưng không sao len được.

Vốn biết hết ngõ ngách ra vào, anh liền dẫn người bạn gái đi qua kho chứa hành lý.

Vất vả lắm, hai người mới đến được toa tàu số bốn. Anh công an đặc biệt, ướt đẫm mồ hôi đứng trước cửa xe, giữ cho đám đông khỏi chen lên. Anh nhắc đi nhắc lại có đến trăm lần:

- Tôi nói với đồng bào là toa chật ních rồi. Còn những chỗ nối toa vào mái tàu, lệnh trên cấm ngặt không được ai trèo lên cả.

Có những người hùng hổ xấn đến chỗ anh công an, ấn vào mũi anh những vé do ban xếp người phát cho họ đi toa số bốn. Trước toa tàu nào cũng có tiếng chửi rủa giận dữ, tiếng kêu la, xô đẩy nhau. Pa-ven hiểu là lên tàu theo lối thường thì không thể nào lên được Mà việc thì cần, không đi được thì hội nghị không thành mất.

Pa-ven kéo Ri-ta ra bên, trình bày kế hoạch hành động của mình. Pa-ven sẽ len vào trong toa, bỏ cửa kính xuống và kéo Ri-ta lên qua cửa sổ. Không có cách nào khác.

- Ri-ta đưa tôi chiếc áo da của Ri-ta, đấy là cái chứng minh thư tốt nhất.

http://truyencuati.net/
Pa-ven khoác chiếc áo của Ri-ta lên người, nhét súng ngắn vào túi, cố ý để lòi báng súng và dây súng ra ngoài. Anh đặt túi lương ăn xuống chân Ri-ta, rồi lại chỗ toa xe. Pa-ven không nể nang ai, lấy cùi tay chen lấn đám hành khách, với được thành sắt bậc lên tàu.

- Này, đồng chí đi đâu?

Pa-ven ngoảnh lại nhìn người công an béo lùn.

- Tôi là người của Ban đặc biệt Quân khu. Tôi kiểm tra xem hành khách các đồng chí cho lên tàu có đủ vé của ban xếp người không. - Giọng Pa-ven không để cho ai mảy may ngờ vực uy quyền của mình.

Người công an nhìn túi Pa-ven, lấy tay áo lau mồ hôi trán và nói bằng một giọng hờ hững:

- Ừ đồng chí cứ việc vào mà kiểm tra, nếu đồng chí chen vào được.

Pa-ven chen lách bằng tay, bằng vai và có lúc bằng nắm tay, trườn lên vai người khác, rướn tay đánh đu lấy giá ghế trên; Tiếng la chửi đổ lên đầu anh như mưa đá; Chửi thì chửi, Pa-ven cũng len được vào giữa toa tàu.

“Quỷ tha ma anh đi đâu mà anh chen gớm thế hở cái nhà anh trời đánh thánh vật kia!”. Một mụ béo phị mắng Pa-ven khi anh giẫm chân lên đầu gối mụ ta. Mụ đã thu cái thân hình nặng hơn một tạ vào thành ghế dài ở hàng dưới, hai chân đang kẹp lấy cái bình đựng đầy bơ. Bình đựng nước, hộp đựng sữa, hòm, bao và thùng ngổn ngang các ghế dài. Không khí ngạt thở.

Đáp lời chửi rủa của mụ ta, Pa-ven hỏi:

- Bà cho tôi xem vé của ban xếp người!

Mụ phát khùng với nhà anh soát vé chẳng ai khiến ai cần đó:

- Cái gì?

Một cái đầu du côn từ ghế tầng ba thò xuống, và giọng ồ ồ rống lên:

- Vát-ca, nó là cái thứ gì mà đến đây nhiễu sự? Mày cho nó một vé vào mõm ấy!

Ngay trên đầu Pa-ven nhô ra một tên dáng chừng là Vát-ca: Người nó lực lưỡng, ngực đầy lông, giương cặp mắt to như mắt bò mộng nhìn Pa-ven chòng chọc.

- Mày nhiễu sự cái gì với người đàn bà này? Mày hỏi vé gì?

Từ giá ghế bên, bốn đôi chân buông thõng xuống. Bốn tên ngồi sát nhau, thi nhau cắn hạt hướng dương lách tách. Rõ ràng đây là một bọn trộm cắp buôn lậu chợ đen. Pa-ven không có thời giờ gây chuyện với chúng. Phải đưa Ri-ta vào trong toa đã.

Pa-ven chỉ tay vào cái hòm gỗ đặt bên cửa sổ, hỏi một công nhân đường sắt đứng tuổi:

- Hòm này của ai đây?

Bác công nhân chỉ tay về phía hai cái chân to trùng trục, đi tất màu hạt dẻ:

- Của nhà chị này!

Phải kéo cửa kính xuống. Cái hòm chắn mất cửa, không chuyển đi đâu được. Pa-ven nâng hòm lên và đưa cho chủ nó đang ngồi ở giá ghế trên:

- Đồng bào giữ cho một chút để tôi mở cửa sổ.

Khi Pa-ven đặt chiếc hòm lên đùi mụ kia thì nhà mụ mũi tẹt ấy tru tréo lên:

- Cái nhà anh này sao lại mó vào đồ đạc của người ta?

Rồi mụ cầu cứu lão bên cạnh.

- Mốt-ca ơi! Cái nhà anh kia là ai mà đến đây làm nháo cả lên thế!

Tên gọi Mốt-ca ngồi giá ghế trên, chẳng buồn nhổm dậy, lấy chân đi dép nện vào lưng Pa-ven:

- Ê đồ muỗi tép kia! Xéo ngay không ông đập cho vỡ mặt bây giờ!

Pa-ven nín lặng chịu cái đạp. Anh cắn môi mở cửa và nói với bác công nhân đường sắt:

- Đồng chí lùi ra cho một chút.

Pa-ven dẹp một cái thùng ra bên để lấy chỗ, rồi đứng sát ngay cửa sổ. Ri-ta đã chờ ở ngoài, chị nhanh tay đưa cái túi cho Pa-ven. Pa-ven ném cái túi lên đùi mụ đang kẹp bình đựng bơ, rồi cúi xuống nắm tay Ri-ta kéo lên. Đồng chí Hồng quân trong đội tuần tra chưa kịp trông thấy và ngăn việc trái phép đó thì Ri-ta đã ở trong toa rồi. Đồng chí bộ đội chậm chạp ấy không làm sao được, chỉ còn cách càu nhàu bỏ đi. Thấy Ri-ta vào, lũ trộm cắp chợ đen nhao nhao lên, làm cho Ri-ta bối rối và lo ngại. Chị không có chỗ nào đặt chân, đành phải đứng lên mép giá ghế dưới, tay víu lấy chỗ vịn của giá ghế trên. Lời chửi rủa từ mọi chỗ dồn lại. Giọng ồ ồ ở phía trên phì ra:

- Rõ thằng đê mặt, nó đã lên rồi còn tha cả “mèo” lên nữa!

Một tên ngồi khuất đâu trên cao hết lên: “Mốt-ca! Cậu cho nó dăm quả tống cho tối mắt đi!”

Mụ mũi tẹt định đặt cái hòm gỗ lên đầu Pa-ven. Chung quanh toàn những bộ mặt ti tiện, hằn học. Pa-ven tiếc là Ri-ta có mặt ở đây, nhưng thế nào cũng phải thu xếp cho có chỗ ngồi.

- Này anh, cất hộ những bao ở lối đi đi, lấy chỗ cho nữ đồng chí này đứng. - Pa-ven nói với tên mà người ta gọi là Mốt-ca, nhưng nó đã đáp lại một câu thô tục bần thỉu làm cho anh sôi cả người lên. Anh cảm thấy tức tối, đau nhức trên mu mắt phải.

- Được mày chờ một chút, đồ du côn, mày sẽ biết tay tao - Pa-ven cố nén, nói với tên lưu manh như vậy, nhưng vừa dứt lời anh bị liền bị một cái đá vào đầu. Bọn chúng ở bốn chung quanh thét lên ầm ĩ:

- Vát-ca, cứ nện đi, cho nó nảy đom đóm mắt ra!

Bao nhiêu giận dữ từ nãy Pa-ven cố nén trong lòng bây giờ bật ra, và trong những lúc như thế này, cử chỉ của anh bao giờ cũng nhanh và quyết liệt.

- Bọn đầu cơ chó má, chúng mày tưởng có thể trêu được tao đấy phải không? - Pa-ven, tay bíu lấy giá ghế thứ hai, đánh đu lên như lò xo và giáng một quả đấm vào cái mặt đểu giả vênh váo của Vát-ca. Quả đấm mạnh làm tên con buôn đầu cơ ngã bổ nhào lên đầu những đứa khác, rồi lăn kềnh xuống lối đi.

“Bọn khốn nạn! Bỏ ghế, cút ngay không tao bắn chết cả như chó ấy!” Pa-ven giận dữ quát lên, tay vung khẩu súng ngắn vào mặt bốn tên côn đồ.

Câu chuyện đã xoay ra chiều hướng khác. Ri-ta chăm chú theo dõi, sẵn sàng nổ súng vào bất cứ kẻ nào định chạm đến người Pa-ven. Trong nháy mắt ghế dài tầng trên đã quang hẳn. Lũ gian vội vã chuồn sang toa bên.

Khi Pa-ven đã đưa Ri-ta lên ngồi trên ghế đã quang người anh rỉ tai với Ri-ta:

- Ri-ta ngồi đây nhớ, để tôi đi thanh toán với bọn chúng.

Ri-ta ngăn anh lại:

- Pa-ven định đi đánh nhau với chúng đấy à?

Pa-ven nói cho Ri-ta yên tâm:

- Không, tôi sẽ về ngay.

Pa-ven lại mở cửa sổ và nhảy xuống thềm nhà ga. Vài phút sau, anh đã có mặt ở phòng làm việc của Bua-mây-stơ, cục trưởng Cục công an đặc biệt và là người phụ trách cũ của anh. Đồng chí Bua-mây-stơ là người Lét-tô-ni. Sau khi nghe Pa-ven kể, đồng chí hạ lệnh cho hành khách ra khỏi toa và kiểm tra lại giấy tờ của mọi người.

Bua-mây-stơ lẩm bẩm:

- Tôi nói y như rằng, tàu vào đến ga là đã đầy ắp bọn con buôn đầu cơ rồi.

Một đội công an đặc biệt gồm mười người đến kiểm soát toa tàu. Theo thói quen, Pa-ven giúp việc kiểm tra lại cả chuyến tàu. Tuy thôi công tác ở Cục công an đặc biệt, Pa-ven vẫn đi lại với các bạn mình ở đấy. Khi còn làm bí thư đoàn thanh niên đường sắt, anh đã đưa nhiều đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú vào công tác ở Cục công an đặc biệt. Kiểm tra xong, Pa- ven về chỗ Ri-ta. Toa tàu bây giờ đầy hành khách mới: Những cán bộ đi công tác và các chiến sĩ Hồng quân.

Trên ghế tầng ba ở góc toa chỉ đủ chỗ cho Ri-ta thôi. Những bó báo đã choán hết chỗ.

Ri-ta nói:

- Không sao, rồi thế nào cũng thu xếp được chỗ ngồi.

Đoàn tàu chuyển bánh.

Nhìn qua cửa sổ, hai người lại trông thấy mụ lắm điều lúc nãy ngồi trên đống bao bì. Tiếng kêu của mụ vẳng lại: “Man-ca ơi, cái bình toong của tao đâu rồi?”.

Ri-ta và Pa-ven ngồi ở một chỗ hẹp, những bó báo ngăn cách họ với những người bên cạnh. Hai người giở bánh mì và táo ra ăn một cách ngon lành, vui vẻ ôn lại câu chuyện chẳng lấy gì làm vui lắm vừa qua.

Xe lửa bò chậm chạp. Những toa tàu xộc xệch chở quá nặng, chạy lắc lư, bánh xe khô nghiến ken két và răng rắc, toa rùng mình nảy lên khi bánh lăn qua chỗ đường sắt nối. Trời nhá nhem, cảnh vật bên ngoài chìm trong màu xanh dày đặc. Rồi đêm tối giăng màn đen lên những khoang cửa sổ mở toang. Trong toa cũng tối như bưng.

Ri-ta mệt mỏi thiu thiu ngủ, đầu gối lên túi dết.

Pa-ven ngồi hút thuốc lá ở mép ghế, chân buông thõng xuống. Anh cũng mệt nhoài, nhưng không có chỗ đặt lưng. Gió hiu hiu đưa hơi đêm lạnh mát lọt vào cửa sổ. Tàu lắc mạnh, Ri-ta sực tỉnh. Nhìn thấy chấm đỏ ở đầu điếu thuốc của Pa-ven, Ri-ta nghĩ thầm: “Cậu Pa-ven ngồi mãi thế được cho đến sáng đấy. Đích là anh chàng ngại không muốn làm phiền mình đây”. Ri-ta nói giọng thương mến: “Đồng chí Pa-ven, bỏ những kiểu cách tư sản ấy đi, nằm xuống mà nghỉ!”

Pa-ven ngả mình bên cạnh Ri-ta và khoan khoái duỗi cặp giò đã mỏi tê.

“Mai chúng mình phải làm khối việc. Ngủ đi, ông tướng hay đánh nhau ạ”. Cánh tay Ri-ta ôm chặt lấy người đồng chí một cách tin cậy. Pa-ven cảm thấy làn tóc Ri-ta áp vào má mình.

Đối với anh, Ri-ta là thiêng liêng. Một người bạn thân, người đồng chí cùng chung lý tưởng, giảng viên chính trị của anh. Thế nhưng Ri-ta dù sao cũng vẫn là phụ nữ. Khi ở gần cầu đường sắt, anh cũng đã lần đầu tiên cảm thấy điều đó, cho nên cái ôm của người bạn gái hôm nay mới làm lòng anh xúc động đến thế. Pa-ven nghe thấy hơi thở mạnh và đều của Ri-ta; Đôi môi Ri-ta ở đâu đây, gần lắm. Sự gần gũi đó như thúc giục, khêu gợi Pa-ven tìm đến đôi môi hấp dẫn ấy. Cuối cùng, Pa-ven phải dùng hết ý chí để nén lòng mình lại.

Hình như đoán biết tình cảm của Pa-ven, Ri-ta mỉm cười trong tối. Ri-ta đã từng trải qua niềm sung sướng trong tình yêu say đắm, cũng như nỗi kinh sợ khi tổn thất. Ri-ta đã yêu hai người bôn-sê-vích, và những viên đạn của bọn Nga trắng đã cướp mất của Ri-ta cả hai người. Một người to lớn, dũng cảm, tư lệnh một lữ đoàn. Còn người kia là một thanh niên có đôi mắt trong sáng.

Chẳng mấy chốc, tiếng bánh xe lăn đã ru ngủ Pa- ven. Mãi đến sáng, tiếng còi tàu rú lên mới đánh thức anh dậy.

*

Ri-ta khuya mới về nhà. Trong cuốn nhật ký ít khi mở ra, có ghi thêm mấy đoạn ngắn:

"11 tháng Tám,

Xong hội nghị, A-kim, Sum-ski và các đồng chí khác đã đi Khác-cốp để dự hội nghị toàn xứ U-cơ-ren. Mọi công việc hành chính đều trút lên đầu mình. Đu-ba- va và Pa-ven được đề bạt vào Ban chấp hành Tỉnh đoàn. Từ khi Đu-ba-va được phái đi làm bí thư Huyện đoàn Pê-séc thì không đến học tối nữa. Anh ta bận quá. Pa-ven còn cố tiếp tục học, nhưng lúc thì mình không có thời giờ, lúc thì Pa-ven bận đi công tác. Tình hình ngành đường sắt trở nên nghiêm trọng nên bên ấy phải ra lệnh động viên thường xuyên. Hôm qua, Giác-ki đến gặp mình tỏ vẻ không bằng lòng, vì bên mình đã lấy của anh nhiều người, anh ta kêu là số người đó cũng rất cần thiết đối với bên ấy".

"23 tháng Tám,

Hôm nay, mình đang đi ngoài hành lang thì thấy Pan-cơ-ra-tốp, Pa-ven và một người lạ nữa đứng ở cửa phòng hành chính. Mình lại gần, nghe tiếng Pa- ven đang kể:

- Ở đấy toàn những quân đáng ăn đạn. Chúng dám nói: “Các anh không được phép can thiệp vào quyền hạn sử dụng của chúng tôi. Ở đây là do ủy ban vận chuyển gỗ làm chủ, chứ chẳng biết có đoàn Côm-xô-môn nào cả”. Mồm nó nói thế đấy, các cậu ạ. Lũ ăn hại nó nấp ở những chỗ ấy đấy chứ ở đâu.

Tiếp đó, Pa-ven buông lời chửi rủa rất tục, Pan- cơ-ra-tốp nhìn thấy mình, liền máy Pa-ven. Pa-ven quay lại thấy mình, mặt anh ta tái đi, không dám nhìn thẳng rồi lỉnh đi ngay. Chắc Pa-ven sẽ tránh đến đây gặp mình một dạo lâu cho mà xem. Pa-ven biết là mình không tha thứ cho ai hay nói tục".

"27 tháng Tám,

Ban thường vụ họp kín. Tình hình trở nên phức tạp. Bây giờ thì chưa thể ghi mọi chuyện vào nhật ký được. Nhỡ lộ bí mật. A-kim ở huyện về, mặt mày buồn bực. Hôm qua, bên Chê-chê-rếp, bọn chúng lại làm trượt một chuyến xe chở lương thực xuống chân đường. Có lẽ đến bỏ không ghi nhật ký. Lâu nay chỉ ghi toàn những mầu chuyện vụn vặt. Đợi Pa-ven. Hôm trước thấy Pa-ven: Pa-ven đang cùng Giác-ki lập công xã năm người".

*

Đang giữa trưa ở xưởng máy, người ta gọi Pa-ven đến dây nói. Ri-ta báo cho anh biết tối nay Ri-ta rỗi rãi có thể giảng cho xong vấn đề đang nói dở: “Nguyên nhân thất bại của Công xã Pa-ri”.

Tối hôm ấy, Pa-ven đến gần ngôi nhà phố Cơ-rúc U-ni-ve, ngước mắt nhìn lên cửa sổ phòng Ri-ta có ánh đèn. Pa-ven chạy lên thang gác và như mọi lần, lấy nắm tay đập cửa và không chờ trả lời, đã bước vào ngay.

Một cán bộ quân đội đang nằm trên giường Ri-ta; Giường này các bạn Ri-ta không một ai được phép ngồi lên dù chỉ một chốc lát. Khẩu súng ngắn, cái xà-cột và chiếc mũ đính sao nằm trên bàn. Ri-ta ngồi bên cạnh, tay ôm chặt lấy người đàn ông kia. Hai người đang nói chuyện gì với nhau, sôi nổi lắm... Pa- ven vào, Ri-ta quay ra nhìn, mặt hớn hở.

Anh cán bộ quân đội gỡ tay Ri-ta ra và đứng dậy.

Ri-ta bắt tay Pa-ven và giới thiệu:

- Đây là...

Người đàn ông đó bắt tay Pa-ven rất chặt và đỡ lời Ri-ta:

- Tôi là Đa-vít Uốt-chi-nô-vích.

Ri-ta vừa cười vừa nói với Pa-ven:

- Anh ấy đến bất ngờ quá. Như hòn ngói rơi xuống đầu mình...

Cái bắt tay của Pa-ven thì lạnh nhạt. Đôi mắt anh ngầm nảy lửa. Anh còn kịp nhận ra trên tay áo cán bộ quân đội của Đa-vit có bốn gạch.

Ri-ta chưa nói, thì Pa-ven cướp lời ngay:

- Tôi chạy đến báo cho Ri-ta biết là hôm nay tôi bận tham gia dỡ gỗ ở ngoài bến. Để Ri-ta khỏi phải chờ tôi... Hơn nữa, hôm nay Ri-ta lại có khách. Thôi, tôi đi kẻo anh em đang đợi ở dưới chân thang.

Pa-ven đến một cách đột ngột và cũng đột ngột biến đi ngay. Tiếng chân anh chạy nhanh thoăn thoắt xuống cầu thang. Cửa đóng lại kêu đánh rầm một cái. Rồi lại im phăng phắc.

Trước cái nhìn ngạc nhiên của Đa-vít, Ri-ta nói một giọng không vững lòng lắm:

- Chắc anh ấy có chuyện gì đây.

... Dưới gầm cầu, chiếc đầu tàu thở hồng hộc, lồng ngực rắn chắc của nó phun ra hàng đàn đom đóm loé vàng. Vòng đom đóm muôn hình, muôn vẻ tung lên và tắt biến đi trong khói cuộn.

Pa-ven đứng dựa lưng vào lan can cầu, nhìn những đèn hiệu nhiều màu nhấp nháy trên ngã ba đường. Anh nhắm mắt lại.

Anh tự mình mỉa mai hỏi mình:

“Đồng chí Pa-ven ơi, dù thế nào đi nữa, không hiểu cớ sao đồng chí lại thấy lòng đau đớn đến như thế khi biết Ri-ta đã có chồng kia chứ? Có khi nào Ri- ta nói với đồng chí là Ri-ta chưa chồng đâu? Mà dù có nói chăng nữa, thì đã sao? Cớ sao đồng chí lại bực dọc? Thôi, xin đồng chí thân mến, đồng chí đã chẳng cho là giữa hai người chỉ có tình bạn, tình đồng chí cùng chung lý tưởng và chỉ có thế thôi đấy ư? Thế thì cớ sao đồng chí lại...? Và nhỡ người đó không phải là chồng Ri-ta? Đa-vít Uốt-chi-nô-vích có thể là anh hay là chú Ri-ta... Nếu như thế thì hóa ra, chàng ngố ạ, anh đã giận oan người ta. Rõ ràng đồng chí cũng chỉ là một đứa nhỏ nhen như những đứa đàn ông khác. Có phải anh Ri-ta hay không, chuyện đó cũng dễ biết thôi. Nhưng nếu là anh hay là chú, thì đồng chí sẽ ăn nói với Ri-ta ra sao về thái độ của mình? Không! Từ nay trở đi, đừng có đến gặp Ri-ta nữa!”

(Uốt chi-nô-vích là tên họ của Ri-ta. Ở Liên Xô, cha con, anh em, chú cháu, vợ chồng đều lấy một tên họ trùng nhau. Nghe qua tên Đa- vít Uốt chi-nô-vích có thể hiểu là anh hay chú, và cũng có thể là chồng, cho nên Pa-ven thắc mắc)

Còi tàu rú lên, ngắt luồng ý nghĩ của Pa-ven. “Muộn rồi. Nghĩ vẩn vơ mãi! Đã đến giờ về!”.

*

Ở xóm Xô-lô-men-ca (tên gọi khu công nhân đường sắt ở) năm thanh niên lập nên một tiểu công xã. Xã viên gồm có Giác-ki, Pa-ven, một thanh niên Tiệp tóc hoe, vui tính tên là Cơ-la-vi-sếch, Ô-cu-nhép và đồng chí A-chu-khin, bí thư chi đoàn đoạn đầu máy kiêm nhân viên Ban đặc biệt ngành đường sắt; Cách đây không lâu, đồng chí ấy còn là thợ đốt lò ở xưởng trung tu đầu máy.

Họ kiếm được một căn phòng, rồi ba ngày liền, cứ đi làm về là họ lau chùi, quét tước, quét lại vôi. Tiếng xô xách nước loảng xoảng ầm ĩ khiến lắm lúc hàng phố tưởng là chữa cháy. Họ đóng phản nằm, lấy lá khô ngoài công viên nhồi vào bao làm đệm. Sang đến ngày thứ tư thì họ treo lên tường bức chân dung Pê- tơ-rốp-ski (Một cán bộ lâu năm của Đảng hồi đó làm Chủ tịch toàn U-cơ-ren) và một bản đồ lớn. Gian phòng bóng lộn, trắng tinh.

Giữa hai cửa sổ gian phòng là giá xếp đầy sách. Hai hòm gỗ không lót bìa dày thay nệm dùng làm ghế ngồi, hòm nữa to hơn làm tủ. Giữa phòng có kê một bàn bi-a thật rộng, do các xã viên lấy lưng ra khiêng đến: Mặt bàn dạ lót màu xanh đã bị bóc đi rồi, bàn ấy ban ngày dùng làm bàn viết, ban đêm là giường ngủ của Cơ-la-vi-sếch. Tất cả của riêng tây của mỗi người đều đem đến đây. Cơ-la-vi-sếch tính rất tỉ mẩn, đã làm bản kiểm kê tài sản của công xã, định treo lên tường, nhưng bị anh em phản đối rầm rầm lại thôi. Trong phòng cái gì cũng thành của chung. Tiền lương tháng, thực phẩm được cấp phát và cả những quà bà con thân thích gửi cho đều đem chia đều. Chỉ có vũ khí thì được coi là của riêng mà thôi. Các xã viên nhất trí quyết nghị: Ai vi phạm nội quy tài sản công cộng và bất tín với anh em thì bị khai trừ ra khỏi công xã. Ô-cu-nhép và Cơ-la-vi-sếch còn nèo ghi thêm: Và bị đuổi ra khỏi nhà này.
Hôm ăn mừng thành lập công xã, tất cả cán bộ Đoàn ở khu phố công nhân đường sắt đều đến dự. Mượn hàng xóm được một ấm pha chè gộc và cho ra hết cả số đường dự trữ. Anh chị em làm xong tuần trà thì hát đồng ca vang lên.

Thế gian này nước mắt tràn đầy

Đời chúng ta nhục nhằn, lao khổ.

Nhưng rồi nhất định sẽ đến ngày...

Ta-li-a, nữ công nhân xưởng thuốc lá, chỉ huy ban đồng ca. Khăn trùm sợi đỏ tuột ra bên đầu, chị có đôi mắt của trẻ em tinh nghịch. Chưa ai được ghé sát nhìn gần vào cặp mắt ấy. Cái cười của Ta-li-a làm ai cũng vui lây. Cô thợ làm hộp này nhìn đời qua tuổi trẻ đang nở hoa, nhìn đời trên bậc thang của tuổi mười tám. Tay Ta-li-a đánh nhịp vung lên và điệp khúc vang như tiếng kèn đồng.

Bài ca ta bay xa, bay khắp bốn phương

Ngọn cờ ta phấp phới khắp thế gian,

Đấy là máu đào của ta rực cháy

In trên cờ đỏ thắm sáng chói...

Khuya lắm họ mới chia tay ra về. Tiếng hát chia tay vang lên rộn rã làm mất giấc hàng phố đang yên ngủ.

Giác-ki choài tay ra với ống nghe dây nói. Trong phòng đồng chí bí thư phụ trách này, anh chị em đoàn viên đứng chật, chuyện ồn ào. Giác-ki phải kêu lên:

- Các cậu ơi! Khẽ một chút, chẳng còn nghe thấy gì cả.

Tiếng chuyện trò hạ thấp hẳn giọng xuống.

- Tôi nghe đây. Đồng chí đấy à? Vâng, vâng. Ngay bây giờ. Chương trình họp à? Vẫn vấn đề ấy: Vấn đề dỡ củi ngoài bến? Không, cậu ta không đi công tác đâu cả. Đang ở đây. Có muốn gọi cậu ta không? Được chờ nhé!

Giác-ki vẫy gọi Pa-ven:

- Nữ đồng chí Ri-ta Uốt-chi-nô-vích hỏi cậu.

Và anh chuyển ống nghe cho Pa-ven.

- Ri-ta cứ tưởng là Pa-ven không có đấy. May quá, tối nay Ri-ta không bận. Đến nhé. Hôm trước anh Ri-ta đi qua rẽ vào chơi, anh em đã hai năm nay mới gặp nhau đấy.

Hóa ra là anh Ri-ta!

Pa-ven không còn để tai nghe Ri-ta nói những gì nữa. Anh nghĩ đến buổi tối hôm ấy, nghĩ đến điều mà lòng anh đã quyết định lúc đứng trên cầu. Ừ, ngay hôm nay, phải đến gặp Ri-ta và tuyên bố cắt đứt. Tình yêu bắt phải nghĩ ngợi nhiều và gây ra khá là đau đớn cho lòng. Lúc này không phải là lúc nghĩ đến yêu.

Tiếng bên kia ống nói:

- Sao thế? Pa-ven không nghe rõ Ri-ta nói phải không?

- Có đang nghe. Đồng ý. Họp xong sẽ đến.

Nói rồi, bỏ ống nói xuống.

*

Pa-ven nhìn thẳng vào mắt bạn, tay bám chặt mép chiếc bàn gỗ sên và nói:

- Chắc chắn là tôi không thể tiếp tục đến với Ri- ta được nữa đâu.

Hàng lông mi dày của người bạn gái đập đập vào nhau. Chiếc bút chì trên tay đang lướt trên trang giấy bỗng ngừng lại và ngả xuống nằm yên trên cuốn vở để mở.

- Sao thế?

- Thời giờ mỗi lúc một khó thu xếp quá. Ri-ta cũng biết đấy: Càng ngày công tác càng gay. Bỏ học cũng đáng tiếc lắm, nhưng đành phải gác lại...

Pa-ven cảm thấy lời nói về cuối mình thiếu bề chắc chắn. Anh nghĩ thầm:

“Sao lại nói quanh thế Ra mi chẳng có can đảm lấy tay đấm thẳng một cái vào trái tim mi ư?”

Nghĩ thế, Pa-ven nói tiếp, giọng quả quyết hơn:

- Ngoài ra, từ lâu đã định nói với Ri-ta là Pa-ven nghe Ri-ta giảng thật ra không hiểu lắm đâu. Khi học với Xê-gan thì trong đầu nhớ được hết. Còn với Ri-ta thì Pa-ven học không có kết quả. Cứ mỗi lần nghe Ri-ta giảng xong, Pa-ven lại phải tìm đến hỏi đồng chí Tô-ca-rếp. Đầu óc Pa-ven chẳng chịu làm việc nữa. Ri-ta nên tìm một người học trò vào sáng dạ mà giúp thì hơn.

Và Pa-ven quay đi để tránh cái nhìn chằm chằm của bạn. Anh nói thêm, nhất quyết:

- Cho nên, chúng ta không nên tiếp tục làm mất thì giờ chung của cả hai người.

Pa-ven đứng dậy, chân nhẹ nhàng đẩy lùi chiếc ghế, mắt nhìn xuống đầu Ri-ta đang cúi gục; Ánh đèn soi rõ mặt Ri-ta tái nhợt đi. Pa-ven đội mũ cát- két lên đầu:

- Thôi, từ biệt đồng chí Ri-ta nhớ. Tiếc rằng lâu nay đã làm phiền Ri-ta. Đáng lẽ phải nói với Ri-ta ngay từ lâu rồi. Đấy là lỗi của Pa-ven.

Ri-ta đưa tay ra bắt. Vẻ lạnh nhạt không ngờ của Pa-ven làm chị lặng đi. Chị chỉ còn nói được mấy tiếng:

- Pa-ven ạ, Ri-ta không oán trách gì Pa-ven hết. Ri-ta đã không làm cho Pa-ven hiểu Ri-ta, thì Ri-ta đành phải chịu lấy điều xảy ra hôm nay.

Chân Pa-ven bước ra nặng nề. Anh lặng lẽ khép cửa lại, rồi đi ra. Đến cổng, anh đứng lại suy nghĩ:

“Có lẽ nên trở lại chăng? Nói cho Ri-ta hiểu... Nói để làm gì cơ chứ? Để nhận một lời khinh bỉ đốp vào mặt và lại bước ra cổng như thế này ư? Không!”

Trên các ngả đường sắt vào nhà kho đoạn đầu máy, những toa tàu xơ xác, những đầu tàu lạnh ngắt nằm lổng chổng trông y như những bãi tha ma. Gió lùa vào thổi bay mù mạt cưa trong nhà kho chứa gỗ từ nay bỏ trống không.

Bọn phỉ của tên O-rơ-lích đang như thú dữ rình mồi quanh thị trấn. Chúng men theo những khe sâu, men theo các lối mòn trong rừng. Ban ngày lũ phỉ nghỉ chân trong những bản lân cận, náu mình trong nhà của bọn chủ trại nuôi ong giàu có, đêm đến chúng mò ra các ngả đường sắt, lấy nanh vuốt cào cấu bóc đi từng mảng đường ray; Khi đã làm xong cái trò ghê tởm ấy, chúng lại bò về thu mình trong sào huyệt.

Thường có những chuyến tàu bị lăn nhào xuống chân dốc nền đường, những toa xe bật tung lên vỡ tan tành, đè bẹp gí những hành khách còn đang ngon giấc; Những hạt lúa mì quý đổ vãi ra mặt đường, trộn lẫn với máu và đất.

Bọn phỉ tấn công những thị trấn thanh bình trong tổng. Đàn gà mái hoảng sợ, kêu quang quác, chạy túa ra khắp ngả. Một tiếng súng nổ vang trước ngôi nhà trắng của trụ sở Xô-viết tổng, nghe như những cành khô kêu răng rắc dưới chân người. Bọn phỉ cưỡi những con ngựa béo tốt, chạy sục sạo khắp bản làng, gặp người là chém ngay. Chúng vung kiếm vun vút, chém như bổ củi. Súng nổ thưa thớt: Chúng còn để dành đạn.

Lũ phỉ hiện ra rất nhanh, rồi cũng biến đi rất nhanh. Bọn chúng có tai mắt rình mò khắp nơi. Những cặp mắt cú vọ ấy đã nhìn như xoáy vào trụ sở Xô-viết tổng mà lão thầy tu và bọn cu-lắc thường rình mò. Có những đường dây liên lạc vô hình từ đấy đến tận đám rừng rậm. Đạn dược, những súc thịt lợn tươi, những chai rượu mạnh xanh xanh đều được lén lút chở vào đấy. Cả tin tức cũng thậm thụt thì thầm truyền đến tai những tên tiểu đầu lĩnh, rồi qua một mạng lưới thông tin phức tạp hơn, đến tận tai tên trùm O-rơ-lích.

Đám phỉ này tất cả chỉ gồm vẻn vẹn độ hai ba trăm tay chuyên môn chặt đầu người, nhưng chia ra đến mấy toán hoạt động cùng một lúc ở hai ba huyện. Ta vẫn chưa tóm được chúng vì không sao theo dõi được chúng. Ban đêm, nó làm phỉ, ban ngày nó lại khoác áo nông dân hiền lành, loay hoay làm lụng ở sân, cho ngựa ăn và kéo tẩu thuốc. Đứng trước thềm nhà chúng nhếch mép cười thầm, đưa mắt lấm lét nhìn theo những đội kỵ binh tuần tra đi lùng dõi chúng.

Pu-dư-rếp-ski lâu nay mất cả nghỉ, mất cả ngủ: Đồng chí đã chỉ huy cả trung đoàn của mình phi ngựa lùng khắp ba huyện. Đồng chí không biết mệt, kiên tâm lùng riết lũ giặc, đôi khi đã nắm được đuôi của bọn chúng.

Trong vòng một tháng tên phỉ O-rơ-lích phải rút bọn lâu la của nó ra khỏi hai huyện. Nó bị ép trong một vòng vây khép chặt đang giãy giụa.

Trong thành phố, dòng đời cứ trôi xuôi như thường lệ. Khắp năm khu chợ người lúc nhúc đông nghìn nghịt, tiếng huyên náo rào rào, ầm ĩ. Hai xu hướng ngự trị ở nơi đây: Kẻ bán muốn bán giá cắt cổ, người mua muốn mua giá hời nhất. Bọn bịp bợm đủ loại tha hồ mà trổ tài đánh xoáy. Có đến hàng trăm dứa lùi lùi rình mò như một đàn rệp, cử chỉ nhanh thoăn thoắt, cứ nhìn mắt chúng, người ta có thể biết được đủ mọi tính tình, trừ bản chất làm ăn lương thiện. Cả lũ cặn bã của thành phố đều tụ tập ở đây như bu vào một đống phân với mục đích duy nhất: “Xoay” của những ai lớ ngớ mới đến. Những chuyến tàu thưa chạy đến như khạc ra bên đường hàng đám người tay xách, lưng đeo nặng trĩu những bao với bị. Bọn họ đều đi đến các ngả chợ này.

Chiều tối, chợ nào cũng vắng tanh. Những phố buôn bán, những dãy cửa hàng tối om, trông chẳng khác gì những phố hoang. Họa hoằn mới có những tay cứng bóng vía ban đêm dám mạo hiểm đi vào khu phố chết này, nơi đây mỗi căn phố lặng ngắt đều như có quân bất lương nấp sẵn và sắp sửa xồ ra hăm dọa. Đêm đêm lại hay có tiếng súng nổ đánh đẹt một cái nghe như tiếng búa đập vào mảnh tôn, rồi có tiếng người kêu ú ớ, máu sặc trong họng. Và chờ cho đến lúc mấy anh công an ở các đồn gần đấy cùng chạy đến (họ không dám đi từng người một) thì ngoài cái xác người còn đang giãy chết ra chẳng còn thấy bóng một ai. Bọn giết người đã đi xa rồi và tiếng nổ làm những người còn đi chơi đêm lánh cho xa khu phố chợ. Phía trước là rạp chiếu bóng “Ô-ri-ông” ánh điện dãi trên đường phố và vỉa hè, công chúng đang chen chúc nhau ở đấy.

Trong rạp máy chiếu phim lẹt xẹt. Trên màn ảnh, những cặp tình nhân bất hạnh giết lẫn nhau, và mỗi lần phim đứt, người xem lại la ó dữ dội.

Ở khu trung tâm và ở các ngoại ô, cuộc sống xem ra như không đi chệch vết xe cũ, và ngay ở Tỉnh ủy, nơi đầu não của chính quyền cách mạng này, mọi sự vẫn trôi theo dòng thường lệ. Song đấy chỉ là vẻ yên tĩnh bề ngoài.

Cơn bão táp đang chín mùi, sắp nổ ra giữa thành phố.

Có nhiều kẻ biết cơn bão táp sắp đến: Chúng là những kẻ từ các nơi kéo lên tỉnh, giấu không kín khẩu súng trường trong tà áo dài nông dân. Chúng còn là những đứa giả dạng làm bọn con buôn đầu cơ lương thực ngồi trên mái các toa xe lửa đến đây, đáng lẽ đi tới chợ, lại mang những bao bị ấy đến những địa chỉ mà chúng nhớ như in trong óc.

Bọn chúng thì biết rõ, còn các xóm thợ và ngay cả những người bôn-sê-vích thì lại không hay gì về cơn giông tố đang kéo đến gần.

Trong thành phố, chỉ có năm người bôn-sê-vích là nắm vững tình hình chuẩn bị làm loạn của lũ phản động.

Tàn quân Pết-lu-ra bị Hồng quân đuổi chạy sang nước Ba Lan trắng đã câu kết chặt chẽ với các phái đoàn nước ngoài ở Vác-xô-vi, chuẩn bị tham gia vào cuộc nổi loạn đã dự định.

Số tàn dư của các trung đoàn Pết-lu-ra được bí mật lập thành đội xung kích.

Bọn đầu sỏ phiến loạn của chúng cũng có bộ phận ở Sê-pê-tốp ca nữa, gồm bốn mươi bảy tên, phần lớn là những tên tích cực phản cách mạng mà trước đây ủy ban đặc biệt địa phương vì cả tin, nên đã tha bổng chúng.

Tổ chức này đo lão cố Vát-xi-li, lão chuẩn úy Vin- ních và lão võ quan của bọn Pết-lu-ra là Cu-mên-cơ cầm đầu. Hai đứa con gái lão cố, em và bố tên Vin- ních và cả lão Xa-mô-tư-nha đã len lỏi được vào ủy ban hành chính sở tại làm chân thư ký chép công văn, tiến hành do thám lượm tin cho chúng.

Bọn phiến loạn đã quyết định trong đêm khởi sự sẽ ném lựu đạn vào phân đồn công an biên phòng đặc biệt, đánh tháo tù và nếu có thể được thì chiếm nhà ga.

Giữa khu phố lớn, trung tâm của cuộc nổi loạn sắp tới chúng đang hết sức bí mật tập trung bọn sĩ quan lại. Trong khi đó thì bầy thổ phỉ cũng tụ tập ở những khu rừng lân cận ngoại ô. Từ những khu rừng ấy, chúng phái những tay chân tin cậy của chúng sang Ru-ma-ni và đến tận nơi báo cáo với đích thân Pết-lu-ra.

*

Giu-khơ-rai làm việc ở ủy ban đặc biệt quân khu chống phản cách mạng. Đêm này nữa là sáu đêm ròng anh thức trắng chưa hề nhắm mắt lấy một phút. Anh là một trong năm người bôn- sê-vích biết rõ mọi chuyện. Giu-khơ-rai có cảm giác như người đi săn đã dõi thấy vết chân con thú dữ giữa lúc nó sắp nhảy xổ ra cắn.

(Ủy ban đặc biệt, một cơ quan vừa là công an, vừa là tình báo còn được gọi là công an đặc biệt nữa)

Song biết mà không thể kêu lên, không thể báo động được. Phải đập chết con ác thú. Có đập chết tươi nó, mới có thể yên ổn làm ăn được, đi đâu khỏi phải nơm nớp nhìn từng bụi rậm. Cần nhất đừng làm cho con thú dữ kia kinh động. Trong trận tử chiến này, chiến sĩ phải có trí sáng suốt, lòng kiên tĩnh và cánh tay vững mạnh mới đảm bảo được thắng lợi.

Ngày ấy, giờ ấy sắp đến nơi rồi.

Tại một nơi nào đó ở thành phố, trong ngóc ngách của tổ chức bí mật của chúng, bọn chúng đã họp kín với nhau quyết định: Đêm mai.

Nhưng năm người bôn-sê-vích biết chuyện đã trù tính chặn trước. Không, phải ra tay ngay hôm nay, ngay đêm nay.

Lúc tối, một chuyến xe lửa bọc sắt lặng lẽ không kéo còi, từ từ chạy ra khỏi nhà ga, và xe vừa ra khỏi, cổng lớn nhà kho khép ngay lại, im ắng như không.

Các đường dây điện báo trực tiếp hối hả truyền những bức mật điện; Những hàng chữ số đó bay đến đâu là bộ đội biên phòng ở đấy quên cả ngủ, tróc cho tiệt ổ thú dữ.

A-kim gọi dây nói cho Giác-ki.

- Các hội nghị chi bộ đã triệu tập xong chưa? Thế nào? Tốt. Đồng chí cùng với đồng chí bí thư Đảng ủy khu phố lại họp ngay nhớ. Vấn đề tiếp tế củi thế mà trầm trọng hơn ta tưởng đấy. Đến đây ta sẽ bàn - Giác-ki nghe xong câu nói nhanh, với giọng quả quyết của A-kim, vừa đặt ống nói xuống vừa càu nhàu:

- Vẫn vấn đề củi. Còn là điên đầu với nó.

Hai người bí thư Đảng và Đoàn từ trong chiếc xe của anh lái Lít-kê bước ra. Lên đến tầng hai, họ hiểu ngay không phải vấn đề củi.

Một khẩu súng máy “Mác-xim” nằm trên bàn giấy đồng chí phụ trách. Các chiến sĩ súng máy của đơn vị đặc công đang tíu tít chung quanh. Ngoài hành lang, những đảng viên và đoàn viên trung kiên của thành phố lặng lẽ đứng gác. Trong phòng làm việc của đồng chí bí thư Tỉnh ủy, cuộc họp bất thường của ban thường vụ sắp sửa kết thúc.

Đường dây từ ngoài phố mắc qua cửa sổ con nối với hai máy nói kiểu dùng khi hành quân.

Người ta thì thầm nói chuyện với nhau. Giác-ki gặp A-kim, Ri-ta và Mi-khai-lô ở trong phòng. Ri-ta mặc quân phục, như hồi còn làm chính trị viên đại đội: Mũ Bu-đi-on-ny, váy ka-ki, thắt lưng đeo súng “Mô-de” nặng trĩu.

Giác-ki sửng sốt hỏi:

- Thế này nghĩa là thế nào?

Ri-ta nói cho anh biết:

- Tập báo động đấy, Giác-ki ạ. Chốc nữa, tất cả sẽ đến khu phố đồng chí. Có hiệu lệnh là tập hợp ở Trường Lục quân thứ năm. Anh chị em họp chi bộ xong thì cứ đến thẳng đấy ngay. Chủ yếu là tập hợp thế nào cho không ai để ý đến mình.

Im lặng bao trùm khu rừng “Học sinh quân”.

(Thời trước ở đây có trường “Học sinh quân” của chính phủ Nga hoàng nên gọi là rừng “Học sinh quân” )

Hàng cây sên đại thụ đứng yên không lay động. Mặt nước ao tù phủ đầy những mảng bèo đang yên ngủ. Những lối đi rộng kín cỏ. Giữa rừng, sau bức tường trắng cao là những tòa nhà của trường “Học sinh quân” trước kia, ngày nay là Trường Lục quân thứ năm của Hồng quân. Đêm đã khuya. Từng nhà trên không thắp đèn sáng. Đứng ngoài trông vào có vẻ tịch mịch lắm. Ai qua đây cũng tưởng trong mấy tòa nhà này mọi người đang ngủ say. Song nếu ngủ thì tại sao hai cánh cửa đúc bằng gang nặng trình trịch lại mở toang ra và ngoài của có hai đống đứng lù lù như hai con cóc khổng lồ thế? Người ở khắp các ngả trong khu công nhân đường sắt kéo đến đều biết rằng có báo động đêm thì trong trường chẳng ai ngủ đâu. Từ những cuộc họp chi bộ Đảng, sau khi được nghe chỉ thị vắn tắt, họ liền đi thẳng đến đây, lẳng lặng, không trò chuyện. Họ đi từng người một hay từng đội, nhưng không quá ba người, trong túi người nào cũng có chứng minh thư trên đề “Đảng cộng sản bôn-sê-vích” hoặc “Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ- ren”. Có chìa một trong hai giấy chứng nhận đó mới qua được hai cánh cửa đúc bằng gang này.

Trong phòng họp lớn, người đã đông. Gian phòng này thắp đèn sáng. Vải bạt che kín các cửa sổ. Những người bôn-sê-vích họp mặt ở đây nói đùa nhau rằng cách tập báo động này có vẻ công thức. Họ thản nhiên hút thuốc như không có chuyện gì xảy ra. Không ai cảm thấy có biến cả. Ai cũng tưởng tập hợp lại như thế chỉ là để kiểm tra tinh thần kỷ luật của các đơn vị công tác đặc biệt mà thôi. Song những cựu chiến binh dày kinh nghiệm hơn, vừa bước chân vào cổng trường Lục quân, đã cảm thấy ngay có một cái gì hoàn toàn không phải là tập báo động cả. Mọi việc đều tiến hành một cách quá lặng lẽ. Theo tiếng hô khe khẽ, từng trung đội học viên sĩ quan im lặng xếp thành hàng ngũ, và súng máy xách tay, họ tiến ra ngoài đường. Ở ngoài nhìn vào, không một ngôi nhà nào có chút ánh đèn.

Pa-ven đến gần Đu-ba-va, khẽ hỏi:

- Có gì nghiêm trọng không, Đu-ba-va?

Đu-ba-va đang ngồi ở thành cửa sổ, cạnh một cô con gái mà Pa-ven chỉ mới thoáng gặp ở nhà Giác-ki hôm kia. Nghe hỏi, Đu-ba-va vỗ vai Pa-ven nói đùa:

- Thế ra cậu lo mất hồn rồi à? Chẳng ngại gì đâu! Rồi chúng mình sẽ dạy cậu đánh nhau. À, cậu không quen cô này hay sao? - Đu-ba-va hất đầu chỉ về phía thiếu nữ kia: - Đây là cô An-na. Họ gì, mình không biết, còn chức vụ: Phụ trách cơ sở tuyên truyền.

Thiếu nữ nghe lời giới thiệu tinh nghịch của Đu- ba-va, đưa mắt nhìn kỹ Pa-ven. Cô vuốt lại mái tóc tuột ra ngoài khăn quàng màu hoa cà.

Cặp mắt cô bạn mới bắt gặp mắt Pa-ven. Nhìn nhau không nói mấy giây. Đôi mắt cô bạn đen xanh, ánh lên, hơi kiêu kỳ dưới hàng mi dày mượt. Pa-ven quay sang nhìn Đu-ba-va. Cảm thấy mặt mình đỏ lên, Pa- ven bực mình cau mày và cố nhếch mép mỉm cười, hỏi cô bạn mới:

- Vậy thì trong hai đồng chí, ai là người đang tuyên truyền thuyết phục ai?

Giữa lúc ấy, trong phòng họp có tiếng ồn ào. Đại đội trưởng trèo lên ghế, hô lớn:

- Các đảng viên cộng sản thuộc đại đội thứ nhất! Sắp đội ngũ trong phòng này! Mau lên, các đồng chí, mau lên!

Vừa lúc ấy, Giu-khơ-rai, đồng chí chủ tịch Ban chấp hành tỉnh và A-kim bước vào. Cả ba vừa mới tới đây. Gian phòng chật ních người đứng sắp thành hàng. Đồng chí chủ tịch bước lên chỗ đặt khẩu súng máy thường ngày dùng để tập, giơ tay lên, cất tiếng nói:

- Các đồng chí, hôm nay chúng ta họp nhau ở đây vì một công việc rất khẩn trương. Việc đó đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm cao. Bây giờ thì tôi có thể nói ra điều mà hôm qua chưa thể nói được, vì đấy là một bí mật quân sự quan trọng. Đêm mai, trong thành phố này và các thành phố khác của U-cơ-ren sẽ nổ ra cuộc nổi loạn của bọn phản cách mạng. Thành phố đã đầy rẫy bọn võ quan trắng. Lũ phỉ đã tập trung quanh thành. Một bộ phận của bọn phiến loạn ấy đã chui vào tiểu đoàn thiết giáp của ta làm chân lái xe. Ủy ban đặc biệt của ta đã khám phá ra vụ này và hôm nay, chúng tôi huy động tất cả tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản tới đây để vũ trang đi dẹp phiến loạn. Tiểu đoàn cộng sản thứ nhất và thứ hai sẽ cùng phối hợp hành động với các đơn vị học sinh sĩ quan và Ban đặc biệt đã từng quen chiến đấu. Học viên sĩ quan đã đi trước rồi. Giờ đến lượt các đồng chí. Các đồng chí có mười lăm phút để nhận vũ khí và xếp đội ngũ cho xong. Đồng chí Giu-khơ-rai đây sẽ chỉ huy chiến đấu. Các đội trưởng sẽ nhận chỉ thị cụ thể ở đồng chí Giu-khơ-rai. Tôi thiết tưởng không cần nói nhiều với tiểu đoàn cộng sản ta đây về tính chất nghiêm trọng của giờ phút này. Cuộc phiến loạn sắp nổ ngày mai, chúng ta phải bóp chết nó ngay hôm nay.

Mười lăm phút sau, toàn tiểu đoàn đã vũ trang đầy đủ đội ngũ chỉnh tề đứng trong sân trường. Giu-khơ-rai đưa mắt nhìn những hàng người đứng im.

Đứng trước, cách hàng ba bước, hai người nai nịt gọn gàng: Tiểu đoàn trưởng Mê-nhay-lô, vóc người to lớn, vốn làm nghề thợ đúc ở U-ran, và bên cạnh là A-kim làm chính ủy. Bên trái, những trung đội thuộc đại đội thứ nhất. Trước đại đội hai bước là đồng chí đại đội trưởng và đồng chí chính trị viên. Sau lưng họ, những hàng quân im lặng của tiểu đoàn cộng sản. Ba trăm tay súng.

Giu-khơ-rai ra hiệu lệnh:

- Đến giờ rồi! Tiến lên, bước!

Ba trăm chiến sĩ tiến bước vào các ngả phố vắng tanh.

Thành phố đang ngủ yên.

Tiểu đoàn dừng chân tại phố Lơ-vốp, ngay chỗ đối diện với phố Đi-cai. Bắt đầu hành động từ địa điểm này.

Các khối nhà đều bị bao vây một cách lặng lẽ. Cơ quan tham mưu đóng ngay trên thềm một cửa hiệu. Một chiếc ô-tô từ khu trung tâm đổ xuống, xuôi dọc con đường Lơ-vốp, đèn pha rọi lên hè phố. Chiếc xe đỗ xịch trước cơ quan tham mưu.

Anh thanh niên Guy-gô, con trai Lít-kê, lẩn này lái xe đưa cha tới. Cha anh là tư lệnh đơn vị bảo vệ thành phố. Ông nhảy xuống đường nói với con mấy câu vắn tắt bằng tiếng Lét-tô-ni. Chiếc xe lại nhảy chồm lên phía trước và trong nháy mắt đã biến vào lối rẽ sang phố Đơ-ni-tơ-rép. Guy-gô mắt nhìn không chớp, hai tay như gắn chặt vào tay lái, ngoặt sang phải, ngoặt sang trái.

Cái tính lái xe táo bạo của Guy-gô thế mà cũng có lúc được việc! Chẳng ai còn có ý muốn bắt phạt giam anh hai đêm vì cái tội cầm lái điên cuồng này nữa.

Và Guy-gô bay khắp phố phường như một trận cuồng phong.

Guy-gô đưa Giu-khơ-rai thoắt từ đầu này thành phố, trong nháy mắt đã vụt đến đầu kia thành phố, làm cho Giu-khơ-rai cũng phải khen:

- Guy-gô ạ, nếu đêm nay không chẹt phải ai thì mai cậu sẽ được thưởng một chiếc đồng hồ vàng.

Guy-gô mừng quýnh, đáp lại bằng giọng Lét-tô- ni lơ lớ của anh:

- Em thì cứ tưởng là em đến phải ngồi tù mười ngày vì cái tội lái bạt mạng này mất.

Những đòn đầu tiên nhằm giáng vào tổng hành dinh bọn phiến loạn. Những tên bị bắt và những tài liệu thu được đưa ngay đến Ban đặc biệt.

Trên phố Di-cai, ở ngõ cũng mang cái tên lạ lùng ấy tại nhà số 1 có một đứa tên là Xuy-béc. Căn nhà nó ở có cửa sổ nhìn ra một khu vườn, vườn này chỉ cách có bức tường ngăn với ngôi nhà trước kia là nhà tu kín. Lúc quân ta đến thì căn nhà không có ai ở đấy. Láng giềng nói là hôm ấy Xuy-béc không về nhà. Khám trong nhà thì thấy có một hòm lựu đạn cùng với bản danh sách có kèm địa chỉ. Đồng chí Lít-kê hạ lệnh phục kích sẵn ở những địa chỉ ấy, còn mình thì đứng lại bên bàn một phút xét qua những tài liệu tìm được.

Người đứng gác ở trong công viên là một học viên sĩ quan trẻ tuổi. Cậu ta trông thấy rõ cửa sổ có ánh sáng. Đứng ở trong góc này, có một mình thôi, chẳng thú tí nào; Cậu thấy ngài ngại. Người ta ra lệnh cho cậu gác bức tường bao phủ khu vườn. Nhưng từ chỗ tường đến chỗ ánh sáng yên ổn ở cửa sổ kia còn xa lắm. Hơn nữa, mặt trăng quái ác kia lại cứ bị mây che mờ luôn. Trong bóng tối, bụi cây nào cũng như có người trong ấy. Cậu học viên sĩ quan lấy lưỡi lê dò dẫm quanh mình: Chẳng có gì cả.

“Sao lại đặt mình gác ở đây? Tường cao thế thì ai mà leo vào được kia chứ. Thôi mình lại gần cửa sổ ngó vào xem cái đã!”. Nghĩ thế, cậu ta nhìn đầu tường cao chót vót một lần nữa, rồi bước khỏi góc tối sặc mùi ẩm mốc ấy. Cậu dừng lại bên cửa sổ một lát. Đồng chí Lít-kê thu nhặt nhanh những giấy tờ và định bước ra khỏi phòng. Giữa lúc đó trên đầu tường hiện ra một bóng đen. Bóng đen đó từ trên tường nhìn thấy rõ người đứng gác trước cửa sổ và cả người đang đứng ở trong phòng. Nhẹn như một con mèo, nó chuyền sang một ngọn cây rồi bò xuống đất, rón rén đến chỗ anh lính gác, tay nó vung lên và anh học viên sĩ quan quỵ xuống. Lưỡi đoản kiếm cắm phập vào cổ người gác lút đến tận cán.

Tiếng súng nổ giữa khu vườn đập vào tai các chiến sĩ đang vây quanh khu phố như một luồng điện giật.

Sáu người lộp cộp chạy đến.

Đồng chí Lít-kê đã chết, xác ngã trong chiếc ghế bành, đầu đẫm máu gục trên bàn. Kính cửa sổ vỡ toang. Kẻ địch không có thời giờ lấy lại tài liệu.

Tiếng nổ tới tấp vang lên ở chân tường khu nhà tu kín. Hung thủ đã nhảy ra phố và chuồn về khoảng đất trống ở đường Lu-ki-an, vừa chạy hắn vừa bắn trở lại. Nhưng thoát sao được: Một viên đạn của ta đã bắn theo trúng.

Khám xét suốt đêm. Hàng trăm người không có tên trong danh sách hộ khẩu, nhưng có vũ khí và những tài liệu khả nghi trong người, đã bị giải đến Ban đặc biệt, ở đây có bộ phận chuyên môn tra xét.

Ở một vài chỗ bọn phiến loạn đã dùng vũ trang kháng cự. Ở phố Gi-liên, đồng chí An-tô-sa bị chúng bắn chết giữa lúc ta đang khám xét một nhà.

Tiểu đoàn Xô-lô-men-ca đêm ấy mất đi năm chiến sĩ. Ban đặc biệt mất đồng chí Lit-kê, lão đồng chí bôn-sê-vích, người lính gác trung thành và mẫn cán của nước cộng hòa.

Âm mưu phiến loạn đã bị chặn đứng.

Cũng đêm ấy Ở Sê-pê-tốp-ca, lão cố Vát-xi-li, hai con gái và cả bè lũ nhà hắn đã bị bắt.

Tình thế nguy ngập đã dịu dần.

Song một kẻ thù mới lại đe dọa thành phố: Thiếu củi, đường xe lửa bị tê liệt, và tiếp sau đó là giặc đói và giặc rét.

Bánh mì và củi sẽ quyết định tất cả.

Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 2

Giu-khơ-rai trầm ngâm suy nghĩ; Anh rút tẩu thuốc lá đang ngậm ở miệng ra và khẽ lấy ngón tay sờ vào tàn thuốc. Tẩu đã tắt ngóm.

Chừng mười điếu thuốc lá tỏa khói xám, cuộn khúc trên cao gần những ngọn đèn trần bóng mờ, lượn trên chiếc ghế bành của đồng chí chủ tịch Ban chấp hành tỉnh. Nét mặt những người ngồi quanh bàn trong góc phòng làm việc trông chỉ thấy lờ mờ như bị một làn sương nhẹ bao phủ.

Tô-ca-rếp ngồi cạnh đồng chí chủ tịch Ban chấp hành, ngực tì vào bàn. Ông già bứt chòm râu, cử chỉ đầy vẻ bực tức. Chốc chốc Tô-ca-rếp lại đưa mắt liếc nhìn một tên hói trán lùn tịt: Tên này giọng the thé đang nói liến thoắng hàng tràng những câu rỗng tuếch như trứng đã mút hết lòng.

A-kim bắt gặp cái liếc mắt của người thợ nguội già Tô-ca-rếp, cái nhìn đó làm anh nhớ lại thời thơ ấu: Hồi đó nhà bố mẹ anh có một con gà chọi, anh thường gọi đùa là “con Móc mắt”. Trước khi nhảy xổ vào đối thủ, con gà chọi ấy cũng nhìn như kiểu Tô-ca-rếp đang nhìn bây giờ.

Cuộc họp tỉnh ủy đã kéo dài hơn một tiếng rồi. Tên hói trán là chủ tịch ủy ban vận chuyển gỗ củi. Hắn vừa lấy những ngón tay rất nhẹn lật lật tập giấy, vừa nói thao thao:

- Chính vì những lý do khách quan ấy mà quyết nghị của tỉnh ủy và của cục quản lý đường sắt không thể thực hiện được. Tôi xin nhắc lại: Dù hạn cho một tháng nữa, chúng tôi cũng không thể cung cấp được hơn bốn trăm thước khối củi gỗ. Còn con số mười tám vạn thước khối mà các đồng chí ấn định thì là... - Tên hói trán nghĩ để tìm ra tiếng muốn nói. - Thì là chuyện không tưởng! - Nói xong hắn mím cái miệng nhỏ xíu mắm môi lại, vẻ bực tức.

Im lặng thấy càng kéo dài.

Giu-khơ-rai lấy móng tay gõ cái tẩu cho tàn thuốc rơi ra. Giọng khàn khàn trong cổ họng Tô-ca-rếp phá tan không khí im lặng:

- Cần quái gì phải nhai đi nhai lại mãi như thế. Anh bảo rằng ở ủy ban vận chuyển gỗ của anh trước đây không sẵn củi, giờ cũng không có nốt và sau này các anh cũng không đào đâu ra được... Có phải anh nói thế không?

Tên hói trán nhún vai:

- Xin lỗi đồng chí, củi thì chúng tôi đã trữ sẵn, chỉ phải cái không có xe chở đi... - Hắn ho lên một tiếng, lấy khăn tay kẻ ô vuông ra lau cái trán bóng. Lau xong, bàn tay lần mãi không thấy túi áo đâu, hắn bực mình nhét cái khăn vào cặp giấy.

Đê nhếch-cô từ góc phòng lên tiếng:

- Thế anh đã tìm cách gì để chở củi chưa? Vì từ khi bọn phụ trách chuyên môn dính vào cuộc âm mưu phiến loạn bị bắt đến nay kể đã lâu rồi còn gì!

Tên hói trán quay lại phía Đê-nhếch-cô:

- Tôi đã ba lần báo cáo với cục đường sắt là không có phương tiện vận tải thì không làm ăn gì được...

Tô-ca-rếp ngắt lời hắn:

- Cái đó chúng tôi đều đã nghe lắp đi lắp lại mãi rồi - Tô-ca-rếp hằn học nhìn hắn, giọng bực tức ra mặt - Thế ra anh cho chúng tôi là đồ ngu cả hay sao?

Câu hỏi ấy làm cho tên hói trán thấy lạnh cả gáy.

Lần này hắn hạ thấp giọng nói khẽ:

- Tôi không chịu trách nhiệm về những hành động của bọn phản cách mạng.

A-kim hỏi:

- Nhưng anh hẳn phải biết là nơi các anh cho đốn gỗ ở cách đường xe lửa quá xa.

- Tôi có nghe nói thế, song đấy không phải là phạm vi tôi phụ trách, nên tôi không thể báo cáo cấp trên về tình trạng bất thường xảy ra ở phạm vi người khác được.

Chủ tịch hội đồng công đoàn hỏi:

- Anh có bao nhiêu người làm?

- Gần hai trăm.

Tô-ca-rếp cáu tiết:

- Thế ra một năm mỗi tên ăn hại chỉ làm được độc một thước khối!

Chủ tịch công đoàn nói tiếp:

- Chúng tôi đã cấp phát cho ủy ban vận chuyển của các anh khẩu phần lương ăn gấp đôi, chúng tôi phải rút của anh chị em công nhân để cấp cho các anh như thế, ngược lại thì các anh làm được những gì? Hai toa bánh mì đưa cho các anh để phát cho công nhân, các anh đã nhét đâu mất?

Những câu nói từ bốn phía dồn dập trút lên đầu tên trán hói, nhưng hắn ta tìm cách đánh lảng như con nợ trốn chủ nợ.

Hắn nói quanh co, trơn tuột như chạch, không trả lời thẳng, mắt lấm lét nhìn sang hai bên. Hắn đã cảm thấy nguy đến nơi rồi. Rúm mình trong nỗi lo sợ hoảng hốt, hắn chỉ ước muốn một điều độc nhất: Chóng rời khỏi được chốn này để về ăn bữa cơm chiều thịnh soạn với con vợ còn trẻ của hắn giờ đây đang đọc cuốn truyện của Pôn-đờ-cốc để giết thời giờ.

Giu-khơ-rai vừa chú ý nghe những câu trả lời của hắn, vừa ghi vào tờ giấy sổ tay: “Phải điều tra kỹ thằng cha này hơn, đây không phải đơn thuần là vấn đề thiếu tích cực. Đã có một số tài liệu về hắn... Thôi, nói chuyện với hắn đã đủ rồi. Để hắn cút đi cho rảnh. Còn chúng ta thì bắt tay vào việc của ta đi thôi”.

Đồng chí chủ tịch Ban chấp hành đọc mảnh giấy ghi mấy hàng chữ đó và nhìn Giu-khơ-rai gật đầu.

Giu-khơ-rai đứng dậy đi ra phòng ngoài gọi dây nói. Lúc anh trở vào, chủ tịch Ban chấp hành đã đọc đến đoạn cuối của nghị quyết.

“Cách chức toàn ban phụ trách cơ quan vận chuyển gỗ vì hành động phá hoại hiển nhiên. Đưa vụ đốn gỗ này ra tòa”.

Cơ sự đã không đến nỗi nguy như hắn chờ đợi. Thật ra, cách chức vì phá hoại thì chắc là đặt vấn đề nghi ngờ lòng trung thành của hắn, nhưng đấy chẳng qua là chuyện vặt. Còn việc đốn gỗ ở công trường Bai-a-rơ-ca thì hắn không phải lo, vì nó không phải phạm vi của hắn. “Chà mình cứ tưởng là tụi nó đã lần ra được manh mối gì rồi kia...”

Hắn gần như đã yên trí lắm, vừa cho giấy má vào cặp vừa nói:

- Phải, tôi là một nhà chuyên môn ngoài Đảng, nên các anh có quyền không tin tôi là phải. Nhưng lương tâm tôi trong sạch. Tôi không làm được việc chỉ vì thực tế tôi không thể làm nổi thôi.

Không ai trả lời hắn. Hắn bước ra, vội vã xuống thang gác và mở cửa ra phố, thấy nhẹ nhõm cả người.

Một người mặc áo khoác bộ đội hỏi hắn:

- Vị cho biết tên là gì?

Hắn chột dạ trả lời ấp úng:

- Séc... Vin-ski...

Phần tử lạc loài ấy vừa ra khỏi, trong phòng giấy của chủ tịch Ban chấp hành tỉnh, mười ba cái đầu chụm sát vào nhau trên chiếc bàn lớn.

Giu-khơ-rai ấn ngón tay trên tấm bản đồ mở rộng:

- Các đồng chí xem... Đây là ga Bai-a-rơ-ca, cách chỗ lấy gỗ bảy dặm. Ở đấy có hai mươi mốt vạn thước khối gỗ đang xếp đống. Đội quân lao động đã khó nhọc tám tháng trời, mất bao nhiêu là công lao động. Kết quả thế nào? Chúng nó đã phản ta, xe lửa và thành phố vẫn không có củi để đốt. Gỗ đốn rồi phải chở sáu dặm đường nữa mới tới được nhà ga. Muốn thế phải dùng ít nhất là năm nghìn xe ngựa chở suốt một tháng, mà phải chở mỗi ngày hai chuyến mới được. Thôn gần nhất ở đấy cũng cách mười lăm dặm. Lại phải cái vạ tên O-rơ-lích và lũ phỉ lâu la của hắn luôn quấy phá ở những vùng này. Các đồng chí có hiểu tình hình như vậy là thế nào không?... Thế này đây: Theo kế hoạch thì đáng lẽ công trường khai thác gỗ bắt đầu từ đây và làm dần về phía nhà ga. Nhưng quân khốn nạn chúng nó lại vào mãi tận rừng sâu mở công trường. Chúng đã tính sát: Chúng ta không thể nào chở gỗ đã chặt tới đường sắt được. Thật thế, chúng ta cũng chẳng đào đâu ra lấy trăm chiếc xe ngựa. Chúng đã chơi chúng ta những đòn như thế đấy. Lợi hại chẳng kém gì cái ban bạo động của chúng.

Quả đấm nắm chặt của Giu-khơ-rai nặng nề rơi chát xuống tấm bản đồ.

Cả mười ba người đều tưởng tượng thấy rất rõ tai họa đang ập đến, tai họa mà Giu-khơ-rai không nói ra. Mùa đông đã kề bên cửa. Nhà thương, trường học, các cơ quan và hàng trăm ngàn nhân dân lâm vào cảnh gió rét cắt da mà không củi đốt, còn ở các nhà ga, hành khách đông như kiến mà xe lửa mỗi tuần chỉ chạy được có một chuyến.

Mỗi người suy nghĩ miên man.

Giu-khơ-rai buông nắm tay ra:

- Có một biện pháp, các đồng chí ạ: Phải làm cho xong trong vòng ba tháng một con đường sắt nhỏ từ ga tới chỗ đẵn gỗ - bảy dặm. Tính thế nào để trong một tháng rưỡi thì đã làm được đến đầu chỗ đẵn gỗ. Việc này tôi đã nghĩ tám ngày nay rồi... Muốn làm được thì... Giọng Giu-khơ-rai rít lên trong cổ họng khô - Thì cần ba trăm năm mươi công nhân và hai kỹ sư. Ở kho đoạn đầu máy Pu-sa Vô-đi-xa, chúng ta đã có sẵn đường ray và bảy chiếc đầu máy do thanh niên cộng sản tìm được. Trước chiến tranh người ta đã định đặt một con đường sắt nhỏ từ đấy vào thành phố. Nhưng ở Bai-a-rơ-ca, công nhân không có chỗ ở tại đấy chỉ có độc một cái trường lâm nghiệp cũ đã đổ nát ở mãi tít trong rừng. Phải chia công nhân thành từng toán đến làm việc, hai tuần thay phiên một lần, vì mỗi phiên làm lâu hơn nữa thì không chịu nổi. Ta phải phái các đoàn viên thanh niên cộng sản đến đấy, anh A-kim thấy thế nào?

Và không đợi trả lời, Giu-khơ-rai nói tiếp:

- Đoàn thanh niên cộng sản phải cố hết sức điều động tất cả những đoàn viên nào có thể điều động được đến đấy trước hết là tổ chức đoàn ở Xô-lô-men- ca và một bộ phận ở trong thành phố. Nhiệm vụ rất khó khăn, nhưng nếu giải thích cho lứa trẻ biết rằng có thế mới cứu được thành phố khỏi chết rét, cứu được đường xe lửa khỏi bị tê liệt thì bọn trẻ sẽ làm bằng được.

Đồng chí phụ trách đường sắt lắc đầu tỏ vẻ không tin, giọng đồng chí mệt mỏi:

- Không biết giải quyết thế có ổn hay không. Tôi tính không tài nào làm được đoạn đường sắt dài bảy dặm, trên một khoảng đất không trơ trụi, trong hoàn cảnh hiện nay đang tiết trời mùa thu, sắp bắt đầu có mưa rồi, lại sắp mùa đông tháng giá...

Giu-khơ-rai, không quay lại nhìn đồng chí ấy cắt ngay:

- Đồng chí An-đrây Va-xi-li-ê-vích ạ, đồng chí cần phải để tâm săn sóc hơn việc đốn gỗ! Còn con đường này, chúng ta sẽ làm được.. Chẳng có ai lại chịu ngồi khoanh tay chờ chết rét đâu

Những hòm dụng cụ cuối cùng đã xếp lên toa xe. Người làm trên xe lửa, ai nấy đã về phần việc của mình rồi. Ngoài trời mưa nhỏ hạt, buốt cóng. Những giọt mưa trong như những hạt pha lê lăn trên chiếc áo da ướt bóng loáng của Ri-ta.

Từ biệt Tô-ca-rếp, Ri-ta bắt chặt tay đồng chí già và khẽ nói:

- Chúc các đồng chí thành công.

Cụ già ngước hàng lông mày xám, thân thiết nhìn Ri-ta. Cụ nói lẩm bẩm, thốt lên những tiếng như đáp lại ý nghĩ của chính mình:

- Phải, cái quân khốn ấy đã làm chúng mình mất ăn mất ngủ. Ở đây các đồng chí phải để ý theo dõi. Nếu bên chúng tôi có chuyện gì rắc rối thì bất cứ việc gì cần đến, các đồng chí phải giúp ngay một tay mới được. Vì cái lũ đểu ấy không có làm cái gì mà không ba hoa kiểu cách ngoài miệng bao giờ. Thôi, tàu sắp chạy, già phải lên rồi, con ạ.

Ông già khép chặt cái áo vét-tông lại. Phút cuối cùng, Ri-ta làm ra vẻ vô tình hỏi:

- Kìa, thế Pa-ven không cùng đi với các đồng chí hay sao? Trong đám anh chị em đi đây, chẳng thấy anh ấy đâu cả.

- À, cậu ấy hôm qua đã cùng đồng chí phụ trách công trình ngồi xe goòng đi trước để chuẩn bị cho chúng tôi tới sau.

Trên sân ga, Giác-ki và Đu-ba-va đang vội vã đi lại phía cụ Tô-ca-rếp và Ri-ta. Cùng đi với họ có cả An-na Bô-khác, áo ngắn mặc ngoài vắt thõng ngang vai, những ngón tay mảnh khảnh của chị cặp một điếu thuốc lá đã tắt.

Nhìn về phía ba người đang đi tới, Ri-ta hỏi rốn cụ Tô-ca-rếp:

- Pa-ven học với bác ra sao rồi, bác?

Tô-ca-rếp ngạc nhiên nhìn chị:

- Học gì? Cậu ấy lâu nay do cháu hướng dẫn học tập cơ mà? Đã nhiều lần cậu ta nói với bác về cháu đấy. Thằng bé nó khen cháu không ngớt lời.

Ri-ta nghe ông cụ nói, bụng vẫn chưa tin.

- Có thật thế không, đồng chí Tô-ca-rếp? Theo cháu biết, anh ấy vẫn thường đến nhà bác để nhờ bác giảng lại bài cháu hướng dẫn.

Ông già phá ra cười:

- Đến nhà bác à?... Tôi có thấy cậu ấy đến hỏi tôi bao giờ đâu!

Còi tàu rú lên, Cơ-la-vi-sếch từ trong toa kêu to:

- Đồng chí Ri-ta ơi! Đồng chí để cho bố già đi với chúng tôi thôi chứ. Ai lại cứ giữ mãi ông cụ lại mà chuyện thế! Không có bố già thì chúng tôi biết làm ăn thế nào?

Anh chàng người Tiệp Khắc đó còn đang muốn nói thêm gì nữa, nhưng nhận ra ba đồng chí đang đi đến gần toa xe, anh im ngay. Trong khoảnh khắc, đôi mắt anh bắt gặp cái nhìn lo lắng của An-na; Trông thấy An-na mỉm cười từ biệt Đu-ba-va, anh rời cửa sổ quay phắt ngay vào trong toa, lòng buồn rười rượi.

*

Mưa thu quất vào mặt người. Những đám mây xám nghịt mọng nước kéo lê thê trên nền trời thấp. Cảnh thu muộn, những cánh rừng đã trút hết lá. Hàng cây cổ thụ đứng chau mày, giấu lớp vỏ nhăn nheo dưới màng rêu màu nâu. Mùa thu tàn nhẫn đã lột trần bộ áo sặc sỡ tươi màu của rừng để thân cây đứng trơ trụi và hốc hác.

Ga xép hiu quạnh này náu mình chính giữa rừng vắng. Từ ke bốc hàng lát đá, mới đắp thêm một dải đất lầy nhầy chạy về phía rừng. Chung quanh, người hì hục làm, đông như kiến.

Bùn nhầy nhụa, dính lấy mỗi bước đi. Ủng da lội bì bà bì bõm nghe lớp nhớp khó chịu. Người ta hùng hục xúc đất, đổ nền. Xà beng chạm loảng xoảng, cuốc bổ vào đá chan chát.

Mưa tuôn như rây bột. Hạt mưa lạnh thấm qua quần áo. Mưa đang cuốn đi công trình lao động của con người. Đất thó vữa ra như cháo đặc sệt cứ từ những chỗ mới đắp tùn xuống.

Quần áo bị ướt sũng, vừa nặng, vừa lạnh buốt. Nhưng ngày này qua ngày khác, người ta vẫn cố làm rốn đến tận tối mịt mới nghỉ tay.

Dải đất mới đắp mỗi ngày một chui thêm mãi vào rừng sâu.

Cách nhà ga không xa, ngôi nhà đá sừng sững đứng trơ xương, trông dữ tợn. Những thứ gì có thể dỡ được, tháo được hoặc phá được thì đã bị lấy trộm đi từ bao giờ rồi. Các cửa sổ, cửa ra vào giờ chỉ còn là những lỗ hổng. Các cửa lò dưới bếp chỉ còn là những khoảng đen ngòm. Mái nhà trơ những khe, lỗ, để lộ ra kèo cột bên trong.

Chỉ có nền nhà bằng bê-tông của bốn phòng rộng là còn nguyên thôi. Tối đến, bốn trăm con người quần áo ướt sũng, bê bết bùn lầy, chen chúc nhau nằm lên đấy rét run cầm cập. Người ta đứng lại ngoài cửa vắt quần áo, từng dòng nước bùn đục rỏ tong tong xuống đất. Họ nguyền rủa trời mưa gió, cảnh lầy lội. Trên ổ rơm rải mỏng dính lên nền bê-tông, họ nằm thành hàng san sát quắp lấy nhau mà ngủ cho ấm. Quần áo bốc hơi ngùn ngụt mà không tài nào khô được. Cửa sổ mất kính, che tạm bằng mấy chiếc bao tải, nước mưa hắt vào rỉ xuống nền nhà. Từng cơn mưa đổ hồi như trống giục, trút nước lên những mảnh tôn còn lại trên mái; Gió gào luồn qua khe liếp chặn cửa, thổi ùa vào trong.

Sáng dậy, đoàn người kéo đến túp lều xiêu vẹo xưa kia là bếp; Họ làm một bát nước chè rồi ra công trường. Trưa nào cũng chỉ độc một món đậu nấu không chán ngấy với sáu lạng bánh mì đen thui như than đá. Thành phố chỉ có thể cung cấp cho họ được đến thế thôi.

Phụ trách công trình là ông già Va-lê-ri-an Pa-tô- sơ-kin, người cao lớn khô đét, hai má hóp nhăn nheo. Cán bộ kỹ thuật là Va-cu-lên-cô, người lùn tịt, mũi sư tử ngồi chòm chõm trên khuôn mặt xương xẩu như lấy rìu mà đẽo vậy. Họ đều ở nhờ nhà người trưởng ga.

Tô-ca-rếp ngủ ở trong phòng đồng chí công an đặc biệt công tác ở ga này. Đồng chí ấy tên là Khô-li-a- va, có hai cẳng ngắn ngủn, tính người cựa quậy luôn chân luôn tay, y như giọt thủy ngân.

Đoàn người xây dựng đường sắt kiên cường chịu đựng mọi sự thiếu thốn.

Nền đường mới đắp mỗi ngày một thọc sâu vào rừng.

Trong đoàn đã có chín người đào ngũ. Mấy ngày sau lại có năm người nữa bỏ trốn.

Sang tuần thứ hai, công trường bị nó chơi một vố đầu tiên: Chuyến tàu chiều từ tỉnh lên không chở bánh mì cho công trường.

Đu-ba-va đánh thức cụ Tô-ca-rếp dậy và báo tin ấy cho đồng chí.

Người bí thư già của Đảng bộ công trường buông thõng hai chân đầy lông xuống đất, tay gãi sồn sột vào nách một cách giận dữ. Đồng chí vừa mặc quần áo vừa lẩm bẩm:

- Chúng đã giở trò rồi!

Vừa lúc ấy, anh chàng Khô-li-a-va béo tròn như một quả bóng lăn vào. Tô-ca-rếp liền ra lệnh cho anh ta:

- Đi nhanh ra dây nói, gọi đến Ban đặc biệt. - Rồi quay lại dặn Đu-ba-va: - Còn cậu thì đừng có hở cái việc bánh mì này cho một ai nhé!

Mất nửa tiếng quặc nhau với các nhân viên tổng đài điện thoại, nhờ thái độ cương quyết, Khô-li-a-va đã liên lạc được với đồng chí phó chủ nhiệm Ban đặc biệt là Giu-khơ-rai. Nghe thấy Khô-li-a-va cãi nhau hoài với các nhân viên tổng đài, Tô-ca-rếp sốt ruột quá giậm chân thình thịch.

Tiếng Giu-khơ-rai thét lên trong ống nói:

- Sao? Không chở bánh mì tới à? Được, để tôi hỏi ngay lập tức xem ai làm ra cái chuyện này?

Tô-ca-rếp bực tức la to vào máy:

- Đồng chí cho tôi biết ngay điều này thì hơn: Mai chúng tôi lấy gì cho anh em ăn đây.

Giu-khơ-rai suy nghĩ. Một lát khá lâu sau, ông già bí thư Đảng ủy công trường nghe đáp lại:

- Bánh mì, chúng tôi sẽ chở đến ngay đêm nay. Tôi sẽ phái Guy-gô đánh xe tới, cậu ấy biết đường. Sáng mai, các đồng chí sẽ có bánh ăn.

Tờ mờ sáng hôm sau, một chuyến xe bùn bắn bê bết chở bánh mì tới ga. Lít-kê con, mệt nhoài, bước ra khỏi xe, mặt mày phờ phạc vì suốt đêm không ngủ.

Cuộc đấu tranh để làm xong con đường ngày càng gay go quyết liệt. Phân cục đường sắt báo cho biết là không có tà vẹt. Ở thành phố thì không đào đâu ra phương tiện để chuyển đường ray và đầu máy đến công trường. Ngay đến cả các đầu máy nhỏ cũng cần phải sửa chữa lại khá nhiều mới chạy được. Toán công nhân thứ nhất sắp hết hạn, thế mà toán đến thay phiên vẫn chưa thấy mặt đâu cả. Không thể nào cứ giữ những người đã kiệt sức này ở lại làm tiếp được nữa.

Trong nếp nhà cũ kỹ, dưới ánh đèn dầu le lói, hội nghị cán bộ kéo dài cho đến tận khuya.

Sáng sớm hôm sau, Tô-ca-rếp, Đu-ba-va, Cơ-la-vi- sếch mang sáu người về thành phố để chữa đầu máy và lấy đường ray. Cơ-la-vi-sếch nguyên là công nhân nướng bánh mì nên được phái đến ban tiếp phẩm để kiểm tra, còn những anh em khác thì đi cả về Pu- sa Vô-đi-sa.

Mà mưa thì vẫn trút xuống.

*

Pa-ven vất vả mới rút được chân ra khỏi vũng vùn nhầy nhụa. Cảm thấy bần chân bỗng nhiên tê buốt, anh biết là chiếc đế giày mục đã tụt mất hẳn rồi. Ngay từ ngày đầu tới đây cho đến giờ, anh đã khổ sở vì đôi giày ống hỏng, đôi giày lúc nào cũng ướt sũng, cũng bết bùn. Bây giờ thì một chiếc đã mất hẳn đế, bàn chân giẫm thẳng trong bùn lạnh thấu xương. Chân tê giá quá chừng, anh không còn sức để làm việc nữa. Anh móc chiếc đế giày mới tụt ra khỏi bùn, nhìn nó mà thất vọng. Anh quên cả lời anh tự hứa với mình hôm trước, buột mồm văng tục chửi rủa,. Rồi bỏ đi vào túp lều nay dùng làm bếp. Ngồi cạnh bếp, anh tháo chiếc tất ướt đầm đìa ra và hơ bàn chân đã tê cứng vào lửa.

Chị Ô-đác-ca, vợ bác gác đường sắt, được người cấp dưỡng đưa vào làm phụ, đang thái củ cải trên chiếc bàn nhà bếp. Trời phú cho chị vợ còn trẻ ấy của bác gác đường sức vóc hơn người, đôi vai lực điền, bộ ngực dữ như vâm, đôi hông dư sức, thẳng đứng. Chị ta đưa dao thoăn thoắt, đống rau thái rồi chẳng mấy chốc đã chất cao trên bàn.

Thấy mặt Pa-ven, chị ta nhìn có vẻ khinh bỉ và hằn học hỏi:

- Định đến chực ăn đấy à? Còn hơi sớm một chút. Chắc lại trốn việc chứ gì? Mà sao lại thò chân vào đấy? Đây là nhà bếp chứ có phải nhà tắm đâu.

Chị ta đang chửi Pa-ven thì đồng chí cấp dưỡng đứng tuổi bước vào.

Pa-ven giải thích tại sao mình lại vào bếp:

- Chiếc giày ống của tôi tan nát mất rồi.

Đồng chí cấp dưỡng nhìn chiếc giày ống rách nát và hất đầu về phía chị Ô-đác-ca:

- Chồng chị ấy cũng võ vẽ nghề thợ giày đấy, nói bác ta khâu hộ cho, kẻo ở đây không có giày thì tong đời.

Nghe nói, chị Ô-đác-ca nhìn Pa-ven và cảm thấy hơi ngượng. Chị thú thật:

- Thế mà tôi đã tưởng lầm là anh trốn việc vào đây.

Pa-ven cười. Đến lượt chị Ô-đác-ca ngắm nghía chiếc giày có vẻ là tay lành nghề lắm:

- Giày này chồng tôi chẳng buồn chữa đâu, giầy thế này chữa chỉ toi công. Thôi để tôi mang đến cho anh một chiếc giày cao-su cũ, tôi thấy bỏ vương ở nhà tôi ấy. Anh xỏ vào cũng đỡ lạnh chân. Chứ ai đời lại để giầy không có đế mà đi được, thật tội nợ. Nay mai lại sắp đại hàn, giày với dép như thế thì anh đến quỵ mất.

Lần này thì chị Ô-đác-ca nói có chiều thương hại Pa-ven lắm. Và chị đặt dao xuống, đi ra.

Một lát, chị mang về chiếc giày cao su đi tuyết và một miếng vải băng. Chân hơ nóng, lấy vải bọc lại, thọc vào giày rồi, Pa-ven lặng nhìn chị Ô-đác-ca thầm tỏ ý cảm ơn.

Tô-ca-rếp ở tỉnh về, nét mặt hầm hầm, giận dữ.

Đồng chí triệu tập các cán bộ lại nhà Khô-li-a-va và báo cho mọi người biết những tin chẳng có gì là phấn khởi cả. Đồng chí báo cáo với anh em:

- Chỗ nào cũng ỳ ra. Đi đến đâu cũng thấy bánh xe quay nhưng quay chổng lên trời cả. Phải thấy rằng chúng ta chưa trừ tiệt được bọn chó trắng. Khi chúng không còn thò ra mống nào nữa thì nghĩa là chúng vẫn còn. Tôi nói toạc ra cho anh em biết là công việc không được chạy lắm. Toán thứ hai đến thay phiên giờ vẫn chưa tập hợp xong. Sẽ gửi đến đây được bao nhiêu người cũng chưa rõ. Đại hàn sắp tới nơi rồi. Trước khi trời bắt đầu vào rét, dù chết chúng ta cũng phải vượt qua được đoạn lầy. Nếu không, rét đến, có lấy răng mà gặm đất cũng không nổi đoạn đường. Ở trên tỉnh, bọn nào làm láo rồi sẽ bị trùy cẩn thận. Còn chúng ta ở đây phải ra sức làm nhanh gấp đôi mới được. Dù có chết đi chết lại năm lần cũng phải làm cho xong nhánh đường sắt này. Không xong thì còn mặt mũi nào làm người bôn-sê-vích nữa. Không xong thì chỉ là một bọn ươn hèn mà thôi. - Tô-ca- rếp nói, giọng hôm nay không khàn khàn như mọi khi, tiếng cụ rung lên lanh lảnh như tiếng thép. Đôi mắt sáng quắc dưới hàng lông mày cau cau đủ tỏ quyết tâm ngoan cường của đồng chí già.

- Ngay hôm nay chúng ta sẽ họp kín, đánh thông trong nội bộ. Ngày mai sẽ đi làm cả. Sáng mai thì cho những người ngoài Đảng họ về. Còn chúng ta thì ở lại. Quyết nghị của tỉnh ủy đây. - Tô-ca-rếp đưa tờ giấy gấp tư cho Pan-cơ-ra-tốp.

Nhìn qua vai Pan-cơ-ra-tốp, Pa-ven thấy trong giấy có những hàng chữ: “Cần thiết giữ lại ở công trường tất cả các đoàn viên. Cho đến khi nào chở được chuyến gỗ thứ nhất về mới được thay phiên. Thừa lệnh bí thư Ban chấp hành Tỉnh. Ri-ta Uốt-chi-nô-vích”.

Căn nhà chật chội, không còn chỗ mà len vào nữa. Một trăm hai mươi con người chen chúc nhau, người đứng dựa tường, người leo lên bàn, có người leo lên cả lò bếp.

Cuộc họp do Pan-cơ-ra-tốp khai mạc. Lão đồng chí Tô-ca-rếp nói ngắn thôi, nhưng đoạn cuối làm choáng váng mọi người:

- Ngày mai, các đảng viên và đoàn viên đều ở lại.

Ông già giơ tay đập vào khoảng không như để nhấn mạnh là quyết nghị ấy như đanh đóng cột rồi. Cử chỉ ấy làm tan vỡ mọi hy vọng muốn về tỉnh, về với những người thân, tan hết hy vọng rút chân ra khỏi chốn bùn lầy này. Lúc đầu tiếng nhao nhao nổi lên đến nỗi không còn nghe thấy gì nữa. Ngọn đèn dầu nhỏ tí lay lắt như cũng phấp phỏng. Tối quá, không còn trông rõ mặt người. Tiếng nói ồn ào mỗi lúc một to. Nhóm này kháo nhau, mơ mộng gợi lại cảnh gia đình đầm ấm, nhóm kia tức giận kêu mệt nhọc. Có nhiều người không nói gì cả. Và chỉ có một người nói ra miệng muốn đào ngũ. Giọng căm phẫn của hắn từ trong góc nhà ném ra những câu nói chêm lời văng tục.

- Mẹ kiếp! Tôi đếch vào ở đây lấy một ngày nào nữa. Đày ai đi khổ sai thì cũng phải có tội tình gì mới đày người ta được chứ. Chúng tôi đây thì có tội gì? Đã giam chúng tôi ở đây nửa tháng, xin đủ lắm rồi. Người ta là người chứ không phải là sung rụng. Ai quyết định làm chỗ này thì kẻ ấy tự dẫn xác đến đây mà làm lấy. Ai muốn thì cứ đến mà lăn mình vào đống bùn này, còn tôi, đời tôi chỉ sống có một lần, tôi phải giữ lấy thân tôi. Ngay ngày mai là tôi chuồn.

Ô-cu-nhếp đứng ngay trước mặt tên vừa la đó, anh quẹt diêm soi xem mặt tên đào ngũ đó là đứa nào. Ánh lửa diêm khoảnh khắc lóe lên trong bóng tối, làm lòi cả cái mặt méo xệch, nhăn nhó, tức tối, mồm há hốc kia. Ô-cu-nhếp nhận ra nó là con lão thư ký kế toán ở ban tiếp tế của tỉnh.

- Mày soi cái gì? Tao có phải ăn trộm ăn cắp đâu mà phải giấu mặt.

Diêm tắt, Pan-cơ-ra-tốp vùng đứng phắt dậy. Anh đưa mắt nặng nề, nhìn những người đứng gần, giọng ồ ồ:

- Kẻ nào dám há mồm sủa láo đấy? Đứa nào bảo nhiệm vụ Đảng trao cho là khổ sai? Các anh em, chúng ta không thể nào trở về tỉnh được. Chỗ của chúng ta là ở đây. Nếu chúng ta bỏ đi tức là nhân dân sẽ bị chết rét. Ta càng làm xong sớm thì càng về sớm. Còn đánh bài chuồn như cái thằng khốn nạn vừa rồi thì lý tưởng của chúng ta, kỷ luật của chúng ta không cho phép.

Pan-cơ-ra-tốp - anh công nhân bốc vác - vốn không ưa nói dài, nhưng ngay mấy câu vắn tắt của anh cũng đã lại bị cái giọng ban nãy cắt lời:

- Người ngoài Đảng, ngoài Đoàn thì được về phải không?

Pan-cơ-ra-tốp trả lời đốp:

- Được.

Tức thì một tên mặc chiếc bành-tô ngắn diện phố lách tới chỗ bàn. Hắn quăng ra một cái thẻ. Cái thẻ như cánh dơi liệng, chạm vào ngực Pan-cơ-ra-tốp, rồi bắn ra, rơi tõm xuống mặt bàn.

- Thẻ đây, xin các anh cầm lấy hộ. Xin phép các anh, chết vì mảnh bìa này mà tội vào thân thì tôi xin đủ.

Hắn chưa dứt lời, tiếng phẫn nộ nhao nhao lên khắp gian nhà:

- Mày quẳng cái gì đi đấy! Không biết nhục à!

- Đồ chó chết, cút đi!

- Cái thứ mặt ấy chui vào Đoàn cốt chỉ để kiếm một chỗ nào ấm cái thần xác!

- Tống cổ nó đi!

- Được rồi chúng tao cho mày chỗ ấm, rõ cái đồ rận tha bệnh thương hàn!

Tên vừa vứt thẻ Đoàn đó cúi gằm mặt lùi lũi bước ra. Hắn đi qua, ai nấy đều giãn ra như tránh một con bệnh truyền nhiễm. Hắn ra khỏi, cửa đóng kẹt lại.

Pan-cơ-ra-tốp vò cái chứng minh thư hắn bỏ, gí vào ngọn đèn dầu.

Mảnh bìa bốc cháy, tàn quặn lại.

*

Có tiếng súng nổ. Từ phía túp nhà tồi tàn một bóng người cưỡi ngựa phóng trốn vào rừng, biến trong đêm tối. Người từ trong trường học và căn nhà đổ ùa ra. Có người đụng phải tấm biển bằng gỗ dán đút vào kẽ cửa lớn. Người ta quẹt diêm và lấy vạt áo che gió; Ánh diêm lập lòe, soi lên thì đọc thấy mấy chữ: “Chúng bay cút ngay khỏi nhà ga này, ở đâu đến thì lại về đấy ngay lập tức. Kẻ nào ở lại chúng ông sẽ cho ăn đạn vào sọ. Quân ta sẽ giết sạch, không tha một mống. Gia hạn cho đến tối mai là cùng, phải tuân lệnh này” Dưới có chữ ký: “Đầu lĩnh Sê-nốc”.

Sê-nốc là bè đảng O-rơ-lích.

Trong phòng Ri-ta, cuốn nhật ký của chị để mở trên bàn.

"Mồng hai tháng Chạp

Sáng nay có tuyết đầu mùa rồi. Trời lạnh ghê người. Gặp Vê-rê-sláp Ôn-sin-ski ở cầu thang. Mình và anh ta cùng đi ra ngoài. Ôn-sin-ski nói:

- Tôi bao giờ cũng thích tuyết đầu mùa. Chà lạnh! Cảnh tuyết đẹp ghê, phải không chị?

Mình nghĩ đến công trường Bai-a-rơ-ca nên trả lời anh ta là mình rét và tuyết chẳng làm mình vui tí nào, trái lại chỉ làm mình khổ tâm. Mình nói cho anh ta hiểu vì sao lại thế.

- Đấy là cách nhìn chủ quan của chị thôi. Nếu phát triển quan điểm của chị thì, chẳng hạn như trong lúc chiến tranh, không thể nào cho phép có tiếng cười và nói chung tất cả những gì biểu hiện vui sống được ư? Nhưng thực tế có như thế đâu chị? Thảm kịch là chỉ ở nơi hỏa tuyến. Ở đấy mối cảm về cuộc sống luôn luôn bị cái chết kề bên cạnh bóp nghẹt. Nhưng ngay ở đấy, vẫn có tiếng cười. Còn ở hậu phương cuộc sống thế nào thì nó vẫn như thế: Tiếng cười và tiếng khóc, đau khổ và mừng vui, khao khát kịch hát hoan lạc tình cảm, rạo rực tình yêu.

Trong những lời của Ôn-sin-ski, khó mà phân biệt là châm biếm hay nói thật. Ôn-sin-ski là phái viên của Bộ dân ủy ngoại giao. Vào Đảng từ năm 1917. Mặc theo lối phương Tây, râu bao giờ cũng cạo nhẵn, người lúc nào cũng bôi tí nước hoa. Anh ta ở phòng đồng chí Xê-pan, cùng nhà với bọn mình. Chiều nào cũng đến thăm mình. Nói chuyện với anh chàng cũng thấy hay hay. Anh ta đã từng ở Pa-ri lâu, hiểu nhiều về phương Tây. Nhưng mình không hề nghĩ rằng anh ta với mình có thể thành bạn thân được. Lý do: Đối với mình, anh ta trước hết coi mình là một phụ nữ, rồi sau nữa mới là một đồng chí Đảng. Thật ra, anh ta không che đậy gì những ý nghĩ, những thèm muốn của anh ta cả. Kể cũng là một tay bạo nói thật. Và cái thú của anh ta cũng không thô bạo đâu. Anh ta khéo nói tô vẽ cho nó đẹp. Nhưng mình không ưa anh ta.

Tác phong chất phác tuy hơi cục cằn của Giu-khơ- rai làm cho mình dễ gần hơn là cái nước sơn hào nhoáng Âu hóa của Ôn-sin-ski.

Nhận được báo cáo ngắn từ Bai-a-rơ-ca gửi về. Mỗi ngày đặt được hơn hai trăm thước đường. Tà-vẹt đặt ngay trên đất đóng băng, lấy rìu và xà beng khoét đất ấy ra, rồi đặt tà-vẹt vào đấy. Tất cả chỉ còn hai trăm bốn mươi người. Toán thứ hai đến thay phiên đã bỏ trốn mất một nửa. Điều kiện làm việc thật là gay. Giá tuyết như vậy không biết rồi làm ăn ra sao?... Đu ba-va ở đấy đã được một tuần. Trong số tám đầu máy ở Pu-sa Vô-đi-xa chỉ chọn được năm. Những cái còn lại đều thiếu mất nhiều bộ phận.

Cục quản lý xe điện kiện Đu-ba-va vì anh ta cùng toàn đội đã dùng vũ lực giữ tất cả các xe điện đi từ Pu-sa Vô-đi-xa về tỉnh. Đu-ba-va bắt hành khách xuống, lấy toa tàu chở đường ray đến công trường. Mười chín toa xe điện theo đường quanh tỉnh chạy về ga. Công nhân xe điện hết sức giúp họ.

Ở nhà ga, số đoàn viên thanh niên cộng sản Xô- lô-men-ca còn lại suốt đêm hì hục xếp ray đi, và Đu- ba-va cùng anh em trong đội chở những thanh ray về công trường Bai-a-rơ-ca.

A-kim gạt đi không xét vụ khiếu nại về Đu-ba-va này ở hội nghị thường vụ. Đu-ba-va đã trình bày với chúng tôi tình trạng quan liêu lề mề quá quắt ở Cục xe điện. Họ khăng khăng chỉ cho anh hai chiếc tàu điện và nhất định không cho hơn. Túp-ta lên lớp Đu-ba-va:

- Thời buổi này phải bỏ tác phong du kích ấy đi, bây giờ mà còn thế nữa thì có phen ngồi tù sớm. Làm như không thể nào dàn xếp thương lượng được, nên cứ phải dùng tay súng nói chuyện với nhau hay sao?

Mình chưa bao giờ thấy Đu-ba-va giận dữ đến thế. Anh ta thét ầm khiến phòng họp Tỉnh đoàn rung lên.

- Đồ cạo giấy sao không vác mặt đứng ra mà thương lượng? Chỉ ngồi ở đây như con đỉa hút mực lại còn cứ xoen xoét cái lưỡi. Tớ mà về Bai-a-rơ-ca không có ray thì người ta hớt mõm tớ đi! Được rồi, phải gửi cậu lên công trường mới chừa cái thói ngồi một chỗ làm vướng chân người khác. Để cho cụ Tô-ca-rếp cụ ấy dạy cho cậu biết thân?

Túp-ta đã viết đơn kiện Đu-ba-va, nhưng A-kim đề nghị mình đi ra trước, còn anh ngồi lại nói chuyện với Túp-ta độ mươi phút. Sau đó, Túp-ta hầm hầm đi ra, đỏ mặt tía tai vì giận dữ.

3 tháng Chạp.

Tỉnh ủy lại nhận được đơn khiếu nại của Ban đặc biệt ngành giao thông về một vụ mới xảy ra. Số là Pan-cơ-ra-tốp, Ô-cu-nhếp cùng mấy đồng chí nữa đến ga Mô-lô-vi-lốp-ca dỡ cửa lớn và cửa sổ của các tòa nhà bỏ không. Lúc họ khiêng những thứ này lên tàu thì có một anh công an đặc biệt của nhà ga định bắt họ. Họ tước vũ khí của anh kia. Mãi đến khi tàu chạy, họ mới trả súng ngắn cho anh, nhưng lại moi hết đạn đi. Họ cuỗm tất cả cửa giả đi. Phòng vật liệu sở công chính lại còn tố cáo Tô-ca-rếp không được phép đã tự động lấy hai mươi put đinh ở kho Bai-a-rơ-ca. Thật ra thì số đinh này Tô-ca-rếp đã chia cho nông dân, thế vào tiền công họ đã chuyển gỗ từ nơi đẵn đến công trường để làm tà-vẹt. (Một pút bằng 16,3 ki-lô)

Mình đã đem những chuyện này nói với đồng chí Giu-khơ-rai. Anh cười bảo: “Tất cả những chuyện ấy, rồi chúng ta sẽ dàn xếp đâu vào đấy cả”.

Trên công trường, tình hình hết sức căng thẳng, quý từng ngày một. Việc vặt gì cũng phải dùng đến hết mọi áp lực. Luôn luôn phải kéo cổ những tên kìm hãm công việc lên Tỉnh ủy. Đám thanh niên trên công trường ngày càng hay phá nội quy.

Ôn-sin-ski mang đến cho mình một cái lò sưởi điện nhỏ. Ôn-ga I-u-rê-nhê-va và mình dùng để sưởi tay. Nhưng trong phòng có lò cũng chẳng ấm thêm. Không hiểu các anh em làm trên công trường, nằm trong rừng, đêm nay ngủ làm sao được? Ôn-ga kể chuyện: Trong nhà thương lạnh quá, bệnh nhân không dám thò đầu ra khỏi chăn. Cách ba ngày mới được đốt củi sưởi một lần.

Không, đồng chí Ôn-sin-ski ạ, thảm kịch ở tiền tuyến cũng, là thảm kịch của hậu phương.

4 tháng Chạp,

Tuyết suốt đêm. Tuyết xuống rất dày. Anh em ở Bai-a-rơ-ca viết thư cho mình biết: Mọi vật đều bị tuyết phủ hết. Công việc bị đình lại. Người ta đổ ra quét tuyết lấy đường đi. Hôm nay tỉnh ủy quyết nghị: Công tác đợt thứ nhất trên công trường trước ngày mồng một tháng Giêng năm 1922 phải làm xong đến giáp giới khu vực đốn gỗ. Người ta kể lại rằng khi nghị quyết truyền đạt tới Bai-a-rơ-ca, thì Tô-ca-rếp trả lời: “Nếu anh em chúng tôi không đổ hết, thì nhất định làm được”.

Chẳng nghe thấy nói gì về Pa-ven. Cũng lạ là chẳng có “vụ”, nào về Pa-ven tương tự như kiểu Pan-cơ-ra- tốp đã làm cả. Đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao Pa-ven cứ tránh mặt tôi.

5 tháng Chạp.

Hôm qua thổ phỉ lại bắn vào công trường".

*

Ngựa rón rén đặt chân lên lớp tuyết mềm, xốp. Đôi lúc móng ngựa giẫm gẫy cành cây nằm dập dưới tuyết kêu răng rắc, con ngựa phì hơi, né sang một bên, nhưng bị nòng súng trường không cắm lưỡi lê thúc vào đôi tai, liền phi lên, đuổi theo những con đi trước.

Gần chục tên cưỡi ngựa vượt ngọn đồi ở đầu dải đất nâu còn chưa bị tuyết phủ.

Chúng kìm ngựa lại đấy. Bàn đạp ngựa chạm vào nhau xoang xoảng. Con ngựa đi đầu rùng mình quẫy mạnh, toàn thân nó đã đẫm mồ hôi sau một đoạn đường dài. Thằng đi đầu nói:

- Quân khốn kiếp chúng nó đang rúc trong cái nhà kia kìa. Làm thế nào đuổi chúng đi như gạt sạch tuyết mới được! Đầu lĩnh đã bảo chậm lắm ngày mai phải xua sạch cái lũ châu chấu ấy ra khỏi đây. Vì nếu không thì cái lũ “công nhân” chó chết ấy có thể mò được đến tận những đống gỗ đã đốn kia.

Bọn đi ngựa xếp hàng dọc men theo nhánh đường sắt tiến gần vào nhà ga. Chúng mon men từng bước đến khoảng rừng trống mé trước cái trường học cũ rồi đứng nấp sau những lùm cây.

Loạt súng nổ phá tan cái im lặng của đêm tối. Chùm tuyết từ trên cành cây bạch dương có ánh trăng bạc dãi lên rơi xuống như sóc chuyền cành. Giữa những hàng cây, lóe lên những tia lửa đạn bắn lỗ chỗ những mảnh tường đắp thạch cao; Những mảnh kính Pan- cơ-ra-tốp lấy về lắp trên cửa sổ bị vỡ tan tành.

Loạt súng đã lôi những người ngủ trên sàn bê-tông choàng dậy, nhưng khi có những viên đạn chì như những con dế độc bay vù vù trong phòng thì họ sợ hãi nằm rạp cả xuống, mất hết trật tự, người này ngã vào người kia.

Đu-ba-va túm lấy áo ca-pốt Pa-ven.

- Cậu đi đâu?

- Ra ngoài.

Đu-ba-va rỉ tai nói hổn hển:

- Nằm xuống, thằng ngu! Mày ló mặt ra, nó bắn chết tươi ngay tại chỗ.

Họ nằm bò sát vào nhau, gần ngưỡng cửa ra vào. Đu-ba-va nằm rạp xuống sàn nhà, tay chĩa súng ngắn ra phía ngoài cửa. Pa-ven ngồi xổm, hồi hộp sờ ổ đạn súng ngắn. Có năm viên tất cả. Sờ đến lỗ không đạn, anh quay ổ đạn lại.

Súng ngừng nổ. Yên lặng đột ngột làm mọi người ngạc nhiên. Đu-ba-va khẽ ra lệnh cho những người đang nằm:

- Anh em ai có vũ khí hãy tập hợp lại đây!

Pa-ven rón rén mở cửa. Ngoài khoảng rừng quang vắng, không một bóng người. Bông tuyết rơi xuống quay chầm chậm. Trong rừng sâu, lúc đó có mười tên kỵ mã đang quất ngựa chạy.

Gần trưa, một chiếc xe goòng từ thành phố lao như bay tới. Giu-khơ-rai và A-kim ở trong xe bước ra. Tô-ca-rếp và Khô-li-a-va ra đón. Người ta tháo từ trên xe xuống khẩu súng Mác-xim với mấy băng đạn và hai chục khẩu súng trường. Khẩu súng máy bố trí ngay ở sân ga.

Mọi người vội vã đi đến chỗ làm việc. Tà áo ca- pốt của Giu-khơ-rai quét trên mặt đất phủ tuyết, vẽ thành đường ngoằn ngoèo. Anh đi như gấu chạy, người vặn bên này vặn bên kia, chân hơi khoèo. Anh vẫn còn quen cái lối đi ấy như bước trên boong rập rình của chiếc phóng ngư lôi hạm hồi xưa. A-kim người cao, chân dài, nên vẫn theo kịp Giu-khơ-rai. Chỉ có cụ Tô-ca-rếp chốc chốc lại phải cắm cổ chạy theo.

Cụ nói:

- Việc thổ phỉ tập kích hãy còn là chuyện mệt vừa. Mệt nhất là có gò đất chắn ngáng ngay lấy đường chúng tôi đang làm. Ma xui quỷ khiến nó nằm lù lù ra đấy. Phải đào đi cả một đống đất tướng.

Ông già dừng lại, quay lưng chắn gió, châm thuốc lá một lòng bàn tay úp như cái phễu để che gió; Cụ rít một hơi, rồi lại đuổi theo các đồng chí. A-kim đứng lại chờ. Giu-khơ-rai vẫn rảo bước đi trước.

A-kim hỏi Tô-ca-rếp:

- Sao, bác xem liệu ở đây ta có đủ sức làm xong con đường đúng thời hạn không?

Tô-ca-rếp đắn đo một lát, rồi mới trả lời:

- Chắc chú cũng biết, thật ra, nói chung thì không thể nào làm xong được, nhưng không làm xong cũng không được. Cho nên phải xong.

Hai người đuổi kịp Giu-khơ-rai và cả ba cùng đi ngang hàng với nhau. Ông già nói bằng một giọng phấn khởi:

- Then chốt vấn đề là trông vào chỗ “nhưng” ấy. Ở đây chỉ có hai người, Pa-tô-sơ-kin và tồi biết được trong những điều kiện chó má này, với mớ dụng cụ thô sơ và nhân lực thiếu thốn như thế này thì không thể nào làm xong được con đường. Nhưng được cái tất cả anh em ở đây đều thấy là không xong con đường này cũng không được. Cho nên tôi đã dám nói rằng: “Nếu anh em chúng tôi không đổ hết thì nhất định làm được”. Các đồng chí thử nhìn mà xem. Chúng tôi làm hùng hục đã sang tháng thứ hai rồi. Ba đợt dân công đã kế tiếp nhau làm ở đây và toán đang làm là toán thứ tư, nhưng đám đoàn viên thanh niên cộng sản là lực lượng cốt cán thì vẫn làm quần quật không nghỉ. Chính vì họ trai trẻ nên họ mới đứng vững được như thế. Cũng đã có đến một nửa anh em bị cảm mạo. Hễ cứ nhìn đám trẻ ấy là không sao cầm lòng được, thật tội và thương. Thanh niên như họ thật quý vô giá... Cái xó chết tiệt này rồi sẽ làm nhiều anh em gục mất...

Nhánh đường sắt đã làm xong đoạn đầu tiên đến cách nhà ga một cây số.

Xa hơn nữa độ một cây rưỡi trên nền đường mới san bằng, những thanh gỗ dài nằm bám xuống đất trông như những cột hàng rào bị gió thổi bạt đi, đổ lăn ra. Đấy là tà-vẹt. Xa nữa, đến chân gò đất là con đường mới đắp chưa đặt ray.

Đây là nhóm làm đường số một của Pan-cơ-ra-tốp.

Bốn mươi người đặt tà-vẹt. Bác nông dân râu hoe, đi giày rơm mới, đang từ từ kéo từng cây gỗ trên xe trượt tuyết đẩy ra mặt đường. Xa xa, cũng có mấy chiếc xe nữa đang dỡ gỗ xuống. Hai thanh sắt dài nằm trên đất, đó là kích thước đường ray để đo tà- vẹt cho đều. Búa, xà beng, cuốc xẻng thi nhau bổ xuống để san phẳng nền đất.

Đặt tà-vẹt là một công việc tỉ mỉ và phải làm từ từ. Tà-vẹt đặt trên mặt đường phải bám rõ chặt và phải để thế nào cho đường ray đặt lên dựa đều vào mỗi thanh tà-vẹt, thanh nào cũng như thanh nào.

Ở đây chỉ độc cụ già trưởng toán La-gu-chin là thạo kỹ thuật đặt đường ray. Cụ là bố đẻ Ta-li-a. Tuy đã năm mươi tư tuổi rồi mà đầu cụ không một sợi tóc bạc, râu vểnh ra hai bên, đen như hắc ín. Cụ đã tự nguyện ở lại làm, đến lượt thay phiên thứ tư vẫn không về. Cụ lăn lộn với đám thanh niên, đồng cam cộng khổ; Được toàn đội yêu kính. Tuy là một người ngoài Đảng, bao giờ cụ cũng được mời vào ngồi ghế danh dự trong tất cả các cuộc họp Đảng. Tự hào với điều đó, cụ đã hứa là việc chưa xong thì quyết không bỏ công trường về.

- Đời nào tôi có thể bỏ anh em mà về được, anh em thử nghĩ mà xem. Rời tôi ra, anh em đặt tà-vẹt sẽ lúng túng mất: Công việc này cần phải có con mắt tinh, có tay quen mới làm được. Còn tôi thì trong đời đã đặt không biết bao nhiêu là tà-vẹt trên khắp đất nước Nga ta rồi... - Cứ mỗi lần có chuyến thay phiên thì cụ lại nói bằng một giọng hồn nhiên như thế và tự nguyện ở lại làm.

Pa-tô-sơ-kin tin ông cụ nên ít khi đến kiểm tra đoạn đường cụ làm. Lúc Giu-khơ-rai, A-kim và Tô- ca-rếp đến chỗ anh em làm việc thì Pan-cơ-ra-tốp đang bổ búa xuống moi đất chôn tà-vẹt, người anh mồ hôi nhễ nhại, mặt đỏ gay.

A-kim mãi mới nhận ra được anh chàng công nhân khuân vác đó. Pan-cơ-ra-tốp gầy xọp đi. Hai gò má cao bây giờ càng gồ lên, mặt rửa quấy quá, trông càng xám xịt và hốc hác thêm.

- Kìa, các đồng chí phụ trách trên tỉnh đã xuống.

Anh nói và chìa bàn tay nóng bỏng, ướt đẫm mồ hôi ra bắt tay A-kim.

Tiếng cuốc xẻng ngừng lại. A-kim thấy chung quanh đều là những khuôn mặt xanh vàng. Áo ca-pốt và áo ngắn mặc ngoài của họ cởi ra, ném lăn lóc ngay trên mặt đất phủ tuyết.

Nói chuyện với cụ La-gu-chin xong, Tô-ca-rếp kéo Pan-cơ-ra-tốp đi và dẫn hai đồng chí tỉnh ủy đến đám đất đã san bằng. Chàng công nhân khuân vác ít nói đi cạnh Giu-khơ-rai.

Giu-khơ-rai nghiêm giọng hỏi Pan-cơ-ra-tốp:

- Pan-cơ-ra-tốp, chú cho tôi biết việc xảy ra ở Mô- tô-vi-lốp-ca giữa chú và nhân viên công an đặc biệt! Chú nghĩ sao, có thấy là tước vũ khí của người ta như thế thì quá lắm không?

Pan-cơ-ra-tốp mỉm cười, luống cuống:

- Chúng tôi tước vũ khí của hắn ta là do có sự thoả thuận cả; Chính tự hắn ta yêu cầu như thế. Hắn là một thằng quen chúng tôi. Chúng tôi nói hết với hắn hoàn cảnh khó khăn của chúng ta. Nghe xong, hắn ta nói: “Các cậu ạ, mình không đủ quyền cho các cậu chở cửa đi được đâu. Có lệnh của đồng chí Gie-din- ski (Đồng chí Gie-din-ski phụ trách công an tình báo ở trung ương lúc bấy giờ) bảo phải ngăn ngừa tình trạng trộm cướp tài sản của nhà ga cơ mà. Cái thằng cha trưởng ga khốn nạn ở đây vốn thù với mình. Nó hay ăn cắp mà mình thì không để cho nó ăn cắp. Nếu để các cậu lấy cửa đi nó nhất định sẽ tố cáo mình với cấp trên và đưa mình ra tòa án cách mạng. Đấy, thà các cậu cứ tước vũ khí của mình rồi hãy khuân đồ chở đi. Nếu thằng trưởng ga không báo cáo lên trên thì coi như là ổn”. Chúng tôi đã làm y như thế. Những cánh cửa cái, cửa sổ ấy, chúng tôi có phải lấy dùng cho chúng tôi đâu.

Nhận thấy tia sáng nụ cười long lanh trên đôi mắt Giu-khơ-rai, Pan-cơ-ra-tốp nói thêm:

- Đồng chí Giu-khơ-rai ạ, nếu có phạt thì cứ để mình chúng tôi chịu phạt, đừng làm tội thằng bé ấy.

- Việc đó đã giải quyết xong đâu vào đấy rồi, không nói nữa. Nhưng từ nay về sau đừng có làm những chuyện ấy nữa. Làm như thế là phá kỷ luật đấy. Chúng ta có đủ sức mạnh để đấu tranh có tổ chức mà tiêu diệt bệnh quan liêu. Thôi được. Giờ ta nói đến chuyện quan trọng hơn. - Và Giu-khơ-rai bắt đầu hỏi tỉ mỉ đầu đuôi chuyện thổ phỉ tập kích hôm vừa rồi.

*

Chỗ ấy cách ga bốn cây số rưỡi, những chiếc xẻng thi nhau khoét đất kịch hệt. Anh em đang xẻ cái gò đứng chắn giữa đường.

Chung quanh có bảy người đứng gác, vũ khí trong tay có khẩu ca-ra-bin của Khô-li-a-va và mấy khẩu súng ngắn của Pa-ven, Pan-cơ-ra-tốp, Đu-ba-va và Khô-mu-tốp. Vũ khí của toàn đội chỉ có thế.

Kỹ sư Pa-tô-sơ-kin ngồi trên dốc đang ghi mấy con số vào sổ tay. Chỉ còn một mình kỹ sư Pa-tô-sơ-kin ở lại vì tên kỹ sư Va-cu-lên-cô sáng nay đã chuồn mất về tỉnh. Hắn cho là thà chịu xử tội đào ngũ còn hơn phải ăn đạn của bọn phỉ, chết uổng mạng.

Pa-tô-sơ-kin quay lại khẽ nói với Khô-mu-tốp đứng trước mặt mình:

- Bốc cái gò này đi phải mất nửa tháng. Đất có tuyết đóng thành băng cứng quá.

Khô-mu-tốp vốn người ít nói, mặt lúc nào cũng cau cau, nghe thế thì cắn môi vào ria mép, tỏ vẻ tức giận đáp lại:

- Hạn trên cho chúng ta tất cả chỉ có hăm nhăm ngày, thế mà cụ định lấy nghiến nửa tháng cho đoạn đường này à?

- Hạn trên cho như thế là không sát. Thật ra suốt đời tôi chưa bao giờ làm đường trong điều kiện như thế này và với số lượng thành phần người như thế này. Tôi cũng có thể tính sai, mà thật tôi đã tính sai hai lần rồi.

Giữa lúc đó, Giu-khơ-rai, A-kim và Pan-cơ-ra-tốp tới gần chỗ san nền đất. Từ trên gò đất, anh em trông thấy ngay ba người đang đi đến.

Một cậu mắt lác, mặc áo len thủng, hở cả khuỷu tay, thích vào người Pa-ven. Đấy là Pết-ca Tơ-rô-phi- mốp, vốn là một thợ bắt bù loong ở xưởng đường sắt. Anh ta giơ tay chỉ về phía dưới chân gò đất:

- Cậu trông kìa! Ai thế nhỉ?

Tức thì, Pa-ven, tay vẫn cầm xẻng, chạy xuống dốc băng băng. Dưới vành mũ, đôi mắt anh mỉm cười thắm thiết. Giu-khơ-rai nắm chặt tay anh lâu hơn những người khác.

- Chào chú Pa-ven. Chú ăn mặc quần nọ áo kia như thế, có trời nhận ra được!

Pan-cơ-ra-tốp cười gượng, nói đùa với A-kim:

- Được cái năm ngón chân cậu ta cũng khéo bảo nhau, lúc nào cũng tòi ra ngoài cả. Lại được mấy cái thằng đào ngũ còn thông đồng nhau xoáy của cậu ấy cái áo ca-pốt. May mà Ô-cu-nhếp, cùng tổ với cậu ta, cho cậu ta cái áo vét-tông. Hai tay ấy thật là con chấy cắn đôi, - Pan-cơ-ra-tốp giọng buồn buồn quay về phía A-kim nói thêm. - Không hề gì đâu, Pa-vơ- lu-sa là một anh chàng máu nóng. Cậu ấy đến sẽ sưởi ấm trên sàn bê-tông một tuần vì ổ rơm thì mỏng dính gần như là nằm không. Rồi đến cái nước mặc “thứ áo ván gỗ bốn dài hai ngắn” mất thôi.

Ô-cu-nhếp lông mày da đen, mũi hơi cong, nheo cặp mắt láu lỉnh cãi lại:

- Chúng tôi chẳng để Pa-vơ-lu-sa đổ đâu. Nếu cho biểu quyết thì chúng tôi tán thành ngay để cậu ấy vào bếp làm chân cấp dưỡng, giữ chức lính trù bị cho Ô-đác-ca. Ở đấy nếu cậu ta không phải tay ngốc thì vừa được no bụng, lại vừa được ấm thân, hoặc là vì ở gần bếp, hoặc là vì có hơi bà Ô-đác-ca.

Chuỗi cười vui vẻ của mọi người vang lên làm át cả tiếng nói của Ô-cu-nhếp.

Lần đầu tiên người ta cười trong ngày hôm ấy.

Giu-khơ-rai xem xét gò đất, rồi cùng Tô-ca-rếp và Pa-tô-sơ-kin ngồi xe trượt tuyết đến khu vực đốn gỗ, xong lại quay về. Mọi người vẫn kiên tâm đào đất trên gò. Nhìn những nhát cuốc sáng loáng, nhìn những cái lưng khom đem hết sức ra làm, Giu-khơ-rai nói khẽ với A-kim:

- Chẳng mít-tinh làm quái gì nữa. Bác Tô-ca-rếp ạ bác nói đúng đấy, đám trẻ thật là những người quý vô giá. Thép tôi là ở chỗ này đây.

Giu-khơ-rai nhìn những anh em đào đất làm việc, cặp mắt vốn nghiêm của anh đầy mến thương âu yếm lẫn tự hào cương nghị. Cách đây không lâu, một số trong đám chàng trai trẻ này đã từng nhô lưỡi lê thép xông lên trong đêm đi dẹp phiến loạn. Và bây giờ đây chính họ lại đang ôm ấp một ý nguyện duy nhất: Khơi mạch máu thép đường ray nối đến tận những đống củi quý như vàng, nguồn sức nóng và sự sống.

Ôn tồn nhưng giọng rất tự tin, kỹ sư Pa-tô-sơ-kin trình bày cho Giu-khơ-rai biết là không thể nào mở thông đường qua gò đất trong vòng hai tuần lễ được.

Giu-khơ-rai tai vẫn lắng nghe con tính của kỹ sư, trong óc nghĩ thầm cách giải quyết.

- Các đồng chí hãy rút hết người sang bên kia gò để mở đường tiếp, còn quả đồi này thì chúng ta sẽ có cách khắc phục.

Giu-khơ-rai ngồi nói chuyện hồi lâu ở dây nói nhà ga. Khô-li-a-va đứng gác ngoài cửa. Anh ta nghe rõ đằng sau lưng mình tiếng nói trầm trầm của Giu-khơ-rai.

- Gọi điện ngay cho đồng chí tham mưu trưởng quân khu, bảo tôi đề nghị với đồng chí ấy cho trung đoàn của Pu-dư-rếp-ski đến khu vực công trường. Phải quét sạch bọn phỉ ở khu này. Gửi cả chiếc tàu bọc sắt và công binh từ căn cứ đến đây. Còn những việc khác, tôi sẽ tự giải quyết lấy. Đêm tôi sẽ về. Bảo Guy- gô mười hai giờ đêm nay đánh xe ra ga.

Trong căn nhà, sau mấy lời ngắn của A kim, Giu- khơ-rai bắt đầu nói chuyện. Một tiếng đồng hồ qua mà không ai để ý đến thời gian. Chuyện trò thân mật giữa đồng chí và đồng chí. Giu-khơ-rai nói cho anh em biết không thể nào kéo dài được thời hạn đã ấn định, đến mồng một tháng Giêng phải làm xong công trình đường sắt này.

- Chúng ta chuyển công tác của công trường sang chế độ quân sự. Các đảng viên cộng sản phải tổ chức thành đại đội công tác đặc biệt. Chỉ định đồng chí Đu-ba-va làm đại đội trưởng. Sáu phân đội thì mỗi phân đội một nhiệm vụ nhất định. Công việc còn lại chia đều làm sáu phần. Mỗi phân đội có phần việc của mình. Trước ngày mồng một tháng Giêng, tất cả mọi việc phải xong. Phân đội nào xong trước thì nghỉ trước và được về tỉnh. Ngoài ra, chủ tịch đoàn Ban chấp hành tỉnh sẽ đề nghị Ban chấp hành Trung ương U-cơ-ren (Hội đồng bộ trưởng U-crai-na) tặng thưởng huân chương Cờ Đỏ cho người lao động khá nhất trong mỗi phân đội.

Đã chỉ định xong đội trưởng của các đội. Đội một: Đồng chí Pan-cơ-ra-tốp, đội hai: Đồng chí Đu-ba-va, đội ba: Đồng chí Khô-mu-tốp, đội bốn: Đồng chí La- gu-chin, đội năm: Đồng chí Pa-ven, đội sáu: Đồng chí Ô-cu-nhếp.

Giu-khơ-rai kết thúc bài nói chuyện:

- Còn người phụ trách chung toàn bộ công trường, nghĩa là nhà lãnh đạo tư tưởng và tổ chức của công trường thì vẫn là đồng chí An-tôn Nhi-ki-phô-rô-vích Tô-ca-rếp.

Từng nhịp vỗ tay rào rào dường như có cả một đàn chim cất cánh bay lên. Những khuôn mặt khắc khổ hôm nay cười tươi nở. Câu nói đùa thân mật, trong đoạn cuối câu chuyện, từ miệng một người xưa nay vốn nghiêm nghị, đã làm nổ ra một chuỗi cười tiêu tan hết căng thẳng trong óc từ nãy đến giờ của người nghe chăm chú.

Hai mươi con người tiễn chân A-kim và Giu-khơ- rai đến tận chiếc xe goòng.

Lúc bắt tay chào Pa-ven, nhìn chiếc giày bám đầy tuyết của Pa-ven, Giu-khơ-rai nói khẽ:

- Anh sẽ gửi giày xuống cho chú. Chân chú bị tê cóng rồi còn gì nữa?

- Xem chừng tê cứng rồi, anh ạ. Đã buốt buốt và bắt đầu sưng. - Pa-ven đáp lại và sực nhớ đến lời ngỏ xin từ lâu, anh nắm tay áo Giu-khơ-rai: - Anh có thể cho em mấy viên đạn súng ngắn được không anh? Em chỉ còn ba viên đạn tốt thôi.

Giu-khơ-rai ngậm ngùi lắc đầu, nhưng trông thấy vẻ thất vọng trong cặp mắt Pa-ven, anh không do dự, cởi ngay khẩu Mô-de của mình đưa cho Pa-ven.

- Đây anh tặng chú.

Pa-ven vẫn chưa tin ngay là mình được một vật tặng từ lâu hằng mơ ước, nhưng Giu-khơ-rai đã khoác cây súng lên vai Pa-ven:

- Cầm lấy, cầm lấy. Anh biết mắt chú đã mê nó từ lâu. Nhưng chú phải cẩn thận, chớ bắn phải người nhà đấy nhớ. Còn ba hộp đạn đầy đấy, anh cho chú cả.

Những cặp mắt thèm muốn đều nhìn chòng chọc vào Pa-ven. Có người kêu lên:

- Páp-ca ơi, đưa tớ đổi cho cậu lấy đôi giày ống lót dạ và thêm cả một chiếc áo da ngắn nào!

Pan-cơ-ra-tốp lấy tay phát vào lưng Pa-ven nói trêu:

- Thằng khập khiễng, đổi lấy đôi giày đi cho được việc. Cứ kéo lê mãi chiếc giày cao su thì chẳng sống đến ngày lễ Thiên Chúa giáng sinh đâu!

Đặt chân lên bậc xe goòng, Giu-khơ-rai tỳ vào gối viết giấy phép cho khẩu súng vừa tặng

Mới sáng tinh sương ngày hôm sau đã thấy ầm ầm ở ngã ba đường, đoàn tàu bọc sắt đi vào ga. Hơi tỏa ra trắng xóa như lông ngỗng trời, bốc lên thành những lùm khói dày đặc rồi tan vào bầu trời trong và lạnh giá. Những người mặc áo da từ những toa xe bọc sắt bước ra. Mấy giờ sau, ba anh công binh đến chôn sâu hai quả mìn to tướng màu thép nâu nâu; Họ buộc hai dây dài vào mìn và bắn mấy phát súng hiệu. Nghe súng hiệu, người ta vội vàng chạy tản, tránh xa cái gò trở nên ghê sợ. Diêm châm vào đầu ngòi mìn, làm phụt lửa lân tinh.

Trong một lúc, hàng trăm con người có mặt hồi hộp như thắt lòng lại. Một phút, hai phút chờ đợi sợ hãi... Bỗng nhiên mặt đất chuyển mình, một sức mạnh ghê gớm đã cuốn bay những đỉnh dốc của ngọn đồi, tung lên cao những mảnh đất lớn. Tiếng nổ thứ hai mạnh hơn tiếng thứ nhất. Tiếng nổ ghê người vang khắp khu rừng, ầm ầm, hỗn loạn, kèm theo tiếng rào rào của những tảng đất bị bắn tung lên rơi xuống.

Chỗ ấy vừa rồi còn là ngọn đồi, giờ đã biến thành hố sâu toác ra, chung quanh trong vòng hai chục thước, đất vụn bắn tung tóe khắp mặt tuyết trắng như đường.

Mọi người cầm xà beng và xẻng cuốc chạy túa lại chỗ hố sâu do mìn nổ vừa đào lên.

Sau khi Giu-khơ-rai đi khỏi, ở công trường, không khí thi đua mở ra sôi nổi: Ai sẽ là người lao động khá nhất?

Trời còn rất lâu mới sáng, Pa-ven đã khẽ trở dậy để không làm thức giấc anh em. Anh cố lê đôi chân tê cứng trên sàn nhà lạnh buốt, vào bếp, đun nước sôi pha chè, rồi trở ra đánh thức toàn đội dậy.

Khi toàn công trường sẵn sàng thì bên ngoài trời đã sáng rõ.

Buổi uống nước chè sáng ở nhà bếp, Pan-cơ-ra-tốp chen đến bàn Đu-ba-va và đội của anh ta là đám thanh niên xưởng sửa chữa vũ khí. Pan-cơ-ra-tốp nói với Đu-ba-va, giọng có vẻ bực tức:

- Cậu thấy chưa, thằng cha Páp-ca đã đánh thức đội của nó dậy từ lúc trời chưa sáng. Tớ đoán chắc chúng nó đã đặt được hai mươi thước đường rồi. Anh em trong đội tớ nói là Páp-ca khéo động viên các anh em thợ các phân xưởng chính nhà máy xe lửa của nó, bọn họ định ngày hăm nhăm tháng Chạp là đã làm xong đoạn đường của đội. Ra nó muốn xách mũi tất cả chúng ta đấy chắc. Nhưng xin lỗi các tướng ấy để rồi xem ai hơn!

Đu-ba-va cười nhạt. Anh thừa hiểu tại sao cách làm của phân đội công nhân các phân xưởng chính nhà máy xe lửa lại chạm đến lòng người bí thư thanh niên khu bến tàu như vậy. Việc làm của Pa-ven là một roi quất mạnh vào cả bản thân Đu-ba-va nữa: Lặng lẽ không nói, Pa-ven đã lên tiếng thách thức công trường.

Pan-cơ-ra-tốp nói:

- Tình bạn là một chuyện, còn đây là chuyện khác: Đây là vấn đề ai hơn ai.

Gần giữa trưa, công việc đang hăng hái của đội Pa-ven bỗng nhiên bị ngừng lại. Người gác đứng bên giá súng trông thấy một toán kỵ binh xuất hiện trong rừng, liền bắn báo động.

- Cầm lấy súng anh em ơi! Có phỉ! - Pa-ven la to và quẳng xẻng xuống, rồi nhảy bổ lại gốc cây có treo khẩu súng mô-de của anh.

Lấy súng xong, cả đội nằm dàn ngay ra mặt tuyết cạnh đường. Những người kỵ binh đi đầu vẫy mũ. Một người trong bọn họ kêu to:

- Dừng lại, các đồng chí! Người nhà đây mà!

Chừng năm mươi chiến sĩ kỵ binh, đội mũ Bu-đi-on-ny có sao đỏ, đang men theo đường cái, tiến lại gần.

Thì ra đó là một trung đội của trung đoàn Pu-dư- rếp-ski đến thăm công trường. Pa-ven để ý đến cái tai cụt của con ngựa người chỉ huy cưỡi. Con ngựa cái lông xám đẹp có đốm trắng trên trán không chịu đứng yên một chỗ, cứ đi xoay vòng tròn dưới tay cương của người cưỡi nó. Thốt nhiên, Pa-ven nhảy bổ đến chỗ con ngựa, và lúc Pa-ven chạy đến tóm lấy bờm thì nó sợ hãi lùi lại.

- Lư-sca, con nỡm này, không ngờ ta lại gặp mi ở đây! Con yêu mĩ miều cụt tai của ta xông pha lửa đạn mà vẫn còn sống yên lành đấy ư?...

Pa-ven âu yếm ôm lấy cái cổ mềm mại của con ngựa và lấy tay vuốt ve cái mũi phập phồng của nó.

Người chỉ huy chăm chú nhìn Pa-ven. Sau khi đã nhận ra người quen, đồng chí sửng sốt kêu lên:

- Ơ kìa! Pa-ven đấy à? Cậu nhận ra ngựa của cậu mà sao không nhận ra Xê-rê-đa. Chào người anh em.

*

Trên tỉnh đều dồn sức “chạy” cho công trường. Cố gắng đó đã ảnh hưởng tốt đến công việc ở đây ngay. Giác-ki đã dốc hết lực lượng ở quận ủy, gửi toàn bộ đoàn viên còn lại đến Bai-a-rơ-ca. Ở khu Xô-lô-men- ca chỉ còn lại có số nữ đồng chí. Ở Trường kỹ thuật cầu đường, Giác-ki đã tìm cách lập được một đội sinh viên nữa gửi ra công trường.

Lúc báo tin đó cho A-kim, Giác-ki nói nửa đùa, nửa thật:

- Chỉ còn độc mình tôi với phái vô sản giống cái ở lại nhà. Tôi sẽ để Ta-li-a, con cụ La-gu-chin, thay tôi sẽ viết lên cánh cửa: “Ban phụ nữ”. Còn tôi thì cũng chạy đến Bai-a-rơ-ca nốt thôi. Bởi vì đồng chí có thấy không, giống đàn ông ở lại có độc mình tôi. Thật là không tiện. Các cô ấy cứ nhìn tôi bằng cặp mắt nghi ngờ. Chắc thế nào các cô ấy cũng nói với nhau: “Cái anh chàng ngỗng đực đầu đàn này phái tụi con trai đi hết, còn mình thì ở lại”. Hay có khi còn nói những câu tệ hơn nữa kia. Đề nghị đồng chí đồng ý cho tôi đi.

A-kim cười nhưng không đồng ý.

Người kéo đến Bai-a-rơ-ca rất đông, trong số đó có cả sáu mươi sinh viên trường kỹ thuật cầu đường.

Giu-khơ-rai đã lấy được ở Cục đường sắt bốn toa xe gửi đến chỗ công trường làm chỗ tạm trú cho những công nhân mới đến.

Phân đội Đu-ba-va được lệnh rút ra khỏi công trường đi Pu-sa Vô-đi-xa để lấy một số đầu máy nhỏ và sáu mươi lăm toa trần cho nhánh đường sắt này. Công việc này được tính vào nhiệm vụ trên công trường của họ.

Trước khi đi, Đu-ba-va góp ý kiến với cụ Tô-ca-rếp là nên gọi Cơ-la-vi-sếch lên công trường và giao cho anh ta một phân đội mới tổ chức. Tô-ca-rếp đồng ý và ra lệnh ngay, không ngờ đến duyên cớ chính đã làm Đu-ba-va nghĩ đến chàng trai người Tiệp kia ở trên đời. Duyên cớ ấy là bức thư của An-na vừa gửi cho anh, do các anh em ở Xô-lô-men-ca mới đến mang tới. An-na viết:

"Anh Đu-ba-va! Em và anh Cơ-la-vi-sếch đã chọn cho các anh một đống sách. Gửi anh và toàn thể những chiến sĩ xung kích ở Bai-a-rơ-ca lời chào nồng nhiệt. Các anh là những tay rất cừ. Chúc các anh can đảm và nghị lực. Hôm qua đã phát hết nhẵn số củi cuối cùng còn lại trong kho. Cơ-la-vi-sếch nhờ chuyển lời thăm anh. Anh ấy là một thanh niên rất trội. Chính tự tay anh ấy nướng bánh mì cho các anh đấy. Anh ấy không giao cho ai làm cả. Tự tay anh ấy rây lấy bột mì, nhào lấy bột bánh. Không biết anh ấy khéo kiếm đâu ra được thứ bột mì tốt nên bánh mì làm ra rất ngon, khác hẳn với thứ bánh em vẫn lĩnh hàng ngày. Tối đến, anh chị em đều họp mặt ở nhà em: Có Ta-li-a, con cụ La-gu-chin, A-rơ-chu-kin, Cơ-la- vi-sếch và đôi khi cả Giác-ki cũng đến. Có đẩy mạnh được việc học, nhưng phần lớn là nói đến tất cả mọi chuyện và tất cả mọi người, nhất là thường nói đến các anh trên công trường. Chị em đều bực mình vì chuyện đồng chí Tô-ca-rếp từ chối không nhận họ lên công trường làm việc. Chị em quả quyết gian khổ thế nào đi nữa cũng sẽ chịu được như mọi người. Ta- li-a nói: "Mình sẽ mặc áo của thầy mình và sẽ lên gặp ông cụ, xem ông cụ có đuổi ra khỏi đấy được không nào".

Chắc nó sẽ làm thế thật đấy. Anh chuyển hộ lời em thăm anh chàng mắt đen. An-na".

*

Bão tuyết bỗng nổi lên dữ dội. Trời bị mây xám nghịt kéo đến phủ kín vòm trời tụt xuống thấp hẳn. Tuyết rơi dày đặc. Đến chiều tối, gió rít vào các ống khói, gào thét giữa rừng cây, chạy đuổi theo những cơn lốc tuyết xoáy tròn, làm cho khu rừng ngập những tiếng hú ghê rợn.

Bão gầm thét, phá phách suốt đêm. Tuy lò đốt cả đêm, người vẫn thấy rét buốt thấu xương. Gian nhà ga đổ nát này không còn giữ được hơi nóng cho người.

Sáng hôm sau, các đội lao động ra làm việc, thụt chân sâu vào tầng tuyết dày cồm cộm. Nhưng trên rừng cây, mặt trời đỏ rực và nền trời trong xanh không chút vẩn mây.

Phân đội Pa-ven quét tuyết trên phần đường của mình bị ngập tuyết. Cho đến lúc này, Pa-ven mới cảm thấy hết khổ cực của giá rét. Chiếc áo cũ Ô-cu- nhếp cho chẳng làm anh ấm được, còn chiếc giày cao- su thì nhét đầy tuyết đóng băng. Đã mấy lần giày thụt vào đống tuyết. Vì anh ngủ trên sàn nhà rắn như đá nên ở cổ mọc lên hai cái nhọt tướng. Cụ Tô-ca-rếp cho anh cái khăn mặt dùng làm khăn quàng cổ.

Pa-ven cầm cái xẻng to bằng gỗ hùng hục gạt tuyết, người anh gầy rạc đi, hai mắt sưng đỏ húp lên.

Giữa lúc đó, một chuyến tàu chở hành khách đang ì ạch bò đến tận ga. Chiếc đầu máy hết hơi cố sức lắm mới lôi được con tàu về đây. Trong toa than, không còn lấy một thanh củi, những thanh củi cuối cùng sắp cháy rụi hết trong lò.

Người thợ máy kêu với trưởng ga:

- Cho củi thì chúng tôi đi, bằng không thì bây giờ trong máy cũng hãy còn có cái để chạy được một tí, xin cho lái dẹp vào khu tàu trú.

Thế là người ta lái tàu dẹp sang bên và giải thích cho đám hành khách thất đảm kia biết lý do dừng lại. Người trong các toa chật ních, kẻ thở vắn than dài, đứa chửi rủa ầm ĩ.

Trưởng ga mách nước cho những người lái chuyến tàu:

- Các anh lại nói chuyện với cụ già kia kìa, ông cụ đang đi ở ke ấy. Cụ ấy là phụ trách công trường ở đây. Cụ ta có thể hạ lệnh xe trượt tuyết chở củi đến cho đầu tàu. Ở đây họ vẫn dùng củi gỗ làm tà vẹt đấy mà.

Mấy người lái tàu đến gặp Tô-ca-rếp. Ông cụ bảo họ:

- Chúng tôi sẽ cho gỗ, nhưng không cho không đâu. Vì đây là vật liệu xây dựng của chúng tôi. Hiện công trường chúng tôi đang bị tuyết phủ làm ngăn trở công việc mà trong tàu các anh có sáu bảy trăm hành khách. Đàn bà, trẻ con thì có thể ở lại trong toa, còn những người khác thì xuống vác xẻng đi xúc tuyết độ đến chiều tối là được. Có làm thế thì mới được cấp củi cho tàu chạy. Bằng không thì xin mời họ cứ ngồi với con tàu chết tiệt đến sang năm mới vậy.

Có tiếng người sửng sốt la lên nhao nhao phía sau lưng Pa-ven:

- Anh em ơi, trông kìa! Trông tất cả đám người kia xuống đông quá! Lại có cả phụ nữ nữa kia!

Pa-ven quay lại.

Tô-ca-rếp đi đến gần nói:

- Đấy giao cho chú một trăm người. Chú giao việc cho họ và trông họ làm, đừng để họ khoanh tay đứng không.

Pa-ven phân công cho những người mới đến. Một anh chàng cao lêu nghêu mặc đồng phục ngành đường sắt có cổ bằng lông cừu, đầu đội mũ da dê ấm. Hắn ta đang quay cái xẻng trên tay, tỏ vẻ bực tức và quay sang phía người đàn bà trẻ tuổi đứng cạnh đội mũ da rái cá, trên mỏm có chiếc núm bằng lông nõn, hắn càu nhàu:

- Không đời nào anh lại xúc tuyết, chẳng ai có quyền bắt anh được cả. Anh là kỹ sư cầu đường, nếu họ cầu xin anh giúp thì anh có thể giúp đỡ chỉ huy công việc cho họ. Còn như xúc tuyết thì không phải việc của anh, không phải việc của em. Không ai bắt ta làm được. Không có chỉ thị cấp nào quy định làm như thế cả. Cái lão già ấy đã làm trái nguyên tắc. Anh sẽ kiện cho lão ta biết tay. - Rồi hắn hỏi một công nhân đứng gần hắn ta nhất: - Ai là đội trưởng ở đây?

Pa-ven đi tới:

- Sao anh không làm việc?

Thằng kia đưa mắt khinh bỉ nhìn Pa-ven từ đầu đến chân:

- Còn anh là ai?

- Tôi là công nhân.

- Thế thì tôi chẳng thèm nói với anh. Cứ bảo đội trưởng hay là giám thị lại đây.

Pa-ven quắc mắt nhìn hắn:

- Không muốn làm à? Tùy đấy. Nhưng nếu vé không có dấu của chúng tôi thì đừng hòng lên tàu. Đây là mệnh lệnh của đồng chí phụ trách công trường.

Nói xong, Pa-ven quay sang phía người phụ nữ:

- Còn chị nữa, chị cũng không chịu làm phải không?

Nhưng bỗng Pa-ven ngẩn người ra trong giây lát: Trước mặt anh là Tô-nhi-a Tu-ma-nô-va.

Tô-nhi-a khó khăn lắm mới nhận ra cái người mặc rách rưới này là Pa-ven. Pa-ven đứng ngay đó, trước mặt Tô-nhi-a, mình khoác manh áo rách bươm, chân xỏ đôi ủng kỳ quái, cổ buộc cái khăn mặt cáu bẩn, mặt đã lâu không rửa. Chỉ độc có đôi mắt là vẫn như xưa, đôi mắt ánh lên một ngọn lửa không gì dập tắt được. Đôi mắt Pa-ven. Thế mà cái người rách rưới y như ma cà bông này cách đây không lâu đã là người mà Tô-nhi-a yêu dấu! Không ngờ được. Mới chẳng bao lâu mà sự đời đã thay đổi cả!

Tô-nhi-a mới lấy chồng, lần này theo chồng về một thành phố lớn, nơi chồng đảm nhiệm một chức vụ trọng yếu ở Cục đường sắt. Và trên đường đi, tại chốn này đây, Tô-nhi-a lại phải tình cờ gặp lại người tình thuở ấy! Tô-nhi-a thấy ngại ngùng không dám đưa tay ra bắt. Va-xi-li, chồng chị, sẽ nghĩ thế nào, nếu chị bắt tay Pa-ven? Đời Pa-ven đã xuống dốc đến thế thì mình cũng ngượng với mình thật. Rõ ràng là anh chàng đốt lò này đã chẳng ngóc đầu lên được: Anh ta chẳng làm được nghề ngỗng gì hơn cái nghề đi xúc đất!

Tô-nhi-a đứng ngây, mặt đỏ bừng, thẹn thùng, luống cuống. Tên kỹ sư, thấy gã rách rưới cứ nhìn vợ mình chằm chằm không rời mắt, thì cho là gã ta xấc xược, tức điên người. Hắn quẳng xẻng xuống đất, lại gần Tô-nhi-a.

- Lại đằng này Tô-nhi-a. Anh không thể nhìn cái thằng khố rách áo ôm la-da-rôn này mà yên được.

(La-da-rôn, dân bị coi là hạ lưu xừ Náp-lơ trong truyện Giu-dép-pê Ga-ri-ban-đi)

Pa-ven đã đọc truyện Giu-dép-pê Ga-ri-ban-đi, nên thừa hiểu thế nào là la-da-rôn rồi.

- Nếu tao là la-da-rôn thì mày chỉ là một thằng tư sản mà người ta chưa cắt cổ nốt. - Pa-ven thét lên cự lại tên kỹ sư, rồi quay nhìn Tô-nhi-a, nói gọn lỏn mấy tiếng: - Còn đồng chí Tu-ma-nô-va, đồng chí hãy nhặt xẻng đứng vào hàng mà làm đi. Đừng có bắt chước cái loài bò đực ăn no béo xác ấy. Xin lỗi, nhưng tôi không biết hắn với đồng chí là thế nào.

Pa-ven nhìn đôi giày đi tuyết của Tô-nhi-a, mỉm cười không thiện cảm và nói thêm:

- Tôi chẳng khuyên ai lần chần ở lại đây làm gì. Hôm mới rồi, bọn phỉ vừa đến quấy chúng tôi đấy.

Nói xong, Pa-ven quay đi, lê gót giày cao su, bon về chỗ anh em mình.

Lời nói vừa rồi của Pa-ven tác động ngay cả đến anh chàng kỹ sư.

Tô-nhi-a đã bảo được hắn ở lại và đi xúc tuyết vậy.

Chiều đến, xong việc, hành khách lại trở về ga. Chồng Tô-nhi-a nhảy tót đi trước, vội chiếm chỗ tốt trong toa. Tô-nhi-a dừng lại để anh em công nhân đi hết. Pa-ven mệt nhoài chống xẻng đi sau cùng. Khi hai người đi ngang nhau, Tô-nhi-a lên tiếng:

- Chào Pa-vơ-lu-sa. Nói thật với anh, tôi không ngờ lại thấy anh như thế này. Hóa ra chính quyền Xô-viết không có việc gì khác tốt hơn đáng giao cho anh hay sao mà lại để anh đi xúc đất như vậy? Tôi cứ tưởng đã từ lâu anh làm chính ủy hay là giữ một chức vụ gì đại khái như vậy rồi kia đấy. Đời anh thật cũng chẳng lấy gì được may mắn lắm nhỉ...

Pa-ven dừng lại, ngạc nhiên nhìn Tô-nhi-a từ đầu đến chân.

- Còn tôi, tôi cũng không ngờ gặp cô lại đến nỗi... Bọc đường thế này - Nghĩ mãi anh mới tìm được tiếng nói bóng bẩy thích hợp và nhẹ hơn.

Tai Tô-nhi-a đỏ tía lên.

- Anh vẫn cái tật cục cằn như trước.

Pa-ven vác xẻng lên vai và rảo bước đi. Được vài bước, anh mới đáp lại:

- Tính cục cằn của tôi, nói cô đừng giận, nó còn hơn cái điệu lịch sự của cô, đồng chí Tu-ma-nô-va ạ! Về đời tôi, không mượn lo cô phải lo hộ. Đâu vẫn vào đấy. Chỉ có đời cô thì tôi không ngờ là nó đốn đến thế. Cách đây hai năm, cô khá hơn nhiều, lúc đó cô còn dám bắt tay một người thợ và cô không lấy đó làm xấu hổ. Nhưng bây giờ thì người cô sặc mùi băng phiến. Nói thật tình ra, tôi chẳng có gì để nói với cô nữa.

*

Pa-ven nhận được thư của A-rơ-chom. Anh cho biết sắp cưới vợ và khẩn khoản giục Pa-ven thế nào cũng phải về dự.

Gió dứt lá thư khỏi tay Pa-ven, lá thư bay lên không như con chim bồ câu. Không, anh chẳng đi dự đám cưới được đâu. Có thể nào lại nghĩ đến đi được! Từ hôm qua, thằng gấu Pan-cơ-ra-tốp đã đuổi kịp phân đội của anh và đang tiến với một đà nhanh ai cũng phải sợ. Anh công nhân bến tàu này dốc toàn lực lao lên phía trước, quyết chí vươn lên hàng đầu, vẻ trầm tĩnh ngày thường của anh đã biến đi, anh luôn luôn động viên toàn anh em “bến tàu” của mình làm việc với một nhịp điệu như điên cuồng.

Pa-tô-sơ-kin theo dõi cuộc thi đua giữa những người làm đường, một cuộc thi im lặng mà ác liệt này. Ông già gãi đầu ngạc nhiên tự hỏi mình: “Không hiểu họ là những con người thế nào mà làm được như vậy nhỉ? Cái sức mạnh thật khó hiểu kia là thế nào? Thật nếu trời cứ thế này cho được tám ngày nữa thì chúng mình sẽ làm được tới khu rừng đã đốn gỗ. Tục ngữ nói rất đúng: Có sống hết đời, học hành trọn kiếp, cho đến già vẫn còn thấy là mình dốt. Việc làm của những con người này đã làm đảo lộn hết mọi con tính và tất cả các chỉ tiêu”.

Cơ-la-vi-sếch ở dưới tỉnh lên mang đến số bánh mì cuối cùng do chính tay anh làm ra. Thăm Tô-ca-rếp xong, anh đến chỗ làm việc tìm Pa-ven. Đôi bạn gặp nhau thân thiết. Cơ-la-vi-sếch mỉm cười rút trong bao túi ra một cái áo bông Thụy Điển màu vàng rất choáng. Anh lấy tay vỗ mặt da mềm của chiếc áo và nói với Pa-ven:

- Áo gửi cho cậu đây. Có đoán được ai gửi không?... Hừ, cậu ngốc quá đi thôi! Đồng chí Ri-ta gửi cho cậu đấy vì chị ấy không muốn cậu chết rét, ngốc ạ! Chẳng là anh A-kim nói với chị ấy là cậu mặc trần có cái vét-tông, chịu rét mà làm việc. Áo này do đồng chí Ô-sin-ski tặng chị ấy, mới cầm lấy ở tay anh ta tặng, chị ấy đưa ngay cho mình và bảo: “Mang ra cho Pa- ven”. Ôn-sin-ski nhăn nhó nói: “Tôi có thể gửi cho đồng chí ấy chiếc áo ca-pốt”. Nhưng Ri-ta cười hơ hớ: “Thôi, anh ấy mặc áo khoác ngắn làm việc tiện hơn. Cơ-la-vi-sếch mang hộ nhớ!”.

Pa-ven cầm tấm áo sang trọng đó trong tay, lòng xiết nỗi ngạc nhiên. Anh ngập ngừng một hồi mới khoác nó lên người đang rét run cầm cập. Lớp lông mềm làm cho vai và ngực anh thấy ấm lại ngay.

*

Ri-ta ghi trong nhật ký:

20 tháng Chạp.

Đang mùa bão. Tuyết xuống nhiều, gió rít mạnh. Các anh em ở Bai-a-rơ-ca đã gần đến đích thì những cơn rét dữ và bão tuyết làm cho họ phải dừng lại. Họ bị ngập trong tuyết. Đất có tuyết phủ đông cứng lại, đào đất gay thật. Chỉ còn lại tất cả bảy trăm năm mươi thước nữa thôi, nhưng là những thước đường ác liệt nhất.

Tô-ca-rếp báo tin: Trên công trường chớm có dịch thương hàn, có ba người đã mắc bệnh.

22 tháng Chạp.

Không ai ở Bai-a-rơ-ca về dự cuộc họp toàn thể chấp hành tỉnh đoàn thanh niên. Bọn phỉ vừa làm trúc chuyến tàu chở bánh mì ở đoạn đường cách Bai- a-rơ-ca mười bảy cây số. Theo mệnh lệnh của đại diện Ban dân ủy cung cấp, toàn thể công nhân xây dựng đường sắt phải điều đến chỗ xảy ra tai nạn.

23 tháng Chạp.

Lại thêm bảy người mắc thương hàn từ Bai-a-rơ- ca đưa về tỉnh. Trong số đó có Ô-cu-nhếp. Mình có ra ga. Người ta đưa xuống những xác đã chết cứng vì lạnh từ các thành toa của chuyến tàu mới ở Khác- cốp tới. Ở nhà thương rét lắm. Trận bão tuyết tai ác! Bao giờ mới hết bão cho?

24 tháng chạp.

Vừa ở đằng Giu-khơ-rai về. Té ra là đúng: Đêm qua O-rơ-lích đã dẫn cả lũ phỉ tập kích vào Bai-a- rơ-ca. Ta với chúng đánh nhau trong hai tiếng đồng hồ. Quân phỉ cắt mất đường dây, nên mãi sáng nay Giu-khơ-rai mới nhận được báo cáo đích xác. Thổ phỉ bị đánh lui. Cụ Tô-ca-rếp bị thương, đạn xuyên vào ngực. Hôm nay người ta sẽ đưa cụ về đây. Cơ-la-vi- sếch bị chém chết. Đêm ấy, anh đến phiên đi gác. Chính anh trông thấy bọn phỉ, anh liền vừa báo động, vừa bắn chặn bọn giặc nhảy xổ vào, nhưng vì không chạy kịp đến trường học, nên đã bị bọn phỉ chém chết. Trong đội công nhân làm đường có mười một người bị thương. Hiện giờ có chiếc tàu bọc sắt và hai đội kỵ binh đang tuần tiễu ở đấy.

Pan-cơ-ra-tốp lên thay cụ Tô-ca-rếp phụ trách công trường. Ban ngày, Pu-dư-rếp-ski đã vây một bộ phận phỉ ở đồi Gơ-lu-bô-ki và đã giết sạch không còn một mống. Nhiều công nhân làm đường ngoài Đảng không đợi tàu đến nữa, đã bỏ công trường lần theo đường tà-vẹt trốn về.

25 tháng Chạp.

Người ta dã đưa cụ Tô-ca-rếp và những anh em bị thương khác về đây và đem ngay vào bệnh viện cứu chữa. Các bác sĩ đều hứa cứu sống ông già. Cụ ta nằm mê man không biết gì. Tính mệnh của những người khác không nguy lắm, có thể qua được.

Tỉnh ủy và chấp hành tỉnh đoàn chúng mình nhận được bức điện từ Bai-a-rơ-ca gửi về: “Để trả lời vụ quấy rối của bọn thổ phỉ, chúng tôi, những người xung phong xây dựng đường sắt, đã họp mít-tinh cùng với đơn vị tàu bọc sắt mang tên” Vì chính quyền Xô-viết “và các chiến sĩ Hồng quân trung đoàn kỵ binh, xin hứa với các đồng chí, dù trở lực thế nào, đúng ngày mồng một tháng Giêng, chúng tôi sẽ cung cấp được củi cho thành phố. Chúng tôi nguyện tiếp tục làm việc với dũng khí càng tăng lên gấp bội. Đảng cộng sản, người đã tin cậy gửi chúng tôi tới đây, muôn năm! Chủ tịch buổi mít-tinh: Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Bí thư: Béc-din”.

Thi hài Cơ-la-vi-sếch đã được an táng tại Xô-lô- men-ca, theo tang lễ quân đội.

*

Đống củi ta hằng mong gần tới rồi, chẳng còn bao xa nữa, nhưng công việc tiến hành chậm chạp không thể chịu được, vì bệnh thương hàn mỗi ngày cướp mất hàng chục bàn tay có ích, lúc này cần vô cùng, quý vô cùng.

Pa-ven đi về phía ga, bước lảo đảo như người say rượu hai chân chỉ chực khuỵu xuống. Anh bị sốt từ lâu nhưng hôm nay cảm thấy người khó chịu hơn hẳn mọi khi.

Bệnh thương hàn lâu nay phá tỉa đội làm đường, bây giờ đã bắt đầu tấn công đến Pa-ven. Nhưng sức vóc rắn chắc của anh đã chống cự lại, và năm hôm nay, anh vẫn còn đủ sức nhấc mình khỏi sàn bê tông loáng thoáng phủ rơm, để cùng anh em đi làm. Ngay cả cái áo lông ấm của Ri-ta biếu và đôi giày ống lót dạ của Giu-khơ-rai gửi cho đang bọc lấy đôi chân tê buốt, cũng không thể cứu anh khỏi nguy được.

Mỗi bước đi, anh thấy ngực đau nhói như dao đâm, răng đánh vào nhau lập cập, mắt hoa lên và cây cối chung quanh đối với anh hình như đang quay cuồng một cách lạ lùng.

Khó nhọc lắm anh mới lê bước được đến ga. Tiếng ồn ào khác thường làm anh ngạc nhiên. Cố nhìn xem: Thì ra có một chuyến tàu dài dằng dặc đỗ dọc suốt nhà ga. Trên những toa trần, toàn là các đầu máy nhỏ, đường ray, tà-vẹt. Những người đi theo đoàn tàu mới đến đang bốc những hàng ấy xuống. Pa-ven đi mấy bước nữa, người đã thấy loạng choạng mất thăng bằng. Rồi đầu anh từ từ chạm đất. Má đang nóng bừng áp vào tuyết thấy lành lạnh, dễ chịu.

Mấy giờ sau, có người đi qua vấp phải người anh, người ta mới đưa anh về căn nhà. Pa-ven thở dốc, tâm thần mê man, không nhận ra được ai nữa. Y sĩ ở chiếc tàu bọc sắt được mời đến khám, chẩn đoán:

“Bị sưng phổi nặng và bị thương hàn. Nhiệt độ 41,5. Còn nhức đầu xương và sưng cổ, nhưng không đáng kể vì so với hai chứng trên chỉ là bệnh vặt. Chỉ hai bệnh trên cũng đủ qua đời”.

Pan-cơ-ra-tốp và Đu-ba-va vừa đi chuyến tàu dài tới đã hết sức tìm mọi cách cứu sống Pa-ven.

A-li-ô-sa Cô-khan-ski là người cùng quê với Pa- ven được giao trách nhiệm đưa người bệnh về Sê-pê- tốp-ca.

Nhờ toàn đội của Pa-ven giúp tay vào, chủ yếu là nhờ áp lực của Khô-li-a-va, nên Pan-cơ-ra-tốp và Đu- ba-va mới đưa được Pa-ven mê man bất tỉnh và A- li-ô-sa vào một toa tàu đã chật ních người. Vì sợ bệnh thương hàn truyền nhiễm, hành khách không cho đưa vào toa. Họ phản đối ầm ĩ và dọa khi tàu chạy, họ sẽ quẳng người bệnh xuống đường.

Khô-li-a-va vung súng lục trước mũi những ai cản trở việc đưa người bệnh lên tàu. Anh thét lên:

- Người ốm này không có bệnh truyền nhiễm! Thế nào cũng phải để cho người bệnh đi, dù cho có phải đuổi tất cả mọi người xuống thì cũng cứ phải đưa đi! Nói cho bọn các anh nhớ rằng, nếu định chạm tay vào người anh ta, tôi sẽ báo cho các nhân viên công an đặc biệt ở các ga dọc đường: Đuổi tất cả xuống tàu và tống giam ngay. A-li-ô-sa này, đây là khẩu Mô- de của Pa-ven, cầm lấy, nếu đứa nào dám đầu têu cho Pa-ven xuống thì cứ bắn ngay.

Khô-li-a-va nói dọa thêm câu ấy.

Tàu chuyển bánh. Trên sân ga vắng, Pan-cơ-ra- tốp đi lại gần Đu-ba-va.

- Cậu thấy thế nào, liệu có sống được không?

Không có tiếng trả lời.

- Về thôi. Đu-ba-va, nó sẽ thế nào thì cũng đành thôi. Tất cả công việc giờ do chúng mình phải gánh vác cả. Đêm nay, phải chuyển các đầu máy xuống để sáng mai còn đốt lò thử xem.

Khô-li-a-va gọi điện thoại suốt dọc đường tàu, nói chuyện với các bạn công an đặc biệt của mình và tha thiết đề nghị họ không để cho hành khách khiêng bệnh nhân Pa-ven xuống tàu. Mãi đến lúc nhận được lời các bạn hứa chắc chắn sẽ làm theo lời anh yêu cầu anh mới đi ngủ.

Đến một nhà ga lớn, người ta khiêng từ chuyến tàu chở khách xuống ngay sân ga một xác chết, xác một người thanh niên lạ mặt tóc hoe. Anh ta là ai, vì sao chết, chẳng ai biết cả. Các nhân viên công an đặc biệt của nhà ga nhớ tới lời yêu cầu của Khô-li- a-va, bèn chạy lại toa xe để ngăn cản không cho khiêng xuống, nhưng đến lúc chính mắt trông thấy người thanh niên kia đã chết thật, họ đành phải cho phép khiêng xác đến nhà xác của trạm tiêu chuyển.

Họ gọi ngay dây nói về Bai-a-rơ-ca báo cho Khô- li a-va biết tin bạn anh đã chết, số phận của người bạn đó bấy lâu đã làm cho anh rất lo ngại.

Một bức điện ngắn từ Bai-a-rơ-ca báo về Tỉnh ủy tin Pa-ven từ trần.

Còn A-li-ô-sa Cô-khan-ski thì sau khi đã đưa được Pa-ven về tới gia đình, chính A-li-ô-sa lại bị bệnh thương hàn quật ngã.

*

"9 tháng Giêng.

Sao lòng tôi thấy đau đớn nặng nề như vậy? Trước khi ngồi vào bàn, tôi đã khóc nhiều. Ai tưởng được rằng Ri-ta này lại có thể khóc được, có thể khóc đau xót như thế được! Có phải bao giở nước mắt cũng là dấu hiệu của sự yếu lòng không? Hôm nay ta khóc vì đau đớn sâu xa trong lòng. Tại sao đau đớn này lại đến với ta giữa một ngày thắng lợi lớn, khi giặc rét rùng rợn đã bị đánh bại rồi, khi các ga xe lửa đã có củi gỗ quý giá chất đầy ăm ắp trong kho? Tại sao nó lại đến vào giữa ngày mà tôi vừa được dự lễ chiến thắng trong cuộc hội nghị mở rộng của Xô-viết thành phố, lễ mừng những người anh hùng xây dựng đường sắt? Phải, chúng ta đã thắng lợi, nhưng để góp vào thắng lợi đó, hai người đã hy sinh: Cơ-la-vi-sếch và Pa-ven.

Cái chết của Pa-ven đã làm cho tôi thấy một sự thật: Đối với tôi, Pa-ven thân quý hơn là tôi vẫn tưởng.

Thôi từ nay tôi bỏ không viết cuốn nhật ký này nữa. Rồi có khi nào tôi bắt đầu một cuốn nhật ký mới nữa không? Không biết thế nào. Ngay mai viết thư đến Khác-cốp báo tin tôi đồng ý nhận công tác ở Trung ương đoàn thanh niên cộng sản U-cơ-ren".

Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 3

Tuổi thanh xuân đã thắng. Pa-ven qua khỏi trận sốt thương hàn. Lần này là lần thứ tư, anh đã thập tử nhất sinh mà sống trở lại. Nằm mất một tháng rồi Pa-ven mới gượng dậy được, người gầy và xanh, chân đứng còn run; Tay vịn vào tường, anh lần tập đi vài bước trong phòng. Mẹ phải đỡ anh mới ra được đến cửa sổ, và đứng đấy nhìn con đường cái rất lâu. Từng vũng tuyết tan óng ánh trên mặt đường. Tuyết bắt đầu tan, báo hiệu mùa xuân.

Ngay trước cửa sổ, trên cành anh đào, có con chim sẻ đậu đang tỉa lông, giơ bụng xám, mắt ranh mãnh liếc nhìn Pa-ven. Pa-ven lấy ngón tay gõ vào kính cửa sổ, khẽ mở miệng nói:

- Thế là ta với mi đã qua mùa đông rồi đấy, chim nhỉ.

Mẹ hốt hoảng nhìn anh:

- Con nói với ai thế?

- Con nói với con chim sẻ... Thôi nó bay đi mất rồi, con chim nỡm!

Và Pa-ven mỉm một nụ cười yếu ớt.

Mùa xuân rồi. Pa-ven nghĩ đến trở về thành phố. Anh thấy sức thì đã khá, có thể đi được, nhưng trong cơ thể có một cái gì khác thường. Một hôm anh đang dạo chơi ngoài vườn, bỗng thấy đau nhói trong xương sống, khiến anh ngã vật ra đất. Khó nhọc lắm anh mới dậy và bò về phòng được. Ngày hôm sau, bác sĩ khám bệnh anh rất kỹ. Bác sĩ gõ những đốt xương sống, thấy có lỗ thủng sâu hoắm trong xương, lấy làm lạ, hỏi anh:

- Sao lưng đồng chí lại bị thủng sâu thế này?

- Thưa bác sĩ, đấy là vết một viên đá lát đường bắn vào lưng tôi. Trước thành Rốp-nô, có một quả đại bác 81 ly nổ tung mặt đất...

- Thế đồng chí làm thế nào mà đi được nữa? Viên đá bắn thủng lưng như thế không đau sao?

- Không. Tôi bị đá bắn vào lưng, nằm lăn ra đất đến ngót hai hai tiếng đồng hồ, rồi lại lên ngựa đi. Mãi đến bây giờ mới thấy đau là lần đầu.

Bác sĩ cau mày suy nghĩ, tay nắn mãi vết lõm trên lưng.

- Hừ!... Bị một cú như thế, gay đấy, chú ạ! Xương sống con người ta không ưa bị đá giáng vào như thế đâu. Hy vọng là đồng chí sẽ không thấy đau nữa. Thôi, mặc áo vào, đồng chí Pa-ven ạ.

Bác sĩ ái ngại nhìn người bệnh, không giấu nổi vẻ lo âu.

A-rơ-chom về ở nhà Schi-ô-sa, vợ anh, một người đàn bà chẳng có gì là đáng ưa cả. Nhà vợ là nông dân nghèo. Một hôm, Pa-ven đến thăm anh. Một đứa bé con nhếch nhác, mắt lác, đang chạy nhông ở sân nhỏ bẩn thỉu. Thấy Pa-ven vào, thằng bé giương mắt ti hí nhìn chòng chọc, rồi hí hoáy thọc ngón tay một cách nghiêm túc vào lỗ mũi, cất tiếng hỏi:

- Hỏi gì? Định vào nhà người ta ăn cắp chắc? Cút đi ngay, không mẹ người ta chửi cho đấy!

Túp lều cũ kỹ, thấp lè tè, cánh cửa sổ bé tí xíu mở ra. A-rơ-chom gọi Pa-ven:

- Vào đây Pa-vơ-lu-sa!

Một mụ già mặt vàng như nghệ đang loay hoay trước cửa lò. Mụ gườm gườm đưa mắt lườm Pa-ven và né người tránh cho khách đi. Xong mụ lại về với mấy cái nồi của mụ, mụ xê đi dịch lại làm nồi va chạm vào nhau loảng xoảng.

Hai đứa bé gái, bím tóc lơ thơ vài sợi, trèo phắt lên trên lò bếp ngồi và trố mắt nhìn người khách lạ một cách tọc mạch.

A-rơ-chom ngồi ở bàn, có vẻ ngượng ngùng. Cả mẹ lẫn em đều không tán thành anh lấy Schi-ô-sa. Anh đã ba năm đi lại với nhà cô Ga-li-a xinh đẹp làm nghề khâu, con gái bác thợ đá. Chẳng hiểu làm sao, vốn con nhà vô sản gốc, anh lại bỏ Ga-li-a để lấy nhà chị Schi-ô-sa chẳng ra gì, đâm đầu vào cái gia đình năm miệng ăn mà chẳng có ai là tay thợ cả. A-rơ-chom xong việc ở sở đầu máy về nhà, lại nai lưng ra với cái cày, đem hết sức gây dựng lại cơ đồ cho nhà chị Schi-ô-sa đang lụn bại này.

A-rơ-chom hiểu rằng Pa-ven không tán thành bước đường tụt lại đằng sau của anh, bước đường “tiểu tư sản hóa”, như Pa-ven thường nói. Giờ đây, anh để ý xem em sẽ xử sự như thế nào trong cái cảnh nhà mình thế này.

Hai anh em hỏi han nhau qua loa mấy câu sáo chẳng ra đâu vào đâu rồi Pa-ven tỏ ý muốn ra về. A-rơ-chom giữ lại.

- Ở chơi đã, ăn với chúng tao tí chút. Chị sắp mang sữa đến. Mai mày định đi thật đấy à? Trông mày còn yếu lắm, Páp-ca ạ.

Schi-ô-sa bước vào, chào Pa-ven và gọi A-rơ-chom xuống nhà dưới khiêng vật gì giúp một tay. Mình Pa-ven ở lại với mụ già ít nói. Tiếng chuông nhà thờ vọng vào cửa sổ. Mụ già buông gậy chọc lò, càu nhàu:

- Giê-su-ma, lạy Chúa tôi, đầu tắt mặt tối thế này chẳng có lúc nào mà ngắm nguyện nữa.

Mụ tụt khăn quàng ra khỏi cổ, rồi vừa nhìn gườm gườm người khách lạ, vừa đi đến góc buồng, chỗ bày những ảnh tượng lạnh lẽo, lâu ngày trông đã sỉn. Mụ đưa ba ngón tay phải gầy giơ xương chụm vào nhau, rồi bắt đầu làm dấu. Mấp máy đôi môi khô héo, mụ lâm râm cầu nguyện.

- Lạy Cha chúng tôi ở trên đời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng...

Ngoài sân thằng bé cưỡi lên lưng con lợn sề đen trùi trũi có đôi tai chảy lòng thòng. Nó lấy chân không thúc vào sườn lợn, tay bíu chặt mớ lông; Con vật đang xoay tròn, vừa quẫy vừa gầm gừ. Thằng bé thét lên:

- Hư, đi! Đi! Hê, gượm tí đã nào!

Con lợn sề lồng lên trong sân, cố vật thằng bé trên lưng ngã xuống đất. Song thằng bé ngồi chắc lắm.

Mụ già bỏ kinh, bỏ nguyện, thò đầu ra cửa sổ:

- Đồ quỷ sứ! Rồi tao dạy cho mày cưỡi ngựa. Có xuống ngay không, thằng chết tiệt. Ngã chết bây giờ! Nghịch thế thì thôi!

Con lợn sề đã tìm cách thoát được tay kỵ mã. Mụ già yên trí lại quay về với ảnh tượng. Nét mặt sùng kính, mụ tiếp tục cầu kinh.

- Nước Cha trị đến...

Thằng bé con nước mắt chảy quanh, bước vào cửa. Nó lấy cánh tay áo quệt lên cái mũi bị ngã dập xuống đất và khóc mếu vì mũi đau. Nó vòi:

- Mẹ ơi, cho con cái kẹo.

Mụ già phát khùng quay lại:

- Đồ quỷ mắt lác, mày không để cho bà xong buổi nguyện. Đồ chó đẻ, đợi đấy, rồi bà lấy kẹo cho mày.

Nói rồi, mụ nhặt cái roi trên ghế dài. Thằng bé biến ngay lập tức. Hai đứa bé gái nằm sau lò bếp phì cười. Mụ lại quay vào cầu nguyện, lần này nữa là lần thứ ba.

Pa-ven đứng dậy và đi ra ngay, chẳng đợi A-rơ- chom nữa. Khi anh ra khỏi, quay lại khép cổng, thì thấy mụ già còn ngó qua cửa sổ ở ngách nhà nhìn theo anh.

“Không hiểu thế quái nào mà ông A-rơ-chom lại chúi đầu vào đây. Rồi đến chết cũng không rút cũng ra được. Bà Schi-ô-sa rồi sẽ đẻ sòn sòn năm một. Ông A-rơ-chom rồi sẽ sa lầy vào đấy như con bọ hung trong đống phân. - Pa-ven chán ngán bước theo con đường vắng ngắt của thị trấn nhỏ, vừa đi vừa nghĩ ngợi. - Lo cho ông ấy có thể còn đổ đốn hơn nữa đến bỏ cả công việc ở sở đầu máy về nhà ở lỳ với vợ. Thế mà mình cứ định bụng lôi ông ấy đi công tác, đi hoạt động!”

Pa-ven sung sướng ngày mai được đi rồi, ngày mai trở về thành phố lớn, gặp lại bạn bè và những người mà anh yêu quý. Thành phố đồ sộ, sức sống tràn trề, vẻ náo nhiệt của dòng người không lúc nào ngớt, tiếng xe điện ầm ầm, tiếng còi xe hơi inh ỏi, tất cả hấp dẫn anh. Song, cái chính là anh cảm thấy tâm hồn anh bị thu hút bởi những lớp nhà rộng mênh mông, xây bằng gạch; Những công xưởng ám khói, các thứ máy móc và tiếng dây chuyền da lướt ngọt trên bánh xe. Anh bị hút về nơi có những bánh lái khổng lồ quay tít theo đà máy chạy hối hả về nơi có mùi đầu máy, về những thứ đối với anh đã trở thành thân thuộc. Ở đây trong cái thị trấn nhỏ lầm lì này, đi dạo chơi quanh ngoài phố, Pa-ven cảm thấy rất là khó thở. Thị trấn nhỏ này đối với anh trở nên xa lạ và chán ngấy, điều đó anh chẳng lấy làm ngạc nhiên. Anh chán ngấy đến nỗi ban ngày ra phố đi quanh cũng đủ thấy khó chịu. Mỗi khi đi ngang qua nhà những mụ lắm điều đang ngồi lê trên thềm nhà, Pa-ven nghe thấy các mụ nói liến thoắng huyên thiên.

- Các bà ơi, xem kìa. Cái thằng kia nó chui ở đâu ra mà trông rõ khiếp!

- Chắc nó là thằng ho lao, cái ngực sắp đi đời rồi.

- Nhưng cái áo ngoài của nó trông có vẻ đắt tiền đấy.

- Chắc nó xoáy ở đâu chứ gì...

Và chuyện các mụ cứ rặt như thế. Pa-ven nghe lắm, rác cả tai.

Từ lâu, anh thấy mình đã đứt rễ hẳn với nơi này. Thành phố lớn ngoài kia đối với anh gần gũi hơn, thân thiết hơn. Các đồng chí với anh là một gia đình bền chặt, vui tươi. Với lại, ngoài ấy, anh còn có công tác.

Pa-ven bước chân đến rừng thông từ lúc nào cũng không để ý đến nữa. Anh dừng lại ở chỗ đường rẽ đôi. Bên phía tay phải, sau hàng rào cao với những cọc nhọn hoắt, ngăn cách với rừng, là nhà pha cổ lỗ, âm u hình thù đáng ghét, và sau nhà pha là những nếp nhà quét vôi trắng của nhà thương.

Chính ở bãi rộng này đây, Va-li-a và các đồng chí đã bị treo cổ. Pa-ven đứng im lặng một lúc lâu trước nơi ngày trước đặt giá treo cổ. Rồi anh lần bước xuống lối hào sâu, lững thững đi ra huyệt chung của anh chị em ở trên gò.

Những bàn tay trìu mến đã đặt lên các ngôi mộ những vòng hoa kết bằng cành thông và rào quanh nghĩa địa nhỏ này một hàng rào cây lá tươi. Đỉnh gò có những cây thông cao vút trấn ngự. Cỏ non như tơ xanh phủ lên sườn gò thoai thoải.

Thị trấn nhỏ đến đây là hết phố. Cảnh vật nơi này tịch mịch, rầu rầu. Rừng thông hiu hắt. Không gian phảng phất mùi lá khô rữa và mùi đất mùa xuân nhuần lại.

Nơi đây, anh chị em ta đã anh dung hy sinh để cho cuộc đời cười được với những kẻ sinh ra trong cùng khổ, những kẻ từ thuở lọt lòng mẹ là đã bắt đầu kiếp làm trâu ngựa.

Pa-ven từ từ ngả mũ, lòng tràn ngập một mối buồn vô hạn.

Cái quý nhất của con người ta là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người. Và ta phải sống gấp lên mới được. Vì tật bệnh vô lý hay một sự tình cờ bi đát nào đó có thể bỗng nhiên cắt đứt cuộc đời.

Mang nặng trong lòng những ý nghĩ ấy, Pa-ven rời khỏi nghĩa địa.

Mẹ buồn rầu sửa soạn hành lý cho con lên đường. Pa-ven nhìn mẹ: Mẹ khóc nhưng quay mặt đi không để anh trông thấy.

- Con ở lại có được không, con? Con xem, mẹ già rồi. Cứ lủi thủi ở một mình thì khổ mẹ lắm, con ạ. Đấy, đẻ ra ngần ấy đứa con, nhưng chúng nó vừa lớn lên thì mỗi đứa đi một ngả. Cái gì nó kéo mày ra tỉnh thế, hở Pa-ven? Ở đây sống cũng được chứ sao? Hay mày cũng đã có món nào? Chắc mày đã phải lòng một con mái tóc ngắn nào rồi? Cấm đứa nào nói với mụ già này một câu. Thằng A-rơ-chom lấy vợ chẳng bảo qua tao một tiếng. Mày lại càng tệ nữa. Chỉ khi nào chúng mày ốm đau què quặt, mẹ mới được trông thấy mặt chúng mày thôi.

Mẹ dịu dàng bảo Pa-ven như thế, vừa nói vừa xếp mớ quần áo của con vào túi đã giặt sạch.

Pa-ven ôm lấy vai mẹ, kéo mẹ lại gần:

- Không đâu. Con chẳng có con mái nào đâu, mẹ ạ. Gà thì lấy gà có phải không mẹ. Mẹ gọi thế chẳng hóa ra con là gà sống à?

Anh làm mẹ phải bật cười.

- Mẹ ơi, con đã thề không nghĩ gì đến gái, nếu ta chưa diệt hết bọn tư sản trên khắp thế gian này. Chắc mẹ lại bảo như thế thì phải chờ lâu lắm phải không? Không đâu, mẹ ạ, bọn tư sản chẳng đứng được lâu nữa... Rồi tất cả loài người sẽ là một nước cộng hòa. Và các cụ ông, cụ bà già như mẹ đã suốt đời làm lụng thì sẽ được sang nghỉ bên Ý, ở đấy ấm áp, chung quanh toàn là biển cả. Ở bên nước Ý, không bao giờ có mùa đông, mẹ ạ. Chúng con sẽ đưa mẹ, những người già như mẹ, đến ở trong những dinh cơ của bọn tư sản, và mẹ sẽ ngồi sưởi nắng ấm. Còn chúng con, chúng con sẽ đi sửa nốt bọn tư sản bên Mỹ.

- Con ạ, mẹ chẳng còn sống được đến ngày có câu chuyện tiên phật của con đâu... Ông con xưa kia cũng ngỗ ngược như con, ông làm thủy thủ, đi khắp năm châu bốn biển. Nói trộm vía ông, cụ thật là tay ghê gớm. Trận Xê-va-xtô-pôn, cụ đánh hăng thế nào mà khi về nhà thì thấy cụ thiếu một chân một tay. Người ta gắn cho cụ hai huân chương thập tự và hai mề đay có cuống của Nga hoàng. Nhưng rồi ông cụ cũng chỉ chết cực chết khổ. Cụ bướng lắm. Một lần cụ vác nạng nện vào đầu người Nhà nước. Thế là bị tù một năm. Người ta tống vào nhà pha, huân chương thập tự cũng chả cứu thoát được. Mẹ thấy tính con dễ thường theo về tính ông ngày trước.

- Mẹ ơi, con sắp xa mẹ, mẹ nói chuyện không vui ấy làm gì? Thôi, mẹ đưa cho con cái đàn gió, đã lâu lắm con chẳng mó đến nó.

Pa-ven cúi xuống hàng phím bọc xà cừ. Mẹ sửng sốt vì tiếng đàn của anh lạ đi, nghe không như ngày trước nữa. Hết vẻ ngỗ nghịch vô tư lự, chất hăng say xốc nổi, những ngón láy và ngón đệm mà cả thị trấn đều biết tài tay chơi đàn gió trẻ tuổi Pa-ven. Nhạc anh chơi bây giờ thánh thót, trầm bổng, nghe không kém phần mạnh mà càng thêm có chiều sâu nữa.

Pa-ven ra ga một mình.

Anh đã nói được cho mẹ ở lại nhà: Anh không để mẹ đi tiễn vì không muốn thấy mẹ khóc khi chia tay.

Xe lửa phải xông xáo mà lên, toa nào toa ấy đứng ngồi chen chúc. Pa-ven chiếm giường trên tầng cao nhất và nhìn xuống đám người hầm hầm la lối đứng chật cả chỗ đi.

Cảnh chuyến tàu nào cũng vậy, người ta kéo những bao, những túi lê sền sệt, nhét vào dưới gầm ghế.

Đến khi tàu chuyển bánh, hành khách mới bớt nóng nảy, và bao giờ cũng thế, cứ đến lúc này thì người ta bắt đầu giở bánh ra ăn nghiến ngấu.

Pa-ven chẳng mấy chốc đã ngủ lăn.

Nhà đầu tiên anh muốn đến thăm ở trung tâm thành phố, trên đường lớn Ca-rét-sa-tích. Anh từ từ leo lên thang cầu. Cảnh chung quanh quen mắt, chẳng có gì khác cả. Anh bước qua cầu nhà ga, để tay lướt trên thành cầu nhẵn trơn. Đến chỗ xuống thang, anh dừng lại: Trên cầu vắng ngắt. Ngửa trông lên cao thăm thẳm, bóng tối mượt như nhung phủ lấy nền trời.

Trên vòm trời cao, hằng hà sa số vì sao lấp lánh ánh sáng màu lân tinh. Ở phía dưới, chỗ mặt đất lẫn với chân trời, không biết đâu là ranh giới, thành phố rắc trong đêm hàng triệu ánh đèn điện.

Có đông người đi lên qua mặt Pa-ven. Tiếng nói gay gắt của đám người tranh cãi nhau một câu chuyện gì phá sự yên tĩnh của đêm tối. Và Pa-ven, mắt rời những ánh đèn của thành phố, bước xuống thang.

Trong phòng phát giấy của Ủy ban đặc biệt quận ở đường Cơ-rét-sa-tích, người phụ trách cho Pa-ven biết là Giu-khơ-rai đã đổi đi tỉnh khác từ lâu.

Đồng chí đó hỏi đi hỏi lại Pa-ven; Mãi đến khi đã tin là Pa-ven có quen riêng Giu-khơ-rai, mới cho biết qua loa thêm. Cách đây hai tháng, Giu-khơ-rai được lệnh điều đi Ta-sơ-ken, đến công tác ở mặt trận Tuốc- kết-stan. Pa-ven nghe tin chán đến nỗi không buồn hỏi thêm nữa. Chẳng nói chẳng rằng, anh quay gót đi ra. Mệt quá, anh ngồi xuống bậc cửa nghỉ một lát.

Tàu điện chạy qua, bánh xe sắt lăn rầm rầm vang cả phố. Trên các vỉa hè dòng thác người lũ lượt tràn đi. Náo nhiệt quá! Lúc thì có tiếng cười rúc rích của đàn bà, lúc thì giọng trầm trầm của đàn ông, lúc thì giọng lanh lảnh của một chàng trai trẻ măng, lúc thì giọng ồ ồ của ông già. Làn sóng người trôi đi không lúc nào ngớt, ai nấy dáng dấp vội vàng. Xe điện sáng trưng, đèn pha xe hơi rọi lên đột ngột, hàng điện bật lên chói rực quanh biển quảng cáo của rạp chiếu bóng bên cạnh. Và chỗ nào cũng là đám đông ngồn ngộn, làm cho phố xá không lúc nào vắng tiếng huyên náo. Đấy là buổi tối ở một thành phố lớn.

Cảnh tấp nập ồn ào của đại lộ này làm Pa-ven khuây khỏa nỗi buồn vì tin Giu-khơ-rai đã được điều động đi nơi khác. Biết đi đâu bây giờ? Hay về phố Xô-lô- men-ca với lũ bạn? Xa quá! Và anh nhớ ra một nhà quen ở gần đây, ngay phố Trường đại học Cơ-rúc-lô. Phải đến ngay đấy mới được.. Bởi vì sau Giu-khơ-rai thì Ri-ta chính là đồng chí mà anh muốn gặp trước tiên. Vả chăng, đến đây, có thể ngủ buồng A-kim được.

Từ xa, anh đã nhìn thấy ánh đèn sáng ở cửa sổ trên tầng gác. Để trấn tĩnh lòng mình, anh áp người vào cánh cửa gỗ sên. Lên đến cầu thang, lại đứng dừng mấy giây nữa. Trong buồng Ri-ta, có tiếng người nói chuyện, có tiếng đàn ghi-ta.

“Tiếng đàn ghi-ta? Thế ra được chơi cả ghi-ta nữa kia à? Chế độ bây giờ có vẻ nới ra tợn”. Pa-ven nghĩ bụng như vậy và khẽ gõ cửa buồng. Cảm thấy mình hồi hộp, anh cắn chặt môi.

Một người đàn bà trẻ lạ mặt, có để tóc mai quăn, ra mở cửa. Người ấy nhìn Pa-ven:

- Anh hỏi ai?

Người đàn bà không khép cửa, và trông cách Pa- ven đưa mắt nhìn vào đồ đạc trong buồng, chị ta cũng đủ đoán hiểu ý.

- Tôi muốn hỏi chị Ri-ta Uốt-chi-nô-vích.

- Chị ấy không ở đây nữa. Hồi tháng Giêng chị ấy đổi đi Khác-cốp và giờ nghe đâu lại đổi đi Mát-xcơ-va.

- Thế đồng chí A-kim còn ở đây hay cũng đi rồi?

- Đồng chí A-kim cũng không có đây, hiện nay đồng chí ấy làm bí thư thanh niên cộng sản ở Ô-đét-xa.

Pa-ven chỉ có cách là quay đi. Niềm vui trở về thành phố thế là mờ mất rồi..

Giờ thì phải liệu lo đi tìm chỗ ngủ đêm thôi.

“Cứ chạy quanh tìm các bạn thân như thế, mình có mỏi nhừ chân cũng chẳng thấy ai”.

Pa-ven càu nhàu, cau có, cố nén thất vọng. Tuy nhiên, anh cũng còn cầu may chuyến nữa, đến tìm Pan-cơ-ra-tốp. Pan-cơ-ra-tốp ở gần bến tàu, đến cậu ấy không xa bằng đi đến phố Xô-lô-men-ca.

Tìm đến được nhà Pan-cơ-ra-tốp thì người anh đã mệt nhoài. Anh gõ cánh cửa trước kia có hồi sơn đỏ, định bụng: “Nếu cậu ta cũng đi nơi khác nốt rồi thì mình chẳng đi đâu lang thang mãi nữa. Tìm béng cái thuyền nào chui xuống ngủ qua đêm nay thôi”.

Một bà cụ nhỏ nhắn, đội vuông khăn giản dị chít dưới cằm, ra mở cửa. Bà cụ là mẹ Pan-cơ-ra-tốp.

- Thưa mẹ, anh Pan-cơ-ra-tốp có nhà không ạ?

- Em nó vừa mới về.

Bà cụ không nhận ra Pa-ven và quay vào gọi con:

- Pan-cơ-ra-tốp ơi, có anh nào hỏi con đấy.

Pa-ven bước theo bà cụ vào nhà, đặt túi xuống đất. Pan-cơ-ra-tốp đã ngồi vào ăn ở bàn, quay ra nhìn Pa-ven:

- Có phải anh hỏi tôi thì mời anh ngồi chơi và cho biết có việc gì. Anh cho tôi làm nốt bát xúp này vì từ sáng, tôi chỉ độc nốc nước lã trừ bữa.

Và Pan-cơ-ra-tốp cầm lấy cái thìa gỗ to tướng.

Pa-ven ngồi xuống ghế dựa, mặt ghế đã thủng.

Anh bỏ mũ cát-két ra rồi theo thói quen lấy mũ lau mồ hôi trán.

“Chẳng lẽ mặt mũi mình thay đổi đến nỗi cậu ta không nhận ra được mình nữa ư?”

Pan-cơ-ra-tốp húp luôn hai thìa xúp, rồi thấy khách chưa nói gì, liền quay ra hỏi khách lần nữa.

- Anh nói cho nghe đi. Có chuyện gì thế anh?

Bàn tay cầm mẩu bánh chưa đưa tới mồm đã dừng lại nửa chừng, Pan-cơ-ra-tốp bàng hoàng chớp chớp mắt.

- Ô kìa... Hãy khoan... Thế này là thế nào, hở trời?

Thấy mặt bạn đỏ bừng, rúm lại vì nghĩ lung, Pa- ven không nhịn được nữa, phì cười.

- Páp-ca ơi! Chúng tao ngỡ mày chết rồi!... Hãy khoan! Tên anh là gì?

Nghe Pan-cơ-ra-tốp kêu rú lên, mẹ và chị gái anh ở buồng bên chạy ra. Rồi cuối cùng cả ba người nắm chắc là chính Pa-ven đang ngồi trước mặt họ.

Cả nhà đã ngủ lâu rồi, Pan-cơ-ra-tốp còn ngồi kể mãi những việc xảy ra trong bốn tháng qua.

- Mùa rét vừa rồi, Giác-ki và Đu-ba-va được đi Khác-cốp. Chẳng phải công tác vớ vẩn đâu. Tụi nó được vào Đại học cộng sản, học lớp dự bị. Tất cả mười lăm đứa được triệu tập đến. Lúc bấy giờ, có phong trào sôi nổi đòi đi học, tao cũng làm đơn. Tao nghĩ bụng: Mình phải ních thêm vào cái túi khôn của mình, vì trong đầu mình hiểu biết ít ỏi quá. Nhưng tiểu ban lấy học sinh cho tao rơi, mày ạ.

Pan-cơ-ra-tốp thở ra bực dọc, rồi nói tiếp:

- Mới đầu, việc tao có vẻ trôi chảy lắm. Tao đủ hết tiêu chuẩn: Tao có thẻ đảng viên, tao đã đủ thời hạn công tác dự bị ở Đoàn; Về thành phần xuất thân và bản thân, không có gì lôi thôi, tao không vấp vì những cái đó. Nhưng khi sát hạch tao về chính trị thì tao bị bương.

Tao vào vấn đáp trước một đồng chí trong tiểu ban. Đồng chí ấy ra cho tao câu hỏi hóc này: “Đồng chí Pan-cơ-ra-tốp, đồng chí hiểu gì về triết học thì nói đi”. Mày biết tao thì hiểu quái gì về triết học. Nhưng tao nhớ ra, có một thằng cha khuân vác trước kia cùng làm với chúng tao, một thằng giang hồ có đi học lít-xê lít xiếc. Nó đi làm cho ra vẻ ta đây lao động ấy mà. Nó có lần kể cho chúng tao nghe, xưa kia ở bên nước Hy Lạp, có những nhà thông thái nghĩ ra nhiều cái lắm. Người ta gọi họ là những nhà triết học. Trong những tay triết học loại đó, có một tay tao quên khuấy mất tên, hình như là I-đê-ô-ghen thì phải, tay này suốt đời chui trong cái thùng tô-nô ở và đại khái những chuyện như thế.. Giỏi nhất đám triết học ấy là một tay có thể chứng minh bốn mươi lần liền: Cái gì đen là trắng, và ngược lại, trắng là đen. Nói tóm lại là một bọn nghĩ cách úm người ta. Vì vậy cho nên lúc bấy giờ tao mới nghĩ đến câu chuyện thằng học trò lít-xê kể và tao tự bảo: “Tay ủy viên tiểu ban này định quay mình đây”. Mà lão ta ngồi đấy nhìn tao ranh mãnh thật. Cho nên tao mới sa chân vào đĩa. Tao nói: “Triết học là trò bịp đời và nhồi sọ. Tôi không ưa học gì những của ngớ ngẩn ấy, các đồng chí ạ! Còn lịch sử Đảng thì khác, tôi để hết tâm trí nghiên cứu lịch sử Đảng”. Tao nói thế xong thì các tay trong tiểu ban mới truy tao thêm, hỏi vặn tao học ở đâu mà hiểu triết học như thế. Tao mới nói thêm mấy điều nữa mà thằng học trò lít-xê đã nói với tao. Thế là cả tiểu ban lăn ra cười. Tao phát cáu. Tao bảo rằng: “Có cái gì mà các đồng chí nhạo báng tôi như chế thằng ngu thế?” Tao nhặt lấy mũ và đi ngay về nhà.

Sau đó, đồng chí đã hỏi tao lại gặp tao ở tỉnh ủy. Nói chuyện ba tiếng đồng hồ liền. Tao mới hiểu ra thằng học trò lít-xê nói lòe chúng tao. Bởi vì tao nghe nói thì ra triết học một sự vĩ đại và rất là tinh anh sáng suốt.

Thằng Đu-ba-va và thằng Giác-ki thì trúng. Thằng Đu ba-va thì tao chịu nó, nó học ra trò. Song còn Giác- ki thì chẳng hơn tao mấy. Nó nhờ cái huân chương mà thoát, nhất định là như thế. Nói tóm lại tao lại quay về làm ăn với sông nước. Tao được chỉ định về ban quản lý bến tàu. Tao thay đồng chí phụ trách ke bốc hàng. Trước kia cả ngày tao to tiếng với chính quyền về một đống vấn đề dính dáng đến Đoàn. Nay chính tao phải lãnh đạo cái khoản ấy. Thỉnh thoảng xảy đến như thế này: Có tên nào giả ốm, hay tên nào nhác rơi vào tay tao, tao vừa lấy cương vị phụ trách chính quyền, vừa lấy cương vị bí thư chi đoàn đì cho cẩn thận. Song, cuộc đời không phải chỉ có tao, xin lỗi mày nhé. Tao sẽ kể về tao sau. Còn cái gì tao chưa kể cho mày nghe nữa nhỉ? Về tin tức A-kim, mày đã hỏi thăm được rồi. Các chấp ủy cũ, còn lại có Túp- ta, vẫn làm công tác cũ. Tô-ca-rếp thì bí thư Đảng ủy Xô-lô-men-ca, Ô-cu-nhếp trước cũng ở tổ công xã với mày thì ở quận đoàn thanh niên. Ta-li-a thì làm giảng viên chính trị. Svê-tai-ép thay chân mày ở xí nghiệp. Tao không biết nó lắm. Thỉnh thoảng gặp ở tỉnh đoàn, trông không đụt đâu, nhưng tự ái ra dáng. Mày nhớ An-na Bô-khác chứ? Cô ấy cũng ở Xô-lô- men-ca, phụ trách công tác phụ vận ở quận ủy. Tao đã kể hết cho mày nghe về tin tức các cậu quen. Đấy mày xem, Đảng cho nhiều cậu đi học. Hiện nay ở đây tất cả cán bộ cũ đang cày khỏe ở Trường Đảng. Trên hứa sang năm cũng cho tao theo học ở đấy.

Hai người mải chuyện, quá nửa đêm lâu rồi mới ngủ. Sáng hôm sau, Pa-ven dậy thì Pan-cơ-ra-tốp đã ra bến tàu. Em gái Pan-cơ-ra-tốp là Đu-xi-a, một cô gái to khỏe giống anh như đúc, bưng nước chè mời Pa-ven uống và nói đến mọi chuyện vặt. Cha Pan- cơ-ra-tốp không có nhà. Ông cụ làm thợ máy trên tàu thủy, còn đang ngược tàu.

Pa-ven sửa soạn ra phố. Sắp đi, Đu-xi-a dặn lại:

- Nhớ về ăn cơm, anh nhé. Nhà em chờ cơm anh đấy.

*

Trụ sở tỉnh đoàn thanh niên thường vẫn tấp nập. Cửa mở ra rồi lại đóng sập vào luôn tay. Trong hành lang và các buồng, người chờ đông; Phòng hành chính, tiếng máy chữ gõ inh tai.

Pa-ven dừng lại ngoài hiên một lát, ngó vào hy vọng gặp mặt nào quen. Chẳng thấy ai, anh mới đi vào phòng đồng chí bí thư. Đồng chí bí thư mặc sơ- mi xanh, ngồi trước một bàn giấy đồ sộ. Pa-ven vào, đồng chí ấy chỉ nhìn qua, rồi lại cúi xuống viết.

Pa-ven ngồi đối diện và chăm chú nhìn người bí thư thay chân A-kim ấy.

Đồng chí bí thư đánh dấu chấm hết lên trang giấy anh đang viết và hỏi Pa-ven:

- Đồng chí muốn gì?

Pa-ven trình bày trường hợp của mình:

- Phải cải tử hoàn sinh cho tôi trên danh sách tổ chức của Đoàn và cho tôi trở lại phân xưởng chính nhà máy xe lửa. Đề nghị đồng chí chỉ thị cho bên tổ chức như vậy.

Đồng chí bí thư ngả người dựa vào ghế và trả lời, giọng lưỡng lự.

- Tất nhiên chúng tôi sẽ khôi phục đoàn tịch cho đồng chí, điều đó không còn phải nói gì nữa. Nhưng điều đồng chí về phân xưởng chính nhà máy xe lửa thì không tiện. Svê-tai-ép đang phụ trách ở đấy, cậu ấy là chấp ủy viên tỉnh đoàn mới bầu lại khóa vừa rồi. Chúng tôi sẽ điều đồng chí đi nơi khác vậy.

Mắt Pa-ven hơi nhíu lại:

- Tôi về đấy không phải để làm khó cho công tác của đồng chí Svê-tai-ép đâu. Tôi muốn về làm chuyên môn của tôi, chứ không phải làm bí thư chi đoàn. Với lại trong người tôi chưa được khỏe, đề nghị đừng điều tôi đi nơi khác.

Đồng chí bí thư gật đầu, ghi mấy chữ vào mảnh giấy.

- Đồng chí đưa mảnh giấy này cho Túp-ta, cậu ta sẽ bố trí cho đâu vào đấy.

Bên phòng cán bộ, Túp-ta đang mắng như tát nước người giúp việc thống kê của mình. Pa-ven nghe hai bên cãi nhau nửa phút, nhưng thấy câu chuyện có vẻ kéo dài, liền ngắt lời anh chàng Túp-ta đang nóng như lửa:

- Thôi, cậu sẽ chỉnh đồng chí ấy sau. Đây là giấy giới thiệu, cậu làm hộ giấy chính thức cho mình đi.

Túp-ta hết nhìn giấy lại nhìn Pa-ven. Sau cùng mới nói ra lời:

- Sao, cậu chưa chết à? Vậy làm thế nào bây giờ? Tên cậu đã gạch khỏi danh sách rồi. Chính mình gửi trả Trung ương thẻ đoàn viên của cậu. Với lại vừa rồi Trung ương mới lấy lại danh sách đoàn viên cả nước. Theo thông tri của Trung ương Đoàn, ai không ghi tên lại thì coi như bị khai trừ. Cậu chỉ còn có cách nộp đơn xin gia nhập đoàn lại, theo đúng những quy định thường lệ.

Túp-ta tuyên bố thẳng cánh như vậy. Pa-ven cau mặt lại:

- Vậy ra cậu ta vẫn chứng nào tật ấy. Cậu còn trẻ mà tệ hại hơn một con chuột già rúc trong đống công văn. Bao giờ cậu mới ra hồn người được?

Túp-ta chồm lên, như bị rệp đốt:

- Cậu đừng lên lớp đây. Đây phụ trách công việc đây làm. Thông tri thảo ra không phải để cho người ta vi phạm nó. Còn cậu gọi đây là chuột già thì cậu sẽ phải trả lời về câu phỉ báng đó.

Túp-ta nói câu sau này có vẻ hăm dọa. Hắn đưa rộng tay vơ lấy chồng phong bì chưa mở: Thái độ tỏ vẻ không muốn nói chuyện thêm nữa.

Pa-ven thong thả đứng dậy ra cửa. Chợt nghĩ lại điều gì anh quay trở vào nhặt mảnh giấy đồng chí bí thư giới thiệu còn để trên bàn trước mặt Túp-ta. Túp-ta nhìn Pa-ven. Ông cụ non cáu kỉnh và tỉ mẩn ấy có đôi tai to vểnh ra, trông vừa đáng ghét, vừa buồn cười.

- Thôi được, kết tội đây là “làm đảo lộn thống kê” thì cứ kết tội, nhưng đây hỏi lại: Tại sao cậu lại dám thi hành kỷ luật một người đã chết mà cứ tự tiện, không có giấy tờ văn bản nào quyết định trước hẳn hoi? Trường hợp này có thể xảy ra với tất cả mọi người: Người ta ốm rồi chết. Nhất định không có thông tri nào cho phép cậu làm như thế.

- Hì, hì, hì - Người giúp việc Túp-ta không thể giữ trung lập được mãi nữa, bật lên cười thích chí.

Túp-ta ấn gãy đầu bút chì. Hắn cầm mầu chì gãy ném xuống sàn, chưa kịp trả lời đối phương, thì người đông đã kéo ùa vào phòng, cười nói bô bô. Trong bọn mới vào có Ô-cu-nhếp. Thế là chỉ còn nghe thấy những tiếng reo vui và sửng sốt, những câu hỏi không bao giờ hết. Vài phút sau, lại một đám thanh niên nữa vào trong bọn đó có Ôn-ga. Chị nắm lấy tay Pa-ven rất lâu, ngạc nhiên, nhưng tươi sáng hẳn lên.

Người ta lại bắt Pa-ven kể chuyện lại. Nguồn vui thật thà của những đồng chí, tình bạn chân thành, lòng mến thương thông cảm, những nắm tay chặt, những bàn tay vỗ lên vai, chắc nịch và thân ái, tất cả làm Pa-ven quên hẳn chuyện Túp-ta.

Gần cuối, Pa-ven kể thêm cho các đồng chí nghe câu chuyện giữa mình và Túp-ta vừa rồi. Ai cũng tức giận. Ôn-ga quắc mắt lườm Túp-ta, rồi đi đến phòng đồng chí bí thư.

- Cánh ta đi tìm đồng chí Nhê-giơ-đa-nốp để đồng chí ấy cạo cho hắn một mẻ.

Ô-cu-nhếp nói thế và choàng lấy vai Pa-ven kéo đi theo Ôn-ga cùng với đám đông các đồng chí. Ôn-ga nóng giận bừng bừng:

- Túp-ta này quan liêu hạng nặng! Phải truất cổ hắn khỏi ban tổ chức và điều đến chỗ Pan-cơ-ra-tốp cho làm nghề khuân vác lấy một năm mới được.

Ô-cu-nhếp, Ôn-ga và các đồng chí khác đòi đuổi cổ Túp-ta khỏi phòng cán bộ. Đồng chí bí thư nghe họ nói, cười độ lượng. Nhê-giơ-đa-nốp cố làm cho Ôn- ga nguôi giận:

- Về việc khôi phục quyền lợi sinh hoạt Đoàn cho Pa-ven thì chẳng cần phải nói lại nữa. Sẽ phát ngay thẻ đoàn viên cho cậu ta. Còn như Túp-ta là một anh chàng máy móc thì rất đồng ý với các đồng chí như thế. Đấy là khuyết điểm chính của cậu ấy. Nhưng cũng phải thú thật với các đồng chí rằng cậu ấy tổ chức công việc rất khá. Trong tất cả những cơ quan lãnh đạo của Đoàn mà tôi đã làm từ trước đến nay, công tác tổ chức và thống kê này thật rắc rối như chui vào rừng rậm vậy. Chẳng còn biết tin vào con số nào. Nhưng ở đây thì làm thống kê rất tốt. Các đồng chí cũng biết Túp-ta thức suốt đêm hì hục làm ở bàn giấy. Cho nên ý kiến tôi là các đồng chí muốn cất chức cậu ấy thì cất chức lúc nào cũng được. Song lấy một cậu khác tốt mà làm thống kê tồi thay hắn ta thì không còn tình trạng quan liêu, điều đó đã hẳn đi rồi, nhưng đồng thời thống kê cũng sẽ không ra đâu vào đâu. Vậy cứ nên để cho cậu ấy làm. Tôi sẽ phê bình thật lực cậu ấy. Sẽ có tác dụng tốt đối với cậu ấy trong một thời gian. Rồi có thế nào, sau này sẽ hay.

- Thôi, thế cũng được. - Ô-cu-nhếp gật đầu rồi nói với Pa-ven: - Pa-ven, ta về Xô-lô-men-ca đi. Hôm nay có họp đoàn ở câu lạc bộ chúng mình. Chưa ai biết cậu về. Rồi bất thình lình, ta giới thiệu: “Xin nhường lời cho Pa-ven!”. Hoan hô Pa-ven. Mày không chết là phải lắm. Giai cấp vô sản mạnh thêm vì cái cẳng mày. - Ô-cu-nhếp kết luận một cách khôi hài như vậy và lấy hai tay ôm lấy Pa-ven đẩy ra hành lang.

- Ôn-ga cũng đến đấy chứ?

- Nhất định đến chứ!

*

Nhà Pan-cơ-ra-tốp đợi mãi không thấy Pa-ven về ăn cơm. Đêm cũng không thấy về ngủ. Ô-cu-nhếp đã đưa Pa-ven về ở nhà mình. Anh có một phòng riêng ở trụ sở Xô-viết. Về đến nhà, có gì là cho bạn ăn nấy, rồi mang đến cho Pa-ven hai bó báo và hai quyển sổ cái - sổ ghi biên bản các buổi họp của thường vụ quận đoàn thanh niên. Anh bảo bạn:

- Cậu nghiên cứu tất cả những tài liệu này đi. Trong khi cậu mất thời giờ với bệnh thương hàn của cậu thì thời gian như nước chảy đi đã nhiều rồi đấy! Đọc đi để hiểu việc đã qua và việc trước mắt. Tối mình về đón cậu rồi cùng đến câu lạc bộ. Nếu mệt thì cứ ngả lưng làm một giấc.

Người bí thư quận đoàn thanh niên nhét vội một đống thư với tài liệu và giấy chứng nhận vào túi, (Ô- cu-nhếp ghét những cặp da, cặp của anh quẳng ở gậm giường), rồi đi quanh phòng xem lại một lượt trước khi ra cửa.

Tối đến, anh về thì thấy khắp phòng báo chí tung bừa bãi, đống sách để dưới gầm giường cũng bị lôi ra. Nhiều quyển khác chất trên bàn làm việc. Pa-ven ngồi trên giường đọc tập thư của Trung ương mới gửi đến mà anh tìm thấy dưới gối của bạn.

- Thằng tướng cướp, mày lục gì cái ổ của tao thế?- Ô-cu-nhếp làm bộ quát lên, giả vờ tức giận. - Xem nào, xem nào, đồng chí! Tôi bắt được đồng chí đọc tài liệu mật. Cứ để cho quân này chui vào buồng mình thì có ngày hỏng!

Pa-ven mỉm cười, để lá thư xuống.

- Cậu nhỡ tàu rồi. Thư này có gì mà mật. Trái lại, chính cậu lấy tài liệu riêng tối mật làm chao đèn kia kìa. Trông xem! Bị sém cả rìa nữa là khác.

Ô-cu-nhếp cầm lấy tờ giấy đã bị làm chao đèn đó, anh vừa đọc qua tiêu đề đã lấy tay vỗ lên trán:

- Thế mà mình tìm mãi ba hôm nay cái mảnh giấy tai ác này. Nó biến mất, tưởng rơi xuống sông, xuống biển, giờ mình nhớ ra rồi. Hôm kia, thằng Vô-lưn- xếp đến đây, chính là nó máy tay lấy làm chao đèn. Rồi nó lại quần quật đi tìm.- Ô-cu-nhếp gấp mảnh giấy lại cẩn thận rồi đút xuống dưới đệm, nói giọng không lo nữa - Thôi chốc nữa hãy xếp dọn lại. Giờ chén một miếng đã rồi còn đi ra câu lạc bộ. Nào Pa- vơ-lu sa, ngồi xuống đây.

Ô-cu-nhếp ngồi vào bàn, hàm nhai nghiến ngấu. Rất vui, anh kể tin mới cho Pa-ven nghe, vừa nói chuyện đứng đắn, vừa chêm câu bông đùa.

Đến câu lạc bộ, Ô-cu-nhếp đưa Pa-ven vào cửa sau, giấu ở hậu trường. Trong góc phòng rộng thênh thang, Ta-li-a con cụ La-gu-chin và An-na Bô-khác đang ngồi mé bên phải sân khấu, cạnh chỗ đặt cây đàn dương cầm, chung quanh hai chị là nhóm thanh niên cộng sản đường sắt. Trước mặt An-na, ngồi vắt vẻo trên ghế dựa là Vô-lưn-xép, bí thư chi đoàn sở đầu máy, mặt đỏ chót như một quả táo đang mùa tháng Tám, mặc áo da cũ, trước kia màu đen, nay đã bạc phếch.

Vô lưn-xép có tóc và lông mày vàng như lúa chín. Ngồi cạnh Vô-lưn-xép là Svê-tai-ép, đẹp trai, tóc màu hạt dẻ, môi cong rõ nét, ngồi thơ thẩn dựa tay vào nắp dương cầm. Cổ áo khoác của Svê-tai-ép để hở.

Ô-cu-nhếp đến gần họ, còn nghe thấy An-na đang nói hết câu:

- Có những người cứ muốn làm rắc rối quá lắm việc kết nạp những đồng chí mới. Svê-tai-ép là một.

Svê-tai-ép không chịu, cãi lại, giọng khinh bạc ra mặt:

- Đoàn không phải là quán trọ.

Ta-li-a nhìn thấy Ô-cu-nhếp reo lên:

- Kìa, trông Ô-cu-nhếp mà xem. Anh ấy hôm nay có vẻ phởn thế, mặt mày rạng rỡ như cái ấm đồng mới đánh bóng ấy.

Mấy người kéo Ô-cu-nhếp lại hỏi chuyện tới tấp:

- Cậu ở đâu đến thế?

- Ta bắt đầu đi thôi chứ.

Ô-cu-nhếp giơ tay can họ.

- Đợi một tí các cậu ạ. Đồng chí Tô-ca-rếp sắp đến và sẽ khai mạc hội nghị.

- Vừa vặn bố già đến kia rồi! - An-na trông thấy Tô-ca-rếp, vội nói.

Đồng chí bí thư Đảng ủy quận đang đi về phía họ. Ô-cu-nhếp chạy ra đón:

- Bố ơi, bố vào đằng sau sân khấu, tôi đưa bố gặp một cậu quen bố. Chắc là bố sẽ ngạc nhiên!

- Cái gì nữa thế? - Ông già lẩm bẩm, kéo nốt hơi thuốc lá nữa. Nhưng Ô-cu-nhếp đã nắm lấy tay ông cụ kéo đi rồi.

Ô-cu-nhếp lắc chuông dữ dội đến nỗi những người hay chuyện xấu thói nhất cũng phải tin.

Đằng sau Tô-ca-rếp là pho tượng Mác, người sáng tạo thiên tài ra bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, đầu Người như đầu con sư tử nổi lên trong đám cành thông trang trí. Trong khi Ô-cu-nhếp nói lý do buổi họp, đồng chí Tô-ca-rếp không rời mắt nhìn Pa-ven còn đứng ở hậu trường.

- Thưa các đồng chí, trước khi vào chương trình nghị sự, tôi xin giới thiệu một đồng chí muốn xin nói mấy lời với chi bộ. Đồng chí Tô-ca-rếp và tôi đã đồng ý để đồng chí ấy nói.

Tiếng vỗ tay đồng ý nổi lên. Ô-cu-nhếp giới thiệu:

- Xin mời đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin nói chuyện!

Trong một trăm người có mặt, có đến tám mươi người biết Pa-ven. Và khi bóng dáng quen thuộc hiện ra trước diễn đàn và người thanh niên xanh xao, dong dỏng cao, bắt đầu nói thì những tiếng reo vui mừng và một tràng dài vỗ tay hoan hô như bão dậy chào anh.

- Các đồng chí thân mến! Giọng Pa-ven từ tốn song không sao giấu nổi cảm động: - Không ngờ hôm nay tôi được trở lại với các đồng chí, trở về vị trí của tôi trong đội ngũ của chúng ta. Tôi sung sướng lắm. Tôi được gặp lại ở đây rất nhiều bạn thân của tôi. Tôi ở nhà Ô-cu-nhếp được đọc báo cáo biết rằng: Khu Xô-lô-men-ca ta có thêm một phần ba đoàn viên mới, những anh chị em mới của chúng ta; Ở các xưởng và ở sở đầu máy thì bọn “chế tạo bật lửa” đã không còn nữa và ta đã lôi những đầu tàu vứt đi ngoài “nghĩa địa sắt” về chữa lại dùng. Tất cả điều đó chứng tỏ đất nước chúng ta đang sống lại và đang lấy lại sức. Như thế thì đời đáng sống lắm chứ! Giữa lúc thế này, hỏi tôi nhắm mắt mà chết làm sao được?

Đôi mắt Pa-ven long lanh nét cười sung sướng.

Khi Pa-ven đi xuống, lại ngồi gần An-na và Ta- li-a thì tiếng hoan hô nồng nhiệt cứ kéo dài tiễn theo anh mãi. Anh đưa tay ra bắt vội vàng hết người này đến người khác. Các bạn ngồi xít lại nhường chỗ cho anh. Bàn tay của Ta-li-a đặt lên bàn tay anh, nắm rất chặt, rất chặt.

An-na tròn mắt nhìn anh, hàng mi dài khẽ mấp máy, cái nhìn niềm nở có một cái gì đó sửng sốt.

*

Ngày qua ngày trôi đi. Không thể nào gọi là những ngày bình thường được. Mỗi ngày mang lại một cái gì mới. Sáng dậy, định chương trình làm việc hằng ngày, Pa-ven buồn rầu nhận thấy ngày có phần ngắn quá và công việc anh định làm, nhiều việc đến không xong mất.

Pa-ven trọ ở nhà Ô-cu-nhếp và làm chân phụ lắp máy điện ở xưởng.

Anh phải bàn cãi rất lâu với Ô-cu-nhếp: Ô-cu-nhếp nhất định không đồng ý để Pa-ven, dù tạm thời đi nữa, không tham gia công tác lãnh đạo.

- Chúng ta đang thiếu người mà cậu lại muốn thảnh thơi dưới xưởng. Cậu đừng viện bệnh cậu ra nữa. Mình đây mình cũng bị sốt thương hàn, vừa ốm dậy, mệt suốt một tháng trời, nhưng mình chống gậy đến quận đoàn làm việc. Mình biết tính cậu, chắc còn có lý do gì chính nữa, chứ chẳng phải tại bệnh đâu. - Và Ô- cu-nhếp hỏi dồn Pa-ven: - Thật thế nào, nói cho mình nghe đi.

- Cậu đoán không lầm: Sự thật là mình muốn có thời giờ học thêm.

Ô-cu-nhếp đắc chí, nói oang oang:

- A, a!... Ra thế đấy! Cậu muốn học. Thế cậu cho mình là không muốn học hay sao? Như thế là ích kỷ, ông bạn già của tôi ạ! Nếu thế thì hóa ra chúng mình công tác như đẩy xe bò, còn cậu thì học. Không được, chú mình ạ. Ngay sáng mai, cậu phải đến ban tổ chức.

Song, bàn cãi hồi lâu. Ô-cu-nhếp cuối cùng đã phải nhân nhượng:

- Thôi được, mình để cậu yên trong hai tháng, không đụng đến. Cậu biết thế là mình tốt bụng đấy! Nhưng theo mình nghĩ, cậu có lẽ không ăn ý với Svê-tai-ép đâu: Thằng cha ấy hợm mình quá lắm.

Pa-ven lại về xưởng. Svê-tai-ép lấy làm nghi ngại. Hắn đinh ninh cho là Pa-ven về xưởng thế nào cũng xảy ra tranh chấp về lãnh đạo với hắn. Vốn tự ái thành bệnh, hắn liền chuẩn bị đối phó. Nhưng, ngay những ngày đầu, hắn đã thấy ra ngay là hắn nghi ngại không đâu. Khi Pa-ven được tin anh em định cử mình vào thường vụ Đoàn thì anh thân đến ban bí thư ngay và viện cớ đã được Ô-cu-nhếp đồng ý, anh trình bày thì được anh em rút không đem vấn đề đó ra bàn nữa. Trong chi đoàn thành niên xưởng máy, Pa-ven phụ trách nhóm nghiên cứu chính trị, nhưng anh không muốn vào thường vụ. Tuy về tổ chức, anh đứng ngoài lãnh đạo, ảnh hưởng của anh vẫn thấy rõ trong mọi công tác. Với một thái độ thân ái và không để ai nhận thấy, anh đã giúp Svê-tai- ép nhiều phen thoát khỏi tình thế khó xử.

Một hôm, Svê-tai-ép vào đến xưởng, lấy làm lạ: Toàn thể chi đoàn thanh niên cộng sản và chừng ba mươi anh chị em ngoài tổ chức đang lau cửa sổ, chùi máy móc, cọ ghét bụi đã cáu lại từ bao năm nay, dọn sắt vụn và các thứ rác bẩn linh tinh đổ ra sân. Pa- ven thì cầm một chiếc chổi gộc, hì hục kỳ cọ nền xi- măng bê bết dầu mỡ.

Svê-tai-ép sửng sốt hỏi Pa-ven:

- Lau chùi dọn dẹp để làm gì thế này?

Pa-ven trả lời vắn tắt:

- Bọn tôi không muốn làm việc trong ghét bụi cáu bẩn nữa. Ở đây đã hai mươi năm nay, chẳng lau chùi, dọn dẹp gì cả. Trong tám ngày, chúng tôi sẽ quét dọn sạch, làm cho xưởng ta mới lại.

Svê-tai-ép nhún vai bỏ đi.

Đám anh em thợ điện không những chỉ dọn xưởng mình làm mà còn động đến cả sân lớn nhà máy từ lâu đã trở thành chỗ đổ rác. Ở đây chẳng còn thiếu một thứ gì. Hằng trăm bộ trục các toa xe lửa, hàng núi sắt gỉ, nào đệm nối toa, nào đường ray, nào ổ bánh... Hàng ngàn tấn sắt bỏ hủy, bỏ hoại ngoài trời. Nhưng đang tấn công vào đống rác lớn thì hành chính ngăn lại:

- Còn nhiều việc quan trọng hơn. Cái sân không dọn cũng chẳng chết ai, không vội gì.

Thấy hành chính nói vậy, anh em thợ điện đành chỉ lấy gạch lát bậc thang đi lên xưởng mình, rồi đặt lưới sắt để cọ giày thôi, không dọn ngoài sân nữa. Nhưng bên trong xưởng, mỗi tối, sau giờ làm, vẫn tiếp tục lau chùi. Được một tuần lễ, kỹ sư chính Stơ- ri có việc bước chân vào xưởng thấy xưởng tràn ngập ánh sáng. Những cửa sổ lớn có khung sắt, trước kia bị bụi lẫn với dầu ma-dút bám từ đời kiếp nào, giờ đã sạch trơn, làm thông được ánh mặt trời rọi vào buồng để máy, nắng ánh lên những bộ phận đồng bóng loáng của những máy nổ Đi-ê-den. Nhũng bộ máy thì sơn lại màu xanh; Trên nan hoa các bánh xe, một bàn tay nắn nót lại còn vẽ cả những mũi tên màu vàng.

Kỹ sư Stơ-ri sửng sốt:

- Hừ...

Ở góc cuối buồng máy, có mấy người đã xong việc. Stơ-ri lại đấy. Gặp Pa-ven đang cầm trong tay một hộp sắt tây đầy sơn, kỹ sư Stơ-ri gọi lại:

- Đồng chí dừng lại tôi hỏi. Tôi tán thành sáng kiến của các đồng chí. Song các đồng chí lấy đâu ra sơn này mà dùng thế? Nhà máy đang thiếu sơn. Tôi đã cấm không ai được lấy sơn ra dùng nếu không có lệnh tôi. Để sơn những bộ phận đầu máy xe lửa cần hơn dùng vào việc các đồng chí làm.

- Đồng chí hỏi sơn này ở đâu? Chúng tôi bòn lấy ở những hộp sơn vứt đi ngoài đống rác. Cạo vét hai hôm được mười ki-lô. Thưa đồng chí, tất cả những việc chúng tôi làm đều đúng nguyên tắc.

Người kỹ sư lại “hừ” một cái nữa, lần này có vẻ bối rối thật.

- Nếu thế thì lẽ tất nhiên các đồng chí cứ sơn... Hừ... Quái thật. Tại sao bỗng dưng lại có cái lối tự mình làm tội mình để cho xưởng sạch thế này? Các đồng chí lau chùi quét dọn thế này ngoài giờ làm cả thì phải?

Pa-ven thấy trong giọng nói người kỹ sư có vẻ ngạc nhiên một cách thật thà.

- Phải. Đồng chí nghĩ thế nào?

- Được Nhưng...

- Không có tiếng “nhưng” nào đứng vững được, đồng chí Stơ-ri ạ. Ai bảo đồng chí là người bôn-sê- vích thấy ghét bẩn chất đống mà để yên được? Rồi đồng chí xem, chúng tôi sẽ mở rộng phong trào. Đồng chí chưa hết ngạc nhiên đâu.

Nói rồi, Pa-ven đi thẳng ra cửa, né tránh người kỹ sư để sơn khỏi quệt vào ông ta.

*

Tối nào cũng vậy, Pa-ven ra ngồi đọc sách ngoài thư viện công cộng đến tận khuya. Anh chơi thân với ba người giữ sách và giở hết khoa tán ra, anh gạ được họ cho cái quyền mơ mãi mới được là tha hồ lục chọn sách. Pa-ven mang chiếc ghế cao đến bắc áp vào những ngăn tủ lớn đựng sách, rồi ngồi vắt vẻo trên đó hàng giờ, giở hết quyển này đến quyển khác, tìm những sách anh cần hay anh thích. Phần lớn là sách cũ. Chỉ có vẻn vẹn một số sách mới chứa trong chiếc tủ không lấy gì làm to lắm. Trong tủ ấy xếp lẫn lộn những sách của thời nội chiến, bộ Tư bản luận của Mác, cuốn Gót-sắt (Tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn tiến bộ Mỹ Giắc Lơn đơn) và một số sách khác. Trong đám sách cũ, Pa-ven lục ra một cuốn tiểu thuyết nhan đề là Spác-ta-quýt-xơ (Một lãnh tụ nô lệ chống lại chủ nô thời đế quốc La Mã trước công lịch). Anh đọc ngốn cuốn sách đó trong hai đêm và đọc xong xếp nó vào tủ, bên cạnh những sách của Mác-xim Gooc-ki. Những sách anh thích, anh thường xếp lại với nhau như vậy.

Những người giữ sách thấy anh xếp lại như thế cũng mặc. Đối với họ, sách xếp thế nào chẳng được.

*

Tình hình của chi đoàn thanh niên cộng sản đang yên ắng đột nhiên náo động lên bởi một việc rắc rối, mới đầu cũng thường thôi. Cốt-sca Phi-đin là ủy viên thường vụ chi đoàn các xưởng trung tu, một anh chàng mũi tẹt, mặt sần sùi, dáng dấp chậm chạp; Trong khi khoan một tấm sắt, anh ta đánh gãy một mũi khoan Mỹ, đắt tiền lắm. Nguyên nhân vì anh ta làm ẩu một cách quá quẩn. Tệ hơn thế nữa: Anh ta gần như là cố ý làm ra như thế. Chuyện xảy ra vào buổi sáng. Đốc công Khô-đô-rốp bảo anh ta khoan tấm sắt. Lúc đầu anh ta từ chối. Nhưng vì Khô-đô-rốp nhất định bắt làm, nên anh ta phải cầm lấy tấm sắt đưa vào bàn máy và bắt đầu khoan. Khô-đô-rốp vốn khó tính, lại hay chấp nhặt, cả xưởng chẳng ai ưa. Ông ta trước kia là men-sê-vích, nay chẳng tham gia sinh hoạt tập thể gì cả, nhìn thanh niên cộng sản thì nhìn lệch lạc nhưng được cái thạo nghề ra trò và đối với công việc thì tận tuỵ. Thấy Cốt-sca khoan “khô”, nghĩa là không cho dầu vào mũi khoan, Khô-đô-rốp đùng đùng chạy lại chỗ máy khoan, giữ tay Cốt-sca lại.

- Anh mù à? Hay anh mới trên trời rơi xuống? - Khô-đô-tốp hét váng lên, biết rõ là dùng như thế thì chỉ nháy mắt là mũi khoan đi đời mất thôi.

Nhưng Cốt-sca cự lại tay đốc công và cứ cho máy chạy. Khô-đô-rốp đi mách xưởng trưởng. Cốt-sca hãm máy, chạy đi lấy vịt dầu lại, để khi xưởng trưởng đến thì đã cho dầu đâu vào đấy rồi. Khi hắn trở về đến máy thì mũi khoan gãy tan tành. Xưởng trưởng viết giấy đề nghị đuổi Cốt-sca. Thường vụ chi đoàn bênh anh ta, lấy cớ là Khô-đô-rốp hay trù thanh niên. Chính quyền không chịu và việc ấy lại đem ra bàn trong ban thường vụ thanh niên toàn xưởng. Câu chuyện bắt đầu như vậy.

Năm ủy viên thường vụ thì ba chủ trương cảnh cáo Cốt-sca và đuổi anh đi công tác khác. Svê-tai-ép cũng trong số ấy. Hai người nữa giữ ý kiến là Cốt- sca không có lỗi gì hết.

Thường vụ họp trong buồng giấy Svê-tai-ép. Ở đây có một chiếc bàn lớn phủ vải đỏ, nhiều chiếc ghế dài và ghế đẩu do anh em thanh niên ban mộc đóng; Trên tường có ảnh các vị lãnh tụ; Sau bàn họp, lá cờ Đoàn thanh niên cộng sản phủ khắp chiều ngang bức tường. Svê tai-ép, vốn nghề thợ rèn, thoát ly sản xuất làm cán bộ Đoàn. Nhờ có năng lực nên chỉ trong vòng bốn tháng vừa qua đã được đề bạt vào công tác lãnh đạo thanh niên. Hắn có chân trong thường vụ thanh niên quận và cả cấp ủy thanh niên tỉnh. Hắn trước làm thợ rèn ở nhà máy cơ khí, mới về đường sắt ít lâu nay. Ngay từ buổi đầu, hắn đã nắm chặt mọi quyền hành trong tay mình. Tự phụ và đã định là làm bằng được hắn đi ngay tới chỗ bóp chết sáng kiến của thanh niên, muốn thò tay vào mọi việc và vì hắn không thể làm lấy tất cả một mình, hắn đâm cáu với những người giúp việc, cho họ là ỳ ra không biết làm gì hết. Cả đến trong phòng làm việc của hắn, hắn cũng tự đứng trông coi, bắt anh em sắp đặt theo ý kiến riêng của mình.

Svê-tai-ép chủ tọa buổi họp, ngả người trong chiếc ghế bành bọc da độc nhất mượn của góc đỏ (câu lạc bộ nhà máy) đem kê ở đây. Buổi họp này là một buổi họp kín. Khi đồng chí Khô-mu-tốp, bí thư chi bộ Đảng, đề nghị nói thì có tiếng người gõ vào cánh cửa đã cài then. Svê-tai- ép lấy làm phật ý, nhăn mặt lại. Vẫn tiếng gõ cửa. Nữ đồng chí Ca-chi-u-sa Dê-lê-nô-va đứng dậy mở cửa. Người gõ cửa là Pa-ven. Ca-chi-u-sa để anh vào.
Pa-ven đã đến một chiếc ghế đầu không có người ngồi. Svê-tai-ép gọi giật anh lại:

- Đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin, đây là một buổi họp riêng của thường vụ chúng tôi.

Má đỏ bừng, Pa-ven từ từ quay lại phía bàn:

- Tôi biết thường vụ họp kín. Song, quan tâm đến việc các đồng chí giải quyết vụ Cốt-sca như thế nào, tôi muốn nhân vụ này đề ra một vấn đề mới. Có phải đồng chí phản đối không muốn cho tôi dự họp không?

- Tôi không phản đối, nhưng chắc đồng chí hiểu rằng những buổi họp kín thế này, chỉ có các ủy viên thường vụ được họp thôi. Nhiều người quá, khó thảo luận. Thôi, đồng chí đã đến thì đồng chí cứ ngồi.

Lần đầu tiên Pa-ven bị nói như tát đốp vào mặt như thế. Mày anh nhíu lại, trán nhăn sâu.

Đồng chí Khô-mu-tốp càu nhàu, giọng nói có vẻ không bằng lòng Svê-tai-ép:

- Giở nguyên tắc ra với nhau làm quái gì mới được?

Nhưng Pa-ven giơ tay ra hiệu cho đồng chí Khô- mu-tốp đừng nói nữa và ngồi xuống ghế.

Đồng chí Khô-mu-tốp bắt đầu vào vấn đề:

- Đây là ý kiến tôi. Về phần Khô-đô-rốp, anh ta không hòa với anh em, có thế. Song, trong đoàn viên của ta, kỷ luật rất tồi. Nếu tất cả thanh niên cộng sản nhà ta đánh gãy hết mũi khoan thì ta lấy gì mà làm. Với lại làm như thế thì chẳng phải là gương tốt cho người ngoài Đảng! Tôi nghĩ rằng phải cảnh cáo Cốt-sca lần thứ nhất.

Svê tai-ép không để đồng chí bí thư chi bộ Đảng nói hết lời, phản đối ngay. Nghe Svê-tai-ép nói suốt mười phút đồng hồ, Pa-ven hiểu thái độ của thường vụ. Đến khi sắp sửa biểu quyết thì anh xin phát biểu.

Svê-tai-ép cố kìm mình lại, để cho anh nói.

- Thưa các đồng chí, tôi xin trình bày ý kiến của tôi về Cốt-sca. - Giọng nói Pa-ven tuy anh không muốn gay gắt mà vẫn cứ gay gắt. - Vụ Cốt-sca này là một dấu hiệu đáng lo ngại. Nhưng vấn đề chủ yếu không phải chỉ có việc Cốt-sca. Hôm qua tôi lấy được mấy con số. - Pa-ven móc túi lấy sổ tay ra. - Những con số này, bộ phận điểm giờ cho tôi biết. Xin các đồng chí chú ý nghe cho: Ngày nào cũng thế, hai mươi ba phần trăm thanh niên cộng sản vào làm việc chậm từ năm đến mười lăm phút. Đi làm chậm đã thành một cái lệ. Mười bảy phần trăm đoàn viên thanh niên nghỉ việc dứt khoát một hay hai ngày mỗi tháng, trong khi đó thanh niên ngoài Đoàn chuồn việc như thế có mười bốn phần trăm. Những con số quất vào đầu óc ta mạnh hơn cả rồi. Nhân tiện đây, tôi ghi được mấy số liệu nữa: Trong các đảng viên, mỗi tháng có bốn phần trăm trốn việc một ngày và bốn phần trăm đi chậm. Thợ lớn tuổi ngoài Đảng mỗi tháng mười một phần trăm trốn việc một ngày và mười ba phần trăm đi chậm. Về làm hỏng máy móc dụng cụ thì chín mươi phần trăm do thợ trẻ, trong số đó chỉ có bảy phần trăm do thợ mới. Do đó, có thể kết luận là thanh niên chúng ta làm ăn rất là tồi so với đảng viên và thợ lớn tuổi. Nhưng tình hình không phải ban nào cũng như vậy. Tổ rèn rất tốt, đáng làm gương cho toàn nhà máy noi theo. Tổ điện cũng tạm được. Còn các tổ khác thì tình hình đại khái như trên tôi đã nói. Theo ý tôi, đồng chí Khô-mu-tốp nói rằng thanh niên kỷ luật rất tồi mới chỉ nói có một phần tư sự thật. Nhiệm vụ của chúng ta là phải uốn nắn những sự chuệch choạc ấy. Tôi nói ở đây không phải là tuyên truyền hay diễn thuyết mít-tinh, song thật là chúng ta phải đem hết nghị lực đấu tranh với cái tính làm ẩu và mặc sao hay vậy. Các bác thợ già thường bảo thẳng vào mặt chúng ta: Xưa kia làm cho chủ còn tốt hơn thế, làm cho thằng tư bản có lương tâm nhà nghề hơn thế. Bây giờ ta làm chủ, ta không có lý do gì để tha thứ cho ta cả. Và kẻ có lỗi, không phải chỉ là Cốt- sca hay ai, mà trước hết là các đồng chí và tôi, bởi vì chúng ta đã chẳng đấu tranh cho ra trò để chống cái tệ đó mà đôi khi lại còn viện cớ này cớ khác bênh những tên như Cốt-sca nữa.

Vừa rồi, các đồng chí Xa-mô-khin và Bu-ti-li-ắc có nói rằng Cốt-sca Phi-đin là một người của ta. Nào anh ta là “trung kiên” như ta vẫn nói, nào là anh ta tích cực, tổ chức trao cho việc gì cũng làm tròn. Còn việc anh ta đánh gãy mũi khoan thì chẳng qua là chuyện không may. Ai mà chẳng có lúc đánh gãy thế! Hơn nữa anh ta lại là người mình, còn lão đốc công kia thì là người ngoài... Cái lối nói như vậy đấy. Thử hỏi, cho đến nay, nào có ai là người đi sát Khô-đô- rốp?... Ông già tủn mủn ấy có ba mươi năm làm nghề! Hãy để tạm ra một bên, khoan nói đến thái độ chính trị của ông ta. Trong trường hợp này, ông ta phải, ông ta là người ngoài, nhưng ông ta đã gìn giữ của công. Còn chúng ta thì phá hoại dụng cụ mua của nước ngoài. Cái tội ấy là tội gì? Tôi thấy rằng phải trị ngay cú đầu tiên mới được, phải mở cuộc tấn công vào mặt ấy.

Tôi đề nghị như sau: Cốt-sca Phi-đin là kẻ lười nhác, làm ẩu, phá hoại sản xuất, phải khai trừ khỏi Đoàn. Đưa toàn bộ việc này lên báo tường và không sợ người ta bàn tán xôn xao, cứ công bố những con số tôi nói ở trên lên xã luận của báo tường. Chúng ta đủ mạnh để làm như thế, chúng ta có chỗ dựa để làm như thể. Đại đa số đoàn viên thanh niên là những người lao động tốt. Trong số đó, sáu người đoàn viên đã từng trải qua công tác ở Bai-a-rơ-ca, và đấy là trường đào luyện đáng tin cậy nhất. Có họ ủng hộ, có họ tham gia, chúng ta sẽ uốn thẳng được những cái chuệch choạc. Nhưng chúng ta phải bỏ hẳn cái lối nhìn, lối giải quyết việc hiện giờ của chúng ta đi.

Pa-ven thường trầm tĩnh và ít lời, lần này nói rất hăng và gay gắt. Lần đầu tiên, Svê-tai-ép nhìn ra đúng cái chất của người thợ điện ấy. Hắn hiểu là Pa- ven nói có lý, song chính lòng đố kỵ đã khiến hắn không đồng ý với Pa-ven. Hắn hiểu trệch lời tham luận của Pa-ven là phê bình đả kích toàn bộ tình hình tổ chức, là một sự xúc phạm đến uy tín cá nhân của bản thân hắn. Và hắn rắp tâm đánh gãy gục Pa- ven. Hắn bắt đầu chỉ trích lại bằng cách buộc Pa-ven là biện bạch cho tên men-sê-vích Khô-đô-rốp.

Tranh luận sôi nổi ròng rã ba tiếng đồng hồ. Đến khuya, hội nghị tổng kết các ý kiến. Svê-tai-ép bị cái lý cứng của những sự việc đánh bại và đa số không ủng hộ hắn nữa mà ngả về Pa-ven. Hắn đi tới một bước sai - vi phạm dân chủ nội bộ: Trước khi biểu quyết lần cuối, hắn yêu cầu Pa-ven ra khỏi phòng họp.

- Được, tôi xin ra, tuy rằng đồng chí đuổi tôi ra thì đồng chí chẳng vẻ vang gì. Nhưng tôi xin nói trước cho đồng chí biết: Nếu ở đây đồng chí bức được người ta theo ý kiến đồng chí thì mai họp toàn thể nhà máy, tôi sẽ xin phát biểu trong cuộc họp toàn thể đó, đồng chí sẽ không có đa số đâu, tôi tin như thế. Đồng chí sai rồi, đồng chí Svê-tai-ép ạ. Còn đồng chí Khô-mu- tốp tôi nghĩ đồng chí cần phải nêu vấn đề này lên trong tổ chức Đảng, trước phiên họp toàn thể nhà máy ngày mai.

Svê-tai-ép thét lên, giọng như thách thức:

- Anh tưởng dọa được tôi à? Không cần đến thứ anh dạy tôi con đường đấu tranh trong tổ chức đó. Trước tổ chức, tôi sẽ đem chính vấn đề anh ra để tổ chức xét. Anh đã không muốn mó tay vào làm gì thì đừng cản trở người khác làm.

Cửa phòng đóng lại, Pa-ven đưa tay lên trán nóng bỏng và đi qua một buồng giấy bỏ không ra phía cửa. Ra đến ngoài, anh thở căng lồng ngực. Rồi châm một điếu thuốc hút, đi về phía túp nhà nhỏ trên đồi Ba- ti-ép chỗ ở của cụ Tô-ca-rếp.

Pa-ven bước vào nhà Tô-ca-rếp thì người thợ lắp máy ấy đang ăn tối.

- Có chuyện gì thế? Kể đi, chú. - Lão đồng chí Tô- ca-rếp kéo Pa-ven ngồi vào bàn, nói với vợ - Bà Đa- ri-a nó ơi, bà mày dọn cả cho chú ấy ăn với.

Vợ đồng chí, bà Đa-ri-a Phô-mi-nít-sơ-na, to lớn và béo khỏe trái hẳn chồng, bưng đến cho Pa-ven một đĩa xúp kê, và lấy khăn ăn trắng chùi môi ướt, bà ân cần mời Pa-ven:

- Ăn đi, chú.

Trước kia, khi đồng chí Tô-ca-rếp còn làm ở xưởng, Pa-ven hay đến chơi khuya với đồng chí, song từ ngày ốm khỏi ra tỉnh đến nay, lần này là lần đầu tiên anh đến tìm đồng chí già.

Người thợ lắp máy chăm chú nghe anh. Không nói gì thêm, ông cụ đưa thìa xúc mạnh vào đĩa, miệng “hèm, hèm” ra vẻ nghe thủng câu chuyện.

Ăn xong đĩa xúp, ông cụ lấy khăn tay lau bộ ria, rồi húng hắng ho rặn ra cho giọng nói đỡ khàn.

- Lẽ tất nhiên chú nói có lý. Đáng lẽ chúng ta phải thật sự đề thẳng vấn đề ấy ra từ sớm. Các xưởng của nhà máy xe lửa là cơ sở chủ chốt trong quận này. Phải bắt đầu từ đấy. Nhưng do việc này, chú va chạm mạnh với Svê-tai-ép phải không? Như thế thì không tốt. Tính cậu ta khó bảo lắm. Song công tác thanh vận thì chú biết làm cơ mà? Nhân tiện hỏi chú, giờ chú công tác gì trong tổ chức bên xưởng máy.

- Cháu công tác ở bộ phận chuyên môn của cháu. Nói chung thì hoạt động mỗi chỗ một tí. Trong chi đoàn, cháu lãnh đạo một nhóm nghiên cứu chính trị.

- Thế chú làm gì ở thường vụ Đoàn.

Pa-ven bối rối.

- Cháu mới về, người còn yếu, lại muốn để thời giờ học tập một chút, cháu không chính thức tham gia lãnh đạo.

- Ấy, ấy thế đấy! - Cụ Tô-ca-rếp cao giọng nói, không tán thành ý kiến Pa-ven. - Chú hiểu rằng chú chỉ viện được cái cớ sức yếu nên tôi không chỉnh chú mà thôi. Nhưng bây giờ sức khỏe khá hơn rồi chứ?

- Vâng.

- Nếu thế thì phải nhận lấy công tác đi, mà nhận thật sự. Không nên giữ kẽ làm gì. Chú xem có ở đâu đứng ở ngoài rìa mà làm được việc nên hồn? Ai cũng có thể bảo chú là trốn tránh trách nhiệm và chú không nói lại thế nào được. Ngay từ mai phải sửa chỗ sai đó đi. Còn cậu Ô-cu-nhếp, tôi phải khép cậu ta vào khuôn phép mới được.

Cụ Tô-ca-rếp kết luận như thế, giọng lộ ra vẻ phật ý.

- Xin bố đừng phê bình Ô-cu-nhếp. Chính cháu nằn nì cậu ấy đừng giao công tác gì cho cháu bây giờ.

Cụ Tô-ca-rếp xì một tiếng chế nhạo:

- Chú nằn nì và nó chịu chú? Các chú thanh niên cộng sản mà như thế? Thôi, lần này bỏ qua cho các chú. Chú cầm báo đọc cho lão nghe như trước kia đi. Mắt lão kém lắm rồi.

Thường vụ Đảng ủy đồng ý với ý kiến của đa số trong thường vụ Đoàn. Một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn đề ra với tổ chức của Đảng và của Đoàn, đảng viên và đoàn viên phải lấy việc làm của mình nêu gương chấp hành kỷ luật lao động. Trong buổi họp của thường vụ. Svê-tai-ép bị phê bình kịch liệt. Mới đầu hắn nổi tự ái cãi lại, song bị lời phát biểu của đồng chí bí thư Lô-pa-khin, một người đứng tuổi, mặt tái vì lao, dồn vào chỗ bí, hắn đành phải nhượng bộ và nhận một phần sai lầm của mình.

Ngày hôm sau, báo tường các nhà máy đăng những bài làm cho công nhân hết sức chú ý. Người ta đọc to các bài báo đó lên và thảo luận sôi nổi. Buổi tối, họp Đoàn, đông khác hẳn mọi khi, người ta chỉ nói toàn về những bài báo đó thôi.

Cốt-sca bị khai trừ, và Pa-ven được cử vào thường vụ Đoàn, phụ trách công tác chính trị.

Mọi người nghe Nhê-giơ-đa-nốp nói, yên lặng và chăm chú một cách khác thường. Diễn giả nói về những nhiệm vụ mới, về giai đoạn phấn đấu mới mà các xưởng nhà máy xe lửa phải vượt qua.

Họp xong, Pa-ven ra ngoài đứng đợi Svê-tai-ép.

Anh đón gặp người bí thư Đoàn:

- Chúng ta cùng đi về đi, hai chúng mình có chuyện phải nói với nhau.

Svê-tai-ép hỏi lại, giọng khản đi.

- Chuyện gì mới được?

Pa-ven khoác tay Svê-tai-ép, đi vài bước, rồi dừng lại trước một tấm ghế dài.

- Chúng mình ngồi đây một chốc.

Và anh ngồi xuống trước.

Lửa ở đầu điếu thuốc trong tay Svê-tai-ép khi sáng đỏ khi tắt dụi.

- Svê-tai-ép này, tại sao cậu cứ mâu thuẫn với mình?

Mấy phút im lặng.

- Chuyện có thế thôi ư? Thế mà mình cứ tưởng cậu có chuyện công tác muốn nói với mình.

Giọng Svê-tai-ép không bình thường. Hắn làm bộ ngạc nhiên.

Pa-ven quả quyết đặt tay lên đầu gối Svê-tai-ép, gọi hắn bằng tên thân:

- Đim-ca, cậu đừng đánh trống lảng. Cái lối ấy chỉ tốt với những nhà ngoại giao thôi. Cậu bảo thẳng cho tớ biết: Vì sao cậu không ưa tớ?

Svê tai-ép cử động có vẻ bực tức:

- Cậu có gì mà lôi thôi với tớ thế? Mâu thuẫn gì? Chính tớ đã đề nghị cậu tham gia lãnh đạo. Cậu từ chối và bây giờ lại làm như là tớ cho cậu ra rìa.

Giọng nói của hắn không thật. Pa-ven, tay không rời đầu gối bạn, run run nói:

- Cậu không muốn nói thật thì tớ nói toạc ra vậy. Cậu tưởng mình muốn ngáng đường cậu. Cậu tưởng mình mơ ước cái chức bí thư của cậu. Nếu không phải thế thì chẳng đến nỗi nào có chuyện to tiếng vì cái vụ Cốt-sca. Cách đối xử với nhau như vậy hại đến mọi công việc. Nếu chỉ là hai thằng khó chịu với nhau thì chẳng quan hệ gì lắm. Cậu muốn nghĩ thế nào thì nghĩ. Nhưng từ mai, hai chúng mình sẽ làm việc với nhau rồi. Nếu cứ hục hặc như thế thì công việc sẽ ra sao? Cậu hãy nghe tớ nói, không có gì chia rẽ chúng ta hết. Cậu cũng như tớ là con nhà công nhân. Nếu cậu cho sự nghiệp chung là quý báu hơn cả thì cậu bắt tay tớ và ngày mai chúng mình sẽ bắt đầu thân thiết làm việc với nhau. Song nếu cậu không bỏ những tính khí ấy đi, nếu cậu cứ luẩn quẩn với những chuyện đôi co bần tiện, thì mỗi va chạm xảy ra trong công tác chỉ tổ làm cho hai chúng mình chống nhau kịch liệt. Tay tớ đây, nếu cậu cho tay tớ còn là tay đồng chí thì cậu bắt tay tớ.

Lòng vui sướng, Pa-ven cảm thấy những ngón tay gân guốc của Svê-tai-ép nằm trong lòng bàn tay của mình.

Một tuần qua. Ở trụ sở Đảng ủy quận, đã hết giờ làm việc. Trong phòng của các ban đã im lặng, không một tiếng động. Nhưng đồng chí Tô-ca-rếp vẫn chưa rời cơ quan. Ngồi trong ghế bành đồng chí mải miết đọc tài liệu mới gửi đến. Có tiếng gõ cửa.

- Cứ vào

Pa-ven vào đặt trước mặt đồng chí bí thư hai bản khai đã ghi đầy đủ.

- Cái gì thế chú?

- Bố ơi, cháu nộp giấy tờ này để xin nhận trách nhiệm với Đảng. Cháu nghĩ là đã đến lúc. Nếu bố đồng ý, đề nghị bố đảm bảo cho đơn xin gia nhập Đảng của cháu.

Cụ Tô-ca-rếp đọc qua, rồi nhìn người thanh niên trong mấy giây và không nói gì, cầm lấy bút. Trên cột ghi tuổi đảng của những đảng viên giới thiệu đồng chí Ca-rơ-sa-ghin Pa-ven An-đơ-rê-ê-vích được làm đảng viên dự bị Đảng cộng sản (bôn-sê-vích) Nga, đồng chí Tô-ca-rếp đưa tay vũng chắc viết lên: “Vào Đảng từ 1903” và bên cạnh hạ một chữ ký chân phương.

- Ký rồi đây, chú mày. Tôi biết chú không bao giờ làm nhơ mái tóc bạc của lão.

Trong phòng, không khí ngột ngạt. Ai cũng chỉ có một ý nghĩ: Làm sao mau đến phía đằng ấy, đến những con đường hai bên trồng cây hạt dẻ ở khu phố Xô- lô-men-ca, gần nhà ga.

Svê tai-ép mồ hôi nhễ nhại, nói như van nài:

- Đề nghị cho nghỉ thôi, Páp-ca ạ. Mình nóng quá không chịu được nữa.

Ca-chi-u-sa và sau chị, nhiều người khác cũng đều đồng thanh tán thành ý kiến Svê-tai-ép.

Pa-ven gấp sách lại. Buổi học của nhóm nghiên cứu hôm đó đến đây là xong.

Toàn nhóm đứng dậy nói cười huyên náo. Giữa lúc ấy chuông dây nói reo lên hối hả. Svê-tai-ép cầm ống nghe và trả lời, cố nói to át mọi giọng ồn ào trong phòng.

Nói xong, buông máy, Svê-tai-ép quay về phía Pa-ven:

- Pa-ven ơi, ngoài ga có hai toa ngoại giao của lãnh sự quán Ba Lan đang đỗ. Họ bị hỏng điện mà một giờ nữa tàu chạy. Phải chữa dây điện. Cậu cầm hòm đồ đi ngay đi. Việc cần lắm.

Hai toa xe lộng lẫy của công ty toa xe giường ngủ quốc tế đậu ở ke thứ nhất ngoài ga. Toa phòng khách thì đèn sáng trưng, còn toa bên cạnh thì tối om. Pa-ven lại gần toa xe, nắm lấy thành sắt của bậc toa, định trèo lên.

Từ tường nhà ga, một người đàn ông chạy vội đến, nắm lấy vai anh.

- Anh này đi đâu?

Giọng nói quen quen, Pa-ven quay lại. Người ấy mặc áo khoác da, đội mũ cát-két vành rộng, mũi lõ mỏng dính, mắt nhìn trừng trừng ra ý dò xét.

Đến lúc ấy, Ác-chu-khin mới nhận ra Pa-ven. Anh buông vai người trẻ tuổi, nét mặt tươi dần, song cặp mắt lại nhìn hòm đồ như dò hỏi:

- Cậu đi đâu thế?

Pa-ven trả lời vắn tắt. Một bóng người nữa từ sau toa hiện ra:

- Để tớ đi gọi người liên lạc của họ.

Pa-ven theo chân người liên lạc bước vào. Trong toa phòng khách, có mấy người ngồi, ăn mặc cầu kỳ, quần áo du lịch sang trọng. Ở bàn khách phủ khăn thêu hoa hồng, một người đàn bà ngồi quay lưng ra cửa. Lúc Pa-ven bước vào, người đàn bà ấy đang nói chuyện với một viên sĩ quan cao lớn đứng trước mặt. Người thợ điện vừa bước vào thì họ im ngay không nói chuyện nữa.

Pa-ven xem xét rất nhanh những dây điện từ bóng đèn cuối cùng của toa này đi sang toa sau. Thấy không việc gì, Pa-ven ra khỏi phòng khách, cố tìm ra chỗ hỏng. Người liên lạc bụng phệ, cổ như cổ trâu, mặc đồng phục có đốm khuy đồng mang hình diều hâu một đầu. Hắn ta theo sát anh không rời một bước.

- Ta sang toa bên, ở đây không có gì hỏng, pin đèn vẫn chạy. Chắc là hỏng ở bên kia.

Người liên lạc khóa trái cửa lại, rồi đi vào lối đi tối mò của toa sau. Pa-ven bấm đèn soi những đường dây; Anh tìm ra ngay chỗ chập dây. Chỉ mấy phút, bóng đèn đầu tiên bật lên trong lối đi, tỏa ánh sáng đục mờ. Pa-ven bảo người liên lạc đi theo anh:

- Phải mở buồng này ra để thay bóng. Bóng trong buồng cháy hết rồi.

- Thế thì phải gọi bà ấy sang. Bà ta giữ chìa khóa.

Người bảo vệ không dám để Pa-ven đứng đấy một mình, kéo anh đi theo. Người đàn bà bước vào trong buồng trước. Pa-ven đi theo ngay sau. Người liên lạc đứng ở ngưỡng cửa, thân hình phì nộn chật cả lối ra vào. Pa-ven nhìn qua gian phòng: Hai hòm da xinh treo trên lưới, một áo khoác lụa quàng trên giường, một lọ nước hoa và một hộp phấn bé xíu bằng ngọc thạch để trên bàn con gần cửa sổ. Người đàn bà ngồi vào góc giường, rồi vừa quấn lại mớ tóc màu gai, vừa trông người thợ làm.

Tên liên lạc cúi cổ trâu xuống, trịnh trọng thưa:

- Xin phép bà cho con đi một phút. Quan “pan” thiếu tá gọi con lấy rượu bia ướp lạnh để ngài xơi.

(Pan: Tiếng Ba Lan nghĩa là “ông, ngài” )

Người đàn bà trả lời, giọng uốn éo, đỏng đảnh:

- Cho người đi.

Vệt sáng của ngọn đèn ngoài hành lang rọi vào, đổ ngang vai người đàn bà. Tấm áo dài bằng lụa nõn Ly-ông, do nhà hàng thợ may giỏi nhất Pa-ri cắt, để lộ hai cánh tay và đôi vai. Một viên kim cương óng ánh như một giọt nước chấm sáng ở vành tai nhỏ nhắn. Pa-ven chỉ nhìn thấy cánh tay và vai người đàn bà, nõn nà như tạc bằng ngà voi. Mặt người ấy lẩn trong tối. Pa-ven lấy tuốc-nơ-vít xoay xoay mấy cái thay bóng đèn trần và chỉ một phút sau, cả gian phòng lại sáng. Chỉ còn phải xem lại cái bóng đèn thứ hai mắc ở mé trên chiếc giường người đàn bà đang ngồi. Pa-ven dừng lại trước mặt người đàn bà ấy.

Hai người nói với nhau bằng tiếng Ba Lan.

- Tôi cần thử cái bóng này.

- À phải, tôi cản trở việc anh làm.

Người đàn bà trả lời bằng tiếng Nga rất đúng giọng, rồi nhẹ nhàng ngồi dậy và đứng gần Pa-ven. Giờ thì anh nhìn rõ cả người. Đôi mày gãy góc, đôi môi mím chặt kiêu kỳ. Không còn nghi ngờ gì nữa: Nó là con Nen-ly Lê-sinh-ski. Đứa con gái lão thầy kiện cũng vừa nhận ra cái nhìn sửng sốt của Pa-ven. Nhưng nếu Pa-ven nhận ra nó, thì nó lại không nhận ra được người thợ điện này là thằng bé láng giềng ngỗ ngược, mới có bốn năm qua mà đã lớn hẳn lên.

Để trả lời vẻ ngạc nhiên của Pa-ven, nó cau mày khinh khỉnh đi ra cửa phòng; Đứng ở đấy nó gõ mũi giày nhỏ tí bóng nhoáng vào tường gỗ, tỏ ý sốt ruột. Pa-ven tháo bóng thứ hai, soi lên ánh sáng xem và chính anh không ngờ tới, cả con Nen-ly Lê-sinh-ski lại càng không ngờ tới nữa, anh buột mồm hỏi nó bằng tiếng Ba Lan:

- Vích-to cũng có ở đây chứ?

Pa-ven hỏi thế, song không quay mặt lại. Anh không trông thấy mặt con Nen-ly, nhưng thấy lâu nó không đáp, đủ hiểu nó nghe hỏi thì ngơ ngác đến thế nào.

- Thế anh biết Vích-to à?

- Sao lại không biết! Ta trước ở cạnh nhà nhau mà. - Pa-ven quay lại nhìn nó.

- Anh là Pa-ven, con mụ.. - Nen-ly nói nửa chừng.

Pa-ven nhắc tiếp:

- Con mụ nấu bếp đấy.

- Ô anh lớn nhanh thật. Tôi nhớ ra anh trước kia là một thằng bé con rất gấu.

Nen-ly nhìn anh từ đầu đến chân một cách sống sượng:

- Anh hỏi Vích-to làm gì? Nếu tôi không nhớ lầm thì anh với Vích-to có ưa nhau đâu.

Nen-ly nói giọng lanh lảnh như chim, những mong cuộc gặp gỡ bất ngờ này làm nó đỡ sốt ruột chờ tàu. Đồ nghề của người thợ điện bắt rất nhanh vào tường gỗ một chiếc đinh ốc mới.

- Vích-to còn nợ tôi. Nếu cô gặp hắn thì cô bảo hắn là tôi vẫn đợi có dịp hắn trả nợ đấy.

- Anh cho biết Vích-to nợ anh bao nhiêu để tôi trả hộ.

Nó rất hiểu cái “nợ” Pa-ven đòi là cái nợ gì. Nó biết chuyện xảy ra với tên lính nguy Pết-lu-ra ngày trước, nhưng nó thích trêu “thằng nhãi này” nên giở giọng chọc tức chơi.

Pa-ven im không nói. Nen-ly buồn rầu hỏi thăm:

- Anh này, có phải biệt thự nhà tôi đã bị cướp phá tan tành và giờ đổ nát rồi, phải không anh? Giàn cây và những bồn hoa cũng bị phá trụi sạch rồi phải không?

- Nhà ấy nay thuộc về chúng tôi rồi, không phải của các người nữa. Việc gì chúng tôi lại phá.

Nen-ly cười mỉa:

- Ô ô! Tôi xem ra cả anh nữa cũng bị người ta lên lớp cho rồi. Nhưng toa này là toa của phái đoàn Ba Lan. Trong toa này, tôi là chủ và anh vẫn là thằng hầu của tôi như ngày trước. Giờ anh đang chữa điện cho tôi có đèn dùng, để tôi nằm đọc sách thoải mái trên chiếc giường này. Trước kia thì mẹ anh giặt quần áo cho nhà tôi, còn anh thì xách nước. Bây giờ ta lại gặp nhau nhưng phận người nào vẫn phận người ấy, không có gì khác trước.

Nó nói với vẻ đắc thắng, lấy làm thú vị một cách tinh ác. Pa-ven vừa lấy dao con cạo đầu dây điện vừa nhìn con bé Ba Lan, chẳng giấu vẻ chế nhạo.

- Nếu chỉ vì nhà chị thì chỉ một chiếc đinh gỉ tôi cũng chẳng thèm chịu đóng cho chị nhờ. Nhưng vì bọn tư sản đã sinh ra cái giống ngoại giao thì chúng ta đây, chúng ta cũng muốn tỏ ra cho chúng nó biết ta đã có chính quyền trong tay, chúng ta không thèm lấy đầu các người, chúng ta lại còn tỏ ra lễ độ nữa. Chứ chẳng có ăn nói xách mé như nhà chị.

Nen-ly đỏ chín má.

- Giá các anh chiếm được Vác-sa-va thì chẳng biết các anh sẽ định làm gì tôi? Bắt tôi làm nàng hầu hay băm thịt tôi ra làm ba-tê?

Nó đứng ưỡn ở cửa, điệu bộ đỏm dáng; Hai lỗ mũi rất dâm quen mùi thuốc phiện trắng, phập phồng, mấp máy. Đèn bật sáng trên đầu giường, Pa ven đứng nhổm dậy:

- Ai người ta thiết gì nhà chị? Ngữ ấy thì chết non sớm vì thuốc phiện trắng, chứ chẳng phải đợi đến gươm đây chém cổ. Cái con người chị như thế, cho đây ngủ đây cũng chẳng thèm.

Pa-ven nhặt hòm đồ, đi hai bước ra cửa. Nen-ly nép về bên. Ra đến đầu lối đi, anh mới nghe thấy. Tiếng nó chửi thầm:

- Thằng bôn-sê-vích chết tiệt!

*

Tối hôm sau, Pa-ven đang đi ra thư viện thì gặp Ca-chi-u-sa. Chị đưa bàn tay nhỏ xíu nắm lấy áo Pa- ven, vừa cười vừa chặn đường.

- Chạy đi đâu thế hở ông Chính trị và Huấn luyện?

Pa-ven cũng đùa, đáp lại:

- Thưa mẹ ranh, con ra thư viện. Xê ra cho người ta đi.

Anh khẽ nắm lấy vai Ca-chi-u-sa, đẩy nhẹ cô xuống đường. Ca-chi-u-sa gỡ tay anh ra và quay lại đi theo anh.

- Pa-vơ-lu-sa này, người ta không thể lúc nào cũng học tập. Hôm nay, anh có biết không, anh phải đến dự tối vui của chúng tôi. Bà con hôm nay tụ tập ở nhà Di-na Gơ-la-đúc. Bọn con gái bảo tôi phải kéo anh đến. Nhưng anh thì anh chỉ biết độc có cắm đầu vào chính trị thôi. Có thể nào anh chẳng nghĩ gì đến vui chơi, giải trí cả. - Ca-chi-u-sa cố nài ép. - Thôi, hôm nay anh nghỉ đọc sách một tối thì ngày mai đầu óc anh lại càng nhẹ nhõm!

- Tối vui gì mới được? Ở đấy người ta làm gì nào?

Ca-chi-u-sa nhại lại anh, giọng chế nhạo:

- Người ta làm gì ấy à? Người ta không cầu kinh là được rồi. Đến đấy vui một lúc, thế thôi. Anh chơi được đàn gió phải không? Tôi chưa được nghe anh chơi bao giờ. Nào, anh chiều lòng tôi một chút. Chú con Di-na có cái đàn gió, nhưng ông ta chơi tồi lắm. Bọn con gái chú ý đến anh lắm, mà anh cứ gầy khô đi trên đống sách. Có luật nào cấm thanh niên cộng sản vui chơi giải trí đâu? Tôi còn khẩn khoản mời thì anh đến đi. Nếu không tôi giấn đấy, giận rõ một tháng cho mà xem.

Người con gái có đôi mắt to làm nghề thợ sơn ấy là một đồng chí tốt và một đoàn viên khá. Pa-ven không muốn mếch lòng cô, tuy nghĩ đến tối vui ấy, anh thấy có một cái gì không quen và ngớ ngẩn nữa.

Nhà người thợ chữa đầu máy xe lửa Gơ-la-đúc tối nay đông người và rất ồn ào. Để cho bọn trẻ tha hồ vui chơi, người lớn rút cả vào phòng trong. Ở buồng lớn phía trước và ở hàng hiên trông ra vườn nhỏ, có chừng mười lăm thanh niên nam nữ quây quần. Lúc Pa-ven tới thì ở đấy họ đang chơi trò gọi là “mớm cho chim bồ câu ăn”. Giữa hiên ngoài, hai ghế dựa áp lưng vào nhau, cô chủ nhà làm trưởng trò ra lệnh: Một anh con trai và một chị con gái ngồi vào ghế. Trưởng trò hô lên: “Mớm chim bồ câu!” Thế là gã trai và ả gái đang ngồi áp lưng vào nhau, quay ngay đầu lại hai miệng gặp nhau và hôn môi nhau giữa công chúng. Rồi người ta gọi chơi trò “cái nhẫn”, trò “người đưa thư”, trò nào cũng có ôm nhau hôn. Khi chơi đến trò “người đưa thư” thì vì ngoài hiên sáng, người ta đưa nhau vào trong buồng tắt đèn hôn nhau để không ai trông thấy. Ai không thú những trò ấy thì ở một góc, trên mặt bàn tròn, có cỗ bài để chơi trò “lơn hoa”. Cô bé ngồi cạnh Pa-ven, mới mười sáu tuổi, tên gọi Mua-ra, đưa đôi mắt xanh liếc anh và chìa ra cho anh một lá bài, thủ thỉ:

- Hoa tím này.

Mấy năm trước đây, Pa-ven cũng đã dự những buổi tối như thế này. Tuy bấy giờ anh chẳng trực tiếp chơi mấy, anh còn cho cái cách chơi ấy hết sức tự nhiên. Song bây giờ anh đã thoát ly hẳn cuộc đời tủn mủn tiểu tư sản của thị trấn nhỏ, buổi vui tối nay đối với anh có một cái gì kỳ quái và hơi lố bịch nữa.

Dù sao, tay anh cũng đã cầm lá bài “chim chuột” rồi. Trên lá bài, cạnh chữ “hoa tím”, có dòng chữ “Em ưa anh lắm”.

Pa-ven nhìn cô bé. Cô bé nhìn lại, chẳng bối rối chút nào.

- Thế nào?

Câu hỏi của Pa-ven hơi nặng nề. Mua-ra đã nghĩ sẵn câu trả lời.

Cô bé chìa một lá bài nữa cho Pa-ven.

- Hoa hồng nữa này.

Cạnh chữ “hoa hồng”, có dòng chữ: “Anh là người trong mộng của em”. Pa-ven quay sang cô bé, dịu giọng hỏi:

- Tại sao em cứ nghịch trò vớ vẩn này?

Mua-ra bối rối, xấu hổ.

- Em bộc lộ tình cảm của em làm cho anh bực mình hay sao?

Rồi bĩu môi đỏng đảnh.

Pa-ven không trả lời. Nhưng lại muốn hiểu xem cô bé là con nhà ai. Anh hỏi lại mấy câu, cô bé vui vẻ trả lời. Mấy phút sau, anh được biết cô bé đang học trường bảy năm, cha là công nhân đường sắt, đã gặp Pa-ven từ lâu và muốn làm thân với Pa-ven.

- Tên em là gì?

- Mua-ra Vô-lưn-xép.

- Có phải anh trai em là bí thư chi đoàn sở đầu máy không?

- Vâng.

Giờ thì Pa-ven hiểu cô bé là ai rồi. Rõ ràng là Vô- lưn-xép, một trong những đoàn viên thanh niên tích cực nhất quận này, đã không chú ý đến giáo dục em gái mình, và cô bé cứ là một cô ả tiểu tư sản tầm thường mãi. Từ một năm nay, cô bé năng lui tới những tối vui tổ chức ở nhà bạn, đem đến đấy những chiếc hôn làm chóng mặt được. Cô bé đã gặp Pa-ven nhiều lần đến chơi với anh mình.

Mua-ra nhận ra người con trai ngồi bên không tán thành thái độ của mình; Khi người ta gọi cô vào chơi “mớm cho chim bồ câu ăn”, cô thấy Pa-ven cau mày, liền từ chối thẳng. Hai người ngồi với nhau mấy phút nữa, Mua-ra kể chuyện đời mình. Ca-chi-u-sa đến tìm họ.

- Mình mang đàn gió lại nhớ, Pa-ven chơi hộ vài bài!

Rồi nheo mắt nhìn Mua-ra một cách láu lỉnh, Ca- chi-u-sa hỏi:

- Thế nào, quen nhau rồi chứ?

Pa-ven kéo Ca-chi-u-sa ngồi cạnh anh, và nhân lúc chung quanh đang cười đùa, la hét ầm ĩ, anh bảo bạn:

- Mình không chơi đâu. Mình đi dạo với Mua-ra một lúc.

- A, a, có người cắn câu. - Ca-chi-u-sa hỏi, ra dáng hiểu cả rồi.

- Phải. Cắn câu rồi đấy. Tôi hỏi Ca-chi-u-sa, ở đây ngoài hai chúng ta, có ai là đoàn viên nữa không? Hay chỉ có hai chúng ta rơi vào một “ổ chim bồ câu” ?

Ca-chi-u-sa làm lành, nói cho Pa-ven biết:

- Họ thôi không làm trò điên nữa đâu. Sắp nhảy rồi.

Pa-ven đứng dậy:

- Thế thì tốt. Mời mụ cứ nhảy. Còn tôi với Mua- ra đi đây.

Một buổi tối, An-na Bô-khác đến nhà Ô-cu-nhếp. Chỉ gặp có Pa-ven ở đấy.

- Anh bận lắm phải không? Đi dự phiên họp toàn thể của Xô-viết đi nào. Để lúc về, đi có bạn cho vui, chứ họp về khuya lắm.

Một lát, Pa-ven mặc xong quần áo. Đầu giường anh treo khẩu Mô-de: Khẩu súng này nặng quá. Anh mở ngăn kéo Ô-cu-nhếp, lấy khẩu Bơ-rao-ninh cho vào túi. Rồi viết lại mẩu giấy cho Ô-cu-nhếp và giấu chìa khóa vào chỗ đã hẹn với nhau.

Ở rạp hát, hai người gặp Pan-cơ-ra-tốp và Ôn-ga. Mấy người cùng ngồi gần nhau. Những lúc phiên họp tạm nghỉ, họ đi dạo chơi với nhau ngoài sân. Như An-na đã đoán trước, buổi họp kéo dài đến một giờ khuya. Ôn-ga đề nghị:

- Hay các cậu về cả nhà mình ngủ. Khuya lắm rồi mà các cậu lại ở xa.

An-na từ chối:

- Thôi, mình đã hẹn với Pa-ven đi về rồi.

Pan-cơ-ra-tốp và Ôn-ga cứ dọc đường cái đi xuôi, còn bọn về khu phố Xô-lô-men-ca thì đi ngược lên. Đêm ngột ngạt, tối mịt như bưng lấy mắt. Cả thành phố đã ngủ kỹ. Các đại biểu ra về, mỗi người mỗi ngả, đi theo các phố im phăng phắc. Tiếng nói và tiếng chân họ cứ chìm dần trong đêm. Pa-ven và An- na đã đi khỏi các phố lớn một quãng xa. Đến phố chợ, vào giờ này vắng tanh, vắng ngắt thì gặp đội tuần tra họ giữ lại hỏi giấy rồi cho đi. Qua con đường lớn, vào một phố vắng không có đèn. Phố này chạy ngang một bãi đất bỏ hoang. Hai người rẽ sang trái, rồi men theo con đường chạy dọc những kho chính của nhà máy xe lửa. Những nếp nhà dài bằng bê-tông, trông tối đen và ghê sợ. An-na đột nhiên đâm lo. Chị len lét nhìn vào đêm tối, trả lời Pa-ven nhát gừng chẳng ra đâu vào đâu. Đến khi cái bóng đen làm chị hoảng hóa ra là cái cột dây thép thì chị cười phá lên, cắt nghĩa cho Pa-ven hiểu điều làm mình sợ. An-na khép cánh tay mình dưới cánh tay Pa-ven, sát vai mình vào vai bạn và thấy vững lòng hơn.

- Mình năm nay mới có hai mươi hai tuổi đầu nhưng thần kinh bị rão như một bà lão rồi, Pa-ven có thể cho mình là nhát gan. Mình không phải nhát gan đâu. Nhưng hôm nay không hiểu tại sao mình thấy não cân bị kích thích lạ. Giờ có Pa-ven đi bên cạnh, mình không lo nữa và thấy xấu hổ là đã hốt hoảng.

Vẻ trấn tĩnh của Pa-ven, đầu lửa đỏ của điếu thuốc lá anh cầm chốc chốc lại soi lên một bên mặt anh, đôi mày của anh cong một cách cứng cỏi, tất cả những điều đó làm An-na tiêu tan hết nỗi hoảng sợ vì đêm hôm tối mịt, vì cảnh hoang vắng của bãi đất bỏ không, cả vì câu chuyện giết người khủng khiếp xảy ra hôm qua ở khu phố Pa- dôn, vừa được nghe kể chuyện xong lúc ở rạp hát.

Hai người đã vượt qua dãy nhà kho, đi qua cái cầu nhỏ bắc ngang con lạch và đi vào con đường phố ga; Con đường này đưa tới khúc đường hầm dưới gầm đường xe lửa chạy, khúc đường hầm nối thông mé bên thành phố với cả khu phố đường sắt.

Hai người đã bỏ xa nhà ga ở mé bên tay phải. Một đoàn xe chạy vào đường đỗ xe, ở cuối dãy nhà kho. Đây đã là giang sơn mà họ quen thuộc rồi. Trên kia, đường tàu chạy, ánh sáng màu óng ánh ở những đèn kho và đèn hiệu; Gần kho đầu máy, một chiếc đầu máy chạy đi chạy lại, thở dốc ra như một con vật mệt lử sắp được nghỉ đêm.

Cửa vào đường hầm, có cái đèn treo trên móc sắt gỉ. Gió hiu hiu khẽ đưa đẩy ngọn đèn, ánh sáng mờ vàng ệch đong đưa, hắt lên tường bên này rồi lại hắt lên tường bên kia của đường hầm.

Khỏi đường hầm mười bước, ngay bên đường có nếp nhà nhỏ trơ trụi, chính giữa căn nhà ấy có vết thủng lớn há hốc. Hai năm trước đây, một quả trái phá hạng nặng tương trúng ngôi nhà, làm trong nhà bể tung từng mảng và mặt nhà đổ vỡ tan nát. Trông nếp nhà ấy chẳng khác một ông lão ăn mày ngồi bên vệ đường chìa vết thương của mình ra cho người qua lại trông thấy. Trên mặt đường cao, một chuyến tàu chạy qua.

An-na thở phào.

- Ta gần đến nhà rồi.

Pa-ven gỡ tay An-na ra. Song An-na không chịu bỏ. Hai người qua một căn nhà đổ nát.

Bỗng có tiếng động sau lưng. Tiếng chân chạy gấp, tiếng thở hồng hộc. Có người đuổi theo họ.

Pa-ven giật tay ra định đối phó, nhưng An-na thất kinh cứ ôm ghì lấy anh. Đến khi Pa-ven gỡ tay ra được thì muộn quá rồi: Những ngón tay cứng như sắt đã nắm lấy cổ anh; Anh quẫy mạnh nhưng kẻ hành hung đã sấn đến trước mặt. Nó lấy tay sờ cổ họng anh, nắm lấy cổ áo vặn mạnh, rồi ngẩng đầu anh lên trước nòng một khẩu súng ngắn, khẩu súng từ từ giơ lên vẽ thành một vòng cung.

Mắt người thợ điện như bị thôi miên, nhìn theo khẩu súng giơ lên theo đường vòng cung, óc anh căng thẳng quá sức người chịu đựng. Cái chết từ nòng súng đen ngòm nhìn thẳng vào mắt anh, và Pa-ven không đủ sức nhìn đi chỗ khác, dù chỉ là một phần trăm giây đồng hồ. Anh đợi phát súng, nhưng không thấy nổ. Mắt anh tròn xoe nhìn thấy mặt thằng cướp. Sọ nó to, cằm nó bạnh, râu ria đen sì tua tủa; Mắt nó nấp dưới bóng đen vành rộng mũ cát-két.

Pa-ven liếc nhìn An-na mặt trắng bệch như vôi.

Một đứa trong ba thằng cướp kéo An-na vào xó thủng của căn nhà đổ. Nó vặn tay người con gái, đè ra đất. Một bóng đen nữa đi kèm Pa-ven, anh chỉ thấy bóng nó in trên tường hầm. Đằng sau, trong gian nhà đổ nát, có tiếng vật lộn. An-na cố giãy không chịu; Tiếng kêu cứu bỗng im bặt: An-na bị nó lấy mũ cát-két nhét vào mồm. Tên cướp to đầu đang ôm ghì Pa-ven không chịu để đứa khác hiếp mà nó chỉ đứng xem: Như con thú dữ, nó muốn sán ngáy đến mồi ngon. Hình như nó là chủ tướng và nó không ưa làm cho đứa khác ăn. Anh con trai nó nắm trong tay này mặt non choẹt ấy mà. Trông cách ăn mặc, dáng chừng là “một thằng mọi” làm ở sở đầu máy thì phải. Thằng nhãi con này chẳng có gì nguy hiểm cả.

“Ta gõ hai ba lần cái củ tỏi này vào hoa cái nó, rồi ta chỉ cho nó con đường chạy qua bãi hoang thì nó sẽ chạy biến về phố, không dám ngoái cổ lại”. Và thằng cướp nới nắm tay đang siết chặt của nó ra.

- Xéo! Chạy đi khỏi đây ngay lập tức. Hễ mở mồm kêu, ông cho kẹo vào mồm ngay. - Và nó lấy nòng súng cốc vào trán Pa-ven. - Cút đi ngay! Nó rống lên, rồi hạ súng xuống cho nạn nhân của nó chạy đi, khỏi sợ nó cho ăn đạn vào lưng.

Pa-ven lùi lại phía sau, đi chếch hai bước, mắt không rời thằng cướp. Thằng cướp lại tưởng gã thanh niên non choẹt ấy vẫn còn sợ nó bắn vào đầu và không để ý cứ đi về phía căn nhà.

Tay Pa-ven thò ngay vào túi. “Chỉ cốt là đừng chậm quá!”, Anh quay phắt lại, giơ thẳng tay trái, nhằm đúng thằng cướp. Nó nhận ra nó đã tính lầm thì chậm quá mất rồi. Viên đạn chọc thủng mạng mỡ.

Nó không kịp giơ tay lên trời, loạng choạng ngã khuỵu vào tường hầm, rồi kêu lên không ra tiếng, ngón tay bíu chặt lấy tường, xác nó từ từ rơi phịch xuống đất. Từ chỗ thủng của căn nhà đổ, một bóng đen vụt ra, nhảy phắt xuống rãnh sân. Pa-ven bắn phát thứ hai theo nó. Một bóng nữa lom khom, ba chân bốn cẳng chạy vụt vào hầm tối. Súng lại nổ. Đạn bật vào tường bê-tông, bụi trắng rắc theo lên bóng đen. Nó nhảy né sang bên, rồi biến mất vào đêm tối. Khẩu Bơ-rao-ninh còn bắn theo ba phát inh tai nữa. Dưới chân tường hầm, thằng cướp to đầu hấp hối, quằn quại như con giun.

Pa-ven đỡ An-na dậy. Chị chưa hết kinh hoàng, nhìn tên cướp già giãy giụa, còn chưa tin hẳn là thoát nạn.

Pa-ven dìu An-na đi trong đêm tối, về phía phố, xa dần chỗ có ánh đèn. Hai người cùng chạy về phía nhà ga. Trên bờ cao của đường sắt, gần đường hầm, có ánh đèn đi tuần soi rối rít. Một tiếng súng báo động nổ ầm trên đường sắt.

Khi hai người về đến nhà An-na thì gà nhà ai đã gáy sáng trên đồi Ba-ti-sep. An-na nằm dài trên giường. Pa-ven ngồi bên bàn. Anh hút thuốc, nhìn những vòng khói tỏa đang bay lên trần nhà... Thằng cướp vừa bị bắn chết là người thứ tư anh đã giết trong đời.

Nói chung, trên đời này, có thể nào có một đức can đảm tuyệt đối, bao giờ cũng biểu hiện một cách toàn vẹn không nhỉ? Nhớ lại những cảm nghĩ của mình trong việc xảy ra vừa qua, Pa-ven thú thật với mình là những phút đầu tiên, con mắt đen ngòm của nòng súng đã làm anh sợ hết hồn. Và anh đã bắn trượt hai bóng đen chạy trốn, có phải chỉ vì anh hỏng một bên mắt, phải dùng tay trái bắn không? Không. Cách có vài bước mà thôi, anh có thể bắn tin hơn nhiều. Thế mà lại bắn không trúng, tại anh đã cuống, đã hấp tấp, điều đó chứng tỏ tâm thần anh có phần nào hốt hoảng.

Đèn để bàn chiếu lên đầu anh. An-na nhìn bạn, theo dõi từng nét cử động trên mặt. Thoạt trông, Pa- ven có vẻ bình tĩnh. Chỉ có nếp nhăn trên trán tỏ ra anh đang nghĩ lung.

- Nghĩ gì thế Pa-ven?

Những ý nghĩ của anh bị câu hỏi đột ngột đánh bạt, bay đi đâu mất như làn khói thuốc đang tỏa ra khỏi ánh đèn. Anh trả lời theo ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong óc:

- Tôi phải tìm đến đồng chí chỉ huy đơn vị bảo vệ thành phố. Tôi phải báo cáo với đồng chí ấy mới được.

Anh cố nén mệt mỏi, miễn cưỡng đứng dậy.

An-na không chịu buông tay anh ngay; Chị không muốn phải ở lại nhà một mình. An-na tiễn Pa-ven ra cửa, đứng nhìn theo mãi con người đối với mình từ nay thân quý và gần gũi quá. Chờ cho đến khi Pa-ven đã đi khuất vào bóng tối, chị mới trở vào đóng cửa lại.

Có Pa-ven đến gặp cho biết, cơ quan bảo vệ của đường sắt mới hiểu ra vụ giết người khó hiểu này. Người ta nhận ngay ra mặt tên bị giết là Phim-ca Sê-rếp, một tên cướp đường và giết người đã tái phạm nhiều lần mà các bộ phận điều tra hình sự đã nhẵn mặt.

Ngày hôm sau, ai cũng biết chuyện xảy ra ở đường hầm.

Nhân đó mà có chuyện va chạm bất ngờ xảy ra giữa Pa-ven và Svê-tai-ép.

Giữa lúc cả xưởng đang mải miết làm việc thì Svê- tai-ép bước vào, gọi Pa-ven ra ngoài hành lang, kéo đến một chỗ xa, có vẻ cảm động lắm, lúc đó không biết bắt đầu câu chuyện thế nào, cuối cùng hỏi Pa-ven:

- Cậu cho mình biết chuyện xảy ra đêm qua thế nào?

- Cậu biết cả rồi còn gì?

Svê-tai-ép nhún vai một cách cáu kỉnh. Người thợ điện hiểu đâu là câu chuyện ở đường hầm động đến lòng Svê-tai-ép hơn người khác. Pa-ven không biết anh chàng thợ rèn bề ngoài phớt lạnh này trong bụng rất cảm An-na. Đối với An-na, chẳng phải mình anh chàng có thiện cảm, song cảm tình ở hắn ta phức tạp hơn người khác. Được Ta-li-a vừa cho biết chuyện xảy ra đêm qua ở đường hầm, Svê-tai-ép nghe xong, một câu hỏi làm hắn ta nhức óc. Hắn biết không thể nào đem hỏi trực tiếp Pa-ven được; Song hắn muốn biết rõ sự thật thế nào. Hắn cũng cảm thấy lờ mờ những điều mình lo ngại đây có phần ích kỷ bần tiện; Song lần này, trong cuộc đấu tranh của những tình cảm mâu thuẫn ở lòng hắn; Bản năng thô bạo, bản năng thú vật đã thắng mất rồi. Hắn bắt đầu nói với Pa-ven bằng giọng khàn khàn:

- Pa-ven này, câu chuyện mình hỏi, cậu đừng kế với ai. Cậu hiểu mình muốn cậu đừng nói với An-na, làm An-na nghĩ ngợi. Mà cậu cũng có thể tin là mình cũng không nói với ai hết. Mình đề nghị cậu cho mình biết, khi thằng cướp giữ chịt lấy cậu thì mấy thằng kia có hiếp được An-na không?

Nói đến đoạn cuối của câu, Svê-tai-ép sượng mặt quá quay đi nhìn chỗ khác.

Pa-ven bắt đầu lờ mờ hiểu Svê-tai-ép: “Nếu cậu ta đối với An-na không có gì thì cậu ta cũng chẳng lo cuống cuồng như thế. Nhưng nếu cậu ta yêu An-na thì...”. Pa-ven thấy có điều gì tổn thương đến An-na.

- Cậu hỏi thế làm gì?

Svê-tai-ép nói lí nhí, chẳng hiểu nói gì cả, rồi thấy người ta đã đoán được bụng mình, hắn đâm cáu:

- Tại sao cậu lại nói lảng đi như thế? Tôi hỏi cậu để cậu trả lời tôi. Cậu lại đi hỏi vặn lại tôi.

- Cậu yêu An-na phải không?

Im lặng. Rồi Svê-tai-ép khó nhọc dằn ra tiếng:

- Phải.

Pa-ven không nén được phẫn nộ, quay gót đi ra hiên, không thèm ngoái lại nhìn.

*

... Ô-cu-nhếp đứng quanh quẩn ở gần giường bạn, lúng ta lúng túng hồi lâu rồi mới đến ngồi sát xuống mép giường, để tay lên cuốn sách Pa-ven đang đọc.

- Pa-vơ-lu-sa ơi, cậu có biết không, mình phải kể cậu nghe chuyện này, cậu biết chưa nhỉ? Câu chuyện có vẻ vớ vẩn mà lại chẳng vớ vẩn tí nào. Chuyện là... Giữa Ta-li-a La-gu-chi-na với mình. Cậu hiểu, mình ưa cô ấy. - Ô-cu-nhếp, vẻ ngượng ngùng, đưa tay gãi đầu nhưng không thấy bạn chế, đánh bạo nói nốt.

- Và Ta-li-a cũng thế... Chắc cậu hiểu rồi. Mình chẳng phải kể nữa. Câu chuyện rõ ràng chẳng phải soi đèn mới hiểu. Hôm qua, hai chúng mình bàn nhau, tính xem duyên phận thế nào, định lập gia đình với nhau. Mình hai mươi hai tuổi, hai đứa cùng có quyền bầu cử cả rồi. Mình định xây dựng với Ta-li-a trên nguyên tắc bình đẳng. Cậu nghĩ thế nào?

Pa-ven suy nghĩ một lát.

- Cậu bảo mình còn nghĩ thế nào nữa? Cậu cũng như Ta-li-a là bạn thân của mình. Bọn chúng ta như người ta nói là cùng một dòng máu mủ. Các mặt lợi ích khác, ta cũng đều giống nhau cả. Với lại Ta-li-a là một nữ thanh niên rất tốt... Rõ ràng là nên lắm rồi.

Hôm sau, Pa-ven mang hòm xiểng sang với anh em ở tập thể gần sở đầu máy. Vài ngày sau ở nhà An-na có tổ chức một tối vui, chẳng có rượu chè nhậu nhẹt gì, thật là một buổi tối vui cộng sản, để mừng cặp vợ chồng mới Ta-li-a La-gu-chi-na và Nhi-ca-lai Ố-cu-nhếp. Một buổi tối gợi lại những kỷ niệm xưa và đọc những quyển sách say mê nhất. Người ta hát đồng ca với nhau, hát nhiều bài và hát rất hay nữa. Những bài ca chiến đấu vang bay đi xa. Đến khuya, Ca-chi-u-sa và Mua-ra mang đàn gió lại. Tiếng đàn trầm mượt và tiếng láy đệm thánh thót như nhịp chuông bạc, vang âm khắp gian phòng. Tối hôm ấy, Pa-ven lại cầm lấy đàn chơi như ngày nào. Và đến khi chàng gấu Pan-cơ-ra-tốp lại xông ra nhảy nữa là điều mà mọi người lạ nhất thì Pa-ven bốc hẳn; Đàn gió của anh lại như xưa, dốc hết nhiệt tình:

Này kìa, đường phố, đường phố với bao ánh sáng!

Thằng chó đểu Đê-ni-kin đang giận điên người!

Ở Xi-bê-ri Ủy ban đặc biệt chống phản cách mạng!

Đã đập chết tan tành bọn Côn-sắc, Ha! Ha!...

Đàn gió ca ngợi dĩ vãng, những năm rực ánh lửa và tình bạn ngày nay, ca ngợi đấu tranh và lòng yêu đời. Nhưng khi Vô-lưn-xép đỡ lấy đàn chơi bài “Ô này! Quả táo!”... Hết sức vui nhộn của những người thủy thủ thì chỉ có Pa-ven nhảy, làm điệu vũ say sưa đến điên cuồng ấy! Bị điệu nhạc hầm hập sôi nổi lôi cuốn Pa-ven đã nhảy cuộc nhảy thứ ba và cũng là cuộc nhảy cuối cùng trong đời anh.

Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 4

Biên giới là hai cột biểu. Hai cột biểu đối diện nhau, im lặng và thù địch, là hiện thân của hai thế giới. Một chiếc làm bằng thân cây bào nhẵn, trơn tru, sơn vằn đen trắng như chòi canh của cảnh sát. Con diều hâu một đầu bằng gỗ đóng chắc bằng đinh to tướng vào đỉnh cột. Con diều hâu xù lông cánh, móng như bíu lấy cột sơn vằn, mỏ cong vênh vểnh ra đằng trước, mắt càu cạu nhìn cái biển sắt trước mặt. Cách sáu bước chân là chiếc cột khác, tròn trĩnh, bằng gỗ sên để mộc, chôn thật sâu xuống đất. Trên cột có một tấm biển bằng sắt mang hình búa liềm. Hai cột biển đều trồng trên một dải đất bằng, thế mà giữa hai thế giới đó là một vực sâu thăm thẳm. Người nào liều mạng mới dám vượt qua sáu bước chân đó.

Biên giới là đây.

Trên một khoảng dài hàng ngàn cây số, từ Hắc Hải chạy đến cực Bắc, cho đến tận đại dương băng giá dựng lên cả một dãy cột biển sừng sững, không động. Những người lính gác không biết nói ấy, mang trên những tấm mộc bằng sắt huy hiệu vĩ đại của lao động, đứng canh phòng cho các nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa. Chiếc cột biển đầu gắn con diều xòe cánh ấy đánh dấu biên giới giữa hai Nhà nước U-cơ-ren Xô-viết và nước Ba Lan của bọn địa chủ quý tộc. Thôn Bê-rê-dơ-đốp nhỏ xíu khuất vào rừng sâu. Cách thôn đó mười cây số là biên giới. Chỗ ấy giáp mặt với thôn Cô-rê-xơ bé nhỏ của Ba Lan. Giữa khoảng thôn Xư-la-vút và thôn A-na-pô- li là khu đóng quân của tiểu đoàn biên phòng X.

Hàng cột biển nối tiếp nhau chạy ngang cánh đồng phủ tuyết, xuyên qua các ngả rừng, đổ xuống các vực nước, rồi lại bò lên các gò cao, nhấp nhô trên các đồi núi và khi tới một con sông thì từ trên bờ cao, hàng cột đưa mắt dò xét nhìn xuống dải đồng bằng tuyết phủ trắng xóa bên kia của nước ngoài.

Trời lạnh cóng, nước đóng băng. Tuyết vỡ tan kêu răng rắc dưới gót ủng lông cừu. Trước cột biển mang hình búa liềm nổi bật lên bóng người đội mũ chiến đấu kiểu dũng sĩ, với bước đi chắc nịch, đang đi tuần trong khu vực mình. Người Vệ quân đỏ tầm vóc cao lớn ấy mặc áo ca-pốt xám, ren cổ xanh, chân đi ủng dạ. Ngoài chiếc áo ca-pốt lại khoác thêm một chiếc áo tơi cao cổ rộng bằng da cừu, đầu đội một chiếc mũ dạ ấm áp. Anh mang bao tay bằng da cừu. Cái áo tơi dài chấm gót dù bão tuyết dữ dội đến đâu cũng giữ được cho người ấm. Khẩu súng trường khoác vai đè lên áo tơi. Anh Vệ quân đỏ khoái trá hút khói thuốc mộc, đi theo lối mòn, áo dài quét tuyết. Trên biên cương Xô-viết, giữa đồng quang, các chiến sĩ biên phòng đứng người nọ cách người kia một cây số để mắt vừa nhìn thấy nhau. Bên phía Ba Lan, mỗi cây số có hai lính đứng.

Đi ngược lại phía anh Vệ quân đỏ là một người lính Ba Lan cũng đang đi tuần bên địa phận mình. Người lính Ba Lan mang đôi giày cao cổ thô kệch, mặc quần áo xanh ngả xám, ngoài khoác áo ca-pốt có hai hàng khuy lấp lánh. Trên đầu đội mũ “liên bang” mang huy hiệu diều hâu trắng; (Một thứ mũ của dân tộc Ba Lan gọi là “Konfédératka” mà những người cách mạng thời cách mạng liên minh ở Ba Lan năm 1768 đã dùng. Về sau bọn phản động Ba Lan cũng dùng mũ này cho quân lính để che giấu những dã tâm phản cách mạng của chúng) trên ngù dạ ở cầu vai cũng diều hâu, trên nẹp cổ áo cũng diều hâu. Nhưng ngần ấy con diều hâu cũng không làm cho người lính thấy ấm hơn. Rét cóng làm anh ta buốt thấu xương. Anh ta lấy tay xát hai tai đã tê cóng, vừa đi vừa đập đế giày vào nhau, hai bàn tay mang găng mỏng cũng bị tê cóng. Không một phút nào anh ta có thể dừng chân được, dừng lại thì giá rét như khóa lấy chân tay. Vì thế, lúc nào anh ta cũng cứ bước, đôi lúc lại chạy như ngựa phi nước kiệu. Khi hai người lính biên phòng đã đi gần nhau, người lính Ba Lan quay lại và đi song song với đồng chí Vệ quân đỏ.

Hai bên biên giới không được nói chuyện với nhau. Nhưng khi mà chung quanh vắng tanh vắng ngắt, cách một cây số mới có bóng người, thì ai biết được hai người lính này im lặng mà đi hay đang vi phạm luật lệ quốc tế?

Người lính Ba Lan thèm hút thuốc, nhưng lại bỏ quên bao diêm ở trại. Đang lúc ấy, gió cứ cố tình tạt cái mùi thuốc lá mộc quyến rũ từ phía Xô-viết sang mới hại chứ! Người lính Ba Lan ngừng tay xát tai tê buốt của mình và quay nhìn ra đằng sau: Vì đôi khi có đội ba tui, thường do tên đội dẫn đi, có lúc do chính tên quan hai dẫn đi nữa, từ trên một đỉnh núi cao nào đó nhô ra bất ngờ, để kiểm soát các trạm gác. Nhưng lần này chung quanh không một bóng người. Tuyết óng ánh sáng dưới ánh nắng. Trên trời không một bông tuyết rơi.

- Đồng chí ơi, cho tôi xin que diêm. - Anh ta là người đầu tiên vi phạm điều luật quốc tế ác hại. Anh ta hất ra sau lưng khẩu súng trường kiểu bắn được mấy phát liền của Pháp, đầu có lắp lưỡi lê con kiếm, tay anh ta lóng cóng vất vả lắm mới móc trong túi áo ca-pốt ra được gói thuốc lá rẻ tiền.

Đồng chí Vệ quân đỏ nghe rõ lời khẩn cầu của anh lính Ba Lan. Song điều lệnh quân sự trong công tác biên phòng ngăn cấm chiến sĩ không được bắt chuyện với người bên kia biên giới. Hơn nữa, đồng chí không hoàn toàn hiểu hết những tiếng Ba Lan của anh lính kia. Cho nên đồng chí lại tiếp tục đi, đặt mạnh chân xỏ ủng lông cừu êm ấm lên lớp tuyết vỡ kêu lạo xạo.

- Đồng chí bôn-sê-vích ơi, cho tôi xin tí lửa hút thuốc, ném cho tôi mượn bao diêm. - Lần này người lính Ba Lan nói tiếng Nga.

Người Vệ quân đỏ nhìn anh ta chăm chú. “Hình như giá rét làm cho” pan “buốt thấu gan rồi. Gọi là anh lính tư sản mà đời anh ta thật cực như con chó. Rét cóng thế này mà bọn chúng bắt anh ta ra đây, chỉ cho được manh áo ca-pốt nhỏ xíu thổ tả. Đấy, anh ta nhảy cẫng lên như thỏ, và không có thuốc thì nhảy thế cũng chẳng ấm được”. Đồng chí Vệ quân đỏ không quay đầu lại, ném sang bên kia bao diêm. Anh lính Ba Lan bắt ngay lấy và đánh luôn mấy que, mãi mới châm được thuốc. Bao diêm lại theo đường cũ ném trả lại qua biên giới. Lúc đó đến lượt anh Vệ quân đỏ vô tình phạm luật.

- Giữ lấy mà dùng, tôi còn bao khác.

Nhưng từ bên kia biên giới có tiếng đáp lại.

- Thôi, xin cảm ơn. Tôi mà cầm cái bao diêm này thì ăn hai năm tù mất.

Đồng chí Hồng quân nhìn bao diêm. Trên nhãn bao vẽ một chiếc máy bay. Ở chỗ đáng lẽ vẽ cánh quạt lại vẽ một quả đấm khỏe có đề chữ “Tối hậu thư”. Anh nghĩ thầm: “Ừ, mà phải, của này không hợp với họ”.

Người lính Ba Lan vẫn tiếp tục đi song song một chiều với đồng chí Hồng quân. Vì đi một mình giữa đồng không mông quạnh, chẳng có một bóng người, anh lính Ba Lan đó cũng thấy buồn.

*

Đôi yên nghiến kĩu kịp nhịp nhàng, hai con ngựa chạy nước kiệu đều và vững. Lông quanh mũi con ngựa giống đen nhánh dính nước đông lại: Mũi nó thở ra thành lớp hơi trắng tan vào không khí. Con ngựa cái lang trắng mà người tiểu đoàn trưởng cưỡi có một dáng đi đẹp, nó nhằn nhằn dây cương, cúi cái cổ thon thon xuống thành một đường vòng cung. Hai người đi ngựa đều mặc áo ca-pốt xám, thắt dây lưng to bản, ở mỗi ống tay có ba gạch vuông đỏ, nhưng người tiểu đoàn trưởng Ga-vơ-ri-lốp thì mang lon xanh và người đồng hành của anh ta thì mang lon đỏ. Ga- vơ-ri-lốp là chiến sĩ biên phòng. Các trạm của tiểu đoàn do anh chỉ huy đóng rải ra trên một khoảng dài bảy mươi cây số. Ở đây, anh là “chủ nhân”. Người bạn cùng đi với anh là khách từ Bê-rê-dơ-đốp đến, đấy là chính ủy tiểu đoàn tổng huấn luyện quân sự tên là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin.

Đêm ấy có tuyết rơi. Tuyết mềm mại, mịn màng phủ lấy mặt đất; Chưa có một móng ngựa, một vết chân người chạm tới lớp tuyết trắng xóa. Hai người từ trong rừng cây đi ngựa ra bất thình lình phi nước kiệu trên cánh đồng. Độ bốn mươi thước lại có hai cột biển.

- Pơ-ru... U...!

Ga-vơ-ri-lốp ghì riết cương ngựa. Pa-ven quay ngoắt con hắc mã lại để biết tại sao bạn mình dừng ngựa. Ga-vơ-ri-lốp từ yên ngựa rướn người ra cúi xuống, nhìn chăm chú một vết lạ lùng kéo dài trên tuyết, trông hình như có ai lăn bánh xe nhỏ qua. Có một con thú ranh mãnh nào đã qua đây, chân nó bước chồng lên nhau, vẽ lên thành một đường mắt xích rất tinh khôn để đánh lạc dấu vết. Khó mà biết được dấu chân con vật đi từ đâu, nhưng đồng chí tiểu đoàn trưởng dừng ngựa lại không phải vì vết chân con thú ấy. Cách hai bước nữa, lớp dấu chân hình mắt xích lấm chấm tuyết phủ ấy lại có những dấu chân khác nữa. Có một người đã qua đây. Hắn không làm rối dấu chân mà đi thẳng về phía rừng. Xem dấu chân thì thấy rõ là người đó từ phía Ba Lan sang.. Đồng chí tiểu đoàn trưởng thúc ngựa theo dấu chân trên tuyết đi lại phía con đường vẫn đi tuần. Bên phía Ba Lan, dấu chân người đi xa có đến mươi thước nữa.

Tiểu đoàn trưởng càu nhàu:

- Đêm qua có kẻ vượt biên giới. Lại một lần nữa, trung đội ba đã để lọt, vậy mà trong báo cáo sáng nay không nói gì hết! Lơ mơ thật.

Ga-vơ-ri-lốp có bộ ria đã hoa râm, hơi thở đông lại làm bạc bộ ria ấy và bộ ria bám vào làn môi trên, trông rất nghiêm.

Có hai bóng người đi lại phía tiểu đoàn trưởng và chính ủy. Một bóng người bé nhỏ đen ngòm, có đeo lưỡi lê Pháp ánh nắng sáng loáng; Còn bóng kia thì to lớn bận áo tơi da cừu vàng. Con ngựa cái màu lang trắng bị thúc rảo bước chạy và hai người đi ngựa chẳng mấy chốc đã đến gần hai bóng người kia. Người lính Hồng quân sửa lại dây đeo súng trên vai và nhổ mẩu thuốc lá đã hút tàn xuống bãi tuyết.

- Chào đồng chí! Thế nào, khu vực đồng chí ở đây ra sao? - Anh lính Hồng quân to cao đến nỗi tiểu đoàn trưởng hầu như không phải cúi xuống khi giơ tay bắt. Anh chiến sĩ to lớn vội rút găng tay ra. Tiểu đoàn trưởng bắt tay anh.

Người lính Ba Lan từ xa theo dõi cảnh tượng đó. Hai sĩ quan Hồng quân bắt tay người lính như những người bạn rất hẩu với nhau. Trong nháy mắt, anh lính Ba Lan bỗng nảy ra mong ước: Giá mình cũng được bắt tay lão quan tư Giắc-rếp-ski của mình như thế nhỉ! Và mơ tưởng hão huyền ấy đột nhiên làm cho anh quay mặt đi.

Anh lính Hồng quân báo cáo:

- Báo cáo đồng chí tiểu đoàn trưởng, tôi vừa mới ra nhận gác.

- Đồng chí đã thấy dấu chân người đằng kia chưa?

- Báo cáo chưa thấy.

- Thế đêm qua ai gác từ hai giờ đến sáu giờ?

- Báo cáo đồng chí tiểu đoàn trưởng, lúc ấy Xu- rô-ten-cô gác.

- Thôi được! Đồng chí nhìn cho kỹ nhớ.

Và lúc sắp đi tiểu đoàn trưởng giọng nghiêm nghị dặn trước:

- Đồng chí đừng có đi đi lại lại nhiều với bọn đó nhớ.

Khi đôi ngựa đã phi nước kiệu dọc con đường rộng chạy dài từ biên giới về thôn Bê-rê-dơ-đốp, tiểu đoàn trưởng kể chuyện:

- Ở biên giới phải tỉnh mắt mới được. Sơ ý một phút là có khi ân hận cay người. Chúng tôi ở đây làm việc là phải chịu mất ngủ. Ban ngày ban mặt, chúng vượt biên giới còn khó chứ ban đêm thì mình phải thính tai mới được. Đồng chí Pa-ven ạ, đồng chí nghĩ mà xem. Ở khu vực của tôi, có bốn thôn bị cắt làm hai (Hồi này có nhiều thôn ở biên giới Liên Xô- Ba Lan bị cắt làm đôi. Liên Xô một nửa, Ba Lan một nửa) cho nên rất nhiều khó khăn. Đặt bao nhiêu trạm gác cũng chẳng ăn thua gì. Cứ hễ có đám cưới hay có việc vui mừng gì là bà con phía bên kia lại kéo sang. Không có cách nào khác nữa: Nhà bên này bên kia chỉ cách nhau có hai chục bước, con sông con thì con gà cũng lội qua được. Thêm vào đấy cái nạn buôn lậu. Hàng buôn lậu lặt vặt thôi, quả như thế. Một mụ đàn bà mang sang được chừng vài chai rượu Ba Lan 40 độ chẳng hạn. Nhưng cũng không ít những tên buôn lậu lớn có vốn rất to. Đồng chí có biết bọn Ba Lan làm gì không? Trong tất cả các thôn biên thùy, chúng đều mở cửa hàng bách hóa lớn: Ai muốn mua gì cũng có. Tất nhiên, chúng làm thế chẳng phải vì nông dân nghèo khổ bên nước chúng nó đâu.

Pa-ven chăm chú nghe người tiểu đoàn trưởng. Cuộc sống của những chiến sĩ biên phòng thật là một công tác quân báo thường xuyên.

- Đồng chí Ga-vơ-ri-lốp này, việc đó chỉ là buôn lậu hay còn là thế nào nữa?

Tiểu đoàn trưởng, không cười nữa, đáp lại:

- Cái hóc là ở chỗ ấy đấy.

Bê-rê-dơ-đốp là một thôn bé nhỏ trong tỉnh, xưa kia là khu cư trú của người Do-thái. Hai ba trăm nóc nhà dựng lên lộn xộn chẳng ra sao. Một bãi đất to họp chợ, giữa bãi là vài chục cửa hàng tạp hóa. Bãi đất bẩn thỉu, phủ đầy phân rác. Những nóc nhà nhỏ của nông dân như một cái dây lưng đánh đai lấy thôn này. Ở giữa khu người Do-thái ở, dọc đường đi đến lò lợn, có một cái nhà thờ Do-thái. Tòa nhà cũ kỹ trông thật ảm đạm. Thật ra, vào các ngày thứ bảy thì nhà thờ này không phải than phiền là vắng vẻ đâu: Người đi lễ đến đông chật. Nhưng cũng chẳng được như ngày trước và cuộc đời của ông thầy tu “ráp-banh” (tên gọi thầy tu của đạo Do-thái) không được như ý ông mong muốn nữa. Nhất định là đã có chuyện gì rất tệ xảy ra vào năm 1917, vì ngay cả ở đây, là nơi hẻo lánh mà bọn thanh niên nhìn thầy “ráp-banh” không còn cung kính cho phải đạo nữa. Thật ra thì những người già vẫn kiêng những món ăn Chúa cấm, nhưng đã có biết bao gã trai hư hỏng ăn thứ xúc-xích lợn mà Chúa đã từng nguyền rủa. Chỉ nghĩ đến không thôi cũng đã đủ thấy tởm! Thầy tu Bô-rúc hầm hầm giận dữ, lấy chân đá con lợn sề đang rúc mõm vào đống rác kiếm ăn. Phải, thầy chẳng ưa gì việc thôn Bê-rê-dơ-đốp trở thành một trung tâm của quận này một tí nào. Một lũ cộng sản không hiểu từ đâu kéo đến, bày đặt ra lắm trò đời và mỗi ngày một đẻ ra thêm nhiều chuyện khó chịu. Hôm qua, một thầy ráp-banh đã từng thấy ở cổng biệt thự cũ của lão cố đạo một cái biển mới: “Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ-ren, Ban chấp hành quận đoàn Bê-rê-dơ-đốp”.

Cái biển ấy chẳng phải điềm lành. Lão thầy tu đang mải suy nghĩ thì mắt chạm ngay vào tờ yết thị nhỏ dán ở cửa nhà thờ của lão.

“Hôm nay, tại câu lạc bộ, có cuộc họp của thanh niên lao động. Li-xi-xưn, chủ tịch Ban chấp hành và Ca-rơ-sa-ghin, quyền bí thư quận đoàn thanh niên, sẽ đọc báo cáo. Sau cuộc họp sẽ có hòa nhạc của học sinh trường chín năm”.

Lão thầy tu Do-thái giận dữ xé tờ giấy:

- Đã bắt đầu giở trò!

Cái khu vườn rộng của lão cố đạo ôm lấy hai bên nhà thờ nhỏ thôn này. Trong vườn có một tòa nhà cổ rất lớn. Hơi mốc xông lên trong những gian phòng vắng vẻ, chán ngắt, nơi này trước kia là chỗ ở của lão cố đạo từ lâu đã chán ghét nhau, cả hai cùng già khọm và tẻ lạnh như cái nhà vậy. Nhưng từ khi có những người chủ mới đến ở thì vẻ tẻ lạnh biến đi ngay. Trong phòng khách, chỗ trước kia chủ cũ chỉ tiếp khách vào những dịp lễ lớn, bây giờ lúc nào cũng đông người. Nhà lão cố đạo đã trở thành trụ sở của Đảng ủy Bê-rê-dơ-đốp. Trên cánh cửa một phòng nhỏ phía bên phải lối vào, có mấy chữ viết bằng phấn: “Quận đoàn thanh niên cộng sản”. Tại đây, ngày nào Pa-ven cũng đến làm việc một buổi. Anh vừa làm chính ủy của tiểu đoàn tổng huấn luyện quân sự thứ hai, vừa kiêm bí thư của quận đoàn thanh niên cộng sản vừa mới thành lập.

Kể từ buổi tối các anh chị em liên hoan ở nhà An-na đến nay đã tám tháng trôi qua. Thế mà Pa-ven có cảm tưởng như chỉ mới hôm qua. Anh gạt chồng tài liệu sang bên, ngả lưng ra ghế bành, nghĩ ngợi...

Đêm đã khuya. Trụ sở Đảng ủy không còn ai. Im ắng, tịch mịch. Đồng chí Tô-rô-phi-mốp, bí thư quận Đảng ủy, là người ở lại sau cùng cũng vừa đi khỏi. Và bây giờ Pa-ven một mình ở lại nhà. Nước đóng băng vẽ lên cửa kính những nét chạm trổ muôn hình muôn vẻ. Trên bàn một ngọn đèn dầu, lò sưởi tỏa hơi nóng ấm. Pa-ven nhớ lại những chuyện xảy ra cách đây không lâu... Tháng Tám, tổ chức ở nhà máy đã phái anh đi phụ trách thanh niên trong “chuyến tàu sửa chữa” đến E-ca-chê-ri-nô-sláp. Suốt cả mùa thu, một trăm rưởi thợ đã đi từ ga này đến ga kia, dọn dẹp vết tích chiến tranh và tàn phá, thu vén những toa tàu bị cháy, bị đổ nát. Chuyến tàu đi từ Xi-nhen- nhi-cốp đến Pô-lốc. Vùng này chính là đất xưng hùng xưng bá trước kia của tên phỉ Ma-khơ-nô, cho nên mỗi bước đều gặp dấu vết phá hoại và giết chóc. Ở Gu-lay Pô-lê, mất một tuần lễ để sửa chữa kho nước, đặt những mảnh tôn vào lòng thùng nước đã bị mìn làm thủng đáy. Pa-ven vốn là thợ điện nên không thuộc nghề và không am hiểu kỹ thuật và những khó khăn của nghề thợ nguội, vậy mà bàn tay anh với cái lắc-lê đã vặn đến mấy nghìn đinh ốc gỉ sét.

Cuối mùa thu, chuyến tàu lại trở về nhà máy. Nhà máy lại nhận một trăm rưởi đôi tay thợ...

Người ta thấy người thợ điện Pa-ven năng đến nhà An-na hơn. Trên trán anh, nếp nhăn đã biến đi và lại hay nghe thấy những tiếng cười lôi cuốn của anh vang lên.

Bạn bè dự các nhóm học tập lại được nghe Pa-ven kể chuyện những năm đấu tranh qua đã lâu rồi. Anh kể về nước Nga xưa kia xơ xác, tả tơi, thân nô lệ mà lòng bất khuất, nước Nga đã từng vươn lên lật đổ con ác quỷ Nga hoàng. Anh kể về những cuộc khởi nghĩa của Stê-pan Ra-din và Pu-ga-sốp.

(Stê-pan Ra-din, người anh hùng Cô-dắc sông Đông đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lớn chống phong kiến của nông dân và dân tộc Cô-dắc chống lại Nga hoàng, từ năm 1667 đến năm 1671.

E-mê-liên Pu-ga-sốp, nhà lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa rất lớn có phạm vi toàn quốc chống phong kiến của nông dân Cô-dắc nước Nga vào thế kỷ 18.

Một buổi tối, anh em thanh niên đến họp ở nhà An-na, người thợ điện Pa-ven hôm đó đột nhiên bỏ một thói quen có hại, mắc từ lâu. Anh quen hút thuốc, gần như từ bé đã hút, thế mà tuyên bố bằng một giọng quả quyết, dứt khoát rằng:

- Tôi không hút thuốc nữa.

Chuyện ấy xảy ra đột ngột. Đang nói chuyện có một người nêu lên thói quen là bản năng thứ hai của con người, do đó, gây ra tranh luận; Người đó lấy tật nghiện thuốc lá ra làm ví dụ. Ý kiến bất đồng. Anh thợ điện Pa-ven không tham gia vào cuộc tranh luận. Nhưng Ta-li-a kéo Pa-ven vào, bắt nói. Anh nói điều mình nghĩ:

- Chính con người chỉ huy thói quen của mình, chứ không phải thói quen chỉ huy con người. Nếu không thế thì con người ta sẽ đi đến đâu?

Svê-tai-ép từ góc anh ta ngồi, nói to ra:

- Nói thế nghe thì kêu lắm. Pa-ven vẫn thích cái lối nói như thế. Nhưng nếu đem bắc cân lời nói và việc làm thì thấy gì? Bản thân Pa-ven có hút không? Có hút. Pa-ven có biết hút thuốc lá có hại không? Có biết. Nhưng bỏ thuốc thì muộn rồi. Cậu ta không có gan bỏ. Gần đây, Pa-ven lại mới khởi xướng ra một “phong trào văn hóa” trong các nhóm học tập đấy. - Và Svê-tai-ép đổi giọng, hỏi có vẻ chế nhạo: - Hãy để cho Pa-ven trả lời chúng ta: Pa-ven có còn văng tục nữa không? Ai biết Pa-ven cũng đều phải nói: Cậu ấy đã ít chửi tục, nhưng đã chửi thì lại chửi rất tệ. Nghề đời, thuyết pháp người ta vẫn dễ hơn là tự mình làm thánh.

Gian phòng trở nên im lặng. Giọng đả kích của Svê tai-ép làm cho mọi người cảm thấy khó chịu. Người thợ điện Pa-ven không trả lời ngay. Anh từ từ rút điếu thuốc đang ngậm ở miệng ra, vò nát điếu thuốc và nói, giọng vẫn như thường:

- Tôi không hút thuốc nữa.

Im lặng một lát, anh nói thêm:

- Tôi làm thế trước hết là ích cho tôi và đồng thời cũng ích phần nào cho Svê-tai-ép. Kẻ nào không bỏ được tật xấu của mình thì kẻ đó chẳng đáng một đồng kẽm. Tôi còn tật chửi tục nữa. Tôi vẫn chưa hoàn toàn thắng hẳn được cái thói nhục nhã ấy. Nhưng ngay Svê-tai-ép cũng nhận rằng ít nghe thấy tôi chửi tục nữa. Văng ra một lời nói tục còn dễ hơn châm một điếu thuốc hút. Vì vậy cho nên ngay bây giờ, tôi chưa dám nói là đã bỏ hẳn được chửi tục. Nhưng rồi tôi sẽ bỏ được, chắc chắn là như vậy.

*

Bước vào mùa đông, gỗ trôi về ngáng lấy cả dòng sông. Cơn nước lũ mùa thu đã xô vỡ hết các bè củi và củi gỗ cứ thế bị nước cuốn trôi về xuôi. Khu Xô- lô-men-ca lại tung thanh niên đi cứu lấy của rừng.

Pa-ven không muốn rớt lại sau anh em, nên giấu không cho anh em biết là mình đã bị cảm mạo nặng. Và một tuần sau, khi trên các bến sông, củi gỗ vớt lên đã chất đống cao như núi thì nước lạnh buốt và khí ẩm mùa thu đã làm thức tỉnh kẻ thù lâu nay còn ngủ im trong máu Pa-ven: Anh bị sốt, nóng như than, nằm liệt giường. Trong hai tuần lễ, cơ thể anh bị bệnh tê thấp ác tính giày vò và khi ra bệnh viện, anh đứng chưa vững, làm việc cứ phải ngồi buông hai chân trên bàn thợ như “cưỡi ngựa”. Đốc công nhìn anh chán ngán lắc đầu. Mấy ngày sau, ủy ban công bằng (ở các nhà máy có lập ra ủy ban này, làm việc không thiên vị ai nên gọi là ủy ban vô tư hay công bằng) đã công nhận anh là người không thể lao động được nữa. Người ta thanh toán tiền công còn lại cho anh và cho lĩnh thêm một số tiền trợ cấp nữa, làm anh nổi giận; Từ chối không nhận số tiền ấy.

Anh giã từ công xưởng, lòng nặng trĩu, chống gậy lững thững ra về, mỗi bước chân nhấc đi lại đau điếng người. Mẹ đã nhiều lần viết thư cho anh, mong con về thăm. Và bây giờ đây, anh nghĩ đến bà cụ, nhớ lại lời mẹ nói lúc ra đi: “Chỉ khi nào chúng mày bị ốm đau thương tật, mẹ mới được trông thấy mặt chúng mày thôi!”

Đến tỉnh ủy, anh nhận hai tập hồ sơ cá nhân cuộn tròn lại: Hồ sơ Đoàn và hồ sơ Đảng. Để khỏi làm tăng nỗi đau buồn cho mình, anh chẳng đến chào biệt ai cả, về thẳng nhà với mẹ. Suất hai tuần, bà cụ chườm nước nóng và xoa bóp hai chân sưng cho con; Được một tháng thì Pa-ven đã đi được không cần chống gậy nữa: Nỗi vui mừng tràn ngập trong lòng anh và buổi chiều tàn thế là lại đổi ra cảnh bình minh. Con tàu đưa anh đến tỉnh lỵ. Ba ngày sau, ban tổ chức cấp cho anh giấy giới thiệu điều anh đến nhận công tác của ủy ban quân sự tỉnh, làm chính trị viên ở cơ quan tổng huấn luyện quân sự đang thành lập lúc bấy giờ.

Sau đấy một tuần nữa, anh đến đây, đến thôn nhỏ ngập trong tuyết này, làm chính ủy tiểu đoàn số hai. Ở Liên quận Đoàn thanh niên cộng sản, anh nhận nhiệm vụ tập hợp các đoàn viên lâu nay bị phân tán lại và lập ra tổ chức đoàn ở khu mới này. Đấy, đời anh đã xoay chiều ra như vậy đấy.

*

Ngoài trời nóng dữ. Cành anh đào ngó đầu vào cửa sổ bỏ ngỏ nơi phòng làm việc của chủ tịch Ban chấp hành. Mặt trời rọi sáng cây thập tự mạ vàng trên gác chuông kiểu gô-tích của nhà thờ ở phía bên kia đường, đối diện với trụ sở Ban chấp hành. Trong khu vườn nhỏ, trước cửa sổ, đàn ngỗng con bé tí xíu của bà gác cổng trụ sở ủy ban nhanh nhảu chạy tìm ăn. Những con ngỗng mới nhú lông tơ màu xanh dịu như cỏ non quanh mình chúng.

Chủ tịch ủy ban đã đọc xong bức điện vừa nhận được Một bóng tối chạy qua mặt đồng chí. Bàn tay to gân guốc của đồng chí thọc vào mái tóc quăn rậm và nằm yên ở đấy.

Nhi-ca-lai Nhi-ca-lai-ê-vích Li-xi-xưn là chủ tịch Ban chấp hành Bê-rê-dơ-đốp: Đồng chí chỉ mới hai mươi bốn tuổi, nhưng anh chị em cán bộ Đảng và những người giúp việc chẳng ai ngờ là đồng chí ít tuổi đến thế cả. Li-xi-xưn người to lớn, khỏe mạnh, nét mặt nghiêm nghị và đôi khi dữ tướng, trông bề ngoài tưởng chừng như tuổi đã ba mươi lăm. Người đồng chí rắn chắc lại, đầu to cắm trên cái cổ vạm vỡ, cặp mắt nâu minh mẫn nhìn hơi lạnh nhạt, cằm bạnh đầy nghị lực. Li-xi-xưn mặc quần cộc xanh thẫm, áo lót xám, túi trên bên trái mang huân chương Cờ đỏ.

Trước tháng Mười, Li-xi-xưn “chỉ huy” chiếc máy tiện ở nhà máy chế tạo vũ khí Tu-la. Ông đồng chí, cha đồng chí và bản thân đồng chí hầu như từ lúc còn bé đã cắt và gọt sắt ở đấy.

Từ cái tối mùa thu ấy, lần đầu tiên trong đời, Li-xi-xưn cầm vũ khí mà trước kia anh chỉ làm ra thôi; Bão táp đã cuốn anh đi. Cuộc cách mạng và Đảng đã kéo anh từ trận lửa này đến trận lửa khác. Người thợ quân khí vùng Tu-la đó đã trải qua cả một con đường quang vinh: Mới đầu là binh nhì, anh đã trở thành sĩ quan chỉ huy và chính ủy trung đoàn của Hồng quân.

Lửa cháy, đạn réo đã thuộc về dĩ vãng rồi. Hiện nay, Li-xi-xưn công tác ở biên khu này. Cuộc đời lặng lẽ trôi đi. Ngày ngày, anh ngồi đến tối khuya nghiên cứu những báo cáo về tình hình mùa màng; Nhưng bức điện hôm nay bỗng làm anh vụt sống lại trong chốc lát dĩ vãng lửa đạn. Bức điện viết gọn, ngắn:

"Tối mật. Gửi chủ tịch Ban chấp hành Bê-rê-dơ-đốp: Đồng chí Li-xi-xưn.

Ở biên giới, quan sát thấy bọn Ba Lan tích cực chuyển đến một đám thổ phỉ quan trọng có thể gây khủng bố các vùng biên thùy. Đồng chí thi hành ngay những biện pháp đề phòng. Đề nghị tiền bạc và vàng của ngân khố cho chuyển đến liên quận ngay, đừng giữ tiền thuế ở nhà đồng chí".

Nhìn qua cửa sổ phòng làm việc của mình, Li-xi- xưn trông thấy được hết những ai đi vào trụ sở Ban chấp hành. Pa-ven đang leo lên thềm. Một phút sau, anh đập cửa.

Li-xi-xưn bắt tay Pa-ven.

- Cậu ngồi xuống, mình bàn chuyện này.

Suốt một tiếng đồng hồ, chủ tịch Ban chấp hành không tiếp một ai.

Pa-ven ở phòng làm việc của Li-xi-xưn bước ra thì trời đã đứng bóng. Cô bé Nhu-ra, em gái Li-xi-xưn, từ trong vườn chạy ra. Pa-ven thường gọi em bé là A-nhu-ca. Cô bé hay thẹn và tuy còn nhỏ tuổi mà vẻ người rất đoan trang, hễ cứ gặp Pa-ven là chào, miệng bao giờ cũng chúm chím cười đến ngoan. Hôm nay, cô bé cũng chào với một vẻ ngượng nghịu trẻ con, hất ngược chùm tóc cắt ngắn xòa trên trán.

Nhu-ra hỏi:

- Có ai trong buồng anh em không anh. Nãy giờ, chị Ma-ri-a đợi mãi anh em về ăn cơm.

- Có mình anh ấy trong phòng thôi. Em vào gọi được đấy A-nhu-ca ạ.

Sớm hôm sau, trời còn lâu mới sáng, có ba chiếc xe đóng ngựa béo tốt, dừng trước trụ sở Ban chấp hành. Những người đi áp tải xe nói chuyện nhỏ với nhau. Họ mang từ trong phòng tài vụ ra nhiều túi niêm phong, xếp lên xe và mấy phút sau, bánh xe đã lăn ầm ầm trên đường nhựa. Pa-ven chỉ huy một tiểu đội đi áp tải. Vượt bốn chục cây số (trong đó có hai mươi nhăm cây số đường rừng) đến liên quận không một trở ngại gì. Tiền và vàng được cất vào các két sắt của của ty tài chính liên quận. Mấy ngày sau, một người đi ngựa từ phía biên giới phi về phía Bê- rê-dơ-đốp. Những người vô công rồi nghề trong thôn ngơ ngác nhìn theo người đi ngựa và con ngựa ướt đẫm mồ hôi, sùi bọt mép.

Đến trước cửa trụ sở Ban chấp hành, người đi ngựa tụt xuống đất, và tay cầm kiếm, anh ta lọc cọc nện gót ủng trên bậc thềm. Li-xi-xưn cau mày, nhận thư trong tay người kia, bóc ra và ký lên phong bì. Người lính biên phòng đó không để ngựa nghỉ, nhảy phốc lên yên, phi nước đại trở về.

Không ai biết được nội dung bức thư kia, ngoài đồng chí chủ tịch Ban chấp hành. Nhưng những người dân ở thôn này đã đánh hơi thính như chó săn. Cứ ba người bán hàng tạp hóa ở đây, ít nhất cũng có hai đứa là dân buôn lậu vặt và cái nghề ấy vốn rèn linh tính đoán trước nguy biến.

Có hai người bước nhanh trên hè phố đi về phía bộ tham mưu của tiểu đoàn tổng huấn luyện quân sự. Một trong hai người đó là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Nhân dân ở đấy đều biết anh, lúc nào anh cũng mang vũ khí bên mình. Nhưng hôm nay, người cùng đi với Pa-ven là Tơ-rô-phi-mốp, bí thư Đảng ủy, cũng mang một khẩu súng ngắn ở dây lưng, thì đấy là một dấu hiệu không hay rồi.

Mấy phút sau đã có chừng mươi mười lăm người, từ trong bộ tham mưu chạy ra, người nào cũng có súng lắp lưỡi lê tuốt trần; Họ chạy về phía cối xay máy ở ngã tư. Các đảng viên và đoàn viên thì nhận vũ khí phát ở trụ sở Đảng ủy. Đồng chí chủ tịch Ban chấp hành phi ngựa, đầu đội mũ Cô-dắc, khẩu súng Mô-de muôn thuở đeo bên hông. Không còn ngờ gì nữa: Lại có chuyện gì không ổn xảy ra. Quảng trường và các phố nhỏ vắng tanh như chết: Không một bóng người lảng vảng. Chỉ trong nháy mắt, các cửa hàng tạp hóa đã đóng hết cửa chớp, những chiếc khóa to tướng kiểu cổ, khóa kín các cổng. Chỉ còn những con gà mái táo gan và những con lợn mình nhẽo ra vì nóng nực là còn cố rúc vào đống rác bẩn hí húi kiếm ăn. Bộ đội vào bố trí trong vườn cây ăn quả ở rìa thôn. Từ đấy là bắt đầu cánh đồng làng, và bố trí ở đấy nhìn thấy rõ đằng xa con đường cái thẳng tắp. Thông báo mà Li-xi-xưn nhận được chỉ có mấy dòng chữ ngắn:

"Đêm qua trong khu vực thôn Pết-đúp-xi, một toán phỉ đi ngựa có chừng một trăm tay kiếm và hai súng liên thanh, sau một trận xô xát với ta, đã vượt qua được biên giới lọt vào lãnh thổ Xô-viết. Đồng chí hãy thi hành mọi biện pháp đối phó. Dấu vết bọn phỉ đến khu rừng Sla-vút thì mất. Ngày hôm nay sẽ có một đại đội chiến sĩ Cô-dắc đỏ chạy qua Bê-rê-dơ-đốp truy kích bọn phỉ. Báo đồng chí biết để khỏi nhầm...

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn độc lập biên phòng.

Ga-vơ-ri-lốp".

Một giờ sau, có người đi ngựa hiện ra trên con đường chạy về phía thôn Bê-rê-dơ-đốp. Cách một cây số, sau người đó, có một đại đội kỵ binh. Pa-ven chăm chú nhìn ra phía trước. Người đi ngựa tiến lại gần, vẻ thận trọng, nhưng không nhìn thấy ta bố trí trong vườn cây. Đấy là một chiến sĩ Hồng quân trẻ tuổi của Trung đoàn Hồng quân Cô-dắc thứ mười bảy. Lần đầu tiên, anh được phái đi trinh sát. Những người từ trong vườn đổ ra vây lấy anh đột ngột; Anh thấy trên áo va-rơ của họ đều có huy hiệu Đoàn thanh niên cộng sản thì mỉm cười vẻ hơi lúng túng. Sau mấy lời trao đổi ngắn, anh quay ngựa lại, phi đến đại đội kỵ binh đang chạy nước kiệu. Anh em bộ đội địa phương để cho các chiến sĩ Hồng quân Cô-dắc đi rồi mới trở lại vị trí trong vườn như cũ.

Nhiều ngày lo âu trôi qua. Li-xi-xưn nhận được bản tin báo bọn phỉ không mở rộng được hoạt động biệt kích của chúng: Bị kỵ binh Cô-dắc đỏ lùng riết, chúng bắt buộc phải vội vàng vượt biên giới trở về bên kia.

Nhóm đảng viên bôn-sê-vích ở đây số lượng quá ít: Trong toàn khu chỉ có mười chín người. Họ làm việc rất khẩn trương trong công cuộc xây dựng Xô- viết. Cơ sở trong quận còn non yếu. Phải xây dựng lại tất cả. Vị trí gần biên giới bắt mọi người phải cảnh giác.

Việc tuyển cử lại các Xô-viết, cuộc đấu tranh chống phỉ, công tác văn hóa, cuộc đấu tranh chống bọn buôn lậu, công tác quân sự của Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản - đấy là cả một cái vòng công tác quay cuồng suốt từ sáng tinh sương cho đến tận đêm khuya, công việc ấy thu hút tất cả cuộc đời của Li-xi-xưn, của Tơ- rô-phi-mốp, của Pa-ven và một số cán bộ mà các anh đã tập hợp được.

Từ trên mình ngựa nhảy xuống là đến ngay bàn giấy, từ bàn giấy lại nhảy ra quảng trường, nơi các trung đội thanh niên tập luyện quân sự; Rồi lại đến câu lạc bộ, trường học, hai ba cuộc họp. Còn ban đêm thì ngựa, súng Mô-de bên hông và tiếng quát: “Ai, đứng lại”, tiếng bánh xe ngựa mang hàng lậu nước ngoài phóng chạy trốn - đấy tất cả ngần ấy thứ chiếm hết ngày và nhiều khi hết cả đêm nữa của người chính ủy tiểu đoàn hai.

Quận đoàn thanh niên cộng sản Bê-rê-dơ-đốp gồm Pa-ven, Li-đa Pô-lê-vích - một cô gái vùng sông Vôn- ga mắt híp, phụ trách nữ thanh niên - và Ra-dơ-va- li-khin Giên-ca - một tay học trò ly-xê ngày trước, người cao dong dỏng, vẻ bảnh trai, “còn non tuổi mà đã sớm hiểu nhiều điều” như người ta thường nói, một tay thích. Những chuyện kỳ hùng mạo hiểm, rất thuộc những chuyện Xéc-lốc Hôm và Luy-y Bút-xê- na. Ra-dơ-va-li-khin trước đã từng làm trưởng phòng hành chính của đảng ủy quận, cách đây bốn tháng mới vào Đoàn thanh niên cộng sản, nhưng trong đám đoàn viên thì vẫn ra vẻ ta đây là “đảng viên bôn-sê- vích lão thành”. Không còn ai để gửi đến Bê-rê-dơ- đốp nên sau khi suy nghĩ khá lâu, liên quận ủy đã phái Ra-dơ-va-li-khin đến đây làm “cán bộ chính trị”.

Mặt trời lên đúng ngọ. Hơi nóng ùa vào cả những chỗ mát nhất, mọi loài vật đều nấp dưới mái nhà; Ngay những con chó con cũng bò xoài dưới những kho chứa rơm và nằm uể oải ngã vật vã, mình nhẽo ra vì nóng. Hình như mọi sinh vật đều bỏ làng này đi cả, chỉ còn có con lợn sề đang nằm rúc trong vũng bùn cạnh giếng, miệng kêu ủn ỉn có vẻ thú vị lắm.

Pa-ven cởi dây buộc ngựa và đôi môi cắn chặt với nhau để nén cơn đau buốt nhoi nhói ở đầu gối chân, anh trèo lên ngựa. Cô giáo đứng trên thềm nhà trường, tay che mặt cho khỏi chói nắng.

- Thôi chào đồng chí chính ủy. - Cô nói và mỉm cười.

Con ngựa giậm chân sốt ruột, cổ gập lại mà giật dây cương.

- Chào đồng chí Ra-ki-chi-na nhé! Thế là đã quyết định rồi đấy: Mai đồng chí sẽ đến dạy bài đầu.

Con ngựa cảm thấy dây cương thả lỏng liền phi nước kiệu. Ngay lúc ấy có tiếng gào thét dữ tợn đưa đến tai Pa-ven. Những khi xảy ra cháy nhà thì những người đàn bà nhà quê vẫn thường kêu la inh ỏi như thế. Dây cương giật mạnh kéo con ngựa quay phắt trở lại, và Pa-ven trông thấy một chị nông dân trẻ thở hồng hộc từ ria làng chạy ra. Cô giáo Ra-ki-chi- na bước ra giữa đường, ngăn chị lại. Dân làng lũ lượt kéo ra cổng, số đông là các ông già bà cả. Những người trai tráng đều bận làm ngoài đồng.

- Các ông các bà ơi, lại xem ngoài kia kìa! Có trời đất nào như thế được không? Có thể nào như thế được không?

Khi Pa-ven phi ngựa lại gần thì dân làng từ khắp các ngả đã chạy đến. Người ta quây lấy chị nông dân, kéo tay chiếc áo trắng của chị, tiếng hỏi dồn, giọng hoảng hốt, nhưng nghe chị nói lung tung chẳng còn ai hiểu đầu cua tai nheo ra sao! Có một ông cụ già râu xồm xoàm, một tay giữ cái quần vải ngắn, nhảy cẫng lại gần trông bộ rất kỳ quặc, cụ sấn sổ hỏi chị ta:

- Đừng la gào lên như người điên ấy! Người ta đánh nhau ở đâu? Tại sao lại đánh nhau? Thôi, đừng có la ồn lên nữa, trời ạ!

- Làng ta với dân Pốt-đúp-xi đánh nhau... Vì chuyện bờ ruộng! Bên Pốt-đúp-xi đang đánh người làng ta chết đến nơi kia kìa!

Mọi người đã hiểu cơn tai họa. Ngoài đường, tiếng phụ nữ rống lên, các cụ già tru tréo điên cuồng. Và tiếng la hét chạy khắp làng, nhao lên khắp sân các nhà, như tiếng báo động cấp cứu: “Bọn Pốt-đúp-xi, vì chuyện bờ ruộng, lấy liềm giết chết người làng ta!” Dân làng ai có thể đi được là từ nhà chạy túa ra, vác đinh ba, vác rìu hay vác độc có chiếc cọc rào nhổ lên. Họ chạy ra đồng đến chỗ ẩu đả đổ máu, nơi dân hai thôn đang giải quyết vấn đề tranh chấp hàng năm về chuyện bờ ruộng.

Pa-ven quất dữ vào mình ngựa, con ngựa lồng lên phi ngay lập tức. Hăng lên vì tiếng thúc của chủ, con ngựa vượt toán người đang chạy, phi nhanh lên phía trước. Hai tai rạp vào đầu, co chân giơ cao, con ngựa cắm cổ chạy như bay. Trên một quả đồi, chiếc cối xay gió giương cánh quạt ra tứ phía như cản đường. Bên phải cối xay, ở bãi đất thấp, cạnh bờ sông là cánh đồng cỏ. Bên trái, một cánh đồng lúa mạch chạy dài xa tắp, lúc thì đổ xuống những bờ lạch. Gió hây hây lướt trên lúa chín như vuốt ve. Hoa mào gà rực bên đường. Sự yên lặng và nồng nực khó chịu bao trùm lấy chỗ này. Chỉ có xa xa, ở chỗ dòng sông lấp lánh như con rắn bạc uốn mình sưởi nắng là có tiếng kêu vọng lại.

Con ngựa nhào xuống dốc, lao vút về phía đồng cỏ. Một ý nghĩ thoáng qua đầu Pa-ven: “Nếu vấp chân thì cả mình lẫn nó đều chết mất!”. Nhưng không thể nào ghìm ngựa được nữa. Rạp mình sát bờm ngựa, Pa-ven nghe gió rít bên tai. Con ngựa trổ ra đồng cỏ, hăng như điên. Người ta đang đánh nhau dữ tợn như cuồng như dại ở đằng ấy. Mấy người mình đẫm máu nằm sóng sượt trên đất.

Một người nhiều râu, tay cầm cái cán liềm gãy, đang đuổi theo một anh con trai mặt bê bết máu; Người nhiều râu chạy xô vào ức con ngựa bị ngã lộn nhào ra đất. Một nông dân chắc khỏe da sạm nắng đang lấy giày ống nặng trịch đá lấy đá để đối thủ đã ngã vật trên đất, cố tình muốn cho anh ta đến phải “hồn lìa khỏi xác”.

Dồn tất cả sức nặng của con hắc mã, Pa-ven phi ngựa thọc sâu vào đám đông, làm cho bọn đang ấu đả nhau chạy tán loạn. Không để cho họ hoàn hồn, anh điên người quay ngoắt ngựa lại lao vào đám đông hầm hầm hung hãn như thú dữ. Cảm thấy chỉ có cách cũng làm ra hung hãn, cũng làm cho khiếp sợ mới giản tán được đám người bê bết máu này, anh điên người thét lên:

- Hãy buông nhau ra, lũ khốn! Tao sẽ bắn chết hết này, bọn thổ phỉ!

Và rút khẩu Mô-de trong bao ra, Pa-ven bắn lướt qua một cái mặt đang nhăn nhó giận dữ. Con ngựa nhảy một cái - một phát súng nữa. Nhiều người vất liềm quay đầu chạy. Người chính ủy phi ngựa khắp đồng cỏ như điên giận, không để cho khẩu súng im miệng, và anh đã đạt được ý muốn: Đám người từ cánh đồng cỏ chạy tỏa ra bốn phía để tránh mang vạ vào mình và tránh cái con người không hiểu ở đâu tới lồng lộn, dữ tợn, đáng sợ với “cái máy thổ tả” bắn không ngừng đó.

Ít lâu sau, tòa án quận đến Pốt-đúp-xi. Đồng chí chánh án nhân dân hỏi những người làm chứng rất lâu mà không tìm ra kẻ thủ mưu. Sau cuộc ẩu đả, không có ai chết, những người bị thương cũng đã lành. Đồng chí chánh án bền bỉ, với đức tính kiên nhẫn của người bôn-sê-vích, đã cố gắng giải thích cho những người nông dân đang đứng sầm mặt ở trước đồng chí tất cả tính chất dã man và không thể nào tha thứ được của cuộc ẩu đả mà họ đã gây ra.

- Thưa đồng chí chánh án, đấy là lỗi tại cái bờ ruộng, ranh giới bờ ruộng của chúng tôi bị lẫn lộn. Vì thế cho nên năm nào cũng sinh ra đánh nhau.

Tuy thế vài người cũng phải trả lời về những việc làm của họ.

Sau đấy một tuần, có một ủy ban đến cắm cột mốc ở chỗ xảy ra tranh chấp trên đồng cỏ. Ông cụ già làm nghề đo đất, mình đẫm mồ hôi, mệt lử vì say nắng và vì phải đi lại nhiều, vừa cuộn cái thước dây, vừa nói với Pa-ven:

- Tôi đã đo đất ba mươi năm trời nay rồi và ở đâu cũng thế, bao giờ cũng thế, cái bờ ruộng là duyên cớ gây ra bất hòa. Đồng chí cứ nhìn đường phân giới các đồng cỏ mà xem! Thật là kỳ quái! Người say rượu bước đi còn thẳng hơn. Còn những đám ruộng? Rộng có ba thước mà cũng đám này lấn lên đám kia. Phân giới thế nào bây giờ? Phân giới được thì cũng đủ loạn óc mất. Thế mà hàng năm các đám ruộng cứ bị chia nhỏ, chia nhỏ ra mãi. Con ra ở riêng, tách khỏi bố - thế là đám ruộng lại tách ra làm đôi. Tôi dám chắc với đồng chí là chỉ hai mươi năm nữa, cái cánh đồng chỉ còn toàn là bờ ruộng dày chi chít, rồi chẳng có chỗ mà gieo lúa nữa đâu. Ngay bây giờ đã có mười phần trăm đất để làm bờ ruộng, không trồng trọt gì được.

Pa-ven mỉm cười:

- Đồng chí đo đất ạ, hai mươi năm nữa thì ở ta chẳng còn một cái bờ ruộng nào cho mà xem.

Ông già nhìn người nói chuyện với mình bằng cặp mắt độ lượng.

- Ý đồng chí nói đến xã hội cộng sản có phải không? Chà, chắc đồng chí thừa hiểu rằng cái đó còn là chuyện xa xôi lắm.

- Thế cụ có biết nông trang tập thể Bu-đa-nốp không?

- À ra đồng chí nghĩ đến cái nông trang ấy đấy?

- Phải.

- Tôi có đến Bu-đa-nốp... Nhưng đấy dù sao vẫn là chuyện ngoại lệ, khác thường, đồng chí Pa-ven ạ.

Ủy ban đo xong. Hai thanh niên cắm cọc xuống. Hai bên cánh đồng, bà con nông dân đứng giương mắt chăm chăm theo dõi; Cọc cắm ở chỗ cũ, mốc cũ là những chiếc gậy vót nhọn đã mục dở, chỉ còn từng quãng, từng quãng nhú lên trong cỏ rậm.

*

Người đánh xe quất mạnh đầu roi vào con ngựa gầy và quay lại phía những người khách ngồi trên xe. Bác ta là một người chất phác hay nói bô bô. Bác ta kể:

- Ai mà biết được những ông côm-xô-môn (Đoàn viên thanh niên cộng sản) ấy ở đâu hiện ra? Trước ở đây chẳng hề có. Tất cả chuyện đó tôi cho là khởi đầu tự cái cô giáo tên là Ra-ki-chi-na, chắc bà con đều biết chứ? Cô ấy còn trẻ, nhưng có thể nói là người đến tai hại. Cô ấy khuấy tất cả các mụ già trong làng này lên, tập hợp họ lại rồi làm náo cả lên. Vì thế mà làng này không yên nữa. Ngày trước, đáng lẽ công bằng ra thì phải cho mụ nhà tôi cái tát vào miệng, làm thế là mụ sụt sịt mấy cái và câm ngay. Nhưng bây giờ tốt nhất là đừng có đụng đến mụ, đụng vào mụ là phải biết. Mụ lôi ngay tòa án nhân dân ra mà nói vào mặt mình; Còn nếu là các bà còn trẻ thì là dọa ngay ly dị và kể vanh vách ra mọi thứ đạo luật. Cái mụ Gan-ca nhà tôi thật hiền như cục đất, không có ai lại hiền và ít lời như mụ, thế mà bây giờ làm đại biểu đại biếc đấy. Chừng như là làm trùm món phụ nữ ở thôn tôi ấy mà. Tất cả các bà trong làng đều kéo đến tìm gặp mụ. Lúc đầu, tôi những muốn dần cho mụ Gan-ca nhà tôi mấy roi ngựa, nhưng sau nghĩ lại tôi lại thôi. Thôi, mặc xác họ! Cứ để cho họ lắm miệng cho thích. Mụ nhà tôi việc nhà việc cửa được cái đảm đang, thế là đủ, tôi cũng chẳng phàn nàn gì về mụ nó cả.

Bác đánh xe đưa tay lên gãi cái ngực lông lá, áo sơ mi để hở, rồi lấy roi quất vào bụng ngựa. Trên xe có Ra-dơ-va-li-khin và Li-đa, cả hai đều có việc ở Pốt- đúp xi: Li-đa muốn đến tổ chức họp các nữ đại biểu, còn Ra-dơ-va-li-khin thì đến sắp xếp công tác của chi bộ thanh niên cộng sản.

Li-da hỏi đùa bác đánh xe ngựa:

- Thế ra bác không ưa thanh niên côm-xô-môn hay sao?

Bác ta kéo râu và chậm rãi trả lời:

- Nói thật ra, tôi chẳng có gì phản đối... Tuổi trẻ có thể chơi bời được. Diễn một vở kịch hay làm một cái gì đấy. Chính tôi khi nào có vở kịch vui gì đáng xem là tôi rất thích xem. Lúc đầu, chúng tôi cũng tưởng là bọn trẻ sẽ họp nhau lại làm ba lăng nhăng. Nhưng không, câu chuyện lại ngược hẳn lại. Người ta nói rằng bọn họ rất nghiêm khắc đối với những chuyện rượu chè, du côn vô lại và các chuyện chơi bời bậy bạ khác. Họ lại chăm học hành. Chỉ phải cái họ hay nhạo đức Chúa lời và cứ khăng khăng đòi lấy cái nhà thờ làm câu lạc bộ. Trong việc này họ trái hẳn đi rồi. Vì cái chuyện này mà các cụ già xem những người côm-xô-môn chẳng ra gì và ghét cay ghét đắng bọn họ. Nhưng ngoài chuyện ấy ra thì được thôi! Chỉ có một điều làm tôi thắc mắc là họ chỉ kết nạp con nhà cùng khổ, cố nông hay bần nông thôi. Họ không cho con nhà giàu vào.

Chiếc xe ngựa xuống dốc và đỗ trước cửa trường học.

Bà cụ gác cổng dọn giường cho khách nằm trong phòng mình, còn bà thì ra ngủ ngoài nhà kho chứa cỏ khô. Li-đa và Ra-dơ-va-li-khin vừa mới ở hội nghị về. Cuộc họp đã kéo dài quá. Trong căn nhà tranh, tối om om, Li-đa tháo giày ra, leo lên giường và ngủ thiếp ngay. Hai bàn tay Ra-dơ-va-li-khin chạm rất thô bạo vào người chị làm chị thức giấc dậy: Hắn định giở trò, điều đó thế nào, chẳng còn phải ngờ gì nữa.

- Anh làm cái gì thế?

- Khẽ chứ, Li đa, Li-đa nói to thế? Li-đa hiểu cho, tôi nằm trơ một mình một giường chán quá. Khỉ thật. Thế Li-đa, Li-đa không biết có gì thú hơn là ngủ say như chết à?

- Buông tay ra và xéo ngay khỏi giường tôi lập tức, cút đi đâu thì cút!

Li-đa ẩy tay ra. Từ xưa nay, chị đã không thể nào chịu được cái cười khả ố của Ra-dơ-va-li-khin. Lúc này chị muốn nói vào mặt Ra-dơ-va-li-khin một điều gì thật nhục và thật đau cho hắn. Nhưng chị buồn ngủ quá, nhắm nghiền mắt lại ngay.

- Cứ màu mè làm gì thế? Làm như là thượng lưu trí thức không bằng? Hay là cô tốt nghiệp trường dạy con nhà trâm anh thế phiệt ra đấy? Cô tưởng tôi tin được như thế hay sao? Thôi, đừng có vớ vẩn nữa. Nếu em giác ngộ thì em hãy cho lòng anh được thỏa rồi tha hồ ngủ.

Cho là không cần nói lắm, hắn một lần nữa rời ghế dài, lại ngồi xuống giường và đặt tay lên vai Li- đa, làm y như là hắn đã làm chủ hoàn toàn người con gái.

Li-đa thức giấc dậy ngay, mắng vào mặt hắn:

- Đồ quỷ xéo đi ngay! Mai tôi sẽ kể hết mọi chuyện cho Pa-ven biết, tôi nói thật đấy.

Ra-dơ-va-li-khin nắm lấy tay Li-đa và tức tối rỉ vào tai:

- Tôi cóc cần cái thằng Pa-ven nhà cô; Cô cưỡng lại cũng vô ích, thế nào tôi cũng ngủ được với cô.

Vật lộn giữa hai người trong giây lát. Túp nhà im ắng vang lên tiếng tát “bốp” rồi “bốp” nữa... Ra-dơ- va-li-khin lăn kềnh ra đất. Trong tối Li-đa chạy vội đến cửa, đẩy cửa ra và chạy ra ngoài sân. Chị đứng lại ngoài ấy, người tắm ánh trăng, trong lòng tức giận vô kể.

Ra-dơ-va-li-khin tức tối quát lên:

- Thôi, đi vào nhà, đồ ngu như bò.

Rồi hắn dọn giường ra mái hiên và nằm ngủ ở ngoài ấy. Còn Li-đa, sau khi cài then cửa lại, cuộn mình nằm co trên giường.

Sáng hôm sau, hai người ra về; Ngồi trên xe cạnh cụ già đánh xe, Ra-dơ-va-li-khin hút hết điếu thuốc này đến điếu khác.

“Cái con bà cô không thể sờ đến được này có thể đem kể hết chuyện với Pa-ven thật đấy. Con bé cũng lắm mồm lắm đấy! Thà như nó đẹp gì cho cam. Đằng này nó xấu như ma. Phải làm lành với con bé mới được không thì đến phiền mất. Pa-ven vốn chẳng ưa gì mình”.

Nghĩ vậy, Ra-dơ-va-li-khin bèn lại ngồi bên Li-đa. Hắn làm ra bộ hổ thẹn, đôi mắt có vẻ như sầu não; Ấp a ấp úng thanh minh câu trước mâu thuẫn với câu sau, hắn tỏ ra hắn đã ăn năn hối hận rồi.

Và Ra-dơ-va-li-khin đã đạt được ý muốn: Đến đầu thôn, Li-đa hứa sẽ không kể lại câu chuyện xảy ra đêm qua với ai cả.

*

Các chi đoàn thanh niên cộng sản lần lượt ra đời trong các xã biên khu. Các đồng chí ủy viên của quận đoàn thanh niên cộng sản đã hiến nhiều thì giờ và sức lực cho những mầm non đầu tiên đó của phong trào cộng sản. Pa-ven và Li-đa Pô-lê-vích suốt cả ngày công tác ở các làng vùng đó.

Ra-dơ-va-li-khin không thích về xã. Hắn không biết làm thân với anh em thanh niên nông dân, không được họ tin và làm việc gì cũng hỏng. Còn Li-đa và Pa-ven thì khác hẳn, cả hai đều có một tác phong làm việc giản dị và tự nhiên. Li-đa tập hợp được các chị em trẻ, kết bạn và liên hệ chặt chẽ với họ, làm cho chị em tự nhiên thích thú với sinh hoạt và công tác của Đoàn thanh niên cộng sản. Trong khắp quận, toàn thể anh em đều biết Pa-ven. Tiểu đoàn tổng quân huấn thứ hai đã có một ngàn sáu trăm thanh niên chưa đến lượt gọi nhập ngũ, vào học tập quân sự. Chưa bao giờ tiếng đàn gió lại giữ một vài trò lớn trong công tác tuyên truyền như là ở đây, trong những tối liên hoan của dân làng ở ngoài trời. Chiếc đàn gió đã làm Pa-ven thành “bạn cố tri” của mọi người. Đối với khá nhiều chàng trai, con đường đi đến vội Đoàn thanh niên cộng sản Lê-nin vĩ đại thường bắt đầu bằng cái đàn gió có sức thu hút mê người, lúc thì lôi cuốn say sưa và làm rung động trái tim với nhịp điệu đầy nhiệt huyết của bài hành quân, lúc lại dịu ngọt và mơn man bởi những làn ngân não ruột của những bài dân ca U-cơ-ren. Người ta nghe tiếng đàn gió, người ta nghe cả người chơi đàn gió - trước kia anh là công nhân, ngày nay là chính ủy bộ đội và “bí thư tí hon” thanh niên cộng sản. Âm điệu của đàn gió và những lời nói chuyện của người chính ủy trẻ tuổi thấm vào lòng mọi người, êm ái và hòa nhịp với nhau. Những bài hát mới đã bắt đầu vang lên trong các thôn xóm; Trong những túp nhà tranh, bây giờ không phải chỉ cố độc những tập Thánh thi và những sách dạy đoán mộng, mà đã có cả những loại sách khác rồi.

Cuộc đời của bọn buôn lậu trở nên gay go. Đối với chúng bây giờ không phải chỉ độc có những chiến sĩ biên phòng mới là đáng gờm thôi: Chính quyền Xô- viết đã tranh thủ được những bạn trẻ, những người giúp sức tích cực của mình. Đôi khi, vì bốc lên muốn tự mình tóm được kẻ thù, nên các chi đoàn thanh niên cộng sản biên thuỳ đã vượt quá phạm vi của họ. Và lúc đó thì Pa-ven lại tìm cách gỡ ra cho anh em. Có một hôm, Gơ-ri-sút-ca Khô-rô-vết-cô, bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản ở Pốt-đúp-xi, một tay mắt xanh, nhanh nhẹn, rất hăng say trong những cuộc thảo luận chống tôn giáo, được báo bằng nguồn tin riêng của anh là đêm nay sẽ có chuyến hàng lậu tới nhà tên chủ máy xay trong thôn. Lập tức anh huy động toàn chi đoàn thanh niên đi. Cả chi đoàn do Gơ- ri-sút-ca đứng đầu, võ trang bằng khẩu súng tập và hai lưỡi lê, ngay đêm ấy, thận trọng đến nấp trước cái máy xay rình con thú dữ. Đồn biên thùy của Cục chính trị Nhà nước đã biết tin về bọn buôn lậu và đã phái một đơn vị đến. Đêm hôm ấy, hai bên chạm trán nhau và nhờ có tinh thần kiên nhẫn sáng suốt của các chiến sĩ biên phòng mà các đoàn viên thanh niên đã không bị bắn chết trong trận chạm trán đó. Người ta chỉ tước vũ khí những chàng trai mà thôi và các cậu bị dẫn đến giam ở một làng bên cạnh cách đấy bốn cây số.

Lúc đó Pa-ven đang ở nhà Ga-vơ-ri-lốp. Sáng hôm sau, tiểu đoàn trưởng cho biết bản báo cáo vừa nhận được về việc trên, bí thư quận đoàn Pa-ven liền phi ngựa đi cứu bọn trẻ của anh.

Đồng chí đại diện Cục chính trị Nhà nước vừa cười vừa kể lại chuyện xảy ra đêm qua cho Pa-ven nghe:

- Bây giờ chúng ta làm thế này, đồng chí Pa-ven ạ. Các chú ấy là những tay thanh niên can đảm đấy. Chúng tôi cũng chẳng làm to chuyện với họ làm gì. Nhưng để từ nay về sau, họ đừng giẫm chân vào nhiệm vụ của chúng tôi, thì đồng chí cẩn phải chỉnh cho họ một chập ra trò mới được.

Người gác mở cửa nhà giam. Mười một chàng thanh niên nhổm dậy, lúng ta lúng túng, chân nhúc nhích mà không dám bước.

Đồng chí đại diện Cục chính trị Nhà nước chìa hai tay ra dáng bất bình:

- Đấy, đồng chí xem. Mấy chú cứ vẽ ra thêm chuyện cho nên tôi bắt buộc phải giải mấy chú lên tỉnh thôi.

Nghe nói thế, Gơ-ri-sút-ca rất đỗi xúc động:

- Thưa đồng chí Xa-kha-rốp, chúng tôi có làm gì bậy đâu? Chúng tôi muốn phục vụ chính quyền Xô- viết. Từ lâu, chúng tôi đã đặt người theo dõi cái tên buôn lậu đó rồi. Thế mà các đồng chí lại tống giam chúng tôi như thể chúng tôi là thổ phỉ.

Gơ-ri-sút-ca tủi thân quay đi.

Pa-ven và Xa-kha-rốp khó khăn lắm mới giữ mãi được vẻ mặt nghiêm nghị. Sau một hồi làm ra vẻ phải điều đình với nhau găng lắm, hai người thôi không “chỉnh” toán thanh niên nữa.

Xa-kha-rốp nói với Pa-ven:

- Nếu đồng chí đảm bảo cho các chú ấy và hứa với chúng tôi là từ nay về sau, các chú không đi ra biên giới nữa, còn giúp đỡ chúng tôi thì giúp đỡ bằng cách khác, có thế tôi mới tha cho các chú ấy.

- Được tôi xin chịu trách nhiệm về các anh em ấy. Tôi hy vọng anh em sẽ không làm phiền cho tôi nữa.

Thế là cả chi đoàn thanh niên lại hát vang trên đường trở về Pốt-đúp-xi. Việc rắc rối vẫn chưa lộ ra. Còn tên chủ máy xay thì sau đó ít lâu bị bắt quả tang. Lần này, việc tóm cổ nó làm rất đúng nguyên tắc.

Bọn chủ trại Đức sống giàu sang trong những làng vùng rừng Mai-đan Vin-la. Những trại ấp sung túc của bọn cu-lắc ở cách nhau từng nửa cây số một; Những tòa nhà đèo thêm những nhà phụ trông giống như những đồn lũy nhỏ. Bọn thổ phỉ An-tô-nhúc được bọn cu-lắc ở đây chứa chấp. Tên quan hai cũ ấy của Nga hoàng đã tập hợp họ hàng bà con nó, lập thành một nhóm gồm bảy tên phỉ và bắt đầu dùng đến khẩu súng ngắn của hắn trên các ngả đường lân cận, làm đổ máu nhiều người. Hắn chẳng từ gì bọn buôn lậu, nhưng cũng không tha các cán bộ Xô-viết qua lại. Bọn hắn di động rất nhanh. Hôm nay, chúng giết chết hai xã viên hợp tác xã trong thôn, ngày mai, cách đấy hai mươi cây số, đã thấy hắn tước vũ khí một nhân viên bưu điện và móc hết của anh từng hào, từng xu. An-tô-nhúc thi nhau với tên đồng nghiệp của nó là Goóc-đi; Thằng này chẳng kém gì thằng kia, cả hai đứa đã làm mất khá nhiều thời giờ của dân quân và Cục chính trị Nhà nước của liên quận. An- tô-nhúc đã mò đến tận ngoại vi thị trấn Bê-rê-dơ- đốp. Các ngả đường vào thị trấn đã trở thành nguy hiểm. Khó mà tóm cổ được tên phỉ ấy; Cứ khi nào bị dồn bí quá thì hắn chuồn sang bên kia biên giới, ngồi rúc ở đấy, rồi những lúc nào người ta ít để tâm nhất đến hắn thì hắn lại thò đầu ra. Mỗi lần con thú dữ nguy hiểm và không tài nào bắt được đó xồ ra cắn chảy máu thì đồng chí Li-xi-xưn lại một phen cắn môi tức tối.

- Còn để cho tên mạt kiếp này cắn chúng mình đến bao giờ? Cuối cùng rồi mình đến phải tự tay trừ nó mới được. - Tiếng đồng chí rít qua hai hàm răng cắn chặt. Có hai lần đồng chí chủ tịch cùng đi với Pa-ven và ba đảng viên cộng sản nữa đã đuổi theo vết chân còn mới của tên phỉ. Song An-tô-nhúc đã đi khỏi rồi.

Trên liên quận đã phái về Bê-rê-dơ-đốp một đội chống phỉ, do anh chàng Phi-la-tốp rất diện chỉ huy. Vì kiêu căng, vênh váo như một con gà trống mới lớn, Phi-la-tốp đã không chấp hành đúng điều lệnh công tác hiện hành ở vùng biên giới, cho việc đến trình diện với đồng chí chủ tịch là không cần thiết, nên cứ dẫn đội của mình đến thẳng một làng bên cạnh là Xê-ma-ki. Đến vào lúc đêm, Phi-la-tốp cho đóng quân trong túp nhà ngay đầu thôn. Toán người lạ có vũ khí, hành động lại rất bí mật ấy, làm cho một đoàn viên thanh niên cộng sản ở bên hàng xóm để ý. Người đoàn viên này liền chạy đến báo cho chủ tịch Xô-viết thôn. Chủ tịch Xô-viết thôn không hiểu gì về đội này, tưởng nhầm đấy là bọn phỉ, thế là cho người đoàn viên thanh niên đi ngựa hỏa tốc lên quận. Sự sơ suất của Phi-la-tốp suýt nữa thì làm toi mạng rất nhiều người. Li-xi-xưn đang đêm nghe tin có “phỉ”, liền huy động dân quân và mang theo độ chục người phi ngựa đến Xê-ma-ki. Họ chạy thộc vào tận sân, xuống ngựa và nhảy qua hàng rào, tiến vào nhà. Người gác đứng ở ngưỡng cửa bị một cú báng súng ngắn vào đầu ngã lăn xuống như cái bị rơi. Li-xi-xưn lấy vai hích mạnh cánh cửa bật tung ra, và toán người ùa vào gian nhà le lói ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn treo trên trần. Một tay cầm quả lựu đạn vung ra sau người chực ném, tay kia lăm lăm khẩu súng ngắn Mô-de, Li-xi-xưn thét lên, mạnh đến nỗi làm rung cả cửa kính:

- Giơ tay hàng, không tao xé tan xác chúng bay ra bây giờ.

Chỉ thiếu một giây nữa là người của Li-xi-xưn lia cho toán người còn ngái ngủ kia một làn mưa đạn. Nhưng cái vẻ đáng sợ của người lăm lăm cầm lựu đạn kia làm cho hàng chục cánh tay giơ cao lên. Một lát sau, khi các người trong đội diệt phỉ mặc độc có áo ngủ bị dẫn ra sân, Phi-la-tốp nhìn thấy chiếc huân chương đính trên áo Li-xi-xưn mới khỏi ríu lưỡi.

Li-xi-xưn nhổ nước bọt tức tối và phát bẳn lên, giọng khinh bỉ:

- Thật là đồ ngu!

*

Tiếng vang của cách mạng Đức vọng đến tận quận này. Những tràng đạn nổ đổ hồi réo trên các chiến lũy Hăm-bua vang tới. Biên giới không còn yên tĩnh như xưa nữa. Người ta đọc báo, lòng náo nức mong đợi. Gió của tháng Mười từ phía Tây thổi lại. Ở quận đoàn thanh niên, đơn gửi đến như mưa xin gia nhập Hồng quân, làm quân chí nguyện. Pa-ven phải giải thích nhiều cho đại biểu các chi đoàn hiểu chính sách của nước Xô-viết là chính sách hòa bình, và hiện nay thì Nhà nước Xô-viết không có ý định gây chiến với bất cứ một nước láng giềng nào cả. Nhưng những lời giải thích đó ít tác dụng lắm. Chủ nhật nào, những đoàn viên thanh niên tất cả các chi đoàn cũng kéo tới thị trấn, và họp ngay trong khu vườn nhà lão cố đạo.

Một hôm vào giữa trưa, toàn chi đoàn thanh niên Pốt-đúp-xi đông đủ mặt, hàng ngũ chỉnh tề kéo đến cái sân rộng trước trụ sở quận đoàn. Pa-ven nhìn qua cửa sổ, trông thấy, liền đi ra thềm. Mười một người thanh niên do Gơ-ri-sút-ca dẫn đầu, người nào cũng đi giày ống, đeo ba-lô to tướng trên lưng. Họ dừng lại trước cửa.

Pa-ven ngạc nhiên hỏi:

- Chuyện gì thế, Gơ-ri-sút-ca?

Nhưng Gơ-ri-sút-ca nháy mắt ra hiệu và cùng Pa- ven đi vào trong nhà. Khi Li-đa, Ra-dơ-va-li-khin và hai đoàn viên thanh niên nữa xúm quanh lấy Gơ-ri- sút-ca thì anh này đóng cửa và cau đôi mày nhợt lại một cách nghiêm nghị, giải thích rằng:

- Các đồng chí ạ, đây là tôi làm báo động diễn tập đấy mà. Hôm nay, tôi có tuyên bố với những đoàn viên chi đoàn tôi rằng: Ở quận có điện xuống, tất nhiên là điện tối mật: Chiến tranh với bọn tư sản Đức bắt đầu rồi, và không bao lâu nữa sẽ nổ ra chiến tranh chống bọn chúa đất Ba Lan. Vì thế ở Mát-xcơ-va ra lệnh: Tất cả đoàn viên thanh niên cộng sản đều ra tiền tuyến; Còn ai sợ, cứ viết đơn xin, sẽ cho ở nhà. Tôi nói với họ là không được nói gì về chiến tranh cả mỗi người mang theo một miếng bánh mì và một ít mỡ, ai không có mỡ thì mang đi mấy nhánh hành hay nhánh tỏi, một giờ sau phải bí mật tập hợp ở sau làng. Chúng ta sẽ đi lên quận và từ quận lên liên quận nhận vũ khí. Chuyện đó có tác dụng rất lớn đối với anh em. Họ bắt đầu hỏi vặn tôi nhiều lắm, song tôi cắt đứt: Không có nói chuyện lôi thôi gì cả. Ai đi thì đi. Còn ai từ chối thì cứ việc viết đơn. Đi đây là đi tình nguyện. Nghe tôi nói xong, các bạn đoàn viên của tôi ai về nhà nấy. Lúc đó tim tôi đập mạnh lắm: Nếu không ai đến đi cả thì sao? Nếu vậy tôi chỉ còn cách giải tán chi đoàn, còn mình thì bỏ đi nơi khác. Tôi ngồi đợi ở gần thôn và theo dõi. Họ đến từng người một. Một vài người mặt mũi còn ngấn nước mắt, nhưng bề ngoài họ làm ra vẻ thản nhiên. Cả mười người đều đến, không một ai bỏ trốn cả. Đấy, chi đoàn Pốt-đúp- xi như thế đấy! - Gơ-ri-sút-ca kết luận, giọng rất phởn, nắm tay lại hãnh diện đập lên ngực.

Và khi Li-đa bực mình mắng Gơ-ri-sút-ca như tát nước thì Gơ-ri-sút-ca nhìn chị bằng một con mắt ngạc nhiên không hiểu ra làm sao cả.

- Chị Li-đa nói gì lạ thế? Thử hỏi Li-đa, để tập báo động, còn có sáng kiến nào hơn nữa? Có như thế thì mới nhìn người kỹ được, nhìn ai cũng mới khỏi bị lầm. Muốn có thêm tác dụng, tôi còn muốn đưa họ lên liên quận nữa kia, nhưng họ đều mệt cả rồi. Thôi để cho họ về. Song anh Pa-ven ạ, thế nào anh cũng nên nói chuyện với họ, được chứ anh? Anh không nói thì còn ra thế nào nữa. Cứ nói là lệnh động viên đã bãi bỏ rồi, song danh dự và quang vinh thuộc về những người thanh niên anh dũng như họ.

Pa-ven ít lên liên quận. Những chuyến đi như thế thường mất đến mấy ngày, mà công tác thì cần ngày nào cũng có mặt ở quận. Trái lại, Ra-dơ-va-li-khin động có dịp là nhảy tót lên thị xã ngay. Võ trang từ đầu đến chân, trong lòng cứ những sánh mình với một trong những nhân vật của Cu-pơ ( (Phê-mi-no Cu-pơ, tác giả Mỹ thế kỷ 19, viết nhiều tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm về những bộ lạc người da đỏ ở Châu Mỹ) ), đi du ngoạn như thế hắn ta lấy làm thích thú lắm. Hắn tạt vào rừng, đem súng ra bắn vào đàn quạ hoặc bắn vào con sóc chạy nhanh thoăn thoắt, chặn khách qua đường nào đi một mình, hỏi người ta như là dự thẩm tòa án hỏi cung: Ông là ai, ở đâu đến và đi đâu. Đến gần thị xã, Ra-dơ-va-li-khin bỏ súng trường giấu xuống lớp rơm trên xe ngựa, súng ngắn thì nhét vào túi và cố giữ vẻ bình thường, đi vào liên quận đoàn thanh niên cộng sản.

- Thế nào, ở Bê-rê-dơ-đốp các anh có gì mới không?

Trong phòng Phê-đô-tôp, bí thư của liên quận đoàn, người lúc nào cũng đông. Ai cũng tranh nói lấy được. Phải biết làm việc trong hoàn cảnh ấy thì mới làm nổi, một lúc nghe bốn người nói, đồng thời lại viết và trả lời cho một người thứ năm. Phê-đô-tốp còn trẻ măng, song đã vào Đảng từ 1919. Chỉ có ở cái thời sóng gió ấy mới có thể mười lăm tuổi đã được kết nạp vào Đảng.

Nghe câu hỏi của Phê-đô-tốp, Ra-dơ-va-li-khin uể oải đáp lại:

- Nhiều chuyện mới lắm, không thể kể hết được. Tôi chạy ngược chạy xuôi suốt từ sáng cho đến tận tối khuya. Phải lấp hết mọi lỗ hổng hiện nay, phải làm từ đầu mọi việc trên một vùng cơ sở trắng. Tôi đã tổ chức được thêm hai chi đoàn mới nữa. Các đồng chí triệu tập về đây có việc gì thế? - Và nói xong, hắn làm ra bộ quan trọng ngồi xuống ghế bành.

Đồng chí Cơ-rưm-ski, trưởng ban kinh tế, từ nãy giờ cúi mình trên tập tài liệu, nghe hắn nói thì ngẩng đầu lên nhìn lại:

- Chúng tôi triệu tập Pa-ven, chứ không triệu tập anh.

Ra-dơ-va-li-khin thở phun ra một làn khói thuốc dày đặc.

- Pa-ven không thích đến đây, tôi cứ phải vất vả đi lại thay hắn... Có một số bí thư láu cá như thế đấy. Bản thân họ chẳng muốn động xác làm gì, chỉ đẩy những con lừa như hạng tôi đi. Khi nào Pa-ven đi ra biên giới, thế là ở lại đấy hàng hai ba tuần. Tôi lại phải nai lưng gánh hết mọi việc cho hắn.

Ra-dơ-va-li-khin chẳng úp mở gì, có ý muốn tỏ cho mọi người biết lẽ ra chính hắn mới thực đáng làm bí thư quận đoàn kia.

Khi Ra-dơ-va-li-khin ra rồi, đồng chí Phê-đô-tốp nói thẳng với các đồng chí trong chấp ủy:

- Tôi thấy chẳng ưa cái thằng cha này chút nào cả.

Những cách luồn lọt xúc xiểm thâm hiểm của Ra- dơ-va-li-khin bị phơi ra ánh sáng một cách tình cờ. Một hôm, Li-xi-xưn rẽ vào nhà đồng chí Phê-đô-tốp nhận thư từ, công văn. Thường hễ có ai ở quận lên là nhận luôn thư cho mọi người khác. Phê-đô-tốp nói chuyện lâu với Li-xi-xưn. Trong câu chuyện đó, Ra- dơ-va-li-khin đã bị lột mặt nạ.

Khi tiễn đồng chí chủ tịch quận ra về, Phê-đô-tốp dặn:

- Nhưng dù sao đồng chí cũng cứ cho Pa-ven lên đây nhé. Chúng tôi ở đây vẫn chưa quen biết đồng chí ấy lắm.

- Được. Nhưng phải định trước với nhau mới được: Các đồng chí đừng nhằm lấy mất của chúng tôi Pa- ven kia, nếu lấy, chúng tôi kiên quyết phản đối đấy.

Năm ấy, ở biên giới, quốc khánh tháng Mười cử hành trong không khí phấn khởi chưa từng có. Pa- ven được bầu làm chủ tịch ban tổ chức lễ kỷ niệm Cách mạng tháng Mười ở các xã biên giới. Sau cuộc mít tinh ở Pốt-đúp-xi, khối quần chúng năm ngàn người, gồm nam nữ nông dân ở ba xã lân cận họp lại, xếp hàng trên một cây số rưỡi, bắt đầu đi về phía các xã biên giới. Đi đầu là đội kèn và tiểu đoàn quân huấn, với những lá cờ đỏ tung bay. Đoàn biểu tình rất trật tự và có tổ chức bắt đầu tiến hành trên đất xô-viết, dọc theo các cột biển, tiến về phía những thôn xã biên giới cắt làm đôi. Dân Ba Lan chưa bao giờ được trông thấy cảnh tượng ấy. Đi trước hàng quân là tiểu đoàn trưởng Ga-vơ-ri-lốp và Pa-ven, cả hai cùng cưỡi ngựa; Phía sau hai người, tiếng kèn đồng rung lên như sấm động, cờ bay phần phật và những bài hát, những bài hát vang lên. Thanh niên nông dân mặc toàn quần áo ngày hội. Những nhịp cười của các cô gái vang đi xa, nghe như tiếng róc rách của một dòng thác bạc; Nét mặt người lớn thì nghiêm túc, các cụ già thì trịnh trọng. Cả dòng sông người ấy cứ chảy mãi, đến nơi xa tít; Bờ của dòng sông ấy là biên giới. Không một bàn chân nào rời khỏi mảnh đất Xô-viết, không một bước chân nào chạm vào đường phân giới nghiêm cấm. Pa-ven đứng ra bên, nhường cho thác người chảy qua trước mặt mình. Bài hát của thanh niên cộng sản vang lên:

"Từ rừng Tai-ga đến tận biển nước Anh

Hồng quân là hùng mạnh nhất".

Nối tiếp bài đồng ca của nữ thanh niên:

"Kìa trên, đồi cao,

Chị em thợ gặt đang gặt lúa vàng".

Các chiến sĩ biên phòng Xô-viết vui sướng mỉm cười chào mừng đoàn biểu tình; Những lính gác Ba Lan thì đứng nhìn, đầy vẻ bối rối hốt hoảng. Cuộc tuần hành dọc biên giới, tuy đã có báo trước cho bộ Tư lệnh Ba Lan, vẫn làm cho phía bên kia lo lắng. Những đội tuần tra của hiến binh tiền tuyến hối hả đâm bổ đi sục sạo; Mỗi chỗ gác tăng lên gấp năm, ở trong các giao thông hào thì bố trí thêm quân dự bị để đề phòng mọi việc bất ngờ xảy đến. Nhưng, đoàn biểu tình chỉ tiến bước trên đất nước nhà mình, náo nhiệt và vui vẻ, tiếng hát vang dậy khắp không trung.

Trên một mô đất, một người lính Ba Lan đứng gác. Đoàn người đi đều bước, tiến gần lại. Âm điệu đầu tiên một bài hành khúc cất tiếng bay lên. Người lính Ba Lan trút súng khỏi vai đặt xuống chân, đứng nghiêm. Pa-ven nghe rõ tiếng hô: “Công xã muôn năm!”.

Trông đôi mắt của người lính thấy đúng là chính anh ta vừa hô khẩu hiệu đó. Pa-ven nhìn anh ta không chớp mắt, nhìn anh ta hết sức nhiệt tình.

Đấy là một người bạn! Dưới vạt áo lính, trái tim anh ta đang đập hòa nhịp với đoàn du hành. Và Pa- ven khẽ đáp lại bằng tiếng Ba Lan:

- Chào đồng chí!

Người lính gác đứng lại đằng sau. Anh ta nhường bước cho đoàn người, súng vẫn để dựng nguyên như cũ. Pa-ven nhiều lần ngoái cổ lại nhìn cái bóng bé nhỏ đen đen đó. Kia lại một người Ba Lan khác nữa. Râu mép bạc lốm đốm. Hai con mắt nhìn không động trông dài dại dưới vành mạ kền của chiếc mũ “liên bang”. Pa-ven trong đầu vẫn còn mang máng lời nói của người lính Ba Lan trước mà anh vừa nghe, liền nói trước như là nối thầm với mình bằng tiếng Ba Lan:

- Chào đồng chí.

Không có tiếng đáp lại.

Ga-vơ-ri-lốp mỉm cười. Ga-vơ-ri-lốp hiểu hết chuyện. Anh nói:

- Cậu tham quá, Pa-ven ạ! Ngoài những lính bộ binh thường, ở đây còn có cả bọn hiến binh đi chân nữa kia. Cậu không thấy cái lon hình chữ V trên tay áo hắn à? Đấy là một thằng hiến binh.

(Lon chữ V thường thêu trên tay áo bọn quân nhân đế quốc để ghi công trạng và niên hạn tại ngũ của chúng)

Đoạn đầu của đoàn người đã từ trên núi kéo về phía làng bị biên giới cắt đôi. Nửa làng bên Xô-viết đã chuẩn bị đón tiếp một cách long trọng. Cả thôn Xô-viết đều tập hợp gần cầu biên giới, trên bờ dòng sông con. Trai, gái trong làng đứng thành hàng rào hai bên vệ đường. Bên nửa thôn phía Ba Lan, mái các nhà, mái các quán đều đầy kín những người trèo lên chăm chú nhìn xem những việc đang xảy ra bên kia sông. Nông dân xúm lại trên ngưỡng cửa các nhà và dọc các hàng rào. Khi đoàn biểu tình tiến vào dãy hàng rào người kia thì đội nhạc cử bài ca “Quốc tế”. Trên bục diễn đàn vừa làm vội, trang hoàng bằng lá cây lớp thanh niên mái tóc còn xanh và nhũng cụ già đầu bạc, đọc những diễn văn cảm động. Pa-ven cũng lên nói chuyện bằng tiếng U-cơ-ren, tiếng mẹ đẻ của anh. Những lời nói của anh bay vượt qua biên giới và những người đứng bên kia bờ sông cũng nghe được rõ. Ở bên kia, chúng nó đã quyết không để cho bài nói này làm bốc cháy lòng người. Đội ba-tui của hiến binh bắt đầu phi ngựa đi khắp làng, lấy roi ngựa quất đuổi nhân dân vào trong nhà. Tiếng súng nổ đì đẹt lướt qua các mái nhà.

Đường sá trở nên vắng tanh. Đám thanh niên bị đạn xua chạy, đã tụt xuống khỏi các mái nhà. Từ phía bên bờ Xô-viết, nhân dân đã nhìn sang thấy thế đều cau mày. Một ông lão chăn cừu có các thanh niên đỡ bước lên diễn đàn. Lòng sôi sục căm giận, ông lão nói bằng một giọng cảm động:

- Khá thật! Các con hãy nhìn xem! Ngày trước, chúng ta cũng đã từng bị quân chúng nó đánh đập như vậy rồi. Nhưng bây giờ, trong làng chẳng còn ai thấy cảnh chính quyền dùng roi ngựa đánh một nông dân bao giờ. Chúng ta đã tiêu diệt được hết đời bọn địa chủ quý tộc và cái roi da nện trên lưng chúng ta cũng hết đời luôn. Các con hãy giữ gìn chính quyền mới này cho vững, các con ạ. Lão già rồi, lão chẳng biết nói chuyện. Nhưng lão muốn nói nhiều lắm. Dưới ách Nga hoàng, suốt đời chúng ta đã phải chịu vất vả cay đắng như thân con bò kéo xe, cho nên bây giờ nhìn thấy cảnh đó vẫn còn đang tiếp tục ở bên kia, thật đau lòng!... - Nói đến đây ông lão giơ bàn tay xương xẩu vẫy sang phía con sông và bắt đầu khóc hu hu lên, thật chỉ có các trẻ em và các cụ già mới khóc như vậy.

Gơ-ri-sút-ca lên tiếp lời cụ già. Nghe bài nói đầy căm hờn của Gơ-ri-sút-ca, Ga-vơ-ri-lốp quay ngựa lại nhìn xem bên kia bờ sông có kẻ nào đứng ghi những lời nói của Gơ-ri-sút-ca không. Nhưng bờ sông bên kia vắng vẻ, ngay cả người lính gác cạnh cầu cũng bị gọi về rồi.

Ga-vơ-ri-lốp nói đùa:

- Thế thì chắc chẳng có công hàm phản đối gửi đến Ban dân ủy ngoại giao của ta đâu.

Vào một đêm mưa thu vào cuối tháng Mười Một, tên phỉ An-tô-nhúc và bảy đứa bộ hạ của nó đã phải ngừng làm đổ máu người trên các đường nó qua lại. Cái đàn chó sói đó mò đến dự đám cưới của một tên chủ trại giàu có ở Mai-đan Vin-la. Các đảng viên vùng Khơ-rô-lin-ski đã bám riết và tóm được chúng trong đám cưới.

Mồm các mụ đàn bà lắm điều đã truyền cái tin những tay khách ấy sẽ đến dự đám cưới tên chủ trại. Trong nháy mắt, cả mười hai đảng viên của chi bộ đã họp lại, ai có thứ khí giới gì thì mang thứ nấy. Họ đi xe ngựa đến thôn Mai-đan Vin-la, còn người liên lạc hỏa tốc thì phi ngựa như bay về Bê-rê-dơ- đốp. Đến Xi-ma-ki thì đồng chí liên lạc tìm được đội của Phi-la-tốp. Phi-la-tốp dẫn quân của mình phi nước kiệu đuổi theo dấu chân còn mới của địch. Các đảng viên Khơ-rô-lin-ski vây lấy thôn Mai-đan, và cuộc nói chuyện bằng súng đạn giữa họ với bọn phỉ An-tô- nhúc thế là bắt đầu. An-tô-nhúc cùng bọn thủ hạ nấp vào một chái nhà bên và cứ thế bắn bất cứ ai sa vào tầm súng của chúng. Hắn muốn liều sức thử mở đường máu chạy, song các chiến sĩ Khơ-rô-lin-ski sau khi bắn chết một thằng phỉ, dồn cả bọn chúng chui vào chái nhà trở lại. Nhiều phen An-tô-nhúc cũng đã bị hãm vào đường cùng như thế. Nhưng lần nào hắn cũng thoát thân vô sự: Thủ pháo và đêm tối đã giúp cho hắn thoát. Có thể lần này nữa, hắn cũng quyết chạy thoát vì các chiến sĩ công xã đã mất đi hai người trong cuộc chiến đấu. Nhưng đang lúc đó, Phi-la-tốp vừa kịp đến tiếp viện. An-tô-nhúc hiểu rằng hắn bị kẹp chặt rồi và lần này không lối nào thoát. Đạn từ trong các cửa sổ chái nhà phụt ra cho đến tận sáng, nhưng tảng sáng thì người ta bắt được hắn. Cả bảy thằng chẳng thằng nào chịu hàng phục cả. Việc tiêu diệt cái ổ chó sói đó đã phải hy sinh mất bốn mạng người. Chi đoàn trẻ tuổi thanh niên cộng sản Khô- rô-lin-ski đã hiến ba người trong số bốn liệt sĩ đó

Tiểu đoàn Pa-ven bị gọi đi tham gia cuộc diễn tập mùa thu của các đơn vị địa phương. Tiểu đoàn bắt đầu hành quân từ sáng sớm, đi suốt một ngày dưới mưa rào, vượt bốn mươi cây số, tối mịt mới đến doanh trại của sư đoàn địa phương. Tiểu đoàn trưởng Gu- xếp và chính ủy hành quân bằng ngựa. Tám trăm thanh niên vừa đến trại đã lăn ra ngủ. Bộ tham mưu sư đoàn địa phương đã triệu tập tiểu đoàn này quá chậm: Sáng mai đã bắt đầu diễn tập rồi. Tiểu đoàn mới dàn ra trên thao trường để duyệt. Một chốc thì đã có nhiều kỵ binh từ tham mưu sư đoàn phi đến. Tiểu đoàn mặc quân phục và mang súng rồi thì trông như là thay hình đổi dạng hẳn. Cả Gu-xếp lẫn Pa- ven đã bỏ ra nhiều sức lực và thời giờ rèn luyện tiểu đoàn của mình, cho nên đến tham gia diễn tập lòng bình tĩnh không lo lắng. Khi cuộc duyệt chính thức đã xong và tiểu đoàn đã tỏ rõ tài vận động và lập đội hình của mình, thì có một người trong cấp chỉ huy, mặt bảnh trai nhưng phị mỡ, lại hỏi Pa-ven bằng một giọng xẵng:

- Tại sao đồng chí lại đi ngựa? Chỉ huy và chính ủy của một tiểu đoàn tổng quân huấn không được có ngựa. Tôi ra lệnh đồng chí cho ngựa vào chuồng, diễn tập toàn phải đi đất hết.

Pa-ven biết rằng nếu anh xuống ngựa thì không thể nào tham gia cuộc diễn tập được: Chân anh không thể đi bộ được lấy một cây số. Làm thế nào để giải thích điều đó cho chàng công tử nhặng ngậu xị, mình buộc đầy những dây lòng thòng này?

- Không đi ngựa, tôi không thể tham gia diễn tập được.

- Tại sao?

Biết là không thể giải thích cách nào khác, Pa-ven trả lời một cách gọn lỏn:

- Chân tôi bị sưng. Tôi không thể chạy và đi bộ trong một tuần được. Hơn nữa, tôi không biết đồng chí là ai.

- Tôi là tham mưu trưởng trung đoàn của anh, đấy là một điều tôi nói với anh. Còn điều thứ hai là một lần nữa tôi ra lệnh cho anh xuống ngựa, còn nếu anh là người có thương tật mà vẫn ở trong bộ đội thì đấy không phải là lỗi của tôi.

Pa-ven có cảm tưởng như bị roi quất vào mặt. Anh quất mạnh roi vào con ngựa, nhưng bàn tay chắc của Gu-xếp đã giữ anh lại. Mấy phút qua, trong người Pa-ven có hai thứ tình cảm đấu tranh với nhau: Ức không chịu được và kiên tĩnh. Song Pa-ven ngày nay không còn là cậu lính Hồng quân ngày trước không hề do dự chạy từ đơn vị này sang đơn vị khác. Pa- ven bây giờ là chính ủy của một tiểu đoàn, tiểu đoàn đó đang đứng sắp hàng sau anh. Cách xử sự của anh sẽ nêu một gương chấp hành kỷ luật như thế nào cho cả đơn vị? Bởi vì anh đã huấn luyện giáo dục tiểu đoàn mình có phải vì cái thằng cha bắng nhắng này đâu! Anh bỏ chân ra khỏi bàn đạp, từ trên ngựa tụt xuống và cố bấm bụng chịu đau đớn ghê gớm trong các khớp xương, anh đi về chỗ đứng của anh, ở sườn bên phải tiểu đoàn.

Liên tiếp trong nhiều ngày, trời nắng đẹp không chê vào đâu được. Cuộc diễn tập đã gần xong. Đến ngày thứ năm thì cuộc diễn tập tiến hành ở quanh thị trấn Sê-pê-tốp-ca. Đây là địa điểm diễn tập cuối cùng. Tiểu đoàn Bê-rê-dơ-đốp nhận nhiệm vụ từ phía làng Cơ-li-men-tô-vích tiến công chiếm lĩnh nhà ga. Pa-ven đã thông thạo vùng này quá đi rồi, anh chỉ cho Gu-xếp biết hết các ngõ ngách ra vào. Tiểu đoàn chia làm hai, không cho “kẻ địch” biết, đi vòng một đường sân luồn vào tung thâm và thét to những tiếng “hoan hô” rồi ập vào nhà ga. Những người trọng tài diễn tập đều công nhận đấy thật là một trận đánh rất cừ. Nhà ga bị các chiến sĩ Bê-rê-dơ-đốp chiếm lĩnh, còn tiểu đoàn giữ nhà ga thì sau khi bị “thiệt hại” năm mươi phần trăm số quân, đã rút lui vào rừng.

Pa-ven chỉ huy một nửa tiểu đoàn. Cùng với đại đội trưởng và chính trị viên đại đội ba đứng ở giữa đường phố, anh ra lệnh cho bố trí tuyến xạ kích.

Một chiến sĩ Hồng quân chạy đến vừa thở vừa báo cáo:

- Báo cáo chính ủy. Tiểu đoàn trưởng hỏi là các chỗ đường xe lửa và đường xe hơi gặp nhau đã có các chiến sĩ súng máy chiếm lĩnh chưa? Ban giám khảo diễn tập sẽ đến đóng ở đấy.

Pa-ven và một đại đội trưởng tới chỗ hai đường xe lửa và xe hơi gặp nhau. Ban chỉ huy trung đoàn đã họp mặt cả ở đây. Người ta khen Gu-xếp đã khéo chỉ huy trận đánh thành công. Các đại biểu của tiểu đoàn bị thua day chân ngượng nghịu và cũng không buồn nói năng bào chữa gì nữa.

- Đây không phải công lao của tôi, mà chính là công đồng chí Pa-ven người địa phương đây, đã chỉ huy chúng tôi nên mới đánh được như thế.

Tham mưu trưởng cho ngựa sát lại gần Pa-ven và nói giọng chế giễu:

- À té ra đồng chí có thể chạy được rất cừ, đồng chí ạ. Còn lúc trước đồng chí đi ngựa thì chắc là để diện thôi, có phải không?

Hắn định nói gì thêm nữa, nhưng cái nhìn của Pa- ven đã làm hắn dừng ngay lại và đứng tưng hửng.

Khi ban chỉ huy trung đoàn đã đi rồi, Pa-ven khẽ hỏi Gu-xếp:

- Cậu có biết thằng cha ấy tên là gì không?

Gu-xếp vỗ vai Pa-ven:

- Thôi cậu đừng để ý đến cái thằng khốn ấy làm gì. Tên hắn đâu là Tru-gia-nin. Hình như thời trước hắn là một tên chuẩn úy của quân đội cũ thì phải.

Ngày hôm ấy, Pa-ven đã mấy lần cố nhớ ra xem cái tên ấy anh đã nghe được ở đâu rồi, song mãi vẫn không tài nào nhớ được.

Cuộc diễn tập đã xong. Sau khi đã được giấy chứng nhận thành tích diễn tập xuất sắc, tiểu đoàn lại kéo về Bê-rê-dơ-đốp. Pa-ven thân thể bị đau nhừ, đem ngựa gửi ở nhà A-rơ-chom, rồi về chỗ mẹ nghỉ hai ngày. Suốt hai ngày, ngày nào Pa-ven cũng ngủ mười hai tiếng đồng hồ. Đến ngày thứ ba, anh đến xưởng đầu máy tìm A-rơ-chom. Trong tòa nhà kho đầu máy ám khói đen sì này, Pa-ven thấy hình như được về chính nhà mình: Anh thở hít một cách say sưa mùi khói than. Cái khung cảnh này đây, quen thuộc từ tấm bé, có một sức mạnh quyến rũ anh mãnh liệt. Chính ở nơi đây, anh đã lớn lên. Anh có cảm tưởng như thời gian qua mình đã mất đi một cái gì rất yêu rất quý. Bao nhiêu tháng trời ròng rã, anh không được nghe tiếng rú của còi tàu. Giờ đây, cảnh thân thuộc này của nhà máy thu hút tâm hồn anh thợ đốt lò và thợ lắp máy điện, y như một người thủy thủ sau một thời gian xa biển, lòng bồi hồi xúc động mỗi lần được trông thấy khoảng nước biếc bao la. Phải một lúc lâu Pa-ven mới nén được bồi hồi. Chuyện với A-rơ-chom, Pa-ven nói ít. Anh nhìn thấy một nếp răn mới hiện ra trên trán A-rơ-chom. A-rơ-chom làm việc ở cầu di động. Anh đã có thêm một đứa con nữa. Rõ ràng cuộc sống của anh gay go vất vả. A-rơ-chom không nói gì đến cảnh nhà, song chỉ nhìn anh cũng đủ rõ cảnh nhà anh như thế nào.

Anh em cùng làm việc với nhau trong hai tiếng đồng hồ rồi chia tay nhau. Đến chỗ hai đường xe lửa và xe hơi gặp nhau, Pa-ven dừng ngựa lại và nhìn nhà ga một hồi lâu, rồi quất ngựa như bay dọc theo con đường đi về phía rừng.

Đường rừng bây giờ không còn nguy hiểm đối với người qua lại nữa. Những người bôn-sê-vích đã tiêu diệt hết tất cả bọn phỉ lớn nhỏ rồi, đã đốt hết sào huyệt của chúng. Bà con các thôn xóm đã bắt đầu được sống yên ổn.

Pa-ven phi ngựa đến Bê-rê-dơ-đốp vào khoảng gần trưa. Li-đa vui sướng ra tận thềm trụ sở quận đoàn đón anh.

- Anh về đấy à! Vắng anh, chúng tôi đã bắt đầu thấy buồn rồi - Và Li-đa khoác vai Pa-ven cùng đi vào nhà.

Pa-ven vừa cởi áo ca-pốt vừa hỏi:

- Ra-dơ-va-li-khin đâu?

Li-đa đáp lại, có một vẻ gì không thích:

- Chẳng biết anh ấy đi đâu. À, tôi nhớ ra rồi. Sáng nay, anh ta nói là anh ta đi đến trường học lên lớp bài khoa học xã hội thay anh. Anh ta bảo: “Đấy là nhiệm vụ trực tiếp của tôi, chứ không phải của Pa-ven”.

Chuyện ấy làm Pa-ven ngạc nhiên một cách khó chịu. Chẳng bao giờ anh thấy ưa Ra-dơ-va-li-khin cả. Pa-ven bực mình nghĩ thầm: “Cái thứ ấy lại đến trường để bày trò gì đây!”.

- Thôi được, chị kể xem ở nhà có chuyện gì hay không nào? Chị có đến Gơ-ru-sốp-ca không? Thế nào công việc ở đó ra sao?

Li-đa kể hết mọi chuyện cho Pa-ven nghe. Pa-ven nhoài ra đi-văng, duỗi hai chân mỏi nhừ cho đỡ mệt.

- Ngày hôm kia vừa kết nạp Ra-ki-chi-na làm đảng viên dự bị. Thế là chi bộ Pốt-đúp-xi của chúng ta được tăng cường hơn. Ra-ki-chi-na là một nữ thanh niên tốt, tôi rất thích cô ấy. Anh có thấy không, trong đám giáo viên đã bắt đầu có chuyển, một số bây giờ hoàn toàn đi hẳn với chúng ta.

Đôi khi buổi tối ở nhà Li-xi-xưn, ba người: Li-xi-xưn, Pa-ven và đồng chí bí thư mới của Đảng ủy, khu Lư-xi-cốp, ngồi quanh cái bàn lớn, nói chuyện cho đến tận khuya.

Cửa vào phòng ngủ đã đóng kín. A-nhút-ca là vợ li-xi-xưn đang ngủ, còn ba người đang ngồi quanh bàn cặm cụi trên một cuốn sách nhỏ. Chỉ ban đêm, Li-xi-xưn mới có thời giờ học tập. Những ngày Pa-ven ở nông thôn trở về, buồn rầu nhận thấy Li-xi-cốp và Li-xi-xưn đã học bỏ xa mình rồi.

Một tin buồn từ Pốt-đúp-xi đến: Đêm qua không biết có bọn nào đã giết chết mất Gơ-ri-sút-ca. Được tin ấy, Pa-ven quên cả chân vẫn còn bị đau nhói. Chỉ mấy phút sau anh đã chạy đến chuồng ngựa của Ủy ban. Giận như điên, anh vội thắng yên ngựa và lấy roi da thúc hai hông ngựa, chạy như bay về phía biên thùy.

Trong căn nhà rộng của Xô-viết làng, Gơ-ri-sút-ca nằm trên chiếc bàn kết lá xanh, người anh phủ lá cờ Xô-viết. Trước khi chính quyền đến, không ai được lại gần thi hài anh; Ngoài ngưỡng cửa có một chiến sĩ biên phòng của Hồng quân và một Đoàn viên thanh niên cộng sản đứng canh. Pa-ven đi vào nhà, lại gần bàn, cuốn lá cờ lên: Gơ-ri-sút-ca nằm không động, gục đầu vào vai, mặt anh tái nhợt, hai mắt mở to còn ghi sâu cơn giãy giụa trước khi mất. Gáy anh bị một thứ vũ khí gì nhọn đâm, người ta đã lấy một cành thông phủ lên vết thương đó.

Bố Gơ-ri-sút-ca trước là một người đi ở cho tên chủ máy say, sau trở thành ủy viên của Ban dân cày nghèo và đã hy sinh cho cách mạng. Bàn tay kẻ nào đã phạm vào Gơ-ri-sút-ca, vào người thanh niên này, vào đứa con một của bà mẹ góa Khô-rô-vốt-cô này?

Con bị giết, bà cụ đau đớn ngã vật ra đất. Hàng xóm đến ân cần săn sóc bà cụ đã nửa sống nửa chết; Con bà chết đi, đem theo những điều bí mật về cái chết của mình.

Cái chết của Gơ-ri-sút-ca làm chấn động cả xã. Rõ ràng là Gơ-ri-sút-ca, người phụ trách trẻ tuổi của thanh niên cộng sản và người bảo vệ quyền lợi cho anh chị em cố nông này, có nhiều bạn hơn là thù ở trong thôn xã.

Xúc động vì cái chết của người đồng chí, Ra-ki-chi-na òa lên khóc ở phòng riêng. Và khi Pa-ven đến, chị cũng chẳng ngẩng đầu lên nữa.

Pa-ven nặng nề đặt mình xuống ghế, hỏi Ra-ki-chi-na:

- Ra-ki-chi-na nghĩ thế nào? Ai đã giết Gơ-ri-sút-ca?

- Còn ai ngoài bọn chủ máy say nữa? Vì Gơ-ri-sút-ca là cái gai trước mắt đối với những quân buôn lậu ấy.

Hai xã đến đưa đám Gơ-ri-sút-ca. Pa-ven đẫn cả tiểu đoàn của anh tới. Toàn thể tổ chức Đoàn thanh niên cơ sở đến tiễn biệt người đồng chí của mình. Ga-vi-rơ-lốp cho dàn hai trăm rưởi chiến sĩ của đại đội biên phòng bồng súng đứng trước trụ sở Xô-viết thôn. Theo điệu nhạc buồn vĩnh biệt, người ta chuyển quan tài phủ màu cờ đỏ đến đặt trên khu đất đã đào sẵn trong đám huyệt, cạnh những mộ các chiến sĩ du kích bôn-sê- vích đã hy sinh trong thời nội chiến.

Máu của Gơ-ri-sút-ca đã thắt chặt thêm nữa hàng ngũ những người mà lúc sống anh đã suốt đời đem toàn sức ra bênh vực. Thanh niên bần cố nông hứa hết lòng ủng hộ chi đoàn thanh niên. Tất cả những người lên phát biểu đều căm phẫn vô cùng, đòi kết tội tử hình bọn giết người, đòi phải tìm ra được bọn chúng và xử ngay ở đây, trước nấm mồ này, để mỗi người đều được trông thẳng vào mặt kẻ thù.

Súng vang ba loạt vĩnh biệt người bạn chiến đấu và những cành thông đã phủ lên nấm mồ mới. Ngay tối hôm ấy, chi đoàn cử người bí thư mới: Ra-ki-chi- na. Trạm biên thuỳ của Cục chính trị Nhà nước báo tin cho Pa-ven biết là ngoài ấy đã dõi được hành tung của lũ giết người.

Một tuần sau, cuộc đại hội lần thứ hai của Xô-viết quận họp tại nhà hát địa phương. Li-xi-xưn, vẻ mặt nghiêm nghị, trịnh trọng bắt đầu bản báo cáo.

- Thưa các đồng chí! Tôi sung sướng có thể báo cáo với đại hội rằng một năm qua, tất cả chúng ta đã cố gắng rất lớn. Chúng ta đã củng cố vững mạnh chính quyền Xô-viết trong quận, đã diệt đến tận gốc bọn phỉ và tróc được tận rễ bọn buôn lậu. Những tổ chức vững mạnh của bần cố nông trong các xã đã lớn lên, những tổ chức thanh niên cộng sản đã đông lên gấp mười lần, những tổ chức Đảng đã được mở rộng. Âm mưu ngóc đầu dậy gần đây của bọn phú nông ở Pốt-đúp-xi mà đồng chí Gơ-ri-sút-ca của chúng ta đã là nạn nhân, âm mưu đó cũng đã bị khám phá. Bọn thủ phạm giết người là tên chủ máy xay và con rể hắn, cả hai đều bị bắt. Ngày sắp tới, tòa án tỉnh sẽ tới đây xử bọn chúng. Rất nhiều đoàn đại biểu xã đã đến gặp văn phòng Xô-viết và yêu cầu đại hội ra quyết nghị đòi xử tử bọn phỉ khủng bố giết người...

Cả phòng họp rung lên những tiếng hô vang:

- Ủng hộ đề nghị đó! Kẻ thù của chính quyền Xô- viết phải chết!

Có bóng Li-đa hiện ra ở cửa nách.

Chị lấy ngón tay ra hiệu gọi Pa-ven.

Ngoài hành lang, Li-đa đưa cho Pa-ven một bì thư có dấu “Cần”.

Pa-ven bóc ra:

“Gửi Quận đoàn thanh niên cộng sản quận Bê-rê- dơ-đốp. Sao gửi Đảng ủy quận. Ban thường vụ Tỉnh đoàn ra quyết nghị điều động đồng chí Pa-ven từ quận về tỉnh để giao một công tác phụ trách của Đoàn”.

Pa-ven từ biệt quận mà anh đã từng công tác trong một năm nay. Trong cuộc họp vừa qua, đảng ủy quận đã thảo luận hai vấn đề: Thứ nhất là công nhận đồng chí Pa-ven làm đảng viên chính thức Đảng cộng sản; Thứ hai, sau khi cho đồng chí từ chức bí thư quận đoàn thanh niên cộng sản rồi thì nhận xét về phẩm chất của đồng chí ấy.

Li-xi-xưn và Li-đa siết chặt tay Pa-ven, siết đến đau và ôm lấy anh thân thiết. Khi con ngựa Pa-ven cưỡi rời khỏi sân nhà bước ra đường cái thì mười khẩu súng ngắn bắn lên trời chào biệt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét