BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 11: Hội hóa trang thành Rome
Hồi đầu năm 1838 ở
Florence thấy có hai người trẻ tuổi thuộc xã hội thanh lịch nhất của Paris; một
người là tử tước Albert de Morcerf, người kia là nam tước Franz d'épinay. Họ
cùng nhau đi dự hội hóa trang thành Rome. Thật không phải là việc dễ dàng: ba
trăm ngàn người xem, người La Mã, người ý, người ngoại quốc từ bốn châu lục của
thế giới đến dự và nếu không muốn dự lễ hội giữa đám người bình dân và kẻ tầm
thường thì phải tìm được một cái xe, những quần áo giả trang và nhất là một cái
cửa sổ mở ra phố Cours là nơi đoàn diễu hành đi qua.
Albert và Franz
thuê phòng ở chỗ bác Pas-trini, chủ khách sạn Londres trên quảng trường Tây Ban
Nha.
Căn hộ họ đặt trước
chỉ có hai phòng nhỏ vì phần kia của tầng gác đã được một người giàu sụ thuê,
và hình như ông ta là người đảo Sicile.hay đảo Malte và mang tước vị bá tước
Monte Cristo.
- Này bác Pastrini,
bác đã tìm được một cửa sổ trông xuống đoàn diễu hành chưa? Hôm nay đã là thứ
sáu, hai ngày nữa là khai mạc hội hóa trang rồi.
- à, xin vâng, một
cái cửa sổ! - Bác Pastrini kêu lên, chuyện này sẽ khó khăn đấy. Còn một cái ở
tầng năm lâu đài Doria nhưng vừa mới cho thuê rồi.
- Chúng tôi trông
cậy ở bác đấy, bác Pastrini ạ, Franz nói. Còn chiều nay bác cho chiếc xe ngựa
mui gấp đưa chúng tôi đi thăm đấu trường Colisée.
- Đấu trường
Colisée ư? Các quý ngài ơi, nếu tôi có thể đưa ra một lời khuyên thì xin các
ông tránh những đường phố ngoại vi.
- Tại sao vậy?
- Vì đó là vùng đất
của Luigi Vampa, một tên cướp đáng sợ nhất thành Rome. Hắn chuyên bắt cóc du
khách và đòi tiền chuộc: tùy theo chỗ ở của khách trong thành phố là xa hay gần
mà hắn đưa ra một thời hạn để nộp tiền chuộc; rồi thời hạn ấy trôi qua, hắn cho
thêm một giờ làm phúc. Đến phút thứ sáu mươi của giờ đó, nếu chưa nhận được
tiền thì hắn sẽ bắn vỡ sọ người ta bằng một phát súng lục, và thế là xong
chuyện.
- Quỷ thần ơi! Này
bác Pastrini, bác dọa chúng tôi bằng các chuyện cướp này đủ rồi chứ?
ít ra thì cũng cám
ơn bác đã chỉ bảo cho!
Nói xong, hai chàng
trai đi xuống cầu thang, lên xe đi thăm đấu trường Colisée. Tuy nhiên họ vẫn
tránh các đường phố ngoại vi.
Ngày hôm sau, bác
Pastrini đến phòng các chàng trai.
- Tôi đã tìm được
rồi. ông chủ khách sạn nói với giọng hoàn toàn hài lòng. Các ông biết rằng bá
tước Monte Cristo ở cùng tầng gác với các ông. Nay ông ấy biết các ông đang gặp
trở ngại và sẵn lòng dành cho các ông hai chỗ trong xe của mình và hai chỗ cửa
sổ lâu đài Rospoli.
- Nhưng mà, Albert
hỏi, liệu chúng tôi có nên nhận sự giúp đỡ của một người không quen biết chăng?
Trong lúc đó có
tiếng người gõ cửa. Một người hầu xuất hiện ở cửa phòng.
- Ngài bá tước
Monte Cristo, người hầu nói, cho tôi sang hỏi xem các ông đây có vui lòng cho
phép chủ nhân tôi được tiếp kiến ở bên này như một người láng giềng được không?
- Hãy nói với bá
tước, Franz trả lời, rằng chính chúng tôi sẽ rất hân hạnh được đến thăm ông ấy.
Người hầu rút
lui..- Thế thì các ông nhận lời đề nghị của ông ta chứ? Bác Pastrini nói.
- Riêng tôi thì xin
vâng, Albert nói. Còn anh nói sao hả Franz?
- Tôi nói rằng các
cửa sổ lâu đài Rospoli đã khiến tôi quyết định. Franz trả lời.
- Này, Franz nói,
sửa soạn đi và chúng ta cùng sang bên bá tước Monte Cristo.
Franz và Albert mới
đi ngang qua đầu cầu thang, một người hầu đã ra mở cửa và ra hiệu mời họ vào.
Họ đi ngang qua hai
phòng bày biện sang trọng đến mức mà họ không tin được rằng có thể thấy trong
khách sạn của bác Pastrini, và cuối cùng bước vào một phòng khách thanh lịch.
- Xin mời các quý
ngài ngồi, người hầu nói, tôi đi báo cho ngài bá tước.
Gần như ngay lập
tức tấm thảm treo được nâng lên lấy lối đi cho người chủ sở hữu tất cả các đồ
đạc quý giá này. Đó là một người đàn ông quãng ba mươi tám bốn mươi tuổi, ăn
mặc cực kỳ thanh nhã và lịch sự.
- Chúng tôi, Franz
và tôi, ngàn lần biết ơn ông thưa ngài bá tước, Albert nói, thực sự ngài đã
giúp chúng tôi thoát khỏi một vụ lúng túng lớn.
- A! Lạy Chúa! Thưa
các ông, bá tước tiếp lời và đưa tay ra hiệu mời hai chàng trai ngồi xuống một
cái đi văng, nếu tôi để các ông bị lúng túng lâu đến thế, thì đó là lỗi ở cái
gã ngu đần Pastrini. Thưa các ông, tôi đã ra lệnh rồi, trưa ngày mai sẽ có xe
đưa chúng ta đến lâu đài Rospoli.
Hai chàng trai đứng
dậy và cáo biệt.
Ngày chủ nhật, ngày
đầu tiên của hội hóa trang đã tới. Bá tước đã cho soạn sửa những bộ y phục
loang lổ của hề Arlequin bằng xa tanh trắng và xanh thuộc loại lịch sự nhất.
- Vì các ông đã để
tôi chọn hộ quần áo, ông nói với hai người bạn, nên tôi đã sai sửa soạn cho các
ông những bộ này. Ta mặc vào nhanh lên.
Trang phục tinh
tươm, họ đi xuống. Chiếc xe đợi ở cửa, chất đầy confettis và các bó hoa.
Một đám đông những
người đeo mặt nạ đi ra, tràn từ mọi hướng, ùa ra từ các cửa ra vào, nhảy xuống
từ các cửa sổ tầng trệt. Xe cộ trổ ra mọi góc phố, chở đầy những anh hề
Pierrot, những anh hề Arlequin quần áo chắp vá nhiều màu, những chàng hiệp sĩ.
- Thưa các ngài, bá
tước vừa nhảy xuống xe vừa nói, khi nào các ngài chán đóng vai diễn trò mà muốn
trở lại làm khán giả thì xin biết rằng các ngài có chỗ bên các cửa sổ của tôi.
Trong khi chờ đợi, xin tùy ý sử dụng người đánh xe và xe ngựa cùng các người
hầu của tôi.
Franz cám ơn bá
tước về lời mời ân cần còn Albert lại bị cuốn hút bởi một xe đầy nhóc các.cô
thôn nữ La Mã, cũng bị dừng lại như xe của bá tước.
- A! Bạn thân mến,
anh nói với Franz, tôi đảm bảo rằng họ là những người đàn bà rất hấp dẫn và tôi
mong hội hóa trang thế nào cũng đem lại cho tôi cuộc gặp gỡ nào đó.
Suốt phần còn lại
của ngày hôm ấy, chiếc xe ngựa mui gấp của các cô thôn nữ La Mã qua lại nhiều
lần trước mặt đôi bạn trai. Trong một lần gặp chiếc xe ấy, Albert lấy một bó
hoa và ném lên chiếc xe. Chắc là một trong những người đàn bà hấp dẫn này mà
Albert đã đoán ra dưới lớp quần áo thôn nữ đỏm dáng đã động lòng với hành vi
tình tứ ấy vì lúc chiếc xe của đôi bạn lại đi qua thì đến lượt cô ta ném sang
một bó hoa đổng thảo.
Albert vồ lấy bó
hoa và hãnh diện cài lên khuyết áo.
- Này, Franz nói
đùa với anh ta, đây là khởi đầu một cuộc phiêu lưu!
Câu chuyện đùa mau
chóng mang tính hiện thực, vì lúc Franz và Albert gặp lại chiếc xe thôn nữ, cô
gái đã ném bó hoa cho Albert liền vỗ tay khi nhìn thấy hoa của mình trên khuyết
áo anh ta.
- Hoan hô! Bạn thân
mến! Hoan hô! Franz bảo anh ta, sắp sửa đến điều kỳ diệu đấy!
- Đừng có mà hấp
tấp. Nếu cô thôn nữ xinh đẹp có ý muốn đi xa hơn nữa thì ta sẽ lại gặp cô ấy
vào ngày mai.
Họ trở lại lâu đài
Rospoli, nhưng bá tước đã biệt tăm. Họ liền quay về khách sạn.
Ngày hôm sau, lúc
một giờ rưỡi, các chàng trai đi xuống đường. Bá tước Monte Cristo đã dành một
chiếc xe cho họ sử dụng. Albert cài bó hoa đổng thảo đã héo vào khuyết áo của
mình.
Lúc họ đã nhập vào
đoàn diễu hành, một bó hoa đổng thảo tươi tắn từ chiếc xe các thôn nữ La Mã bay
vụt sang xe của bá tước, báo cho Albert thấy rằng cuộc phiêu lưu của anh ta hôm
qua vẫn tiếp diễn. Cô gái ném bó hoa đã bỏ mặt nạ ra để cho Albert có thể nhìn
rõ mặt cô. Cô ta quả là đẹp.
Bó hoa có gài một
tấm thiếp và Albert đọc:
"Tối thứ ba, hồi
bảy giờ, anh xuống xe trước phố Pontefici và đi theo người thôn nữ La Mã đến
giật cái đèn lồng của anh. Chú ý thắt một dải lụa hồng lên vai áo để cô ta dễ
nhận ra anh.
Từ nay đến lúc đó
sẽ không gặp tôi nữa." - Này, Franz nói, xem ra sự việc mang tính chất của
một cuộc phiêu lưu đến là dễ chịu.
- Mình cũng thấy
thế. Albert nói.
Rồi cũng tới ngày
thứ ba, ngày cuối cùng và ồn ào nhất trong các ngày hội hóa trang..Albert đã
dành được thắng lợi trong bộ y phục của anh hề áo vá nhiều màu. Trên vai anh có
một dải băng hồng tết thành nơ rủ hai đầu xuống tận khÂo chân.
Ngày càng muộn thì
thành phố lại càng nhộn nhịp. Đến tối mỗi người đều thắp cái đèn lồng kiểu ý
gọi là moccoletto của mình. Thế là chỉ trong mười phút đã thấy lấp lánh năm
mươi ngàn đốm sáng xuôi từ lâu đài Venise xuống quảng trường Nhân Dân. Cứ như
thể hội ma trơi.
Lúc bảy giờ hai anh
bạn đang ở mạn trên của phố Pontefici. Albert nhảy ra khỏi xe ngựa, tay cầm đèn
lồng, thế rồi gần như lập tức có người đeo mặt nạ mặc y phục quen thuộc của cô
thôn nữ ném hoa đưa tay giật lấy chiếc đèn lồng.
Franz ở quá xa
không nghe thấy tiếng họ trao đổi với nhau, nhưng anh thấy Albert và cô thôn nữ
khoác tay nhau cùng đi. Thế rồi họ mất hút.
Bỗng tiếng chuông
báo hiệu kết thúc hội hóa trang vang lên và cùng lúc ấy tất cả các moccoli tắt
đi như có phép màu. Như thể một cơn gió duy nhất và rất lớn đã thổi tắt tất cả.
Cùng lúc mọi tiếng hò reo đều ngừng bặt. Hội hóa trang đã kết thúc.
Có thể là trong đời
mình, Franz chưa từng cảm nhận được một ấn tượng nào dứt khoát đến thế, một
bước chuyển từ niềm vui sang nỗi buồn mau lẹ đến thế. Mà anh chẳng cách xa
khách sạn là bao. Sau mười phút, xe anh hay đúng hơn là xe của bá tước đã đậu
trước khách sạn Londres.
Lúc đến gần khách
sạn, Franz thấy một người đứng giữa đường phố. Người này choàng một áo khoác
lớn. Trước sự kinh ngạc của Franz, người ấy nói với anh.
- Có phải nam tước
Franz d'épinay đó không? Hắn hỏi thế. Lá thư này gửi cho ông.
Franz quay vào đọc
dưới ánh nến:
"Bạn thân mến,
ngay lúc nhận thư này, xin vui lòng làm ơn lấy cái thẻ tín dụng trong ví của
tôi, kèm cả cái của anh vào đó nếu nó chưa đủ. Chạy đến ông chủ ngân hàng để
lập tức lĩnh ngay bốn ngàn đồng rồi trao cả cho người mang thư. Việc khẩn cấp
nên số tiền phải được gửi cho tôi ngay lập tức.
Bạn anh Albert de
Morcerf" Và bên trên là những chữ của người khác:
"Nếu đúng sáu
giờ sáng mà bốn ngàn đồng chưa đến tay ta thì đến bảy giờ, tử tước Albert de
Morcerf sẽ không còn nữa.
Luigi Vampa"
Albert đã rơi vào tay tên tướng cướp khét tiếng mà anh ta mãi cứ không chịu tin
là có nó trên đời.
Không thể để phí
thời gian. Franz chạy tới bàn giấy, mở ra, tìm thấy chiếc ví trong ngăn.kéo,
trút thêm cả tiền riêng của mình vào đó:
vẫn còn thiếu một
ngàn đồng mới đủ.
Chợt một ý tưởng
thần tình lướt qua đầu óc anh. Anh nghĩ đến bá tước Monte Cristo. Một lát sau
anh đã đứng trước cửa phòng bá tước.
Một người hầu dẫn
anh vào nhà. Bá tước đến trước mặt anh, nói:
- A! Ngọn gió lành
nào mà đưa anh tới vào giờ này? Anh đến đòi tôi thết bữa đêm chăng?
- Không, tôi đến
nói với ngài một việc nghiêm trọng: Albert đã bị bọn cướp bắt cóc, chúng đòi
tôi tiền chuộc.
Và Franz đưa thư
của Albert cho ông xem.
- Người đưa lá thư
này đâu? - Bá tước hỏi sau khi đọc xong.
- ở ngoài phố.
Bá tước đến cửa sổ
căn phòng trông ra phố và huýt một hiệu còi. Người đàn ông khoác áo choàng rời
khỏi bức tường và đi ra giữa đường.
- A! Anh đấy à, Peppino. Lên đây, ông
nói như thể ra lệnh cho người hầu.
Người đưa thư vâng lời.
- Tử tước Albert rơi vào tay Luigi như
thế nào? Bá tước hỏi.
- Thưa ngài, xe của ông người Pháp đã
gặp xe có chở Teresa nhiều lần.
- Với tình nhân của chủ tướng ư?
- Vâng. ông người Pháp đã liếc mắt đưa
tình, Teresa đùa đáp lại ông ta. ông ném cho cô ấy những bó hoa, cô cũng ném
hoa đáp lại cho ông, dĩ nhiên là được chủ tướng cũng đang ở trên chiếc xe ấy
đồng ý, chính ông ta cải trang thành người đánh xe ngựa.
- Rồi sao? Bá tước hỏi.
- Vậy rồi Teresa đã đồng ý hẹn gặp mặt,
duy chỉ có điều là Beppo đã thay Teresa đến điểm hẹn.
- Thế nào! Franz ngắt lời, chính cái cô
thôn nữ đã giật chiếc đèn moccoletto của anh ta?...
- Đó là một cậu bé mười lăm tuổi,
Peppino trả lời, nhưng đối với bạn ông thì chẳng có gì đáng hổ thẹn cho việc bị
lầm, Peppino đã lừa như thế được khối người đấy, nhá. ông ta bị dẫn tới cho
Luigi đang đợi trong hầm mộ ở nhà thờ Saint-Sébastien.
- Đó là một nơi thật đẹp như tranh. Nếu
anh chưa biết các hầm mộ ở Saint-Sébastien thì đây vừa may có dịp đến viếng
thăm!
Franz và bá tước lên xe, cả Peppino
nữa, và họ cho ngựa chạy nước kiệu. Mười phút sau, xe dừng lại. Peppino đến mở
cửa cho bá tước và Franz xuống xe.
Franz và bá tước đi theo Peppino đến
một khoảng trống giữa các tảng đá đến một người đi qua cũng hơi khó. Ba người
lách qua đó.
- Ai?.- Bạn! - Peppino nói.
Những người mới đến nhìn qua khoảng
trống của các vòm cuốn thấy có một người ngồi đọc, khuỷu tay tựa vào một cái
cột, lưng quay lại phía các vòm cuốn. Đó là chủ tướng của băng cướp, Luigi
Vampa.
Quanh hắn thấy có độ vài chục tên cướp,
tên nào cũng để súng vừa tầm tay với. Phút chốc tất cả những tên cướp cùng đứng
bật dậy và hai mươi cái nòng súng carabine nhằm vào bá tước.
- Bỏ súng xuống! Tên tướng cướp thét
lên và ra hiệu bằng một tay, còn tay kia thì hắn kính cẩn ngả mũ chào.
- Trí nhớ của anh xem ra kém quá Vampa
ạ.
Bá tước nói, chẳng phải là đã thỏa
thuận rằng không riêng gì con người ta mà còn cả các bạn bè ta nữa cũng là
thiêng liêng đối với các anh sao?
- Tôi vi phạm thỏa ước ở chỗ nào thưa
ngài?
- Tối nay anh đã bắt cóc đem về đây tử
tước Albert de Morcerf, bá tước nói với một ngữ điệu làm Franz rùng mình; mà
chàng trai này thuộc số bạn bè của ta, anh đã đòi anh ta nộp tiền chuộc như bất
kỳ một ai khác.
- Xin thề trước thánh giá! Tôi mà phát
hiện ra kẻ nào trong các anh đã biết chàng trai là bạn của đức ông thì tự tay
tôi sẽ bắn vỡ sọ hắn.
Tên tướng cướp đi vài bước đến trước
Franz:
- Hoan nghênh ngài đã đến chỗ chúng
tôi.
Thưa ngài, hắn bảo anh ta. Người bị bắt
ở đàng kia và tôi sẽ đích thân báo cho ông ta rằng ông ấy được tự do.
Bá tước và Franz theo tên tướng cướp
đến một xà lim và hắn mở khóa.
Lúc đó nhờ ánh sáng một ngọn đèn, có
thể thấy Albert cuộn tròn trong một cái áo khoác của một tên cướp cho mượn nằm
trong một xó và ngủ rất say.
- Nào! Bá tước nói và cười, nụ cười đặc
trưng của ông, một người bị xử bắn vào bảy giờ sáng mà chẳng đến nỗi nào.
Vampa nhìn Albert ngủ, lộ vẻ ít nhiều
khâm phục.
- Ngài nói đúng thưa bá tước, con người
này phải là một trong số bạn của ngài.
Rồi đến gần Albert, hắn chạm vào vai
anh:
- Thưa ngài! - Hắn nói, ngài vui lòng
thức dậy chứ?
Albert vươn tay, giụi mắt rồi mở mắt
nhìn.
- Ngài được tự do,
thưa ngài.
- Họ đã trả tiền
chuộc cho tôi rồi sao?
- Không, thưa ngài.
Có người mà tôi không dám từ chối bất cứ điều gì đã đến đòi ngài về.
- A! Thế đấy, con
người nào sao dễ thương đến thế?.Albert đưa mắt nhìn quanh mình và nhận ra
Franz đi cùng với bá tước Monte Cristo.
- A, thưa bá tước,
Albert vui vẻ nói và sửa lại cavat cùng các cửa tay áo, ông là một con người
thật quý hóa, mong ông coi tôi là người chịu ơn ông suốt đời.
Tên cướp nhìn toàn
bộ cảnh này với vẻ kinh ngạc.
- Thưa ngài Luigi,
Albert nói tiếp, có cần hoàn tất thủ tục gì không để cáo biệt ngài?
- Không cần gì cả
thưa ông, và ông được tự do như khí trời vậy.
- Như vậy thì chúc
ông một cuộc sống tốt lành và vui vẻ. Đi nào, các ông, đi nào!
Họ gặp lại chiếc xe
ở chỗ nó đậu lúc trước.
Bá tước chỉ nói một
tiếng với người đánh xe là những con ngựa đã chạy miết.
Ngày hôm sau vừa
mới thức dậy, câu nói đầu tiên của Albert là rủ Franz sang thăm bá tước.
Ngay sau đó họ đến
trình diện ở cửa.
- Thưa bá tước,
Albert vừa nói vừa bước lại gần, sáng nay xin phép cho tôi được thưa lại với
ông về điều hôm qua tôi nói chưa rõ: đó là không bao giờ tôi quên rằng ông đã
cứu tôi trong hoàn cảnh như thế nào và tôi sẽ luôn nhớ rằng tôi chịu ơn ông cứu
mạng hay gần như thế.
- ông láng giềng
thân mến của tôi ơi, bá tước vừa cười vừa trả lời, ông đã quá lời khi nói về sự
hàm ơn đối với tôi. Nhờ tôi mà ông tiết kiệm được khoản tiền nhỏ độ vài chục
ngàn quan trong việc chi tiêu du lịch của ông, chỉ có thế thôi mà. ông thấy rõ
là chuyện này chẳng đáng nói làm gì.
- Tuy nhiên việc
tôi chịu ơn ông không vì thế mà ít hơn, bởi vậy tôi muốn hỏi rằng liệu tôi có
thể giúp ông được chút việc gì không. Cha tôi, bá tước De Morcerf, người gốc
Tây Ban Nha hôm nay đang có địa vị cao ở Pháp và Tây Ban Nha, và tôi xin thưa
rằng tôi và tất cả những người yêu mến tôi sẵn sàng đợi ông sai bảo.
- Thế thì, bá tước
nói, tôi thú thực với ông rằng, ông de Morcerf ạ, tôi mong đợi đề nghị của ông
và tôi chấp nhận nó hết sức thực lòng.
Tôi đã chọn ông để
nhờ cậy một việc lớn.
- Việc gì ạ?
- Tôi chưa từng ở
Paris! Tôi không biết Paris.
Lúc tôi đến Paris
liệu ông có hứa mở giùm các cửa cho tôi đi vào cái thế giới mà ở đó tôi là
người xa lạ hay không?
- Rất sẵn lòng,
Albert đáp, rất vui mừng được giới thiệu một người như bá tước Monte Cristo.
Và khi nào thì tôi
được hân hạnh tiếp ông?
- Liệu ông có ưng
một cuộc hẹn đúng ngày đúng giờ không? Xin báo để ông biết rằng tôi là người
chính xác đến khó chịu..- Đúng ngày đúng giờ, Albert nói, điều đó hết sức phù
hợp với tôi.
- Vậy thì, cứ thế
nhé. Bá tước đưa tay về một quyển lịch treo cạnh tấm gương. Hôm nay là 21 tháng
hai, lúc này là mười giờ rưỡi sáng.
Ông có muốn chờ tôi
vào ngày 21 tháng năm sắp tới vào hồi mười giờ rưỡi sáng không?
- Tuyệt vời! Albert
nói, bữa sáng sẽ sẵn sàng.
- ông ở đâu?
- Phố Helder số nhà
27.
Bá tước ghi cẩn
thận những thông tin ấy.
- Và bây giờ, bá
tước nói trong khi bỏ những mảnh giấy ghi chép của mình vào túi áo, xin cứ yên
tâm, kim đồng hồ treo tường nhà ông không chính xác hơn tôi được đâu. Khi nào
ông quay về Paris?
- Ngày mai, tôi đi
vào hồi năm giờ chiều.
- Như vậy thì xin
chào ông. Còn ông, bá tước hỏi Franz, ông cũng đi chứ, ông nam tước?
- Vâng, đi Venise.
Tôi còn ở lại Italia một vài năm.
- Nào, chúc các ông
lên đường may mắn! Bá tước nói với hai người bạn và chìa cho mỗi người một tay.
Đó là lần đầu Franz
cầm tay người đàn ông này, anh rùng mình vì nó lạnh giá như tay người chết.
BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 12: Đến ở Paris
Trong ngôi nhà ở
phố Helder, nơi mà Albert de Morcerf lúc ở Rome đã chọn làm điểm hẹn với bá
tước Monte-Cristo, tất cả đều được dọn dẹp trong buổi sáng sớm ngày 21 tháng 5
để làm vinh dự cho lời nói của chàng trai.
Albert de Morcerf ở
trong một tòa lầu nằm phía góc sân lớn. Phía bên kia sân là tòa nhà rộng rãi
của ông bà bá tước de Morcerf.
Đã mười giờ, một
vài người được Albert mời đến để đón bá tước Monte Cristo đã có mặt. ở đây có
Lucien Debray, một chàng trai cao lớn tóc vàng, nước da tái, mắt màu xám và tự tin,
anh ta là tùy viên ở văn phòng Bộ trưởng bộ nội vụ, và Beauchamp, nhà báo đáng
gờm của tờ "Công Minh".
Người hầu phòng vào
báo có hai người khách mới..- ông de Château-Renaud! ông Maximilien Morrel!
- Morrel. - Albert
thì thào vẻ ngạc nhiên.
Nhưng nói chưa dứt
thì ông de Château-Renaud, một chàng bảnh trai ba mươi tuổi, quý tộc từ đầu đến
chân, đã nắm lấy tay Albert:
- Bạn thân mến, cho
phép tôi giới thiệu với bạn ông đại úy kỵ binh Maximilien, bạn tôi.
Người sĩ quan trẻ
lịch sự nghiêng mình chào.
- Thưa ông, Albert
nói với sự nhã nhặn trìu mến, ông là bạn của ông nam tước de Château-Renaud vậy
xin cũng là bạn của chúng tôi.
- Kể chuyện về ông
khách của ông đi. ông ấy ở đâu đến thế? ông đã gặp gỡ ông ta như thế nào?
- à, tôi đã ở Rome dự hội hóa trang.
- Chúng tôi biết chuyện ấy. - Beauchamp
nói.
- Vâng, nhưng điều ông chưa biết là tôi
bị bọn cướp bắt cóc đưa đến các hầm mộ Saint-Sébastien.
Tôi viết thư cho Franz rằng nếu anh ấy
không đến kịp vào lúc sáu giờ sáng cùng với bốn ngàn đồng ê quy thì tên tướng
cướp Luigi Vampa sẽ bắn vỡ sọ tôi.
- Nhưng Franz có đến với bốn ngàn ê quy
không? Château-Renaud nói.
- Không, anh ta chỉ có đi cùng với ông
khách mà tôi sắp giới thiệu với các anh. ông ta nói vài lời vào tai tên tướng
cướp và tôi được tự do. Bọn chúng lại còn xin lỗi tôi nữa chứ.
- A, hóa ra là như vậy! Thế cái ông ấy
có phải là bậc á-thánh không?
- Không, rất đơn giản chỉ là bá tước
Monte Cristo.
- Nào Albert! Hãy xếp chuyện bọn cướp ý
và cả chuyện bá tước Monte Cristo lại, Debray nói. Này đồng hồ đánh chuông mười
giờ rưỡi rồi đấy! Hãy thú nhận rằng anh đã bị một cơn ác mộng rồi ta đi ăn
thôi.
Nhưng tiếng ngân quả chuông đồng hồ
chưa dứt thì cánh cửa đã mở ra và Germain thông báo:
- Đức ông bá tước Monte Cristo!
Bá tước xuất hiện ở ngưỡng cửa, ăn mặc
cực kỳ đơn giản nhưng tất thảy đều tuyệt vời phong nhã và đều xuất xứ từ những
nhà cung ứng lịch sự nhất. ông vừa mỉm cười vừa đi vào giữa phòng khách đến
thẳng chỗ Albert lúc đó đang bước lại phía ông, vồn vã đưa tay ra bắt tay ông.
- Sự chính xác, Monte Cristo nói, là
cách cư xử lịch thiệp của các bậc vua chúa. Nhưng dù có thiện chí đến đâu thì
tính chính xác không phải bao giờ cũng là cách xử sự lịch thiệp của du khách
được. Tuy nhiên, tôi mong rằng, tử tước.thân mến, xin ông lượng thứ cho hai hay
ba giây chậm trễ mà vì thế tôi tin rằng mình đã xuất hiện muộn ở cuộc hẹn. Đi
năm trăm dặm đường không thể nào tránh được một vài điều trái ý.
- Thưa bá tước, tôi đang thông báo cuộc
viếng thăm của ngài với một số bạn bè của tôi, mời họ đến họp mặt nhân dịp ngài
đã vui lòng đến thăm và tôi hân hạnh được giới thiệu các bạn tôi với ngài. Đó
là bá tước de Château-Renaud, ông Lucien Debray, ông Beauchamp, và sau nữa là
ông Maximilien Morrel.
Cho đến lúc ấy bá tước vẫn chào mọi
người rất lịch sự nhưng lạnh nhạt, đến lúc nghe thấy cái tên này thì bá tước
không kiềm chế được đã bước lên một bước và một sắc son phơn phớt hiện ra như
một ánh chớp trên đôi má nhợt nhạt của ông.
- Thưa các ông, Albert nói, Germain báo
cho tôi rằng bữa ăn đã sẵn sàng phục vụ các ngài.
Họ lặng lẽ đi sang phòng ăn. Ai ngồi
vào chỗ nấy.
- Thưa các ông, bá tước nói lúc ngồi
vào bàn, cho phép tôi nói lời tự thú thay cho lời xin lỗi về mọi ứng xử không
hợp cách mà tôi có thể gây ra: tôi là người ngoại quốc mà lại ngoại quốc đến
mức đây là lần đầu tôi đến Paris. Cho nên cuộc sống Pháp đối với tôi là hoàn
toàn xa lạ và từ trước cho đến tận bây giờ tôi mới chỉ quen sống theo kiểu
phương đông. Tôi xin các ông thứ lỗi cho nếu các ông thấy ở tôi có vài điều quá
Thổ Nhĩ Kỳ, quá naples hay quá ả Rập.
Trình bày như vậy rồi, thì thưa các
ông, xin mời.
- Xem ông ta nói như thế chứ! -
Beauchamp thì thầm, hẳn phải là một đại quý tộc.
Và các vị khách bắt đầu dùng bữa.
- ông bảo rằng, thưa bá tước, ông vừa
mới đến đây. Vậy ông tính chuyện chỗ ở thế nào?
- Tôi đã có chỗ ở hoàn toàn sẵn sàng.
Tôi đã cử người hầu phòng đến trước và anh ta có nhiệm vụ mua cho tôi ngôi nhà
ấy và bày biện đồ đạc cho nó.
- Như thế có phải là ông bảo ông có một
người hầu phòng quen thuộc Paris rồi không? -Beauchamp reo lên như vậy.
- Đây cũng là lần đầu anh ta đến Pháp
như tôi. Anh ta tên là Ali, người Nubie và anh ta bị câm. Monte Cristo đáp.
- Nhưng sao ông lại giao cho một người
Nu-bie câm mua nhà ở Paris và trang bị đồ đạc cho ông? Morcef hỏi. Hắn sẽ làm
mọi chuyện sai lạc hết, cái anh chàng khốn khổ đáng thương ấy.
- ông lầm rồi, thưa ông. Anh ta đến đây
đã tám hôm rồi, anh ta đã chạy khắp thành phố và vì anh ta biết rõ những ý
thích thất thường, những sở thích riêng và những nhu cầu của tôi.nên anh ta sẽ
thu xếp mọi thứ cho tôi vừa ý.
Anh ta đã đón tôi trên đường và đưa cho
tôi mảnh giấy này, đó là địa chỉ mới của tôi: ông cầm lấy.
- Champs-élysées, 30. - Morcerf đọc.
- A! Điều này quả thật rất vương giả
đấy! -Beauchamp không nín được buột miệng nói.
- Như vậy, Beauchamp nói, là ngài đây
có một ngôi nhà trang bị đầy đủ: ngài có một dinh thự ở Champs-élysées, những
người hầu, người quản gia, ngài chỉ còn thiếu có mỗi một cô nhân tình.
- Tôi có nhiều hơn thứ đó, Monte Cristo
nói: tôi có một cô nô lệ mua được ở Constanti-nople.
Việc này làm tôi phải trả khá đắt nhưng
tôi chẳng phải bận tâm nữa.
Người ta đã chuyển sang ăn tráng miệng
và hút xì gà từ lâu. Các khách mời đã bị bá tước chinh phục. Đó thực sự là một
con người kỳ lạ nhất mà họ thấy trong đời.
- Bạn thân mến, Debray đứng dậy và nói,
đã hai giờ rưỡi rồi, ông khách của bạn thật khả ái, nhưng bầu bạn có cao nhã
đến mấy rồi cũng phải cáo biệt.
Đó là tín hiệu ra về: mọi người cùng
đứng dậy và từ biệt Albert và bá tước Monte Cristo.
- Thưa bá tước, Maximilien Morrel nói,
đây là danh thiếp của tôi. Tôi hy vọng rằng sẽ được hân hạnh đón tiếp ông ở số
nhà 14 phố Meslay.
- Hãy tin chắc rằng thế nào tôi cũng sẽ
đến, thưa ông, bá tước vừa nói vừa nghiêng mình.
Albert gọi người hầu phòng và sai đi
báo cho ông bà de Morcerf về cuộc viếng thăm tiếp theo của bá tước de Monte
Cristo.
Một lát sau đó, Monte Cristo giáp mặt
với chính bá tước de Morcerf. Đó là một người đàn ông có lẽ trạc độ bốn mươi
đến bốn lăm tuổi nhưng có vẻ ít nhất cũng phải năm mươi, ria mép và lông mày
màu đen lại tương phản đến lạ kỳ với bộ tóc bạc cúp bốc theo kiểu nhà binh.
Monte Cristo thấy ông ta đến gặp mình
mà chẳng bước lên bước nào, dường như chân ông bị đóng đinh chặt xuống ván sàn
cũng như đôi mắt dán chặt vào mặt bá tước de Morcerf.
- Xin chào mừng ngài đã đến với chúng
tôi.
Bá tước de Morcerf vừa mỉm cười vừa
chào Monte Cristo.
Trong khi nói những lời chào đón này,
bá tước de Morcerf chỉ một chiếc ghế bành mời Monte Cristo.
- Thật hân hạnh cho tôi, Monte Cristo
nói, ngay từ lúc mới đến đã được tiếp kiến một người mà công trạng sánh kịp
danh tiếng.
Viên tướng thích thú vì cung cách của
bá tước..- Mẹ đây rồi! - Tử tước bỗng reo lên.
Đúng thế, Monte Cristo quay lại đã thấy
bà de Morcerf ở lối vào phòng khách: đứng sững bất động và tái mặt, cánh tay bà
đang tựa vào khung cửa rơi thõng xuống lúc Monte Cristo quay lại.
Bá tước đứng dậy và cúi rất thấp chào
Mer-cédè s, đến lượt mình bà cũng cúi chào, lặng câm và trịnh trọng.
- Này, lạy Chúa, bà làm sao thế? Viên
tướng hỏi. Có phải là hơi nóng ở phòng khách này làm bà khó chịu không?
- Mẹ ơi, mẹ khó chịu à? - Tử tước kêu
lên và lao đến trước mặt Mercédès.
Nàng cảm ơn cả hai người bằng một nụ
cười.
- Không, nàng nói, nhưng tôi có xúc
động đôi chút khi gặp người mà tôi hàm ơn cứu mạng con trai tôi.
Bá tước lại nghiêng mình, anh còn tái
mặt hơn cả Mercédès.
- Thưa bà, anh nói, ông bá tước và bà
đã không tiếc lời khen tôi về một hành động bình thường. Nhưng tôi tiếc rằng
buộc phải cáo biệt ông bà. Sáng nay vừa bước ra khỏi chiếc xe đi đường trường
của tôi là vào cửa nhà ông, nơi ăn chốn ở của tôi ở Paris như thế nào tôi chưa
rõ.
Mà ở đâu thì tôi cũng chỉ vừa mới được
biết thôi. Đó là một băn khoăn nhỏ, tôi biết thế, nhưng tuy vậy cũng đáng kể.
- Vậy thì tôi không giữ ông ở lại đâu,
thưa ông, bà bá tước vừa nói vừa rời phòng khách.
- Bá tước thân mến, Albert nói, xin ông
vui lòng dùng chiếc xe hòm của tôi cho đến khi nào ngựa, xe của ông được trang
bị xong.
- Cám ơn về sự ân cần chu đáo của ông,
tử tước ạ, nhưng tôi đoán rằng người quản gia của tôi, ông Bertuccio đã kiếm
được cho tôi một chiếc xe nào đó có thắng ngựa sẵn sàng.
Ra đến thềm quả nhiên Monte Cristo thấy
có một chiếc xe đang đợi mình. Đó là một chiếc xe hòm lộng lẫy với đôi ngựa đẹp
tuyệt trần mà mới hôm qua người chủ cũ còn chưa chịu bán với giá mười tám ngàn
frăng.
Và Monte Cristo nhảy lên xe, cửa xe
đóng lại sau lưng anh rồi xe chạy nước đại.
Ngôi nhà Ali đã chọn làm nơi ở trong
thành phố cho Monte-Cristo thuộc dãy phải đường lên Champs-élysées. Người đánh
xe còn chưa kịp gọi người canh cổng thì cánh cửa sắt đồ sộ đã quay trên các bản
lề.
Khi chiếc xe đỗ lại, người quản gia đến
gần và cung kính chào bá tước..- ông Bertuccio, bá tước nói, ngôi nhà này hoàn
toàn hợp ý tôi. Nhưng tôi còn muốn mua một ngôi nhà ở ngoại ô Paris và ngay
chiều nay tôi muốn xem cái tài sản mới này ở Auteuil. ông biết Auteuil chứ?
- Không, thưa ngài, người quản gia trả
lời với một vẻ run run do căng thẳng thần kinh mà Monte Cristo là người am hiểu
về nguồn cơn các xúc động đã quy kết một cách có lý là do lo ngại thái quá.
- Thật đáng tiếc, anh nói, nhưng thôi
lên đường! ông đi cùng tôi.
- Đến Auteuil? Bertuccio kêu lên, màu
da đồng trở nên gần như tím tái. Tôi ạ, đi đến Au-teuil à!
- Này, tôi hỏi ông, có gì đáng kinh
ngạc khi ông đến Auteuil hả? Khi mà tôi sẽ ở nơi đó, chắc hẳn là ông phải đến
đó rồi!
Bertuccio cúi đầu trước cái nhìn oai vệ
của ông chủ rồi ông ta kính cẩn ngồi vào chiếc ghế dài đàng trước của chiếc xe.
Hai mươi phút sau họ đến Auteuil. Nỗi
xúc động của người quản gia cứ tăng lên mãi.
- ông cho đậu xe ở phố La Fontaine số
28, bá tước vừa nói vừa hướng cái nhìn đăm đăm chẳng chút xót thương lên người
quản gia đang tái mặt đi khi nhận lệnh này.
Trong khi đi đường đêm đã xuống. Chiếc
xe đỗ lại trước nhà người gác cổng.
- Thế này là thế nào? - Hắn hỏi.
- Đây là ông chủ mới của anh. -
Bertuccio nói.
- Phải, anh bạn ạ, - bá tước nói, tôi
sẽ cố làm cho anh khỏi phải tiếc ông chủ cũ của mình.
- ồ! Thưa ông, người hầu nói, tôi chẳng
phải tiếc gì lắm ông hầu tước de Saint-Méran, vì chúng tôi rất hiếm khi gặp ông
ta.
- Hầu tước de Saint Méran! - Monte
Cristo nhắc lại, nhưng hình như với tôi cái tên này không phải là không quen,
hầu tước de Saint Méran... và ông làm ra vẻ lục lại trí nhớ.
- Một nhà quý tộc già, người hầu nói
tiếp, ông ta có cô con gái độc nhất lấy ông biện lý hoàng gia de Villefort.
Monte-Cristo ngước nhìn bắt gặp
Bertuccio lại còn tái xám hơn cả bức tường anh ta dựa vào cho khỏi ngã.
- Và người con gái này chết rồi phải
không?
- Monte-Cristo hỏi; hình như tôi có
nghe nói thế.
- Vâng, thưa ông, đã hai mươi mốt năm
và từ đó chúng tôi chỉ gặp hầu tước có ba lần.
- Nào, bá tước bảo Bertuccio đang bị
kích động dữ dội, ông hãy cầm lấy cái đèn rồi ta đi xem nhà. - Không! Không ạ!
Bertuccio vừa kêu vừa bước tiếp dọc theo lối đi. Không, thưa ông, tôi không đi
xa hơn đâu, điều này thật chẳng bình thường chút nào: đã tậu một ngôi nhà ở
Paris, ông lại còn tậu đúng ngôi nhà này. Cứ như là ở Auteuil chẳng có ngôi nhà
nào khác ngoài ngôi nhà của kẻ sát nhân!
- ồ! ồ! Monte Cristo vừa thốt lên vừa
đột ngột dừng lại, ông nói gì thế? Nào, cố nhớ lại rồi kể chuyện này cho tôi
nghe.
- Tôi chỉ mới kể chuyện ấy có một lần
cho tu sĩ Basoni, trong lúc xưng tội; mà cũng chỉ kể một phần thôi. Sự việc đi
ngược về tận năm 1815.
Tôi có người anh cả phục vụ hoàng đế.
Người anh ấy cũng là người bạn độc nhất của tôi.
Một hôm, chúng tôi nhận được thư anh
nói rằng quân đội bị giải giáp và anh sẽ trở về nhà, nếu tôi có ít tiền, anh
xin tôi gửi đến Nimes cho anh đang ở nhà người chủ quán quen biết. Tôi yêu anh
tôi tha thiết, tôi đã nói điều đó với ngài, thưa ngài, nên tôi quyết định không
gửi tiền mà tự mình mang đến cho anh. Để chị dâu tôi là Assunta ở nhà, tôi lên
đường đi Nimes. Đó là thời xảy ra những cuộc tàn sát nổi tiếng ở miền Nam. ở đó
có hai hoặc ba trăm tên bất lương, chúng cắt cổ bất kỳ ai bị nghi là thân
Bonaparte.
Khi đi vào Nimes tức là hoàn toàn bước
đi trong máu, thấy xác chết ở khắp nơi: những kẻ sát nhân tập hợp thành bầy đã
giết người, cướp phá, và đốt nhà.
Tôi chạy đến nhà người chủ quán. Chao
ôi!
Anh tôi đã tới Nimes hôm trước và đã bị
giết ngay ở cửa nhà người mà anh hỏi trọ.
- Thế lúc đó anh đã làm gì? Monte
Cristo hỏi.
- Tôi đến gặp ông biện lý hoàng gia.
- Có phải viên biện lý hoàng gia này
tên là Villefort không? - Monte Cristo hờ hững hỏi.
- Đúng thưa ngài.
"Thưa ông, tôi bảo hắn, anh tôi đã
bị sát hại hôm qua trên đường phố và tôi đòi hỏi công lý.
"- ông muốn tôi làm gì trong việc
này?
Người quan tòa trả lời.
"- Thưa ông, tôi nói, không phải
là tôi cầu xin ông cho tôi. Tôi ấy à, tôi sẽ khóc hoặc tôi sẽ trả thù, có thế
thôi; nhưng người anh đáng thương của tôi còn có một người vợ, chị tôi bây giờ
không còn nguồn sống nào. Xin hãy cấp cho chị tôi một món tiền tuất nhỏ của
chính phủ.
"- Mỗi cuộc cách mạng đều có những
thảm họa của nó, ông Villefort đáp, anh của ông là nạn nhân của cuộc cách mạng
này, và chính phủ không hề mang nợ gia đình ông về chuyện đó.
"- Cái gì? Thưa ông, tôi kêu lên,
một ông quan tòa có thể nói với tôi như thế à! ông thấy.rằng giết anh tôi là
phải à; Vậy thì tôi, tôi tuyên bố với ông một điều: đó là tôi sẽ giết ông,
chính ông. Từ phút này tôi tuyên bố việc trả nợ máu.
Hãy giữ mình cẩn thận vì lần đầu tiên
ta giáp mặt nhau tức là giờ cuối cùng của ông sẽ đến." Và ngay lúc ấy,
trước khi hắn kịp hết ngạc nhiên, tôi mở cửa ra và bỏ chạy.
Từ lúc đó, hắn không ra ngoài một mình
nữa, nỗi sợ hãi ám ảnh hắn; hắn xin đổi nhiệm sở, và hắn được cử đến
Versailles; nhưng tôi theo sát hắn.
Suốt ba tháng trời tôi rình de
Villefort; suốt ba tháng trời không một bước nào, một cử động nào, một cuộc đi
dạo nào của hắn mà không có con mắt của tôi theo hắn đến tận nơi. Cuối cùng tôi
phát hiện ra hắn bí mật đến Auteuil: tôi lại theo hắn và thấy hắn đi vào căn
nhà mà chúng ta đang có mặt ở đây; nhưng kỳ cục thay hắn vào bằng cái cửa nhỏ
mà ông thấy ở đàng kia.
Đó là chỗ mà tôi phải gài bẫy.
Một buổi tối, trong khi nhìn qua tường
tôi thấy một thiếu phụ trẻ và đẹp đi dạo một mình trong khu vườn này. Thực ra
cô ta đợi Villefort.
Lúc cô ta đến khá gần chỗ tôi, tôi nhận
thấy cô ta có mang.
Một buổi tối khi tôi quan sát ngôi nhà,
trong khi đợi lúc thuận tiện để trả thù, tôi thấy một người hầu đi ra một giờ
đồng hồ sau hắn trở về cùng với Villefort. Cơ hội thật tốt: tôi rút con dao
trong túi ra, nhảy qua tường và ẩn vào trong vườn.
Hai giờ đồng hồ trôi qua. Rất nhiều lần
tôi tưởng như nghe thấy tiếng rên rỉ suốt trong quãng thời gian ấy. Đồng hồ
đánh nửa đêm. Giữa lúc tiếng chuông cuối cùng còn rung lên sầu thảm và vang
động thì cửa mở ra và Villefort đi thẳng đến chỗ tôi; hắn dừng lại ở rìa một
lùm cây, đảo mắt nhìn quanh mình rồi bắt đầu đào một cái hố. Tôi nhận ra rằng
hắn mang theo một cái hòm nhỏ. Tôi để cho hắn đặt cái hòm xuống hố rồi lấp đất
lên trên. Lúc đó tôi mới nhảy bổ vào hắn và đâm hắn một nhát dao vào ngực trong
khi nói với hắn rằng: "Ta là Giovanni Bertuccio!
Cái chết của mày là để trả thù cho anh
tao, kho báu của mày là cho bà vợ góa bụa của anh tao:
cuộc trả thù còn hoàn hảo hơn cả điều
tao mong muốn".
Hắn ngã xuống không kêu được một tiếng:
tôi cảm thấy máu của hắn chảy chứa
chan, bắn tóe vào tôi nóng hổi.
Tôi vớ lấy cái hòm rồi chạy ra tận
sông, tôi ngồi trên sườn đê và nậy khóa bằng con dao của mình. Một đứa trẻ vừa
mới đẻ được quấn trong cái tã bằng vải lanh mịn, mặt nó nhuốm màu tía,.đôi tay
tím ngắt cho thấy rằng nó đã lâm vào tình trạng không chống chọi nổi sự ngạt
thở; tuy nhiên tôi cảm thấy có nhịp đập khẽ ở vùng tim; thế là tôi liền hà hơi
vào phổi cho nó. Sau mười lăm phút cố gắng phi thường tôi thấy nó thở, và tôi
nghe thấy một tiếng khóc buột ra từ ngực nó.
- Vậy ông làm gì đứa trẻ ấy? Monte
Cristo hỏi.
- Tôi biết ở Paris có một nhà tế bần có
nhận các tạo vật đáng thương này. Sau khi đã đề phòng cẩn thận bằng cách rọc
cái tã làm đôi sao cho một trong hai chữ tên đánh dấu cái tã còn quấn quanh
mình đứa trẻ, tôi đặt gánh nặng của mình xuống, giật chuông rồi ba chân bốn
cẳng bỏ chạy.
Mười lăm ngày sau tôi về nhà và giải
thích toàn bộ câu chuyện cho Assunta. Tôi đưa cho chị nửa cái tã mà tôi đã giữ
lại, để đòi nhận lại đứa trẻ khi chúng tôi khấm khá hơn.
Nửa muốn xua tan những hoài niệm vẫn ám
ảnh tôi nửa muốn chu cấp cho những nhu cầu của người quả phụ đáng thương, tôi
hăng hái quay lại với nghề buôn lậu của tôi. Những chuyến đi của tôi ngày càng
kéo dài hơn, ngày càng sinh lợi nhiều hơn. Assunta làm việc nội trợ và cái tài
sản nhỏ bé của chúng tôi cứ tăng lên. Một hôm, sau chuyến đi sáu tuần tôi trở
về, khi bước vào nhà tôi kinh ngạc thấy một cái nôi trong có đứa trẻ độ bảy tám
tháng. Tôi thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ. Assunta đã nhân lúc tôi vắng nhà,
đem theo nửa cái tã, đi Paris đòi lại đứa trẻ. Assunta đã đặt tên cho nó là
Benedetto.
- Vậy là ông đã sung sướng quá. Bá tước
nói.
- Chao ôi! Từ lúc nó còn nhỏ tuổi, nó
đã tỏ ra là đứa tệ nhất của đám vô lại trong làng.
Chưa đầy mười một tuổi mà tất cả đám
bạn bè của nó đều được chọn trong đám thanh niên hai mươi, những kẻ xấu xa nhất
vùng và tòa án cũng đã phải cảnh cáo chúng tôi.
- Đứa bé hay thật! Monte Cristo lẩm
bẩm.
Rồi sau nó ra sao?
- Benedetto đã lợi
dụng một chuyến tôi đi vắng mà cuỗm sạch tiền dành dụm được của As-sunta sau
khi tra khảo mẹ. Từ hôm ấy, tôi không hề gặp lại nó mà thậm chí chẳng nghe nói
gì về nó. Giờ đây, ông quản gia vừa nói tiếp vừa cúi đầu, ông đã biết hết, thưa
ông bá tước..
BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 13: Những người mang họ Danglars và họ Villefort
Vào hồi mười một
giờ hôm sau, bá tước xuống nhà rồi lên xe, cho xe dừng lại trước dinh thự của
ông chủ ngân hàng Danglars, đậu bên cạnh một cỗ ngựa khác cũng đẹp gần như cỗ
ngựa của mình.
Danglars đang làm chủ
tọa một hội đồng được cử ra để làm một đường xe lửa, thì người ta báo cho hắn
cuộc viếng thăm của bá tước Monte Cristo.
- Thưa các ông, hắn
nói với các đồng nghiệp, thứ lỗi cho tôi nếu tôi phải cáo biệt các ông như thế
này nhưng xin hãy hình dung là hãng Thom-son và French ở Rome giới thiệu đến
chỗ tôi một bá tước Monte Cristo nào đó, để mở cho ông ta một khoản tín dụng vô
hạn. Về phần tôi các ông hiểu cho vì bị tính tò mò ám ảnh nên phải vội gặp con
người này.
Và hắn rời khỏi đám
khách khứa của mình để đi sang một phòng khách.
Nghe thấy tiếng
Danglars đi vào, bá tước ngoảnh lại. Danglars khẽ gật đầu chào rồi ra hiệu mời
bá tước ngồi. Monte Cristo nói:
- Hẳn ông đã nhận
được bức thư yêu cầu ngân hàng của ông cấp tín dụng cho tôi?
- Vâng, Danglars nói,
nhưng tôi phải thú thật với ông rằng về chuyện này tôi chưa hoàn toàn hiểu rõ.
Lá thư này mở một tín dụng vô hạn cho ông ở ngân hàng của tôi.
- Vậy thì, thưa ông
nam tước, ông thấy có gì tối nghĩa trong đó?
- Không có gì, thưa
ông, chỉ có điều cái từ vô hạn...
- Này, từ ấy không
phải tiếng Pháp à?
- Rút cục, thưa
ông, Danglars nói sau một lúc suy nghĩ, tôi sẽ cố để ông hiểu tôi bằng cách đề
nghị ông tự mình ấn định khoản tiền mà ông định nhận ở tôi.
- Nhưng, ông ạ,
Monte Cristo nói thêm, nếu tôi yêu cầu một tín dụng vô hạn ở ông tức là tôi
chẳng biết chính xác tôi cần bao nhiêu tiền.
Lão chủ ngân hàng
cho rằng thế là đã đến lúc thắng thế, hắn ngả người trong chiếc ghế bành của
mình và nói với một nụ cười nặng nề và ngạo nghễ:.- ồ! Thưa ông, đừng ngại và
ông muốn gì cũng được. Ngân hàng Danglars có thể thỏa mãn những yêu cầu lớn
nhất, cho dù ông có yêu cầu tới một triệu. Tôi nói rõ là: một triệu, Danglars
lặp lại với cái vẻ chững chạc của sự ngu xuẩn.
- Một triệu thì tôi
sẽ làm cái gì chứ? Bá tước nói. Lạy Chúa! Thưa ông, nếu tôi chỉ cần có mỗi một
triệu thì tôi sẽ chẳng phải mở tín dụng cho một món tiền còm như thế. Một triệu
à? Mà bao giờ tôi chả có một triệu trong ví hoặc là trong hộp đựng đồ đi đường.
Và Monte Cristo rút
từ một cuốn sổ tay nhỏ đựng các danh thiếp của mình ra hai phiếu chi mỗi phiếu
năm trăm ngàn frăng trực tiếp chi cho người cầm phiếu, ở kho bạc.
Danglars ngước hai con mắt ngây dại
nhìn Monte Cristo.
- Xin tha lỗi cho tôi, thưa bá tước.
- Vậy thì, bây giờ khi ta đã hiểu nhau,
hãy ấn định, nếu ông vui lòng, một khoản tiền đại khái cho năm đầu: sáu triệu
chẳng hạn.
- Sáu triệu, được! - Danglars nói, sửng
sốt.
- Để mở đầu, xin vui lòng cho mang lại
năm trăm ngàn frăng vào ngày mai, tôi sẽ ở nhà đến trưa.
- Điều đó sẽ được thực hiện, Danglars
nói.
Và bá tước đứng lên.
Danglars tiễn ông
ra tận thềm.
- Này nam tước, cho
tôi biết cỗ ngựa đẹp tuyệt vời màu xám đốm kia là thuộc về ai?
- Của bà Danglars.
Chúng được thắng sẵn để cho bà de Villefort mượn chiều nay vào rừng chơi.
Về đến nhà, bá tước
lập tức gọi Ali.
- Ali này, anh bảo
hắn, anh hay kể với tôi về tài ném thòng lọng của anh phải không?
Ali ra hiệu là vâng
rồi đứng thẳng người, tỏ vẻ hãnh diện Ali mỉm cười.
- Vậy thì nghe đây,
bá tước nói. Lát nữa sẽ có chiếc xe thắng hai ngựa màu xám đốm chạy qua. Dù anh
có bị nghiền nát thì cũng phải làm cho cái xe ấy dừng lại ở cửa nhà tôi.
Người Nubie chạy ra
ngồi trên khúc gỗ ở góc hợp thành bởi tòa nhà với đường phố, hút cái ống điếu
Thổ Nhĩ Kỳ của mình, trong khi ấy Monte Cristo quay vào nhà chẳng còn quan tâm
đến gì hết.
Đột nhiên, vào
quãng năm giờ, thấy có tiếng bánh xe lăn từ đàng xa, rồi lại gần với sự mau lẹ
của sấm sét. Một chiếc xe mui gấp xuất hiện, người đánh xe đang cố kìm ngựa lại
một cách vô.hiệu, chúng chạy hung hăng, bờm dựng ngược, vọt lên bằng những cái
vươn mình điên dại.
Trong xe, một thiếu
phụ trẻ và một đứa bé khoảng bảy tám tuổi ngồi ôm lấy nhau, co quắp.
Bất chợt Ali đặt
ống điếu xuống, cầm cuộn dây thòng lọng vung ra, quấn ba vòng vào các chân
trước của con ngựa chạy bên trái, để mình bị kéo theo sự chuyển động mạnh mẽ
của con ngựa, nhưng sau ba hay bốn bước con ngựa bị trói ngã khuỵu xuống làm tê
liệt mọi cố gắng của con ngựa còn đứng muốn chạy tiếp. Ali đã nắm được mũi con
ngựa thứ hai và con vật nằm dài ra co giật bên cạnh bạn đồng hành.
Tất cả việc này chỉ
cần một thời gian đủ cho một viên đạn chạm vào đích. Nhưng mấy giây ấy cũng đủ
để Monte Cristo kịp lao ra, theo sau là nhiều người hầu, đem hai người khách
qua đường vào trong phòng khách. Đặt họ lên một tràng kỷ, ông nói:
- Đừng sợ, thưa bà,
bà đã thoát nạn.
Thiếu phụ đã hoàn
hồn và hỏi thăm về cậu con trai còn đang bất tỉnh.
Monte Cristo đưa
tay phác một cử chỉ để làm yên lòng người mẹ đang khóc sướt mướt và mở một cái
hộp lấy chiếc lọ thủy tinh Bohème nạm vàng đựng một thứ nước màu đỏ rồi rỏ có
mỗi một giọt lên môi đứa trẻ.
Đứa trẻ dù còn tái
xanh, lập tức mở mắt ra.
Thấy thế người mẹ
vui sướng gần như phát điên.
- ồ! Chỉ tại cái
tính hiếu kỳ đáng nguyền rủa! Người thiếu phụ nói. Cả Paris bàn tán về những
con ngựa tuyệt vời của bà Danglars và tôi đã điên rồ muốn đi thử. Nhưng tôi
đang ở đâu đây?
- Bà đang ở nhà bá
tước Monte Cristo.
- Thưa ông, tôi là bà Héloise de
Villefort.
Bá tước chào trong vai một người hoàn
toàn không biết gì khi nghe nói đến cái tên này.
- Thưa ông, chúng tôi đội ơn ông cứu
mạng.
Chắc chắn là nếu không nhờ có người hầu
dũng cảm của ông thì đứa con yêu dấu này và tôi đều đã bị giết chết.
- Ôi chao! Thưa bà! Tôi vẫn còn run vì
hiểm họa mà bà đã trải qua.
Trong phút im lặng này, bá tước có thể
tha hồ nhìn kỹ đứa trẻ mà người mẹ đang ra sức hôn hít. Nó bé nhỏ, mảnh khảnh,
nước da trắng với mái tóc đen, cặp mắt đầy vẻ tinh ranh khéo vờ vĩnh và ưa chơi
ác.
- Tôi thấy bà đã hoàn toàn lại sức và
bà muốn ra về. Tôi vừa sai thắng chính cặp ngựa ấy vào xe của tôi và Ali sẽ
đánh xe đưa bà về nhà..Tối hôm ấy sự kiện Auteuil thành đề tài trong mọi cuộc
trò chuyện: Albert kể lại chuyện ấy với mẹ, Château-Renaud kể ở câu lạc bộ đua
ngựa, Debray ở phòng khách của ông bộ trưởng; Beauchamp tự mình xử sự phong nhã
với bá tước bằng một cái tin hai chục dòng đăng trên tờ báo của mình, đưa nhà
quý tộc ngoại quốc lên thành bậc anh hùng đối với các phu nhân trong giới quý
tộc.
Ngày hôm sau, bá tước đến phố Meslay
xin gặp ông bà Herbault và ông Maximilien Morrel.
- A! Thưa bá tước, Maximilien nói, cám
ơn, trăm lần cám ơn ông đã không quên lời hứa. Mời ông vào trong vườn, chị tôi
đang cắt những bông hồng héo.
Tiếng chân bước làm cho người thiếu phụ
trẻ chừng hai mươi đến hai mươi nhăm tuổi, mặc một chiếc áo dài trong nhà,
ngẩng đầu lên. Cô chính là Julie và nay đã là bà Emmanuel Herbault.
Emmanuel bước đến chào bá tước. Rồi cả
ba người đưa anh đi dạo trong vườn và dẫn vào phòng khách.
Từ lúc bước vào căn nhà này, bá tước đã
thấy lòng mình tràn ngập niềm hạnh phúc. Bởi vậy ông lặng thinh không nói, chỉ
ngồi im mơ mộng. Lát sau ông cố bứt mình ra khỏi mơ màng:
- Xin bà thứ lỗi cho tôi, cuối cùng ông
nói, đối với tôi, vẻ mãn nguyện hiện trên gương mặt của con người là điều hết
sức mới mẻ, thành thử tôi ngắm hai vị, bà và chồng bà, mà không biết chán.
- Chúng tôi rất sung sướng, đúng thế,
thưa ông, Julie đáp, nhưng chúng tôi cũng đã trải qua nhiều thời gian đau khổ
và ít có ai trả giá đắt cho hạnh phúc như chúng tôi.
Sự tò mò thoáng hiện ra trên nét mặt
của bá tước.
- Và Chúa đã ban cho các vị, như Người
từng ban cho tất cả mọi người, nguồn an ủi cho nỗi đau khổ đúng không? - Monte
Cristo hỏi.
- Vâng thưa bá tước, Julie nói; chúng
tôi có thể nói như vậy, vì Người đã làm cho chúng tôi điều mà Người chỉ làm cho
những người được ân sủng. Người đã ban cho chúng tôi một trong các thiên thần
của Người.
Monte Cristo đứng dậy chẳng đáp lại một
lời vì nếu nói thì giọng run run của anh sẽ làm lộ rõ những xúc động đang khuấy
động lòng anh, anh liền đi từng bước một khắp phòng khách.
- Bà nói là một thiên thần? Monte
Cristo tái mặt và đưa tay cố nén nhịp đập của trái tim mình..- Vâng, một thiên
thần mà những di vật duy nhất đang ở đây.
Julie chỉ cho bá tước xem một hình cầu
bằng pha lê úp lên một cái túi bằng tơ, một lá thư và một viên kim cương được
đặt nằm trang trọng trên một cái gối nhỏ bằng nhung đen.
- Vật này, thưa bá tước, là quý giá
nhất trong kho báu của gia đình, Maximilien vừa nói vừa nhấc quả cầu pha lê
lên. Cái túi này đã cứu cha tôi khỏi chết, cứu chúng tôi khỏi sự phá sản, cứu
tên tuổi chúng tôi khỏi nỗi ô nhục. Lá thư này được viết vào hôm mà cha tôi đã
chọn một giải pháp thật tuyệt vọng, và viên kim cương này tặng em gái tôi làm
của hồi môn bởi con người không quen biết hào hiệp ấy.
- ông nói không quen biết? Con người đã
giúp các vị trong việc này vẫn cứ còn là không quen biết đối với các bạn?
- Vâng, thưa ông, chưa bao giờ chúng
tôi có diễm phúc được cám ơn ông ta, Julie nói. Nhưng tôi còn chưa mất hết hy
vọng một ngày kia được hôn bàn tay đã cứu vớt chúng tôi.
- Cha chúng tôi đã tin chắc ai là người
đem lại hạnh phúc này cho chúng tôi, Maximilien nói.
Monte Cristo rùng mình.
- Cha tôi thấy ở hành động này một
chuyện thần kỳ. Cha tôi tin vào một ân nhân đã vì chúng tôi mà ra khỏi nấm mồ.
ý tưởng này cho đến ngày ấy vẫn chỉ là một mối hoài nghi nhưng rồi nó trở thành
niềm xác tín, và những lời cuối cùng mà cha tôi nói ra lúc lâm chung là:
"Maximilien, đó là Edmond Dantès!".
Những lời này làm cho vẻ xanh xao của
bá tước vốn đã tăng lên từ mấy giây đồng hồ trước, nay trở nên đáng sợ.
Anh rút đồng hồ ra cứ như là anh quên
mất giờ giấc, cầm lấy mũ, nói với bà Herbault một lời chúc tụng bối rối và ngắn
gọn, rồi bắt tay Emmanuel và Maximilien:
- Thưa bà, anh nói, xin phép bà cho tôi
được thỉnh thoảng ghé lại thăm bà. Tôi yêu ngôi nhà của các vị, và tôi cám ơn
về sự đón tiếp của các vị, vì đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài quên
mất mình, tôi được đón tiếp như vậy.
Ngay lúc bá tước rời khỏi ngôi nhà ở
phố Meslay thì Maximilien đến lượt mình cũng đi ra, và bằng những bước chân khẽ
khàng bước vào một khu vườn đã trở lại hoang dã liền kề ngôi nhà lộng lẫy của
ngoại ô Saint-Honoré.
Trong vườn hoa của tòa dinh thự sang
trọng bậc nhất này, ở một góc cây cối đặc biệt um tùm có một người đàn bà trẻ
đứng nhìn đăm đăm qua một khe giữa lùm cây vào phía vườn hoang..Đó là một thiếu
nữ khoảng mười chín tuổi, cao dong dỏng, tóc màu hạt dẻ sáng, cặp mắt xanh
thẫm, có dáng đi uể oải thấm đượm vẻ quý phái tao nhã. Cô là con gái của cuộc
hôn nhân đầu tiên giữa ông de Villefort và bà de Saint-Méran.
Với cái nhìn chỉ có ở những người đang
yêu chàng trai đã thấy phấp phới tà áo trắng và chiếc thắt lưng dài màu thanh
thiên. Anh lao về phía tường chắn và ghé miệng vào một khe nứt.
- Đừng sợ, Valentine, anh nói, tôi đây
mà.
- ồ! Thưa ông, cô nói, tại sao hôm nay
ông đến muộn thế? ông có biết là sắp đến giờ ăn tối rồi không và tôi đã phải
khéo biện bạch để đem đồ thêu ra đây làm.
- Valentine thân mến, chàng trai nói,
đối với tôi cô quá kiêu xa để tôi dám ngỏ lời với cô, tuy nhiên mỗi lần gặp cô,
khi nghĩ đến cô, máu tôi sôi sục, ngực tôi căng lên, trái tim tôi chan chứa
niềm yêu. Tôi yêu cô, Valentine.
- Tình yêu của anh không được phải lẽ
lắm vì anh biết rằng tôi đã được hứa gả cho ông Franz d'Epinay.
- Nghe nói là ông Franz d'Epinay còn đi
vắng một năm nữa; trong một năm trời biết bao nhiêu cơ may có thể giúp ta biết
bao nhiêu sự kiện có thể hỗ trợ cho ta! Vậy hãy luôn luôn hy vọng, thật là tốt
đẹp và thật là dịu ngọt khi người ta hy vọng!
Bất thần Valentine thốt lên:
- Xuỵt! Trốn đi anh, có người đến đấy!
- Cô ơi! Cô ơi! - Có tiếng gọi sau đám
cây.
Bà de Villefort đang tìm cô khắp nơi.
Có khách đến thăm đang ở phòng khách. Một đại lãnh chúa, một ông hoàng ấy chứ,
theo như người ta đồn, đó là ngài bá tước Monte Cristo.
- Tôi đến đây. Valentine nói to.
Cái tên đó làm Maximilien rùng mình.
- Này! Anh tự nhủ, sao bá tước Monte
Cristo lại quen ông de Villefort nhỉ?
Bà de Villefort đang ở trong phòng
khách lúc người ta báo bá tước đến thăm, liền lập tức cho gọi con trai để cho
con cám ơn bá tước một lần nữa. ông de Villefort vắng nhà vì đi dự bữa tối ở
nhà ông chưởng ấn.
Valentine đã được bà hầu phòng báo
trước, bước vào, thấy người ngoại quốc mà cô đã nghe nói đến nhiều đang ngồi
cạnh bà mẹ kế, cô liền chào rất duyên dáng làm tăng gấp bội sự chú ý của bá
tước.
Lúc đó chuông điểm sáu giờ.
- Sáu giờ rồi đấy, bà Villefort nói, rõ
ràng là muốn lợi dụng cái cớ này để ngồi lại một mình.với Monte Cristo,
Valentine này sao con không đến xem ông nội con đã sẵn sàng để ăn tối chưa?
Valentine đứng dậy và vừa chào bá tước,
vừa ra khỏi phòng không nói một lời.
- Xin ông vui lòng tha lỗi cho cô de
Villefort, thiếu phụ sôi nổi nói tiếp; vì đã đến giờ chúng tôi phải dọn cho cụ
Noirtier cái bữa ăn buồn tẻ để duy trì sự sống buồn tẻ của cụ. Chao ôi! Cụ già
tội nghiệp hoàn toàn không cử động được nữa, riêng chỉ có tinh thần còn sáng
suốt trong cỗ máy con người này. Nhưng, bà ta nói tiếp, ông chắc phải là một
nhà hóa học lớn. Thứ rượu thuốc mà ông đã cho con trai tôi uống...
- ồ! Tôi không nói thế, thưa bà, bá
tước trả lời với một nụ cười; tuy tôi có nghiên cứu hóa học vì đã quyết định cư
trú đặc biệt ở phương Đông, tôi muốn biết nhiều hơn về các độc dược.
Vì những người phương Đông là những
chuyên gia đáng sợ trong lĩnh vực ấy: chẳng phải là chẳng có một người đàn bà
Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ hay Hy Lạp nào là không biết về lĩnh vực hóa học đến nỗi làm
sững sờ một người thầy thuốc đấy thôi.
- Thật thế ư! - Bà de Villefort nói, mà
cặp mắt ánh lên một ngọn lửa lạ lùng khi nghe lời trò chuyện này.
- Chẳng hạn thứ rượu thuốc mà bà vừa
nói, thưa bà; một giọt rượu ấy đủ để đưa cậu bé sắp chết kia trở về với cuộc
sống, nhưng ba giọt ắt đẩy máu vào phổi làm cho cậu bé đánh trống ngực; sáu
giọt ắt làm cho cậu ngừng thở, và gây ra một cơn ngất nặng hơn nhiều cơn cậu
vừa trải qua; sau rốt mười giọt ắt gây đột tử.
- Tôi cho rằng cách điều chế ra nó là
một bí mật, và tôi không thiếu tế nhị để hỏi xin ông đơn thuốc ấy.
- Nhưng tôi, thưa bà, Monte Cristo vừa
nói vừa đứng dậy, tôi lại đủ lịch thiệp để tặng bà đơn thuốc này. Chỉ xin nhắc
bà một điều là: ở liều thấp, đó là một phương thuốc; ở liều cao, đó là thuốc
độc. Một giọt đem lại mạng sống; chin hay mười giọt chắc chắn là chết người, và
bằng một cách còn khủng khiếp hơn, là nếu pha vào một ly rượu vang nó chẳng hề
làm thay đổi hương vị của rượu chút nào. Nhưng tôi xin dừng lại đây, vì thưa
bà, gần như có vẻ là tôi chỉ dẫn cho bà rồi.
Chuông đồng hồ vừa báo sáu giờ rưỡi.
- Tôi phải cáo biệt bà, Monte Cristo
nói; tôi có một lời hứa mà tôi không thể bỏ qua được.
Tôi nhận lời với một công chúa Hy Lạp
trong số bạn gái của tôi, cô ấy chưa từng thấy nhà hát lớn và nhờ cậy tôi đưa
cô đi xem.
- Vậy ông đi đi, thưa ông. Nhưng đừng
có quên đơn thuốc của tôi..Monte Cristo chào và ra về. Kết quả thật vượt quá
mong đợi của ông. Và hôm sau, giữ đúng lời hứa, ông gửi đơn thuốc bà ta đã hỏi
xin.
Nhà hát nhạc vũ kịch đêm hôm ấy chào
mừng Levasseur, và tác phẩm của nhạc sĩ thiên tài hợp thời thượng như mọi khi
đã thu hút cả xã hội thanh lịch nhất Paris.
Morcerf có khoang ghế riêng ở gần dàn
nhạc, Château-Renaud cũng có khoang ghế sát cạnh đó. Beauchamp với tư cách nhà
báo, là chúa tể của nhà hát, có thể ngồi ở bất cứ đâu. Nữ nam tước Danglars và
cô con gái Eugénie được Lucien Debray mời vào lô của ông bộ trưởng.
Bước vào phòng diễn, họ thấy khán giả ở
khu trước sân khấu đều đứng, mắt nhìn đăm đăm về cùng một điểm trong phòng; họ
đưa mắt theo hướng ấy và dừng lại ở lô trước đây của đại sứ Nga.
- Này! Albert nói, đó là Monte Cristo
và cô gái Hy Lạp của ông ta.
Một lát sau, người đàn bà trẻ là đối
tượng chú ý không những của khu trước sân khấu mà của cả phòng diễn; các bà
nhoài người khỏi lô của mình để ngắm cái dòng thác kim cương ấy chảy dưới ánh
sáng của các ngọn đèn chùm. Bà Danglars hỏi:
- Lucien, cái người đàn ông này anh có
biết là ai không?
- Đó là một cô nô lệ, theo như chính bá
tước nói với chúng tôi.
- Lucien thân mến, bà nam tước nói, hãy
thừa nhận là cô ta có vẻ như một công chúa của Nghìn một đêm lẻ thì đúng hơn.
Anh biết mình phải làm gì rồi chứ? Anh phải ghé thăm bá tước Monte Cristo va
đưa ông ta đến với chúng tôi.
- Tôi xin hết lòng.
Debray nói.
Lucien Debray nhân
dịp nghỉ giữa hai màn bèn đến lô của Monte Cristo và mời ông sang lô của bà
Danglars.
- Hãy nói với bà
nam tước rằng tôi sẽ rất hân hạnh, nếu bà cho phép được đến để bày tỏ lòng kính
trọng của tôi đối với bà. Nhưng thỉnh thoảng bá tước de Morcerf có đến nhà hát
Nhạc vũ kịch chứ? Tôi đã để mắt tìm mà chẳng thấy ông ta đâu.
- ông ta sẽ đến tối
nay.
Cuối màn ba, bá
tước ra khỏi lô của mình và một lát sau ông xuất hiện trong lô của bà nam tước
Danglars và bá tước de Morcerf đã đến giữa chừng. Bà nam tước không nén được
một tiếng reo ngạc nhiên xen chút mừng rỡ.
- Xin cho biết con
người tuyệt diệu kia là ai vậy?.- Đó là Haydée, một cô gái Hy Lạp mà tôi là
người đỡ đầu.
- Một cô gái Hy
Lạp! - Bá tước de Morcerf lẩm bẩm.
- Vâng, thưa bá
tước de Morcerf, bà Danglars nói; và xin cho biết ông có bao giờ thấy ở triều
đình Pacha nơi ông đã phục vụ vẻ vang đến thế, có một sắc đẹp nào được như vậy
không.
- A! Monte Cristo
nói, ông đã từng phục vụ ở Janina ư, thưa bá tước?
- Tôi đã từng là
tướng thanh tra trong quân đội của Pacha, Morcerf trả lời, và tài sản ít ỏi của
tôi, chẳng giấu gì ông, là do sự hào phóng của thủ lĩnh nổi tiếng người Anbani
ấy.
- Hãy nhìn kìa! -
Bà Danglars nhắc.
Viên tướng nhoài
người ra ngoài lô để nhìn rõ Haydée.
Lúc này, Haydée đưa
mắt tìm bá tước Monte Cristo, thấy gương mặt tái của ông bên cạnh ông de
Morcerf. Cái nhìn này gây ra ở người thiếu nữ một tác động lạ thường. Cô vừa
ngả người về phía sau vừa thốt lên một tiếng kêu.
- Này, Eugénie nói,
có chuyện gì xảy ra cho người được ông giám hộ thế thưa bá tước? Có vẻ là cô ta
khó ở.
- Đúng thế, Haydée
rất mẫn cảm. Tôi phải trở lại với cô ta. Bá tước vừa nói vừa chào bà Danglars.
Khi ông bước vào
lô, Haydée vẫn còn rất nhợt nhạt.
- Đức ông vừa nói
chuyện với ai thế? Thiếu nữ hỏi.
- Với bá tước de
Morcerf, Monte Cristo trả lời, người đã từng phục vụ người cha nổi tiếng của
em, hắn thừa nhận rằng tài sản của hắn là nhờ ở cha em.
- A! Tên khốn nạn!
Haydée kêu lên, chính nó đã phản cha em vì bọn Thổ, còn cái cơ nghiệp ấy là cái
giá của sự phản bội. Đức ông thân yêu lại không biết thế hay sao?
- Ta đã từng nghe
nói đôi điều về chuyện này ở Hy Lạp, Monte Cristo nói, nhưng không biết chi
tiết. Về đi, con gái, kể tỉ mỉ cho ta nghe, chắc phải kỳ lạ lắm.
- ồ! Vâng, em về,
em về đây. Có lẽ em chết mất nếu còn ở lại lâu trước mặt con người này..
BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 14: Bữa ăn tối
Vài hôm sau cuộc
gặp gỡ ấy, Albert de Morcerf đến thăm bá tước Monte Cristo trong ngôi nhà của
ông ở Champs-Elysées.
- Tôi nghe thấy gì
nhỉ? Hình như tiếng một cây đàn guitare.
- Quả thực, đó là
cây đàn guzla của Haydée, tử tước ạ.
- Haydée, cái tên đến là tuyệt! Cô ta
là ai vậy?
- ông biết chuyện
tổng trấn Janina?
- Chuyện Ali -
Tebelin? Dĩ nhiên, vì cha tôi phục vụ ngài mà nên cơ nghiệp.
- Này, Haydée là
con gái ông ta đấy, thực thế. Nhưng Albert thân mến này, tôi định tổ chức cuộc
họp mặt ông bà Danglars cùng ông bà de Villefort ở ngôi nhà thôn dã của tôi ở
Auteuil, liệu anh cùng mẹ anh có đến được không?
- Chao ôi không!
Chúng tôi bắt đầu thực hiện một dự định đã có từ trước đây ít lâu: Bà de
Morcerf muốn thở hít không khí biển. Ngày mai chúng tôi rời Paris, và đến chủ
nhật mới trở về.
- Nếu thế thì đành
vậy.
- à này, tôi đã
nhận được thư của Franz.
Anh ta gửi lời thăm
ông.
- A! Thật ư! Monte Cristo nói. Thế anh
ta vẫn cứ thích ở Italia à? Anh ta có định cưới vợ không?
- Có, anh ta phải cưới cô de Villefort.
- Thật thế chứ? Còn Eugénie Danglars có
nhằm đám nào không?
- Eugénie, nàng rất đẹp, lại có tính
cách riêng của cô ta. Chỉ còn chuyện tài sản! Tôi đã tính những gì mà nhà
Danglars phải kiếm được : ba trăm ngàn livrơ trong lần tăng giá hối phiếu Haiti
mới đây và một triệu với các hối phiếu Tây Ban Nha trong năm nay.
- A! Quỷ thần ơi! Bá tước thốt lên, ông
Danglars đánh liều được mất ba trăm ngàn frăng trong một ngày. úi dào! Thế thì
ông ta cực kỳ giàu?
- Trong trường hợp của ông ta, phải nói
rằng ông ta cố hạn chế các rủi ro. Tôi cho rằng ông ta thâm nhập được các tin
tức điện tín trước tất cả mọi người và lợi dụng điều đó để tiến hành đầu tư
sáng suốt.
Monte Cristo dù bề ngoài ra vẻ thờ ơ
nhưng không bỏ sót một lời nào trong cuộc nói chuyện này.
Albert đứng dậy xin cáo từ.
- Vậy xin chào, chúng tôi sẽ trở về vào
chủ nhật.
Chuông đồng hồ vừa điểm bảy giờ, một
chiếc xe ngựa thuê dừng lại trước cửa dinh thự, để một người đàn ông trạc độ
năm mươi tuổi mặc chiếc áo đuôi tôm cấp thiếu tá bước xuống.
Người khách lạ được dẫn vào căn phòng
khách đơn sơ nhất. Lý do khiến ông ta đến nhà Monte Cristo là ở lá thư bí ẩn mà
ông ta đã nhận được có nội dung như sau:
"Ông túng bấn, tuổi già khốn khổ
đang đợi ông. ông có muốn trở nên nếu không giàu có thì ít ra cũng được sống độc
lập không?
Ông hãy đi Paris ngay lập tức, đến đòi
người con trai mà ông đã có với bà hầu tước Corsinari và đã bị bắt đi vào lúc
nó năm tuổi, ở nhà bá tước Monte Cristo, phố Champs élysées số 30.
Người con trai này tên là Andrea
Cavalcanti.
Để đổi lại ông sẽ nhận được
1. Một phiếu chi hai ngàn livrơ
toscanes
2. Một lá thư giới thiệu với ông bá
tước Monte Cristo trong đó tôi báo có cho ông một số tiền là năm mươi ngàn
frăng.
Hãy có mặt ở nhà bá tước ngày 26 tháng
năm vào lúc bảy giờ tối.
Tu sĩ BUSONI" - A! Thưa quý ông,
xin đón chào, bá tước nói. Tôi đang đợi ông. Thế thì hạnh phúc của ông chỉ còn
thiếu mỗi một điều là gặp lại con ông.
Người đàn ông chẳng biết phải có thái
độ như thế nào.
- Và, Monte Cristo nói tiếp, ông có
mang theo hôn thú của ông với bà Olivia Corsinari cùng giấy khai sinh của con
trai ông là Andrea Cavalcanti không?
- Thưa ngài bá tước, tiếc rằng phải
thông báo với ông là do tôi không được báo trước phải có các giấy tờ này nên
tôi quên không mang theo.
Vậy chúng có phải là hoàn toàn cần
thiết không?
- Tất nhiên, nếu ở đây người ta lại nêu
ra vài nghi vấn về giá trị hợp thức của cuộc hôn nhân của ông, về tính hợp pháp
của đứa con ông!
Nhưng may quá tu sĩ Busoni đã tính
chuyện này giúp ông. Các giấy tờ ấy đây. - Tất cả đều hợp thức, thiếu tá nói.
Nhưng phần thứ hai của lá thư nói về năm mươi ngàn frăng.
- Mà tôi sung sướng được giao cho ông
ngay lần đầu ông hỏi đến. Này, bây giờ mọi việc đã được thu xếp xong xuôi, tôi
dành cho ông một bất ngờ. Con ông, con trai ông, cậu Andrea...
- Nó ở đây?
- Đang ở đây, Monte
Cristo nói, nhưng tôi hiểu sự xúc động của ông, cần phải có thời gian để ông
bình tâm lại; tôi cũng muốn chuẩn bị cho chàng trai trước cuộc gặp gỡ này, vì
tôi đoán rằng anh ta sốt ruột chẳng kém gì ông.
- Tôi cho là thế,
Cavalcanti nói, mà chẳng tin tưởng hơn là mấy.
- Vậy thì mười lăm
phút nữa chúng tôi sẽ gặp ông.
Vừa nghiêng mình
chào rất lịch thiệp, Monte Cristo đi khuất vào sau khung cửa treo thảm.
Bá tước Monte
Cristo vào một phòng khách bên cạnh, ở đó có một chàng trai, tư thế ung dung,
quần áo khá sang trọng. Anh ta cũng nhận được lá thư nói rằng:
"Anh nghèo
khó, và anh chỉ có một tương lai khốn khổ: anh có muốn có một họ tên được tự
do, được giàu có không?
Hãy đến nhà ngài bá
tước Monte Cristo, phố Champs-élysées vào ngày 26 tháng năm hồi bảy giờ tối và
yêu cầu ông cho gặp cha anh.
Anh là con trai hầu
tước Bartolomeo Cavalcanti và bà hầu tước Olivia Corsinari, những giấy tờ chứng
thực điều đó sẽ được hầu tước trao cho anh và cho phép anh được mang họ tên này
trong xã hội Paris.
Còn về cương vị của
anh thì một khoản thu nhập năm mươi ngàn livrơ mỗi năm được cấp cho anh chính
là để củng cố cương vị ấy.
Thủy thủ
Simbad" Bá tước vào phòng khách. Vừa thấy Monte Cristo chàng trai liền
đứng bật dậy.
- Ngài là bá tước Monte Cristo? - Anh
ta nói.
- Vâng thưa ông, bá tước trả lời, và
tôi có hân hạnh nói chuyện tôi nghĩ là với ngài tử tước Andrea Cavalcanti?
- Tử tước Andrea Cavalcanti, chàng trai
vừa nhắc lại những lời này vừa cúi chào đầy vẻ ung dung thư thái. Thưa ngài bá
tước, tôi xin phục vụ ngài.
- Thực ra, ông ạ, bá tước nói và nhìn
với vẻ hài lòng ảm đạm cái bộ mặt ung dung có vẻ đẹp mang dấu ấn của một ác
thần này, ông đã làm rất đúng là nhất nhất đáp ứng lời mời của ông.bạn Simbad
của tôi, vì cha ông đang ở đây, và ông sắp ở vào một tình huống dễ chịu nhất:
ông ta cấp cho ông một khoản thu nhập là năm mươi ngàn livrơ mỗi năm trong suốt
thời gian ông ở lại Paris. ông hãy vào phòng khách để gặp cha ông đã, ông ta
đang đợi ông.
Andrea cúi chào rất thấp và bước vào
phòng khách.
Bá tước dõi nhìn theo hắn, vừa thấy hắn
đi khuất liền nhấn vào chiếc lò so gắn với một bức tranh, bức tranh này liền
tách khỏi khung để hé ra một khe hở được bố trí khéo léo cho phép nhìn được vào
phòng khách.
Andrea khép cửa lại sau lưng mình và
tiến về phía thiếu tá, ông này đứng dậy lúc nghe thấy tiếng chân bước lại gần.
- A! Thưa ông và thưa cha thân yêu,
Andrea nói to để cho bá tước có thể nghe thấy qua cánh cửa đã đóng, có đúng là
cha đấy không?
- Chào con yêu quý, thiếu tá nghiêm
trang nói.
- Sau từng ấy năm xa cách, Andrea vừa
nói vừa tiếp tục nhìn về phía cửa, thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta gặp lại
nhau!
Thế rồi chẳng hề có chuyển tiếp nhưng
hắn hạ giọng xuống và nói bằng thổ ngữ "toscane":
- ông Cavalcanti thân mến của tôi ơi,
họ cho ông bao nhiêu để làm bố tôi đấy? Phần tôi, họ cho năm mươi ngàn frăng
mỗi năm để làm con ông: bởi vậy ông hiểu rõ rằng không phải tôi là kẻ định phủ
nhận việc ông là cha tôi.
Thiếu tá lo lắng nhìn quanh mình.
- Này, về phần tôi, thiếu tá nói, họ
cho tôi một số tiền năm mươi ngàn frăng.
- ông có hiểu đôi điều về việc này
không?
- Quả thực là không.
Monte Cristo chọn đúng lúc ấy bước vào
phòng khách. Vừa nghe tiếng bước chân của anh, cả hai người cùng đứng dậy lao
vào vòng tay nhau, bá tước thấy họ ôm hôn nhau liền nói.
- Người cha hạnh phúc! Người con hạnh
phúc!
- Chỉ có mỗi một điều làm tôi buồn,
thiếu tá nói, đó là việc tôi cần phải rời Paris gấp quá.
- ồ! ông Cavalcanti thân mến, Monte
Cristo nói, tôi hy vọng ông đừng đi, trước khi tôi giới thiệu ông với một số
bạn bè.
- Tôi xin tuân lệnh ngài. Thiếu tá nói.
- Thứ bảy này, nếu ông vui lòng... Tôi
có mời cơm tối ở nhà tôi tại Auteuil, nhiều người trong đó có ông Danglars, chủ
ngân hàng của ông. Tôi sẽ giới thiệu ông với ông ta, đúng là cần phải để cho
ông ta biết cả hai người để ông ta chi tiền cho các ông. Các ông hãy đến vào
lúc sáu giờ rưỡi..- Xin vâng, chúng tôi sẽ ở đó, thiếu tá vừa nói vừa đưa tay
cầm lấy mũ.
Cả hai người mang họ Cavalcanti cùng
chào bá tước và đi ra.
Trong khi cái cảnh kỳ lạ này diễn ra ở
nhà Monte Cristo thì một cuộc họp mặt trang trọng diễn ra ở nhà Villefort.
Ông de Villefort có bà de Villefort đi
cùng, vào phòng cha mình. ông Noirtier ngồi trong chiếc ghế bành lớn có bánh
xe, nơi mà người ta đặt ông vào đó buổi sáng và lại đưa ông ra khỏi đó buổi
tối, ông bất động như một xác chết, nhìn các con mình với cặp mắt thông minh và
sắc sảo mà cái chào cung kính đúng nghi thức cho ông biết sắp có cuộc vận động
gì đó bất ngờ. Thị giác và thính giác là hai giác quan sót lại còn làm cho ông
hoạt động.
Như vậy là toàn bộ hoạt động, toàn bộ
sự khéo léo, toàn bộ sức lực, toàn bộ trí thông minh trước kia được phân phối
khắp cơ thể và trí tuệ này thì nay được tập trung cả vào cặp mắt của ông lão
Noirtier.
Chỉ có ba người biết cách hiểu thứ ngôn
ngữ ấy của ông già bại liệt đáng thương: đó là Villefort, Valentine và người
lão bộc của ông là Barrois.
- Thưa ông, vợ chồng con xin thông báo
với ông rằng chúng con sắp gả chồng cho Valentine.
Gương mặt cụ Noirtier vẫn cứ thản nhiên
trong khi nghe câu chuyện.
- Đám cưới sẽ tổ chức trong vòng ba
tháng tới. Villefort nói tiếp.
Mắt cụ già vẫn không linh hoạt hơn.
Đến lượt bà de Villefort cất lời:
- Chúng con chỉ còn phải nói với ông là
đã gả cháu cho ai. Đó là một trong những đám danh giá nhất mà Valentine có thể
với tới được. Đó là ông Franz de Quesnel, nam tước Epinay.
Khi bà de Villefort nói đến cái họ của
Franz, mắt ông Noirtier, mà con trai ông biết quá rõ rung lên, các mi mắt để
lọt ra một ánh chớp.
Chắc chắn tiếng thét đau khổ và giận dữ
đang dâng lên họng nhưng không phát ra được, làm cho ông nghẹn ngào vì mặt ông
tím lại và đôi môi ông xanh nhợt.
- Cuộc hôn nhân này, bà de Villefort
nói thêm, được cả ông d'épinay và gia đình ưng ý vả chăng gia đình ông ta chỉ
có một ông chú và một bà cô. Mẹ ông đã mất lúc ông ta chào đời, còn cha ông ta
đã bị giết hại vào năm 1815, nghĩa là vào lúc cậu bé chưa đầy hai tuổi, vậy là
chuyện chỉ tùy thuộc ý muốn của riêng ông ta.
Rồi bà ta nói thêm:.- ông có cần gì
không?
Đã thỏa thuận rằng cụ già biểu lộ sự
tán thành bằng cách nhắm mắt, sự từ chối bằng cách chớp mắt nhiều lần, và biểu
lộ cụ muốn cái gì đó khi ngước mắt nhìn lên trời.
- Có, cụ già trả lời bằng cách nhắm
ngay cặp mắt.
Họ cho gọi Valentine.
Rồi Valentine vào chỗ ông lão. Chỉ cần
nhìn một cái là cô hiểu cụ đang đau khổ đến đâu và có bao nhiêu chuyện muốn nói
với cô.
- ông muốn gì, ông yêu quý?
Thế rồi Valentine đọc lần lượt từng chữ
của bảng chữ cái từ A đến N đồng thời nụ cười của cô dò hỏi cặp mắt của cụ già
bại liệt; đến chữ N cụ Noirtier ra hiệu là đúng.
- A! Valentine nói, điều mà ông muốn
bắt đầu bằng chữ N! Vậy thì nào, NA? NE? NI?
NO?
- Đúng, đúng, đúng, cụ già ra hiệu.
Valentine chạy đi lấy một cuốn tự điển,
đặt lên chiếc bàn nhỏ trước mặt cụ Noirtier. Cô mở ra đến chữ NO và khi thấy
mắt cụ già đăm đăm nhìn vào các trang giấy, thì các ngón tay cô lần nhanh các
cột từ trên xuống dưới. Đến từ NO-TAIRE (nghĩa là ông công chứng - N.D) thì cụ
Noirtier ra hiệu dừng lại.
- ông công chứng, cô nói, ông cần một
ông công chứng hả ông nội?
Cụ già ra hiệu rằng đúng là ông cần một
ông công chứng.
Trước đòi hỏi bất ngờ đó, ông de
Villefort hỏi:
- Tại sao cha lại cần đến ông công
chứng?
Cha lại chơi khăm chúng con cái gì nữa
đây?
Villefort nói, có cần thiết không?
- Cháu sẽ cho đi mời ông công chứng
ngay lập tức cho ông, ông yêu quý, Valentine nói.
Bốn mươi lăm phút sau, người hầu trở về
có ông công chứng đi cùng.
- Thưa ông, Villefort nói sau khi đã
chào hỏi mọi người, ông được cụ Noirtier de Villefort mời đến, cụ đây mắc chứng
bại liệt toàn thân mất khả năng sử dụng chân tay và lời nói của cụ, và chỉ có
chúng tôi, khó khăn lắm họa chăng mới nắm được một vài mảnh gì đó trong ý tưởng
của cụ.
Noirtier đưa mắt tỏ vẻ nhờ cậy ở
Valentine, một sự nhờ cậy rất nghiêm chỉnh và mang tính mệnh lệnh rất cao,
khiến cô tức khắc đáp ứng:
- Tôi, thưa ông, tôi hiểu tất cả những
gì ông tôi muốn nói.
- Vậy ta thử xem, ông công chứng nói.
Nào, thưa ông, ông muốn gì ở tôi, và ông muốn làm văn bản gì?.Valentine đọc tất
cả các chữ trong bảng chữ cái cho đến chữ T. Đến chữ này, Noirtier ra hiệu cho
cô dừng lại. Họ lần tìm trong từ điển cho đến từ TESTAMENT (nghĩa là chúc thư -
N.D).
- Chúc thư! ông công chứng reo lên,
việc đã rõ, cụ muốn làm chúc thư.
- Đúng! Cụ Noirtier ra hiệu nhiều lần.
Họ đọc cho cụ Noirtier nghe một mẫu
chúc thư còn để trống rồi ông công chứng hỏi cụ:
- Theo bản chúc thư trước đây của cụ,
cụ có chín trăm ngàn frăng. Có đúng không?
- Đúng.
- Cụ muốn để lại tài sản này cho ai?
- ồ! Bà de Villefort nói. Cụ Noirtier
chỉ yêu có mỗi cô cháu gái Valentine: cô là người chăm sóc cụ từ sáu năm nay,
vậy thì trả giá cho sự tận tụy của cô là công bằng.
- Vậy có phải là cụ để lại số tiền chín
trăm ngàn frăng này cho cô Valentine không? - ông công chứng hỏi.
Cụ già nhìn Valentine một lúc tỏ ra cực
kỳ âu yếm, rồi quay về phía ông công chứng, cụ chớp chớp mắt một cách dứt
khoát.
- Không ư? - ông công chứng nói, không
phải là cô Valentine de Villefort được cụ lập làm người thừa kế toàn bộ tài sản
của cụ hay sao?
- Không! Cụ Noirtier lặp lại, không!
Sự kinh ngạc bao trùm tất cả mọi người.
- Vậy thì có phải là cụ để lại tài sản
cho cháu trai của cụ, Edouard de Villefort, thưa cụ Noirtier kính mến? - Người
mẹ hỏi.
Những cái chớp mắt trở nên dữ dội: tỏ
vẻ gần như là căm ghét.
- Vậy thì cụ để cho ông con trai cụ
đang có mặt ở đây?
- Không. Cụ già trả lời.
Và Noirtier hướng ánh nhìn cháy bỏng
vào bàn tay của Valentine.
- Bàn tay của cháu ư? ồ! Valentine bất
chợt kêu lên, cháu hiểu rồi! Việc hôn nhân của cháu có phải không, ông yêu quý?
- ừ, ừ, ừ, cụ già bại liệt nhắc đi nhắc
lại ba lần, mỗi lần mi mắt mở ra lại để lọt một ánh mắt sáng quắc.
- ông không bằng lòng cho con lấy ông
Franz d'épinay hay sao?
- Không, ta không bằng lòng. Cụ già ngỏ
ý bằng mắt.
- Và cụ tước quyền thừa kế của cháu gái
cụ, ông công chứng kêu lên, vì cô ta tiến hành hôn nhân trái ý cụ?
- Đúng. Cụ Noirtier trả lời..Lúc này
xung quanh cụ già lặng ngắt như tờ.
ý nguyện của cụ đã rõ: nếu Valentine
lấy Franz d'épinay thì toàn bộ tài sản đem cho những người nghèo ở Paris.
Villefort sùi cả bọt mép vì tức điên
lên.
- Tôi cho rằng, Villefort nói, không
nén nổi cơn giận của mình, chỉ tôi có quyền gả chồng cho con gái tôi, tôi muốn
nó lấy ông Franz d'épi-nay và nó sẽ lấy ông ta. Tôi không chịu thua cái ý thích
thất thường của người già và tôi sẽ hành động theo lương tâm của mình.
Valentine ngã xuống một chiếc ghế bành,
khóc sướt mướt.
Lúc gia đình Villefort trở về các căn
hộ của mình thì người hầu báo cho họ biết có ông bá tước Monte Cristo đến và
đang đợi họ trong phòng khách.
- Tôi chỉ đến để nhắc ông lời hẹn cho
ngày thứ bảy. Bá tước nói.
- Có phải là sẽ họp mặt ở nhà ông ở
Champs-élysées hay không?
- Không phải, Monte Cristo nói, họp mặt
ở vùng quê, ở Auteuil, phố La Fontaine, số 28.
- Nhưng có phải họ đã bán ngôi nhà của
ngài de Saint-Méran cho ông không? - Villefort kêu lên với giọng nghẹn ngào.
- Ngài de Saint-Méran? Monte Cristo
hỏi.
Vậy ra ngôi nhà ấy là của ngài de
Saint-Méran?
Tôi hy vọng, Monte Cristo nói với vẻ lo
âu, rằng sự trùng hợp này không tước mất của tôi niềm hạnh phúc được thù tiếp
ông?
- Không, thưa bá tước... Tôi rất
mong... Hãy tin rằng tôi sẽ làm tất cả những gì tôi có thể, Villefort ấp úng.
- ồ! Monte Cristo trả lời, tôi không
chấp nhận lý do thoái thác. Thứ bảy này vào lúc sáu giờ tôi đợi ông, và nếu ông
không tới thì tôi, tôi sẽ nghĩ rằng có một truyền thuyết gì đó sầu thảm, có
chuyện đổ máu gì đó ở cái ngôi nhà không người ở từ hơn hai mươi năm này.
- Tôi sẽ tới, thưa bá tước, tôi sẽ tới,
Villefort vội nói ngay.
- Cám ơn, Monte Cristo nói, bây giờ ông
phải cho phép tôi cáo biệt.
Monte Cristo cáo biệt gia đình
Villefort, họ sẽ hết sức kinh ngạc nếu thấy bá tước đến đài điện tín Montlhéry,
một cây tháp xây trên chỗ cao nhất của vùng đồng bằng. Sau khi đã chiếm được
cảm tình của điện báo viên, ông hỏi ông ta:
- Nếu tôi biếu ông xem nào... mười lăm
ngàn frăng để ông thay đổi tín hiệu đi đôi chút, hay để ông thay bằng một tín
hiệu khác thì sao nào?.- Điều đó không thể được, tôi sẽ bị thải hồi và mất
lương hưu. ông phải biết rằng không bao giờ tôi làm những chuyện đó.
- Nếu tôi tăng số tiền ấy lên gấp đôi?
Điều này đáng suy nghĩ chứ hả?
- ồ! Thưa ngài, ngài đề xuất cho tôi
việc gì?
Và tôi phải làm gì?
- Đánh lại các tín hiệu như thế này.
Monte Cristo rút trong túi ra một tờ giấy
trên đó có ghi ba ký hiệu được viết sẵn, có những số hiệu chỉ rõ thứ tự phát đi
như thế nào.
- Chẳng phải là dài, ông xem đấy.
Mặt đỏ bừng như lên cơn sốt, mồ hôi
chảy ròng ròng từng giọt lớn, lão ta phát đi ba tín hiệu mà bá tước đưa cho.
Người đồng nghiệp ở bên trái chăm chú phát lại chính các tín hiệu ấy và cuối
cùng chúng được nhận ở Bộ nội vụ.
- Bây giờ, ông giàu có rồi. Monte
Cristo nói.
Năm phút sau khi tin điện báo đến bộ,
De-bray liền cho thắng ngựa vào chiếc xe hòm của mình rồi chạy đến nhà
Danglars.
- ông có trái phiếu Tây Ban Nha không?
- Có chứ! Loại ấy tôi có tới sáu triệu.
- Hãy bán chúng đi với bất cứ giá nào:
nhà vua don Carlos đã chạy thoát khỏi Bourges và trở về Tây Ban Nha. Barcelone
đã nổi dậy. Gấp lên vì tin điện báo này chẳng mấy chốc sẽ lộ ra.
Nam tước chạy đến chỗ nhân viên hối
đoái của mình và ra lệnh cho anh ta giá bao nhiêu cũng bán.
Nhưng hôm sau người ta đọc thấy trong
báo "Người cố vấn" những dòng chữ sau:
"Thật không có cơ sở nào mà tờ
"Người đưa tin" hôm qua đã đăng tin don Carlos trốn thoát và về cuộc
nổi dậy ở Barcelone. Đó là một tín hiệu điện báo bị sai lạc vì sương mù đã gây
ra sai sót ấy." Các giá vốn lên đến một con số gấp đôi bắt đầu sụt.
Việc này làm cho Danglars lỗ và mất ăn
tới một triệu đồng chênh lệch giá.
Ông Bectuccio đã xuất sắc hơn lúc
thường về vẻ lịch sự của các đồ đạc được mua sắm bày biện và về việc thu xếp
dọn dẹp nhanh chóng ngôi nhà ở Auteuil. Trong ba ngày ông đã cho trồng cây kín
một cái sân hoàn toàn trần trụi và những cây dương đẹp đẽ, những cây sung được
đem đến có cả bầu rễ khổng lồ của chúng làm râm mát mặt chính của tòa nhà,
trước nhà, thay vì những viên gạch lát bị cỏ dại che lấp đến một nửa, là một
bãi cỏ mà các vầng cỏ vừa được đặt xuống ngay buổi sáng hôm ấy, làm thành một
tấm thảm rộng còn long lanh nước mới tưới..Lúc năm giờ đúng bá tước tới, có Ali
đi theo.
Thế rồi các khách mời lần lượt đến.
Morrel đến đầu tiên có Debray đi cùng chỉ sớm hơn chiếc xe của Danglars chút
ít.
Tất cả mọi người được mời vào phòng
khách, thì Baptistin vào báo danh:
- ông thiếu tá Bartolomeo Cavalcanti,
ông tử tước Andrea Cavalcanti!
Thiếu tá Bartolomeo Cavalcanti, người
cha hiền mà chúng ta quen biết, xuất hiện trong trang phục không chê vào đâu
được của người cựu binh.
Bên cạnh hắn, tiến bước chàng tử tước
Andrea Cavalcanti, người con kính cẩn mà chúng ta cũng đã biết, quần áo mới
toanh từ đầu đến chân, nụ cười trên môi.
- Các ông này là ai vậy? - Danglars hỏi
bá tước Monte Cristo.
- ông đã nghe nói rồi, những người mang
họ Cavalcanti. Và nói đến họ Cavalcanti là nói đến dòng dõi hoàng thân.
- Tài sản lớn chứ? - Viên chủ ngân hàng
hỏi.
- Rất lớn. Ngoài ra họ có mở tín dụng ở
chỗ ông theo như họ nói với tôi hôm kia. Thậm chí tôi mời họ vì ông. Tôi sẽ
giới thiệu họ với ông.
Thế rồi Monte Cristo lại gần bà
Danglars.
Anh nói:
- ông nam tước hôm nay trông rầu rĩ
quá.
- Tôi cho rằng ông ấy đầu cơ chứng
khoán, ông ấy đã lỗ và chẳng biết đổ trách nhiệm cho ai.
Baptistin xướng to:
- ông bà de Villefort!
Hai người vừa được báo bước vào. ông de
Villefort dù cố gắng gượng vẫn thấy rõ là bị xúc động. Khi bắt tay hắn, Monte
Cristo cảm thấy bàn tay ấy run rẩy.
Sau những lời chúc tụng đầu tiên, bá
tước nhận ra Bertuccio từ nãy đến giờ cứ bận bịu ở phía gian dọn ăn cạnh bếp
đang bị giày vò bởi một trạng thái kích động lạ thường. Anh đến với ông ta.
- Có chuyện gì thế ông Bertuccio?
- A! Trời ơi! Hắn đấy! ông ta vừa thì
thào vừa chỉ tay vào Villefort. Vậy ra tôi vẫn chưa giết chết được hắn!
- Phải tin là không, ông Bertuccio.
- Và người đàn bà này!... Người đàn bà
này!...
Bà Danglars! Nhưng chính là cô ta, thưa
ông, chính là cô ta! Người thiếu phụ trong vườn!
Người thiếu phụ
bụng chửa! Người thiếu phụ đi dạo...
Bertuccio đứng lặng
người miệng há hốc, tái nhợt và tóc tai dựng ngược. Nhưng lúc trông.thấy Andrea
Cavalcanti ông ta lại còn bối rối hơn.
- Benedetto! ông
lẩm bẩm thật khẽ: Định mệnh!
- Đấy chuông điểm
sáu giờ rưỡi rồi, ông Ber-tuccio, bá tước nói nghiêm khắc, đến giờ mà tôi đã có
lệnh phải sẵn sàng cho mọi người ngồi vào bàn ăn; ông biết rằng tôi không thích
chờ đợi chút nào.
Và Monte Cristo vào
phòng khách, ở đó khách khứa đang đợi anh, trong khi ấy Bertuccio đi vào phòng
ăn mà cứ phải vịn vào tường.
Bữa tiệc thật xa
hoa; Monte Cristo cố làm đảo ngược hoàn toàn tính cân đối của bữa tiệc kiểu
Paris, và làm cho sự lạ miệng còn nổi trội nhiều hơn sự ngon miệng của đám thực
khách đầy tính hiếu kỳ mong muốn ở món ăn. Đó là một bữa tiệc phương Đông xứng
đáng với Nghìn lẻ một đêm. Những loài chim hiếm, những thứ cá quái lạ, mọi loại
vang Archipel và của vùng tiểu á lần lượt diễu qua trước mặt các quan khách
đang lạ lùng thán phục.
- Tất cả những cái
đó đều rất dễ thương, Château-Renaud nói, tuy nhiên tôi xin thú thực, điều làm
tôi cảm phục nhất là việc phục vụ bàn tiệc nhanh nhẹn đến mức đáng khâm phục.
Phải chăng, thưa bá tước, ông tậu ngôi nhà này vừa mới được có năm hay sáu
ngày?
- Quả vậy, không
hơn. Monte Cristo nói.
- Này tôi dám chắc
rằng trong vòng tám ngày nữa ngôi nhà này đã biến đổi hoàn toàn. Đúng là ít
nhất đã mười năm nhà bỏ trống không có người ở, Château-Renaud nói. Thực ra nếu
nó không phải là của nhạc phụ một biện lý hoàng gia thì người ta đã coi nó là
một trong những ngôi nhà bị nguyền rủa là nơi đã xảy ra một tội đại ác gì đó.
Cho đến lúc này,
Villefort vẫn chưa đụng tý nào đến ba hay bốn ly rượu vang lạ thường bày trước
mặt hắn, bỗng vơ đại lấy một ly và uống cạn một hơi.
- ông không nghĩ
rằng mình đã nói trúng đến thế đâu, bá tước nói giữa khoảng im lặng tiếp sau
lời nói của Château-Renaud. Xin hãy hình dung rằng để làm trẻ lại các cây cối
già cỗi trong vườn, tôi đã cho đào hố để đổ đất mùn.
Thế là những người
lao động của tôi, trong lúc đào đất, đã moi lên được một cái hòm hay đúng hơn
là cái đai sắt của hòm, ở giữa có một bộ xương trẻ sơ sinh.
Bà Danglars gần như
ngất xỉu trong cánh tay de Villefort, còn chính hắn thì tái mặt đi một cách
đáng sợ.
- Trời ơi! Thưa bà,
Debray kêu lên, bà làm sao thế? Sao bà tái nhợt thế?.Monte Cristo tỏ vẻ buồn
phiền.
- Thực ra, thưa bá
tước, bà Danglars nói, tôi thật xấu hổ mà thú nhận sự yếu đuối của mình, nhưng
những chuyện kinh khủng này đã làm tôi bàng hoàng.
Monte Cristo thấy
là đã hết mức khả dĩ chịu đựng được đối với hai người mà cảnh này được ông
chuẩn bị dành cho họ. ông quyết định đi ra.
Viên biện lý hoàng
gia kín đáo rỉ tai bà Dan-glars:
- Tôi cần nói
chuyện với bà. Ngày mai ở phòng làm việc của tôi.
Buổi tối về khuya.
Bà Villefort ngỏ ý muốn trở về Paris. Cho nên ông de Villefort là người đầu
tiên ra hiệu lên đường. Hắn dành một chỗ trong chiếc xe ngựa bốn bánh của hắn
cho bà Danglars, còn ông Danglars mải mê một câu chuyện kỹ nghệ thuộc loại hấp
dẫn nhất với ông Cavalcanti nên chẳng mảy may để ý gì đến mọi chuyện đang xảy
ra.
Ngày hôm sau, sau
khi đã giải quyết xong các công việc thường ngày, Danglars đến nhà Monte
Cristo.
- Lạy Chúa! Bá tước
nói, ông sao vậy? ông có vẻ rất lo âu.
- Tôi bị, thưa quý
ông, Danglars nói, vận hẩm cứ rơi vào tôi từ mấy hôm nay, và tôi cứ chỉ nhận
được những tin dữ.
- Ôi! Lạy Chúa!
Monte Cristo nói, có phải là ngài lại bị đổ bể ở phòng giao dịch chứng khoán
không?
- Không, tôi đã hồi
phục, ít ra cũng được mấy ngày. Nói cho thật đúng ra là tôi đã bị vỡ nợ ở
Trieste. Đây là một tai ương chưa từng thấy bao giờ. Tôi phát hành sáu trăm
ngàn livrơ cho một người mà tôi đã cùng với họ tiến hành nhiều vụ giao dịch tốt
đẹp; nhưng rồi chúng trở lại với tôi mà không được chi trả, thêm vào đấy tôi
còn cầm số phiếu bốn trăm ngàn frăng mà không bao giờ có thể thu hồi được. Với
cái tin nhảm về Tây Ban Nha két bạc của tôi lại bị hụt đi bảy trăm ngàn frăng
nữa, việc này đưa đến cho tôi một bản quyết toán đẹp đẽ vào cuối tháng, với tôi
thật là họa vô đơn chí, thật đấy.
- Quỷ thần ơi,
Monte Cristo nói, mất một triệu bảy trăm ngàn frăng trong một tháng! Ngoài hãng
ông ra, bất kỳ hãng nào khác đều phải ngắc ngoải.
- ồ! Danglars nói
với một nụ cười tê tái.
Nhưng lúc này đây,
tiền lại đổ vào hòm tôi do những cuộc đầu cơ thắng lợi khác. Nhưng vì chúng ta
đang bàn việc, vậy hãy cho tôi biết đôi chút xem ông nghĩ về thiếu tá
Cavalcanti như thế nào..- Nghe đây, tôi chỉ biết sơ qua về ông ta, cả đời tôi
mới gặp ông ta ba lần. Những gì tôi biết về ông ta là qua tu sĩ Busoni, một
người bạn của tôi, và chính ông ta kể với tôi. Sáng nay ông ta có cho tôi biết
về những dự định về con trai mình, và hé lộ cho tôi biết rằng đã chán thấy cảnh
vốn liếng to lớn của mình ngủ yên ở Italia, một xứ sở chết cứng, nên muốn tìm
cách làm cho nó sinh sôi nảy nở hoặc ở Pháp hoặc ở Anh.
Nhưng xin ông vẫn
cứ lưu ý rằng dù cho tôi có tin tu sĩ Busoni đến đâu thì riêng cá nhân tôi, tôi
không hề đảm bảo điều gì hết.
- Và chàng trai? - Danglars hỏi.
- ái chà! Chắc ông muốn gả con cho
Andrea, ông Danglars thân mến, cho nên ông mới hỏi tôi tất cả những câu hỏi ấy?
- Quả vậy, Danglars nói, tôi thấy việc
đó hình như không phải là một vụ đầu tư tồi. Xem ra chàng trai này hoàn toàn
phù hợp.
- ông đã cho điều tra về hắn chưa? -
Monte Cristo hỏi.
- Có cần làm thế không, và ngay từ lần
gặp gỡ đầu tiên, người ta lại không biết là đang giao dịch với người như thế
nào ư? Trước hết anh ta giàu, sau đó anh ta có một học vấn đặc biệt.
- Tôi không dám chắc điều đó.
- Này bá tước, ông chẳng công bằng đối
với chàng trai này.
Vào lúc mười hai giờ rưỡi bà Danglars
đã đòi lấy ngựa để đi đến tòa án. Người mõ tòa dẫn bà ta đi theo một hành lang
riêng vào phòng làm việc của ông de Villefort.
- Cám ơn bà, hắn nói, cám ơn bà đã đến
đúng hẹn.
Villefort mỉm cười cay đắng.
- Sao mà cái quá khứ khủng khiếp ấy lại
sống lại thế? Hắn kêu lên; chẳng có gì là ngẫu nhiên đâu.
- Nhưng có chứ, chẳng phải là sự ngẫu
nhiên đã làm nên tất cả chuyện này ư? Chẳng phải ngẫu nhiên mà bá tước Monte
Cristo đã mua ngôi nhà ấy ư? Chẳng phải ngẫu nhiên mà ông ấy đã cho đào đất ư?
- Này, không đâu thưa bà, đây là cái
điều khủng khiếp mà tôi phải nói với bà, Villefort trả lời với một giọng trầm
đục: Không, không hề có di hài nào tìm thấy dưới những bông hoa.
- ông định nói gì thế? - Bà Danglars
kêu lên, toàn thân run lập cập.
- Tôi định nói rằng, ông Monte Cristo
trong khi đào những gốc cây chẳng thể tìm thấy cả bộ xương trẻ con lẫn đai hòm,
bởi vì dưới các gốc cây này không hề có cả hai thứ ấy..- Lạy Chúa tôi! ông làm
tôi sợ quá!
- Bà biết cái đêm đau lòng ấy diễn ra
như thế nào không, cái đêm mà bà thì nằm ngắc ngoải trên giường ở cái buồng
trên gác, trong khi tôi chờ đợi bà sinh nở? Khi đứa trẻ ra, chúng ta tưởng rằng
nó đã chết. Tôi đặt nó vào trong một chiếc hòm rồi xuống vườn, tôi đào một cái
huyệt rồi vội vàng chôn nó xuống. Vừa mới lấp đất xong thì cánh tay thằng nhỏ
Corse đã phóng vào tôi. Tôi ngã xuống hấp hối, và tôi tưởng mình đã bị giết
chết. Bà đã có can đảm để bà vú dìu trở về nhà. Một cuộc quyết đấu được dùng
làm cái cớ gây thương tích cho tôi. Họ chở tôi đi Versailles. Tôi chiến đấu với
cái chết suốt ba tháng ròng.
Thời kỳ hồi phục của tôi kéo dài sáu
tháng; tôi không còn nghe nói gì về bà, tôi không dám dò hỏi tin tức về chuyện
bà đã ra sao. Khi tôi trở lại Paris thì biết tin bà là quả phụ của ông de
Nargonne và đã thành hôn với ông Danglars.
Nhưng suốt thời kỳ dưỡng bệnh của tôi,
cái thi hài đứa trẻ ám ảnh tôi đến phát điên. Lúc vừa bình phục, tôi quyết định
phải làm cho lòng mình thanh thản về chuyện này. Một đêm tôi lần mò vào khu
vườn ở Auteuil và tôi đào chính chỗ đất ấy lên. Cái hòm không có ở đấy.
- Chiếc hòm không có ở đấy! Bà Danglars
thì thào, nghẹn ngào vì lo sợ. Tại sao con người ấy lại mang cái thi hài ấy đi?
- Bởi có cái gì đó ghê gớm hơn, nguy
hại hơn, đáng sợ hơn cho chúng ta: đó là đứa trẻ còn sống, và kẻ giết người đã
cứu nó.
Bà Danglars thét lên một tiếng kinh
khủng.
- Nếu đứa trẻ ấy sống, Villefort nói tiếp,
và có ai đó biết nó còn sống, có ai đó nắm được bí mật của chúng ta; và cái bí
mật này Monte Cristo đã nắm được, vì hắn nói trước mặt chúng ta về một đứa trẻ
được moi lên từ cái chỗ mà đứa trẻ kia không còn ở đó nữa.
- Nhưng tại sao?
- Đó là điều tôi sẽ
phải tìm ra. Villefort nói với một ngữ điệu mà nếu bá tước có nghe thấy ắt phải
rùng mình..
BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 15: Maximilien và Valentine
Sau tối hôm gặp mặt
ấy, Villefort nhốt mình trong phòng làm việc, với một chồng hồ sơ, bỗng nghe
thấy tiếng chân bước ngoài cầu thang của một người có tuổi, rồi những tiếng
kêu.
Hắn vội rút chốt
cửa phòng và lập tức bà mẹ vợ bước vào không báo trước, chiếc khăn quàng vắt
trên cánh tay và mũ cầm tay.
- A! Lạy Chúa tôi!
Thưa bà, Villefort hỏi, có gì xảy ra vậy? Ai làm cho bà thảng thốt đến thế? Sao ngài de
Saint-Méran không đi cùng bà?
- ông de Saint-Méran đã mất. Bà hầu
tước già nói.
- Mất! Villefort ấp úng; như vậy là
chết đột ngột?
- Đến chỗ cách Marscille sáu dặm, ông
de Saint-Méran vừa uống xong mấy viên thuốc thường dùng thì lăn ra ngủ thật sâu
nhưng tôi thấy có vẻ không bình thường. Đột nhiên ông bật lên một tiếng kêu
trầm đục và xé lòng như tiếng kêu của người bị đau đớn trong giấc mơ, và đầu
ông hất mạnh ra đằng sau. Tôi cho dừng xe trạm, cho ông hít lọ muối của tôi
nhưng ông đã chết!
Villefort đứng lặng sửng sốt, mồm há
hốc.
- Và lúc đó bà làm gì?
- ông de Saint-Méran luôn nói rằng nếu
ông chết xa Paris thì ông muốn đưa thi hài của ông vào hầm mộ của dòng họ.
Ngày hôm sau Villefort vào nhà bà de
Saint Méran thấy bà nhạc mẫu ốm liệt giường, có Valentine săn sóc. Một ngọn lửa
u ám le lói trong cặp mắt bà hầu tước, và dường như bà đang lâm vào một trạng
thái kích động dữ dội.
- Anh này, bà de Saint-Méran nói, anh
viết cho tôi về cuộc hôn nhân của con cháu này với cậu Franz d'épinay phải
không? Này, anh phải làm gấp đi vì tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa.
- Nào, bà ngoại! - Valentine kêu lên.
- Tôi nói với anh rằng tôi sắp chết,
anh nghe chưa? Và trước khi chết tôi muốn được thấy cháu rể của tôi. Đêm qua,
tôi ngủ một giấc kinh khủng; mắt nhắm nghiền, từ cái góc có cửa thông sang
phòng tắm của chị de Villefort tôi thấy có một bóng trắng lặng lẽ bước vào.
- Chắc hẳn là do cơn sốt đấy thưa bà. -
Villefort nói.
- Anh cứ nghi ngờ nếu anh muốn, nhưng
tôi tin chắc vào điều tôi nói: tôi thấy một bóng trắng; và tôi còn nghe thấy cả
tiếng khuấy cái cốc của tôi, này chính cái kia kìa, đang đặt ở đấy, ở trên bàn.
Tôi dám chắc đó là linh hồn của ông nhà
tôi!
Ông de Villefort đi ra và sai người đi
tìm ông d'Avrigny, bác sĩ của gia đình. Valentine xuống vườn để tìm cách thay
đổi sự suy nghĩ.
Trong khi cô đang dạo bước trên lối đi
trong vườn thì dường như thoáng nghe có ai gọi tên cô. Cô nhận ra giọng
Maximilien.
- Anh đến vào giờ này ư? - Cô nói.
- Vâng, cô bạn đáng thương ơi, Morrel
trả lời, tôi đến tìm cô và đem lại những tin xấu. Tôi vừa ở nhà bá tước Monte
Cristo một giờ trước đây, bất chợt thấy có xe chạy vào sân. Đó là nam tước
Franz d'épinay!
- Maximilien tội nghiệp! - Valentine
thì thào.
- Bây giờ cô tính làm gì đây?
Valentine cúi đầu, khổ não.
- Làm sao mà tôi có thể chống lại quyết
định của cha tôi, chống lại ý nguyện của bà tôi đang sắp chết! Thật không thể
được! Tôi sẽ phải lấy Franz.
- Tôi tự do, Morrel nói; tôi cũng khá
giàu có đủ cho cả hai ta, hãy theo tôi, chúng ta sẽ xuống tàu đi Alger, đi Anh
hoặc sang châu Mỹ tùy ý cô.
- Tôi vẫn ngờ điều đó, Valentine vừa
nói vừa lắc đầu. Đó là một lời khuyên rồ dại, và tôi sẽ lại còn rồ dại hơn anh
nếu tôi không ngăn cản anh ngay lập tức các dự định của anh. Chúng ta hãy đợi!
Có bao nhiêu chuyện có thể cứu chúng ta.
- Tôi tin ở cô, Valentine, Morrel nói;
có điều là nếu người ta bỏ qua mọi cầu xin của cô, nếu cha cô và bà de
Saint-Méran yêu cầu phải mời ông Franz d'épinay đến ký hôn ước vào ngày mai
thì...
- Lúc ấy, thì anh đã có lời hứa của
tôi. Đáng lẽ ký thì tôi đến tìm anh và chúng ta bỏ trốn; nhưng từ giờ đến lúc
đó không được mạo hiểm; chúng ta đừng gặp nhau nữa. Tôi sẽ viết cho anh.
Họ hôn nhau và Valentine bỏ đi.
Chàng trai về nhà và đợi suốt cả buổi
tối.
Mãi đến ngày hôm sau anh mới nhận được
một bưu thiếp có những từ này:
"Nước mắt, năn nỉ, khẩn cầu đều vô
hiệu.
Chúa cũng vô cảm như con người, và việc
ký kết hôn ước được ấn định vào tối nay lúc chín giờ. Tôi chỉ có một lời hứa
cũng như chỉ có một trái tim, Morrel, và lời hứa ấy đã được trao cho anh: Trái
tim này thuộc về anh! Vậy tối nay lúc chín giờ ở cửa sắt.
Vợ anh Valentine de Villefort."
Chàng trai đọc đi đọc lại hai mươi lần trong ngày lá thư của Valentine, đồng
thời chuẩn bị vụ bắt cóc và chạy trốn.
Cuối cùng đã đến giờ. Morrel giấu một
cỗ xe sau một ngôi nhà tranh nhỏ hoang tàn mà anh vẫn thường ẩn mình trong đó.
Ngày tàn dần. Morrel vào khu vườn hoang
và lòng hồi hộp, đến nhòm qua lỗ trống của cửa sắt: vẫn chẳng có ai.
Nửa giờ trôi đi trong chờ đợi; Morrel
thả bước hết dọc lại ngang rồi với những khoảng cách cứ gần lại mãi, anh đến
ghé mắt vào các tấm ván.
Morrel xem đồng hồ, đã chín giờ rưỡi.
Valentine đã trễ nửa giờ.
- ồ! Maximilien hoảng hốt thì thào, lẽ
nào cuộc ký kết hôn ước lại kéo dài đến thế, trừ phi là có biến cố bất ngờ gì
đây.
Lúc đó, chẳng kịp suy nghĩ, anh trèo
lên tường rồi nhảy sang bên kia. Nhưng đáng lẽ phải thấy ánh sáng ở các cửa sổ
như anh nghĩ, đó cũng là điều tự nhiên trong các ngày có lễ nghi, thì anh lại
chả thấy gì ngoài cái khối xám xịt của ngôi nhà họ Villefort.
Vừa lúc anh chuẩn bị để vượt qua càng
nhanh càng tốt khoảng đất trồng hoa trong vườn để tiếp cận ngôi nhà thì có
tiếng người vọng đến tai anh.
Anh vội lùi một bước và đứng câm lặng
trong bóng tối.
Morrel thấy Villefort xuất hiện, theo
sau là một người mặc đồ đen. Morrel nhận ra ông bác sĩ d'Avrigny.
- A! Bác sĩ thân mến, đây là lúc thượng
đế tỏ ý cương quyết chống lại gia đình tôi. Một cái chết thật là khủng khiếp!
- Sau nỗi bất hạnh vừa đến với ông, có
thể có một bất hạnh khác nữa còn lớn hơn đấy, bác sĩ nói. Có phải bây giờ chỉ
có riêng chúng ta không, ông bạn? Vì tôi có điều bí mật gớm ghê để trao cho
ông.
- Nói đi bác sĩ, tôi nghe đây,
Villefort nói. Cứ giáng xuống đi, tôi sẵn sàng chịu đựng tất cả.
- Dĩ nhiên là bà de Saint-Méran đã rất
cao tuổi nhưng bà vẫn có sức khỏe rất tốt. Trong bốn mươi lăm phút bà chưa qua
đời, tôi đã nghiên cứu cơn hấp hối của bà. Tôi tin chắc rằng bà de Saint-Méran
bị đầu độc chết.
Villefort nắm lấy bàn tay ông bác sĩ.
- ồ! Thật không thể được! Hắn nói, tôi
đang mơ, lạy Chúa tôi! Cái chết rình rập trong nhà tôi!.- Phải nói là tội ác
chứ, bác sĩ trả lời. ông có trong nhà ông, trong nội bộ nhà ông một kẻ đầu độc.
Villefort sửng sốt ghì chặt lấy cánh
tay bác sĩ.
- Bây giờ, bác sĩ nói thêm, coi như tôi
chưa nói gì với ông. Hãy giấu kín điều bí mật khủng khiếp này vào nơi sâu kín
nhất của lòng mình.
Nhưng phải coi chừng.
- ồ! Cám ơn, cám ơn bác sĩ! Villefort
nói.
Lúc họ đã đi xa, Morrel rời khỏi lùm
cây và bằng sức bật không sao hiểu nổi của tuổi trẻ anh nhảy ra khỏi chỗ nấp,
vọt hai bước đã qua khoảng đất trồng hoa ngập ánh trăng. Anh đến bậc thềm, bước
lên thật nhanh và đẩy cửa, cánh cửa mở ngay ra trước mặt anh không khó khăn gì.
Morrel đi qua tiền sảnh và lên hết cầu
thang không có gì trở ngại. Đàng kia, một tiếng nức nở quen thuộc làm dấu hiệu
chỉ đường cho anh.
Anh đẩy một cánh cửa và bước vào.
Valentine đang quỳ bên chiếc giường có
người bà đã chết nằm đó.
Anh buông một tiếng thở dài, Valentine
nhìn thấy anh và không hề lộ vẻ ngạc nhiên.
- Bạn ơi, cô nói, sao anh lại ở dây?
- Valentine, Morrel run run nói, mãi
không thấy cô tới; tôi lo quá, tôi bèn nhảy qua tường và đã đến đây. Còn chuyện
ông d'épinay thì sao?
Cho tôi biết đi, tôi van cô đấy.
- ông Franz đã tới để ký hôn ước vào
lúc bà ngoại tôi trút hơi thở cuối cùng.
- Ôi chao! - Morrel nói với một tình
cảm vui mừng vị kỷ, vì anh nghĩ thầm rằng cái chết này sẽ trì hoãn vô thời hạn
đám cưới Valentine.
- Lại đây Maximilien, Valentine nói.
Tôi sẽ giới thiệu anh với ông nội tôi.
- Cô nghĩ thế ư, Valentine?
- Tôi chỉ còn có mỗi người bạn này trên
đời, và cả hai chúng ta đều cần đến ông... Lại đây.
Đi đến thềm trước căn hộ, cô vào trước
phòng của cụ Noirtier.
- ông yêu quý, cô nói với giọng gãy
gọn, ông nghe con nhé: ông biết rằng bà ngoại Saint-Méran đã chết và ông cũng
biết rằng ngoài ông ra chẳng còn ai trên đời này yêu quý con chứ? Vậy có phải
là chỉ có ông mới là người con phải phó thác gửi gấm cả nỗi buồn hay niềm hy
vọng không?
Người bại liệt ra hiệu là đúng.
Valentine cầm tay Maximilien.
- Như vậy thì, cô nói với ông, nhìn kỹ
đây ông ơi.
Cụ già đưa cặp mắt dò xét và hơi ngạc
nhiên nhìn Morrel đăm đăm.
- Đây là anh Maximilien Morrel, cô vừa
nói vừa quỳ xuống trước cụ già. Con yêu anh ấy và.chỉ thuộc về anh ấy. Nếu họ
buộc con phải lấy một người khác con sẽ để mặc cho mình chết hoặc tự sát.
- Thưa cô, xin cô vui lòng cho phép tôi
được hân hạnh nói chuyện một lát với cụ Noirtier.
Valentine đứng dậy, đưa một cái ghế cho
Morrel ngồi rồi ra khỏi phòng.
- Thưa ông, Morrel nói, xin cho phép
con kể lại chuyện Valentine và con đã quyết định như thế nào.
Và thế là anh kể lại câu chuyện làm sao
anh lại thỏa thuận bắt cóc Valentine.
- Không. - Cụ Noirtier ra hiệu.
- Không ư thưa ông? Morrel nhắc lại,
vậy phải làm gì đây. Con phải để cho mọi việc xong xuôi ư?
Cụ Noirtier không động đậy.
- Nhưng mọi sự trì hoãn đều nguy cho
chúng con, thưa ông, chàng trai nói tiếp. Phải chăng ông sẽ giúp chúng con?
- Đúng.
- Xin tha lỗi cho sự nài nỉ của con, vì
cuộc đời con phụ thuộc vào câu trả lời của ông: ông có cứu vớt chúng con không?
- Có!
Trong cái nhìn toát ra sự khẳng định
này hàm ý cương quyết đến mức không tài nào nghi ngờ được đó là ý chí nếu không
nói là sức mạnh.
- Như thế là con phải đợi? Chàng trai
hỏi.
Và ông hứa với con rằng hôn ước sẽ
không được ký chứ?
- ừ! Cụ già bại liệt ra hiệu.
Mặc dầu có sự bảo đảm ấy, Morrel vẫn
còn chưa tin hẳn.
- Bây giờ thưa ông, con xin phép được
cáo lui. Anh vừa nói vừa chào cụ già.
Hai ngày sau thì đưa đám. Thi hài ông
de Saint-Méran đã về đến nơi. Vậy là có hai quan tài được đặt vào hầm mộ của
dòng họ.
Chỉ có Villefort, Franz và vài người bà
con họ gần vào trong chính tẩm.
Ông de Villefort kéo Franz ra một chỗ.
- ông d'épinay, hắn nói với anh, tôi
phải nhắc lại ý nguyện của bà de Saint Méran đã nói hôm kia trên giường lâm
chung, đó là đám cưới Valentine không được trì hoãn. Hôn ước đáng lẽ phải ký từ
hai hôm trước, chúng tôi đã tìm thấy văn bản viết sẵn: có thể ký kết ngay hôm
nay.
- Xin tùy ý ông, thưa ông, Franz nói.
- Tôi đợi ông sau một giờ nữa nam tước
ạ.
Hãy đưa những người làm chứng của anh
đến.
Franz chào ông de Villefort và đi ra.
Tin này gây ấn tượng mạnh trong nhà. Bà
de Villefort không muốn tin là có chuyện ấy, còn Valentine như bị sét đánh, cõi
lòng tan nát..Lát sau người ta nghe thấy tiếng hai chiếc xe chạy vào trong sân.
Một chiếc xe là của ông làm chứng còn chiếc kia là của Franz và bạn hữu.
Ngay sau đó mọi người tụ tập cả ở phòng
khách.
Ông làm chứng làm thủ tục chuẩn bị ký
hôn ước thì đúng lúc đó cửa phòng khách mở ra và người hầu của cụ Noirtier xuất
hiện.
- Thưa các ngài, cụ Noirtier de
Villefort muốn nói chuyện ngay lập tức với ông Franz de Quesnel, nam tước
d'épinay.
Villefort rùng mình.
- Không thể được, viên biện lý hoàng
gia nói; vả chăng ông d'épinay lúc này không thể rời phòng khách.
- Xin lỗi ông, Franz nói. Tôi không
muốn bỏ lỡ cơ hội này để bày tỏ với cụ Noirtier sự tận tụy hết lòng của tôi.
Và không để cho Villefort giữ lại lâu
hơn, Franz đứng dậy theo sau Valentine.
Cụ Noirtier đang đợi, cụ mặc toàn đồ
đen và được đặt ngồi trong ghế bành.
- Đây là ông Franz d'épinay, Villefort
nói với cụ; cha đã cho mời ông ta và ông ta đến theo yêu cầu của cha.
Cụ Noirtier đưa mắt nhìn cái bàn giấy
mà Valentine mở ra. Cô cầm lấy tập giấy được bó lại bằng một giải lụa đen.
- Phải trao lại cho ai ạ? Cho ông de
Villefort?
- Không.
- Cho ông Franz
d'épinay?
- Đúng.
Franz ngạc nhiên,
mở phong bì, và cả phòng im phăng phắc. Giữa sự im lặng ấy anh đọc:
"Trích biên
bản một cuộc họp Câu lạc bộ thân Bonaparte ở phố Saint Lacque, họp ngày 5 tháng
hai 1815." Franz dừng lại.
- Ngày 5 tháng hai
1815! Đó là ngày cha tôi bị giết hại!
Valentine và Villefort câm lặng. Franz
đọc tiếp:
"Những người ký tên dưới đây Louis
Beaurepaire, Etienne Duchampy và Claude Lecharpal tuyên bố rằng ngày 4 tháng
hai 1815 tướng d'épinay đã chết trong một cuộc quyết đấu trung thực và không
phải là trong cuộc mai phục như người ta có thể nói thế.
Cái chết này là do bàn tay của chủ tịch
câu lạc bộ thân Bonaparte mà tướng d'épinay đã xúc phạm nghiêm trọng trước công
chúng bằng những lời gièm pha nhục mạ ông và hoàng đế." Franz kết thúc cái
việc đọc quá khủng khiếp đối với một người con này bằng một giọng tắc nghẹn, bị
giày vò bởi một xúc động kỳ lạ. Nhưng sau một lát lặng im, anh nói với cụ
Noirtier:.- Thưa cụ, vì cụ biết câu chuyện kinh khủng này xin cho tôi biết tên
của người chủ tịch câu lạc bộ, để cuối cùng tôi biết được kẻ nào đã giết người
cha tội nghiệp của tôi.
- Phải, cụ Noirtier trả lời và nhìn
cuốn tự điển.
Franz đưa tay run bắn cầm lấy áo rồi
đọc lần lượt các vần chữ cái đến chữ M.
- M! - Franz kêu lên.
Ngón tay của chàng trai lướt qua các từ
mà cụ Noirtier ra hiệu phủ nhận.
Cuối cùng đến từ MOI (nghĩa là tôi,
ND).
- Đúng. Cụ già ra hiệu.
- Cụ! Franz kêu lên, tóc trên đầu dựng
ngược.
Là cụ, cụ Noirtier! Cụ là người đã giết
cha tôi!
- Phải, cụ Noirtier trả lời, nhìn trừng
trừng vào chàng trai bằng một ánh mắt oai vệ.
Franz mất hết sức lực ngã xuống một
chiếc ghế bành.
Villefort mở cửa ra chạy trốn, vì hắn
có ý tưởng phải bóp chết cái sự sống ít ỏi vẫn còn lưu lại trong trái tim ghê
gớm của cụ già.
Franz ra khỏi phòng cụ Noirtier, lảo
đảo và thác loạn đến nỗi ngay cả Valentine cũng phải thương hại anh.
Hai giờ sau, Villefort nhận được của
Franz d'épinay một lá thư như sau:
"Sau sự việc đã được phát lộ, có
lẽ giữa gia đình tôi và gia đình ông de Villefort không thể nghĩ đến việc kết
mối thông gia được".
Ngay hôm sau cụ Noirtier cho mời ông
làm chứng: bản chúc thư thứ nhất bị xé bỏ và làm một bản mới, trong đó cụ để
lại toàn bộ tài sản cho Valentine với điều kiện là mọi người không được tách cô
ra xa cụ.
Có ai đó tính rằng cô de Villefort là
người thừa kế của hầu tước de Saint-Méran lại được ông nội cô tin chuộng trở
lại thì một ngày gần đây cô sẽ có gần ba trăm ngàn livrơ lợi tức.
ít lâu sau, Maximilien gặp lại
Valentine.
- Thoát rồi! Valentine nói.
- Thoát rồi! Morrel nhắc lại. Nhưng
chuyện xảy ra thế nào?
Valentine mở miệng định kể lại tất cả;
nhưng cô lại nghĩ rằng trong chuyện này có một bí mật khủng khiếp không chỉ
thuộc riêng về ông nội cô.
- Sau này, cô nói,
em sẽ kể lại cho anh mọi chuyện. Khi nào em trở thành vợ anh..
BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 16: Caderousse
Một buổi chiều, ông
Danglars tiếp Andrea Cavalcanti đến thăm. Sau mười phút trò chuyện Andrea mời
hắn riêng ra một chỗ và ngỏ lời cầu hôn cô Danglars.
Danglars nghe hết
sức chăm chú; đã tới hai hay ba ngày nay hắn đợi tin này.
- Hơn nữa, thưa
ông, tôi có mang theo lá thư trong đó cha tôi cam kết cho tôi số vốn là hai
triệu, nghĩa là một trăm năm mươi ngàn livrơ lợi tức tính từ hôm cưới. ông xem,
sự việc sẽ trở nên tốt đẹp nhất, nếu giả định rằng lời cầu hôn của tôi không bị
bà nam tước Danglars và cô Eugénie khước từ.
Danglars cảm thấy
choáng ngợp mừng vui như người ta thường cảm thấy lúc sắp chết đuối lại gặp đất
vững chắc dưới chân thay cho khoảng trống mình sắp chìm nghỉm vào đó.
- Như vậy thì, thưa
ông, Andrea vừa nói vừa rất mực cung kính chào ông chủ ngân hàng, tôi có thể hy
vọng...
- Anh Andrea,
Danglars nói, hãy hy vọng đi, và hãy tin rằng nếu không có trở ngại gì về phía
anh ngăn cản việc này tiến triển thì nó đã được quyết định.
Andrea cáo biệt ông
chủ ngân hàng và ra xe.
Đúng lúc hắn sắp
sửa đặt chiếc ủng bóng lộn của mình lên bậc xe thì một bàn tay đặt lên vai hắn.
Andrea rùng mình và
lùi lại thật nhanh.
Người đàn ông bịt
đầu bằng một chiếc khăn kẻ ô để lọt mớ tóc xam xám lấm láp.
- ông muốn gì ở
tôi? Hắn nói.
- Bây giờ mày chẳng
thèm chào hỏi bạn bè hả thằng cu Benedetto? Tao, bạn chung xiềng cũ của mày ở
nhà lao khổ sai Toulon? Người đàn ông nói.
Đó là Caderousse:
hắn bị tù vì đã giết người buôn đồ nữ trang mà hắn gạ bán viên kim cương của tu
sĩ Busoni, tức Monte Cristo.
- ái chà! Mày! Tại
sao mày đến quấy rối sự yên bình của tao?
- Vì thích gặp lại
bạn cũ! Tao ở phố Ménil-montant.
Ngày mai đến gặp tao. Tạm biệt,
Benedetto!.Và hắn phóng vào một phố nhỏ rồi mất hút trong đó. Ngày hôm sau,
Andrea đến gõ cửa căn hộ của Caderousse, thoáng chút tò mò và lo lắng mơ hồ.
- A! Mày đến đấy à, Caderousse vừa nói
vừa rút then cửa.
- Mày muốn gì tao?
- Có vẻ sự việc xoay chuyển tốt cho mày
nhỉ thằng cu Benedetto? Caderousse nói với cặp mắt long lanh thèm muốn. Mày đi
lại với xã hội thượng lưu Paris, mày sắp cưới con gái Danglars.
Nhưng, vừa nói thêm hắn vừa mỉm cười
hiểm độc, không được phụ bạc các bạn cũ, hiểu chưa.
- Mày biết thừa, Andrea trả lời, tao
không giàu có gì, và nếu không có người bảo trợ, bá tước Monte Cristo...
- Ôi người bảo trợ quý giá! Caderousse
nói, mỗi tháng nó cho mày bao nhiêu?
- Năm nghìn frăng,
Andrea nói.
- Nói đi, Andrea,
cúi mình xuống chắc là cũng thích, khi cái ông Monte Cristo tốt bụng này đánh
rơi túi bạc của hắn chứ?
- ồ! Lạy Chúa!
Andrea nói, tiền trong nhà hắn vương vãi như trái cây trong vườn cây ăn quả.
- Thế nhà hắn như
thế nào?
- Chà, phải có mực
và giấy cho tao vẽ sơ đồ.
Caderousse đi tìm
cái gì để viết trên một cái bàn giấy cũ. Andrea vẽ sơ đồ vườn và nhà bá tước
Monte Cristo và cung cấp mọi tình hình mà Caderousse hỏi.
- Thế hắn có hay
vắng nhà không? Hắn hỏi.
- Hai hay ba lần
mỗi tuần. Hắn qua đêm ở Auteuil. Chẳng hạn, mai hắn phải đến đó.
Caderousse nhìn người bạn trẻ như muốn
rút hết sự thực từ đáy lòng nó.
- Mày sẽ còn phải làm gì đó cho tao, cu
con Benedetto ạ: mày để viên kim cương đeo ở ngón tay lại đây cho tao.
- Được. Nhưng mày sẽ không quấy rầy tao
nữa chứ?
- Không bao giờ.
Chúng chia tay
nhau. Andrea vừa đi khỏi, Caderousse liền đóng cửa lại cẩn thận rồi bắt đầu
nghiên cứu, như một kiến trúc sư thực thụ, cái sơ đồ mà Andrea để lại cho hắn.
Hôm sau, bá tước Monte Cristo quả thực
có đi Auteuil. Anh nói chuyện với Bertuccio trong khi Baptistin mở cửa; hắn cầm
một bức thư. Bá tước mở ra và đọc:
"ạng de Monte Cristo được báo tin
rằng ngay đêm nay một người đàn ông sẽ lẻn vào nhà ông ở Champs élysées để ăn
trộm của ông.".Thoạt đầu bá tước cho là một mẹo lừa của kẻ trộm. Nhưng sau
bữa tối, vừa ra hiệu cho Ali đi theo, ông vừa ra bằng cửa nhỏ, lên đường về
Paris và vào lúc đêm về khuya ông đã ở trước nhà phố Champs élysées.
Ông vào nhà bằng cầu thang phụ, mà ngay
cả người gác cổng cũng chẳng thể ngờ rằng ngôi nhà anh ta tưởng là trống không,
đã thấy ông chủ trở về. Lúc tiếng cuối cùng của chuông báo mười một giờ ở đồng
hồ nhà thờ phố Invalides vừa dứt thì bá tước đã ẩn cùng với Ali sau một tấm bình
phong, ngỡ nghe thấy một tiếng động khẽ, như tiếng cót két ở phía phòng làm
việc.
Một bàn tay quả quyết và thành thạo
đang loay hoay. Cắt kính bằng một viên kim cương. Bất chợt ô vuông gãy ra mà
không rơi xuống. Một giây sau, cửa sổ quay trên bản lề, và một người đàn ông
bước vào.
- Thật là một tên vô lại táo bạo, bá
tước lẩm bẩm.
Trong lúc đó, ông cảm thấy Ali chạm nhẹ
lên vai mình, ông quay lại. Ali chỉ cho ông chiếc cửa sổ mở ra phố của căn
phòng mà họ đang đứng.
Monte Cristo bước ba bước lại phía cửa
sổ ấy. ông thấy một người đàn ông khác vừa rời khỏi một cánh cửa và trèo lên
một cọc hàng rào có vẻ tìm cách nhìn xem việc gì xảy ra trong nhà bá tước.
- Được, ông nói, chúng có hai người:
một đứa hành động, một đứa canh gác.
Ông ra hiệu cho Ali không rời mắt khỏi
người ngoài phố còn ông quay vào theo dõi kẻ trong phòng làm việc.
Người cắt kính đã vào phòng và đang
định hướng; rồi hắn đi thẳng đến bàn giấy. Hắn lấy ra một bộ đồ thợ khóa và một
chiếc đèn. Ngay lúc ấy một làn ánh sáng mờ soi khắp căn phòng.
- › này! Bất chợt Monte Cristo vừa nói
vừa lùi lại bằng một động tác kinh ngạc, đây là...
Lúc đó Monte Cristo cởi nhanh áo đuôi
tôm, áo gi lê và áo sơ mi và mặc vào chiếc áo thầy tu dài. Anh giấu mớ tóc của
mình dưới bộ tóc giả có khoanh hói ở giữa đỉnh đầu; đội mũ ba góc lên trên bộ
tóc giả, hoàn thành việc chuyển bá tước thành tu sĩ.
Ông thắp một ngọn nến và nhẹ nhàng mở
cửa.
- Này! Xin chào ông Caderousse thân
mến, ông nói, ông đến đây vào giờ này để làm cái quái gì thế?
- Tu sĩ Busoni! Caderousse kêu lên, bất
động và như chết lặng vì sững sờ.
- ông có trí nhớ tốt đấy, vì nếu tôi
không lầm thì đã đến mười năm nay chúng ta chưa gặp nhau..Vậy ông muốn ăn trộm
của bá tước Monte Cristo?
- Thưa tu sĩ, Caderousse nói, tôi thề
với ông...
- Một ô kính bị cắt, bá tước nói tiếp,
một cái đèn mờ, một bộ đồ thợ khóa, một bàn giấy bị cậy dở dang, thế là rõ đấy
chứ. Nếu tôi không lầm thì điều đó đưa ông tới máy chém.
- Ôi! Xin gia ơn!
Xin gia ơn! Caderousse kêu lên. Tôi bị lôi kéo. Đó là Benedetto, thằng bạn
chung xiềng ở nhà lao khổ sai Toulon nó đã chỉ dẫn cho tôi việc này.
- Cái tên Benedetto
này là ai? ông hỏi.
- Nó lấy tên là
Andrea Cavalcanti và ngụ tại khách sạn Các Hoàng Tử.
- Là kẻ mà Danglars muốn gả con gái cho
ư? Đứng dậy đi! Bá tước nói. Cầm lấy cái bút và tờ giấy này và viết những gì ta
đọc cho ngươi.
Caderousse bị chinh phục bởi cái sức
mạnh ưu thắng ấy bèn ngồi xuống và viết theo lời tu sĩ đọc:
"Thưa ông, người mà ông tiếp ở nhà
ông và định gả con gái cho hắn là một tên cựu tù khổ sai vượt ngục cùng tôi từ
nhà lao khổ sai Toulon. Hắn tên là Benedetto; nhưng chính hắn cũng không biết
tên thật của mình vì xưa nay hắn không biết cha mẹ là ai." - Ký đi! Bá
tước nói tiếp, và viết địa chỉ vào.
Caderousse ký và viết: "Kính gửi
nam tước Danglars, chủ ngân hàng, phố Chaussée d'Autin" Tu sĩ cầm lấy bức
thư.
- Bây giờ mày biến đi, thằng ranh!
Caderousse hài lòng vì thoát được thân
quá dễ dàng liền bước qua cửa sổ và đặt chân vào thang.
Monte Cristo đưa mắt lướt nhìn thật
nhanh từ vườn ra phố. Thoạt đầu anh thấy Caderousse tiến về phía cái thang mà
hắn vừa trèo vào lúc nãy. Rồi anh thấy người đàn ông ở ngoài có vẻ chờ đợi,
đứng vào đúng cái góc mà Caderousse sắp trèo xuống.
Caderousse từ từ leo lên thang, cưỡi
lên bờ tường, vắt chân qua rồi bắt đầu tụt xuống.
Nhưng hắn đang trèo xuống thì một người
lao vào bóng tối lúc hắn xuống đến nửa chừng, một cánh tay giơ lên vào lúc chân
hắn sắp đụng đất; trước khi kịp phòng vệ, cái tay ấy đã đâm mạnh vào lưng hắn.
- Cứu tôi với!
Một nhát thứ hai ngay lập tức thọc vào
mạng sườn và hắn ngã gục. Cuối cùng hắn đang lăn lộn trên mặt đất thì kẻ thù
của hắn nắm lấy tóc hắn và đâm thêm nhát thứ ba vào ngực.
Ba dòng suối máu vọt ra từ ba vết
thương.
Kẻ sát nhân cho là hắn chết rồi liền
lảng đi.
Lúc đó Caderousse biết hắn đã đi xa,
liền chống tay nhỏm dậy và bằng giọng hấp hối lấy hết sức kêu lên:.- Có kẻ giết
người! Tôi chết mất! Cứu tôi với, ông tu sĩ, cứu tôi với!
Cửa nhỏ trong vườn mở ra và Ali cùng
chủ anh cầm đèn chạy ra.
Caderousse kêu mãi với giọng thê thảm.
Họ khiêng người bị thương đưa vào một căn phòng.
ở đó Monte Cristo ra hiệu cho Ali cởi
áo hắn ra và anh thấy ba vết thương khủng khiếp trên người hắn.
- Anh đi tìm viên biện lý hoàng gia
Villefort và đưa ông ta đến đây. Tiện thể, anh đánh thức người gác cổng và bảo
hắn đi mời thầy thuốc.
Ali vâng lời và để ông tu sĩ giả ở lại
một mình với Caderousse.
- Một nhà phẫu thuật, thưa tu sĩ, một
nhà phẫu thuật! Caderousse nói. Tôi chẳng còn sống được lâu nữa đâu, nhưng tôi
muốn có thời gian để làm tờ khai về kẻ giết tôi.
- Anh biết hắn à?
- Tôi biết hắn chứ! Vâng, tôi biết hắn,
đó là Benedetto.
- Thằng bạn anh à?
- Vâng. Sau khi cho tôi sơ đồ nhà bá
tước, chắc hẳn hắn hy vọng tôi sẽ giết bá tước hoặc bá tước sẽ giết tôi và như
vậy hắn sẽ gạt bỏ được tôi nên hắn đã đợi tôi ngoài phố và đã ám hại tôi.
- Anh có bằng lòng để tôi viết hộ lời
khai của anh không? Rồi anh sẽ ký vào đó.
- Vâng, Caderousse nói, mắt long lanh ý
tưởng về cuộc trả thù sau khi chết này. Monte Cristo viết:
"Tôi chết vì bị tên người Corse
Benedetto sát hại, hắn là bạn tù cùng xiềng ở nhà lao khổ sai Toulon, số tù
59".
Monte Cristo đưa bút cho Caderousse,
hắn tập trung tàn lực để ký rồi vừa ngã xuống giường vừa nói:
- ông sẽ kể phần còn lại, thưa ông tu
sĩ. Và hắn sẽ bị chết chém, ông hứa điều đó với tôi chứ?
- Tôi sẽ nói rằng, bá tước nói tiếp,
hắn đến sau anh, rằng hắn đã rình anh suốt, rằng khi hắn thấy anh ra, hắn đã
chạy lại nấp ở góc tường.
- Vậy ông đã nhìn thấy mọi việc này mà
ông không báo cho tôi? Caderousse vừa nói vừa cố chống khuỷu tay nhổm người
lên.
- Không, vì trong bàn tay Benedetto ta
thấy công lý của Chúa, và ta nghĩ mình sẽ mắc vào tội phạm thánh nếu chống lại
ý Chúa.
- Công lý của Chúa! Đừng có nói điều đó
với tôi, thưa tu sĩ: nếu có công lý của Chúa thì ông hẳn biết rõ hơn ai hết
rằng có những kẻ đáng bị trừng trị mà lại không việc gì..- Nghe đây, tu sĩ nói,
làm sao mà ngươi dám đổ tội cho Chúa, ngươi, một kẻ đã phản bội một trong những
người bạn tốt nhất của mình?
- Bạn nào? Tôi không hiểu.
- Nhìn ta đây cho kỹ, Monte Cristo vừa
nói vừa đưa ngọn nến lại gần mặt mình: ngươi có nhận ra ta không?
Monte Cristo nhấc bỏ bộ tóc giả làm anh
biến dạng, để lộ ra mái tóc đen óng ả khuôn lấy gương mặt xanh xám của anh một
cách thật hài hòa.
- Ôi! Caderousse kinh hoàng nói, quả
thực, có vẻ như tôi đã gặp ông, như tôi đã quen ông trước kia.
- Phải! Caderousse phải, ngươi đã gặp
ta, phải, ngươi đã quen ta.
- Nhưng ông là ai vậy? Caderousse vừa
nói vừa nhổm người lên.
Bá tước không ngừng theo dõi diễn tiến
của cơn hấp hối. Anh hiểu đây là sức sống bật lên lần cuối cùng; anh lại gần kẻ
sắp chết.
- Ta là... anh ghé vào tai hắn nói, ta
là... và cặp môi anh chỉ hơi hé mở, thì thào một cái tên.
Caderousse đã quỳ trên hai gối nhỏm
dậy, dang hai cánh tay, cố lùi lại, rồi chắp hai bàn tay cố hết sức tàn giơ lên
cao:
- Ôi lạy Chúa, lạy Chúa, hắn nói, tha
thứ cho con!
Và Caderousse nhắm mắt lại, ngã lộn về
đàng sau thét lên một tiếng và trút hơi thở cuối cùng.
- Một đứa! - Bá tước nói một cách bí
ẩn, mắt trừng trừng nhìn tử thi đã biến dạng đi vì cái chết khủng khiếp này.
Mười phút sau, người thầy thuốc và viên
biện lý hoàng gia do người gác cổng và Ali dẫn tới, được tu sĩ Busoni đang cầu
nguyện bên xác chết đón tiếp.
Trong suốt mười lăm ngày Paris chỉ xôn
xao về vụ trộm bất thành này ở nhà bá tước. Dựa trên tờ khai của người sắp
chết, cảnh sát tung toàn bộ nhân viên dò theo dấu vết kẻ sát nhân.
Nhưng ba tuần lễ đã
trôi qua mà các cuộc truy tìm ráo riết nhất cũng chẳng đem lại kết quả nào, và
trong giới giao tế người ta bắt đầu quên đi vụ trộm bất thành ở nhà bá tước và
tên trộm bị kẻ đồng lõa giết hại. Chính bá tước cũng tỏ vẻ mệt mỏi vì những sự
kiện này nên họ đồn rằng ông đi du lịch..
BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 17: Morcerf
Một buổi sáng,
Albert thức dậy vì người hầu phòng vào báo có Beauchamp đến chơi.
Albert mặc quần áo
và xuống dưới nhà.
- Sao tôi lại hân
hạnh được anh tới thăm thế này?
- Có chuyện gì đó
nghiêm trọng, làm tôi sợ quá, Beauchamp nói. Này, đọc đi.
Và anh đưa tờ báo
cho Albert đọc, bài báo mang tiêu đề:
"Thư gửi từ
Janina:
"Một sự kiện
cho đến nay không ai biết, hay ít ra cũng được coi là mới lạ, đã được chúng ta
biết đến; các pháo đài bảo vệ thành phố đã bị một sĩ quan Pháp trao cho bọn Thổ
Nhĩ Kỳ.
Viên sĩ quan này
được tổng trấn Ali-Pacha phó thác trọn niềm tin, kẻ ấy tên là Fernand Mon-dego.
Viên sĩ quan này
ngày nay được gọi là ngài bá tước de Morcerf và là thành viên của Viện Nguyên
lão".
Trong khi đọc, cặp
mắt Albert cứ tối dần, chân anh như muốn khuỵu xuống và chỉ chực ngã, anh tựa
vào tường. Rồi anh lắc lắc mái tóc trên cái đầu đẫm mồ hôi và vò nhàu tờ báo:
- Không thể được,
anh nói. Và anh, Beauchamp, sao anh có thể cho đăng điều vu khống này?
- ồ lạy Chúa tôi,
thật là rất đơn giản; chúng tôi không chạy sau vụ bê bối này mà là nó tìm đến
chúng tôi. Hôm qua có một người từ Janina về, đến chỗ chúng tôi mang theo tập
hồ sơ dữ dội này. Đây là chứng cớ.
Albert mở tờ giấy
ra; đó là một chứng thư của bốn thân sĩ ở Janina, xác nhận rằng viên đại tá
Fernand Mondego, đại tá huấn luyện làm việc cho tổng trấn Ali-Pacha đã giao nộp
lâu đài Janina để đổi lấy hai ngàn tờ trái phiếu.
Albert lảo đảo và
ngã rũ rượi xuống một chiếc ghế bành. Đây không còn là anh ta nữa:
giọng anh lạc hẳn đi, dáng đi loạng
choạng như người say rượu.
- Bạn ơi, anh nói với Beauchamp, đời
tôi tàn rồi.
Cũng ngày hôm ấy ở Viện Nguyên lão, xảy
ra một vụ náo động bao trùm cả những nhóm thường là hết sức ôn hòa của thượng
viện. Mọi người đến hầu như trước giờ họp, bàn tán xôn xao về sự kiện quái ác
này.
Chỉ có mỗi một mình bá tước de Morcerf
là không hay biết gì. Hắn không nhận được tờ báo có đăng cái tin phỉ báng ấy và
dành cả buổi sáng để viết thư và để thử ngựa.
Hắn đến thượng viện vào giờ thường lệ,
đầu ngẩng cao, mắt kiêu kỳ, dáng đi ngạo nghễ, chẳng chú ý đến sự ngập ngừng
của các môn lại và những cái chào nửa vời của các bạn đồng viện.
Toàn thể thượng viện nóng lòng đợi khơi
mào cuộc tranh luận, nhưng chưa ai dám nói.
Cuối cùng một trong số các vị nguyên
lão danh giá nhất, đối thủ công khai của bá tước, bước lên diễn đàn với vẻ
trang trọng báo hiệu rằng thời điểm mong đợi đã đến.
Một sự im lặng đáng sợ hình thành.
Vừa mới nghe tiếng Janina và đại tá
Fernand, bá tước de Morcerf đã xanh xám quá chừng, mọi cái nhìn đều đổ dồn vào
hắn.
Cuối cùng diễn giả kết luận bằng yêu
cầu ra lệnh mở cuộc điều tra. Chủ tịch đưa việc điều tra ra biểu quyết; người
ta bỏ phiếu và quyết nghị là cuộc điều tra sẽ được tiến hành.
Người ta hỏi bá tước xem hắn phải có
bao nhiêu thời gian để chuẩn bị bào chữa.
Morcerf đã lấy lại can đảm. Cho nên hắn
lên tiếng với giọng quả quyết.
- Thưa các vị nguyên lão, không phải là
với thời gian mà đẩy lùi được cuộc tấn công do các kẻ thù giấu mặt tiến hành
chống lại tôi trong lúc này. Ngay lập tức tôi phải trả lời những lời buộc tội
ấy. Vậy tôi yêu cầu, rằng cuộc điều tra được tiến hành càng sớm càng tốt, và
tôi sẽ cung cấp cho Viện mọi tài liệu cần thiết để cuộc điều tra này có hiệu
quả.
Những lời này gây nên một ấn tượng
thuận lợi cho người bị buộc tội. Giờ khai mạc phiên thứ nhất của hội đồng này
được ấn định vào bốn giờ chiều.
Giờ họp hội đồng đã đến. Tiếng đồn lan
ra như một vệt thuốc súng và toàn Paris ở vào thế chờ đợi sự biến. Nhiều người
khẳng định rằng chỉ cần Morcerf xuất hiện là làm sụp đổ lời buộc tội; cũng lại
nhiều người nói rằng bá tước sẽ không đến đâu.
Ông de Morcerf bước vào đúng lúc tiếng
chuông bốn giờ vừa dứt. Hắn cầm ở tay một số giấy tờ gì đó và thái độ có vẻ
điềm tĩnh.
- Xin mời ông trình bày, thưa ông de
Mor-cerf.
Ông chủ tịch nói.
Bá tước mở đầu bài biện hộ của mình,
hắn nói hùng hồn và khôn khéo lạ thường. Hắn đưa ra những tài liệu chứng tỏ
rằng đến giờ phút cuối cùng của mình, tổng trấn Janina vẫn hoàn toàn tin cậy ở
hắn, vì ông ta đã giao cho hắn đi tiến hành một cuộc đàm phán sống còn với đích
thânvua Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng không may, hắn nói, cuộc đàm phán thất bại, và khi
hắn quay lại để bảo vệ ân nhân của mình thì ông đã chết. Nhưng lúc sắp chết, bá
tước nói, Ali-Pacha tin hắn đến mức phó thác cho hắn cả vợ và con mình.
Tiếng xì xào tán thưởng lan khắp cử tọa
và lúc ấy giá như không xảy ra vụ rắc rối nào thì bá tước de Morcerf đã thắng
cuộc.
Đúng lúc ấy một môn lại bước vào trao
một lá thư cho ông chủ tịch. ông chủ tịch hờ hững đưa mắt đọc bức thư người ta
vừa mang tới; nhưng ngay mấy dòng đầu đã thức tỉnh sự chú ý của ông, ông đọc
đi, đọc lại và đăm đắm nhìn ông de Morcerf:
- Thưa các ngài, ông nói, và thưa ngài
bá tước, tôi nghĩ rằng các vị sẽ thấy phiền lòng, phải nghe một nhân chứng rất
quan trọng theo như người đó xác nhận và người đó sắp đích thân ra mắt. Cho gọi
người phụ nữ đang đợi ngoài tiền sảnh vào. ông chủ tịch nói.
- Năm phút sau, người môn lại tái xuất
hiện.
Theo sau ông ta là một người đàn bà
quấn một tấm sa lớn che kín toàn thân.
Ông chủ tịch yêu cầu người đàn bà lạ
mặt gỡ tấm sa của mình ra và mọi người lúc này có thể nhìn rõ người đàn bà
trong y phục Hy Lạp, ngoài ra cô ta lại có sắc đẹp siêu phàm. Đó là Haydée.
Ông chủ tịch giơ tay mời thiếu nữ ngồi
xuống ghế, nhưng cô lắc đầu ra hiệu là cô vẫn đứng.
Còn ông bá tước thì ngã xuống chiếc ghế
bành của mình và hiển nhiên là chân ông không đứng vững được nữa.
- Thưa bà, ông chủ tịch nói, bà là ai,
những sự kiện này có tầm quan trọng như thế nào đối với bà?
- Tôi tên là Haydée, con gái của
Ali-Pacha và của Vasiliki người vợ yêu dấu của người. Tôi được bốn tuổi thì
chính mắt tôi nhìn thấy cha tôi chết. Cha tôi bị con người được đưa ra xét xử
trước các ông ngày hôm nay đây phản bội, ấy thế mà hắn đã là viên sĩ quan được
cha tôi gửi trọn niềm tin của người. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi bị tên sĩ
quan này bán đi, cả mẹ tôi và tôi, cho những lái buôn nô lệ ở chợ
Constan-tinople.
Để làm chứng cứ cho điều tôi đưa ra
trước hội đồng, tôi có mang theo văn tự bán tôi và mẹ tôi.
Hai má bá tước de Morcerf nhợt hẳn đi
pha lẫn ánh xanh. Haydée, vẫn điềm tĩnh, trao cho ông chủ tịch văn tự bán người
viết bằng tiếng ả Rập.
Người phiên dịch của Viện đọc bản dịch:
"Tôi El-Kobir, lái buôn nô lệ, xác
nhận đã nhận của nhà quý tộc Pháp bá tước Monte Cristo một viên ngọc lục bảo
trị giá hai ngàn trái phiếu là giá bán một nữ nô lệ trẻ theo.đạo Thiên chúa
mười một tuổi mang tên Hay-dée là con gái mà ai cũng biết của nhà quý tộc quá
cố Ali-Pacha; người nữ nô lệ này đã được bán cho tôi từ bảy năm nay cùng với
người mẹ đã chết lúc đến Constantinople do một đại tá người Pháp làm việc cho
tổng trấn Ali-Pacha tên là Fernand Mondego." Tiếp đó là yên lặng khủng
khiếp.
- Thưa ngài de Morcerf, ông chủ tịch
nói, ngài có nhận ra bà đây là con gái của tổng trấn Janina không?
- Không, Morcerf vừa nói vừa cố gượng
đứng lên, và đó là một âm mưu do kẻ thù của tôi chuẩn bị.
Haydée quay phắt lại và nhìn thấy bá
tước đang đứng, cô thét lên một tiếng rùng rợn:
- Mi không nhận ra ta sao, cô nói: này,
nhưng ta, may thay ta lại nhận ra mi! Mi là Fernand Mondego, sĩ quan Pháp làm
nhiệm vụ huấn luyện cho quân đội của người cha cao quý của ta. Chính mi đã giao
nộp các pháo đài Janina! Chính mi đã bán chúng ta, mẹ ta và ta, cho gã lái buôn
nô lệ El-Kobir! Tên sát nhân! Tên sát nhân! Tên sát nhân! Trán mi còn vấy máu
của chủ mi!
Lúc đó, tất cả các thành viên của hội
đồng cùng nhìn vào bá tước. Tất cả mọi người đều trông chờ một sự thức tỉnh
giống như tiếng sét.
- Như vậy thì, ông chủ tịch hỏi hắn,
ngài định thế nào?
- Không định gì cả! Bá tước vừa đứng
lên vừa nói với một giọng trầm đục.
Lúc đó bằng một động tác thô bạo, hắn
rứt tuột những chiếc khuy của bộ áo cài kín cúc làm hắn nghẹt thở và ra khỏi
phòng họp như một kẻ mất trí thảm hại. Lát sau tiếng chân hắn bước vang âm thật
bi thảm dưới mái vòm, rồi liền đó là tiếng bánh xe phi nhanh đem hắn đi làm
rung cả hàng hiên của tòa nhà kiểu florance này.
- Thưa các ngài, ông chủ tịch nói khi
đã trở lại yên tĩnh, ông bá tước de Morcerf có bị kết là bất trung phản bội và
hèn hạ hay không?
- Có! Các ủy viên hội đồng điều tra trả
lời nhất loạt.
Trong khi bá tước de Morcerf tự bào
chữa trước các vị nguyên lão thì Albert đi về phía căn hộ của mẹ anh và vì
chẳng có ai ở đó mà báo tin anh tới nên anh đi vào tận phòng của Mercédès.
Mercédès đã sắp xếp mọi thứ có ngăn
nắp:
các tấm ren, đồ trang sức, nữ trang,
các đồ vải giường, tiền bạc đều được xếp vào các ngăn kéo mà bà bá tước thu
thập cẩn thận các chìa khóa.
Albert nhìn mọi việc chuẩn bị này; anh
hiểu ra.
- Ta đi đây, Mercédès nói. Ta đã tin,
là con trai sẽ theo ta; ta có lầm không con?
- Thưa mẹ, Albert nói quả quyết, con
không thể để mẹ phải chia sẻ số phận mà con dành cho.mình: từ nay con cần phải
sống không tên tuổi, không tài sản; con còn trẻ, con khỏe mạnh, con tin rằng
con dũng cảm; con sẽ gia nhập quân đội và con tự tạo lấy một tên tuổi. Nhưng vì
mẹ con ta đã kiên quyết, ta hãy cùng từ bỏ ngôi nhà này mà không để ông de
Morcerf nghi ngờ các dự định của chúng ta.
- Ta đợi con, con ạ! Mercédès nói.
Albert lập tức chạy ra phố dẫn về một
chiếc xe ngựa thuê để chở họ ra khỏi dinh thự.
Vào lúc chiếc xe dừng lại trước cửa và
trong khi Albert xuống xe, một người đàn ông đến gần anh và trao cho anh một lá
thư.
Albert nhận ra người quản gia của Monte
Cristo.
- Thư của bá tước. Bertuccio nói.
Albert cầm lá thư mở ra và đọc.
Sau khi đọc xong anh đưa mắt tìm
Bertuccio nhưng Bertuccio đã lẩn đi trong lúc chàng trai đọc thư. Albert nước
mắt lưng tròng, ngực căng đầy xúc động, trở vào phòng Mercédès và không nói một
lời đưa cho mẹ bức thư.
Mercédès đọc:
"Albert, Tôi biết mẹ con cậu sắp
cùng nhau từ bỏ ngôi nhà ở phố Helder mà không mang theo gì cả. Làm sao tôi
biết được điều đó, đừng tìm hiểu làm gì. Tôi biết điều đó: thế thôi.
Xin nghe đây Albert. Hai mươi bốn năm
trước, tôi trở về tổ quốc rất mừng vui và rất tự hào. Tôi có một người vợ chưa
cưới mà tôi tôn thờ, và tôi đem về cho cô vợ chưa cưới của tôi một trăm năm
mươi đồng lu y tôi đã nhọc nhằn thu lượm được nhờ lao động không ngơi nghỉ. Số
tiền này có được là vì cô, tôi dành nó cho cô ấy và biết rằng biển cả dễ trở
mặt biết bao nên tôi đã chôn kho báu của mình trong khu vườn nhỏ của ngôi nhà
cha tôi cư trú ở Marseille, nơi mà mẹ anh biết rõ, Albert ạ.
Như vậy thì Albert, số tiền này xưa kia
phải giúp cho cuộc sống và sự yên bình của người đàn bà mà tôi tôn thờ, thì đây
ngày nay, do một sự tình cờ kỳ lạ và đau đớn, nó đã tìm lại được đúng công dụng
ấy của mình.
Xin đừng từ chối,
Albert. Đừng hỏi người khác về điều tôi có quyền tặng anh." Mercédès ngước
lên nhìn trời với một biểu hiện khó tả.
- Trái tim ta không
lầm. Đúng là anh ấy!
- Mẹ nói gì thế,
thưa mẹ?
- Không, Albert.
Mercédès vừa nói vừa áp lá thư vào tim mình.
Bà nắm cánh tay con
trai và với bước chân rắn rỏi mà có thể là chính bà không ngờ, bà đi theo lối
ra cầu thang.
Vừa rời khỏi Viện
Nguyên lão, bá tước de Morcerf đi thẳng về nhà bá tước Monte Cristo.
Bá tước vừa viết
xong bức thư mà chúng ta đã đọc và trao nó cho ông quản gia.
Bất chợt, cửa mở ra
và Baptistin báo:
- Ngài bá tước de Morcerf!
Bá tước nhíu mày.
Viên tướng thả bộ dọc phòng khách đến
lần thứ ba, lúc vừa quay lại thì hắn thấy Monte Cristo đứng ngay ngưỡng cửa.
- A! Ra là ông de Morcerf, Monte Cristo
điềm tĩnh nói; lý do nào khiến tôi có niềm vui được gặp ông bá tước de Morcerf
vào lúc còn quá sớm thế này?
- Tôi đến nói cho ông biết rằng, viên
tướng nói mà môi hắn co rút quá chừng khiến hắn phát âm không được rành rọt,
tôi coi ông là nguyên nhân làm tôi mất danh dự. Chỉ có một mình ông biết mọi
chuyện, vì ông đã mua con gái Ali-Pacha.
Từ nay tôi xem ông như kẻ thù! Vì thế
chúng ta hãy quyết đấu. Có phải đó cũng là ý kiến của ông không?
- Hoàn toàn đúng.
- Càng tốt... Như vậy thì chúng ta
quyết đấu cho đến khi nào có một người trong hai ta chết.
Viên tướng nói, răng nghiến lại vì điên
dại. Đi nào, ta không cần người làm chứng.
- Đúng thế, Monte Cristo nói, thật vô
ích vì ta biết nhau quá mà!
- Ngược lại, Morcerf nói, là vì ta
không quen biết nhau.
- Quái chưa! Monte Cristo nói vẫn với
sự phớt lờ hết chịu nổi, xem tý nào. ông chẳng phải là tên lính Fernand đào ngũ
trận Waterloo hôm trước ư? ông không phải là trung úy Fernand làm gián điệp và
dẫn đường cho quân Pháp ở Tây Ban Nha ư? ông lại chẳng phải làm đại tá Fernand
đã phản bội, đã bán đứng và giết hại ân nhân Ali của mình? Tất cả những thằng
Fernand ấy hợp lại có phải là thành Trung tướng, bá tước de Morcerf, vị nguyên
lão của nước Pháp đấy không?
- Ôi! Viên tướng kêu lên, những lời này
giáng vào người hắn như một thanh sắt nung đỏ, ôi!
Tên khốn nạn, mi bêu riếu ta vào lúc mà
có thể là mi sắp giết ta, không, ta không nói là mi không biết ta, ta biết rất
rõ, con quỷ kia, là mi đã thâm nhập đêm đen của quá khứ, và mi đã đọc từng
trang của cuộc đời ta! Nhưng mi là ai?
Bá tước Monte Cristo tái mặt đi một
cách khủng khiếp; ông nhảy phắt sang phòng làm việc kề bên và chưa đầy một
giây, ông vứt bỏ cà vạt, áo đuôi tôm và chiếc gilê, ông khoác vào người chiếc
áo khoác ngắn của thủy thủ và chụp chiếc.mũ thủy thủ lên đầu để xóa mớ tóc đen
dài dưới mũ.
Thế rồi ông trở lại, gườm gườm đáng sợ,
mang mối thù khôn nguôi, tay khoanh trước ngực bước lại trước mặt viên tướng
trong lúc hắn cảm thấy răng đánh lập cập và hai chân như khuỵu xuống, hắn lùi
lại một bước tìm bức tường làm chỗ dựa, cứ thế hắn trượt từ từ ra đến cửa, hắn
bước giật lùi qua cửa và để bật ra một tiếng thét sầu thảm, ai oán, xé lòng:
- Edmond Dantès!
Rồi với hơi thở hồng hộc không có chút
tính người, hắn qua sân như một người say, ngã vào vòng tay tên hầu phòng của
hắn và chỉ phều phào được bằng một giọng rất khó nghe.
- Về dinh! Về dinh!
Nhưng khi cách nhà hắn vài bước, hắn
bắt đỗ xe lại và xuống xe. Cửa dinh thự mở toang; một chiếc xe ngựa thuê đậu
trong sân; bá tước nhìn chiếc xe thuê với ánh mắt sợ hãi nhưng chẳng dám hỏi
ai, rồi hắn lao vào trong dinh của mình.
Có hai người đang xuống thang gác, hắn
chỉ kịp lẻn vào phòng làm việc để tránh.
Đó là Mercédès, tựa vào cánh tay con
trai, hai mẹ con đang rời bỏ dinh thự. Họ đi ngang sát con người khốn khổ, hắn
nấp sau tấm màn cửa bằng gấm, tà áo lụa dài của Mercédès chạm nhẹ vào hắn.
- Can đảm lên mẹ! Albert nói với bà. Đi
nào, đi nào, tại nơi đây mẹ con ta chẳng phải ở nhà mình nữa.
Tiếng nói tắt đi, tiếng chân xa dần.
Viên tướng đứng thẳng lên, cố nén tiếng
nức nở khủng khiếp nhất chưa bao giờ từng lọt ra khỏi ngực một người cha bị cả
vợ và con trai cùng ruồng bỏ...
Rồi hắn nghe thấy tiếng sập cửa sắt của
chiếc xe thuê, rồi tiếng người đánh xe, rồi tiếng lăn bánh của cỗ máy nặng nề
làm rung kính cửa. Hắn lao vào phòng ngủ của hắn để nhìn lại một lần nữa tất cả
những gì hắn đã yêu dấu trên đời; nhưng chiếc xe thuê ra đi mà chẳng hề thấy
mái đầu Mercédès hay Albert ló ra ở ô cửa xe.
Cho nên, đúng cái
lúc mà những bánh xe làm rung động nền vòm cổng thì một tiếng súng nổ vang và
một làn khói ảm đạm lọt qua ô kính cửa sổ phòng ngủ, vừa vỡ tan vì sức mạnh của
tiếng nổ..
BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 18: Valentine
Ngày hôm sau, vụ tự
sát của bá tước de Morcerf trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trong phòng cụ
Noirtier, giữa Valentine và Maximilien.
Morrel nhìn chằm
chằm vào mặt Valentine.
Cô vẫn rất đẹp,
nhưng nước da nhợt nhạt của cô lại xuống màu hơi xỉn, cặp mắt cô long lanh một
ngọn lửa chói rực hơn bình thường.
- Cô làm sao thế Valentine? Cô ốm à? Morrel
sôi nổi hỏi.
- Ôi! Lạy Chúa! Như
thế này sao gọi là ốm được: tôi cảm thấy toàn thân khó ở, thế thôi; tôi ăn
không biết ngon và hình như dạ dày của tôi phải chịu đựng một cuộc vật lộn để
làm quen với cái gì đó.
- Thế cô điều trị
cái chứng bệnh không biết rõ này như thế nào?
- ồ! Đơn giản lắm,
Valentine nói; tôi uống mỗi sáng một thìa nhỏ thứ thuốc nước mà họ đem đến cho
ông nội; khi nói một thìa nhỏ tức là tôi bắt đầu bằng một và bây giờ tôi uống
bốn.
Ông nội tôi quả
quyết rằng đó là thứ thuốc bách bệnh.
Vừa nói xong cô ngã
xuống bất tỉnh.
Morrel nhanh như
chớp, nhảy một bước, đưa tay bế thốc cô lên và đặt cô ngồi vào chiếc ghế bành.
Rồi chàng trai vội giật chuông; những người hầu chạy vào. Vừa thấy Valentine,
họ sợ hãi, lao cả ra ngoài hành lang kêu cứu.
Villefort chạy xổ
vào phòng, đến chỗ Valen-tine và ôm lấy con.
- Gọi thầy thuốc!
Thầy thuốc!... ông d'Avrigny! Villefort kêu lên. Hoặc là chính ta đi mời còn
nhanh hơn.
Và hắn lao ra khỏi
căn hộ. Morrel phóng ra ở một cửa khác.
Anh sực nhớ lại câu
chuyện giữa Villefort và ông bác sĩ mà anh nghe được đêm hôm bà de Saint-Méran
chết. Phải tìm sự giúp đỡ, phải cấp cứu... Và anh nghĩ đến Monte Cristo. Bá
tước đang ở trong phòng làm việc. Nghe báo danh Morrel, ông ngẩng đầu lên.
- Có chuyện gì vậy,
Maximilien? Bá tước hỏi.
Trông anh thật nhợt
nhạt và trán anh đang vã mồ hôi.
Morrel ngã xuống
chiếc ghế bành đúng hơn là ngồi..- Vâng, anh nói. Tôi cần ông, nghĩa là tôi cứ
tin như một kẻ mất trí rằng ông có thể cứu giúp trong hoàn cảnh mà chỉ có Chúa
mới cứu tôi được.
- Nói tiếp đi, Monte Cristo nói.
- ông biết rõ những bất hạnh giáng
xuống gia đình Villefort. Cái chết đã giáng xuống hai lần với sự mau lẹ phi
thường. Mà này, tôi chợt nghe được một cuộc trò chuyện giữa ông de Villefort và
bác sĩ gia đình, ông d'Avrigny. ông này cả quyết rằng cái chết này không tự
nhiên chút nào và phải quy kết cho...
- Cho cái gì?
- Cho thuốc độc.
Monte Cristo nghe
với vẻ cực kỳ điềm tĩnh.
- Anh bạn thân mến,
Monte Cristo nói, tôi không thấy trong đó có vấn đề gây băn khoăn làm anh khó
ngủ.
- Vâng, dĩ nhiên,
nhưng thần chết lại hoành hành một lần nữa.
- Thế là sẽ đến
lượt cụ Noirtier hay cô thiếu nữ Valentine. Mà tôi bảo anh này: có gì là quan
trọng với tôi?
Vẻ đau khổ kinh
khủng hiện lên nét mặt Morrel, anh nắm lấy tay Monte Cristo.
- Nhưng tôi, Morrel
vừa kêu vừa rú lên đau đớn, tôi lại yêu cô ấy!
- Anh yêu ai? Monte Cristo thét.
- Tôi yêu đắm đuối cô Valentine de
Villefort mà lúc này đang bị người ta ám hại, ông hãy nghe cho rõ! Tôi yêu cô
và tôi xin thượng đế, xin ông cho biết tôi làm thế nào để cứu được cô ấy.
Monte Cristo thét
lên một tiếng man dại:
- Khổ quá! Anh vừa
thét lên vừa xoắn hai bàn tay vào nhau.
Morrel chưa từng
bao giờ nhìn thấy một biểu hiện tương tự như vậy.
- Nào nào, bá tước
nói tiếp, than thở như vậy đủ rồi, hãy xử sự như một người đàn ông, hãy cứng
rắn lên, hãy hy vọng tràn đầy, bởi vì có tôi ở đây, bởi vì tôi sẽ quan tâm theo
dõi đến anh. Maximilien, hãy yên tâm về nhà đi, tôi sẽ báo tin cho anh, đi đi.
Tôi cần ở một mình.
Trong khi đó
Villefort và d'Avrigny rất vội vàng. Lúc họ về, Valentine vẫn còn bất tỉnh, và
người thầy thuốc đã thăm khám cho bệnh nhân rất cẩn thận.
- Cháu còn sống
chứ?
- Vâng, thầy thuốc
nói, và tôi rất ngạc nhiên về điều đó.
Vừa lúc đó cái nhìn
của d'Avrigny bắt gặp ánh mắt cụ Noirtier; ánh mắt ấy lấp lánh một niềm vui hết
sức lạ thường làm cho người thầy thuốc phải kinh ngạc..Họ đưa Valentine đi, cô
đã hồi tỉnh. ông d'Avrigny đi theo người bệnh và ra lệnh cho Villefort phải
đích thân đến nhà dược sĩ.
Khi Villefort vừa
mới khép cửa lại, d'Avrigny lại gần cụ Noirtier.
- Nào, ông nói, cụ
có biết gì về bệnh tật của cháu gái cụ không?
- Có, cụ già ra
hiệu.
- Vậy cô ấy cũng sẽ
chết ư? d'Avrigny hỏi.
- Không. Cụ già trả
lời ngạo nghễ.
- Như vậy là cụ hy
vọng thuốc độc sẽ không có hiệu lực với Valentine?
- Phải.
Cụ Noirtier hướng
cặp mắt nhìn trừng trừng vào cái chai đựng thứ thuốc nước mà sáng nào người ta
cũng đem đến cho cụ.
- A! A! d'Avrigny
nói, được một ý tưởng bất chợt soi sáng, cụ có ý định phòng ngừa cho cô ấy
chống lại thuốc độc hay sao?
- Phải.
- Bằng cách cho
cháu cụ làm quen dần với nó?
- Phải, phải, phải,
cụ Noirtier ra hiệu, vui sướng vì được người ta hiểu mình.
- Và thực tế là cụ
đã đạt được điều đó! -d'Avrigny reo lên. Nếu không được đề phòng như vậy thì
hôm nay Valentine đã bị giết chết rồi.
Chấn động tuy nguy
kịch nhưng ít ra lần này Valentine cũng không chết.
Lúc đó Villefort về
mang theo các thứ thuốc mà thầy thuốc yêu cầu.
Vào lúc d'Avrigny
vào phòng Valentine thì một thầy tu người ý dáng đi nghiêm trang, giọng nói
điềm tĩnh và quả quyết, hỏi thuê căn nhà phụ của dinh thự de Villefort làm chỗ
ở. Người thuê nhà mới ấy là ngài Giacomo Busoni.
Ngay buổi sáng hôm
ấy vào hồi mười giờ, nam tước Danglars dạo bước trong phòng khách, đầy ưu tư và
rõ ràng là lo lắng. Eugénie Danglars vừa thức dậy đã đòi gặp mặt cha mình, điều
đó không khỏi làm nam tước phải ngạc nhiên.
Eugénie xuất hiện,
mặc một áo váy dài bằng satin đen có dệt hoa mờ cùng màu.
- Này Eugénie, có
chuyện gì vậy? Người cha hỏi.
- Cha hãy tự hỏi
tại sao con đòi được gặp cha lúc này, con xin nói cho cha rõ bằng vài lời thôi,
thưa cha, đó là: con không muốn lấy ông Andrea Cavalcanti.
Danglars nhảy bật
lên trên ghế bành và trong cơn choáng váng, hắn vừa ngước mắt vừa giơ tay lên
trời.
- Nhưng rốt cuộc là
vì lý do gì chứ, Eugénie?
- Lý do ư, cô thiếu
nữ đối đáp lại, ôi! Lạy Chúa! Tuyệt nhiên không phải là vì người đàn.ông này
xấu hơn, ngố hơn, hay khó chịu hơn người khác, không phải. Thực ra là vì con
không muốn dứt khoát yêu một ai. Vậy vì sao con lại làm cuộc đời con vướng víu
vì một bạn đời vĩnh viễn, khi không có gì là khẩn thiết. Con sẵn lòng sống hoàn
toàn đơn lẻ và do đấy mà hoàn toàn tự do.
- Con gái ta ơi, ta
có thể hiểu những tình cảm khiến con hành động như vậy. Bây giờ chính là cha
phải nói cho con rõ những động cơ nào làm cho một người cha như ta quyết định
gả chồng cho con.
- Hay quá! Eugénie
nói; chúng ta hãy nói thẳng, thưa cha, con thích thế.
- Cha đã trù liệu
cho con một tấm chồng, không phải vì con đâu, vì thực ra là ta chẳng hề nghĩ
đến con một chút nào trong lúc này, nhưng vì cha cần đến việc con lấy người
chồng ấy để thiết lập một số liên kết thương mại trong lúc này.
Eugénie phác một cử chỉ.
- Hẳn là con không biết rằng ta vừa bị
một vài thất bại trên thương trường và tình cảnh hãng của ta nếu không nhận
được nguồn đầu tư vốn sẽ cực kỳ nguy kịch. Nói cho rõ hơn là: nếu không có mối
quan hệ thông gia này, ta sẽ lụn bại.
- à ra thế! - Eugénie nói.
- Đúng, lụn bại! Bây giờ con gái ạ, nếu
ông Cavalcanti lấy con, ông ta sẽ mang đến cho con một tài sản là ba triệu đặt
ở nhà ngân hàng của ta.
- à! Quá tốt, Eugénie vừa nói với sự
khinh bỉ tột bậc vừa miết hai chiếc găng tay vào nhau.
- Và ta, với ba triệu ấy, chẳng hề động
đến chúng, ta cũng làm ra ít nhất mười triệu. Ta đã được nhận với một chủ nhà
băng, đồng nghiệp của ta, sự chuyển nhượng một con đường sắt là ngành công
nghiệp duy nhất trong thời đại, chúng ta mở ra những cơ may không thể tưởng
tượng nổi để thu được thành tựu tức thời. Ba triệu, tín nhiệm của ta sẽ được
củng cố, và tài sản của ta, từ một vài tháng nay cứ trôi tuột vào những vực
thẳm được đào khoét dưới mỗi bước chân ta do một tai ương không sao hiểu nổi,
sẽ được hồi phục lại. Con hiểu ta chứ?
- Hoàn toàn rõ. Nhưng trong khi đòi hỏi
chữ ký của con thì phải chăng là cha để tự do tuyệt đối cho cá nhân con?
- Tuyệt đối.
- Như vậy thì được lắm, thưa cha, con
sẵn sàng lấy ông Cavalcanti.
- Thế thì đến lượt ta, chính là ta nói
với con:
được lắm!
Ba ngày sau, lễ ký hôn ước đã thu hút
cả một cử tọa đông đúc sực nức nước hoa đến phòng khách lớn nhà Danglars, vào
tám giờ rưỡi tối..Cô Eugénie trang phục với sự giản dị tao nhã nhất: một chiếc
áo dài trắng dệt hoa trắng, một bông hồng bạch thấp thoáng trên mái tóc đen
huyền của cô, hợp thành toàn vẹn bộ đồ trang sức của cô mà chẳng cần thêu lấy
một món đồ trang sức nào dù là nhỏ nhất.
Cứ một lát lại thấy giữa cái đám hỗn
độn này, giữa những tiếng rì rầm, những tiếng cười, nổi lên tiếng người nhân
viên đón khách xướng lên một tên tuổi được biết tiếng trong giới tài chính,
được kính trọng trong quân đội hay lẫy lừng trong làng văn.
Đúng lúc chuông điểm chín giờ, bá tước
Monte Cristo xuất hiện, thu hút về phía mình mọi cái nhìn của cử tọa.
Lúc đó các ông công chứng bước vào. Mọi
người sửa soạn lễ tuyên đọc hôn ước. Ai nấy ngồi vào chỗ.
Hôn ước được đọc trong im lặng tuyệt
đối.
Nhưng vừa tuyên đọc xong, tiếng xì xào
lại bắt đầu nổi lên trong phòng khách còn tăng gấp bội so với lúc trước; những
món tiền huy hoàng ấy, những bạc triệu lăn trong tương lai đôi trẻ lanh canh
vang lên toàn bộ uy thế của chúng trong cái đám cử tọa ghen ăn tức ở này.
Andrea bị xiết chặt trong vòng vây bạn
bè, được chúc tụng, được nịnh bợ bắt đầu tin rằng giấc mơ của mình đang thành
hiện thực, Andrea sắp phát cuồng.
Công chứng viên trịnh trọng cầm bút và
nói:
- Thưa các ngài, sắp đến lúc ký hôn
ước.
Nam tước phải ký đầu tiên; hắn cầm bút
và ký. Bà nam tước vịn tay bà Villefort lại gần.
- Mình ạ, bà vừa nói vừa cầm lấy bút,
có phải là một việc khó chịu không? Một sự cố bất ngờ trong cái vụ ám sát và vụ
trộm mà bá tước suýt nữa thành nạn nhân khiến chúng ta không có được ông
Villefort tham dự.
- Lạy Chúa! Monte Cristo vừa nói vừa
lại gần, tôi rất ngại rằng mình là nguyên nhân không cố ý của sự vắng mặt này.
Các ngài có nhớ rằng, ông nói tiếp trong không khí im lặng như tờ, chính ở nhà
tôi mà con người khốn khổ đến ăn trộm của tôi bị chết vì hắn vừa ra khỏi nhà
tôi thì bị tên đồng lõa sát hại không?
- Có. Danglars nói.
- Để cấp cứu cho hắn người ta đã cởi
quần áo hắn. Cảnh sát đã thu thập quần áo của hắn, nhưng khi đem áo quần vào
giao cho phòng lục sự thì lại bỏ sót chiếc áo gilê.
Andrea tái mặt đi
trông thấy.
- Này, chiếc gilê
khốn khổ ấy hôm nay người ta tìm thấy nó thấm đầy máu và người hầu phòng của
tôi, khi lục soát cẩn thận cái di vật tang tóc ấy, đã thấy có tờ giấy trong túi
và rút ra: đó là.một lá thư gửi cho ai nhỉ? Cho ông đấy, nam tước ạ.
- Gửi cho tôi? -
Danglars kêu lên.
- ồ! Lạy Chúa!
Vâng, gửi cho ông đấy. Tên ông có thể đọc được dù vết máu đã làm hÂn ố mảnh
giấy, Monte Cristo trả lời. Tôi đã gửi tất cả cho ông biện lý hoàng gia. ông
hiểu đấy, ông nam tước thân mến, tiếng nói pháp luật là xác thực nhất trong
lĩnh vực tội phạm: có thể là mưu mô gì đó chống lại ông đấy.
- Có thể lắm,
Danglars nói; người bị ám sát ấy phải chăng là một cựu tù khổ sai?
- Phải, bá tước trả
lời, một cựu tù khổ sai tên là Caderousse.
Danglars hơi tái
mặt.
- Nhưng ký đi chứ,
ký đi chứ! Monte Cristo nói. Tôi thấy rằng câu chuyện của tôi làm tất cả mọi
người xôn xao náo động và tôi cúi xin các vị tha thứ cho.
- Thưa hoàng thân
Cavalcanti, ông công chứng nói, đến lượt ngài ký!
Andrea nắm lấy bút.
Nhưng cùng lúc ấy, đám đông người dự lễ ùa trở lại phòng khách, vẻ sợ hãi, cứ
như là một quái vật gớm ghiếc vừa lọt vào trong các phòng.
Trong khoảnh khắc,
Andrea bị hai người cảnh sát vây quanh và giải đi trong sự sững sờ của cử tọa.
- Nhưng mà chàng
trai này đã làm gì chứ?
Danglars hỏi gần
như thất thần.
- Hắn là một cựu tù
nhân khổ sai vượt khỏi nhà lao Toulon, viên cẩm nói bằng giọng thản nhiên. Hắn
can tội sát hại kẻ tên là Caderousse, người bạn cũ chung xiềng với hắn, vào lúc
tên này vừa ra khỏi nhà bá tước Monte Cristo.
Trong chốc lát, tòa
dinh thự rộng lớn trở nên rỗng không nhanh như là được báo tin có ai đó trong
số khách mời phát bệnh dịch hạch:
mọi người vội vã
rút lui hay đúng hơn là chạy trốn qua tất cả các cửa, tất cả các cầu thang, tất
cả các lối ra.
Chỉ còn sót lại
trong dinh thự của ông chủ ngân hàng có mỗi một mình Danglars, đang giam mình
trong phòng làm việc để viết tờ khai nhân chứng có sĩ quan cảnh binh giám sát.
Bà Danglars sợ run trong phòng khách riêng mà ta đã biết, còn Eugénie có cặp
mắt kiêu kỳ và đôi môi khinh mạn, đã rút lui về phòng riêng với người bạn gái
bất ly thân là cô Louise Armilly.
Về đến phòng,
Eugénie khóa trái cửa lại, trong khi đó Louise ngã xuống chiếc ghế tựa.
- Ôi! Lạy Chúa, lạy
Chúa tôi! Có ai mà ngờ được chuyện này? ông Andrea Cavalcanti lại là một tên
sát nhân, một kẻ vượt ngục... một tên tù khổ sai!
- Mọi người đàn ông
đều là những tên bỉ ổi và tôi khinh bỉ chúng. Eugénie nói..- Chúng ta biết làm
gì đây? - Louise hỏi.
- Điều ta phải làm
trong vòng ba ngày là: ra đi. Bạn có hộ chiếu của chúng ta đấy chứ?
- Chúng đây.
- Thật tuyệt vời!
Cậu kiếm được hộ chiếu này là nhờ ai thế?
- Nhân dịp đến hỏi
ông Monte Cristo về những lá thư gửi cho các giám đốc nhà hát ở Rome và ở
Naples, ông ta nhận kiếm giúp tôi hộ chiếu.
- Như vậy thì,
Eugénie vui vẻ nói, ta chỉ còn việc sửa soạn hòm xiểng nữa mà thôi.
Rồi hai cô thiếu nữ
bắt đầu hăng hái lạ thường chất vào một chiếc hòm mọi thứ đồ dùng du lịch mà họ
cho là cần thiết.
- Đấy, Eugénie nói,
bây giờ thì lên đường sang Italia.
Thế rồi sau khi tắt
đèn, hai kẻ chạy trốn rời dinh thự bằng cầu thang phụ.
Ông Danglars mất
đứt cô con gái.
Trong khi cả Paris
bị náo động vì những sự kiện này thì Valentine từ từ hồi phục. Rã rời vì mệt,
cô nằm bẹp trên giường.
Buổi tối cái hôm
Valentine biết tin Eugénie bỏ trốn và Benedetto bị bắt, vào lúc mà cô bắt đầu
thiu thiu ngủ, một cảnh tượng bất ngờ diễn ra trong căn phòng đóng khóa rất cẩn
thận này.
Người trông nom cô
đã lui ra được gần mười phút.
Bất chợt, dưới ánh
phản quang yếu ớt của chiếc đèn ngủ, Valentine tưởng nhìn thấy cái giá sách của
cô kê cạnh lò sưởi trong một hốc lõm vào tường tự nhiên mở ra từ từ giống như
nó quay trên những chiếc bản lề không phát ra một tiếng động nhỏ nào.
Sau cửa ló ra một
mặt người.
- Ngài bá tước
Monte Cristo! - Cô thì thào.
- Xin đừng sợ, ông
nói. Tôi che chở cho cô, tôi gìn giữ cô cho anh bạn Maximilien của chúng ta. Từ
bốn đêm nay tôi không chợp mắt để canh chừng cho cô. Từ bốn đêm nay tôi nhìn
thấy thuốc độc chết người rót vào cốc của cô mà chỉ lo cô có đủ thì giờ uống nó
mất trước khi tôi kịp đổ nó vào lò sưởi.
- Thưa ông, cô nói
tiếp lòng đầy sợ hãi đến tột cùng, ông nói rằng đã nhìn thấy người ta rót thuốc
độc giết người vào cốc của tôi? Nhưng nếu ông đã thấy thuốc độc được rót vào
cốc, hẳn là ông phải thấy người làm việc đó? Đó là ai thế?
- Cô sắp biết kẻ
đó, Monte Cristo nói, tối nay cô không sốt cũng không mê sảng. Hãy tập trung
toàn lực, hãy giả vờ ngủ, và cô sẽ thấy, cô sẽ thấy!
Valentine nắm lấy
tay bá tước.
- Hình như tôi nghe
có tiếng động, cô nói, ông lui ra đi!.Valentine còn lại một mình, vài phút sau,
hình như cô nghe thấy cót két tiếng ván sàn. Cô lắng tai nghe, cố nén đến gần
nghẹt thở, tay nắm của ổ khóa rít lên và cánh cửa mở ra.
Valentine thu hết
sức lực và cố tạo ra tiếng thở đều đặn khe khẽ biểu lộ một giấc ngủ êm đềm.
Rồi, Valentine nghe
thấy tiếng động gần như không nghe rõ được của một thứ nước rót vào trong cốc
nước mà cô vừa dốc cạn.
Thế rồi cô liền hé
cặp mi được cánh tay dang ra che chắn.
Cô thấy một người
đàn bà mặc chiếc áo choàng trắng đang rót vào cốc của cô một thứ nước chế sẵn
đựng trong chiếc lọ thủy tinh. Đó là bà de Villefort.
Nhận ra người mẹ
kế, Valentine thốt rùng mình, khó khăn lắm mới gọi là kìm được.
Bà de Villefort đã dốc hết nước trong
lọ vào cốc của Valentine. Rồi mụ lui ra mà không một tiếng động nhỏ nào có thể
báo cho Valentine biết mụ đã đi rồi.
Cánh cửa vẫn cứ im lìm, lại quay một
lần nữa trên các bản lề và bá tước Monte Cristo bước vào.
- Như vậy thì cô không còn nghi ngờ gì
nữa chứ? Cô đã nhận ra chưa? - Bá tước hỏi.
Valentine thốt ra một tiếng rên.
- Vâng, cô nói, nhưng tôi không sao tin
được điều đó. Tại sao bà ta đeo đuổi tôi như vậy?
- Tại cô giàu có, Valentine ạ; cô có
hai trăm ngàn frăng thu nhập và với hai trăm ngàn frăng ấy, cô đã lấy mất phần
của con trai mụ.
- Sao lại thế? Tài sản của tôi không
phải của bà ấy mà do ông bà tôi để lại.
- Dĩ nhiên, và đó là lý do tại sao ông
và bà de Saint-Méran đều mất cả, đó là để cho cô được thừa kế các cụ. Đó cũng
lại là lý do để đến lượt cô phải chết Valentine ạ; làm thế là nhằm cho cha cô
thừa kế của cô và nhằm để cho em trai cô, trở thành con một, được thừa kế của
cha cô.
- ồ! Thưa ông tôi rõ rồi, nếu chuyện là
như thế, thì tôi buộc phải chết.
- Không, Valentine, cô sẽ sống,
Valentine ạ, nhưng để sống được, thì cô phải hết sức tin tưởng ở tôi.
- ông ra lệnh cho tôi đi, thưa ông, tôi
phải làm gì?
- Phải nhắm mắt mà uống những gì tôi
đưa cho cô.
Lúc đó bá tước lấy một viên thuốc tròn
to độ bằng hạt đậu trong một cái hộp đựng kẹo bằng ngọc lục bảo và đưa cho
Valentine, cô nuốt ngay.
- Và bây giờ tạm biệt con ta, ông nói,
ta đi ngủ đây vì cô đã được cứu thoát. Monte Cristo nhìn đăm đăm một lúc lâu cô
thiếu nữ đang dần dần ngủ thiếp đi, vì khuất phục trước sức mạnh của loại thuốc
ngủ mà bá tước vừa cho cô uống rồi quay lại cái cửa giá sách và mất hút.
Lúc đó cửa phòng lại mở ra và bà de
Villefort bước vào để xem hiệu quả của thuốc độc.
Mụ cầm lấy chiếc cốc đem đi đổ vào tro,
trộn đều cho chất nước dễ ngấm rồi cọ rửa chiếc cốc pha lê thật kỹ, lau khô
bằng chính cái khăn tay của mụ rồi đặt nó vào chỗ cũ trên chiếc bàn đầu giường.
Cuối cùng mụ nhìn Valentine.
Cô gái không còn thở nữa, hai hàm răng
hơi hé mở không còn để lọt ra một tí hơi thở nào để tỏ ra còn sống. Đối với bà
de Villefort thì chẳng còn phải nghi ngờ gì: tất cả đã xong xuôi.
Trời còn tối chừng hai giờ nữa. Rồi dần
dần một thứ ánh sáng ban ngày nhợt nhạt tràn khắp căn hộ; đó là lúc người coi
bệnh nhân vào phòng Valentine, tay cầm một cái chén.
Lập tức chị ta nhận thấy đôi môi lạnh
ngắt và bộ ngực giá băng ấy. Chị ta thét lên một tiếng rùng rợn. Rồi chạy ra
cửa:
- Cấp cứu! Cấp cứu! Chị ta kêu.
Những tiếng kêu đến tai Villefort và
bác sĩ d'Avrigny đang thăm bệnh thường nhật cho cụ Noirtier. Họ lao vào phòng.
- Con tôi làm sao thế, Chúa ơi! -
Villefort vừa kêu vừa giơ hai tay lên trời. Bác sĩ!... Bác sĩ!...
- Valentine đã chết! - d'Avrigny trả
lời với một giọng trang nghiêm và khủng khiếp.
Ông de Villefort gục xuống như chân bị
gãy và ngã đập đầu vào giường Valentine.
Lúc đó bà de Villefort xuất hiện ở
ngưỡng cửa, với vẻ dò hỏi và cố rặn ra vài giọt nước mắt khó bảo.
Bất thình lình mụ ta bước lên hay đúng
hơn là nhảy lên phía trước: mụ vừa thấy d'Avrigny tò mò cúi nhìn chiếc bàn, và
cấm lấy cái cốc mà mụ chắc chắn đã đổ hết đi lúc đêm.
Cái cốc đầy đến một phần ba, đúng như
lúc nó được đem đổ đi. Cũng vẫn là một thứ thuốc nước ấy.
- A! ông lẩm bẩm, giờ đây không phải
tinh chất mã tiền nữa.
Bà de Villefort choáng váng mất một
lát, cặp mắt nảy lửa, rồi tắt lịm, mụ lảo đảo giơ tay loạng choạng tìm cánh cửa
rồi bỏ đi.
Mặt viên biện lý hoàng gia tái mét,
những vệt rộng màu gỉ sắt vạch ngang trán hắn.
- Thưa ông, hắn nói với bác sĩ bằng một
giọng tắc nghẹn, tôi đã hiểu, tôi biết hung thủ và tôi khao khát trả thù cũng
như ông. Tôi yêu.cầu ông đừng nói lộ ra trong ba ngày nữa. Và trong ba ngày
cuộc trả thù cho cái chết của con tôi sẽ làm rung động đến tận đáy con tim của
cả những người vô tình nhất.
Vừa nói những lời này, hắn vừa nghiến
răng kèn kẹt.
D'Avrigny ngoảnh đi và thì thào một
tiếng vâng thật khẽ.
- Tìm thầy tu, Villefort nói, đến mời
người gần nhất.
- Người gần nhất, thầy thuốc nói, là
một tu sĩ nhân hậu người ý vừa đến ở ngôi nhà cạnh đây. ông có vui lòng để tôi
báo trước cho ông ta lúc đi ngang qua không?
D'Avrigny quay lại đưa theo nhà tu
hành, dẫn ông ta vào tận phòng Valentine.
Tu sĩ bắt đầu cầu
kinh và chắc hẳn là để tránh bị quấy rầy trong khi cầu nguyện, lúc ông
d'Avrigny vừa ra khỏi phòng ông liền đi đóng không những các chốt cửa nơi bác
sĩ vừa đi ra mà còn cài then cả cửa thông sang phòng bà de Villefort.
BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 19: Villefort
Hôm sau trời sáng
muộn và đầy mây.
Đám tang Valentine
cử hành vào hồi mười một giờ và trước khi diễn ra cái nghi lễ tang tóc này, bá
tước Monte Cristo đến dinh thự Dan-glars.
Ông chủ nhà băng
đến trước mặt anh vẻ mặt rầu rầu, nhưng nhã nhặn.
- ông cho phép chứ?
Hắn nói. Lúc ông vào tôi đang làm dở năm chi phiếu; ông có vui lòng cho phép
tôi được làm nốt không?
- Cứ làm đi, nam
tước thân mến, cứ làm đi!
Một quãng im lặng,
thậm chí nghe thấy cả tiếng ngòi bút sột soạt của ông chủ ngân hàng.
- Này, thưa bá
tước, hắn nói tiếp, ông là người làm chúa tể ngành tài chính, ông đã từng thấy
nhiều mảnh giấy cỡ như thế này mà mệnh giá đến một triệu hay không?.Monte
Cristo cầm lên tay, như để cân nhắc nặng nhẹ, năm mảnh giấy mà Danglars hãnh
diện kh với anh, và đọc:
"Xin ông Quản
đốc ngân hàng vui lòng chi theo lệnh tôi, tính từ số vốn tôi gửi giữ, số tiền
là một triệu bằng tiền mặt. Nam tước Danglars." - Năm triệu! Monte Cristo
nói, ái chà! ông mạnh tay thật, thưa nam tước.
- Tôi đây, tôi tiến
hành kinh doanh như thế đấy. Danglars nói.
- Quả thật, Monte
Cristo vừa nói vừa gấp năm tờ chi phiếu, thật là vừa khéo: tín dụng của tôi ở
chỗ ông là sáu triệu, tôi đã lấy một triệu, vậy là ông còn thiếu tôi năm triệu.
Tôi lấy năm mảnh giấy này làm trái phiếu mà chỉ cần thấy chữ ký của ông thôi,
và đây là biên lai chung cho cả sáu triệu để hợp thức bản kết toán của chúng
ta.
Rồi một tay nhét
năm tờ chi phiếu vào túi còn tay kia anh chìa biên lai cho chủ ngân hàng.
Hắn bị đè bẹp bởi
một nỗi sợ hãi còn ghê gớm hơn cả sét đánh xuống chân hắn.
- Sao! Hắn ấp úng,
thưa bá tước, ông lấy số tiền này? Nhưng đó là tiền mà tôi phải trả cho nhà tế
bần chiều nay.
- A! Monte Cristo
nói, thế thì lại khác. Tôi chẳng thiết lấy đúng năm chi phiếu này, nhưng hãy
trả cho tôi bằng những trị giá khác; chẳng qua là vì hiếu kỳ mà tôi cầm những
tờ phiếu này thôi để rồi có thể tuyên bố khắp thiên hạ rằng hãng Danglars chẳng
yêu cầu tôi hoãn cho năm phút mà đã chi trả cho tôi năm triệu tiền mặt!
Cái đó mới thật đáng
nể!
- Xin miễn thứ,
thưa bá tước, Danglars bị chọc tức bèn xin lỗi. ông cứ lấy những chi phiếu ấy
đi, tôi sẽ ký những chi phiếu khác.
- Tôi miễn thứ cho
ông, Monte Cristo trả lời, và tôi xin nhận.
Ông bỏ các chi
phiếu vào ví rồi thong thả bước ra cửa, lên xe và ra lệnh lập tức đến ngân
hàng.
Còn lại một mình,
nam tước Danglars đóng cửa quay hai vòng chìa khóa, dốc hết mọi ngăn két, thu
thập được độ năm chục ngàn frăng tiền giấy, đốt một số giấy tờ, bày các giấy tờ
khác ở nơi nhìn rõ, và bắt đầu viết một lá thư. Lá thư này gửi cho bà Danglars,
được viết như sau:
"Khi bà nhận
được lá thư này, tôi đang trên đường đi khỏi nước Pháp.
Tôi có nghĩa vụ
giải thích cho bà, vậy hãy nghe đây:
Sáng nay bỗng nhiên
phải chi trả năm triệu tôi đã thanh toán xong, lại tiếp đến một khoản nữa cùng
số tiền đó phải trả chiều nay; tôi không thể đảm trách nổi việc đó. Vì vậy, tôi
ra đi để tránh phải chịu đựng những điều quá ư rầy rà..Người chồng rất tận tụy
của bà. Nam tước Danglars." Hắn đóng dấu vào lá thư và đem đặt vào phòng
vợ hắn. Rồi hắn kiểm tra lại hộ chiếu của mình xem có còn giá trị không.
Thời tiết u ám và
đầy mây, lại thêm một làn gió ấm nữa nhưng đã làm khô héo những chiếc lá úa
vàng, bứt chúng ra khỏi cành đang trơ trụi dần, làm cho chúng quay cuồng trên
đám đông đang tràn ngập khắp phố phường.
Đám tang từ từ đi
về phía nghĩa địa Père Lachaise. Hơn năm chục chiếc xe sang trọng theo sau hai
chục xe có băng tang và, sau năm chục xe sang trọng ấy lại còn trên năm trăm
người.
Ra khỏi Paris thì
thấy một cỗ xe phóng nhanh tới, bốn con ngựa kéo xe đột ngột dừng lại nhờ căng
cứng các khuỷu vó gân guốc như những lò so thép: đó là ông Monte Cristo. Bá
tước từ trên xe bước xuống đi lẫn vào đám đông đang chậm bước theo xe chỗ linh
cữu.
Château-Renaud nhìn thấy ông. Anh ta
cũng lập tức xuống xe đi bộ để gặp bá tước.
Beauchamp cũng rời khỏi chiếc xe độc mã
đang ngồi.
- Morrel đâu? - Bá tước hỏi.
- Chúng tôi thấy anh ta ở đàng kia.
Đúng thế, Morrel đứng ở đàng xa, dưới
bóng cây. Vẻ điềm tĩnh và sự bất động của anh tạo ra một cảnh tượng đáng sợ cho
kẻ nào đọc được những gì đang diễn ra trong lòng chàng sĩ quan trẻ. Rồi cuối
cùng anh cũng hồi phục được và trở lại con đường về Paris mà không ngoái cổ lại
lấy một lần.
Bá tước cho xe đậu ở Père Lachaise,
quay về, rồi đi theo sau anh ta cách một trăm bước. Maxi-milien vượt qua kênh
và quay về phố Meslay qua các con phố lớn.
Năm phút sau khi cánh cửa khép lại sau
lưng Morrel, thì cửa lại mở ra cho Monte Cristo.
Julie đang ở lối ra vườn.
- A! ông bá tước! -
Cô reo lên.
- Xin lỗi, thưa bà,
tôi phải lên phòng Maxi-milien ngay lập tức; tôi có vài điều cực kỳ quan trọng,
cần nói với anh ta.
- Vậy ông đi đi, cô
nói và tiễn ông bằng nụ cười khả ái.
Monte Crixto mau
chóng vượt qua hai tầng gác ngăn cách tầng trệt với căn hộ của Maxi-milien, vừa
lên đến thềm ông đã gọi anh ta.
Maximilien vừa miễn
cưỡng mở cửa vừa cố che giấu việc mình đang làm. Nhưng bá tước ra sức hối thúc
anh đến mức anh buộc phải để bá tước lách vào..- Anh đang làm cái trò gì với
những khẩu súng lục để trên bàn vậy? Morrel, anh muốn tự sát à!
- Vâng, Morrel kêu
lên, khi chuyện ấy xảy ra, khi tôi quyết định tự sát thì ai cản được tôi nào?
- Tôi, Morrel ạ,
Monte Crixto nói với giọng điềm tĩnh tương phản đến kỳ lạ với vẻ kích động của
chàng trai. Phải, tôi, tôi sẽ có cái can đảm ấy.
- ông! Morrel thét
lên với thái độ mỗi lúc một thêm tức giận và trách móc, ông là người đã lừa tôi
bằng một hy vọng phi lý; ông là người đã kiềm chế tôi, vỗ về, ru ngủ tôi bằng
những lời hứa hão huyền, ông đã đóng vai hay giả bộ đóng vai Thượng đế mà lại
không thể cho được thuốc giải độc cho một thiếu nữ bị đầu độc!
Monte Crixto nhột
nhạt như một hồn ma, nhưng cặp mắt lấp loáng ánh chớp, đặt tay lên những khẩu
súng:
- Và tôi nhắc lại
rằng anh không được tự sát!
- Nhưng rốt cuộc
ông là cái thá gì mà lại dám khoác cho mình cái quyền của bạo chúa đối với
những con người tự do và có suy nghĩ! -Maximilien kêu lên.
- Tôi là ai ư? Monte Crixto nhắc lại.
Nghe đây: tôi là người độc nhất trên đời này có quyền bảo anh rằng: Morrel, tôi
không muốn để người con của cha anh phải chết hôm nay!
- Vì sao ông lại nhắc đến cha tôi? -
Morrel ấp úng hỏi.
- Bởi vì ta là người đã từng cứu sống
cha cháu vào ngày mà ông muốn tự sát giống như cháu muốn tự sát hôm nay; vì ta
là người đã gửi cái túi cho em gái cháu; vì ta là Edmond Dantès, là người đã
bồng bế cháu trong lòng cho cháu đùa nghịch khi cháu còn bé!
Morrel lùi lại một bước nữa, loạng
choạng, ngột ngạt, thở dốc, rã rời; rồi mất hết sức lực anh thét lên một tiếng
ngã sụp xuống chân Monte Cristo.
- Nào, bá tước vừa nói vừa đặt một ngón
tay lên vai anh. Cháu hãy trở lại làm một người đàn ông chứ, Maximilien?
- Bá tước ơi, với Valentine, tôi có một
hạnh phúc vô bờ và thiếu cô, tôi chỉ còn nỗi tuyệt vọng và sự sầu khổ trên trái
đất này.
- Ta đã bảo cháu là phải hy vọng mà,
Morrel - bá tước nhắc lại.
- ông vẫn cứ bảo tôi hy vọng sao? ông
muốn làm tôi tin rằng tôi có thể gặp lại Valentine?
- Ta bảo cháu phải hy vọng, vì ta biết
cách làm cháu hồi phục. Ta không biết rằng cháu có nghĩ đến điều đó không, nhưng
ngày hôm nay là.một ngày thiêng liêng, Maximilien: hôm nay là ngày 5 tháng
chín. Cách đây mười năm ta đã cứu cha cháu lúc ông đang muốn tự sát. Hẹn một
tháng nữa, đúng từng ngày cháu sẽ có trên bàn chúng ta đang ngồi cùng nhau
trước cái bàn ấy đây, những vũ khí tốt và một cái chết êm dịu; nhưng đổi lại,
cháu hứa với ta rằng cháu phải sống và phải đợi đến lúc đó chứ?
- Tôi xin thề với ông như vậy.
- Được lắm. Cháu hãy sẵn sàng để ngày
mai chúng ta đi du lịch.
- Chúng ta sẽ đi đâu thưa ông? Morrel
hỏi.
- Đầu tiên đến Marseille. Rồi ta sẽ từ
biệt cháu vài ngày để đi Rome.
- Tôi sẽ đến nơi mà ông thích đưa tôi
đến, Morrel nói với một nụ cười buồn; tôi thuộc về ông trong một tháng nữa.
Trong sân nhà tù La Conciergerie là nơi
giam giữ những người tù nguy hiểm nhất, có một người trẻ tuổi đang đi dạo, tay
đút túi, được các bạn tù soi mói thóc mách nhiều. Đó là Andrea hay đúng hơn là
Benedetto.
Bỗng nhiên có tiếng gọi ở ô cửa xép.
- Benedetto, một
thanh tra gọi. Ra phòng tiếp khách.
Sau tấm song sắt
của phòng tiếp thân nhân nơi Andrea được dẫn tới, hắn thấy bộ mặt rầu rĩ nhưng
thông minh của ông Bertuccio cũng đang nhìn với vẻ kinh ngạc xót xa những song
sắt, những cửa chốt chặt và những bóng người cử động sau cái chấn song.
- Chào Benedetto, -
Bertuccio nói.
- ông, ông à, người
trẻ tuổi vừa nói vừa nhìn quanh với vẻ sợ hãi. Ai bảo ông đến?
- Chẳng ai cả?
- ông, con người
trung hậu, ông là nghĩa phụ của tôi... Nhưng tất cả những gì người ta đã làm
cho tôi, nào là tìm cho tôi một người ý để nhận làm cha, nào là dẫn dắt tôi vào
xã hội thượng lưu Paris, nào cho tôi tiền, thì tôi ngờ rằng không phải ông đã
làm những điều ấy. Nào, nói đi... Tôi muốn biết ai là người cha thật sự của
tôi!
- Ta đến để nói với
anh điều đó. - Bertuccio bình tĩnh nói.
- A! - Benedetto
reo lên, mắt long lanh mừng rỡ.
Đúng lúc đó cánh
cửa mở ra, người gác ô cửa xép nói với Bertuccio:
- Xin lỗi ông, ông
dự thẩm đang đợi tù nhân.
- Vậy thì ta sẽ
quay lại vào ngày mai. - Ber-tuccio nói..- Được! Andrea nói. Thưa các ông cảnh
binh, tôi xin tùy các ông chỉ bảo...à! ông thân mến, xin ông hãy để lại một
chục ê quy ở phòng lục sự để người ta đưa vào cho tôi các thứ cần dùng.
- Được rồi,
Bertuccio đáp. Hẹn ngày mai!
Phiên tòa đại hình
đầu tiên mở vào ngày thứ hai đầu tuần. Villefort thấy mặt trời ngày hôm ấy ló
lên nhột nhạt, thê thảm. Cả đêm hắn không ngủ được.
Ngày hôm nay, hắn
gượng nói với người nào sắp nắm lấy thanh gươm của thần công lý, phải trừng
phạt bất kỳ kẻ nào phạm tội dù nó ở đâu.
Và Villefort, hồ sơ
cắp nách, mũ cầm tay, đi về phía căn hộ của vợ hắn. Đến cửa, hắn dừng lại một
lát, lấy khăn tay lau vầng trán tái mét ướt đẫm mồ hôi. Rồi hắn đẩy cửa.
- A! ông đấy à, mụ
nói tự nhiên và bình thản, lạy chúa! Sao ông xanh xao thế, thưa ông!
Vậy ra ông vẫn cứ
làm việc suốt đêm ư? Tại sao ông không đến ăn sáng với chúng tôi?
Ông de Villefort bước ra cửa, chốt lại.
- Ôi lạy chúa! Người đàn bà vừa nói vừa
soi mói nhìn chồng mình thấu tận tâm can, vừa hé nở một nụ cười, nhưng bị vẻ
thản nhiên của Villefort làm đông cứng lại ngay, có chuyện gì vậy?
- Thưa bà, thuốc độc bà thường dùng bà
để ở đâu? Viên quan tòa đứng chắn giữa vợ hắn và cái cửa, nói rành mạch chẳng
mào đầu.
- Ôi! Thưa ông, bà de Villefort vừa nói
vừa chắp hai tay lại, ông nói gì thế?
- Tôi hỏi bà, Villefort nói tiếp với
giọng hoàn toàn điềm tĩnh, bà giấu thứ thuốc độc mà bà đã dùng để giết bố tôi
là ông de Saint-Méran, mẹ tôi là bà de Saint-Méran và con gái tôi Valentine ở
đâu?
Bà de Villefort rùng mình.
- Bà không trả lời sao, thưa bà! Sao bà
hèn nhát thế, bà là người đã có cái can đảm gớm ghê dám nhìn hai cụ già và một
thiếu nữ bị bà sát hại thở hơi cuối cùng trước mặt mình cơ mà?
Bà de Villefort xoắn hai bàn tay vào
nhau và ngã khuỵu gối xuống.
- Giá treo cổ đang đợi mụ đấy.
Bà de Villefort thét lên một tiếng man
rợ, vẻ kinh hãi gớm ghiếc không chế ngự nổi bộc lộ ra ở nét mặt bị biến dạng
của mụ.
- ồ! Đừng sợ giá treo cổ, thưa bà, viên
quan tòa nói, tôi không muốn làm mất danh dự của bà vì như thế là làm mất danh
dự của chính tôi.
- ông muốn nói gì vậy? Mụ đàn bà khốn
nạn ấp úng, rụng rời kinh ngạc..- Điều tôi muốn là công lý phải được thi hành.
Phải chăng bà còn giữ lại vài giọt chất thuốc độc êm dịu nhất, nhạy bén nhất và
chắc chắn nhất ấy?
- ồ! Xin tha thứ cho tôi, thưa ông, hãy
để cho tôi sống!
Bà de Villefort ngã sụp xuống chân
chồng.
Villefort đến gần mụ vợ:
- Hãy suy nghĩ điều đó đi, nếu tôi quay
lại mà công lý chưa được thi hành, tôi sẽ đích thân tố giác bà và tôi sẽ tự tay
bắt giữ bà.
Mụ nghe, thở hổn hển, rũ rượi, bại
hoại, chỉ riêng cặp mắt của mụ còn linh hoạt và ấp ủ một ngọn lửa khủng khiếp.
- Bà nghe tôi nói đây, Villefort nói
tiếp, tôi đến đàng kia để đòi xử tử hình một tên sát nhân...
Nếu lúc về tôi thấy bà còn sống thì tối
nay bà sẽ ngủ trong nhà tù.
Bà de Villefort thở dài, thần kinh của
mụ giãn ra, mụ quỵ xuống rã rượi trên tấm thảm.
- Vĩnh biệt bà, hắn nói thong thả, vĩnh
biệt!
Tiếng vĩnh biệt này giáng xuống như
lưỡi dao đao phủ giáng xuống bà de Villefort. Mụ ngất đi.
Viên biện lý hoàng gia đi ra, và khi
rời căn phòng, hắn khóa cửa lại bằng hai vòng chìa khóa.
Vụ án Benedetto, như người ta gọi ở tòa
và ở ngoài đời, đã gây ra kích động to lớn. Ai cũng muốn đến dự phiên tòa đại
hình. Ngay từ bảy giờ sáng người ta đã xếp hàng dài ở cửa sắt, và một tiếng
đồng hồ trước phiên tòa, gian phòng đã chật cứng những người có thế lực.
- Khai mạc phiên tòa, thưa các ngài.
Các quan tòa vào phòng xử án giữa bầu
không khí im lặng như tờ; các vị hội thẩm ngồi vào chỗ; ông de Villefort, đối
tượng được cử tọa chú ý, ngồi vào ghế bành của mình, đưa mắt bình thản nhìn
khắp xung quanh.
- Cảnh binh! ông chánh án nói, đưa bị
can vào.
Ông chánh án yêu cầu đọc bản buộc tội
đã được ngòi bút rất khôn ngoan và rất khe khắt của Villefort thảo ra.
Có lẽ chưa bao giờ Villefort viết được
xúc tích đến thế, hùng hồn đến thế; tội ác được phơi bày ra dưới những sắc màu
gay gắt nhất, tiền sử của bị can, sự thay hình đổi dạng của hắn, mối dây liên
hệ giữa các hành vi phạm tội kể từ khi tuổi còn khá nhỏ dại đều được trình bày
tỉ mỉ thật tài tình.
Cuối cùng bản luận tội kết thúc.
- Bị can, họ tên
anh là gì?
- Tôi sẽ trả lời
câu hỏi này, nhưng muộn một chút..Tiếng xì xào ngạc nhiên nổi lên khắp gian
phòng.
- Bao nhiêu tuổi?
Có cho biết được không?
- Tôi hai mươi mốt
tuổi, hay đúng hơn là phải vài ngày nữa tôi mới đến tuổi ấy, vì tôi được sinh
ra vào đêm 27 rạng ngày 28 tháng chín 1817.
Ông de Villefort
đang mải ghi chép, nghe thấy ngày tháng ấy bỗng ngẩng đầu lên .
- Anh sinh ra ở
đâu? ông chánh án hỏi tiếp.
- ở Auteuil, gần
Paris. - Benedetto trả lời.
Ông de Villefort
lại ngẩng đầu lần thứ hai, nhìn Benedetto và tái nhợt đi.
- Bây giờ anh khai
họ tên anh đi.
- Tôi không thể
khai tên họ tôi vì tôi không biết; nhưng tôi biết họ tên cha tôi và tôi có thể
khai với ông.
Một cơn choáng váng
đau xót làm tối sầm mắt Villefort.
- Vậy thì khai tên
họ cha anh, ông chánh án nói tiếp.
Không một làn gió
nào, không một hơi thở nào khuấy động bầu không khí im phăng phắc của cái cử
tọa đông đảo này: tất cả mọi người chờ đợi.
- Cha tôi là biện
lý hoàng gia, Andrea bình tĩnh trả lời, và vì ông muốn biết họ tên ông ấy, tôi
xin khai: cha tôi là de Villefort!
Vụ nổ được nén lại
quá lâu nay bùng ra, như một tiếng sét, từ đáy mọi lồng ngực. Giữa tiếng ồn ào
ấy, thấy vang lên tiếng thét của ông chánh án:
- Anh đùa bỡn với
tòa hả, bị can?
Yên tĩnh trở lại
trong phòng, tuy nhiên trừ một chỗ có một nhóm khá đông người đang xôn xao thì
thầm.
Người ta bảo có một
bà vừa ngất.
- Thưa các ngài,
Andrea nói tiếp, cử chỉ và giọng nói của hắn khiến cử tọa phải im lặng, tôi có
nghĩa vụ đưa ra trước các vị chứng cứ và giải thích các lời nói của tôi. Tôi sinh ra
trên gác một, căn nhà số 28, phố La Fontaine. Cha tôi bế tôi trên tay và bảo mẹ
tôi rằng tôi đã chết, ông giấu tôi vào một cái tã có đánh dấu bằng một chữ H và
một chữ N rồi đem tôi ra vườn và chôn sống tôi ở đó.
Đúng lúc đó trong phòng xử án, một
tiếng thét lanh lảnh kế đến tiếng nức nở vang lên giữa đám đông, như chúng tôi
đã nói, một người đàn bà đang bị một cơn kích động thần kinh dữ dội và được đưa
ra khỏi phòng xử án; trong khi mọi người đem bà ta đi, thì tấm mạng dày che mặt
bà bị hé mở và người ta nhận ra bà Danglars..- Các chứng cớ! Các chứng cớ! ông
chánh án nói; bị can, anh nên nhớ rằng các mớ những điều huyên thuyên ghê tởm
này cần phải dựa vào những chứng cớ hiển nhiên nhất.
- Như vậy thì, Benedetto vừa nói vừa
cười, xin hãy nhìn ông de Villefort và ông còn đòi hỏi ở tôi những chứng cớ nữa
hay thôi.
Mọi người quay về phía ông biện lý
hoàng gia. ông này dưới sức nặng của hàng ngàn cái nhìn dán chặt vào mình đang
bước vào giữa tòa án, lảo đảo, tóc rối bù. Toàn thể cử tọa phát ra một tiếng xì
xào dài kinh ngạc.
- Người ta đòi hỏi tôi phải có chứng
cớ; thưa cha, Benedetto nói, cha có vui lòng để tôi đưa ra không?
- Không, không, ông de Villefort ấp úng
bằng một giọng tắc nghẹn; không, điều đó vô ích.
- Thế nào, vô ích à? ông chánh án thét,
ông muốn nói gì vậy?
- Tôi muốn nói rằng, viên biện lý hoàng
gia kêu lên, không có chứng cớ; chẳng cần phải có chứng cớ; tất cả những điều
chàng trai này vừa nói là có thật!
Một không khí im lặng ảo não và nặng nề
như bầu không khí trước lúc xảy ra những tai biến của thiên nhiên bao lấy tất
cả những người dự phiên tòa tóc tai đang dựng ngược, trong lớp vỏ bọc nặng như
chì của nó. Trong cái im lặng ấy, Villefort loạng choạng bước ra cửa mà người
nhân viên phục vụ vừa mở ra cho hắn bằng một động tác máy móc, và đi khuất.
Trong xe, Villefort nghĩ đến vợ hắn.
Người vợ ấy hắn vừa mới xét xử khắc nghiệt, hắn vừa mới xử tử mụ ta. Một giờ
đồng hồ đã trôi qua từ lúc hắn kết án mụ.
- Nhanh lên! Nhanh nữa lên! Villefort
hét bằng một giọng làm cho người đánh xe nhảy bật lên trên ghế ngồi của mình.
Những con ngựa bị nỗi sợ kích thích,
phóng như bay về tận nhà.
- Phải, phải, Villefort lặp đi lặp lại
trong lúc gần đến nhà mình, phải, mụ đàn bà này phải sống, phải để cho mụ ăn
năn hối lỗi và để mụ nuôi dạy con trai mình.
Hắn vào phòng khách nhỏ.
- Không có ai, hắn lẩm bẩm, chắc hẳn mụ
ở trong phòng ngủ.
Hắn lao về phía cửa. ở đó, then đã cài.
Hắn dừng lại, run rẩy. Hắn gọi:
- Héloise!.- Ai đấy? Người vừa được gọi
cất tiếng hỏi.
Hắn thấy hình như giọng nói này yếu hơn
bình thường.
- Mở ra! Mở cửa! Villefort thét, tôi
đây.
Nhưng dù có lệnh này, dù cho cái lệnh
ấy phát ra bằng một giọng lo âu, cửa vẫn không được mở.
Villefort dùng chân đạp mạnh cánh cửa.
ở lối vào căn phòng dẫn thẳng vào phòng khách nhỏ, hắn thấy bà de Villefort
đang đứng, xanh xao, nét mặt rúm ró và nhìn hắn với cặp mắt trừng trừng đáng
sợ.
- Héloise! Héloise! Hắn nói, bà sao
thế? Nói đi!
Người đàn bà giơ tay về phía hắn, bàn
tay cứng đờ và tím nhợt.
- Xong rồi ông ạ, mụ nói với tiếng thở
khò khè như xé rách họng mụ; vậy ông còn muốn gì thêm nữa?
Rồi mụ đổ vật xuống thảm.
Villefort chạy đến, nắm lấy bàn tay mụ.
Bàn tay ấy co quắp nắm một cái lọ pha lê.
Bà de Villefort đã chết.
Villefort điên cuồng vì ghê sợ, lùi lại
đến tận ngưỡng cửa phòng và nhìn xác chết. Đột nhiên hắn thét:
- Con trai ta! Con trai ta đâu rồi?
Edouard!
Edouard!
Hắn ghê tởm bước qua xác mụ de
Villefort để đến phòng khách nhỏ của bà ta. Hắn tiến vào ba hay bốn bước và
thấy con hắn đang nằm trên chiếc trường kỷ.
Có lẽ là đứa trẻ ngủ.
Hắn nâng đứa trẻ lên tay, ghì lấy nó,
lay nó, gọi nó... đứa trẻ không hề trả lời. Hắn gắn đôi môi hau háu của hắn vào
má đứa trẻ... hai má nó nhột nhạt, lạnh giá; hắn sờ nắn tay chân đã cứng đờ của
nó; hắn đặt tay lên tim nó... tim nó không đập nữa.
Đứa trẻ đã chết.
Hai nạn nhân này làm hắn kinh sợ. Hắn
cảm thấy nỗi khiếp hãi của sự cô đơn giữa hai xác chết trào dâng trong hắn.
Villefort gục đầu xuống dưới sức nặng
của nỗi đau, hắn quỳ thẳng người lên, lắc mớ tóc đẫm mồ hôi, dựng ngược vì sợ
hãi và con người ấy, kẻ chưa bao giờ xót thương ai, bỏ đi tìm ông cụ già, cha
hắn, để trong phút yếu lòng có người nghe hắn kể lại nỗi bất hạnh của hắn. Hắn
đi xuống cầu thang và vào phòng cụ Noirtier.
Khi Villefort bước vào, cụ Noirtier có
vẻ đang chăm chú nghe một cách trìu mến biểu lộ hết mức mà tình trạng bại liệt
của cụ cho phép,.tu sĩ Busoni đang ở đấy, bao giờ cũng điềm tĩnh và lạnh lùng
như thường lệ.
- ông ở đây à, thưa ông! Villefort nói.
ông luôn luôn chỉ xuất hiện ở nơi nào có cái chết để mà hộ tống.
- Tôi đã đến đây để cầu nguyện bên thi
hài con gái ông! Busoni trả lời. - Và bây giờ ông đến đây làm gì?
- Tôi đến để bảo ông rằng ông đã trả nợ
cho tôi được kha khá rồi đấy.
- Lạy chúa tôi! Villefort vừa nói vừa
lùi lại, ghê sợ ra mặt, ông không phải là tu sĩ Busoni!
- Không. Tu sĩ nói và giật đi miếng hói
đầu giả.
- Đây là cái mặt ông Monte Cristo!
Villefort kêu lên, mắt nhớn nhác.
- Còn chưa phải thế đâu, thưa ông biện
lý hoàng gia, hãy tìm tòi kỹ hơn và xa hơn.
- Cái giọng này! Cái giọng này! Cái
giọng này tôi đã nghe lần đầu ở đâu nhỉ?
- ông đã nghe giọng ấy lần đầu ở
Marseille từ hai mươi ba năm trước, vào ngày ông cưới cô de Saint-Méran. Hãy
tìm trong hồ sơ của ông.
- Nhưng ta đã làm gì ngươi? Villefort
hét.
- ông đã kết án tôi tội chết từ từ và
gớm guốc, ông đã giết chết cha tôi, ông đã tước đoạt tự do và do đó tôi mất cả
tình yêu, ông đã lấy đi tình yêu của tôi và do đó tước đoạt cả vận mệnh của
tôi.
- ông là ai? Vậy ông là ai? Lạy chúa
tôi!
- Tôi là bóng ma của một kẻ khốn khổ mà
ông đã đem chôn vùi trong các hầm cấm cố của pháo đài If.
- A! Ta nhận ra ngươi, ta nhận ra ngươi
rồi!
Viên biện lý hoàng gia nói, ngươi là...
- Ta là Edmond Dantès.
- Ngươi là Edmond Dantès! Viên biện lý
hoàng gia vừa kêu lên vừa nắm lấy cổ tay bá tước; như vậy thì đi!
Và hắn kéo ông đi theo cầu thang, Monte
Cristo ngạc nhiên theo hắn nhưng không biết viên biện lý hoàng gia dẫn mình đi
đâu, và cảm thấy có tai họa mới gì đó.
- Này, Edmond Dantès, hắn vừa nói vừa
chỉ cho bá tước thấy xác vợ hắn và thi thể con hắn, này! Nhìn đi, mi trả được
thù rồi chứ?...
Monte Cristo tái mặt trước cảnh tượng
hãi hùng này. Anh nhảy bổ đến thi thể đứa bé với một tình cảm lo âu khó tả,
vạch mắt nó ra, bắt mạch và ôm nó lao vào phòng Valentine rồi khóa cửa lại bằng
hai vòng xoay chìa khóa.
- Con ta! Villefort hét, Nó mang xác
con ta đi! Ôi! Tai họa! Bất hạnh! Mi chết đi!.Và hắn muốn lao theo Monte
Cristo; nhưng như trong mơ, hắn cảm thấy chân như mọc rễ, mắt hắn mở to đến vỡ
tròng, các ngón tay hắn móc vào thịt trên ngực hắn rồi cứ cắm dần vào đến khi
máu nhuộm đỏ các móng tay. Các mạch trên thái dương của hắn dìm não hắn vào một
biển lửa.
Sự bất động kéo dài nhiều phút cho đến
khi cuộc đảo lộn đáng sợ của lý trí được hoàn thành.
Lúc đó hắn hét lên một tiếng tiếp đến
một trận cười dài rồi đâm bổ xuống cầu thang.
Mười lăm phút sau, cửa phòng Valentine
mở ra và bá tước Monte Cristo bước ra. ông bế đứa trẻ trên tay, không cách nào
cứu được cho nó sống lại nữa rồi? ông quỳ một gối xuống đất và thành kính đặt
nó bên mẹ, đầu gối lên ngực mẹ nó.
Monte Cristo xuống vườn thấy Villefort
tay cầm mai, bới đất như điên.
- Chỗ này chưa phải đâu, hắn nói, chỗ
này chưa phải đâu. Và hắn bới ra xa hơn.
Monte Cristo đến gần hắn, nói thật khẽ:
- Thưa ông, ông bảo hắn với một giọng
gần như khiêm nhường, ông đã mất đi một đứa con trai; nhưng...
Monte Cristo lùi lại hoảng sợ.
- Ôi! Hắn phát điên rồi!
Và Monte Cristo lao
ra phố, lần đầu tiên ông nghi ngờ rằng liệu mình có quyền làm những việc mình
đã làm không.
BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 20: Danglars
Chuyến du lịch của
Monte Cristo và của Morrel đi Marseille diễn ra mau lẹ tuyệt vời, đó vốn là một
trong những thế mạnh của bá tước.
Ngày hôm sau, ngay
từ sáng sớm họ tới Chalon, đã có một tàu thủy hơi nước đón họ ở đó, sẵn sàng
khởi hành; chẳng phí một khoảnh khắc, chiếc xe được đưa xuống tàu. Chẳng mấy
chốc đã đến Marseille. ở đó, do một thỏa thuận chung, cả hai người dừng lại ở
Canebière.
Một chiếc tàu biển
đi Alger, giữa những kiện hàng, những hành khách chồng chất trên boong, giữa
đám đông họ hàng bạn bè tiễn biệt nhau.
- Ôi! Lạy chúa!
Morrel kêu lên, tôi không lầm đâu! Chàng trai đang vẫy mũ chào kia, cái anh
chàng mặc quân phục ấy, là Albert de Mor-cerf đấy!
- Đúng, Monte Cristo nói, tôi đã nhận
ra anh ta.
Và cặp mắt anh dõi theo một người đàn
bà che mạng vừa đi khuất vào góc phố.
- Bạn thân mến, anh có việc gì cần làm
ở vùng này không? Bá tước bảo Maximilien.
- Tôi cần đến khóc bên mộ cha tôi. Morrel
nghẹn ngào trả lời.
- Được lắm, anh đi
đi.
- ông từ biệt tôi
ư?
- Phải, tôi có việc ở Italie. Anh nhớ
nhé.
Ngày 5 tháng mười, Morrel ạ, tôi đợi
anh ở đảo Monte Cristo. Ngày mùng 4, một du thuyền sẽ đón anh ở cảng Bastia.
Morrel để bàn tay mình rơi xuống bàn
tay bá tước đang chìa ra cho anh, rồi anh cúi đầu chào, từ biệt bá tước và đi
về phía đông thành phố.
Monte Cristo đợi cho Maximilien đi đã
xa; rồi ông đến đường Meilhan và bước vào một khu vườn chính là nơi Mercédès
tìm thấy số tiền mà bá tước đã tế nhị nói là chôn ở đó từ hai mươi bốn năm
trước.
Vừa đến ngưỡng cửa, Monte Cristo nghe
có một tiếng thở dài giống như tiếng nức nở, ông thấy Mercédès ngồi gập người
đang khóc. Monte Cristo bước lên vài bước, cát lạo xạo dưới chân ông.
- Thưa bà, bá tước nói, tôi chẳng còn
có thể đem lại hạnh phúc cho bà, nhưng tôi dâng tặng.bà sự an ủi: bà có hạ cố
nhận sự an ủi ấy như của một người bạn dành cho bà được không?
- Quả thực tôi rất đau khổ, Mercédès
trả lời, tôi cô đơn trên đời này. Tôi chỉ có con trai tôi thì nó đã rời xa tôi
rồi.
- Chao ôi! Monte Cristo nói, tất cả
những lời nói của bà, nóng bỏng và cay đắng rớt xuống trái tim tôi, càng cay
đắng và nóng bỏng hơn nữa vì bà có lý do để căm ghét tôi; chính tôi đã gây ra
mọi đau khổ của bà.
- Căm ghét ư, kết tội chàng ư, chàng,
Edmond căm ghét, buộc tội con người đã cứu sống con trai tôi, bởi vì phải chăng
chàng có ý định tàn bạo và đẫm máu giết đi của de Morcerf đứa con trai mà ông
ta lấy làm tự hào? Ôi! Hãy nhìn tôi đi và chàng sẽ thấy ở tôi có biểu hiện
trách móc nào không. Chàng đã rộng lượng tha cho tôi, ấy thế mà trong tất cả
những kẻ đã giáng họa cho chàng, tôi là kẻ có tội nhất. Tất cả những kẻ khác
đều hành động vì hận thù, vì hám lợi, vì ích kỷ; còn tôi, tôi hành động vì hèn
nhát. bây giờ Edmond ơi, hãy nói với tôi lời vĩnh biệt.
Và sau khi đưa bàn tay run rẩy của mình
chạm vào tay Monte Cristo, Mercédès lao xuống bậc thềm và chạy đi khuất khỏi
tầm nhìn của bá tước. Lúc đó Monte Cristo liền ra khỏi nhà và quay lại đường ra
cảng. ông xuống tàu và chiếc tàu biển khởi hành. * * * Đúng vào lúc con tàu của
bá tước ra khơi thì Danglars đến Rome, ở khách sạn Tây Ban Nha. Bác Pastrini
đón người du khách.
Sau đó Danglars đến hãng Thomson và
French, rồi hai mươi phút sau hắn ra khỏi đó, hớn hở mừng vui vì đã bỏ túi được
tờ hối phiếu năm triệu.
Danglars trở về chỗ ở của mình; hắn mệt
mỏi nhưng mãn nguyện và buồn ngủ. Hắn đi ngủ, đặt ví dưới chiếc gối dài ở đầu
giường rồi ngủ thiếp đi.
Ngày hôm sau, hắn thức dậy muộn. Hắn ăn
sáng và yêu cầu ngựa trạm vào buổi chiều.
Danglars muốn ghé qua Venise để nhận ở
đó một phần tài sản, rồi từ Venise đi Vienne là nơi hắn nhận nốt phần còn lại -
ý định của hắn là sẽ ngụ lại thành phố này, người ta đoan chắc với hắn đó là
một thành phố của hoan lạc.
Hắn lên đường, nhưng hắn vừa mới đi
được độ gần ba dặm trong vùng quê của thành Rome thì bỗng nhiên hắn thấy có một
người khoác áo choàng đang phi nước đại cạnh cửa xe bên phải.
- Lại cảnh binh gì đây, hắn nói. Phải
chăng là mình đã bị thông báo bằng các bức điện tín của Pháp cho nhà cầm quyền
Italie?
Lại một người nữa phi ngựa nước đại
cạnh cửa xe bên trái.
- Này, ông bạn! Chúng ta đi đâu vậy?
Hắn thò đầu ra cửa xe và nói.
Hắn chẳng hề được ai trả lời. Chiếc xe
tiếp tục chạy với tốc độ ghê người. Một giờ đồng hồ trôi qua khủng khiếp, vì cứ
mỗi cột mốc mới loang loáng vút qua cửa xe đang chạy, kẻ chạy trốn lại càng
nhận ra rằng họ đang dẫn hắn quay trở lại. Cuối cùng hắn thấy cái khối sẫm màu
của vành đai thành cổ bao quanh Rome.
- Ôi! Ôi! Danglars thì thào, ta không
quay về thành phố, đây là...
Bất chợt, sau lời của người phi ngựa
cạnh cửa xe bên phải, chiếc xe dừng lại.
Đồng thời cửa xe bên trái mở ra.
- Xuống! Một giọng nói ra lệnh.
Danglars lặng lẽ theo người dẫn đường
mà không hỏi han gì, đi qua những vạt cỏ cao cho đến tận một mô đá bên trên là
một bụi rậm; mô đá này có chỗ để chàng trai dẫn đường lách qua.
Người đi theo sau Danglars bảo lão chủ
ngân hàng cũng làm như chàng trai. Hắn bật ra một tiếng rên rầu rĩ và đi theo
người dẫn đường: hắn cố không van xin cũng không kêu la. Hắn chẳng còn cả sức
lực, cả ý chí, cả sức mạnh lẫn xúc cảm; hắn đi vì người ta dẫn hắn đi..Hắn vấp
phải cái bậc và hiểu ra có một cầu thang trước mặt hắn, hắn cúi xuống theo bản
năng để tránh bị dập trán và thấy mình đang ở trong một xà lim đục hẳn vào đá.
Cái xà lim này sạch sẽ, dù là trần trụi, khô ráo dù là ngầm dưới đất ở một độ
sâu không sao ước lượng được.
Một cái ổ cỏ khô phủ da dê được trải
trong góc xà lim...
- Vào đi. Người dẫn đường nói.
Và vừa đẩy Danglars vào xà lim hắn vừa
đóng cửa lại sau lưng hắn. Một cái chốt rít lên, Danglars đã là tù nhân.
ở một mình, Danglars lấy lại được đôi
chút can trường. Khi mà họ chẳng giết hắn ngay lập tức, ắt hẳn là họ bắt hắn để
mà tước đoạt của hắn, và bởi hắn chỉ mang trong người có vài đồng lu y, họ sẽ đòi
hắn tiền chuộc. Hắn vẫn còn lại khoảng độ năm triệu năm chục ngàn phrăng. Vậy
thì gần như chắc chắn là hắn thoát, Danglars nằm dài xuống ổ và sau vài lần trở
mình hắn ngủ thiếp đi.
Vừa thức dậy, hắn thọc tay ngay vào
túi. Các túi vẫn y nguyên.
Rồi hắn cảm thấy đói. Hắn đứng dậy và
ra gõ cửa để gọi người gác ngục.
- Này ông bạn! Danglars vừa nói vừa
dùng các ngón tay gõ nhịp vào cửa, có lẽ đã đến lúc họ cũng phải nghĩ tới việc
nuôi dưỡng tôi chứ, tôi ấy!
Tên cướp đến mở cửa. Đó là Peppino,
người quen biết cũ của chúng ta.
- Tôi đói, Danglars nói, thậm chí rất
đói.
- Đức ông muốn ăn ư? Không có gì tiện
hơn, tên cướp nói; ở đây người ta có được bất cứ cái gì người ta muốn, và phải
trả tiền ngay, dĩ nhiên như vậy. Ngài gọi món đi.
- Này, một con gà giò, một con cá, thịt
thú rừng, gì cũng được miễn là tôi được ăn.
- Xin tùy ý đức ông; chúng tôi dọn một
con gà giò có được không?
- ừ, một con gà giò.
Vài phút sau một người trẻ tuổi xuất
hiện mang tới con gà giò đặt trên đĩa bạc.
- Đây, thưa đức ông, Peppino đỡ con gà
từ tay tên cướp trẻ và đặt nó lên cái bàn mọt.
Danglars bắt đầu làm nhiệm vụ xả con gà
ra.
- Xin lỗi, Đức ông, tên cướp vừa nói
vừa đặt tay lên vai ông chủ ngân hàng; ở đây có quy định trả tiền trước khi ăn;
người ta có thể không hài lòng khi ra khỏi...
- A! A! Danglars nói, chúng ta không
còn như ở Paris nữa, nhưng anh hãy hành động cao thượng. Nào, tôi luôn nghe nói
ở Italie giá sinh.hoạt rẻ, một con gà giò ở Rome chắc độ mười hai xu.
- Đây, hắn nói và ném ra một đồng lu y
cho tên cướp.
Peppino nhặt đồng lu y, Danglars đưa
dao lại gần con gà.
- Khoan đã, đức ông, Peppino vừa nói
vừa đứng dậy, khoan đã, đức ông còn thiếu tôi món tiền nữa. Con gà này giá năm
ngàn lu y; thế là đức ông chỉ còn thiếu tôi bốn ngàn chín trăm chín mươi chín đồng
lu y nữa.
Danglars trợn tròn đôi mắt khi nghe
phát giá trong trò đùa giỡn một tấc đến trời này.
- Ôi! Buồn cười quá. Hắn lẩm bẩm.
Và hắn muốn lại bắt đầu xả con gà,
nhưng tên cướp cản hắn lại.
- Nào, tên cướp nói và chìa tay ra.
- Cái gì! Một trăm ngàn phrăng con gà
này!
- Đức ông ơi, thật không thể hình dung
nổi người ta nuôi gà vịt trong những hang đá đáng nguyền rủa này vất vả đến thế
nào đâu.
- ông bạn thân mến ôi, tôi tuyên bố
điều đó là vô lý, là ngốc nghếch! Danglars nổi khùng lên nói vậy. Hay là anh
tưởng người ta có một trăm ngàn phrăng trong túi?
- ông có năm triệu năm mươi ngàn phrăng
trong túi, thưa đức ông, Peppino nói; tức là mua được năm mươi con gà tơ giá
một trăm ngàn phrăng và nửa con gà tơ giá năm mươi ngàn. ông có mở tín dụng ở
chỗ các ông Thomson và French ở Rome. Hãy đưa cho tôi một chi phiếu bốn ngàn
chín trăm chín mươi chín lu y ở chỗ các ông ấy, chủ ngân hàng của chúng tôi sẽ
lấy tiền cho chúng tôi.
Danglars rùng mình; hắn sáng mắt ra:
vẫn cứ là đùa cợt, nhưng rốt cuộc hắn đã hiểu đó là thế nào.
- Quỷ bắt anh đi! Danglars phẫn nộ vì
bị chế giễu một cách dai dẳng như vậy.
Tên cướp ra hiệu, gã trai trẻ liền vươn
đôi tay ra bưng gọn con gà đi. Danglars buông mình xuống cái ổ trải da dê.
Nhưng cái đói đã thắng Danglars; hắn vớ
lấy bút và giấy mà tên cướp đưa cho, viết lệnh chi và ký.
- Này, hắn nói, đây là chi phiếu không
ghi danh cho phép người cầm phiếu được lĩnh tiền.
- Còn ông, đây là con gà của ông.
Danglars xả con gà và thở dài: sao mà
nó quá gầy so với số tiền lớn đến thế.
Ngày hôm sau, Danglars lại thấy đói,
không khí cái hang này làm cho người ta ngon miệng hết sức. Người tù ngỡ rằng
hôm ấy hắn không cần chi tiêu gì thêm: con người dè sẻn, hắn đã.giấu nửa con gà
và một mẩu bánh vào góc xà lim.
Nhưng vừa mới ăn xong là hắn thấy khát:
hắn chưa lường trước chuyện này.
Hắn chống chọi với cơn khát cho đến lúc
cảm thấy lưỡi ráo khô dính vào vòm miệng. Lúc đó chẳng thể nào chịu đựng được
ngọn lửa thiêu đốt hắn, hắn gọi.
- Có tôi đây, thưa đức ông, tên cướp
vừa nói vừa vội vàng chạy tới.
Danglars thấy sự sốt sắng này có vẻ là
điềm lành. Tên cướp hỏi:
- Ngài muốn gì?
- Đồ uống. Người tù nói.
- Đức ông ơi, Peppino nói, ông biết
rằng rượu vang đắt phi thường ở vùng ngoại vi Rome.
- Vậy thì cho ta nước, Danglars nói, tìm
cách đỡ đòn.
- ồ! Thưa đức ông, nước lại còn hiếm
hơn rượu vang, trời đang đại hạn mà!
- Này, Danglars nói, xem ra chúng ta
sắp làm lại từ đầu đây! Lần này, bao nhiêu?
- Hai mươi lăm ngàn phrăng một chai.
- Này, Danglars kêu lên, có phải là các
anh muốn lột trụi ta không, cứ làm thế còn hơn là xé xác ta ra từng mảnh từng
mảnh một mà ăn thịt.
- Có thể, Peppino nói, đó là dự định
của chủ tướng tôi.
- Chủ tướng ư, hắn là ai vậy?
- Là người mà họ dẫn ông đến gặp ngày
hôm kia ấy.
- Thế hắn ở đâu? Ta muốn gặp hắn.
- Dễ thôi.
Một lát sau, tên tướng cướp La Mã đã ở
trước mặt Danglars. Đó là Luigi Vampa.
- ông gọi tôi à? Hắn hỏi người tù.
- Thưa ông có phải ông là chủ tướng của
những người bắt tôi về đây không?
- Đúng, thưa đức ông.
- Vậy ông muốn đòi tôi tiền chuộc là
bao nhiêu? Nói đi.
- Thật quá đơn giản, là năm triệu mà
ông mang trong người.
Danglars cảm thấy một cơn co thắt đáng
sợ bóp nát trái tim hắn.
- Ta chỉ có thế trên đời này, thưa ông
và đó là phần còn lại của một tài sản to lớn: nếu ông lấy đi của tôi thì hãy
tước đoạt cuộc sống của tôi.
- Người mà chúng tôi tuân lệnh đã cấm
chúng tôi không được làm cho ông đổ máu, thưa đức ông..- Như vậy thì này, lũ
khốn nạn! Danglars kêu lên, ta sẽ làm thất bại dự tính xấu xa của các người;
cái chết đổi lấy cái chết, ta ưa kết thúc ngay lập tức, hãy làm cho ta đau, hãy
hành hạ ta đi, hãy giết ta đi, nhưng các ngươi sẽ không có được chữ ký của ta
nữa!
- Xin tùy ngài, thưa đức ông. Vampa
nói.
Và hắn ra khỏi xà lim. Danglars vừa
gieo mình xuống tấm da dê vừa gầm gào.
Quyết tâm không ký của hắn kéo dài được
hai ngày, sau đó hắn đòi ăn và đưa một triệu.
Họ dọn cho hắn một bữa ăn tối thịnh
soạn và lấy một triệu của hắn. Cứ đó cuộc đời của người tù khốn khổ là một
chuyện vớ vẩn không dứt.
Hắn đã đau khổ đến nỗi hắn không muốn
chuốc lấy đau khổ thêm nữa và hắn chịu đựng mọi đòi hỏi. Sau mười hai ngày, một
buổi chiều hắn ăn tối như trong những ngày giàu sang, hắn tính sổ lại và nhận
ra rằng hắn đã đưa nhiều hối phiếu trả tiền mặt cho người mang phiếu đến nỗi
hắn chỉ còn lại có năm mươi ngàn phrăng.
Lúc đó trong hắn xảy ra một phản ứng lạ
lùng: hắn cố giữ lấy năm mươi ngàn còn lại, hắn quyết định lại sống cuộc đời
kham khổ, còn hơn là tiêu đi năm chục ngàn ấy.
Ba ngày trôi đi như vậy; thỉnh thoảng
hắn lại có những lúc mê sảng.
Sang ngày thứ tư, thật không còn là một
người đàn ông nữa, đó là một xác chết còn sống; hắn nhặt nhạnh dưới đất cho đến
mảnh vụn cuối cùng còn rơi vãi lại của những bữa ăn trước và bắt đầu nhai ngấu
nghiến cái chiếu trải trên nền đất.
Thế rồi hắn cầu xin người gác ngục.
- Hãy cầm lấy đồng tiền cuối cùng của
tôi, Danglars vừa ấp úng nói vừa chìa cái ví của mình ra, hãy để cho tôi sống ở
đây, trong cái hang này; tôi không đòi tự do nữa, tôi chỉ yêu cầu được sống
thôi.
- ít ra ông cũng sám hối rồi chứ? Một
giọng ảm đạm và trang trọng cất lên, làm dựng ngược tóc trên đầu Danglars.
Cái nhìn không còn tinh tường của hắn
cố phân biệt các đồ vật, và hắn thấy đứng sau tên cướp là một người đàn ông
khoác chiếc áo choàng đứng khuất sau một trụ đá.
- Ta phải sám hối về cái gì nhỉ?
Danglars ấp úng hỏi.
- Về điều ác mà ông đã làm. Vẫn giọng
ấy nói.
- Ôi! Vâng, tôi sám hối! Tôi sám hối!
Danglars kêu lên.
Rồi hắn đấm ngực bằng nắm đấm gầy gò
của hắn..- Như vậy thì ta tha thứ cho ngươi. Người ấy vừa nói vừa ném chiếc áo
khoác đi vừa bước lên một bước ra chỗ sáng.
- Bá tước Monte Cristo! Danglars nói,
người nhợt nhạt đi vì kinh hãi, còn hơn là một lát trước đây hắn nhợt nhạt đi
vì sợ đói, vì khổ.
- ông lầm rồi, tôi không phải bá tước
Monte Cristo.
- Vậy ông là ai?
- Tôi là kẻ đã bị ông bán đứng, đã giao
nộp, đã làm mất danh dự. Tôi là kẻ đã bị ông giẫm đạp để leo lên tạo cơ nghiệp
cho mình; tôi là kẻ có người cha bị ông làm cho chết vì tuyệt vọng:
tôi là Edmond Dantès!
Danglars chỉ thét lên được một tiếng
rồi quỳ sụp xuống.
- Dậy đi ông, bá tước nói, ông đã thoát
chết; vận may như vậy đã không đến với hai kẻ đồng lõa với ông: một kẻ phát
điên, kẻ kia đã chết!
Hãy giữ lấy năm mươi ngàn quan còn lại
của ông, ta làm quà cho ông đấy. Và bây giờ hãy ăn đi, uống đi; tối nay ông là
khách mời của ta.
Vampa, khi người này đã ăn no nê, hắn
sẽ được tự do.
Danglars vẫn cứ quỳ sụp dưới đất trong
lúc bá tước đi xa dần; khi hắn ngóc đầu lên, hắn chỉ còn thấy một cái bóng đang
khuất dần trong hành lang và trước cái bóng ấy những tên cướp cúi mình chào.
Như bá tước đã ra lệnh, Vampa cho dọn
bữa ăn mời Danglars, cho đem đến rượu vang ngon nhất và những thứ quả ngon nhất
của Italie, rồi đặt hắn vào ghế chiếc xe trạm, Vampa đứng dựa lưng vào một gốc
cây, để kệ hắn lên đường.
Lúc trời sáng, Danglars thấy mình đang
ở bên một dòng suối: hắn khát, hắn trườn tới mép nước.
Và lúc cúi xuống để uống nước, hắn thấy
tóc mình bạc trắng..Đoạn kết Ngày 5 tháng mười, một chiếc du thuyền nhẹ lướt
tới đảo Monte Cristo trong những làn sương đầu tiên của buổi tối.
Người du khách mà chiếc du thuyền nhỏ
dường như tạm thời tuân lệnh cất một giọng trầm và đượm một nỗi buồn sâu lắng
hỏi:
- Kia có phải là đảo Monte Cristo
không?
- Vâng thưa ngài, chủ thuyền trả lời,
chúng ta đến nơi rồi.
Mười phút sau người ta cuốn buồm và
buông neo cách một cảng nhỏ khoảng năm trăm bước.
- Xin chào Maximilien, một giọng nói
cất lên, anh thật đúng hẹn, cám ơn!
- ông đấy à, bá tước, chàng trai vừa
kêu lên vừa đưa hai tay nắm lấy bàn tay Monte Cristo.
Morrel như cái máy bước theo bá tước
đến tận hang.
- Này bá tước, ông sắp cho tôi một
trong những cái chết mà ông đã báo trước, một cái chết không hấp hối, một cái
chết cho tôi được vừa lịm đầu đi vừa gọi tên Valentine và xiết tay ông?
- Anh không nuối tiếc gì sao? Monte
Cristo hỏi. Tôi không có ai là bà con thân thích trên đời này như anh biết đấy.
Tôi đã quen coi anh như con trai tôi; như vậy thì để cứu con trai tôi, tôi hy
sinh cả tính mạng của mình huống hồ là tài sản. Morrel ơi, tôi có gần một trăm
triệu, tôi cho anh cả; với một cơ nghiệp như vậy, anh có thể đạt tới mọi thành
tựu mà anh muốn vươn tới.
- Bá tước, tôi đã nhận lời hứa của ông,
Morrel lạnh lùng trả lời.
- Được lắm, Monte Cristo nói, anh đã
muốn thế, và anh thật cứng rắn. Vậy tôi sắp cho anh thứ mà anh muốn.
Monte Cristo rút ra một cái hộp nhỏ
bằng vàng có nắp bật lên được nhờ một cái lò xo giấu kín.
Chiếc hộp này đựng một chất nhờn gần
như rắn, màu sắc thật khó xác định.
- Đây là cái mà anh đã yêu cầu tôi, bá
tước nói. Và cũng là cái tôi đã hứa với anh.
- Bây giờ đang còn sống, tôi xin cám ơn
ông từ đáy lòng mình. Vĩnh biệt người bạn cao quý và hào hiệp của tôi, tôi sẽ
nói với Valentine về tất cả những gì ông đã làm cho tôi.
Và từ từ, Morrel nuốt cái chất huyền bí
do Monte Cristo đưa cho. Dần dần các đồ vật bắt.đầu mất đi hình dạng và màu sắc
của mình; cặp mắt anh mờ đục đi. Anh thấy trong bức tường cứ như mở ra những
cánh cửa và những tấm rèm.
- Bạn ơi, anh nói, tôi cảm thấy, tôi
đang chết.
Xin cám ơn.
Trong khi Maximilien buông mình đi vào
cơn hấp hối nhẹ nhàng của anh thì một luồng ánh sáng tràn trề từ căn phòng bên
cạnh chiếu rọi vào nơi anh đang ở. Anh thấy một người đàn bà đẹp tuyệt vời đến
ngưỡng cửa của phòng này.
Cô tiến về phía anh, hai tay chắp vào
nhau và nụ cười trên môi.
- Valentine! Valentine! Morrel reo lên
từ cõi sâu thẳm của linh hồn.
Valentine chạy xô về phía anh.
Cặp môi Morrel còn phác một cử động.
- Anh đang gọi cô, bá tước nói; anh
đang gọi cô từ một giấc ngủ sâu. Valentine, từ nay các bạn không phải rời xa
nhau nữa trên trái đất này.
Không có tôi các bạn sẽ chết cả đôi;
tôi trao trả các bạn cho nhau. Tôi xin cầu chúa xét đến cho tôi hai sinh linh
mà tôi cứu sống!
Valentine nắm lấy tay Monte Cristo và
trong lúc mừng rỡ không sao cưỡng nổi, cô đưa tay ông lên môi mình.
Lúc đó, bá tước ôm ghì lấy cô rồi đi
khuất.
Gần một tiếng đồng hồ trôi đi,
Valentine, cứ ngồi bên Morrel mà thở hổn hển, không nói năng gì, đôi mắt nhìn
đăm đăm. Cuối cùng cô thấy tim anh đập nhẹ một hơi thở không nhận ra được làm
hé mở cặp môi anh, và cái run nhè nhẹ báo hiệu sự sống đang trở lại ấy lan khắp
thân thể chàng trai.
- Ôi! Anh thốt lên với ngữ điệu tuyệt
vọng, tôi vẫn sống ư! Bá tước đã lừa tôi!
- Morrel, Valentine nói với nụ cười
tuyệt diệu, anh tỉnh lại đi và nhìn về phía em đây.
Morrel thét lên thật to, cuống cuồng
đứng lên, lòng đầy hoài nghi, lóa mắt như trước một ảo ảnh trên trời, anh ngã
quỵ xuống.
Ngày hôm sau, dưới những tia nắng đầu
tiên của mặt trời, Morrel và Valentine khoác tay nhau dạo bước dọc bờ biển, Valentine
kể cho Morrel nghe Monte Cristo đã xuất hiện trong phòng cô như thế nào và bá
tước đã cứu cô thoát chết một cách thần kỳ mà vẫn để mọi người tưởng là cô đã
chết.
Trước đấy họ đã thấy cửa hang mở sẵn và
họ đi ra. Lúc này Morrel nhận ra trong một vùng mờ tối của một đống đá có một
người đàn ông đang ngồi, ông vẫy gọi để họ tiến lại.
- A! Đây là ông thuyền trưởng của chiếc
du thuyền. Valentine nói..- ông có điều gì muốn nói với chúng tôi chăng? -
Morrel hỏi.
- Tôi phải trao lại cho ông bức thư của
bá tước.
Morrel mở lá thư và
đọc:
"Maximilien
yêu quý, Có một chiếc thuyền buồm nhẹ dành cho anh đang neo. Nó sẽ đưa anh đến
Livourne, ở đó cụ Noirtier đang đợi cô cháu gái vì cụ muốn cầu phúc cho cô
trước khi cô theo anh đến bàn thờ Chúa. Tất cả những gì có trong hang này, cả
ngôi nhà ở Champs élysées và tòa lâu đài nhỏ ở Tréport là quà cưới mà Ed-mond
Dantès tặng cho con trai ông chủ Morrel của mình. Cô de Villefort sẽ vui lòng
nhận một nửa vì tôi đã cầu xin cô dành cho những người nghèo ở Paris cả tài sản
cô nhận được từ cha cô đã phát điên, từ em trai cô đã chết cùng với bà mẹ kế
của cô hồi tháng chín vừa qua.
Còn anh, Morrel,
đây là tất cả bí mật trong cách xử sự của tôi đối với anh: không có cả hạnh
phúc lẫn bất hạnh trên đời này, chỉ có sự so sánh tình trạng này với tình trạng
khác, thế thôi. Phải đã từng muốn chết, Maxi -milien ạ, mới biết rằng sống là
tốt đẹp biết bao.
Vậy hãy sống và hãy
sung sướng, các con yêu dấu của lòng ta và đừng bao giờ quên rằng cho đến ngày
Chúa rủ lòng vạch rõ tương lai cho con người, thì mọi sự khôn ngoan của người
đời chỉ bao hàm trong hai từ: chờ đợi và hy vọng!
Bạn anh, Edmond Dantès Bá tước Monte
Cristo." - Đi rồi! Morrel hét. Đi rồi! Vĩnh biệt người bạn của tôi, cha
của tôi! Ai mà biết có bao giờ chúng ta lại được gặp ông! - Anh vừa nói vừa lau
nước mắt.
- Morrel, Valentine
nói, phải chăng bá tước vừa nói với ta rằng sự khôn ngoan của con người ở cả
trong hai từ: chờ đợi và hy vọng.
HẾT
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét