THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 11: Múa đao thần, Lâm Xung gặp người
ngang sức; Bán gươm báo, Dương Chí giết cọp không lông
Lâm Xung
thấy người kia múa đao đến đánh thì hai mắt trợn tròn xoe, hàng râu hùm dựng
ngược, rồi cũng giơ giao ra cự lại, hai bên kẻ đánh người đỡ, chống nhau ước
chừng hơn ba mươi hiệp, mà chưa rõ được thua.
Khi đánh
được độ hai mươi hiệp nữa, sắp quyết được thua, thì chợt thấy tiếng trên đỉnh
núi gọi to lên rằng:
- Hai vị
hảo hán hãy khoan tay, đừng đánh nhau nữa.
Lâm Xung
nghe vậy, nhảy tót ra ngoài vòng, rồi hai bên cùng đứng dừng đao lại.
Bấy giờ
Vương Luân, Đỗ Thiên, Tống Vạn cùng mấy đứa tiểu lâu la xuống núi chở thuyền
ra, rồi đi đến chỗ hai người mà nói rằng:
- Hai
thanh đao của hai vị hảo hán thực là thần xuất qủy một không ai theo kịp, ông
nầy là Báo Tử Đầu Lâm Xung, là anh em chúng tôi, còn ông mặt xanh kia là ai,
xin cho chúng tôi biết tên họ?
Người
kia nói:
- Ta là
Dương Chí, cháu Ngũ Hầu Dương Lệnh Công, là dòng dõi ba đời cửa tướng, lưu lạc
ở Quan Tây. Khi còn ít tuổi có thi võ cử, rồi làm đến chức Điện Tư Chế Sứ Quân,
sau đức Đạo Quân xây lăng vạn tuế, sai mười người Chế Sứ ra Thái Hồ, tải đá hoa
về nộp kinh sư. Chẳng may đi đến giữa sông Hoàng Hà, bị cơn phong ba đánh đắm
thuyền, mất cả đá hoa cho nên phải trốn đi nơi khác, mà không dám về kinh nữa.
Nay nhân nghe tin triều đình xá tội, ta định thu nhặt ít tiền để về kinh sư lo
liệu ở Cơ Mật Viện mà kiếm kế an thân, dè đâu đi qua đây lại bị các ngươi đánh
tên gánh thuê mà cướp mất, vậy các ngươi nên đem trả lại cho ta lập tức.
Lâm Xung
nói:
- Nếu
vậy ngài là Thanh Diện Thú Dương Chí đó chăng?
- Chính
phải.
- Thế
thì may lắm, xin mời Chế Sứ hãy vào chơi qua trong trại, xơi chén rượu suông
đã, rồi chúng tôi xin nộp lại gánh hành lý.
- Hảo
hán đã nhận biết tôi, thì xin trả lại gánh hành lý, còn hơn là cho tôi uống
rượu.
- Mấy
năm trước tôi vào thi ở Đông Kinh, cũng có được nghe tiếng Chế Sứ, thế mà ngày
nay lại được gặp ở đây, thực là may quá, thế nào cũng xin đón Chế Sứ vào chơi
qua loa chứ không có ý gì khác cả.
Dương
Chí từ chối không được, đành phải theo lũ Vương Luân xuống thuyền mà đi vào sơn
trại, Vương Luân cho tìm cả Chu Quý lên Tụ Nghĩa Sảnh, sai bắc bốn cái ghế
chéo, để Vương Luân, Đỗ Thiên, TốngVạn, Chu Quý ngồi về bên tả, còn một bên
hữu, thì bắc hai cái ghế chéo, để mời Dương Chí, Lâm Xung ngồi. Đoạn rồi sai mổ
trâu làm tiệc khỏan đãi Dương Chí. Đương khi uống rượu, Vương Luân nghĩ thầm
trong bụng: "Nếu ta lưu một Lâm Xung ở, thì tất nhiên có điều không ổn cho
ta, vậy bất nhược tiện đây giữ cả Dương Chí ở lại, để có tay địch thủ với Lâm
Xung, thì mới được.
Cho hay:
Mấy quân
bé mệt ở đời.
Chưa đi
đã sợ chưa ngồi đã kinh!
Những là
lúng túng nghĩ quanh,
Chẳng
qua thêm để vận mình mà chi?
Bấy giờ
Vương Luân nghĩ vậy, liền đem chuyện Lâm Xung từ đầu đến cuối, thuật lại cho
Dương Chí nghe, đoạn rồi bảo Dương Chí rằng:
- Cái
nầy không phải là Vương Luân tôi muốn cử hợp Chế Sứ ở đây đâu. Nhưng tôi thiết
nghĩ: Tôi đây đã bỏ văn theo võ, đến lạc thảo đất này, mà Chế Sứ là người có
tội, dẫu nay được tha rồi, nhưng cũng khó lòng được phục nguyên chức tước. Vả
chăng hiện nay Cao Thái Úy lại coi giữ binh quyền, thì tất nhiên hắn không dùng
ngài được, vậy bất nhược ngài tạm dừng ngựa ở đây, để cùng nhau hưởng cái phú
quý, kim ngân tửu nhục, mà làm tay hảo hán có lẽ lại hơn, không biết ý ngài
nghĩ sao?
- Các
ngài có lòng như thế tôi lấy làm cảm ơn lắm, song tôi còn có một người bà con
thân ở kinh sư, khi tôi làm việc quan có phiền lụy người ta nhiều lắm, mà chưa
sao tạ ơn lại được. Vậy nay tôi muốn trở về qua đấy một phen, xin các ngài trả
lại hành lý cho tôi, bằng không thì Dương Chí tôi đành bỏ đấy, mà đi tay không
vậy.
Vương
Luân cười rằng:
- Vậy
thôi, Chế Sứ đã không ở, thì chúng tôi cũng cưỡng bách làm chi. Nhưng xin ngài
hãy khoan tâm ngồi đây một tối, rồi sáng mai đi sớm.
Dương
Chí cả mừng lưu lại ở đấy một tối. Sáng hôm sau Vương Luân lại làm rượu tiễn
Dương Chí, đoạn rồi sai tiểu lâu la quảy hành lý đưa xuống dưới núi mà bái
biệt, rồi trở về lưu giữ Lâm Xung ở lại.
Bấy giờ
Dương Chí đi ra đến đường cái, tìm một người nhà quê thuê quảy gánh hành lý, mà
cho tên lâu la trở về sơn trại, rồi thẳng đường trông nẻo Đông Kinh.
Khi tới
Đông Kinh, Dương Chí tìm vào một tửu điếm để trọ, rồi trả tiền cho đứa gánh
thuê trở về. Cách vài hôm sau Dương Chí nhờ người đến đút lót ở Khu Mật Viện,
để lo bổ Chế Sứ Điện Tư Phủ như cũ. Lúc ấy phải đem các thứ kim ngân tài vật để
đưa chỗ nọ, tặng chỗ kia, đến khi hết sạch cả tư trang hành lý, mới xin được
giấy khai phục trong Khu Mật Viện, nhưng còn phải đến trình Cao Thái Úy mới
xong.
Tới khi
đến trình Cao Thái Úy, Thái Úy đem các lý lịch và giấy má ra xem một lượt, rồi
cả giận mà rằng:
- Ngươi
cùng đi vận tải với chín tên Chế Sứ, thì chín tên kia đã đem về giao nộp từ bao
giờ rồi, duy còn có ngươi là đánh mất đá hoa, mà thiện tiện trốn đi đâu mất,
quan quân truy nã không ra, thế mà nay lại muốn phục chức hay sao? Tuy rằng
ngươi đã có giấy tha, nhưng cũng không khi nào rửa hết tội danh, mà phục chức
được.
Nói xong
đem các giấy má phê bỏ tất cả, rồi đuổi Dương Chí ra ngoài Soái Phủ.
Cây con
đâu có cái tổ chim Hồng!
Quân hèn
đâu có cái lượng bao dung nổi người?
Dương
Chí trở về nhà trọ, trong bụng lấy làm uất ức mà tự nghĩ một mình rằng:
- Lời
nói của Vương Luân khuyên ta thế mà có lý. Nhưng hiềm vì nhà ta, vốn là tiếng
tăm trong sạch xưa nay, lẽ nào ta lại đem cái đi thể của tổ tiên mà làm nhơ bẩn
cho đành? Bởi vậy ta cũng muốn trở về đây để đem cái tài võ nghệ, cây cao ngọn
giáo ra chốn biên đình, hoặc may lập được chút công danh để báo đền quan phụ,
thì cũng hả trong lòng một chút. Ai ngờ bị lão Cao Cầu nó cay nghiệt tàn nhẫn,
làm cho ta không còn kế chi mà xuất đầu được nữa, chán chưa!
Chàng
nghĩ vậy, trong lòng lại phân vân khó chịu, đường xa tiền hết, đất khách quê
người, không biết làm sao cho ổn được!
Nhân nhớ
đến ông cha ngày trước, còn để lại thanh bảo đao, xưa nay vẫn đeo luôn ở bên
mình, liền nghĩ kế đem ra phố bán, để lấy ít tiền mà đi nơi khác lập thân, Khi
đem ra bán, đứng ở phố Quần Ngựa, có tới mấy giờ đồng hồ, cũng không thấy ai đến
hỏi mua cả, chàng lấy làm nóng ruột, lại vác ra một chỗ náo nhiệt ở trên cầu
Thiên Hán để bán.
Dương
Chí đứng một lúc thấy người ở hai bên phố đều la nhao nhao bảo nhau rằng:
- Cọp đã
đến ta trốn đi.
Đoạn rồi
người nào người ấy đổ xô nhau mà trốn vào trong ngõ. Dương Chí thấy vậy, nói
lẩm bẩm một mình rằng:
- Họ nói
quái lạ! Ở chỗ cấm thành này, còn làm gì có cọp đến đây được?
Nói đoạn
xa trông thấy một anh đại hán, người đen chùi chũi, say rượu bứ bự đương chân
nam đá chân chiêu đi đến.
Nguyên
đó là một thằng vô lại, có tiếng ở kinh sư, vẫn thường gọi là Một Mao Đại Trùng
Ngưu Nhị, xưa nay chỉ chuyên nghề rắc rối ở đầu đường cuối phố, gặp ai là cũng
dây vào, làm cho lôi thôi khó chịu, mà quan tư ở Phủ Khai Phong không sao trị
nỗi. Bởi vậy mà ai trông thấy cũng tránh mặt cho xa, không còn dám đi gần đến.
Bấy giờ
tên Ngưu Nhị đi đến trước mặt Dương Chí, dằng tay cầm lấy thanh đao xuống để
xem rồi hỏi rằng:
- Anh,
của nầy định bán thanh đao bao nhiêu tiền?
Dương
Chí đáp:
- Thanh
bảo đao này của tổ phụ tôi để lại, tôi định bán lấy 3.000 quan tiền.
Ngưu Nhị
quát lên rằng:
- Đao ăn
mày nầy lại bán đến ngần ấy tiền? Ta cứ mua 30 kẽm một con dao, cũng thái được
thịt, cắt được đậu rồi. Con dao khốn nạn này có cái gì tốt mà gọi là bảo đao?
- Thanh
đao của tôi có phải như của đám hàng chợ đâu. Nó là bảo đao kia mà...
- Thế
nào gọi là bảo đao?
Dương
Chí nói:
- Một là
có thể chặt đồng chặt sắt mà lưỡi không quằn, hai là thổi lông đi qua được, ba
là chém người mà đao không có máu, thế cho nên gọi là bảo đao.
- Anh có
dám cắt đồng bây giờ không?
- Anh cứ
đem đến đây, tôi cắt cho mà xem.
Ngưu Nhị
thấy nói, bèn chạy đến một cái hàng ở cầu, tảo lấy một món tiền đồng, để thành
một chồng ở bên cầu, rồi gọi Dương Chí rằng:
- Anh
kia, nếu anh chặt đứt được, thì ta trả cho 3.000 quan.
Bấy giờ
các người đứng xem, dẫu không anh nào dám đứng gần, song cũng đứng túm ở đằng
xa mà nom lại. Dương Chí vén tay áo cầm đao, nhắm cho trúng rồi chém một nhát,
cọc tiền đứt hẳn làm đôi. Những người đứng xem thấy vậy, ai cũng reo ầm lên.
Ngưu Nhị
quát lên rằng:
- Reo
cái gì thế? Anh này còn điều thứ hai, thế nào nữa?
Dương
Chí nói:
- Điều
thứ hai là thổi lông đi qua được, nếu cầm một sợi tóc thổi qua lưỡi đao thì tất
đứt làm đôi.
Ngưu Nhị
nói:
- Ta
không chắc được như thế.
Nói đoạn
nhổ ngay sợi tóc trên đầu, đưa cho Dương Chí mà bảo rằng:
- Anh
thử làm cho ta xem?
Dương
Chí tay tả cần sợi tóc đưa lên trước lưỡi dao, rồi thổi một cái thực mạnh, sợi
tóc đứt làm đôi mà rơi xuống đất.
Ngưu Nhị
hỏi:
- Còn
điều thứ ba là cái gì?
Dương
Chí nói:
- Là
chém người mà đao không có máu.
- Thế
nào là chém người mà đao không có máu.
- Nghĩa
là cầm thanh đao mà chém giết một người, mà máu không kịp vây vào được.
- Ta
không chắc được như thế, anh thử cầm đao chém một người cho ta xem?
Dương
Chí nói:
- Trong
chỗ Cấm thành này, bỗng dưng giết người sao được? Nếu không tin thì mang con
chó đến đây, tôi chém cho mà xem.
Ngưu Nhị
nói:
- Anh
bảo giết người không có máu, chứ anh có nói giết chó đâu?
- Thôi
anh không mua thì thôi, đừng nhiễu người ta làm gì thế?
- Anh
đưa đây ta xem nào.
Dương
Chí nói:
- Không
có tiền, tôi không cần chuyện cho xem nữa!
Ngưu Nhị
nói:
- Anh có
dám giết ta không?
- Tôi
với anh trước không thù, sau không oán, việc gì mà tôi giết anh?
Bấy giờ
Ngưu Nhị nắm chặt lấy Dương Chí mà bảo rằng:
- Thế
nào ta cũng mua thanh đao của anh.
Dương
Chí nói:
- Anh
muốn mua thì mang tiền lại đây.
- Ta
không có tiền.
- Không
có tiền thì giữ ta làm chi?
Ngưu Nhị
nói:
- Ta chỉ
cần lấy thanh đao của anh thôi.
- Ta
không cho.
Ngưu Nhị
lại nói:
- Anh
giỏi thử cứ chém ta đi.
Dương
Chí cả giận đẩy Ngưu Nhị ngã bắn xuống đất. Ngưu Nhị vội vàng bò dậy đâm húc
vào bụng Dương Chí.
Dương
Chí kêu lên rằng:
- Xin
hàng phố làm chứng cho tôi, Dương Chí này hết tiền phải mang đao đi bán, lại bị
thằng khốn nạn nó chực ăn cướp đao mà đánh tôi đây.
Bây giờ
hai bên hàng phố sợ Ngưu Nhị bằng một phép, không ai còn dám đến gần mà can
ngăn nữa.
Ngưu Nhị
thét lên rằng:
- Mầy
bảo ta đánh mầy...ừ thì ta đánh chết nữa coi sao.
Miệng
nói rồi giơ tay lên đánh Dương Chí, Dương Chí vội né mình để tránh, rồi nổi máu
nóng lên cầm đao nhằm giữa trán Ngưu Nhị chém cho một nhát, ngã lăn quay xuống
đất. Đoạn rồi nhảy sấn vào đâm luôn mấy nhát váo bụng Ngưu Nhị, máu chảy lênh
láng ra đường.
Khi đó
Dương Chí bảo với phố xá rằng:
- Tôi
giết thằng ăn mày nầy, không việc gì liên lụy đến ai cả. Bây giờ nó chết đây
rồi, các ông các bà cứ đi vào Phủ với tôi, để tôi nhận tội cho.
Gươm
thần chém chết oan gia,
Trừ loài
đê tiện cũng là nghĩa chung.
Đường
hoàng thay! Việc anh hùng,
Trời soi
đất xét để hòng sợ chi?
Bấy giờ
các người hàng phố nghe nói, mới đổ ra đi theo Dương Chí vào Phủ Khai Phong.
Tới nơi vừa gặp lúc buổi hầu, Dương Chí cùng bọn hàng phố đi vào công đường,
rồi đặt thanh bảo kiếm ra trước mặt, mà bẩm rằng:
- Chúng
tôi là Dương Chí, trước làm Điện Tư Phủ Chế Sứ, sau bị đắm mất Hoa Thạch Cương,
phải cách chức về. Nay hết tiền tiêu mang thanh đao đi bán, bất đồ bị thằng vô
lại là Ngưu Nhị, nó toan cướp đao, rồi lại sinh sự đánh tôi, bởi vậy tôi tức
mình đánh nó chết ra đó, hiện có các phố xá làm chứng, xin trình quan lớn biết
cho.
Các
người hàng phố cũng túm vào làm chứng, mà kêu với quan Phủ rõ các căn nguyên,
quan Phủ nghe nói truyền rằng:
- Đã làm
nên tội, mà tự ra thú tội, ta tha đánh cho. Nói đoạn sai gông Dương Chí lại,
rồi phái hai viên nha, giải Dương Chí cùng các người hàng phố ra cả Thiên Hán
Kiều, để khám nghiệm tử thi, mà làm thành văn án. Đoạn bắt các người hàng phố
làm đơn khai bẩm, rồi cho về, còn Dương Chí thì giao xuống nhà lao giam giữ.
Bấy giờ
các bọn canh giam ở nhà lao, thấy nói Dương Chí đánh chết một con Cọp không
lông, thì ai nấy có lòng kính phục tử tế, mà không sách nhiễu tiền nong chi cả.
Các người hàng phố ở quãng cầu Thiên Hán thấy Dương Chí trừ được một đứa đê
hèn, liều lĩnh quấy nhiễu loài người ấy, thì cũng lấy làm phục, mà bảo nhau đưa
tiền nong vào cho Dương Chí tiêu. Còn người giữ phần ăn, thấy Dương Chí là một
tay hảo hán mà lại trừ được hại cho người, vả chăng nhà tên Ngưu Nhị, cũng
không có một ai mà đến khống khiếu, thì cũng đem văn án mà rút nhẹ bớt đi. Sau
hết, án cho Dương Chí là vì đánh nhau lỡ giết chết người. Giam ở đó đủ 60 ngày,
rồi đem trình quan Phủ cho thợ thích kim ấn vào mặt, đánh phạt hai mươi trượng,
đóng gông giải sang Đại danh phủ ở Bắc Kinh, để sung quân. Còn thanh bảo đao
thì để vào công khố.
Khi kết
án xong rồi Phủ Doãn phê cho hai tên công sai là Trương Long, Triệu Hổ giải đi.
Hai tên công sai vâng lệnh giải Dương Chí ra đến phố cầu Thiên Hán, thì các nhà
phú hộ trong phố mời cả ba người, vào một tửu điếm để thiết đãi. Đoạn rồi đưa
tiền cho hai tên công sai mà nói rằng:
- Xin
các ông nghĩ đến ông Dương Chí, là một người vì dân trừ hại, mà trông nom tử tế
giúp cho.
Trương
Long, Triệu Hổ đáp rằng:
- Chúng
tôi đây cũng biết ông ấy là một tay hảo hán, các ông không phải dặn hai chúng
tôi, xin thế nào cũng phải tử tế.
Bấy giờ
các nhà phú hộ lại đưa tiền tiễn cho Dương Chí, rồi cùng bái biệt ra về. Dương Chí
đưa hai tên công sai về đến nhà trọ, tính trả tiền nong cẩn thận, còn thừa sai
làm rượu thiết đãi hai người và mua ít thuốc cao dán vào chỗ bị roi đánh, rồi
khoác khăn gói hành lý, cùng hai tên công sai đi sang Bắc Kinh.
Đường đi
nắng sớm mưa mai,
Phòng
khi hưu thích, ba người cùng chung.
Không
bao lâu đã tới Bắc Kinh, ba người liền tìm một tửu điếm để đưa nhau vào trọ.
Nguyên quan Lưu Thú ở Đại danh thủ Bác Kinh, vốn là con rể quan Thái Úy Xai
Kinh ở trong triều, tên là Lương Trung Thư Húy là Thế Kiệt, là một tên lên ngựa
coi quân, xuống ngựa coi dân, uy quyền rất lớn xưa nay. Khi hai tên công sai
giải tên Dương Chí vào, đến sảnh sứ, Lương Trung Thư xem văn thư xong, thì nhận
ra ra rằng: Khi ngài ở kinh sư cũng có biết Dương Chí, liền hỏi han đầu đuôi
các lẽ.
Dương
Chí đem căn nguyên chuyện mình, kêu rõ cho Trung Thư nghe, Trung Thư cả mừng
phê hồi văn cho công sai về, rồi sai tháo gông cho Dương Chí, mà lưu lại trong
sảnh để sai khiến.
Từ đó
Dương Chí ở trong Đại danh phủ, sớm khuya hầu hạ rất là siêng năng cẩn thận.
Được ít lâu Lương Trung Thư có ý đề cử cho Dương Chí làm một chức võ quan, song
lại e các tướng không phục, bèn nghĩ ra một kế bắt các quan quân trên dưới hết
thẩy đến ngày mai phải tới giáo trường để diễn võ. Đoạn gọi Dương Chí lên mà
bảo rằng:
- Ta có
lòng muốn đề cử cho ngươi làm một chức quan võ để có ít lương tiêu, nhưng không
biết võ nghệ của ngươi thế nào.
Dương
Chí đáp rằng:
- Tôi
nguyên là võ cử xuất thân, trước đã làm Điện Tư Phủ Chế Sứ, mười tám ban võ
nghệ đều đã thông thạo cả. Nay nếu ân tướng rộng lòng thương mà đề cử lên, cho
chúng tôi được rẽ mây trông thấy mặt trời, thì ân đức ấy xin kết cỏ ngậm vành
để báo.
Lương
Trung Thư nghe nói cả mừng, liền ban cho Dương Chí một bức áo giáp để dự bị ra
diễn võ ngày mai.
Sáng hôm
sau, bấy giờ đương diệp trung tuần Tháng hai, chiều trời ấm áp gió lạnh mây
quang, Lương Trung Thư cơm nước đoạn rồi cho Dương Chí cùng lên ngựa, mà tiền
hô hậu ủng đưa ra giáo trường. Khi ra tới giáo trường, đến trước cửa Diễn võ
sảnh Lương Trung Thư xuống ngựa, rồi sai bắc một chiếc ghế ngồi ở đó. Hai bên
tả hữu đứng dàn giá các hàng quan viên, nào Chỉ Huy Sứ, Đoàn Luyện Sứ, Chánh
Chế Sứ, Thống Lĩnh Sứ, cùng là Chánh Bài Quân, Phó Bài Quân, trăm viên tướng
tá, mấy đội ngựa quân, rất là uy nghi tề chỉnh.
Trên
chốn tướng đài có hai viên Đô Giám, một viên là Lý Thiên Vương Lý Thành, một
viên là Văn Đại Đao Văn Đạt, là tay dũng lực hơn người, thống lĩnh các hàng
quân mã; đều quay mặt về chỗ Lương Trung Thư ngồi mà cúi chào làm lễ. Đoạn rồi
trên giữa Tướng Đài dựng lên một lá cờ vàng, khua trống nổi kén làm hiệu. Bấy
giờ trong chốn Giáo Trường, đứng im tăm tắp không hề ai dám nói ra.
Một lát
thì là Hồng Kỳ dẫn quân ở trên Tướng Đài lay động, năm quân đều trông lệnh mà
sắp sửa chỉnh tề. Đoạn rồi ngọn cờ phấp phới, tiếng trống vang lừng, năm trăm
quân đều cầm khí giới trong tay, dàn thành bài trận. Lại thấy ngọn cờ Trắng ở
trên Tướng Đài phất lên, thì hai hàng trận quân ngựa đều sắp lượt chỉnh tề đứng
ra trước mặt.
Khi đó
Lương Trung Thư truyền đòi Phó Bài Quân Chu Cẩn ra thính lệnh. Chu Cẩn ở bên tả
trấn nghe lệnh đòi, liền đánh ngựa ra trước cửa sảnh, rồi xuống ngựa ngả ngọn
thương mà dạ một tiếng rất to.
Trung
Thư truyền lệnh rằng:
- Cho
phép Phó Bài Quân ra diễn võ.
Chu Cẩn
vâng tướng lệnh vác thương nhảy lên mình ngựa xông ra quay ngược quay xuôi,
xông tả múa hữu, diễn mấy bài thương ở trước diễn võ sảnh. Bấy giờ Lương Trung
Thư mới truyền Dương Chí ra trước sảnh mà bảo rằng:
- Dương
Chí! Ta nghe trước đây ngươi đã làm Chế Sứ ở Điện Tư Phủ bên Đông Kinh, vì phạm
tội mới phải tới đây, nhưng hiện nay bốn phương giặc cướp; quốc gia đương lúc
cần tài, vậy ngươi có dám ra thử võ nghệ với Chu Cẩn không? Nếu ngươi hơn được
Chu Cẩn thì ta sẽ cho ngươi thay vào chức ấy.
Dương
Chí cung kính bẩm rằng:
- Ân
tướng đã rộng thương, truyền cho như thế, chúng tôi đâu dám sai lời.
Lương
Trung Thư liền truyền dắt ra một con ngựa trận, và truyền quan kho lấy đồ quân
khí ra chuyện Dương Chí.
Dương
Chí vâng lệnh ra sau nhà Võ Sảnh, đem áo giáp của Trung Thư cho mặc vào, rồi
thắt đai đội mũ, lưng đeo cung tên, tay cầm thương dài, nhảy lên ngựa mà ra đấu
với Chu Cẩn, mới hay là:
Kiếp
sinh ví có gặp thì
Tài này
sức ấy kém gì ai đâu?
Cảm
người lượng cả ân sâu
Anh hùng
họa biết mặt nhau phen này
Cuộc đời
thay đổi, đổi thay
Hôm nào
thế ấy hôm nay thế nào?
Rồi đây
cung kiếm ra vào
Chắc
rằng xuống thấp lên cao còn nhiều
Lời bàn
của Thánh Thán:
Trong
phép văn chương, diễn tả ra từng chuyện, có nhiều chỗ giống nhau, và nhiều chỗ
khác nhau, những câu chuyện giống nhau, tả ra gọi là phạm vào nhau, những câu
chuyện khác nhau, tả ra gọi là tránh xa nhau, văn sĩ diễn tả rất hay ở chỗ khéo
phạm đến nhau như một chuyện, song lại biến khác xa nhau, tức đã tránh nhau.
Khi phạm đến nhau, rồi lại tránh xa nhau, không một chuyện nào giống hẳn chuyện
nào, mới thấy phép văn dũ xuất dũ kỳ, tác giả mới thực là chân chính tài tử.
Như ở chuyện này, sau khi tả xong Lâm Xung mua đao báu, rồi xảy ra câu chuyện,
cho đến hồi này tiếp tả luôn Dương Chí bán đao báu, rồi cũng xảy ra câu chuyện,
hai chuyện cùng phải tội tù, kết lại tưởng như một may một rủi, thế mà cả hai
đều phải trốn tránh, không đắc chí với đời, đã thấy phép văn khéo phạm đến
nhau, mà lại khéo tị khác nhau.
Lại
rằng: Ta đọc Thủy Hử đến đây, không khỏi ngậm ngùi, mà than rằng: Tác giả Thủy
Hử, muốn bảo là chẳng phải tài tử, sao có thể được? Hỡi ôi! Trong lòng kẻ có
tài phi thường, phải có ngọn bút phi thường, có ngọn bút phi thường, phải có
sức phi thường, nếu không có tài phi thường, thì làm sao cấu tứ nổi? Mà không
có bút phi thường, làm sao mà trổ tài năng? Và không có sức phi thường, làm sao
viết nổi bút ấy? Nay xem Thủy Hử tả Lâm Võ Sư, chợt thấy vì bảo đao mà diễn ra
văn chương kỳ thái; Tới khi tả Dương Chế Sứ cũng thấy vì bảo đao mà cũng diễn
ra văn chương kỳ thái. Hỡi ôi! Tả chuyện hào kiệt không bao giờ hết nay chợt
gác chuyện hào kiệt, mà tả bảo đao, đó là mượn cái tài phi thường, mà biết đâu
bảo đao là thế thân hào kiệt? Chỉ tả chuyện bảo đao đi đến hứng thú, đã thành
ra tả hào kiệt hứng thú ở trong rồi. Tả bảo đao mà ra hào kiệt vậy. Đem bảo đao
tả chuyện võ sư, lại đem bảo đao tả chuyện Chế Sứ, hồi trước một thanh bảo đao
làm sáng chói võ sư, hồi này cũng một thanh bảo đao làm sáng diễn ra, nổi lên
đối trĩ, dùng bút đến thế, rất kỳ hiểm vậy, nếu bảo rằng chẳng phải phi thường,
mà xét mặt nhơn ngơn, đối với trăm nghìn người đều nhận xét ra, còn cãi rằng
không phi thường sao được.
Chuyện
mua đao với chuyện bán đao, diễn ra khác nhau, mà cũng giống nhau, rồi vẫn khác
nhau, văn tự từng câu từng chữ, không phạm đến nhau bút pháp tác giả ly kỳ biến
ảo, khác nào cảnh lạ như Thái Sơn nổi bên đông, Hoa Sơn nổi bên tây, hai bên
đối trĩ ly kỳ, không một chút giống nhau, thì đủ biết rằng ngọn bút loài người,
khác nào văn chương tạo hóa!
Dưới cầu
Thiên Hán, tả chuyện anh hùng bí lối, khiến người như ngồi suốt đêm đông; gấp
tả ngay trước sảnh Diễn Võ, tả chuyện anh hùng đắc ý khiến người như chợt tới
đài xuân, lúc buồn thêm một nỗi buồn, khi vui thêm một chuyện vui, đều là tài
tác giả phi thường, theo đuổi từng bước theo hình long hổ mà xuất hiện.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 12: Nơi Đông Quách, Cấp Tiên Phong
tranh công; Đất Bắc Kinh, Thanh Diện Thú đấu sức
Khi đó
Dương Chí và Chu Cẩn toan xông ngựa ra để đấu nhau, thì bỗng thấy quan Đô Giám
Văn Đạt thét lên rằng:
- Hãy
khoan tay.
Bấy giờ
Dương Chí và Chu Cẩn đều đứng dừng ngựa lại.Văn Đạt từ thượng sảnh chạy lại bẩm
với Lương Trung Thư rằng:
- Dám
bẩm ân tướng, vâng lệnh ân tướng, cho hai bên ra thử võ nghệ, cũng chưa biết
rằng bên nào thua được, song đao thương là vật vô tình xưa nay, chỉ dùng để
giết thù đánh giặc. Nay quân tướng trong nhà tập thử với nhau, mà cũng cứ dùng
như thế, lỡ ra hoặc đến tàn tật, hay là thiệt đến tính mạng thế nào thì đối với
việc quân có điều không lợi. Vậy dám xin ân tướng truyền cho tháo bỏ trên dưới
ngọn thương mà bọc vải chấm vôi vào đó, rồi cho hai tướng phải mặc áo đen, để
trông vết trắng mà phân thua được thì hơn.
Lương
Trung Thư khen là có lẽ, liền truyền cho hai tướng cứ theo thế để thi hành. Khi
buộc thương thay áo xong đâu vào đấy rồi hai người lại lên ngựa để xông ra đấu.
Hai bên
đánh nhau ước được 4, 5 mươi hiệp, thì trên áo Chu Cẩn đã be bét có tới 3, 4
mươi dấu trắng, mà bên kia Dương Chí chỉ có một nốt trắng ở trên vai, Lương
Trung Thư thấy vậy cả mừng, gọi Chu Cẩn đến trước sảnh mà bảo rằng:
- Quan
trước cho ngươi làm chức quân trung Phí Bài, nhưng cứ xem võ nghệ của ngươi như
thế, thì phỏng đánh đông dẹp bắc làm sao cho được? Vậy từ nay ta cho Dương Chí
thay vào chức ấy.
Trung
Thư nói dứt lời, thì quan Đô Giám Lý Thành đến trước bẩm rằng:
- Bẩm ân
tướng, Chu Cẩn dẫu đánh thương có kém, song nghề cung nghề ngựa quen giỏi xưa
nay, nếu ân tướng truất ngay như thế, thì e nỗi lòng quân không phục, vậy lại
xin cho hai bên thử đấu nghề cung nghề ngựa xem sao?
Lương
Trung Thư cho là phải, liền truyền cho Dương Chí và Chu Cẩn lại lấy cung tên ra
đấu.
Hai
người cùng vâng tướng lệnh, đoạn rồi Dương Chí đến chỗ treo cung chọn lấy một
cây ngay ngắn, cầm ra tay nhẩy lên ngựa, rồi ra trước Võ Sảnh ngồi lên trên yên
ngựa, cúi mình mà bẩm với Trung Thư rằng:
- Bẩm ân
tướng cung tên là việc võ, ngộ lỡ ra thương hại đến người, thì bấy giờ làm sao?
Xin ân tướng dạy trước cho.
Trung
Thư nói:
- Đã là
võ phu thí nghệ, thì còn cần chi đến sự tổn thương, cho phép các ngươi cứ bắn,
giỏi thì được mà thua chết thì thôi không ngại. Dương Chí vâng lệnh, rồi quay
ngựa đi ra trước trận.
Bấy giờ
Lý Thành lại truyền cho hai bên mỗi người cầm lá chặn che tên, rồi mới ra trận.
Khi ra trận, Dương Chí bảo Chu Cẩn rằng:
- Bây
giờ tôi nhường bác bắn tôi ba phát trước, rồi tôi bắn lại sau.
Chu Cẩn
nghe nói, trong bụng đã căm tức vô cùng, muốn sao bắn cho Dương Chí một phát
suốt óc chết ngay thì mới thích. Về phần Dương Chí nguyên là một tay quan võ
xuất thân, cũng đã am hiểu các thủ đoạn xưa nay cho nên cũng không coi vào đâu
cả.
Khi ấy
trên Tướng Đài phất lá thanh kỳ, thì Dương Chí vỗ ngựa cho đi về bên Nam, rồi
Chu Cẩn cũng buông ngựa đuổi theo. Đoạn rồi Chu Cẩn bỏ dây cương xuống yên
ngựa, mà tay tả cầm cung, tay hữu cầm tên, nhắm đằng sau Dương Chí bắn ra một
phát Dương Chí nghe thấy tiếng dây cung bật đến banh một cái, liền tránh ngoắt
ra một bên, thành thử mũi tên bắn vụt ra ngoài mất. Chu Cẩn thấy vậy, trong
bụng hơi mừng, lại lấy ra một mũi tên nữa, nhè lúc Dương Chí đi gần, mà nhằm
giữa sau lưng bắn luôn một phát nữa. Dương Chí nghe biết tiếng tên thứ hai đã
phát thì không né mình để tránh mà cầm cây cung ở tay gạt một cái đúng vào mũi
tên kia bắn ngay ra đất.
Chu Cẩn
thấy hai phát tên bắn ra đều vô ích cả, thì trong lòng lại bồn chồn khó chịu,
quây ra thấy con ngựa của Dương Chí đã đi hết đất giáo trường, mà quay vòng trở
lại chính sảnh, chàng bèn cùng quay ngựa lại mà đuổi theo. Bấy giờ lại lấy mũi
tên thứ ba mà dùng hết sức bình sinh, nhằm thực đích xác vào chính giữa sau
lưng Dương Chí mà bắn ra.
Dương
Chí biết vậy, vội ngồi trên yên ngựa, quay mình lại giơ tay lên bắt lấy mũi
tên, rồi phóng ngựa vào Diễn võ sảnh mà vất mũi tên của Chu Cẩn xuống. Lương
Trung Thư trông thấy cả mừng, truyền lệnh cho Dương Chí ra bắn cho ba phát tên.
Khi đó
lá thanh kỳ ở trên Tướng Đài lại lay động, Chu Cẩn liền vất cung xuống đất, cầm
lá chắn ra tay, mà vỗ ngựa đi sang phía Nam.
Dương
Chí thúc hai chân vào vế, thì con ngựa lốp đốp co cẳng chạy theo, đoạn rồi
chàng giương cung bắn ở tay, bắn đứt đến tạch một cái. Đằng kia Chu Cẩn nghe
tiếng tên bắn, thì vội quay mình mà giơ lá chắn lên, để đỡ, té ra lại không
thấy gì cả. Bấy giờ Chu Cẩn lại nghĩ trong bụng: "Anh này chắc chỉ biết
đánh gậy, mà không biết bắn, để đợi khi hắn bắn dứt phát nữa, thì ta sẽ kêu to
lên, thế thì ta đắc thắng".
Chu Cẩn
vừa nghĩ xong, thì ngựa đã đi đến đầu giáo trường bên Nam, chàng liền quay
cương cho ngựa chạy trở lại.
Con ngựa
của Dương Chí thấy con ngựa kia quay đầu lại, thì cũng ngoắt ngay lại đuổi
theo. Dương Chí lấy một mũi tên trong túi ra, rồi nghĩ một mình rằng: "Nếu
ta bắn vào giữa chỗ lưng sau, thì tất là hắn chết, ta với hắn không có cừu thù
gì, mà làm như thế thì không tiện, vậy ta cứ bắn cho hắn bị thương thôi cũng
được".
Nghĩ
đoạn tay tả dang ra như đẩy núi Thái Sơn, tay hữu co lại như ôm đứa con đỏ, rồi
thấy cánh cung vòng lên, như vòng trăng khuyết, mà mũi tên bắn vụt ra như sao
đổi ngôi vậy. Bây giờ nói còn chậm, chứ bấy giờ thì rất nhanh, mũi tên ấy bắn
ra, Chu Cẩn chưa kịp trở mình, đã bị trúng ngay vào cánh tay bên tả, ngã lăn
xuống đất, còn con ngựa thì chạy thộc ra đằng sau Diễn Võ Sảnh.
Dương
Chí vẫn thần sắc tự nhiên như thường, xuống ngựa đến trước sảnh lạy Lương Trung
Thư mà nhận chức. Chợt có người ở dưới thềm bên tả, chạy đến kêu lên rằng:
- Khoan
khoan hãy nhận chức, để tôi với anh thử đấu một lúc xem sao?
Dương
Chí nghe nói bèn quay lại nom thấy người ấy đứng trước mặt Lương Trung Thư mà
bẩm rằng:
- Bẩm ân
tướng, Chu Cẩn bị yếu mới dậy, cho nên đến nỗi bị thua Dương Chí, nay tiểu
tướng dẫu bất tài, xin cho ra đấu với Dương Chí một keo. Bằng có kém thua một
tý nào, xin nhường ngay chức của tiểu tướng cho Dương Chí, tiểu tướng không hề
dám oán hận điều chi.
Lương
Trung Thư trông ra, thì chính là Chánh Bài Quân, ở Đại danh phủ tên là Sách
Siêu, vốn người nóng tính xưa nay, việc quốc gia thường hay tranh khí mà xốc
vác tiên phong, cho nên ai cũng gọi tên là Cấp Tiên Phong Sách Siêu.
Khi ấy
Lý Thành ở trên Tướng Đài nghe thấy vậy, thì cùng xuống trước cửa sảnh mà bẩm
với Lương Trung Thư rằng:
- Dám
thưa ân tướng, ân tướng đã cắt Dương Chí ra đây, thì tất nhiên là người giỏi,
không phải là tay Chu Cẩn đối địch. Vậy để cho Chánh Bài Quân Sách Siêu đọ lại
thì mới biết rõ được võ tài hơn kém. Xin ân tướng cho phép thế mới công bình.
Lương
Trung Thư nghe nói, nghĩ thầm trong bụng rằng: "Ta cốt đài cử cho Dương
Chí, thế mà chúng tướng lại không phục, vậy ta cứ để cho hắn đánh đổ Sách Siêu,
thì tất nhiên các cậu dẫu chết, cũng không còn oán hận điều chi được
người". Nghĩ đoạn quay ra bảo Dương Chí rằng:
- Nếu
vậy thì ngươi theo quân kho ra mà chọn lấy quân khí, rồi cho mượn chiến mã của
ta, để mà ra đấu, nhưng phải cẩn thận, chớ coi thường mới được.
Dương
Chí vâng lời tạ ơn, rồi trở ra sắm sửa.
Bấy giờ
Lý Thành cũng gọi Sách Siêu ra mà bảo rằng:
- Anh
phải biết, anh không như người khác được, lúc nãy Chu Cẩn là học trò anh bị
thua rồi, nay nếu anh lại lỡ ra thế nào, thì họ không còn coi đám quan quân ở
Đại danh phủ này ra gì nữa đâu. Tôi có con ngựa chiến, ra trận đã quen, và các
thứ đai giáp đây, cho anh mượn mà dùng, tất phải dụng tâm cẩn thận, chớ để mất
nhuệ khí mà nguy.
Sách
Siêu nghe lời, tạ ơn Lý Thành mà ra đi sắm sửa đai giáp.
Khi đó
Lương Trung Thư đứng dậy, đi ra trước thềm rồi các quân hầu mang ghế chéo bắc
ra chỗ bao lơn Nguyệt Đài để Trung Thư ngồi, vào tả hữu đứng dàn ra hai bên,
rồi có một tên cầm tàn đứng che ở đằng sau ghế.
Bấy giờ
ở trên Tướng Đài phất hồng kỳ ra hiệu, thì hai bên đều nổi chiêng trống vang
lừng, đoạn rồi tiếng trống dứt, thì tiếng pháo nổ lên, mà bên kia Sách Siêu bên
này Dương Chí, đều phất ngựa ra đứng dưới cờ mặt trận. Hồi trống thứ hai nổi
lên, trên Tướng Đài phất lá Bạch kỳ, thì quan quân đâu đấy đứng im phăng phắc
một lượt.
Đoạn rồi
lá thanh kỳ trên Tướng Đài lay dộng, rồi chiến cổ thứ ba nổi lên, thì thấy cửa
trận tả rẽ ra, tiếng nhạc kêu xoang xoảng, rồi quan Chánh Bài Quân Sách Siêu
cưỡi con ngựa bạch của Lý Đô Giám tay cầm quân khi đi ra giữa trận vẻ rất oai
nghiêm. Bên kia cửa cờ hữu trận cũng mở ra rồi Dương Chí tay cầm cây thương,
cưỡi con ngựa đỏ Thiên Lý tiên phong của Lương Trung Thư, nhạc khua xoang xoảng
đi ra, đứng giữa trận địa, nom rất hùng dũng.
Bấy giờ
quân kỳ bài cầm cờ lệnh, vỗ ngựa đến trước trận, mà tuyền lệnh rằng:
- Vâng
lệnh tướng công, truyền cho hai viên đều phải dụng tâm cẩn thận, bằng có sơ
xuất hớ hênh, thì là có phạt. Nếu ai đắc thắng tất có thưởng to.
Hai
người được lệnh, đều thúc ngựa ra giáp trận với nhau. Sách Siêu ra dáng tức
giận; Múa cây phủ trong tay mà đánh Dương Chí trước, Dương Chí đỡ thương lên
đón, rồi hai bên hết sức bình sinh đánh nhau tới 50 hiệp, mà không rõ được
thua.
Lương
Trung Thư ở trong Nguyệt Đài, ngồi ngây ra xem hai người đấu võ, quan quân đứng
ở hai bên cùng các hàng quân sĩ trong trận, đều nom nhau mà thì thầm rằng:
- Chúng
ta theo việc quân đã lâu cũng có nhiều phen ra trận nhưng chưa từng thấy hai
tay hảo hán như thế bao giờ?
Lý
Thành, Văn Đạt đứng trên Tướng Đài, nom xuống đều phải vỗ tay khen là giỏi quá!
Văn Đạt lại e trong hai người, hoặc lỡ ra bị đau đớn thiệt hại, liền bảo kỳ bài
quan giơ cờ hiệu cho hai bên dừng lại.
Khi đó
trên Tướng Đài nổi hiệu thanh la lên, song Dương Chí, Sách Siêu đương hăng đánh
để tranh công, không ai chịu dừng tay cả.
Quan kỳ
bài thấy vậy, phải quay ra trước trận, mà thét lên rằng:
- Hai
tay hảo hán hãy khoan tay, tướng công có lệnh...
Dương
Chí, Sách Siêu nghe lệnh mới chịu thu tay thương phủ, mà xóc ngựa quay về bản
trận, đứng ở dưới cờ để đợi lệnh.
Bấy giờ
Lý Thành, Văn Đạt ở Tướng Đài, chạy xuống Nguyệt đài bẩm với Lương Trung Thư
rằng:
- Bẩm
Tướng Công, võ nghệ của hai người ấy, đều có thể trọng dụng được lại.
Lương
Trung Thư nghe nói cả mừng, truyền lệnh cho Kỳ Bài Quân đòi Dương Chí, Sách
Siêu vào, rồi sai phòng Quân Chánh thảo văn án cho hai người thăng chức Đề Hạt.
Hai người vâng lệnh lạy tạ Lương Trung Thư, rồi trở ra thay bỏ các đồ nhung
phục, Trung Thư lại gọi hai người vào làm lễ tương kiến với nhau, mà dự vào ban
Đề Hạt. Đoạn rồi Lương Trung Thư cùng các quan viên lớn nhỏ cùng ăn tiệc ở Diễn
Võ Sảnh, mãi đến mặt trời xế hôm mới tan.
Khi trở
ra về thấy các phụ lão hai bên hàng phố, đều dắt dúm đi theo ra dáng vui mừng
hớn hở, Lương Trung Thư ngồi trên mình ngựa hỏi rằng:
- Các
người, dân chúng có việc gì mà vui mừng như thế?
Bọn già
lão bẩm rằng:
- Từ khi
chúng tôi sinh ra ở Bắc Kinh tới nay, chưa hề bao giờ được thấy hai người hảo
hán địch thủ như buổi hôm nay, bởi thế chúng tôi đều lấy làm vui mừng quá đỗi.
Trung
Thư nghe nói, trong bụng càng lấy làm thích. Khi về tới phủ, các quan viên đều
bái tạ Trung Thư, rồi ai về nhà nấy, duy còn một mình Dương Chí là lưu lại ở
phủ Đại Danh mà hầu hạ Trung Thư, sớm khuya rất là cần mẫn. Từ đó Lương Trung
Thư lại càng thương yêu Dương Chí, các quan viên gần đó, cũng dần dần kéo đến
làm quen mà Sách Siêu thấy Dương Chí võ nghệ cao cường thì cũng dốc lòng kính
phục.
Đời
người như cái con quay.
Khi im
phắc khi xoay xoay tròn
Bây giờ
chim đã vào ngàn
Biết
rằng sau có lạc đàn nữa không?
Sớm hôm
thay đổi, ngày tháng xoay vần, thấm thoát không bao, mà xuân qua hạ lại. Một
hôm vào khoảng giữa tết Đoan Ngũ, Xài phu nhân bảo với Trung Thư rằng:
- Tướng
Công ngày nay làm đến chức Thống Súy, cầm quyền quốc gia ở trong tay, vậy cái
công danh phú quý ấy, ở đâu mà đến nhỉ?
Lương
Trung Thư đáp rằng:
- Tôi
lúc thuở nhỏ có theo đòi kinh sử, có biết ít nhiều đạo lý, lẽ đâu lại không
biết cái công danh phú quý này là của Thái Sơn cất nhắc lên cho.
- Tướng
Công đã biết như vậy, mà sao lại quên ngày Sinh Nhật của phụ thân tôi?
- Có khi
nào quên được. Đến hôm Rằm tháng sáu đây, là Sinh Nhật của Thái Sơn, hiện tôi
đã sai người mua sắm mười vạn kim ngân châu báu, để làm lễ thọ từ tháng trước,
chỉ nay mai mua xong là mang dâng đó thôi. Chỉ có một điều tôi còn phân vâng
chưa quyết, là năm trước đã sai người đem bao nhiêu kim ngân châu báu để dâng,
bất đồ đi đến giữa đường, bị quân gian cướp lấy, đến nay truy nã chưa ra, vậy
thì bây giờ biết sai ai đưa đi cho chắc được.
- Hiện
nay ở trong phủ biết bao nhiêu quan quân ở đó, Tướng Công há lại không chọn
được một người tâm phúc mà sai khiến hay sao?
Lương
Trung Thư nói:
- Nhưng
mà chuyện ấy còn hơn một tháng trời nữa, để bao giờ mua sắm xong rồi, sẽ chọn
người mang đi cũng được, vội gì? Phu nhân cứ an tâm, thế nào tôi cũng chu tất
được.
Nói về
tỉnh Sơn Đông, phủ Tế Châu, huyện Vận Thành, có một quan Huyện mới, tên là Thời
Văn Bân, mới đến nhậm ở đó, một hôm cho hai viên Tuần Tập Đô Đầu là Chu Đồng và
Lôi Hoành đến mà bảo rằng:
- Ta
nghe trong hạt Tế Châu đây, có một bọn cướp ở Lương Sơn Bạc, xưa nay vẫn thường
giết người lấy của mà cự địch cả quan quân. Vả lại e các đám trộm cắp ở hương
thôn cũng vùng vẫy theo lên, thì đảng ác tất to mà khó trị. Vậy nay hai các
ngươi phải chịu khó đem đám thổ binh, một đằng đi ra cửa tây, một đằng đi ra
cửa đông, để chia đường tróc nã giặc cướp đem về giải nộp ở đây, mà không được
quấy nhiễu dân gian chi cả. Ta thấy nói ở trên ngọn núi thuộc về Đông Khê có
một thứ cây Đại hồng mà không đâu có nữa, vậy các ngươi đi về phải đem theo mấy
cái lá cây để ta biết làm tin mới được. Nhược bằng không có cái lá ấy thì tất
là man trá, ta sẽ trọng phạt không tha.
Hai
người Đô Đầu này, một người là Đô đầu Mã binh coi 24 tên quân và ngựa cùng 20
tên thổ binh; Một người là Đô đầu Bộ binh, coi 20 tên thương đầu mục, và cũng
có 20 tên thổ binh nữa.
Người Đô
đầu Mã binh họ Chu tên Đồng, mình cao hơn tám thước, râu dài thước rưỡi coi như
râu hùm, mặt dài mắt sắc, hơi giống tướng mạo Quan Vân Trường, là một nhà phú
hộ ở bản xứ, nhân vì có lòng trọng nghĩa khinh tài, cho nên thường kết giao với
đám giang hồ hảo hán, mà học được mọi ban võ nghệ; Người Đô đầu Bộ binh tên là
Lôi Hoành, mình dài bảy thước rưỡi, mặt mũi đỏ tía, ria râu xòe như cái quạt,
sức vóc khỏe mạnh hơn người, thường nhảy qua được những nơi hào rãnh rộng chừng
3, 4 trượng, cho nên người ta thường gọi ông là Sáp Sí Hổ, nguyên là một tay
thợ rèn xuất thân, cũng hơi có lòng nghĩa khí, nhưng tâm địa thì vẫn hẹp hòi.
Hôm đó
hai người vâng lệnh Tri huyện, rồi trở về điểm các thổ binh của mình, mà chia
đường đi tuần canh. Lôi Hoành dẫn 20 tên đi ra cửa đông, xét nét vùng quanh các
thôn xã, rồi trở về ngọn núi ở thôn Đông Khê, nhặt được nắm lá Đại hồng, rồi
lại đi xuống thôn để về nhà Bảo Chính.
Bấy giờ
trời đã tối, Lôi Hoành cùng quân lính, đi được 2, 3 dặm đường, bỗng đến một tòa
miếu Linh Quan, thấy cửa còn bỏ ngỏ, Lôi Hoành liền bảo với chúng rằng:
- Cái
miếu nầy làm sao mà không đóng cửa? Hay là có trộm cắp nấp ở trong này chăng?
Ta thử vào soi ở đó xem sao?
Chúng
vâng lời, cùng nhau đem đuốc vào soi, thì thấy trên án thư một đại hán cổi trần
trùng trục, cuộn áo làm gối mà nằm gáy khò khò ở đó.
Lôi
Hoành thấy vậy, đoán chắc là một tay trộm cướp nằm đó, lấy làm khâm phục Huyện
quan là thần minh, liền quát một tiếng, sai thổ binh đổ xô vào trói lại.
Anh kia
nghe tiếng, toan vùng trở dậy, thì đã bị thổ binh lấy thừng trói chặt cánh tay,
mà dong ngay về thôn Bảo Chính.
Buồn
tênh cho khách giang hồ,
Bỗng
dưng sao lại lần mò đến đây.
Canh
trường giấc điệp còn say,
Bừng con
mắt dậy mới hay giật mình.
Hóa công
cũng giống vô tình,
Làm chi
sự bất thình lình trêu ai?
Rồi đây
quấy nước đục trời,
Còn thân
còn để cho đời biết tay...
Lời bàn
của Thánh Thán:
Người
xưa có nói: Vẽ cung điện Hàm Dương thì dễ, vẽ Sở nhân đốt lửa thì khó: Vẽ ngàn
dặm thuyền bè thì dễ, vẽ nước trào tháng Tám thì khó. Nay đọc truyện Thủy Hử
đến hồi Đông Quách tranh công, tả cho có khác vẽ lửa vẽ trào, do một ngọn tuyệt
bút. Vì Lương Trung Thư rất yêu Dương Chí, nhằm vào sau đây dùng vào việc Sinh
Nhật Thái Sơn, nên yêu để mà sau ký thác việc trọng đại cho nên trước phải lưu
ý đề cử làm quan mà cần phải mở cuộc đấu võ ở Giáo Trường cho cônh chúng không
còn tị nạnh. Lúc đầu chỉ một Chu Cẩn xin đấu thì lược tả đấu thương, tường
thuật đấu cung mã, cũng gọi là một cuộc đấu tài hứng thú, thế mà tác giả lại
đem cái tài không bờ không bến, còn diễn ra cuộc đấu võ khác nữa, cho xuất hiện
ra một Sách Siêu, chợt thấy ở dưới thềm bên tả xin đấu sức đua tài, khiến Lương
Trung Thư thấy sự xảy ra ngoài ý định. Bấy giờ hai người từng giao thủ, mà
Lương Trung Thư lưu ý Dương Chí, muốn cho thắng trận, mới cho mượn chiến mã bên
kia Lý Thành cũng giúp Sách Siêu mà cho mượn chiến mã, kể ra cuộc đấu có phần
sôi nổi gay go...Trước khi hai tay chưa từng cử động tý chút, đã làm cho độc
giả chú ý, khác dạng kinh hồn động phách trừng mắt, để tâm chờ đợi, thế mà còn
gác chuyện đấu võ, lại tả ra Lương Trung Thư chạy tới Nguyệt Đài, nào đặt tiền
thưởng, rượu ngon, trịnh trọng ngồi dưới tàn che quạt rũ, đợi cho mấy lần pháo
nổ, trống khua mấy lần phất lên Cờ Đỏ, Cờ Vàng, Cờ Xanh, Cờ Trắng rồi sau mới
tả ra hai tay hảo hán xuất trận, khiến độc giả đợi chờ, để tâm trừng mắt, sao
khỏi kinh hồn mất vía vì một cuộc tranh công? Đợi đến khi hai người chiến đấu,
chỉ tả một câu chính văn: Đánh đến 50 hiệp không phân thắng phụ. Tả đến đấy rồi
tiếp làm cho Lương Trung Thư ngây ngô, quan quân cũng ngây ngô, khắp giáo
trường không ai nói một câu, chỉ Lý Thành, Văn Đạt hai người luôn mồm khen
giỏi, khiến độc giả nghĩ bụng, khắp Giáo Trường ai cũng chú trọng hai tay với
chiến mã binh khí, chẳng mình Trung Thư ngây ra, đến ngay độc giả cũng ngây ra,
đến khi ra lệnh thu quân, còn tả một câu: Hai hảo hán còn muốn tranh công,
không chịu ngừng lại. Hành văn đến thế, khác nào vẽ lửa vẽ trào? Trời sinh
tuyệt bút tự có bút mực, chưa có văn này, tự có văn này, chưa có phê bình này
vậy. Hỡi ôi! Thú vui thiên hạ, không gì bằng đọc sách, đọc sách không gì bằng
Thủy Hử, lại còn nỡ nào chẳng cùng với khoái nhân trong thiên hạ đời sau bên
rượu dưới đèn, để tán thưởng áng văn như vậy!
Một hồi
sách này, ngu phu đọc đến, thì cho rằng Đông Quách tranh công, để định phận cho
Dương Chí, một sự long trời lở đất xẩy ra, có hay đâu chỉ nhằm vào việc Sinh
Nhật sau đây mà ký thác Dương Chí, cho nên bỗng không nảy ra một sự như lâu đài
lừng lẫy giữa trời, chỉ do Lương Trung Thư yêu Dương Chí vậy. Cho nên trong khi
tả Lương Trung Thư lưu ý Dương Chí là những chỗ văn tuy ít, song là chính, mà
tả Chu Cẩn, Sách Siêu tỷ thí, văn tuy nhiều rực rỡ dọc ngang lại là phụ bút,
nếu đọc không phân ra chủ khách chính phụ thì không nhận được ra những cái hay.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 13: Xích Phát Quỷ say nằm Linh Quan
Điện; Tiểu Thiên Vương nghĩa nhận Đông Khê Thôn
Lôi
Hoành sai bọn thổ binh giải tên đại hán ấy về nhà Tiểu Bảo Chính ở thôn Đông
Khê để ăn uống, điểm tâm qua loa rồi sẽ giải về huyện sau. Nguyên Bảo Chính
thôn Đông Khê là người họ Tiều, tên là Cái, vốn con nhà phú hộ ở trong làng,
bình sinh trọng nghĩa khinh tài, hay giao kết bọn hảo hán trong thiên hạ, bao
nhiêu người đến ở đó, bất luận là hay dở thế nào, hết thảy đều dung nạp tử tế,
rồi đến lúc ra đi, lại tặng đãi tiền nong để mà chi dụng. Chàng ta sức vóc khỏe
mạnh, thích nghề roi gậy kiếm cung, mà không cần vợ con bận rộn, suốt ngày chỉ
luyện tập gân cốt mà thôi.
Ngoài
cửa Đông Môn huyện Vận Thành có hai thôn, một bên gọi là Đông Khê, một bên gọi
là Tây Khê, hai bên cách nhau bằng một cái khe lớn. Ngày trước bên thôn Tây
Khê, thường có ma qủy hiện hình, ban ngày dắt người xuống dưới khe, mà không ai
trị nổi. May đâu một hôm có một người đạo sĩ đi qua, người trong thôn liền đem
chuyện kể cho đạo sĩ biết. Đạo sĩ bảo người hàng thôn trỏ đến chỗ ấy, rồi dựng
một cái bảo tháp, bằng đá xanh lên để trấn trụ bên khe, thì bao nhiêu ma qủy
bên Tây Khê, kéo sang Đông Khê để ở. Bấy giờ Tiều Cái thấy chuyện như thế, lấy
làm tức giận, đi sang bên kia khe cướp lấy bảo tháp đá xanh, đem về trấn ở bên
đây. Bởi thế người gần đấy ai cũng gọi chàng ta là Thác Tháp Thiên Vương Tiều
Cái, mà uy thế lừng lẫy trong thôn, đám giang hồ ai cũng biết.
Khi đó
Lôi Hoành cùng bọn thổ binh dong anh hảo hán kia, tới cổng trang, bảo trang
khách vào báo cho Bảo Chính biết. Tiều Cái còn đang ngủ chưa dậy, bỗng nghe tin
báo Lôi Hoành đến, thì vội vàng gọi mở cửa trang để đón Lôi Hoành và bọn thổ
binh vào.
Bọn thổ
binh rong chàng hảo hán vào ở một chỗ phòng kia, còn Lôi Hoành thì dẫn mấy tên
đầu quân đến thảo trường để chào Bảo Chính.
Bấy giờ
Bảo Chính trở dậy tiếp chào rồi hỏi Lôi Hoành rằng:
- Chẳng
hay Đô Đầu có công cán gì, mà đêm hôm đến đây làm vậy?
- Tôi
vâng lệnh Quan Huyện cùng với Chu Đồng mỗi người đi tuần tiễu một mặt, nhân qua
đây nghỉ chân nhờ Bảo Chính một lát, làm phiền giấc ngủ, xin ngài thứ lỗi cho.
Tiều Bảo
Chính nói:
- Cái đó
có hề chi, xin ngài ngồi chơi xơi chén rượu cho vui.
Nói
đoạn, nhất diện sai người nhà dọn rượu lên để thiết đãi, rồi lại hỏi Lôi Hoành
rằng:
- Ngài
qua tệ thôn đây, có bắt được tên trộm cướp nào không?
Lôi
Hoành nói:
- Mới
rồi đi qua điện Linh Quan, có một tên đại hán, đương nằm ngủ ở trong miếu, tôi
đoán chắc là tay gian quái nằm ở trong đó, nên tôi có cho trói lại để nộp Quan
Huyện; Nhân tiện qua đây còn sớm, cũng muốn vào đây để nói cho Bảo Chính biết,
để lỡ ra khi quan trên có hỏi đến, thì Bảo Chính cũng được rõ căn nguyên. Người
đó hiện còn trói, để ngoài phòng kia.
Tiều Cái
nghe nói thì để bụng, rồi lại nói với Lôi Hoành rằng:
- Xin
cảm ơn ngài có lòng hạ cố, cho biết đến như thế.
Được một
lát thì nhà dọn cơm lên. Thương Châu nói rằng:
- Ngồi
đây có lẽ nói chuyện không tiện, vậy xin mời ngài vào nhà trong cho kín đáo.
Liền sai
người nhà thắp đèn dọn rượu vào nhà trong, mời Lôi Hoành vào uống rượu, và sai
dọn rượu đãi bọn thổ binh luôn thể.
Tiều Cái
ngồi tiếp rượu Lôi Hoành, trong bụng nghĩ thầm rằng:
- Trong
thôn ta đây làm gì có trộm cướp mà lão nầy bắt được? Âu là ta lẻn đi xem kỹ xem
sao.
Nghĩ đoạn
cất chén mời luôn dăm bảy chén, rồi gọi người ra ngồi tiếp Lôi Hoành mà nói
rằng:
- Xin
mời ngài cứ xơi rượu, tôi xin phép ra cửa một lát, rồi lại vào hầu ngay.
Nói rồi
đứng dậy, thắp cái đèn bóng đi ra. Bấy giờ bọn thổ binh đang uống rượu ở nhà
ngoài, Tiều Cái liền bảo người nhà dẫn vào phòng người bị trói để xem. Khi đẩy
cửa phòng bước vào, thấy một chàng cao lớn lông ngông mình đen chùi chũi, hai
bắp chân và hai trái đùi để trần như nhộng vậy.
Tiều Cái
giơ đèn soi lên mặt, thì thấy mặt đen trán rộng, hai bên mái tóc có nốt ruồi
đỏ, mọc mấy cái lông vàng ở trên, chàng liền hỏi người kia rằng:
- Bác
nầy ở đâu đến đây, tôi không trông thấy ở trong thôn nầy bao giờ cả.
Người
kia đáp:
- Tôi là
khách ở xa, muốn đến tìm người ở mạn nầy, thế mà lại bắt trói tôi cho là trộm
cướp, rồi tôi cũng có chỗ phân biện được.
- Bác
định tìm ai ở đây?
- Tôi
định đến tìm một tay hảo hán ở đất này.
- Hảo
hán tên là gì?
- Hảo
hán ấy là Tiều Bảo Chính.
Tiều Cái
nghe đến đó vẫn điềm nhiên hỏi rằng:
- Bác
tìm người ấy có việc gì?
Người
kia đáp:
- Ông ấy
là một tay nghĩa sĩ hảo hán xưa nay, thiên hạ đã biết tiếng, nay tôi có món quà
phú quý muốn tìm đến để mách ông ấy đây.
Tiều Cái
nghe vậy thú thực rằng:
- Nếu
vậy thì Tiều Bảo Chính chính là tôi đây, mà đương định đến để tìm cách cứu bác
đây. Thôi có phải thế thì bác cứ nhận tôi là ông cậu, rồi đến khi tôi đưa bọn
kia ra đây, thì bác gọi to lên, bấy giờ tôi sẽ có cách thoát thân cho bác.
Người
kia có vẻ vui mừng mà rằng:
- Nếu
thế thì phúc đức nhà tôi, lại lạc vào tay ngài, xin ngài liệu cách chu toàn
giúp chuyện cho.
Đoạn rồi
Tiều Cái lại đi đóng cửa phòng cẩn thận, mà trở vào nhà trong tiếp rượu Lôi
Hoành.
Anh em
bốn bể là nhà
Đã trong
thanh khí lại là sẵn quen.
Bấy giờ
hai người uống rượu hồi lâu, thấy vầng đông đã hơi rạng sáng, Lôi Hoành liền từ
tạ đứng dậy mà nói rằng:
- Bây
giờ trời đã sáng rồi, tôi xin phép Bảo Chính, để trở về cho kịp buổi hầu.
Tiều Cái
nói:
- Vâng,
ngài đi có việc quan, tôi cũng không dám lưu lại nữa, song nếu lần sau ngài có
qua đây, lại xin đón vào chơi xơi nước.
Nói đoạn
đưa chân Lôi Hoành lững thững đi ra. Khi đó các thổ binh rong hảo hán kia ra
đến cửa trang, Bảo Chính trông thấy, liền bảo với Lôi Hoành rằng:
- Anh
này trông khỏe mạnh lắm nhỉ?
Lôi
Hoành nói:
- Thưa
ngài, chính hắn là thằng ăn cướp bắt được ở điện Linh Quan hôm qua đấy.
Nói vừa
dứt lời, thì bỗng thấy anh chàng kia kêu ta lên:
- Cậu
ơi! Cậu cứu tôi với!
Tiều Cái
giả vờ không biết, quay lại nom kỹ một lượt rồi quát lên rằng:
- Á,
thằng này là thằng Vương Tiểu Tam đó phải không?
Anh kia
đáp:
- Vâng,
chính tôi đây, xin cậu cứu tôi với.
Mọi
người nghe lấy làm kinh ngạc, rồi Lôi Hoành hỏi Bảo Chính rằng:
- Người nầy
là ai? Sao lại biết Bảo Chính?
- Thưa
ngài, thằng nầy là thằng Vương Tiểu Tam con bà chị tôi đây, hồi có còn nhỏ có ở
đây bốn năm, rồi sau nó theo bố mẹ sang Nam Kinh, chừng đã mấy mươi năm trời
nay rồi. Hồi nó mười bốn mười lăm tuổi có theo một người buôn bán qua đây một
lần, rồi từ bấy tới nay không thấy tăm hơi đâu cả. Sau chỉ thấy người ta nói là
nó lêu lổng không ra gì, thế mà sao bây giờ lại vơ vẩn ở đây. Lạ thực! Tôi
trông nó bây giờ cũng không nhớ mấy, chỉ còn nhận được cái nốt ruồi đỏ ở trên mái
tóc, cho nên được biết nó là cháu.
Nói xong
quay ra mắng rằng:
- Tiểu
Tam? Sao mầy đến đây mà không tìm vào nhà tao, lại còn đi trộm cướp làm càn như
vậy?
Người
kia cũng kêu rằng:
- Thưa
cậu, tôi có đi làm càn dở gì đâu?
- Mày
không làm càn, có lẽ đâu người ta lại bắt?
Nói đoạn
vớ lấy thanh gậy ở trong tay một đứa thổ binh giơ lên toan đánh.
Lôi
Hoành cùng mọi người đều túm lại khuyên rằng:
- Bảo
Chính hãy khoan tay, để hắn nói xem sao đã.
Anh kia
lại nói:
- Xin
cậu hãy bớt giận, để tôi kể cậu nghe: Từ khi tôi về đây một lần, vào quãng mười
bốn, mười lăm tuổi, tới nay đã ngoại mười năm rồi, hôm qua nhân đi đường uống
mấy chén rượu quá say, không dám vào chào cậu, cho nên phải nằm tạm ở miếu đó
một đêm, định sáng nay sẽ vào. Ai ngờ bị bọn họ đến, bất vấn thị phi gì cả, cứ
trói phăng mà giải đến đây, chứ nào tôi có trộm cướp gì đâu? Tiều Cái lại giơ
gậy lên, tay thì toan đánh, mà miệng thì mắng rằng:
- Đồ súc
sinh, mầy đến đây mà không tìm ta ngay, mà tham ăn uống làm vậy? Nhà ta không
có rượu cho ngươi uống hay sao? Mày làm thế thì có nhục không?
Lôi
Hoành can ngăn mà rằng:
- Thôi,
Bảo Chính đừng giận nữa, anh ấy cũng không ăn trộm ăn cướp gì đâu. Bởi vì chúng
tôi thấy anh nầy to lớn, mặt mày lại vơ vẫn nằm ngủ ở miếu, cho nên tôi mới ngờ
mà bắt đó thôi, nếu có biết là cháu ngài, thì có đâu chúng tôi lại thế.
Nói xong
gọi thổ binh cởi trói cho người kia, để trả lại cho Bảo Chính.
Chúng
nghe nói lập tức cởi trói cho người kia. Lôi Hoành lại nói;
- Xin
Bảo Chính tha lỗi cho, vì chúng tôi lỡ lầm không biết là cháu ngài, thực là đắc
tội. Chúng tôi xin phép ngài để về huyện thôi.
Tiều Cái
nói:
- Hãy
khoan, mời Đô Đầu vào chơi tôi nói câu chuyện này đã.
Nói xong
lại mời Lôi Hoành vào nhà trong, đưa ra 10 lạng bạc mà rằng:
- Tôi
gọi là chút thành tâm, xin Đô Đầu nhận lấy cho.
Lôi
Hoành từ chối mà rằng:
- Sao
ngài lại thế? Chúng tôi không dám nhận.
- Nếu
thế thì ngài không nể Tiều Cái tôi, xin thế nào ngài cũng cầm lấy cho.
Lôi
Hoành miễn cưỡng cầm lấy mà rằng:
- Bảo Chính
đã dạy thế, thì tôi xin tạm lấy, rồi sau sẽ trả ơn ngài.
Bảo
Chính lại gọi anh kia đến tạ ơn Lôi Hoành, và lấy thêm ít tiền đưa cho lũ thổ
binh, rồi lại tiễn chân bọn ấy ra về.
Bấy giờ
Tiều Cái mời anh chàng kia vào nhà trong, sai người lấy quần áo cho thay, rồi
ung dung hỏi đến tên họ hành tung.
Người
kia nói:
- Tôi họ
Lưu tên Đường, vốn người ở Đồng Lộ, nhân vì bên mái tóc có lông đỏ, cho nên họ
thường gọi tôi là Xích Phát Qủy, nay nhân có một món phú quý rất to, toan đến
đây để hiến ngài, ai ngờ bị họ bắt đem đến đây, thực là sự bất hạnh mà cũng may
cho tôi lắm, vậy xin Ca Ca hãy nhận tôi bốn lạy rồi sẽ thưa chuyện.
Nói xong
lạy luôn ngay bốn lạy. Tiều Cái hỏi:
- Phú
quý thế nào, ở đâu, bác hãy nói tôi nghe xem sao?
Lưu
Đường nói:
- Chúng
tôi từ thủa nhỏ trôi nổi giang hồ, nay đây mai đó, cũng kết nạp được ít bạn hảo
hán ở trong đời, xưa nay vẫn thấy bọn tay chơi ở Sơn Đông Hà Bắc, thường hay
lẩn quẩn đến đây, bởi thế nên tôi biết tiếng Ca Ca, mà muốn đến đây để bàn một
việc. Nhưng việc này tất phải kín đáo không thể nào có một người ngoài nghe
được.
- Ở đây
toàn là tâm phúc của tôi cả, xin cứ nói không hề chi.
- Ngài
có biết chuyện Lương Trung Thư ở Bắc Kinh đây sắp đưa châu báu về mừng bố vợ là
Thái Sư ở Đông Kinh không? Ấy năm ngoái đã đưa đi một chuyến 10 vạn quan tiền
châu báu, mà giữa đường bị người ta cướp mất, đến nay tra mãi không ra. Tới năm
nay lại sắp tải đi 10 vạn kim ngân châu báu nữa, để mừng sinh nhật hôm rằm
tháng sáu, có lẽ nay mai là khởi trình đây. Tôi thiết tưởng cái của bất nghĩa,
nó khoét xương hút máu của dân ấy, dẫu ta có lấy đi cũng chẳng tội gì? Vả tôi
nghe tiếng Ca Ca là người tài giỏi, mà tôi đây dẫu chẳng ra gì, cũng biết được
một đôi ngón võ, bởi vậy muốn đến bàn với Ca Ca, nên thừa cơ hội mà cướp lấy món
tiền của cái đồ ăn cướp ngày của dân kia, mà cứu bọn giang hồ bần bách, có thú
hơn không? Cứ như bọn chúng ta đi, thì tôi tưởng không kể gì nó có dăm ba
người, dẫu nó có tới vài ba nghìn quân, ta cũng có thể vung đầu gậy mà không sợ
chi hết cả. Việc ấy nếu Ca Ca định làm, thì tiểu đệ xin tình nguyện giúp một
tay, Ca Ca nghĩ sao?
Tiều Cái
nói:
- Ta hãy
thư thả bàn kỹ xem đã. Nay bác mới ở xa đến, chắc là hãy còn mệt nhọc, vậy xin
hãy vào phòng nghỉ, rồi ta sẽ bàn lại.
Nói xong
gọi người nhà dẫn Lưu Đường vào một gian phòng mới nằm ở đó. Khi Lưu Đường nằm
một mình ở trong phòng, chợt nghĩ ra rằng: "Mình phen này thực vất vả quá!
Cũng may mà gặp được Tiều Cái, cho nên mới thoát được thế này, nhưng nghĩ lại
giận cho thằng khốn nạn hôm qua, bỗng dưng nó bắt mình, bảo ngay là giặc cướp,
mà trói giam mất hẳn một đêm, thế có tức không? Bây giờ có lẽ nó đi cũng chưa
xa mấy, âu là ta đuổi đánh cho nó một mẻ, mà lấy lại món tiền cho Tiều Cái là
hơn. Đồ súc sinh ấy nó quen thói tham quan lại nhũng xưa nay, phải liệu cho nó
mới được".
Nghĩ
đoạn vớ thanh đao đi ra, khép cửa buồng lại, rồi lẻn ra ngoài trang mà chạy về
đằng Nam để theo Lôi Hoành. Mới hay:
Anh hùng
đứng ở trên đời,
Lẽ nào
dung túng những loài tham ô.
Ra tay
múa ngọn gươm thù,
Moi gan
tàn ác đền bù núi sông.
Bấy giờ
mặt trời đã cao hơn trượng, Lôi Hoành đương dẫn lũ thổ binh đi lững thững trên
đường, Lưu Đường chạy thốc lại đến nơi mà quát lên rằng:
- Tên Đô
Đầu kia, muốn sống đứng lại đấy.
Lôi
Hoành nghe nói giật mình quay cổ lại, thấy Lưu Đường hầm hầm chạy đến, liền
giật lấy thanh đao của đứa thổ binh mà thét lên rằng
- Thằng
kia mày định đuổi ta để làm gì?
Lưu
Đường nói:
- Mầy có
biết điều để 10 lạng bạc đây, thì ta tha cho mày.
- Tiền
nầy là tiền của cậu mầy tặng ta đây, có chuyện gì đến mày? Nếu ta không nể cậu
mầy, thì ta chém cổ đi rồi, lại còn dám đến đòi tiền ta hay sao?
Lưu
Đường hầm hầm giận dữ mà rằng:
- Ta tự
nhiên vô cớ không làm giặc ăn cướp gì, thế mà mầy dám bắt trói ta một đêm, rồi
lại biểu cậu ta mà lấy 10 lạng bạc là nghĩa gì? Quân nầy hút máu hút mủ của dân
đã quen, còn toan bắt nạt bọn ta à? Muốn tử tế đưa trả món tiền ấy đây, bằng
không ta xé xác lập tức bây giờ cho mà coi.
Lôi
Hoành cũng nổi giận trỏ Lưu Đường mà mắng rằng:
- Mầy là
đồ ăn cắp làm nhục cả gia phong, lại còn dám vô lễ với ta à?
- Chính
mầy là đồ ăn cướp ăn hại của dân của nước, mầy còn há mồm mắng ai?
Lưu
Đường nói xong vác đao xông vào đánh luôn. Lôi Hoành cười ha hả rồi giơ đao lên
đỡ. Hai bên đánh nhau ở giữa đường cái có tới 50 hiệp, mà không biết bên nào
được bên nào thua.
Bọn thổ
binh thấy vậy, toan kéo nhau đến để giúp sức Lôi Hoành, mà đánh Lưu Đường. Chợt
đâu bên cạnh đường có một người, ở trong cánh cửa phên, vác đôi đồng giản bước
ra kêu lên rằng:
- Hai
hảo hán hãy khoan tay tôi nói câu này đã.
Nói đoạn
xông vào đưa đồng giản rẽ đám đánh nhau ra làm đôi. Lưu Đường và Lôi Hoành dừng
tay đứng xa ra ngoài vòng, rồi nhìn lên thấy người kia, mày xanh mắt sắc, mặt
trắng râu dài, ăn mặc ra dáng một nhà nho sĩ. Nguyên người ấy tên là Trí Đa
Tinh Ngô Dụng, biểu tự là Học Cứu, đạo hiệu là Gia Lượng tiên sinh, vốn người
làng ở đấy, chơi với Tiều Cái rất thân xưa nay.
Bấy giờ
Ngô Dụng tay cầm đồng giản trỏ hỏi Lưu Đường rằng:
- Bác
nầy ở đâu? Vì cớ sao lại đánh với Đô Đầu thế?
Lưu
Đường trừng mắt nhìn Ngô Dụng mà nói rằng:
- Không
việc gì đến nhà thầy.
Lôi
Hoành thấy vậy, liền đem đầu đuôi kể cho Ngô Dụng nghe, Ngô Dụng nghe nói bảo
Lưu Đường rằng:
- Nếu
vậy thì bác đừng chấp nê nữa, ông cậu bác với tôi là chỗ chí thân, mà Đô đầu
đây là người tử tế, nếu bác lại làm như thế, thì mất cả thể diện ông cậu bác
chứ không phải chơi.
Lưu
Đường đáp rằng:
- Nhà
thầy không biết, nguyên việc này là hắn đánh lừa để lấy tiền, chứ cậu tôi có
bằng lòng cho hắn đâu! Nếu hắn không trả lại, thì tôi thề quyết không thôi.
Lôi
Hoành nói:
- Trừ
khi có Bảo Chính đến đây thì tôi trả lại.
Lưu
Đường nói:
- Ngươi
muốn đổ oan cho người ta là giặc, rồi lại lừa lấy tiền mà không trả ta là nghĩa
lý gì?
- Ta
nhất định không trả.
- Không
trả thì hỏi thanh đao ở tay ta đây.
Ngô Dụng
lại gạt đi mà rằng:
- Hai
bên đánh nhau suốt nửa ngày trời, chưa biết bên nào được thua, giờ định còn
đánh nhau đến đâu nữa.
Lưu
Đường nói:
- Đánh
đến bao giờ một thằng sống, một thằng chết mới thôi.
Lôi
Hoành nói:
- Nếu ta
có sợ ngươi, thì ta đã thét thổ binh vào đánh giúp, nhưng thế không phải là hảo
hán, chỉ một mình ta cũng đánh đổ được ngươi cho mà xem.
Lưu
Đường cả giận vỗ bụng thét lên rằng:
- Ta
không sợ, ta không sợ!
Nói đoạn
lại xông vào đánh nhau, Ngô Dụng hết sức can ngăn cũng không được. Chợt đâu
thấy bọn thổ binh trỏ đằng xa mà nói rằng:
- Bảo
Chính đã đến kia, ta đến nói với Bảo Chính mới được.
Lưu
Đường nghe nói vội quay lại xem, thấy Tiều Bảo Chính đương khoác áo xốc xa xốc
xếch, chạy tong tả đến mà quát lên rằng:
- Thằng
rồ dại kia không được vô lễ.
Ngô Dụng
thấy Bảo Chính đến, cười ta lên mà bảo rằng:
- Xin
mời Bảo Chính đến đây, các ông đương đánh nhau hăng quá.
Tiều Cái
vừa thở hồng hộc vừa nói:
- Làm
thế nào mà đã trốn đến đây để đánh nhau thế?
Lôi
Hoành nói:
- Anh ấy
vác đao đến đòi trả lại 10 lạng bạc, nhưng tôi bảo có ngài đến, thì tôi sẽ trả,
ai ngờ anh ấy giơ tay đánh luôn, có tới năm sáu mươi hiệp, rồi sau thầy đồ đến
khuyên giải mãi cũng không thôi.
Tiều Cái
nói:
- Thằng
súc sinh này, thế mà tôi không được biết, xin Đô đầu nể mặt tôi mà đi về, rồi
khi khác tôi xin đến tạ tội.
- Vâng,
có thầy đồ đấy, tôi có chấp anh ta đâu, làm thế thì thành ra lại phiền cho Bảo
Chính quá.
Lôi
Hoành nói xong bái tạ Tiều Cái, Ngô Dụng mà kéo thổ binh về huyện.
Bấy giờ
Ngô Dụng nói với Tiều Cái rằng:
- Hôm
nay nếu Bảo Chính không ra đây, thì có lẽ xảy ra chuyện to mất. Võ nghệ của
cháu ngài giỏi lắm, tôi đứng nấp xem đã lâu, thấy Lôi Hoành đã là một tay thiện
nghệ, mà cũng chỉ che đỡ quanh co không sao địch nổi. Nếu hai người đánh nhau
luôn một hồi nữa thì Lôi Hoành tất nguy mất, vì thế nên tôi phải chạy ra can
lại. Nhưng không biết rằng cháu ngài ở đâu đến đây, mà tôi không thấy ở trang
bao giờ?
Tiều Cái
nói:
- Tôi
đương tính sai người đi mời ngài đến nói chuyện, bất đồ tìm đến anh này thì
không thấy đâu, mà thanh đao ở trên giá cũng mất. Sau thấy trẻ chăn trâu nói
hảo hán vác thanh đao chạy ra phía Nam, tôi liền tất tả đuổi theo đến đây, may
mà có ngài khuyên giải hộ, không thì lỡ ra việc lớn không chơi. Bây giờ xin mời
thầy qua bên tôi chơi, bàn mấy câu chuyện cần đã.
Ngô Dụng
vâng lời, quay về nhà học, cất đồng giản đi, dặn nhà chủ cho học trò nghỉ một
buổi, rồi khóa cửa buồng học, mà cùng với Tiều Cái, Lưu Đường đi vào trang
viện.
Khi về
tới nhà, Tiều Cái mời Ngô Dụng vào cả nhà trong cùng ngồi nói chuyện, rồi đem
tên họ Lưu Đường, cùng câu chuyện đến đây để thuật cho Ngô Dụng nghe, và lại
bảo rằng:
- Bác ta
đến đây, thực là một ý rất tốt mà lại ứng với giấc mộng của tôi đêm qua. Đêm
hôm qua tôi nằm mê thấy bảy vì sao Bắc Đẩu, rơi xuống nóc nhà, mà trên chỗ
chuôi sao Đẩu lại có một vì sao nhỏ, hóa ra một tia sáng đi sang Bắc mất. Tôi
đoán như thế, tất là có lợi, đương định đi mời thầy đến để xem việc ấy như thế
nào?
Ngô Dụng
cười mà đáp rằng:
- Tôi
thấy bác Lưu Đường đến đây, bằng một cách nhiêu khê như vậy, trong lòng cũng đã
đoán được bảy tám phần rồi, nếu quả như thế thì là một việc rất hay nên làm,
những của tham tàn bất nghĩa không lấy thì để làm chi! Duy có một điều là việc
nầy bất tất phải nhiều người, nhưng, mà ít người quá cũng không được. Trong bọn
người nhà đây kể cũng nhiều, nhưng mà vô dụng cả, còn ba người mình tuy có giỏi
thực, cũng khó lòng mà đảm nhiệm được xong, việc này tất do phải có bảy tám tay
hảo hán mới xong, chứ nhiều quá cũng vô ích.
Tiều Cái
nói:
- Chẳng
hay là ứng vào với số sao ở trong giấc mộng chăng?
- Có lẽ,
giấc mộng của quan bác không phải tầm thường, cái này chắc là về mạn Bắc lại có
người phù trợ được ta đây hẳn.
Nói
đoạn, chau mày ngồi nghĩ một lúc, rồi lại nói rằng:
- Được
rồi...được rồi...tôi nhớ ra trong ấy có ba anh em nhà nầy, võ nghệ cao cường mà
nhất sinh can đảm, là có thể giúp ta xong việc, để rồi ta xin kể cho Bảo Chính
nghe...
Cho hay:
Anh hùng
mới biết anh hùng,
Có trong
thanh khí mới cùng tìm nhau,
Giang Hồ
xuôi ngược bấy lâu,
Non xa
nước bạc thiếu đâu anh tài?
Đã mang
tiếng gớm ghê đời,
Làm cho
đáo để cho người gớm ghê!
Phù vân
là của bất nghì,
Giết
người tàn ác tội gì hay không!
Lời bàn
của Thánh Thán:
Một bộ
sách bảy mươi hồi, chép một trăm lẻ tám anh hùng, thì Tiều Cái là người khởi
lên làm Thủ Lãnh, Tiều Cái khởi lên làm Thủ Lãnh, mà không chép ngay tự hồi
đầu, như mọi chuyện khác, đến hồi 13 mới xuất danh, bao nhiêu chuyện đã xẩy từ
13 hồi trước, nhân đó mà được biết tác giả trong lòng chứa toàn bộ truyện, rồi
sau hạ bút viết ra. Nếu không trong lòng chứa toàn bộ truyện, tả Tiều Cái ngay
từ đầu, làm những chuyện kinh thiên động địa, như quấy nước chọc trời, thì đám
giặc ấy còn đâu giá trị, phải tả ra bao nhiêu rắc rối mọi người, để đưa lại
Tiều Cái làm Thủ Lãnh, đám người ấy mới khỏi tai tiếng sau này.
Gia
Lượng mới ra khỏi lều tranh, nói một câu đầu: Việc này ít người làm chẳng được,
mà nhiều người làm cũng chẳng được, lời nói chí lý thay dẫu đem trị thiên hạ,
cũng không khác vậy. Câu nói ít người làm chẳng được, cũng như câu nói nhiều
người làm chẳng được, vì kẻ hay người dở, phải xét được ra, để mà dùng đến. Hỡi
ôi! Vua không kín đáo, thì mất đến thân mình, đúng như câu: Dân có thể khiến
theo, không thể cho biết, đấy cơ mưu vậy. Theo Lễ chế nhà Châu dùng 360 vị
quan, đều thuộc loại dân khả xử đây, bất khả xử tri, vì Khu Mật Viện Đại Thần
chỉ Tam Công Tam Cô dự bàn, còn nhiều người không được. Ngô Dụng nói há chẳng phải
là yếu luận việc Vương Đạo trị thiên hạ đấy ư? Một bộ truyện tả 108 anh hùng,
làm đầu là Tiều Cái, khởi ra từ giấc mộng, thì than ôi! Đáng tỉnh ngộ thay! Vì
kể ra sự tích 108 người, có cười, có khóc, có khen, có chê, có nhường, có cướp,
có luồn cúi, có báo thù...Thế mà khởi đầu từ một giấc mộng, thì biết ở đời việc
gì không là mộng ảo? Đại địa mộng quốc, xưa nay mộng ảnh, vinh nhục mộng sự,
chúng sinh mộng hồn...Há chuyện 108 người này là mộng, xưng hùng xưng bá, nay
còn đâu? Đại thiên thế giới đều là mộng cả, độc giả đến nay chẳng đáng ngại.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 14: Ngô Học Cứu thuyết ba chàng Nguyễn;
Công Tôn Thắng ưng bảy vì sao
Khi đó
Tiều Cái nghe Ngô Dụng nói, thì vội vàng hỏi rằng:
- Ba
người ấy là ai, xin ngài cho tôi biết?
Ngô Dụng
đáp:
- Ba
người ấy là ba anh em ruột ở thôn Thạch Kiệt, gần Lương Sơn Bạc, xưa nay chỉ
sinh nhai về nghề đánh cá, và cũng đôi khi có giở ngón chơi bời ghê gớm. Một
người là Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị, một người là Đỏan Mạnh Nhị Lang
Nguyễn Tiểu Ngũ, và một anh là Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất, ba anh em đều
chơi thân với tôi cả. Và tôi xem ý ba anh ấy dẫu không học thức gì, song thực
là những người có chí khí nam nhi, mà lại có lòng nghĩa hiệp quả cảm, nếu được
có bọn họ giúp cho, thì chả việc gì mà không xong được.
Tiều Cái
nói:
- Tôi
cũng nghe danh thấy tiếng ba anh em họ Nguyễn đã lâu, nhưng chưa có dịp nào
được gặp...Thôn Thạch Kiệt chỉ cách đây chùng một dặm đường, hay là thử cho
người đi triệu họ đến đây, được chăng?
- Không
được, việc ấy tất là tôi đi thì mới thuyết được họ đến đây, chứ sai người đi
thì hỏng mất.
Tiều Cái
cả mừng mà rằng:
- Nếu
tiên sinh nghĩ thế thì còn gì hơn, nhưng chẳng hay bao giờ tiên sinh định đi?
- Việc
này không thể chậm được, chỉ đêm hôm nay tôi đi, là sáng mai có thể đến đấy
được rồi.
Tiều Cái
lấy làm vui lòng khen phải, rồi sai người nhà dọn rượu lên để ba người cùng
đánh chén.
Ngô Dụng
bảo với Lưu Đường rằng:
- Con
đường từ Bắc Kinh đi sang Đông Kinh, thì ta đã thuộc cả rồi, nhưng không biết
rằng họ đi lối nào? Việc này có lẽ phải phiền Ngô Huynh thám thính giúp, xem
hôm nào họ đi, và họ đi đường nào mới được.
Lưu
Đường nói:
- Vâng,
để đêm nay tiểu đệ xin đi.
Ngô Dụng
nói:
- Nhưng
mà hãy thư thả, nay mới là đầu tháng năm, còn cách hơn bốn mươi ngày nữa, mới
đến rằm tháng sáu, vậy hãy xin đợi tôi đi bảo đám kia về rồi sẽ liệu.
Đoạn rồi
ba người cùng uống rượu với nhau, hồi lâu mới nghỉ. Vào khoảng đầu trống canh
ba, Ngô Dụng dậy sớm rửa mặt mũi, ăn qua miếng cơm sáng rồi, giắt lấy ít tiền
mà từ giã Tiều Cái, Lưu Đường rồi đi sang Thạch Kiệt. Trưa hôm sau đi đến thôn
Thạch Kiệt, Ngô Dụng vào thẳng nhà Nguyễn Tiểu Nhị. Khi đến cửa thấy có mười
mấy gian nhà lá ở giữa khoảng non cao nước thẳm, trước hàng dậu thưa có chăng
phơi một bức lưới rách và có mấy con thuyền câu buộc ở cọc dậu.
Bấy giờ
Ngô Dụng lên tiếng hỏi rằng:
- Nhị Ca
có nhà hay không?
Vừa hỏi
dứt lời, thì Nguyễn Tiểu Nhị đã chạy ra, trông thấy Ngô Dụng rồi vồn vã hỏi
chào rằng:
- Kìa
tiên sinh, đã lâu không được gặp, chẳng hay cơn gió gì, thổi tiên sinh trôi dạt
đến đây thế?
Ngô Dụng
cười mà đáp rằng:
- Tôi có
chút việc, muốn đến phiền Nhị Ca đây!
- Việc
gì xin tiên sinh cứ nói.
- Tôi
lâu nay ngồi dạy học ở nhà một người Đại phú hộ, nay ông ta sắp làm bữa tiệc,
muốn cần dùng mươi lăm con cá lớn, vào khoảng mười bốn, mười lăm cân một, bởi
vậy tôi muốn đến đây phiền quan bác giúp cho.
Nguyễn
Tiểu Nhị cười mà đáp rằng:
- Tiểu
đệ hãy xin hầu tiên sinh mấy chén rượu, rồi ta sẽ nói chuyện được chăng?
Ngô Dụng
nói:
- Được
lắm, chính ý tôi cũng muốn uống với Nhị Ca mấy chén cho vui đây.
- Nếu
vậy bên kia hồ có mấy hàng rượu, ta xuống thuyền sang đấy đánh chén một thể.
Ngô Dụng
nói:
- Thế
thì hay lắm, nhưng tôi còn muốn nói chuyện với bác Tiểu Ngũ nữa, không biết
rằng bác ấy có nhà không?
Tiểu Nhị
nói:
- Ta thử
cùng đến đấy xem!
Nói đoạn
bảo Ngô Dụng cùng xuống thuyền cởi dây buộc mà chèo đi.
Vừa chèo
đi được một quãng, thì thấy Tiểu Nhị vẫy tay đằng trước mặt mà nói to lên rằng:
- Thất
Ca có thấy Ngũ Ca đâu không?
Ngô Dụng
nghe hỏi, ngẩng lên nom thì thấy trong đám bụi lau, có một con thuyền lách ra,
rồi thấy Nguyễn Tiểu Thất đội nón lá, mặc áo ngắn, ngồi ở trên vừa chèo vừa hỏi
rằng:
- Nhị Ca
định tìm Ngũ Ca để làm gì đó?
Ngô Dụng
liền ứng lên rằng:
- Thất
Ca ơi! Tiểu Đệ đến hầu chuyện các bác đây!
Nguyễn
Tiểu Thất trông thấy Ngô Dụng, thì mừng rỡ mà rằng:
- Chào
tiên sinh, tiên sinh đến đây từ bao giờ, mà sao lâu nay không được gặp thế?
Ngô Dụng
nói:
- Mời
bác đi uống rượu với Nhị Ca một thể đi.
- Vâng,
hôm nay có tiên sinh đến chơi, tôi xin đi hầu ngài mấy chén rượu cho vui.
Nói đoạn
cùng chèo thuyền đi đến một chỗ gò cao ở giữa hồ, trên có bảy tám gian nhà lá,
rồi Nguyễn Tiểu Nhị lên tiếng mà hỏi rằng:
- Lão
Nương ơi! Ngũ Ca có nhà hay không?
Bà già
nghe hỏi, chạy ra đáp rằng:
- Ối
chà! Nói thế nào được! Bây giờ cá cũng không đánh, chỉ suốt ngày cờ bạc rông
dài, xác xơ như nhộng vậy. Vừa rồi mới về tháo cành thoa ở trên đầu tôi, đem đi
đánh bạc rồi đấy.
Tiểu Nhị
nghe nói thì cười một tiếng, rồi lại quay thuyền đi.
Nguyễn
Tiểu Thất đi thuyền sau nói với Nguyễn Tiểu Nhị rằng:
- Không
biết làm sao mà Ngũ Ca đen thế? Đánh bạc chỉ thua hoài mãi thôi...mà đến tôi
đây cũng thế, phen này thực là trần trụi không còn gì nữa.
Ngô Dụng
thấy nói như thế, thì trong lòng ám tưởng: "Anh này tất mắc kế của
ta". Bây giờ hai thuyền chèo đi được một lúc, đến bên cầu Độc Mộc có một
đại hán vác hai chuỗi tiền, đương vội xuống thuyền sắp đi. Nguyễn Tiểu Nhị kêu
to lên rằng:
- Ngũ
Lang phát tài chăng?
Nguyễn
Tiểu Ngũ nghe hỏi mà cười rằng:
- Té ra
là Ngô tiên sinh đấy à? Sao mấy năm nay không gặp tiên sinh thế? Tôi đứng trên
cầu trông thấy các ông đã nửa ngày rồi.
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Tôi
với Ngô tiên sinh đến tận nhà tìm, thấy lão nương nói rằng đi đánh bạc rồi
chúng tôi lại kéo đến đây để mà tìm. Bây giờ chúng ta mời Ngô Tiên Sinh đi lên
hàng đánh chén đi.
Nguyễn
Tiểu Ngũ nghe nói, nhảy xuống thuyền, ba cái cùng thong dong chèo đi đến một
chỗ khóm sen gần đó, rồi buộc thuyền vào bến mà đi đến tửu điếm.
Khi vào
tới tửu điếm, bốn người cùng đến một chỗ nhà sàn, tìm chỗ bàn ghế sơn dầu sạch
sẽ, rồi Tiểu Nhị nói với Ngô Dụng rằng:
- Tiên
Sinh đừng cười anh em tôi là thô tục...xin đón tiên sinh ngồi trên.
Ngô Dụng
nói:
- Có đâu
dám thế, xin mời các bác ngồi.
Tiểu
Thất nói:
- Ca Ca
xin ngồi chủ vị, để tiên sinh ngồi khách vị, còn hai anh em tôi ngồi đây trước
là xong.
Ngô Dụng
cười nói:
- Phải,
tính Thất Lang nhanh nhẹn thế là phải.
Đoạn rồi
bốn người cùng ngồi, gọi một thùng rượu và các thứ đũa chén lên.
Nguyễn
Tiểu Nhị hỏi nhà hàng rằng:
- Có gì
nhắm tốt không?
- Có
thịt bò mới, béo lắm, các ngài xơi.
- Được
rồi, lấy mươi cân thái to to đem ra đây.
Nhà hàng
vâng lời quay đi, Nguyễn Tiểu Nhị lại nói với Ngô Dụng rằng:
- Xin
tiên sinh chớ cười chúng tôi là vô lễ.
- Lẽ
nào? ...tôi đến đây phiền nhiễu các bác thì có, Nguyễn Tiểu Nhị nói:
- Sao
tiên sinh dạy thế?
Bấy giờ
nhà hàng đem thịt bò lên bầy trên bàn, rồi ba anh em họ Nguyễn cất chén, mời
Ngô Dụng xơi rượu và lấy thức nhắm.
Ngô Dụng
ăn có mấy miếng thịt, thì không nuốt đi được nữa. Bọn kia thì ngốn như xa cán
ngốn bông vậy. Một lúc rồi Nguyễn Tiểu Ngũ mới ngẩng đầu lên hỏi chuyện Ngô
Dụng rằng:
- Tiên
sinh đến chơi đây...Chẳng hay có việc gì nữa?
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Bây
giờ tiên sinh ngồi dạy học ở một nhà phú hộ, ngài muốn đến đây hỏi anh em ta
tìm hộ cho mươi lăm con cá to, nặng chừng mười bốn mười lăm ký một.
Nguyễn
Tiểu Thất nói:
- Giá
mọi khi ra thì đến năm ba chục con cũng có thể kiếm được, nhưng bây giờ thì đến
hạng cá mươi cân cũng khó lòng mà có được.
Nguyễn
Tiểu Ngũ nói:
- Nếu
tiên sinh có dùng hạng cá to độ năm sáu cân một, thì chúng tôi xin tặng ngài
được mươi con.
Ngô Dụng
cười mà rằng:
- Tôi có
tiền đây, mua hết bao nhiêu thì xin tính trả, song tất phải dùng hạng mười bốn
mười lăm cân mới được, còn hạng bé thì tôi không dùng đến.
Nguyễn
Tiểu Thất nói:
- Nếu
thế thì tiên sinh tìm ở đâu cũng không được, đến ngay như hạng năm sáu cân mà
Ngũ Ca tôi nói, cũng là hiếm lắm mà cũng phải đợi đến mấy hôm mới có thể tìm
được nữa là...Á quên trong thuyền tôi có mấy con cá nhỏ còn sống ở đó, ta đem
ra đây mà chén cho xong.
Nói đoạn
chạy ra mở sạp thuyền bắt mấy con cá ước năm bảy cân lên, đem vào bếp nấu nướng
một lúc rồi đem bày lên bàn ăn.
Nguyễn
Tiểu Thất lại nói:
- Xin
mời tiên sinh xơi tạm vậy.
Bấy giờ
bốn người lại cùng bắt tay vào ăn uống một lúc, rồi Ngô Dụng tự nghĩ một mình
rằng:
- Ở chỗ
này bây giờ nói chuyện cũng không tiện, tất thế nào đêm nay cũng phải ngủ lại ở
nhà trọ, thì mới có thể nói được.
Được một
lát trời đã gần tối, Nguyễn Tiểu Nhị nói với Ngô Dụng rằng:
- Bây
giờ trời sắp tối rồi, xin đón tiên sinh về nghỉ ở nhà tôi, rồi sáng mai ta sẽ
bàn.
Ngô Dụng
nói:
- Tôi đi
hôm nay thực là may mắn, mới gặp được cả ba bác như thế này, vậy tiền bữa rượu
hôm nay chắc là không khi nào các bác để cho tôi trả. Nhưng còn đêm nay tôi còn
phải nghỉ nhờ ở bên Nhị Ca một tối, nhân tôi có ít tiền đây, muốn phiền các bác
mua hộ ngay rượu thịt ở đây, rồi ta về mua thêm con gà ở quanh xóm để tối nay
đánh chén nói chuyện với nhau có được không?
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Có khi
nào chúng tôi lại để cho tiên sinh trả tiền; cái đó chắc anh em chúng tôi phải
chuẩn bị cả, chả lẽ lại không kiếm được đủ hay sao?
- Đành
vậy, nhưng trong lòng tôi thành tâm như thế, nếu các bác không nghe lời ấy, thì
tôi xin về bây giờ, không dám lưu lại nữa.
Nguyễn
Tiểu Thất nói:
- Thôi
tiên sinh đã nói, thì ta hãy cứ cầm lấy, rồi sau sẽ liệu.
Ngô Dụng
nói:
- Phải,
tính Thất lang nhanh nhẹn thế, thú lắm.
Nói
đoạn, lấy một lạng bạc đưa cho Nguyễn Tiểu Thất, Tiểu Thất lấy tiền, gọi nhà
hàng ra mua một hũ rượu lớn, hai mươi cân thịt bò sống, và đôi gà to, rồi Tiểu
Nhị tính trả tiền mà về. Bốn người đi ra khỏi tửu điếm, tìm đến chỗ buộc
thuyền, rồi bước xuống cổi thuyền chèo về nhà Nguyễn Tiểu Nhị.
Khi về
tới nơi, Nguyễn Tiểu Nhị mời mấy người vào mái Thủy Đình đằng trong để ngồi
chơi rồi sai vợ (ba anh em duy một mình Tiểu Nhị có vợ) và người nhà giết gà
nấu thịt làm chén.
Vào khoảng
gần hết canh một, các thức nhắm đã làm xong, bày biện ở trên bàn, bốn người
quây quần vào đánh chén.
Bấy giờ
Ngô Dụng lại giở đến chuyện mua cá mà rằng:
- Ở đây
hồ lớn như thế, mà sao lại không có cá to?
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Chả
giấu gì ngài, cá to thì trừ ra chỉ ở Lương Sơn Bạc là có được, chứ ở thôn đây
hẹp hòi làm sao tìm bới cho ra!
- Đây
với Lương Sơn Bạc chỉ có một con nước thông nhau, không xa là mấy, sao không
vào đấy mà đánh cá có được không?
Nguyễn
Tiểu Nhị thở ra một tiếng mà than rằng:
- Nếu
vào được, còn nói làm chi nữa?
Ngô Dụng
hỏi:
- Làm
sao bác lại thở dài, mà bảo không vào được?
Nguyễn
Tiểu Nhị vội đỡ lời lên rằng:
- Tiên
sinh không biết, chỗ Lương Sơn Bạc trước vẫn là kho cơm áo của chúng tôi, nhưng
ngày nay lại không dám đến nữa rồi.
Ngô Dụng
nói:
- Có lẽ
một chỗ rộng lớn như thế, mà quan tư lại cấm đánh cá hay sao?
- Quan
tư nào cấm chúng tôi đánh cá, có đến ông Diêm Vương sống cũng không cấm được
nữa là...
- Nếu
vậy, sao không dám vào?
- Tiên
sinh không biết đâu, để tôi kể chuyện cho tiên sinh nghe...
Ngô Dụng
làm bộ ngơ ngẩn mà rằng:
- Thực
tôi không biết là thế nào cả.
Nguyễn
Tiểu Thất tiếp luôn:
- Chỗ
Lương Sơn Bạc thì gớm lắm! Bây giờ mới có một bọn cường đạo ở đấy, họ có cho
đánh cá nữa đâu!
Ngô Dụng
lại hỏi:
- Thế ra
tôi không biết! Bây giờ lại có bọn cường nhân ở đấy, mà sao tôi không nghe thấy
bao giờ?
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Bọn ấy
có anh đầu đảng là một anh học trò thi hỏng trở về, tên là Bạch Y Tú Sĩ Vương
Luân, anh thứ hai là Mô Tước Thiên Đỗ Thiên và anh thứ ba là Vân Lý Kim Cương
Tống Vạn. Lại có anh là Hãn Địa Hốt Luận Chu Quý, thì mở cửa hàng ở ngoài đường
cái, để dò xét sự tình. Mới đây lại thêm một anh hảo hán, trước đã từng làm
Giáo Đầu dạy cấm quân ở Đông Kinh, tên là Báo Tử Đầu Lâm Xung nào đó, lại là
một tay võ nghệ siêu quần, không ai địch nổi. Mấy đứa chó má ấy nó tụ họp có
tới năm bảy trăm lâu la, chỉ đi phá nhà cửa, cướp bóc khách buôn, rồi giữ riết
lấy chỗ ấy, làm cho anh em chúng tôi, đến hơn năm nay mất cả áo cơm với họ, mà
không dám vào đấy nữa!
Ngô Dụng
nói:
- Có sự
lạ thế mà tôi không biết! Nhưng làm sao quan quân lại không tróc nã họ đi?
Nguyễn
Tiểu Ngũ nói:
- Nếu
quan quân mà động đến, tất là tàn hại đến dân, vì họ nghe tiếng động ở đâu, là
họ hãy bắt các giống lợn gà chó má ở đấy để chè chén với nhau, rồi họ lại tống
lấy ít tiền đã, bởi thế nên đám tuần cảnh bộ tập cũng đành phải mặc họ, mà
không dám đến các hương thôn. Vả chăng nếu Thượng Thư có sai đến đám nào đi,
thì anh nào anh ấy cũng sợ xôn xao cả rồi, còn làm gì được họ nữa?
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Chúng
ta đây dẫu dạo này không kiếm được cá lớn, song cũng không đến nỗi bị họ quấy
nhiễu như thế, cũng khá lắm rồi.
Ngô Dụng
nói:
- Như
thế, thì họ cũng khoái hoạt lắm nhỉ?
Nguyễn
Tiểu Ngũ nói:
- Bọn ấy
nó không sợ trời, không sợ đất, cũng không sợ quan tư, chỉ là có vàng bạc thì
tiêu với nhau, có gấm vóc thì mặc với nhau, rượu uống hàng vò, thịt ăn hàng
tảng, như thế thì làm gì mà không khoái hoạt? Như anh em tôi thành ra cũng có
võ nghệ trong mình, mà không làm sao được như bọn họ, thế có chán không?
Ngô Dụng
nghe đến câu đó, thì trong bụng lại mừng thầm, chắc là kế sách phải xong.
Nguyễn
Tiểu Thất lại nói:
- Người
ta sống một thời, cũng như cây cỏ sống một mùa, như anh em chúng tôi chỉ đánh
cá kiếm ăn, sao bằng học họ được một ngày, là một ngày khoái hoạt.
Ngô Dụng
nói:
- Hạng
người ấy thì họ làm gì? Sự nghiệp của họ bất qua chỉ đến khi quan tư bắt được
là roi trượng vào thân, mà uy thế hùng dũng cũng đến vất đi, để chịu tội, chứ
làm sao hơn được nữa?
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Đám
quan tư bây giờ, thì lại gà mờ không biết lắm. Những đứa ngập mắt chán vạn ra
đấy, nhưng nào có việc gì đâu? Anh em chúng tôi bây giờ, thực là mất cả khoái
hoạt, nếu có ai dắt cho đi như bọn kia, thì là đi ngay lập tức.
Nguyễn
Tiểu Ngũ nói:
- Tôi
cũng thường nghĩ như thế, nhưng anh em mình thực là võ nghệ chẳng kém gì ai,
nhưng nào có ai biết đến.
Ngô Dụng
nói:
- Nhưng
mà có ai biết đến, thì ca bác cũng chả chịu đi đâu?
Nguyễn
Tiểu Thất đáp:
- Nếu có
ai biết đến anh em chúng tôi, thì dẫu dấn thân vào nơi nước lửa chúng tôi cũng
đi, mà nếu có ai dùng đến chúng tôi được một ngày, thì dẫu cho chết ngay cũng
được thỏa lòng, ở nơi chín suối.
Ngô Dụng
nghe nói lấy làm mừng thầm trong bụng: "Ba anh em đã có ý thế, để ta tìm
kế nhủ khuyên dần". Liền cất chén mời ba người uống luôn mấy tuần rượu
nữa, rồi hỏi rằng:
- Bây
giờ các bác phỏng có dám lên Lương Sơn Bạc mà bắt tụi ấy hay không?
Nguyễn
Tiểu Thất đáp luôn rằng:
- Nếu có
bắt được họ mà đem nộp quan lấy thưởng, thì cũng bị đám hảo hán giang hồ trên
đời chê cười không ra gì nữa.
Ngô Dụng
nói:
- Như ý
tôi thiết nghĩ: Bây giờ ba bác bực mình vì chài lưới kiếm ăn, cũng chả lấy gì
làm khoái hoạt, vậy hay là ca bác nhập bọn với họ hóa ra lại thú hơn.
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Tiên
sinh không biết, chứ anh em chúng tôi đã mấy phen toan vào nhập bọn với họ đấy.
Nhưng về sau thấy bọn thủ hạ của Bạch Y Tú Sĩ Vương Luân thường nói rằng: Anh
ta bụng dạ hẹp hòi, không có lượng bao dung kẻ khác, mới đây Giáo Đầu Lâm Xung
đến đó, cũng bị anh ta đãi chẳng ra gì, vì thế anh em tôi chán nản không muốn
lên đấy nữa.
Nguyễn
Tiểu Thất nói:
- Giá
bọn họ mà được khẳng khái như tiên sinh, yêu đãi anh em tôi thì còn đâu nữa?
Nguyễn
Tiểu Ngũ cũng nói:
- Phải,
nếu bọn họ được như Ngô tiên sinh, thì anh em tôi đi đã lâu rồi, còn đâu đợi
đến ngày nay, dẫu cho có vì họ mà chết nữa cũng can tâm.
Ngô Dụng
khiêm tốn mà rằng:
- Tôi
đây đã thấm vào đâu, bây giờ thiên hạ thiếu gì những tay hảo hán anh hùng hào
kiệt mà...
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Đã
đành là bọn hảo hán không thiếu gì, nhưng anh em chúng tôi không được gặp.
Ngô Dụng
nói:
- Gần
đây có ông Tiều Bảo Chính ở thôn Đông Khê, huyện Vận Thành, các bác có biết
không?
Nguyễn
Tiểu Ngũ nghe nói liền hỏi:
- Chẳng
hay ông ấy là ông Thác Tháp Lý Thiên Vương Tiều Cái đó chăng?
Ngô Dụng
nói:
- Chính
phải đấy.
Nguyễn
Tiểu Thất nói:
- Chỗ
ông ấy ở chỉ cách đây chừng hơn trăm dặm đường, nhưng chúng tôi cũng là duyên
hèn phận bạc, cho nên chỉ nghe tiếng mà không được gặp mặt bao giờ!
Ngô Dụng
nói:
- Ông ta
là tay nam tử giỏi giang, mà lại có lòng trọng nghĩa khinh tài, vậy sao các bác
không đến chơi với ông ta?
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Vì anh
em chúng tôi cũng không có việc gì đi đến đấy cho nên cũng không được gặp.
Ngô Dụng
nói:
- Ấy bấy
lâu nay tôi vẫn dạy học ở gần ngay cạnh trại của ông ta đấy, mới đây nghe nói
ông ta sắp có một việc rất phú quý, cho nên tôi muốn đến đây bàn với các bác,
để chẹn đường mà cướp lấy, các bác nghĩ sao?
Nguyễn
Tiểu Ngũ nói:
- Không
được, người ta là người trọng nghĩa khinh tài, có khi nào chúng ta lại làm thế,
để cho bọn giang hồ hảo hán chê cười.
Bấy giờ
Ngô Dụng cả cười mà rằng:
- Tôi
vẫn tưởng bụng các bác cũng không được vững chắc, chứ nào biết đâu các bác lại
có lòng khẳng khái, hiếu nghĩa như thế. Tôi xin nói thực với các bác, chính tôi
ở chỗ Tiều Bảo Chính đến tìm các bác đây, nếu các bác quả có lòng giúp đỡ, thì
tôi sẽ nói một việc nầy để các bác nghe.
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Ba anh
em chúng tôi thực là nhất tâm như thế, không hề có một chút gì giả dối cả. Nếu
quả có việc ngang tắt gì, mà muốn phiền tiên sinh đến bảo anh em tôi đi, thì
chúng tôi xin thề rằng: Nếu không bỏ tính mạng để giúp được việc ấy, thì khi
cạn chén rượu này chúng tôi sẽ chịu tội ác đến thân, mà chết vào sự phi mệnh.
Bấy giờ
Nguyễn Tiểu Thất cùng Nguyễn Tiểu Ngũ, đều vỗ tay lên đầu mà rằng:
- Một
bầu nhiệt huyết đây, chỉ bán cho người biết của đấy thôi.
Ngô Dụng
nói:
- Ba bác
ở đây, không phải là tôi định đến quyến rủ, để làm hại cái lòng tử tế của các
bác, nhưng việc này là một việc lớn, chứ không phải tầm thường: Nguyên đến hôm
rằm tháng sáu này, là ngày sinh nhật của Sài Thái Sư ở trong triều, người con
rể là Lương Trung Thư ở Đại danh phủ Bắc Kinh có mua tới 10 vạn quan kim ngân
châu báu, nay mai sắp đưa vào mừng. Chuyện ấy có một người hảo hán là Lưu Đường
đến mách, cho nên muốn đến đây bàn với các bác, hôm ấy ta sẽ lập kế tìm tới chỗ
núi non tĩnh mịch nào mà chẹt lấy, cái của bất nghĩa ấy, để chi dụng với nhau có
khoái hoạt không? Chẳng hay các bác nghĩ sao?
Nguyễn
Tiểu Ngũ nghe nói cả mừng, bảo với Tiểu Thất rằng:
- Thất
lang, ta định thế nào?
Nguyễn
Tiểu Thất nhảy quớ lên mà rằng:
- Cái
chí nguyện một đời, có lẽ phen này mới thỏa chăng? Trời ơi! Việc ấy thực là gãi
vào chỗ ngứa! Nhưng chẳng hay đến bao giờ mới đi?
Ngô Dụng
nói:
- Vào
khoảng đầu canh năm, xin mời các bác đi sang nhà Tiều Bảo Chính với tôi.
Ba anh
em họ Nguyễn rất vui lòng, cùng Ngô Dụng uống rượu tới đêm khuya mới ngủ. Sáng
hôm sau bốn người cùng dậy sớm, ăn cơm nước xong rồi, bọn anh em họ Nguyễn dặn
dò nhà cửa cẩn thận, rồi cùng Ngô Dụng đi ra. Khi tới thôn Đông Khê đã thấy
Tiều Cái, Lưu Đường, ra đứng ở gốc cây hòe để đón Ngô Dụng dẫn ba anh em họ
Nguyễn tới gốc cây hòe, để chào Lưu Đường và Tiều Cái. Tiều Cái trông thấy ba
anh em họ Nguyễn thì trong bụng mừng thầm. "Nguyễn thị tam hùng, thực là
xứng đáng",liền mời về trong trang để nói chuyện. Bấy giờ sáu người cùng
nhau thủng thỉnh đi vào trong trang, đến tận nhà trong; kéo ghế chia tân chủ
cùng ngồi, rồi Ngô Dụng đem chuyện ba anh em họ Nguyễn, cũng tâm đầu ý hợp kể
cho mọi người nghe.
Tiều Cái
cả mừng liền sai người nhà giết lợn dê mua sắm vàng hương về để làm lễ.
Ba anh
em họ Nguyễn trông thấy Tiều Cái mặt mũi hiên ngang, nói năng lỗi lạc, thì cũng
hết bụng vui mừng mà nói rằng:
- Nếu
chúng tôi không có Ngô tiên sinh dẫn đến đây, thì làm sao được gặp các ngài?
Đoạn rồi
Tiều Cái lại sai người làm cơm dọn lên sáu người cùng ăn uống, nói chuyện với
nhau suốt nửa đêm ấy. Sáng sớm hôm sau, Tiều Cái bày các đồ giấy vàng ngựa mã,
cùng các lễ dê lợn lên mặt trước nhà trong, rồi sáu người cùng làm lễ phát
nguyện với nhau.
Mọi
người thấy Tiều Cái rất lòng thành kính như vậy, thì ai nấy đều hớn hở vui
mừng, mà đồng thanh thề nguyện rằng:
- Lương
Trung Thư ở Bắc Kinh làm hại dân gian, lấy hại nhiều tiền của, nay lại đem vào
Đông Kinh để mừng sinh nhật Xái Thái Sư, vậy những của ấy toàn là những của
gian ngoan bất nghĩa. Nay trong sáu anh em chúng tôi, lấy lòng trọng nghĩa
khinh tài, nếu ai có một chút gì tư lợi, thì xin trời chu đất triệt, thần minh
soi xét không dung.
Làm lễ
xong rồi đốt vàng đốt mã cẩn thận, đoạn rồi cùng ngồi uống rượu thụ lộc thánh
với nhau. Đương khi đó thấy người nhà vào báo rằng:
- Ngoài
cửa có một tiên sinh nào, nói rằng muốn gặp Bảo Chính để xin tiền.
Tiều Cái
nghe nói bảo người nhà rằng:
- Sao
bây không biết gì cả! Ta còn mắc uống rượu tiếp khách trong này, thì bay lấy
dăm ba đấu gạo đưa cho người ta rồi nói: Ta còn bận, không thể tiếp có được
không?
Người ấy
vâng lời chạy ra một lúc rồi lại vào nói rằng:
- Chúng
con đã cho mấy đấu gạo, nhưng tiên sinh ấy nhất định không đi, tự xưng là Nhất
Thanh Đạo Nhân, muốn gặp Bảo Chính để nói chuyện, chứ không phải vì tiền gạo mà
đến đây.
Tiều Cái
mắng rằng:
- Bây
không biết là thế nào à? Ra nói với người ta rằng: "Hôm nay ta còn mắc
bận, không thể vào tiếp được, xin đến hôm sau vậy".
- Bẩm
con đã nói thế, nhưng tiên sinh ấy bảo rằng: Không cần gì tiền bạc, chỉ nghe
thấy tiếng Bảo Chính là người nghĩa khí, nên muốn đến chào đó thôi.
Tiều Cái
gắt rằng:
- Chúng
bây không đỡ được việc gì, chỉ nhiễu ta thôi. Nếu người ta có chê ít, thì cho
thêm người ta, chứ hà tất phải vào nói với ta! Nếu ta không bận tiếp rượu ở
đây, thì ta xử trí ngay rồi, còn cần chi chúng bây phải nói. Thôi đi ra liệu
cho người ta thế nào cho xong đi, đừng vào nói với ta nữa!
Người
nhà nghe nói, lại chạy ra bảo với người kia. Chợt đâu ngoài cửa trang ầm ầm cả
lên, rồi thấy một người lật đật chạy vào bảo rằng:
- Tiên
sinh ấy đã phát cáu, đánh mười mấy tên người nhà ngã lăn ra cả ngoài kia.
Tiều Cái
nghe nói giật mình kinh sợ, vội vàng đứng dậy nói rằng:
- Xin
mời các ngài hãy ngồi xơi rượu, để tôi chạy ra xem sao?
Nói đoạn
chạy hất hải ra ngoài cửa trang, thì thấy một người cao chừng tám thước, đạo
mạo đường đường, trông rất cổ quái, đương ở chỗ cây hòe ngoài cổng, vừa đánh
vừa nói ầm ĩ lên rằng:
- Không
biết người, không biết người...
Tiều Cái
nghe nói, chạy ra lên tiếng mà rằng:
- Tiên
sinh ơi, xin ngài bớt giận! Tiên sinh đến nhà Tiều Bảo Chính, có phải là thiếu
gạo nước lương thực thì người ta đã đưa ra rồi, còn việc chi mà tiên sinh giận
dữ như thế?
Người
kia nghe nói, thì cười ha hả lên mà rằng:
- Bần
đạo đến đây có phải vì cơm gạo tiền nong gì đâu. Tôi đến đây cốt tìm Tiểu Bảo
Chính để nói chuyện, chứ đến 10 vạn quan tiền, tôi cũng chẳng coi vào đâu nữa
là...Đám thôn phu vô lý quá!
Tiều Cái
hỏi:
- Nếu
vậy tiên sinh đã biết Tiều Bảo Chính chăng?
- Tôi
được nghe tiếng, chứ chưa gặp mặt bao giờ.
- Thế
thì chính tôi đây, tiên sinh có chuyện gì muốn nói?
Người
kia vội vàng nói:
- Xin
chào Bảo Chính, xin Bảo Chính tha lỗi cho tôi.
Tiều Cái
nói:
- Không
dám, xin mời tiên sinh vào trong nhà xơi tạm chén nước đã.
Nói xong
liền mời người kia vào trong nhà, trong khi lũ Ngô Dụng thấy có người lạ vào,
thì cùng bảo nhau chạy nấp cả vào một chỗ. Đoạn rồi Tiều Cái mời tiên sinh kia
vào ở nhà trong để đãi nước.
Khi uống
nước xong, tiên sinh kia hỏi Bảo Chính rằng:
- Ngồi
đây không thể nói chuyện được, xin ngài cho đến chỗ nào kia thì tiện hơn.
Tiều Cái
biết ý, liền mời đến một chỗ gác con con rồi hỏi rằng:
- Thế
nầy khi không phải, tôi xin hỏi quý tánh cao danh, và ngài ở đâu đến.
- Bần
đạo là Công Tôn Thắng, đạo hiệu là Nhất Thanh Đạo Nhân, vốn người ở Kế Châu, từ
thuở nhỏ có theo đòi võ nghệ, người ta thường gọi là Công Tôn Thắng Đại Lang.
Tôi có học được ít đạo thuật, thường hay hô gió gọi mưa, cưỡi mây đạp gió, cho
nên đám giang hồ thường gọi bần đạo là Nhập Vân Long, xưa nay vẫn được nghe
tiếng Bảo Chính ở Vận Thành đây, nhưng cũng là vô duyên, cho nên chưa được gặp.
Nay có món 10 vạn quan kim ngân bảo muốn đem đến đây để làm quà yết kiến, chẳng
hay nghĩa sĩ có nhận cho chăng?
Tiều Cái
cười mà đáp rằng:
- Tiên
sinh nói đó, có phải là việc sinh nhật ở Bắc Kinh không?
Công Tôn
Thắng ngạc nhiên mà rằng:
- Sao
Bảo Chính lại biết được?
- Tôi
đoán xằng vậy, không biết rằng có hợp ý tiên sinh không?
- Vâng,
cái món phú quý ấy, ta chớ bỏ mất mà hoài. Cổ nhân nói: "Đáng lấy không
lấy, sau chớ phàn nàn! "Bảo Chính nghĩ sao?
- Đương
khi nói chuyện, thì chợt có một người ở đâu chạy ra nắm lấy tay Công Tôn Thắng
mà rằng:
- Gớm
thực! Dương gian có vương pháp, âm phủ có qủy thần, ngươi dám bàn những việc ấy
hay sao? Ta đứng nghe lâu rồi.
Công Tôn
Thắng nghe nói, nét mặt biến hẳn đi mà không biết nói trả lời làm sao được? Mới
hay:
Nước bèo
gặp gỡ tự nhiên,
Nào ai
hò hẹn mà nên hẹn hò?
Xưa nay
những khách giang hồ,
Lưng bầu
nhiệt huyết ai mà khác chi?
Tức gan
sao nhịn được cười,
Kìa quân
tham nhũng lộ người lầm than.
Đỉnh
chung xa mã muôn vàn,
Chẳng
qua máu mủ dân gian chứ gì?
Ra tay
trừ của bất nghì,
Chứng
minh xin có trời kia đất này!
Lời bàn
của Thánh Thán:
Bắt đầu
câu chuyện Thủy Hử, từ thôn Thạch Kiệt vậy, mà sau kết lại truyện Thủy Hử, cũng
ở Thạch Kiệt vậy, nghĩa của hai chữ Thạch Kiệt nói ra là định số vậy. Song lẽ
nói từ Thạch Kiệt là theo lệ mà thác thủy (gợi mối) ra đây, chứ còn truyện Thủy
Hử 108 anh hùng, thì vốn có trước kia, tức đã nói từ 13 hồi vậy, 108 người vốn
có trước, thì phải kể là có từ trước, sao lại bắt đầu từ Thạch Kiệt? Thì phải
đọc hồi Nguyễn Thị Tam Hùng, ở thôn Thạch Kiệt, để nhận ra 108 anh hùng, đi vào
nơi Bến Nước, đã định đoạt từ đó mà ra.
Họ
Nguyễn nói rằng: Người sống một đời, cỏ sống một mùa.. Hỡi ôi! Lời nói hết ý
vậy! Vì người sinh cõi đời, kẻ sống đến bảy mươi là thường thì lấy thời gian ấy
mà nói, trong khoảng ấy, lại một nửa là đêm, còn một nửa ngày, lại không những
thế mà thôi con người từ 15 tuổi về trước, hãy còn trẻ thơ, cũng như vất đi
không đáng kể, sau khi 50 tuổi, tai mắt kém đi, cũng như vất bỏ vậy, trong
khoảng đó chỉ còn 35 năm, lại còn bị cuộc đời mưa gió chiếm mất, bệnh tật chiếm
mất, lo nghĩ đói rách chiếm mất...Thế thì như họ Nguyễn nói đến bọn không sợ
trời không sợ đất, có tiền bạc thì tiêu với nhau, có gấm vóc thì mặc với nhau,
rượu uống hàng vò, thịt ăn hàng tảng, như thế thì làm gì mà không khoái
hoạt...Thử hỏi rằng họ Nguyễn kia đã được mấy ngày? Mà chẳng động tâm. Cho nên
tác giả chép ra tên của ba người họ Nguyễn với một sự ngao ngán sâu xa; Nào là
Lập Địa Thái Tuế, Hoạt Diêm La, Đoản Mệnh Nhị Lang, than ôi sống thác nhanh
chóng, kiếp người không thường, giàu có khó tìm, nên tùy sở thích, chuyện đời
nếu không viết ra sách, thì đâu được bền lâu?
Gia
Lượng thuyết họ Nguyễn, khéo đưa đón ý, người đời có thể bắt chước, khi buông
khi nắm, từ xa đến gần, như dắt lại tới, khác nào Gia Cát Lượng đối Mạnh Hoạch,
đâu phải người đời có thể bắt chước, cho nên xem hồi Du Thuyết Nguyễn Thị, nên
xem xét văn chương uyển chuyển, của bút phép tài tình, của một tác phẩm.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 15: Tải kim ngân, Dương Chí vâng mệnh;
Cướp lễ vật, Ngô Dụng dùng mưu
Khi ấy
có người chạy vào cầm lấy tay Công Tôn Thắng mà hỏi, Tiều Cái bèn ngẩng lên
nom, thì chính là Trí Đa Tinh Ngô Dụng, liền cười mà bảo rằng:
- Tiên
sinh, mời tiên sinh ra đây nói chuyện.
Ngô Dụng
cũng cười mà nói rằng:
- Tôi
nghe tiếng ông Nhập Văn Long Công Tôn Thắng đã lâu, ai ngờ ngày nay mới được
gặp ở đây!
Tiều Cái
lại trỏ Ngô Dụng mà bảo Công Tôn Thắng rằng:
- Tiên
sinh này là Trí Đa Tinh Ngô Dụng đây.
Công Tôn
Thắng nghe nói ra dáng vui mừng mà rằng:
- Ngài
là Gia Lượng tiên sinh phải không? Tiếng ngài lừng lẫy bấy lâu, mà tôi bây giờ
mới được gặp ở nhà Bảo Chính đây, thế mới biết Bảo Chính là người trọng nghĩa
khinh tài, cho nên bọn hào kiệt không ai là không đến đây tụ họp.
Tiều Cái
nói:
- Hiện
còn có mấy người bạn nữa ở trong kia, xin mời ngài vào đấy để cho biết nhau một
thể.
Nói đoạn
ba người cùng vào nhà trong, cùng Lưu Đường và ba anh em họ Nguyễn làm lễ tương
kiến, đoạn rồi đều nói lên rằng:
- Ngày
hôm nay được gặp gỡ đông đúc thế này, cũng không phải là sự ngẫu nhiên, vậy xin
Tiều Bảo Chính ngồi vào ghế giữa cho.
Tiều Bảo
Chính khiêm tốn mà rằng:
- Chết
nỗi! Tôi là anh chủ nhân tầm thường, đâu dám ngồi trên như thế!
Ngô Dụng
nói:
- Bảo
Chính là người hơn tuổi, xin cứ ngồi trên cho phải.
Tiều Cái
biết thế từ chối không tiện; đành phải ngồi trên ghế thứ nhất, để Ngô Dụng ngồi
ghế thứ nhì, Công Tôn Thắng ghế thứ ba, Lưu Đường thứ tư, Nguyễn Tiểu Nhị thứ
năm, Nguyễn Tiểu Ngũ thứ sáu, Nguyễn Tiểu Thất ngồi xuống ghế thứ bảy. Đoạn rồi
sai người lấy các thứ rượu nhắm khác lên, cũng đánh chén làm vui.
Khi chè
chén ung dung, Ngô Dụng nói với mọi người rằng:
- Mới
đây Bảo Chính nằm mộng thấy bảy ngôi sao Bắc Đẩu rơi xuống nóc nhà, thế mà nay
chúng ta lại tụ họp bảy người ở đây, thì có lẽ là trên ứng mệnh trời, cái món
phú quý kia, tất là bỏ thông tay mà lấy được. Vậy hôm trước đã nói với Lưu
Huynh, để đi thám thính đường lối đi của họ, xin đến sáng mai xin ngô huynh đi
sớm giúp cho.
Công Tôn
Thắng nghe nói liền ứng lên rằng:
- Việc
ấy không cần phải thám thính nữa, bần đạo đã biết rõ là họ đây theo con đường
lối Hoàng Nê Cương rồi.
Tiều Cái
nói:
- Về
phía đông Hoàng Nê Cươngchừng 10 dặm đường, là thôn An Lạc, ở đấy có một tay
hảo hán, gọi là Bạch Nhật Thử Bạch Thắng, cũng thường hay đến chơi tôi, mà tôi
vẫn cấp đỡ cho luôn.
Ngô Dụng
nói:
- Thế
thì một sao sáng ở trên sao Bắc Đẩu, có lẽ là ứng vào người ấy chăng? Nếu vậy
thì ta lại có việc dùng hắn được.
Lưu
Đường hỏi:
- Từ đây
đến Hoàng Nê Cương nghe chừng cũng xa, không biết rằng chúng ta định ước ở đâu
cho tiện.
Ngô Dụng
đáp:
- Chỉ ở
nhà Bạch Thắng, tức là chỗ dung thân của chúng ta đó, vả chăng ta cũng phải cần
đến Bạch Thắng kia mà.
Tiều Cái
lại hỏi Ngô Dụng rằng:
- Tiên
sinh định lấy cách êm ái, hay lấy cách cường ngạnh?
Ngô Dụng
cười mà đáp rằng:
- Việc
ấy tôi đã an bài quy cũ rồi, để ta xem tinh binh của họ, đáng lấy bằng sức
khỏe, thì ta lấy bằng sức khỏe, đáng lấy bằng trí khôn, thì ta lấy bằng trí khôn...Tôi
có một kế như thế nầy...thế nầy...không biết rằng có hợp ý các ông không?
Tiều Cái
nghe xong dậm chân xuống đất mà khen rằng:
- Diệu
kế, diệu kế, không trách gọi là tiên sinh Trí Đa Tinh, thực là xứng đáng, dẫu
đến Gia Cát Lượng cũng đến thế mà thôi.
Ngô Dụng
mỉm cười mà rằng:
- Thôi
đừng nói đến nữa, tai vách mạch rừng phải cho cẩn thận, sao cho mình biết với
nhau là được.
Tiều Cái
lại nói với mọi người rằng:
- Bây
giờ ba bác họ Nguyễn hãy trở về, để bao giờ có việc, sẻ đến đây tụ họp với
nhau, Ngô tiên sinh thì cũng về dạy học, còn Công Tôn tiên sinh cùng với Lưu
Đường, thì nghỉ lại ở đây với tôi.
Bàn định
xong; lại cùng nhau uống rượu, đến khuya mới nghỉ.
Ngày hôm
sau cơm nước xong rồi. Tiều Cái lấy 30 vạn hoa ngân đưa tặng ba anh em họ
Nguyễn mà nói rằng:
- Gọi là
một chút lòng thành, xin các bác thu nhận lấy cho. Ba người từ chối không lấy,
nhưng Tiều Cái nhất định không nghe, sau bất đắc dĩ phải cùng nhau nhận lấy mà
bái biệt ra về.
Khi đưa
chân ra cổng trang, Ngô Dụng lại ghé tai ba người mà dặn với rằng:
- Cứ thế
nầy...cứ thế nầy...hễ đến hẹn, chớ để lỡ mới được.
Ba người
vâng lời, rồi trở về thôn Thạch Kiệt. Bấy giờ Ngô Dụng cũng về nhà dạy học, rồi
thỉnh thoảng lại đến bàn chuyện trò với Tiều Cái, Công Tôn Thắng, Lưu Đường ở
thôn Bảo Chính.
Ai hay
một chốn thôn cùng.
Gây nên
thế sự lạ lùng từ đây.
Ở đời ví
chẳng ra tay.
Thì trăm
năm với một ngày khác chi
Nói về
Lương Trung Thư ở Bắc Kinh, khi đã mua sắm xong các đồ lễ vật, để mừng nhạc
gia, liền định tìm người mà chọn ngày mà cho đem sang Đông Kinh. Khi đó hai vợ
chồng Lương Trung Thư bàn soạn với nhau, rồi Lương Trung Thư phàn nàn rằng:
- Bây
giờ lễ vật đã sắm sanh đủ cả, chỉ nay mai là được khởi hành, duy còn một việc
đem đi, thì chưa biết tìm ai cho chắc chắn!nếu lại hớ hênh như năm trước, để nó
cướp 10 vạn kim ngân châu báu, mà đến nay truy nã không ra, thì thực là uổng
lắm.
Phu nhân
nghe nói, liền trỏ xuống dưới thềm mà nói rằng:
- Tôi
thấy tướng công vẫn thường nói người kia là một tay giỏi giang được việc, vậy
sao ngài không sai hắn đi, có phải là chu tất không?
Lương
Trung Thư nghe vậy, liền quay ra nhìn, thấy Thanh Diện Thú Dương Chí đương đứng
ở đấy, thì có ý trù trừ gọi lên mà bảo rằng:
- Dương
Chí, ta quên mất, không nhớ đến ngươi, nếu ngươi có thể mang các lễ vật mừng
sinh nhật vào Đông Kinh cho ta được, thì ta sẽ cất nhắc lên cho.
Dương
Chí chấp tay bẩm rằng:
- Lệnh
ân tướng đã sai, tôi đâu dám trái nhưng ngài định xếp đặt thế nào, và cho bao
giờ khởi hành?
- Ta
định lấy 10 cỗ xe Thái Bình ở Đại danh phủ, cho mười tên cấm quân đi áp, và mỗi
xe cắm một lá cờ vàng, trên đề mấy chữ "Lễ mừng sinh nhật quan Thái Sư",rồi
lại thêm mỗi xe hai người lính khỏe mạnh, đi theo vào đấy, mà trong ba ngày nữa
là bắt đầu khởi hành.
Dương
Chí bẩm rằng:
- Việc
ấy không phải là chúng tôi dám từ chối, nhưng thực là không thể nào đi được,
vậy xin ân tướng giao cho ai là kẻ anh hùng linh lợi thì hơn.
Lương
Trung Thư truyền rằng:
- Việc
nầy ta muốn cất nhắc cho ngươi, cho nên mới sai ngươi đi, rằng ta viết một
phong thư riêng cho quan Thái Sư, rồi ngài sẽ tâu với triều đình phong sắc cho
ngươi, vậy làm sao mà ngươi từ chối?
- Dám
bẩm ân tướng, chúng tôi được nghe trước đây đã bị một phen mất cướp, tới nay
truy nã cưa ra...Hiện bây giờ trộm cướp càng nhiều, mà đây sang Đông Kinh toàn
là đường bộ, đi qua mấy nơi như núi Tử Kim, núi Nhị Long, núi Đào Hoa, núi Tản
Cái, đồi Hoàng Nê, thung Bạch Sa, bể Dã Mân và rừng Xích Tùng.. Đều là những
nơi giặc cướp ẩn núp xưa nay, dẫu khách đi không, cũng không dám đi qua đấy.
Huống chi chúng ta lại biết là kim ngân châu bảo mang đi, thì làm thế nào mà
chúng không cướp bóc, như vậy chẳng qua chỉ uổng phí tình mạng mà không ăn
thua, bởi thế nên chúng tôi không dám đi. Trung Thư nói:
- Nếu
thế thì ta sẽ điểm nhiều binh lính đi hộ tống với ngươi cũng được chứ sao?
Dương
Chí lại bẩm rằng:
- Ân
tướng sai đến một vạn người đi, cũng là vô ích, nếu họ nghe thấy cướp đến, thì
họ tháo trước ngay rồi, còn dám làm gì được.
- Cứ như
ngươi nói, thì lễ vật đành bỏ đấy, không đưa đi được nữa hay sao?
- Bẩm ân
tướng, nếu ân tướng có y cho một điều này, thì chúng tôi xin vâng đi được.
- Ta đã
giao cho ngươi, thì có thế nào ngươi cứ nói ta nghe...
Dương
Chí nói:
- Nếu ân
tướng nghe lời chúng tôi, thì không cần dùng đến xe phào chi cả, chỉ xin chia
các lễ vật ra làm 10 gánh, chọn lấy 10 tên cấm quân khỏe mạnh để gánh, rồi ăn
mặc giả khách buôn, mà đi ròng rã ngày đêm cho mau tới Đông Kinh, thì may ra
mới được.
Lương
Trung Thư nghe nói khen rằng:
- Anh
nói phải, để rồi ta viết thư trình với quan Thái Sư, ngài sẽ xin cáo mệnh cho
về.
Nói xong
liền cho Dương Chí sửa soạn hành trang và điểm quân lính ra đi.
Sáng hôm
sau Lương Trung Thư lại gọi Dương Chí vào sảnh mà bảo rằng:
- Ngươi
định lúc nào bắt đầu ra đi?
- Bẩm ân
tướng, chỉ sáng mai là chúng tôi lấy giấy lãnh trạng xin đi.
Lương
Trung Thư nói:
- Phu
nhân cũng có một gánh lễ vật, để đưa vào bảo quyến ở trong phủ, nhưng sợ anh
không hiểu đường lối, cho nên cất thêm một tên Đô Quản, và hai tên Ngu Hầu để
đi kèm vào cho tiện.
Dương
Chí có ý ngần ngại mà bẩm rằng:
- Dương
Chí nầy không đi được nữa.
Trung
Thư ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Sao lễ
vật đã sửa soạn cẩn thận rồi, mà ngươi lại nói là không đi được nữa?
- Bẩm ân
tướng, 10 gánh lễ vật và mấy người đi có điều quan hệ ở chúng tôi, nên đi sớm
thì phải đi sớm, nên đi trưa thì phải đi trưa, đều ở tay tôi cất đặt. Nay ân
tướng lại cho lão Đô Quản vào hai tên Ngu Hầu cùng đi, vâng mệnh phu nhân sai khiến,
trong khi đi đường hoặc sinh sự ngang trái; chúng tôi không có quyền coi giữ,
mà lỡ ra hỏng đây việc to, thì bấy giờ biết nói làm sao cho được.
- Cái đó
khó gì, để ta bắt họ phải tùy theo ngươi là được rồi.
- Như
vậy thì chúng tôi xin ký giấy lãnh để đi, nếu có sơ xuất điều chi, thì xin cam
chịu tội.
Lương
Trung Thư cả mừng mà rằng:
- Ngươi
thực là người có kiến thức, không phụ lòng ta đề cử chút nào.
Nói đoạn
cho gọi Tạ Đô Quản và hai tên Ngu Hầu mà truyền rằng:
- Dương
Chí đã nhận lấy lãnh trạng, tải các lễ vật dâng quan Thái Sư bên Đông Kinh,
việc gì cũng đều quan hệ ở hắn cả, vậy các ngươi đi đường phải tuân theo ý hắn,
đi đứng nghỉ ngơi, bảo sao nghe vậy, không được ngang trái điều chi. Còn những việc
Phu nhân đã dặn, thì ba các ngươi phải cho chu tất, cẩn thận, đi đến nơi về đến
chốn, chớ để làm lỡ mới được!
Lão Đô
Quản cùng Ngu Hầu đều cúi đầu mà vâng nhận mọi lẽ. Sáng hôm sau đầu trống canh
năm, sắp sửa gánh gồng ra để ngoài sảnh sự. Lão Đô Quản cùng hai Ngu Hầu, đem
một gánh tài bạch của Phu nhân ra, tất cả là mười một gánh, bắt 11 tên cấm quân
đều ăn mặc lối phu gánh thuê cả. Khi cơm nước xong rồi, Lương Trung Thư giao
các giấy má cho Dương Chí. Dương Chí đội nón lá, giắt thanh đao lưng, cầm thanh
đao lớn. Tạ Đô Quản thì ra dáng người khách đi đường, và hai tên Ngu Hầu ăn mặc
ra người bán hàng, ai nấy đều cầm đao và giắt mấy thanh roi mây, mà bái từ
Lương Trung Thư rồi dòng dả cất gánh ra đi.
Mười lăm
người đi khỏi cổng phủ, ra tới cửa thành Bắc Kinh, rồi cùng nhau lên đường cái
lớn, trông chừng thẳng ruỗi Kinh Sư. Bấy giờ đương độ trung tuần tháng năm,
trời tuy lạnh ráo, mà nóng bức lạ thường. Dương Chí nhất tâm muốn đi cho kịp
ngày sinh nhật, là ngày rằm tháng Sáu, cho nên cũng phải dòng dả đi mau. Từ khi
ở thành Bắc Kinh bước chân ra, trong năm bảy ngày trời, hôm nào cũng đầu trống
canh năm dậy đi cho mát, rồi đến giữa trưa lại nghỉ. Sau dần dần đến những nơi
nhà cửa lưa thưa, đường đi vắng vẻ, các điếm nghỉ toàn thị trên gò trên núi.
Dương Chí bèn bắt các quân quan cứ từ giờ Thìn thì bắt đầu đi, mà đến giờ Thân
thì nghỉ. Bọn 11 đứa cấm quân toàn thị là gánh nặng è cổ, mà trời lại nóng bức
như thiêu, chúng không sao chịu được, cứ thấy quãng rừng cây nào là đặt gánh
xuống nghỉ. Dương Chí thấy vậy, thì thúc dục bắt đi, nếu anh nào chậm trễ lại
roi mây quất đít không cho được nghỉ chút nào.
- Chúng
bây còn biết cái gì nữa, muốn sống ngủ đi.
Nói đoạn
giơ roi toan đánh. Chúng thấy thế ai cũng đều im hơi nín tiếng nhắm mắt cho
xong. Đến gần giờ Thìn cùng nhau thổi cơm nấu nước, ăn uống xong rồi mới bắt
đều cho đi.
Khi đi
ra đường Dương Chí vừa đánh vừa thúc, không cho vào chỗ mát để nghỉ, các quân
chúng đều lẩm bẩm oán hận luôn mồm. Hai tên Ngu Hầu cũng kêu ca với Đô Quản,
làm cho Đô Quản cũng phải phiền não khó chịu vì Dương Chí. Đi được độ mười bốn
mười lăm ngày, thì trong bọn mười bốn mười lăm người ấy đều oán hận Dương Chí,
mà không ai bằng lòng chút nào.
Một hôm
cũng vào khoảng giờ Thìn, mọi người thổi cơm nấu nước ăn uống rồi ra đi, bấy
giờ giữa hôm mồng bốn tháng sáu, trời chưa tới trưa, thì mặt trời đã chói lọi ở
trên soi xuống, không hề có một chút mây gợn nào che đỡ, làm cho nóng bức lạ
thường không sao chịu nổi. Dương Chí thúc quân chúng đi ở một con đường hẻm
trong núi, đến lúc bóng nắng đã đứng đầu, thì trên mặt đá nóng bỏng như nhung,
không thể nào đặt chân xuống mà đi được! Quân chúng phàn nàn rằng:
- Trời
nóng quá thế nầy, dễ thường phơi chết người ta chắc!
Dương
Chí thấy chúng phàn nàn lại thét lên rằng:
- Chúng
bây phải cho mau, đến quãng đồi đằng trước kia sẽ liệu.
Được một
lát đi đến một cái đồi đất ở trước mặt, mười lăm người cùng lên đồi để đặt gánh
xuống nghỉ, rồi mười một quân gánh đều chạy ra chỗ gốc cây mà nằm ngủ lăng quay
ra đó. Dương Chí thấy chúng như vậy, thì kêu lên rằng:
- Chết
nỗi! Đây là xứ sở nào, mà các ngươi dám nằm nghỉ ở đó? Có dậy mà đi mau lên
không?
Nói đoạn
lại quay sang lão Đô Quản mà bảo rằng:
- Đô
Quản không biết đây chính là gò Hoàng Nê, trộm cướp vẫn thường lẩn núp ở đây,
dẫu đến Thái Bình vô sự, cũng vẫn có ban ngày cướp bóc người ta, huống chi là
thời buổi nầy, còn ai dám lên đây mà nghỉ!
Hai tên
Ngu Đầu nghe nói, thì ra dáng không bằng lòng mà rằng:
- Câu ấy
ông nói đến mấy lượt rồi, ông chỉ quen nói thế để dọa người ta thôi.
Lão Đô
Quản bảo Dương Chí rằng:
- Thôi
thì hãy để cho họ nghỉ một tí đến quá trưa ta lại đi có được không?
Dương
Chí nói:
- Các
ông có biết gì đâu, từ đây trở đi tới bẩy tám dặm đường, không có một cái nhà
nào cả, nghỉ ở đây thế nào được?
Lão Đô
Quản nói:
- Tôi
hãy ngồi đây một lát rồi tôi đi, các ông cứ giục họ đi trước đi.
Dương
Chí đứng dậy cầm roi dóng dả cho chúng mà quát lên rằng:
- Anh
nào không đi, thì đánh đủ hai chục roi không tha.
Chúng
nghe nói đều sợ hãi, đâm bổ trở dậy. Trong đám ấy có một anh nói với Dương Chí
rằng:
- Đề Hạt
ơi! Chúng tôi gánh nặng hàng trăm cân một có được thung dung nhẹ nhàng như các
ông đi tay không đâu? Ông phải nên nghĩ lại cho chúng tôi của là người mới
được. Đến ngay Tướng Công đi đây, chắc ngài cũng còn cho chúng tôi kêu được một
câu nữa là...ông cứ mắng hoài đi, không còn thương chúng tôi chút nào cả.
Dương
Chí lại quát lên rằng:
- Đồ súc
sinh không biết gì, tao đây chỉ đánh mới xong!
Đô Quản
gạt đi rằng:
- Đề Hạt
hãy khoan tay để tôi nói câu này: Khi tôi ở Đông Kinh hầu hạ quan Thái Sư, bao
nhiêu quan quân trên dưới trông thấy tôi đều vâng dạ răm rắp, mà không hề có
kêu ngạo một câu nào. Nay bác là một anh tử tù đi sung quân, ví Tướng Công có
lòng thương, cho làm chức Đề Hạt, thế mà bác chỉ quát tháo đánh đập người ta,
thì còn ra lý thú gì nữa chứ?
Dương
Chí nói:
- Các
ông có biết đâu đường đi bây giờ thiên nguy vạn hiểm, chứ có phải chơi đâu?
- Tôi từ
Tứ Xuyên Lưỡng Quảng không đâu là không đi khắp, nhưng cũng không thấy ai nói
như bác bây giờ.
Dương
Chí nói:
- Bây
giờ nào có được như mọi lúc thái bình đâu?
- Bác
nói thế mà không sợ tội khoét mồm cắt lưỡi, thiên hạ bây giờ làm sao mà không
thái bình?
Dương
Chí đương muốn nói đáp lại, thì bỗng thấy ở khu rừng có bóng người đương ngấp
nghé, nom dòm, chàng liền trỏ mà bảo mọi người rằng:
- Kia
kìa, có phải rõ quân cướp đấy không?
Nói đoạn
vất roi xuống đất, vác thanh đao chạy thốc sang khu rừng mà quát lên rằng:
- Chúng
bây to gan thực, dám đến đây nom dòm hàng hóa của ta à?
Chàng
vừa nói vừa chạy đến, thì thấy ở khu rừng bên ấy, có một dẫy bảy cổ xe giang
chấu, sáu anh đương cởi trần trùng trục, ngồi nghỉ mát, và một anh bên cạnh mái
tóc có nốt ruồi đỏ cầm đao đứng đó. Tụi kia trông thấy Dương Chí, thì bảy người
đều kêu lên một tiếng rồi nhảy trổ ra, Dương Chí quát lên rằng:
- Các
anh là người nào?
Bảy
người kia hỏi lại:
- Anh là
ai? Anh đừng hỏi càn, chúng tôi đi buôn bán tầm thường, không có tiền đâu cho
anh được!
Dương
Chí nói:
- Các
anh buôn bán tầm thường, thì đây buôn to hẳn?
Bảy
người hỏi:
- Anh là
hạng người nào, nói thực cho biết?
- Các
anh hãy nói các anh ở đâu đã?
- Bảy
anh em chúng tôi buôn táo ở Hàng Châu, đem sang Đông Kinh, đường đi qua đây,
thấy họ nói chỗ này là đồi Hoàng Nê, thường có trộm cướp lẩn lút để cướp bóc
khách thương, cho nên chúng tôi phải mải miết đi. Nhưng nghĩ lại mình chỉ có
mấy xe táo, mà không có của cải chi, vả chăng đi được đến đây, thì trời nắng
quá, không sao chịu nổi, đành phải ngồi nghỉ, đợi khi trời mát mới đi. Vừa rồi nghe
tiếng nói ở trên đồi, chúng tôi tưởng là cướp cho nên phải bảo người chạy ra
nom xem.
Dương
Chí nói:
- Té ra
chúng mình là khách đi đường cả, thế mà tôi thấy người nom dòm, vẫn cho là cướp
nên vội vàng chạy đến để xem.
Bảy
người kia cười mà rằng:
- Mời
ngài xơi mấy quả táo cho vui.
Dương
Chí nói:
- Thôi,
tôi xin vô phép.
Đoạn rồi
vác đao chạy về chỗ để gồng gánh.
Lão Đô
Quản thấy Dương Chí trở về thì nói rằng:
- Có
cướp đến đây, thì chúng ta phải chạy đi mới được chứ?
Dương
Chí nói:
- Tôi
tưởng là cướp, nhưng té ra là bọn buôn táo cả.
Lão Đô
Quản trở ngay nét mặt mà nói với chúng rằng:
- Cứ như
lời ông ấy nói lúc nãy, thì có lẽ tụi này chết hết cả rồi.
Dương
Chí nói:
- Thôi
ông bất tất phải nói, nếu được vô sự thì còn gì bằng nữa, bây giờ cứ để cho
nghỉ, chốt mát sẽ đi.
Chúng
nghe nói ai cũng bật cười. Dương Chí để thanh đao xuống đất, rồi cũng đến một
gốc cây mát ngồi nghỉ.
Được một
lúc, thấy đàng xa có một anh vai vác đôi thùng, chân bước lên đồi, miệng hát
nghêu ngao rằng:
"Lửa
trời nung nấu bấy lâu nay
Cháy lúa
khô đồng héo cỏ cây,
Thương
nỗi nông phu như lửa đốt
Mà ai
phe phẩy quạt luôn tay? "
Anh
chàng ta vừa hát vừa đi lên chỗ rừng thông trên đồi, đặt gánh để nghỉ. Bọn quân
chúng trông thấy, liền hỏi anh chàng kia rằng:
- Anh
gánh gì trong thùng đó?
- Rượu
trắng đấy!
- Anh
gánh đi đâu?
- Gánh
vào các làng để bán.
- Bao
tiền một thùng?
- Năm
quan tiền một thùng.
Chúng
nghe nói bàn với nhau rằng:
-
"Chúng ta đương nóng đương khát, thử mua một thùng uống giải nóng giải
khác có thú không? "
Dương
Chí thấy chúng nói, liền quát lên rằng:
- Chúng
bây làm gì đó?
Chúng
nói:
- Chúng
tôi mua rượu uống cho đỡ khát.
Dương
Chí vớ lấy thanh đao quát mắng rằng:
- Tao
không bảo, sao chúng bây dám thiện tiện mua rượu, quân nầy to gan thực.
Chúng
nói:
- Không
có việc gì ông cũng hống hách với chúng tôi. Chúng tôi có tiền mua rượu uống,
việc gì mà hăm dọa.
Dương
Chí lại mắng rằng:
- Quân
khốn nạn này, không hiểu một chút nào cả. Chúng bây chỉ chực uống, không biết
đường xá bây giờ vất vả, kể biết bao hảo hán bị thuốc mê đó sao?
Anh
chàng bán rượu nghe nói thì nhìn Dương Chí rồi cười nhạt mà rằng:
- Ông
này mới lạ chứ! Tôi có bán cho ông uống đâu, mà ông dám nói những câu vô lý như
thế.
Đương
khi hai bên cãi cọ ỏm tỏi, thì thấy bọn buôn táo vác đao chạy đến:
- Các
anh làm gì ầm ĩ lên thế?
Anh
chàng bán rượu liền đáp rằng:
- Tôi
gánh rượu vào làng bán, đi qua đây trời nắng ngồi nghỉ mát, bọn kia đến hỏi mua
rượu uống; tôi cũng chưa bán, thế mà ông này lại bảo rằng: Rượu tôi có thuốc
mê. Các ông tính coi nói những câu vô lý thế buồn cười không?
Bảy
người kia nói:
- À, thế
mà chúng tôi tưởng là có cướp đến...Thôi cần gì! Chúng tôi cũng đương muốn tìm
rượu giải khát đây, các ông ấy đã ngờ, thì anh bán cho chúng tôi một thùng vậy.
Anh
chàng gánh rượu đáp rằng:
- Không
bán, không bán...
Bảy
người lại nói:
- Cái
anh nầy rõ là vô lý, anh mang đi đâu bán không là tiền? Anh bán cho chúng tôi
cũng là cứu cho chúng tôi đỡ cơn nóng khát chứ.
- Bán
cho các ông một thùng, thì cũng chả làm gì, nhưng bị họ nói thế, khó chịu lắm!
Vả chăng đây cũng không có chén gáo gì cả, uống làm sao được?
- Ối
chào! Họ nói mặc họ, ta cứ bán đã sao? Chúng tôi đã có gáo kia rồi.
Nói đoạn
hai người chạy về chỗ để xe, lấy ra hai cái gáo dừa, và mỗi người bốc một bốc
táo nướng đem đến. Bảy anh túm vào bên thùng rượu múc uống lần lượt với nhau,
rồi giở táo ra nhắm.
Một lát
hết cả thùng rượu, bảy người quay ra bảo anh bán rượu rằng:
- Chúng
tôi quên mất, không hỏi anh thùng rượu bao nhiêu tiền.
Anh kia
trả lời rằng:
- Năm
quan một thùng, mười quan một gánh đấy.
Bọn bảy
người nói:
- Năm
quan một thùng, chúng tôi xin vâng, nhưng anh thêm cho chúng tôi một gáo.
Anh kia
đáp:
- Giá
tiền đã nhất định rồi, không thêm được!
Bọn kia
một anh đưa tiền ra trả hàng rượu, một anh thì mở ngay thùng rượu đầy, múc lấy
một gáo uống. Anh chàng bán rượu vội vàng chạy đến giằng lấy, thì anh kia đã
uống hết một nửa, còn một nửa trong gáo thì cầm chạy phăng sang bên rừng bên
kia. Anh chàng bán rượu lật đật chạy đuổi theo, thì lại một anh ở trong rừng,
lững thững chạy ra múc luôn gáo nữa.
Anh
chàng kia trông thấy vội vàng nắm lấy tay, giật lấy gáo rượu đổ vào thùng đậy
lại cẩn thận rồi vất gáo dừa xuống đất mà nói lẩm bẩm rằng:
- Bọn
khách ấy không có một chút gì là quân tử cả, con người như thế mà làm như thế
được sao?
Đằng này
bọn quân chúng của Dương Chí, thấy đám kia uống rượu tới ta tới tấp như thế thì
trong bụng rất lấy làm nóng nảy khó chịu, muốn sao vớ được thùng rượu mà nốc
với nhau, thì mới thỏa lòng. Có một anh đến nói với lão Đô Quản rằng:
- Ngài
ơi! Ngài làm phúc nói giúp chúng tôi một tiếng, bọn hàng táo nó uống cả một
thùng có việc gì đâu, còn một thùng cho chúng tôi mua uống nốt để cho đỡ khát,
kẻo trời nóng bức thế này, mà ở đây không có nước thì chịu làm sao được.
- Lão Đô
Quản phần thì nghe chúng nói cũng thương tình; phần thì bụng mình cũng hơi muốn
uống, bèn nói với Dương Chí rằng:
- Bọn
hàng táo nó uống hết thùng rượu, cũng không việc gì cả vậy còn một thùng nữa
cho phép bọn quân chúng nó mua, uống cho đỡ khát, chứ ở đây còn đào đâu ra nước
được, không lẽ để nó chết khát hay sao.
Dương
Chí nghe nói trong bụng nghĩ thầm rằng:
-
"Bọn kia nó uống hết một thùng; đích xác ta trông thấy, sau nó lại múc một
gáo bên thùng này để uống, cũng không thấy việc gì cả, thôi ta đánh nó suốt cả
ngày, âu là bây giờ ta cũng để mặc nó uống, mỗi đứa một ít, cho nó hả lòng
vậy."
Nghĩ
đoạn liền bảo với lão Đô Quản rằng:
- Đô
Quản đã nói vậy, tôi xin chiều lòng cho chúng nó uống. Mới hay:
Dẫu cho
dạ đá gan đồng
Lúc này
há dễ cầm lòng cho đang
Tri cơ
nên trước giữ giàng.
Rồi ra
những sự phi thường biết đâu?
Bấy giờ
lũ quân chúng nghe Dương Chí nói, thì chẳng khác gì được người cởi trói tha
cho, liền hăm hở cùng nhau gom đủ năm quan tiền đến nói với anh kia để mua rượu
uống. Anh kia lắc đầu mà đáp rằng:
- Rượu
nầy có thuốc mê, tôi không bán cho các anh!
Chúng
nghe nói thì làm bộ cười nịnh mà bảo anh kia rằng:
- Bác
ơi! Bác nói cay làm gì thế?
Anh
chàng kia lại gạt đi mà rằng:
- Tôi
không bán đâu, đừng lôi thôi nữa.
Bọn buôn
táo thấy vậy, bảo với anh hàng rượu rằng:
- Anh
lầm rồi, vừa nãy họ nói liều thế thì mặc họ, chứ việc gì anh lại giận dỗi?
Chúng tôi đã uống một thùng, có việc gì đâu, thôi anh bán cho người ta, đừng
nên chấp nê nữa?
Anh
chàng kia nói:
- Thôi,
việc gì đương vô sự, lại làm cho người ta phải nghĩ tâm đến mình?
Bọn hàng
táo tức mình đứng dậy đẩy anh hàng rượu ra, rồi xách thùng rượu đưa cho đám
quân chúng uống.
Đám quân
chúng thấy vậy cả mừng, giữ lấy thùng rượu, rồi hỏi bọn buôn táo mượn cái gáo
dừa để uống.
Bọn buôn
táo bảo đám quân chúng rằng:
- Để tôi
đưa các bác mấy quả táo mà nhắm rượu nhân thể.
Đám quân
chúng nói:
- Xin
cảm ơn các ông, có đâu chúng tôi dám phiền thế.
Bọn buôn
táo cười mà rằng:
- Chúng
tôi cũng là khách đi đường cả, các bác lấy mỗi người một quả để đưa cay cho dễ
uống, có làm chi mà phiền.
Nói đoạn
lấy độ dăm quả táo đưa cho đám quân chúng, và đưa hai cái gáo cho mượn một thể.
Quân
chúng cả mừng, vội vàng mở thùng rượu múc ra hai gáo đưa mời Dương Chí và lão
Đô Quản uống trước, Dương Chí nhất định không uống, duy có Đô Quản thì giơ gáo
lên nốc luôn một hơi vừa hết. Hai anh Ngu Hầu cũng mỗi người uống trước một
gáo, còn thì quân chúng lần lượt chia nhau mà uống. Dương Chí thấy chúng uống
vào đều vô sự cả, chàng cũng vẫn nhất định không uống, nhưng sau thấy trời nóng
bức quá chừng, mà miệng ráo cổ khô không sao chịu được, chàng liền bất đắc dĩ
cầm lấy gáo rượu uống liều một nửa, và ăn qua loa một vài miếng táo cho đỡ khát
vậy.
Khi uống
xong rồi, anh chàng bán rượu bảo với chúng rằng:
- Thùng
rượu nầy bọn hàng táo đã uống mất nửa gáo, vậy tôi trừ cho các anh nửa quan còn
phải trả đủ cho tôi.
Bọn quân
chúng đưa tiền ra trả, anh chàng kia nhận lấy tiền rồi, quảy đôi thùng mà lại
hát nghêu ngao đi xuống dưới đồi. Bấy giờ bọn bảy anh hàng táo đứng ở gốc thông
bên kia, trỏ sang 15 người nầy mà nói rằng:
- Ngã
này...Ngã này...
Đoạn rồi
trong bọn 15 người này, hết thẩy đều nặng đầu chóng mặt, mềm rũ chân tay mà nằm
vật cả ra đó. Bảy anh hàng táo thấy vậy, liền đem bảy cỗ xe giang châu đổ cả
táo xuống góc rừng, rồi lấy các kim ngân tài bảo trong 11 gánh của lũ kia, mà
xếp cả lên xe đậy điệm cẩn thận, rồi kéo xe xuống đồi dưới mà đi. Dương Chí
trông thấy thế, trong bụng vô cùng tức bực khốn khổ, song chân tay thân thể đã
mềm rũ cả ra, mà không sao cựa quậy được. Còn mười bốn anh nọ cũng chịu phép,
nhìn cho bọn kia lấy hết kim ngân châu bảo mang đi, không hề làm gì được cả.
Khôn
ngoan ở với ngu đần,
Vừa phần
nhọc xác vừa phần uổng công.
Giống
tham bao tránh khỏi tròng
Làm cho
lụy đến anh hùng bởi ai?
Bảy anh
hàng táo ấy là ai? Chính là Tiều Cái, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Lưu Đường và ba
anh em họ Nguyễn. Còn anh hàng rượu kia, thì chính là Bạch Nhật Thử Bạch Thắng,
mà gánh rượu ấy toàn là rượu ngon tất cả. Khi bảy người uống một thùng, rồi Lưu
Đường lại bỏ thùng rượu bên này uống luôn một gáo nữa, cố ý làm cho bọn 15
người nọ biết là rượu tốt. Đoạn rồi Ngô Dụng lại nấp ở trong rừng bỏ thuốc mê
vào gáo, mà chạy xổ ra giả vờ múc trộm. Bấy giờ Bạch Thắng quay lại giằng gáo
rượu đổ trả vào thùng, làm cho thuốc mê pha lẫn cả vào rượu, rồi sau mới bán
cho lũ nọ. Đó là cái kế sách của bọn 8 người hảo hán bày ra, để cướp lấy 10 vạn
quan tiền châu báu vậy.
Khi ấy
Dương Chí vì uống ít rượu, nên vừa được một lúc, thì chàng đã tỉnh táo dậy được
trước, duy nhìn đến mười bốn người kia, thì anh nào anh nấy, vẫn còn nằm vật
mãi ở gốc cây, dãi nhớt chảy ra bên mép, mà chưa anh nào dậy được. Dương Chí
thấy thế, vừa phần tức bực, vừa phần lo sợ, vì mấy đứa khốn nạn tham lam, nói
ngang nói dọc, làm cho mười mấy gánh châu báu kim ngân; đều tống đi tất cả, như
thế thì còn về tới phủ mà trông thấy Lương Trung Thư làm sao được nữa? Chàng
nghĩ vơ nghĩ vẫn, cay đắng trong lòng, liền lấy tờ giấy lĩnh trạng ra xé tan
nát vứt đi. Đoạn rồi đứng mà phàn nàn một mình rằng:
- Bây
giờ đi cũng dở, mà về thì cũng chết, tiến thoái đôi đường đều là tuyệt vọng cả!
Thời vận anh hùng đã đến lúc long đong như thế, bất nhược liều mình mà chết ở
đây cho rãnh!
Chàng
nghĩ vậy liền sắn áo đi rảo bước ra mạn đồi để nhảy xuống khe mà tự tử.
Cho hay:
Cây cao
càng cả gió lay
Khôn
ngoan càng lắm nỗi cay đắng lòng,
Chẳng
hay cũng mẹo Hóa Công,
Thử gan
sắt đá anh hùng xem sao?
Bể trần
mấy lớp ba đào,
Nóng gan
ai dễ cắm sào được yên!
Chắp tay
vái lạy Hoàng Thiên,
Thân này
liền quyết một phen với đời...
Lời bàn
của Thánh Thán:
Đọc đến
đây ta không khỏi ngậm ngùi mà than rằng: Bậc quân tử lãnh mạng tự trong triều,
Lâm chính ở ngoài quận, phải lòng trung và gắng trí khôn thế mà sau cũng táng
thân mang tiếng, thì sao cho khỏi đau lòng!!! Hỡi ôi! Để một tay chuyên chế có
thể điều động ba quân, mà khiến hai kẻ chăn dê, chả khỏi sinh ra rắc rối: Dùng
một tâm chí làm việc, thì đến khó như xây lầu Ngũ Phượng, cũng chả chút sai
lầm; Mà kéo cả họ đến bàn mưu, thì làm cái nhà nhỏ cũng không được?
Lương
Trung Thư biết ngoài đường lắm trộm cướp, lại khó kiếm nổi người đi, đã nghĩ kỹ
càng, cậy đến Dương Chí; ủy cho 10 vạn kim ngân, kể cũng biết người; Tại sao
lại còn phụ thêm một lão Đô Đầu, và hai tên Ngu Hầu đi kèm theo nữa, cho rằng
riêng lễ vật của phu nhân một gánh, gửi theo vào trong phủ để biếu bảo quyến;
thì cũng đoạn Dương Chí đã lãnh 10 vạn của, khó gì một gánh nữa đâu? Nếu bảo
rằng Dương Chí chẳng thuộc lối đường cho lắm, thì những tên hầu trong Tướng
phủ, theo giúp việc phu nhân, đáng tin cậy lắm ư? Tức còn nghi kị Dương Chí,
chưa coi là thân mật vậy. Phải chăng Lương Trung Thư coi trọng 10 vạn của, nghĩ
rằng Thái Sư đã giàu sang đến thế, cũng phải động lòng, khi Thái Sư đã động
lòng, thì Lương Bắc Kinh đắc sủng. Thế lại vững như bàn thạch, mới đem dâng
hiến của này hòng rằng tâm Thái Sư phải động. Cho nên coi khinh Dương Chí, nghĩ
rằng y vốn kẻ bần hàn, nay thấy của chẳng động lòng sao được? 10 gánh của ấy,
còn nguy hiểm hơn "Giấc mơ bắt được Hưu tàu lá chuối ngoài gò"mới
phải cho Đô Quản và hai Ngu Hầu đi kèm ép vậy để phòng họ Dương kia khỏi động
lòng. Thế mà vẫn nhớ câu sách dạy: Dùng người chớ ngại, ngại người chớ
dùng...Thế mà còn bày trò một gánh của phu nhân, cho kẻ thân tín đi kèm, để cho
dấu vết nghi kỵ. Thì than ôi! Làm một người như Dương Chí lúc ấy, xét cũng khó
thay! Dẫu khi đi đường, cũng nghỉ ngơi từng lúc, đều theo lời dặn, coi cả ba
người, không được tự tiện, lại xét ra một viên quan cai trị trăm họ, một viên
tướng điều khiển ba quân, chỉ một người là được, đằng này lại đến bốn người,
đem bốn người ấy, áp tải 11 cấm binh há có được chăng? Kinh Dịch nói: Dương,
như 1 vua 2 dân, đạo của quân tử, âm, như 2 vua 1 dân, đạo của tiểu nhân. Nay
Trung Thư chỉ vì cớ coi trọng 10 vạn của, khinh một Dương Chí, với kế hoạch
quanh co, đã theo đạo của tiểu nhân, còn mong qua Hoàng Nê Cương khỏi mất ở
trong muôn một, ắt vô lý vậy. Cho nên vụ mất cướp đồ mừng sinh nhật, đâu phải
cái tội ở đám 8 người Tiều Cái, đâu phải cái tội ở 11 tên Cấm binh, mà cũng
không phải cái tội ở bốn người Sai áp nữa, mà chính cái tội ở Trung Thư, còn
bàn gì nữa, còn bàn gì nữa? ? ?
Hoặc có
kẻ hỏi: Đã xẩy ra mất cướp, sao Dương Chí chả cướp trước đi? Thánh Thán này xin
đáp: Dương Chí không nên cướp vậy, vì 10 vạn của là trọng vật, chẳng cứ mồ hôi
nước mắt của trăm họ ở phủ Đại Danh, mà cũng là thứ làm cho Lương Tướng Công
kiệt tâm huyết nữa, vì Dương Chí vốn kẻ bần hàn, chóng được hiển đạt, cũng chỉ
bởi người trên hậu đãi trước, để rồi dùng vào việc sau đây, cho nên vì cớ đem
nổi 10 vạn của, mà trao cho làm Thống chế thì dễ mà vì sẵn có Thống chế, mà
trao cho 10 vạn của thì khó. Dương Chí cũng biết sâu xa như thế, sao Dương Chí
biết được, vì biết rằng năm vơ vét 10 vạn của, để cầu cạnh Trượng Nhân thì
người ấy dùng ta phải đâu là quốc sĩ, chẳng đem lòng quốc sĩ đãi ta, mà khi đấu
võ ở Đông Quạch, một ngày vượt qua mấy cấp, đều là dụng ý để sau này ta hết sức
giúp việc mà thôi, khác nào ngoi chim mồi để dọa chó săn, chẳng phải ân tình,
song lẽ kẻ kia có biết đâu đức của chim mồi là Phượng Hoàng phẩm, của chó săn
là Kỳ Lân đâu? Cho nên trước khi Trung Thư chưa sai Đô Quản Ngu Hầu, Dương Chí
đã kêu với Tướng Công, nên cho một người đi với tiểu nhân này, một người đi với
tiểu nhân này, đâu phải xin Võ Dương hay Triều Ân làm phó hay giám sát, nếu Dương
Chí sớm biết sự nghi kỵ, mà rồi cũng cứ đi, thì ra trượng phu biết báo ơn sâu,
để đáp lại sự vội cất nhắc cho quan chức ở Đông Quách vậy, đâu có chối từ? Đem
chuyện Dương Chí ra ngụ ngôn vậy. Hỡi ơi! Xưa kia quốc gia và nghi lập Giám
sát, luôn luôn có đấy, ta sao nói được hết ra.
Tác giả
tả Dương Chí chợt vậy mà đi, lại chợt vậy mà thôi, chợt đi lại chợt chẳng đi,
thế bút uốn éo, không thể nào định trước.
Tác giả
tả khí trời oi bức, chỉ một hai câu, đã bức sốt chết người xưa kia bảo rằng mùa
đông treo tranh trời bức, cho ấm áp thêm, nay đọc hồi này, khác nào như thế.
Tác giả
tả trên bước đường lão Đô Quản khéo giày vò, khác nào vẽ ra người ấy. Hỡi ơi!
Kẻ tiểu nhân quen hưởng thời bình, chợt có họa hoạn, thì ngăn trở mọi đường,
uốn lưỡi chưởi người, há chả rõ ràng đáng chú ý, đến khi biến đổi, chả biết làm
sao, làm chuột làm hùm, cũng đều thua cả, há chẳng đau thương!
Tác giả
tả đám bán táo một nơi, chàng bán rượu một chốn, thùng rượu không gáo, gáo lại
ở chỗ khác, khiến độc giả không quên đám uống rượu tụ nghĩa ở thôn Đông Khê,
huống hồ phải sau này mới biết, bút pháp tác giả, thật khéo lắm thay!
Tác giả
tả anh bán rượu cãi nhau, thực là kỳ bút, nếu kẻ khác chép truyện, thì vào đề
ngay, cho đến kẻ đọc, cũng thấy mãi mà không bán rượu, vì ngọn bút tả ra dần,
như cung cứng ngựa mạnh, muốn xổ ra ngay, thì không thu lại kịp, tả như thế mới
hay.
Tác giả
tả bảy anh hàng táo gặp hàng rượu vồ lấy, như lũ bồ cắt kia tranh chim sẻ, nhảy
lên, múa lên, đọc thấy mê thú.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 16: Đánh chén không tiền gặp tay đao
quỷ; Trói sư lập mẹo cướp núi Nhị Long
Bấy giờ
Dương Chí đương bực mình nóng tiết, chạy ra bên cạnh đồi co cẳng định nhẩy
xuống để tự tử, chợt lại tỉnh ngộ mà nghĩ lại rằng:
- Cha mẹ
sinh ra ta, đường đường một đấng nam nhi, sức dài vai rộng, võ giỏi tài nhanh
thế mà quanh quẩn không làm được một việc gì bổ ích cho đời, nay lại hoài thân
đến đây tự tử thì thực là uổng công cha mẹ sinh thành mà sống bấy nhiêu lâu
cũng là vô chuyện. Chi bằng ta hãy nấn ná ở đời để xem cơ hội ra sao rồi ta hãy
liệu.
Tiểu
nhơn sống lắm cũng thừa
Anh hào
chết vội cũng chưa đáng đời
Còn non
còn nước còn người
Lẽ đâu
phó mặc đất trời cho cam.
Dương
Chí nghĩ vậy quay trở vào bên cạnh chỗ mấy người nằm, thấy anh nào cũng mở mắt
trao tráo nhìn lên Dương Chí mà không sao cựa dậy được, chàng liền trỏ vào mặt
mà mắng rằng:
- Chỉ
tại chúng bây đồ khốn nạn ngu si, không nghe lời ta nói, gây nên cơ hội thế này
để cho liên lụy đến ta, thực chúng bây không còn trách ai được nữa.
Nói đoạn
lại dắt dao găm vào lưng rồi vớ lấy thanh đao, tần ngần đứng lặnh nhìn bốn xung
quanh một lúc rồi thở dài mà lững thững đi xuống dưới đồi.
Lênh
đênh ngọn núi chân đồi
Ai làm
cho khách anh tài gian truân!
Bọn lão
Đô Quản cùng mười một tên cấm quân kia nằm lăn lóc mãi đến mấy trống canh mới
tỉnh dậy, anh nào anh nấy nhìn nhau mà tưng hửng cả người, chỉ rền rĩ trông
trời kêu khổ.
Lão Đô
Quản mắng chúng rằng:
- Chỉ vì
các anh không nghe lời Dương Chí thành ra làm khổ cả đến ta, bây giờ còn biết
làm sao được nữa?
Chúng
nói với lão Đô Quản rằng:
- Lão
già ơi; Bây giờ sự thế đã ra thế, chúng ta phải liệu mà thương lượng thế nào
cho xong chuyện mới được?
- Các
anh nghĩ thế nào?
- Cái
nầy thì quả là lỗi tại chúng tôi thực, nhưng cố nhân đã nói! "Lửa cháy đến
nơi, có thân phải tháo, ong bám vào áo, phải cởi cho mau". Bây giờ nếu có
Dương Đề Hạt ở đây thì chúng ta không còn nói năng chi nữa. Song Đề Hạt đã bỏ chúng
ta mà đi mất rồi, thì khi về tới phủ ta đổ hết cho ông ta, kêu là khi đi đường
ông ta bức bách đánh nhiếc làm cho chúng ta không thể đi được, rồi lại thông
đồng với bọn cướp lấy đi các đồ kim ngân châu bảo, như thế có tiện không?
Lão Đô
Quản gật gù khen phải và bảo chúng rằng:
- Ta hãy
đợi đến sáng mai vào trình Quan Tư bản sứ, và để Ngu Hầu ở đấy nghe xem công
việc rồi ta sẽ về Bắc Kinh báo với Quan Lưu Thủ để bẩm vào quan Thái Sư và sức
cho quan phủ Tế Châu truy nã bọn cướp, thế mà tiện nhất.
Chúng
bàn định đâu đấy rồi sáng hôm sau dậy sớm cùng đi với nhau.
Gớm quân
mặt nạc đóm dầy
Làm
không nổi việc còn hay hại người
Công to
việc lớn trên đời
Xưa này
tan nát tại thời tại ai?
Còn về
phần Dương Chí tay vác thanh đao lủi thủi một mình đi xuống dưới đồi Hoàng Nê
rồi thẳng trông về phía Nam, mãi đến nửa đêm mới tìm một chỗ khu rừng để nghỉ.
Bốn phương non nước mịt mù, bạn bè không có, tiền nong cũng hết, một mình vơ
vẫn, chưa tính con đường lui tới ra sao?
Sáng hôm
sau chàng trở dậy thực sớm, để đi cho mát. Đi được hơn hai mươi dặm đường, nghe
trong mình mệt nhọc đói khát, rất là khó chịu, chợt trông thấy bên đường có một
hàng rượu, mà sờ lưng không đồng nào, chàng liền nghĩ ra một kế để vào đó để mà
uống rượu ăn cơm.
Khi vào
tới nơi, Dương Chí tìm chỗ ghế ngồi dựng thanh đao vào một bên, rồi có người
đàn bà ra hỏi rằng:
- Ngài
muốn xơi cơm rượu gì?
Dương
Chí đáp:
- Cho
tôi hai chai rượu, rồi lấy gạo, thổi cơm, có thịt cá gì mang ra đây một thể.
Người
đàn bà sai tên đầy tớ rót ra hai chai rượu rồi quay ra thổi cơm xào thịt mang
lên. Dương Chí ăn uống xong rồi, vác thanh đao đứng lên đi thẳng ra cửa, mà
không nói năng gì cả.
Người
đàn bà thấy vậy ra hỏi rằng:
- Tiền
cơm tiền rượu ông đã trả đâu?
Dương
Chí đáp:
- Hãy để
cho tôi chịu, tôi đi thẳng đằng này một lát, rồi lại trả ngay.
Nói xong
bước rảo cẳng đi luôn. Tên đầy tớ thấy vậy chạy theo nắm Dương Chí lại. Dương
Chí đánh cho một đấm ngã lăn xuống đất, rồi người đàn bà kêu ầm ĩ cả lên. Dương
Chí cứ mặc kệ, lặng yên mà đi. Chợt thấy đằng sau lưng có tiếng người kêu gọi
lên rằng:
- Thằng
kia mầy chạy đi đâu?
Dương
Chí quay cổ lại xem, thấy một anh chàng to béo cổi trần, vác gậy đuổi theo đằng
sau, chàng liền đứng dừng lại mà không chạy nữa.
Đoạn rồi
lại thấy tên đầy tớ cùng hai ba đứa trang khách cũng vác gậy, chạy răm rắp mà
đổ xô theo đến.
Dương
Chí nghĩ thầm "Đánh chết một thằng đầu này, tất là chúng không dám đến
nữa". Liền múa đao xông lại để đánh với anh kia. Anh kia cũng giơ gậy lên
đánh lại. Hai bên đấu nhau được đến hai ba mươi hiệp, song sức anh kia không
thể nào địch nổi với Dương Chí, chỉ quanh co che đỡ cũng không xong. Bấy giờ
tụi đầy tớ người nhà đã toan xông vào cả một lượt để đánh Dương Chí, thì bỗng
thấy anh chàng kia nhảy ra ngoài vòng mà kêu lên rằng:
- Khoan
tay, bác là ai, nói tên tuổi cho tôi biết?
Dương
Chí vỗ bụng đáp:
- Ta đây
đi không đổi tên, ngồi không đổi họ, Thanh Diện Thú Dương Chí chính là ta.
Người
kia hỏi:
- Có
phải Dương Chế Sứ ở Điện Tư Phủ bên Đông Kinh đó không?
Dương
Chí đáp:
- Làm
sao ngươi lại biết đến tên ta? Chính ta là Dương Chí đây.
Anh
chàng kia vội vất gậy ra, rồi cúi xuống lạy mà rằng:
- Chúng
tôi thực là có mắt mà không trông thấy núi Thái Sơn, xin ngài tha lỗi.
Dương
Chí chạy lại đỡ người kia dậy mà rằng:
- Ông là
ai? Tôi không được biết.
Người
kia đáp:
- Tên
tôi là Tào Chính, người ở phủ Khai Phong, là học trò Giáo Đầu Lâm Xung khi
trước. Nguyên nhà tôi ngày xưa chuyên nghiệp đồ tể, sau tôi cũng thiện nghệ về
mặt sát sinh, nên ai cũng gọi tôi là Thao Đao Quỷ. Mới đây có một ông Tài Chu
giao cho tôi năm nghìn quan tiền đem sang Sơn Đông buôn bán, bất đồ thua lỗ mất
cả, thành ra không dám về nhà, mà lần lữa lấy vợ ở đây, người rót rượu lúc nãy
là em vợ tôi đó. Tôi được gặp Chế Sứ thực là may mắn, vừa rồi tôi trót lỡ mạo
phạm đến ngài, mới biết thủ đoạn của ngài thực là tài giỏi, không khác gì Lâm
sư phụ, chúng tôi không thể nào mà địch được?
Dương
Chí nói:
- Té ra
anh là học trò Lâm Giáo Đầu mới bị Thái Úy hãm hại, phải đổi nghề đi lạc thảo,
hiện bây giờ ở Lương Sơn Bạc đó.
Tào
Chính nói:
- Chúng
tôi cũng được nghe láng váng như thế song chưa biết đích xác ra sao? Xin đón
Chế Sứ hãy vào chơi tạm trong hàng đã.
Nói đoạn
mời Dương Chí vào ngồi chơi trong hàng gọi vợ và em vợ ra bái kiến rồi nhất
diện sai làm rượu khỏan đãi.
Khi ngồi
uống rượu, Tào Chính hỏi Dương Chí rằng:
- Chế Sứ
vì cớ gì mà lại đi đến đây?
Dương
Chí liền đem chuyện từ khi đánh mất Hoa Thạch Cương, cho tới khi đánh mất các
đồ lễ vật của Lương Trung Thư, nói cho Tào Chính nghe một lượt. Tào Chính nghe
vậy liền nói rằng:
- Nếu
thế thì xin ngài hãy ở tạm đây trong ít bữa, rồi bàn định việc sau.
Dương
Chí đáp rằng:
- Bác có
lòng tiếp tôi thế, tôi cũng lấy làm cảm tạ lắm, song chỉ e Quan Tư truy nã đến
nơi, ở đây lâu có điều không tiện!
- Vậy
thì ngài định đi đâu bây giờ?
- Tôi
định đi sang Lương Sơn Bạc tìm Lâm Giáo Đầu một thể. Dạo trước tôi đi qua đấy,
gặp ngay ông ta xuống đánh nhau với tôi một lúc, rồi sau Vương Luân thấy võ
nghệ hai người đều khá cả liền mời lên chơi rồi định lưu giữ ở trại, vì thế nên
tôi nhận biết Lâm Giáo Đầu ngay từ độ đó. Bấy giờ Vương Luân đã có ý bảo tôi ở
lại; Song tôi nhất định không chịu làm nghề lạc thảo, tới nay trên mặt đã phải
thích kim ấn mà lại gặp bước thế này, nên phải liều mà định đi đến đấy, nhưng
nghĩ ra thì cũng là bất đắc dĩ lắm, bởi thế nên tôi vẫn còn phân vân chưa quyết
ra sao?
- Ngài
nói cũng có lẽ, tôi cũng thấy nhiều người nói rằng: Vương Luân là một anh hẹp
hòi không có độ lượng gì, ngày trước sư phụ tôi đến đấy cũng bị anh ta bắt hành
bắt họe mãi rồi mới chịu dung, nhưng thế thì những người chí khí chịu sao cho
được. Nay ở gần đây về hạt Thanh Châu có một trái núi gọi là núi Nhị Long Sơn
trên có ngôi chùa gọi là Bảo Châu, địa thế cũng đẹp đẽ, mà chỉ có một lối là đi
lên núi được. Xưa nay có một người tên là Kim Nhỡn Hổ Đặng Long trụ trì ở đó,
nhưng mới đây anh ta đã phá giới mà để tóc và tụ họp đến 4, 5 trăm lâu la để
cướp bóc kiếm ăn. Vậy Chế Sứ có ý muốn đi lạc thảo, thì chi cho bằng đến đó
tiện hơn?
Dương
Chí nghe nói cả mừng mà cảm ơn Tào Chính. Tào Chính lưu Dương Chí ngủ lại ở đấy
một đêm. Đến sáng hôm sau nhờ Tào Chính cấp đỡ cho một ít hành lý, rồi từ tạ mà
đi sang núi Nhị Long. Cho hay:
Có ăn
mới biết ớt cay
Có từng
trải lắm mới hay mùi đời
Cao lang
mấy kẻ ra ngoài
Quê mùa
rau cháo là nơi hữu tình.
Đường đi
vào khoảng gần hôm, đã trông thấy một tòa núi cao cao, Dương Chí liền nghĩ
trong bụng định tìm chỗ rừng cây để ngủ một đêm, rồi sáng hôm sau sẽ lên núi.
Chúng nghĩ đoạn bèn lần lần vào chỗ rừng cây ở trước mặt. Bất đồ bướùc chân đi
vào thì bỗng giật mình đứng lại, rồi thấy có một ông sư bụng phệ, đương cởi
trần để hở những nét hoa chạm ở trên sống vai và ngồi hóng mát dưới gốc cây
thông. Nhà sư ấy trông thấy Dương Chí đến thì vớ lấy cây thuyền trượng dựng ở
gốc cây, đứng dậy quát lên rằng:
- Thằng
quái nào? Mày ở đâu đến đây?
Dương
Chí nghe tiếng biết là người ở Quan Tây cùng xứ với mình, liền hỏi lại rằng:
- Nhà sư
ở chùa nào đến đây?
Nhà sư
không nói năng chi cả, vác ngay thuyền trượng sư phụ xăm xăm ra đánh ngay luôn
Dương Chí.
Dương Chí
tức mình mà quát lên rằng:
- Thằng
trọc này vô lễ thật, để ta đánh một trận cho biết tay.
Nói đoạn
múa đao vào để đánh. Đôi bên đánh nhau trong khu rừng, có tới 4, 5 mươi hiệp,
mà không bên nào chịu kém bên nào.
Sau nhà
sư lựa thế nhảy tót ra ngoài vòng mà quát lên rằng:
- Khoan
tay đã.
Bên kia
Dương Chí cũng dừng tay mà lại nghĩ thầm trong bụng rằng:
- Lão sư
này ở đây đến mà thủ đoạn khá lắm, có lẽ ta đây cũng khó lòng địch được hắn
chắc.
Bấy giờ
nhà sư hỏi Dương Chí rằng:
- Anh
chàng mặt xanh kia, anh là ai?
- Ta là
Đông Kinh Chế Sứ Dương Chí đây.
- Có
phải là người bán đao ở Đông Kinh mà giết chết thằng Ngưu Nhị đó không?
- Không
trông thấy kim ấn ở trên mặt ta đây à!
Nhà sư
nghe nói cười ầm lên mà rằng:
- Tưởng là
ai? Té ra là bác, sao lại gặp ở đây?
Dương
Chí nói:
- Tôi
hỏi khí không phải, hoà thượng là ai sao lại biết việc tôi bán đao ở Đông Kinh?
Vị hoà
thượng cười mà đáp rằng:
- Tôi
chính là quân quan ở Kinh Lược Lão Chung phủ Duyên An, là Lỗ Đề Hạt đây, nhân
vì ba cẳng tay đánh chết thằng Trấn Quan Tây Giả, lên phải lên núi Ngũ Đài cắt
tóc đi tu, sao người ta thấy tôi có thích hoa trên sống vai, cho nên thường gọi
tôi là Hoa Hòa Thượng Lỗ Trí Thâm.
Dương
Chí nghe nói cả cười mà rằng:
- Nếu
vậy thì người cũng một hội cả chứ đâu? Trong khi giang hồ, tôi vẫn được nghe
tiếng sư huynh đến tu ở chùa Đại Tướng Quốc, thế mà bây giờ sao lại gặp đây?
Lỗ Trí
Thâm nói:
- Chuyện
tôi dài dòng lắm, khi tôi coi vườn rau Giải Vũ ở chùa Đại Tướng Quốc; Gặp Báo Tử
Đầu Lâm Xung bị Cao Thái Úy toan giết hại, tôi vì giữa đường thấy sự bất bình,
phải đưa anh ta đến Thương Châu để cứu cho thoát nạn. Dè đâu lúc trở về hai đứa
công sai lại toan hót với Cao Cầu là chúng định giết Lâm Xung ở rừng Dã Trư,
nhưng bị tôi cứu mất, nên chúng không thi hành được. Nhân thế Cao Cầu đem tâm
thù ghét, cấm sư cụ chùa Đại Tướng Quốc không cho tôi ở đấy và lại sai người
đến để bắt tôi. Sau đó mấy đứa trong bọn du đảng đến báo cho tôi biết, tôi tức
mình cho một nắm lửa đốt Giải Vũ mà trốn đi nơi khác. Khi đi quanh quẩn vẩn vơ
đến một hàng rượu ở chỗ Thập Tự Pha Mạnh Châu, lại bị con mẹ đàn bà ở trong
hàng ấy đánh thuốc mê, mà toan giết hại tính mạng. May sao lại có chồng hắn về
nhà trông thấy tướng dạng và các đồ giời đao thuyền trượng của tôi, thì lấy làm
kinh ngạc, liền cứu cho sống lại và kết nghĩa anh em. Hai vợ chồng nhà ấy cũng
có tiếng là hảo hán, trong đám giang hồ, người chồng tên làThái Viên Tử Trương
Thanh, vợ là Mẫu Dạ Xoa Tôn Nhị Nương đều có can đảm nghĩa khí hơn người. Tôi ở
đấy được dăm hôm, nghe nói ở đây có chùa Bảo Châu trên núi Nhị Long có thể dung
thân được, bèn từ giã hai vợ chồng nhà kia, mà định đến đấy để mà vào đảng. Ai
ngờ những thằng ở trên núi nầy không chịu cho tôi ở đó, thành ra đôi bên sinh
sự đánh nhau. Về sau sức nó yếu đuối, không thể nào địch nổi với tôi, liền đóng
cả ba tòa cửa núi mà giữ riết ở trong nhà. Tôi tính quanh không thấy đường nào
lên được, tức mình chưởi mắng suốt ngày, chúng cũng lặng yên không thằng nào
thò mặt xuống, làm cho càng thêm căm giận trong lòng, chịu khoanh tay mà ngồi
đợi ở đấy, chứ không có kế gì cho hả giận được?
Dương
Chí nghe nói đến đó cả mừng liền dắt tay vào rừng quét chỗ đất sạch cùng ngồi
nói chuyện với nhau suốt đêm.
Dương
Chí lại đem chuyện từ khi đánh mất đá hoa cho đến lúc gặp vợ chồng Tào Chính
thế nào, kể cho Lỗ Trí Thâm nghe rồi nói rằng:
- Bây
giờ chúng nó giữ chặt sơn trại không chịu mở cửa ra, thì ta ở đây cũng là vô
ích, vậy bất nhược ta hãy đến nhà Tào Chính để nghỉ ngơi, và sẽ bàn định xem
sao?
Nói đoạn
hai người cùng ra mà tìm đến tửu điếm Tào Chính. Khi tới nơi Dương Chí trỏ Lỗ
Trí Thâm bảo cho Tào Chính biết, Tào Chính lấy làm vui mừng liền sai làm rượu
cơm để thiết đãi hai người, rồi cùng bàn chuyện đánh phá núi Nhị Long.
Tào
Chính nói:
- Nếu
đám ấy mà nó đóng chặt cửa không chịu ra, thì dẫu có tới một vạn quân mã cũng
khó lòng đánh nổi, không cứ là hai người. Vậy đám ấy chỉ có thể dùng mẹo mà phá
mới được, chứ dùng sức thì không ăn thua.
Trí Thâm
nói:
- Lúc
tôi mới đến đấy còn tiếp nhau ở ngoài cửa, sao thấy hắn không chịu cho mình
nhập bọn, liền đá cho một cẳng chân ngã lăn xuống đất, rồi định vào giết luôn
một thể! Bất đồ bị đám lâu la chạy ùa ra cứu đem về sơn trại, rồi đóng chặt cửa
lại, tha hồ cho mình mắng nhiếc ở ngoài, nhất định không thằng nào ra nữa.
Dương
Chí nói:
- Chỗ ấy
đã là một chỗ thú, thì hai người chúng ta cùng đến đánh lấy có được không?
Lỗ Trí
Thâm lắc đầu đáp rằng:
- Không
thể nào mở được cửa mà lên, thì còn làm gì được.
Tào
Chính nói:
- Tôi có
một kế sách này, không biết các ngài có cho là phải không?
Dương
Chí nói:
- Thế
nào xin cứ nói cho chúng tôi nghe.
Tào
Chính nói:
- Bây
giờ Chế Sứ phải ăn mặc giả làm một anh nhà quê, cũng như chúng tôi đây, đoạn
rồi tôi cùng vợ và em vợ tôi với ngài đem các đồ thuyền trượng giới đao, đưa
hòa thượng tới cổng núi trói thòng lọng lại rồi bảo với bọn kia rằng: "Nhà
tôi mở hàng rượu ở gần đây có vị hòa thượng này vào uống rượu say nhừ say nhựt
mà không chịu trả tiền, mồm còn nói lảm nhảm: Định đi tìm người đến đánh phá
núi Nhị Long. Tôi nghe thấy vậy liền thừa lúc hòa thượng say bắt trói đem lên
để nộp Đại Vương". Như thế tất là họ mở cửa, cho ta vào. Khi tới nơi hễ
gặp Đặng Long là tôi cầm đầu dây thòng lọng rút phăng ra, rồi đưa thuyền trượng
cho hòa thượng, để mặc hòa thượng cùng ngài đánh cho nó một mẻ, không còn trốn
đi đâu được nữa, còn những tụi tẹp nhẹp bên dưới, thì thấy chủ chết là tự nhiên
tất chúng phải hàng phục mình cả, kế ấy các ngài nghĩ sao? Lỗ Trí Thâm cùng
Dương Chí đều vỗ tay khen là diệu kế.
Đêm hôm
ấy Tào Chính sắp sửa các đồ lương thực, để đi đường và dự bị đâu đấy sẵn sàng
tất cả. Sáng hôm sau cơm nước xong rồi, Trí Thâm đưa khăn gói hành lý để gửi ở
nhà Tào Chính, rồi ba người cùng vợ và em vợ Tào Chính và dăm bảy người nhà
nữa, cùng đi lên núi Nhị Long.
Khi đi
tới khu rừng gần đó, mọi người đều cởi áo bỏ xiêm, rồi lấy thừng trói thòng
lọng Lỗ Trí Thâm lại, xong cắt hai tên người nhà cầm đầy thừng để rong đi,
Dương Chí đầu đội nón mê, mình mặc áo vải rách, tay cầm thanh đao; Tào Chính
vác cây thuyền trượng của Lỗ Trí Thâm, còn mọi ngưòi kia mỗi người cầm một cây
gậy, mà dắt đùm đi lên núi.
Đến cửa
núi đã thấy hai bên bày la liệt những cung nỏ đại giá ở đó. Mấy tên lâu la ở
trên cổng thấy bọn nọ trói hoà thượng đem đến, thì vội chạy vào báo cho chủ
trại biết.
Được một
lúc thấy hai tên đầu mục chạy ra chỗ gác bóp hỏi rằng:
- Các
anh ở đâu, đến đây làm gì? Bắt được lão sư ấy ở chỗ nào?
Tào
Chính liền đáp rằng:
- Chúng
tôi người ở thôn gần đây, có mở một ngôi hàng để bán, bỗng thấy lão hòa thượng
này đến mua rượu uống mà không chịu trả tiền, rồi lại nói khoác rằng đinh về
Lương Sơn Bạc, rủ mấy nghìn người đến phá núi Nhị Long, và tất cả các làng xóm
ở đây. Chúng tôi thấy vậy, đem rượu ngon đổ thêm cho lão uống thật say mềm rồi
trói lại, đem đến đây dâng nộp Đại Vương để tỏ lòng thuận phục của chúng tôi,
và trừ khỏi những tai ngại về sau nữa.
Hai tên
đầu mục nghe nói mừng quớ lên mà rằng:
- Tốt
lắm, các anh hãy đợi đấy, để tôi vào báo với Đại Vương.
Nói đoạn
hai người chạy vội vào báo với Đặng Long, Đặng Long nghe báo cả mừng, liền sai
giải lão sư lên trại để mọi ruột moi gan nhắm rượu cho hả tấm lòng tức bực.
Chúng
lâu la vâng lệnh, ra mở cửa cho bọn kia giải hoà thượng vào. Bầy giờ Dương Chí
cùng lũ Tào Chính áp giải Lỗ Trí Thâm lên qua mấy tòa cửa, thấy đường lối quanh
co, rất là hiểm trở. Hai bên núi cao quanh quất bao bọc ngọn chùa, thế núi nguy
nga hùng tráng, khoảng giữa có một núi con đi vào các cửa, trên cửa bày chất
các đồ cung nỏ đạn đá, cùng là gỗ súc gậy tre phòng bị rất là nghiêm mật.
Khi qua
ba tòa nhà, vào tới trước chùa Bảo Châu, thấy ba tòa điện ngôn ở trên một miếng
đất phẳng lì như mặt kính, xung quanh chấn gỗ làm thành.
Trước
cổng chùa có bảy tám tên lâu la đứng gác, trông thấy bọn kia giải Lỗ Trí Thâm
vào thì trỏ vào mặt mà mắng rằng:
- Thằng
trọc này hôm nọ đá Đại Vương ngã, hôm nay bị bắt đến đây, gọi là xé xác ra làm
trăm mảnh.
Lỗ Trí
Thâm nghe vậy, cứ lặng in không nói năng chi cả. Vào tới trong điện, thấy Phật
ở đấy, đều khiêng bỏ đâu mất, khoảng giữa bày một cái ghế chéo phủ gia hổ, có
lũ tiểu lâu la vác roi đứng dàn hai bên. Được một lát tiểu lâu la mời Đặng
Phong ra ngồi trên ghế, rồi Tào Chính cùng Dương Chí giải Lỗ Trí Thâm vào trong
thềm.
Đặng
Long lên tiếng hỏi:
- Thằng
trọc kia hôm nọ đá ta một cái đau tức bụng dưới, vẫn hãy còn sưng chưa khỏi,
hôm nay hẳn có phen vào tay ta chứ.
Trí Thâm
nghe nói trợn hai mắt tròn xoe mà thét lên rằng:
- Thằng
khốn nạn không biết thân, còn thị hùng, mày chạy đâu được bây giờ?
Vừa nói
dứt lời thì hai người nhà Tào Chính cầm dây thòng lọng, rồi rút phựt ra, cho Lỗ
Trí Thâm vớ lấy cây thuyền trượng ở tay Tào Chính, mà múa nhảy lên. Bên kia
Dương Chí vất nón ra múa đao xông vào, rồi Tào Chính cùng mấy tên người nhà đều
cầm gậy xông lên.
Đặng
Long thấy vậy, vừa toan đứng dậy để chạy, thì đã bị Trí Thâm đánh cho một
trượng vỡ óc ra làm đôi mảnh, mà ghế chéo cũng gãy nát cả ra.
Các thủ
hạ lâu la, bị Dương Chí đâm chết ba bốn tên, rồi Tào Chính quát lên rằng:
- Các
người mau đến mà đầu hàng, nếu đứa nào không theo thì lập tức chém hết cả bây
giờ.
Khi đó
năm, sáu trăm lâu la, cùng mấy tay tiểu Đầu lĩnh ở đằng trước đằng sau chùa,
đều kinh sợ hoảng hốt đưa nhau đến, mà đầu hàng suốt lượt. Đoạn rồi cho đem xác
Đặng Long ra đằng sau núi để thiêu hoá. Nhất diện kiểm điểm kho đụn, sửa sang
nhà cửa, xem xét các đồ vật ở trong chùa, rồi mang rượu thịt ra ăn uống với
nhau.
Từ đó
Trí Thâm cùng Dương Chí giữ quyền sơn trại, đặt tiệc ăn mừng, rồi bầu mấy tên
tiểu Đầu lĩnh để cai quản đám lâu la, Tào Chính thì đưa bọn người nhà về tửu
điếm.
Nước non
riêng một bầu trời,
Đêm thân
trí khí ra ngoài cỏ my.
Ngang
tàng rõ mặt nam nhi,
Những
phường luồn cúi kể chi từ rày!
Nói về
lão Đô Quản cùng 11 tên Cấm binh khi ở Hoàng Nê Cương trở về tới Bắc Kinh, liền
vội vàng vào trước sảnh Trung Thư, mà quỳ lạy để chịu tội. Lương Trung Thư chưa
biết đầu đuôi ra sao liền hỏi rằng:
- Các
ngươi đi đường nghe chừng khó nhọc lắm, nào Dương Đề Hạt ở đâu?
Chúng
nghe hỏi, bèn kêu lên rằng:
- Bẩm ân
tướng, người ấy là một người bội nghĩa vong ân, không biết thế nào mà nói được!
Khi ở đây bước chân ra đi được dăm bảy ngày tới Hoàng Lê Cương gặp phải một hôm
khí trời nòng bức, anh em tìm vào khu rừng để nghỉ, dè đâu Dương Chí thông đồng
với bảy người cường đạo, giả trang làm lũ buôn táo, rồi đem bảy cổ xe Giang
Châu đến đóng trước ở đó. Sau lại sai một người gánh rượu đến gạ bán cho chúng
tôi, mà bỏ thuốc mê vào đánh phản.Đoạn rồi Dương Chí cùng đám kia lấy hết cả đồ
kim ngân châu báu mà trốn đi đâu mất. Hiện chúng tôi đã vào trình với quan Phủ
Tế Châu, và lưu hai Ngu hầu ở đó, để chờ xem tin tức, còn anh em xin về báo để
ân tướng.
Lương
Trung Thư nghe nói cả kinh mà mắng rằng:
- Quân chó
má, nó là một tên tù tội đến đây, ta đài cử cho nó, ai ngờ lại dám lường thầy
phản bạn, đang tay làm việc bất nhân bất nghĩa như thế? Nếu ta bắt được nó phen
này thì tất là xé thây ra làm muôn mảnh muối cam.
Nói đoạn
lập tức bảo gọi phòng giấy lên, bảo công văn hỏa tốc đưa sang Tế Châu, và viết
một phong thư bắt đưa ngay sang Đông Kinh, để trình cho Thái Sư được biết.
Cách ít
bữa Xài Thái Sư nhận được gia thư của Lưu Trung Thư đưa tới, bóc ra xem lấy làm
kinh ngạc mà rằng:
- Những
quân trộm cướp bây giờ to gan thật? Năm ngoái chúng đã lấy các đồ lễ vật mừng
của con rể mình, đến năm nay chúng lại làm luôn chuyến nữa, như thế thì để làm
sao yên được?
Liền sai
thảo một đoạn công văn phái một tên thân mật trong phủ, lập tức sức cho quan
Phủ Tế Châu phải bắt ngay các tên giặc cướp đó, đem về để nộp.
Quan Phủ
Tế Châu từ khi nhận được văn thư của Lương Trung Thư ở Bắc Kinh đưa đến, trong
bụng đã lo sợ ngay ngáy chưa biết làm sao, mà liệu lý cho xong! Chợt đâu lại
thấy lính vào báo rằng:
- Có
người thân mật trong phủ Hoa Thái Sư ở Đông Kinh đưa công văn đến hầu.
Truy phủ
nghe báo trong lòng càng kinh sợ hoảng hốt, chắc là cũng vì một việc lễ sinh
nhật chi đây? Liền tức ra công đường để tiếp người nhà trong phủ Thái Sư.
Bấy giờ
Tri Phủ nói với người đưa giấy rằng:
- Việc
này từ khi hạ quan tiếp được giấy báo của Ngu Hầu đưa đến thì đã lập tức sai
người đi tróc nã cường đạo, nhưng chưa thấy tăm hơi đâu cả. Hôm nọ bên quan Lưu
Thú lại sai người đưa giấy sang thôi thúc ở đây, tôi lại phải bắt Huyện úy cùng
Tập bộ, Quan sát đều phải hết sức truy tầm các ngả, mà cũng chưa bắt được ai?
Vậy việc này hạ quan xin hết sức truy nã, nếu hơi thấy có chút tăm hơi nào, sẽ
xin vào tận tướng phủ để bẩm với Thái Sư được biết.
Người
kia nói:
- Tôi
đây là người nhà tâm phúc của Thái Sư, nay vâng mệnh quan Thái Sư ra đây, chỉ
cốt bắt được phạm nhân, rồi cùng về một thể. Khi bước chân ra đi, Thái Sư dặn
đi dặn lại, thế nào cũng phải lưu lại ở phủ đây, để quan Phủ bắt cho kỳ được
bảy tên hàng táo, một tên buôn rượu và một tên quan quân bỏ trốn là Dương Chí,
hạn trong mười ngày, phải giải về Đông Kinh ngay lập tức. Nhược bằng trong mười
ngày mà tra cứu không ra, thì có lẽ quan lớn cũng phải ra Sa Môn Đảo một phen,
còn chúng tôi cũng khó lòng về được phủ Thái Sư, mà cũng chưa biết tính mệnh ra
sao nữa. Xin quan lớn xem giấy của Thái Sư đây thì biết.
Quan Phủ
xem xong thì kinh sợ vô cùng, lập tức truyền gọi các viên Tập đến để bàn hỏi.
Bấy giờ có một người tên là Hà Đào vâng mệnh đến trước công đường, Tri Phủ liền
hỏi rằng:
- Việc
bắt bọn cướp ở Hoàng Nê Cương có phải nhà ngươi đảm nhận không?
Hà Đào
đáp:
- Bẩm
tướng công, từ khi Hà Đào này nhận việc ấy tới nay, đêm nghĩ ngày lo; sai những
người sành sỏi thạo việc, đi đến tận Hoàng Nê Cương để dò xét, hiện nay đã mấy
phen đánh đập quở trách chúng, nhưng cũng chưa dò thấy tung tích đâu cả. Việc
này thực chúng tôi không dám trễ nãi, song không có thể mà dò xét cho ra được.
Quan Phủ
nghe nói quát lên rằng:
- Nói
lạ! Trên dễ dàng thì dưới lại lười biếng, ta từ khi đỗ Tiến Sĩ đến nay, làm nên
một chức Tri Phủ ở đây, cũng không phải là dung dị, thế mà quan Thái Sư còn ra
lệnh đây, hạn trong mười ngày, nếu không tầm nã cho ra, thì không những mất
quan, có lẽ đến đầy Sa Môn Đảo cũng nên, các ngươi đã là một người giữ chức
Tuần Bộ, mà không hết sức làm việc, để cho liên lụy đến ta, vậy ta hãy đem đày
các ngươi đi một xứ rất xa, nhạn bay không tới xem sao?
Nói đoạn
rồi liền gọi thợ thích chữ phát vãng vào mặt Hà Đào, bỏ trống chỗ tên châu quận
để điền vào sau, rồi lại thét lên mà bảo rằng:
- Nếu
ngươi không bắt được đám cướp ấy, thì quyết nhiên là tội nặng đến thân, không
sao tha được.
Hà Đào
vâng lời Tri Phủ, rồi lủi thủi đi xuống phòng Cơ Mật bàn việc với bọn công sai.
Bọn công sai thấy Hà Đào như vậy, thì anh nào anh nấy, đều tẩn mẩn như tên
xuyên mỏ nhạn, câu mắc mang nheo, không còn biết nói năng sao được! Hà Đào thở
dài bảo với chúng rằng:
- Mọi
lúc bình thường các anh vẫn đến đây để tảo tiền, phung phí, sao đến ngày nay có
việc như thế này, chỉ thấy các anh im thin thít cả, như thế là nghĩa gì?
Các anh
có thương đến cái kim ấn ở trên mặt tôi đây không?
Chúng
đồng thanh nói rằng:
- Quan
Sát ơi! Chúng tôi có phải là cỏ gỗ gì mà không biết! Nhưng khốn vì cái bọn buôn
táo ấy, chẳng qua là bọn cường nhân ở nơi non xanh rừng rậm đi đâu qua tới đó,
chợt thấy kim ngân châu báu thì họ cướp chia nhau, rồi lại tản về sơn trại, như
thế thì còn bắt làm sao được họ! Dù cho có biết nữa, cũng chỉ đến nhìn họ mà
thôi chứ gì?
Hà Đào
chưa nghe thấy bọn ấy nói, thì trong bụng còn phiền não năm phần, đến khi nghe
họ nói, thì lại phiền não lên gấp mười phần, rầu rĩ bước ra phòng giấy rồi lên
ngựa về nhà. Khi về tới nhà dắt ngựa ra tàu buộc vào tàu ngựa, rồi một mình vơ
vẩn băn khoăn rất chiều buồn bã.
Người vợ
thấy vậy liền hỏi rằng:
- Chẳng
hay phu quân ngày nay làm sao mà buồn bã như vậy?
Hà Đào
thở dài đáp rằng:
- Chỉ vì
cái việc tôi nói mọi hôm, là việc cướp ở Hoàng Nê Cương, nó lấy mất 11 gánh kim
ngân châu báu của Lương Trung Thư mà truy tầm mãi không ra, cho nên khổ não đến
mình đó thôi! Đời người nghĩ cũng éo le, như mình làm việc vua việc quan, kiếm
được miếng ăn đã là vất vả, thế mà những tụi bên trên thì cao lương chung đỉnh,
no béo cả họ lẫn hàng, lại còn sinh sự lễ nọ kia, những là sinh nhật với sinh
thời, làm cho tự nhiên vô cố cũng náo động cả dân gian, mà phiền nhiều đến
người vô tội, nào có phải là việc dân việc nước cho cam! Đây bây giờ chữ đã
thích trên mặt đây, nếu nay mai không truy nã được ngay bọn cướp ấy để giải về
Đông Kinh, thì tính mạng mình cũng chưa biết ra thế nào đó.
Người vợ
nghe nói lắc đầu mà rằng:
- Thế
thì biết làm thế nào được! Có cách gì bây giờ không?
Khi ấy
vợ chồng đang than thở, bỗng thấy người em là Hà Thanh đến. Hà Đào bảo với em
rằng:
- Đến
đây làm gì đấy? Sao không đi đánh bạc mà lại đến đây?
Người vợ
biết ý, liền vẫy Hà Thanh xuống nhà dưới, dọn cơm rượu lên, để mời Hà Thanh ăn
uống.
Hà Thanh
có ý không bằng lòng mà rằng:
- Ca Ca
khinh tôi quá! Tôi không ra gì cũng là em ruột của Ca Ca mà Ca Ca có thế nào đi
nữa, cũng là anh ruột tôi, tôi có điều gì làm nhục đến Ca Ca, mà lại cho tôi ăn
uống thế này?
Người
chị dâu nói:
- Chú
không biết, bụng anh bây giờ đương có sự không vui đấy!
- Ca Ca
ngày nào cũng kiếm tiền kiếm bổng đem về đây, anh em không hề ai quấy nhiễu,
còn có chuyện gì mà không vui?
- Nào
chú có biết đâu, hôm nọ vì có bọn bảy người buôn táo ở Hoàng Nê Cương cướp lấy
lễ vật của Lương Trung Thư, đưa vào mừng sinh nhật Xái Thái Sư ở Đông Kinh, đến
nay quan Phủ Tế Châu vâng lệnh Thái Sư, ra hạn mười hôm phải bắt cho kỳ được,
bằng không tất phải đi đày ở nơi khốn khổ, chú không trông thấy chữ thích ở
trên mặt anh đó sao? Chú tính như thế thì còn vui vẻ gì mà uống rượu với chú
thế nào được? Thôi, chú cứ xơi cơm rượu đi, đừng nên trách anh ấy nữa!
Hà Thanh
nghe nói thì gật gù mà đáp rằng:
- Phải,
tôi có nghe loáng thoáng thấy họ nói có việc cướp ấy, nhưng không biết đích xác
rằng nó cướp ở đâu?
- Ấy
chính ở Hoàng Nê Cương đấy!
- Thế
thì bọn cướp ấy là bọn thế nào?
- Chú
say rượu sao? Tôi vừa nói với chú là bảy người họ buôn táo đó mà.
Hà Thanh
nghe nói cười ha hả mà rằng:
- Tưởng
là ai, chẳng ra là bọn buôn táo đó. Nếu vậy việc gì mà phiền? Sao không sai
người đi để bắt?
- Chú
nói thế thì cũng phải lắm, nhưng bắt ở đâu được mà bắt?
Hà Thanh
lại cười mà đáp:
- Tẩu
Tẩu lo làm gì? Mọi lúc binh thường Ca Ca vẫn năng đi lại với bọn rượu chè cá
thịt mà không biết đến anh em, cho nên đến lúc hữu sự mới không biết đâu mà bắt
được. Ví bằng mà mọi khi Ca Ca lại thỉnh thoảng cho anh em được chén rượu, thì
bọn cướp ranh ấy làm gì mà truy nã không ra?
Vợ Hà
Đào ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Vậy
chú có biết đường lối của họ không?
Hà Thanh
cười rằng:
- Thôi
cứ để Ca Ca khi nào nguy hiểm đến nơi, bấy giờ sẽ liệu có cách gì cứu được hay
chăng?
Nói xong
đứng dậy toan đi, vợ Hà Đào cố giữ lại mời uống mấy chén rượu, rồi chạy ra bảo
cho chồng biết.
Hà Đào
nghe vợ nói, liền chạy vào mà bảo em rằng:
- Em
biết tụi giặc ấy ở đâu, sao không cứu giúp ta?
Hà Thanh
đáp:
- Tôi có
biết đâu, tôi nói chuyện đùa cho vui đấy thôi, em cứu thế nào Ca Ca mà cứu?
- Thôi,
sao em lại lãnh đạm như thế, em phải biết bụng ta đối với em là tử tế, chớ nên
nghĩ đến những điều nọ tiếng kia, mà cứu lấy tính mạng cho ta mới được.
- Ca Ca
thiếu gì những người làm việc mắt nhanh tai sáng, xưa nay có kể đến hai ba trăm
người, lại không giúp đỡ được Ca Ca hay sao?
- Em ơi!
Em đừng nói như thế, em biết đường lối rồi, can chi còn phải nhường ai? Em cứ
báo cho ta biết rồi ta sẽ có cách đền ơn em, đừng sợ thiệt.
- Tôi
biết gì mà bảo cho Ca Ca?
Hà Đào
lại nói:
- Em
không nên chọc tức ta, em phải nghĩ tình máu mủ mới được.
Hà Thanh
đáp:
- Nhưng
mà cũng không vội gì, cứ để đến lúc nguy sắp bấy giờ tôi sẽ bảo anh, để bắt bọn
cướp ranh ấy.
Vợ Hà
Đào nghe vậy liền bảo rằng:
- Chú
ơi! Chú phải nghĩ đến tình cốt nhục mà cứu anh mới được. Hiện Thái Sư sức giấy
ra truy nã phạm nhân, việc ấy là việc to tày trời, sao lại gọi là bọn cướp ra
được?
Hà Thanh
cười ngất mà nói:
- Tẩu
tẩu ơi! Tẩu tẩu không biết, tôi đây chỉ vì đánh bạc, mà bị Ca Ca đánh mắng đã
bao phen, cho nên chỉ sợ Ca Ca mà không dám can thiệp đến. Mọi khi có rượu có
thịt thì chỉ vui thú với những ai ai, mà tới nay có việc mới biết anh em đấy
nhỉ?
Mới hay:
Khi vui
vui những đâu đâu,
Tới khi
hoạn nạn mới cầu anh em.
Ai ơi! Thử
ngẫm mà xem,
Nhân
tình như thế bạc đen chăng đời?
Hà Đào
nghe Hà Thanh nói có ý phẫn uất, liền lấy ra mười lạng bạc để lên mà bảo rằng:
- Em hãy
cầm lấy món tiền này tiêu tạm, rồi sau khi bắt được cướp anh sẽ hậu thưởng cho.
Hà Thanh
cười mà đáp rằng:
- Ca Ca
thực là. Nếu tôi lấy món tiền này chẳng hóa ra tôi bắt chẹt Ca Ca hay sao?
Không nên lấy tiền mà nhử tôi, nếu Ca Ca làm thế, thì không khi nào tôi nói
nữa. Có phải là Ca Ca có lòng tử tế, thì tôi sẽ nói cho Ca Ca nghe, chứ đừng
mang tiền ra mà lòe tôi như thế.
Hà Đào
nói:
- Tiền
ấy là của quan trên treo giải thưởng đấy, em đừng nên từ chối, hãy nói thực cho
ta biết bọn ấy nó ở đâu?
Hà Thanh
vỗ vào đùi mà nói rằng:
- Bọn
cướp ấy, tôi đã tróc cả ở trong túi này chứ đâu?
Hà Đào
kinh ngạc nói rằng:
- Em nói
lạ! Làm thế nào mà bọn cướp lại ở trong túi được?
Hà Thanh
nói:
- Ca Ca
mặc tôi, nó ở cả trong túi tôi đây rồi, Ca Ca cứ cất tiền đi, không nên đem ra
để làm mồi nưa.
Mới hay:
Mấy anh
phỗng đá ngồi trên,
Đã không
ích nước lại thêm lụy người.
Túi tham
vét sạch của đời,
Giả danh
quân quốc làm mồi ấm no.
Vẽ hươu
vẽ vượn trăm trò,
Chẳng
hay đục nước béo cò hay chi?
Rồi đây
binh biến bất kỳ,
Muôn dân
đồ thán tội thì tại ai?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Một bộ
sách sắp vơ vét của 108 người, để chứa cả vào Sơn Bạc, mà phải đưa từng người
một, vào Thủy Đình của Chu Quý, từng người vào ăn uống ở nhà hàng, từng người
phải bắn tên hiệu, và từng người phải dẫn quan đò...như kẻ bán gạo lại miệng
đếm tay nhặt từng hạt gạo một, thì bao giờ cho xong? Nếu chép từng người một đi
đến như Lâm Xung kia, thì sao gọi là văn của tài tử chép. Xét từ khi trời sinh
Thạch Kiệt, để tới ngày ghi tên họ mà xem, thì 108 người kia, đã lần lượt tới
Lương Sơn Bạc vậy. Song le mới đầu đi đến Sơn Bạc kia, lần lượt diễn ra, còn ví
như những hạt châu to nhỏ, chứa đựng cả vào một mâm ngọc vậy, có còn tản tác xa
gần, chưa thể nhặt ngay hết để cùng được! Vì lúc đầu nào phải một tay hai tay
nhặt hết để cùng bày, đối với việc ấy, tác giả tả dần dà, như bày đặt thứ tự,
nhân đó mà chợt cấu tứ lạ lùng, mà nói đến hai chàng Dương, Lỗ, còn giấu ở Nhị
Long Sơn, đợi sau then chốt mở ra, thừa thế mà động, như tiếng sấm vang phá
vách, bay nhanh tới vậy. Hỡi ôi! Lời xưa có nói: Thợ giỏi khổ tâm, thực không
sai vậy.
Lỗ Đạt
là một nghiệt long, Dương Chí cũng là một nghiệt long, hai con nghiệt long cùng
ở một nước, thì tranh một Bảo Châu, sao cho khỏi được? Tác giả vốn biết sâu như
thế, nên trước đoạn văn này, tả hai người cùng ở Quan Tây, để mong lấy tình
hương lý, tuy rằng lấy hai chàng Dương; Lỗ, mà mong ở cớ cùng hương lý để hợp
nhau, thì cũng khó thay! Vì rằng lấy cớ hai người Dương, Lỗ cùng một quê hương
để mà hợp tác, thì sao đẻ ở Quan Tây, lại không sống chết ở Quan Tây? ? ? Lại
bỏ nơi chôn rau cắt rốn mà đến đất này? Đã bỏ nơi chôn rau cắt rốn mà đến đất
này, thì còn nghĩ đến hai chữ Quan Tây, để buộc nhau hợp tác, thế là đã coi
thường nơi sinh đẻ, còn trói buộc sao cho nổi hai Rồng? Chuyện đâu đáng kể? Tác
giả vốn biết như thế, mới bảy ra chàng Thao Đao Tào Chính, tả ra là môn đệ Lâm
Xung Tào Chính như kẻ giữ thừng trong tay, kết chặt lại Dương, Lỗ, khiến hai
con rồng dữ thò đầu cựa đuôi, không làm sao tháo ra bỏ được! Không là gì? Quái
vật thiên hạ, phải có Quái bảo thiên hạ giữ gìn. Đọc tới hồi này, thì phải biết
tới Lâm Xung làm chiếc Khóa vàng của vua Võ vậy.
Nãy ta
nói trong hồi này, tuy không tả Lâm Xung, vì muốn giữ hai con Rông dữ, phải có
chiếc Khóa vàng của vua Võ, sở dĩ có Lâm Xung làm người cương lãnh một hồi, bàn
ra thấy rõ. Nay ta muốn hỏi thử độc giả Thủy Hử khắp trong thiên hạ, cũng từng
biết trong hồi này. Vì ngưng lại hai Rồng, làm ra có Rồng (Đặng Long), vì cần
một khóa, làm ra có khóa (đóng chặt sơn trại), vì cần một kẻ liên hệ, làm ra
một kẻ liên hệ (Tào Chính) đó chăng? Đức Khổng nói: Nhắc đến một góc, mà không
biết đem ba góc kia quay lại; thì còn nói làm gì? Thế mà ta vẫn cứ nói ra cho
thấy, ôi Dương, Lỗ cả hai cùng ở chùa Bảo Châu đã rồi, ngày sau lại có Võ Tòng
tới nữa, thì Lỗ Đạt đã một nghiệt long, Võ Tòng cũng một nghiệt long, Lỗ, Dương
liên hệ đã có Lâm Xung, Tào Chính là tay ràng buộc; Còn Lỗ, Võ hợp nhau lấy ai
liên hệ? Xét đến Lõ Đạt tự thuật việc ở Mạnh Châu đầu độc, tuy chưa thực sự,
song đã một lần nói ra từ miệng Lỗ Đạt, lại một lần sau nói ra ở miệng Trương
Thanh, mối liên hệ vậy, sau này Lỗ, Võ tuy chưa gặp nhau lần nào, mà rồi cả hai
cùng đi đến điếm Trương Thanh, thì dây liên hệ đã ở trong tay Trương Thanh lâu
rồi, vậy Trương Thanh sau đó, cũng như Tào Chính ngày nay, nói rằng Trương Thanh
cũng như Tào Chính, đã thực có người liên hệ, có kẻ giữ ràng, sự thực như thế,
bởi chưa đọc kỹ hết. Xem như Lỗ Đạt thuật với Trương Thanh rằng xem giới đao ta
kính khiếp, đến sau Trương Thanh tặng Võ Tòng thì rằng, ta có hai khẩu giới
đao, đấy cũng một vật kia làm một chí này rõ vậy. Lỗ Đạt có giới đao, còn thêm
thuyền trượng, Võ Tòng cũng giới đao, còn thêm xương người ...Đó tác giả khéo
nhuộm thêm gián sắc, làm lóe mắt người, nếu chả tin, thì đợi xem Võ Tòng qua bờ
Thập Tự, cùng vợ chồng Trương Thanh uống rượu đến tối, bỗng không nảy một giới
đao, hằng làm kinh thưởng, Đó! Đoạn văn trước với đoạn văn sau, đều không liên
thuộc, là cớ làm sao? Hỡi ôi! Đọc sách cứ theo sách mà đọc, đâu phải là kẻ đọc
sách? Lại còn quái lạ Thánh Thần mà mà hẹn lấy thì giờ ư?
Khi
Dương Chí mới vào điếm Tào Chính, chẳng ngờ có vợ Tào Chính, tự khi Dương Chí
vào điếm Tào Chính, mới tả ra vợ Tào Chính, để diễn xuất bản văn sau, ngòi bút
lôi thôi, vốn không dừng được. Vì trong lòng tác giả muốn cho hai chàng Dương,
Lỗ gặp nhau, buộc bằng Lâm Xung, giữ ở Tào Chính, sau lại muốn cho hai chàng
Lỗ, Võ gặp nhau, cũng buộc bằng giới đao, giữ ở Trương Thanh, như trên đã nói.
Thế mà việc xảy ra sau cách ít nhiều hồi, những người xem sách, mắt còn nhỏ như
hạt đậu, chưa qua hàng mấy chục tờ, mà được biết lòng văn soi sáng, rất lạ rất
ngang, cho nên tác giả muôn phần không biết làm sao, phải tả trước trong điếm
Tào Chính, thêm một đàn bà, để đối với chuyện trong điếm Trương Thanh sau này,
cho văn sau thêm vẻ kỳ quan, thực là cái tài của tài tử, như năng lực Hóa công.
Một đôi
Dương, Lỗ gặp nhau, lấy Quan Tây thông khí, một đôi Lỗ, Võ gặp nhau, lấy xuất
gia đậu cơ, đều là ngại văn chương chẳng nên thiên đoạn vậy.
Đọc đến
cuối hồi, bỗng đâu có chuyện Hà Thanh báo tin, có khóc, có cười khiến người
thiên hạ không em đọc đến phải thương tâm, người có anh em đọc đến cũng thương
tâm, ai bảo viết sử không có ý văn khuyên dạy cho đời?
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 17: Mỹ Nhiêm Công dùng mẹo lừa Sáp Sí
Hổ: Tống Công Minh vì tình thả Tiều Thiên Vương
Bấy giờ
Hà Đào nghe em nói, thì bán tín bán nghi, liền nói luôn rằng:
- Tiền
nầy là tiền quan trên treo thưởng, em cứ cầm lấy, rồi sẽ có trọng thưởng về
sau. Bây giờ em hãy nói cho anh biết bọn kia ở trong túi là thế nào?
Hà Thanh
thong thả móc ra một tập giấy, rồi trỏ mà bảo anh rằng:
- Bọn
cướp ấy ở đây tất cả...
- Làm
sao lại viết vào đấy?
- Chẳng
dấu gì ca ca: Dạo trước vì tôi có thua bạc, không còn một đồng nào trong túi,
sau có bọn con bạc rủ đến thôn An Lạc, cách ngoài cửa Bắc chừng 15 dặm, tới một
khách điếm họ Vương, để đánh chơi với họ, nhân bấy giờ có giấy quan sức, phàm
các hàng cơm phải đóng sổ biên tên tuổi quê quán những hành khách qua trọ, và
phải cho rõ là đi đâu, làm việc gì, để bất thần quan tư khám xét, và một tháng
đem trình sở tại một lần. Nhưng vì Tiểu nhị ca không biết chữ nên phải nhờ tôi
viết giúp hộ trong nửa tháng trời. Một hôm vào khoảng mồng ba tháng sáu, chợt
có một bọn bảy người buôn táo, kéo bảy cỗ xe Giang Châu đến nghỉ ở hàng. Trong
bọn ấy tôi biết một người đi đầu là Tiểu Bảo Chính ở thôn Đông Khê, vì dạo
trước có một người con bạc đã dẫn tôi đến nhà ông ta một lần. Khi tôi mang sổ
ra hỏi tên họ để biên, thì có một người râu ba chòm mặt trắng bệch chạy đến mà
nói với tôi rằng: "Chúng tôi người họ Lý, ở Hào Thôn, buôn táo về Đông
Kinh". Tôi nghe vậy cũng biên vào sổ, song trong lòng thì hơi lấy làm ngờ.
Đến hôm sau chủ điếm đưa tôi đi đánh bạc, tới một chỗ ngã ba đường, lại gặp anh
lạ mặt gánh đôi thùng đến đó, tôi không biết hắn là ai. Sau thấy chủ điếm gọi
mà bảo rằng: "Bạch đại lang đi đâu đó? " Bấy giờ người kia đáp rằng:
"Tôi có gánh dấm, đem vào làng bán đây ". Chủ điếm lại quay lại bảo
tôi rằng: "Anh ấy là Bạch Nhật Thử Bạch Thắng, là một tay con bạc
đấy". Tôi nghe nói cứ an tâm như vậy. Sau thấy đồn ầm ĩ lên rằng: Trên đồi
Hoàng Nê Cương, có bọn buôn táo đánh thuốc mê lũ công sai mà cướp đồ lễ sinh
nhật, bấy giờ trong bụng tôi đoán chắc là lũ ấy chứ chẳng sai. Nay muốn biết
đoan đích thì chỉ bắt tên Bạch Thắng đến đó là có thể tra ngay ra được. Cái nầy
là tập sổ tay riêng của tôi, tôi sao chép lấy ở đấy.
Hà Đào
nghe nói cả mừng, lập tức dẫn Hà Thanh vào trình với Tri phủ. Tri phủ gọi Hà
Thanh vào nhà trong hỏi hết đầu đuôi mọi lẽ, phái tám tên công sai cùng với Hà
Đào, Hà Thanh đi ngay đến nhà hàng rượu ở thôn An Lạc, để bắt đưa đến nhà Bạch
Thắng.
Bấy giờ
vào khoảng đầu trống canh ba, mấy người đưa nhau đến nhà Bạch Thắng, người chủ
hàng đánh lừa để gọi người nhà ra mở cửa. Vào trong nhà thấy Bạch Thắng đương
nằm rên rỉ trên giường, sau hỏi người vợ mới biết là hắn đang bị sốt. Khi dựng
Bạch Thắng dậy thấy sắc mặt của hắn nửa hồng nửa trắng, chúng liền thừng trói
lại, mà quát hỏi rằng:
- Ở
Hoàng Nê Cương làm việc gì có biết không?
Bạch
Thắng giả làm không biết và không chịu nhận. Chúng lại tra khảo người vợ đều
chối cả.
Về sau
đám công sai đánh đóm đuốc đi tìm tang vật khắp cả mọi nơi, chợt thấy ở gầm
giường có chỗ đất không phẳng, chúng bèn đào lên để xem.
Vừa đào
được ba thước đất, thì chúng bỗng kêu reo ầm ĩ rồi lôi lên một bọc kim ngân ở
đó. Đoạn rồi bắt hai vợ chồng Bạch Thắng và mang các đồ tang vật ấy, mà hỏa tốc
giải về Tế Châu.
Sáng hôm
sau quan phủ đem ra tra hỏi căn nguyên, Bạch Thắng nhất định không chịu xưng
xuất cho Tiều Cái. Tri phủ cả giận sai đánh bắn máu tươi ra, mà quát lên rằng:
- Thằng đầu đảng, đây đã biết đích xác là Tiều Bảo Chính ở thôn Đông Khê huyện
Vận Thành, mày còn chối làm sao được nữa? Có muốn sống thì thú thực sáu tên kia
ra, kẻo roi vọt khổ thân.
Bạch
Thắng biết không sao chối nổi, liền thở dài một tiếng mà công nhận rằng:
- Việc
ấy tôi chỉ biết có Tiều Bảo Chính là đầu đảng, đến rủ Bạch Thắng đi gánh rượu,
còn sáu người kia không biết là ai cả.
Tri phủ
nghe nói truyền rằng:
- Nếu
vậy thì bắt tên Tiều Bảo Chính đến đây, sẽ bắt được sáu tên kia có khó gì?
Nói đoạn
sai lấy gông tử tù nặng 20 cân gông Bạch Thắng lại, và đem vợ giam vào một nhà
giam đàn bà, rồi cho thảo công văn cho Hà Đào đem hai mươi tên công sai nhanh
nhẹn đi sang ngay Vận Thành, để hiệp đồng với bản huyện đi bắt Tiều Bảo Chính.
Lại sai
hai tên Ngu hầu của Lương phủ, cùng đi với Hà Quan Sát; để nhận mặt mà bắt sáu
tên kia.
Hà Quan
Sát vâng lĩnh các người rồi lập tức ra đi. Sang đến huyện Vận Thành, cho hai
tên Ngu Hầu và bọn công sai vào nghỉ ở một hàng cơm, rồi giắt một ít tiền và
hai tên theo hầu, để vào huyện trình công văn. Khi vào đến phòng giấy, thì quan
Huyện vừa tan buổi hầu sớm, Hà Đào bèn đi ra một cửa hàng nước ở trước cửa
Huyện, để uống nước và ngồi đợi.
Hà Đào
hỏi người hàng nước rằng:
- Trong
huyện bây giờ làm sao mà vắng tanh như thế?
Nhà hàng
đáp:
- Trong
ấy vừa mới tan hầu xong, các người làm việc còn đi ăn uống, cho nên chưa ai đến
cả.
Nhà hàng
trỏ sang cổng huyện mà nói rằng:
- Kìa
ông Áp Ty hôm nay đây kia.
Hà Đào
ngẩng nom lên thì quả nhiên có một người Áp Ty ở trong huyện đương lững thững
đi ra. Người ấy họ Tống tên là Giang, biểu tự là Công Minh, con thứ ba, nguyên
quán ở Vận Thành, mặt đen, người thấp, thường gọi là Hắc Tam Lang Tống Giang,
lại có tiếng là người hiếu để, bình sinh trọng nghĩa khinh tài, ai cũng gọi là
Hiếu Nghĩa Hắc Tam Lang. Trên còn bố già là Tống Thái Công, mẹ thì mất sớm, có
một người em tên là Thiết Phiến Tử Tống Thanh, cùng ở nhà với Thái Công, để
trông nom vườn ruộng.
Tống
Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành, văn án tinh thông, sành nghề nha lại, tính
thích chơi quyền chơi gậy, học được nhiều ngón võ, xưa nay lại hay kết nạp bọn
hảo hán giang hồ, hễ ai đến đó, bất cứ thế nào, đều dung túng, chiều chuộng hết
cả, đến khi ra đi lại giúp đỡ tiền nong tử tế. Nhất sinh coi rẻ đồng tiền. Hễ
ai vay mượn hỏi xin là cho ngay không tiếc. Lại có tính hay làm ơn làm huệ, ai
có việc gì ngang trái, là dàn xếp can ngăn, kỳ cho thỏa thuận mới thôi.
Thỉnh
thoảng lại cho áo quan, phát vị thuốc, cứu người khổ giúp kẻ nghèo, đỡ người
nguy cấp, thương kẻ khốn cùng, bởi thế nên khắp mặt Sơn Đông Hà Bắc, ai ai cũng
tôn là Cập Thời Vũ Tống Minh Công, ý nói cũng như trận mưa phải thời, ở lưng
trời tưới xuống để cứu muôn vật vậy.
Bấy giờ
Hà Quan Sát thấy Tống Giang cùng với một tên theo hầu ở cổng huyện đi ra, bèn
chạy đến đón để mời vào hàng nói chuyện.
Tống
Giang thấy Hà Đào ăn mặc ra dáng một người làm việc quan, thì cũng đáp lễ tử tế
rồi hỏi rằng:
- Ngài ở
đâu đến đây?
Hà Đào
đáp:
- Xin
mời Áp Ty vào hàng uống nước rồi sẽ nói chuyện.
Tống
Giang vâng, bảo người theo hầu đứng đợi ngoài cửa, rồi đi vào hàng với Hà Đào.
Tống Giang cất tiếng hỏi:
- Chẳng
hay tôn huynh là ai?
Hà Đào
đáp:
- Thưa
ngài, tôi là Hà Đào, ở phòng Tập bộ Sứ thần bên phủ Tế Châu, dám hỏi cao tính
đại danh là gì?
- Thế
thì tôi không được biết, xin Quan Sát tha lỗi cho. Thưa Quan Sát tôi đây là
Tống Giang làm Áp Ty ở đây.
Hà Đào
nghe nói rồi thụp xuống lạy mà rằng:
- Tôi
nghe tiếng đã lâu, hôm nay được biết ngài ở đây.
Tống
Giang cung kính mà rằng:
- Chết
nỗi! Xin Quan Sát chớ thế! đón Quan Sát ngồi trên. Có đâu tôi dám ngồi trên?
Quan Sát là người ở Thượng Ty, vả lại là khách xa đến đây, xin ngài ngồi trên
cho.
Hà Đào
nhất định không nghe, nhường nhau lâu rồi, Tống Giang ngồi chủ vị, mà Hà Đào
ngồi khách vị. Tống Giang gọi nhà hàng pha trà lên, hai người cùng uống, rồi
Tống Giang hỏi Hà Đào rằng:
- Quan
Sát qua tới huyện tôi đây, có việc gì ở Thượng Ty chăng?
- Chẳng
dấu gì ngài, có mấy việc khẩn yếu ở huyện này, tôi phải đến nói với ngài đây.
- Hay là
việc trộm cướp chi đó, thưa ngài?
Hà Đào
nói:
- Hiện
nay tôi có mang công văn ở phủ đến đây, xin nhờ Áp Ty giúp cho.
- Vâng,
Quan Sát là Thượng Ty cắt xuống, để sai bảo chúng tôi, khi nào tôi dám trễ nải,
nhưng không biết rằng việc gì khẩn cấp thế thưa ngài?
- Áp Ty
hiện đương giữ phần việc, vậy tôi xin nói để Áp Ty nghe: Nguyên bên Phủ tôi có
phát ra một vụ cướp ở Hoàng Nê Cương, tụi ấy tám người đánh thuốc mê bọn thủ hạ
quan Lương Trung Thư phủ Đại Danh Bắc Kinh, mà lấy hết các đồ lễ mừng sinh nhật
quan Xái Thái Sư, tất cả 10 vạn quan tiền, nay bắt được một tên đồng đảng tên
là Bạch Thắng, có khai rằng bảy tên kia, đều ở huyện đây cả. Hiện có người thân
mật của quan Thái Sư sai ra ở phủ tôi để đợi bắt bọn ấy đem về, giải Đông Kinh
ngay lập tức, mong rằng Áp Ty sẽ hết sức giúp ngay cho.
Tống
Giang nói:
- Chính
là tên Tiều Bảo Chính ở thôn Đông Khê, thuộc huyện ngài đây làm đầu đảng, còn
sáu người nữa chưa biết tên họ là chi, vậy xin phiền Áp Ty dụng tâm cho một
chút.
Tống
Giang nghe nói ngạc nhiên kinh lạ, trong bụng nghĩ thầm:"Tiều Cái là anh
em tâm phúc của mình, nay phạm tội tày trời như thế, nếu ta lại không ra tay
cứu giúp, mà để cho quan tư bắt được, thì tính mệnh tất không còn ..."
Chàng nghĩ vậy, thì lòng riêng áy náy, rồi đáp rằng:
- Thằng
Tiều Cái nầy khiếp thực, nó là một thằng gian ngoan ghê gớm, khắp trong huyện
đây ai cũng lấy làm lạ, ai ngờ ngày nay quả nhiên làm nên tội ác như thế, tất
là phải chịu tội, chứ không còn đổ cho ai được nữa!
Việc này
dễ lắm, bắt ba ba trong hũ, hễ thò tay vào thì được, chứ có khó chi. Duy bức
công văn này Quan Sát tất phải đưa vào trình quan Huyện chúng tôi, để sai người
đi bắt, chứ một mình tôi đâu dám thiện tiện thi hành, vả những việc tày trời
như thế, chớ để tiết lộ ra ngoài thì mới được.
Hà Đào
cười đáp:
- Áp Ty
dạy rất phải, phiền Áp Ty làm ơn đưa tôi vào trình quan Huyện một thể.
- Xin
vâng, hiện bây giờ quan tôi còn nghỉ, Quan Sát hãy đợi đây một lát, rồi tôi xin
đến đây dẫn ngài vào.
- Thế
nào cũng nhờ Áp Ty hết sức giúp cho.
- Vâng,
tất nhiên phải thế Quan Sát không cần dặn bảo. Tôi xin chạy qua về nhà thu xếp
chút việc rồi lại chạy đến đây ngay, để đưa ngài vào huyện. Xin ngài ngồi chơi
đây một lát.
Hà Đào
nói:
- Áp Ty
cứ tự tiện cho, tôi xin ngồi đây chờ đợi.
Tống
Giang đứng dậy vái chào, bước ra cửa dặn nhà hàng cứ lấy nước lên để Quan Sát
uống, một lát sau sẽ trả tiền, rồi xăm xăm ra đi. Lại dặn người theo hầu cứ
đứng đợi ở hàng nước đấy, nếu khi quan Huyện ra coi hầu, thì cứ nói với ông
khách trong hàng cứ an tâm đợi một lát, rồi Áp Ty sẽ đưa vào. Đoạn rồi vào
trong tàu lấy ngựa ra đóng yên, mà dắt ra lối cổng sau huyện, rồi cầm roi xắn
áo, nhảy lên mình ngựa, rồi lững thững ra ngoài huyện ly.
"Thanh
roi yên ngựa thẳng dong
Nỗi lòng
ai ở trong lòng mà ra?
Có chăng
ta biết sự ta,
Giang hồ
tương thức dễ mà quên nhau"
Khi ra
khỏi cửa Đông Môn, Tống Giang ra roi quất ngựa, chạy vun vút theo đường về thôn
Đông Khê. Được một lát tới thôn Đông Khê, vào trang Bảo Chính, gọi người nhà
vào báo cho Tiều Cái biết.
Lúc đó
anh em họ Nguyễn, đã chia tiền của, để đi về thôn Thạch Kiệt đã lâu, duy còn
Tiều Cái cùng Ngô Dụng, Công Tôn Thắng và Lưu Đường, là đương ngồi đánh chén
dưới gốc cây Bồ Đào ở vườn sau, chợt nghe thấy trang khách vào báo: "Có Áp
Ty Tống Giang đến có việc rất cần".
Tiều Cái
lấy làm lạ hỏi rằng:
- Áp Ty
đi đến, có mang nhiều đầy tớ không?
Trang
khách nói:
- Chỉ
một người một ngựa, mà ra dáng vội vàng đến đây, sai tôi mời Bảo Chính ra ngay
nói chuyện.
Tiều Cái
đoán có sự gì, liền đứng dậy chạy vội ra để nghinh tiếp. Tống Giang chào Tiều
Cái một tiếng, rồi dắt ngay vào phòng con con để nói chuyện.
Tiều Cái
hỏi:
- Áp Ty
có sự gì hoang mang như vậy?
Tống
Giang đáp:
- Ca ca
không biết, tôi với ca ca là anh em tâm phúc, nên tôi chạy bán mạng đến đấy để
cứu. Bây giờ việc ở Hoàng Nê Cương phát tiết ra, Bạch Thắng đã bị bắt ở phủ Tế
Châu, cung xưng cho bọn bảy người các bác. Quan Sát mang mấy chục công sai
phụng chỉ quan Thái Sư và công văn phủ Tế Châu đến đây để bắt. May sao đến nơi
thì Hà Quang Sát gặp tôi, tôi liền thiết kế bảo quan huyện còn ngủ, bắt anh ta
còn đợi ở ngoài hàng nước, để chạy lẻn đến đây báo cho bác biết. Bác ơi! Ba
mươi sáu chước, chước nào là hơn! Nếu bác không liệu mau thì nguy ngay lập tức.
Bây giờ tôi phải về ngay, đưa hắn vào nha để trình công văn, xong là Tri huyện
tất nhiên cho người đi bắt tối hôm nay, nếu không mau mau liệu thoát thì bây
giờ đừng trách rằng tôi không thiết cứu anh em.
Tiều Cái
hoảng người kinh ngạc mà rằng:
- Nếu
vậy ơn lớn của hiền đệ, bao giờ cho báo đáp được?
Tống
Giang nói:
- Thôi
bây giờ ca ca đừng nói chuyện ơn huệ gì nữa, phải liệu việc chạy mau đi mới
được, tôi xin trở về đây.
Tiều Cái
nói:
- Trong
đám bảy người ấy, thì ba anh em họ Nguyễn đã chia của về thôn Thạch Kiệt rồi,
duy còn có ba người hiện đương ngồi ở đàng sau, hiền đệ hãy đến đó gặp họ một
tí.
Tống
Giang đứng dậy cùng Tiều Cái đi ra vườn sau. Tiều Cái trỏ ba người kia mà bảo
với Tống Giang rằng:
- Ba
người đây, một ông là Ngô Học Cứu, một ông là Công Tôn Thắng ở Kế Châu, và một
người là Lưu Đường ở Đông Lộ.
Tống
Giang chào qua một lượt rồi quay ra xin về, mà dặn với Tiều Cái rằng:
- Ca ca
nên cẩn thận, mà cấp cấp đi ngay, tiểu đệ hãy xin từ biệt.
Nói đoạn
ra cổng trang nhảy lên ngựa, ra roi phóng một mạch thẳng về huyện.
Người
đâu lanh lợi tài hoa.
Tương
tri nhường ấy mới là tương tri?
Ví chăng
những bọn ngu si,
Thịt
xương còn nỡ nể gì anh em?
Khi Tống
Giang đi rồi, Tiều Cái bảo với Ngô Dụng, Công Tôn Thắng và Lưu Đường rằng:
- Các
bác có biết người ấy là ai không?
Ngô Dụng
nói:
- Nào có
biết ai? Ông ta đi đâu mà hốt hoảng vội vàng như thế?
Tiều Cái
nói:
- Ba bác
chưa biết à? Nếu chúng ta mà không có người ấy thì tính mạng khó yên được bây
giờ.
Ba người
nghe nói, đều cả kinh mà rằng:
- Chết
nỗi! Dễ thường việc ấy lộ hay sao?
Tiều Cái
liền đem lời nói của Tống Giang bảo cho ba người biết, mà lại nói rằng:
- Chỉ
đêm hôm nay là tất nhiên họ đến vây bắt chúng mình, ta phải liệu ngay làm sao
mới được?
Ngô Dụng
gật đầu nói:
- Phải,
nếu không có người ấy bảo cho, thì chúng ta vào lưới cả. Nhưng không biết người
ấy là ai?
Ông ấy
là Hiếu Nghĩa Tống Giang làm Áp Ty ở huyện đấy.
- À, vẫn
được nghe tiếng Tống Áp Ty xưa nay mà chưa gặp mặt, ai ngờ chính là ông ấy.
Công Tôn
Thắng và Lưu Đường đồng thanh nói:
- Có
phải chính là bọn giang hồ hay gọi là Cập Thời Vũ Tống Công Minh đấy không?
Tiều Cái
gật đầu đáp rằng:
- Đích
xác ông ta đấy, ông ta với tôi là chỗ tâm phúc chí giao, kết làm anh em đã bao
lâu rồi, Ngô tiên sinh chưa được gặp bao giờ; người ấy mới thực là danh bất hư
truyền, kết giao được những người như thế mới khỏi uổng công.
Đoạn rồi
lại hỏi Ngô Dụng rằng:
- Bây
giờ sự đã nguy cấp, thì anh em nên làm thế nào?
- Quan
bác bất tất phải lo nghĩ, ba mươi sáu cách, chỉ có cách chạy trốn là hơn ...
- Phải,
vừa rối Tống Áp Ty cũng nói, chúng ta chỉ có cách trốn là hơn cả, nhưng mà trốn
đâu cho tiện?
Ngô Dụng
nói:
- Tôi đã
định rồi, bây giờ ta phải thu thập gồng gánh, mà chạy đến nhà anh em họ Nguyễn
ở thôn Thạch Kiệt, nhưng phải sai người đi gấp báo cho họ biết trước đã.
- Ba anh
em họ Nguyễn là một nhà đánh cá, dung thế nào nổi được ngần nầy người?
- Bác
không biết, đấy với Lương Sơn Bạc rất gần, mà hiện nay trong trại của họ đương
phát thịnh, quan quân không dám bén mảng đến, vậy chúng ta sang thôn Thạch
Kiệt, nếu có bị quan quân truy bách lắm, thì ta vào đó có tiện không?
Tiều Cái
nói:
- Vâng,
thế là thượng sách rồi, nhưng không biết rằng họ có chịu dung ta hay không?
Ngô Dụng
cười nói:
- Ta có
vàng bạc đem vào cho họ, là ta vào bọn được chứ sao?
Thế thì
phải bàn định mau đi, chứ không để chậm được nữa. Ngô tiên sinh, tiên sinh với
bác Lưu Đường hãy đem mấy trang khách gánh đồ đạc đến nhà họ Nguyễn rồi đón
tôi, tôi cùng Công Tôn Thắng tiên sinh sẽ thu xếp đến sau.
Ngô Dụng
nghe nói, lập tức cùng với Lưu Đường thu xếp năm bảy gánh kim ngân châu báu,
gọi dăm bảy đứa trang khách cùng ăn cơm uống nước trước, rồi người vác đồng
giản, kẻ vác thanh đao, dẫn bọn trang khách quảy gánh đi sang thôn Thạch Kiệt.
Tiều Cái
cùng Công Tôn Thắng thu xếp trang viện, những trang khách nào không muốn đi
theo, thì cho tiền nong, đi tìm chủ khác, còn kẻ nào theo được hãy ở lại trong
trang, mà sắp sửa hành lý để cùng trốn đi.
Bên kia
Tống Giang phất ngựa một mạch về đến huyện thành, buộc ngựa vào tàu rồi, lại đi
ra hàng nước tiếp Hà Quan Sát. Bấy giờ Hà Đào đương đứng ở cửa hàng nước mà
trông ngóng Tống Giang.
Tống
Giang đến nơi nói với Hà Đào rằng:
- Quan
Sát đợi lâu quá, vì tôi có mấy người bà con ở nhà bàn tí việc nhà, cho nên chậm
trễ một chút.
Hà Đào
nói:
- Bây
giờ phiền Áp Ty đưa tôi vào hầu quan một lát.
- Vâng,
xin đón Quan Sát đi.
Nói đoạn
hai người đi thẳng vào cổng huyện. Vừa may gặp lúc buổi hầu, quan huyện Thời
Văn Bân đương ngồi trên công đường, Tống Giang liền cầm lấy phong công văn, dẫn
Hà Đào vào trước bàn giấy, bảo lính treo bài hồi tị, cấm không cho các người
khác vào, rồi sẽ bẩm với Tri Huyện rằng:
- Đây là
Hà Quan Sát đưa công văn ở phủ Tế Châu, có việc khẩn cấp, xin ngài xét.
Tri
Huyện tiếp lấy công văn, bóc ra xem thì cả kinh bảo với Tống Giang rằng:
- Cái
này là quan Thái Sư sai người thân mật, ra đợi ở Tế Châu để xét việc nầy, mà
trả lời ngay lập tức. Vậy ta phải phái người đi bắt ngay mới được.
Tống
Giang sẽ bẩm rằng:
- Đi ban
ngày lại chỉ e tiết lộ chuyện ra, thì không bắt được, vậy xin để đến đêm đi thì
tiện. Bắt được tên Tiều Cái, thì sáu tên kia khắc phải ra.
Tri
Huyện nói:
- Cái
anh Tiều Cái ở Đông Khê đây, nghe nói là tay hảo hán, sao hắn lại chịu làm
những việc như thế!
Nói đoạn
đòi Huyện Úy cùng hai Đô Đầu Chu Đồng và Lôi Hoành là hai tay giỏi để sai phái.
Bấy giờ hai Đô Đầu cùng Huyện Úy lĩnh lời Tri Huyện cùng lên ngựa, đến Úy Ty
điểm quân mà bộ, cung thủ tất cả là hơn trăm thổ binh, để cùng Hà Quan Sát và
hai Ngu hầu nhận diện để đi bắt giặc.
Tối hôm
ấy chỉnh đốn quân khí cùng thừng chão đâu đấy, rồi Huyện Úy cùng hai Đô Đầu đều
đeo cung tên giắt đao, tay cầm đao lớn, nhảy lên mình ngựa, dẫn quân mã bộ cung
thủ đi ra cửa đông, thẳng luôn về lối Đông Khê.
Vào
khoảng canh một đã đến tất cả ở chùa Quan Âm thôn Đông Khê, Chu Đồng nói với
mọi người rằng:
- Thẳng
chỗ trước mặt đây là nhà Tiều Cái, nhà ấy có hai cổng, nếu ta đánh cổng trước,
thì họ tháo cổng sau, mà ta đánh đánh cổng sau, thì là họ tháo cổng trước. Ta
phải biết rằng Tiều Cái là tay không vừa, còn sáu anh kia không biết là anh
nào, nhưng chắc cũng không phải là quân tử lương thiện, mà toàn là đồ vong mạng
cả, nếu họ cứ kéo ra rồi lại có đám trang khách giúp sức thêm vào, thì ta địch
thế nào nổi? Vậy ta nên làm lối dương đông kích tây, để chờ khi họ rối loạn
lên, là ta hạ thủ, thì hơn. Bây giờ tôi với Lôi Đô Đầu chia làm hai lối đều đi
bộ cả, tôi đem quân ra nấp ở cửa sau cứ đợi tiếng còi làm hiệu, còn đằng ấy thì
xông vào cửa trước, thấy anh nào là trói phăng anh ấy lại.
Lôi
Hoành nói:
- Bác
nói phải, bác với Huyện Úy đem quân ra cửa trước, để tôi ngăn giữ cửa sau cho.
Chu Đồng
nói:
- Hiền
đệ không biết nhà Tiều Cái có ba đường thoát mọi khi tôi đã nhận rõ ràng, không
cần đèn đóm cũng đi được. Hiền đệ vào đấy lỡ ra không rõ lối mà để họ thoát mất
thì không phải chuyện chơi.
Huyện Úy
nói:
- Chu Đô
Đầu nói phải; bác cứ đem một nửa quân đưa ra cổng sau.
Chu Đồng
Đầu nói:
- Tôi
chỉ lấy ba mươi tên quân cũng đủ.
Nói đoạn
điểm mười mấy cung thủ và hai mươi tên thổ binh mà tốt đi trước. Đoạn rồi Huyện
Úy lên ngựa, Lôi Hoành dẫn các quân bộ và cung thủ để đi kèm với Huyện Úy,
trước mặt thắp hai ba mươi bó đuốc sáng rực trời; các quân chúng đều cầm gậy
còng cua, câu liêm đi về lối cửa trước nhà Tiều Cái. Vừa đi được nửa dặm đường
đã thấy nhà Tiều Cái lửa bốc ngùn ngụt cháy từ giữa cháy ra, khói than mù mịt
đỏ rực quãng trời. Đi được hai mươi bước nữa thì tứ phương bát diện, đằng trước
đằng sau, có tới ba bốn mươi chỗ lửa phát lên trông hoa cả mắt. Lôi Hoành vác
đao đi trước, quân lính hò reo chạy sau xông đến phá cổng trang để vào.
Khi vào
tới nơi, lửa sáng không khác gì ban ngày mà trong quanh không thấy một người
nào, chỉ nghe tiếng cửa sau kêu ầm lên rằng:
- Cửa
trước đuổi bắt lấy cướp.
Nguyên
Chu Đồng định bụng thả cho Tiều Cái chạy nên cố ý đùn cho Lôi Hoành đi ra cửa
trước, mà Lôi Hoành cũng có ý cứu cho Tiều Cái, cho nên cố tranh toan đến cửa
sau. Tiều Cái vẫn còn thu xếp chưa xong sau thấy báo là có quan quân đến bắt
mới sai người phóng lửa bốn bề, rồi cùng với Công Tôn Thắng dẫn mười mấy tên
trang khách kêu hò ầm ĩ , và vác đao xông ra cửa sau.
Khi ra
tới cửa quát lên rằng:
- Anh
nào chống với ta thì chết, anh nào tránh ta thì sống ...
Chu Đồng
nghe nói, ở trong bóng tối, lên tiếng bảo Tiều Cái rằng:
- Bảo
Chính chạy mau, Chu Đồng đứng đợi ở đây lâu rồi.
Tiều Cái
không nghe thấy tiếng gì, chỉ cắm đầu cắm cổ cùng với Công Tôn Thắng mà hăng
hái xông ra. Chu Đồng giả vờ tránh mình, để mở đường cho Tiều Cái chạy.
Tiều Cái
bảo Công Tôn Thắng dẫn trang khách đi trước, còn một mình thì chặn ở sau. Chu
Đồng liền dẫn quân cung thủ sấn vào cửa sau nhà Tiều Cái, mà kêu quân phía
trước để cùng đuổi giặc. Bên kia Lôi Hoành nghe tiếng kêu, liền quay ra cổng
trang chia quân mà bộ cung thủ ra làm mấy mặt để đuổi. Lôi Hoành xung đột trong
đám lửa cháy sáng, trông trước trông sau làm bộ tìm người để bắt, rồi Chu Đồng
bỏ mặc đám thổ binh, một mình vác đao đuổi theo sau chân Tiều Cái, Tiều Cái
thấy vậy vừa chạy vừa nói lên rằng:
- Chu Đô
Đầu đuổi tôi làm gì bức bách thế, tôi có điều gì tệ bạc với ai đâu?
Chu Đồng
thấy đằng sau không có ai, liền sẽ bảo Tiều Cái rằng:
- Bảo
Chính không biết lòng tôi hay sao? Tôi chỉ sợ Lôi Hoành cố chấp không tha, nên
tôi lừa cho hắn ra đánh cửa trước, để tôi giữ mặt cửa sau mà tha cho Bảo Chính.
Bảo Chính có thấy tôi tránh đường cho đấy không? Bây giờ Bảo Chính đi đâu cũng
không tiện, tất phải đến Lương Sơn Bạc mới yên thân được thôi.
Tiều Cái
vâng lời mà rằng:
- Cảm ơn
ngài cứu vớt, sẽ xin báo đáp về sau.
Đương
khi ấy thì có tiếng Lôi Hoành quát ở đằng sau lưng rằng:
- Đừng
để cho họ chạy mất.
Chu Đồng
nghe vậy bảo với Tiều Cái rằng:
- Bảo
Chính không sợ cứ chạy đi, tức khắc tôi ngăn cản lại cho.
Nói đoạn
quay lại bảo Lôi Hoành rằng:
- Có mấy
người chạy sang con đường nhỏ bên kia, Lôi Đô Đầu đuổi bắt cho mới được.
Lôi
Hoành lại quay sang phía đông cùng với bọn thổ binh cùng đuổi. Còn đằng này Chu
Đồng vừa nói chuyện với Tiều Cái, vừa lững thững đuổi theo đằng sau, chẳng khác
chi một người hộ tống vậy.
Dần dần
tối tăm mù mịt, không trông thấy Tiều Cái đâu, Chu Đồng liền giả cách vấp ngã
lộn xuống đất. Bọn thổ binh đi theo sau, thấy Chu Đồng ngã, vội vàng túm vào đỡ
dậy. Chu Đồng bảo chúng rằng:
- Trời
tối quá, không biết lối mà lần, bước tuột xuống ruộng ngã một cái sái cả chân
bên tả.
Bấy giờ
Huyện Úy cũng ở đằng sau hỏi Chu Đồng rằng:
- Chính
tên cướp ấy chạy mất rồi, làm thế nào được bây giờ?
Chu Đồng
nói:
- Tôi đã
hết sức đuổi theo, nhưng đường tối quá không làm sao mà đi được. Còn bọn thổ
binh này, thì toàn là đồ vô dụng không đứa nào dám xông lên cả.
Huyện Úy
tức giận quát đám thổ binh bắt phải đuổi theo. Đám thổ binh nghĩ thầm trong
bụng:"Đến hai ông Đô Đầu còn không đuổi gần được họ, huống chi chúng
mình." Nhưng đành cũng phải vâng lời mà đuổi liền một lúc, rồi quay lại
nói rằng:
- Đường
tối lắm không còn biết lối nào mà lần được nữa!
Bên kia
Lôi Hoành cũng đuổi được một lúc, rồi quanh lại mà nghĩ rằng: "Chu Đồng
với Tiều Cái rất thân tất là hắn tha để cho thoát rồi, còn ta đây đuổi làm gì
cho mệt? " Nghĩ đoạn trở về bảo với mọi người rằng:
- Tôi
đuổi mãi mà không thấy gì cả, chắc là đám ấy nó thoát được cả rồi.
Bấy giờ
Huyện Úy cùng với hai Đô Đầu trở về đến trước cửa trang, thì đã vào khoảng canh
tư rồi. Hà Quan Sát thấy bọn kia chạy ngược chạy xuôi theo đuổi hết đêm mà
không bắt được người nào, thì trong bụng lấy làm lo nghĩ, không biết rằng khi
về Phủ Tế Châu sẽ nói sao cho được!
Huyện Úy
cũng lúng túng không biết làm thế nào, đành phải bắt mấy tên lân bang đem giải
về huyện vậy.
Quan
Huyện Vận Thành suốt đêm hôm ấy trông ngóng, để đợi tin tức mà không sao ngủ
được. Chợt nghe tin báo quân cướp đã trốn mất, chỉ còn bắt có mấy tên lân bang
giải đến. Tri Huyện liền bắt lân bang ra để tra hỏi, thì chúng đều khai rằng:
- Kẻ ở
gần ra cũng cách thôn xóm, mà kẻ ở xa cũng cách tới ba bốn dặm đường, mọi ngày
thường thấy trong nhà Bảo Chính, lúc nào cũng có người đến đây múa gươm tập
gậy, cho nên không ai dò biết đoan đích thế nào cả.
Sau Tri
Huyện cố tra hỏi, để biết rõ đường đi nước bước của nhà Tiều Cái, thì trong đám
lân bang có người bẩm rằng:
- Muốn
biết như vậy, tất phải bắt một vài đứa trang khách đến hỏi thì mới có thể rõ.
Tri
Huyện lại hỏi lân bang rằng:
- Ta
nghe nói, tụi trang khách đều trốn đi cả, còn bắt vào đâu?
Lân bang
bẩm:
- Cũng
có kẻ không muốn đi, thì vẫn còn ở đấy.
Tri
Huyện nghe nói lập tức sai người đem mấy tên lân bang đi để dẫn bắt trang khách
về tra hỏi, khi bắt hai tên trang khách về tra, trước còn từ chối không chịu
nói sau đòn vọt đau đớn, mới chịu thú ra rằng:
- Trong
bọn sáu người ấy bàn bạc với nhau, chúng tôi chỉ biết được có một thầy đồ ở
làng là ông Ngô Học Cứu tiên sinh, một người là Công Tôn Thắng, và một người
đen lớn họ Lưu thì ở đâu mới đến cả. Còn ba người nữa thì Ngô Học Cứu tiên sinh
dẫn đến, nghe nói đâu là ba anh em họ Nguyễn đánh cá ở thôn Thạch Kiệt thì
phải.
Tri
Huyện lấy xong khẩu cung mọi người, rồi thảo công văn tường tế mà giao cho Hà
Đào trở về trình phủ. Đoạn rồi Tống Giang che chở cho bọn lân bang, để xin tha
cho về nhà cả.
Bọn Hà
Đào nhận công văn của Tri Huyện, rồi áp giải hai tên trang khách đi vội vàng về
phủ Tế Châu. Khi về tới nơi Hà Đào đem mọi việc đi bắt nã thế nào, kể rõ cho
Tri Phủ nghe một lượt.
Tri Phủ
nghe nói, không biết làm sao được, lại phải bắt Bạch Thắng ra tra hỏi xem ba
người họ Nguyễn là quê quán ở đâu?
Bạch
Thắng đã toan nhất định không nói, sau bị Tri Phủ đánh đập tra tấn riết lại
phải cung rõ ra rằng:
- Một
tên là Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị, một tên là Đỏan Mệnh Lang Nguyễn Tiểu
Ngũ và một tên là Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất, ba anh em đều ở thôn Thạch
Kiệt cả.
Tri Phủ
lại hỏi:
- Còn ba
người nữa là những ai?
Bạch
Thắng bẩm:
- Một
người là Trí Đa Tinh Ngô Dụng, một người là Nhập Vân Long Công Tôn Thắng, và
một người là Xích Phát Quỹ Lưu Đường.
Tri Phủ
nghe vậy lại đem Bạch Thắng giam vào nhà pha, rồi gọi Hà Quan Sát sai đem người
đến thôn Thạch Kiệt để truy bắt ba anh em họ Nguyễn.
Mới hay:
Hùm
thiêng vùng vẫy núi xanh,
Những
phường đầu sói còn quanh quẩn tìm
Biết đâu
bốn bể mò kim,
Chẳng
qua gây việc kinh thiên sau này.
Một phen
gió chuyển mây bay.
Sơn hà
đổi mặt cỏ cây khác mầu.
Máu hồng
lai láng vũng sâu,
Cho quân
phỗng đá biết nhau sau này.
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi nầy
bắt đầu vào chuyện Tống Giang, Tống Giang là đầu trộm cướp vậy, đầu trộm, thì
tội nặng hơn cả đám một tầng, thế mà lâu nay người ta đọc Thủy Hử, thường hường
cho là Tống Giang trung nghĩa, như muốn gặp được sớm chiều, há phải tính con
người muốn ưa trộm cướp, thì ra đọc văn chương mà không thông ý nghĩa. Tự ta
xem đấy, thấy tội Tống Giang nặng hơn đám trộm cướp, vì y ngầm Phản thì còn là
nhỏ, mà tha cho Tiều Cái mới là to, bởi đâu? Vì tha Tiều Cái để y họp đám giặc,
làm cho họa đến cả triều đình, cũng do từ đấy, nếu Tống Giang mà thật trung
nghĩa, thì không tha Tiều Cái; mà Tống Giang tha Tiều Cái, thì còn đâu trung
nghĩa, đây mới vào bản truyện mà trước kia không có chuyện chép ra, được tỏ
Tống Giang cao quý, bắt đầu tha tội Tiều Cái, thì ra Tống Giang đã tội tày trời
tác giả thực chẳng kiên khen cho chút nào hết cả.
Há chẳng
che giấu mà thôi, lại còn tả ra như bới vạch, như rằng quan phủ bàn kín ở nhà
sau, rất là cơ mật, gọi chủ điếm làm chứng cùng đi bắt, lại rất là cơ mật. Canh
ba đến nhà Bạch Thắng, đã rất cơ mật, đến canh năm lại trở về ngay, càng cơ mật
nữa, giữ kín Bạch Thắng, giam riêng người vợ lại rất cơ mật, Hà Đào thân lãnh
công văn, đem hai Ngu hầu đi theo nhận mặt bắt giặt, lại rất cơ mật, đến Vận
Thành giấu tùy tòng trong điếm, vẫn giữ cơ mật, cho đến Hà Đào phải nói kín
đáo, thì thấy cơ mật biết bao? Đấy tả ra rất nhiều văn tự, cho rõ cơ mật, càng
làm cho rõ cái tội Tống Giang, theo lập pháp cho nghiêm, thì phải đúng như vậy,
người đời đọc Thủy Hử mà không thông nghĩa, vội đem trung nghĩa khen ngợi Tống
Giang, thì chả còn biết con ngựa kia mấy chân đi vậy!
Tả hai
người Chu Đồng, Lôi Hoành, đều cốt tha cho Tiều Cái, thấy Chu Đồng được khéo,
mà Lôi Hoành lại vụng, Chu Đồng được khoái, Lôi Hoành lại chậm, thấy từng chỗ
Lôi Hoành nhường bước Chu Đồng rõ lắm, thế mà có biết đâu trước khi Chu Đồng
chưa vào bóng tối, để thả Tiều Cái, đã có trước kia Tống Giang sớm làm được
trọn nhân tình, thế thì Chu Đồng lại nhường bước Tống Giang rõ lắm, trong tay
cao cường, lại có kẻ cao cường hơn, thực là tả nên tuyệt diệu.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 18: Lâm Xung đốt cháy nơi Thủy Bạc;
Tiều Cái cướp lấy vũng Lương Sơn
Khi ấy
Hà Quan Sát lĩnh lời Tri Phủ quay xuống phòng cơ mật, để thương nghị với mọi
người. Có một người công sai, bảo với Hà Đào rằng:
- Thôn
Thạch Kiệt gần kề với vũng Lương Sơn, là một nơi bến nước mênh mông cỏ lau rậm
rạp, nếu không có Đại đội quan quân, thì ai dám đến đây mà bắt được cướp?
Hà Đào
nghe chúng nói, mới nghĩ ra là phải, liền quay lên bẩm với Tri Phủ rằng:
- Khoảng
hồ ở thôn Thạch Kiệt, chính là tiếp giáp với Lương Sơn, xung quanh toàn thị
vũng hồ sâu rộng, lau cỏ um tùm, ngày thường vẫn hay cướp bóc người ta ở đó.
Nay lại thêm có một bọn cường nhân mới đến, nếu không có Đại đội quân mã kéo
đi, thì khó lòng mà bắt được?
Tri Phủ
truyền rằng:
- Nếu
vậy thì ta cho mấy viên tuần giang tinh giỏi điểm lấy hơn trăm quân mã, cùng đi
với người có được không?
Hà Quan
Sát vâng lời, xuống phòng cơ mật, gọi mấy tên công sai, họn lấy hơn trăm người,
rồi sắp sửa lấy các đồ khí giới để sáng mai ra đi. Sáng hôm sau mấy tên Tuần
giang lĩnh công văn quan Phủ Tế Châu, rồi điểm năm trăm quân mã cùng với Hà
Quan Sát và đám công sai cùng đi đến thôn Thạch Kiệt.
Nói về
Tiều Cái, Công Tôn Thắng đêm hôm ấy, đốt bỏ trang viện rồi đi vội vàng để trốn
sang thôn Thạch Kiệt. Khi tới nửa đường đã gặp ba anh em họ Nguyễn, đều mang
khí giới ra đón ở đó, mấy người cùng nhau kéo về tạm trú ở nhà Nguyễn Tiểu Ngũ.
Bấy giờ
Nguyễn Tiểu Nhị đã cho vợ con vào ở tất cả phía trong hồ, rồi bảy người cùng
bàn kế với nhau để nhập bọn Lương Sơn.
Ngô Dụng
nói:
- Hiện
nay ở ngoài đường cái, có Chu Quý mở cửa hàng bán rượu, để chiêu nạp hảo hán
bốn phương, nếu chúng ta muốn nhập bọn, thì phải đến nói với anh ấy trước. Vậy
ta hãy đem các đồ sản vật xếp sẵn xuống thuyền, rồi kiếm cái gì, đưa cho Chu
Quý, để hắn dẫn ta lên.
Đương
khi bàn soạn với nhau, thì bỗng thấy mấy người đánh cá chạy đến báo rằng:
- Hiện
có quan quân kéo đến để truy nã.
Tiều Cái
nghe báo, đứng dậy bảo với anh em rằng:
- Bọn họ
đã đến, thì chúng ta đừng chạy nữa.
Nguyễn
Tiểu Nhị nói:
- Các
ông đừng sợ, ta sẽ có cách đối phó lại với họ, cứ cho một nửa xuống nước, còn
một nửa thì ta chém chết cho rảnh.
Công Tôn
Thắng nói:
- Các
ông cứ lặng im, để bần đạo thử chút tài mọn cho các ông xem.
Tiều Cái
bảo với Lưu Đường rằng:
- Bây
giờ bác cùng với Học Cứu tiên sinh mang tất cả tài vật và người nhà, xếp xuống
thuyền, rồi đi đến bên tả con đường Lý Gia để đợi chúng tôi, chúng tôi liệu thế
nào rồi sẽ đến sau.
Nguyễn
Tiểu Nhị liền lấy hai con thuyền, rồi đem mẹ và người nhà, cùng các tài vật xếp
xuống thuyền, để Ngô Dụng, Lưu Đường mỗi người áp một thuyền, rồi sai bảy tám
tên phường chài, chèo thuyền đến bên tả con đường Lý Gia. Lại dặn Nguyễn Tiểu
Ngũ và Nguyễn Tiểu Thất, lái một chiếc thuyền con, cứ theo cách thế, để đối
địch với quan quân.
Bên kia
bọn Hà Đào với Tuần giang cùng tụi quân mã đi gần đến thôn Thạch Kiệt, thấy ở
bến đó có bao nhiêu thuyền để đó đều cướp lấy cả. Rồi sai bọn quân lính thiện
nghề thủy thủ nhảy xuống thuyền để tiến đánh đường thủy, còn bọn mã binh thì
tiến mặt đường bộ. Trên ngựa dưới thuyền, thủy bộ đều tiến thẳng kéo đến Nguyễn
gia trang.
Khi tới
nơi quan quân hò reo vang động, rồi cùng kéo nhau vào, thì chỉ thấy cái xác
nhà, và mấy thứ đồ dùng nặng nề bỏ đó, Hà Đào truyền bắt những bạn chài gần đấy
đến để hỏi; thì đều nói rằng:
- Hai
anh em nhà Nguyễn Tiểu Ngũ và Nguyễn Tiểu Thất đều ở vào phía trong hồ cả.
Hà Đào
bàn với Tuần giang rằng:
- Phía
trong hồ toàn thị kênh ngang ngòi tắt, đường lối tào lạp, vả chăng nước rộng
vũng nhiều, nông sâu chưa biết, nên đến đấy mà chia nhau từng ngã để tìm, thì
lỡ khi mắc kế gian nhân tất là nguy hiểm. Vậy ta nên để cả ngựa trong thôn nầy,
cho người ở đây coi giữ, rồi xuống tất cả dưới thuyền mà đi mới được.
Nói đoạn
Hà Quan Sát cùng Tuần Giang, và tụi quân lính đều nhất tề xuống thuyền cả. Bấy
giờ có tới hơn trăm con thuyền, cái thì chèo, cái thì chở, thẳng vào phía trong
hồ, để tìm nhà anh em Nguyễn Tiểu Ngũ.
Thuyền
đi được độ năm sáu dặm, trên mặt nước, chợt thấy trong đám lau lách có tiếng
người hát. Chúng liền dừng thuyền lại để nghe, thì thấy tiếng hát véo von rằng:
"Quanh
năm đánh cá vũng hồ trong.
Lúa má
đay gai chẳng thiết trồng...
Giết hết
quan tham cùng lại nhũng,
Báo đền
non nước dốc lòng trung."
Hà Quan
Sát cùng mọi người nghe thấy, đều giật mình kinh sợ, mà ngơ ngác nhìn nhau. Dần
dần thì thấy một người hiện ra đứng trên con thuyền, vừa chèo vừa lái ở đằng xa
đi đến. Có người nhận biết trỏ bảo với chúng rằng:
- Người
ấy chính là Nguyễn Tiểu Ngũ, liền giơ tay vẫy một cái, chúng đều hết sức cầm đồ
binh khí mà sấn thuyền đến đuổi.
Nguyễn
Tiểu Ngũ thấy vậy cười mà nói rằng:
- Chúng
bây là quân giặc, tàn dân hại nước, lại còn dám cả gan tìm đến đây làm gì? Bây
muốn vuốt râu hùm chơi hay sao?
Trong
bọn Hà Đào có nhiều người giỏi nghề cung tên, liền giơ cung lấy tên ra, nhất tề
trỏ vào Nguyễn Tiểu Ngũ để bắn.
Nguyễn
Tiểu Ngũ thấy bên kia quân bắn, liền cầm chèo nhảy tót xuống nước trốn đi mất.
Quân chúng đuổi đến nơi đã không thấy gì nữa, liền cùng nhau giong thuyền đi
tìm.
Đi được
vài quãng kênh, lại nghe tiếng còi huýt ở trong đám lau lách. Chúng bèn dàn
thuyền ra để xem thì thấy có hai người chèo một con thuyền trên mũi thuyền có
một người đầu đội nón lá, mình khoác áo tơi, tay cầm cây gậy nhọn đầu như quản
bút, miệng véo von rằng:
Ta đây
sinh trưởng ở thôn này,
Bẩm tính
xưa nay thích giết người.
Hãy chém
Hà Đào tuần giản trước,
Kinh sư
đem hiến Triệu Vương chơi.
Hà Quan
Sát cùng mọi người nghe thấy, đều ngạc nhiên kinh lạ. Sau có người nhận biết
trỏ mà bảo rằng:
- Anh ấy
là Nguyễn Tiểu Thất đó.
Hà Đào
liền quát quân chúng rằng:
- Bây
hết sức xông lên, bắt thằng giặc ấy cho ta, chớ để cho nó chạy mới được.
Nguyễn
Tiểu Thất nghe nói cười rằng:
- Quân
thối thây nầy!
Nói đoạn
cầm gậy trỏ một cái, thuyền đã ngoắt vào trong kênh mất. Làm chúng hết sức dong
thuyền đuổi theo, con thuyền của Nguyễn Tiểu Thất vẫn đi vun vút vào trong kênh
con, mà miệng vẫn còn huýt còi làm hiệu.
Thuyền
quân đuổi mãi vào tới trong, thấy bến nước hẹp dần mãi đi, Hà Đào liền bắt quân
sĩ dừng thuyền mà kéo nhau lên bộ.
Khi lên
đến gần bờ thấy bốn mặt mênh mang, toàn là lau lách, không có một lối nào để
len chân đi được. Trong bụng Hà Đào lấy làm nghi hoặc, gọi hỏi những người ở
thôn ấy, thì chúng đều nói rằng:
- Chúng
tôi tuy ở đây, nhưng cũng không biết rằng chỗ nầy đường lối ra thế nào cả.
Hà Đào
nghe nói lại càng kinh lạ, bèn sai hai chiếc thuyền, mỗi đem vài ba người công
sai chèo đi để thăm đường lối.
Hai
thuyền đi một lúc lâu không thấy trở về. Hà Đào tức giận mà rằng:
- Mấy
thằng ấy sai đi không được việc gì cả.
Nói đoạn
lại năm tên công sai thạo việc khác, chở hai chiếc thuyền nữa, đi thám thính
xem. Được một hồi lâu, lại không thấy tăm hơi gì cả. Hà Đào lẩm bẩm gắt lên
rằng:
- Mấy
thằng công sai ấy, xưa nay vẫn nhanh nhẹn mà sao bây giờ lờ mờ như thế? Đi từ
bao lâu đến giờ cũng không thấy một thằng nào về cả?
Bấy giờ
trong đám quan quân ở đó, không ai hiểu biết đầu đuôi ra sao mà mặt trời thì
nghe chừng đã gần tối. Hà Đào lấy làm sốt ruột nghĩ một mình rằng: "Bây
giờ đứng mãi đây, thì rồi làm ra thế nào? Bất nhược ta phải thân chinh đi mà
xem mới được".
Nghĩ
đoạn sai chọn một chiếc thuyền nhẹ nhàng cắt mấy tên công sai lão luyện đều cầm
theo khí giới, rồi Hà Đào xuống ngồi ở mũi thuyền bắt năm sáu tay chèo thực
nhanh, đi vào các chỗ lau lách để thám thính.
Bây giờ
mặt trời đã xế non tây, thuyền đi ước được năm sáu dặm nước, đến một nơi gần
bến, thấy có một người vác cái cuốc đương ở đâu chạy lại, Hà Đào liền hỏi rằng:
- Anh
chàng kia! Anh là người nào? Ở đây là chỗ nào?
Người
kia nghe hỏi đứng dừng lại mà đáp rằng:
- Tôi là
người làng ở đây, chỗ này gọi là chỗ Đoạn Đầu Cảng, hết lối đi rồi.
Hà Đào
hỏi:
- Anh có
thấy hai chiếc thuyền đi qua đây không?
Người
kia nói:
- Có
phải là thuyền đi bắt Nguyễn Tiểu Ngũ? Ấy họ đương đánh nhau ở rừng Điếu Lâm,
về phía trước mặt kia.
- Đây
đến đấy có xa không?
- Ở ngay
trước mặt đây kia thôi.
Hà Đào
nghe nói liền sai cắm thuyền lại, bắt mấy tên công sai cầm khí giới đi lên bờ
để cứu đám kia. Mấy tên công sai vừa bước lên bờ, thì anh chàng vác cuốc kia
giơ thẳng cánh, cuốc cho mỗi tên công sai một cuốc, đứt phăng đầu ra mà lăn
xuống nước.
Mấy tên
công sai còn ở thuyền thấy vậy, hoảng hốt toan nhảy chạy, thì bỗng đâu anh
chàng vác cuốc trên bờ đã nhảy tót xuống thuyền, mà tặng cho mỗi tên công sai
một nhát cuốc nữa chết lăn ra cả đó.
Bấy giờ
Hà Đào bị một người kéo xuống nước, rồi ôm thốc lên bờ cởi đai nịt ra mà trói
chặt vào, rồi đến khi trông mặt mới biết người ấy chính là Nguyễn Tiểu Thất, mà
người vác cuốc chính là Nguyễn Tiểu Nhị.
Hai anh
em Nguyễn Tiểu Thất, Nguyễn Tiểu Nhị cùng chạy đến trỏ mặt Hà Đào mà mắng rằng:
- Ba anh
em ông xưa nay chỉ thích giết người đốt nhà, phỏng mày nghĩ hơi sức được bao
nhiêu mà dám cả gan dẫn quan quân vào bắt lũ chúng ông?
Hà Đào
nói:
- Hảo
hán ơi! Chúng tôi là vâng lệnh quan trên, không đi không được, nào có phải tự
mình dám cả gan đến đây mà bắt hảo hán đâu? Xin hảo hán thương tôi còn chút mẹ
già tám mươi tuổi đầu, không ai nuôi nấng mà tha tính mạng cho tôi ...
Anh em
họ Nguyễn bảo nhau trói tròn lại bỏ xuống sạp thuyền, rồi vất những xác đứa kia
xuống nước, đoạn rồi thổi mấy tiếng khẩu hiệu, thì thấy trong đám lau lách có
tới bốn năm anh chài trổ ra cùng nhảy lên thuyền cả, còn Nguyễn Tiểu Ngũ,
Nguyễn Tiểu Thất cũng mỗi người cưỡi một chiếc thuyền con mà cùng ra đi.
Bấy giờ
vào khoảng giữa canh một, bọn Tuần giảng cùng quân lính mong mãi không thấy Hà
Quan Sát về, thì ai nấy ngơ ngác không hiểu ra sao, đành phải ngồi bó cánh trên
thuyền mà nghỉ mát.
Chợt đâu
có một trận quái phong ở sau lưng thổi lại, làm cho dây buộc thuyền đều bị đứt
tất cả. Chúng đương kinh sợ hãi hùng, không biết đường thi thố, thì bỗng lại
nghe thấy hiệu còi thổi ở phía sau, rồi có một vầng lửa sáng ở trong đám lau
lách đi ra. Đám quan bảo nhau rằng: Phen này không còn cách chi mà sống được
nữa! Khi đó vừa một trăm chiếc thuyền vừa lớn vừa nhỏ, đều bị gió đánh lật lộn
nghiêng trành không sao giữ được, rồi thấy đống lửa kia vẫn cứ lù lù tiến đến
trước mặt.
Nguyên
đó là một đoàn thuyền con buộc hai cái làm một, trên để toàn cỏ khô lau héo đốt
lửa cháy dần dật, rồi buông thuận chiều gió mà trôi đến đó. Hơn một trăm chiếc
thuyền của đám quân lính phần thì đậu liền khít với nhau, phần thì kênh nước
hẹp hòi, không có chỗ để tránh, thành ra mười mấy chiếc thuyền lớn ở đầu bị lửa
xông vào đốt cháy. Dưới đáy nước lại có người kéo ngầm thuyền lửa sấn vào đốt
phá thuyền quân, làm cho các quân lính trên thuyền, đều nhao nhao nhảy lên bờ
chạy trốn.
Dè đâu
bước lên đến bờ lại toàn thị khóm lau vũng lách không có lối đi, đằng trước
cũng thấy lửa cháy đùng đùng trên khóm lau cháy xuống gió to ngọn lửa càng to,
đám quân lính không có chỗ nào lẩn lút, đành phải nhảy xuống những chỗ vũng lầy
để đứng.
Trong
đám hỏa quang rực rỡ, thấy có một chiếc thuyền con đi vun vút tới nơi, đằng lái
thuyền đứng chèo, đằng mũi thuyền có một tiên sinh ngồi, tay cầm một thanh kiếm
sáng loáng miệng quát lên rằng:
- Đừng
để cho một thằng nào bên đông chạy thoát.
Bọn quân
lính đứng trong đám bùn lầy, nghe vừa dứt lời thì thấy bờ lau bên đông có hai
người dẫn bốn năm anh chài cầm đao thương sáng loáng chạy đến bờ lau, bên tây
cũng có hai người dẫn bốn năm anh phường chài tay cầm Phi Ngư Câu sáng quắt
chạy ra.
Hai bên
đổ xô vào, vớ được anh nào là chém anh ấy, chỉ một lúc tụi quân binh chết cả
trong đám bùn lầy, không còn anh nào sống sót.
Than ơi!
Vì đâu
cho chúng lầm than
Tội nào
giết hết quan tham chưa đành!
Nguyên
hai người bên đông là Tiều Cái, Nguyễn Tiểu Ngũ, hai người bên tây là Nguyễn
Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Thất, và một tiên sinh ngồi trên mũi thuyền, thì là Công
Tôn Thắng ngồi để hô gió.
Bấy giờ
năm vị hảo hán dẫn mười mấy tên chài lưới ở thôn trang, chém hết quân binh
trong vũng lầy bờ cỏ, duy còn một mình Hà Quan Sát là vẫn trói cuốn tròn như
cái bánh, mà vất ở trong khoang thuyền.
Nguyễn
Tiểu Nhị xách trùng làm hại dân sự ở Tế Châu, lẽ ra chúng tao xé xác làm muôn
mảnh, nhưng nay hãy tha cho, để về báo với thằng giặc già Tri Phủ Tế Châu rằng:
- Chúng
tao là ba tay anh hùng họ Nguyễn ở thôn Thạch Kiệt và Đông Khê Tiều Cái Thiên
Vương, không ghẹo gì nó, mà không đến vay mượn lương thảo gì trong thành, nó
đừng đến đây mà mua cái chết nhé. Nếu mà nho nhoe với chúng tao, thì không cứ
là một thằng Tri Phủ cỏn con cho ngay đến lão Xái Thái Sư đến đây nữa, gọi là
ta đánh cho vài ba mươi cái khoét thịt vào đã. Bây giờ tao tha cho mà về, chớ đến
đây nữa, mà phải truyền cho chúng nó đừng mơ tưởng hoài công! Đây không có
đường cái lớn, để tao đưa ra ngoài đường cái cho mà đi.
Bấy giờ
Tiểu Thất lấy một con thuyền nhẹ nhàng kéo Hà Đào xuống chở ra gần đường cái mà
quát lên rằng:
- Cứ đi
thẳng đây khắc tìm thấy lối đường, còn đám kia đã giết hết cả rồi. Bây giờ thả
cho mầy được về tử tế thế này, chắc là thằng giặc già Tri Phủ nó lại cười ta,
vậy ta hãy lưu lại để cho nó biết. Nói đoạn rút dao găm ở bên mình ra xẻo hai
tai Hà Đào, máu chảy đầm đìa lênh láng, đoạn rồi lau đao cởi trói vất Hà Đào
lên bờ mà đi.
Hà Đào
được thoát tính mạng kinh sợ hãi hùng, vội vàng tìm đường cút thẳng về Tế Châu.
Khi đó Tiều Cái, Công Tôn Thắng cùng ba anh em họ Nguyễn với tụi phường chài
cùng lên thuyền, đến bên đường Lý Gia để tìm Ngô Dụng, Lưu Đường họp vào làm
một.
Ngô Dụng
hỏi đến việc cự quan quân, Tiều Cái liền đem đầu đuôi kể hết cho nghe, ai nấy
đều vui mừng hớn hở. Đoạn rồi lại chỉnh đốn thuyền bè, cùng nhau kéo đến hàng
rượu Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý.
Khi tới
nơi Ngô Dụng đem đầu đuôi chuyện mình kể cho Chu Quý nghe, và nói để xin vào
nhập đảng. Chu Quý thấy vậy cả mừng, mời các người lên, chào hỏi xong rồi, đón
cả vào trong nhà để thết rượu.
Đoạn rồi
Chu Quý ra thủy đình lấy một mũi tên bắn vào vụng lau để ra hiệu. Được một lát
đã thấy tên tiểu lâu la chở một con thuyền ra. Chu Quý vội vàng viết một phong
thư thuật chuyện và kể tên họ mấy vị hào kiệt định lên nhập đảng, giao cho tiểu
lâu la đem về trình trước cho sơn trại biết, rồi nhất diện giết dê khỏan đãi
mọi người suốt đêm hôm ấy.
Sáng hôm
sau, Chu Quý cho gọi một chiếc thuyền lớn mời mấy vị hảo hán xuống thuyền, rồi
cho cả chiếc thuyền của Tiều Cái đem đến cùng trở về sơn trại. Khi đến một chỗ
kênh nước kia chợt thấy trên bờ có tiếng thanh la kêu, rồi có bảy tám tên lâu
la đánh bốn con thuyền tuần tiễu đi qua. Khi trông thấy Chu Quý thì đám lâu la
trên thuyền kia đều cúi chào Chu Quý rồi lại lái thuyền vút đi trước.
Chu Quý
cùng bọn Tiều Cái đi vào đến bến Kim Sa thì cùng nhau kéo lên bờ duy để mấy
người nhà và mười mấy tên phường chài đợi lại ở thuyền. Bấy giờ có mấy tên tiểu
lâu la xuống núi tiếp đón lên ải. Vương Luân cùng mọi người Đầu Lĩnh đều ra
quan ải để nghinh tiếp. Bọn Tiều Cái thấy vậy vội vàng thi lễ để chào.
Vương
Luân đáp lễ lại mà nói rằng:
- Vương
Luân tôi được nghe tiếng Tiều Thiên Vương đã lâu, như sét đánh bên tai, nay
được ngài hạ cố đến đây, thì thực là may quá!
Tiều Cái
nói:
- Tiều
mỗ tôi là một người vô học tính khí thô mãng, ngày nay tự biết vụng về kém dốt,
cam tâm đến đây làm một tên tiểu tốt ở trướng tiền, xin ngài rộng lượng bao
dung, thì lấy làm may mắn.
Vương
Luân đáp rằng:
- Ngài
dạy làm gì thế, hãy xin mời vào tiểu trại, rồi ta sẽ bàn định về sau.
Nói đoạn
cùng các Đầu Lĩnh dẫn đám Tiều Cái đi lên sơn trại.
Khi tới
Tụ Nghĩa Sảnh, Vương Luân mời bọn Tiều Cái bảy người ngồi bên phía hữu, còn các
Đầu Lĩnh cùng Vương Luân thì ngồi bên phía tả, đoạn rồi nhạc công đánh bài nhạc
của sơn trại để chào mừng, và sai một tên tiểu Đầu Mục ra thuyền để tiếp đón
các người nhà vào khách quán yên nghỉ. Hôm đó trong sơn trại giết mấy con bò,
mười mấy con gà và năm con lợn, tiệc bày sang trọng trống phách vang lừng, rất
là vui vẻ.
Khi tiệc
đến nửa chừng, Tiều Cái liền đem tâm sự từ đầu đến cuối giải bầy cho Vương Luân
nghe. Vương Luân nghe đoạn kinh hãi hồi lâu, trong bụng ngần ngừ không biết trả
lời ra sao, chỉ ầm ừ ứng đáp sao cho xong câu chuyện. Đến khi tan tiệc các đầu
lĩnh đưa bọn Tiều Cái xuống khách phòng ở ngoài quan ải để nghỉ và cắt hầu hạ
cẩn thận. Trong bụng Tiều Cái lấy làm mừng rỡ, bảo với Ngô Dụng cùng mọi người
rằng:
- Chúng
ta làm nên những tội ngập trời. Nếu không có Vương Đầu Lĩnh thương yêu, mà để
cho ở đây như thế, thì có lẽ chúng ta cũng nguy lắm nhỉ?
Ngô Dụng
nghe nói chỉ cười nhạt, mà không nói sao cả.
Tiều Cái
thấy vậy liền hỏi rằng:
- Làm
sao tiên sinh lại cười nhạt hoặc có điều chi, xin tiên sinh nói cho tôi biết?
Ngô Dụng
đáp rằng:
- Tính
bác ngay thẳng, vẫn tưởng là Vương Luân chịu lưu chúng ta ở đây hay sao? Bác
không biết ruột hắn, chứ bác lại không xem nhan sắc và cử động của hắn à?
- Nhan
sắc cử chỉ của hắn ra sao?
- Bác
không biết, lúc mới đầu dự tiệc hắn còn chuyện trò với bác ra dáng thân tình,
về sau bác kể chuyện ra những là giết đám quân quan, buông tha Hà Đào, cùng là
Nguyễn Thi Tam Hùng, mười phần hào kiệt, thì bấy giờ hắn biến ngay sắc mặt đi,
ngoài miệng tuy ứng đáp nói cười, mà trong lòng thì thực khác hẳn. Nếu quả hắn
có bụng lưu chúng ta ở đây, thì bấy giờ đã định vị thứ rồi mới phải. Việc ấy
dẫu đến Đỗ Thiên, Tống Vạn cũng xin tùy theo đáp ứng chứ không hiểu được thâm ý
của Vương Luân, duy có một anh chàng Lâm Xung là ngày trước đã làm qua Giáo Đầu
ở kinh sư cũng đã hơi hiểu việc, nay bất đắc dĩ phải ngồi vào bậc ghế thứ tư,
thì trong lòng vẫn hậm hực bất bình, xem như cách nói chuyện với bác buổi sáng
thì đủ biết. Tôi xem anh ta thực là có ý trở mặt với Vương Luân; để tôi thuyết
cho mấy câu, khắc là họ tính ngay lập tức.
Bấy giờ
Tiều Cái mới tỉnh biết, liền bảo Ngô Dụng rằng:
- Thôi,
trăm sự nhờ ở kế sách của tiên sinh cả.
Cho hay
quân tử xem người,
Xem từ
tiếng nói câu cười xem sao?
Dẫu cho
khôn khéo trăm chiều,
Như
trong thấy ruột lẽ nào dấu xong!
Sáng hôm
sau bỗng thấy người nói có Lâm Xung Giáo Đầu đến chơi. Ngô Dụng liền bảo với
Tiều Cái rằng:
- Nếu
người ấy đến đây, thì tất là trúng kế ta hẳn!
Nói đoạn
bảy người vội ra đón Lâm Xung cùng vào phòng khách nói chuyện. Ngô Dụng đến
trước mặt Lâm Xung mà nói rằng:
- Hôm
qua được các ngài có lòng hậu đãi, chúng tôi lấy làm cảm tạ vô cùng.
Lâm Xung
nói:
- Tôi
thực là lỗi phép với các ngài, nhưng ngặt vì nếu có bụng tử tế mà không có
quyền thì cũng không làm sao được, xin các ngài thứ lỗi cho.
Ngô Dụng
nói:
- Chúng
tôi tuy không ra gì, nhưng cũng không phải là loài thảo mộc, lẽ nào lại không
biết tấm lòng tử tế biệt nhỡn của ngài, thực là cảm ơn vô hạn.
Đoạn rồi
Tiều Cái mời Lâm Xung ngồi ghế trên. Lâm Xung nhất định không nghe, nhường Tiều
Cái ngồi trên rồi tự mình ngồi cánh đuôi, còn Ngô Dụng và sáu người kia ngồi
một dẫy ở dưới nữa.
Tiều Cái
nói với Lâm Xung rằng:
- Tôi
được nghe tiếng Giáo Đầu đã lâu không ngờ nay lại được gặp ở đây!
Lâm Xung
nói:
- Tôi
khi còn ở kinh sư chơi với anh em không hề có một chút gì là sơ xuất, ngày nay
được gặp ngài đây thật là không thỏa lòng chút nào, cho nên tôi phải đến đây để
xin lỗi với ngài.
Tiều Cái
tạ lại rằng:
- Xin
cảm tấm lòng quý báu của ngài.
Ngô Dụng
lại hỏi Lâm Xung rằng:
- Ngày
trước tôi được nghe tiếng Đầu Lĩnh còn ở Đông Kinh kể biết bao phần hào kiệt,
thế mà không biết vì sao bị Cao Cầu hãm hại phải sang ở đất Thương Châu? Sau
tôi nghe nói ở Thương Châu lại bị chúng lập mưu đốt mất thảo trường, rồi không
biết ai đưa Đầu Lĩnh đến sơn trại ở đây từ bao giờ như vậy?
Lâm Xung
thở dài mà rằng:
- Nói
đến thằng Cao Cầu nó hãm hại tôi thì lại kinh dựng tóc gáy lên, không biết bao
giờ trả thù cho được! Còn việc tôi đem thân đến lẩn lút ở đây là nhờ ở Sài Đại
Quan Nhân tiến cử giúp cho đấy, ngài ạ!
- Sài
Đại Quan Nhân có phải bọn giang hồ vẫn kêu là Tiểu Toàn Phong Sài Tiến đó phải
không?
- Chính
người ấy đấy.
Tiều Cái
nói:
- Tôi
cũng nghe tiếng ông ta là người trọng nghĩa khinh tài hay kết nạp bọn hào kiệt
bốn phương, là dòng dõi Đại Chu Hoàng Đế khi xưa, nhưng tôi chưa gặp được bao
giờ!
Ngô Dụng
nói với Lâm Xung rằng:
- Sài
Đại Quan Nhân tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ ai ai cũng biết, nếu Giáo Đầu không
phải là một bậc võ nghệ siêu quần thì sao ngài có chịu giới thiệu đến đây! Câu
nầy không phải là tôi nịnh, nhưng cứ lý ra thì Vương Luân nên nhường ghế thứ
nhất để Đấu Lĩnh ngồi mới là công bằng, mà mới khỏi phụ công Sài Đại Quan Nhân
tiến cử.
Lâm Xung
nói:
- Vâng,
tiên sinh có lòng khen thế thực là cảm tạ, tôi đây vì phạm tội phải chạy đến
nương nhờ Sài Đại Quan Nhân, ngài cũng hết lòng giữ lại ở đó, song sợ phiền lụy
đến ngài không tiện, nên lại phải vật nài để xin đến sơn trại đây. Ai ngờ ngày
nay đi cũng dở mà ở cũng dở, không phải vị gì chỗ ngồi hơn kém, song có điều
Vương Luân là người tâm thuật không định, bàn nói không nghe, như thế cũng khó
lòng ở với nhau lâu được.
Tôi xem
Vương đầu lĩnh tiếp người tử tế, hòa nhã ung dung như thế mà tâm địa lại hẹp
hòi hay sao?
Ngày nay
may được các ngài đến đây thực chẳng khác gì mặt gấm thêu hoa, lúa khô được
nước, thế mà anh ta vẫn mang lòng ghen ghét tài năng, chỉ sợ các ngài tranh
cướp. Lúc đêm ngồi ăn tiệc thấy các ngài nói đến chuyện giết hại quan quân, anh
ta đã có điều không thích, không muốn lưu các ngài ở lại, cho nên mới mời xuống
nhà khách dưới quan ải đây để nghỉ.
Ngô Dụng
nghe vậy liền nói ngay rằng:
- Nếu Vương
đầu lĩnh đã có lòng như thế, thì chúng tôi bất tất phải đợi ông ta nói ra,
chúng tôi xin đi chỗ khác trước là hơn.
Lâm Xung
gạt đi rằng:
- Các
ngài đừng nghĩ thế, tôi đây chỉ sợ các ngài đem lòng chán nản, nên phải đến sớm
đây để nói cho các ngài biết. Đến ngày hôm nay xem; nếu hắn tiếp đãi tử tế
không có điều chi khác ý như hôm qua thì thôi, bằng hắn có một câu gì sâm sỉ
khó chịu, thì xin các ngài cứ mặc tôi đây.
Tiều Cái
nói:
- Nếu
được ngài quá yêu, cầu như thế, thì anh em chúng tôi cảm thấy quý chừng nào?
Ngô Dụng
lại gạt đi mà rằng:
- Lẽ nào
ngài lại vì chúng tôi là người mới đến, mà trở mặt với anh em cũ được, vậy nếu
có thể dung được thì hay bằng không, thì anh em chúng tôi xin cáo thoái trước
là hơn.
Lâm Xung
quyết đoán mà rằng:
- Tiên
sinh sai rồi, cổ nhân đã nói:"Tinh tinh tiếc tinh tinh, hảo hán tiếc hảo
hán" chứ như những đồ súc sinh khốn nạn ấy thì anh em gì với nó? Xin các
ngài cứ khoan tâm để lát nữa tương hội.
Nói đoạn
đứng dậy từ biệt mọi người mà trở lên núi.
Hồi lâu
có tên tiểu lâu la đến nói rằng:
- Hôm
nay Đầu Lĩnh ở sơn trại chúng tôi cho mời các vị hảo hán đến thủy đình ở bên
Nam núi để hội yến.
Tiều Cái
nhận lời vào bảo tiểu lâu la về bẩm trước với Đầu Lĩnh rồi xin theo lên sau.
Tên tiểu lâu la đi rồi, Tiều Cái hỏi Ngô Dụng rằng:
- Tiên
sinh, phen nầy thế nào?
Ngô Dụng
cười đáp rằng:
- Huynh
trưởng cứ vững tâm, phen này có lẽ làm chủ sơn trại cũng nên. Cứ xem ý Lâm Xung
hôm nay thế nào cũng có ý tính Vương Luân hẳn? Nếu hắn có bụng ấy thì tôi giở
ba tấc lưỡi thuyết cho hắn phải quả quyết mới nghe. Huynh trưởng cứ đặt khí
giới ngầm trong mình hễ thấy tôi vuốt râu là phải sấn đến mà giúp hắn thì mới
được.
Tiều Cái
cùng mọi người nghe thấy đều mừng thầm trong bụng. Bấy giờ vào khoảng cuối giờ
thìn, trong trại đã ba bốn phen cho người ra thúc mời, Tiều Cái cùng mọi người
đều ăn mặc gọn gàng giắt khí giới sẵn trong mình rồi đi phó hội. Vừa sắp ra đi
đã thấy Tống Vạn cưỡi một con ngựa và có tụi lâu la khiêng bẩy cỗ kiệu đến mời.
Bẩy người liền lên kiệu theo Tống Vạn đến thủy trại bên nam núi.
Khi đến
trước thủy đình thì bẩy người bước chân xuống kiệu, Vương Luân, Đỗ Thiên, Lâm
Xung và Chu Quý đều chạy ra đón tiếp mời vào thủy đình, phân tân chủ để ngồi.
Bên ấy
Vương Luân cùng bốn người đầu lĩnh Đỗ Thiên, Tống Vạn, Lâm Xung, Chu Quý ngồi
chủ vị phía tả. Bên kia Tiều Cái cùng sáu người hảo hán Ngô Dụng, Công Tôn
Thắng, và ba anh em họ Nguyễn ngồi khách vị về phía hữu, dưới thềm tụi lâu la
luân lưu đứng hầu rót rượu.
Khi rượu
được vài tuần, thỉnh thoảng Tiều Cái khơi nói đến chuyện tụ nghĩa, thì Vương
Luân lại tìm chuyện khác mà đánh trống lấp đi. Bấy giờ Ngô Dụng sẽ liếc mắt
nhìn xem Lâm Xung thì thấy Lâm Xung ngồi nghiêng mình trên ghế tréo mà trợn mắt
trừng trừng nhìn Vương Luân.
Hồi lâu
tiệc rượu đã gần trưa, bỗng thấy Vương Luân gọi lâu la mà bảo đem đến đây.
Đoạn rồi
thấy ba bốn tên lâu la chạy đi một lúc rồi một tên lâu la bưng một cái mâm lớn,
trên để năm đĩnh bạc rất to đem đến.
Vương
Luân đứng dậy cầm chén rượu nói với Tiều Cái rằng:
- Nay
được các vị hào kiệt hạ cố đến đây tụ nghĩa, thực là hạnh phúc vô cùng. Nhưng
hiềm vì sơn trại chúng tôi cũng như một nơi vũng hẹp dung sao được nổi chân
long, vậy gọi là có chút lễ thành, xin các ngài thu nhận và tìm nơi trại lớn để
mở mang, rồi chúng tôi sẽ xin sai người đến tận dưới cờ mà xuống đầu nộp lễ.
Tiều Cái
đáp rằng:
- Chúng
tôi nghe tiếng ngài đây chiêu hiền nạp sĩ đã lâu, bởi vậy chúng tôi muốn đến
đây để nương tựa. Nay các ngài đã không dung được thì chúng tôi xin cảm tạ cáo
lui, chứ vàng bạc ngài cho không khi nào dám nhận! Chúng tôi không dám khoe là
giàu có, song cũng còn được đủ dùng, vậy lễ vật xin dâng lại hầu ngài. Rồi
chúng tôi xin cáo biệt ngay bây giờ.
Vương
Luân lại nói:
- Ngài
từ chối làm gì? Việc này không phải là sơn trại chúng tôi không muốn lưu các vị
hào kiệt ở đây, nhưng chỉ vì nhà cửa chật hẹp, lương thực hiếm hoi, sợ ngày sau
lại thêm lỡ cho các ngài không tiện, bởi thế nên muốn để cho các ngài đi nơi
khác còn hơn.
Vương
Luân vừa nói dứt lời thì đã thấy Lâm Xung dựng đứng đôi lông mày, trợn tròn hai
con mắt, ngồi ở trên ghế mà quát lên rằng:
- Lần
trước ta lên núi anh cũng kêu là nhà chật lương ít, ngày nay Tiều Huynh cùng
các vị hào kiệt đến đây, anh cũng đem câu ấy ra để thoái thác, thế là nghĩa gì?
Ngô Dụng
chêm mấy câu rằng:
- Xin
Đầu Lĩnh bớt giận, cái nầy là tội tại chúng tôi đến đây, để làm hại mất tình
khí sơn trại các ngài. Bây giờ Vương Đầu Lĩnh đã thết đãi tử tế và lại tặng
tiền nong cho về, nào có đuổi mắng gì đâu! Vậy xin Đầu Lĩnh đừng giận nữa,
chúng tôi đi là xong.
Lâm Xung
nói:
- Như
thế là hạng người giắt dao găm, gan lim mặt sứa, tôi không thể nào mà nhịn hắn
được nữa.
Vương
Luân nghe nói quát mắng rằng:
- Thằng
súc sinh nầy đã say rượu đâu, sao dám nói xúc phạm đến ta như thế? Mầy làm mất
cả thứ tự trên dưới hay sao?
Lâm Xung
cũng cả giận mắng rằng:
- Liệu
như mầy là một thằng cùng nho thì hỏng, trong bụng không có một chút văn học
gì, phỏng đáng làm chủ sơn trại hay không?
Ngô Dụng
bảo Tiều Cái rằng:
- Tiều
huynh ơi! Chỉ vì chúng ta lên đây làm dở dang cả cho các ngài Đầu Lĩnh, anh em
ta nên kiếm chiếc thuyền mà cáo biệt về ngay mới được.
Nói xong
bảy người đều đứng dậy toan đi ra. Vương Luân giữ lại mà nói rằng:
- Hãy
xin mời các ngài lui lại cho trọn bữa tiệc hôm nay đã.
Lâm Xung
giơ chân đạp đổ cái bàn đổ lộn ra một bên, rồi đứng dậy thò tay vào túi rút ra
một con dao sáng loáng, dường như ngọn lửa bốc lên rần rật vậy.
Bấy giờ
Ngô Dụng vuốt râu ra hiệu, Lưu Đường liền liền chạy lên trên đình giả vờ ôm lấy
Vương Luân mà can rằng:
- Thôi,
không nên xung kích lẫn nhau nữa?
Ngô Dụng
cũng giả cách ngăn Lâm Xung lại mà rằng:
- Đầu
Lĩnh không nên vội vàng quá như thế?
Công Tôn
Thắng cũng phân với đôi bên rằng:
- Chớ
nên vì chúng tôi mà làm hỏng mất đại nghĩa mới được.
Đoạn rồi
Nguyễn Tiểu Nhị ngăn giữ Đỗ Thiên, Nguyễn Tiểu Ngũ ngăn giữ Tống Vạn, Nguyễn
Tiểu Thất ngăn giữ Chu Quý, làm cho bọn lâu la ở dưới đều ngây người đờ mắt mà
sợ hãi kinh hồn.
Lâm Xung
nhẩy đến nắm chặt lấy Vương Luân mà mắng rằng:
- Mày là
một thằng thôn dã cùng nho, nhờ có Tống Thiên mới được ở chốn này, Sài Đại Quan
Nhân giúp đỡ cho như thế, rồi lại chu cấp tiền nong như thế, thế mà đến lúc
tiến cử ta lên đây mầy còn từ chối! Tới nay các vị hào kiệt muốn lên núi nhập
bọn, cũng toan đuổi đi mà không nhận cả; có lẽ Lương Sơn Bạc nầy là của riêng
nhà mầy hay sao? Những tư cách ghen ghét nhỏ nhen như thế không giết đi còn để
làm gì? Một thằng vô tài vô lượng, không thể nào làm chủ sơn trại nầy được.
Đỗ
Thiên, Tống Vạn, Chu quý toan chạy đến để khuyên giải Lâm Xung lại bị bọn kia
ngăn giữ không sao dám cựa.
Khi đó
Vương Luân cũng muốn tháo thân để chạy song bị Lưu Đường cùng Lâm Xung giữ riết
không sao chạy được, liền kêu lên rằng:
- Nào
những người tâm phúc của ta mọi khi đâu cả?
Bấy giờ
có mấy người tâm phúc cũng muốn chạy đến để cứu, nhưng lại trông thấy Lâm Xung
ra vẻ hung hăng dữ tợn, thì cũng không anh nào dám bén mảng đến gần. Tức thì
Lâm Xung giữ chặt lấy Vương luân, mắng luôn một chặp nữa, rồi đưa dao vào chính
giữa bụng, đâm cho một nhát chết quay ra đấy, bọn Tiều Cái thấy, thì ai nấy đều
rút dao ra, cầm lăm lăm ở tay. Lâm Xung cắt lấy thủ cấp Vương Luân xách ra ở
tay, bọn Đỗ Thiên và Tống Vạn, Chu Quý trông thấy đều kinh sợ hết hồn, quỳ xuống
mà nói rằng:
- Chúng
tôi xin theo lệnh ca ca.
Tiều Cái
vội vàng đỡ ba người dậy, đoạn rồi Ngô Dụng len vào vũng máu, kéo tay ghế thứ
nhất mời Lâm Xung ngồi, và quay ra bảo mọi người rằng:
- Nếu ai
không phục tùng thì cứ lấy Vương Luân làm phép, ngày nay xin lập Lâm Giáo Đầu
làm chủ sơn trại.
Lâm Xung
nghe nói kêu lên rằng:
- Tiên
sinh sai rồi, tôi ngày nay chỉ vì các vị hảo hán, lấy nghĩa khí làm trọng, nên
phải giết một người bất nhân vô nghĩa ấy đi, chứ thực không có lòng nào mà mưu
tranh lấy địa vị ấy. Nay Ngô huynh lại nhường cho tôi như thế há chẳng mua cười
với bọn anh hùng trong thiên hạ lắm sao? Việc ấy nếu các ngài bức bách quá, thì
chỉ xin một chết mà thôi. Nay tiểu đệ có một câu này, nếu các ngài bằng lòng sẽ
xin nói.
Chúng
nghe nói, đều đáp rằng:
- Đầu
Lĩnh có câu gì xin cứ nói cho nghe. Ai dám trái lời Đầu Lĩnh.
Đời còn
lắm kẻ gian ngoan,
Lẽ nào
non nước không tan nát hoài?
Xưa nay
thiệt hại giống nòi,
Gây nên
thảm hại tày trời bởi đâu?
Đã không
chí cả tài cao,
Còn tham
những tiếng sang giàu nhục thân.
Bo bo
phần giữ lấy phần,
Ngoài ra
nào nghĩa nào nhân biết gì?
Giống
đâu có giống ngu si,
Sao
không tính trước đường kia nỗi này?
Đến khi
hào kiệt ra tay,
Phỏng
chừng rêu cỏ được rày mấy nơi?
Chẳng
qua của thế người đời,
Mà trăm
năm để tiếng cười về sau?
Lời Bàn
Của Thánh Thán :
Hồi nầy
nửa trên mượn miệng họ Nguyễn chưởi tệ quan lại, tiếp đến nửa sau lại mượn lời
Lâm Xung chưởi tệ Tú Tài, lời nói phấn khích, khác hẳn nhã nhặn, song lẽ chép
ra những lời oán độc; Sử Mã cũng không khỏi được sự này, thì còn trách làm sao
được những vị Tỳ quan (Quan chép sử)!
Hồi
trước tả Chu, Lôi khi tróc nã, chỉ chép ngăn sau Tiều Cái; hồi này tả Hà Đào
khi tróc nã, chợt đâu chia làm hai nửa, nửa trước chỉ chép họ Nguyễn thủy
chiến, nửa sau chỉ chép Công Tôn Thắng hỏa công, tới khi sau vào Lương Sơn Bạc
gặp Lâm Xung, thì chỉ chép một Ngô Dụng thiệt biện, xét bảy người mới tả sáu
người đều lập kỳ công, trung gian còn một Lưu Đường, chưa từng ra sức, thì lại
đến hồi sau mới chép nốt mạo hiểm đêm trăng tới Vạn Thành, để cho rõ bảy người
này, đều là bậc kỳ tài ra sức, không chịu thua nhau. Hỡi ơi! Đám cường hào còn
cùng nhau đua sức, thế mà sao đời nay nhiều kẻ ở ngôi nhận trọng trách, ăn lộc
lâu ngày, mà không từng chịu làm lấy một việc gì, thì chẳng đáng thẹn ước?
Tỳ quan
chép Sử, ngại những cái gì, ngại nhất là thấy những việc làm ra vô lý của đương
thời mà không thể nào bênh nổi? Nay đọc một hồi Hà Đào đi bắt giặc, thấy một sự
đáng răn, là khi chưa bắt giặc, đã cướp ngay thuyền, ai chẳng biết rằng bắt
thuyền để bắt giặc, sao chẳng nghĩ ra trăm ngờ việc bắt thuyền, là thảm hơn bắt
giặc, vì bắt thuyền để bắt giặc, vì bắt thuyền để bắt giặc kia, mình đã là giặc
cướp của rồi; trong lòng trăm họ đã ngờ lắm vậy. Cho đến khi đã bắt thuyền rồi,
lại không bắt giặc, lại còn đem thuyền bắt được, cưỡi đi như đi chơi, khiến
trăm họ thấy rằng bắt lấy thuyền kia, không phải để đi bắt giặc, chính là để đi
chơi! Than ôi! Bắt thuyền để bắt giặc, để trăm họ lầm rằng lấy của giặc để bắt giặc,
đã một sự không nên, nữa là bắt thuyền để cốt đi chơi, thì sao cho phải, còn
nói làm sao? Còn nói làm sao? Vậy quân tử đọc đến thiên này, cũng động lòng mà
giận những đám quan quân, không còn trách Sử quan không bên vực nữa.
Hà Đào
lĩnh năm trăm binh, tỏ ra thấy như lá thu tan tác, không đánh được chút nào, mà
lũ Tiều Cái chỉ có năm người, thêm mươi anh hàng chài nữa mà tả ra như thiên
binh vạn mã, có khai hợp, có dụ và cướp, có phục có ứng, có xông có đột, với
câu chuyện ấy, ai bảo thuở đó có thực chuyện này, do ở tác giả bày ra trận bút
binh mục, tung hoành trong giây khéo léo tả ra.
Thánh
Thán đến đây, luống ngậm ngùi than: Con người kết oán nguy thay! Đương lúc Lâm
Xung bị bạc đãi, ở ngôi thứ bốn, há quên giận Vương Luân, chỉ vì có thể, không
thể trả thù, mà phải nín nhịn, đến khi gặp bảy anh em Tiều Cái, tuy không quen
với nhau từ trước, song thế có thể làm, há chẳng động tâm, dù cho Vương Luân ưu
đãi, với sự còn ngờ, gặp dịp rửa hận làm ngay không nể, với sự ngậm hờn rất
đáng sợ thay!
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 19: Vì nghĩa chung, Tiều Cái lên ngôi
chủ trại; Đền ơn cả, Lưu Đường rảo bước đêm trăng
Bấy giờ
Lâm Xung vất đầu Vương Luân xuống, rồi một tay cầm đao nhọn trỏ vào mọi người
mà nói rằng:
- Tôi
tuy là một kẻ cấm binh bị tội lưu lạc đến đây, song ngày nay thấy các vị hào
kiệt có lòng hạ cố đến ở sơn trại cho vui, thế mà Vương Luân nỡ đem tâm địa hẹp
hòi, ghen ghét tài đức, không chịu lưu giữ các ngài, nhân thế tôi phải tính
trước hắn đi, chứ thực không có bụng gì mưu đồ ngôi chủ trại. Cứ như cầm đầu
thì tôi cũng không khi nào cự địch quan quân, chỉ mong có một ngày kia trừ bỏ
những tên tâm địa độc ác ở bên cạnh nhà vua đi, thế là thỏa chí. Nay nhân có
Tiều huynh là một người trọng nghĩa khinh tài, trí dũng gồm đủ, thiên hạ ai ai
nghe thầy cũng phải phục theo, vậy tôi xin lấy nghiã khí làm trọng, mà lập lên
làm chủ trại, ở đây, các ngài nghĩ thế nào, có xứng đáng không?
Chúng
nghe nói đều đáp rằng:
- Đầu
Lĩnh dạy thế là phải.
Tiều Cái
thoái thác rằng:
- Không
thế được, xưa nay dẫu khách giỏi đến đâu, cũng không nên chiếm quyền chủ, tôi
đây là một người khách mới đến, khi nào dám chiếm ngôi trên!
Lâm Xung
nhất định không nghe, sấn lại kéo Tiều Cái đẩy vào ghế, rồi nói lên rằng:
- Bây
giờ việc đã đến nơi, không cần phải từ chối, nếu không nghe lời tôi, thì cứ lấy
Vương Luân làm phép.
Nói xong
cố dìu Tiều Cái ngồi lên ghế, rồi quát bảo mọi người ra trước đình làm lễ mừng.
Nhất diện bắt tiểu lâu la về đại trại mở yến hội, nhất diện cho đem xác Vương
Luân đi chôn, và nhất diện sai đến trước núi sau gọi tất cả các tiểu Đầu Mục về
Tụ Nghĩa Sảnh ở Đại Trại.
Đoạn rồi
Lâm Xung với mọi người, mời Tiều Cái cùng lên kiệu ngựa đi đến Tụ Nghĩa Sảnh.
Khi tới nơi Tiều Cái vào ngồi ở ghế chính trung, đốt một lò hương để vào gian
giữa, rồi Lâm Xung đến trước mặt mà nói rằng:
- Lâm
Xung tôi là kẻ thất phu thô mãng, không có học hành tài đức gì, nay may có các
vị hào kiệt đến đây đã rạng tỏ được đại nghĩa trong sơn trại, không còn cẩu thả
như xưa nữa. Vậy nhân có Ngô Học Cứu tiên sinh đây, xin tiên sinh nhận chức
quân sư để giữ binh quyền, sai bảo tướng tá, mà vào ghế thứ nhì cho.
Ngô Dụng
vội từ chối mà rằng:
- Tôi là
anh học trò thôn quê, trong bụng dầu có tài kinh luân tế thế, dẫu xưa cũng từng
được qua Binh Pháp Tôn, Ngô, song chưa có chút là công lao gì, lẽ đâu dám chiếm
ngôi trên?
Lâm Xung
nói:
- Việc
đã đến nơi, không cần khiêm nhượng, tiên sinh phải ngồi.
Ngô Dụng
phải nghe lời, ngồi vào ghế ngồi thứ hai.
Lâm Xung
nói:
- Công
Tôn Thắng tiên sinh, xin ngồi vào ghế thứ ba.
Tiều Cái
không thuận, bảo Lâm Xung rằng:
- Làm
thế không được, nếu cứ suy nhượng mãi, thì Tiều Cái tôi xin thoái vị.
Lâm Xung
nói:
- Tiều
huynh lầm rồi, Công Tôn Thắng tiên sinh là người có tiếng, xưa nay giỏi nghề
dùng binh, lại có phép gào mưa gọi gió, biến hiện qủy thần, anh em đã ai theo
kịp?
Công Tôn
Thắng khiêm tốn mà rằng:
- Tôi
dẫu có chút phép thuật tầm thường, song không có chi là tài tế thế, mà dám ngồi
trên, vậy xin Đầu Lĩnh ngồi cho.
Lâm Xung
lại nói:
- Cứ xem
một trận đánh được quan quân thì đủ biết diệu pháp của tiên sinh. Tiên sinh
ngồi đây chính như bộ đỉnh ba chân khuyết một chân không được, xin tiên sinh
đừng từ chối nữa.
Công Tôn
Thắng không từ chối được, đành phải nghe lời ngồi ghế thứ ba.
Bấy giờ
Lâm Xung lại toan nhường nữa. Tiều Cái, Ngô Dụng và Công Tôn Thắng nhất định
không nghe nói rằng:
- Vừa
rồi Đầu Lĩnh bầu cho tam phân đỉnh túc, chúng tôi đã xin vâng lời, tạm ngồi ba
ghế trên rồi, nay đến Đầu Lĩnh còn nhường cho ai nữa, thì chúng tôi ba người
xin nhất định thoái cả.
Nói xong
ba người dìu Lâm Xung ngồi lên ghế thứ tư. Đoạn rồi Tiều Cái nói rằng:
- Bây
giờ xin hai Đầu Lĩnh Đỗ, Tống ngồi lên cho.
Đỗ
Thiên, Tống Vạn không nghe, liền nhường để Lưu Đường ngồi vào ghế thứ năm,
Nguyễn Tiểu Nhị thứ sáu, Nguyễn Tiểu Ngũ thứ bảy, Nguyễn Tiểu Thất thứ tám, rồi
Đỗ Thiên thứ chín, Tống Vạn thứ mười, Chu Quý thứ mười một. Bấy giờ mười một vị
ở Lương Sơn Bạc yên định chỗ ngồi, rồi trước núi sau núi tất cả bảy tám trăm lâu
la, đều vào lạy mừng, mà chia đứng hai hàng ở dưới.
Tiều Cái
nói với chúng rằng:
- Các
ngươi nghe lệnh đó, ngày nay Lâm Giáo Đầu cho tôi lên làm chủ trại ở đây, Ngô
Học Cứu làm chức quân sư, Công Tôn Thắng cùng coi giữ binh quyền, Lâm Giáo Đầu
cùng cùng các đầu lĩnh quản trị sơn trại, còn các ngươi ai nguyên chức ấy, theo
phận mà làm, coi sóc các công việc đằng trước đằng sau, giữ các chốn trong trại
ngoài bến chớ có để sơ xuất điều chi. Các ngươi phải nên hết sức cùng lòng mà
gây nên đại nghiệp với nhau mới được.
Đoạn rồi
sai thu dọn hai bên phòng xá để cho lão tiểu hai nhà họ Nguyễn ở, và đem các đồ
châu báu sinh nhật còn lại, cùng các thứ kim ngân tài bạch của nhà đem đến, để
thưởng các Tiểu Đầu Mục vá các tụi lâu la. Lại giết trâu giết ngựa tế lễ thiên
địa thần minh rồi mở tiệc mừng, cùng uống rượu với nhau mãi đến đêm mới nghỉ.
Trong mấy ngày hôm sau lại bày tiệc luôn để khao thưởng trên dưới rất là vui
vẻ.
Bấy giờ
Tiều Cái, Ngô Dụng cùng các vị đầu lĩnh mới kiểm điểm kho đụn, sửa sang sơn
trại, chế tạo các đồ quân khí, thương đao cung tên, mũ giáp thuyền bè, và luyện
tập các quân lính thủy thủ tập đánh trên thuyền, để phòng bị khi quan quân kéo
đến.
Cách ít
lâu, một hôm Lâm Xung thấy Tiều Cái trọng nghĩa sơ tài cư xử rộng rãi, đãi vợ
con các người khác đều được chu tất thì trong bụng chợt nghĩ đến vợ mình là
Trương Thị ở Đông Kinh, ngày nay sống chết thế nào chưa biết, chàng liền đem
tâm sự bầy giải với Tiều Cái rằng:
- Tôi từ
khi lên Lương Sơn, đã có ý mang cả vợ con lên đây một thể, nhưng về sau thấy
Vương Luân là một người tâm địa hẹp hòi, cho nên trong lòng do dự lại thôi. Tới
nay vợ con vẫn còn lưu lạc ở Đông Kinh, không biết rằng có còn sống được hay
không!
Tiều Cái
nghe nói liền bảo rằng:
- Nếu
hiền đệ, còn bảo quyến ở Đông Kinh, thì sao không sai người đi đón về đây? Hiền
đệ khá viết một phong thư cho người đi mau mau lập tức về Đông Kinh mà đón ngay
mới được.
Lâm Xung
vâng lời lập tức viết thư rồi sai hai tên lâu la thân tín mang về Đông Kinh để
đón.
Cách hai
tháng trời đã thấy hai tên lâu la trở về báo rằng:
- Chúng
tôi đi đến Đông Kinh vào ngay trong thành, hỏi thăm tới nhà Trương Giáo Đầu thì
thấy nói là Nương Tử bị Cao Thái Úy bức bách, đã liều thân tự ải từ hai năm về
trước. Trương Giáo Đầu thì vì lo nghĩ phẫn uất, rồi vào khoảng nửa tháng nay
cũng mắc bệnh mất rồi, duy còn có một người con hầu là Cẩm Nhị, thì hiện đã gả
chồng mà cùng nhau ở đó. Các lân bang gần quanh ai ai cũng đều nói như thế cả,
vậy xin báo để Đầu Lĩnh biết.
Lâm Xung
nghe nói thì tầm tã nhỏ đôi hàng lụy, rồi từ đó trong lòng không còn vương vấn
việc nhà chi nữa. Tiều Cái thấy chuyện như vậy, thì cũng bùi ngùi tỏ dạ cảm
thương.
Đoạn rồi
từ đó trong sơn trại chỉ hằng ngày thao luyện binh mã chiến thuyền, để phòng
khi cự địch quan quân.
Một hôm
các Đầu Lĩnh đương họp nhau bàn việc ở trên Tụ Nghĩa Sảnh, chợt thấy tiểu lâu
la vào báo rằng:
- Phủ Tế
Châu sai điểm hơn hai nghìn binh mã và các thuyền lớn nhỏ có tới bốn năm trăm
chiếc, hiện đương đóng ở quãng hồ rộng ngoài thôn Thạch Kiệt, xin vào báo để
các ngài biết.
Tiều Cái
nghe báo cả kinh bàn với quân sư Ngô Dụng rằng:
- Quân
quan đến đó, ta nghĩ cách nghinh địch thế nào cho được?
Ngô Dụng
cười mà đáp rằng:
- Huynh
trưởng bất tất phải nghĩ, khắc tôi đã có cách để đối địch. Xưa nay thường
nói:"Nước đến đất ngăn, binh lâm tướng đón" ngại chi.
Nói đoạn
gọi ba anh em họ Nguyễn đến, ghé vào tai dặn rằng: Như thế...như thế...
Rồi lại
gọi Lâm Xung, Lưu Đường đến mà bảo rằng:
- Hai
các ông cứ thế nầy...thế nầy...
Đoạn rồi
lại gọi cả Đỗ Thiên và Tống Vạn đến, mà phân phó cẩn thận, rồi ai nấy phụng
mạng ra đi.
Nguyên
quan Phủ Tế Châu, sai một viên Đoàn Luyện sứ là Hoàng An và một viên Bộ đạo
quân đem hơn một nghìn người và bắt tất cả các thuyền ở trong hạt, đem hết đến
hồ Lương Sơn Bạc. Bấy giờ Đoàn Luyện sứ Hoàng An đem quân lính xuống thuyền, mở
còi nổi hiệu thẳng xông đến Kim Sa. Khi gần đi đến bến, chợt thấy tiếng véo von
văng vẳng đưa lại bên tai. Hoàng An liền nói:
- Đấy có
phải tiếng hoạch dốc (Ống sáo của lâu la) đấy không? Hãy cắm thuyền lại xem
sao?
Nói xong
vừa dừng lại, thì bỗng thấy trên mặt nước có ba chiếc thuyền vừa đi đến. Mỗi
thuyền đều có năm người, bốn người cầm chèo và một người ngồi mũi thuyền, cùng
đầu đội khăn hồng, mình mặc áo hồng thêu hoa tay cầm câu neo cả. Khi đó có
người nhận biết, nói với Hoàng An rằng:
- Ba
người ngồi ba mũi thuyền, chính là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ và Nguyễn
Tiểu Thất đó.
Hoàng An
nghe vậy vội truyền rằng:
- Chúng
bây hãy hết sức tiến lên, bắt ba thằng giặc ấy cho ta.
Nói đoạn
hai bên có đến bốn năm mươi chiếc thuyền, đều hò reo mà chèo sấn đến.
Ba chiếc
thuyền kia thấy vậy, liền huýt còi lên hiệu rồi quay ngoắt trở lại. Hoàng An
cầm thương trong tay vung lên mà bảo rằng:
- Mau
giết chết mấy thằng giặc kia đi, ta sẽ trọng thưởng cho các ngươi.
Ba
thuyền kia cứ lẳng lặng mà chèo đi, không nói gì cả. Thuyền quan quân đuổi riết
đến sau rồi đem cung tên ra bắn. Ba anh chàng họ Nguyễn lại giơ da thanh Hồ lên
để đỡ tên mà chạy.
Thuyền
sau hết sức đuổi theo, ước chừng được hai ba dặm nước, thì chợt thấy đằng sau
Hoàng An có một người bơi thuyền nhỏ đi vun vút mà bảo rằng:
- Chớ
nên đuổi nữa! Chúng tôi vừa lúc nãy xông vào, bị họ đánh đuổi xuống nước cướp
mất cả thuyền rồi.
Hoàng An
ngạc nhiên hỏi:
- Làm
sao lại bị chúng như thế được?
Người
kia nói:
- Chúng
tôi đương chèo thuyền vào, chợt thấy đằng xa có hai chiếc thuyền, mỗi thuyền có
năm người đi đến, chúng tôi liền gắng sức đuổi theo. Khi đuổi được ba bốn dặm
trên mặt nước, thì thấy xung quanh toàn là cảng hẹp, mà lại có tới bảy tám
chiếc thuyền trổ ra, rồi cung tên bắn xuống như chuồn chuồn không sao đánh
được, bất đắc dĩ phải lui thuyền trở lại, dè đâu trở lại đến chỗ cảng hẹp, thì
thấy trên bờ có tới hai ba mươi người, cầm một đoạn thừng rất to căng ngang mặt
nước. Chúng tôi đương toan đến xem cái thừng, thì bị trên bờ ném đá xuống rào
rào như nưa, ai nấy phải nhảy thuyền bỏ xuống nước để trốn. Đến lúc trốn về
được tới bờ, thì đã thấy bao nhiêu quân lính giữ ngựa, đều bị chúng giết chết
trên mặt nước mà lấy mất cả ngựa. Vì thế nên phải vội vàng ra khóm lau tìm được
chiếc thuyền để đến báo Đoàn Luyện hay.
Hoàng An
nghe đoạn ngẩn người kêu khổ, rồi phất cờ trắng bảo quân sĩ quay trở về mà
không đuổi nữa. Các thuyền được lệnh vừa quay mũi thuyền trở lại, thì đã thấy
ba chiếc thuyền lúc nãy, dẫm mười mấy chiếc thuyền nữa, mỗi thuyền cũng chỉ có
năm người, tay phất cờ đỏ, miệng thổi khẩu hiệu, quay lại đuổi riết quan quân.
Hoàng An thấy vậy, cũng toan dàn thuyền ra để đón đánh, thì lại thấy trong đám
ngàn lau có tiếng pháo nổ, rồi bóng cờ đỏ phất phới cả một lượt. Đoạn rồi mấy
chiếc thuyền đuổi theo sau gọi lên rằng:
- Hoàng
An để đầu lại đấy.
Hoàng An
kinh sợ hết sức chèo thuyền, đến bên cạnh bờ lau, lại bị bốn năm mươi chiếc
thuyền ở tiểu cảng hai bên bắn ra tua tủa như ném gạo vậy. Hoàng An vội vàng
tìm đường tháo lui, ngờ đâu trông đến thuyền, thì chỉ còn độ ba chiếc con, liền
hớt hải nhẩy sang một chiếc khoái thuyền, rồi quay cổ lại nom thấy quân lính,
anh nào anh ấy ngã lọp tọp xuống nước, có kẻ bị lôi mất cả thuyền đi, rồi đến
già nữa bị chết ở dưới nước. Hoàng An đương cỡi chiếc khoái thuyền, đương tháo
thân để chạy, chợt thấy trong đám lau lách có một chiếc thuyền của Lưu Đường
nhô ra buông móc kéo thuyền Hoàng An lại, rồi nhảy sang thuyền ôm lấy Hoàng An
mà kêu lên rằng:
- Cấm
đứa nào cựa động.
Bấy giờ
quân lính có kẻ biết lội nước, song thấy những người xuống nước đều bị bắn
chết, thì không anh nào dám nhảy xuống, mà đành chịu ngồi yên trên thuyền cho
họ trói.
Lưu
Đường lôi Hoàng An mang được lên bờ, thì thấy Tiều Cái, Công Tôn Thắng cưỡi
ngựa cầm dao, dẫn năm sáu mươi người, hai mươi cỗ ngựa ở đằng rẻo núi, đi lại
tiếp ứng. Tất cả bắt sống được mấy trăm người, và cướp được bao nhiêu thuyền,
đều đem về thủy trại bên Nam để đó. Đoạn rồi Tiều Cái cùng các Đầu Lĩnh nhất tề
lên sơn trại. Tới nơi Tiều Cái xuống ngựa vào Tụ Nghĩa Sảnh, các Đầu Lĩnh đều
cởi nhung phục, cất quân khí ngồi dàn ra bên, đem Hoàng An ra trói ở cột cái,
rồi lấy vàng bạc vóc nhiễu ra thưởng cho các lâu la. Cộng tính tất cả cướp được
hơn sáu trăm cỗ ngựa, đó là công lao của Lâm Xung, đánh mặt tiểu cảng bên Đông
là của Đỗ Thiên, Tống Vạn, đánh mặt tiểu cảng bên Tây là công của Nguyễn Thị
Tam Hùng, còn bắt được Hoàng An là công của Lưu Đường.
Các Đầu
Lĩnh thấy buổi bắt đầu đã được toàn thắng, thì ai nấy lấy làm vui thích, giết
dê mổ ngựa mở tiệc ăn mừng. Trong sơn trại lại có rượu ngon nấu uống, ngó sen
cá tươi dưới hồ bắt lên, các thứ hoa quả nào hạnh, nào đào, nào mơ, nào táo, ở
bên núi phía Nam, cùng các giống lợn, gà, ngỗng, vịt nuôi sẵn trong nhà, không
có một vật gì là không có, bấy giờ tha hồ mà yến ẩm thung dung. Đương khi yến ẩm
cùng nhau, chợt thấy lâu la lên báo rằng:
- Tiểu
Đầu Lĩnh Chu Quý sai người lên hầu.
Tiều Cái
truyền gọi vào, hỏi có việc chi?
Tên lâu
la bẩm rằng:
- Chu
Đầu Lĩnh thám được một bọn khách buôn có tới mươi người đi liên kết với nhau,
chiều nay tất do qua lối này, xin báo để Đại Vương biết.
Tiều Cái
nghe báo, bảo với chúng rằng:
- Hiện
nay ta đương cầu kim ngân tài bạc để chi dùng, vậy có ai đem người xuống cướp
lấy được chăng?
Vừa nói
dứt lời thì Nguyễn Tiểu Nhị đã đứng lên nói rằng:
- Ba anh
em tôi xin đi.
Tiều Cái
nói:
- Thế
thì hay lắm, nhưng anh phải cẩn thận đi mau, lại phải về mau mới được.
Ba anh
em họ Nguyễn vâng lời, lui ra thay áo xiêm, giắt đao lưng, cầm đao lớn, đoạn
điểm lấy hơn một trăm lâu la, rồi vào Tụ Nghĩa Sảnh bái biệt mọi Đầu Lĩnh mà
xuống núi ra bến Kim Sa, đáp thuyền sang hàng rượu Chu Quý. Tiều Cái sợ ba anh
em họ Nguyễn không làm được việc, lại sai Lưu Đường đem hơn một trăm người nữa,
để xuống núi tiếp ứng, và dặn lại rằng:
- Đến đó
phải làm sao cho khéo, để lấy kim ngân tài bạch, chứ không được giết hại khách
thương.
Lưu
Đường vâng lời ra đi. Tiều Cái đợi mãi đến canh ba, cũng không thấy bọn ấy về,
liền sai Đỗ Thiên, Tống Vạn dẫn thêm năm mươi người nữa để xuống tiếp ứng. Đoạn
rồi lại cùng với Ngô Dụng. Công Tôn Thắng, và Lâm Xung cùng uống rượu đến sáng.
Sáng ngày ra thấy lâu la lên báo rằng:
- Chu
Đầu Lĩnh đã lấy được hai mươi xe kim ngân tài vật, và bốn năm mươi con lừa ngựa
đem để nộp.
Tiều Cái
hỏi:
- Không
giết hại đến người chứ?
B- ẩm,
khách thương thấy thế lực kéo đến mạnh tợn, thì bỏ xe cộ hàng hóa chạy ngang,
chưa hề giết hại một người nào cả.
Tiều Cái
cả mừng mà rằng:
- Chúng
ta từ đây trở đi, không nên giết hại người ta mới được.
Nói đọan
đưa ra một lạng bạc thưởng lâu la, và sai đem các thức rượu quà xuống núi để đó
tiếp. Khi đến bến Kim Sa, đã thấy mấy viên Đầu Lĩnh đem các đồ xe cộ tải lên
trên bờ, rồi lại sai mang thuyền ra để tải lừa ngựa. Những Đầu Lĩnh trông thấy
cả mừng cất chén mời rượu xong rồi, cho ra đón cả Chu Quý về trại, để yến ẩm.
Tiều Cái
cùng các Đầu Lĩnh về đến Tụ Nghĩa Sảnh, đem các tài vật khăn gói lên giở hết ra
để xem, bao nhiêu vóc lụa xếp về một bên, hàng hóa xếp về một bên, còn kim ngân
bảo cụ thì xếp ra trước mặt. Gọi tiểu Đầu Mục coi kho lên giao cho mỗi thứ chia
lấy một nửa đem cất vào kho, còn một nửa nữa thì chia làm hai phần, mười một vị
Đầu Lĩnh lấy một phần, và một phần cho chúng chia nhau.
Bao
nhiêu những quân sĩ mới bắt được, hết thẩy đem thích chữ hiệu vào mặt, rồi chọn
những người khỏe mạnh cho đi chăn đẵn củi, người yếu đuối, thì cho đến các nơi
coi xe cắt co, còn Hoàng An thì đem giam vào phòng giam ở đằng sau trại.
Bấy giờ Tiều
Cái nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Chúng
tôi thoạt tiên đến đây, cũng chỉ mong nương tựa vào Vương Luân, để tránh tai
nạn, ngờ đâu nhờ được Lâm Giáo Đầu sau nhường cho tôi lấy ngôi vị chí tôn, rồi
lại được luôn hai việc vui mừng, một là trị được quan quân, bắt được người ngựa
thuyền bè, và bắt được Hoàng An ở đó. Hai là lấy được tài vật kim ngân rất
nhiều, đấy thực là toàn nhờ ở tài năng của anh em hết cả.
Chúng
Đầu Lĩnh khiêm tốn mà rằng:
- Việc
ấy là nhờ ở phúc ấm của Ca Ca chứ chúng tôi có tài cán chi đáng kể.
Tiều Cái
lại nói với Ngô Dụng rằng:
- Mười
anh em ta sở dĩ còn được tính mạng đến đây, là ơn của Chu Đô Đầu và Tống Áp Ty,
có khi nào mà ta quên được! Cổ nhân nói:"Biết ơn không báo, không phải là
người". Vậy ngày nay ta có kiếm được kim ngân châu báu kia là bởi tại đâu?
Việc đó ta phải sai người đem một ít đến Vận Thành, để trả nigh ân nhân là một
sự quan trọng thứ nhất. Còn một điều là Bạch Thắng hiện nay bị giam ở nhà pha
Tế Châu, ta cũng phải đến đó mà cứu hắn mới được.
Ngô Dụng
đáp rằng:
- Việc
đó huynh trưởng không cần phải nghĩ, tiểu đệ xin chu tất được, Tống Áp Ty là
một người nhân nghĩa, không cần gì đến sự ta báo ơn, nhưng lễ phép phải thế,
cũng không bỏ thiếu được, vậy xin để tên việc một chút, rồi sẽ bảo anh em đi
ngay. Đến như Bạch Thắng thì tất phải sai một người nào thạo việc, đem tiền đến
đút lót mọi nơi, để dần dần về sau sẽ liệu bề thoát thân cho hắn. Còn chúng ta
đây bây giờ phải thương lượng với nhau, và đồn lương tích thảo, chế khí tạo
thuyền sửa sang thành quách, chỉnh đốn nhà cửa, và tu bổ các thứ y giáp cung
thương để dự phòng nghinh địch quân quan thì mới được.
Tiều Cái
nói:
- Cái đó
xin nhờ ở Quân sư chỉ giáo cho.
Ngô Dụng
vâng lời rồi quay ra sai vát các việc, làm cho Lương Sơn một ngày một hưng
thịnh mãi lên.
Nước non
riêng thú từ đây,
Một sảnh
Tụ Nghĩa mấy tay anh hùng,
Đua nhau
ngang dọc vẫy vùng,
Bỏ chi
cá chậu chim lồng mà chơi!
Nói về
tụi quân binh của Hoàng An, có kẻ chạy trốn thoát về, báo cho Tri Phủ Tế Châu
biết tin quan quân bị thua, Hoàng An bị bắt, và các hảo hán ở Lương Sơn Bạc
toàn là anh hùng dũng đởm, không hề ai dám đến gần, vả chăng hồ nước mênh mông,
kênh ngòi rất lắm, đường lối khó dò, sự thế khó lòng mà truy bắt được. Quan phủ
nghe vậy cả kinh, bèn phàn nàn với người nhà Thái Sư rằng:
- Trước
đây Hà Đào đã bị một phen khốn đốn một thân được thoát ra về, mà chúng còn cắt
tai làm nhục, năm trăm quân mã, không còn sót được mống nào. Tới nay sai Đoàn
Luyện Sử Hoàng An, và bộ đạo quan của bản phủ, đem bao nhiêu quân mã đi truy
tầm, cũng đều bị nguy hiểm cả, hiện Hoàng An còn bị bắt lên núi mà quan quân
thì chết chóc vô ngần, như vậy thì biết tính làm sao cho được?
Tri Phủ
đương kinh hoàng thở than, thì bỗng thây lính vào báo rằng:
- Có
quan mới đến thay, hiện đương ở nhà quan cư ngoài cửa Đông Môn.
Tri Phủ
nghe báo, vội vàng lên ngựa ra ngoài Đông Môn để tiếp. Khi đến quan cư hai bên
chào hỏi, đoạn rồi quan mới đưa công văn ra, để cho Tri Phủ xem, Tri Phủ xem
xong liền cùng quan mới đi vào trong nhà, đem các ấn tín sương khố, cùng các
giấy mà tài liệu bàn giao cho quan mới, rồi đặt tiệc để thiết đãi.
Trong
khi ăn tiệc Tri Phủ đem các chuyện ở Lương Sơn Bạc kể cho quan mới nghe. Quan mới
nghe đoạn xám hẳn mặt lại mà nghĩ thầm trong bụng: "Thái Sư đem việc này
đài cử cho ta, ai ngờ là cái nguyên ủy như thế, ở đây tướng giỏi thì không,
binh mạnh cũng không, bắt sao được giặc! Mà nhắc lỡ chúng kéo đến đây để vay
lương quấy nhiễu thì ta giữ gìn làm sao được". Nghĩ vậy trong lòng càng áy
náy vô cùng.
Sáng hôm
sau quan phủ cũ, dọn dẹp đồ đạc trở về Đông Kinh thỉnh tội. Bấy giờ quan phủ
mới bẩm xin một viên quan quân đến trấn thủ Tế Châu, bàn định chiêu binh mãi
mã, chứa thảo đồn lương, mộ các binh phu dân khỏe mạnh và mư trí hiến sĩ, để
phòng bị bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc. Nhắc diện thảo sớ lên Trung Thư Sảnh, xin
sức cho các châu quận xung quanh phải giúp sức để tiểu trừ quân giặc, nhắc diện
lại thảo công văn sức đi các châu huyện thuộc hạt bản phủ, cũng phải đề phòng
truy nã và coi giữ bản hạt cho nghiêm, để dự bị trừ quân giặc cướp.
Bấy giờ
quan Huyện Vận thành cũng thuộc hạt bản phủ ấy, khi tiếp được giấy sức phải coi
giữ bản cảnh, đề phòng bị giặc Lương Sơn, liền gọi Tống Giang lên cho thảo văn
án, sức đi các thôn dã bắt phải nhất luật coi giữ cho nghiêm. Tống Giang xem
thấy công văn, thì trong bụng nghĩ thầm rằng: "Ta không ngờ bọn Tiều Cái
lại gớm ghê như thế! Đã cướp đồ lễ sinh nhật giết cả quan quân, cắt tai Hà Đào,
rồi lại bắt cả Hoàng An lên núi, tội ấy có lẽ đến chu diệt chín họ chứ chẳng
chơi. Đã đành rằng sự bất đắc dĩ thực, nhưng pháp luật cũng không tha, vậy hoặc
khi lỡ đến thế nào, thì làm sao cho được? ".
Chàng
nghĩ vậy, thì cũng hơi có điều ăn năn khó chịu, liền giao các công văn cho
Trương Văn Viễn, để lập thành văn án, sức đi các chốn hương thôn, rồi một mình
lững thững đi ra ngoài huyện.
Vừa đi
được vài ba mươi bước, thì chợt nghe đằng sau có tiếng người gọi. Tống Giang
ngoảnh đầu lại nom, thì thấy một mụ mối là Vương Bà đương dắt tay một người đàn
bà mà bảo rằng:
- Nhà mụ
nầy thực có duyên, kia Áp Ty đã đến đây kìa!
Tống
Giang thấy vậy, đứng dừng lại hỏi:
- Có
việc gì thế?
Vương Bà
trỏ vào người đàn bà bảo với Tống Giang rằng:
- Nguyên
người nầy là Diêm Bà, người ở Đông Kinh, chồng là Diêm Công, giỏi nghề ca
xướng, có một người con gái tên là Bà Tích, năm nay mới mười tám tuổi, nhan sắc
cũng khá, mà nghề ca xướng cũng hay. Mới đây ba vợ chồng bố con, đưa nhau sang
Sơn Đông tìm quan nhân không gặp, phải lưu lạc đến huyện Vận Thành nầy, cũng
muốn đem nghề ca xướng kiếm ăn, nhưng ở đây không mấy người thưởng thức, thành
ra cũng túng bấn long đong, mà phải ở tạm vào một nơi hang cùng ngõ hẻm. Chẳng
may Diêm Công hôm qua lại bị bệnh thời tiết, nằm chết ở đó, mẹ con không có
tiền để tống táng, phải nhờ đến tôi làm mối giúp cho, nhưng bây giờ cũng khó
lòng mà cầu cứu ở đâu cho được. May đâu vơ vẫn lại gặp Áp Ty đi qua đây, nên
tôi đưa bà ta đến để nói với Áp Ty, xin Áp Ty rộng lòng thương mà giúp cho
người ta một cỗ quan tài.
Tống
Giang nghe nói mà đáp rằng:
- Nếu
vậy thì các người theo tôi đến nhà hàng này, mượn bút nghiêng tôi viết cho mấy
chữ, mà ra nhà Trần Tam Lang bên đông huyện lấy quan tài.
Khi vào
tới hàng viết giấy xong rồi, Tống Giang lại hỏi luôn rằng:
- Nhà mụ
có tiền nong gì để chi vào việc ấy chưa?
Diêm Bà
đáp:
- Chẳng
dấu gì Áp Ty, quan tài chưa có, thì làm chi có tiền nữa.
- Nếu
vậy ta cho mụ mười lạng bạc đây, để mà lo liệu.
- Áp Ty
có lòng thương thế, thì thực là cha mẹ tái sinh, xin được làm trâu ngựa để đền
ơn lớn.
Tống
Giang gạt đi rằng:
- Bất
tất phải nói thế.
Nói đoạn
lấy ra một đĩnh bạc đưa cho Diêm Bà, và viết giấy cho đi lấy quan tài, rồi đứng
dậy ra về. Diêm Bà nhận được giấy và tiền, thì vội vàng cảm tạ rồi ra nhà Trần
Tam Lang để lấy quan tài, mà lập tức đem về làm ma cho chồng. Khi tống táng
xong, lại thừa được dăm sáu lạng bạc, hai mẹ con dè xẻn chi dụng với nhau.
Một hôm
Diêm Bà đến tạ ơn Tống Giang, thấy trong nhà không có đàn bà con trẻ, liền về
hỏi Vương Bà ở bên cạnh vách rằng:
- Sao
nhà Áp Ty không thấy có người đàn bà nào, hay là ông ta chưa có vợ chăng?
Vương Bà
nói:
- Tôi
chỉ thấy nói ông ta ở Tống Gia Thôn, chứ cũng không thấy nói có vợ con chưa?
Hiện nay làm Áp Ty ở huyện, thì vẫn cứ ở trọ nhà hàng, thời thường lại cho quan
tài, cho vị thuốc, rất hay cứu những người nghèo nàng, có lẽ chưa có vợ con gì
thì phải.
Diêm Bà
nói:
- Con bé
nhà tôi nó cũng khá, biết nghề hát xướng, ăn nói khôn ngoan, ngày trước ở Đông
Kinh ai cũng có lòng thương mến, đã có mấy người nhà tử tế toan xin làm con
nuôi, nhưng vì vợ chồng già chỉ có một con, nên không muốn cho đi, ai ngờ ngày
nay lại làm khổ nó. Nay nhân Áp Ty chưa có đàn bà nội trợ, tôi nói với Áp Ty có
lòng cứu đỡ giúp tôi, ngày nay không biết lấy gì để trả ơn, nên cũng muốn kết
làm thân quyến để đi lai cho vui, vậy xin nhờ bà tác thành giúp cho.
Vương Bà
nhận lời rồi, hôm sau nói với Tống Giang, Tống Giang trước còn khảnh khái không
nghe, sau bị Vương Bà tán hươu tán vượn nói ngọt nói ngon, thì cũng bằng lòng y
thuận, rồi thuê một gian nhà gác ở ngõ phố bên tây huyện, mà sắm sanh các đồ
vật liệu cho mẹ con Diêm Bà đến ở đó.
Thấm
thoát nửa tháng trời, đã thấy mẹ con Diêm Bà đều quần là áo lượt, lượt giắt
trâm cài, nghiễm nhiên ra vẻ phong lưu lịch sự.
Tống
Giang nguyên là một tay hảo hán, xưa nay chỉ thích luyện tập võ nghệ, còn về
phần mỹ sắc, thì không lấy gì làm đậm đà cho lắm. Lại nhân Bà Tích là con gái
mười lăm mười tám, đương trạc thanh xuân, tình tứ phong lưu, Tống Giang không
thể nào mà chìu dỗ, bởi thế trong mấy hôm đầu cũng còn vui vẻ với nhau, rồi
ngày sau thì một thưa nhạt dần đi.
Một hôm
bất thình lình, Tống Giang dắt người Thiếp Thư là Trương Văn Viễn cùng đến uống
rượu ở nhà Tích Bà. Người này nguyên cùng làm một phòng Áp Ty với Tống Giang,
thường gọi là Tiểu Trương Tam, mặt mũi khôi ngô, hình dung dón dả, bình sinh
thích du đãng, rong chơi hết nhà này lại sang nhà khác, lại học được đủ mọi
ngón phong lưu đàn địch sênh ca, không gì là không thạo. Tích Bà vốn là một tay
ca xướng xuất thân, nhất đán trông thấy Trương Tam thì trong lòng hơi hơi có
chiều ưa thích, mà để ý đến luôn. Còn Trương Tam cũng là một phường tửu sắc ăn
chơi, cho nên trông thấy thì lòng riêng riêng hiểu, mà đầu mày cuối mắt, đôi
bên để ý cùng nhau. Về sau mỗi khi Tống Giang đi vắng, thì Trương Tam lại giả
vờ đến gọi Tống Giang; rồi Tích Bà lại mời giữ vào chơi nói chuyện, lâu la sớm
mận tối đào, mà mưa Sở mây Tần, không bao lâu đã được phỉ lòng sở ước.
Dần dà
từ đó tấm lòng yêu thương của Tích Bà đối với Trương Tam càng ngày càng đằm
thắm. Mà không coi Tống Giang vào đâu. Một đôi khi Tống Giang có về đến nhà,
thì Tích Bà lại gây chuyện nọ kia, mà không có chút gì gọi là tình ân ái. Tống
Giang tuy thế mặc lòng, cũng không hề lấy mỹ sắc làm quan tâm, năm chừng mười
họa, mươi bữa nửa tháng mới trở về phòng nghỉ một lần, vì thế cái dây thân ái
của Trương Tam cùng với Tích Bà càng ngày càng thêm khắng khít, làm cho phố
phường ai ai cũng biết.
Sau Tống
Giang cũng nghe tin phảng phất như vậy, nhưng cũng hồ đồ bán tín bán nghi, vả
trong bụng lại tự nghĩ rằng:"Người ấy không phải là một người vợ cái con
cột, không có lệnh cha mẹ cưới xin gì mà phải quan tâm cho lắm. Nếu nó không có
lòng trung thành với mình, thì cũng mặc thây nó cho rảnh, can chi nói đến thêm
phiền!".
Nhân thế
có khi tới mấy tháng trời, Tống Giang cũng không hề qua nhà một lần nào nữa.
Thỉnh thoảng Diêm Bà có cho người đi mời, thì Tống Giang lại từ chối là bận
việc không về nhà được.
Có một
hôm kia, vào buổi chiều, Tống Giang ở trong huyện đi ra hàng nước ở đối cửa để
ngồi uống nước, chợt thấy một đại hán đầu đội nón chiên, mình mặc áo lá đen,
dưới chân quấn là đáp, đi giày gai, lưng dắt thanh đao, vai vác khăn gói lớn,
mồ hôi nhễ nhại, hơi thở hồng hộc, đứng quay mặt vào huyện để nom rồi lại đi.
Tống
Giang thấy vậy, lấy làm nghi hoặc, liền đứng dậy đi theo đại hán để xem. Vừa đi
được vài bước thì đại hán ấy quay lại nhìn Tống Giang mà nét mặt hơi có ý ngờ
ngợ. Tống Giang nhìn kỹ nét mặt người kia, thì thấy dáng cũng hơi quen, nhưng
có điều gặp ở đâu từ bao giờ không nhớ. Anh chàng kia cứ đứng nhìn mãi Tống
Giang, có ý băn khoăn mà không dám hỏi. Tống Giang nghĩ thầm trong bụng: Anh
này thật quái lạ, cứ nhìn ta chằm chặp là lý gì? Chàng nghĩ vậy, nhưng không
dám cất lời hỏi trước.
Bấy giờ
anh chàng đại hán kia chạy vào hỏi một nhà hàng lượt ở gần đấy rằng:
- Ông Áp
Ty kia là ai đấy?
Nhà hàng
đáp:
- Ông ấy
là Tống Áp Ty đấy.
Anh kia
nghe lời nói, rồi cảm ơn cắp đao chạy ra trước mặt Tống Giang chào một tiếng
rất to mà hỏi rằng:
- Áp Ty
có nhận được tiểu đệ chăng?
Tống
Giang đáp:
- Tôi
nom ngài quen mặt lắm thì phải!
Người
kia nói:
- Xin
mời Áp Ty đi mấy bước lại đây ta nói chuyện.
Tống
Giang theo người kia vào một cái ngõ hẻm vắng vẻ, rồi đến một tửu điếm ở đấy,
người kia bảo với Tống Giang rằng:
- Xin
ngài vào đây nói chuyện tốt hơn.
Nói đoạn
hai người cùng vào tửu điếm, lên trên gác chọn chỗ bàn ghế sạch để ngồi. Người
kia mở khăn gói để xuống dưới gầm bàn đựng dao vào một chỗ, rồi đến trước mặt
Tống Giang thụp lạy.
Tống
Giang vội vàng đáp lễ lại rồi bảo rằng:
- Chẳng
hay ngài là ai, tôi không rõ.
- Ân
nhân quên tiểu đệ rồi hay sao?
- Tôi
trông ngài thì quen lắm, nhưng không nhớ ra là ai, xin tha lỗi cho.
- Tiểu
đệ chính là Xích Phát Quỹ Lưu Đường, đã được bái yết ngài một lần, ở nhà Tiều
Bảo Chính, mà ngài đã rộng lòng cứu vớt cho đây...
Tống
Giang nghe nói cả kinh mà rằng:
- Hiền
đệ to gan thế? Lỡ ra bọn thám tử dò biết thì có khốn không?
- Vì
chúng tôi mang ơn rất lớn, nên không dám quản ngại sự chết mà đến đây để bái
yết ngài.
- Thế
nào, các ông Tiều Bảo Chính cận lai ra sao? ... ai bảo hiền đệ đến đây như thế?
- Bẩm,
Tiều Ca Ca tôi rất cảm tạ ơn ngài đã cứu thoát được toàn tính mạng, hiện nay
làm chúa Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, có Ngô Học Cứu làm quân sư, Công Tôn Thắng
giữ binh quyền, còn Lâm Xung phò tá đã giết Vương Luân ở đó, và mấy người
nguyên trước ở sơn trại đó, là Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu Quý, cũng đều thần phục
bảy anh em chúng tôi, tất cả là 11 người Đầu Lĩnh, lâu la bảy tám trăm người,
lương thực không biết đâu mà kể. Nhân thế sai Lưu Đường tôi mang cho một phong
thư, và trăm lạng vàng đến đây để tạ Áp Ty, và tạ ơn Chu Đô Đầu một thể.
Lưu
Đường nói xong, giở gói hành lý lấy ra một bức thư, và trăm lạng vàng đưa choi
Tống Giang. Tống Giang bóc thư xem xong, lấy một lạng vàng và bức thư bỏ vào
túi văn thư, ở phía trong áo, rồi bảo với Lưu Đường rằng:
- Còn số
tiền này hiền đệ bọc lại mang về, tôi không dùng đến.
Nói xong
quay ra gọi tửu bảo dọn rượu, và các thức nhắm lên, rồi sai tửu bảo đứng rót
rượu mời Lưu Đường uống. Được một lát mặt trời đã xế, tên tửu bảo đi xuống dưới
nhà, Lưu Đường lại toan lấy tiền đưa cho Tống Giang.
Tống
Giang gạt đi mà rằng:
- Hiền
đệ nghe tôi nói: Bảy anh em các bác mới đến sơn trại đương cần tiền bạc để
tiêu, và tôi đây trong nhà cũng đủ chi dùng, vậy tôi xin gửi lại ở đấy, rồi khi
nào cùng túng, sẽ xin đến lấy về tiêu. Còn như Chu Đồng thì nhà ông ta cũng
phong lưu, bất tất phải đưa đến nữa, để tôi nói qua cho ông ta biết cũng xong,
như thế không phải là có ý rẻ rúng chê bai đâu? Hôm nay cũng không dám lưu hiền
đệ lại chơi nhà, vì lỡ ra bọn thám tử biết được thì xảy chuyện to ngay. Vậy xin
đêm nay trời quan mây tạnh, hiền đệ nên mau gót trở về, nói với các vị Đầu Lĩnh
rằng: Tôi vì bận việc, không đến mừng được, xin thứ tội cho.
Lưu
Đường nói:
- Đại ân
của ngài chúng tôi không biết lấy gì báo đáp được, vậy gọi là cho tôi đem chút
lễ mọn, đưa đến Áp Ty để tỏ lòng thành kính của anh em. Đây là Đại Đầu Lĩnh
Chính Ca Ca, và quân sư Ngô Học Cứu, đã xuống lệnh cho tôi, không phải như
chuyện ngày thường, nếu tôi đem về, thì tất là bị phạt chứ không chơi, vậy xin
Áp Ty chớ nên từ chối nữa.
- Nếu
phải hiệu lệnh nghiêm minh, vậy tôi viết phong thư cho hiền đệ mang về là xong.
Lưu
Đường lại hết sức nói, Tống Giang nhất định không thu nhận, rồi gọi mượn bút
mực của nhà hàng, và lấy một tờ giấy viết phong thư cẩn thận để giao cho Lưu
Đường.
Lưu
Đường là người tính trực, thấy Tống Giang một mực thoái thác như thế, thì cũng
không làm sao được, liền chịu phép gói vàng và bỏ cả phong thư vào bao cẩn
thận, rồi nói với Tống Giang rằng:
- Vâng,
Áp Ty đã dạy thế thì tiểu đệ xin trở về sơn trại ngay bây giờ.
Tống
Giang nói:
- Hiền
đệ biết lòng cho, tôi không kịp lưu hiền đệ ở lâu đây được.
Lưu
Đường liền lạy tạ Tống Giang bốn lạy rồi sửa soạn ra đi. Tống Giang gọi tửu bảo
lên gác mà dặn rằng:
- Ông
khách có lưu hai lạng bạc đây, để sáng mai rồi ta sẽ đến tính.
Nói xong
cả hai cùng xuống lầu đi ra ngoài tửu điếm. Bây giờ đương giữa tháng tám, trời
im mây tạnh, trăng sáng trên không, hai người đưa nhau ra đến đầu ngõ phố, rồi
Tống Giang cầm tay Lưu Đường mà dặn rằng:
- Hiền
đệ hãy nên cẩn thận, chớ có đến đây nữa, ở đây bọn thám tử rất nhiều, không
phải là chuyện chơi đâu! Thôi xin chào hiền đệ trở về cho bình yên.
Nói đoạn
bái biệt mà chia tay đôi ngả, Lưu Đường nhân được trời thanh bóng sáng, liền
trở gót mau mau trở về sơn trại.
Bấy giờ
Tống Giang lững thững vừa đi vừa nghĩ; Gớm thay cho bọn họ to gan, ngộ lỡ đám
công sai biết, thì nguy xiết bao! Lại nghĩ đến chuyện Tiều Cái dám bỏ nhà đi
làm cái nghề lạc thảo như thế, thì trong bụng càng ra dáng mà nghĩ ngợi một
mình.
Chợt có
tiếng đằng sau gọi:
- Áp Ty
đi đâu đấy? Sao mấy hôm không thấy Áp Ty đâu cả?
Tống
Giang nghe tiếng liền giật mình quay lại xem ai...Cho hay là:
Giang hồ
nghĩa nặng tri âm,
Hỏi chi
tài mệnh thăng trầm về sau.
Non cao
nước vẫn còn sâu,
Thân này
xoay với bể dâu còn dài.
Đất đâu
lấp được miệng đời,
Vàng đâu
mua chuộc được người thủy chung?
Ai lên
nhắn hỏi trời công,
Làm chi
đem thói má hồng trêu ngươi?
Tức gan
đến lúc căm trời,
Gươm kia
hồ dễ tha đời được sao!
Lời Bàn
Của Thánh Thán:
Sách này
nhiều chỗ bút lực hơn người, thường thường ở lúc hai hồi giáp nhau, đều là một
việc, mà thấy khác đi, không một nét bút nào mà phạm đến, như hồi trên vừa tả
Hà Đào, hồi này lại tiếp tả Hoàng An vậy. Thấy rằng một phen trước đã khua sông
động bể, đến phen này lại động bể khua sông, thực là một dạng tài tình, một
dạng thế bút, độc giả hãy nhận xét kỹ càng cho thấy, không một câu một chữ
giống nhau, điều đó có lạ gì đâu? Tác giả đã khéo xếp đặt tự trong lòng, như vẽ
ra hai cây trúc vậy. Thì cây trúc nào chẳng có cành, có lá có dóng dốt như
nhau, khi vẽ ra hai cây trúc đứng song đôi, rất giống nhau mà rất khác nhau xa
vậy.
Sách này
đã một hồi tả Hà Đào chia làm hai phen, tả Hoàng An chỉ một phen. Hà Đào hai
phen tiền với hậu, Hoàng An một phen lại chia tả va øhữu. Hà Đào hai phen Thủy
chiến và Hỏa công. Hoàng An cũng hai phen vừa mô tả lại vừa thực họa, nên nhiều
điểm sai biệt, cũng là một hồ nước ấy, cũng là một bãi lau này, cũng những tay
hão hán ấy, cũng những đám binh quan này sự cách quãng đã phân biệt, mà ý tứ
chẳng như nhau thấy rằng đem ngàn vàng ra để cầu lấy một nét bút phạm vào nhau,
không thấy chút nào giống cả, văn tả đến thế mới thấy càng diễn ra càng thấy ly
kỳ.
Một đoạn
văn Tống Giang với Bà Tích, ngòi bút của tác giả đặt ra, để cho Tống Giang có
chuyện, nên phải nảy ra một sự Tống Giang giết người, vì muốn Tống Giang có sự
giết người, thì phải thêm chuyện Bà Tích, vì có chuyện Bà Tích duyên kiếp, thì
phải sinh ra sự Vương Bà xin áo quan. Cho nên từ sau khi Vương Bà xin áo quan,
cách sau dăm tờ lại có chuyện Vương Ông xin áo quan, chẳng qua đưa lại cho hồi
sau Tống Giang bị phạm tội trốn đi, đó là chính là khế tử, độc giả thấy lúc
trước cho áo quan, đến sau lại cho áo quan, đầu thì Vương Bà, cuối đến Vương
Ông, thấy tác giả như vảy mực ra đùa, thêm ly kỳ câu chuyện.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 20: Diêm Bà say đánh Đường Ngưu Nhị
Tống Giang giận chém Diêm Bà Tích
Bấy giờ
Tống Giang thấy có tiếng người, liền đứng dừng chân lại, thấy Diêm Bà chạy lật
đật đến mà nói rằng:
- Mấy
hôm nay tôi cho người mời không thấy Áp Ty đâu cả, con bé nhà tôi nó ngu dại
không biết gì, lỡ có điều xúc phạm đến Áp Ty, xin ngài hãy nể lòng tôi mà bỏ
qua đi cho, rồi tôi sẽ bắt nó nói lại với ngài. Hôm nay được gặp đây, thể nào
cũng xin đón về nhà một lúc.
Tống
Giang nghe nói đáp rằng:
- Hôm
nay trong huyện bận rộn lắm không thể nào về đó được, xin để khi khác vậy.
- Không
được, con bé cháu nó đợi ở nhà, thế nào cũng mời Áp Ty chạy qua về một lát, sao
Áp Ty lại nỡ lòng như thế?
- Tôi
bận lắm thực, để ngày mai tôi về đó.
Diêm Bà
nhất quyết rằng:
- Làm
thế nào thì hôm nay cũng phải mời Áp Ty cho kỳ được.
Nói đoạn
lại níu lấy áo Tống Giang mà rằng:
- Ai đã
xúi Áp Ty thế? Con bé nhà tôi suốt một đời nó phải trông cậy vào Áp Ty cả, Áp
Ty nên phải tự mình chủ trương lấy, chứ nghe người ta nói nhảm làm chi! Nếu nó
có điều gì không phải, xin Áp Ty cứ chắc ở tôi đây mới được. Thôi xin mời Áp Ty
về qua đây một lúc.
Áp Ty
đáp rằng:
- Bà
không nên gàn trở tôi, tôi còn bận nhiều việc quan trọng không thể dứt ra được!
- Việc
quan thì dẫu Áp Ty có chậm trễ một đôi chút, quan Huyện cũng chả trách nào, duy
tôi hôm nay nếu để cho Áp Ty đi, thì khó lòng được gặp nữa! Xin mời Áp Ty đi
với tôi, về đó sẽ nói chuyện.
Tống
Giang vốn là người nhanh nhẹn dễ dàng, nay bị Diêm Bà rầy rà như thế, thì không
thể nào từ chối được, liền bảo Diêm Bà rằng:
- Nếu
vậy cứ buông áo ra để tôi đi.
Diêm Bà
nói:
- Chỉ sợ
Áp Ty không về đó, thì tôi biết đâu mà theo kịp?
- Có khi
nào thế, tôi đã nói là đi chứ gì?
Nghe
đoạn Diêm Bà buông áo Tống Giang ra, rồi cùng đi về. Khi tới nhà Tống Giang
đứng dừng ở ngoài. Diêm Bà đẩy cửa vào mà nói rằng:
- Áp Ty
đã về tới đây, có lẽ lại không vào nhà hay sao?
Tống
Giang nghe nói bất đắc dĩ bước lững thững đi vào trong nhà, đến một chỗ ghế
ngồi xuống đó. Diêm Bà sợ Tống Giang lại chạy trốn, liền quay bên cạnh để ngồi,
rồi gọi lên rằng:
- Con
ơi! Người tâm ái của con là Tam Lang đã về đây.
Bấy giờ
Bà Tích đương nằm ở giường trên gác, một mình nghĩ ngợi vẩn vơ bên đôi ngọn đèn
chong mà đợi Trương Tam đến. Chợt nghe tiếng mẹ gọi như vậy, thì trong bụng
đoán chắc Trương Tam ở đó, liền vội vàng ngồi dậy vuốt ve đường tóc, rồi nói
lảm nhảm rằng:
- Đồ
chết toi, làm cho người ta đợi khổ! Bà lại cho mấy cái bạt tai cho đáng kiếp!
Nàng vừa
nói vừa đi tất tả xuống thang. Dè đâu đi đến chấn song ngó cổ xuống nom thấy
ngọn đèn pha lê chiếu sáng, Tống Giang đương cùng Diêm Bà ngồi đó, nàng liền
quay ngoắt trở lên, mà nằm vật xuống giường như cũ.
Bà Tích
nằm trên giường nói với xuống rằng:
- Nhà
nầy có xa gì mà người ta không lên đến đây? Người ta cũng chẳng mù chột gì mà
phải đợi tôi đón lên mới được? Cần chi phải khẩn khoản như thế?
Diêm Bà
nghe vậy mắng con rằng:
- Con
ranh, nó không biết Áp Ty đến đây lại còn nói láo nói hỗn ở đây, để Áp Ty lại
thêm phiền lòng.
Nói xong
lại cười bảo Tống Giang rằng:
- Tôi
với Áp Ty ta cùng lên gác vậy.
Khi Tống
Giang nghe thấy những lời Bà Tích nói, thì trong lòng đã khó chịu rồi, không
còn muốn lưu lại một chút nào, sau vì bà lão lôi kéo, nên cũng phải miễn cưỡng
mà cùng lên gác.
Cái nhà
ấy nguyên có mấy gian gác lục lăng, ngăn nửa ngoài kê làm chỗ ngồi chơi, còn
nửa trong làm phòng ngủ, kê một bộ giường bình khung hai đầu đều có chấn song,
trên treo một bức màn là đỏ, cạnh đầu giường có cái mắc để vắt khăn mặt, một
bên để cái chậu thau một cái khăn bao, và một bên kê một cái bàn con sơn vàng,
trên để cây đèn bằng thiếc. Hai bên góc tường kê hai cái ghế, trên vách trước mặt
treo một bức tranh, đối diện giường kê bốn cái ghế ghép hàng chữ nhất đều nhau.
Khi Tống
Giang lên gác, Diêm Bà liền kéo vào trong phòng, rồi Tống Giang ngồi vào một
cái ghế ở góc nhà, mà quay mặt vào phía giường.
Diêm Bà
lại vào giường dựng người con gái dậy mà bảo rằng:
- Áp Ty
đã đến kia, con ơi! Sao tính nết con hư thế, cứ nói nọ nói kia, để Áp Ty giận
không về đến đây nữa! Lúc không thì lại ngồi nhà mà lo nghĩ, bây giờ ta đã khó
khăn mời được Áp Ty về đây, sao con không ngồi dậy nói chuyện, lại còn giở
những thói ấy làm chi?
Bà Tích
cầm tay mẹ đẩy ra mà nói rằng:
- Bà làm
gì mà phải rối lên, tôi có tội gì chưa? Người ta không thèm về đến đây, thì bảo
tôi nói chuyện làm sao?
Tống
Giang nghe vậy cứ ngồi lặng yên.
Diêm Bà
lại kéo cái ghế chéo kê liền cạnh Tống Giang, rồi kéo con gái đến đó mà bảo
rằng:
- Con
hãy đến đây ngồi với Tam Lang một lúc vậy, không nói chuyện thì thôi, không
việc gì phải thế!
Bà Tích
không chịu ngồi bên cạnh, liền đến một cái ghế đối diện Tống Giang để ngồi,
Tống Giang ngồi cúi đầu xuống, mà không nói năng gì cả.
Diêm Bà
trông thấy người con gái bấy giờ, có vẻ khác nét mặt, liền nói lên rằng:
- Không
tửu không tương, sao thành đạo trường, lão có một bình rượu ở kia, để lấy thêm
một ít hoa quả ra đây, rồi sẽ nói chuyện với Áp Ty, con cứ ngồi với Áp Ty một
lúc, có việc gì mà thẹn, ta đến đây ngay bây giờ.
Tống
Giang thấy vậy, thì nghĩ lẩm nhẩm một mình rằng:"Cái con mụ già này thực
là vô lý, đem nhốt ngay mình vào đây, mà không còn thoát ra được nữa. Để con mụ
ấy đi xuống gác, ta sẽ xuống sau mà đi quách cho rảnh".
Diêm Bà
thấy Tống Giang có ý hơi khác, liền quay trở ra, rồi cài trái cửa ngoài đi.
Tống Giang thấy vậy, biết rằng Diêm Bà hiểu mình muốn tháo, nên mới phòng bị như
thế, thì lại lấy làm băn khoăn khó chịu.
Khi bấy
giờ Diêm Bà xuống dưới gác, vào trong bếp thắp đèn lên, thấy có nồi nước đã bắc
sẵn đó, liền dóm củi lên đun, rồi lấy một ít tiền lẻ chạy tháo ra ngoài phố mua
một vài thứ hoa quả cùng là thịt gà, cá tươi đem về bày vào mâm tử tế, rồi lấy
rượu để vào nồi hâm nóng rót vào hồ, bày thêm các thứ rau và ba đôi đũa, ba cái
chén vào mâm, mà bưng lên gác dặt ở ngoài phòng. Đoạn rồi mở cửa đem vào phòng
trong, bày la liệt trên cái bàn sơn. Khi ấy trông đến Tống Giang thì vẫn cúi
đầu xuống mà lặng yên, còn Bà Tích thí lại quay đi nơi khác. Diêm Bà liền nói
rằng:
- Con
đứng dậy ra đây, mời chén rượu đi con.
Bà Tích
đáp rằng:
- Các
ngươi cứ uống đi tôi không phiền thế.
Diêm Bà
lại khuyên rằng:
- Cha mẹ
đã biết tính con thủa bé rồi, nhưng đối với ai, chứ với Tam Lang thì con không
nên như thế mới được.
Bà Tích
lại đáp luôn rằng:
- Tôi
không muốn mời rượu, thì không mời rượu, chẳng lẽ phi kiếm lấy đầu tôi hay sao?
Diêm Bà
cười rằng:
- Đành
thế, ta lại cũng không trách, nhưng Áp Ty là người phong lưu nhân vật, không có
bụng gì bao giờ. Con không mời rượu thì thôi, hãy cứ quay lại uống vài chén
vậy.
Bà Tích
cứ lặng yên không quay mặt trở lại, Diêm Bà rót rượu ra rồi cầm chén đũa mời.
Tống Giang bất đắc dĩ phải uống một chén gượng gạo. Diêm Bà cười mà nói với
Tống Giang rằng:
- Áp Ty
đừng nên trách, những chuyện lôi thôi rắc rối, để mai xin kể rõ Áp Ty nghe,
người ngoài họ thấy Áp Ty ở đây cho nên có vài kẻ nóng lòng sốt ruột, đặt điều
ra giọng nọ kia, xin Áp Ty chớ để vào tai, Áp Ty hãy cứ uống rượu đi cho.
Nói xong
lại rót ba chén rượu nữa, để lên trên bàn rồi bảo với con gái rằng:
- Sao
con tính khí trẻ con thế? Hãy quay lại đây uống qua loa một chén đã sao?
Bà Tích
nói:
- Việc
gì cứ rầy rà đến tôi, tôi no rồi, không thể nào uống rượu được nữa...
Diêm Bà
khuyên rằng:
- Con
quay lại tiếp Tam Lang vài chén có được không?
Bà Tích
nghe nói liền nghĩ thầm trong bụng rằng:
-
"Ta đây còn bận nhớ Trương Tam, ai hơi đâu mà tiếp rượu với hắn được.
Nhưng nếu không đổ cho hắn say, thì tất là họ còn nhiễu mãi, âu là ta miễn
cưỡng cho êm câu chuyện đi là xong". Nghĩ đoạn bất đắc dĩ cầm lấy chén
rượu uống một nửa.
Diêm Bà
thấy vậy cười rằng:
- Con cứ
buồn bã mãi, hãy cứ chén tràn đi vài chén, sẽ ngủ có được không? Áp Ty ngồi xơi
luôn đi cho vui?
Tống
Giang bị Diêm Bà mời chào khan vãn, lại phải uống luôn dăm ba chén nữa. Diêm Bà
cũng uống mấy chén rồi lại chạy xuống dưới nhà để hâm rượu. Bây giờ Diêm Bà
thấy con gái đã quay lại tiếp rượu với Tống Giang, thì trong bụng lấy làm hớn
hở mà nói một mình rằng:
-
"Nếu đêm nay giữ được lão ấy ở đây, thì tất là hắn quên cả những điều giận
dữ, bấy giờ ta lại bám vào hắn một dạo đã, rồi lại liệu về sau". Mụ vừa
nghĩ vừa lấy làm thích, liền đứng ở trước bếp rót ngay ba chén lớn mà uống luôn
mấy hớp.
Khi đó
nghe trong mình đã phảng phất có hơi rượu, liền rót luôn một chén nữa để uống
hết một nữa, còn một nửa lại đổ cho vào bình, mà mang lên gác. Khi lên tới gác,
thấy Tống Giang lại cúi đầu ngồi yên, mà con gái lại quay mắt đi nơi khác. Diêm
Bà liền cười mà bảo rằng:
- Làm
sao mà hai người như bụi đất cả, không ai nói năng gì thế? Áp Ty ơi! Mình là
người đàn ông, cũng phải nói dăm ba câu chuyện cho khuây khỏa dần dần đi mới
được...
Tống
Giang đương phân vân trong bụng, thấy Diêm Bà nói, thì cũng lặng yên, không nói
sao cả, Diêm Bà nghĩ thầm trong bụng rằng:
- Anh
chàng nầy không biết gì cả, cứ cho như mọi ngày mình nói chuyện đùa vậy. Hôm
nay ta có phải là chuyện đùa đâu?
Bụng
nghĩ vậy, liền nói ngang nói dọc, nói ngược nói xuôi, không còn thiếu câu gì.
Ở huyện
Vận Thành có một anh bán hàng những đồ ướp là Đường Ngưu Nhị, vẫn thường gọi là
Đường Nhị Ca, xưa nay hay quanh quẩn ở phố xá, mà thỉnh thoảng được Tống Giang
cấp đỡ giúp cho. Đôi khi có việc quan việc tư gì đi báo Tống Giang, thì lại
kiếm được một vài quan tiền để tiêu. Mỗi khi Tống Giang có sai việc gì, thì cố
sống cố chết để làm, không hề nề quản. Hôm ấy Đường Ngưu Nhị đương bị thua bạc
trần trụi, không biết xoay sở vào đâu, liền chạy đến huyện tìm Tống Giang để
cầu cứu.
Bất đồ
đi tới huyện, thì không thấy Tống Giang đâu, liền vội vàng quay ra phố để đi
tìm. Khi ra phố mọi người quen biết đều hỏi rằng:
- Đường
Nhị Ca đi tìm ai mà chạy vội vàng như thế?
Đường
Ngưu Nhị nói:
- Tôi
đương có việc cần cấp, phải đi tìm cô lão nhưng không thấy đâu cả.
- Cô lão
là ai?
- Ấy là
ông Tống Áp Ty ở huyện nầy chứ ai?
Chúng
liền bảo Đường Ngưu Nhị rằng:
- Chúng
tôi vừa thấy ông ta cùng Diêm Bà mới đi qua đây xong.
Đường
Ngưu Nhị nghe nói, trong bụng nghĩ thầm rằng:
-
"Phải rồi, con thối thây Bà Tích này, nó vẫn tư thông với Trương Tam, dấu
diếm không cho Tống Áp Ty biết, tiếng như vậy, cho nên lâu nay không về tới đó,
thế mà hôm nay sao còn lần mò đến làm chi. Cái nầy chắc là bị con sọm già vờ
vĩnh bám lấy thôi chứ gì? Hôm nay ta đương quẫn bách, bất nhược đến đấy tảo mấy
quan tiền, đi chén vài chén rượu chơi". Nghĩ đoạn đi đến thẳng nhà Diêm Bà
thấy bên trong vẫn còn đèn sáng mà cửa lại không đóng, liền lật đật chạy vào
đến thang giá. Khi đến chân thang đã nghe thấy tiếng Diêm Bà đương cười ha hả
trên gác, chàng ta liền lẻn bước đi lên ghé vào khe gác dòm thấy Tống Giang
cùng Bà Tích đều cúi đầu ngồi im, còn Diêm Bà thì đương ngồi cái ghế ở đầu bàn
mà miệng nói thiên hô bát sát không dứt lúc nào. Đường Ngưu Nhị biết vậy, lẻn
tót vào cúi chào ba người, rồi đứng vào một bên. Tống Giang thấy hắn đến lấy
làm dễ chịu, liền liếc mắt bảo cho Đường Ngưu Nhị biết ý, để thoái thoát mời
đi. Đường Ngưu Nhị vốn tay ranh vặt, thấy vậy thì hiểu ý ngay, liền nói với
Tống Giang rằng:
- Tôi đi
tìm ngài mãi không thấy, ngờ đâu ngài ngồi uống rượu ở đây, ngài có thấy sốt
ruột gì không?
Tống
Giang hỏi:
- Chẳng
hay trong huyện có việc gì cần đấy?
Đường
Ngưu Nhị nói:
- Áp Ty
quên rồi hay sao? Cái việc lúc nãy, quan Huyện hiện đương cho bốn năm người
lính đi tìm ngài mãi, nhưng mà không thấy ở đâu cả. Quan Huyện đương gắt ầm lên
đấy, Áp Ty phải đứng dậy đi ngay mới được.
Tống
Giang làm bộ hoảng hốt mà rằng:
- Nếu
cần vậy, thì ta phải đi ngay mới được.
Nói đoạn
đứng dậy toan đi xuống gác, Diêm Bà nắm giữ lại mà rằng:
- Áp Ty
không nên thế... Gớm thực! Đường Ngưu Nhị, ngươi lại đến đây lòe lão à? Đừng
múa rìu qua mắt thợ thế nữa? Bây giờ quan Huyện còn ở trong nhà uống rượu vui
đùa với vợ con, chứ công việc nào bây giờ. Ngươi nói với ai chứ, với ta đây thì
không khi nào ta mắc lừa đâu?
Đường
Ngưu Nhị nói:
- Có
việc cần, quan Huyện đòi thực, chứ tôi đây nói dối làm gì?
- Thôi
đừng láo, hai mắt lão nương đây gọi là sáng suốt hơn pha lê đấy, vừa rồi Áp Ty
đưa mắt bảo ngươi, ta lại không biết hay sao? Người ta thường nói:"Giết
người còn tha được, chứ gian ý thì dung sao được? ".
Nói xong
đứng dậy đẩy Ngưu Nhị huỳnh huỵch xuống thang gác.
Đường
Ngưu Nhị cáu lên mà rằng:
- Làm gì
mà phải đẩy người ta thế?
Diêm Bà
lại quát lên rằng:
- Mầy
phá đường lối kiếm ăn của ta, thì có khác gì giết bố mẹ vợ con người ta không?
Lại còn to mồm gì, hở thằng nhãi con kia! Bà đánh một chập bây giờ.
Đường
Ngưu Nhị sấn vào mà rằng:
- Đây bà
đánh đi.
Diêm Bà
lại đương lúc chếch choáng hơi men, liền giơ tay tát cho Đường Ngưu Nhị một
cái, rồi đẩy mạnh ra ngòai cửa, đóng chặt cửa lại mà miệng thì mắng nhiếc lảm
nhảm không thôi.
Đường
Ngưu Nhị phải một cái tát, tức giận vô cùng đứng ngoài cửa mà kêu lên rằng:
- Con
khỉ già mầy liệu hồn, hôm nay không có Áp Ty ở đây, thì gọi là tan nát cửa nhà
với ta. Không nay thì mai, nếu ta không kết quả được mầy, thì ta không là thằng
họ Đường nữa!
Chàng ta
hăm hở vỗ bụng vỗ tay nói chán một lúc rồi đi.
Bấy giờ
Diêm Bà lên gác bảo với Tống Giang rằng:
- Áp Ty
ôi! Rõ là vô sự, thì dung túng những đứa ấy làm chi? Nó là một thằng chè rượu
loang toàng, đi đến đâu là nói quàng nói xiên, ai còn không biết. Những đồ qủy
sống ấy, thì cho nó đến cửa đến nhà làm gì cho thêm bận!
Tống
Giang vốn là người chân thực xưa nay, cho nên thấy mụ nói trúng vào bệnh của
mình, thì ngồi ngây người ra, mà không nói được câu nào nữa.
Diêm Bà
lại nói rằng:
- Xin Áp
Ty đừng trách tôi, tôi có trọng Áp Ty thì mới thế. Đã lâu con gái tôi với Áp Ty
không gặp nhau, hôm nay uống rượu xong chắc lá phải đi nghỉ sớm mới được. Để
tôi dọn dẹp đi thôi.
Nói xong
mời Tống Giang uống thêm mấy chén rượu nữa, rồi vội vàng thu dọn mà đi xuống
bếp. Tống Giang ngồi trên gác nghĩ chuyện Bà Tích đối với Trương Tam, dẫu có
tiếng đồn như vậy, nhưng mắt mình chưa nom thấy, cũng không chắc rằng có thực
hay không? Vả chăng đêm cũng hơi khuya, đi đâu cũng không tiện, chàng liền định
kế nằm tạm ở đó, để xem người đàn bà kia xử trí ra sao? Chợt đâu lại thấy Diêm
Bà ở dưới nhà chạy lên mà nói rằng:
- Đêm đã
khuya rồi, hai người đi nghỉ đi kẻo muộn.
Bà Tích
thấy mẹ nói, liền ứng lên rằng:
- Không
việc gì đến bà, bà cứ đi ngủ.
Diêm Bà
lại cười khanh khách, vừa bước chân xuống vừa nói rằng:
- Áp Ty
đi xuống bếp, dọn xong rồi rửa chân rửa tay, mà tắt đèn đi ngủ.
Bấy giờ
Tống Giang ngồi ở trên gác, liếc mắt trông Bà Tích rồi lại thở dài, mà không
nói gì cả. Được một lát, Bà Tích để nguyên quần áo trèo lên giường tựa vào gối
thêu, rồi quay mặt vào trong vách mà ngủ.
Tống
Giang thấy vậy nghĩ thầm rằng:"Con bé này lạ thực, nó bỏ mình đây rồi vào
ngủ trước là nghĩa lý gì? Hôm nay mình bị con mụ già dắt về đây, bắt uống rượu
uống chè, rồi lại nói ngon nói ngọt, làm cho mình thêm khó nghĩ trong lòng.
Thôi bây giờ đêm đã khuya rồi, cũng đành phải đi ngủ vậy chứ, còn biết sao giờ?
".
Chàng
nghĩ vậy liền bỏ khăn lên bàn, cởi xiêm áo ngoài vắt lên trên giá, treo thắt
lưng, dao túi cùng văn thư lên chỗ chắn song ở trên giường, rồi cởi bỏ giầy ra
nằm ở phía sau Bà Tích.
Nằm một
lát vào khoảng nửa canh hai, Bà Tích vẫn nằm quay mặt mà còn cười nhạt một
mình, Tống Giang thấy vậy, trong lòng càng buồn bực khó chịu không sao ngủ
được.
Đêm vui
nào được bao lâu
Đêm buồn
mong trước mong sau càng dài.
Lạ cho
là giống trên đời,
Xưa nay
gươm phấn giết người bao phen!
Tống
Giang nằm nghĩ vơ vẩn dần dần sang trống canh ba, hồi lâu lại sang trống canh
tư, lại cho sang đến canh năm, mà cũng không sao nhắm mắt cho yên. Chàng bèn
trở dậy đến thau nước rửa mặt, đội khăn mặc áo chỉnh tề, rồi lẩm bẩm mắng rằng:
- Giống
hèn hạ, nó vô lễ thực!
Bấy giờ
Bà Tích cũng còn thức, nghe thấy tiếng Tống Giang mắng, thì quay mặt ra mà nói
rằng:
- Người
thế mà không biết dơ...
Tống
Giang nghe nói, thì trong lòng càng lấy làm khó chịu, đành phải nín lặng quay
ra đi xuống thang gác.
Diêm Bà
nghe thấy tiếng người ở trên gác đi xuống, thì vội vàng trở dậy mà nói rằng:
- Áp Ty
hãy ngủ một lúc nữa, trời sáng sẽ dậy có được không, có việc gì mà phải dậy từ
canh năm như vậy?
Tống
Giang nghe hỏi, cứ lặng yên mở cửa ra đi.
Diêm Bà
lại nói luôn rằng:
- Áp Ty
đi rồi, khép cửa lại cho tôi nhé!
Tống
Giang lại lùi lũi đi ra và khép vào tử tế, rồi trong bụng vừa tức bực buồn
cười, lững thững bước ra đi.
Khi gần
tới cửa huyện thấy có một ngọn đèn con lấp ló ở đó, Tống Giang liền dấn bước
đến nơi, thì thấy lão Vương Công là anh hàng thang đã ra chợ sớm ở trước cửa
huyện để bán. Lão ta trông thấy Tống Giang đi đến liền hỏi ngay rằng:
- Áp Ty
đi đâu mà sớm thế?
- Đêm
qua say rượu nghe lầm tiếng trống canh dậy sớm quá.
- Nếu
vậy Áp Ty uống nhiều rượu quá, xin ngài xơi một bát thang nhị trần cho giải
rượu.
- Tốt
lắm, đem đây tôi ăn một bát.
Tống
Giang nói xong chạy đến ghế để ngồi, Vương Công múc một bát thang nhị trần,
đương nóng nghi ngút đưa lên cho Tống Giang.
Tống
Giang ăn xong chợt nhớ đến:"Mọi khi thỉnh thoảng vẫn ăn thang của lão này,
lão ta không chịu lấy tiền. Bởi thế ta có hứa cho lão cỗ áo quan, mà vẫn chưa
cho được. Nay nhân tiện có món tiền của Tiều Cái đưa cho đây, âu là đãi hắn ta
một số tiền mua quan tài, thì chắc là lão ta thú lắm!".
Nghĩ
đoạn liền bảo Vương Công rằng:
- Mọi
hôm tôi vẫn hứa cho lão cỗ quan tài mà chưa cho được, nay nhân có tiền đây, tôi
đưa cho lão, để lão ra nhà Trần Tam Lang mua lấy một cỗ áo quan; đem về để sẵn
ở nhà, phòng khi trăm tuổi về sau, đỡ phải lo phiền việc ấy nữa.
Vương
Công nói:
- Ân chủ
ngài vẫn có lòng giúp đỡ cho lão tôi nhiều, nay lại cho tiền để lo hậu sự như
thế, kiếp này lão tôi không báo đáp được, thì kiếp sau xin làm thân trâu ngựa
để đền ơn.
Tống
Giang cười rằng:
- Có làm
chi cái đó, mà phải nói ơn.
Nói đoạn
sờ tay vào trong áo để lấy túi giấy và tiền, thì bỗng kinh ngạc mà nghĩ thầm
rằng:"Khổ chưa! Túi văn thư lại bỏ quên ở giường con khỉ ấy rồi, mình vội
nóng đứng dậy, đi không nhớ đến.. Mấy lạng vàng thì chẳng làm chi, nhưng còn
bức thư của Tiều Cái, đã định đốt ngay trước mặt Lưu Đường ở trong hàng rượu
nhưng nghĩ thế không tiện nên hãy tạm để vào đấy, rồi sẽ đốt sau. Ai ngờ lại bị
con mụ già nó bắt mình lôi thôi đến đó, con ranh nó lại võ vẽ biết năm ba chữ,
ngộ lỡ nó xem ra thì có nguy không? ". Chàng nghĩ vậy liền đứng dậy bảo
Vương Công rằng:
- Ông
lão ơi! Tôi quên mất rồi, vẫn tưởng tiền để trong túi đây, sai ngờ bỏ quên mất
ở nhà rồi. Lão hãy yên tâm, để tôi về lấy, rồi sẽ đem ra đây cho lão ngay lập
tức. Vương Công cười đáp rằng:
- Thôi, Áp
Ty cần gì phải lấy, để hôm nào Áp Ty cho tôi cũng được chứ sao?
Tống
Giang nói rằng:
- Tôi
còn có việc cần ở đây cũng không nên, phải về lấy ngay mới được.
Nói xong
lật dật chạy về nhà Bà Tích, Bà Tích từ lúc Tống Giang đi ra cửa rồi, liền ngồi
dậy nói lảm nhảm một mình rằng:"Lão quái! Làm cho bà suốt đêm không ngủ
được, cái mặt ấy lại toan bắt bà phải làm lành, nhưng phải biết rằng bây giờ bà
có Trương Tam rồi, bà còn hơi đâu mà tiếp đến người ấy nữa. Từ nay trở đi không
về đến đây, lại càng hay lắm!". Nàng vừa nói vừa giở chăn ra, rồi cởi áo
trên, rút quần ngoài, mà toan đi ngủ lại. Chợt đâu trông thấy bên chắn song ở
cuối giường thấy có một cái thắt lưng da lụa đỏ vắt ở đấy, nà liền cười mà nói
rằng:
-
"Thằng cu Hắc Tam Lang này đáng kiếp, còn bỏ quên cái thắt lung đây, bà
hãy cất lấy, để cho Trương Tam thắt đã".
Nói đoạn
giơ tay vớ lấy thắt lưng, và cả con dao túi treo ở trên đo, để xem. Khi cầm
thấy hơi nặng liền giũ ra xem thì thấy trong ấy có một cái túi giấy, lại có một
thỏi vàng ở đó. Nàng cầm lấy soi lên đèn, quả nhiên là vàng thực, liền cười ha
hả mà rằng:
- Đây là
trời cho ta và Trương Tam đây, may quá, mấy hôm nay Trương Tam đương không có
gì, xem hôm nay có thú không?
Nói rồi
liền bỏ vàng lên bàn, mà mở bức thư ra xem. Trên đầu thư thấy viết hai chữ Tiều
Cái, rồi xuống dưới có những việc quan hệ rắc rối cũng nhiều. Nàng xem xong lắc
đầu mà nói rằng:
- Xưa
nay ta vẫn cho là thùng rơi xuống giếng, ai ngờ ngày nay giếng cũng rơi vào
thùng, ta đương muốn cùng với Trương Tam kết làm phu phụ, chỉ tại vì có mầy
ngăn trở hóa không xong, phen này có lẽ khó lòng mà tránh khỏi tay ta được!
Nguyên mày thông đồng với tụi cướp Lương Sơn, cho nên nó mới đưa trăm lạng vàng
đến để biếu đây... Được rồi, để bà tiêu khiển cho mày một dạo. Hãy xem phong
thư và tiền nong để cả túi này, mày có tài thánh cũng không đến đây mà lấy lại
được nữa!
Gớm cho
cái nọc nữ nhi
Thế gian
còn có giống gì độc hơn?
Trách
nào những kẻ non gan
Mấy phen
nước mất nhà tan vì tình!
Đương
khi Bà Tích đắc sách một mình, thì bỗng nghe dưới nhà có tiếng kẹt cửa, rồi có
tiếng người trong giường hỏi lên rằng:
- Ai
đấy?
Người
ngoài cửa đáp:
- Tôi
đây.
Người
trên giường lại nói:
- Tôi đã
bảo còn sớm, Áp Ty không nghe bây giờ quả nhiên lại phải trở về đó. Thôi hãy
lên nghỉ với... một lúc rồi sáng ngày sẽ đi.
Người ấy
nói dứt lời, thì đã có tiếng giầy bước lên trên gác. Bà Tích nghe đích xác là
tiếng Tống Giang đã đến, vội vàng cuốn dây lưng túi giấy và dao vào một cuộn,
rồi đút xuống dưới chân mà nằm quay vào vách vờ làm mặt ngủ.
Tống
Giang lên đến nơi, xông vào chỗ chắn song, không thấy thắt lưng đâu, trong bụng
đã bồn chồn kinh sợ, đành phải nén lòng giận mà lấy tay lay người đàn bà dậy,
rồi nói rằng:
- Nàng
ơi! Nàng trả lại túi giấy cho tôi.
Bà Tích
nghe tiếng, giả vờ là ngủ không trả lời.
Tống
Giang gượng cười mà nói rằng:
- Nàng
đừng giận tôi, mai tôi sẽ nói lại với nàng.
Bấy giờ
Bà Tích sẽ nói lẩm bẩm rằng:
- Bà
đương ngủ, mà ai lại đến quấy nhiễu thế?
- Nàng
đã biết là tôi rồi, lại còn giả cách làm chi thế?
Bà Tích
trở mình ra phía ngoài mà nói rằng:
- Hắc
Tam Lang, chàng nói gì đó?
Tống
Giang nói:
- Nàng
trả lại cho tôi cái túi giấy?
- Chàng
đưa vào tay tôi từ lúc nào mà lại hỏi đến tôi?
- Tôi bỏ
quên ở chắn song gần giường đây, chắc chỉ có nàng bắt được, chứ còn ai đến đây
mà lấy?
- Nói
lạ! Chàng nói chuyện ma qủy gì chắc?
- Đêm
qua tôi có điều gì không phải, để sáng mai tôi xin nói lại...nàng trả cho tôi,
đừng nên đùa thế?
- Tôi
đùa với chàng làm gì? Tôi không bắt được, thì trả làm sao?
Lúc nãy
nàng vẫn mặc nguyên quần áo, bây giờ đã cởi cả ra, lại đắp chăn ngủ, thì tất là
nàng bắt được của tôi.
Bà Tích
trợn ngay mắt mà rằng:
- Bà lấy
thực đấy, nhưng mà bà không trả, tha hồ cho đi đến phủ huyện nào mà kêu là ăn
cướp thì kêu.
Đàn bà
đến thế thì thôi,
Gian dâm
đanh ác giết người không dao.
Ở đời
nhắn bạn mày râu,
Trông
gương tày liếp liệu sau mà chừa!
Tuồng
chi chăn chiếu thập thò,
Anh hùng
tan nát cơ đồ nữa sao?
Bấy giờ
Tống Giang thấy Bà Tích nói vậy, cũng còn đấu dịu mà rằng:
- Khi
nào tôi lại dám bảo nàng ăn cướp.
Bà Tích
làm già lên rằng:
- Phải
biết bà đây không phải cướp đâu?
Tống
Giang nghe vậy càng lấy làm nóng ruột, đành phải đấu dịu cho xong, liền nói
rằng:
- Xưa
nay tôi có điều gì không phải với mẹ con nàng, thì xin nàng trả lại cho tôi,
tôi còn phải đi có việc bấy giờ.
- Mọi
khi vẫn hằm hằm cho là bà đi lại với Trương Tam, dẫu có điều gì cũng chưa đến
phạm tử tội, như thằng thông đồng với bọn cướp kia...
- Chết
nỗi, nàng chớ nên nói to, lỡ hàng xóm nghe thấy thì nguy lắm.
- Đã sợ
người ngoài nghe tiếng, sao còn làm thế được? Cái phong thư thế nào bà cũng giữ
chặt lấy, bao giờ nghe bà ba điều, thì mới buông tha cho.
Tống
Giang nói:
- Cứ gì
ba điều, dẫu đến mười điều tôi cũng nghe theo cả.
Bà Tích
nói:
- Chỉ sợ
không theo được thôi.
- Làm
được thì tôi theo ngay, hãy cứ nói tôi nghe xem những điều gì?
- Điều
thứ nhất: Từ hôm nay phải đem tờ văn tự mua tôi dạo trước, trả lại cho tôi; mà
viết thư cho tôi cải giá với Trương Tam, không được lôi thôi gì đến nữa.
- Được
rồi.
- Điều
thứ hai: Các đồ tôi gài giắt trên đầu, đồ tôi mặc ở mình, cùng các thứ khí dụng
trong nhà, phải viết một bức thư trao cho tôi, từ nay trở đi không được đến lấy
vào đấy.
- Được
lắm.
- Còn
điều thứ ba: Thì khí khó, chỉ sợ không theo được thôi.
- Có khi
nào, hai điều kia còn nghe được, nữa là còn một điều nữa?
- Vậy
thì cái món tiền một trăm lạng vàng của Tiều Cái ở Lương Sơn Bạc đưa đến đây,
phải giao cho tôi, rồi tôi sẽ trả lại cho cái túi giấy, và tha cho cái tội tày
trời ấy, Tống Giang ngẩn người ra mà rằng:
- Các
điều trên, tôi xin theo cả, duy còn một trăm lạng vàng ấy, thì tôi không nhận
của họ, nếu có thì tôi xin đưa nàng ngay lập tức bây giờ, chứ không khi nào dám
tiếc.
Bà Tích
lắc đầu mà rằng:
- Phải
biết rằng:"Quan thấy tiền như ruồi thấy máu". Không lẽ nào nó đưa
tiền cho người ấy, mà không nhận bao giờ? Anh đừng nói những câu buồn cười như
thế? Mèo nào là mèo không biết ăn mỡ, của vua Diêm Vương bao giờ có tha quỷ về
không? Muốn tốt thì đưa trăm lạng vàng ấy đây mới được; nếu có sợ tang chứng
trộm cướp, thì cứ đưa ngay đây.
Tống
Giang cố cầm lòng mà đáp rằng:
- Nàng
phải biết tôi đây là một người rất thực, không khi nào lại nói dối ai, nếu nàng
không tin, thì tôi hạn cho xin ba ngày, để tôi về bán đồ đạc nhà cửa lấy trăm
lạng vàng đưa đến cho nàng, bây giờ nàng hãy cho tôi xin cái túi ấy đã.
Bà Tích
cười nhạt đáp rằng:
- Anh
Hắc Tam Lang buồn cười thực, anh lừa tôi như lừa đứa trẻ con vậy. Bây giờ tôi
đưa giấy cho anh, rồi ba hôm nữa mới đến anh để hỏi tiền, thì có khác gì bắt
chạch đằng đuôi không? Tôi cứ là tiền trao cháo múc, bác cứ đem đến đủ tiền
đây, là tôi đưa ngay.
- Hiện
bây giờ tôi không có đồng nào.
- Vậy
thì sáng mai vào chỗ công đường, cũng nói là không có tiền có được không?
Tống
Giang nghe đến hai chữ công đường, thì máu nóng đầy lên, không thể nào nhịn
được, liền trợn mắt lên hỏi người đàn bà rằng:
- Mầy có
trả lại ta hay không?
Bà Tích
đáp rằng:
- Hung
tợn thì làm gì ai, bà không trả có được không?
- Thực
không trả phải không?
- Không
trả...ta truyền cho một trăm tiếng không trả nữa đấy. Nếu mà trả thì cứ đến
huyện Vận Thành mà lấy.
Chước
đâu nham hiểm lạ đời
Thoạt
nghe ai cũng rụng rời chân tay!
Mấy
người nam tử xưa nay,
Trông
gương trước đấy phỏng tày liếp chưa?
Tống
Giang nghe nói, liền giằng chăn ra để tìm. Bà Tích ôm chặt lấy vào trong bụng
để giữ. Tống Giang hết sức kéo một cái thực mạnh, thì thấy cuộn thắt lưng lòi
ra ở đấy, chàng liền vội thò tay cướp lấy. Bà Tích cứ giữ khăng khăng. Tống
Giang giằng mãi không thể nào lấy ngay ra được. Sau khi hai người giằng co mãi,
thì con dao túi ở trong bọc, bỗng rơi ra ngoài. Tống Giang liền vơ lấy dao cầm
lăm lăm ở tay, Bà Tích thấy vậy kêu lên rằng:
- Hắc
Tam Lang giết người hay sao?
Tống
Giang nghe tiếng kêu khi ấy, thì trong lòng bừng bừng tức giận nghĩ ngay ra
cách trừ đi mới xong. Khi ấy Bà Tích định kêu lên tiếng nữa, thì tay tả Tống
Giang đã nắm chặt lấy Bà Tích, rồi tay hữu giơ dao cho một nhát vào giữa thái
dương phọt máu tươi ra như suối chảy.
Mới hay:
Anh hùng
khi đã ra tay,
Trời kia
cũng chuyển đất này cũng tan.
Huống
chi một gái dâm ngoan,
Ngựa dày
voi xé dễ còn ai thương!
Bây giờ
giống lưỡi không xương,
Phỏng
còn ngoắt ngoéo trăm đường nữa chăng?
Tống
Giang đâm Bà Tích một nhát, sợ rằng chưa chết hẳn, liền cầm dao tặng luôn mấy
nhát nữa lăn cổ xuống dưới gối, rồi vội vàng vớ lấy túi giấy, mở phong thư châm
đèn đốt, rồi thắt lưng lên tử tế mà đi xuống gác. Diêm Bà nằm ở dưới nhà, lúc
nghe tiếng con gái kêu:"Hắc Tam Lang giết người". Thì trong bụng
không hiểu ra làm sao, bèn vội vàng nhảy bổ, mặc xống áo rồi đi xộc lên gác.
Vừa hay
mới hết thang gác, thì chạm ngay phải Tống Giang đi xuống, Diêm Bà liền hỏi
rằng:
- Hai
người làm gì ở trên ấy mà ầm ầm lên thế?
Tống
Giang nói:
- Con
gái bà nó vô lễ quá, bị tôi giết đi rồi.
Diêm Bà
cười rằng:
- Nói
làm gì thế, có lẽ Áp Ty thấy trái mắt, hay là uống rượu say sưa mà thích giết
người như thế hẳn? Thôi đừng nói đùa lão nữa!
- Bà
không tin cứ lên buồng mà xem, tôi giết thực rồi đó.
Diêm Bà
nói:
- Tôi
không tin chút nào.
Nói xong
đẩy cửa buồng vào xem, thì máu chảy lênh láng khắp buồng, mà xác con gái đã nằm
chết vật ra đó.
Diêm Bà
kêu lên rằng:
- Khổ
quá! Bây giờ làm thế nào?
Tống
Giang nói:
- Tôi
đây là tay hảo hán, không bao giờ lại chịu chạy trốn, vậy bà muốn sao tùy ý.
Diêm Bà
điềm nhiên bảo Tống Giang rằng:
- Con bé
này nó không ra gì, Áp Ty giết cũng không lầm, duy có một điều là thân tôi già
yếu, không ai nuôi nấng cho đây?
Tống
Giang đáp:
- Cái đó
không cần gì, cứ như lời bà nói, thì bà không phải lo. Nhà tôi cũng không đến
nỗi túng, tôi xin nuôi được bà no ấm suốt đời thì thôi.
- Nếu
thế hay lắm! Cám ơn Áp Ty...Còn sự con bé chết đây, thì tống táng làm sao?
- Việc
ấy dễ lắm, chỉ ra nhà Trần Tam Lang mua một cỗ quan về đây là xong rồi, còn các
đồ khâm liệm và chi phí, thì tôi sẽ đưa mấy lạng bạc cho bà lo liệu.
- Hay là
bây giờ nhân lúc chưa sáng, ta nên đi mua áo quan đem về chôn ngay, thì hàng
xóm không ai biết được.
- Được
lắm, bà đem giấy bút đây, tôi viết mấy chữ cho bà đi lấy áo quan.
- Không
nên viết giấy, bây giờ Áp Ty đi với tôi thì họ mới giao ngay cho.
Tống
Giang khen phải, rồi hai người cùng đi xuống gác. Diêm Bà mang khóa ra khóa
trái cửa lại, rồi hai người cùng đi về lối trước cửa huyện, để ra nhà Trần Tam
Lang.
Khi gần
đến phía tả cửa huyện thì trời mới sáng, mà cửa huyện vừa mới mở xong, Diêm Bà
liền túm lấy Tống Giang, rồi giở mặt mà kêu ầm ĩ lên rằng:
- Có kẻ
giết người ở đây...
Tống
Giang ngạc nhiên kinh hoảng, vội giơ tay bịt mồm Diêm Bà lại, song mụ ta cứ lăn
lóc kêu hoài, không ai giữ nổi. Bấy giờ có mấy người trong huyện chạy ra, trông
thấy Tống Giang, thì túm đến, khuyên mụ kia rằng:
- Mụ im
mồm đi, Áp Ty không phải là người thế đâu? Có việc gì cứ nói tử tế.
Diêm Bà
lại kêu rằng:
- Chính
nó là thằng hung thủ, nhờ các ông bắt nó mà giải vào huyện cho tôi.
Tống
Giang vốn xưa nay là người rất tốt trên dưới ai cũng kính yêu, bởi thế nên bọn
lính tráng không hề anh nào tin lời mụ Diêm Bà nói, mà cũng không anh nào động
đến Tống Giang.
Đương
khi mụ kêu gào ầm ĩ , thì Đường Ngưu Nhị rửa một mâm gừng muối ở đâu đi về đó.
Đường Ngưu Nhị thấy Diêm Bà đương níu lấy áo Tống Giang, thì chợt nhớ tới câu
chuyện tối hôm qua, thì trong lòng nổi giận đùng đùng, liền vội vàng đem mâm
gừng để vào cái ghế của anh hàng bán thuốc, rồi hăm hở chạy ra quát lên rằng:
- Con
khỉ già kia, làm gì mà níu áo Áp Ty như thế?
Mụ kia
vừa kêu vừa nói rằng:
- Đường
Ngưu Nhị, mày đừng đến đây mà đánh tháo cho người, mầy phải đền mạng.
Đường
Ngưu Nhị nghe nói cả giận, chạy thốc vào cầm lấy tay mụ kia dằng hẳn ra, rồi
tát lấy tát để làm cho mụ kia không biết lối nào mà mở mắt, đành phải buông
Tống Giang ra. Tống Giang được thoát tay Diêm Bà, liền thừa lúc náo nhiệt cất
lẻn chạy ngay để tháo thân.
Diêm Bà
luống cuống, không biết làm thế nào, lại túm ngay lấy Đường Ngưu Nhị mà kêu lên
rằng:
- Tống
Áp Ty giết con gái tao, bây giờ mầy lại đây, mầy đánh tháo ra rồi, trời ơi!
Đường
Ngưu Nhị kinh ngạc nói rằng:
- Nào
rằng: biết đâu đến chuyện ấy.
Diêm Bà
lại kêu:
- Nhờ
các ông bắt hộ tôi thằng giặc con này, không có thì rầy rà đến cả bây giờ?
Khi đó
bọn lính thấy Tống Giang không còn ở đó, liền bảo nhau chạy đến, anh thì bắt
lấy Diêm Bà, anh thì nắm lấy Đường Ngưu Nhị mà kéo cả vào huyện.
Cho hay
là:
Lòng kia
hồ dễ như ai,
Chung
thân vơ vẫn quanh nơi chiếu giường.
Đã lòng
nặng với bốn phương,
Dẫu cho
nát đá tan vàng cũng thây!
Vẻ chi
một mảnh bèo mây,
Toan đem
mặt phấn mà ngây dạ hùng.
Thế gian
bao kẻ nông lòng,
Từ nay
những ngón ăn không liệu chừa.
Chớ nên
quen thói mập mờ,
Lỡ khi
sấm sét nữa mà chết oan!
Lời Bàn
Của Thánh Thán:
Hồi này
mượn đề miêu tả ra lòng đen tối của đàn bà, không còn thứ xấu nào chẳng rõ ra,
khiến cho đãng tử tuổi về già xem đến phải lè lưỡi; mà đãng tử tuổi còn đương
ham muốn, xem đến phải chùn lòng, rõ thực là một thiên văn tự khéo châm chích
những chàng đãng tử, lấy đó làm gương. Tả gái đĩ già mồm ra tuồng gái đĩ, tả
sọm già đúng mốt sọm già, rất khéo đến thế?
Thế nào
mà tả gái đĩ ra tuồng gái đĩ? Xem y đã bày trò, vốn bắt chẹt ông chồng cho
được, tới khi nũng nịu bắt chẹt không xong, quay ra lạnh lùng cười nhạt, rõ ra
mở cửa đón khách, đuổi hiền mời gian, bất đắc dĩ với nhau, rồi chồng ra khỏi
thỉ chửi rủa, mới thay quần áo đi nằm lại còn xem xét trước sau, vớ được đồ vật
bỏ sót, như nắm được chuôi, cố giữ cho được để mà bắt chẹt, đến khi người chồng
phải quay lại nài xin, mới trở mặt phụ tình, làm tình làm tội đủ điều, đưa
những điều kiện không còn chút lương tâm, chứ đừng nói gì đến ân nghĩa cũ, bắt
chồng phải cho lấy kẻ khác, rõ cái dâm đã muốn giết nhau, bắt phải đưa vàng
bạc, cái ác đã muốn giết nhau, lại còn đe dọa nữa, cái liều đã muốn giết người,
cho nên đức Đại Hùng Thế Tôn gọi là Hoa Tiễn, như ta nói Hoa Hồng có gai, đúng
không ngoa vậy.
Thế nào
mà tả sọm già đúng mốt sọm già? Xem ý lúc đầu nói cho con gái phải nghĩ lại,
cho tới khi con gái làm bộ giận hờn, lại giở giọng than tiếc cho con gái, một
buổi tối nói ra xem từng câu ngụ ý ai oán Tống Giang, tiếc cho con gái không
phải là không hết lòng vàng đá, bởi vì ai đã hững hờ? Cho tới sáng ra, thấy con
gái bị giết, lại không hốt hoảng khóc lên, còn dùng lời ngọt, buông tha tội
phạm, đợi đến khi ra tới cửa Huyện, mới níu áo kêu lên... gớm thực? Chẳng phải
tay sọm già, thì sao giở đến những ngón ấy?
Phụ Lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét