THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 31: Võ Hành Giả say rượu bị bắt; Tống
Công Minh gặp nạn được tha
Nguyên
khi Võ Hành Giả đấu với tiên sinh kia được mười lăm hợp, bèn lừa miếng phá đỉnh
nhường cho tiên sinh sấn vào, rồi Hành Giả quay ngoắt lại đằng sau mà chém cho
một nhát chết lăn xuống đó. Đoạn rồi Võ Tòng kêu lên rằng:
- Người
đàn bà nào ở trong nhà ra đây cho ta hỏi. Ta không thèm giết làm chi.
Bấy giờ
người đàn bà ở trong am nghe nói, liền chạy ra mà lạy rạp xuống đất.
Võ Tòng
trỏ người đàn bà mà bảo rằng:
- Không
cần phải thế ngươi hãy nói cho ta biết rằng: Đây là chỗ nào, mà tiên sinh ấy là
người nào?
Người
đàn bà khóc mà đáp rằng:
- Chúng
tôi là con gái Thái Công ở dưới núi đây, cái am này là am mộ của tổ tiên tôi
khi trước, còn tiên sinh kia thì không biết là người ở đâu. Duy trước đây một
hôm tiên sinh ấy đến nhà tôi ngủ trọ, rồi nói với cha tôi là giỏi nghề bói toán
địa lý nhân thế cha tôi lưu lại trong trang để nhờ xem giùm am mộ ở đây. Sau
anh ta dỗ dành cha tôi ở luôn trong trang mấy ngày, rồi đến khi trông thấy tôi
thì ở rịt đó mà không đi nữa. Khi ở được ba tháng thì giết luôn cả cha mẹ anh
chị tôi rồi hiếp bách đem tôi lên đây để ở. Còn đứa đạp đồng lúc nãy cũng là
anh ta bắt cướp ở đâu đem đến đây. Núi đây gọi là ngọn núi Ngô Công, anh ta thấy
địa thế đẹp đẽ nên muốn chiếm giữ ở đây mà tự đặt tên là Phi Thiên Ngô Công
Vương Đạo Nhân.
Võ Hành
Giả hỏi:
- Ngươi
còn có họ hàng gì nữa hay không?
- Chúng
tôi cũng còn có mấy nhà thân thích, song toàn là đám cầy cuốc nhà quê ai dám cự
nhau với nó?
- Tên ấy
nó có tiền của gì không?
- Nó có
thì người thu thập lấy để ta đốt bỏ am này cho rảnh.
- Sư phụ
có xơi rượu thịt gì không? Có thì xin mời sư phụ vào trong am.
- Vào
đó, lỡ có đứa nào ám toán ta chăng?
Người
đàn bà ra dáng thực thà mà nói rằng:
- Tôi có
được mấy cái đầu mà dám đánh lừa sư phụ? Xin ngài cứ vào.
Võ Tòng
theo người đàn bà đi vào trong am, thấy bên cạnh cửa sổ có một cái bàn bày rượu
thịt ở đó, chàng bèn vớ lấy chén lớn, rót rượu ra mà ăn uống một hồi, đến khi
người đàn bà thu nhặt tiền nong xong thì cho một mồi lửa mà đốt cả am.
Bấy giờ
người đàn bà đem bọc kim ngân ra dâng Võ Hành Giả. Võ Hành Giả từ chối mà rằng:
- Ta
không cần tiền nong làm gì, cho ngươi đem về làm sinh nhai, đi mau đi.
Người
đàn bà bái tạ rồi đi xuống núi.
Võ Hành
Giả đem hai cái xác vứt vào đống lửa, rồi cất dao vào bao, mà trời đêm rảo
bước, trông chừng thẳng trỏ Thanh Châu. Đường đi được mười mấy hôm trời, qua
các nơi phố sá thôn, điếm, không đâu là không thấy giấy quan trên niêm yết để truy
nã Võ Tòng, song may chàng đã đổi tục ra thiền, cho nên giong ruổi bầy lâu mà
không ai hỏi đến. Thấm thoắt bước sang mùa đông, tiết trời đã ra chiều lãnh
lẽo, Võ Hành Giả đi trên đường thỉnh thoảng lại mua rượu thịt để ăn uống, song
cũng không sao mà địch nổi với ngọn sóc phong. Một hôm chàng đi đến một cái đồi
con, chợt trông thấy trước mặt có tòa núi chon con đẹp đẽ, chàng liền xăm xăm
tìm lối đi xem. Khi xuống dưới gò, đi được dăm ba dặm được, chợt trông thấy có
một tửu điếm, đằng trước có giải khe trong, mà đằng sau toàn là núi đá.
Võ Hành
Giả đứng dừng lại, nhìn vào tửu điếm thấy cảnh vật sơ sài, ra dáng một hàng
rượu ở nơi thôn dã, chàng liền xăm xăm chạy vào ngồi ở trong hàng, rồi gọi nhà
hàng mà bảo rằng:
- Chủ
hàng lấy hai nai rượu, có cá thịt gì mang ra đây.
Chủ nhân
nghe nói chạy ra trả lời rằng:
- Chẳng
dấu gì sư phụ, rượu thì đây có thứ rượu Hoàng, còn cá thịt thì hết cả rồi.
Võ Hành
Giả nói:
- Hãy
mang rượu đây, uống cho đỡ rét đã.
Chủ nhân
vâng lời dọn ra một đĩa rau chín, và đem ra hai nai rượu ra hai chun lớn để Võ
Tòng uống. Võ Hành Giả uống một lúc hết cả hai rồi gọi lấy hai nai nữa mà uống
luôn.
Nguyên
khi đi đường, Võ Hành Giả cũng đã chếch choáng hơi men, đến đây lại uống nai
rượu nữa, lại bị gió bấc đìu hiu, thổi nâng hơi rượu, bốc lên làm cho chàng
không mấy chốc mà khí lực hung hăng khó chịu, liền quát to tiếng mà hỏi nhà
hàng rằng:
- Nhà
nầy không còn gì thực hay sao? Cá thịt của các ngươi vẫn ăn xoàng đâu, đem đây
bán lại cho ta cũng được.
Chủ hàng
nghe nói cười thầm trong bụng: "Sư nào lại có như thế. Chỉ đòi uống rượu
với ăn thịt...làm gì có được bây giờ... !" Liền trả lời rằng:
- Không
thể nào có được bây giờ.
Võ Tòng
gắt lên rằng:
- Ta có
ăn quịt của nhà ngươi đâu? Sao lại không bán cho ta.
Chủ hàng
đáp:
- Tôi đã
nói với sư phụ lúc nãy, chỉ có rượu thôi, còn có gì nữa mà bán.
Đương
khi ấy, thì có một Đại hán dẫn ba bốn người đi vào trong điếm. Chủ hàng trông
thấy liền vui cười đón vào mà rằng:
- Xin
mời Nhị Lang ngồi.
Đại hán
kia hỏi chủ hàng rằng:
- Việc
gì tôi bảo đã sửa soạn xong chưa.
Chủ nhân
đáp:
- Gà với
thịt đã chín cả rồi, chỉ còn đợi Nhị Lang đây thôi. - Cái bình rượu Thanh Hoa
của tôi đâu?
- Thưa ở
trong kia.
Đại hán
nghe đến đó, liền đi vào một chỗ bàn ghế ở trước mặt Võ Hành Giả mà ngồi lên
cánh trên còn bốn người nữa ngồi vào cánh dưới. Bấy giờ chủ hàng đem lọ rượu
Thanh Hoa đến mở nút ra rồi rót vào một bát chậu lớn để giữa bàn. Võ Hành Giả
liếc nom thấy biết ngay là một thứ rượu tốt, lại thấy hơi rượu thơm ngon, đánh thoảng
vào mũi, thì trong lòng rất lấy làm khao khát, muốn sao mà cướp lấy để uống thì
mới được thỏa lòng. Một lát chủ nhân lại đem một đĩa thịt gà chín, và một đĩa
thịt lợn cùng các thứ rau dưa đũa chén bày lên trên bàn ở trước mặt Đại hán. Võ
Hành Giả thấy vậy, lại nom đến bàn rượu của mình, chỉ độc có đĩa rau khốn nạn,
thì trong lòng tức tối khó chịu, muốn đập vỡ cả bàn đi, liền gọi chủ nhà hàng
mà quát lên rằng:
- Nhà
hàng sao khinh người thế?
Chủ hàng
nghe nói vội quay lại nói rằng:
- Sư phụ
tha lỗi cho, người muốn lấy rượu nữa, thì tôi đem thêm.
Võ Hành
Giả trợn mắt lên mà mắng:
- Anh
này bán hàng lạ thực? Rượu Thanh Hoa với thịt gà, sao anh không bán cho ta? Ta
đây cũng mua mất tiền chứ sao?
Chủ hàng
đáp rằng:
- Rượu
với thịt đó, là của nhà Nhị Lang đem đến, chỉ ngồi nhờ nhà tôi ăn uống đó thôi.
Võ Hành
Giả sốt tiết bất phân trái mà quát lên mắng rằng:
- Đồ
láo... xấc.
Chủ hàng
thấy vậy, thì nói rằng:
- Tôi
chưa thấy một người xuất gia nào mạn phép như thế bao giờ?
Võ Hành
Giả lại quát lên rằng:
- Thế
nào là lão gia mạn phép? Lão gia có ăn không hay sao?
Chủ hàng
cười nhạt mà rằng:
- Tôi
chưa thấy người xuất gia nào tự xưng là lão gia bao giờ?
Võ Hành
Giả đứng phắt dậy, tát cho chủ hàng một cái làm lộn nhào ra một xó. Chàng đại
hán kia đương ngồi uống rượu, thấy vậy thì nổi lòng tức giận nhìn đến anh chủ
hàng thì đã sưng hẳn một bên mặt mà chúi vào một xó. Không sao dậy được, chàng
liền đứng dậy trỏ vào mặt Võ Tòng mà bảo rằng:
- Lão sư
qủy kia, việc gì mà dám đến đây đánh nhau, tu hành đâu có thế?
Võ Tòng
nói:
- Ta
đánh nó, có việc gì đến anh?
Đại hán
cả giận mà rằng:
- À! Lão
sư này gớm thực? Ta bảo tử tế, thế mà ngươi dám xấc với ta...
Võ Hành
Giả sốt tiết lên, đẩy cái bàn chạy ra mà quát lên rằng:
- Thằng
nầy mầy nói ai?
Đại hán
kia cười mà rằng:
- Lão sư
nầy muốn đánh nhau với ta chắc... ? Được lắm! Ra đây.
Võ Hành
Giả cũng cười mà rằng:
- Mầy
bảo ta sợ mầy, không dám đánh mầy hay sao?
Nói rồi
vừa sấn bước ra đi. Đại hán kia nhảy thót ra ngoài cửa Võ Hành Giả lại chạy ra
đuổi theo. Đại hán thấy Võ Tòng to lớn, liền đứng vững lấy thế để đợi, Võ Hành
Giả xông vào, đại hán kia cố sức cự lại, không thể nào địch nổi với thần lực
ngàn cân, bị Võ Tòng gạt ngang bụng một cái ngã lăn ngay ra, như đứa trẻ con
vậy. Ba bốn anh nhà quê kia trông thấy, kinh sợ rụng rời, không một anh nào dám
bén mảng đến gần.
Võ Hành
Giả đạp lên đại hán, giơ quyền đánh cho mấy chục cái, rồi cúi xuống xách lên
ném lẳng ra ngoài khe nước trước cửa.
Ba bốn
anh nhà quê kia kêu khổ ầm ĩ , rồi vội đổ nhau ra, nhảy xuống khe cứu đại hán
kia lên, mà kéo nhau chạy về phía Nam.Bấy giờ anh chủ hàng rượu cựa quậy được,
thì đã rụng rời chân tay, liền chạy vào mà nấp ở sau nhà, mà không dám thò ra
nữa.
Võ Hành
Giả đi vào hàng rượu nói một mình rằng:
- Được
lắm! Chúng bây đi cả, lão gia đánh chén chơi.
Nói đoạn
vớ chén múc rượu ở bát chậu ra để uống. Mấy đĩa thịt gà trên bàn, chưa anh nào
dùng đến, Võ Tòng không cần dùng đũa, liền giơ tay xé luôn để ăn. Được một lúc
hết cả rượu thịt trên bàn, trong bụng đã no say dễ chịu, liền xắn hai tay áo
lên tận vai, rồi ra cửa theo rẻo bờ khe mà chạy. Khi đó gió thổi réo lên như
cuốn, Võ Tòng chân đi không vững, song cũng hết sức để đi cho chóng. Vừa đi
khỏi tửu điếm ước chừng bốn dặm đường, đến một nơi bên cạnh tường đất, bỗng có
con chó vàng đâm xổ ra trông vào Võ Tòng mà cắn.
Võ Hành
Giả đương khi say rượu, trong bụng hung hăng, những toan tính sinh sự, chợt
thấy con chó cứ đuổi theo cắn riết, thì càng lấy làm khó chịu, liền rút phăng
một khẩu giới đao ra, vội rảo bước đi thực nhanh.
Con chó
chạy theo sủa mãi, Võ Hành Giả tức mình giơ đao chém cho một nhát rất mạnh,
chàng chém một nhát không trúng vào đâu, song vì dùng sức quá mạnh đến nỗi bị
chúi đầu đâm nhào ngay xuống khe mà không sao cựa dậy được. Con chó thấy vậy,
lại quay ra bờ khe mà gõng gãnh sủa mãi.
Bấy giờ
đương dạo mùa đông, khe nước nông chờ, chừng hai ba thước, song khí trời lạnh
như cắt ruột gan, Võ Hành Giả cố dậy được, thì áo quần mình mẩy đã lướt thướt
như là chuột lội. Chàng quay nom xuống nước thì thấy thanh đao rơi ở đáy khe,
vẫn lóng lánh soi lên mặt nước, bèn vội vàng lại lội xuống để nhặt lấy dao, dè
đâu khi lội xuống nước, thì lại ngã lăn ra, dẫy sùng sục như cá quẫy trong
chum, mà không sao lại dậy được nữa. Đương khi nguy cấp, thì có một bọn ước
chừng mười mấy người, đều cầm gậy ở tay, đi theo đại hán, đầu đội nón chiên,
mình mặc áo vàng, tay cầm gậy đỏan, mà cùng đi đến đó. Khi chúng nghe tiếng chó
cắn, liền đứng dừng lại, nom xuống khe nước trỏ bảo nhau rằng:
- Lão sư
ăn cướp lúc nãy, đánh tiểu Ca Ca đây, bấy giờ tiểu ca ca đi tìm đại ca không
thấy...Hiện đương dẫn hai ba mươi trang khách đến tửu điếm để truy bắt, ai ngờ
hắn đã nằm ở đây rồi?
Vừa nói
dứt lời, thì thấy anh chàng bị đánh lúc nãy đã thay bộ quần áo khác, tay cầm
thanh đao cùng với một bọn hai ba mươi người trang khách vác gậy vác côn, thổi
khẩu hiệu mà kéo nhau đi đến.
Khi tới
nơi thấy vậy, thì trỏ Võ Tòng mà bảo anh chàng mặc áo vàng rằng:
- Chính
thằng sư ăn cắp nầy đánh tôi lúc nãy đó.
Anh chàng
mặc áo vàng liền quát lên rằng:
- Chúng
đâu! Trói nó lại kéo cổ về trang, đánh cho nhừ tử một mẻ. Chúng nghe nói đều xô
xuống trói Võ Tòng lại mà khiêng lên bờ.Võ Tòng vừa phần say rượu, vừa phần bị
ngã rét, cóng cả tay chân, không thể nào cựa được, đành phải chịu chết cho bọn
kia giằn vật. Bọn kia kéo Võ Tòng lên, rồi lôi về một nơi trang viện rất lớn,
hai bên toàn thị tường cao trắng xóa, liễu rủ xanh rì, vườn bọc chung quanh,
mấy lớp cửa nhà ở giữa, chúng đem Võ Tòng vào, lột bỏ quần áo, cướp lấy các đồ
giới đao hành lý, trói vào gốc cây liễu lớn, rồi thét người đem roi ra đánh.
Vừa khi đánh được dăm ba roi, bỗng thấy một người ở trong nhà chạy ra, liền hỏi
rằng:
- Các
anh đánh ai làm vậy?
Anh mặc
áo vàng, thấy người kia hỏi, bèn chấp tay lại mà đáp rằng:
- Dám
bẩm sư phụ: Hôm nay anh em tôi cùng ba bốn người bạn quanh xóm đây, đi uống
rượu ở tửu điếm ngoài kia, bỗng dưng bị lão sư ăn cướp này sinh sự huyên náo.
Đánh em tôi một mẻ rất đâu, rồi ném em tôi xuống khe nước, sứt mẻ cả đầu óc ra.
Sau may có anh em cứu về, mới thay quần áo rồi ra tìm hắn, thì thấy hắn đã chén
hết cả rượu thịt của chúng tôi, mà say khướt nằm vật ở dưới khe nước. Nhân thế
nên chúng tôi bắt nó đem nó đem về đây, đánh cho nó một trận...
Chúng
tôi xem ra thằng này cũng không phải là người xuất gia, vì trên mặt có kim ấn
bỏ xõa tóc xuống để che đi, tất nhiên một thằng bị tù tội gì, trốn tránh đến
đây? Để chúng tôi hỏi rõ căn do, rồi đem nộp quan mới được.
Anh
chàng bị đòn lúc trước, có ý tức giận mà rằng:
- Ta hỏi
nó làm gì? Thằng ăn mầy ấy lúc nãy đánh tôi đau nhừ tử cả người, có lẽ đến mấy
tháng nữa cũng không khỏi được; Vậy bất nhược cứ đem nó mà đánh cho chết, rồi
đốt phắt nó đi, thì mới hả lòng tôi được.
Nói
đoạn, vớ lấy roi toan quất đánh luôn.
Người
kia chạy tới gần can ra mà bảo rằng:
- Hiền
đệ hãy khoan tay, để tôi xem đã, anh chàng nầy ra dáng một tay hảo hán lắm.
Bấy giờ
Võ Tòng đã hơi tỉnh táo trong người, nghe thấy họ nói vậy, thì cứ nhắm nghiền
mắt lại, mà mặc thây cho nó đánh mắng, không nói năng một câu gì cả. Người kia
chạy lại gần Võ Tòng nom kỹ các vết thương trên lưng rồi nói lên rằng:
- Quái
lạ? Những vết thương còn rành rành thế này, có lẽ là một anh mới bị xử đoán chi
đây?
Nói xong
quay lại vuốt tóc ở mặt Võ Tòng lên, nhìn kỹ một lượt, rồi kêu lên rằng:
- Có lẽ
Võ Nhị Lang, anh em ta chắc?
Hai anh
chàng kia nghe nói thì cả kinh mà rằng:
- Sao,
vị Hành Giả nầy lại là anh em với sư phụ hay sao?
Người
kia đáp:
- Anh ta
chính là Võ Tòng đánh hổ ở núi Cảnh Dương, mà tôi thường nói chuyện với anh em
đấy. Không biết vì cớ sao, lại ăn mặc lối hành giả, mà lạc đến đây như thế?
Hai anh
nọ nghe vậy, liền cởi trói cho Võ Tòng, lấy quần áo khô ráo đưa cho mặc, rồi
mời ngay vào trong thảo đường.
Khi vào
tới thảo đường, Võ Tòng vừa toan lạy tạ, thì người kia ra dáng nửa mừng nửa sợ
mà bảo Võ Tòng rằng:
- Hiền
đệ chưa tỉnh rượu, hay xin ngồi nghỉ một lát đã.
Nói đoạn
liền bảo người đem nước nóng lên cho Võ Tòng lau rửa, và đem các thức bánh ngọt
ra để cho Võ Tòng giã rượu. Võ Tòng được người kia hết dạ chu chuân, thì trong
lòng thấy làm vui mừng khôn xiết, tỉnh hẳn cơn say, mà chấp tay lạy tạ.
Người
kia là ai?
Chính là
người họ Tống tên Giang, biểu tự là Công Minh vậy.
Bấy giờ
Võ Hành Giả nói với Tống Công Minh rằng:
- Vẫn
tưởng ca ca ở nhà Sài Đại quan nhân, sao lại đến đây như vậy? Chẳng hay anh em
gặp nhau trong giấc chiêm bao đó sao?
Tống
Giang đáp rằng:
- Từ khi
cùng hiền đệ chia tay ở nhà Sài Đại quan nhân, rồi tôi ở lại đấy được hơn nửa
năm nữa.Sau nhân sốt ruột vì nỗi phụ thân ở nhà, nên phải cho Tống Thanh về
trước, để thăm viếng cửa nhà. Kế đó tiếp được thư nhà đưa đến, nói công việc ở
nhà đã có Lôi Hoàng, Chu Đồng giúp đỡ, đều được yên ổn tất cả, duy còn có giấy
truy nã bản thân, thì đã tư giấy đi các nơi để bắt, song cũng không lấy gì làm
khẩm bách cho lắm. Lại nhân có Khổng Thái Công mấy phen cho người đên hỏi, sau
thấy Tống Thanh về đó, mới biết là tôi đương ở nhà Sài Đại quan nhân, bởi vậy
Khổng Thái Công cho người về tận đó, mà đón tôi về đây. Đây là Bạch Hổ Sơn; trang
viện này gọi là Khổng Thái Công trang. Người đánh nhau với hiền đệ vừa rồi là
con thứ hai của Khổng Thái Công, vì tính nóng nảy, hay sinh sự đánh nhau, nên
thường gọi là Hỏa Đột Tinh Khổng Lượng: Còn người mặc áo vàng đây là con cả
Khổng Thái Công, tên là Mao Đầu Tinh Khổng Minh, hai anh em đều học tập võ
nghệ, tôi thường chỉ dẫn giúp cho, nên vẫn gọi tôi là sư phụ. Tôi ở đây cũng
được hơn nửa năm, vài hôm nữa cũng muốn đi sang bên trại Thanh Phong một phen,
xem sự thể thế nào? Khi tôi còn ở nhà Sài Đại quan nhân, nghe nói hiền đệ đánh
hổ trên núi Cảnh Dương, rồi làm Đô Đầu ở huyện Dương Cốc, sau lại nghe thấy nói
đánh chết Tây Môn Khánh, rồi không biết vì sao mà lại ăn mặc giả sư, đi đến đất
này?
Võ Tòng
liền đem chuyện mình, nào khi đánh hổ, nào khi làm Đô Đầu, khi giết Tây Môn
Khánh, lúc gặp Trương Thanh cả vợ chồng và khi Thi Ân đánh Tưởng Môn Thần, lúc
giết mười lăm người ở nhà Trương Đô Giám, rồi trốn về nhà Trương Thanh, ăn mặc
Hành Giả, qua núi Ngô Công giết kẻ đạo nhân, cho đến ngày nay say rượu đánh
nhau ở nhà tửu điếm; kể hết đầu đuôi cho Tống Giang nghe hết kỹ càng một lượt.
Bấy giờ
hai anh em Khổng Minh, Khổng Lượng nghe nói thì cả kinh, đều cúi mình mà lạy
rạp xuống đất. Võ Tòng vội vàng đáp lễ mà nói rằng:
- Vừa
rồi tôi trót lỡ tay, xin các ngài bỏ lỗi đi cho.
Hai anh
em nhà kia cũng khiêm tốn mà rằng:
- Cái đó
là tội tại chúng tôi, xin ngài tha thứ cho là tốt.
- Các
ngài đã có lòng chiếu cố đến tôi, thì xin trả lại cho các đồ trang phục cùng
hành lý, chớ để thất lạc một chút cái gì, mà không tiện cho chúng tôi lắm.
Khổng
Minh nói:
- Điều
đó túc hạ không cần nghĩ, chúng tôi xin sai người cất giữ cẩn thận để nộp trả
lại ngài.
Đoạn rồi
Tống Giang cho mời Khổng Thái Công ra tiếp kiến Võ Tòng. Khổng Thái Công liền
sai người nhà làm tiệc khỏan đãi rất là long trọng. Tối hôm ấy Tống Giang giữ
Võ Tòng cùng ngủ một giường để kể chuyện hàn huyên trong nửa năm trời, không
một câu gì không thú vị.
Hôm sau
Khổng Thái Công lại sai giết dê mổ lợn, bày tiệc linh đình để đãi Võ Tòng. Các
người thân thích trong thôn, cùng mấy người môn hạ gần đó, đều đến bái yết,
Tống Giang thấy vậy, trong lòng mừng rỡ vô cùng. Khi tiệc đã tan, Tống Giang
hỏi Võ Tòng rằng:
- Bây
giờ Nhị đệ định đến đâu để nương thân được?
Võ Tòng
đáp rằng:
- Đêm
hôm qua tôi đã thưa chuyện với ca ca rằng: Trương Thanh có viết giấy cho tôi,
lên chùa Bảo Châu, trên núi Nhị Long, để nhập bọn với Hoa Hòa Thượng Lỗ Trí
Thâm, rồi vợ chồng hắn thu xếp đến sau.
- Nếu
vậy thì tốt lắm...Chẳng dấu gì Nhị đệ. Nhà tôi viết thư đến nói với tôi rằng:
Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh làm Trị trại ở trại Thanh Phong, biết chuyện tôi có giết
chết Diêm Bà, nên có viết giấy bảo tôi đến trại đó ở chơi ít bữa. Tôi đã định
đi chơi mấy hôm nay, song vì tiết trời còn khó chịu, nên chưa sao đi được. Nay
mai thế nào cũng phải đến đấy một phen, vậy bất nhược rồi anh em ta cùng đến đó
một thể, có được không?
- Ca Ca
định đem tôi cùng đi, cũng là hay lắm, song ngày nay tôi đương bị tội với quan
tư, dẫu gặp ân xá cũng không tha được, nên thế tôi mới quyết lòng mà lên núi
Nhị Long để lạc thảo tị nạn. Vả chăng tôi ăn mặc lối sư, nếu đi với Ca Ca mà lỡ
bị người ta bắt được, thì bất miễn lại thêm liên lụy đến ca ca không tiện. Đã
hay rằng anh em sống chết cùng nhau,cũng không lấy gì làm ngại, song còn có Hoa
Tri Trại đó thì sao? Vậy xin ca ca cứ mặc cho tiểu đệ sang núi Nhị Long rồi sau
đấy, may ra trời có thương lại, mà được triều đinh xá tội chiên an, thì bấy giờ
sẽ xin tìm ca ca cũng được.
- Nếu
Nhị đệ có lòng quy thuận triều đình, thì có phen tất trời kia trông lại mà bảo
hộ giúp cho. Vậy nay Nhị đệ hãy ở lại chơi đây mấy hôm rồi sẽ tùy lòng tự tiện,
tôi không dám can gián làm chi.
Từ đó Võ
Tòng cùng Tống Giang chơi ở trong trang mười hôm, rồi cùng nhau từ tạ xin đi.
Khổng Thái Công hết sức lưu lại, mà không cho đi vội. Hai người lại phải ở luôn
ba bốn hôm nữa, rồi nhất định cùng xin từ biệt. Khổng Thái Công lưu lại không
được, liền đặt tiệc tiễn hành chè chén suốt ngày hôm đó. Sáng hôm sau Khổng
Thái Công sai lấy một bộ quần áo sư mới may, cùng các khí cụ của Võ Tòng khi
trước, trao trả Võ Tòng, và đưa ra năm mươi lạng bạc để tiễn chân hai người làm
lộ phí. Tống Giang hết sức từ chối không lấy, sau hai bố con Khổng Thái Công
nhất định bỏ vào khăn gói mà không cho trả lại. Hai người bất đắc dĩ phải nhận
lấy tiền nong, rồi Võ Tòng lại ăn mặc lối Hành Giả như trước, còn Tống Giang
cũng sửa soạn áo xiêm, lưng giắt dao găm, đầu đội nón chiên, cầm dao lớn, mà
cùng nhau từ giã cha con họ Khổng.
Khổng
Minh, Khổng Lương gọi trang khách đem hành lý cho hai người, rồi anh em cùng
tiễn chân ra khỏi ngoài bảy mươi dặm, rồi mới bái biệt ra về. Bấy giờ Tống
Giang đeo lấy khăn gói, cùng Võ Tòng vừa đi đường vừa nói chuyện với nhau, mãi
tới lúc trời tối mới tìm vào ngủ trọ. Sáng hôm sau lại dậy sớm, cơm nước, xong
rồi lại cùng đi với nhau.
Đi được
bốn năm mươi dặm đường, đến chỗ ngã tư ở Thụy Long Trấn. Tống Giang liền tìm
người quen ở quanh đó, mà hỏi thăm đường sang Nhị Long Sơn, và Thanh Phong
Trại. Người ở đó đáp rằng:
- Đường
đi Nhị Long Sơn rẽ sang bên tây, mà đi về Thanh Phong Trại, thì rẽ sang bên
đông.
Tống
Giang nghe rõ đường lối, rồi dắt Võ Tòng vào hàng rượu cùng uống, rồi bảo Võ
Tòng rằng:
- Anh em
ta nên chia ngả đây cho tiện.
Võ Tòng
nói:
- Tiểu
đệ xin đưa ca ca đi một quãng nữa, sẽ trở về lối này cũng được.
Tống
Giang gạt đi mà rằng:
- Bất
tất phải phiền như thế, dẫu đến đâu, rồi cũng ly biệt mà thôi.Hiền đệ phải nên
cẩn thận tiền trình, tới đó nên chừa bớt rượu, cho khỏi sinh sự lôi thôi.Nếu
sau này triều đình có giấy chiêu an, thì hiền đệ nên rủ Lỗ Trí Thâm cùng về quy
phục, đem thân ra chốn biên cương để ra tài ngọn giáo thanh đao, lập chút công
lao cùng xã tắc, mà hưởng sự vinh hoa, lưu danh sử sách như thế thì may ra mới
khỏi uổng công một đời... Ta đây dẫu có chút lòng trung nghĩa, mà tài năng còn
kém, chắc đâu tiến bộ về sau! Duy hiền đệ là một tay anh hùng như thế, tất
nhiên làm được sự nghiệp phi thường, vậy hiền đệ nên nhớ lời ta mà tính toán
sau này sao cho được gặp nhau là thỏa.
Võ Hành
Giả cúi đầu vâng lời, cùng uống rượu một lát, rồi đứng dậy tính trả tiền hàng
mà đi ra. Khi tới ngã ba, Võ Tòng thụp xuống đất lạy Tống Giang bốn lạy.
Tống
Giang gạt nước mắt không nỡ rời tay trông Võ Tòng mà dặn rằng:
- Xin
anh em chớ quên lời ta, phải bớt tính uống rượu, mà trọng lấy thân mới được.
Võ Tòng
ngậm ngùi mà chia bước về Tây. Đằng này một mình Tống Giang thui thủi theo
đường bên Đông, vừa đi vừa nghĩ nhớ đến Võ Tòng, không lúc nào trong dạ được
yên.
Tống
Giang đi được vài hôm, đến một nơi non cao rừng rậm, phong cảnh ưa nhìn, chàng
vừa đi vừa nghiêng ngả ngắm xem, bất giác mặt trời gần tối mà không có chỗ nào
trú chân cho tiện. Bấy giờ trong bụng kinh hoàng, e ngại mà tự nghĩ rằng:
"Nếu phải đương trời mùa hạ, thì ta nghĩ trong rừng một tối cũng không hề
chi, song bây giờ đương buổi mùa đông, gió sương lạnh lẽo, không những là rét
mướt không yên, mà lỡ ra có hổ báo hay rắn độc tới nơi, thì làm sao mà giữ thân
cho được!" Chàng nghĩ vậy, liền mải miết cố đi tìm một nơi để nghỉ tạm.
Ước
chừng đi được gần một trống canh, trong bụng càng thấy nóng nảy lo sợ, bèn rảo
cẳng bước chân, không kịp cúi nom xuống đất. Dè đâu đương đi bỗng vấp phải sợi
giây giăng ngang trước lối, rồi thấy tiếng chuông ở trong rừng vang động ầm ĩ
cả lên.Đoạn rồi có mười lăm mười sáu tên lâu la nấp ở trong rừng cây chạy xô
ra;reo hò quát tháo mà bắt trói Tống Giang, cướp lấy thanh đao hành lý, rồi
đánh lửa thắp đuốc giải Tống Giang lên núi.
Khi tới
sơn trại, thấy xung quanh toàn thị gỗ vầy làm trại, chính giữa có một tòa thảo
sảnh, trên kê ba bộ ghế tréo lót da hổ và ở phía dưới có tới trăm gian nhà lá.
Bọn lâu la trói tròn Tống Giang như một cái bánh kéo cổ vào buộc ở cột cái, rồi
có mấy tên lâu la ở trong sảnh nói rằng:
- Đại
vương vừa mới đi nghỉ, không nên vào báo vội. Hãy đợi lát nữa Đại Vương tỉnh
rượu sẽ mời ra đây, khóet ruột gan con trâu ấy làm thang giã rượu, rồi chúng ta
thừa lộc miếng thịt tươi cho thú.
Tống
Giang bị trói ở ngoài cột, nghe thấy nói thế, thì trong bụng nghĩ thầm rằng:
"Mình thực là thiển cận quá chừng;chỉ vì giết một con đàn bà gian dâm vô
lý, mà đến nỗi xẩy ra biết bao nhiêu câu chuyện nguy nan, khốn đốn; Ngày nay
lại đem xương thịt mà tống táng ở đây, thì thực là uổng quá!" Bấy giờ thì
tụi lâu la thắp đèn thắp đuốc sáng rực cả nhà, còn Tống Giang thì rét cứng cả
người mà không sao cựa được, chỉ còn liếc mắt mà vơ vẫn nhìn quanh, rồi lại cúi
đầu mà ngậm ngùi than thở!
Hồi lâu
vào khoảng canh ba, chợt thấy mấy tên lâu la ở đằng sau chạy ra kêu lên rằng:
- Đại
vương đã ra đó. Đoạn rồi cùng thắp thêm đèn đuốc ở trên sảnh sáng trưng như ban
ngày vậy.
Tống
Giang liếc mắt nom lên thấy Đại Vương ấy bước ra, đầu đội khăn điều, mình khoác
áo lụa hồng, ngồi vào một cái ghế da hổ ở giữa.
Nguyên
Đại Vương ấy, tổ quán ở đất Lai Châu, họ Yến tên Thuận, biệt hiệu là Cẩm Mao Hổ
(Hổ lông gấm) vốn là một anh tài dê lái ngựa xuất thân, nhân vì buôn thua bán
lỗ mới lưu lạc ở chốn sơn lâm mà xoay nghề cướp bóc.
Bấy giờ
Yến Thuận hỏi chúng rằng:
- Các
con bắt được trâu ấy ở đâu?
Tụi lâu
là đáp:
- Chúng
con phục sẵn ở đằng sau núi, chợt nghe thấy tiếng chuông kêu dống bên rừng, anh
em vội chạy đến xem, thì con trâu này khoác khăn gói đi có một mình, vấp phải
cái giây ngã lăn xuống đất, nhân vậy chúng con bắt về để hiến Đại Vương làm
thang giải rượu.
Yến
Thuận gật đầu khen tốt, rồi truyền đi mời hai Đại Vương nữa để ra đó cùng
hưởng. Chúng lâu la đi mới được một lúc thì thấy mời hai vị Đại Vương nữa ra,
cùng ngồi vào ghế ở trên sảnh với Yến Thuận. Một người bên cạnh tướng Ngũ Đỏan,
đôi mắt sáng quắc, tổ quán ở đất Lưỡng Hoài. Họ Vương tên Anh, bọn giang hồ
thường gọi là Nụy Cước Hổ (hổ cùn cẳng) nguyên trước làm nghề phu xe, sau phạm
tội giết khách đi xe lấy của, bị bắt được, rồi vượt ngục trốn ra đến núi Thanh
Phong, cùng Yến Thuận nhập vào một bọn. Còn anh chàng ngồi bên hữu, người trông
mảnh dẻ thanh tú, mặt trắng râu ba chòm, đầu đội khăn hồng, nguyên quán ở Tô
Châu Triết Giang, họ Trích tên Thiên Thọ, người ta thường gọi là Bạch Diện Lang
Quân (Anh chàng mặt trắng) khi trước làm thợ bạc, sau nhân học được ít nhiêu võ
nghệ, lưu lạc giang hồ, qua tới Thanh Phong Sơn, gặp Vương Nụy Hổ đánh nhau tới
năm sáu mươi hiệp, quyết không được thua; Yến Thuận nhân thấy thủ đoạn hơi khá,
bèn lưu ở trên núi, mà dự ngồi vào ghế thứ ba.
Bấy giờ
ba người cùng ngồi chỉnh tề, rồi Vương Nụy Hổ bảo bọn lâu la rằng:
Nói
đoạn, thì một tên lâu la cầm một cái chậu đồng lớn, đựng nước ở trước mặt Tống
Giang, một tên lâu la nữa cầm thanh đao nhọn sáng nhoáng ở tay chạy đến, rồi
hai tên lâu la túm vào té nước mà rửa bụng Tống Giang.
Phàm chỗ
bụng người ta, toàn thị huyết nóng tụ lại, nay nếu lấy nước lạnh dội vào cho
tan hết máu nóng rồi moi lấy tim gan ăn ngon vô hạn. Bọn lâu la rửa xong rồi,
té nước lên rửa mặt Tống Giang.
Tống
Giang thấy vậy thở dài mà than rằng:
- Tiếc
cho Tống Giang chết ở đất này...
Chàng
vừa than dứt, thì thấy Yến Thuận quát tiểu lâu la hãy khoan tay, mà hỏi lên
rằng:
- Thằng
ấy nói lẩm bẩm Tống Giang gì đó!
Tên tiểu
lâu la bẩm rằng:
- Tên ấy
kêu rằng: Tiếc cho Tống Giang bỗng dưng mà chết ở đây.
Yến
Thuận nghe nói đứng dậy mà hỏi rằng:
- Anh
chàng này có biết Tống Giang hay sao?
Tống
Giang đáp:
- Chính
tôi là Tống Giang đây.
Yến
Thuận chạy đến gần mà hỏi luôn rằng:
- Anh là
Tống Giang ở đâu?
Tống
Giang đáp:
- Tôi là
Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành, thuộc phủ Tế Châu đây.
Yến
Thuận giựt mình hỏi rằng:
- Có
phải Cập Thời Vũ Tống Công Minh ở Sơn Đông, giết chết Diêm Bà Tích đó chăng?
- Sao
bác lại biết, chính tôi là Tống Tam Lang Tống Giang đó.
Yến
Thuận nghe nói kinh ngạc, bỗng đổi sắc mặt, giật lấy dao ở tay tiểu lâu la, cắt
hết giây trói ra, rồi cởi áo đỏ đương khoác ở mình, để khoác cho Tống Giang mà
kéo mời vào ghế giữa. Đoạn rồi bảo Vương Nụy Hổ cùng Trịnh Thiên Thọ cùng đứng
ra ngoài mà cúi rạp xuống để lạy.
Tống
Giang ngạc nhiên vội vàng đáp lễ lại, rồi hỏi lên rằng:
- Vì cớ
sao ba vị tráng sĩ, không giết tôi mà lại trọng đãi như vậy?
Nói đoạn
cũng cúi xuống đất để lạy, Bấy giờ ba người kia đều quỳ xuống đất, rồi Yến
Thuận nói lên rằng:
- Chúng
tôi thực là có mắt, mà không biết được người hay chỉ nên khoé mắt vứt đi cho
rảnh...Vừa rồi nếu không hỏi kỹ căn do, thì có lẽ hại đến nghĩa sĩ chứ không
chơi...Chúng tôi xưa nay mười mấy năm lưu lạc giang hồ, vẫn nghe tiếng ngài là
người trọng nghĩa khinh tài, cứu nguy đỡ nạn, song cũng là duyên hèn phận mỏng,
nên chưa từng được gặp tôn nhan. Ngày nay cũng là trời xanh khiến cho chúng tôi
được gặp ngài đây, thực là thỏa lòng khao khát xiết bao... !
Tống
Giang khiêm tốn đáp rằng:
- Tôi
đây đã có tài đức gì, mà được các ngài quá yêu như thế?
Yến
Thuận tiếp luôn rằng:
- Nhân
huynh là một người ơn to lượng rộng, kết nạp hào kiệt bốn phương, xưa nay ai
không nghe tiếng, mà kinh phục uy phong. Bọn Lương Sơn Bạc hiện nay hưng thịnh
lẫy lừng, nghe nói cũng nhờ ơn huynh chu toàn cho cả, vậy chẳng hay vì cớ sao mà
một mình ngài lại qua đây như thế?
Tống
Giang liền kể chuyện từ khi cứu Tiều Cái giết Diêm Bà Tích cho đến khi ở nhà
Khổng Thái Công, định đến tìm Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh tới đây, cho mọi người
nghe một lượt. Ba người kia cả mừng, sai lấy áo xiêm ra cho Tống Giang mặc, rồi
giết dê ngựa, làm tiệc khỏan đãi suốt đêm mãi đến canh năm mới mời Tống Giang
đi nghỉ.
Ngày hôm
sau, Tống Giang lại đem các chuyện đi đường, cùng anh hùng khí phách của Võ
Tòng thuật lại cho ba người nghe.
Ba người
nghe nói, đều dậm chân vỗ tay mà kêu lên rằng:
- Chúng
tôi thực là vô duyên, không được gặp, nếu nay có thêm người ấy ở đây, thì không
biết rằng vui vẻ đến đâu?
Đoạn rồi
ba người giữ riết Tống Giang ở đấy luôn năm bảy ngày chè chén chuyện trò rất là
thỏa thích.
Bấy giờ
đương dạo sơ tuần tháng chạp, tục người Sơn Đông, thường hay đi viếng thăm phần
mộ tổ tiên. Một hôm chợt thấy bọn lâu la ở dưới núi lên báo rằng:
- Trên
đường cái có một cỗ kiệu, bảy tám người theo sau, gánh theo một đôi quang quả,
đi thăm mộ qua đây.
Vương
Nụy Hổ vốn là một tay hiếu sắc, nghe chúng báo vậy, chắc là ở trong kiệu có đàn
bà, liền vội vàng đếm bốn năm mươi tên tiểu lâu la, mà xin phép xuống núi. Tống
Giang cùng Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ cản ngăn không được, đánh để mặc cho
Vương Nụy Hổ đi, rồi ba người ung dung uống rượu với nhau ở trong ttrại. Hồi
lâu thấy tên tiểu lâu la đi thám thính chạy vể báo rằng:
- Bọn
bảy tám người đương đi, trông thấy Vương Nụy Hổ kéo quân xuống, thì bỏ chạy
trốn mất, chỉ còn bắt được người đàn bà trong kiệu, và đôi quang quả vàng hương
ngoài ra không có gì nữa.
Yến
Thuận nghe nói liền hỏi chúng rằng:
- Người
đàn bà ấy hiện ở đâu?
Tên tiểu
lâu la bẩm:
- Vương
Đầu Lĩnh bắt mang vào phòng ở đằng sau núi.
Yến
Thuận nghe vậy thì vỗ tay cả cười. Tống Giang nói rằng:
- Vương
huynh lại có tính tham luyến nữ sắc, như thế không phải là việc của tay hảo
hán.
Yến
Thuận cả cười mà rằng:
- Bác ấy
việc gì cũng chịu khó cả, duy có một bệnh ấy thì khó lòng mà chừa đi được.
Tống
Giang nói:
- Tôi
cùng hai ngài, ta nên xuống cản ngăn đi mới được.
Yến
Thuận cùng Trịnh Thiên Thọ vâng lời, rồi dẫn Tống Giang đi. Khi đến phòng Vương
Nụy Hổ, vừa đẩy cửa ra, đã thấy chàng ta đương giằng co với người đàn bà, để
cầu hoan ở đó. Chàng thấy ba người đến, thì vội vàng đẩy người đàn bà ra, rồi
mời ba người vào ngồi chơi.
Tống
Giang hỏi người đàn bà kia rằng:
- Nương
tử là vợ con nhà ai? Có việc chi mà qua lại nơi đây làm vậy?
Người
đàn và ra dáng e thẹn cúi chào ba người mà đáp rằng:
- Chúng
tôi là vợ Tri Trại ở trại Thanh Phong, nhân mẫu thân mới mất, đến nay là lễ
Tiểu Tường, chúng tôi qua đây thăm mộ, xin các ngài rộng lòng thương mà cứu
tính mạng cho.
Tống
Giang nghe nói ngạc nhiên, kinh lạ nghĩ thầm trong bụng: "Nay mai ta định
đến Hoa Tri Trại chơi, chẳng hay người này là vợ Hoa Tri Trại, có lẽ nào mà ta
không cứu được? " Chàng nghĩ đoạn liền hỏi rằng:
- Vậy
thì phu quân nàng là Hoa Tri Trại, sao không cùng đi với nàng?
Người
đàn bà đáp rằng:
- Dám
thưa Đại Vương chúng tôi không phải là vợ Hoa Tri Trại.
- Vừa
rồi nàng nói là vợ Tri Trại ở trại Thanh Phong đó mà...
- Thưa
ngài ở trại Thanh Phong hiện nay có hai Trị Trại, một ông quan văn và một ông
quan võ: Quan võ là Hoa Tri Trại, còn quan văn tức Tri Trại Lưu Cao là chồng
chúng tôi.
Tống
Giang nghe nói lại nghĩ thầm rằng: "Chồng hắn đã là đồng liêu với Hoa Tri
Trại, nếu nay ta không cứu thì khi đến đó sao cho tiện... ? " Nghĩ đoạn
liền bảo với Vương Nụy Hổ rằng:
- Tôi có
một câu này, không biết rằng quan bác có ưng ý cho chăng?
Vương
Anh đáp rằng:
- Ca Ca
có điều gì xin cứ cho nghe.
Tống
Giang nói:
- Đại
phàm những đám hảo hán, nếu phạm vào ba chữ "Lưu Cốt Tủy" tất là bị
thiên hạ chê cười. Huống chi người đàn bà nầy lại là vợ một quan tước của triều
đình, vậy xin bác nể lòng tôi, nghĩ đến hai chữ Đại Nghĩa của đám giang hồ mà
tha cho người ta thì phải?
Vương
anh nói:
- Dám
bẩm ca ca: Vương Anh tôi lây nay chưa có một người Áp Trại Phu Nhân, để sớm
khuya làm bạn cho vui, vả chăng ở đời nay, những đám mũ cao áo dài nào có ra
chi, mà ca ca phải đem lòng bênh vực. Xin ca ca để mặc cho tiểu đệ thì hơn.
Tống
Giang nghe nói quỳ xuống đất mà rằng:
- Nếu
hiền đệ muốn cầu một người Phu Nhân Áp Trại, để sau này Tống Giang xin tìm một
người xứng đáng về đây, còn người này là vợ anh em đồng liêu của bạn tôi, thế
nào cũng xin hiền đệ nể lòng tôi mà tha thứ cho người ta.
Yến
Thuận, Trịnh Thiên Thọ thấy vậy, liền chạy đến nâng Tống Giang dậy mà nói rằng:
- Xin ca
ca đứng dậy cho, cái đó điều chi là khó.
Tống
Giang tạ ơn mà rằng:
- Nếu
các ngài có lòng nghĩ vậy, thì tôi lấy làm cảm tạ vô cùng.
Yến
Thuận thấy Tống Giang cố ý muốn tha người đàn bà, nên cũng không cần hỏi Vương
Anh có bằng lòng hay không; liền quát đám phu kiệu mà cho khiêng người đàn bà
ấy đi.
Người
đàn bà nghe nói vội quay đầu vào Tống Giang, lạy lấy, lạy để mà miệng kêu:
- Tạ ơn
Đại Vương, tạ ơn Đại Vương.
Tống
Giang bảo người đàn bà rằng:
- Cung
nhân bất tất phải lạy tạ tôi, tôi là người khách ở Vận Thành qua đây, chứ có
phải là Đại Vương nào đâu!
Người
đàn bà lạy tạ xong rồi, quay ra bước lên kiệu mà giục đi xuống núi. Bấy giờ
Vương Nụy Hổ vừa buồn vừa thẹn không nói năng một câu gì. Tống Giang liền dắt
ra ngoài sảnh mà khuyên rằng:
- Hiền
đệ không nên để bụng làm chi, sau dẫu thế nào tôi cũng xin vì hiền đệ tìm được
một chỗ nhân duyên cho xứng đáng; không khi nào tôi dám sai lời.
Yến
Thuận cùng Trương Thanh cùng vỗ tay cả cười. Còn Vương Nụy Hổ bị Tống Giang bó
buộc lễ nghĩa như vậy, tuy trong lòng hơi hơi khó chịu, song cũng không hề dám
ra miệng, đành phải gượng cười mà cùng nhau uống rượu cho vui.
Bên kia
tụi quân lính ở trại Thanh Phong bị Vương Nụy Hổ cướp mất Cung Nhân, thì vội
vàng chạy về báo cho Lưu Tri Trại biết.
Lưu Tri
Trại nghe nói,đùng đùng nổi giận thét lấy quân trượng ra đánh phạt tụi quân lính,
quân lính kêu rằng:
- Đám
chúng tôi có năm bảy người, mà bọn lâu la kể có ba bốn mươi kẻ, thì làm sao mà
nổi?
Lưu Tri
Trại thét lên rằng:
- Chúng
bây nói láo! Nếu không đi cứu được Cung nhân về đây thì ông bỏ tù cả suốt lượt
bây giờ.
Tụi quân
lính bị quở phạt, không biết làm thế nào, đành phải nhờ tám mươi tên lính khỏe
mạnh ở trong trại mà đem khí giới đi để cứu.
Khi đi
tới nửa đường, thì bỗng gặp hai tên phu kiệu, đương khiêng kiệu phu nhân mà
chạy như gió thổi chạy về. Tụi quân lính liền hỏi thăm vì cớ gì mà được thoát
nạn như vậy? Cung nhân ngồi trong kiệu đáp rằng:
- Chúng
bắt ta lên núi, sau nghe nói ta là Lưu Tri Trại phu nhân thì chúng hoảng hốt
kinh sợ, lạy tạ rồi vội vàng gọi phu kiệu đưa ta về ngay lập tức.
Đoàn
quân lính kêu rằng:
- Xin
Cung nhân thương hạ cho anh em chúng tôi mà nói với Tướng Công, là anh em chúng
tôi đã đánh cướp cứu được Cung nhân trở về, nếu không thì chúng tôi bị đòn vọt
nguy mất.
Chị
chàng kia đáp rằng:
- Được,
cứ về đó, rồi ta sẽ có cách nói cho.
Nói xong
bọn quân lính đều cúi đầu lạy tạ, rồi cùng nhau quay gót trở về. Bấy giờ hai
tên phu kiệu cứ cắm cổ chạy nhanh như biến, không còn ai đuổi theo cho kịp. Bọn
quân lính thấy vậy, thì hỏi rằng:
- Hai
các anh mọi khi vẫn đi chậm như vịt mà sao ngày nay lại chạy nhanh quá như thế?
Hai tên
phu kiệu đáp rằng:
- Chúng
tôi có muốn nhanh làm gì... . Vì đánh vun vút lên ở đằng sau, cho nên phải chạy
chạy đấy thôi.
Đám
người kia cười phá lên mà rằng:
- Các
anh nói chuyện ma qủy hay sao; đằng sau có ai mà kêu rằng họ đánh?
Hai tên
phu kiệu mới quay đầu nom lại, rồi kêu lên rằng:
- Trời
ơi! Té ra chúng tôi đi vội quá, nghe tiếng chân quần quật, vẫn tưởng là có
người đánh ở đằng sau...
Chúng
nghe nói nhìn nhau mà cười ở vỡ bụng. Khi về tới trại, Lưu Tri Trại trông thấy
Cung nhân thì cả mừng mà hỏi rằng:
- Ai cứu
cho Phu nhân về ngay như thế?
Chị đàn
bà đáp:
- Chúng
cướp tôi lên núi, không được động hề đến chân, đã toan đem ra để giết, sau thấy
nói tôi là vợ Quan Tri Trại ở trại Thanh Phong, thì anh nào cũng kinh sợ mà lạy
van chí chết. Lại may có đám quân lính đến cứu về, vì thế nên tôi mới được
thoát nạn chóng như vậy.
Lưu Cao
nghe nói hớn hở tự đắc, bèn truyền lấy mười bình rượu và giết một con lợn để
khao thưởng bọn quân lính.
Nói về
Tống Giang, từ khi cứu thoát được chị đàn bà kia, lại lưu lại ở sơn trại luôn
năm bảy hôm nữa, rồi mới từ giã ba người để sang chơi Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh.
Bọn anh em Yến Thuận cố giữ cùng không được, bèn sai bày tiệc tiễn hành, và đưa
thêm một ít kim ngân, để Tống Giang đi đường chi dụng. Sáng hôm sau khi Tống
Giang ra đi, ba vị Đầu Lãnh lại sai đem rượu đi theo, ra ngoài hai ba mươi dặm,
cùng Tống Giang uống chén ly bôi, rồi trân trọng dặn rằng:
- Ngày
nay xin tạm biệt ca ca, rồi sau khi tới trại Thanh Phong, mong rằng ca ca sẽ
lại về đây cho anh em chúng tôi được gặp, thực là hạnh phúc vô cùng.
Tống
Giang đinh ninh từ tạ vâng lời, rồi khoác khăn gói, vác thanh đao, bái biệt mọi
người, mà trông chừng thẳng trỏ Thanh Phong.
Quan san
sương tuyết một màu.
Lòng xưa
man mác đường sau gập ghềnh,
Giang hồ
một lái lênh đênh,
Con chèo
nghĩa hiệp tung hoàng bao phen
Sự đời
ai hẹn mà nên,
Cái quay
vô ảnh hoàng thiên khéo vần.
Trót gan
chơi với phong trần,
Phong ba
kia với phong vân chọn gì...
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi này
vừa tả xong chuyện của Võ Tòng, tiếp tay tả luôn chuyện của Tống Giang, liên
đới cả luôn chuyện của Hoa Vinh, trung gian chuyện của ba anh hùng sơn trại
Thanh Phong, cũng xuất hiện ra, với phép diễn tả dứt nối ấy, tác giả theo Bút
pháp của văn chương tả ra rất khéo, vì sự tích của 108 vị anh hùng, trong 70
hồi, tả được đầy đủ, là một việc khó, nên lối diễn tả thấy như ca nhạc, lời ca
vừa dứt, tiếng nhạc tiếp theo sau, trở nên tai tiếng ca với nhạc.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 32: Xem Ngao Sơn Tống Giang bị bắt; Náo
Phong Trại Hoa Vinh báo thù
Thanh
Phong ở ngay vào giữa quãng ngã ba đất Thanh Châu. Chỗ ấy tên là Thanh Phong
trấn đường thông ba mặt, núi non giặc cướp rất nhiều, nhân thế mới đặt trại
Thanh Phong để trông coi địa hạt. Quanh trại đó có tới bốn năm ngàn nhà ở, dân
sự làm ăn kể cũng có điều sầm uất. Giữa trần có chợ to phố lớn, bên nam có một
trại nhỏ của quan võ Hoa Vinh đóng đó.
Hôm ấy
một mình Tống Giang đi tới trấn Thanh Phong, hỏi thăm đến cửa trại Hoa Vinh,
nói với quân lính canh cổng để vào báo trước.
Một lát,
có một vị quân quan trẻ tuổi chạy ra đón chào Tống Giang, rồi thét lính đỡ lấy
khăn gói và đao, mà mời Tống Giang vào ngồi ở chính sảnh. Đoạn rồi cúi đầu lạy
bốn lạy mà nói rằng:
- Từ khi
bái biệt huynh trưởng tới nay thấm thoát đã năm sáu năm trời, trong lòng rất là
khát vọng. Dạo trước huynh trưởng giết một đứa yên hoa, rồi bị quan quân truy
tầm định bắt. Tiểu đệ nghe nói như ngồi phải chông gai, đã viết luôn mười mấy
phong thư, gửi sang gia trang để mời đón mà không thấy huynh trưởng tới chơi.
Nay bỗng đâu được gặp huynh trưởng ở đây, thực là thỏa lòng vô hạn. Nói xong
lại cúi đầu xuống lạy, Tống Giang vội vàng đỡ dậy mời ngồi nói chuyện. Hoa Vinh
khiêm tốn ngồi chếch về một bên, rồi Tống Giang đem chuyện mình thuật hết đầu
đuôi cho Hoa Vinh. Hoa Vinh nghe nói có ý cảm động mà rằng:
- Té ra
thời vận nhân huynh chuân kiển quá chừng, ngày nay tới đây, xin nhân huynh hãy
ở tạm vài năm rồi sau đây sẽ liệu đường xuất sử.
Nói đoạn
mời Tống Giang vào ngồi chơi ở nhà trong, rồi gọi vợ là Thôi Thị và em gái ra
lạy mừng. Nhất diện sai lấy áo xiêm khăn giầy cho Tống Giang tắm rửa thay giặt,
rồi mới mời vào uống rượu.
Trong
khi uống rượu Tống Giang đem chuyện cứu phu nhân của Lưu Tri Trại thuật cho Hoa
Vinh nghe.
Hoa Vinh
chau đôi mày mà bảo Tống Giang rằng:
- Huynh
trưởng cứu người ấy làm gì" Chúng tôi đang muốn làm cho nó chừa bớt cái
mồm điêu hoạt thì mới hả lòng.
Tống
Giang ngạc nhiên hỏi rằng:
- Quái
lạ! Tôi thấy nói là vợ quan Tri Trại ở trại Thanh Phong nên tôi nghĩ đến tình
đồng liêu của hiền đệ, mà hết sức ngăn trở Vương Nụy Hổ để cứu cho thoát nạn,
vậy chẳng hay là cớ sao mà hiền đệ lại nói như thế?
- Nguyên
huynh trưởng không biết: Trại Thanh Phong đây nếu để cho một mình tôi coi giữ,
thì cường đạo xa gần có đâu dám sinh lòng quấy nhiễu, ai ngờ mới đây có anh
khốn nạn ấy đến, làm Tri Trại ở chốn này, tiếng gọi là văn quan mà một chữ
không biết, chỉ chăm chăm lừa dối đám dân gian, mà pháp luật triều đình không
còn chút gì là được. Tiểu đệ tuy là một chức võ quan, song vẫn bị hắn ta chọc
tức luôn luôn không thể nào giết ngay đi được cho nó thỏa lòng... Huynh trưởng
còn cứu làm chi cho uổng sức. Vả chăng con mụ ấy lại là một đứa bất lương chỉ
phỉnh phờ ông chồng để làm càn làm bậy hãm hại lương dân mà ăn tiền đút lót.
Những người khốn nạn như thế, giết đi còn chưa đáng tội lỗi hơi đâu cứu vớt
thêm phiền.
Tống
Giang khuyên Hoa Vinh rằng:
- Hiền
đệ chớ nên nghĩ thế! Xưa nay thường nói "Không nên buộc chết cho
người", vả chi lại là đồng liêu với hiền đệ, dẫu có điều không phải cũng
nên che đậy cho người; thế mới là phải đạo.
Hoa Vinh
hối ngộ mà rằng:
- Huynh
trưởng dạy thế rất là phải lắm. Để ngày mai tôi có vào việc quan gì đó, sẽ nói
chuyện huynh trưởng cứu vợ con hắn cho hắn biết.
Tống
Giang gật đầu khen rằng:
- Nếu
vậy thì càng rõ cái hay của hiền đệ ra, tự nhiên là thiên hạ phải phục.
Từ đó
hai vợ chồng Hoa Vinh khỏan đãi Tống Giang càng ngày càng trân trọng và dọn dẹp
một gian phòng ở nhà trong, để lưu Tống Giang ở đó. Cách bốn năm hôm, Hoa Vinh
sai đầy tớ riêng dắt một ít tiền, để đưa Tống Giang đi chơi xem phong cảnh
trong trấn. Tống Giang đi xem, thấy chợ búa huyên hòa, phố phường rộn rịp, nào
nơi quán thấp, nào chốn lầu cao, miếu mạo chùa chiền, phong cảnh sầm uất. Mỗi
ngày Hoa Vinh lại cắt một người cho đem tiền đi hầu Tống Giang, song mỗi khi
vào hàng quán rượu chè, thì Tống Giang lại bỏ tiền ra chi dụng, còn tiền của
Hoa Vinh, thì để mặc cho người nhà được hưởng. Bởi thế Tống Giang ở đó chưa
được bao lâu, mà bọn người cửa người nhà không ai là không có lòng kính mến.
Ngày
tháng thoi đưa, sớm chiều lần lữa, Tống Giang ở trại Thanh Phong được hơn một
tháng trời, mà chốc đã đông tàn xuân đến, phong quang khác hẳn mười phần. Bấy
giờ đến Tết nguyên tiêu, các dân cư ở trấn Thanh Phong thu góp tiền nong, kết
trên giăng giấy kết hoa, treo năm bẩy trăm ngọn đèn hoa rất là rực rỡ; còn ở
trong miếu thổ thần, cùng các nơi phố sá đều treo đèn hết thảy, dẫu không ví
được với kinh sư là nơi đô hội song cũng chẳng khác chi một thành bất dạ vậy.
Buổi
sáng hôm ấy Hoa Vinh tiếp rượu Tống Giang ở trong trại, mãi đến gần trưa mới
xin phép đứng dậy, kiểm điểm mấy trăm tên lính, sai đi đàn áp nơi phố sá mà
canh giữ bốn bên cửa trại cho nghiêm. Vào khoảng xế chiều Hoa Vinh trở về trại,
nói với Tống Giang rằng:
- Lẽ ra
đêm nay tiểu đệ xin đi hầu huynh trưởng, để xem phong cảnh nguyên tiêu là phải,
song ngặt vì tiểu đệ phải trông coi quân lính, không thể nào dứt ra đi được.
Vậy đến tối xin cho mấy tên người nhà, dẫn hiền huynh đi du ngoạn mọi nơi, tiểu
đệ xin đợi ở nhà để khi về đây, ta cùng uống rượu cho vui.
Nói xong
sai dọn các thức điểm tâm lên cho hai người cùng ăn uống. Tối hôm ấy khí trời
ấm áp, lờ mờ có bóng trăng xuống, Tống Giang cùng ba bốn tên người nhà Hoa Vinh
dạo bước xem hội thi đèn. Khi ra tới phố, thấy nhà nào nhà ấy, đèn thắp từng
hàng, hoa treo suốt lượt, nào đèn vẽ lối cổ tích, đèn lối Bách mẫu đơn hoa, đèn
lối hoa sen, đèn kiểu hoa phù dung...không một kiểu gì không có. Bốn năm người
đi lững thững đến trước cửa miếu Thổ Thần, xem phong cảnh Ngao Sơn một lúc, rồi
lại dắt nhau quay đi. Mấy người đi về phía bên nam được chừng năm bảy trăm
thước, thì thấy phía trước mặt đèn đóm tưng bừng, có một đoàn người đang đứng
quanh vùng đó, một nơi tường viện lớn, mà tiếng nổi thanh la, cùng tiếng giọng
họ reo ầm ĩ vang tai. Tống Giang thấy vậy, vội vàng đến để xem, ai ngờ người
lùn khó xem, lại phải đứng sau tụi người đám đông, nên không sao xem rõ được,
sau tụi người nhà phải đạp đám người đông, để cho Tống Giang len vào tận nơi,
để xem cho rõ. Khi vào tới nơi, thấy một tụi con nhà nghề, đương nhảy múa rồi
rút lên ở đó Tống Giang thấy lão nhà nghề nhảy múa uốn éo nhiều lối buồn cười,
thì vỗ tay mà cười to lên mấy tiếng. Bấy giờ vợ chồng Lưu Cao đương ngồi xem ở
bên trên. Người vợ thấy tiếng cười hơi quen tai, liền ngẩng cổ nom, thấy Tống
Giang đứng đó, thì vội vàng trỏ mặt mà bảo chồng rằng:
- Kìa
thằng lùn đen kia, chính là thằng đầu sỏ đám giặc, nó bắt thiếp ở núi Thanh
Phong dạo trước đó. Lưu Tri Trại ngạc nhiên kinh sợ liền gọi sáu bảy tên đầy tớ
thân mà quát lên rằng:
- Bắt
thằng giặc lùn đen kia cho ta.
Tống
Giang ngẩng đầu trông lên, nghe tiếng quát bắt lại, thì chợt trông thấy vợ
chồng Lưu Cao ở đó, bèn vội vàng co cẳng chạy luôn. Bất đồ chạy được mươi nhà,
thì bọn kia đã đuổi kịp đến sau, liền bắt Tống Giang trói lại, mà dong về trong
trại. Mấy anh người nhà Hoa Vinh đi hầu Tống Giang, thấy vậy thì chạy về báo
cáo cho Hoa Vinh biết.
Bấy giờ
Lưu Cao về trại, thét giải Tống Giang lên mà thét mắng rằng:
- Quân
kia, mày là giặc cướp ở núi Thanh Phong ai cho phép bây dám cả gan đến đây xem
đèn xem hội?
Tống
Giang kêu rằng:
- Chúng
tôi là Trương Tam ở huyện Vận Thành, bạn thân với Hoa Tri Trại, mới đến chơi
mấy hôm nay ở đây, làm gì biết núi Thanh Phong, sao mà ngài dạy thế?
Con vợ
Lưu Cao ở phía sau bình phong nghe thấy vậy, liền chạy ra mà nói lên rằng:
- Đồ ăn
cướp kia, lại còn cãi à? Mầy có nhớ khi ta gọi mày là Đại Vương không?
Tống
Giang đáp rằng:
- Cung
nhân lầm rồi, bấy giờ tôi nói với cung nhân rằng: Tôi đây cũng là khách ở Vận
Thành bị bắt đến đây, nào phải Đại Vương đâu?
Lưu Tri
Trại nói:
- Mầy
bảo rằng mày là thằng bị cướp đến đó...sao mày nay lại ở đây xem đèn được?
Con mụ
kia lại tiếp luôn rằng:
- Chính
mầy ngồi ghế giữa ở sơn trại, ta kêu là Đại Vương mãi nào mày có nói gì đâu?
Tống
Giang thở dài mà rằng:
- Cung
nhân không nhớ gì đến công tôi cứu đỡ cho cung nhân được thoát nạn gian dâm,
nay còn đổ vạ cho tôi là ăn cướp, thì còn trời đất nào nữa.
Chị
chàng kia nghe nói, cả giận mà quát lên rằng:
- Quân
rắn đầu rắn mặt ấy, không đánh cho nó một mẻ thì sao nó chịu nhận.
Lưu Cao
khen là phải, liền thét lính lấy roi lên vật đánh Tống Giang vọt bắn máu tươi
rồi khóa xích hai chân tay, đợi sáng hôm sau làm xe tù để giải lên châu.
Bên kia
Hoa Vinh nghe thấy lũ người nhà về báo thì giật mình kinh ngạc, liền viết phong
thư, sai người thân mật sang nói với Lưu Cao, để cứu cho Tống Giang. Khi người
nhà đưa thư sang đến văn trại, Lưu Cao cho gọi vào sảnh sự, cất lấy thư bóc ra
xem thấy trong thư viết đại khái như sau này:
-
"Hoa Vinh bái thượng Lưu Cao tướng công. Nhân tôi có người bà con thân tên
Lưu Văn mới ở Tế Châu đến đây. Hôm qua vì đi xem hội đèn, lỡ có xúc phạm tôn
uy, thì xin ngài nghĩ tình tha thứ đi cho tôi sẽ xin đến cảm tạ. Mấy lời thô
thiển, lượng cả xét soi"
Lưu Cao
xem xong nổi giận đùng đùng, xé nát phong thư mà mắng rằng:
- Anh
Hoa Vinh này vô lễ quá! Hẳn là quan tước triều đình sao dám thông đồng với
giặc, mà bưng bít mắt ta? Thằng giặc này, nó đã khai là tên Trương Tam, ở Vận
Thành, thế mà Hoa Vinh dám viết giấy đến đây nói là Lưu Văn ở Tế Châu... ? Hắn
tưởng rằng nói họ Lưu, thì mình nghĩ tình cùng họ, mà tha cho nó chăng...Có khi
nào ta đây lại khờ dại đến thế? Tả hữu đâu! Đem thằng người nhà này đuổi cổ nó
ra.
Tên
người nhà bị đuổi ra, vừa căm tức, vội chạy về báo cho Hoa Vinh biêt. Hoa Vinh
nghe nói, càng lấy làm nóng lòng sốt ruột, liền sai người nhà đóng ngựa, rồi
mặc giáp, đeo cung, cầm đao, dẫn mấy mươi tên binh lính giáo gậy, mà thẳng xông
sang trại Lưu Cao.
Bấy giờ
đám lính canh cổng bên trại Lưu Cao trông thấy Hoa Vinh đến, thì anh nào cũng
sợ mất mật, mà chạy tán đi các ngả.
Hoa Vinh
đi vào đến trong sảnh, liền xuống ngựa, cầm giáo ra tay, rồi dàn mấy tên quân
ra trước cửa sảnh kêu to lên rằng:
- Mời
Lưu Tri Trại ra đây nói chuyện...
Lưu Tri
Trại nghe tiếng Hoa Vinh, thì sợ mất hồn mất vía, nấp chui vào một chỗ mà không
dám thò ra.Hoa Vinh đứng đợi hồi lâu, không thấy Lưu Cao ra, liền hô quân lính
đi ra thẳng đằng sau, để cứu người bị bắt. Ba bốn mươi tên lính, vâng lệnh đổ
ùa đi tìm, đến một gian phòng ở dưới trại, thấy Tống Giang bị trói treo lên xà
nhà, xích sắt xích cả chân tay, mà thịt da sứt ra từng chỗ, tụi quân lính túm
lại cởi nâng Tống Giang xuống, tháo bỏ xích sắt, rồi cùng nhau vực ra ngoài cửa
sảnh.
Hoa Vinh
trông thấy rất là thổn thức trong lòng bèn sai lính đưa về nhà trước, rồi nhảy
lên ngựa mà nói to lên rằng:
- Lưu
Cao! Ngươi là một ông quan văn Tri Trại ở đây, sao nỡ đãi Hoa Vinh như thế? Nhà
ai không có bà con thân thích, ngươi nỡ lòng nào mà bắt biểu huynh ta, đem về
nhà mà vu rằng trộm cướp cho đành? Để nay mai ta sẽ nói chuyện với ngươi.
Nói đoạn
dẫn chúng về trại, để trông nom phục thị Tống Giang.
Máu nóng
đã chan lò chí khí
Gan già
chi ngại lúc gian truân!
Biết
chăng hỡi khách hồng quần,
Oán kia
sao để đền ân cho đành?
Bấy giờ
Lưu Cao thấy Hoa Vinh cứu người đem đi rồi, liền âm ọe ra công đường, điểm lấy
hai trăm người sang trại Hoa Vinh để cướp lại.
Bọn hai
trăm quân lính đó, có hai người làm giáo đầu, một người võ nghệ khá sắc sảo
tinh nhanh, song không đọ nổi với Hoa Vinh kia được. Khi chúng được lệnh của
Lưu Cao, thìtrong lòng đã có ý ngần ngại, nhưng mà lệnh trên bắt buộc, không
thể từ nan, đành phải chỉnh đốn cung thương, mà kéo sang Hoa Trại.
Sáng sớm
hôm ấy, chúng kéo nhau sang đến cửa trại, thấy cửa vẫn mở toang không đóng,
chúng đều kinh sợ, không anh nào dám cả gan mà sấn đi vào trước.
Bấy giờ
Hoa Vinh ngồi trong nhà sảnh, thấy chúng đứng đông nghịt cả ngoài cửa, bèn lấy
cung tên giơ lên mà quát to bảo chúng rằng:
- Bớ
quân sĩ các ngươi, oan có đầu mà nợ thì có chủ. Nay Lưu Cao sai các ngươi đến
đây, toan để báo thù cho hắn, song ta e hai viên Giáo đầu mới đến, chưa biết võ
nghệ của Hoa Vinh, vậy ta hãy bắn mấy mũi tên, cho các anh coi thử...Nếu không
sợ thì cứ vào đây mà rửa mặt Lưu Cao. Trông ...mũi tên này ta bắn vào cái quả
nắm ở đầu thanh phạng của Môn thần bên tả đây.
Hoa Vinh
nói dứt lời, rồi bắn đến tách một cái, chính đúng vào đầu phạng Môn thần bên
tả. Hai trăm người trông thấy, đều kinh sợ thất thần. Hoa Vinh lại lấy mũi tên
thứ hai, rồi quát bảo chúng rằng:
- Chúng
bây xem mũi tên thứ hai này ta bắn vào cái mào đỏ mũ Môn thần bên hữu đây.
Nói
đoạn, thấy đánh tạch một tiếng; mũi tên đã cắm vào giữa mào đỏ ở giữa mũ Môn
thần bên hữu, không trệch đi một ly nào.
Bấy giờ
hai mũi tên ấy vẫn dán ở trên cánh cửa, Hoa Vinh lại lấy ra một múi tên thứ ba,
rồi quát lên rằng:
- Bây
trông mũi này ta bắn vào giữa bụng tên Giáo đầu mặc áo trắng trong đám quân đó.
Viên
Giáo đầu kia nghe tiếng thì kêu lên, rồi ngoắt mình chạy trước còn đám quân
lính thì ồ nhau mà té chạy hết cả.
Bấy giờ
Hoa Vinh sai đóng cửa trại lại, rồi trở vào nhà trong nói chuyện với Tống
Giang, rằng:
- Việc
nầy thực là lỗi tại tiểu đệ, vì sơ ý một chút, để đến nỗi huynh trưởng phải
chịu những khổ nhục như vậy, xin huynh trưởng tha trong lỗi cho.
Tống
Giang đáp rằng:
- Tôi
đây có quản chi những điều ấy, duy Lưu Cao tất còn sinh sự chưa thôi, vậy anh
em ta phải nghĩ cách phòng bị thế nào thì mới được.
Hoa Vinh
nói:
- Có thế
nữa thì tiểu đệ xin liền bỏ chức quan này mà liệu cho nó một mẻ là xong.
Tống
Giang thở dài mà rằng:
- Ai ngờ
con vợ nó lại nỡ lòng đem oán trả ân, xui chồng đánh bắt, làm nhục đến mình như
vậy. Tôi đã toan nói rõ tên họ, lại e tiết lộ việc Diêm Bà Tích, nên phải nói
dối là Trương Tam ở huyện Vận Thành. Dè đâu Lưu Cao lại đem lòng tàn nhẫn cho
tôi là Hổ Trương Tam ở Vận Thành, đến làm giặc ở núi Thanh Sơn, và toan đóng xe
tù để giải. Nay nếu không có hiền đệ cứu cho, thì dẫu lưỡi sắt môi đồng cũng
không thể nào biện bạch phân minh ra được.
- Nguyên
trước tiểu đệ tưởng anh ta là người biết chữ, thì tất nhiên thương người cùng
họ. Dè đâu hắn lại xử bạc tình đến thế! Hay cho nhân tình thế cố, lắm nỗi buồn
tênh, nghĩ đến bao nhiêu, lại càng thêm căm tức.
Tống Giang
cười nhạt mà rằng:
- Hiền
đệ còn nói chi hai chữ tình nghĩa ở đời vậy, cho thêm bận lòng, bây giờ hắn đã
bị hiền đệ công nhiên đến cướp lấy người về, rồi sai đám quân lính đến đây, lại
sợ kinh chạy tán, thì tất nhiên phải tư giấy đi các nơi, để sinh sự với ta, vậy
ta phải liệu trước thế nào mà lánh thân mới được. Tôi định rằng chiều nay tôi
phải chạy về núi Thanh Phong, còn hiền đệ ở đây với hắn dù khi có xẩy việc thì
bất quá cho là đôi bên văn võ bất hòa, cũng không khi nào đến tội. Nhược bằng
tôi còn vất vưởng ở đây, nhỡ ra bị nó bắt một lần nữa, thì khó lòng mà phân
thuyết cho ra...Hiền đệ nghĩ sao?
Hoa Vinh
nghĩ ngợi hồi lâu, rồi đáp rằng:
- Huynh
trưởng là bậc cao minh, nghĩ vậy rất là phải lắm, song hiện nay còn đương đau
đớn như vậy, thì đi làm sao được?
- Đành
vậy, việc gấp đến nơi, dẫu thế nào không đi cũng không được.. Hiền đệ để mặc
tôi đi mới xong.
Hoa Vinh
nghe nói, cũng không dám cưỡng lời, liền sai mua thuốc cao cho Tống Giang dán
vào các chỗ đau, và sắp sửa các đồ hành lý, để tối hôm ấy Tống Giang cất lẻn về
núi Thanh Phong.
Đêm
khuya một bước ngại ngùng,
Thói đời
lạnh ngắt lửa lòng nóng ran!
Trông
vời khói hợp mây tan,
Thân này
nợ với giang san thế nào?
Lưu Cao
từ khi thấy quân lính tan nát chạy về, ai nấy đều kinh sợ cái oai thế hùng dũng
của Hoa Vinh, thì trong lòng lấy làm căm tức, liền nghĩ ra một kế, mà tự nói
một mình rằng: "Hoa Vinh đã cướp được tên giặc ấy về, tất nhiên đêm nay
cho trốn trên núi Thanh Phong, rồi sáng mai sẽ tranh biện với ta...dẫu cho đến tai
quan trên, thì chẳng qua hai bên văn võ bất hòa, cũng không làm gì được hắn.
Vậy đêm nay ta phải sai vài ba mươi tên phục sẵn bên ngoài năm dặm đường để
đón. May ra mà vớ được thằng giặc ấy, thì ta sẽ lẳng lặng, cho người lên báo
với châu phủ, để về bắt cả Hoa Vinh, mà kết quả nó đi một thể bấy giờ toàn trại
Thanh Phong sẽ thuộc về ta cai trị, không còn đứa nào dám ho he láo xấc với
ta!" Chàng nghĩ đoạn, liền gọi hơi hai mươi tên lính, sắp sẵn các đồ khí
giới mà dặn dò cẩn thận, để đến tối đi bắt Tống Giang. Vào khoảng canh hai tối
hôm ấy, quả nhiên thấy quân lính bắt trói Tống Giang đem về Lưu Cao cả mừng lấy
làm đắc sách, liền sai đem Tống Giang giam vào nhà sau, giữ kín không cho ai
biết, và nhất diện thảo công văn cho hai tên tâm phúc, lên báo với quan Tri Phủ
Thanh Châu.
Quan Phủ
Thanh Châu, họ Mộ Dung, tên là Ngạn Đạt, tức là anh nàng Quý Phi vợ vua Huy Tôn
nhà Tống bấy giờ, sinh bình cậy thế em gái ngang dọc ở đất Thanh Châu, tàn hại
lương dân, lừa dối liêu hữu, không một điều chi là kiêng nể không làm, hôm đó
đương ngồi coi hầu, bỗng tiếp được công văn của Lưu Tri Trại đưa đến, Tri Phủ
xem xong lấy làm kinh ngạc mà rằng:
- Hoa
Vinh là con cháu công thần, có sao dám thông đồng với cường tặc ở núi Thanh
Phong như vậy? Việc này chưa biết hư thực ra sao, song ta cắt người qua đó xem
xét hư thực mới được.
Nói đoạn
liền cho gọi Đô Giám bản châu đến để sai đi.Đô Giám này tên là Hoàng Tín, võ
nghệ cao cường, đã từng nổi tiếng ở đất Thanh Châu. Trong địa hạt Thanh Châu có
ba chốn ác sơn, một là núi Thanh Phong, hai là núi Nhị Long, ba là núi Đào Hoa,
đều có giặc cướp tụ họp ở đó, Hoàng Tín thường tự phụ, có phen trừ hết giặc
cướp ở ba núi mới nghe, nhân thế người ta đặt tên cho Trấn Tam Sơn Hoàng Tín.
Bấy giờ
Hoàng Tín vâng lệnh Tri Phủ, liền chọn lấy năm mươi tên lính sắp sửa mũ giáp,
nhảy lên mình ngựa, tay cầm đôi thanh kiếm, mà kéo quân mau tới Thanh Phong.
Khi tới nơi, Tri Trại là Lưu Cao đón tiếp, mới vào nhà trong, mở tiệc thiết đãi
Hoàng Tín, khao thưởng các hàng quân lính, và nhất diện sai bắt Tống Giang ra
cho Hoàng Tín xem.
Hoàng
Tín xem xong bảo với Lưu Cao rằng:
- Thằng
này bất tất phải hỏi lôi thôi làm gì,cứ đóng ngay xe tù bỏ nó vào đó, rồi viết
chữ vào lá cờ là tên đầu cướp Hổ Trương Tam ở núi Thanh Phong mà giải đi cho
rảnh.
Tống
Giang nghe vậy, đành mặc cho họ xử trí, không cãi nói vào đâu được nữa, Hoàng
Tín lại hỏi Lưu Cao rằng:
- Khi
bắt được tên Trương Tam này, Hoa Vinh có biết hay không?
Lưu Cao
đáp rằng:
- Tiểu
quan bắt được từ đêm hôm qua, liền đem giấu ngay vào nhà trong, có lẽ Hoa Vinh
vẫn tưởng là nó trốn thoát được rồi, nên không thấy động tĩnh chi cả.
- Nếu
vậy thì hay lắm! Sáng mai cứ cho bày tiệc ở công đường, và sai bốn mươi người
nấp quanh ở đó, rồi tôi đi đến trại Hoa Vinh nói dối là quan phủ Mộ Dung nghe
thấy hai bên văn võ bất hòa, nên cho tôi về đây, mời sang Văn Trại để uống
rượu, mà xếp dàn cho im chuyện. Khi sang đến đấy phải dặn quân lính trước, cứ
nghe hiệu tôi đập chén thì đổ xô ra trói lại, rồi giải lên phủ một thể, như thế
phỏng có được không? Lưu Cao cả mừng khen rằng:
- Kế
sách của tướng công thực là thần diệu, khác gì bắt ba ba trong hũ, còn trốn đi
đâu cho thoát được!
Sáng hôm
sau Lưu Cao sai người làm tiệc, bày dọn ra ngoài công đường, gọi mấy chục tên
lính, cho nấp kín ở chung quanh, rồi đến gần trưa thì Hoàng Tín cưỡi ngựa dẫn
vài ba người hầu đi sang bên trại Hoa Vinh. Khi tới nơi, bọn quân lính báo cho
Hoa Vinh biết. Hoa Vinh hỏi chúng rằng:
- Hoàng
Tín đến đó, có nói là việc chi không?
Quân
lính đáp rằng:
- Hoàng
Đô Giám chỉ nói là đến thăm ngài, chứ không có việc gì cả.
Hoa Vinh
nghe vậy, liền ra cửa đón tiếp mời vào ngồi chơi trong sảnh mà hỏi rằng:
- Dám
thưa Đô Giám, chẳng hay tướng công qua đây chơi có việc gì?
Hoàng
Tín đáp rằng:
- Hạ
Quan nay vâng lệnh Tri Phủ, đến đây: Vì nghe nói hai ngài không được hòa thuận
với nhau, quan phủ chỉ e các ngài vì nỗi tư thù, mà làm lỡ mất việc công, nên
phải sai tôi đem dê rượu đến đây để cùng các ngài phân giải. Hiện giơ đã bày
sẵn sàng ở bên Công Đường Văn trại, vậy xin ngài cùng lên ngựa đến đấy ngay
cho.
- Hoa
Vinh tôi, đâu dám khinh rẻ Lưu Cao, chẳng qua ông ta là một ông quan chính,
thường hay tìm bới những sự lỗi lầm của Hoa Vinh, dè đâu đến tai quan trên như
thế. Nay lại phiền cho Đô Giám đến đây, quan trên như thễ. Nay lại phiền cho Đô
Giám đến đây, thực chúng tôi không biết lấy gì mà trả ơn cho được.
Hoàng
Tín ra mặt thân mật, ghé vào tai Hoa Vinh sẽ nói nhỏ rằng:
- Quan
Phủ vốn biết túc hạ là người tài đảm, hữu dụng trong lúc can qua, chứ như lão
kia là văn quan, thì có làm gì được! Nay ngài cứ đi ngay cho. Nói xong lại thúc
giục Hoa Vinh mau mau đứng dậy cùng đi. Hoa Vinh giữ lại, uống chơi vài chén
rượu, Hoàng Tín gạt đi mà rằng:
- Để khi
giảng giải xong rồi, ta uống rượu cho thỏa chí với nhau, ngại gì?
Hoa Vinh
phải vâng lời, lập tức sai người đóng ngựa đóng cương cùng Hoàng Tín ra đi. Khi
tới văn trại hai người cùng xuống ngựa Hoàng Tín dắt tay Hoa Vinh đi vào công
đường, cùng Lưu Cao thi lễ, rồi ba người ngồi vào bàn dự tiệc. Bấy giờ lính
tráng đã dắt ngựa của Hoa Vinh buộc ra sau trại, và cài cửa trước cửa sau rất
là cẩn thận. Hoa Vinh ngồi trong tiệc rượu, tự nghĩ Hoàng Tín đối với mình cùng
là hàng quan võ, thì tất nhiên thành thực với nhau, mà không nghĩ ngại điều
chi, cho nên cứ phóng tâm uống rượu, Hoàng Tín nâng một chén rượu mời Lưu Cao
mà rằng:
- Quan
Phủ nghe nói hai ngài không được thỏa thuận với nhau, ngày nay sai Hoàng Tín
qua đây, là cốt để vì các ngài mà dàn xếp cho yên, từ nay xin các ngài phải lấy
quốc gia làm trọng, có công việc gì, lại bàn định với nhau mà thi hành cho thỏa
thích.
Lưu Cao
đáp rằng:
- Lưu
Cao tôi là một kẻ bất tài, song cũng biết được đường kia lẽ nọ, có dám kêu cựa
điều chi, cái đó chẳng qua là người ta thêm đặt nói càn, làm phiền đến Tri Phủ
cùng tướng công đây, thực chúng tôi lấy làm cảm động vô hạn.
Hoàng
Tín cười rằng:
- Nếu
ngài giữ được như vậy, thì còn gì hơn nữa.
Đoạn rồi
lại rót chén rượu thứ hai đưa cho Hoa Vinh mà khuyên rằng:
- Cứ
theo như lời Lưu Tri Trại nói: Thì điều đó chẳng qua thêm đặt bởi người ngoài,
chứ các ngài có đâu như thế? Vậy xin ngài uống chén rượu này để thỏa thuận cho
vui.
Lưu Cao
lại rót một chén mời Hoàng Tín mà rằng:
- Vì
việc chúng tôi mà phiền đến Đô Giám tới đây,vậy một chén rượu này xin ngài cúi
nhận uống cho.
Hoàng
Tín cảm ơn, đỡ lấy chén rượu cầm ở tay, liếc trông ra thấy mười mấy tên lính đi
vào công đường, chàng liền vứt ngay chén xuống đất để ra hiệu. Bấy giờ bốn tên
công đường bỗng ồn ồn có đến bốn năm mươi tên đổ xô ra mà túm lấy Hoa Vinh,
Hoàng Tín quát lên rằng:
- Trói
nó lại.
Hoa Vinh
thấy thế liền kinh ngạc kêu lên rằng:
- Tôi có
tội gì...Tôi có tội gì?
Hoàng
Tín cười nhạt, rồi quát mắng rằng:
- Lại
còn chối hay sao? Người là một quan chức dám kết thông với giặc Thanh Phong để
toan mưu phản triều đình như thế phỏng đáng tội gì? Ta đây còn nghĩ đến tình
diện khi trước, nên không muốn bắt cả vợ con nhà ngươi đó thôi.
Hoa Vinh
cãi lại rằng:
- Làm
cướp phải có chứng cớ mới được chứ?
Hoàng
Tín nói:
- Để ta
đem chứng cớ đoan đích cho mà xem, không còn kêu ca gì nữa...Chúng đâu? Đem ra
đây.
Nói đoạn
thì thấy quân lính đẩy một cỗ xe tù, thấy Tống Giang nằm co ở trong xe đó. Hoa
Vinh thấy vậy giật mình đờ hẳn người ra, mà không biết nói làm sao được nữa.
Hoàng
Tín lại nói:
- Cái đó
ta có biết đâu, hiện có người nguyên cáo là Lưu Cao đây.
Hoa Vinh
cười nhạt mà rằng:
- Được
lắm! Người ấy chính là người thân quyến của ta ở huyện Vận Thành đến chơi, các
ngươi lại muốn vu cho là ăn cướp cũng được. Để khi giải đến Thượng Ty ta đã có
cách.
Hoàng
Tín cười mà rằng:
- Phải,
tôi giải bác lên phủ, rồi bác lên đấy mà kêu.
Nói
đoạn, quay ra bảo Lưu Cao điểm lấy một trăm lính trại để đi, và đem xe tù ra để
giam Hoa Vinh mà hộ tống giải phủ.
Hoa Vinh
nói với Hoàng Tín rằng:
- Đô
Giám đánh lừa tôi đến đây, dù sao công việc thế nào đã có triều đình xử trị,
song cũng nên nghĩ lại tôi đây là một chức võ quan mà tha cho, đừng bắt phải bỏ
xiêm áo, cứ để tôi ngồi vào xe tù cũng được.
Hoàng
Tín nói:
- Cái đó
thì được, xin vâng.
Nói xong
liền cho Hoa Vinh ngồi vào xe tù, rồi gọi Lưu Tri Trại sắp sửa để cùng đi áp
giải lên phủ, mà không cho hại đến tính mạng tội nhân.
Mới hay:
Cơ trời
họa phúc xưa nay,
Trong
gang tấc đã đổi thay mấy lần,
Hễ ai
biết mẹo hồng quân,
Chữ Tài
chữ Lụy xoay vần làm sao?
Dấu thân
trong cuộc ba đào?
Khoe đời
xem xét thế nào cho tinh?
Lạ chi
đen bạc thế tình,
Lỡ khi
oan nghiệt đếm mình kêu ai?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Nhà văn
có bút pháp, gọi là theo cành tiếp lá, mỗi lần diễn tả phải khác nhau ra, song
le tự sự cho thanh khiết, dùng bút cho minh nhã, cũng không thể coi thường, vì
như đạo chơi non núi, dạo qua một cảnh núi, lại hỏi thăm một cảnh núi, lúc bấy
giờ, dạo qua lối tắt tiểu kiểu với những cảnh bờ cong bãi cát, dòng nước lượn
quanh...chợt đâu núi trước chưa hồn vía vừa định, thì núi sau đã tới tai mắt
lại để vào tuy rằng trong gian lắm nỗi bực mình, song chẳng phải là không thỏa
ý, nay dạo chơi qua một cầu, một nước, một bãi, một bờ...quang cảnh đã thú,
huống chi cả bảy mươi hồi chuyện, đều chép ra như vẽ bao nhiêu quanh cảnh khác
nhau. Đây ý nói của Bình giả, xét thấy một hồi này tả ra cảnh ngộ Tống Giang
lâm nạn ly kỳ ở trại Thanh Phong, vì một Lưu Cao, liên đới Hoa Vinh, cũng chỉ
vì Tống Giang lánh nạn kia, lại gặp nạn này, theo bút pháp tả ra gọi là theo
cành tiếp lá, thấy ở một hồ này vậy.
Tác giả
tả Hoa Vinh rất là văn tú, đối với hảo hán, đối với đồng liêu thấy hơn hẳn
người, sau chuyện Võ Tòng, ít có một người như thế xứng đáng Hổ thần Nho Tướng,
chia ra hai phần, họp lại toàn bích vậy.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 33: Đường Thanh Châu, Trấn Tam Sơn ra
sức; Núi Thanh Phong, Tịch Lịch Hỏa mắc mưu
Bấy giờ
Lưu Tri Trại mình mặc áo nhung phục, tay cầm quân khí, cưỡi lên mình ngựa, cùng
với Hoàng Tín, dẫn hơn một trăm quân, đao gươm sáng quắc, chiêng trống vang
lừng, đi ra cổng trại mà áp tải Hoa Vinh và Tống Giang, trông chừng thẳng nẻo
Thanh Châu. Đi được ba bốn mươi dặm đường, gần đến một khu rừng kia, bỗng thấy
đám lính đi trước bảo nhau rằng:
- Phía
rừng trước mặt có người nom dòm, ta hãy đứng dừng lại.
Nói xong
liền đứng dừng lại cả. Hoàng Tín thấy vậy, ngồi trên mình ngựa mà bảo rằng:
- Sao
đương đi lại đứng dừng như thế?
Chúng
bẩm rằng:
- Phía
trước có người thám thính chi đó.
Hoàng
Tín quát lên rằng:
- Mặc
xác nó, cứ đi đi. Dần dần đi gần tới khu rừng trước mặt, thì bỗng nghe có tiếng
thanh la khua gỡ vang lừng, quân chúng ai nấy đều kinh sợ hoang mang, phải cố
công ra sức mà chạy.
Hoàng
Tín thấy vậy, quát chúng đứng lại sắp hàng ra trước mặt, rồi bảo Lưu Cao coi áp
lấy xe tù. Lưu Cao ngồi trên mình ngựa, cố hết sức mà không sao cất mồm vâng
lên được, trong miệng chỉ lẩm bẩm khấn rằng:
- Nam mô
cứu khổ cứu nạn thiên tôn...ối trời ơi! Mười vạn quyển kinh, ba mươi đàn tiếu,
cứu vớt cho tôi...
Chàng
vừa khấn, vừa run sợ sắc mặt biến hẳn, khi vàng khi xanh như người mất máu. Duy
Hoàng Tín là một tay võ quan xuất thân, nên vẫn bền gan vững dạ, vỗ ngựa xông
đến để xem.
Khi gần
tới nơi, thấy có bốn năm trăm tiểu lâu la, người to sức khỏe mặt mũi dữ tợn,
đầu bít khăn hồng mình mặc áo ngắn, lưng đeo gươm sáng, tay cầm giáo dài, chia
bốn ngả vây bọc lấy bọn quân quan. Đoạn rồi có ba hảo hán ở trong rừng xông ra,
một người mặc áo xanh, một người mặc áo tím, và một người mặc áo hồng, đều đầu
đội khăn chữ Vạn, tay vác thanh đao, cùng trổ ra ngăn đón đường đi.
Người đi
giữa là Cầm Mao Hổ Yến Thuận, người đi cạnh là Nụy Cước Hổ Vương Anh, và người
đi cánh dưới là Bạch Diện Lang Quan Trịnh Thiên Thọ ba người cùng quát lên
rằng:
- Ai đi
qua đó, phải đứng dừng lại nộp ba nghìn quan tiền thuế đường đây, rồi mới được
đi.
Hoàng
Tín ngồi trên mình ngựa thét mắng rằng:
- Các
anh không được vô lễ thế, Trấn Tam Sơn ở đây có biết không?
Ba anh
hảo hán lại trừng mắt mà quát lên rằng:
- Anh là
Trấn Vạn Sơn cũng phải để ba nghìn quan tiền lại đây, bằng không thì chúng ta
không buông tha cho đi. Hoàng Tín đáp rằng:
- Ta là
Đô Giám đi việc quan làm gì có tiền mà cho các ngươi?
Ba chàng
kia cả cười mà rằng:
- Đô
Giám thì làm gì? Đến ngay Hoàng Đế qua đây, cũng phải nộp ba nghìn quan mới
được. Nếu không có thì lưu mấy người lại đây, rồi sau đem tiền đến chuộc.
Hoàng
Tín nghe nói nổi giận đùng đùng mắng rằng:
- Quân
cường tặc này vô lễ quá... ?
Nói xong
quát tả hữu nổi trống chiêng vỗ ngựa múa gươm xông ra đánh Yến Thuận. Bên kia
ba vị hảo hán đều múa đao xông vào cự địch. Hoàng Tín ngồi trên mình ngựa, hết
sức đánh đỡ được hơn mười hiệp, thì nghe chừng sức kém, khó lòng mà địch nổi ba
người. Đằng kia Lưu Cao vẫn run cầm cập, đứng ra nhìn lại thấy địa thế như vậy,
thì chỉ chực thừa cơ mà chạy thoát thân. Sau Hoàng Tín thấy thế ba người hăng
hái, sợ khi lỡ ra mình lại bị bắt thì tất nhiên giảm mất uy danh, liền ngoắt
cương ngựa quay về lối sau để chạy. Ba anh hảo hán thấy vậy cùng nhau gắng sức
đuổi theo. Hoàng Tín không kịp nom đến quân lính, ra roi hết sức mà chạy tháo
một mình về tót ngay Trấn Thanh Phong.
Quân
lính trông trước sau không thấy Hoàng Tín đâu nữa, liền reo hò ầm ĩ, bỏ cả xe
tù mà kéo nhau chạy hết.
Bấy giờ
còn trơ một mình Lưu Cao, thấy nguy cấp tới nơi, vội vàng quất ngựa ra roi cũng
toan chạy mau cho thoát. Dè đâu mới chạy được mấy bước, thì bỗng bị đám lâu la
giật giây chăng dưới mặt đất, làm cho con ngựa ngã gục xuống, mà bắn hẳn Lưu
Cao ra ngoài. Bọn lâu la kéo nhau vào bắt trói Lưu Cao, rồi cướp lấy xe tù mở
ra để cứu. Khi đó Hoa Vinh đã đạp phá xe tù của mình, nhẩy bổ ra ngoài giựt đứt
các giây trói ở tay, rồi phá tan xe tù kia để đón Tống Giang ra. Bọn lâu la bóc
lột quần áo của Lưu Cao đưa cho Tống Giang mặc rồi cướp lấy con ngựa của Lưu
Cao,và ba cỗ ngựa đóng xe, mà đưa Tống Giang về trước. Đoạn rồi ba tay hảo hán
cùng Hoa Vinh và mấy tên tiểu lâu la trói trần truồng Lưu Cao mà áp giải lên
sơn trại.
Nguyên
sau khi ba vị hảo hán ở núi Thanh Phong đã từ biệt Tống Giang thì trong lòng
lấy làm áy náy không yên, bèn sai mấy tên lâu la tinh thạo, đi đến trấn Thanh
Phong để dò xem tin tức.Sau khi nghe biết Hoàng Tín cùng Lưu Cao đã bắt cả Hoa
Vinh cùng Tống Giang mà đóng xe tù giải lên quan phủ. Nhân thế ba tay hảo hán
phải ra công gắng sức, đem tiểu lâu la chận đánh giữa đường, mà cứu hai người
về trại.
Hôm đó
vào khoảng canh hai, kéo nhau về đến sơn trại, vào tụ nghĩa sảnh, ba người mời
Tống Giang và Hoa Vinh ngồi giữa, rồi sai dọn rượu lên cùng ngồi tiếp đãi, và
cho phép đám tiểu lâu la cùng đi đánh chén với nhau. Bấy giờ Hoa Vinh cảm tạ ba
tay hảo hán mà nói rằng:
- Hoa
Vinh cùng ca ca tôi, nhờ được ba tay hảo hán vừa cứu cho, thực là ân sâu nghĩa
nặng, chúng tôi xin khắc cốt minh tâm, để sau này báo đáp. Duy Hoa Vinh tôi có
vợ và em gái ở trại Thanh Phong tất nhiên là bị Hoàng Tín bắt bớ lôi thôi, vậy
nay có phương kế nào mà cứu ra cho được?
Yến
Thuận đáp rằng:
- Xin
Tri Trại cứ vững tâm, chắc rằng Hoàng Tín cũng không khi nào dám bắt cung nhân,
mà nếu có nỡ lòng quyết bắt thì tất nhiên cũng phải đem qua lối này, chứ không
đi đâu thoát được. Đến sáng mai ba anh em tôi xin xuống núi một phen để đón
cung nhân và lệnh muội về đây một thể.
Nói đoạn
liền gọi tiểu lâu la sai đi trước để dò thăm tin tức. Hoa Vinh nghe nói liền
đứng dậy tạ ơn Yến Thuận, Tống Giang bảo với Yến Thuận rằng:
- Xin
hiền đệ truyền giải Lưu Cao lên đây cho.
Yến
Thuận vâng lời, sai lâu la trói Lưu Cao vào cột nhà ròi nói với Tống Giang
rằng:
- Xin
moi lấy ruột gan quân tàn ác ấy để mừng cho ca ca. Hoa Vinh nói:
- Để đó,
tôi hạ thủ cho mới được.
Tống
Giang trỏ mặt Lưu Cao mà nói rằng:
- Quân
tàn ác bất nhân kia, ta với ngươi xưa nay có can thiệp thù oán gì nhau, ngươi
nỡ nào nghe một đứa đàn bà vong ân bội nghĩa mà hại đến ta... ?
Hoa Vinh
đứng dậy nói lên rằng:
- Ca ca
hỏi làm gì những giống khốn nạn ấy cho nó bận mồm.
Nói đoạn
liền mang dao ra rạch lấy ruột Lưu Cao đem vào để trước mặt Tống Giang, rồi sai
lâu la vứt xác vào một xó.
Dao oan
liếc đá giang hồ,
Từ nay
bội bạc ngoan ngu hết hồn?
Bấy giờ
Tống Giang nói với mọi người rằng:
- Ngày nay
tuy đã giết được đứa thất phu đê mạt ấy, song còn con mụ đàn bà khốn nạn kia,
ta cũng không thể nào mà tha cho được.
Vương
Anh đáp luôn rằng:
- Sáng
mai tôi xin đi bắt về đây, tất phen này về tay tôi hẳn.
Chúng
nghe nói ai nấy đều ôm bụng cả cười. Đoạn rồi ăn uống vui cười mãi đến đêm
khuya mới nghỉ.
Sáng hôm
sau cùng nhau bàn định đi đánh trại Thanh Phong, Yến Thuận nói với mọi người
rằng:
- Hôm
qua bọn lâu la đều bị khó nhọc suốt ngày,hãy xin tạm cho nghỉ một hôm, rồi sáng
mai sẽ đi sớm cũng được
Tống
Giang cùng mọi người đều khen phải, liền cho tụi lâu la chơi nghỉ một hôm, để
ngày hôm sau đi đánh trại.
Nói về
Hoàng Tín, một mình chạy trốn về trại Thanh Phong, bèn kiểm điểm binh mã canh
giữ bốn mặt cửa trại, rồi thảo công văn giải bầy sự nguy cấp: "Hoa Vinh
liên kết với giặc núi Thanh Phong, trại Thanh Phong sớm hôm nguy cấp", để
báo với Tri Phủ Mộ dung và xin sai lương tướng mau mau trừ liễu cho xong.
Quan Tri
Phủ Mộ Dung tiếp được công văn phi báo khẩn cấp về việc quân tình, lại lấy làm
cả kinh liền lập tức sai gọi Thanh Châu chỉ huy Tổng quản binh mã là Tần Thống
chế, để bàn định việc quân.
Người
này họ Tần tên Minh, quê ở Khai Châu Sơn Hậu tính nóng nảy, tiếng to như sấm,
người ta thường gọi là Tịch Lịch Hỏa Tần Minh vốn nhà dòng dõi võ quan. Khiến
cây gậy lang nha (nanh con lang) sức khỏe muôn người khôn địch. Bấy giờ Tần
Minh nghe lịch Tri Phủ cho mời, bèn vội vàng vào nha thương nghị. Quan Phủ Mộ
Dung đưa giấy phi báo của Hoàng Tín cho Tần Thống Chế xem.
Thống
Chế xem xong cả giận nói rằng:
- Thằng
trẻ con đỏ đầu dám vô lễ đến thế thì thôi! Việc này ngài không cần phải lo
nghĩ, tôi xin đem quân mã đi ngay, nếu không băt được giặc, xin thề không trông
thấy ngài nữa.
- Nếu
tướng quân chậm trễ một chút, thì e sợ khi họ đến đánh trại Thanh Phong nguy
mất.
- Khi
nào dám chậm trễ, đêm nay tôi xin điểm lấy binh mã; rồi sáng sớm mai phải đi
ngay mới được.
Quan Phủ
nghe nói cả mừng, liền truyền lịnh sắp sẵn các thức rượu thịt cùng lương khô,
đem để ra ngoài thành khao thưởng quân sĩ. Khi đó Tần Minh nghe nói Hoa Vinh
làm phản, thì trong bụng sôi nổi giận dữ, bèn lên ngựa về dinh Chỉ Huy, điểm
lấy một trăm quân mã, một trăm quân bộ, truyền cho ra thành dàn trận thế, để
sắp sửa hành binh.
Quan phủ
Mộ Dung đem người nhà ra một nơi tự viện ở ngoài thành, sai chưng bánh hâm rượu
để đợi quân sĩ ra thành mà khao thưởng. Khi kéo quân ra tới cửa thành trước mặt
viết một là cờ đỏ bảy chữ" Binh mã Tổng Đốc Tần Thống Chế" rất to,
Tần Minh mặc áo nhưng phục, ngồi trên mình ngựa, quả nhiên là một bậc dũng
tướng anh hùng.
Tần Minh
dẫn quân mã đến gần tự viện, thấy Tri Phủ đứng đón ở đó. Liền vội vàng xuống
ngựa để nghinh tiếp. Tri Phủ nâng chén rượu mà mời khuyên Tần Minh, và dặn dò
cặn kẽ, chúc cho chóng được tấu khải trở về.
Khi khao
thưởng quân sĩ đã xong, bèn nổi mấy tiếng súng hiệu, rồi Tần Minh từ giã Tri
Phủ mà nhảy lên mình ngựa, dàn thành đội ngũ nghiêm trang mà kéo quân đến núi
Thanh Phong.
Bọn tiểu
lâu la ở trên núi biêt tin tức, liền phi báo các vị hảo hán. Bấy giờ các vị hảo
hán đương sửa soạn đi đánh trại Thanh Phong bỗng nghe tin báo Tần Minh kéo quân
đến đánh, thì ai nấy đều nhìn nhau không biết lấy kế sách gì để mà cự địch.
Hoa Vinh
bảo với mọi người rằng:
- Việc
này các ngài không không cần phải lo, xin cứ cho tiểu lâu la ăn uống no say,
rồi tôi sẽ có kế sách để thi hành. Trước hết ta hãy chơi nhau bằng sức, rồi sau
phải dùng mẹo mới xong. Xin cứ như thế này...như thế này...có được không?
Tống
Giang vỗ tay khen rằng:
- Diệu
kế...diệu kế...phải làm như thế mới được.
Nói
đoạn, liền cùng với Hoa Vinh cắt đặt các việc, và sai đám tiểu lâu la phải
phòng bị sẵn sàng, để thi hành kế sách.
Hoa Vinh
chọn lấy con ngựa tốt, một bộ áo giáp dấy, cùng các đồ gươm giáo cung tên ra để
nghinh địch.
Nói về
Tần Minh khi dẫn quân đến địa phận núi Thanh Phong, liền hạ trại ở ngoài mươi
dặm. Sáng hôm sau đầu trống canh năm, quân sĩ trở dậy thổi cơm ăn thật sớm. Aên
uống xong rồi, nổi súng hiệu, kéo quân ra chỗ rộng ở sát núi Thanh Phong, mà
dàn thành trận thế. Bỗng đâu nghe thấy tiếng chuông trống vang trời, Tần Minh
liền kim cương ngựa, đứng dừng lại, hoành ngang cây gậy lang nha, trợn mắt lên
nhìn, thì thấy Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, dẫn một toán binh ngựa phi xuống núi.
Khi
xuống đến chân núi. Hoa Vinh sai bày thành trận thế, rồi cầm giáo ngồi trên
mình ngựa, quay mặt cúi chào Tần Minh.
Tần Minh
giận dữ quát lên rằng:
- Người
là một mệnh quan của Triều đình, vốn dòng cửa tướng xưa nay, triều đình sai
ngươi giữ chức Tri Trại coi giữ một phương, lộc nước ơn vua, phỏng có điều gì
tệ bạc? Lẽ nào ngươi dám liên kết với giặc cướp mà bội bạc lại triều đình như
vậy. Nay ta đến đây bắt người đem về nộp với triều đình, ngươi có phải là biết
điều thì xuống ngựa mà chịu trói cho xong, chớ để ta bận đến chân tay thêm
việc.
Hoa Vinh
tươi cười đáp rằng:
- Dám
bẩm Tổng Quản, như Hoa Vinh này có bao giờ dám mang tâm bội bạc triều đình, cho
nặng...Cái đó chẳng qua là lão Lưu Cao lấy không làm có, đem việc công để trả
thù riêng, khiến cho tôi có nhà như mất, có nước như không, bởi thế nên phải
tạm đến lánh mình ở đây, xin Tổng Quản xét lại mà giải cứu cho.
Tần Minh
không hỏi phải trái chi nữa, quát ngay lên rằng:
- Không
xuống ngựa cho ta trói lại, còn đợi đến bao giờ? Ngươi đừng nói khéo để rối
loạn quân tâm nữa?
Nói xong
thét tả hữu khua trống, rồi múa gậy xông vào đánh Hoa Vinh, Hoa Vinh cả cười mà
rằng:
- À! Té
ra Tần Minh không hiểu lòng tốt của người ta! Ta đây nghĩ đến ngươi là một chức
quan trên, nên mới khiêm nhượng như vậy... ngươi đã cho ta là sợ ngươi hay sao?
Nói đoạn
múa giáo xông ra đánh Tần Minh. Đôi bên cự địch với nhau, có tới bốn năm mươi
hiệp, chưa quyết được thua, Hoa Vinh lừa miếng phá đĩnh, rồi quay ngựa ra lối
đường nhỏ ở dưới núi mà chạy.
Tần Minh
cả giận phóng ngựa đuổi theo Hoa Vinh, Hoa Vinh cắp giáo vào nách, tay tả cầm
cung, tay hữu tút một mũi tên đặt lên trên cung, rồi dừng ngựa giương cung mà
quay mình lại bẵn một phát trúng ngay vào mũ Tần Minh. Tần Minh giật mình kinh
sợ, không dám đuổi theo Hoa Vinh liền quay ngoắt lại toan đuổi đám lâu la để
giết. Dè đâu, khi quay mình trở lại, thì chúng lâu la đã chạy trốn lên núi, mà
bên kia Hoa Vinh cũng kéo về sơn trại cả rồi.
Tần Minh
thấy vậy trong lòng càng lấy làm tức giận, liền quát quân chúng đánh trống khua
chiêng mà kéo lên núi. Bấy giờ chúng reo hò ầm ĩ, rồi đám bộ binh xông lên núi
trước. Khi qua được vài ba ngọn núi thì thấy các nơi hiểm yếu ở trên, đều có đá
gỗ ầm ầm ném xuống, tụi bộ binh bị ném ngã có tới bốn năm mươi người, liền kinh
sợ đổ xô xuống mà không dám lên nữa. Tần Minh lại càng sôi nổi giận dữ, bèn đem
đám quân mã đi quanh dưới núi, để tìm đường tiến lên. Chúng tìm quanh quẩn mãi
đến quá trưa, chợt nghe thấy phía bên tây có chiêng trống vang lừng rồi có một
đội quân cờ đỏ ở trong đám cây rậm đi ra.
Tần Minh
dẫn quân mã cố đuổi đến nơi, thì bỗng dưng chiêng đã im mà cờ đỏ cũng không
thấy nữa. Nom đến chỗ đó, không phải là con đường lớn, chỉ có một lối nho nhỏ,
mà giữa lối toàn là cây chặt để ngổn ngang ra đó, mà không sao đi được. Tần
Minh vừa toan sai quân dọn lối để đi, thì có một tên lính báo rằng:
- Mạn
núi bên kia đông có tiếng chiêng trống, và một toán quân cờ đỏ kéo ra.
Tần Minh
nghe báo liền dẫn quân mã phi sang góc bên đông để đánh.
Khi sang
tới nơi, lại thấy im phăng phắc, không thấy gì nữa, chàng lấy làm căm tức,
phóng ngựa đi tìm khắp bốn chung quanh, thì toàn là cây gẫy cành nghiêng, không
có đường lối nào mà đi cho được.
Bỗng lại
thấy người đến báo rằng:
- Góc
núi bên tây lại nghe thấy tiếng chiêng trống, lại một toán quân cờ đỏ kéo ra.
Tần Minh
vội vàng phi ngựa sang góc bên tây, thì lại không thấy tăm hơi chi cả.
Tần Minh
vừa tức giận, đương nghiến lợi nghiến răng, quanh co uất ức một mình, thì thấy
phía đông, lại thấy cở trống nổi lên, chàng lại phải đem quân sang đuổi. Dè đâu
sang đếnnơi lại im lặng như không vậy. Chàng ta tức nổ ruột gan, quát quân sĩ
toan tìm đường để lên núi chợt đâu lại nghe tiếng chiêng trống ấm ĩ ở phía bên
tây như thúc giục tới gần, làm chàng lại phải quay sang bên đó. Khi tới nơi lại
không có gì, tìm khắp cả vẫn không đường lối tới trên núi cả.
Bấy giờ
trong một đám quân sĩ nói với Tần Minh rằng:
- Quanh
đây không có đường lớn, ta muốn đi lên thì sang mạn núi đông nam mới tìm ra
lối. Nếu cứ quanh quẩn ở đây, thì không khéo lỡ ra nguy hiểm.
Tần Minh
nghe vậy, vội truyền lệnh cho quân sĩ mau mau kéo về mạn núi đông nam. Khi tới
dưới núi, thì trời đã gần tối, người ngựa đều mệt nhoài không đi được, bèn bảo
nhau đóng trại để làm cơm.
Chợt đâu
trông lên phía núi, đã thấy đèn đuốc sáng rực chiêng trống ầm ĩ cả lên, Tần
Minh cả giận, lại phải kéo bốn năm mươi quân mã, mà đi lên núi, . Khi lên được
mấy bước, bị tên đạn bẵn xuống như mưa, bị trúng thương mấy anh binh sĩ. Tần
Minh lại phải rút quân trở xuống mà truyền cho làm cơm. Chúng vừa mới bắt đầu
làm cơm, thì lại thấy có tám chín mươi bó lửa ở trên núi đi xuống. Tần Minh vội
vàng toan dẫn quân đến, thì bỗng dưng lửa lại tắt rồi.
Đêm hôm
đó tuy có mặt trăng song bị mây mờ che tối, nên đường đi cũng lờ mờ khó hiểu.
Tần Minh căm tức quá chừng, liền sai quân lính lấy lửa ra đốt cháy những cây quanh.
Chợt
thấy trên mỏm núi có tiếng sao thổi véo von, Tần Minh vội phóng ngựa lên xem,
thì thấy có tới mười mấy bó lửa soi sáng góc núi, và Hoa Vinh đương tiếp rượu
với Tống Giang ở đó.
Tần Minh
thấy vậy, trong lòng căm tức bội phần, bèn đứng dừng ngựa ở dưới mà quát tháo
mắng nhiếc Hoa Vinh.
Hoa Vinh
ngồi trên cười mà nói rằng:
- Tần
Thống Chế bất tất nóng nảy hãy lui về rồi sáng mai ta sẽ quyết một trận sống
chết với nhà ngươi.
Tần Minh
ầm ầm giận dữ quát lên rằng:
- Đồ
phản tặc mày hãy xuống đây đối địch với ta vài ba trăm hợp rồi sẽ hay...
Hoa Vinh
cười đáp rằng:
- Tần
Tổng Quản, hôm nay ngươi đương mệt nhọc, dẫu ta có đánh được ngươi, cũng không
lấy gì làm thích...Ngươi hãy cứ về ở dưới mà chưởi mắng ầm ĩ cả lên.
Đương
khi mắng nhiếc om sòm thì chợt thấy quân mã của mình xôn xao rối loạn, Tần Minh
vội vàng quay ngựa trở xuống núi để xem. Khi đó ở phía núi bên kia, có đạn lửa
bắn xuống, đằng sau lưng có toán lâu la nấp trong đám tối bắn ra. Quân mã thấy
vậy đều kinh sợ kêu thét, mà kéo nhau xuống khe cho thoát.
Bấy giờ
vào khoảng canh ba, bọn quân mã đương nấp ở trong khe thì bỗng dưng có ngọn
nước ở dòng trên chảy xuống, làm cho quân mã đều hốt hoảng hãi hùng, mà tranh
nhau hết sức nhảy lên bờ, lại bị đám lâu la kia quăng dây móc ra, bắt sống mà
mang lên núi, còn anh nào ở dưới khe, thì bị ngập tràn mà chết chìm cả ở đó.
Lúc đó
Tần Minh lại càng tím ruột thâm gan trông trước trông sau, thấy có một con
đường nhỏ đi lên trên núi, chàng liền xốc ngựa mà sồng sộc đi lên. Dè đâu vừa
đi được bốn năm mươi bước, thì bỗng dưng cả người lẫn ngựa đều ngã lăn xuống
hố. Đoạn rồi có bốn năm mươi tên lâu la ở đâu bổ ra, lột hết quần áo và quân
khí của Tần Minh, rồi bảo nhau trói lại và dắt lấy cả ngựa, mà giải lên trên
núi Thanh Phong.
Nguyên
trước Hoa Vinh lập kế, sai mấy bọn tiểu lâu la, hoặc ở bên đông núi, hoặc ở bên
tây núi, lần lượt kéo nhau mà dẫn dụ khiêu khích, khiến cho Tần Minh mỏi mệt
khốn đốn, không sao được yên. Lại sai đem túi đất lấp hai bên dòng suối, đợi
đến đêm khuya cố bức bách cho quân mã phải lẩn trốn xuống đó, rồi tháo nước đầu
trên, cho bọn quân đắm đuối. Bởi vậy Tần Minh mang năm trăm quân mã, đã già nửa
bị chết trong khe, còn hơn một trăm người, và bảy tám mươi cỗ ngựa bị bắt sống,
mà không sót một ai là thoát thân về được. Bấy giờ trời đã gần sáng Hoa Vinh
Tống Giang cùng ba vị đầu lĩnh đương ngồi trên Tụ Nghĩa Sảnh, thì thấy bọn lâu
la giải Tần Minh vào. Hoa Vinh trông thấy vội vàng ở trên ghế nhảy xuống dưới
thềm cởi trói cho Tần Minh, kéo lên trên sảnh rồi cúi đầu xuống lạy.
Tần Minh
vội đỡ dậy mà nói rằng:
- Tôi đã
bị bắt đến đây, chỉ có giết chết mà thôi, can chi mà xử như vậy?
Hoa Vinh
qùy xuống mà đáp rằng:
- Bọn
tiểu lâu la ngu dốt không biết, lỡ phạm đến tôn nhan, xin ngài tha tội ấy cho?
Nói
đoạn, sai người lấy áo xiêm gấm vóc đưa cho Tần Minh mặc.
Tần Minh
hỏi Hoa Vinh rằng:
- Vị hảo
hán ngồi kia là ai? Xin cho tôi biết...
Hoa Vinh
nói:
- Người
ấy là anh em với tôi, họTống tên Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành khi trước,
còn ba người đây là Yến Thuận, Vương Anh, Trương Thanh, làm chủ trại ở đây...
Tần Minh
ngạc nhiên mà nói rằng:
- Ba vị
này tôi đã hiểu, song Áp Ty đây có phải là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh
đó chăng?
Tống
Giang cung kính đáp rằng:
- Vâng,
chính chúng tôi đây.
Tần Minh
nghe nói, liên thụp lạy xuống đất mà nói rằng:
- Tôi
được nghe tiếng nghĩa sĩ đã lâu, nay được gặp đây, thực thỏa lòng khát vọng.
Tống
Giang cũng vội vàng cung kính mà đáp lễ lại.
Tần Minh
thấy hai chân Tống Giang có vẻ đau đớn ngượng ngạo liền hỏi luôn rằng:
- Chăng
hay chân ngài làm sao như thế?
Tống
Giang đem chuyện từ khi xa lánh Vận Thành, cho đến khi Lưu Cao bắt đánh, thuật
hết cho Tần Minh nghe.
Tần Minh
nghe chuyện lắc đầu kêu rằng:
- Nếu cứ
lời đằng kia nói, thì cơ hồ lỡ mất việc to! Việc này để tôi về bẩm với quan Phủ
Mộ Dung mới được.
Bọn Yến
Thuận bèn lưu Tần Minh ở lại rồi nhất diện sai giết dê lợn để thết đãi. Các
quân sĩ bắt được, đều cho vào ở một phòng mà thưởng cho cơm rượu tử tế.
Khi uống
Đô Đầu vào tuần rượu, Tần Minh vội đứng nói rằng:
- Nay
được các vị hảo hán có lòng tốt, mà không giết hại Tần Minh; vậy xin trả lại
các đồ mũ áo ngựa gậy, để Tần Minh xin trở về bản châu cho tiện.
Yến
Thuận cười mà đáp rằng:
- Tổng
Quản không nên cố chấp như vậy...Tổng Quản dẫn năm trăm quân mã đến đây, không
còn sót một người nào, nay nếu trở về châu phủ, tất nhiên quan Phủ khó dung;
Vậy chi bằng Tổng Quản hãy tạm ở đây, chia vàng xẻ áo cùng nhau định họat tự
do, như thế chả hơn là ra luồn vào cúi càng thêm nhọc mệt hay sao?
Tần Minh
nghe nói, đi thẳng xuống thềm mà đáp rằng:
- Tần
Minh này sống làm người nhà Tống, chết làm ma nhà Tống, triều đình đã giao cho
làm chức Tổng Quản; lại kiêm chức Thống chế Sứ Quan, xưa nay có điều chi phụ
bạc với Tần Minh, mà Tần Minh nỡ đem lòng bội bạc cho đành? Các vị hảo hán định
giết tôi, thì cứ giết đi cho rảnh.
Hoa Vinh
vội vàng chạy xuống kéo tay Tần Minh mà can rằng:
- Xin
huynh trưởng hãy khoan tâm, nghe tiểu đệ nói một câu này xem đã. Tôi nay cũng
con nhà tước lộc của triều đình, chỉ bị người ta bức bách, mà phải tạm lánh đến
đây; Còn như Tổng Quản ngài đã không bằng lòng làm nghề lạc thảo,thì cũng xin
ngồi chơi cho trọn bữa cơm hôm nay, rồi tôi sẽ nộp trả các đồ quân khí cho ngài
trở lại Thanh Châu.
Tần Minh
khăng khăng một mực không nghe. Hoa Vinh lại tiếp luôn rằng:
- Mấy
hôm nay Tổng Quản khó nhọc, dong duổi suốt cả đêm ngày, vậy xin để cho con ngựa
ăn uống nghỉ ngơi, rồi sẽ trở về được, đi đâu mà phải vội!
Tần Minh
nghe nói cũng có lý, bèn trở lại vào trong sảnh cùng ngồi uống rượu. Năn vị hảo
hán luân lưu rót rượu để mời. Hôm đó Tần Minh vừa phần mệt nhọc la đà, vừa phần
bị các hảo hán ân cần mời mọc, dần dần cũng phóng tâm uống rượu, cho tới khi
rượu đã quá say, phải vực vào trong phòng để nghỉ. Tần Minh ngủ một giấc cho
đến sáng hôm sáng hôm sau bầng mặt tỉnh dậy, vội vàng súc miệng rửa mặt, rồi
tháo thứ xin phép trở về. Mấy vị hảo hán cố lòng cầm bắt giữ Tần Minh ở lại ăn
bữa cơm sáng, rồi mới đem các đồ mũ giáo gươm ngựa mà trả lại. Tần Minh vâng
lĩnh các đồ nhung khí, đội mũ mặc giáp cầm gậy lang nha, nhảy lên mình ngựa,
rồi từ tạ mọi người mà đi xuống núi, trở về núi phu Thanh Châu.
Khi đi
gần tới Thanh Châu, còn cách chừng hai mươi dặm đường, Tần Minh xa trông trong
đám khói bụi, không thấy một người nào qua lại ở đó trong bụng đã lấy làm nghi
ngại lạ lùng. Dần dần về tới trong thành thấy mấy trăm nóc nhà ở ngoài thành
khi trước, đều bị cháy hại tồi tàn, chỉ còn trơ một đống gạch vụn tro thừa vất
ngang tàng trên mặt đất. Quanh đó lại có số con trai con gái bị chết cháy không
biết bao nhiêu mà kể.
Tần Minh
thấy vậy cả kinh, bèn đánh ngựa qua đám tro tàn, mà thẳng tới thành gọi người
mở cửa. Khi vào tới nơi, đã thấy đích kiều cất cao lên, mà hai bên cổng đều cắm
cờ lên hiệu, bầy dàn các đồ binh khí dụ bị đánh giặc ở đó. Tần Minh dừng ngựa
đứng ngoài kêu to lên rằng:
- Có ai
trong thành, bỏ đích kiều xuống cho ta vào.
Trong
thành nghe tiếng Tần Minh gọi, thì bỗng dưng nổi hiệu trống chiêng, mà hò reo
ầm ĩ như là giặc đến bên thành vậy.
Tần Minh
đứng bên ngoài kêu lên rằng:
- Ta là
Tần Tổng Quản đây, quân, mau mở cửa cho ta vào.
Nói vừa
dứt lời, thì thấy Mộ Dung Tri Phủ, trèo lên vọng canh ở thành mà quát lên rằng:
- Quân
phản tặc kia! Bay không biết sỉ nhục, còn vác mặt đến đây, toan lừa ta mở cửa
thành cho ngươi nữa hay sao?
Tần Minh
ngạc nhiên kinh lạ mà hỏi rằng:
- Tần
Minh này có điều chi, mà Tông Tổ nói như vậy.
Tri Phủ
lại quát lên rằng:
- Có
điều chi ngươi còn phải hỏi ta sao? Đêm hôm qua ngươi đêm quân đến đánh thành
không được, sao lại đốt nhà đốt cửa làm hại muôn dân, hiện nay ta đã sớ tấu
triều đình, chỉ đợi nay mai bắt được ngươi là xé thây ra làm muôn đoạn, thì mới
cam tâm. Triều đình có phụ bạc gì ngươi mà ngươi nỡ bất nhân như vậy?
Tần Minh
cũng lẫy làm ngạc nhiên mà đáp rằng:
- Tần
Minh này thua thiệt mất cả quân mã, sau lại bị chúng bắt lên núi, đến giờ mới
được thoát về đây...Đêm qua hà tằng có đánh thành bao giờ?
Tri Phủ
quát lên rằng:
- Ta đây
lại không được biết các đồ mũ giáp gậy ngựa của ngươi hay sao... ? Quân lính
trên thành đây, không ai không trông thấy chính ngươi cưỡi ngựa cầm côn xông
pha, trong đám lửa mà giết hại dân gian, ngươi còn chối sao cho được? Ừ, cho
rằng ngươi có thua mà bị bắt nữa, thì năm trăm tên lính mang đi, lại không có
một đứa nào trốn về báo được hay sao? Bây giờ định đánh lừa ta mở cổng thành,
để ngươi vào cướp lấy vợ con mang đi...Nhưng phải biết rằng vợ con ngươi ta đã
giết chết cả rồi, chỉ còn mấy cái thủ cấp đây kia, có xem thì bảo quân sĩ bêu
lên, cho mà nom thấy.
Nói
đoạn, sai quân sĩ đem bêu đầu vợ con Tần Minh lên cho xem. Tần Minh là một
người nóng tính, khi trông thấy đầu vợ con bị chém chết, thì đùng đùng phẫn
uất, không biết nói làm sao cho được.Bấy giờ trên thành bắn tên đạn như mưa.
Tần Minh bất đắc dĩ phải quay mình chạy lánh ra ngoài. Khi nom ra thấy trên mặt
đất ở ngoài thành, còn lốm đốm một vài nơi, chưa dứt khói lửa, chàng quanh đi
quẩn lại nghĩ ngợi một mình, những muốn tìm nơi mà tự tử cho xong, hồi lâu
chàng liền dóng cương ngựa mà lững thững đi theo con đươnøg khi trước.
Đi được
mươi dặm đường, chợt thấy ở trong đám rừng cây trước mặt, có một tụi nhân mã đi
ra, và có năm vị hảo hán đều cưỡi ngựa buông cương đi trước. Năm người ấy, tức
là Tống Giang, Hoa Vinh, và ba anh em Yến Thuận, dẫn một toán hai ba trăm lâu
la đến đó. Bấy giờ Tống Giang trông thấy Tần Minh, liên nghiêng mình cúi chào
mà hỏi rằng:
- Sao
Tổng Quản không trở lại phủ Thanh Châu mà một mình, một ngựa vơ vẩn, toan đi
đâu bây giờ?
Tần Minh
nghe hỏi, mặt hầm hầm đầy những nộ khí mà đáp rằng:
- Không
biết thằng giặc cướp trời chu đất diệt nào nó ăn mặc giả mạo như tôi rồi đem
quân về đánh thành, đốt hại nhà cửa của lương dân, làm vợ con tôi bị chết lây
vì nó, khiến tôi đây cũng lên trời hết lối, xuống đất không đương, không biết
làm sao cho được? Bây giờ nếu vớ được thằng ấy, thì thế nào cũng đánh cho nó
một mẻ, gọi là gãy hết gậy mới thôi.
Tống
Giang mỉm cười đáp rằng:
- Dám
thưa Tổng Quản, tôi có câu chuyện này, song ở đây không tiện nói ra, vậy xin
đón ngài hãy về qua sơn trại rồi sẽ bẩm rõ với ngài.
Tần Minh
đương lúc phẫn uất vô liêu, bất đắc dĩ cũng phải nghe lời, mà theo năm người
cùng thẳng dong về núi Thanh Phong. Khi về tới sơn trại, bọn tiểu lâu la đã sắp
sẵn các thứ rượu chè ở trên Tụ Nghĩa Sảnh, để đợi. Năm vị hảo hán mời Tần Minh
ngồi ở ghễ, rồi nhất tề quỳ xuống ở trước mặt Tần Minh. Tần Minh thấy thế cũng
vội vàng quỳ xuống để đáp lễ.
Tống
Giang bắt đầu nói lên rằng:
- Dám
xin Tổng Quản tha lỗi cho. Hôm nay Tổng Quản không có lòng hạ cố, nhất định
không chịu lưu lại sơn trại ở đây, bởi vậy Tống Giang định ra một kế, cho tên
lâu la hơi giống tướng dạng, ăn mặc các đồ mũ giáp, cùng cưỡi ngựa cầm quân khí
của ngài, mà dẫn quân về đánh phủ Thanh Châu, lại cho Yến Thuận, Nụy Hổ đem năm
mươi người đi giúp sức, giả làm Tổng Quản định vào đánh thành để cướp lấy vợ
con, rồi lại đốt nhà giết người, để dứt hẳn lối về của Tổng Quản. Cái đó đều là
tội của chúng tôi, vậy nay chúng tôi mời ngài đến đây để xin tha thứ cho.
Tần Minh
nghe nói như xé đứt ruột gan, toan đứng tên đánh nhau với bọn Tống Giang cho hả
dạ, song một là vì cùng một tinh tú giáng sinh tính tình rất hợp, hai là bị bọn
họ lấy lễ phép bó buộc, không sao trở mặt cho đành, ba là có ra oai cũng khó
lòng địch nổi bọn đó. Bởi vậy Tần Minh đành phải nên lòng tức giận mà nói lên
rằng:
- Anh em
các ông làm thế, vẫn biết có lòng tốt muốn lưu Tần Minh ở lại chốn này, song
chỉ thiệt riêng cho Tần Minh, là vợ con chết cả, không còn lấy chi làm thú đời,
như thế phỏng có độc địa hay không?
Tống
Giang đáp rằng:
- Nếu
không làm như thế, khi nào huynh trưởng nỡ dứt lòng mà đến đây cho được? Hiện
nay Hoa Vinh có một người em gái, tư chất cũng hiền tuệ hơn người vậy huynh
trưởng có ưng thuận, thì xin cho sắm sửa tư trang mà làm lễ tục huyền ngay lập
tức huynh trưởng nghĩ sao?
Tần Minh
thấy bọn kia hết lòng kính ái như vậy, thì cũng nguôi tấm lòng, mà không còn
nói năng chi nữa. Bấy giờ Hoa Vinh đứng dậy mời Tống Giang vào ghế giữa rồi Tần
Minh, Hoa Vinh, ba vị hảo hán y theo thứ tự mà ngồi, đoạn rồi kéo cờ nổi hiệu,
chè chén vui mừng và cung nhau thương nghị để đánh trại Thanh Phong.
Tần Minh
nói mọi người rằng;
- Việc
đó rất là dung dị, các ông không cần phải quan tâm. Nguyên Hoàng Tín là người
thuộc hạ của tôi, khi trước tôi có dạy bảo các môn võ nghệ, cùng tôi rất là
thân mật, vậy ngày mai tôi đến đó thuyết cho anh ta nhập bọn, rồi sẽ đem bảo
quyến của Hoa Vinh sang đây, và bắt vợ con Lưu Cao, để báo thù cho huynh huynh
trưởng, như thế thì phỏng được chăng?
Tống
Giang cả mừng mà rằng:
- Nếu
được Tổng Quản giúp sức cho như thế thì còn gì hơn nữa.
Nói đoạn
lại cùng nhau, chè chén, cho đến chiều mới tan. Nói ề Hoàng Tín từ khi báo quan
Phủ Thanh Châu rồi, sai bắt dân phu cùng lính trại, hết sức canh phòng cẩn mật,
và sai đị dò la tin tức các nơi. Chàng đợi luôn mấy hôm không thấy phủ Thanh
Châu đem binh đến cứu, trong lòng lấy làm lo sợ nghi ngại, không biết xử trí ra
sao? Chợt một hôm thấy quân sĩ vào bào rằng:
- Có
quan Tổng Quản Tần Minh, một mình một ngựa đến gọi mở cửa ở ngoài trại.
Hoàng
Tín nghe báo, vội vàng lên ngựa ra xem, quả nhiên chỉ có Tần Minh một mình một
ngựa đứng đợi ở ngoài, không có một ai theo hầu hết thẩy. Chàng liền truyền
quân sĩ mở trại, bỏ đích kiều xuống để đón Tần Minh vào. Khi đến Công Sảnh ở
đại trại, Hoàng Tín mời Tần Minh ngồi, rồi hỏi rằng:
- Chẳng
hay Tổng Quản cớ sao mà lại một mình tới đây như vậy?
Tần Minh
liền đem chuyện bị thua hôm trước, thuật lại cho Hoàng Tín nghe, và nói rằng:
- Cập
Thời Vũ Tống Công Minh là một người trọng nghĩa khinh tài, thiên hạ ai cũng
biết, hiện nay nay tôi đã vào đảng ở trại Thanh Phong vậy muốn đến đây nói với
Hoàng Quân để cùng đến đó nhập bọn cho vui, can chi lưu luyến chốn này để chịu
người ta đè nên?
Hoàng
Tín nghe nói liền đáp rằng:
- Hoàng
Tín tôi vợ con chưa có cũng không hệ lụy điều chi, vả chăng đã có ân quan ở đó,
thì lẽ nào tôi lại không theo? Nhưng trước đây không thấy nói Tống Công Minh ở
đó, mà sao bỗng dưng lại đến ngay đấy được?
Tần Minh
cười nói:
- Ấy
chính là anh Hổ Trương Tam ở Vận Thành mà bác toan giải hôm trước đó. Bấy giờ
ông ta sợ nói thực tên ra thì vỡ chuyện, nên phải nói dối là Trương Tam.
Hoàng
Tín nghe nói đập chân xuống đất mà than rằng:
- Chết
nỗi! Nếu bấy giờ tôi biết ông ta là Tống Công Minh, thì đã tha ngay rồi, còn
đâu sinh ra lắm sự lôi thôi! Cái đó chẳng qua là nể mặt Lưu Cao, suýt nữa nguy
mất một người nghĩa sĩ.
Đương
khi hai người bàn định với nhau, để sắp sửa ra đi, thì bỗng thấy có tin báo hai
đường quân mã ở đâu đến đánh trại. Hai người nghe báo, vội vàng cùng nhau lên
ngựa, để ra cửa trại nghinh địch.
Mới hay:
Lòng
người ai bán mà mua
Xưa nay
mấy kẻ lọc lừa nên thân?
Ở đời có
oán có ân,
Biết đời
phải lựa đồng cân cho đều
Hay chi
những thói ngoan điêu
Gây nên
thảm họa trăm chiều tại ai?
Một phen
khói lửa tung trời
Thành
xương vũng máu hỏi đời biết chăng!
Lời bàn
của Thánh Thán:
Ta thấy
người nhà Nguyên diễn kịch, mỗi một tấn trò, chia làm bốn đoạn (màn); mỗi đoạn
chỉ dùng một người ra hát, còn mọi người trong đám bạch trình ra, thừa tiếp mà
tiếp mà khiêu động, điều đó không lạ vì người xưa ở trong lòng tự có một thiên
văn tự tuyệt diệu rồi, đã được thành văn, có ý tứ, có khởi ra kết lại, có gọi
đến thưa ngay, có mở ra lại đóng lại đóng vào, nếu không chỗ dựa thì bỗng dưng
không thể thể tả ra?
Cho nên
nhà văn phải mượn vào chuyện xưa sống chết hợp tan, theo đề làm văn, ý muốn cho
đời sau biết đến văn chương của mình mà thôi! Xưa kia chẳng đem việc cũ tả ra
văn cho ta biết đến, từ khi phép kịch mất đi, mà việc một hồi, có tới hơn bốn
mươi đoạn, lời của một đoạn lại bao nhiêu kẻ cùng xướng lên, nghe như ếch kêu
ra rả, chẳng ra trò gì nữa.
Xét việc
đời xưa truyền lại đời sau, mà không dùng văn chương sao được, để cho ông già
kể lại, măng sữa trẻ con truyền lẫn nhau, rồi bút mực chép ra, không đúng. Cho
nên Sử quan học phép viết Sử tử xưa, đối với một bộ sách phải có ít là dăm hồi,
mỗi hồi lại ít nhiều sự nữa, song nếu một người lập truyện một người, mười
người lập truyện mười người theo phép viết Sử, một sự có liên can nhiều người
văn nhân phải có tài liên quán, nên một sự có mỗ Giáp mỗ Ất, thực sự của mỗ
Giáp mỗ Ất không dự, song phải tả ra lại khi Giáp, ắt không cùng một việc, song
tả mỗ Giáp mà liền tới mỗ Ất ít nhiều, và tác giả yêu đến mỗ Ất mà phải cần tả
ra dính líu tới mỗ Giáp.
Cho nên
nhà văn cầm bút, thấy quyền rất nặng, chép chuyện mỗ Giáp lại luôn mỗ Ất dính
vào, như trong chuyện Tống Giang, lại tả Võ Tòng, theo lệ liên quán vậy; Chép
chuyện mỗ Giáp, mỗ Ất không dự đến như chép Hoa Vinh chẳng tả Tống Giang, đó là
theo lệ vậy. Hỡi ơi! Một người có việc của một người, một truyện có văn của một
truyện, một thiên một đoạn, có chỉ định của đầu đề, nếu người ta không xét
thấy, cũng cầm bút quệt mà viết ra, đua nhau theo lối Sử quan, thì sao xứng con
người cầm bút.
Cổ Bản
truyện Thủy Hử, tả Hoa Vinh, bèn tả đến Tống Giang, vì Hoa Vinh mà tả tới, mà
tục bản truyện Thủy Hử chỉ tả thoàng qua vài lời, sao mà thấp kém đến thế,
chẳng hay kẻ nào thay đổi, cũng chả tưởng hỏi làm chi, nên ở đây theo lệ viết
văn mà thuật lại.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 34: Nơi lữ điếm, Thạch Dũng đưa thư;
Vũng Lương Sơn, Hoa Vinh bắn nhạn
Bấy giờ
Tần Minh cùng Hoàng Tín đi ra cổng trại, trông thấy hai đường quân mã rất đông,
một đường là Tống Giang với Hoa Vinh, đường là Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, đều dẫn
hơn một trăm người kéo đến. Khi tới nơi, Hoàng Tín vội mở cổng trại, bỏ đích
kiều xuống, để đón hai đường binh mã cùng vào trong trại. Tống Giang truyền
lệnh cho bọn lâu la, không được giết hại một người dân và một người lính nào
trong trại đó. Lại truyền cho vào trại bên Nam, bắt hết cả nhà Lưu Cao để giết.
Vương Nụy Hổ được lệnh ấy, vội vàng đến đó cướp lấy vợ Lưu Cao, cùng các thứ
kim ngân tài vật, lừa ngựa trâu dê thì giao cho đám lâu la thu nhặt để tải về.
Hoa Vinh trở về nhà thu dọn các đồ đạc. Công việc thu xếp đâu đấy yên ổn rồi,
mấy vị hảo hán cùng nhau dóng ngựa áp tải các đồ vật mà trở về sơn trại.
Khi về
tới sơn trại, Vương Nụy Hổ vội đem vợ Lưu Cao dấu vào trong tư phòng, Yến Thuận
thấy vậy liền hỏi rằng:
- Con
đàn bà đê tiện ấy đem đi dấu làm gì?
Vương
Nụy Hổ đáp rằng:
- Phen
nầy đã bắt được về tới đây, xin để cho tôi làm phu nhân áp trại.
Yến
Thuận nói:
- Đành
rằng để cho bác làm phu nhân áp trại, song hãy đem ra đây cho tôi hỏi đã.
Tống
Giang bảo với mọi người rằng:
- Chính
tôi cũng đương muốn hỏi chuyện nó, xin hãy đem ra đây...
Vương
Nụy Hổ vâng lời, cho gọi chị chàng ra trước cửa sảnh.
Chị
chàng kia khóc lóc kêu van, xin tha tính mạng.
Tống
Giang quát lên rằng:
- Giống
gian dâm này, còn nỉ non về nỗi gì nữa? Ta nghĩ mầy là một người vợ con nhà
quan, nên mới cứu cho thoát nạn, ai ngờ mầy đem lòng tàn ác, mà toan hại ta. Đồ
vong ân bội nghĩa, thì trời đất nào dung thứ được!
Yến
Thuận đứng phắt dậy nói rằng:
- Giống
dâm phụ ấy, còn hỏi làm gì nữa?
Nói đoạn
rút dao lưng ra, chém cho một nhát ngã gục xuống đó.
Gươm
vàng pha vị tanh hôi,
Máu hồng
nhuộm máu con người bạc đen.
Thế gian
nhắn bạn thuyền quyên,
Ở đời
liệu thói đảo điên nên chừa...
Vương
Nụy Hổ thấy vậy, trong lòng lấy làm tức giận vô cùng, liền vớ một thanh dao,
toan đánh nhau với Yến Thuận.
Bọn Tống
Giang đứng dậy vội vàng giữ lại, khuyên bảo Vương Nụy Hổ rằng:
- Yến
Thuận giết đứa dâm phụ ấy là phải lắm. Bác phải biết rằng tôi hết sức cứu nó,
cho vợ chồng lại được đoàn tụ với nhau, thế mà nó còn trở mặt xui chồng toan
hãm hại tôi, con người như thế nếu để về sau, tất là nguy hiểm...Vậy sau đây
tôi xin tìm cho bác một người rất là xứng ý, đừng nên nghĩ đến con người ấy làm
chi!
Yến
Thuận cũng bảo Vương Nụy Hổ rằng:
- Nếu
anh còn muốn để con đàn bà ấy về sau, tất nhiên có phen nó lại hại chứ không
chơi.
Vương
Nụy Hổ bị can như vậy, thì nín lặng không biết nói làm sao được. Yến Thuận gọi
lâu la khiêng bỏ xác, rửa sạch huyết tính rồi, lại sai dọn tiệc ăn mừng.
Ngày hôm
sau, Hoa Vinh mời Tống Giang, Hoàng Tín làm chủ hôn, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ,
và Trương Thanh làm nhà mối, để làm lễ thành hôn cho em gái lấy Tần Minh. Bao
nhiêu lễ vật đều tự Hoa Vinh xuất tiền mãi biện. Đoạn rồi cùng nhau ăn uống vui
chơi ba bốn ngày rất là thỏa thích.
Cách năm
bảy hôm thấy lâu la đi thám sự về báo rằng:
- Quan
Phủ Mộ Dung hiện đã đệ công văn lên phủ Trung Thư, tâu rõ về việc Hoa Vinh, Tần
Minh, Hoàng Tín làm phản, và xin đại đội binh mã nay mai đánh dẹp núi Thanh
Phong.
Các vị
hảo hán nghe cả kinh, liền cùng nhau bàn định mưu kế để cự địch quân quan, Tống
Giang nói với chúng rằng:
- Ở đây
là một nơi sơn trại, tầm thường, lỡ ra quan quân kéo đến, thì cũng khó lòng cự
địch. Vậy tôi có một kế này, chẳng hay các ngài có ưng thuận thế chăng?
Mọi
người đều nói rằng:
- Huynh
trưởng có kế gì xin cứ nói cho nghe..
Tống Giang
nói:
- Gần
đây có một nơi là Lương Sơn Bạc, bên trong có thành Uyển Tử, có vụng Liêu Nhi,
dài rộng tám trăm dặm. Hiện có Tiều Thiên Vương tụ rất đông quân ở đó, quan
quân không hề dám xâm phạm đến nơi. Vậy chúng ta đến đấy nhập bọn thì có lẽ tốt
hơn.
Tần Minh
nói:
- Nếu
được những chốn như thế, thì còn gì hơn nữa! Nhưng bây giờ không có ai quen
biết, mà tiến dẫn ta lên, thì có khi nào họ chịu nhận.
Tống
Giang cả cười liền đem chuyện Tiều Thiên Vương cướp lễ sinh nhật, cho đến khi
đưa vàng tạ ơn, rồi đến nỗi xảy ra chuyện giết hại Diêm Bà Tích, lênh đênh lưu
lạc giang hồ, thuật lại cho mọi người nghe. Tần Minh nghe nói cả mừng đáp rằng:
- Nếu
vậy huynh trưởng là Đại Ân Nhân của bọn họ, thì còn ngại chi đến chuyện kia
khác, ta nên mau mau thu xếp đi ngay, kẻo chậm trễ tất nhiên lỡ việc.
Nói
đoạn, chúng lập tức sắp mười mấy cỗ xe, và cộng có hai ba cỗ ngựa tốt đều để
tải đi. Còn đám lâu la kẻ nào không muốn theo, thì cho tiền nong đi tìm chủ
khác, kẻ nào muốn theo thì biên vào sổ quân. Bấy giờ tính cả quân lính của Tần
Minh đem đến, cộng được hơn bốn năm trăm người chia làm ba đội, đều giả dạng
quan quân đi đánh Lương Sơn Bạc.
Khi thu
xếp xong đâu vào đấy, các hảo hán đều đốt bỏ sơn trại, chia làm ba đội, Tống
Giang cùng Hoa Vinh dẫn bốn năm mươi tên lâu la, và bốn mươi tên kỵ mã, hộ tống
năm bảy cỗ xe đi trước. Tần Minh Hoàng Tín dẫn tám chín mươi quân ngựa, cùng
mấy cỗ xe đi đội thứ nhì, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ cùng Trương Thanh, dẫn bốn
năm mươi cỗ ngựa, và hơn hai trăm lâu la đi đội thứ ba, trông chừng thẳng trỏ
Lương Sơn Bạc.
Trong
khi đi đường, các cờ hiệu, đều rõ là quan quân đi đánh giặc, vì thế mà không ai
dám ngăn trở đường đi.
Đường đi
được năm bảy ngày, một hôm Tống Giang cùng Hoa Vinh cưỡi ngựa đi trước, bọn
quân mã áp tải người nhà đisau, cách ước hai mươi dặm đường.Khi đến một nơi gọi
là Đối Aûnh sơn, có hai tòa núi ở hai bên, khoảng giữa là một khu đất rộng
phẳng, chợt nghe trong núi có tiếng thanh la đánh ầm cả lên. Hoa Vinh thấy vậy
bảo với Tống Giang rằng:
- Chỗ
này chắc có cướp bóc ra ngăn đường, ta phải phòng bị chống cự mới được.
Nói đoạn
liền cắp gươm vào nách, lấy cung tên ra, sắp sửa cẩn thận, rồi nhất diện sai
quân kị thôi thúc hai toán xe ngựa đằng sau, kéo lên đóng vào một nơi. Đoạn rồi
Hoa Vinh cùng Tống Giang dẫn hơn hai mươi tên quân kị đi thám thính đường lối.
Đi được
già nửa dặm đường, chợt thấy phía trước mặt có một tóan quân mã ước hơn trăm
người, mặc toàn áo đỏ giáp đỏ, có một người tráng sĩ mặc áo đỏ, hoành tay kích
ngồi trên mình ngựa quát to lên rằng:
- Hôm
nay ta quyết cùng người một trận, xem ai được ai thua?
Đoạn rồi
thấy đằng sau núi, trông thấy ước một trăm nhân mã, đều mặc áo trắng giáp
trắng, cầm thiên phương họa kích cưỡi ngựa đi trước. Đôi bên cờ trắng đỏ phất
phới, chiêng trống vang lừng hai bên tráng sĩ cũng đương kích, xông ngựa lẳng
lặng ra giữa khoảng đất rộng, đánh nhau tới hơn ba mươi hiệp, chưa ngã được
thua.
Hoa Vinh
cùng Tống Giang ngồi trên mình ngựa nom ra, liền lắc đầu khen ngợi luôn mồm.
Sau Hoa Vinh đánh ngựa đi gần đến chỗ đánh nhau, thấy hai tráng sĩ đương hăng
hái ra sức, hai cây kích loàng nhoáng như hai cành phan bị gió thổi, rồi bỗng
dưng hai cái ngù ở trên đầu kích, quấn chặt lấy nhau, không sao mà gỡ ra cho
được.
Hoa Vinh
ngồi trên mình ngựa thấy vậy, thì liền cầm cương ngựa lại, tay tả vớ lấy cây
cung trong túi Phi ngư, tay hữu vớ lấy một mũi tên trong Tẩu thú, rồi đặt tên
lên cung, giang tay thẳng cánh, nhằm giữa mối hai cái xoắn vào với nhau mà bắn
ra một phát đứt hẳn làm đôi, tung đôi kích ra mỗi đằng một ngả.Tụi hơn hai trăm
người trông thấy, thì vỗ tay reo ầm cả lên.Hai tráng sĩ cũng dừng tay kích,
quay ngựa xông đến trước mặt Hoa Vinh, đều cúi chào mà xin hỏi tên người bắn
giỏi.
Hoa Vinh
trỏ vào Tống Giang mà nói rằng:
- Người
nghĩa huynh tôi đây là Cập Thời Vũ Tống Công Minh là Áp Ty ở huyện Vận Thành
khi trước. Còn tôi đây là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh làm Tri Trại ở trấn Thanh
Phong.
Hai
tráng sĩ nghe nói, vội vàng nhảy xuống ngựa, bỏ tay kính ra, rồi lạy lấy lạy để
mà nói rằng:
- Chúng
tôi được nghe tiếng đã lâu.
Tống
Giang cùng Hoa Vinh xuống ngựa, đỡ hai người dậy mà hỏi rằng:
- Xin
hỏi cao tính đại danh của hai vị tráng sĩ?
Người
mặc áo hồng đáp:
- Chúng
tôi họ Lã tên Phươn, người ở Đàm Châu, bình sinh chỉ thích theo đòi như Lã Bố,
nhân tập đánh cây Thiên phương họa kích, rồi ai cũng gọi tên là Tiểu Oân Hầu Lã
Phương. Sau nhân đi bán thuốc tới đất Sơn Đông, bị thua lỗ mất cả tiền nong,
không thể nào trở về cố hương được, đành phải tạm trú ở đây, để kiếm ăn về nghề
ăn cướp bóc. Dè đâu có một tráng sĩ này ở đâu mới dẫn đến, muốn cướp lấy sơn
trại của Lã Phương, Lã Phương muốn dàn xếp cho mỗi người một núi, mà tráng sĩ
nhất định không nghe, bởi thế hai bên đánh nhau kể đã mấy hôm nay, chưa ai chịu
nhường nhịn ai cả.
Tống
Giang lại hỏi tên họ người mặc quần áo trắng.
Người
kia nói rằng:
- Chúng
tôi họ Quách tên Thịnh, người ở Gia Lăng thuộc Tứ Xuyên, trước đây có học võ
nghệ của Trương Đề Hạt đất Gia Lăng, luyện được cây kích tinh thạo, người ta
thường gọi là Kiển Nhân Quý Quách Thịnh. Nhân trước đi buôn thủy ngân đắm
thuyền hết vốn, sau nghe nói ở Đối Aûnh Sơn đây có người đánh kích rất giỏi,
mới đến chiếm sơn lâm để cướp bóc kiếm ăn, bởi vậy muốn qua đây thử ngón xem
sao? Dè đâu, cùng nhau đối địch luôn mấy ngày cũng chưa phân được thua...Nay cũng
là sự bất thình lình gặp được hai ngài ở đây, thực là hạnh phúc.
Tống
Giang nghe nói, lấy làm vui mừng, liền đem chuyện mình nói cho hai người biết
và lại bảo rằng:
- Cũng
là dịp may, mà tôi được gặp hai vị ở đây, vậy tôi muốn khuyên cho đôi bên hòa
giải, chẳng hay các ngài có bằng lòng không?
Hai
người đều cả mừng mà vâng lời...
Bấy giờ
mấy đội nhân mã ở đằng sau, cũng vừa tới đó, Tống Giang cùng Hoa Vinh dẫn hai
người, để tiếp kiến mấy vị hảo hán kia, đoạn rồi Lã Phương mời lên núi để tiếp
đãi. Ngày hôm sau Quách Thịnh cũng mời sang núi để làm rượu khao mừng.
Tống
Giang liền bàn vói hai người, để cùng lên Lương Sơn Bạc ở với Tiều Cái Thiên
Vương. Hai người đều vui lòng theo nhận, rồi lập tức thu thập người ngựa, sửa
soạn vật liệu để cùng nhau khởi trình. Đương khi sắp sửa đi, thì bỗng Tống
Giang bảo chúng rằng:
- Hãy
thong thả, không thể đi được! Nay mình đem tới bốn năm trăm nhân mã tới Lương
Sơn Bạc, bọn họ thế nào cũng có người dò thăm tin tức, thảng hoặc họ cho là
mình đánh lấy Lương Sơn thực, thì bấy giờ không phải chuyện chơi.Vậy để tôi
cùng Yến Thuận xin đi trước bảo cho họ biết rồi các vị sẽ chia làm ba đội lục
tục đi sau.
Tần
Minh, Hoa Vinh cùng mọi người đều khâm phục là phải, liền lui quân chia toán đi
sau. Tống Giang cùng Yến Thuận mỗi người cưỡi một con ngựa,dẫn mười lăm tên tùy
hành đi trước. Đi được hai ngày đường bỗng một buổi trưa hôm kia, đến một tửu
điếm ở bên cạnh đường cái quan, Tống Giang cùng Yến Thuận bèn vào nghỉ để ăn
uống. Khi vào tới trong điếm thấy có một chỗ ngồi ăn hơi rộng, còn mấy nơi khác
đều là chật hẹp cả. Trong một chỗ rộng đã có anh chàng, mình dài tám thước, sắc
mặt hơi vàn, hai con mắt lờ mờ, có một hàng ria thưa thớt, đầu đội khăn mỏ lớn,
mình mặc áo trừu đen, lưng thắt dây bao trắng, dưới chân lá đáp đi đôi giày
gai, dựng thanh gậy một bên, và để cả một bọc hành lý vào đầu bàn mà ngồi ở đó.
Bấy giờ Tống Giang cùng Yến Thuận gọi tửu bảo đến mà bảo rằng:
- Ta đi
đây có đông người theo hầu, vậy hai chúng ta vào ngồi trong kia, rồi ngươi nói
với người khách kia nhường chỗ rộng ấy cho bọn người nhà họ ngồi uống rượu.
Nói đoạn
Tống Giang cùng Yến Thuận vào ngồi ở trong, dặn tửu bảo lấy rượu thịt cho bọn
hầu ăn trước. Tên tửu bảo thấy bọn theo hầu đứng đông chật cả nhà, liền đến bên
cạnh người nhồi một mình kia, mà nói rằng:
- Phiền
bác làm ơn nhường chỗ rộng này cho bọn người nhà hai vị quan nhân trong kia
ngồi một chút...
Chàng
kia nghe gọi mình là bác, thì cau mặt mà đáp rằng:
- Đến
trước ngồi trước, đến sau ngồi sau...Người nhà quan nhân nào, mà bảo nhường
chỗ? Lão gia không nhường cho ai cả.
Yến
Thuận nghe thấy vậy, liền bảo với Tống Giang rằng:
- Thằng
cha này vô lễ quá.
Tống
Giang gạt đi rằng:
- Mặc
xác hắn, mình chấp làm gì?
Bấy giờ
anh chàng kia quay vào nhìn Yến Thuận cùng Tống Giang mà tủm tỉm cười nhạt. Tên
tửu bảo lại nói với chúng ta rằng:
- Bác
xét cho chỗ hàng quán buôn bán, đổi giúp sang chỗ khác một tý đã hại gì?
Anh
chàng kia cả giận, vỗ tay lên bàn quát rằng:
- Thằng
ranh con xấc thực, khinh lão gia có một mình, bắt phải đổi chỗ ngồi hay sao?
Mày phải biết, có vua đi đến đây, lão gia cũng không đổi...nói to là đánh luôn
bấy giờ...
- Nào
tôi đã nói gì?
- Mầy
dám nói gì mà nói...
Yến
Thuận thấy vậy, trong lòng không sao nhịn được, liền nói lên rằng:
- Anh
chàng này nói đáo để chứ! Không đổi thì thôi, làm gì mà rối lên thế?
Anh
chàng kia đứng phắt dậy, vớ lấy thanh đao mà nói rằng:
- Ta nói
nó, không việc gì đến nhà anh. Lão gia đây khắp trong thiên hạ, chỉ nể có hai
người, còn ngoài ra đạp chân lên mà giẫm xuống đống bùn cả.
Yến
Thuận tức mình vớ lấy cái ghế ngồi, cũng đứng phắt dậy toan đánh. Tống Giang
nghe khẩu khí anh chàng kia, cũng không phải tay vừa liền đứng chắn ngang,
khuyên giải cả đôi bên, rồi nói lên rằng:
- Xin
các ông đừng lôi thôi nữa...Tôi xin hỏi ông này, vừa rồi ông nói rằng: Trong
thiên hạ ngày nay có hai người là ông trỏ vào ai đó?
Anh
chàng kia nói:
- Tôi
nói ra đây, chắc các bác cũng phải kinh sợ, chứ không chơi.
- Vâng,
ông cứ cho tôi được biết tên hai người đó.
- Nghe,
một người là con cháu Sài Tiến Tôn ở quận Hoành Hải tên là Tiểu Toàn Phong Sài
Tiến, Sài Đại Quan Nhân.
Tống
Giang nghe nói sẽ gật đầu là hỏi luôn rằng:
- Còn
một người nữa là ai?
- Một
người nữa lại to lắm nữa, người này là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh, làm
Áp Ty ở huyện Vận Thành khi trước...
Tống
Giang nghe đến đó, thì trông Yến Thuận mà tủm tỉm sẽ cười. Yến Thuận cũng bỏ
cái ghế xuống mà tươi hẳn nét mặt lại.
Anh
chàng kia lại tiếp luôn rằng:
- Lão
gia chỉ trừ có hai người ấy, còn ngoại giả cho đến Tống Đại Hoàng Đế cũng không
cần.
Tống
Giang nói:
- Khoan,
tôi nói câu này. Hai người ấy tôi đây cũng có biết cả, ông cứ ngồi đây, rồi sẽ
gặp hai người ấy.
Anh
chàng kia nói rằng:
- Nếu
ông đã biết thì tôi cũng không giấu làm chi. Cách ba năm trước đây tôi có ở nhà
Sài Đại Quan Nhân hơn bốn tháng trời, duy chưa được gặp Tống Công Minh mà thôi.
- Vậy
ông muốn gặp Hắc Tam Lang hay sao?
- Hiện
nay tôi đương đi tìm ông ta đây.
- Ai bảo
ông đi tìm?
- Người
anh em ông ta là Thiết Phiến Tử Tống Thanh, có đưa gia thư cho tôi để tìm đến
ông ta.
Tống
Giang nghe nói cả mừng, liền vội chạy đến, ôm lấy chàng kia mà nói lên rằng:
- Thế
mới biết "Hữu duyên nghìn dặm cũng gần, vô duyên giáp mặt khó phần gặp
nhau", chẳng giấu gì, chính tôi là Hắc Tam Lang Tống Giang đây.
Anh
chàng ngây người, nhìn kỹ Tống Giang một lượt, rồi thụp xuống lạy mà nói rằng:
- Nếu
vậy thì may quá! Trời xanh xui khiến được gặp Ca Ca, bằng không thì tiểu đệ lại
phải đến Khổng Thái Công một phen chung quy vô ích.
Tống
Giang kéo chàng kia vào trong mà hỏi rằng:
- Ở nhà
tôi lâu nay có việc gì không?
Chàng
kia ung dung đáp rằng:
- Dám
bẩm Ca Ca, tôi họ Thạch tên Dũng, người phủ Đại Danh, bình sinh thích đánh bạc
nên họ thường gọi là Thạch Tướng Quân. Sau nhân trong đám bạc mà đánh chết
người, phải trốn sang Sài Đại Quan Nhân để ở. Xưa nay thường nghe tiếng Ca Ca,
bèn đến huyện Vận Thành để tìm, dè đâu Ca Ca bận việc đi vắng, duy có Tứ Lang ở
nhà, Tứ Lang thấy đệ thăm hỏi ân cầm, liền mách cho chỗ Ca Ca ở tại nhà Khổng
Thái Công bên núi Bạch Hổ và có gửi bức thư cho đệ mang đến đây.
Tống
Giang nghe nói, trong bụng hơi ngờ ngợ, hỏi Thạch Dũng rằng:
- Khi
bác quan nhà tôi, ở đấy mấy ngày? Có gặp phụ thân tôi không?
- Tôi
chỉ ở đó một tối rồi đi ngay, không thấy Thái Công đâu cả.
Tống
Giang lại nói chuyện nhập đảng ở Lương Sơn cho Thạch Dũng nghe. Thạch Dũng nói
rằng:
- Tôi
vẫn biết tiếng Ca Ca là người trọng nghĩa khinh tài, vậy phen này Ca Ca lên ở
Lương Sơn, tất nhiên cũng cho tiểu đệ đi theo.
- Cái đó
có khó gì, hãy ngồi đây chơi nói chuyện một lúc đã.
Nói đoạn
liền trỏ Yến Thuận cho Thạch Dũng biết, rồi gọi tửu bảo đem rượu lên. Thạch
Dũng đứng dậy mở gói hành lý, đưa bức gia thư cho Tống Giang.
Tống
Giang tiếp lấy bức thư, nom ngoài phong bì không thấy có hai chữ Bình an, trong
lòng càng lấy làm ngờ vực, vội mở ngay phong thư ra để đọc.Chàng lược xem bức
thư, thấy viết mấy chữ: "Thân phụ bị bệnh, tạ thế đầu tháng giêng năm nay,
hiện còn đình cữu trong nhà, chỉ đợi Ca Ca về, sẽ làm lễ an táng. Vậy Ca Ca sớm
liệu trở về, chớ để em mong, lỡ việc...Em khấp huyết bái thư!"
Tống
Giang đọc xong ngã ngất người ra, rồi ôm bụng mà kêu lên rằng:
- Thằng
con bất hiếu này, làm nên những tội ác dở dang, để đến nỗi cha già bị chết,
không được trọn đạo làm con, như thế có khác gì giống súc sinh kia nữa?"
Nói đoạn
đập đầu vào vách mà khóc to lên. Yến Thuận, Thạch Dũng vội vàng chạy đến ôm lấy
Tống Giang, Tống Giang khóc lóc hôn mê hồi lâu mới tỉnh, liền bảo Yến Thuận,
Thạch Dũng rằng:
- Tôi
đây không phải có bạc tình các anh em, song trước đây tấc lòng chỉ vương vất có
cha già ở đó.
Tới nay
cha già đã mất thì thế nào cũng phải trở về ngay, để các ông cứ việc vào Lương
Sơn Bạc mới được.
Yến
Thuận khuyên rằng:
- Nay
chẳng may Thái Công đã mất rồi nếu Ca Ca có trở lại nhà, cũng khó lòng được
trông thấy mặt, thiên hạ có bố mẹ nào mà sống mãi được với con. Vậy xin Ca Ca
hãy thư thả khoan tâm dẫn anh em chúng tôi lên núi, rồi anh em chúng tôi cùng
đến sơn trang, thế chẳng hóa ra ổn tiện lắm không? Rắn không đầu làm sao đi
được? Vậy nếu Nhân huynh trở về, thì đến đó ai chịu thu nhận chúng tôi?
Tống
Giang gạt đi rằng:
- Nếu
chúng tôi đưa các ông lên núi, rồi mới trở về, thì mất nhiều ngày quá, không
thể nào làm như thế được. Nay tôi xin viết một phong thư nói rõ tình hình mọi
lẽ, để các ông đem cả Thạch Dũng tới đó vào bọn Lương Sơn Bạc, còn tôi phải về
ngay mới được. Nếu không biết đến thì thôi, nay đã biết đến, thì một ngày đằng
đẵng coi tựa mấy thu, không cần ngựa nghẽo, không cần người theo, chỉ một mình
tôi phải về ngay lập tức mới yên.
Hai
người cố tình lưu giữ không được, Tống Giang lập tức gọi tửu bảo đem mượn bút
mực, vừa sụt sùi vừa viết phong thư, ân cần dặn dò ở trong, rồi không kịp dán
phong bì mà đưa ngay cho Yến Thuận. Đoạn rồi cởi lấy lá đáp cùng giày gai của
Thạch Dũng quấn vào chân, lấy một ít tiền bạc, giắt con dao lưng, và cầm lấy
thanh gậy của Thạch Dũng, toan lập tức đi không ăn uống chút gì vào miệng.
Yến
Thuận dìu lại mà rằng:
- Ca Ca
đợi Tần Tổng Quản, cùng Hoa Tri Trại đến đây, rồi đi cũng được, làm chi mà phải
tháo thứ thế?
Tống
Giang nói:
- Tôi
không thể nào đợi chờ được nữa. Bức thư của tôi đấy rồi không ngại điều chi,
hiền đệ Thạch Dũng khá nói chuyện đầu đuôi cho mọi người biết, và từ tạ anh em
giúp tôi. Tôi bây giờ làm thế nào mà một bước nhảy về ngay được tới nhà, thì
mới thỏa lòng được.
Nói xong
cắm đầu cắm cổ mà ngần ngừ thẳng bước ra đi.
Tha
hương bước một ngại ngần,
Giang hồ
tình nặng tử thần nghĩa sâu!
Cương
thường chót vót ngàn thâu,
Lấy ai
khóc nỗi bể dâu cho đời?
Bấy giờ
Tống Giang ra đi, rồi Yến Thuận, Thạch Dũng cùng nhau ăn uống một lúc trả tiền
hàng mà kéo nhau ra đi, Thạch Dũng cưỡi ngựa của Tống Giang, cùng Yến Thuận dẫn
lũ theo hầu, đi được năm bảy dặm đường, tìm vào một hàng cơm để nghỉ. Vào
khoảng buổi trưa hôm sáu, ba bộ quân mã cũng đều tiếp đến. Yến Thuận, Thạch
Dũng tiếp mấy vị hảo hán, rồi đem chuyện Tống Giang cho mọi người nghe, các vị
hảo hán nghe nói đều trách Yến Thuận không biết lưu Tống Giang ở lại.
Thạch
Dũng bảo với mọi người rằng:
- Tống
Ca Ca nghe nói phụ thân mất, thì vội vàng vật vã khóc lóc, rồi sục sạo ra đi,
không thể nào mà lưu lại được, hiện có viết một bức thư để lại đây, dặn chúng
ta cứ mau mau lên núi, không ngại điều chi hết thảy.
Hoa Vinh
cùng Tần Minh xem thư xong, bàn với mọi người rằng:
- Bây
giờ vơ vẩn giữa đường, tiến thoái đều khó, trở về không được, mà cùng nhau chia
rẽ ở đây, tất là không tiện, vậy bất nhược ta cứ đến đấy xem sao?
Nói đoạn
liền kể chín vị hảo hán cùng đi, làm một toán bốn trăm quân mã kéo đến Lương
Sơn? Khi tới gần Lương Sơn, tới một khu rừng bên cạnh bờ lau, chợt thấy trên
mặt nước có tiếng chiêng trống vang trời, cờ bay phất phới, rồi thảy trong đám
vũng nước có hai chiếc khoái thuyền đi ra. Một chiếc thuyền đi trước có bốn năm
mươi tiểu lâu la, và một vị Đầu Lĩnh. Báo Tử Đầu Lâm Xung ngồi trước mũi
thuyền; thuyền sau cũng ba bốn mươi tên lâu la, một vị Đầu Lĩnh ngồi ở trên mũi
thuyên, là Phát Xích Quỹ Lưu Đường.
Bấy giờ
Lâm Xung trông thấy bọn kia đi đến, liền quát lên hỏi rằng:
- Các người
quân quan ở đâu, dám đến đây thu bắt bọn ta. Các ngươi phải biết, bọn hảo hán ở
Lương Sơn Bạc đây, nếu trêu vào thì không một thằng nào sống được...
Bọn Hoa
Vinh, Tần Minh nghe nói vội vàng xuống ngựa, đứng trên bờ mà nói rằng:
- Chúng
tôi không phải là quan quân ở đâu, hiện có thư của Tống Công Minh Ca Ca đưa
đến, xin vào nương tựa ở Đại trại ở đây.
Lâm Xung
nghe vậy, liền nói rằng:
- Nếu có
thư của Tống Công Minh, thì xin mời các ngài đến tửu điếm đằng kia sẽ tiếp
kiến.
Nói
đoạn, rồi đứng trên thuyền vẫy lá cờ xanh, có một con thuyền ở giữa đám bụi lau
đi ra. Trong thuyền có ba người ngư phủ, một người ngồi lại coi thuyền còn hai
người lên bờ nói với bọn Hoa Vinh rằng:
- Xin
mời các vị tướng quân đi theo tôi đến đằng này.
Đoạn rồi
hai chiếc thuyền đều thổi còi lên hiệu, phất ngọn cờ trắng, nổi tiếng thanh la
mà vụt đi mất. Mọi người trông thấy kinh ngạc bảo nhau rằng:
- Nay
mới thấy Lương Sơn Bạc danh bất hư truyền, trách nào quan quân không dám chạm
đến đây. Sơn trai chúng ta bao giơ cho theo kịp được?
Bấy giờ
bọn Hoa Vinh đi theo người ngư phủ đi quanh trên con đường phẳng lặng rộng, một
lát thì tới tửu điếm Chu Qúy, Chu Quý thấy chúng đến, thì vui mừng đón tiếp,
sai mổ hai con bò làm rượu mời bọn họ. Bọn Hoa Vinh đưa thư của Tống Giang cho
Chu Quý xem.
Chu Quý
xem xong, bèn đến chốn Thủy Đình bắn một phát tên vào đám lau để ra hiệu. Phút
chốc có tiểu lâu la chở một chiếc khoái thuyên ở trong đám lau đi ra. Chu Quý
đưa thư cho tiểu lâu la, và dặn dò đầu đuôi để lên báo trước sơn trại. Ngày hôm
sau quân sư Ngô Học Cứu dẫn hai ba mươi chiếc thuyền lớn, ra tửu điếm Chu Quý
để đón tiếp mọi người. Ngô Học Cứu cùng Chu Quý mời chín vị hảo hán đem các đồ
hành lý, vợ con cùng nhân mã xuống thuyền, cùng đi vào bến Kim Sa.
Khi tới
bến, đã thấy Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh Lương Sơn, đều ăn mặc nhung phục,
dẫn phường nhạc ra đón tiếp, Tiều Cái cùng chín người bọn Hoa Vinh thi lễ, rồi
cùng lên ngựa, đưa về Tụ Nghĩa Sảnh.
Hồi đó
Bạch Nhật Thử Nhật Thắng đã nhờ được mưu kế của quân sư Ngô Học Cứu, mới vượt
được ngục Tế Châu mà cùng về ở đó. Bọn Tiều Cái, ndu, Công Tôn Thắng; Lâm Xung;
Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhi, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đỗ Thiên, Tống
Vạn, Chu Quý, Bạch Thắng, đón bọn Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín, Yến Thuận,
Vương Anh, Trương Thanh, Lã Phương, Quách Thịnh, và Thạch Dũng vào Tụ Nghĩa
Sảnh, rồi tự ngồi sang phía ghế bên tả, chín vị hảo hán kia ngồi vào phía ghế
bên hữu. Hai bên phân tọa chỉnh tề, ở giữa đốt lò hương lớn, rồi các vị hảo hán
cùng thề ước với nhau. Bọn Tiều Cái sai giết trâu ngựa mở tiệc khao mừng, và
sai dọn phòng ốc ở sau núi, để gia quyến các vị hảo hán ở,lại cho bọn thân nhân
theo hầu các vị hảo hán mới đến, đều dự tiệc cùng đám tiều đầu mực ở sơn trại.
Trong khi dự tiệc Hoa Vinh cùng Tần Minh, từng xưng tán đức tốt của Tống Giang,
và đem chuyện báo ơn báo oán ở núi Thanh Sơn, thuật lại cho các vị Đầu Lĩnh
nghe. Bọn Tiều Cái nghe vậy, ai cũng có vẻ vui mừng. Sau khi nói chuyện Lã
Phương, Quách Thịnh đánh nhau, Hoa Vinh bắn một mũi tên đứt đôi cái ngù buộc
kích, thì Tiều Cái có ý không tin, liền ấm ư đáp lại rằng:
- Nếu có
được tài bắn như vậy, thì hôm nào thử thí nghiệm xem sao?
Ngày hôm
ấy, đôi bên đều mở lòng uống rượu, khi chén đã hơi say, các vị Đầu Lĩnh liền
mời bọn Hoa Vinh đi quanh nom phong cảnh rồi lát nữa lại vào dự tiệc. Các vị
hảo hán cùng các vị Đầu Lĩnh đều dắt tay nhau dạo xem phong cảnh trước núi, rồi
cùng nhau ra đến đệ Tam Quan.
Đương
khi xem ngắm, chợt thấy tiếng chim hồng kêu kí két ở đằng xa bay lại, Hoa Vinh
nghĩ thầm trong bụng rằng:
-
"Tiều Cái nghe ta nói bắn đứt cái ngù buộc kích, thì ra dáng không tin,
vậy bất nhược tiện đây ta bắn thử một phát, cho họ biết tay mới được!"
Hoa Vinh
nghĩ đoạn, liền mắt nom thấy trong bọn theo hầu đi đó, có người sẵn cung tên,
chàng liền mượn lấy cung tên để bắn. Khi cầm lấy xem, thấy cây cung Nô Kim
Thước Hoạch óng ả dễ coi chính là hợp ý cho Hoa Vinh, chàng liền giơ cung cầm
tên bảo với Tiều Cái rằng:
- Vừa
rồi các vị Đầu Lĩnh thấy nói Hoa Vinh này bắn đứt dây ngù buộc kích, nghe chừng
có ý không tin, vậy nhân có hàng nhạn bay qua, tôi xin bắn một con để các ngài
coi thử. Tôi định bắn con nhạn thứ ba, bay ở trên kia, nếu không trúng, thì xin
các ngài đừng chê cười...
Nói đoạn
giương cung nhắm thẳng lên trên, bắn đến tách một cái, thì quả nhiên con nhạn
thứ ba rơi xuống núi, Tiều Cái sai quân nhặt về để xem, thấy mũi tên đúng giữa
đầu con nhạn. Ai lấy đều lấy làm kinh ngạc bái phục là mũi tên thần.Ngô Học Cứu
xưng tán Hoa Vinh rằng:
- Cứ như
tay thần của tướng quân, thì không những ví với Tiểu Lý Quảng, dẫu đến ngay
Dưỡng Do Cơ cũng khó lòng mà đọ được! Thực là may mắn cho sơn trại, mà có ngài
đến ở đây.
Từ đó,
các vị Đầu Lĩnh đều lấy làm kính phục Hoa Vinh, rồi cùng nhau trở về yến hội.
Ngày hôm sau, trong trại lại đặt tiệc ăn mừng, và bàn định ngôi thứ các vị hảo
hán mới tới. Tần Minh đáng lẽ ngồi trên đám đó, song có Hoa Vinh ngồi ghế thứ
năm, vai dưới Lâm Xung, mà để Tần Minh ngồi ghế thứ sáu, Lưu Đường thứ bảy
Hoàng Tín thứ tám, dưới ba anh em họ Nguyễn, song đến Yến Thuận, Vương Nụy Hổ,
Lã Phương, Tống Vạn, Chu Quý và Bạch Thắng, cộng tất cả hai mươi mốt vị Đầu
Lĩnh cùng ngồi dự tiệc với nhau. Sau khi yến tiệc vui mừng, trong sơn trại lại
chế thêm thuyền bè, nhà cửa xe pháo giáo gươm cùng các đồ cung tên cờ giáp để
phòng khi cự địch quân quan.
Giang
sơn riêng một góc trời,
Cơ mưu
trí dũng trên đời kém chi?
Sẵn sàng
võ bị binh suy,
Cư an
phải có tư nguy mới là.
Bên kia
Tống Giang từ khi chia tay cùng Yến Thuận. Thạch Dũng, liền vội vội vàng vàng
đi gấp đường để trở về cố lý. Chiều hôm đó đi đến một tửu điếm của Trương Xã
Trưởng, vốn là một người tử tế với Tống Giang từ xưa nay, nay thấy Tống Giang
đi ca mới về, mà nét mặt buốn bã như chiều thần nuốt hạt châu, liền có ý băn
khoăn mà hỏi rằng:
- Áp Ty
đi vắng hơn một năm nay, bây giờ mới về chơi nhà, mà sao nét mặt buồn bã làm
vậy? Chẳng hay trong bụng có gì không vui chăng? Bấy giờ gặp việc Quan Tư đã
tới kỳ ân xá, chắc là Áp Ty cũng được giảm tội đi rồi thì phải?
Tống
Giang đáp rằng:
- Lão
thúc dạy phải lắm, tôi bây giờ việc quan tư cũng chẳng ngại gì, duy phụ thân
sinh ra tôi mới mất, thì lẽ nào mà không đau khổ trong lòng.
Trương
Xã Trưởng nghe nói cả cười mà rằng:
- Áp Ty
điên hay sao? Lại nói chuyện buồn cười như thế? Thái Công nhà ngài vừa mới ngồi
uống rượu ở đây, vừa mới về được một lúc rồi, sao lại nói lạ thế?
Tống
Giang ngạc nhiên nói rằng:
- Thúc
thúc xem...Đây là bức thư của Tống Thanh viết rõ ràng là cha tôi mất dạo tháng
giêng, chỉ đợi tôi về làm lễ thiên táng đó mà...
Xã
Trưởng cầm lấy thư xem, rồi vỗ tay mà kêu lên rằng:
- Quái
lạ! Sao lại có thể được? Chính lúc trưa cụ với Vương Thái Công ở đông thôn, vừa
mới uống rượu ở hàng tôi xong, khi nào tôi lại nói sai?
Tống
Giang nghe nói, lấy làm quái lạ không hiểu ra sao... Đành ngồi đó đến tối rồi mới
từ giã Xã Trưởng mà lẻn về nhà. Khi tới cửa trang thấy cửa nhà vẫn êm cả, không
có việc chi động tĩnh khác. Bọn trang khách thấy Tống Giang về thì ai nấy vui
mừng mà chạy ra đón.
Tống
Giang lại hỏi ngay rằng:
- Phụ
thân ta cùng Tứ Lang có nhà không?
Tụi
trang khách nói:
- Thái
Công ngày nào cũng mong mỏi Áp Ty đã mòn cả mắt, ngày nay trông thấy Áp Ty về,
chắc là vui mừng không biết đâu mà kể...Thái Công đi uống rượu cùng Vương Thái
Công ở nhà Trương Xã Trưởng mới về vừa xong, hiện đương nằm ngủ trong phòng đó.
Tống
Giang nghe nói càng lấy làm lạ, vội vất thanh gậy xuống, rồi đi thẳng vào thảo
đường. Bấy giờ Tống Thanh thấy anh về, vội vàng chạy ra đón lạy chào rất là ân
cần. Tống Giang thấy Tống Thanh quả nhiên không mặc đồ hiếu phục, thì trong
bụng đùng đùng nổi giận trỏ mặt Tống Thanh mà mắng rằng:
- Thằng
súc sinh này vô lý quá bố còn sống trờ trờ kia, sao mày dám viết giấy nói liều,
để cho ta chực tự tử ở giữa đường...không còn thiết đến cửa nhà chi nữa.Mày là
đồ bất hiếu như thế...
Tống
Giang vừa nói đến đó, Tống Thanh chưa kịp trả lời, thì đã thấy Tống Thái Công ở
trong bình phong đi ra, gọi Tống Giang mà bảo rằng:
- Con
không nên gắt mắng em nữa, cái đó không can thiệp gì đến nó. Vì ta mong mãi
không thấy con về, nên mới sai em con viết thư như vậy, cho con phải về ngay.
Vả ta nghe nói Bạch Hổ Sơn có nhiều trộm cướp, sợ khi con bị họ bắt bớ, rồi bức
bách làm nghề lạc thảo, gây nên những tội bất hiếu bất trung, nên nhân thấy
Thạch Dũng qua đấy, phải gửi thư cho con về lập tức, cái đó đều mệnh lệnh của
ta, con không nên mắng em con nữa.
Tống
Giang nghe nói, vội đổi nét mặt làm vui cười, lạy rạp xuống đất mà thăm hỏi hàn
huyên, rồi mới kể đến việc quan ở huyện.
Thái
Công bảo với Tống Giang rằng:
- Khi
hai anh em con đi rồi, may nhờ có Chu Đồng và Lôi Hoành chu toàn che chở giúp
cho, nên công việc cũng hơi được ổn thỏa, chỉ tư giấy đi truy bắt các nơi, mà
trong nhà không còn lôi thôi gì nữa. Gần đây nghe nói triều đình sách lập Hoàng
Thái Tử lên ngôi vua, có giáng một đạo xá thứ, phàm kẻ nào có tội nặng đều được
giảm bớt cả cho. Bởi thế ta lại cũng mong con về đây...Bây giờ dẫu có bắt được,
cũng đến đi đày đi ải mà thôi, không có gì là nặng lắm. Hãy để đó xem sao?
Tống
Giang nhân hỏi đến chuyện Chu Đồng và Lôi Hoành, Thái Công đáp rằng:
- Mấy
bữa trước thấy nói hai người cùng đi việc quan vắng cả, Chu Đồng thì sai đi
Đông Kinh, còn Lôi Hoành thì không biết rằng sai phái đi đâu? Hiện nay trong
huyện có hai người quyền mới đều là người họ Triệu cả.
Cha con
ngồi chuyện một lúc, rồi Thái Công bảo Tống Giang đi ngủ sớm cho đỡ mệt. Khi
mặt trời mới mọc, vào khoảng hết trống canh một, mọi người trong nhà đâu đấy đã
ngủ yên phăng phắc, thì chợt thấy đuốc sáng rực cả lên, cửa trước cửa sau ồn áo
kêu thét, rồi có tiếng quát lên rằng:
- Bắt
lấy Tống Giang, đừng để chạy mất.
Cả nhà
nghe thấy kinh sợ hãi hùng, không biết đầu đuôi xử trí ra sao?
Hay là:
Trăng
trong soi bóng tử thần,
Hỏi rằng
có thấu gian truân nỗi đời?
Bấy lâu
góc bể bên trời
Nào khi
trốn tránh nào nơi lọc lừa
Nhân
tình trải mấy nắng mưa
Giang hồ
còn chút thân thừa là đây.
Hiếu
trung chất một lòng đầy,
Ví không
non nước thân này kém ai?
Ai lên
nhắn nhủ thử trời
Còn thân
chắc cũng còn nơi vẫy vùng.
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi này
rất nhiều chi tiết, một tiết Trại Thanh Phong khởi hành; Một tiết gặp Lã
Phương, Quách Thịnh ở núi Đối Aûnh; Một tiết gặp Thạch Dũng ở tửu điếm; Một
tiết Tống Giang nhận được gia thư; Một tiết Lương Sơn Bạc canh phòng cẩn mật;
Một tiết Hoa Vinh bắn nhạn trổ tài; Sau một tiết Tống Giang trở lại nhà.
Đọc đến
trại Thanh Phong khởi hành, với số xe ngựa, tướng binh, kể qua một lượt phân
phối một lượt, rõ ràng một đoạn sử ký.
Đọc đến
một tiết đấu kích ở Đồi Ảnh Sơn, thấy tác giả diễn ra một áng văn bỗng đâu rất
thú, đó tả một tướng quân trẻ tuổi, phải được như thế! Đọc đến một tiết tả
Thạch Dũng, cần xem tả được Thạch Dũng tướng quân như hổ dữ ngăn đường, thực là
đáng khiếp, chỉ chịu phục hai vị hào kiệt, con người hào kiệt mới chịu phục
nhau, thì con người hào kiệt đối với thiên hạ như thế nào?
Đọc đến
một tiết Tống Giang được thư nhà, cần xem chỗ Thạch Dũng chả đưa thư ra ngay,
lại không rõ sự thể trong thư nói gì, chỉ coi thông thường, làm cho Tống Giang
mừng quýnh; Sau khi uống rượu nói chuyện, mới dỡ thư xem, chưa kịp xem thư,
thấy không đề hai chữ Bình An ngoài phong bì, khiến Tống Giang ngờ, đều dùng
ngọn bút kỳ do.
Đọc đến
tiết Tống Giang, chạy về chịu tang, cần xem tác giả vẽ sống lạ con người bôn
tang, nào đổi dày bỏ gậy, bỏ tiết Thủy Bạc, cần xem xả bài trí hùng lệ, hiệu
lệnh nghiêm trang, cần xem chỗ giữ cẩn theo phép, cần xem chỗ lo sâu nghĩ xa,
cần xem chỗ hỏi han, cặn kẽ, cần xem chỗ không vội tin lời nói, cần xem chỗ
không hờ hững khách xa, đều dùng bút rất hết ý.
Đọc đến
tiết Hoa Vinh trổ tài bắn nhạn, cần xem chỗ bắn giữa đám anh tài, xin định bắn
con nào, còn khiêm tốn sợ không đúng...thấy Hoa Vinh văn nhã hơn người.
Đọc đến
tiết Tống Giang về nhà, cần xem chỗ chợt vào nhà Trương Xã Trưởng nói chuyện,
lại e không tin, sau tả thêm một Vương Xã Trưởng cùng uống rượu nữa, đó hình
thể lối hành văn.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 35: Vũng Lương Sơn, Ngô Dụng cử Đới
Tung; Núi Yết Dương, Tống Giang gặp Lý Tuấn
Bấy giờ
Tống Thái Công nghe tiếng ồn ào, vội vàng trở dậy bắc thang trèo lên tường xem,
thấy ngoài tường đóm thuốc sáng choang, hai viên Đô Đầu dẫn hơn trăm người đến
vây ở đó.
Hai viên
Đô Đầu này, nguyên là hai anh em họ Triệu, một người tên là Năng, một người tên
là Đắc, cùng mới đến huyện Vận Thành làm Đô Đầu cả. Khi đó hai viên Đô Đầu bảo
với Tống Thái Công rằng:
- Thái
Công có phải là người biết điều, thì đem Tống Giang ra đây, để chúng tôi bắt
hắn đem về nộp quan; bằng không thì chúng tôi bắt Thái Công để mang thay hắn.
Tống
Thái Công đáp rằng:
- Tống
Giang có ở nhà nầy đâu?
Triệu
Năng nói:
- Thái
Công đừng che mắt nữa? Chính Tống Giang ở nhà Trương Xã Trưởng ra về vào lúc
tối nay, hiện có người theo dõi đến đây, còn chối từ sao được?
Bấy giờ
Tống Giang đứng ở bên thang nghe vậy thì bảo với Thái Công rằng:
- Phụ
thân nói với họ làm gì? Việc con đã gặp một kỳ ân xá, chắc là cũng giảm được ít
nhiều. Vậy xin để mặc con ra thú trước cửa quan cũng chẳng chết nào mà sợ? Bọn
này là bọn vô kiến thức, không quen biết với họ bao giờ, phụ thân nói làm chi
cho mệt.
Thái
Công nghe Tống Giang nói, thì ra dáng xót thương mà rằng:
- Nếu
vậy thì cha đây làm khổ cho con hay sao?
Tống
Giang nói:
- Phụ
thân không nên phiền não làm chi? Con ra thú với quan tư thế là may lắm. Bằng
cứ như mọi khí mà bôn tẩu giang hồ, gặp rặt những tay giết người đốt nhà, rồi
lỡ ra bức bách phải đi tùng đảng, thì còn bao giờ được gặp phụ thân. Ngày nay
dẫu có lỡ đi đày ải xa khơi xong cũng có kỳ hạn, sau này sẽ trở về đây, bấy giờ
cha con đoàn tụ với nhau há chẳng vui lắm sao?
Tống
Giang nói xong liền nhảy lên thang bảo với bọn người kia rằng:
- Tôi là
Tống Giang đây, xin mời Đô Đầu hãy cho vào trong trang xơi nước, rồi sáng mai
tôi sẽ đi đến quan. Tôi không phải đến nỗi chết gì mà ngại?
Triệu
Năng nói:
- Thôi
anh đừng mưu mẹo lừa cho hai anh em chúng tôi vào đây nữa.
Tống Giang
cười mà đáp rằng:
- Có khi
nào tôi dùng mưu mẹo để liên lụy đến anh em? Mời hai Đô Đầu cứ vào đây?
Nói đoạn
xuống thang quay ra mở cổng, mời hai Đô Đầu vào trong trang, rồi nhất diện sai
giết gà vịt làm cơm thiết đãi, và cho đám quân sĩ ăn uống. Khi ăn uống xong
Tống Giang lại lấy ba mươi lạng bạc, đưa lại hai Đô Đầu mà giữ lại nghỉ ở đó
một tối.
Sáng hôm
sau, Triệu Năng, Triệu Đắc, áp giải Tống Giang về đến huyện Vận Thành. Quan
Huyện Thời Văn Bân trông thấy cả mừng, truyền đem Tống Giang ra lấy khẩu cung.
Bấy giờ Tống Giang cầm bút cung nhận các lẽ đại khái sau đây.
"Vào
khoảng mùa thu năm ngoái, có mua Diêm Bà Tích về làm tỳ thiếp, sau vì một việc
không may, hai bên cãi cọ lẫn nhau, nhân khi say rượu, lỡ tay đánh chết, rồi
phải trốn tránh phương xa. Nay bị quan trên bắt được, xin thú mọi điều, không
dám chút gì man trá."
Tri
Huyện xem nhận tờ cung, rồi truyền cho đem giam xuống nhà giam lao. Khi đó khắp
huyện nghe tiếng Tống Giang bị bắt thì ai nấy đều có lòng thương xót, mà cùng
nhay đến nói Tri Huyện, để rút bớt tội cho. Quan Huyện vốn có lòng tử tế với
Tống Giang, nên cũng cho thả lỏng trong lao, mà không bắt gông cùm trói buộc,
và lại đem tờ cung mà phê chuẩn ngay cho. Tống Giang lại đem tiền đút lót các
nơi, cho đâu đấy đều hết lòng vị nể, không ai bới móc lôi thôi. Diêm Bà khi đó
cũng đã chết rồi, không còn ai làm khổ chủ. Trương Tam thì người dưng nước lã,
Bà Tích không còn, nên cũng lặng im cho xong chuyện.
Bấy giờ,
quan Huyện làm thành văn án, đợi hết hạn sáu mươi ngày, giải lên trên Tế Châu
để kết đoán. Quan Phủ Tế Châu xem đến hết căn do, và truy theo với ngày ân xá,
liền giảm tội cho Tống Giang, phạt đánh hai mươi trượng, và phát vãng sang phủ
Giang Châu. Các quan lại ở châu thành nhiều người quen biết Tống Giang, vả lại
có tiền nong nói lót từ trước, nên đến khi phạt đánh, cũng không lấy gì làm đau
đớn, như mọi kẻ tội nhân.
Khi phạt
đánh xong rồi, quan Phủ cho thảo công văn, sai hai tên công sai cùng tụi Thương
Thiên Lý Vạn gông cổ Tống Giang, mà sai sang Giang Châu. Giải ra cổng phủ thì
Tống Thái Công và Tống Thanh đến đón ở đó, mời hai người công sai vào hàng
thiết rượu, và đưa tiền ra để tiễn tặng.
Đoạn rồi
Thái Công đưa quần áo cho Tống Giang thay, và gọi ra ngoài chỗ vắng mà dặn
rằng:
- Ta
biết Giang Châu là một nơi phong phú dễ chịu, nên phải chịu tốn tiền, xoay sở
cho con đến chỗ đó. Vậy con nên cẩn thận giữ gìn, rồi ta sẽ sai Tứ Lang đến
thăm hỏi, và tiền nong ta sẽ thường thường đưa cho, phen này con đi tất qua
Lương Sơn, lỡ khi họ có xuống núi bắt ép lên nhập bọn, thì thế nào con cũng chớ
theo, mà chớ để cho thiên hạ cười là bất nghĩa bất trung mới được. Những điều
cha dặn con chớ quên sau này may có ngày đoàn tựu với nhau thế là hạnh phúc.
Tống
Giang vâng lời, rồi bái biệt phụ thân, mà cùng hai tên công sai ra đi. Tống
Khánh đưa chân Tống Giang một quãng đường xa. Khi sắp từ biệt nói với Tống
Thanh rằng:
- Ta đi
phen này, ở nhà bất tất phải lo nghĩ làm chi, duy phụ thân nay tuổi cao sức
yếu, anh thì muôn dặm xa xôi, vậy em ở nhà phải nên trông nom phụng dưỡng, chớ
bỏ đó mà sang Giang Châu mới được. Ta đi đến đâu, anh em quen biết cũng nhiều,
nếu có thiến thốn tiền nong, khắc đã có người giúp đỡ, rồi sau này nhờ trời tất
cũng phải có phen đoàn tụ với nhau. Nói đoạn hai anh em cũng ngậm ngùi lai láng
mà cùng nhau gạt lệ chia tay.
Cố hương
xa cách từ đây,
Nước non
còn hẹn đến ngày trùng lai.
Đen thân
đọ với đất trời,
Hỏi rằng
cung kiếm chìu người hay chăng?
Sau khi
từ biết Tống Thanh, Tống Giang cùng hai tên công sai lẽo đẽo lên đường. Hai tên
công sai này đã được tiền của Tống Giang tiễn tặng, và cũng biết Tống Giang là
người hảo hán xưa nay, nên cũng hết lòng chiêu đãi, mà không hoạnh hoẹ điều
chi.
Tối hôm
ấy đi đến một tửu điếm, Tống Giang cùng hai tên công sai vào nghỉ trọ. Tống
Giang mua rượu thịt đãi hai tên công sai cùng uống, và bàn với hai người rằng:
- Chả
dấu gì hai bác, các hảo hán trên Lương Sơn quen biết tôi rất nhiều, nay cứ theo
đường thẳng đi qua lối này, thì tất nhiên họ cướp lấy tôi, mà hai bác cũng phần
kinh sợ, vậy sáng mai dậy sớm mà tìm lối tắt nào để đi, cho tránh khỏi chỗ ấy
là hơn.
Hai tên
công sai vâng lời mà rằng:
- Nếu
vậy chúng tôi cũng biết lối tắt, ta phải theo lối tắt mà đi, thì họ còn biết
đâu mà bắt được?
Đêm hôm
ấy ba người cùng định kế với nhau, rồi sáng hôm sau trở dậy ăn cơm sớm, rồi
cung theo lối tắt mà đi. Khi đi được hơn mươi dặm đường, chợt trông thấy ở
sường núi trước mặt có toán quân đi ra. Tống Giang nom lên thì thấy Xích Phát
Quỹ Lưu Đường dẫn một toán quân hai ba mươi tên lâu la sồng sộc chạy ra chỗ
Tống Giang mà toan đánh chết hai tên công sai. Trương Thiên, Vạn Lý thấy vậy
đều sợ hết vía, mà quỳ ngay xuống dưới đất.
Hoa Vinh
hỏi lên rằng:
- Sao
không tháo gông ra cho huynh trưởng?
Tiều Cái
đáp lên rằng:
- Tôi
biết ý huynh trưởng rồi...Cái đó có khó gì? Chỉ có một điều là không lưu luyến
huynh trưởng ở sơn trại thì thôi...Nhưng Tiều Đầu Lĩnh lâu nay không được gặp
nhân huynh, phen này muốn cùng nhân huynh tỏ lộ mấy lời tâm phúc, vậy xin người
hãy quá bộ vào chơi sơn trại rồi sẽ đi...Có vội gì?
Tống
Giang nghe nói đáp ngay rằng:
- Chỉ có
tiên sinh là biết được ý tôi...
Nói đoạn
lại nâng hai người công sai dậy ma tiếp luôn rằng:
- Phải
để cho hai người này được tử tế...thà rằng giết tôi, chứ không thể hại họ được!
Đoạn Ngô
Học Cứu liền đón bọn Tống Giang, cùng vào trong núi. Khi đến bên núi, có kiệu
ra đón bên đinh đoạn kim. Đoạn rồi truyền lệnh cho các vị Đầu Lĩnh cùng về tụ
họp và đón tiếp vào Tụ Nghĩa Sảnh.
Khi vào
tới tụ Nghĩa Sảnh, Tiều Cái ra ý ân cần cảm tạ mà rằng:
- Từ khi
ở đất Vạn Thành, nhờ ngài cứu thoát cho khỏi nguy nan, anh em thường vẫn nhắc
đến ơn lớn của ngà, mới đây lại tiến dẫn các vị hào kiệt lên núi, thực là làm
cho vẻ vang sơn trại vô cùng, ơn ấy biết bao giờ mà lũ chúng tôi biết báo đền
cho xứng đáng.
Tống
Giang đáp rằng:
- Chúng
tôi sau khi từ biệt các ngài rồi giết đứa dâm phụ, phải đem thân đi đào tẩu
giang hồ, hơn một năm trời dòng dã, dạo trước đã toan lên núi để thăm hỏi các
ngài, song giữa đường tiếp được gia thư nói rằng phụ thân tạ thế, nên phải vội
vàng về ngay. Ai ngờ đó là thân phụ mong mỏi, sợ khi nhập bọn với ai, nên mới
viết thư nói dối gọi về, và cũng bởi đó nên quan trên bắt được. Nhưng cũng may
được nhiều người che chở trông nom, nên cũng không có điều chi khổ sở; mà đi
đầy đến đất Giang Châu, cũng là một nơi dễ chịu. Nay các ngài đã có lòng cho
gọi, tôi không đến bái yết thì không tiện, song ngặt vì kỳ hạn đến nơi, không
thể nào ở lâu đây được, nay anh em đã được gặp nhau, thế cũng là đủ, vậy xin
các ngài tha lỗi cho tôi đi.
Tiều Cái
nói:
- Có
điều chi mà phải vội vàng thế, xin huynh trưởng ngồi chơi thư thả rồi sẽ hay.
Nói đoạn
mời Tống Giang cùng ngồi vào ghế giữa. Tống Giang cho gọi hai tên công sai ngồi
sát ở hai bên, mà không hề rời xa một bước. Tiều Cái bảo các đầu lĩnh chào Tống
Giang, rồi cho ngồi dàn ra hai bên, và sai tiểu đồng rót rượu. Trước hết Tiều
Cái chào Tống Giang, rồi từ Quân sư Ngô Học Cứu cho đến Bạch Thắng, đều cất
chén mời khắp lượt. Rượu được vài tuần, Tống Giang lại đứng dậy mà rằng:
- Thế
này thì biết đủ tấm lòng thân ái của các ngài đối với Tống Giang, song Tống
Giang hiện đương là người có tội, không thể nào mà ở lâu được, vậy xin từ tạ để
đi.
Tiều Cái
cười rằng:
- Nhân
huynh cần gì phải như vậy? Nếu nhân huynh không muốn giết hại hai tên công sai,
thì cứ cho họ ít tiền rồi tống họ về, sau có lý thế nào cũng chỉ nói là bọn
Lương Sơn Bạc cướp mất huynh trưởng rồi, không có kẻ nào trị tội họ mà sợ.
Tống
Giang đáp rằng:
- Xin
huynh trưởng chớ nói những lời như thế? Nếu thế không phải là cứu vớt Tống
Giang, mà chính là làm khổ Tống Giang đó, Tống Giang này trên có cha già chưa
từng được một ngày phụng dưỡng, có lẽ nào dám trái lời nghiêm huấn làm cho liên
lụy đến cha? Trước đây cũng vì một lúc cao hứng, toan đến đây ở cùng các ngài,
nhưng may sao trời kia xui khiến lại gặp được Thạch Dũng, mà được trở về nhà,
cho đến cố hương, rồi sau phụ thân nói hết đầu đuôi; bắt phải ra thú quan tư mà
chịu tội cho im các chuyện. Khi bước chân ra đi đày ở đất Giang Châu, phụ thân
lại ân cần dặn dò, không được đua theo sự khoái lạc của mình, mà làm lụy đến cả
cha em nhà cửa. Nay nếu Tống Giang tôi không nghe lời đó, thì là trên trái lẽ
trời, dưới trái lời cha, trọn đời làm kẻ bất hiếu bất trung, dẫu có sống nữa
cũng là vô ích. Nếu các ngài không có lòng tha cho Tống Giang được đi, thì Tống
Giang này xin chết ngay trong tay các ngài này cho rảnh chuyện. Nói đoạn lai
láng hai hàng nước mắt, rồi đứng dậy mà quỳ cúi rạp suống đất.
Tiều
Cái, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng đều đỡ Tống Giang dậy mà rằng:
- Nếu Ca
Ca quyết định đi sang Giang Châu, thì xin hãy thư thả một hôm, rồi sáng mai sẽ
xin đưa ngài xuống núi.
Mấy
người cùng nhau gìn giữ năm lần bảy lượt. Bấy giờ Tống Giang mới nhận lời mà
lại ở đó. Song Tống Giang cũng nhất định không cho tháo bỏ gông ra, và cứ bắt
hai người công sai ngồi sát luôn bên cạnh, không để cho rời một bước nào.
Sáng sớm
hôm sau, Tống Giang lại nằng nặc quyết ý đòi đi, Ngô Dụng liền sai bày tiệc
tống hành và báo với Tống Giang rằng:
- Dám
thưa Ca Ca, Ngô Dụng tôi có một người anh em chí thân, hiện đang làm Tiết Cấp,
coi nhà lao ở Giang Châu, họ Đới tên Tung, người đó thường gọi là Đới Viện
Trưởng, anh ta giỏi việc thần hành, một ngày có thể đi được tám dặm đường, nên
người ta thường gọi là Thần Hành Thái Bảo. Người ấy chuyên là một người trọng
nghĩa khinh tài, nhân vậy đêm qua tiểu đệ có viết một phong thư, để huynh
trưởng sang đó nên kết thân với người ấy, rồi sau đây lỡ có việc gì, thì người
ấy sẽ thông tin cho anh em cùng biết.
Nói đoạn
đưa thư cho Tống Giang, rồi mời vào dự tiệc. Khi ăn tiệc xong, các vị Đầu Lĩnh
hết sức giữ Tống Giang không được, liền đem ra một mâm vàng bạc gói tặng Tống
Giang, và lại đưa hai mươi lạng bạc cho hai tên công sai, rồi sai người gánh
hành lý mà đưa chân xuống núi. Ngô Học Cứu cùng Hoa Vinh đưa đến đường cái, đi
ra ngoài hai mươi dặm, rồi mới bái biệt trở về.
Bấy giờ
hai tên công sai, thấy Tống Giang đi đến đại trại nhân mã, các vị Đầu Lĩnh đều
phải lại phục, lại được thêm kim ngân tiễn tặng như vậy, thì trong lòng lấy làm
nửa mừng nửa sợ, mà từ đó hết sức hầu hạ Tống Giang, không hề chút gì sơ xuất.
Ba người
cùng đi được hơn nửa tháng trời, đến một nơi có một tòa núi cao, hai tên công
sai nói với Tống Giang rằng:
- Ở đây
là núi Yết Dương, đi qua núi Yết Dương tức là con sông Tầm Dương, từ dó sang
Giang Châu toàn là thủy bộ, cũng không còn xa mấy nữa.
Tống
Giang đáp rằng:
- Nếu
vậy bây giờ trời còn đương sớm, ta nên đi mau qua núi, rồi sẽ tìm chỗ nghỉ mới
được.
Nói đoạn
ba người cùng rảo bước đi mau lên núi, đã trông thấy ở dưới chân núi có một
hàng rượu quay lưng vào núi, mà trước mặt toàn cây cổ quái um tùm. Tống Giang
thấy vậy với hai người kia rằng:
- Chúng
ta đương đói khát, hãy vào hàng kiếm thức gì ăn uống rồi sẽ đi.
Đoạn rồi
ba người cùng đi vào hàng rượu. Hai tên công sai để các đồ hành lý lên bàn, dựng
gậy vào một bên vách, rồi Tống Giang mời hai người ngồi lên ghế trên, mà tự
mình ngồi xuống phía dưới.
Ba người
ngồi đợi, mãi đến nửa tiếng đồng hồ không thấy ai ra bán hàng.
Tống
Giang liền kêu lên rằng:
- Chủ
nhà ở đâu, sao không ra bán hàng?
Nói vừa
dứt lời, thì thấy tiếng trả lời rằng:
- Tôi ra
đây, tôi ra đây.
Bấy giờ
thấy một anh chàng to lớn râu quăn sắc đỏ, mặt hổ kéo tia, đầu đội khăn mích,
mình mặc áo trấn thủ, để hở hai cánh tay, phía dưới buộc một cái khăn rất lớn,
ở trong nhà chạy ra cúi chào ba người mà hỏi:
- Các
ngài xơi bao nhiêu rượu?
Tống
Giang nói rằng:
- Chúng
tôi đương đói bụng, ở đây có thịt thà gì không?
- Thưa
ngài, ở đây chỉ có thịt trâu chín với rượu trắng thôi.
- Được
lắm, thái cho ba cân thịt,và rót một nai rượu đem đây.
Anh
chàng kia nói rằng:
- Thưa
ngài, xin ngài tha lỗi cho, ở hàng tôi đây phải trả tiền trước, rồi mới bán
rượu thịt sau.
Tống
Giang cười rằng:
- Ta trả
tiền trước, cũng được chứ sao?
Nói đoạn
liền mở khăn gói lấy mấy lạng bạc vụn đưa ra. Anh chàng kia đứng bên cạnh, liếc
nom thấy khăn gói của Tống Giang hơi nặng, thì trong bụng lấy làm vui mừng hớn
hở, liền cầm tiền mà vội quay vào thái thịt rót rượu, rồi lấy ba cái chén, đôi
đũa, đem ra rót rượu cho ba người uống.
Ba người
vừa uống rượu vừa nói chuyện với nhau. Bọn giang hồ bây giờ thường nói là có
nhiều người hay bỏ thuốc mê vào rượu cho thiên hạ uống, rồi cướp lấy tài vật
kim ngân, lại giết người lấy thịt đem ra làm bánh, nhưng thiết tưởng chả có lẽ
nào lại thế được!
Anh hàng
rượu đứng cạnh nghe thấy vậy, thì cười mà nói rằng:
- Ba các
ông đã nói thế, thì chớ nên uống rượu vào. Rượu thịt của tôi toàn là thuốc mê ở
trong đó.
Tống
Giang cũng cười mà rằng:
- Thôi
bác đừng nói dỡn nữa. Thấy người ta bảo là thuốc mê thì cũng nói là có thuốc
mê...
Hai tên
công sai bảo Tống Giang rằng:
- Đại Ca
xem thứ rượu này uống nóng thì tốt hơn.
Anh
chàng kia tiếp luôn rằng:
- Các
ông muốn xơi rượu nóng để chúng tôi đi hâm.
Nói đoạn
rồi đem hâm nóng, rồi rót luôn cho ba người uống. Ba người vừa mới uống được
một lượt rượu, thì hai tên công sai bỗng đờ mắt sè bọt mép ra, rồi ngã lăn
xuống.
Tống
Giang thấy vậy, vội đứng lên kêu rằng:
- Sao
các bác mới uống một chút rượu mà đã say như thế?
Nói đoạn
quay vào toan đỡ hai người kia dậy. Dè đâu chưa kịp đỡ hai người kia, thì tự
mình đã thấy hoa mắt choáng đầu, rồi cũng nằm vật ra đó.
Bấy giờ
anh chủ hàng nói một mình rằng: Trời ơi! Mấy ngày không có gì buôn bán, hôm nay
trời lại đem cho ba món hàng này thực là qúy hóa quá.
Nói xong
liền vác Tống Giang đem vào nhà mổ người, ở trong sườn núi, đặt lên trên ghế
mổ, rồi lại trở ra vác luôn hai người công sai vào. Đoạn đi trở ra đem các đồ
hành lý vào nhà trong mở ra xem thấy rặt những vàng bạc rủng rỉnh, thì tự nói
lẩm bẩm rằng: "Ta mở hàng mấy năm nay, chưa bao giờ gặp thằng tù nào nhiều
của như thế này? Quái lạ! Một thằng bị tù sao lại lắm vàng như thế? Chẳng hay
là trời đem đến, để đãi riêng ta hẳn?"
Xem
trong cái bọc, rồi lại cẩn thận, mà chạy ra cửa đứng ngóng. Được một lát người
ở dưới núi đi lên, đi thẳng vào tửu điếm.
Anh chủ
hàng trông thấy vội vàng đón tiếp mà hỏi luôn rằng:
- Đại ca
đi đâu thế?
Bọn kia
có một anh to lớn đáp rằng:
- Chúng
tôi định lên đây đón một người này, chắc hẳn bây giờ họ đến đây thì phải? Chúng
tôi ngày nào cũng đứng đón ở chân núi, mà sao mãi không gặp, hay là họ còn lươn
khươn ở đâu?
Anh chủ
hàng hỏi rằng:
- Đại Ca
định đón ai?
- Tôi
đón một người nam tử thực ra tuồng ở đây.
- Nam tử
ra tuồng là ai thế?
- Bác
muốn nghe tên ông ta hay sao? Ông ta là Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành
chứ ai?
- Có
phải là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh chăng?
- Phải,
chính ông ta.
- Ông ta
đi qua đây làm gì?
- Nào
tôi có biết đâu. Nguyên mấy ngày hôm nọ, có mấy anh em ở Tế Châu, trở về nói
chuyện rằng: Ông ta không biết bị việc gì, mà phải giải tới Tế Châu, rồi kết án
đày sang đất Giang Châu, thế nào cũng phải đi qua lối này, chứ không còn đi lối
nào được. Trước đây ông ta ở Vận Thành, tôi cũng cố ý muốn tìm cho được gặp,
huống chi ngày nay qua ở đất này, thì có lẽ nào mà không đón cho kỳ được? Nhân
thế phải đón ở quãng núi này, đến bốn năm hôm nay, không gặp một người tù nào
đi qua hết thảy. Hôm nay đợi mãi sốt ruột, định đến đây thăm bác, và kiếm thức
gì chén một thể...Thế nào họ hàng dạo này có khá không?
Chủ hàng
đáp:
- Chả
dấu gì đại ca, mấy tháng nay không có một chút gì cả. May sao trời lại run rủi
dắt cho ba cái hàng hóa đến đây, nhờ trời cũng kha khá.
Anh
chàng mới đến vội vàng hỏi rằng:
- Ba
người ấy thế nào?
- Một
người tù với hai người công sai.
Anh
chàng kia nghe nói giật mình hỏi rằng:
- Người
tù đi đấy có phải là thấp béo đen đen không?
Chủ hàng
đáp:
- Phải,
người cũng không lấy gì làm to lớn, mà nét mặt đỏ tía như quả bồ quân vậy.
- Chưa
động thủ đến chứ?
- Chưa,
tôi vừa khiêng vào phòng, đợi bọn người nhà chưa thấy đứa nào về, nào đã hạ thủ
được đâu?
Anh
chàng kia ra dáng hoảng hốt mà rằng:
- Nếu
vậy để tôi vào xem qua xem sao?
Nói đoạn
bốn người cùng vào phòng mổ. Khi vào tới nơi thấy Tống Giang cùng hai tên công
sai, nằm ngổn ngang ở trên ghế mổ.
Anh
chàng kia tuy nom thấy Tống Giang, song vẫn là không biết mặt xưa nay, lại nom
đến chỗ kim ấn, thì không được rõ ràng, nhân thế trong bụng nghi hoặc, không
biết có phải là đích xác hay không? Chợt nghĩ ra một kế, liền bảo lấy gói hành
lý của đám công sai để giở ra xem. Khi xem đến công văn, anh chàng kia ra dáng
hớn hở mà rằng:
- Trời
ơi! Nếu tôi đến chậm một chút, thì Ca Ca không còn gì là tính mệnh... ? Anh lập
tức lấy thuốc cho Ca Ca mau tỉnh dậy thì mới được.
Chủ hàng
lật đật đi pha thuốc, rồi cùng anh chàng kia vào phòng tháo gông cho Tống
Giang, mà đổ thuốc cứu cho tỉnh dậy. Đoạn rồi bốn người cùng túm vào dìu Tống
Giang mà đặt ở khách vị nhà ngoài.
Được một
lát, Tống Giang mở bừng mắt dậy, thấy bốn người kia đứng ở chung quanh thì lấy
làm kinh lạ, không hiểu ra sao.
Anh
chàng kia vội vàng ra trước mặt mà cúi lạy Tống Giang. Tống Giang lấy làm ngạc
nhiên mà hỏi rằng:
- Ông là
ai? Hay là gặp tôi trong giấc mộng?
Nói đoạn
thì cũng thấy anh chủ hàng quay ra sụp lạy dưới đất.
Tống
Giang lại hỏi:
- Ở đây
là chỗ nào? Hai ông là ai, xin cho tôi được biết?
Anh
chàng kia đáp rằng:
- Tiểu
đệ họ Lý tên Tuấn, người ở Lư Châu, làm nghề chở thuyền ở sông Dương Tử, vì có
tài lặn lội dưới nước nên người ta thường gọi là Hỗn Giang Long Lý Tuấn. Người
anh em bán hàng rượu ở đây, là người ở núi Yết Dương, xưa nay chỉ nhờ nghề cướp
bóc kiếm ăn, nên người ta thường gọi Thôi Mạnh Phán Quan Lý Lập. Còn hai người
này là hai anh em ruột, cũng chuyên nghề bóc lột kiếm ăn, có tài lội nước bơi
thuyền, mới đến ở với Lý Tuấn tôi, một người là Động Dao Đồng Uy, và một người
là Phiến Giang Thần Đồng Mãnh.
Bấy giờ
bốn anh cùng lạy Tống Giang bốn lạy, rồi Tống Giang hỏi rằng:
- Vừa
rồi đã đánh thuốc độc cho Tống Giang mê chết, vậy sao lại biết Tống Giang mà
cứu dậy?
Lý Tuấn
đáp rằng:
- Tiểu
đệ có một người anh em buôn bán ở Tế Châu về, kể chuyện nhân huynh bị quan tư
bắt bớ đày sang đất Giang Châu, nhân thế tiểu đệ liền đến đây để đón bốn hôm
nay. May cũng là sự bất thình lình vào hàng định uống chơi dăm chén rượu, dè
đâu thấy Lý Lập nói chuyện, liền có bụng ngờ mà lần vào trong phòng để xem. Bấy
giờ tiểu đệ cũng không biết mặt nhân huynh, sau phải đem công văn ra mới biết.
Tiểu đệ nghe nhân huynh đã lâu, nhiều phen đã định đến hầu mà không sao đi
được. Nay được gặp gỡ ở đây, thực là hạnh phúc vô cùng. Vậy chẳng hay nhân
huynh vì lẽ chi, mà phải đày sang Giang Châu như thế?
Tống
Giang liền đem chuyện mình giết Bà Tích, cho tới khi bị quan tư bắt được, kể
hết cho mọi người nghe.
Bốn
người đều khen ngợi thở than, rồi Lý Lập bảo với Tống Giang rằng:
- Chẳng
hay Ca Ca ở lại chốn này, can chi phải đến lao thành ở đất Giang Châu mà chịu
khổ?
Tống
Giang đáp rằng:
- Bọn
Lương Sơn Bạc đã hết lòng giữ tôi ở đó, mà tôi không thể nào lưu lại, để liên
lụy đến phụ thân tôi huống chi ở đây... ?
Lý Tuấn
nghe nói, liền quay lại bảo Lý Lập rằng:
- Ca Ca
là bậc nghĩa sĩ, hẳn không khi nào liều, vậy bác nên cứu cho hai người công sai
kia dậy.
Lý Lập
vội vàng gọi đám người nhà mới về đó, vào khiêng hai người công sai ra ngoài
hàng, rồi đem thuốc giải cứu tỉnh dậy.
Khi hai
tên công sai tỉnh dậy đều nhìn nhau mà cùng nói rằng:
- Chúng
tôi có lẽ đi đường khó nhọc, ngủ say lúc nào không biết.
Mọi
người nghe nói đều cười phá lên.
Chiều
hôm ấy Lý Lập làm rượu thiết đãi mọi người, rồi giữ ở đó một tối. Sáng hôm sau
lại thiết đãi cơm rượu tử tế, và đưa gói hành lý trả lại hai người công sai,
bấy giờ bọn Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, mời bọn Tống Giang mà từ giã Lý Lập
rồi cùng về nhà Lý Tuấn.
Khi tới
nơi Lý Tuấn cũng thiết đãi ân cần, và bái Tống Giang kêt làm huynh đệ rồi lưu
lại ở đó mấy hôm. Cách vài ba hôm, Tống Giang từ tạ xin đi, Lý Tuấn liền mở
tiệc tiễn hành và trả các đồ hành lý cho ba người, rồi đưa chân khỏi núi Yết
Dương mới ngậm ngùi bái biệt
Nước bèo
gặp gỡ tự nhiên,
Hay đâu
hoạn nạn là duyên giang hồ.
Bọn Tống
Giang hôm đó từ gĩa Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, rồi ba người cùng nhau thẳng
lối trông chừng Giang Châu. Vào khoảng trưa hôm ấy, đi đến một nơi cửa nhà đông
đúc, phố xá chen vui, thì chợt thấy có một toán người, đương túm đen túm đỏ, mà
đứng châu vào một chỗ.
Tống
Giang thấy vậy rẽ đám đông đi vào xem, thì thấy có một anh chàng đánh gậy bán
thuốc cao, đương múa may quay cuồng ở giữa.
Anh
chàng kia đi một bài gậy, rồi lại vất gậy ra đi một bài quyền. Tống Giang lấy
làm thích chí khen ngợi luôn mồm.
Đoạn rồi
anh chàng kia bưng cái mâm đi đến trước mặt mọi người mà nói rằng:
- Chúng
tôi ở phương xa đến đây, tuy võ nghệ không có gì, song được các ngài có lòng hạ
cố ban khen, vậy nếu các ngài có cần các thứ thuốc cao thì xin cho tiền để mua,
bằng không thì cũng xin các ngài rộng lòng cứu giúp một chút tiền ăn, để khỏi
phụ công con nhà khó nhọc.
Anh
chàng nói hết một lượt không ai cho một đồng nào. Chàng ta lại quay lại lượt
nữa, mà nói rằng:
- Xin
các ngài rộng tay sớt bớt ra cho...
Chàng
nói đã mỏi mồm song bọn người đứng xem chỉ trắng dã mắt để nhìn mà không ai cho
một đồng nào gọi là có.
Tống
Giang thấy vậy, liền lấy năm lạng bạc đưa ra mà bảo người kia rằng:
- Giáo
đầu ơi! Tôi là một kẻ phạm tội, không có gì để giúp đỡ, vậy có năm lạng trắng
đây, gọi là tỏ chút lòng thành để ngài cầm xơi nước.
Người
kia cầm lấy năm lạng bạc rồi cảm ơn mà rằng:
- Trấn
Yết Dương là một nơi có danh tiếng, thế mà không có ai biết đến võ nghệ là gì
... ! May sao lại gặp được vị ân quan này, cũng là bị tù tội qua đây, mà lại
cho được năm lạng bạc như thế, thực là:
Uổng
công cười Trịnh Nguyên Hòa,
Lầu xanh
mua chuộc câu ca tiếng cười.
Cứ gì hào
phú mới chơi,
Áo lành
vị tất là người phong lưu.
Nói xong
lại tiếp luôn rằng:
- Năm
lạng bạc này bằng năm mươi lạng khác, tôi xin cúi đầu bái tạ xin hỏi cao tính
đại danh là gì, để tôi biểu dương cho thiên hạ cùng biết...
Tống
Giang mỉm cười đáp rằng:
- Giáo
sư ơi! Món tiền nhỏ mọn con con thế có kể làm gì? Đương khi nói vậy thì có một
đại hán rẽ đám đông đi vào mà quát lên rằng:
- Thằng
này là thằng nào? Đồ tù tội ở đâu? Dám đến đâu làm mãi tiếng đất Yết Dương của
chúng ta như vậy?
Nói đoạn
giơ tay quyền lên để đánh Tống Giang.
Mới hay:
Lận tài
là của hiếm hoi,
Xưa nay
nghĩa hiệp trên đời được bao?
Đỉnh
chung đã chắc ai nào,
Vàng
chôn ngọc lấp, tiếng hào vắng tanh?
Trăm năm
thế thái nhân tình
Khiến
người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân
Biết ai
là kẻ xuất trần
Biết ai
là Mạnh Thường Quân ở đời?
Ai đi
nhắn nhủ đôi lời
Anh
chàng họ Tống là người sao đây?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Trong
một bộ sách, tả một trăm linh bảy người rất dễ, tả Tống Giang rất khó, nên đọc
bộ sách này, cũng được chuyện 107 người rất dễ, mà đọc chuyện một Tống Giang
rất khó hiểu. Vì tả chuyện 107 người, đều đúng ngọn bút viết ra, tốt thì thực
tốt, xấu thì thật xấu, còn tả Tống Giang lại không thế, vội đọc qua thì thấy
rất tốt, đọc lần nữa thì thấy tốt xấu đủ hai phần, lại đọc kỹ một lần nữa, thấy
tốt không bằng xấu, sau cùng đọc xét ra, thấy đều là xấu không còn gì tốt!
Hỡi ơi!
Đọc Thủy Hử mà đến hai ba lần, sau đến cuối chót, mà thực cho là xấu cả không
tốt, há chẳng phải là người đọc sách giỏi ư? Song ta lại nghĩ rằng: Do chỗ toàn
tốt của Tống Giang, mà đọc đến chỗ toàn xấu thì còn thấy dễ; Do chỗ toàn xấu
của Tống Giang mà tả nên toàn tốt mới thực khó làm! Nay đọc đến chuyện, xem từ
lời nói việc làm, tìm từng chút một, há chẳng cho rằng một bậc quân tử trung
tín đốc kinh, đi đâu cũng có kẻ yêu, dù là trộm cướp, thấy rằng từng chữ, từng
câu, từng tiết, từng hồi, không chút chê trách, tuy thế, há phải Tống Giang
thực là người nhân con hiếu vậy? Sử ký không chép như thế ư? Chép vua Võ Triều
Hán, chưa từng có một chữ chê đến Võ Triều Hán, thế mà độc giả sau này, chẳng
mấy một, không tỉnh ra cho Hán Võ là không phải thế, như vậy chê khen vốn ở
ngoài vòng bút mực, thì ra than ôi! Tỳ Quan chép ngoại sử đã cùng một phép với
chính sử. Há dễ viết thay! Há dễ viết thay!
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 36: Bến Tầm Dương canh khuya mắc nạn;
Nơi Giang Phủ đất khách rời chân.
Bấy giờ
đại hán kia mắng Tống Giang, rồi giơ tay toan đánh, Tống Giang liền đáp lại
rằng:
- Tôi có
tiền thì tôi cho người ta, việc gì đến anh mà ...
Đại hán
kia nghe nói tức giận, vội nắm lấy tay Tống Giang mà quát lên rằng:
- Thằng
ăn cướp bị tù này còn dám đối lại với ta a?
Tống
Giang ung dung đáp rằng:
- Can
chi mà không dám nói lại?
Đại hán
kia hăng máu, liền giơ quyền đánh vào mặt Tống Giang. Tống Giang né mình tránh
về một bên. Đại hán kia lại xông vào, Tống Giang thấy vậy lại toan dùng sức để
chống cự, chợt đâu thấy anh chàng bán thuốc cao đã đẩy rẽ đám người đứng đông
mà sấn vào đằng sau, một tay nắm lấy khăn đại hán kia, và một tay nắm giữa thắt
lưng, đẩy một cái thực mạnh đại hán ta ngã quay lơ xuống đất. Đại hán bị ngã,
cố lóp ngóp bò dậy, lại bị anh chàng bán thuốc cao đá luôn cho cái nữa, lại ngã
lăn xuống đó. Hai tên công sai thấy vậy thì túm lại giữ can anh chàng kia không
cho đánh quá. Khi đó đại hán kia trở dậy được, bèn quay nhìn Tống Giang và anh
chàng bán thuốc cao mà nói rằng:
- Được
lắm! Giỏi lắm! Rồi chúng bay sẽ biết tay ta...
Nói xong
cúi cổ chạy thẳng về phía Nam...Bấy giờ Tống Giang hỏi người bán thuốc cao
rằng:
- Chẳng
hay quý tánh cao danh là gì, ngài quý quân ở đâu?
Người
kia đáp:
- Tôi
người ở huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Tên là Tiết Vĩnh, ông tôi ngày trước làm
thuộc viên cho quan Kinh Lược Trung, sau vì ác cảm với một số đông liêu nên
không được thăng dụng nữa. Đến đời tôi chỉ nhờ nghề đánh gậy bán thuốc cao để
kiếm ăn, đám giang hồ thường gọi tên là Bệnh Đại Trung (con cọp ốm) Tiết Vĩnh.
Vậy chẳng hay quý tinh danh là gì?
- Tôi
đây họ Tống tên Giang, người ở huyện Vận Thành ...
Tiết
Vĩnh hỏi luôn rằng:
- Có phải
ngài lá Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh không?
- Vâng,
chính là tôi đó.
Tiết
Vĩnh nghe dứt lời, thì cúi ngay xuống mà chào Tống Giang.
Tống
Giang vội đỡ dậy mà bảo rằng:
- Ta tìm
chỗ nào uống vài chén rượu nói chuyện cho vui, ngài nghĩ sao?
Tiết
Vĩnh đáp:
- Xin
vâng. Chúng tôi đương muốn được gặp tôn nhan, thực là trời xui khiến vậy.
Nói đoạn
lập tức thu thậïp các đồ hàng hóa rồi cùng Tống Giang đi vào hàng rượu ở gần
đó. Khi vào tới nơi chủ hàng bảo hai người rằng:
- Nhà
tôi có rượu có thịt, song không bán cho các ông được.
Tống
Giang hỏi:
- Làm
sao lại không bán cho chúng tôi?
Chủ hàng
đáp:
- Vừa
rồi các bác đánh nhau với một ông đại hán là một ông trùm ở đất Yết Dương đấy,
ông ta đã dặn nếu bán hàng cho bọn bác là ông ta phá hàng ngay ...thế thì còn
ai dám bán nữa.
Tống
Giang nói:
- Nếu
vậy thì ta đi ngay cho rảnh, nếu không thì hắn tất đến đây lôi thôi lại thêm
khó chịu.
Tiết
Vĩnh nói:
- Tôi
xin về tính trả tiền trọ rồi một vài hôm cũng đến Giang Châu, vậy xin bác cứ đi
trước cho.
Tống
Giang liền lấy mười lạng bạc đưa cho Tiết Vĩnh rồi từ giã ra đi.
Khi Tiết
Vĩnh đi rồi Tống Giang cùng hại tên công sai lại tìm đến mấy hàng rượu khác,
đều bị chủ hàng từ chối như trước, không hề bán cho chút gì để ăn uống cả. Ba
người tức giận đi mãi đến một tiệm hàng con con ở chỗ chợ, định vào đây để trọ,
bất đồ cũng bị chủ hàng từ chối mà không nhận chứa.
Tống
Giang biết thế không ăn thua, đành phải bảo nhau kéo đi cho rảnh. Vừa đi ra
được một lúc thì bóng khuất non tây trời đã gần tối. Tống Giang cùng hai tên
công sai trông trước trông sau không có hàng nước nào ở gần đó, trong bụng lấy
làm lo ngại cùng bàn với nhau không biết vào đâu mà trọ được.
Chợt đâu
trông thấy ở quãng rừng xa xa có bóng đèn lấp ló. Tống Giang liền bảo với hai
tên công sai rằng:
- Chỗ
kia có ánh đèn sáng tất là có người ở đó, vậy ta đến đấy nói khó với người ta ở
trọ một đêm rồi sáng mai sẽ cùng đi sớm.
Hai tên
công sai đáp rằng:
- Chỗ
đèn sáng hình như không thẳng đường cái đi đến thì làm thế nào cho tiện?
Tống
Giang nói:
- Bây
giờ lỡ bước phải chịu khó một tí, sáng mai đi rồi ra vài dặm đường cũng được
chứ sao?
Nói đoạn
ba người cùng rẽ xuống con đường nhỏ đi được hai ba dặm đường thì đến nơi một
trang viện lớn ở đằng sau một đám rừng cây.
Tống
Giang cùng hai tên công sai lần vào cổng trang, gõ cửa mấy tiếng thì có người
chạy ra mở cửa mà hỏi rằng:
- Các
bác là người ở đau mà đêm hôm đến gọi cửa làm vậy?
Tống
Giang cung kính đáp rằng:
- Chúng
tôi là người phạm tội, đẩy sang ở Giang Châu, qua đây lỡ mất độ đường, xin vào
quý trang trọ nhờ một tối rồi sáng mai nộp trả tiền phòng.
Người
kia đáp rằng:
- Các
ông hãy đợi đây để tôi vào hỏi chủ nhân đã...
Nói đoạn
quay trở vào một lát, rồi lại trở ra bảo với ba người rằng:
- Thái
Công mời các ông cứ vào.
Tống
Giang cùng hai tên công sai đi vào đến trước thảo đường, vái chào trang chủ và
nói chuyện lỡ đường xin nghỉ trọ một đêm. Thái Công nghe nói, liền gọi trang
khách dọn phòng cho ba người nghỉ và lấy cơm nước cho ba người ăn uống. Trang
khách vâng lời, dẫn ba người xuống một gian phòng, đốt cây đèn lên cho ba người
ngồi nghỉ rồi dọn cơm nước lên mời ăn uống. Khi ba người ăn uống xong, trang
khách lại thu dọn tất cả đem đi.
Bấy giờ
hai tên công sai bảo với Tống Giang rằng:
- Bây
giờ đêm hôm vắng vẻ, tôi hãy tháo gông cho Áp Ty dể ngủ, để sáng mai cho kịp
dậy sớm.
Nói đoạn
liền tháo gông cho Tống Giang, rồi cùng nhau ra ngoài phòng đi rửa, khi ra tới
ngoài, ngửa trông lên thấy trời im sao sáng, cảnh vật như tờ, lại trông ra đằng
mạn sau nhà, trong chỉ còn một ngõ hẹp con con, đi ngang qua đó. Ba người cùng
đi rửa xong, rồi trở vào đóng cửa phòng đi ngủ. Tống Giang nói với hai tên công
sai rằng:
- Quý
hóa quá! Nay nếu không có cụ trang chủ tử tế, mà cho chúng mình trọ ở đây, thì
thực là nguy hiểm không chơi ...
Đương
khi nói chuyện, thì bỗng thấy phía ngoài có tiếng người qua lại, rồi thấy đóm
đuốc sáng rực cả lên.
Tống
Giang dòm ra khe cửa nom thấy Thái Công dẫn hai người trang khách cầm đuốc đi
soi khắp nơi. Liền quay vào bảo với hai tên công sai rằng:
- Trang
chủ ở đây; cũng không khác gì phụ thân tôi, bao nhiêu công việc, đều phải tự
mình soi xét lấy, chiều tối ban sáng, không hề bỏ chút việc nào thực là quý
hóa.
Vừa nói
đến đó thì lại thấy tiếng người gọi cửa ồn ào, có một tên trang khách ra mở
cổng, rồi thấy một bọn năm bảy người đi vào. Trong đó có một người cầm thanh
đao lớn đi trước, còn mấy người vác gậy đi theo.
Tống
Giang nom kỹ, té ra anh chàng cầm đao, chính là người định đánh nhau với mình ở
trấn Yết Dương lúc sớm.
Bấy giờ
nghe thấy Thái Công hỏi người kia rằng:
- Tiểu
Lang đi đâu về đấy? Đánh nhau với ai mà bây giờ còn vác dao váv gậy như thế?
Anh
chàng kia đáp rằng:
- Việc
này Gia Gia không biết, Ca Ca tôi có nhà không?
Trang
chủ đáp rằng:
- Ca Ca
uống rượu say, nằm ở hiên sau kia.
Anh
chàng lại nói:
- Vậy
tôi phải gọi Ca Ca dậy, để bắt đám này mới được!
Thái
Công hỏi:
- Ngươi
lại cãi nhau với ai mà gọi Ca Ca dậy. Nó dậy thì lôi thôi sinh sự chứ không
chơi. Người hãy nói cho ta biết vì duyên cớ gì đã.
- Dám
thưa Gia Gia: Ngày hôm nay có một anh bán thuốc cao, đến ở trấn Yết Dương, mà
không vào chào anh em tôi, nên thế chúng tôi ngăn bảo các người trên trấn không
ai được cho nó một đồng tiền nào. Dè đâu có một thằng tù tội ở phương nào mới
đến, làm bộ ra mặt hảo hán, đưa cho anh kia năm lạng bạc, làm mất cả giá trị
đất Yết Dương. Tôi tức mình toan đánh, lại bị anh hàng cao đá luôn mấy cái, đến
giờ vẫn còn đau, căm tức không biết đâu mà kể. Tôi đã cho các người đi dặn các
hàng rượu không được cho chúng nó ăn ngủ hôm nay, và đã cho người đi lùng bắt
được anh bán thuốc, đánh cho một trận nên thân, hiện còn để tạm ở nhà Đô Đầu, rồi
sáng mai sẽ trói nó lại mà lăn xuống sông cho nó mất tích. Còn hai thằng công
sai với một thằng tù kia, không biết rằng nó đâu, tôi đương gọi Ca Ca lại để
tìm bắt nó... Thái Công gạt đi mà rằng:
- Con
ơi! Chớ nên làm những việc tội ác như thế? Người ta có tiền thì người ta cho,
việc gì đến mình mà lôi thôi sinh sự? Vả chăng nó đánh mình cũng chửa đau
nào... ? Con đừng nên nói với Ca Ca, rồi nó biết con bị đánh, nó lại lôi thôi
giết hại người ta chứ không chơi. Con nghe lời ta đi vào buồng ngủ, đừng nên tìm
Ca Ca nữa. Con cũng nên để lại một chút âm công mới được.
Anh
chàng kia nghe nói mặc kệ, cứ phăm phăm vác đao đi vào hiên sau. Đoạn rồi Thái
Công kia theo vào. Tống Giang nghe rõ ràng như vậy, bèn bàn với tên công sai
rằng: - Nguy lắm rồi làm thế nào được đây? Ta vào đây chính là nhà nó rồi, phải
tháo chạy cho mau, không thì chêùt cả bây giờ. Dẫu cho ông lão ấy không nói ra,
song đám người nhà đứa nào dám giấu...
Hai anh
công sai cũng hoảng hốt mà rằng:
- Nếu
vậy ta phải mau đi mới được.
Tống
Giang nói:
- Ta
không nên đi lối cửa trước, phải khoét một lối vách mà đi lối sau mới xong.
Nói đoạn
hai tên công sai đều vác hành lý, Tống Giang cầm lấy gông, rồi khóet một quãng
vách mà ra lối sau.
Ba người
dắt nhau, liền theo dưới bóng sáng mà đi vào con đường nhỏ trong đám rừng cây,
không còn biết đến đất trời đâu hết thảy?
Đi đến
một trống canh, đã đến bến sông Tầm Dương hai bên toàn là lau lách đìu hiu, ở
giữa một giải trường giang trắng xóa, đằng sau lại nghe tiếng người kêu đuổi
đến nơi, đèn đóm đi theo chẳng khác gì bọn người đi đánh cướp: Tống Giang thấy
vậy, thì trong bụng nửa cảm thương lo sợ, kêu xin trời phật cứu cho rồi cùng
nhau nấp vào lau lách. Được một lát thấy đóm đuốc đi theo đã gần tới đằng sau,
bước người càng lấy làm hãi hùng kinh sợ, trông ra nước cuốn sông ngăn, đất hết
trời cùng không còn lối nào mà chạy thoát được.
Tống
Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Nếu
biết cơ hội này, thà rằng ở Lương Sơn cho rảnh chuyện. Ai ngờ tính mạng mà chôn
lấp ở chốn này, thực là uổng quá...
Ngậm ngùi
thay bến Tầm Dương,
Đìu hiu
gió lạnh, mênh mang sóng cồn.
Ai về
nhắn bạn Lương Sơn,
Tầm
Dương nào phải đất chôn anh hùng.
Đương
khi nguy cấp kinh hoàng, thì bỗng đâu trong đám ngàn lau bụi lách, có tiếng kẽo
kẹt quai chèo rồi có một con thuyền ở đâu chở đến. Tống Giang thấy vậy, vội gọi
người lái đò, mà nói lên rằng:
- Bác
lái ơi! Bác làm phúc đức cứu ba chúng tôi, tôi sẽ trả bác nhiều tiền.
Người
lái đứng trên thuyền nói rằng:
- Ba các
bác là ai đi đâu bây giờ?
Tống
Giang nói:
- Đằng
sau có giặc đuổi, chúng tôi lạc bước đến đây, bác làm phúc cứu giúp, chúng tôi
xin trả nhiều tiền lên.
Lái đò
nghe nói, liền ghé thuyền vào, cho ba người bước lên, một anh công sai khăn gói
bỏ vào trong khoang, còn một anh lấy gậy mà đẩy thuyền ra. Tên lái đò vừa bắt
chèo lên để chèo, vừa lắng nghe thấy đồ hành lý để trong khoang thuyền có tiếng
xủng xoẳng, thì trong bụng hớn hở mừng thầm, mà hết sức cho thuyền ra giữa dòng
sông.
Bấy giờ
bọn người đuổi theo đã đi gần tới bên cạnh bến sòng, có hai đại hán tay cầm thanh
đao đi trước, và hơn mươi người cầm gậy giáo theo sau, đốt mười mấy bó đuốc Sở
rực góc trời, kéo ùa đến đó. Khi bọn ấy đi tới bờ sông, liền gọi lái đò bảo cho
thuyền vào bến.
Tống
Giang cùng hai người công sai nấp vào một xó ở trong khoang, bảo với bác lái đò
rằng:
- Bác
đừng chở vào bến, rồi chúng tôi xin đãi tiền bác.
Anh lái
đò gật đầu, rồi lẳng lặng mà kẽo kẹt chèo thuyền đi thẳng; mặc cho bọn trên bờ
kêu gọi luôn mồm.
Đám ở
trên bờ thấy vậy quát lên rằng:
- Bớ lái
đò kia không chở thuyền vào đây, ông cho là chết cả bây giờ.
Anh lái
đò cười nhạt mấy tiếng, rồi cứ im lặng không trả lời sao cả.
Trên bờ
lại quát lên rằng:
- Bớ lái
đò! Anh là người ở đâu, dám to gan không chở vào đây... ?
Lái đò
cười nhạt đáp rằng:
- Lão
gia là anh lái đò họ Trương đây, anh đừng lòe lão gia nữa.
Bấy giờ
một đại hán ở trên bờ nói luôn lên rằng:
- Có
phải Trương Đại Ca đấy à? Anh có trông thấy anh em tôi đây không?
Lái đò
đáp:
- Ta có
mù chột gì mà không nom thấy.
Đại hán
lại nói:
- Nếu
vậy anh hãy chở thuyền vào đây, tôi nói câu này đã.
- Có
chuyện gì anh hãy để mai, thuyền bây giờ còn phải đi có việc vội.
- Anh em
tôi chỉ muốn bắt ba người ở trong thuyền đó thôi.
- Ba
người trong thuyền đều là cha mẹ nuôi nấng thân quyến nhà tôi, tôi mời đi xơi
miếng dao phay đây.
- Anh
hãy cứ chở vào đây chúng tôi nói câu này đã.
- Chịu
thôi, cơm áo của tôi, bây giờ lại đem cho bác sung sướng hay sao?
Đại hán
kia nghe vậy, thì nóng nảy mà rằng:
- Trương
Đại Ca ơi! Chúng tôi không cần gì chuyện ấy đâu, bác cứ chở vào đây, cho tôi
bắt mấy thằng tù kia thôi...
Lái đò
cứ mần thinh, vừa chèo thuyền đi, vừa nói rằng:
- Ngày
hôm nay mới tiếp được một việc, chả lẽ mang vào đấy cho anh phỗng mất hay sao?
Thôi, hai anh tha lỗi cho, để hôm sau sẽ nói chuyện...
Tống
Giang nghe thấy lái đò đối đáp như vậy, cũng không hiểu thâm ý sao, chỉ tắc
lưỡi bàn với hai tên công sai mà khen rằng:
- Bác
lái đò phúc đức quá, thực hết lòng cứu giúp chúng ta...Chúng ta không nên quên
ơn những người như thế...Thực là trời đưa chiếc thuyền để cứu ta đó...
Bấy giờ
thuyền đi đã xa, bọn trên bờ kia vẫn chịu phép cầm đuốc đứng vơ vẫn trên đám bờ
lau, mà không làm gì được. Tống Giang thấy vậy liền lẩm bẩm bảo hai người kia
rằng:
- Hú
vía! Phen này thực là xa kẻ ác, gặp được người hay, không còn sợ hoạn nạn chi
nữa!
Chàng
đương nói chuyện, thì thấy anh lái ngoài kia vừa kẽo kẹt tay chèo, vừa cất
tiếng véo von hát lên rằng:
"Lão
đây sinh trưởng ở ven sông,
Chẳng
thích giao du chỉ thích đồng.
Có phải
đêm qua trời báo mộng,
Hôm nay
được của rõ như không".
Tống
Giang cùng hai tên công sai nghe thấy câu hát như vậy, thì kinh ngạc không hiểu
ra sao? Tống Giang suy tưởng trong bụng:
- Chẳng
hay họ hát chơi như vậy? Cũng không lấy gì làm quan hệ!
Ba người
đương nửa sợ nửa mừng, chưa hiểu ra sao, thì ngoài kia chú lái đò đã gác chèo
lên mà nói rằng:
- Thằng
tù với hai thằng công sai kia binh nhật mày quen làm hại những kẻ ăn sương,
ngày nay gặp tay lão gia đây, chúng bây thích ăn miếng đao phay, hay là muốn ăn
bánh hỗn độn chăng.
Tống
Giang nghe nói đáp lên rằng:
- Quan
bác đừng nói bông làm gì thế. Thế nào là miếng dao phay, thế nào là bánh hỗn
độn?
Anh lái
đò trợn mắt ghê gớm lên mà nói rằng:
- Lão
gia đùa gì với bây! Bây muốn ăn miếng dao phay, thì lão gia có một con dao sắc
như nước, ở dưới gầm thuyền kia, không cần phải bốn nhát năm nhát gì cả, chỉ
mỗi người một nhát rồi vứt xuống nước là xong. Bằng thích đánh hỗn độn, thì cởi
mau quần áo trần truồng, mà nhảy xuống sông mà tự tử.
Tống
Giang nghe nói níu lấy hai người công sai mà kêu rằng:
- Khổ
lắm trời ơi! Thực là phúc bất trùng lai, họa cô đơn chí!
Lái đò
lại quát lên rằng:
- Ba đứa
bàn định mau mau, thế nào nói đi.
Tống
Giang nói rằng:
- Bác
lái ơi! Xin bác xét cho. Chúng tôi có gì đâu. Chúng tôi là kẻ phạm tội, đày
sang đất Giang Châu, bình sinh khổ sở, xin bác thương mà tha thứ cho.
Lái đò
gắt lên rằng:
- Bây
nói gì thế? Tha cho ba chúng bây à? Ta, gọi là nửa đứa cũng không tha, ông đây
tên là Câu Kiển Trương Gia Gia (ông cụ Trương mặt chó) đây, bố cũng không cần,
mẹ cũng không cần, bây câm mồm đi, nhảy xuống nước đi thôi.
Tống
Giang vật nài kêu rằng:
- Chúng
tôi xin đưa hết các đồ kim ngân cùng áo xống trong gói để dâng ông, xin ông làm
phúc tha mạng cho chúng tôi.
Lái đò
lặng ngắt, đi vào dưới khoang thuyền, lấy con dao sáng nhoáng lên, rồi quát bảo
với ba người rằng:
- Ba
chúng bây muốn làm thế nào?
Tống
Giang thấy vậy, thì ngửa mặt lên trời thở dài và bảo hai tên công sai rằng:
- Chỉ vì
tôi không kính trời đất, bất hiếu với cha mạ, làm nên tội ác thế này, để liên
lụy đến hai bác, thực là đau xót quá chừng!
Hai tên
công sai cũng níu lấy gươm mà nói rằng:
- Áp Ty
ơi! Thôi còn nói làm chi nữa! Ba chúng tôi cùng chết với nhau một chỗ này thôi!
Anh lái
đò sốt ruột quát lên rằng:
- Ba anh
cởi áo mau mau nhảy xuống sông, nếu không thì lão gia cho mỗi anh một nhát.
Tống
Giang cùng hai tên công sai, nghe nói thì ôm nhau mà quay ra trông xuống dòng
sông để nhảy. Chợt đâu trên sông có tiếng kẽo ca kẽo kẹt, rồi có một chiếc
thuyền vun vút đi đến. Trên thuyền có ba người một đại hán cầm cây gậy móc,
đứng ở mũi thuyền, và hai người lái chèo ở đằng sau. Khi thuyền gần đến nơi,
thì đại hán cầm gậy móc kia mà quát lên rằng:
- Thuyền
nào dám hành sự ở đây? Hàng hóa trong thuyền đã có chủ, sao các ngươi được làm
liều như thế?
Anh lái
đò nghe nói, liền ngẩng lên mà nói rằng:
- Tưởng
là ai, té ra Lý Đại Ca đó. Đại Ca đi buôn bán gì, mà không cho chúng tôi đi
với?
- Bác
Trương ơi! Bác vùng vẫy ở đây một mình... Trong thuyền có hàng hóa gì đấy? Khá
không?
- Tôi
nói chuyện cho bác buồn cười nhé: Tôi mấy ngày hôm nay nhẵn nhụi, không sờ vào
đâu được, rồi lại đánh bạc thua không còn một đồng một chữ nào; Đương ngồi buồn
ở trên thuyền, bỗng có một đám người đuổi ba món hàng hóa xuống, té ra là hai
anh lính, với một thằng tù đen đen lùn thấp, không biết rằng ở đâu đến? Tôi
thấy nó nói là đi đày sang đất Giang Châu, nhưng mà không thấy đeo gông xích gì
cả. Còn bọn đuổi ở trên bờ, thì chính là hai anh em họ Mục, họ định đòi bắt đám
này, nhưng tôi không chịu trả lại...
Đại hán
kia nghe đến đó, thì ra đáng kinh ngạc mà rằng:
- Chết
rồi! Chẳng hay là Tống Công Minh Ca Ca của ta đó?
Tống
Giang ngồi bên nầy nghe tiếng người kia hơi quen quen liền kêu lên rằng:
- Hảo
hán nào bên ấy? Nhờ cứu cho Tống Giang tôi với.
- Đại
hán nào bên ấy? Nhờ cứu cho Tống Giang tôi với.
Đại hán
kia cả kinh nói rằng:
- Té ra
Tống Ca Ca của ta thực đó à?
Tống
Giang nghe nói vội nhẩy ra ngoài khoang, nhờ ánh sao soi sáng. Trông sang bên
kia, thấy người đứng mũi thuyền chính là Hồn Giang Long Lý Tuấn và hai người
chèo ở đằng sau chính là Đông Uy, Đồng Mãnh.
Bấy giờ
Lý Tuấn nhẩy sang bên thuyền này kêu lên rằng: - Khổ hại cho Ca Ca tôi, nếu
tiểu đệ chậm đến đây thì còn gì là tính mạng! Hôm nay cũng là trời kia xui
khiến, tiểu đệ ngồi nhà sốt ruột không yên, nên mới chèo thuyền qua đây để kiếm
mồi buôn bán, dè đâu lại gặp Ca Ca bị nạn kinh nguy như thế.
Anh lái
đò nghe vậy thì ngây người lạnh ngắt, hồi lâu mới cất tiếng hỏi lên rằng:
- Lý Đại
Ca ơi! Té ra người lùn đen đó, chính là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh
phải chăng?
Lý Tuấn
nói rằng:
- Chính
phải rồi, bây gờ anh mới biết khổ chưa? Chàng lái đò nghe nói vội cúi rạp xuống
để lạy mà nói rằng:
- Chết
nỗi! Làm sao nhân huynh không nói tên ngay từ trước, để tôi khỏi làm càn làm
bậy như thế?
Tống
Giang hỏi Lý Tuấn rằng:
- Hảo
hán này là ai, xin bác cho tường tên họ?
Lý Tuấn
đáp rằng:
- Dám
thưa Ca Ca, người này nguyên anh em kết nghĩa với tôi, họ Trương tên Hoành,
người Tiểu Cổ Sơn, biệt hiệu là Thuyền Hỏa Nhi, vẫn chuyên nghề lẩn lút ở bến
Tầm Dương xưa nay đó.
Nói đoạn
liền bơi thuyền vào đến bến rồi buộc thuyền vào bến, mà mời Tống Giang cùng hai
tên công sai lên bờ.
Lý Tuấn
lại bảo với Trương Hoành rằng:
- Xưa
nay tôi thường nói chuyện với anh: Nghĩa sĩ trong thiên hạ bây giờ, chỉ có một
mình Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Áp Ty ở huyện Vận Thành ngày nay anh đã biết
chưa?
Trương
Hoành bèn lấy đá lửa bật lên soi mặt Tống Giang một lượt, rồi thụp xuống bến
lạy lấy lạy để mà nói rằng:
- Xin Ca
Ca tha tội cho chúng tôi...Dám hỏi Ca Ca cớ gì mà đi đày sang Giang Châu như
vậy?
Lý Tuấn
liền đỡ lời cho Tống Giang mà kể chuyện cho Trương Hoành nghe. Trương Hoành
nghe nói có vẻ vui mừng mà rằng:
- Xin
nói để Ca Ca biết: Tôi có hai anh em ruột, tôi đây là lớn, còn thằng em nữa,
người trắng như ngà, mà nghề chơi cũng thạo, nó có thể bơi lặn dưới nước được.
Nó vừa trắng vừa giỏi, nên người ta thường gọi cho một tên lạ, là Lăng Lý Bạch
Điều Trương Thuận.Trước đây hai anh em tôi thường ở Dương Tử Giang kiếm ăn với
nhau, thực là lắm chuyện buồn cười...
Tống
Giang nói:
- Thế nào
cho tôi nghe nốt?
Trương
Hoành tiếp luôn rằng:
- Hồi đó
hễ khi nào anh em tôi thua bạc, thì tôi lại đánh một con thuyền ra một quãng
nào xa vắng để chở khách sang ngang. Chờ khi khách bộ hành xuống đã đông, rồi
em tôi ăn mặc giả làm khách đáp mà xuống ngồi ở dưới thuyền. Tôi chèo thuyền ra
đến giữa sông, rồi gác chèo lên, bỏ neo xuống, tay cầm một con dao bầu đi hỏi
tiền đò. Cứ lý ra mỗi người phải trả có năm trăm đồng, song tôi nhất định cứ
mỗi người phải trả ba quan mới được. Trước hết tôi hãy hỏi em tôi là Trương
Thuận, Trương Thuận giả vờ làm mặt không có tiền, tôi liền một tay nắm đầu, một
tay xách khố mà quăng xuống sông, rồi quay ra đòi tiền hành khách. Hành khách
trông vậy, thì anh nào anh ấy khiếp vía kính sợ bảo nhau góp tiền trả đủ ba
quan không dám thiếu nửa đồng nào. Khi thu đủ tiền, tôi liền cho bọn kia vào
bờ, rồi bấy giờ em tôi ở dưới đáy sông bò lên, chia tiền mà đi đánh bạc với
nhau. Ấy, cách sinh nhai như thế, nhân huynh tưởng có nhiêu khê không?
Nói đoạn
lại tiếp luôn rằng:
- Hiện nay
thì đã cải nghiệp cả rồi, tôi thì ở lại bến Tầm Dương này để kiếm chác quanh
co, còn em tôi là Trương Thuận thì bây giờ lại sang đánh cá ở đất Giang Châu,
nay mai Ca Ca sang đó, tôi xin gửi bức gia thư nhân thể. Nhưng mà tôi không
biết chữ, thì viết thế nào được?
Lý Tuấn
nói:
- Chúng
ta đi vào trong xóm, nhờ thầy đồ biết chữ viết cho.
Nói xong
liền để Đồng Uy, Đồng Mãnh lại coi thuyền rồi Trương Hoành cùng Lý Tuấn, cầm
đèn dẫn Tống Giang cùng hai người công sai đi vào trong thôn.
Đi được
nửa dặm đường, thì thấy phía trước mặt có bọn người đim và có đèn đuốc sáng
trưng.
Trương
Hoành liền hỏi to lên rằng:
- Anh em
bác chưa về hay sao?
Lý Tuấn
thấy vậy hỏi Trương Hoành rằng:
- Anh em
nhà nào thế?
Trương
Hoành đáp:
- Đó là
hai anh em nhà họ Mục đấy.
Tống
Giang vội gạt đi mà rằng:
- Không
được! Không được! Hai anh em ấy họ đương định bắt tôi đấy.
Lý Tuấn
nói:
- Không
ngại chi, họ cũng như chúng tôi, chỉ vì họ chưa biết Ca Ca đấy thôi.
Nói đoạn
giơ tay lên vẫy, và thổi một tiếng còi để gọi bọn kia. Hai anh em nhà kia nghe
tiếng còi gọi, bèn dẫn người nhà đi tới nơi, thấy Lý Tuấn và Trương Hoành đương
cung kính chuyện trò với anh tù, mà chính mình đương đi lùng bắt, thì lấy làm
ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Sao
hai Đại Ca lại quen mấy người này?
Lý Tuấn
cả cười mà hỏi lại rằng:
- Các
bác bảo người này là ai?
Hai anh
em nhà kia đáp rằng:
- Nào
chúng tôi có biết là ai. Sáng hôm nay ông ta đem tiền cho thằng bán thuốc cao,
làm mất cả danh giá đất Yết Dương, tôi đương tìm bắt đây.
Lý Tuấn
cười rằng:
- Đây
chính là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh làm Áp Ty ở Vận Thành, chúng ta
vẫn nói chuyện đến luôn đấy. Các anh lạy chào đi thôi.
Hai anh
em nhà kia vội vàng vất đao ra, rồi cúi lạy Tống Giang mà nói rằng:
- Chúng
tôi nghe tiếng đã lâu, mà không được thừa tiếp bao giờ? Nay chẳng may xúc phạm
tôn nhan, xin Ca Ca tha tội cho.
Tống
Giang đỡ hai người dậy mà hỏi rằng:
- Xin
hai ngài biết quý tính danh là gì?
Lý Tuấn
đáp rằng:
- Hai
người này đều là con nhà hộ, anh là một Già Lạn, Mục Hoằng, em là Tiểu Già Lạn,
Mục Xuân, là một tay bá ở đất Yết Dương tôi đấy: Nguyên đất Yết Dương tôi có ba
tay làm Bá miền núi Yết Dương: Hai là hai anh em nhà bác này làm Bá ở trấn Tầm
Dương; Còn thứ ba là anh em Trương Hoành ở bến Tầm Dương, thế gọi là Tam Bá.
Tống Giang
nói rằng:
- Nếu
vậy thì các Bá tụ tập ở đây, thực là hạnh phúc cho Tống Giang lắm, vậy xin các
Bá nghĩ tình phận anh em mà tha Tiết Vĩnh ra cho.
Mục
Hoằng cười rằng:
- Có
phải anh hàng thuốc cao đấy không? Nhân huynh cứ phóng tâm, tôi bảo Mục Xuân đem
về nộp trả Ca Ca. Bây giờ hãy xin đón Ca Ca về tệ trang nghỉ chân một lúc đã.
Lý khen
phải, liền bảo tên người nhà ra coi thuyền cho Đồng Uy, Đồng Mãnh, và nhất diện
sai người về trang báo trước ở nhà để giết dê lợn làm cơm thiết đãi, rồi cùng
nhau kéo thẳng về trang. Vừa đến canh năm, đi tới gia trang, Mục Thái Công ra
đón vào thảo đường, mời Tống Giang cùng ngồi đối tọa, còn các người kia theo
thứ tự mà ngồi.
Khi tới
gần sáng, đã thấy Mục Xuân dẫn Đại Bệnh Trùng Tiết Vĩnh về đó, Mục Hoằng liền
giục đem tửu tịch lên đãi Tống Giang cùng các người rồi lưu lại một đêm ở đấy.
Sáng hôm
sau, Tống Giang định sắp sửa ra đi, Mục Hoằng nhất định không nghe, cố lưu lại
mà đưa Tống Giang đi xem xét khắp trong thị trấn Yết Dương. Tống Giang ở luôn
ba ngày, sau sợ trễ quá kỳ hẹn, bèn quyết ý từ tạ xin đi. Anh em Mục Hoằng cố
lưu không được bèn bày tiệc tiễn hành để sáng hôm sau tiễn chân Tống Giang.
Sáng hôm sau Tống Giang từ tạ Mục Thái Công cùng các tay hảo hán mà dặn Tiết
Vĩnh hãy ở lại đó ít lâu, rồi sau sẽ tương hội ở đất Giang Châu.
Mục
Hoằng cũng ân cần lưu giữ Tiết Vĩnh ở đó, rồi đưa một ít kim ngân để tiễn Tống
Giang. Bấy giờ Trương Hoành đã nhờ người viết được phong thư nhờ gửi Tống Giang
đưa đến Giang Châu trao cho Trương Hoành. Tống Giang gói vào hành lý cẩn thận,
rồi tất cả mọi người đưa chân ra bến Tầm Dương.
Mục
Hoằng sai một chiếc thuyền, xếp các đồ hành lý xuống trước, rồi đem rượu xuống
thuyền để tiễn hành. Khi rượu tiễn đã tan, bọn Lý Tuấn, Trương Hoành, Mục
Hoằng, Mục Xuân, Đồng Uy, cùng Đồng Mãnh đều sụt sùi bái biệt trở về. Còn Tống
Giang cùng hai tên công sai, thì giong thuyền thẳng nẻo Giang Châu.
Con buồm
gió thổi phất phơ,
Tầm
Dương trước lại bây giờ Tầm Dương.
Cùng
trong một ngọn trường giang,
Mà nay
nước cuộn sóng cuồng đi đâu!
Khi tới
bến Giang Châu, hai tên công sai lại đeo gông vào cho Tống Giang, rồi thu lấy
các đồ lý, và đem công văn giải vào trong phủ.
Quan Phủ
Giang Châu họ Xài tên Đắc Chương, con thứ chín của Thái Sư Xài Kinh ở đương
triều, nhân thế những người ở Giang Châu thường gọi là Xài Cưu Tư Phủ. Người
này vốn tính tham lam kiêu sa, vả chăng Giang Châu là nơi đất rộng tiền nhiều,
nên Xài Thái Sư cho ra Tri Phủ ở đó, , để tiện đường phung phí ăn chơi.
Bấy giờ
hai tên công sai giải Tống Giang vào trước nha. Tri Phủ trông thấy Tống Giang
có vẻ lỗi lạc phi thường, liền hỏi ngay rằng:
- Làm
sao trên đầu gông lại không có dấu niêm phong của châu phủ như thế?
Hai tên
công sai kêu rằng:
- Chúng
con đi đường bị mưa xuân thấm ướt, nát mất lúc nào không hay.
Tri Phủ
nghe nói, liền truyền hai tên lính giải sang nhà lao.
Khi ra
khỏi cổng phủ, Tống Giang liền mời tất cả mọi người vào một tửu điếm để thiết
rượu, và lấy ra năm lạng bạc đưa cho hai tên lính ở Giang Châu. Khi ăn uống
xong tên lính Giang Châu đưa Tống Giang đến lao phòng, ra đến nơi nói lót với
quản doanh, Sai Bát, rồi giao Tống Giang vào đó, mà trở về trong phủ đường.
Đoạn rồi hai tên công sai trước, cũng giao các đồ hành lý cho Tống Giang và hết
lòng cảm tạ mà trở vào trong phủ lĩnh giấy tờ để trở về Tế Châu.
Khi đó
Tống Giang nhờ người mời Sai Bát đến, đưa tặng mười lạng bạc, và nhờ đưa lên
Quản Doanh mười lạng, còn các người theo hầu trong doanh và lính tráng, đều có
tặng tiền trà nước hẳn hoi. Nhân thế mọi người đều có lòng vì nể Tống Giang.
Hồi lâu,
chúng dẫn Tống Giang lên phong điểm danh, rồi tháo bỏ gông trói vào chào Quản
Doanh. Quản Doanh vè đã được tiền đút lót nên khi thấy Tống Giang lên, liền hỏi
ngay rằng:
- Tên tù
phạm mới đến là Tống Giang kia, ngươi đã biết theo như luật lệ của đức Thái Tổ
Võ Đức Hoàng Đế tiên triều, phàm các người mới phạm tội, phải chịu một trăm roi
ra oai, vậy tả hữu đâu kéo tên phạm ra đây.
Tống
Giang kêu rằng:
- Chúng
tôi đi đường chẳng may bị cảm chưa khỏi, vậy xin ngài cho khất ít lâu.
Quản
Doanh đáp rằng:
- Ta
trông mặt anh này có lẽ còn ốm thực; Nếu vậy hãy cho gửi đó ít lâu. Anh này
trước đã làm Huyện lại xuất thân, thì tất là thạo việc, nay ta cho xuống bàn
giấy ở bản doanh để sao viết giấy má.
Nói rồi
liền thảo giấy cho Tống Giang xuống làm ở phòng giấy. Tống Giang tạ ơn, rồi
xuống lao phòng, thu xếp hành lý để sang bên phòng giấy. Các bọn tù đồ thấy
Tống Giang được biệt đãi như vậy, thì bảo nhau mua rượu thịt đến mừng.
Ngày hôm
sau Tống Giang lại làm rượu thiết lại bọn tù đồ, và thỉnh thoảng lại mời Sai
Bát đến uống rượu, còn về chỗ Quản Doanh thì đưa đồ biếu tặng luôn luôn.
Tống
Giang nhờ được sẵn tiền trong túi, hết lòng cố kết bạn với bọn Giang Châu, nên
mới đến đó được nửa tháng trời, mà khắp trong dinh trại không ai là không vui
thích yêu chiều.
Nhân tâm
theo với hơi đồng
Thói đời
nóng lạnh thôi không lạ gì?
Một hôm,
Tống Giang đương ngồi uống rượu với Sai Bát ở trong phòng giấy. Sai Bát bảo với
Tống Giang rằng:
- Hôm
trước tôi đã nói chuyện với nhân huynh, nên đưa chút lễ vạt gì cho Tiếp Cấp coi
ngục ở đây, đên nay ngó nửa tháng trời, sao hiền huynh chưa đưa cho ông ta. Nay
mai ông ta đến đây, tất là lôi thôi khó chịu.
Tống
Giang đáp rằng:
- Cái đó
không cần...Sai Bát có tiêu tiền, thì cứ hỏi Tống Giang này mà lấy, còn như
Tiết Cấp thì một chữ cũng không cho. Để xuống đây khắc tôi có cách nói.
Sai Bát
lại nói rằng:
- Chết
nỗi! Áp Ty ơi! Tiết Cấp này không phải là vừa đâu, ông ta ngón gì cũng giỏi,
nếu lỡ có điều gì xúc phạm thì nguy chứ không chơi, Áp Ty phải liệu mới được.
- Được,
xin huynh trưởng cứ phóng tâm, mặc kệ ông ta muốn thế nào, tôi cũng có cách. Dễ
thường ông ta còn có việc cần đến tôi cũng chưa biết chừng...
Vừa nói
xong, thì thấy có một tên bài đầu đến báo rằng:
- Tiết
Cấp đã đến, hiện đương quát lác ở trên sảnh, kêu rằng tên tù mới, sao không
thấy đưa tiền lệ tiền ngạch gì cả ...
Sai Bát
liền bảo Tống Giang rằng:
- Đấy,
tôi nói có sai đâu, bây giờ ông ta đến đây, không khéo lại liên lụy cả đến
chúng tôi cũng nên.
Tống
Giang đứng dậy cười mà rằng:
- Xin
Sai Bát tha lỗi cho. Để hôm khác tôi xin hầu rượu, bây giờ đệ nói với ông ta
xem sao đã.
Sai Bát
cũng đứng dậy nói rằng:
- Xin
hiền huynh đi một mình vậy, chúng tôi đến đấy không tiện.
Nói xong
từ biệt mà đi.
Đoạn rồi
một mình Tống Giang đi đến phòng điểm danh để chào Tiết Cấp.
Hay là:
Giang
Châu chiếc nhạn ly quần
Cái
khuôn con Tạo xoay vần từ đây
Mấy phen
hồ hải tỉnh say
Con
thuyền chìm nổi đến nay chưa cùng
Gió dồn
giấc mộng Thanh Phong
Lương
Sơn xa cách vẫy vùng riêng ai
Hãy liều
nhắm mắt thử chơi
Xem rằng
thế cục xoay đến đâu?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Sách này
tả 108 người, đều có tâm địa ngang tắt, thế nhưng chưa từng có ai Tống Giang
con người giả dối không định đó vậy. Đối với hảo hán thiên hạ mà kết giao, mới
đầu không để lồng lộng như thanh thiên, trong trắng như hao nguyệt, êm ái tựa
mưa xuân, nóng thẳng như sấm hè...Chỉ có một điều tung tiền ra mà thôi. Xét ra
lấy đồng tiền là gốc mua chuộc, thế mà tự nói rằng hiếu với cha mẹ, thế mà vẫn
bảo rằng hiếu với cha mẹ, chẳng sợ thiên hạ không tin là hiếu với cha mẹ; Lại tự
bảo rằng kính với trời đất, chẳng sợ thiên hạ không tin là kính trời đất; lại
tự bảo rằng tôn triều đình, chẳng sợ thiên hạ không cho tin tôn triều đình; Lại
tự bảo rằng mến bạn bè, không tin thiên hạ chăng cho là mến bạn bè...Hỡi ôi!
Con người thiên hạ chỉ biết đồng tiền làm quý, mà chẳng biết tới căn để sự tung
tiền, đều làm cho Tống Giang dòm biết, vì đó tính chuyện, đều làm cho Tống
Giang thao túng đổi ngầm thay rõ mọi sự, đó vốn là sự xấu xa của người trong
thiên hạ. Cho nên Tống Giang vốn là anh lại sảo, chỉ đem đồng tiền mua chuộc
thiên hạ, mà vẫn tự xưng là Hiếu Nghĩa Hắc Tam, để tính ngầm ngôi của Tiều Cái
về sau, đấy là việc xấu, sao nỡ như thế vậy vay! Tác giả vốn ghét thế gian có
những con người như thế, mới mượn một Tống Giang, để lập chuyện ra, mà từng chỗ
chép ra sự phóng tài hóa thu tâm, đều là lấy ngòi bút công giết chết lòng tà
gian vậy.
Thiên hạ
bấy giờ, không ai chả thân với Tống Giang, thế mà rất thân như Hoa Vinh kia
thấy rõ lắm. Hoa Vinh đón mời, Tống Giang không khi nào chẳng tới; Hoa Vinh lưu
giữ, Tống Giang không khi nào chả ở; Hoa Vinh cần tháo gông, Tống Giang không
khi nào chẳng tháo ...Đương lúc trên vin cớ triều đình, dưới nghe lời cha dạy,
dù có một trăm Hoa Vinh chẳng từng khuyên nổi Tống Giang tạm mở gông ra làm cho
đám người sơn bạc tưởng thực rằng cái gông của Tống Giang phải đến lao thành
Giang Châu, thì mới dám cởi, tác giả ghét lăm, mới tả ở chỗ núi Yết Dương rằng
hãy tạm mở gông, đến sau từ biệt ly, lại chép rằng; Hãy đeo gông lại. Ở trong
phòng Mục Thái Công chép rằng: Trong này không ai người ngoài, hãy tạm tháo
gông, mà chép rằng: Tống Giang nói rất phải hãy tạm tháo gông đến khi chạy
trốn, lại chép rằng Tống Giang cầm lấy gông. Khi trong miệng Trương Hoành nói
chép rằng: Bấy giờ chẳng đeo gông; Với lúc Mục Hoằng thuyền quay lại, cũng chép
rằng; Mọi người ở giang biên sửa soạn đeo gông. Đến khi lên bờ Giang Châu, chép
rằng: Tống Giang liền đeo gông vào; Khi tới Quan Phủ hỏi: Sao trên gông không
có chữ của châu quận đi qua...Tất cả những chỗ tả đến đeo gông như thế, để so
với đoạn văn trên, Hoa Vinh cần bảo bỏ gông, mà còn không được. Hỡi ôi! Than
như Hoa Vinh, mà còn chả tỏ chân tâm, thì con người như gươm, còn ở với ai bền
mãi!.
Hồi này
từng tiết ly kỳ, từng lần nguy hiểm, kỳ không dứt không thôi hiểm còn vương còn
diễn, khiến độc giả hồi này, lửa lòng muốn tắt ánh mắt đâm mờ, chỉ lo đến chết,
không mong còn sống, như vào trọ tửu điếm đã chả được, đó một lần; Tìm trú thôn
trang, lại vào ngay trong nhà oan gia, đó hai lần; Khoét vách trốn đi, gặp sông
ngăn nước trở, đó ba lần; Tìm được thuyền, giặc còn theo sá, đó bốn lần; Trong
thuyền lại gặp Sảo Công định giết, đó năm lần; Sảo Công bức bách cầm đao đe
dọa, đó sáu lần...Một hồi thấy thoát một miệng hùm, lại sa ngã một miệng hùm,
khiến người một đầu đọc một đầu khiếp, chẳng những đọc không xiết mà khiếp cũng
không xiết được.
Hồi nầy
tả Tống Giang vốn tuân lời cha, chẳng chịu theo ở đám Lương Sơn, chợt đâu nảy
ra tả một câu bất mãn với lời cha, một câu hối hận là chẳng ở lại Lương Sơn
Bạc, đều do tác giả dùng bút ghê gớm, ngụ ý rất nghiêm cho lộ bản tướng con
người giả dối.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 37: Tống Giang cười nói gợi tức Đới
Tung Lý Quỳ hung hăng đánh với Trương Thuận
Bấy giờ
Tiết Cấp đương ngồi vắt vẻo trên sảnh, thấy Tống Giang đi đến, liền quát hỏi
rằng:
- Đứa
nào là thằng tù mới vào ở đây?
Tụi bài
đầu trỏ vào Tống Giang mà đáp rằng:
- Bẩm
chính là người nầy đây.
Tiết Cấp
lại quát luôn rằng:
- Thằng
lùn đen kia, mầy cậy thế ai, mà đến đây không đưa nộp tiên lệ cho ta?
Tống
Giang điềm nhiên mà đáp rằng:
- Phàm
sự nhân tình là đó người ta tình nguyện, có lẽ nào lại bức bách người ta được.
Gớm nhà bác giỏi thực.
Những
người đứng xem hai bên, nhìn thấy vậy, thì toát mồ hôi mà sợ thay cho Tống
Giang.
Tiết Cấp
lại quát lên rằng:
- À!
Thằng giặc tù nầy vô lễ thực, dám gọi ta là nhà bác nầy... Chúng bay đâu lôi cổ
đánh đủ trăm roi cho ta xem. Chúng nghe nói, đều có lòng thương nể Tống Giang,
liền lẳng lặng mà trốn đi, bỏ một mình Tiết Cấp và Tống Giang ở đó, Tiết Cấp
liền lấy làm giận, liền vác roi đến toan đánh TốngGiang.
Tống
Giang ung dung hỏi rằng:
- Tiết
Cấp ơi! Ông định đánh tôi, vậy tôi có tội gì?
Tiết Cấp
thét to lên rằng:
- Thằng
giặc tù nầy, mầy tức là hàng hóa ở trong tay tao, ho một tiếng cũng là tội rồi.
Tống
Giang nói:
- Phải
ông muốn nói thế nào thì nói, nhưng tôi tội cũng không đến nỗi chết nào?
- Tội
mầy không đến nỗi chết, nhưng ta định đánh chết mầy, thì cũng như đánh chết con
ruồi vậy.
Tống
Giang nghe nói, cười nhạt mà rằng:
- Tôi
đây chỉ vì không đưa tiền đút lót, mà đến nỗi đánh chết, vậy thì những kẻ giao
thông với Ngô Học Cứu ở Lương Sơn Bạc sẽ xử ra sao?
Tiết Cấp
nghe nói đến câu ấy thì vội vất roi xuống đất mà hỏi luôn rằng:
- Nhà
ngươi nói gì thế?
- Tôi
nói cái người giao thông với Quân Sư Ngô Học Cứu, việc gì mà hỏi tôi?
Tiết Cấp
cuống người lên, nắm lấy Tống Giang mà hỏi luôn rằng:
- Bác là
ai? Sao lại nói câu ấy?
Tống
Giang nói rằng:
- Thưa
ngài, tôi là Tống Giang ở Vận Thành đây.
Người
kia cả kinh, vội vàng lạy rạp xuống mà rằng:
- Té ra
huynh trưởng chính là Cập Thời Vũ Tống Công Minh, tôi không được biết.
Nói đoạn
liền bảo Tống Giang rằng:
- Ở đây
không tiện nói chuyện, xin mời huynh trưởng vào trong thành, ta sẽ đàm đạo với
nhau.
Tống
Giang đáp rằng:
- Vâng,
xin Tiết Cấp hãy đợi cho một lát, để Tống Giang về xếp dẹp bên phòng rồi sẽ đi
theo.
Nói
đoạn, vội vàng về phòng lấy bức thư của Ngô Dụng thu vào trong bọc, rồi lấy một
ít tiền, rồi đóng cửa giao cho bài đầu coi giữ, mà quay ra theo Tiết Cấp vào
trong thành Giang Châu. Khi vào trong thành, tìm vào ngồi ở một tửu lâu rất
kín, rồi Tiết Cấp hỏi Tống Giang rằêng:
- Huynh
trưởng gặp Ngô Học Cứu ở đâu?
Tống
Giang lấy bức thư trong bọc đưa ra cho Tiết Cấp. Tiết Cấp bóc xem hết lượt, rồi
cất thư vào túi, mà cúi xuống lạy Tống Giang.
Tống
Giang vội đáp lễ lại mà rằng:
- Vừa
rồi chúng tôi nói năng có điều không phải, xin ngài tha lỗi cho.
Tiết Cấp
nói:
- Mấy
hôm trước tiểu đệ chỉ nghe nói, có một người họ Tống đến đây, mọi khi thì vẫn
thường lệ mỗi người tù đi đến, phải nộp tiền năm lạng, mà ngày nay đến ngót nửa
tháng trời, vẫn chưa thấy nộp nên đệ muốn đến hỏi xem sao? Ai ngờ lại chính là
nhân huynh ở đó. Dám xin nhân huynh tha tội ấy cho...
- Sai
Bát cũng thường nói đến đại danh luôn luôn, Tống Giang này vẫn định đến chào,
song không biết túc hạ trọ ở đâu, và cũng không có việc gì dám đi vào trong
thành, nên đành phải đợi khi túc hạ ra đây, rồi sẽ bái kiến. Không phải là năm
lạng bạc không thể đưa đi được, song cũng chắc rằng, thể nào nhân huynh cũng có
phen qua đến ở đây, cho nên mới chậm trễ như vậy. Nay được gặp ngài ở đây, thực
là thỏa lòng vô hạn.
Tiết Cấp
này tức là Viện Trưởng Đới Tung, làm Tiết Cấp coi ngục ở hai viện Giang Châu,
mà Ngô Dụng đã nói với Tống Giang khi ở Lương Sơn vậy. Nguyên thuộc về đời nhà
Tống, các người làm Tiết Cấp ở mạn Kim Lăng đều gọi là Gia Trưởng, còn mạn Hồ
Nam đều gọi là Viện Trưởng. Vì thế người ta gọi Đới Tung là Viện Trưởng Giang
Châu. Đới Tung có thuật rất kỳ lạ, mỗi khi có văn thư cần cấp, thì buộc hai cái
giáp mã vào trái chân làm phép thân hành, thì có thể đi một ngày được năm trăm
dặm, nếu buộc bốn cái vào hai chân, thì có thể đi một ngày tới tám trăm dặm,
nhân thế người ta gọi là Thần hành Thái Bảo Đới Tung.
Bấy giờ
Đới Tung cùng Tống Giang chuyện trò với nhau, hai người đều lấy làm thỏa tình
thích ý, rồi gọi các thứ rượu nhắm lên cùng uống rượu làm vui.
Trong
khi uống rượu Tống Giang kể hết mọi chuyện đi đường cho Đới Tung nghe, Đới Tung
cũng kể chuyện nhân tình, cùng Ngô Học Cứu cho Tống Giang nghe, rất là mật
thiết.
Khi uống
được vài tuần rượu, chợt nghe dưới gác có tiếng người huyên náo ầm ầm, rồi thấy
tên tửu bảo lật đật lên nói với Đới Tung rằng:
- Người
này chỉ có Viện Trưởng ngăn bảo thì mới được, vậy xin nhờ Viện Trưởng xuống bảo
giúp cho.
Đới Tung
hỏi:
- Ai ở
dưới ấy?
- Bẩm
ngài chính là Thiết Ngưu (con trâu sắt) Lý Đại Ca vẫn theo Viện Trưởng mọi khi,
hiện đương tìm chủ hàng để vay tiền ở dưới ấy.
Đới Tung
cười rằng:
- Lại
thằng cha ấy lăng nhăng ở đây rồi, ta tưởng là ai...? Xin huynh trưởng ngồi
đây, để tôi xuống bảo anh này mấy câu, rồi sẽ đi lên ngay.
Nói xong
đứng dậy đi xuống gác một lúc, rồi dẫn một anh chàng to lớn đen chũi cùng đi
lên gác.
Tống
Giang thấy vậy lấy làm kinh ngạc, hỏi Đới Tung rằng:
- Dám
thưa Viện Trưởng Đại Ca này là ai?
Đới Tung
đáp:
- Người
này là một người coi ngục ở trong lao tiểu đệ; họ Lý tên Quỳ, người huyện Nghị
Thủy đất Nghi Châu, thuộc Bách Thượng. Anh ta có một tên lạ là Hắc Toàn Phong
(Gió lốc đen) Lý Quỳ, và người làng anh ta thường gọi là Thiết Ngưu Lý Quỳ, sau
có tội đánh chết người, phải trốn đi nơi khác; Nay dẫu được ân xá, song vẫn lưu
lạc giang hồ, mà vẫn chưa về được cố hương. Anh ta tính hay chè rượu, thường
dùng hai cái búa để đánh nhau, các ngón côn quyền cũng giỏi, hiện đương theo
việc ở đây.
Bấy giờ
Lý Quỳ trông thấy Tống Giang bèn hỏi Đới Tung rằng:
- Ca Ca
ơi! Anh chàng đen sì đó là ai?
Đới Tung
nghe hỏi thì cười bảo Tống Giang rằng:
- Áp Ty
coi đấy, hắn lỗ mãng đến thế thì thôi, không còn biết một tý gì gọi là lễ phép.
Lý Quỳ
lại hỏi Đới Tung rằng:
- Tôi
hãy hỏi Ca Ca thế nào là lỗ mãng?
- Chính
phép ra có hỏi đến ai, phải nói rằng: Vị quan nhân này là ai? Thì mới phải, nay
ngươi đường đột hỏi ngay rằng: "Anh chàng đen sì đó là ai?" Như thế
có phải là lỗ mãng không? Ta bảo cho mà biết: Vị nhân huynh chính là người
nghĩa sĩ, mà mọi khi ngươi vẫn ước ao định đến bái kiến đó.
- Có
phải là Sơn Đông Cập Thời Vũ Hắc Tống Giang không?
Đới Tung
quát lên rằng:
- Đồ
quái này, không biết gì cả, sao dám gọi sỗ sàng thế? Không cúi xuống mà lạy đi,
còn đợi đến bao giờ?
Lý Quỳ
nói:
- Có quả
là Tống Công Minh, thì tôi sẽ lạy, còn người khác thị làm gì? Tiết Cấp đừng
đánh lừa tôi, cho tôi lạy xằng lạy bậy rồi lại cười tôi.
Tống
Giang liền đáp lên rằng:
- Tôi
chính là Sơn Đông Hắc Tống Giang đây.
Lý Quỳ
nghe nói vỗ tay kêu rằng:
- Trời
ơi! Bố tôi sao không nói trước cho Thiết Ngưu mừng?
Nói đoạn
liền phủ phục xuống để lạy Tống Giang. Tống Giang vội vàng đáp lễ mà nói rằng:
- Xin
mời tráng sĩ ngồi đây một thể.
Đới Tung
cũng bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh
đến ngồi bên cạnh tôi đây mà hầu rằng:
Lý Quỳ
ngồi xuống bên cạnh Đới Tung, rồi nói rằng:
- Uống
rượu bằng chén nhỏ phiền lắm, không chịu được, xin lấy chén lớn ra đây.
Tống
Giang hỏi Lý Quỳ rằng:
- Vừa
rồi làm sao mà Đại Ca giận dữ ở dưới nhà như thế?
Lý Quỳ
đáp rằng:
- Tôi có
một đĩnh bạc lớn đem đổi lấy mười đĩnh bạc con, tiền hết mất cả rồi, nay định
đến mượn chủ hàng mười lạng bạc con để chuộc bạc lớn về cho hắn, và chỉ dùng
một ít, ai ngờ anh ta lại nhất định không cho mượn! Tôi tức mình đương định
đánh cho một mẻ tan nát cửa nhà mới thôi... Cũng may lại bị Ca Ca tôi gọi lên
đây, chứ không thì...
- Đại Ca
chỉ cần mười lạng bạc, hay là phải tiền lãi nữa?
- Tiền
lãi tôi đã có rồi, bây giờ chỉ cần mười lạng bạc để đi chuộc ngay thôi.
Tống
Giang nghe nói, liền móc túi lấy ra mười lạng bạc đưa cho Lý Quỳ, mà nói rằng:
- Đại ca
cầm tiền mà đi chuộc về.
Đới Tung
thấy vậy, toan ngăn lại thì Tống Giang đã trao tay cho Lý Quỳ mất rồi.Lý Quỳ
tiếp được món tiền, liền đứng dậy nói rằng:
- Tốt
lắm, hai vị Ca Ca hãy đợi tôi một lát, tôi chuộc bạc đem về trả ngay, rồi xin
theo Tống Ca Ca ra ngoài thành đánh chén.
Tống
Giang nói:
- Hãy
ngồi một lát rồi sẽ đi.
Lý Quỳ
nói:
- Tôi
chỉ đi một lúc rồi lại đến đây ngay.
Nói xong
đẩy rèm đi thẳng xuống lầu.
Bấy giờ
Đới Tung bảo với Tống Giang rằng:
- Huynh
trưởng đưa tiền cho hắn làm gì? Vừa rồi tôi toan giữ, thì huynh trưởng đã đưa
ra mất rồi.
Tống
Giang nói:
- Tại
sao lại thế?
- Hắn ta
dẫu là người trung trực nhưng tính ham uống rượu, thích đánh bạc, còn có bao
giờ có được một đĩnh bạc mà đổi ra, cái đó hắn nói dối đấy. Bây giờ đi vội đi
vàng thế, tức là đi đánh bạc.. Nếu được ra tất đem tiền đến trả, huynh trưởng,
mà nhược bằng bị thua mất, thì còn đào đâu ra mười lạng bạc mà trả lại, thế có
phải thêm bất tiện cho Đới Tung này lắm không?
Tống
Giang cười rằng:
- Huynh
trưởng hà tất nghĩ như thế, mấy lạng bạc ấy có làm gì, để mặc cho anh ta đánh
bạc, thua hết thì thôi. Tôi xem người ấy là một người trung trực lắm...
- Hắn ta
võ nghệ cũng khá, chỉ có một điều là tính thô mật lớn, không cần gì ai, ở đất
Giang Châu này, mỗi đám tù tội, thì lại đánh đập tất cả đám coi ngục, làm cho
tôi nhiều phen cũng liên lụy đến hắn... Giữa đường thấy sự bất bình là thế nào
cũng đánh cho những bọn cường ngạnh, vì thế khắp trong thành Giang Châu ai ai
cũng sợ. Nói đoạn Tống Giang bảo với Đới Tung rằng:
- Chúng
ta uống mấy chén rượu nữa, rồi đi chơi ngoài thành một lúc cho vui.
Đới Tung
nói:
- Tiểu
đệ quên đi mất, để rồi xin dẫn nhân huynh đi xem Giang Cảnh mới được.
- Tôi
đến đây cũng muốn đi xem phong cảnh bên sông một lượt, nhưng chưa có dịp nao
được đi, vậy xin uống rồi ta đi một thể. Nói đoạn hai người cùng ngồi nói
chuyện với nhau.
Khi đó
Lý Quỳ vớ được món tiền của Tống Giang ra đi, nghỉ khẩm lẩm trong bụng rằng:
- Tống
Giang Ca Ca thực là quý hóa, xưa nay chưa từng chơi thân với mình, mà bỗng dưng
cho mượn ngay mười lạng bạc, thế mới biết trọng nghĩa khinh tài, tiếng đồn đáng
lắm. Chỉ hiềm vì mình mấy hôm nay đánh bạc thua mãi, không có một đồng nào để
làm hảo hán mà mời ông ta đi đánh chén được! Bây giờ ta có mười lạng bạc này,
nếu đánh được bạc, thì sẽ để mấy quan tiền mời ông ta đi chén vậy.
Chàng
nghĩ vậy, liền vội vội vàng vàng đi ra ngoài thành, vào nhà Tiểu Trương Ất để
đánh bạc. Khi vào đến sòng bạc, chàng ta vất mười lạng bạc xuống đất mà gọi lên
rằng:
- Chờ
tôi với.
Tiểu
Trương Ất can:
- Đại Ca
hãy khoan, để tiếng sau sẽ đánh.
Lý Quỳ
nói:
- Không,
tôi cần đánh tiếng bạc này mới được.
- Đại Ca
hãy đứng ngoài, mà nghe nước bạc xem sao?
- Tôi
không cần nghe ngóng gì cả, đánh là đánh luôn, này năm lạng bạc một tiếng này
đây.
Nói xong
cướp giựt lấy tiền mọi ở tay người khác, rồi hỏi lên rằng:
- Tôi
cóp với ai đây?
Tiểu
Trương Ất nói rằng?
- Đại Ca
đánh năm lạng, thì cóp với tôi.
Lý Quỳ
vỗ tay reo:
- Được
lắm... được lắm...
Vừa reo
dứt lời, thì nhà cái mở bạc.
Lý Quỳ
bị thua, Tiểu Trương Ất liền vớ lấy bạc của Lý Quỳ. Lý Quỳ vội kêu rằng:
- Chỗ ấy
của tôi mười lạng bạc đấy.
Tiểu
Trương Ất đáp rằng:
- Nếu
vậy còn năm lạng đánh tiếng nữa, được thì tôi trả lại cả.
Lý Quỳ
lại kéo lấy tiền mọi, rồi reo lên rằng:
-
Được... Vừa reo xong thì lại thua tiếng nữa.
Tiểu
Trương Ất cười rằng:
- Tôi đã
bảo rằng: Cướp tiền mọi làm gì, hãy nghỉ thì không. Không nghe tôi, thành ra
thua luôn hai tiếng rồi.
Lý Quỳ
bảo với Tiểu Trương Ất rằng:
- Tiền
ấy của người khác đấy.
Tiểu
Trương Ất nói rằng:
- Của ai
thì mặc, đã đánh thua rồi, còn nói gì nữa?
- Thôi
anh hãy cho tôi mượn, rồi sáng mai trả vậy.
- Nói
bông làm gì thế? Trong đám bạc đến cha con cũng mặc kệ, nữa là... Bác đánh thua
rồi, còn...
Lý Quỳ
nghe đến đó, xắn áo lên rồi quát hỏi rằng:
- Có trả
hay là không?
Tiểu
Trương Ất thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:
- Lý Đại
Ca mọi khi đánh bạc sòng phẳng lắm, sao hôm nay lại giở giọng như thế? Lý Quỳ
lặng ngắt xông vào vồ lấy đĩnh bạc của mình, rồi lại cướp thêm mươi lạng bạc
nữa của kẻ khác, mà đùm vào vạt áo, trợn mắt bảo chúng rằng:
- Lão
gia mọi khi rất sòng phẳng, nhưng hôm nay hãy tạm không sòng phẳng một hôm...
Tiểu
Trương Ất vừa toan chạy đến cướp lại, thì bị Lý Quỳ đá hất ra ngoài. Bọn mười
ba mười bốn con bạc khác lại túm đến toan để cướp, cũng bị Lý Quỳ đá bên tả
đánh bên hữu, làm cho các cậu phải trốn dạt cả, mà không dám thò ra nữa. Lý Quỳ
đi ra ngoài cửa, người coi cửa hỏi rằng:
- Đại
Lang đi đâu bây giờ đó?
Lý Quỳ
lặng ngắt không trả lời, giơ cẳng đạp anh kia một cái rồi tung cửa đi ra. Bọn
kia kéo ra theo lẽo đẽo ở đằng sau mà kêu lên rằng:
- Lý Đại
Ca vô lý quá, lại cướp cả tiền của chúng tôi như thế?
Lý Quỳ
cứ lẳng lặng rảo cẳng đi mau, không một anh nào dám đi gần đến gót. Đương khi
lật đật vội vàng, thì thấy người ở đằng sau Lý Quỳ, nắm cánh tay mà quát lên
rằng:
- Sao
ngươi được cướp tiền của người ta?
Lý Quỳ
miệng đáp lên rằng:
- Việc
gì đến anh mà rối?
Vừa nói
vừa quay cổ nom lại, thì thấy Đới Tung cùng Tống Giang ở đó, Lý Quỳ vội vàng sợ
hãi ra mặt mà nói lên rằng:
- Xin Ca
Ca tha lỗi cho, mọi khi Thiết Ngưu này vẫn sòng phẳng lắm, nhưng hôm nay lỡ
đánh bạc thua mất tiền của Ca Ca, lại không có tiền mời Ca Ca đi đánh chén, nên
phải liều mà giở ngón không sòng phẳng một hôm nay vậy.
Tống
Giang nghe nói cả cười mà rằng:
- Hiền
đệ có cần tiền, cứ hỏi tôi mà lấy. Bây giờ đánh thua, phải trả người ta mới
được.
Lý Quỳ
bất đắc dĩ lại phải bỏ vạt áo lấy tiền ra hết, đưa cho Tống Giang. Tống Giang
cầm lấy tiền, gọi Tiểu Trương Ất lại để giao trả.
Trương
Ất chạy lại nhận tiền mà nói rằng:
- Thưa
hai ngài, chúng tôi chỉ xin số tiền của chúng tôi, còn mười lạng bạc của Lý Ca
đánh thua, thì tôi xin tình nguyện trả lại cho đỡ lôi thôi.
Tống
Giang nói:
- Người
cứ cầm lấy không hề chi.
Trương
Ất nhất định không dám nhận, Tống Giang liền hỏi rằng:
- Các
người có ai bị đánh đau không?
- Bẩm có
anh làm hồ lỳ, anh ra tiền mọi, và hai anh canh cửa, bị đánh ngã nằm ở trong
kia.
- Nếu
vậy thì cầm tiền này chia đều cho họ, còn Lý Ca thì khắc ta ngăn giữ, hắn không
đến nữa đâu...
Trương
Ất nhận tiền rồi lạy tạ ra về. Tống Giang quay ra bảo với Đới Tung rằng:
- Chúng
ta đi uống rượu với Lý Ca một lúc đã.
Đới Tung
vâng lời mà rằng:
- Ở bên
bờ sông phía trước mặt kia, có Tỳ Bà Đình tửu điếm, là một nơi cổ tích của Bạch
Lạc Thiên về đời Đường ngày trước, chúng ta đến đây uống rượu xem phong cảnh
cho vui.
Tống
Giang nói:
- Ta nên
mua các thức nhắm ở trong thành đem ra đó.
Đới Tung
nói:
- Hiện
bây giờ có người bọn hàng rượu rồi, cần gì phải mua nữa.
Nói đoạn
ba người cùng dắt nhau ra Tỳ Bà Đinh. Khi tới nơi thấy khu đình ở cạnh bến Tầm
Dương, một bên là nhà của chủ nhân, trên Đình Tỳ Bà có tới mười bàn ăn, rất là
rộng rãi. Đới Tung vào chọn một bàn sạch sẽ, nhường Tống Giang ngồi cánh trên,
tự mình mình ngồi giữa, để Lý Quỳ ngồi dưới, rồi gọi tửu bảo sai dọn rượu lên.
Tên tửu
bảo mang lên mở hai chai Ngọc Hồ Xuân Tửu, là một thứ rượu có tiếng nhất ở đất
Giang Châu.
Lý Quỳ
bảo với tửu bảo rằng:
- Lấy
chén lớn rót lên đây, uống chén con lách tách khó chịu.
Đới Tung
thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh
nhà quê lắm, thôi, lặng im mà uống rượu đi thôi.
Tống
Giang lại bảo tửu bảo rằng:
- Hai
chúng ta đây để chén con cũng được, còn Đại Ca kia thì phải lấy chén lớn ra.
Tửu bảo
vâng lời, lấy chén lớn ra để lên trước mặt Lý Quỳ, rồi rót rượu mà đem các thức
nhắm lên.
Lý Quỳ
cười mà nói rằng:
- Thực
là Tống Giang Ca Ca quý hóa quá? Người ta nói không sai một chút nào... Chưa
chi đã biết ngay tính của tiểu đệ... Kết bái được một vị Ca Ca như thế, thực
cũng đáng đời.
Tống
Giang nhân có Lý Quỳ trong bụng vui thích, uống luôn mấy chén rượu, rồi hỏi Đới
Tung rằng:
- Ở đây
có cá tươi hay không?
Đới Tung
đáp:
- Huynh
trưởng không trông đầy sông toàn là thuyền đánh cá đó sao? ở đây chính là một
nơi cá gạo sẵn sàng, làm chi không có.
- Giá
được một thứ thang cá nấu cay, mà ăn cho giã rượu thì hay lắm.
Đới Tung
liền gọi tửu bảo sai làm ba bát thang cả đem lên; Để một lát tên tửu bảo bưng
ba bát thang lên. Tống Giang nom thấy bát đĩa sang trọng khác hắn hàng quán mọi
nơi, thì trong lòng lấy làm dễ chịu, liền cầm đũa mời Đới Tung và Lý Quỳ cùng
ăn.
Lý Quỳ
không dùng đến đũa, thò ngay tay vào bát, vớ lấy khúc cá giơ lên mồm mà cắn
nhai rau ráu, Tống Giang nhịn cười không được, gắp vài ba miếng cá, và húp vài
ba húp thang, rồi đặt xuống mà không ăn nữa.
Đới Tung
thấy vậy, liền hỏi Tống Giang rằng:
- Thứ cá
này chắc hẳn hơi có mùi, nhân huynh không xơi được hẳn?
- Vâng,
tôi uống rượu chỉ ưa thích thứ cá rất tươi, thứ cá này không được tốt.
- Có lẽ
thế, tiều đệ ăn cũng không được.
Lý Quỳ
ăn hết bát thang của mình, rồi nói với hai người rằng:
- Hai vị
Ca Ca không ăn, để tôi xin ăn hộ.
Nói đoạn
giơ tay vớ lấy bát thang của Tống Giang, vớt cá ăn một lúc rồi lại vớ lấy bát
thang của Đới Tung mà vớt cá ăn hết, nước nhỏ tòng tõng xuống bàn.
Tống
Giang thấy Lý Quỳ ăn luôn ba bát cá như vậy, liền gọi tửu bảo đến mà rằng:
- Đại Ca
đây đương đói, ngươi thái hai cân thịt lên để đây, rồi lát nữa ta trả tiền luôn
một thể.
Tửu bảo
đáp rằng:
- Hàng
tôi chỉ có thịt dê, không có thịt bò, ngài muốn xơi thịt dê, thì tôi mang lên.
Lý Quỳ
nghe nói liền cầm bát thang ném vài mặt tên tửu bảo ướt be bét cả người.
Đới Tung
thấy vậy quát lên rằng:
- Ngươi
lại làm gì thế?
Lý Quỳ
đáp rằng:
- Thằng
nầy vô lễ quá, nó cho là ta chỉ biết ăn thịt bò, mà không bán thịt dê cho ta.
Tửu bảo
nói:
- Chúng
tôi chỉ hỏi một câu như vậy, nào có dám nói gì đâu.
Tống
Giang bảo tửu bảo rằng:
- Ngươi
cứ đi thái thịt đem đây, rồi ta trả tiền.
Tên tửu
bảo bấm lòng chịu nhịn, quay ra thái ba cân thịt rồi đem bầy lên bàn. Lý Quỳ
thấy thái thịt lên, không kịp chào mời đến ai. Vội giơ năm ngón tay bốc ăn luôn
một lúc hết cả ba cân thịt.
Tống
Giang thấy vậy khen rằng:
- Tốt
thực, thực là hảo hán đó.
Lý Quỳ
nói rằng:
- Tống
Ca Ca biết ý của tiểu đệ chăng? Đệ ăn thịt không thích bằng ăn cá.
Đới Tung
gọi tửu bảo đến mà bảo rằng:
- Vừa
rồi mấy bát thang hơi xấu mùi, không ăn được, có thứ nào tươi tốt, làm bát khác
lên đây, để quan nhàn này xơi cho giã rượu?
Tửu bảo
cười rằng:
- Không
giấu gì Viện Trưởng, cá này thực là để từ tối hôm qua, còn công cá tươi hôm
nay, thì vẫn còn sống ở trong thuyền: Chưa thấy chủ hàng cá đến bán, cho nên
chưa mua được cá tốt.
Lý Quỳ
đứng phắt lên nói rằng:
- Để tôi
ra tảo vài con về cho Ca Ca đánh chén.
Đới Tung
nói:
- Thôi
đừng đi nữa, để cho tửu bảo đi mua lại vài con cũng được.
Lý Quỳ
nói:
- Những
anh đánh cá trên thuyền lẽ nào không cho mình được? Để tôi xin đi lấy về đây.
Nói xong
ngoắt đi thẳng, không ai ngăn cản được. Đới Tung nói với Tống Giang rằng:
- Xin
huynh trưởng tha lỗi cho, tiểu đệ dẫn những con người ấy đến đây, không còn
biết chút gì... Thực là xấu hổ quá.
Tống
Giang nói:
- Tính
anh ta như thế, bắt đổi làm sao được! Tôi thấy những người thế, trong bụng lại
càng kính trọng lắm.
Nói đoạn
hai người cùng ngồi trò chuyện vui cười với nhau.
Bên kia
Lý Quỳ chạy ra bờ sông, thấy một dẫy thuyền có tới bảy tám mươi chiếc, đều buộc
túm ở dưới gốc cây liễu, còn các người trên thuyền, kẻ thì nằm gối đầu bên mạn
thuyền để ngủ, kẻ thì ngồi trên mũi thuyền và lưới, kẻ thì lội tắm bì bõm ở
dưới nước với nhau. Bấy giờ đương giữa tháng năm, mặt trời đã gần xế về tây, mà
không thấy chủ nhân về để bán cá.
Lý Quỳ
đi đến nơi quát lên rằng:
- Thuyền
chúng bây có cá tươi không, bắt cho ta vài con. Tụi phường chài đáp rằng:
- Chúng
tôi đợi mãi, mà chưa thấy chủ nhân về đấy, không dám mở khoang thuyền ra bây
giờ. Ông coi, bao nhiêu phường buôn vẫn ngồi đợi trên bờ đó.
Lý Quỳ
nói:
- Đợi
chủ nhân cốc nào, hãy bắt lên đây cho ta hai con.
Đám
phường chài lại đáp rằng:
- Chúng
tôi chưa đốt vàng chưa dám mở khoang thuyền, bắt thế nào được cá đưa cho ông?
Lý Quỳ
thấy vậy, vội nhảy xuống thuyền, đám chài không ai dám ngăn giữ lại, chàng
không hiểu đầu đuôi ra sao, hăm hở cúi xuống khoang thuyền, cầm cái phên trúc
toan nhắc lên để bắt. Tụi phường chài vội kêu lên. Lý Quỳ cũng không thôi.
Chàng ta nhắc phên lên, rồi thò tay xuống bắt, không thấy hơi một con cá nào,
chàng tức mình rồi nhảy sang thuyền khác rồi cứ làm như thế.
Nguyên
bọn chài lưới dưới sông lớn, đều để lỗ trống to ở sau thuyền cho nước sông ra
vào được sống cá, rồi lấy cái phên trúc chắn ngang cho cá khỏi ra, Lý Quỳ không
biết đầu đuôi ra thế nào, cứ phăm phăm rút cái phên trúc kia lên; làm cho cá ở
trong đề thoát ra cả sông, mà không còn một con nào nữa. Khi đó Lý Quỳ nhảy sang
thuyền khác, lại toan rút phên trúc lên, thì bọn tám chín mươi đứa phường chài,
đều đổ xô vào xuống thuyền, vớ lấy sào để đánh Lý Quỳ.
Lý Quỳ
thấy vậy, nóng tiết lên, liền cởi phăng áo ngoài, trong buộc độc cái khăn tay
nòng nọc, rồi giơ hai tay khoa bắt từng năm sáu cái sào một, mà bẻ gãy răng rắc
cả ra. Bọn phường chài thấy thế cả kinh, vội cởi dây thuyền mà đẩy ra cả một
lượt. Lý Quỳ không biết làm thế nào được liền vớ năm sào gậy, nhảy tót lên bờ,
nhè đám lái buôn mà đánh rối tít cả lên.
Đương
khi đánh đuổi ầm ầm, thì bỗng có một người ở một con đường nhỏ đằng kia đi đến.
Chúng trông thấy kêu lên rằng:
- Kìa,
chủ nhân đã đến kia, anh chàng đen lớn này đương cướp cá, đuổi hết các thuyền ở
đây.
Người
kia lật đật hỏi rằng:
- Anh
đen lớn nào mà vô lễ thế?
Chúng
trỏ vào Lý Quỳ mà nói rằng:
- Kìa,
hắn đương đuổi đánh ầm ầm ở trên bờ kia.
Người
kia chạy đến chỗ Lý Quỳ mà quát lên rằng:
- Thằng
cha nào gan hùm mật báo hay sao, dám thiện tiện đến quấy rối nghề nghiệp của
lão gia đó.
Lý Quỳ
nghe nói, quay cổ lại nhìn, thấy anh chàng mình cao hơn sáu thước tuổi ngoại ba
mươi, ba chòm râu đen quanh miệng, đầu đội khăn sa xanh, lóng lánh miếng xuyên
tâm đỏ, mặc áo trắng, thắt lá đáp, chân đi đôi giày gai, tay cầm cái cân đưa
cho mọi người phường buôn, rồi sấn vào quát hỏi Lý Quỳ rằng:
- Thằng
nầy mầy đánh ai?
Lý Quỳ
chẳng nói chẳng rằng, múa luôn sào trúc, rồi quay sang đánh nghiến anh kia. Anh
kia sấn vào cướp lấy sào trúc. Lý Quỳ liền túm lấy tóc anh kia. Anh kia cúi rạp
xuống dưới, toan làm ngã Lý Quỳ song không thể nào làm núng được cái sức khỏe
như trâu ấy, liền giơ quyền mà đánh luôn mấy cái, nhưng Lý Quỳ cũng không coi
vào đâu.
Người
kia lại giơ chân lên đá, bị Lý Quỳ dìm đầu xuống, rồi giơ những quả thủ cứng
như sắt mà đánh vào lưng huỳnh huỵch, anh chàng kia không sao cựa dậy được.
Lý Quỳ
đương đánh đấm hăng hái, thì bỗng có người đến ôm giữ sau lưng, và một người
giằng tay ra rồi bảo rằng: - Không làm thế được...
Lý Quỳ
ngẩng trông lên, chính là Tống Giang cùng Đới Tung đến đó, chàng bèn chịu phép
buông ra, mà không dám đánh nữa. Người kia được thoát thân, vội vàng chạy
thẳng, không kịp trông lại làm chi.
Bây giờ
Đới Tung trách mắng Lý Quỳ rằng:
- Ta đã
bảo đừng đi lấy cá, quả nhiên lại đánh nhau ở đây rồi. Ngộ nhỡ ra đánh chết
người ta, thì có phải ở tù đền mạng không?
Lý Quỳ
đáp rằng:
- Bác sợ
tôi làm liên lụy đến bác chăng? Dẫu tôi có đánh chết một đứa, thì tôi nhận tội
cả chứ sao?
Tống
Giang gạt đi mà rằng:
- Thôi
anh em đừng cãi nhau nữa, lấy áo vải, rồi đi uống rượu với nhau thôi.
Lý Qùy
chạy ra gốc liễu, nhặt lấy cái áo vải, rồi thắt lưng vào quay ra theo Tống
Giang, Đới Tung.
Vừa đi
được vài bước, chợt nghe sau lưng có tiếng gọi:
- Thằng
cha đen chũi kia, phen này ta quyết được thua với mày?
Lý Quỳ
nghe nói quay lại xem, thấy người kia cởi trần trùng trục thắt một cái khố nhà
chài, mình trắng phau phau như tuyết, đầu không đội khăn, bỏ lộ miếng yểm đỏ ra
ngoài, mà quát lên rằng:
- Đồ béo
đen chết vằm chết mổ kia, lão gia có sợ mày, thì không phải là hảo hán, mà
thằng nào chạy, cũng không phải là tay hảo hán.
Lý Quỳ
nghe vậy cả giận, thét lên một tiếng rất to, quăng ngay áo xuống đất, rồi chạy
thốc trở lại bờ phía sông. Anh chàng kia chở thuyền gần tới bờ, tay cầm sào giữ
lấy thuyền, rồi miệng thì quát mắng ầm ĩ cả lên, Lý Qùy cũng quát lên rằng:
- Có
phải hảo hán, thì lên bờ đây.
Anh
chàng đứng dưới thuyền kia, vác sào trúc nhè vào chân Lý Quỳ mà đánh. Lý Quỳ
nóng tiết, liền nhảy thốc sang thuyền cự lại. Anh chàng kia thấy Lý Quỳnhảy
xuống thuyền, liền chống gậy lên bờ đẩy mạnh một cái, thuyền trôi vèo ra ngoài
giữa sông.
Lý Quy
tuy có biết lội, song không lấy gì làm thạo cho lắm, liền luống cuống chân tay,
không biết làm sao cho được. Bấy giờ anh chàng kia không chưởi mắng chi nữa,
liền quay lại bảo Lý Quỳ rằng:
- Ta
không cần đánh làm chi, hãy cho uống nước một dạo đã, phen này quyết được thua
với mày xem sao?
Đoạn rồi
xông vào nắm lấy thắt lưng Lý Quy ømà mắng rằng:
- Ta
không cần đánh làm chi, hãy cho uống một dạo nước đã.
Nói xong
núng nính hai chân đánh trành thuyền cho lộn nhào đi, rồi hai người cùng lăn cả
xuống nước.
Tống
Giang cùng Đới Tung vội vàng chạy theo bờ sông thì đã thấy chiếc thuyền đánh ụp
ở giữa giòng sông, hai người đứng trên bờ kêu khổ, mà không biết làm sao cứu
được.
Bấy giờ
có tới ba bốn trăm người kéo đến, đều đứng vây dưới gốc cây liễu ở bờ sông để
xem. Anh chàng kia vật lộn Lý Quỳ ở dưới nước, lúc thì xách Lý Quỳ lên mặt
nước, lúc lại dìu nghỉm Lý Quỳ xuống dòng sông một anh trắng phau như tuyết,
một anh đen thui thủi như than, cùng nhau chìm nổi xuống lên, sôi hẳn khúc sông
lên ở đó.
Bọn trên
bờ thấy vậy, liền vỗ tay reo hò mà bảo nhau rằng:
- Anh
chàng đen đen chui chũi, hôm nay có sống sót được, thì cũng đầy bụng nước, chứ
chẳng chơi.
Tống
Giang cùng Đới Tung thấy thế lực Lý Quỳ đã núng, đã bị anh kia xách lên dìm
xuống tái nhợt cả mặt, thì đều lấy làm ái ngại, liền toan nhờ người để cứu hộ.
Đới Tung
hỏi đám người đứng đó rằng:
- Người
đàn ông trắng trẻo đó là ai?
Trong
đám ấy có người đáp rằng:
- Vị hảo
hán ấy là Trương Thuận, làm chủ phường cá ở sông này.
Tống
Giang nghe nói chợt nhớ ra mà hỏi lại rằng:
- Có
phải anh ta biệt hiệu là Lãng Lý Bạch Điều đó không?
Chúng
đáp rằng:
- Chính
phải đấy.
Tống
Giang liền bảo với Đới Tung rằng:
- Nếu
quả thị là hắn ta, thì tôi có bức thư của anh hắn ta, là Trương Hoành gửi đến
đây.
Đới Tung
nghe nói, vội đứng trên bờ kêu lên rằng:
- Trương
Nhị Ca hãy khoan tay, có gia thư của bác Trương Hoành gửi đến đây. Người đen
lớn ấy là anh em tôi đó, tha cho hắn ta, rồi lên bờ tôi sẽ nói chuyện.
Đương
khi ấy Trương Thuận nghe tiếng Đới Tung gọi, thì trong bụng nhận hiểu liền,
buông tha Lý Quỳ ra, rồi lội thẳng lên bờ chào Đới Tung mà rằng:
- Xin
Viện Trưởng tha lỗi cho tiện nhân đây.
Đới Tung
nói:
- Túc hạ
hãy nể tôi, cứu cho người kia lên bờ, rồi sẽ dẫn cho gặp người khác nữa.
Trương
Thuận vâng lời, rồi nhảy tòm xuống sông lội ra để cứu. Bấy giờ Lý Quỳ ngoi ngóc
cổ cố nhoài để lên. Trương Thuận liền rẽ nước lội ra nắm lấy một tay Lý Quỳ kéo
thẳng vào bờ, chẳng khác gì đi trên mặt đất vậy. Các người đứng bên sông thấy
vậy, đều khen réo ầm ĩ cả lên, Lý Quỳ cũng chỉ ngây người đứng nhìn, mà không
nói được câu gì cả.
Trương
Thuận xách Lý Quỳ lên bờ, Lý Quỳ chỉ dúm người lại miệng thở hồng hộc mà nôn
nước ra ầm ầm.
Đới Tung
bảo rằng:
- Bây
giờ hãy đến tất cả Tỳ Bà Đinh rồi sẽ nói chuyện.
Trương
Thuận, Lý Quỳ nghe nói, liền tìm áo mặc vào, rồi cùng Tống Giang, Đới Tung đi
lên Tỳ Bà Đinh.
Khi tới
nơi, Đới Tung bảo Trương Thuận rằng:
- Nhị Ca
có biết tôi chăng?
Trương
Thuận đáp:
- Tiện
nhân có được biết Viện Trưởng, song không được bái kiến bao giờ.
Đới Tung
lại trỏ Lý Quỳ mà hỏi Trương Thuận rằng:
- Mọi
ngày túc hạ có biết người này không? Hôm nay sao lại xung đột như thế vậy?
Trương
Thuận đáp:
- Chúng
tôi lạ gì mà không biết Lý Đại Ca, có điều chưa đối thủ với nhau lần nào cả.
Lý Quỳ
nói:
- Hôm
nay anh dìm tôi giỏi thực...
Trương
Thuận nói:
- Thế
thì bác đánh tôi chẳng kém gì.
Đới Tung
cười rằng:
- Vậy từ
nay hai người phải kết làm anh em mới được. Người ta thường nói: Không đánh
hau, sao bỗng biết nhau, là thế đó.
Lý Quỳ
bảo Trương Thuận rằng:
- Anh
đừng gặp tôi ở trên bộ thôi.
Trương
Thuận nói:
- Tôi
chỉ đợi bác ở dưới nước là được rồi.
Đới Tung
trỏ vào Tống Giang mà bảo Trương Thuận rằng:
- Tôi
không biết là ai, mà không thấy ở đây bao giờ.
Lý Quỳ
vội nhảy lên mà rằng:
- Ca Ca
đây là Hắc Tống Giang đó.
Trương
Thuận nói:
- Có
phải Sơn Đông Cập Thời Vũ, Vận Thành Tống Áp Ty không?
Đới Tung
nói:
- Chính
phải là Công Minh Ca Ca đó.
Trương
Thuận nghe vậy, liền cúi đầu xuống lạy mà nói rằng:
- Chúng
tôi được nghe danh đã lâu... Bọn giang hồ ai cũng xưng tụng đức tính của nhân
huynh, ngài là một người sơ tài trọng nghĩa xưa nay.
Tống
Giang khiêm tốn đáp rằng:
- Túc hạ
hay quá lời, tôi đây có đức tính gì mà đáng nói? Bữa trước tôi qua núi Yết
Dương, ở nhà Hỗn Long Giang Lý Tuấn mấy ngày, sau qua bến Tầm Dương, tương hội
với anh em Mục Hoằng lại được gặp lệnh huynh là Trương Hoành ở đó. Lệnh huynh
có viết bức gia thư gửi sang túc hạ, song tôi còn để ở trong dinh, không mang
đến đây, hôm nay nhân cùng Đới Viện Trưởng cùng Lý Đại Ca ra đây uống rượu ngắm
cảnh bên sông, tôi uống mấy chén rượu, chợt nghĩ ăn cá tươi, Lý Ca hăm hở đi
lấy, không ai ngăn cản được. Dè đâu Lý Ca lại sinh sự lôi thôi, khiến cho tôi
lại gặp được túc hạ ở đây, thực là một sự không ngờ, như vậy. Hôm nay trời cho
tôi được gặp ba vị hào kiệt, không biết rằng hạnh phúc đến đâu, vậy xin cùng
nhau uống mấy chén rượu cho vui một thể.
Nói xong
lại gọi tửu bảo dọn thứ khác lên.
Trương
Thuận nói rằng:
- Ca Ca
thích xơi cá tươi, để tôi xin đi lấy vài con về đây. Lý Quỳ nói:
- Để tôi
cùng đi với bác.
Đới Tung
quát lên rằng:
- Ngươi
lại thế rồi, uống nước chưa thích hay sao?
Trương
Thuận dắt tay Lý Quỳ, rồi cười mà bảo rằng:
- Tôi
với bác cùng ra lấy cá phen này, xem họ nói ra sao? Nói đoạn, hai người cùng ra
bến sông, Trương Thuận huýt một tiếng còi thì bao nhiêu thuyền chài ở trên
sông, đều chở vào bờ cả. Trương Thuận hỏi rằng:
- Thuyền
nào có cá chép tốt không đấy?
Lũ
thuyền chài nhao nhao lên trả lời rằng có, rồi cùng nhau bắt đến mươi con đem
lên cho Trương Thuận.
Trương
Thuận chọn lấy bốn con sâu vào cành liễu, đưa cho Lý Quỳ đem về trước, rồi tự
mình kiểm điểm bạn buôn, và cho hàng chài cân cá lên bán, rồi đi vào sau.
Khi vào
tới Tỳ Bà Đinh, Tống Giang tạ ơn, mà rằng:
- Túc hạ
cho nhiều quá: Chỉ dùng một con cũng đủ.
Trương
Thuận đáp:
- Có làm
gì những cái vặt; Huynh trưởng xơi không hết, thì đem về làm cơm xơi cũng được
chứ sao?
Nói đoạn
hai người chia thứ tự cùng ngồi, Lý Quỳ nhận hơn tuổi ngồi thứ ba, để Trương Thuận
ngồi thứ tư, đoạn gọi tửu bảo mở hai chai Ngọc Hồ Xuân Tửu nữa, và đem các thứ
hoa quả sơn hào hải vị lên. Trương Thuận sai tửu bảo đem một con cá chép để nấu
thang, và lấy con cá để hấp với rượu, rồi bốn người ngồi uống rượu để cùng nói
chuyện với nhau.
Đương
khi chuyện trò vui vẻ, thì có một người con gái, vào vòng đôi tám thanh xuân,
mình mặc áo sa mỏng, đi vào trước bàn ăn, chào bốn người cất tiếng lên hát.
Bấy giờ
Lý Quỳ đương thích khoe khoang những ngón hào kiệt của mình, bỗng bị con hát
cất tiếng hát lên, lam cho ba người kia bỏ câu chuyện mà lắng tai nghe vào đó,
thì lấy làm tức bực vô cùng liền đứng phắt dậy giơ hai ngón tay mà tát vào mặt
người con gái. Người con gái kêu lên một tiếng, rồi ngã lăn xuống đất.
Mọi
người vội vàng chạy túm đến, thì thấy người con gái đã xám hẳn mặt lại, mà nằm
lặng ra đó, như người sắp chết, chủ nhân thấy vật, liền ngăn giữ bốn người lại,
rồi định đi trình quan.
Mới hay:
Ai không
nhiệt huyết ở đời,
Xưa nay
đã dễ mấy người có tâm?
Muốn tìm
cho gặp tri âm,
Dẫu rằng
thủy tích sơn thâm cũng liều.
Cạnh
tranh đời đã xoay chiều,
Phải đem
tâm huyết mà liều mới ngoan.
Nặng nề
thay gánh giang san,
Ở đời
nhu nhược phổng toàn được chăng?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Tả Tống
Giang lấy đồng tiền ra để giao du, bỗng đâu tiếp tả ra một Thiết Ngưu Đại Ca,
khéo thay dùng bút! Đã khiến cho Tống Giang thẹn với trước ngọc vàng châu báu,
tệ hơn là mắng, đau hơn là đánh, nguy hơn là chết vậy. Thấy kẻ kia cần tiền
đánh bạc, thì cho tiền đến sòng; thấy kẻ kia ăn cá, cũng thích nói ra, khiến cố
đi tìm... Nếu hết thảy vật trong thiên hạ, thả cho thiên hạ chung nhau và dùng,
thì sao khỏi những kẻ biển lận ở đời, vì sao lại không tin nổi đời có những tay
khẳng khái không thèm!!! Nào phải không cho tiền mà chịu oán, hãy cho tiền thì
mới mang ơn, như thế thì quyền thuật của Tống Giang, gặp con người ấy chẳng còn
giá trị?
Tống
Giang chỉ tung tiền, kẻ kia cũng cho là chỉ mua chuộc phường võ phu ăn tục làm
liều, lưới chài sòng bạc... Chả hơn gì họ; Nếu họ gặp thời, chẳng vì tiền nong
cá thịt, những kẻ kia cũng chẳng qua là bọn khiến người ta cảm vậy, Tống Giang
không tung tiền ra, cũng sợ người ta oán vậy. Nay kẻ kia cũng không ơn với oán
gì, không gặp Tống Giang như vậy, thì có hàng rượu hay không hàng rượu cũng
thế, có sòng bạc hay không sòng bạc cũng vậy, con người của trong ngoài thành
Giang Châu cũng vậy mà thôi, há phải đợi Tống Giang mua chuộc hảo hán, thì Lý
Quỳ mới được tiền sử dụng, thế thì trước khi Tống Giang chưa đến Giang Châu, kẻ
kia chẳng được uống rượu, chẳng được ăn thịt vậy ư? Sòng bạc của Trương Tiểu Ất
cũng không mở nổi ra ư? Suốt thiên này tả ra con người Lý Quỳ như thế để nảy rõ
ra một Tống Giang, thực là tuyệt thế diệu bút.
Từng chỗ
tả Đới Tung khác hẳn Tống Giang, làm cho Tống Giang càng khẳng khái, và càng
giả dối, đều do ngọn bút Thợ Lòng.
Tả Lý
Quỳ thô mãng, không khó bằng tả từng chỗ nói liều của con người thô mãng, vì
những kẻ nói liều của thiên hạ, hay giả cách thô mãng, như con người Tống Giang
đối với sự đó, chẳng thẹn mình đến chết vậy thay!
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 38: Gác Tầm Dương đề thơ tâm huyết;
Chốn Lương Sơn nghe nỗi kinh hoàng
Bấy giờ
Tống Giang cùng Đới Tung thấy chủ hàng toan đi trình quan thì lấy lời xếp dẹp
im đi, rồi nhất diện dùng các phép để cứu người con gái tỉnh dậy.
Sau bố
mẹ người con gái đến đó, nghe nói đến tên Hắc Toàn Phong thì lặng người kinh
sợ, mà không dám phàn nàn nói một câu gì.
Tống
Giang hỏi mụ già rằng:
- Nhà mụ
tên họ chi? Người ở đâu?
Mụ già
đáp rằng:
- Chúng
tôi là người họ Tống, quê ở Kinh Sư, hai vợ chồng già; chỉ có một người con gái
này, phải cho đi hát xướng kiếm ăn. Nhân vì tính nó cấp bách, không hiểu các
ngài đương nói chuyện, nên mới đường đột vô lễ, để đến Ca Ca đánh đập như vậy,
thực đau đớn cho mẹ con tôi quá nỗi!
Tống
Giang nghe nói liền bảo rằng:
- Ngươi
cho người theo đến nhà ta, ta sẽ cho hai mươi lạng bạc để làm vốn kiếm ăn, rồi
kiếm người tử tế, gả bán cho nó nương tựa, khỏi phải đi hát xướng khó nhọc như
thế nữa.
Hai vợ
chồng mụ già cảm tạ mà nói rằng:
- Chúng
tôi đâu dám xin ngài nhiều thế.
Tống Giang
nói:
- Được,
ta đã hứa, là ta cho đủ, không ngại điều chi. Bảo con ngươi cứ theo ta mà lấy.
Hai
người vâng lời cảm tạ vô cùng, Đới Tung trách giận Lý Quỳ mà rằng:
- Hắn đi
đến đâu, chỉ chực sinh sự đánh nhau, để Ca Ca phí tổn biết bao nhiêu tiền bạc...
!
Lý Quỳ
nói rằng:
- Tôi
chỉ sẽ để tay vào một tí, mà nó đã ngã ngay, xưa nay chưa thấy đứa nào yếu đuối
thế bao giờ? Bây giờ cho bác đánh tôi trăm cái tát vào mặt tôi, xem tôi có cần
gì không?
Tống
Giang cùng mọi người nghe nói, đều cười ồ cả lên, Trương Thuận gọi tửu bảo lên
bắt tính tiền hàng để nhận trả.
Tống
Giang nhất định không nghe mà rằng:
- Tôi
mời bác đến đây uống rượu, có lẽ nào lại để bác trả tiền cho tiện.
Trương
Thuận cũng nhất quyết trả tiền, mà rằng:
- Mấy
khi tôi gặp được Ca Ca...khi ngài còn ở Sơn Đông, hai anh em tôi đã bao phen
toan may trời xui nhân huynh đến đây, cho chúng tôi được gặp, xin nhân huynh cứ
cho thế mới được.
Đới Tung
cũng khuyên Tống Giang rằng:
- Trương
Nhị Ca đã có lòng kính đãi như thế, xin nhân huynh cũng nể lòng mà nhận lời cho
là hơn.
Tống
Giang vâng lời mà đáp rằng:
- Nếu
vậy thì lần sau tôi xin đáp lễ lại.
Trương
Thuận cả mừng, liền xâu hai con cá, rồi cùng Đới Tung, Lý Quỳ, và lão già họ
Tống kia, mà cùng đưa chân Tống Giang về dinh. Khi về đến phòng giấy trong
dinh, Tống Giang lấy ra hai mươi lạng bạc, đưa cho lão già họ Tống về trước,
rồi cùng ngồi nói chuyện với nhau.
Một lát
trời gần tối, Tống Giang liền lấy bức thư của Trương Hoành, đưa cho Trương
Thuận, rồi Trương Thuận để hai con cá lại cho Tống Giang, và từ biệt ra về.
Tống Giang lại lấy một đĩnh năm mươi lạng bạc đưa cho Lý Quỳ mà bảo rằng:
- Anh em
hãy cầm lấy để mà tiêu dùng.
Lý Quỳ
nhận lấy, rồi cùng Đới Tung từ biệt Tống Giang mà trở về trong thành. Bấy giờ
Tống Giang đem một con cá đưa biếu Quản Doanh, còn một con để nấu canh ăn. Tống
Giang ăn cá tươi ngon miệng, ham ăn cá nhiều đến nỗi canh tư đêm ấy sinh ra
chứng đau bụng đi rửa. Từ đấy đến sáng, chàng đi tả có tới hai mươi lần, mê mệt
nằm ở trong phòng không sao dậy được. Các người trong doanh vẫn yêu thích Tống
Giang là người tử tế xưa nay, liền đem cơm cháo mà chữa chạy đỡ vực Tống Giang.
Ngày hôm
sau, Trương Thuận thấy lính Tống Giang thích ăn cá tươi, lại xách vào hai con
nữa để biếu, và tạ ơn bức thư Trương Hoành một thể. Khi vào tới nơi, thấy Tống
Giang đương bị bệnh nằm ở bên giường, các tù đồ hầu hạ trông nom ở trong phòng,
liền nói với Tống Giang để mời thầy về chữa.
Tống
Giang bảo Trương Thuận rằng:
- Tôi
chỉ vì ăn nhiều cá, sinh ra thương thực mà đau bụng, vậy bất tất phải uống
thuốc, chỉ uống một thang hòa hợp, cũng có thể khỏi được ngay.
Nói
đoạn, bảo Trương Thuận đem hai con cá, một con đưa cho Vương Quản Doanh, một
con đưa cho Triệu Sai Bát, Trương Thuận vâng lời đem biếu hai người: Rồi quay
ra cân một thang thuốc hào hợp đem đến, bảo tù đồ sắc thuốc cho Tống Giang rồi
mới trở về.
Ngày hôm
sau, Đới Tung mua sắm rượu chè, dắt Lý Quỳ đem đến phòng giấy, định để thiết
đãi cảm vừa khỏi, nên không dám thiết, bèn cùng nhau ngồi ở ngoài phòng để ăn
uống, đến chiều ai nấy về nhà.
Tống
Giang tĩnh dưỡng được dăm bảy ngày, thấy trong mình đã hơi khoe khỏe, thì có ý
mong Đới Tung đến chơi, mà không thấy đến, Ngày hôm sau Tống Giang lại đi vào
thành để tìm Đới Tung. Khi tới trong thành hỏi thăm nhà Đới Viện Trưởng, thì
phố sá đều nói rằng:
- Ông ta
không có vợ con nhà cửa, chỉ trú tạm ở am Quan Âm bên cạnh vách miếu Thành
Hoành gần đó.
Tống
Giang vội vàng tìm tới nơi, thì đã thấy khóa cửa đi vắng. Chàng liền quay ra
tìm hỏi nhà Hắc Toàn Phong, thì thấy nói rằng anh ta không có nhà cửa, cũng
không trọ ở đâu, vẫn cứ quanh quẩn ở trong nhà lao, khi rồi thì lại ở chỗ này
vài hôm, ở chỗ khác vài hôm, không biết đâu mà tìm được.
Tống
Giang nghe nói, thì lại hỏi thăm nhà Trương Thuận, thì có người nói, hắn vẫn ở
làng xóm ngoài thành, chỉ trừ khi có thu nhặt tiền nong mới vào thành mà thôi.
Tống Giang lại vội vàng quay ra nẻo bờ sông để tìm Trương Thuận.
Chàng
đương một mình vơ vẩn, xem ngắm cảnh vật bên sông, chợt thấy một tòa tửu lâu ở
trước mặt, bên cửa treo một lá cờ viết mấy chữ "Hiệu Chính sông Tầm
Dương" giữa lúc hiên chạm treo một biển để ba chữ "Lầu Tầm
Dương" chữ của ông Tô Đông Pha viết rất lớn.
Nghĩ
đoạn liền bước tới nơi, thấy hai bên cửa đỏ bên lầu đều có biển trắng, mỗi bên
viết năm chữ: "Lầu lớn trong thiên hạ: Rượu ngon nhất thế gian!"
Tống
Giang lên trên gác, chọn một chỗ ngồi, gần phía ngoài sông, rồi tựa hàng lan
can, nom ra phong cảnh khen ngợi vô cùng. Một lát tên tửu bảo chạy lên bảo
rằng:
- Quan
nhân định đợi ai, hay tiêu khiển một mình?
Tống
Giang nói:
- Ta còn
đương đợi hai ông khách nữa, mà chưa thấy đến. Ngươi hãy lấy một be rượu và một
ít thức nhắm lên đây, đừng lấy cá mới được.
Tửu bảo
vâng lời đi xuống gác; một lát mang lên một be rượu Lam Kiều Phong Nguyệt, và
lấy các thức rau quả, thịt gà dê bày lên bàn. Tống Giang nom thấy bàn đỏ đũa đỏ
thức ăn sạch sẽ ngon lành, thì trong bụng vui mừng mà rằng: "Thế này mới
thực là phong cảnh Giang Châu! Ta tuy bị tội đến đây, song ngắm những sơn thủy
thế này, dẫu đến danh sơn cổ tích xứ mình, cũng không sao mà ví được? "
Chàng
nghĩ vậy liền rót rượu vui uống một mình, mà bất giác say sưa quá độ. Bấy giờ
trong bụng nghĩ rằng: Ta sinh ở đất Sơn Đông lớn lên ở đất Vận Thành, làm Lại
xuất thân, kết thúc kể biết bao giang hồ hảo hán. Trong bấy nhiêu lâu tuy chưa
lưu được một cười hư danh, song hiện nay công nghiệp cũng chẳng ăn thua, lại
còn bị tội đày ải đến đây, khiến cho ta bao giờ về được cố hương mà trông thấy
phụ huynh tôn tộc!
Nghĩ đến
đó thì lấn lòng cố quân tha hương, xúc cảnh hứng hoài, bất giác trông ngắm giang
hồ mà tầm tã đôi hàng lụy nhỏ. Chàng liền nghĩ một bài tức cảnh "Tây giang
nguyệt" rồi gọi tửu bảo mượn bút nghiên để viết.
Chợt đâu
đứng lên nom hai bên vách phấn, thấy có nhiều văn thơ của người xưa đề vịnh,
chàng liền nghĩ thầm trong bụng rằng: "Tiện đây bất nhược ta viết ngay lên
vách phấn, để làm di tích ở đất Giang Châu, sau này dù có hiển vinh qua đến đất
này, trông thấy mấy câu ở trên vách phấn kia, cũng đủ nhắc lại cho ta biết cái
cảnh huống ấy bây giờ, thế này thực là cùng cực."
Chàng
nghĩ đoạn, liền nhân lúc tửu hứng, mài mực đặc, lấy bút đẵm, rồi viết lên vách
phấn mấy câu:
Thủa nhỏ
theo đòi kinh sử,
Lớn lên
thông thạo quyền mưu,
Khác nào
hổ mạnh nấp hang sâu,
Kín nanh
dấu vuốt ai biết đâu?
Chẳng
may thời vận cơ cầu.
Bỗng
dưng chạm mặt đầy Giang Châu,
Một mai
may báo được oan cừu,
Máu
nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau.
Tống
Giang viết xong, xem ngắm một mình lấy làm vui mừng thích chí, lại ngồi uống
luôn mấy chén rượu nữa, rồi múa chân múa tay cười nói một mình, xuống dưới bài
Tây giang tử.
Tâm ở
Giang Đông thân ở Ngô,
Mấy phen
than thở mấy giang hồ,
Ngày sau
như thỏa lòng non nước,
Mới biết
Hoàng Sào cũng trượng phu.
Viết cạn
lại thêm mấy chữ "Vận Thành Tống Giang đề" ở dưới, rồi vất bút xuống
bàn, một mình ngồi ngâm đọc hồi lâu. Lại uống thêm mấy chén rượu đầy, nghe
chừng rượu đã quá say liền gọi tửu bảo lên tính trả tiền hàng, còn thừa lại
thưởng thêm cho tửu bảo, rồi đứng dậy giũ áo mà đi xuống lầu. Bấy giờ chang tử
vội vội vàng vàng đi về phong giấy, mở cửa vào phòng nằm vật xuống ngủ thẳng
một giấc đến canh năm mới tỉnh dậy, không còn nhớ chi đến sự đề thơ ở gác Tầm
Dương.
Năm canh
say tỉnh mơ màng,
Sơn Đông
chí ấy, Tầm Dương thân rày.
Giang hồ
trải mấy đắng cay,
Biết
rằng non nước vơi đầy ra sao?
Đối ngạn
với đất Giang Châu có một thành nhỏ, là thành Vô Vị Quân, có ông Thông Phán tại
gia là Hoàng Văn Bính ở đó. Hoàng Văn Bính tuy có học hành kinh sử, song tính
người siểm nịnh, tâm địa hẹp hòi, xưa nay thường hay ghen ghét tài năng; hại kẻ
hơn mình, mà xoay kẻ kém mình, chỉ quanh năm quấy nhiễu chốn hương thôn, không
ai là không khinh ghét. Nhân chàng ta biết Xài Cứu Phủ là con quan Xái Thái Sư
đương triều nên thường thường đi lại mà tán hót phỉnh phờ, để kiếm đường kiếm
lối ra làm quan.
Một hôm,
Hoàng Văn Bình đương ngồi buồn bã ở nhà, không có cách gì tiêu khiển, chàng
liền dẫn hai đứa đầy tớ theo hầu đi mua một lễ vật để qua sông vào hầu Tri Phủ.
Bất đồ hôm đó, trong phủ có mở tiệc công yến, chàng ta sợ tai tiếng, không dám
đem vào, liền thầy trò cùng quay ra thuyền để trở về.
Khi đến
trước lầu Tầm Dương, Hoàng Văn Bính thấy khí trời hơi có phần nóng bức, bèn
lững thững quay vào trong lầu chơi ngắm, mà chưa quyết ra về. Chàng ta lên gác
dạo mát hồi lâu, chợt nom lên vạch phấn ở gần phía lan can, thấy có nhiều thơ
đề vịnh, xem ra cũng có bài nghe được, cũng có bài lôi thôi lốn thốn, đọc chẳng
thành câu. Chàng vừa cười nhạt vừa xem đọc một mình, chợt xem đến bài "Tây
giang từ" và bốn câu thơ của Tống Giang, thì bỗng cả kinh mà nói một mình
rằng:
- Quái
lạ! Có lẽ là thơ phản trắc? Ai viết ở đây như thế?
Chàng
nói xong liền xem xuống dưới có năm chữ " Vận Thành Tống Giang đề"
thì lại ngâm một lượt mà rằng: " Thủa nhỏ theo dõi kinh sư. Lớn lên thông
thạo quyền mưu " Đọc đến đó, chàng bèn cười nhạt mà rằng:
- Anh
nầy cũng tự phụ lắm đây...
Lại đọc
tiếp rằng: "Khác nào hổ mạnh nấp rừng sâu. Kín nanh, dấu vuốt ai biết
đâu?". Đọc đến đó, thì ngảnh cổ lên mà rằng:
- Anh
nầy ra dáng không theo bổn phận của mình...
Lại đọc
tiếp luôn: "Chẳng may thời vận cơ cầu. Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang
Châu".
Chàng
lại cười mà rằng:
- Tưởng
cao thượng quái gì? Té ra thằng tù xung quân ở đây.
Lại đọc:
(Một mai may báo được oan cừu. Máu nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau... )
Chàng
lắc đầu nói rằng:
- Thằng
này định bào thù ai mà lại chực sinh sự ở đây? Ôi cha! Một thằng tù xung quân,
thì phỏng làm gì được?
Nói đoạn
lại đọc bốn câu thơ: (Tâm ở Sơn Đông, thân ở Ngô. Mấy phen than thở với giang
hồ.)
- Phải,
hai câu này có thể tha thứ được.
Lại đọc
luôn rằng: "Ngày sau như thỏa lòng non nước. Mới biết Hoàng Sào cũng
trượng phu."
Đọc đến
đó thì lắc đầu lè lưỡi mà rằng:
- Thằng
cha nầy xấc thực, nó định làm hơn họ Hoàng Sào, chắc là định mưu phản nghịch
chứ không sai.
Nói xong
lại đọc đến năm chữ "Vận Thành Tống Giang đề" thì lại nghĩ thầm trong
bụng: Tên anh nầy nghe cũng quen quen...chừng như có chỉ là một anh tiêu lại
thì phải... ?
Nghĩ
đoạn lại gọi tên tửu bảo lên mà hỏi rằng:
- Hai
bài thơ này ai đề vào đây ngươi có biết đích xác không?
Tửu bảo
đáp rằng:
- Hôm
qua có người khách vào uống rượu một mình rồi viết lên đó.
- Người
như thế nào?
- Người
ấy béo đen thâm thấp, trên mặt có thích kim ấn, có lẽ ở trong lao thành đi ra
thì phải.
Hoàng
Văn Bính nghe nói, gật đầu đắc ý, nhờ tửu bảo cho mượn bút nghiên, chép mấy câu
thơ bỏ vào túi áo, rồi dặn tửu bảo phải giữ gìn cẩn thận mà không được xóa đi.
Đoạn rồi xuống lầu trở về thuyền nghỉ.
Sáng hôm
sau, thầy trò lại dậy sớm, khệ nệ mang lễ vật vào biếu Tri Phủ. Bấy giờ Tri Phủ
đương ngồi ở nhà trong, nghe nói là có Hoàng Văn Bính đến, liền cho lính mời
vào tiếp chuyện. Hoàng Văn Bính đưa tặng lễ vật, rồi hai người cùng ngồi nói
chuyện rất là mật thiết.
Hoàng
Văn Bính nói với Tri Phủ rằng:
- Hôm
qua chúng tôi đã định vào chầu Tướng Công, song nghe nói trong phủ đương có yến
tịch, nên lại phải hoãn đến ngày hôm nay mới dám vào hầu...
Xài Tri
Phủ nói:
- Thông
Phán với tôi là chỗ tâm phúc với nhau, ngài cứ vào chơi có gì mà ngại. Từ nay
xin ngài chớ nệ làm chi, phải lấy tình thân mới được.
Hoàng
Văn Bính vâng lời rồi lại hỏi rằng:
- Dám
thưa Tướng Công, lâu nay trên Thái Sư Ân Tướng có sai người qua đây chăng?
- Hôm
trước mới có thư đến đây.
Tri Phủ
nói xong, thì tả hữu pha trà lên, hai người cùng uống, Hoàng Văn Bính lại hỏi
luôn rằng:
- Chẳng
hay lâu nay trong kinh sư có tin tức gì lạ không? Tri Phủ nói rằng:
- Tôi
vừa mới nhận được thư của tôn gia nói rằng:
Mới đây
Tôn Thái Tử Viện Tư Thiên Giám có tâu rằng: Nhân thế Gia Tôn tôi có dặn phái
giữ gìn trong hạt, cho khỏi sự mang tiếng mang tai...
Hoàng
Văn Bính nghe đến đó, thì nghĩ thầm một lúc, rồi cười mà nói với Tri Phủ rằng:
- Dám
thưa Âm Tướng, nếu vậy thì việc này cũng không phải ngẫu nhiên mà thôi...
Nói đoạn
liền móc túi lấy mảnh thơ biên lúc nãy, đưa trình Tri Phủ mà rằng:
- Không
ngờ việc đó lại chính ở đây rồi...
Xài Cửu
xem thơ xong liền nói rằng:
- Cái
này là thơ mưu phản đây mà...Thông Phán bắt được ở đâu thế?
Hoàng
Văn Bính liền đem chuyện đến chơi lầu Tầm Dương, bắt được hai thơ trên vách,
nói cho Tri Phủ nghe. Xài Cửu Tri lại hỏi rằng:
- Vậy
thì người nào viết bài nầy?
- Bẩm
Tướng Công, họ đã viết rõ ràng là Vận Thành Tống Giang đề ở đó.
- Vậy
Tống Giang là người nào?
- Bẩm
trong thơ nói là: "Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang Châu"? Thì có lẽ hiện
là tù tội trong đám lao thành thì phải?
Tri phủ
gạt đi mà rằng:
- Một
thằng tù thì làm được gì mà sợ!
Hoàng
Văn Bính so vai rụt cổ kêu rằng:
- Chết
nỗi! Tướng Công đừng coi là thường mới được! Vừa rồi Tướng Công nghe đọc bốn
câu ca dao, của trẻ con, chính là ứng vào hắn đó.
- Thế
nào mà bảo rằng ứng vào hắn được?
- Bẩm Âm
Tướng: Hao nước vì Gia Mộc, là nói tốn tiền của nước nhà vì chữ Gia bên trên
chữ Mộc, tức là chữ Tống đó. Câu thứ hai Binh đao bởi Thủy Công, là nói người
này gây việc binh đao, tức là người chữ Thủy bên chữ Công, chính là chữ Giang
vậy. Nay người này họ Tống tên Giang, mà lại làm thơ mưu phản như thế, thì quả
nhiên lạc vào thiên số chứ chẳng sai...
Tri Phủ
nghe nói đến đó, thì lại hỏi luôn rằng:
- Vậy
còn hai cầu Ngang dọc ba mươi sáu. Khắp loạn đất Sơn Đông, là nghĩa làm sao!
- Cái đó
hoặc là đến năm sáu sáu, hay là số vận sáu sáu cũng nên. Còn câu Khắp loạn đất
Sơn Đông, thì Vận Thành chính thuộc về Sơn Đông đó. Bốn câu ấy quả nhiên ứng
vào người ấy chứ không sai.
- Nhưng
không chắc ở đây có người ấy hay không?
- Chiều
hôm qua tôi đã hỏi tên tửu bảo, nói rằng hắn mới viết hôm kia xong.. Cái đó xin
ân tướng sai đem sổ lao thành lên tra một lượt, xem có hay không là biết ngay
lập tức...
Tri Phủ
khen là phải, liền gọi người nhà vào kho lấy sổ lao thành, đem ra để tra. Tra
mãi đến cuối sổ qủa nhiên thấy tên Tống Giang ở huyện Vận Thành, mới đến đây ở
Giang Châu vào độ tháng năm vừa rồi.
Hoàng
Văn Bính thấy vậy, liền bảo với Tri Phủ rằng.
- Người
này đích xác là ứng vào câu ca dao ấy, không phải chuyện chơi, xin Tướng Công
hãy cho người bắt giam riết, rồi sau sẽ liệu, nếu để chậm trễ lỡ ra lộ chuyện
mất chăng?
Tri Phủ
cho lời nói của Hoàng Văn Bính là phải, liền ra sảnh đường cho đòi Tướng Công
hai viện là Đới Tung lên, mà truyền lệnh rằng:
- Người
lập tức phải đem lính xuống lao thành, bắt tên đề thơ phản loạn trên lầu Tầm
Dương, là Tống Giang ở huyện Vận Thành đến đây cho ta...
Đới Tung
vâng lời quay ra, thì trong bụng lấy làm sợ hãi kinh ngạc, vội vàng điểm lấy
mấy người coi lao dặn về lấy binh khí và nhất tề đến miếu Thành Hoành, để đi
làm việc. Khi chúng vâng lời đi rồi, Đới Tung bèn làm phép thân hành, đi thẳng
ra lao thành, đến chỗ phòng giấy để thăm Tống Giang. Bấy giờ Tống Giang đang
nằm một mình ở trong phòng, chợt thấy Đới Tung đến, liền vội vàng đón vào mà
hỏi rằng:
- Hôm
trước tôi vào trong thành tìm mãi không gặp Viện Trưởng, sau nhân buồn quá, một
mình lững thững trên lầu Tầm Dương uống mấy chén rượu, thành ra mệt nhọc say
sưa mãi đến ngày nay vẫn còn chưa tỉnh.
Đới Tung
hỏi:
- Hôm ấy
Ca Ca viết những câu gì trên gác thế?
- Bấy
giờ say rượu viết liền, tôi có nhớ được đâu?
- Vừa
rồi Tri Phủ bắt tôi phải sai đem lính đến bắt tên phản tặc đề thơ ở lấu Tầm
Dương, là Tống Giang, tôi lấy làm kinh ngạc quá chừng, không biết vì lẽ gì mà
đến thế? Hiện tôi đã bảo lính đón đợi ở miếu Thanh Hoàng, rồi tôi cất lẻn đến
đây báo cho Ca Ca biết...Làm cách nào mà giải thoát được đây?
Tống
Giang nghe nói, gãi đầu gãi tai mà kêu lên rằng:
- Nếu
vậy thì phen này ta nguy với họ mất.
Đới Tung
nói rằng:
- Tôi có
một kế nay, thì may ra mới thoát được. Bây giờ thể nào tôi cũng phải dẫn người
đến bắt, không sao mà trốn được, vậy huynh trưởng nên bỏ xõa tóc rồi phóng uế
vung vãi ra phòng, để giả làm người điên, hễ tôi đến thì cứ nói càn nói dở, nói
láo nói lếu, cho họ yên chí là chứng điên, thì bấy giờ nói với Tri Phủ may ra
mới có thể thoát được.
Nói xong
thì Đới Tung từ biệt, rồi vội vàng trở về miếu Thanh Hoàng để đem lính đến bắt.
Khi đem
lính vào đến lao thành, Đới Tung làm bộ quát to lên rằng:
- Tên
nào là Tống Giang mới đến ở đất này?
Tụi bài
đầu thấy đới Trung hỏi vậy, liền dẫn vào phòng giấy của Tống Giang. Bấy giờ
thấy Tống Giang rũ rợi đầu tóc, phóng uế khắp cả nhà nằm ngồi be bét cả lên.
Khi Tống
Giang trông thấy Đới Tung cùng bọn lính Đới Tung lại giả vờ quát lên rằng:
- Lũ
chúng bay là người nào?
Đới Tung
lại giả vờ quát lên rằng:
- Bắt
lấy thằng này cho ta.
Tống
Giang trợn mắt lên, đánh khắp cả mọi người, rồi lảm nhảm nói rằng:
- Ta đây
là con rể Ngọc Hoàng Thượng Đế, bố vợ ta sai đem mười vạn thiên binh, đến giết
hết mọi người ở Giang Châu, hiện có Diêm La Đại Vương làm tiên phong, Ngũ Đạo
Tướng Quân làm hợp trận, cho ta một tay kim ấn nặng tám trăm cân, giết hết
chúng bay đây.
Tụi lính
nghe thấy vậy bảo với Đới Tung rằng:
- Anh
này điên mà, chúng tôi bắt làm gì?
Đới Tung
làm ra bộ nghĩ ngợi, rồi bảo với chúng rằng:
- Nếu
vậy, ta về bẩm với Tri Phủ xem sao? Nếu ngài có định bắt thì ta lại đến đây
cũng được.
Nói đoạn
dẫn lính về trong thành báo với Tri Phủ rằng:
- Tên
Tống Giang hiện bị chứng điên, nói càn nói bậy mình mẩy nhơ bẩn thối tha, chúng
tôi không dám bắt lên để nộp.
Tri Phủ
nghe nói, chưa kịp hỏi rõ ra sao, thì đã thấy Hoàng Văn Bính đứng nấp ở đằng
sau binh phong chạy ra mà nói rằng:
- Tướng
Công chớ nên tin thơ như thế, chữ như thế, không phải là một thằng điên viết
rồi. Cái này tất nhiên là có giả dối chi đây, xin ngài cứ hạ lệnh cho bắt, nếu
không đi được, thì khiêng hắn về đây.
Xài Tri
Phủ lấy làm phải, truyền lệnh cho Đới Tung:
- Bắt
vấn như thế nào, phải bắt về cho kỳ được.
Đới Tung
vâng lệnh lui ra, trong bụng lấy làm băn khoăn đau đớn, liền đem lính đến lao
thành mà bảo với Tống Giang rằng:
- Công
việc nguy lắm rồi, huynh trưởng cứ đến đấy xem sao.
Nói đoạn
sai lấy cái bồ lớn, bỏ Tống Giang vào đấy, rồi khiêng giải vào phủ. Khi vào tới
phủ, Tống Giang đứng ở dưới thềm, trợn mắt nhìn Xài Tri Phủ mà quát hỏi rằng:
- Bây là
người nào, dám bắt hỏi ta? Ta là rể Ngọc Hoàng Thượng Đế, cho ta đem năm vạn
thiên binh, đến giết thành Giang Châu, có Diêm La Đại Vương làm tiên phong, Ngũ
Đạo Tường Quân làm hợp hậu, sắc cho ta một tay kim ấn, nặng tám trăm cân để
giết các ngươi. Ta truyền cho ngươi chỉ một lát nữa gọi là chết hết.
Xài Cửu
nghe vậy, không biết xử trí làm sao?
Hoàng
Văn Bính lại tán với Tri Phủ rằng:
- Xin
tướng công cho đòi Sai Bát và Bài Đầu ở bản doanh đến, để hỏi xem tên này mới
có chứng điên, hay là từ khi mới đến đây đã thế? Nếu vẫn có chứng điên từ khi
mới đến đây thì sẽ tha cho, bằng không thì tất là giả dối...
Tri Phủ
nghe nói lấy làm phải, liền cho đòi Quản Doanh, Sai Bát đến mà hỏi. Hai anh em
kia không dám man trá Tri Phủ, liền bẩm rằng:
- Tên ấy
nguyên trước đến đây, không có chứng điên, chứng đó chứng mới phát ra mấy hôm
nay.
Tri Phủ
thấy nói vậy, bèn đùng đùng nổi giận, thét lính đem Tống Giang ra tra đánh. Đới
Tung thấy thế, chỉ cắn răng kêu khổ, mà không biết làm cách gì để cứu ra cho
được. Tống Giang trước còn hàm hồ nói bậy nói xằng, sau bị đánh tấn dữ dội, bắn
máu xé thịt, không sao mà giấu cho nổi, đành phải thú thực là say rượu viết
càn, thực không có chủ ý mưu mô chi cả. Tri Phủ liền lấy lời cung, rồi sai đóng
gông tử tù nặng hai mươi nhăm cân, mà cho giam xuống đại lao. Bấy giờ Tống
Giang đau đớn ê chề, không sao mà nhắc chân đi được, Đới Tung liền hết sức
trông coi, dặn bảo các lính canh ngục, đều phải trông nom tử tế, và hằng ngày
sắp sẵn cơm nước để cung đãi Tống Giang.
Dây đâu
ai buộc vào thân,
Anh hùng
là kiếp nợ nần với ai?
Bắc
thang lên hỏi ông trời?
Văn
chương là giống hại người đó ru?
Khi đó
Xài Tri Phủ lưu Hoàng Văn Bính ở chơi, mà tạ ơn rằng:
- Nếu
không có Thông Phán là người cao kiền viễn thức, thì có lẽ hạ quan cũng mắc lừa
dối của họ chứ không chơi.
Hoàng
Văn Bính hót luôn rằng:
- Việc
này không thể chậm được! Ngài nên lập tức sai người về kinh sẻ báo cho Ân
Tướng, để tỏ ra rằng ngài đây là người mẫn cán, đã làm được những việc to ích
nước lợi nhà như vậy, và nên bẩm xem ý kiến Ân Tướng, muốn bắt sống tên phản
tặc thì ta đóng cũi mang đi, bằng không thì sẽ xử quyết ngay đây, để khỏi điều
rắc rối về sau mới được.
Xài Tri
Phủ lại gật gù khen phải mà bảo Hoàng Văn Bính rằng:
- Tôi
xin viết một phong thư gửi về, kể rõ công lao của Thông Phán, để gia nghiêm tâu
với Thánh Thượng, phong cho ngài làm nơi phủ huyện nào đó, để hưởng sự vinh
hoa.
Hoàng
Văn Bính khúm núm tạ ơn mà rằng:
- Chúng
tôi là môn hạ ở đây, thế nào cũng xin kết cỏ ngậm vành để báo đáp.
Nói xong
liền giục Tri Phủ viết gia thư, đóng ấn tín vào, rồi lại hỏi rằng:
Tướng
Công định sai ai là người tâm phúc để cho đi mới được?
Tri Phủ
nói:
- Ở đây
có một người Lưỡng Viện Tiếp Cấp tên là Đới Tung, anh ta có phép thần hành, một
ngày có thể đi tới tám trăm dặm đường, nếu sai anh ta chỉ trong mười hôm, là có
thể trở về ngay được.
- Nếu
được người đi nhanh như thế, thì còn gì hơn nữa.
Đoạn rồi
Hoàng Văn Bính ở đó, đến ngày hôm sau mới từ giã Tri Phủ mà trở về Vô Vị Quân.
Khi Hoàng Văn Bính trở về, Xài Tri Phủ liền sắp lấy hai hòm kim ngân châu báu,
niêm phong cẩn thận, rồi sáng sớm hôm sau gọi Đới Tung lên mà bảo rằng:
- Ta có
một phong gia thư và một ít lễ vật, để đưa mừng sinh nhật phụ thân ta ở kinh
sư, ngày rằm tháng sáu, song nay ngày tháng đã gần bách tới nơi, vậy chỉ có
ngươi là người nhanh nhẹn, ngươi nên hết sức giúp ta, rồi ta trọng thưởng cho.
Ta chắc rằng ngươi có phép thần hành như vậy, thì cũng chẳng bao lâu mà được
tới nơi, vậy ngươi chớ nên trì trệ mà lỡ công việc của ta mới được.
Đới Tung
nghe nói, bất đắc dĩ phải vâng lời, liền nhận thư tín và hòm đồ trở về chỗ trọ.
Đoạn rồi chàng lẻn đến nhà lao bảo với Tống Giang rằng:
- Việc
này huynh trưởng cứ phòng tâm, hiện nay Tri Phủ sai tôi vào kinh sư, chỉ mươi
hôm là về đây, vậy khi đến cứu Ca Ca, may ra có phần thoát được. Ở nhà Ca Ca
nên giữ gìn cẩn thận, còn cơm nước ăn uống, thì tôi đã giao cho Lý Quỳ trông
coi khuya sớm, không có điều gì là trở ngại, Ca Ca cứ vững tâm đợi mấy hôm tiểu
đệ về sẽ biết. Nói đoạn gọi Lý Quỳ đến mà dặn rằng:
- Tống
Ca Ca vì viết câu thơ phản nghịch, bị phải Quan Tư giam cầm, còn trước đây lại
bị sai phái vào kinh, vậy ngươi phải ở nhà sớm khuya cơm nước hầu hạ Ca Ca, chớ
nên trễ nãi nghe chưa?
Lý Quỳ
gật gù mà rằng:
- Viết
mấy câu thơ đã làm gì nên tội? Những thằng đại giạ, đại ác, đại phản, vô vạn,
đây kia cũng làm quan to tướng thì sao? Việc nầy bác cứ đi vào Đông Kinh, để
mặc tôi trông nom cho Ca Ca, không cần nghĩ đến làm gì? Tử tế thì cùng tử tế,
bằng không thì hai cái búa lớn kia, chém cho nó chết hết là xong.
Đới Tung
lại dặn rằng:
- Anh em
phải rất cẩn thận, chớ nên uống rượu lắm mà để lỡ mất việc làm ăn của Tống Ca
Ca.
Lý Quỳ
đáp rằng:
- Ca Ca
cứ phóng tâm mà đi, bất tất phải nghi ngại dặn dò cho lắm, từ nay trở đi, tôi
xin nhịn rượu, để sớm khuya hầu hạ Tống Ca Ca, rồi khi nào Ca Ca về đây, sẽ
uống rượu cũng được chứ sao?
Đới Tung
cả mừng mà rằng:
- Nếu
quả nhiên anh em giữ được như vậy, thì tôi còn lo ngại điều chi?
Nói xong
từ biệt ra đi, rồi từ đó Lý Quỳ chừa rượu, mà sớm khuya hầu hạ Tống Giang,
không hề lúc nào sao nhãng.
Nước non
trói nặng lời nguyền,
Lẽ nào
nguy hiểm mà quên tâm thần?
Ai về
nhắn bảo thế nhân,
Những
người chướng trực là thần lương tâm.
Bấy giờ
Đới Tung từ biệt Tống Giang cùng Lý Quỳ, một mình kíp vội ra về, thay giầy gai,
quấn lá đáp, mặc áo vàng. Đổi khăn mới, giắt tuyên bài vào lưng, bỏ thư vào
túi, rồi quảy hai cái hòm đi ra ngoài thành. Khi ra đến ngoài thành, chàng liền
lấy bốn mảnh giáp mã, buộc vào hai bên chân mỗi bên hai miếng, rồi trong miệng
lẩm nhẩm đọc mấy câu thần chú mà vùn vụt đi khỏi Giang Châu.
Chiều
hôm ấy, Đới Tung vào nghỉ trong hàng, rồi cởi giáp mã ra, mà lấy giấy tiền, đốt
khấn cẩn thận, sáng hôm sau cơm nước vừa xong, chàng lại buộc giáp mã quảy hòm
ra đi thực sớm. Trong khi đi chỉ nghe tiếng gió thổi vù vù bên tai, sức chạy
thực nhanh, không hề dính chân xuống đất.
Đi luôn
hai ngày trời, đến ngày thứ ba, khí trời càng nóng bức khó chịu, chàng vừa đi
vừa khát nước. Chừng tới ba bốn trăm dặm đường, mà không có hàng quán nào để
nghỉ ngơi ăn uống. Chàng đi mãi đến gần trưa, trong bụng đương đói khát lạ
chừng, chợt trông thấy có một hàng rượu ở bên hồ rộng, gần khoảng rừng trước
mặt, chàng vội đi vào đó để nghỉ.
Khi tới
nơi, thấy một ngôi hàng rộng rãi sạch sẽ, trong có mươi bộ bàn ghế sơn dầu, kê
theo một dãy cửa sổ chạy dài; chàng bèn quảy hòm vào chọn một chỗ mát mẻ, rồi
cởi áo và thắt lưng mà treo lên trên chấn song cửa sổ.
Đoạn rồi
có tên tửu bảo chạy đến mà hỏi rằng:
- Ngài
lấy bao nhiêu rượu, ngài xơi thịt dê, thịt bò, hay thịt lợn?
Đới Tung
nói rằng:
- Rượu
đây không uống mấy, có cơm nước gì thì đem lên đây.
- Bẩm,
hàng tôi có rượu có cơm, có cả bánh bao, bánh bún, ngài muốn xơi gì?
- Ta
không ăn các thức cá thịt được, vậy có thứ canh gì để ăn không?
- Bẩm
canh đậu có được không?
- Tốt
lắm, lấy ra đây.
Tửu bảo
vâng lời, quay vào nhà trong một lúc, rồi đem một bát canh đậu phụ, lau đôi đũa
và rót lên ba chén rượu lớn. Đới Tung đương khi đói khát, vớ được rượu, canh
liền ăn uống một lúc, rồi toan gọi lấy cơm để ăn một thể. Dè đâu vừa húp xong
bát canh, thì thấy trời xoay đất chuyển, đầu choáng váng, rồi ngã lăn ra một
bên ghế.
Giữa lúc
ấy có một người là Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý chạy ra, quát bảo chúng rằng:
- Hãy
đem hai cái hòm vào trong kia, rồi sờ xem nó có gì thì lột lấy.
Nói đoạn
thì có hai tên người nhà chạy đến móc túi lấy ra một gói giấy bọc một phong
thư, đưa cho Chu Quý. Chu Quý cất lấy xem thấy có một bức gia thư, ngoài đề mấy
chữ: "Bình an gia tín...Con là Xài Đức Chương, trăm lạy kính dâng phụ thân
soi xét". Chu Quý xem xong lại bóc thư ra đọc, trong thư nói đến chuyện
Tống Giang đề thơ phản loạn ứng với lời ca dao, hiện đã bắt giam trong ngục, để
đợi lệnh thi hành, liền lấy làm ngạc nhiên kinh sợ, mà chạy vào trong phòng để
xem.
Bấy giờ
hai tên người nhà, đã vác Đới Tung vào nhà mổ, đặt nằm vật lên trên bàn mổ, rồi
tháo cởi xống áo ra để mổ. Cởi đến xuống lưng, thì thấy có một cái tuyên bài
dắt ở đó. Chu Quý cầm lấy xem, thấy mặt trên sơn son thiếp bạc, khắc mấy chữ:
Giang Châu Lưỡng Viện Tiếp Cấp Đới Tung.
Chàng
thấy vậy bụng hơi ngờ ngợ, bèn bảo với chúng rằng, "Hãy khoan tay, không
nên hạ thủ vội.. Ta nghe quân sư thường nói, ở đất Giang Châu có một người tên
là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung, là một người bạn rất thân của quân sư xưa nay,
vậy chẳng hay là người này chăng? Nếu vậy thì sao lại đưa thư để mưu hại Tống
Giang ... ? Việc này may vào tay ta, ta hãy hỏi rõ xem sao? " Nói đoạn sai
chúng lấy thuốc giải độc, đổ cho Đới Tung uống, mà cứu tỉnh dậy.
Được một
lúc Đới Tung bừng mắt tỉnh dậy, trông thấy Chu Quý đương cầm bức thư của Xài
Tri Phủ ở trong tay, thì quát lên rằng:
- Anh
nầy là anh nào? Sao dám to gan đánh thuốc mê cho ta, rồi lại bóc thư tín của
phủ Thái Sư như thế? Phổng đáng tội gì?
Chu Quý
cười mà rằng:
- Bức
thư khốn nạn này đã thấm vào đâu? Chúng tôi đây chính muốn đối đầu với Đại Tống
Hoàng Đế, chứ xé một bức thư của Thái Sư thì có cần gì?
Đới Tung
nghe nói cả kinh, liền hỏi rằng:
- Hảo
hán đại danh là gì? Xin ngài cho tôi được biết?
- Tôi là
Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý, là tụi hảo hán Lương Sơn Bạc đây.
- Nếu có
phải ngài ở Lương Sơn Bạc, thì tất nhiên có biết Ngô Học Cứu tiên sinh...
- Ngô
Học Cứu là quân sư coi giữ binh quyền trong đại trại tôi, sao túc hạ lại không
biết ông ấy?
- Ông ấy
với tôi là một người quen biết đã lâu.
- Nêú
vậy huynh trưởng có phải là Thần Hành Thái Bảo Đới Viện Trưởng ở Giang Châu, mà
quân sư tôi thường nói chuyện đó chăng?
- Vâng,
chính là tôi đây.
Chu Quý
lại hỏi:
- Hồi
trước Tống Công Minh đi đày sang đất Giang Châu, quân sư có gửi giấy sang nói
chuyện cùng túc hạ, vậy ngày nay chẳng hay vì cớ gì mà toan hại túc mệnh Tống
Công Minh đi như thế?
Đới Tung
nói rằng:
- Tống
Giang với tôi là chỗ anh en rất thân, vì ông ta viết mấy câu thơ phản nghịch,
tôi hết sức cứu gỡ chưa được, cho nên nay phải vào kinh để lo liệu cho ông ta,
có khi nào lại nỡ làm hại?
- Vậy
ông thử nom trong thư của Sài Tri Phủ xem sao?
Đới Tung
cầm thư xem, thì giật mình kinh sợ, liền đem đầu đuôi câu chuyện, kể từ khi gặp
Tống Giang, đến khi xẩy ra việc đề thơ ở lầu Tầm Dương thuật cho Chu Quý nghe.
Chu Quý
bảo với Đới Tung rằng:
- Nếu
vậy xin Viện Trưởng hãy lên chơi sơn trại, để bàn với các đơn vị Đầu Lĩnh xem
sao? Nói đoạn liền sai dọn tiệc rượu tiếp phong, rồi vào Thủy Đình bắn mũi tên
ra hiệu. Được một lát, có tên tiểu lâu la chở thuyền ra đón Chu Quý bèn mời Đới
Tung mang các hòm kim ngân xuống thuyền, rồi cùng nhau vào bến Kim Sa.
Khi Ngô
Dụng được tin báo, vội vàng đi xuống cửa quan để nghinh tiếp Đới Tung, đôi bên
hớn hở vui mừng, rồi dẫn vào đại trại để chào các vị Đầu Lĩnh, Chu Quý đem các
chuyện của Đới Tung đã nói, mà thuật lại cho mọi vị Đầu Lĩnh nghe.
Tiều Cái
nghe nói lấy làm kinh hoàng tức bực, mời Đới Tung ngồi vào khách vị mà hỏi thăm
các việc Chu Quý, Đới Tung lại thuật một lượt kỹ càng cho Tiều Cái nghe.
Tiều Cái
cả kinh, bàn với các vị Đầu Lĩnh, định lấy quân đi đánh lấy Giang Châu, để cứu
Tống Giang ngay lập tức. Quân sư Ngô Dụng can rằng:
- Ca Ca
không nên tháo thức làm chi, đây đến Giang Châu đường xa dặm thẳng, nếu nay cả
giấy binh mã thì e khi rút dây lại động đến rừng, mà lỡ ra thêm hại cho Tống
Công Minh. Vậy việc này chỉ nên dùng kế, không nên dùng bằng sức mạnh, thì mới
có thể được. Tôi đây dẫu bất tài, song xin hiến một kế này, chỉ trông vào Đới
Viện Trưởng là có thể cứu Tống Ca ra được.
Tiều Cái
nói:
- Quân
sư có kế sách gì?
Ngô Dụng
nói:
- Hiện
nay Sài Tri Phủ giao cho Đới Viện Trưởng đem thư vào kinh, để chờ tin Thái Sư
phúc đáp. Vậy nhân bức thư này ta phải đem kế trả kế, mà viết một phong thư
khác cho Viện Trưởng mang về; Trong thư bảo Sài Tri Phủ phải bắt sống Tống
Giang đem giải cẩn thận, cho tới kinh sư để tra hỏi đầu đuôi sẽ xử rồi quyết.
Đoạn rồi đợi khi chúng giải qua đây, ta sẽ cho người xuống cướp, như thế có lẽ
tiện hơn.
Tiều Cái
nói:
- Nếu
không giải qua lối này, thì có lỡ mất việc không?
Công Tôn
Thắng ứng lên rằng:
- Cái đó
khó chi, ta cứ cho người đi thám thính trước, họ đi lối nào, ta đón cướp lối ấy
cũng được, chỉ sợ họ không giải đi mà thôi.
Tiều Cái
nói:
- Như
thế thì hay lắm, song lấy ai là người viết được giống Sài Thái Sư bây giờ?
Ngô Dụng
nói:
- Việc
ấy tôi đã nghĩ rồi. Hiện nay thiên hạ đương thích viết chữ Tứ thể, là bốn lối
chữ của bốn nhà, Tô Đông Pha, Hoàng Lỗ Trực Mễ Nguyên Chương, và Sài Kính ở
đương triều, cho nên thường gọi là Tô, Hoàng, Mễ, Xài, là tứ tuyệt ở Tống
Triều. Khi còn nhỏ tôi có quen một người học trò ở thành Tế Châu là Tiêu
Nhượng, viết lối các chữ rất giỏi người ta thường gọi là Thánh Thủ Thư Sinh
(học trò tay thánh). Anh ta võ nghệ cũng khá, mà viết chữ lối của Sài Kính lại
càng hệt lắm, vậy muốn phiền Viện Trưởng qua đó, nói dối anh ta, để mời sang
viết văn bia, ở nhạc miếu Thái An Châu, rồi đưa trước năm mươi lạng bạc, rủ cho
anh ta đi ra rồi sau sẽ bắt cả vợ con đến đây, mà rủ cùng nhập đảng, như thể
phổng có gọn không?
Tiều Cái
nói:
- Người
viết chữ đã đành có, nhưng còn ấn tín thì sao?
- Phải
lắm, cái đó đệ cũng nghĩ cả rồi. Tiểu đệ có quen một người Kim tên là Đại Kiện,
hiện nay mở hàng làm ấn tín ở phủ Tế Châu khắc ngọc chạm đá rất khéo, mà võ
nghệ cũng không kém ai, người ta thường gọi là Ngọc Tỷ Tượng (thợ thay ngọc)
xưa nay. Vậy ta nên lừa cả anh ấy lên đây, rồi lưu luôn ở sơn trại, sau này tất
nhiên cũng có dụng cho mình...
Tiều Cái
khen rằng:
- Nếu
thế thì diệu lắm, ta phải làm mau mau mới được.
Nói xong
liền sai dọn rượu thiết đãi Đới Tung, và lưu lại nghỉ ở sơn trại một đêm. Sáng
hôm sau Ngô Dụng nhờ Đới Tung ăn mặc ra dáng Thái Bảo, dắt lấy hơn trăm lạng
bạc để tìm hai người. Đới Tung vâng lời, rồi buộc giáp mã vào chân, rồi xuống
núi mà đi mau sang đất Tế Châu. Phút chốc Đới Tung tới thành Tế Châu, hỏi thăm
vào nhà Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng, ở trước cửa văn miếu về bên đông phủ Tế
Châu. Khi đi đến cửa, Đới Tung gặng lên một tiếng rồi hỏi rằng:
- Tiêu
Tiên sinh có nhà không?
Bấy giờ
thấy một thầy đồ trong nhà chạy ra, nhìn Đới Tung bằng một cách ngạc nhiên mà
hỏi rằng:
- Thái
Bảo ở đâu tới, việc gì cần đến chúng tôi?
Đới Tung
nghe nói liền vái chào rồi nói rằng:
- Chúng
tôi là nhà sãi ở nhạc miếu Thái An châu, nhân miếu chúng tôi sửa lại nhà lầu Ngũ
Nhạc, các cụ chúng tôi định khắc tấm bia công đức, vậy cho chúng tôi đưa năm
mươi lạng bạc, để đến nói với tiên sinh, lập tức đến miếu giúp việc cho, nhật
kỳ chúng tôi đã chọn, sợ chậm trễ thì lỡ việc.
Tiêu
Nhượng nói rằng:
- Chúng
tôi đây chỉ biết viết, còn sự khắc chạm thì tất phải tìm người thợ tốt mới
được.
Đới Tung
đáp rằng:
- Tôi có
đem năm mươi lạng bạc để mời Ngọc Tú Tượng Kim Đại Kiện đây, nhật kỳ hiện nay
đã ngặt lắm, xin ngài làm ơn chỉ dẫn giúp tôi.
Tiêu
Nhượng nhận lấy năm mươi lạng bạc, liền dẫn Đới Tung đi tìm nhà Kim Đại Kiện.
Vừa ra khỏi cửa Văn Miếu, thì thấy Tiêu Nhượng trỏ tay bảo Đới Tung rằng:
- Ngọc
Tú Tượng Kim Đại Kiện đương đi kia.Nói đoạn liền gọi Đại Kiện đến chào Đới Tung
nói chuyện cho nghe.
Kim Đại
Kiện nói có năm mươi lạng bạc đưa đó, thì vui mừng hớn hở liền bảo với Tiêu
Nhượng cùng với Đới Tung đến tửu điếm đãi rượu.
Bấy giờ
Đới Tung đưa năm mươi lạng bạc cho Kim Đại Kiện rồi nói rằng:
- Hiện
nay đã chọn ngày tháng, không thể chậm trễ được, vậy xin hai ngài đi giúp ngay
cho.
Tiêu
Nhượng nói:
- Hôm
nay khí trời nóng bức có đi cũng không đến nơi ngay được, không may lỡ độ
đường, thì không tiện vậy xin để đến mai sẽ đi sớm thì hơn.
Kim Đại
Kiện cũng lấy làm phải, mà bàn với Đới Tung hoãn để đến mai đi sớm. Tối hôm ấy
Tiêu Nhượng lưu Đới Tung nghỉ ở nhà một đêm, sáng hôm sau Kim Đại Kiện sắm sửa
đồ đạc đến sớm để cùng đi.
Khi ra
ngoài thành được mươi dặm đường. Đới Tung bảo với hai người kia rằng:
- Các
ông cứ lững thững đi thong thả, để tôi đi trước nói với các cụ tôi cho người
đến đón mới được. Nói xong liền rảo cẳng đi trước mà bỏ mặc hai người đi sau.
Hai
người kia lững thững đi tới giờ Mùi, ước được bảy tám mươi dặm đường, bỗng thấy
phía trước mặt có tiếng còi thổi, rồi có một bọn hảo hán chừng bốn năm mươi người,
ở trong sườn núi xông ra.
Bọn hảo
hán đó là Vương Nụy Hổ đứng đầu, chạy ra quát lên rằng:
- Hai
anh nầy đi đâu qua đây! Các con! Bắt nó đem về moi ruột cho ta uống rượu...
Tiêu
Nhượng đáp rằng:
- Hai
anh em tôi đi lên Thái An Châu để làm bia, không có tiền nong chi cả, hiện đây
chỉ có mấy cái quần áo mà thôi.
Vương
Nụy Hổ thét lên rằng:
- Ta đây
không cần gì tiền của xống áo, chỉ cần được hai bộ gan ruột thông minh của các
ngươi đều nhắm rượu thôi?
Tiêu
Nhượng cùng Kim Đại Kiện cả giận, liền dỡ tài võ nghệ, vác gậy lên mà xông đánh
Vương Nụy Hổ, Vương Nụy Hổ cũng giơ đao lên đỡ, đánh nhau tới năm bảy mươi
hiệp, rồi vác đao chạy thẳng qua núi.
Tiêu
Nhượng, Kim Đại Kiện vừa toan vác gậy đuổi theo thì bỗng thấy trống chiêng ầm ĩ
, rồi có hai bọn người ở hai sườn núi đổ ra. Hai bọn này bên tả có Vạn Lý Kim
Cương Tống Vạn, bên hữu có Mô Trước Thiên Đỗ Thiên, dẫn Bạch Diện Lang Quân
Trịnh Thiên Thọ, mỗi ngươi đem tới ba mươi tên lâu la đổ ùa ra, bắt hai người
kia mà đem vào rừng.
Khi vào
tới trong rừng, bốn vị hảo hán bảo với hai người kia rằng:
- Chúng
tôi đây là phụng tướng lệnh của Tiều Thiên Vương, mời các ông lên núi nhập
đảng, không có việc chi mà các ông sợ.
Tiểu
Nhượng nghe nói thì cười mà hỏi rằng:
- Chúng
tôi sức không trói nổi con gà, chỉ biết ăn nói ngủ kỹ còn biết việc gì, mà sơn
trại dùng đến chúng tôi?
Đỗ Thiên
nói:
- Cái đó
quân sư Ngô Dụng vốn quen biết các ông, và biết tài võ nghệ của các ông, cho
nên mới sai Đới Tung đi đón về đây.Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện nghe nói đến đó,
thì ngơ ngác nhìn nhau, mà không biết nói sao cho được.
Khi đi
tới hàng rượu của Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý, Chu Quý liền đãi rượu tiếp phong,
rồi bắn tên gọi thuyền ra, để đưa vào đại trại. Bấy giờ Tiều Cái, Ngô Dụng,
cùng các vị Đầu Lĩnh đều vui mừng đón tiếp, đặt tiệc khỏan đãi, và đêm chuyện
muốn viết thư giả mạo để nói cho hai người nghe.
Hai
người nghe nói, vội túm vào trách Ngô Dụng rằng:
- Chúng
tôi ở đây với các ngài, cũng không ngại gì, song còn cách xử trí...Nói đoạn,
cùng nhau chè chén đến đêm mới nghỉ.
Sáng hôm
sau, thấy tụi lâu la báo...Ngô Dụng liền bảo Tiêu Nhượng và Kim Đại Kiện rằng:
- Xin
hai vị hiền đệ ra tiếp lấy bảo quyên vào đây. Hai người nghe nói bụng còn bán
tín vàn nghi, mà cùng nhau ra đón xem sao? Khi đến lưng chừng núi, quả nhiên thấy
có mấy cỗ kiệu đưa vợ con đến đó. Hai người lấy làm ngạc nhiên, liền hỏi xem
đầu đuôi thế nào?
Vợ con
đều đáp rằng:
- Khi
hai người đi rồi, thì thấy có người đem kiệu đến mà nói rằng: "Gia Trưởng
đi đường bị trúng thử mà chết, phải báo vợ con đến để cứu". Rồi khi ra đến
ngoài thành, thì kiệu phu cứ vùn vụt đến đây, không sao mà bắt trở lại được.
Tiêu
Nhượng cùng Kim Đại Kiện nghe nói đến tắc lưỡi ngây người, đành phải bấm bụng
dẫn vợ con vào ở trong sơn trại.
Bấy giờ
Ngô Dụng mời hai người ra đi để bàn việc viết thư khắc ấn, giả làm thư tín của
phủ Thái Sư gửi trả lời cho Sài Cửu Tri Phủ, để Tống Công Minh, Tiêu Nhượng
cùng Kim Đại Kiện đều vâng lời, rồi một người đem ra viết, và một người khắc
con dấu tên húy của Sài Kính để đóng.
Khi các
việc đã xong, liền đặt tiệc tiễn tặng Đới Tung và dặn dò cặn kẽ để đem về trình
Sài Tri Phủ. Đới Tung vâng lĩnh các lễ, nhận lấy phong thư rồi từ biệt các vị
Đầu Lĩnh xuống thuyền mà ra tửu điếm.
Khi ra
tới nơi, Đới Tung liền buộc mỗi bên hai miếng giáp mã, mà đi gấp đường trở về
Giang Châu.
Bấy giờ
Ngô Dụng cùng các vị Đầu Lĩnh đưa chân Đới Tung ra đến bến rồi trở vào cùng
ngồi uống rượu với nhau. Đương khi uống rượu, bỗng dưng Ngô Dụng kêu lên rằng:
- Nguy
mất rồi...Nguy mất rồi...
Các vị
Đầu Lĩnh đều lấy làm ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Việc
chi mà quân sư kêu như vậy?
Ngô Dụng
đáp rằng:
- Cái
phong thư vừa rồi, tất là nguy đến tính mệnh cho Đới Tung mất... !
Chúng cả
kinh hỏi luôn rằng:
- Có
điều gì lầm lỗi hay sao?
- Tôi
vội qúa không kịp nghĩ trước trông sau, trong thư có một chỗ hớ to, chắc là
nguy mất... !
Tiêu
Nhượng nói:
- Tôi
viết chữ rất hệt chữ Thái Sư, vả chăng lời lẽ cũng không sai điều gì, vậy có
chi là hớ, xin quân sư chỉ giáo cho.
Kim Đại
Kiện cũng nói rằng:
- Tôi
cũng khắc dấu hệt lắm, không nào sai một tí bao giờ!
Ngô Dụng
có ý nghĩ ngợi mà rằng:
- Có một
chỗ hớ to, rất là nguy hiểm, các ông không biết tới, để tôi xin nói cho các ông
nghe.
Mới hay:
Việc đời
lầm lỡ một ly;
Cái cơ
nguy hiểm có khi muôn vàn,
Phải
điều vụng chẳng hay toan,
Để cho
thịt nát xương tàn nữa sao?
Phải làm
cho biết mưu cao,
Thử xem
trời giết anh hào được chăng!
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hỡi này
chỉ do một đoạn văn tả Hoàng Văn Bính đọc đến phản thư, rồi tán ra ý nghĩa, để
đưa đến Tống Giang phạm tội, rất là thác lạc phù sơ, còn ngoài ra chỉ tự sự
theo, thấy cũng rõ ràng nhanh ứng vậy.
Sau khi
uống rượu ở lầu Tầm Dương, chợt tả ra Tống Giang đi tả, đấy dụng bút của tác
giả làm ra thảm đạm, để về sau nửa uống rượu một mình lầu bến Tầm Dương thổ lộ
can trường (đáy lòng)! Cho nên lần sau tả Tống Giang đi tìm ba người để đi uống
rượu mà không được gặp, kể cũng tả nhiều lời, nhưng phải làm cho rõ cái buồn
của Tống Giang, để xảy ra đề thơ cảm khái.
Tả ra
Tống Giang hồi từng chỗ trọ của ba người, thấy rõ bọn hảo hán bốn bể không nhà,
rất khéo thay ngọn bút, để rồi vào lầu bến nước, uống rượu ngâm thơ; như kiểu
Tào Tháo phú yến Trường Giang, khiến độc giả xem đến càng thêm khẳng khái.
Đến hồi
tả chuyện con hát, chỉ làm cho rõ con người Lý Quỳ và Tống Giang xử sự mà thôi,
không có gì chiếu ứng về sau nữa.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 39: Cướp nghĩa đảng Anh hùng mến anh
hùng
Bấy giờ,
Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh đều ngơ ngác vội vàng, cùng túm nhau để hỏi xem
lầm lỡ vì đâu? Quân sư Ngô Dụng liền bảo mọi người rằng:
- Trong
bức thư lúc nãy, vì chúng tôi vội vàng không kịp nghĩ cho đóng dấu khắc có bốn
chữ "Hàn Lâm Sài Kính" như thế, quả nhiên Đới Tung bị nguy với Quan
Tư, chứ không khi nào tránh khỏi.
Đại Kiện
nói rằng:
- Cái đó
chính là lối con dấu của Sài Thái Sư, vẫn dùng để đóng vào các văn trát xưa
nay, không lẽ nào mà hỏng được.
Ngô Học
Cứu nói:
- Cái đó
các ông không biết. Xưa nay cha viết thư cho con không khi nào phải đóng dấu
tên huý của mình, bởi vậy tôi chắc khi Đới Tung tới nơi, tất bị họ tra hỏi mà
vỡ chuyện ra mất.
Tiểu cái
lo sợ mà rằng:
- Nếu
vậy ta nên cho hai người theo gọi về đây, để viết lại mới được.
Ngô Dụng
cười rằng:
- Bây
giờ theo thế nào được? Ông ta làm phép thần hành đi từ bấy đến, giờ có tới năm
sáu trăm dặm rồi, còn ai theo kịp. Việc này tất phải kiếm cách cứu mau, không
có thì nguy cả đến nơi.
Tiều Cái
hỏi:
- Vậy
quân sư định có cách gì để cứu?
Ngô Dụng
ghé vào tai Tiều Cái mà hỏi rằng:
- Bây
giờ phải thế nầy...thế nầy...chủ tướng nên ám truyền hiệu lệnh cho các tướng đi
mau mới được.
Tiều Cái
nghe nói cả mừng, liền truyền lệnh cho các tướng, lập tức sắm sửa chu tất rồi
cùng nhau xuống thuyền mà kéo sang Giang Châu.
Bên kia
Đới Tung đi ước chừng đúng hạn thì về đến đất Giang Châu liền đem thư vào trình
với Sài Cửu Tri Phủ.
Tri Phủ
thấy Đới Tung về, trong bụng lấy làm vui mừng hớn hở, bèn thưởng cho ba cốc
rượu rồi nói rằng:
- Ngươi
vào đó có gặp Thái Sư không?
Đới Tung
bẩm rằng:
- Chúng
tôi vào đó có một tối, rồi vội về ngay, nên không kịp gặp Ân Tướng.
Tri Phủ
nghe nói liền bóc thư ra xem, thấy trên nói đã thu nhận đủ các đồ lễ vật, rồi
đoạn nữa nói chuyện Tống Giang, phải sai người lập tức đóng xe tù về kinh sư,
giải về cho cẩn thận, còn đoạn cuối cùng nói đến Hoàng Văn Bính, nay mai sẽ tâu
Thiên Tử, tất nhiên cũng có hồng ân. Tri Phủ xem xong cả mừng, lấy ra một đĩnh
hai mươi nhăm lạng bạc thưởng cho Đới Tung rồi nhất diện sai đóng xe tù và bàn
định chọn người để áp giải Tống Giang.
Đới Tung
từ tạ Tri Phủ rồi trở ra mau mua các thức rượu thịt đem vào ngục thiết đãi Tống
Giang, và nói hết mọi chuyện cho Tống Giang biết. Cách hai hôm sau, Sài Tri Phủ
đã thôi thúc đóng xe tù, vừa toan sai người khởi trình áp giải Tống Giang, thì
bỗng thấy nói có quan Thông Phán Hoàng Văn Bính vào hầu. Tri Phủ nghe nói, liền
cho mời vào trong để nói chuyện.
Hoàng
Văn Bính đưa tặng các đồ lễ vật, nịnh hót mấy câu, đoạn rồi cùng ngồi nói
chuyện.
Tri Phủ
bảo với Hoàng Văn Bính rằng:
- Tôi
mừng cho ngài, nay mai, tất có việc vinh thăng tới nơi.
Hoàng
Văn Bính hớn hở hỏi rằng:
- Sao
Tướng Công lại biết trước?
- Hôm
qua có người đem thư về, nói rằng tên Tống Giang thì cho giải vào kinh sư, còn
Thông Phán thì thế nào cũng có thăng thưởng đến nơi, hiện có gia thư đó, Thông
Phán xem qua thì biết đoan đích.
- Nếu
thế, thì toàn là ân đức của Tướng Công, chúng tôi biết lấy gì mà báo đền cho
được. Nhưng nếu phải là gia thư, thì khi nào tôi dám mạn phép mà xem như vậy?
- Được,
Thông Phán với tôi là chỗ tâm phúc. Thông Phán cứ xem cho biết rõ...có hề chi?
Nói đoạn
liền lấy thư đưa cho Hoàng Văn Bính xem. Hoàng Văn Bính cầm lấy thư xem hết đầu
chí đuôi, rồi xem đến ngoài phong bì thấy có dấu đóng ở đó vẫn còn mới mẻ sáng
sủa, thì lắc đầu mà bảo Thông Phán rằng:
- Phong
thư này có lẽ không được đích thực...
Tri Phủ
nói:
- Mọi
khi không có đóng dấu bao giờ, nhưng hôm nay có lẽ là tiện có con dấu cho nên
đóng vào đó hẳn?
Hoàng
Văn Bính lại tán rằng:
- Tôi
nói câu này, xin Tướng Công bỏ ngoài tai cho. Bức thư nầy tức là người man trá
Tướng Công đây. Hiện nay thiên hạ thịnh hành bốn lối chữ, Tô, Hoàng, Mễ, Sài,
vậy thì lối chữ của ân tướng Thái Sư, ai mà không viết giống. Còn như con dấu
Hàn lâm này, là khi còn làm chức Hàn Lâm, hay dùng để đóng vào giấy má, cho nên
thiên hạ ai mà không biết. Đến như hiện nay ngài làm chức Thái Sư Thừa Tướng,
thì có khi nào lại còn dùng con dấu ấy nữa. Huống chi Tướng Công là chỗ con
cháu trong nhà thì có cần chi phải cần đến con dấu có tên huý của ngài vào đây.
Thái Sư là thực cao kiến viễn thức nhất trong thiên hạ, không lẽ ngài lại lầm
đến thế? Xin Tướng Công cho đòi người đưa thư đến đây, mà hỏi kỹ càng xem có
gặp người nào ở trong Phủ Thái Sư không? Bằng lúng túng không trả lời được, thì
quả nhiên là giả mạo không sai...Cái đó Tướng Công nên cẩn thận...
Sài Tri
Phủ nghe nói liền đáp rằng:
- Nếu
vậy cũng không khó gì, anh ta từ nhỏ đến nay, chưa qua Đông Kinh một lượt nào,
để ta hỏi qua mấy câu là biết được ngay.
Nói đoạn
liền lưu Hoàng Văn Bính ngồi chơi ở đằng sau bình phong, rồi cho gọi Đới Tung
lên đến công đường. Sài Tri Phủ liền hỏi ngay rằng:
- Hôm nọ
ngươi đi khó nhọc ta chưa kịp hỏi hết đầu đuôi trong phủ Thái Sư, vậy khi tới
đó ngươi đi vào cửa nào?
Đới Tung
bẩm rằng:
- Khi
chúng tôi vào tới nơi, thì trời đã nhá nhem tối, cũng không trông rõ đó là cửa
gì?
- Ở
trong phủ có ai ra tiếp?
- Rồi
sau nghỉ ở đâu?
- Bẩm,
hôm đó chúng tôi đến trước phủ, tìm một người canh gác đưa thư vào, sau người
canh gác trở ra nhận các lễ vật rồi bảo chúng tôi đi hàng trọ để nghỉ. Sáng hôm
sau đầu trống canh năm, chúng tôi lại vào chực ở cửa phủ, thì thấy tên người
nhà đưa bức hồi thư ấy ra, chúng tôi sợ lỡ kỳ hẹn lập tức về ngay, không kịp
hỏi han chi cả.
- Tên
người nhà canh gác đó thế nào? Trắng hay đen, gầy hay béo, to lớn hay thấp lùn,
có râu hay không?
- Bẩm,
bấy giờ đường mờ tối, chúng tôi trông không được rõ lắm...Chỉ trông thoáng thấy
anh ta tầm thước không lớn không bé, đã hơi có tuổi, loáng nhoáng vài cái
râu...
Tri Phủ
nghe đến đó quát lên rằng:
- Lính
đâu! Trói cổ thằng này lại cho ta.
Vừa nói
dứt lời thì lính tráng dạ vâng, đổ ra trói Đới Tung lại. Đới Tung lấy làm ngạc
nhiên mà kêu lên rằng:
- Chúng
tôi có tội gì?
Tri Phủ
quát lên rằng:
- Tội
mầy đáng chết...nhà tao có lão họ Vương, thì đã chết rồi, hiện nay có tên tiểu
vương canh gác hãy còn trẻ tuổi, sao ngươi lại nói là đã nhiều tuổi và có râu.
Vả chăng tên tiểu vương cũng không khi nào được vào phủ bao giờ, xưa nay phàm
có thư tín ở các nơi đưa đến, thì tất do qua tay Trương Cán Biện, đến tay Lý Đô
Quản, rồi mới vào đến trong phủ, vậy có nhanh ra cũng phải ba ngày mới lấy được
hồi thư mang về. Huống chi ta đưa mấy hòm lễ vật như vậy, lẽ đâu lại không có
ai là người ở trong nhà, ra hỏi cặn kẽ đầu đuôi, mà lại nhận liều lĩnh thế
được? Cái đó tất là ngươi man trá chi đây, muốn sống phải nói thực cho ta biết.
Đới Tung
kêu lên rằng:
- Chúng
tôi vì vội vàng, mong cho chóng việc, nên không kịp xét hỏi đầu đuôi, chứ thực
có điều chi dám man trá.
Tri Phủ
thét tả hữu mà rằng:
- Quân
nầy gan tướng cướp đây, không tra tấn sao có chịu thú...Chúng đâu đem tra đánh
xem sao?
Lính
tráng nghe nói, biết chừng không thể nào nể được Đới Tung, liền vâng lời đem ra
tra tấn. Đới Tung bị đòn vọt đau đớn, từ chối không xong, bất đắc dĩ phải tiêu
xưng ra bức thư giả mạo.
Tri Phủ
quát hỏi rằng:
- Bức
thư ấy ở đâu mà đến đây được?
Đới Tung
nói rằng:
- Khi
chúng tôi đi qua đất Lương Sơn, bị bọ cướp bắt lên núi, sau chúng lần được bức
thư, liền cướp lấy cả hai hòm châu báu, rồi tha cho về. Chúng tôi biết thế trở
về không được, đã toan liều tử tử ngay, song họ nhất định giữ gìn cẩn thận, rồi
viết phong thư ấy, mà bắt phải đem về...Nhân chúng tôi cũng sợ quở phạt đến
thân, cho nên phải mạn phép Ân Tướng mà nói liều như vậy, xin Ân Tướng xét cho.
Tri Phủ
nói:
- Việc
đó chắc là man trá không sai, vậy tất nhiên còn có tính gì khác, ngươi phải nói
cho rõ. Ta quyết rằng ngươi thông đồng với bọn Lương Sơn để cướp hai hòm châu
báu của ta, muốn sống phải thú mau mới được. Chúng đâu đánh nữa cho ta xem.
Đới Tung
bị tra khảo lần nữa, song chàng nhất định đau, mà không dám đem chân tình ra
thổ lộ. Tri Phủ tra hỏi hồi lâu, thấy lời lẽ trước sau như một, liền bất đắc dĩ
sai đóng gông Đới Tung, mà cho giam xuống ngục.
Khi tra
hỏi xong rồi. Tri Phủ liền vào nhà trong cảm tạ Hoàng Văn Bính mà rằng:
- Việc
nầy nếu không có Thông Phán chỉ giáo cho, thì tất là nguy hiểm chứ không chơi.
Hoàng
Văn Bính lại nói với Tri Phủ rằng:
- Người
ấy chắc là thông đồng với bọn Lương Sơn Bạc để mưu việc phản nghịch, vậy nếu
không sớm liệu trừ đi, thì tất là sinh sự về sau...
Tri Phủ
nói:
- Bây
giờ chỉ đem hai thằng ấy kết án mà xử tử ngay đi, rồi sẽ biểu tấu triều đình
mới được.
- Tướng
Công nghĩ thế thực phải lắm, làm như vậy một là triều đình cũng biết được tài
mẫn cán của Tướng Công, hai là bọn Lương Sơn khỏi đến đây để cướp ngục, thì tất
nhiên khỏi sinh nhiễu loạn về sau.
- Vâng,
việc đó tôi phải biểu tấu triều đình, rồi xin để bảo cử cho Thông Phán một thể.
Hoàng
Văn Bính nghe nói cả mừng, so vai rụt cổ nịnh hót một hồi lâu mới đứng lên từ
tạ ra về.
Gớm quân
khốn nạn đê hèn,
Tài thua
sức kém còn ghen ghét người.
Rồi đây
lay đất chuyển trời.
Tiền
nhân phổng thoát với đời được chăng?
Mấy hôm
sau, Tri Phủ gọi người Khổng Mục là người làm văn án lên, truyền lập án Tống
Giang cùng Đới Tung, để đến ngày sau nữa đem ra chém.
Người
Khổng Mục này là một người họ Hoàng, vốn thân mật với Đới Tung xưa nay, song
cũng không có cách gì cứu gỡ cho được, liền bẩm với Tri Phủ rằng:
- Ngày
mai là ngày kỵ nhật của quốc gia, ngày kia là ngày tết Trung Nguyên rằm tháng
Bảy, đều không nên hành hình cả, đến ngày thứ ba cũng là ngày cảnh mệnh của nhà
nước, vậy thì để năm hôm nữa thì mới có thể thi hành được. Tri Phủ nghe nói
cũng cho là phải, liền theo lời Khổng Mục mà để đến sáu hôm sau.
Sáng sớm
hôm thứ sáu, Tri Phủ sai quét dọn pháp trường, ở sau con đường chữ thập, rồi
kiểm điểm bộ binh cùng các tay đao trượng, ước hơn năm trăm người, đều tề tựu ở
trước nơi nhà ngục.
Vào
khoảng giờ Tỵ hôm ấy, ngục quan vào bẩm với Tri Phủ để ra giám trảm. Hoàng
Khổng Mục đem bản án lên trình quan Phủ, rồi viết hai chữ "Trảm" rất
to, mà niêm yết ra ngoài pháp trường. Bấy giờ các Tiết Gấp và cùng Lao Tử ở đất
Giang Châu, ai cũng lấy làm phàn nàn thương tiếc cho Đới Tung, mà không còn kế
chi cứu được. Khi các công việc sửa soạn xong, lệnh quan trên bắt Tống Giang,
Đới Tung đem búi ngược tóc lên, cắm bông hoa giấy đỏ lên đầu, dắt đến trước mặt
thân án, cho mỗi người ngồi ăn bát cơm từ giã với đời, rồi sáu bảy mươi tên
ngục tốt cùng dong ra ngoài pháp trường.
Bấy giờ
nhân dân ở đất Giang Châu, kéo đàn kéo lũ đi xem, không biết mấy ngàn người mà
kể. Chúng dong phạm nhân ra đến pháp trường, rồi đặt Tống Giang ngồi quay mặt
sang Nam, Đới Tung ngồi quay mặt sang Bắc, để đợi đến giờ Ngọ là quan giám
trảm.
Bọn nhân
dân kéo đi xem, ngửa trông thấy trên bản án viết có mấy câu rằng:
-
"Phủ Giang Châu xử hai tên phạm; Một tên là Tống Giang ngâm thơ phản nghịch,
kết bọn Lương sơn để gây một đường rối loạn, tội nên xử trảm. Một tên là Đới
Tung, thông với Tống Giang, đưa thư cho bọn Lương Sơn Bạc để mưu phản lại triều
đình, tội nên xử tử. Giám trảm quan là Sài mỗ, Tri Phủ Giang Châu".
Được một
lát Tri Phủ cỡi ngựa ra đứng ở pháp trường, để đợi báo đúng giờ là truyền cho
hạ thủ. Chợt đâu thấy bên đông pháp trường có bọn ăn mày chen vào xem chém, tụi
thổ binh ngăn cản không xong, đôi bên liền ầm ĩ cả lên.
Đương
khi ấy, thì phía bên tây lại có bọn bán thuốc cao len vào. Bọn thổ binh thấy
vậy quát lên rằng:
- Chúng
bây người ở đâu? Có biết gì không? Ai cho phép len vào đây để xem?
Lũ đánh
gậy bán thuốc cao đáp lên rằng:
- Chúng
tôi đây đến phủ huyện nào, mà không vào xem được. Dẫu cho Thiên Tử chém người,
cũng còn cho người dân vào xem, huống chi một chỗ đất cỏn con này, mà lại không
vào xem được hay sao?
Giám
Trẩm Quan nghe thấy vội quát lên rằng:
- Đuổi
chúng nó ra, không cho chen vào đấy.
Chưa dứt
lời, thì đã thấy phía bên Nam pháp trường có một tụi phu gánh cũng sấn sỉ mà
cùng nhau chen vào.
Lũ thổ
binh quát hỏi rằng:
- Chúng
bây người ở đâu? Mà dám chen vào đây?
Bọn phu
gánh đáp rằng:
- Chúng
tôi gánh các đồ vật, để đưa cho Tri Phủ Tướng Công đây.
Bọn thổ
binh ngăn lại mà rằng:
- Có
phải là người nhà quan Phủ, thì bây giờ cũng không đi qua đây được.
Bọn phu
gánh thấy vậy, liền hạ gánh xuống, rồi đứng len lỏi vào trong đám đông người để
xem. Chợt đâu thấy phía Bắc, có một đám buôn, kéo hai xe gỗ đến, đẩy xô mọi
người mà toan vào pháp trường. Tụi thổ binh thét mắng đuổi ra mà rằng:
- Các
anh đi đâu thế nầy.
Lũ lái
buôn đáp rằng:
- Chúng
tôi phải đi có việc cần, xin các ông cho phép chúng tôi đi qua đây...
Lũ thổ
binh lại quát mắng rằng:
- Các
anh nói lạ, ai cho các anh đi lối nầy? Có vội kiếm lối khác mà đi.
Bọn lái
buôn cười rằng:
- Các
bác nói dễ nghe chưa? Chúng tôi ở Kinh Sư đến đây, còn biết lối cóc nào nữa?
Chỉ có một con đường lớn nầy phải cho đi mới được.
Nói xong
toan chen lấn đi vào, song bọn thổ binh nhất định không nghe, mà cố dồn để đuổi
ra. Đám lái buôn bất đắc dĩ phải dừng xe lại, rồi trèo lên xe để xem. Được một
lát, trong pháp trường có người báo lên rằng:
- Bây
giờ đúng giờ Ngọ ba khắc rồi.
Giám
Trảm Quan nghe báo, liền truyền lệnh rằng:
- Cho
phép chém.
Bọn lính
coi tù vâng lệnh tháo gông cho tội nhân, rồi hai người hành hình cầm đao ra để
chém.
Bấy giờ
bọn lái buôn đứng trên xe kia, nghe thấy ba tiếng "Cho phép chém",một
người thì lấy thanh la ở trong bọc ra mà đánh lên mấy tiếng rất to, rồi bỗng
dưng tứ phía đều nhao nhao lên như vỡ chợ vậy. Đoạn rồi ở trên gác hàng nước,
bên cạnh con đường Thập Tự, có một anh chàng cởi trần trùng trục, mình đen chùi
chũi, tay cầm hai cây búa, thét lên một tiếng như sấm động vang trời, mà nhảy
ngay xuống pháp trường, vung cái búa lên chém luôn hai người hành hình, rồi
quay ra đuổi chém Giám Trảm Quan. Bọn thổ binh thấy vậy, vội vàng xô nhau để
ngăn cản, song không sao mà chống cự cho nổi, chúng liền hớt hơ hớt hãi túm đến
cứu Giám Trảm Quản, là Sài Tri Phủ để chạy trốn cho mau.
Khi đó
lũ ăn mày ở phía Đông, đều tuốt dao nhọn ở trong mình ra, để đánh giết thổ
binh. Phía bên Tây, tụi đánh gậy bán thuốc cao, đám phu gánh bên Nam cũng múa
đòn gánh lên, gặp ai thì phang cho người ấy, làm cho bọn lính ngục, và thổ binh
ngã chết không biết bao nhiêu mà kể. Còn bọn lái buôn ở phía Bắc, thì nhảy
xuống xe, quay xe ngăn lấy lối đi, rồi hai anh xông vào cướp lấy Tống Giang
cùng Đới Tung, còn bọn người thì hoặc bắn cung, hoặc ném đá, hoặc đánh gươm
giáo, mà giết hại thổ binh chết như canh hẹ.
Nguyên
bọn lái buôn này là Tiều Cái, Hoa Vinh, Hoàng Tín, Lã Qương, Quách Thịnh. Bọn
phu đánh gậy bán thuốc cao là Yên Thuận, Lưu Đường, Đỗ Thiên, Tống Vạn. Bọn phu
gánh là Chu Quý, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Thạch Dũng. Và bọn ăn mày kia
là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất cùng Bạch Thắng, cộng tất
cả là mười bảy vị Lương Sơn Bạc, hơn một trăm lâu la giả dạng làm các hạng
người, mà đánh cướp pháp trường ở đó.
Khi ấy
Tiều Cái trông thấy anh chàng đen lớn; vác hai cây búa xông pha tả hữu, đánh giết
ầm ầm, thì trong bụng lấy làm ngờ ngợ, không biết là ai. Sau lại nhớ ra khi
trước Đới Tung thường nhắc đến tên anh Hắc Toàn Phong Lý Quỳ, đi lại với Tống
Giang rất là thân ái, liền hỏi to lên rằng:
- Hảo
hán kia có phải là Hắc Toàn Phong đó chăng?
Anh
chàng kia không trả lời, cứ lẳng lặng vác hai cây búa mà chém giết loang loáng
như sét đánh ngang trời. Tiều Cái biểu hai người cõng Tống Giang cùng Đới Tung
phải theo sau anh chàng to lớn ấy mà chạy.
Đương
lúc bấy giờ, trên con đường chữ Thập kia, vô luận là quân dân lính tráng, hoặc
người bị thương, hoặc người bị giết, nằm vật ngổn ngang không biết tới đâu mà
kể. Còn bọn đàn anh và tụi lâu la kia, đều theo anh chàng đen lớn mà chạy ra
ngoài thành, và để cho bọn Hoa Vinh, Hoàng Tín, Quách Thịnh, bốn người cầm bốn
tay cung đi sau, mà bắn chặn lấy đường; khiến cho quân dân ở đất Giang Châu
không có ai dám gan theo đuổi.
Khi đó
chàng đen lớn kia, vừa đi vừa chém, máu me đầm đìa khắp cả chân tay, mà vẫn còn
hăng hái chém giết.
Tiều Cái
liền cầm đao thét lên rằng:
- Đại
Hán kia, không can thiệp gì đến nhân dân, không được chém người ta nữa.
Anh
chàng kia im lặng không thèm nghe đến, cứ phăm phăm múa đôi đại phủ mà chém rẽ
người ta để đi. Ước chừng đi được bảy tám dặm đường, thì có một giải trường
giang chắn ngang trước mặt, Tiều Cái lấy làm lo sợ, không còn biết lối nào mà
chạy trốn cho thoát.
Bấy giờ
anh chàng đen lớn kia nói lên rằng:
- Không
ngại gì hãy đem Ca Ca vào trong miểu kia đã. Chúng nghe nói, liền kéo nhau để
xem, thấy bên sông có một tòa cổ miếu, hai bên cửa vẫn đóng chặt. Chàng đen lớn
kia vác đôi phủ, đến chém phá tung cửa ra cho mọi người vào.
Khi vào
tới nơi, thấy thông xanh liễu tốt cây cỏ um tùm, trước cửa có cái biển thiếp
vàng bốn chữ "Bạch Long Thần Miếu" rất to, bọn tiểu lâu la cõng Tống
Giang cùng Đới Tung đặt nghỉ ở đó.
Lúc ấy
Tống Giang mới mở mắt ra, trông thấy Tiều Cái cùng mọi người thì gạt hai hàng
lệ mà nói rằng:
- Chẳng
hay là gặp nhau trong giấc chiêm bao?
Tiều Cái
an ủi Tống Giang mà rằng:
- Đó
chẳng qua nhân huynh không chịu ở sơn trại, cho nên mới xảy ra như vậy...Song
không biết rằng anh chàng đen lớn ra sức cứu giúp kia là ai?
Tống
Giang đáp rằng:
- Ấy
chính là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đấy, anh ta đã mấy lần xui tôi vượt ngục mà ra,
song tôi sợ không sao mà chạy thoát được, nên không dám nghe lời.
Tiều Cái
kính phục mà khen rằng:
- Được
một người cố công ra sức, không ngại búa rìu can đảm như thế, thực là hiếm có.
Hoa Vinh
liền bảo chúng lấy quần áo đưa cho Tống Giang và Đới Tung mặc, rồi cùng ngồi
bàn định với nhau.
Đương
khi ấy trông thấy Lý Quỳ tay cầm đôi phủ, ở dưới hành lang chạy lên, Tống Giang
liền gọi mà hỏi rằng:
- Anh em
đi đâu thế?
Lý Quỳ
đáp rằng:
- Tôi đi
tìm thằng coi miếu để giết nó đi một thể, nó làm cái gì mà ban ngày ban mặt
cũng cứ đóng cửa, không biết rằng nó trốn đi đâu mà tìm mãi không thấy... ?
Tống
Giang gạt đi mà rằng:
- Ngươi
hãy đến đây để chào các Ca Ca Đầu Lĩnh đã.
Lý Quỳ
nghe nói, liền vứt đôi phủ xuống mà quay mặt vào Tiều Cái rồi quỳ vội mà rằng:
- Xin Ca
Ca chớ cười Thiết Ngưu này lỗ mãng.
Nói đoạn
lại quay ra chào hỏi mọi người, và nhận được Chu Quý là người đồng hương, thì
đôi bên lấy làm hoan hỷ vô cùng.
Bấy giờ
Hoa Vinh nói với mọi người rằng:
- Vừa
rồi Ca Ca truyền lệnh cho anh em cứ theo Lý Ca mà chạy, vậy bây giờ đến đây
trước mặt có con sông ngăn trở, mà thuyền bè không có, thì đi làm sao được?
Lý Quỳ
ứng lên rằng:
- Cái đó
không cần, tôi với các bác, ta hãy kéo cả vào thành, tìm thằng Sài Tri Phủ, mà
giết phăng nó đi rồi sẽ liệu.
Đới Tung
vội ngăn rằng:
- Làm như
thế không được, trong thành có tới bảy tám trăm quân, nếu mình sấn vào, thì lỡ
ra nguy mất.
Nguyễn
Tiểu Ngũ nói lên rằng:
- Ở bến
sông xa kia có mấy chiếc thuyền để anh em tôi lội sang cướp đem về đây, mà chở
người vào thành, thì có lẽ tiện hơn.
Tiều Cái
khen phải mà rằng:
- Nếu
thế thì còn gì hơn nữa. Nói đoạn thì ba anh em họ Nguyễn cởi trần cầm đao, nhảy
xuống sông mà bơi cướp lấy thuyền.
Ba người
lội dưới sông, thì thấy mấy chiếc thuyền kia thổi còi lên hiệu mà kẽo kẹt chèo
thuyền, thấy mỗi thuyền, mỗi người cầm một thứ binh khí trong tay hết thẩy.
Chúng
thấy thế, đều kinh ngạc mà nhao nhao cả lên. Tống Giang nghe thấy chúng kinh
hãi, thì cũng than thân gặp bước cùng đường, bèn chạy ra trước cửa miếu bên
sông, nom thấy một đại hán đứng ở trên thuyền, tay cầm binh khí mặc giáp có
kính đỏ, yểm tâm, coi rất hùng dũng, thổi sáo mà tới.
Tống
Giang nom xem nhận ra là Trương Thuận, bèn vẫy tay gọi.
- Anh em
đến cứu tôi với!
Trương
Thuận biết là Tống Giang gọi đến, liền chèo thuyền nhanh tới bờ. Ba anh em họ
Nguyễn lui bước lại, rồi lũ Trương Thuận lên tới miếu. Tống Giang đón tiếp.
Trương Thuận dẫn đến mươi người khỏe mạnh ở dưới thuyền lên. Lại thấy cả Trương
Hoành, dẫn Mục Hoằng, Mục Xuân, và Tiết Vĩnh, và một số trang khách ở dưới
thuyền lên. Đến chiếc thuyền thứ ba, thấy Lý Tuấn, dẫn Lý Lập, Đồng Uy, Đồng
Mãnh, và mươi người trang khách khỏe mạnh, đều cầm thương gậy lên bờ.
Trương
Thuận gặp được Tống Giang lấy làm mừng rỡ, khóc mà sụp lạy nói rằng:
- Từ khi
nghe tin Ca Ca bị bắt, khiến tôi ngồi đứng không yên, mà không còn cách nào cứu
được. Lại nghe cả Đới Viện Trưởng cũng bị giam giữ, mà tôi tìm Lý Đại Ca cũng
chả thấy đâu. Sau chúng tôi đến nhà Mục Thái Công, rủ những anh em quen biết,
đem số trang khách, để phá ngục Giang Châu cứu lấy Ca Ca và Đới Viện Trưởng.
- Nào
ngờ nhân huynh đã được các vị hào kiệt cứu ra, còn họp ở chốn này, vậy dám hỏi
các vị hảo hán đây có phải là những nghĩa sĩ của Tiểu Thiên Vương ở Lương Sơn
Bạc chăng?
Tống
Giang bèn trỏ vào Tiều Cái mà giới thiệu rằng:
- Đây là
Tiều Thiên Vương Ca Ca, cùng các vị nghĩa sĩ, vậy xin các anh em hãy vào trong
miếu, để cùng nhau gặp mặt.
Bấy giờ
lũ Trương Thuận chín người, lũ Tiều Cái mười bảy người, và Tống Giang, Đới
Tung, cùng Lý Quỳ, cộng tất cả hai mươi chín người, đều hội họp ở Bạch Long
miếu. Sau khi hai mươi chín vị làm lễ ra mắt nhau; thì tiểu lâu la vào miếu báo
rằng:
- Nay
thành Giang Châu, khua chiêng dóng trống, cờ xí rợp trời, sửa soạn binh mã đuổi
theo để đánh, gần tới miếu Bạch Long, việc nguy cấp lắm.
Lý Quỳ
nghe nói, thét lên một tiếng, cầm hai đại phủ mà đi, ra khỏi cửa.
Tiều Cái
gọi lại nói rằng:
- Nếu
muốn rửa hận giết đám tham tàn, thì Tiều Cái xin cùng các vị hảo hán, cùng nhau
ra sức giết lũ quan quân, mới trở về Lương Sơn Bạc.
Chúng
anh hùng đều nói lên:
- Theo
lệnh.
Lúc ấy
một trăm năm mươi người đón đánh quan quân thành Giang Châu, khiến cho máu chảy
đầy sông, xương phơi khắp chốn.
Thực là:
Anh hùng
mới thực anh hùng,
Đất bằng
nổi sóng đùng đùng bởi đâu?
Quyền
môn muốn những đè đầu,
Ngán lời
cẩu trệ vuốt râu báo hùm!
Lời bàn
của Thánh Thán:
Theo
phép nhà văn tả việc gấp, không thể dài lời nhiều bút, vì dùng nhiều bút, thì
việc thấy hoãn đi không còn gấp nữa. Thế mà sách này không thế, tả việc gấp,
vẫn dùng nhiều bút mực với nhiều lời, vì rằng dùng ít bút mực, thì việc gấp
giải đi. Đây tả việc gấp vẫn nhiều lời, toàn là những lời của việc gấp, như con
người mưu nghịch Tống Giang, Đới Tung quyết không đợi mãi, dẫu được Hoàng Khổng
mục kéo dài ra năm ngày, cho đến ngày cuối cùng, đã thành mây cùng nước tận,
bấy giờ chỉ đợi đến giờ Ngọ ba khắc, thì phải khai đao, thì phải kết thúc.
Thế mà
đoạn văn ấy tả ra, nào là buổi sáng ăn cơm sớm, rồi sửa soạn pháp trường, nào
là thổ binh mang khí giới chỉnh tề, đến giờ Tỵ ngục quan bẩm trình quan Giám
Trảm, Khổng Mục cũng trình mọi công việc tới kỵ Nào là tả Tống Giang, Đới Tung
xõa tóc cắm bông koa giấy, trước khi xử trảm cho uống rượu, ăn cơm bữa cuối
cùng từ giã cõi đời. Nào là số sáu bảy mươi kẻ ngục tốt, đều đổ cả ra. Rồi lại
tả trên đường Thập Tự giáo mác chung quanh, một kẻ quay mặt về Nam, một kẻ quay
mặt về Bắc, để đợi Giám Trảm Quan đi tới. Nào tả số người ra vào chen xem, chưa
thấy quan Giám Trảm tới. Trước khi đó tuyên án xử trảm hai người, tên mỗ vì
phạm tội nầy, theo luật phải xử trảm... Tên mỗ vì phạm tội nầy, theo luật phải
xử trảm... Một lát sau Quan Phủ tới, dừng ngựa lại đợi đến giờ Ngọ ba khắc thì
xử trảm. Quan Giám Trảm đã tới, chỉ đợi đến giờ, khiến độc giả xem tới ba chữ
"Ngày thứ sáu" phải đến khiếp lên, đọc một câu thấy khiếp một câu,
đọc một chữ mà kinh một chữ... Đoạn văn có tả kỹ càng như thế, làm sống lại
cảnh kinh người, mới thấy đoạn văn sau biến ra kỳ tuyệt. Hồi này rất khéo, ở
chỗ tới ngày mai xử quyết như sấm nhanh không kịp bịt tai. Thế mà bây giờ đã có
người báo cho Sơn Bạc, há phải tới nơi không phép Rút Đường. Nào ai biết hai
người có tình phận với Lương Sơn Bạc, nay ở hồi trước Ngô Dụng đã dự đoán việc
sai lầm, vội vàng trao kế cho đám hảo hán hạ sơn, khi đi đường vài ngày, thì
vừa gặp Khổng mục xin hoãn được năm ngày, khiến mấy đám tới nơi, đến thời vừa
việc, đã nên khéo léo! Lại tả sau khi việc Đới Tung lộ ra, không nói đến hai
tay Lý Quỳ, Trương Thuận, chả những không thấy, còn chép thêm mọi người (đám
ngục tù và người quen thuộc) thương xót, cho thấy khác đi, khiến độc giả cũng
thêm buồn, tới khi đọc đến chàng đại hán đen chũi to lớn, chẳng ngờ khiếp vía
sởn gai. Và sau Trương Thuận chèo thuyền đi đến, laị làm cho người ta không mơ
tưởng tới, mới thấy rõ kỳ văn.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 40: Tống Giang mưu đánh Quân Vô Vị;
Trương Thuận bắt sống Hoàng Văn Bính
Bấy giờ
quân mã thành Giang Châu bị bọn hảo hán Lương Sơn Bạc đánh riết, phải rút lui
về thành, bọn Lương Sơn theo đuổi đến thì cửa thành đã đóng giữ kiên cố, ném đá
bắn tên ra, bọn hảo hán vây hãm vài ngày, xét đánh thành không tiện, mới rút
lui về miếu Bạch Long để xuống thuyền, Tiều Cái kiểm điểm số quân đầy đủ, rồi
xuống thuyền lại gặp gió xuôi, nên đi nhanh chóng. Ba chiếc thuyền chở đầy
người ngựa, thẳng tới Mục Gia Trang, mới dẫn chúng lên bờ. Mục Hoằng mời các vị
hảo hán vào trang yên nghỉ. Mục Thái Công ra đón mời bọn Tống Giang vào. Mục
Thái Công nói: - Các vị Đầu Lĩnh mấy hôm nay khó nhọc, hãy vào ở trang đây tạm
nghỉ và sửa sang quần áo, khí giới, nhất diện sai người giết bò, lợn, gà, vịt,
cùng bầy các trức trân hào dị vị để thiết đãi. Trong khi chè chén chuyện trò.
Tiều Cái nói anh em họ Mục rằng: - Nếu không được hai vị Ca Ca đem không xuống
cứu, thì chúng tôi tất bị bắt chứ không chơi. Mục Công hỏi rằng: - Vì cớ sao,
các ông lại đi đường ấy? Lý Quỳ đáp luôn rằng: - Chúng tôi chỉ chọn chỗ nào
đông người, là chém giết để đi, rồi sau họ đến đuổi chúng tôi, có ai lại gọi nó
đến bao giờ? Chúng nghe nói đều vỗ tay cả cười. Tống Giang đứng dậy nói với mọi
người rằng: - Tống Giang tôi nếu không được các ngài cứu giúp, thì tất là cùng
với Đới Viện Trưởng chịu chết trong cơn phí mạnh, vậy ân đức ngày nay như trời
như bể, biết bao giờ báo đáp cho xong? Chỉ giận tên Hoàng Văn Bính đã mấy phen
độc hại chúng tôi, nếu không làm cho chúng nó biết tay, thì tấm lòng phẫn hận
bao giờ nguôi được. Vậy xin các vị hảo hán hãy rộng ơn đến đánh Vô Vi Quân, để
bắt giết tên Hoàng Văn Bính, thì lòng này mới được nguôi ngoai một chút, các
ngài nghĩ sao? Tiều Cái đáp rằng: - Chúng ta đi thế này, chỉ khả dĩ làm một lần
thì được, nếu làm đến hai lần thì tất là nguy hiểm, vì hiện nay họ phải phòng
bị sẵn sàng, khó lòng mà đánh được. Vậy bắt buộc hãy cùng về sơn trại, rồi cùng
với Ngô Học Cứu, Công Tôn Thắng và bọn Lâm Xung, Tân Minh đến cứu, như thế thì
tiện hơn. Tống Giang nói: - Nếu đã trở về sơn trại, thì không còn thể nào mà
lại đây được. Vì một sự đường sá xa xôi, hai là đất Giang Châu tất nhiên tư
giấy má đi các nơi mà canh phòng cẩn mật, thì bấy giờ còn làm gì được nữa? Vậy
nay có muốn hạ thủ, thì nhân lúc họ chưa kịp phòng bị là hơn. Hoa Vinh nói: -
Ca Ca nghĩ thế tất là phải lắm, nhưng còn ngại vì nỗi không ai thuộc đường sang
đó, thì làm sao cho tiện? Việc này tất phải có người đến dò tin tức trong thành
và xem xét đường đi lối lại thế nào, cùng là nhà cửa Hoàng Văn Bính ở đâu, rồi
mới có thể thi hành được. Tiết Vĩnh đứng lên nói rằng: - Chúng tôi xưa nay từng
đi lại đất Vô Vị Quân, đường lối rất là quen thuộc, vậy chúng tôi xin đi thám
thính một phen, chẳng hay các ngài có thuận thế cho không Tống Giang mừng rỡ mà
rằng: - Nếu được hiền đệ đi giúp hộ cho, thì còn gì bằng nữa! Tiết Vĩnh vâng
lời, liền ăn uống xong rồi từ biệt mọi người, một mình đi dò thăm tin tức. Bấy
giờ bọn Tống Giang và các vị Đầu Lĩnh ở lại Mục Gia Trang, sắm sửa các đồ khí
giới cung tên, cùng thuyền bè, để đợi ngày đi đánh Vô Vị Quân.
Cách hai
hôm sau thấy Tiết Vĩnh dắt một người về đến gia trang, mà vào lạy chào Tống
Giang, Tống Giang vội đáp lễ mà hỏi Tiết Vĩnh rằng: - Vị tráng sĩ này là ai?
Tiết Vĩnh đáp rằng: - Người này họ Hầu tên Kiện, quê ở Hồng Đô, vốn làm nghề
thợ may, mà võ nghệ cũng giỏi. Trước đây có theo học Tiết Vĩnh này, người ta
thấy tính khí nhanh nhẹn mà người lại đen, nên thường gọi một tên là Thông Tý
Viên (Vượn nhanh tay hiện nay làm thợ may cho Hoàng Văn Bính ở Vô Vị Quân. Nhân
vậy tiểu đệ mời vào đây để hỏi chuyện cho rõ... Tống Giang nghe nói cả mừng
liền mời cùng ngồi để bàn định các việc. Người nầy nguyên là một vị sao Địa
Sát, nên tình nghĩa rất am hợp với nhau, mà không chút gì trái ý. Khi đó Tống
Giang hỏi đến tin tức ở thành Giang Châu, cùng đường lối đến Vô Vị Quân. Tiết
Vĩnh đáp rằng: - Hiện nay Xài Tri Phủ kiểm điểm các quan quân cùng dân chúng,
bị chết mất hơn năm trăm người, còn bị đạn và trúng thương, không biết đến đâu
mà kể? Nay đương hai người dâng biểu cáo cấp với triều đình, và đóng kín cổng
thành tra hỏi rất là cẩn thận. Tôi xét ra việc Ca Ca bị hại, không can thiệp gì
đến Xài Tri Phủ, nguyên chỉ tại tên Hoàng Văn Bính, tam tứ phen thúc bách Tri
Phủ để thi hành thủ đoạn, nên mới xảy ra đến thế. Nay chẳng may bị ta đánh cướp
pháp trường, thì trong thành đều nhao nhao sợ hãi mà canh giữ, không còn trễ
nãi chút nào. Còn về tình thế Vô Vị Quân, thì may được Hầu Kiện đây, nên mới
biết rõ tất cả đầu đuôi. Tống Giang quay sang hỏi Hầu Kiện rằng: - Sao quan bác
lại biết rõ đầu đuôi ở đấy? Hầu Kiện đáp: - Tôi thủa nhỏ thích nghề gươm giáo,
sau nhờ được Tiết sư phụ dạy bảo nên trong lòng không dám quên ơn. Mới đây
Hoàng Thông Phán có thuê tôi về may vá ở trong nhà, nhân lại được gặp sư phụ
tôi, nói đến đại danh của ngài, và kể câu chuyện vừa mới xảy ra, nên tôi lại
càng sốt lòng muốn bái kiến tôn nhan, mà vội đến đây để báo các tin tức. Nguyên
Hoàng Văn Bính có một người anh ruột là Hoàng Văn Hoa, cùng một cha mẹ sinh ra.
Song Hoàng Văn Hoa là người phúc đức hiền lành, bình sinh chỉ hay sửa cầu làm
quán, tô tượng đúc chuông, , cứu kẻ bị nguy khốn, giúp người khổ sở, cả trong
thành Vô Vị ai cũng gọi ông ta là Hoàng Diện Phật (Phật mặt vàng). Còn Hoàng
Văn Bính thì dẫu là một anh Thông Phán tại gia, song trong bụng rất thâm độc,
xưa nay chỉ quen hãm hại người ta, bởi vậy khắp trong thành ai ai cũng gọi ông
ta là Hoàng Phong Thích (Nọc ong vàng). Hai anh em ông ta ở làm hai dinh, cách
nhau có một cái ngõ. Về phía bắc ở gần thành là nhà Hoàng Văn Bính, còn nhà
Hoàng Văn Hoa ở gần đường cái. Chúng tôi ở đấy thường thấy Hoàng Thông Phán nói
chuyện, là việc đó Xài Tri Phủ bị người ta man trá, sau ông ta chỉ dẫn cho ra,
và bảo Tri Phủ hãy chém những người ấy đi rồi sau sẽ biểu tâu triều đình. Bấy
giờ Hoàng Văn Hoa biết chuyện, vẫn thường mắng nhiếc ông ta là đồ vô phúc, độc
ác, không can thiệp đến mình, cũng làm hại người ta, lỡ ra lẽ trời báo ứng, thì
tội ấy ai mang? Đến hai ngày nay nghe nói bị cướp pháp trường, thì Hoàng Văn
Bính sợ hãi cuống cuồng hiện còn vào dò tin tức, để bàn định với Xài Tri Phủ ở
đất Giang Châu, đến nay cũng chưa thấy về. Tống Giang hỏi: - Nhà Hoàng Văn Bính
với nhà anh hắn ta cách nhau xa hay gần? - Nguyên là một nhà ngăn ra làm đôi,
khoảng giữa chỉ cách một cái vườn mà thôi. - Nhà anh ta có bao nhiêu người? Tất
cả có mấy gian phòng? - Nhà ấy tất cả trai gái có tới bốn năm mươi người, Tống
Giang nghe đến đó, có vẻ vui mừng mà rằng: - Thực là trời cho ta được báo thù,
nên mới đưa người dẫn lối đến đây, song việc này tất phải nhờ anh em hết sức ra
tay mới được... Mọi người đều vỗ tay mà rằng: - Chúng tôi xin liều chết xông
pha, để khu trừ gian nhũng, mà báo thù rửa hận cho Ca Ca... Tống Giang lại nói
rằng: - Việc này là chỉ tại Hoàng Văn Bính, chứ không can thiệp gì đến thành Vô
Vi; Vả chăng anh hắn là người nhân đức thì ta cũng không nên hại đến, để thiên
hạ chê cười. Anh em đi đó, chớ làm một điều chi tàn hại đến dân mới được...Nay
tôi có một kế này, mong anh em hết sức giúp tôi cho xong việc... Các vị Đầu
Lĩnh đều đồng thanh mà rằng: - Chúng tôi xin vâng lệnh Ca Ca chỉ giáo. Tống
Giang lại nói rằng: - Việc này tất phải phiền đến Thái Công, sắp cho tám chín
mươi túi cát, hơn trăm bó cỏ không, và trăm chiếc thuyền lớn, hai chiếc thuyền
nhỏ, để nhờ Trương Thuận, Lý Tuấn cưỡi hai chiếc thuyền con, còn trăm chiếc
thuyền lớn thì xin để Trương Hoành, ba anh em họ Nguyễn, Đồng Mãnh, cùng mọi
người bạo nghề thủy thủ coi giữ giúp cho như thế mới có thể thi hành được. Mục
Hoằng đáp rằng: - Hiện ở nhà tôi có đủ các thức túi vải cỏ khô, cùng những
người quen nghề thủy thủ, xin Ca Ca cứ sai dùng cho được việc. Tống Giang lại
bảo với mọi người rằng: - Nay phiền Hầu huynh dẫn Tiết Vĩnh, Bạch Thắng vào
thành Vô Vi Quân trước, đợi đến canh ba tối ngày mai, hễ nghe thấy tiếng chim
đeo nhạc bay lên, thì Bạch Thắng lên thành cắm một lá cờ lụa trắng ở gần nhà
Hoàng Văn Bính, để ra hiệu cho biết lối lên thành...Thạch Dũng, Đỗ Thiên thì
giả làm ăn mày nấp ở bên tả gần thành, cứ nom lửa làm hiệu mà xông ra giết bọn
canh cửa...Còn Lý Tuấn với Trương Thuận thì đi lại coi sóc trên sông, để đợi
khi tiếp ứng... Tống Giang cắt đặt xong rồi, Tiết Vĩnh, Bạch Thắng vâng lời đi
trước Thạch Dũng, Đỗ Thiên giả dạng ăn mày đi sau, đều thắt khí giới trong mình
cả. Đoạn rồi đem các đồ cỏ khô túi cát xếp đặt lên thuyền và sửa soạn các đồ
khí giới cùng các vị hảo hán, chia nhau xuống phục dưới thuyền. Tiều Cái, Tống
Giang cùng Hoa Vinh, xuống thuyền Đồng Uy; Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên
Thọ xuống thuyền Trương Hoành; Đới Tung, Lưu Đường, Hoàng Tín, xuống thuyền
Nguyễn Tiểu Nhị; Lã Phương, Quách Thịnh, Lý Lập xuống thuyền Nguyễn Tiểu Ngũ;
Mục Hoằng, Mục Xuân, Lý Quỳ, xuống thuyền Nguyễn Tiểu Thất. Còn Chu Quý, Tống
Vạn ở nhà Mục Thái Công để dò xem tin tức Giang Châu. Lại sai Đồng Mãnh chở
chiếc thuyền con đi trước, để dò thăm đường đất. Còn bao nhiêu bọn lâu la cho
nấp ở trong thuyền, rồi đêm hôm đó sai thủy thủ cùng trang khách, nhổ sào mà
kéo thẳng đến Vô Vi Quân.
Bấy giờ
cuối tháng bảy, đêm hiu gió lạnh, trăng sáng bên sông, bóng nước non xanh, trên
dưới một mầu xanh biếc. Vào khoảng cuối trống canh một, các thuyền đã đến bến
sông Vô Vị, chọn một nơi ngàn lau rậm rạp mà đậu vào ở đó. Được một lát thấy
Đồng Mãnh chèo thuyền tới nơi báo rằng: - Trong thành hiện vẫn còn im phăng
phắc, không có điều chi là trở ngại cả. Tống Giang nghe báo, liền gọi thủ hạ
cho khiêng túi cát cùng cỏ khô, để lên bộ mà lên tới thành. Khi nghe tiếng
trống đã điểm canh hai, Tống Giang cho đem cả cỏ khô túi cát xếp ở bên thành,
để Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn cùng Đồng Uy, Đồng Mãnh ở lại coi thuyền
và tiếp ứng, còn bao nhiêu các vị hảo hán đều sửa soạn quân khí mà đi lên
thành. Khi đến cửa Bắc, còn cách độ nửa dặm đường, Tống Giang sai thả chim đeo
nhạc bay lên. Đoạn thấy có một ngọn trúc buộc lụa trắng, phất phơ dựng ở trước
ngọn gió trên thành, Tống Giang lại sai quân sĩ chất túi cát vào bên thành, rồi
cho vác cỏ khô đem cả lên thành. Bấy giờ thấy Bạch Thắng ở trong chạy ra tiếp
ứng, trỏ bọn hảo hán mà rằng: - Nhà Hoàng Văn Bính ở ngay ngõ kia. Tống Giang
hỏi ngay Bạch Thắng rằng: - Tiết Vĩnh, Hầu Kiện ở đâu bây giờ? Bạch Thắng đáp
rằng: - Hiện bây giờ cả hai đã vào nhà Hoàng Văn Bính chỉ đợi Ca Ca đến đó
thôi. Tống Giang lại hỏi: - Thạch Dũng, Đỗ Thiên ở đâu? Bạch Thắng đáp rằng: -
Hai người ấy hiện ở bên tả thành để đợi. Tống Giang nghe nói liền dẫn bọn hảo
hán vào thành, thẳng lẻn vào nhà Hoàng Văn Bính. Khi tới nơi, thấy Hầu Kiện
đương nấp ở hiên phòng, Tống Giang khẽ gọi ghé tai mà bảo thầm rằng: - Anh ra
cửa sau mở cửa cho quân sĩ mang cỏ khô chất vào trong và bảo Tiết Vĩnh đem lửa
đốt lên, rồi đến cửa nhà Hoàng Văn Bính kêu lên rằng: - "Nhà quan nhân bên
kia bị cháy, cho đem các đồ vật sang gửi" Để họ mở cửa ra, rồi ta có cách.
Tống Giang lại bảo các vị hảo hán chia làm hai đầu để coi giữ. Bấy giờ Hầu Kiện
đến mở cửa vườn sau, cho quân sĩ đem cỏ vất vào, tìm lửa đưa cho Tiết Vĩnh đốt.
Đoạn rồi Hầu Kiện chạy lẻn ra đập cửa sau nhà Hoàng Văn Bính mà nói lên rằng: -
Nhà quan nhân bên kia bị cháy, có ít đồ đạc, cho đem sang để nhờ, xin mở cửa ra
cho mau... Trong nhà nghe thấy tiếng gọi, vội vàng trở dậy, liền trông sang bên
cạnh vách thấy lửa sáng rực trời, liền hất hải mở cửa đi vào. Bọn Tiều Cái,
Tống Giang thừa thế kéo ùa vào, rồi ai nấy ra tay chém giết, thấy người nào vào
là trừ ngay người ấy, bốn năm mươi người lớn nhỏ trong nhà Hoàng Văn Bính,
không còn sống sót một ai, chỉ còn sống sót Hoàng Văn Bính tìm không thấy. Các
vị hảo hán liền thu thập các đồ hòm siểng gia tài cùng các đồ kim ngân bảo vật,
là của khoét hại dân gian khi trước, mà kêu báo hiệu nhau lên thành. Đương khi
ngọn lửa mới nổi, thì bọn Thạch Dũng, Đỗ Thiên rút dao ra giết chết người lính
canh cửa, rồi thấy dân sự nhao nhao bảo nhau đi ra lấy khao lấy thanh để đến
chữa cháy. Thạch Dũng, Đỗ Thiên bèn quát lên bảo rằng: - Chúng bay đi về ngay
nhà không có việc chi mà lại chạy ra đó. Tụi dân chúng thấy vậy, có kẻ còn
đương nghi ngờ, thì bỗng thấy Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đương múa đôi đại phủ mà
hăng hái xông vào; Bấy giờ ai nấy kinh sợ bảo nhau vác khí giới mà chạy trốn
hết cả. Mặt thành đằng sau, cũng có mấy tên lính vác câu liêm, mỏ mác ra để cứu
lửa, song bị Hoa Vinh bắn chết một người đi đầu, còn thì bị Lý Quỳ thét đuổi,
rồi kéo nhau chạy trốn cả. Khi đó Tiết Vĩnh lại đem lửa đến châm trước đốt sau,
đốt hết cả nhà Hoàng Văn Bính, lửa cháy dần dật sáng một góc trời, như ban ngày
vậy. Lý Quỳ đuổi hết lính rồi, quay ra giơ đại phủ chém đứt then sắt, phá tung
cửa thành cho một nửa bọn người đi ra, còn một nửa thì trèo thành mà ra. Khi ra
tới ngoài, đã thấy ba anh em họ Nguyễn và Trương Hoành, Đồng Uy, Đồng Mãnh, đều
tới nơi tiếp ứng, để đem các đồ vật mà xếp xuống thuyền.
Bấy giờ
mọi người ở Vô Vi Quân, đều biết tiếng bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc đã đánh cướp
pháp trường và giết quan quân ở đất Giang Châu không biết đâu mà kể, bởi vậy
anh nào cũng xanh mặt chùn gan, nấp vào một xó mà không dám theo đuổi lôi thôi.
Còn bọn Tống Giang tuy đã đốt hại được nhà Hoàng Văn Bính, song hiện chưa bắt
được chính kẻ oan cừu là Hoàng Văn Bính thì trong lòng còn căm tức chưa yên, mà
đành phải xuống thuyền kéo về gia trang họ Mục. Nói về quan lính thành Giang
Châu, trông thấy bên thành Vô Vi bị cháy, thì vội vàng vào báo cho Tri Phủ
biết. Bấy giờ Hoàng Văn Bính còn đương ngồi bàn việc cùng Tri Phủ ở trong nhà,
bỗng nghe tin báo như vậy thì hoang mang bẩm với Tri Phủ rằng: - Nếu làng tôi
bị cháy, thì tôi phải xin phép về ngay mới được. Tri Phủ nghe nói, cũng vội vội
vàng vàng sai mở cổng thành, rồi sai bắt một chiếc thuyền quan để đưa tiễn về.
Hoàng Văn Bính bái tạ Tri Phủ, hất hải đem người xuống thuyền, giục ra sức chèo
mau, để về Vô Vi Quân. Đi được một quãng, thấy lửa càng ngày càng lớn sáng cả
góc trời, bọn lái đò bảo nhau rằng: - Ngọn lửa kia ở vào bên bắc thành Vô Vi
đó. Hoàng Văn Bính nghe nói trong lòng càng nóng nẩy sổi nổi, thúc giục đi mau
về xem. Khi đến giữa sông có một chiếc thuyền nhỏ, kẽo kẹt chèo qua trên mặt
nước, rồi một lát lại thấy chiếc thuyền con nữa chèo đến. Bất đồ khi chiếc
thuyền gần tới nơi, thì đâm chạm vào chiếc thuyền quan, bọn lái đò bèn quát lên
rằng: - Thuyền bè ở đâu, sao lại chèo chở cập quạng thế? Vừa nói dứt lời thì có
anh chàng to lớn, tay cầm gậy móc đứng bên thuyền kia, mà đáp lên rằng: - Cháy
ở đâu thế? Đại hán kia nói rằng: - Nhà Hoàng Văn Bính ở cửa Bắc, bị bọn hảo hán
Lương Sơn Bạc, giết hết người nhà, cướp hết của cải, rồi đốt cả nhà ở đó. Hoàng
Văn Bính nghe vậy, kinh hoảng cả người, vội buột mồm kêu lên rằng: - Khổ chưa!
Đại hán kia nghe tiếng kêu, liền vất móc ra níu thuyền quan, rồi nhảy tót sang
thuyền, Hoàng Văn Bính nhân trí khôn, vội vàng quay chạy lại sau thuyền, mà
nhảy tòm xuống nước. Chợt đâu thấy ai ở dưới nước nhô lên, nắm chặt lấy lưng
Hoàng Văn Bính mà kéo bỏ lên thuyền. Đại hán ở trên thuyền thấy vậy liền quay
lại tiếp bắt, rồi đem Hoàng Văn Bính trói ghi hắn lại. Nguyên người lặn xuống
dưới nước đó là Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận, còn người cầm gậy móc trên
thuyền ấy là Hỗn Giang Long Lý Tuấn. Khi đó bọn lái đò trong thuyền quan, thấy
hai người hùng dũng như vậy, thì kinh hoàng sợ hãi, chỉ cúi đầu xuống mà kêu
lạy xin tha. Lý Tuấn liền bảo rằng: - Ta không giết các ngươi làm chi. Đây ta
chỉ bắt Hoàng Văn Bính mà thôi, các ngươi mau đi về, bảo với thằng đầu lừa là
thằng Xài Tri Phủ ở Giang Châu rằng: Chúng ta là hảo hán Lương Sơn Bạc, hãy gởi
cái đầu lừa ấy đấy, rồi nay mai ta đến lấy nghe chưa? Bọn lái đò run lên cầm
cập vâng lời răm rắp. Lý Tuấn, Trương Thuận bắt Hoàng Văn Bính lôi sang thuyền
mình cho thuyền quan chèo đi rồi cũng cùng chèo mà đưa nhau về Mục Gia Trang.
Khi về tới bến, đã thấy các vị Đầu Lĩnh đứng đợi trên bờ, mà mang cả hòm tiền
nong lên đó. Bọn hảo hán thấy nói là bắt được Hoàng Văn Bính, thì ai nấy đều
hớn hở vui mà nói lên rằng: - Ta đương muốn giáp mặt người ấy, để hỏi mấy câu
đây. Lý Tuấn, Trương Thuận giải Hoàng Văn Bính lên bờ, cho mọi người xem mặt,
rồi cùng nhau kéo vào Mục Gia Trang. Bấy giờ Chu Quý, Tống Vạn tiếp mọi người
vào trong thảo sảnh, rồi Tống Giang sai đem Hoàng Văn Bính lên, lột hết cả quần
áo ướt, trói ra ngoài gốc cây dương liễu, đoạn rồi các vị Đầu Lĩnh theo thứ tự
mà ngồi. Tống Giang lấy rượu ra uống mừng, trên Tiều Cái dưới đến Bạch Thắng,
tất cả hơm ba mươi vị hảo hán, đều cất chén cui mừng suốt lượt. Khi uống rượu
xong, Tống Giang trỏ vào mặt Hoàng Văn Bính mà rằng: - Đồ khốn nạn, ta với
người xưa nay có điều gì thù oán, mà ngươi nỡ tâm tàn hại, đôi ba phen xui giục
Xài Tri Phủ, để giết hại chúng ta là nghĩa lý gì? Ngươi đã đọc sách thánh hiền,
sao còn chứa lòng hung ác, làm những sự tàn nhẫn đê bèn như thế? Ta có giết cha
mẹ nhà ngươi đâu mà ngươi nỡ giết ta? Anh ngươi là Hoàng Văn Hoa với người cùng
một mẹ sinh ra, sao ông ta từ thiện như thế kia, khiến được khắp thành ai cũng
xưng là Hoàng Diện Phật, đêm nay ta cũng không hề dám động đến nhà ông ta. Đến
như ngươi thì toàn thị ỷ quyền ỷ thế, hãm hại lương dân, mà làm cho đám tham
quan, nên người quen đó ai cũng gọi như là Nọc ong vàng. Vậy ngày nay ta bắt
được đây, thì ta hãy nhổ hộ cái nọc ấy đi xem sao? Hoàng Văn Bính nói rằng: -
Tôi đây biết tội đã nhiều, chỉ xin một chết là xong. Tiều Cái nói rằng: - Nếu
mầy biết tội, thì mày không dám làm như thế. Tống Giang liền hỏi rằng: - Trong
anh em ai ra hạ thủ cho ta? Nói vừa dứt lời, thì Lý Quỳ nhảy lên đáp rằng: -
Tôi xin hạ thủ, để tôi xem thịt nó có béo, thì đem nướng mà đánh chén. Tiều Cái
khen phải mà rằng: - Dao nhọn và lò lửa đây cắt ra từng miếng thịt mà nhắm
rượu, cho hả lòng hiền đệ ta. Đoạn rồi Lý Quỳ vác con dao nhọn, đến trước mặt
Hoàng Văn Bính, cười mà nói rằng: - Thằng này mọi khi hay nấp ở xó nhà Xài Tri
Phủ, hay nói chuyện thay đen đổi trắng. Chàng cắt mãi hết thịt đùi rồi, mới mổ
bụng moi gan, để lên các vị Đầu Lĩnh làm thang tỉnh rượu. Khi các vị giết xong
Hoàng Văn Bính, liền cùng nhau vào thảo đường để mừng rỡ Tống Giang. Bấy giờ
Tống Giang quỳ xuống đất trước các vị Đầu Lĩnh cũng vội vàng quỳ xuống, mà đồng
thanh hỏi rằng: - Ca Ca có việc gì, xin cứ nói cho chúng tôi nghe? Tống Giang
nói rằng: - Tống Giang tôi là kẻ bất tài, thủa nhỏ học nghề làm lại bước ra đời
đã chăm chăm kết giao với các vị hảo hán anh tài, song chỉ vì chí hèn sức kém,
mà không sao cho được thỏa dạ bình sinh. Mới đây bị đầy sang đất Giang Châu,
Tiều Đầu Lĩnh và các vị hào kiệt đã hết lòng giữ lại, duy Tống Giang nhân vì
kính giữ lời cha, nên không dám dấn thân vào nơi phi pháp. Song cũng may, vì đó
mà qua bến Tầm Dương lại gặp được biết bao nhiêu hào kiệt, trong lòng thực vui
vẻ khôn cùng. Ngờ đâu sau lại vì con say rượu nói càn, để suýt lụy đến tính mạng
Đới Viện Trưởng ở đây, tội ấy tưởng không bao giờ thoát được. Nay may có các vị
anh em không vì cơn nguy hiểm, xông pha vào nơi miệng rắn hang hùm, mà cố sức
cứu toàn tính mệnh, và báo được oan cừu, ân đức thực không kém chi trời bể,
song ngày nay đã làm nên tội ác, giết hại hai chốn châu thành, việc ấy tất
nhiên thân tấu triều đình, mà lôi thôi lắm chuyện. Vậy ngày nay Tống Giang dẫu
không muốn nương tựa các vị Ca Ca ở trên núi Lương Sơn Bạc, cũng không còn trốn
tránh đi cho được, song không biết ý kiến các vị mới đây nghĩ sao? Nếu có đồng
ý như vậy, thì lập tức thu thập để đi, bằng không cũng xin tùy ý, kẻo nấn ná ở
đây, sợ khi lỡ sự ra thì...Vừa nói đến đó, thì thấy Lý Quỳ nhảy lên mà kêu
rằng: - Đi tất cả...Đi tất cả...Ai không đi theo, thì xin tặng một nhát búa của
ta là xong. Tống Giang nói: - Lý Quỳ thô mãng quá, việc này phải hỏi ý kiến tất
cả anh em, có bằng lòng mới được. Chúng nghe nói, liền bàn với nhau rằng: - Bây
giờ đã giết hại bao nhiêu quan quân nhân mã, quấy rồi cả hai chốn kinh thành, tất
nhiên họ phải tâu với triều đình mà đem quân truy nã, nếu vậy không theo huynh
trưởng mà đồng sinh đồng tử với nhau, thì cũng không còn trốn đâu cho được.
Tống Giang nghe vậy cả mừng mà bái tạ mọi người. Đoạn rồi cho Chu Quý, Tống Vạn
trở về báo cho sơn trại biết trước, rồi các vị hảo hán chia làm năm đội mà kéo
đi sau: Đội thứ nhất: Tiều Cái, Tống Giang, Hoa Vinh, Lý Quỳ, Đới Tung, đội thứ
nhì: Lưu Đường, Đỗ Thiên, Thạch Dũng, Tiết Vĩnh, Hầu Kiện; đội thứ ba: Lý Tuấn,
Đồng Mãnh; đội thứ tư: Hoàng Tín, Trương Thuận, Trương Hoành, cùng ba anh em họ
Nguyễn. Đội thứ năm: Mục Hoằng, Mục Xuân, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên
Thọ, Bạch Thắng. Tất cả năm đội hai mươi tám vị Đầu Lĩnh, đem hơn một nghìn
người, cùng các tài vật lấy ở nhà Hoàng Văn Bính mà xếp vào xe mang đi. Mục
Hoằng dẫn Mục Thái Công, cùng các người nhà xếp hết tài vật châu báu lên xe;
người nào không muốn theo, thì cho tiền đi tìm chủ khác, còn người nào muốn
theo, đều cho nhập vào một bọn, bốn đội trước thứ tự đi trước, rồi Mục Hoằng
thu thập xong đâu vào đấy, cho mồi lửa đốt hết trang viện, bỏ hết ruộng đất, mà
kéo nhau lên núi Lương Sơn.
Bấy giờ
năm đội lục tục tiến đi, mỗi đội cách nhau ước chừng hai mươi dặm đất. Đội thứ
nhất, Tiều Cái, Tống Giang, Hoa Vinh, Đới Tung, Lý Quỳ, cưỡi năm con ngựa, dẫn
xe cộ cùng người đi theo. Đi được ba ngày đường, đến một nơi gọi là Hoàng Môn
Sơn, Tống Giang ngồi trên mình ngựa bảo với Tiều Cái rằng: - Tòa núi này nom
hình thế cổ quái lắm, tất là có bọn giặc cướp ở đây, vậy ta nên cho người đi
thúc nhân mã bốn đội sau lên đây, rồi sẽ cùng đi một thể. Vừa nói dứt lời, thì
thấy trên góc núi trước mặt, có tiếng thanh la ấm ỹ cả lên, Tống Giang lại nói
rằng: - Đó! Có sai đâu, ta hãy thong thả đợi bọn sau lên, rồi sẽ đánh cho nó
một mẻ. Nói đoạn Hoa Vinh cầm cung ra tay, Đới Tung cầm đao lớn, Lý Quỳ cầm đôi
đại phủ, vây quanh Tống Giang để cùng xốc ngựa đi lên. Đi được mấy bước, thấy
bên góc núi có bốn vị hảo hán, dẫn bốn năm trăm tiểu lâu la, cầm các đồ binh
khí xông ra mà quát lên rằng: - Lũ ngươi quấy rối đất Giang Châu đánh Vô Vi
Quân, giết hại biết bao nhiêu quan quân dân chúng, lại toan về núi Lương Sơn.
Bốn anh em ta đợi đã lâu, có biết phép ra cứ để Tống Giang lại đó; thì ta tha
tất cả cho mà đi. Tống Giang nghe nói, liền xông ra nhảy xuống ngựa, quỳ xuống đất
mà nói rằng: - Tôi là Tống Giang bị người ta vu oan hãm hại, không biết kêu nói
vào đâu, may được hào kiệt bốn phương có lòng thương, mà cứu cho toàn tính
mệnh, nay qua đây không biết là nơi nào, lỡ xúc phạm đến bốn vị anh hùng, vậy
xin bốn ngài đón tay làm phúc, tha cho một chút thân tàn, thực là vạn phúc. Bốn
vị hảo hán kia nghe Tống Giang nói, liền nhảy xuống ngựa, vất bỏ quân khí ra,
rồi chạy lại quỳ xuống đất mà rằng: - Bốn anh em chúng tôi, chỉ được nghe tiếng
Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh, mà không sao cho được gặp mặt? Nay nói Ca
Ca ở đất Giang Châu bị hãm hại, anh em chúng tôi đã bàn nhau toan kéo đến phá
nhục để cứu Ca Ca, song không biết có đích thực hay không, nên chưa dám động.
Mới đây sai tiểu lâu la đi đến Giang Châu thám thính, mới biết đã có các vị hảo
hán đánh cướp pháp trường, làm cho náo động đất Giang Châu, mà cứu Ca Ca về
trấn Yết Dương, và đốt giết nhà Hoàng Thông Phán ở Vô Vi Quân, rồi sắp sửa kéo
về đại trại. Nhân vậy chúng tôi đoán chắc thế nào Ca Ca cũng qua đến lối này, nên
phải hỏi kỹ càng cho đích xác, rồi mới dám nói ra như thế, dám xincc thứ lỗi
cho. Nay may được Ca Ca qua tới chốn này xin mời Ca Ca vào chơi tiểu trại, gọi
là dâng chén rượu tiếp phong, và xin đón các vị hảo hán cùng quá chân vào đó,
rồi sẽ khởi trình... Tống Giang cả mừng, rồi đứng dậy đỡ bốn vị hảo hán lên; mà
hỏi họ tên. Người thứ nhất họ Âu tên Bằng, tự là Vân Kim Xí; quê ở Hoàng Châu,
vốn coi quân bộ ở Đại giàn khi trước, sau nhân trái ý với quan trên, mà phải bỏ
trốn vào nơi rừng núi; Người thứ hai họ Tưởng tên Kính, vốn người Hồ Nam, ở đất
Đàm Châu, nguyên là tay cử tử xuất thân, sau vì thi cử không đỗ, liền bỏ văn
sang võ, theo họ lược thao, tinh giỏi tính toán võ nghệ không kém ai, binh pháp
cũng hơi thạo, nhân thế người ta thường gọi là Thần Toán Tư (tính toán như
Thần): Còn người thứ ba họ Mã tên Lân, quê ở Kim Lăng, Kiến Khang, là một tay
nhàn lãng xuất thân, thổi thiết địch hay, múa đại đao giỏi, mấy trăm người cũng
không ai dám đến gần, nhân thế người ta đặt là Thiết Địch Tiên; Người thứ tư họ
Đào tên Tôn Vượng, quê ở Quảng Châu, vốn xưa là người điền hộ, khiến cây thiết
tiêu rất khỏe, múa lân đao cũng giỏi, người ta thường gọi là Cửu Vĩ Quy (rùa
chín đuôi). Bấy giờ bốn vị hảo hán đón tiếp Tống Giang, hai tiểu lâu la đem một
bầu rượu, hai mâm thịt và một khay qủa ra, để nâng chén tiếp phong. Trước hết
mời Tiều Cái, Tống Giang, sau mời Hoa Vinh, Đới Tung, sau đến Lý Quỳ, và cùng
thi lễ chào nhau. Được một lát đội quân mã thứ hai kéo đến, bốn vị hảo hán lại
mời uống rượu, rồi đón cả lên núi. Đoạn rồi sai mổ trâu giết ngựa làm tiệc, và
cho đón các vị hảo hán ở ba đội đi sau, cùng lên núi dự tiệc. Trưa hôm ấy các
vị đã tề tựu, cùng nhau ngồi uống rượu ở trên Tụ Nghĩa Sảnh núi Hoàng Môn. Sau
Tống Giang nói với mọi người rằng: - Phen này Tống Giang lên Lương Sơn Bạc
nương nhờ Tiều Thiên Vương Ca Ca, vậy chả hay bốn vị hảo hán có thể bỏ đất này
mà cùng đi đến đó được không? Bốn tay hảo hán đồng thanh đáp rằng: - Nếu hai vị
nghĩa sĩ có lòng yêu đến cho theo, thì chúng tôi tình nguyện đi hầu dưới trướng.
Tống Giang, Tiều Cái cả mừng nói rằng: - Bốn ngài đã nghĩ đến đại nghĩa mà bằng
lòng như vậy, thì xin mau mau thu thập đi ngay mới được. Nói đoạn lại cùng nhau
rượu chè vui vẻ mà ở đó một đêm.
Sáng hôm
sau, bọn Tống Giang Tiều Cái lại chia làm năm đội lục tục ra đi, còn bốn vị hảo
hán ở Hoàng Môn Sơn cũng thu thập tài bạch kim ngân, kiểm điểm bốn năm trăm lâu
la, rồi đốt bỏ sơn trại mà đi vào đội thứ sáu. Tống Giang thấy được bốn tay hảo
hán quy phục thì trong lòng lấy làm mừng rỡ, vừa đi vừa nói chuyện với Tiều Cái
rằng: - Tiểu đệ từ khi ngang dọc giang hồ, dẫu bị bao phen kinh sợ, song cũng
may mà kết giao được bao nhiêu hảo hán ở trên đời, như thế thực là thỏa lòng
quá đỗi. Phen này cùng lên sơn trại với Ca Ca, tất phải đồng tâm hiệp lực, mà
sống chết có nhau, thì sau này mới khỏi phụ cái công giang hồ chìm nổi mà khỏi
thẹn với đời... Tiều Cái nghe nói, cũng lấy làm vui mừng, rồi hai người chuyện
trò với nhau, mà gần tới sơn trại lúc nào cũng không biết. Các vị Đầu Lĩnh coi
trại ở Lương Sơn Bạc là Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, cùng hai
người Đầu Lĩnh mới là Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện, khi thấy Chu Quý, Tống Vạn về
báo tin, thì hàng ngày lại sai tiểu Đầu Mục chở thuyền ra hàng rượu của Chu Quý
để đón tiếp. Ngày hôm ấy các đội đi đến nơi, liền xuống thuyền vào bến Kim Sa,
rồi lên ngựa, đi về đại trại. Khi tới Đại Quan đã thấy bọn sáu người Ngô Học
Cứu đem rượu ra tiếp phong, rồi cùng đi vào Tụ Nghĩa Sảnh. Vào tới nơi, đã thấy
bàn ghế chỉnh tề, khói hương nghi ngút tại Tụ Nghĩa Sảnh, Tiều Cái liền mời
Tống Giang làm chủ sơn trại, để ngồi vào ghế giữa. Tống Giang khiêm tốn không
nhận mà rằng: - Tống Giang tôi đã nhờ các vị có lòng thương, mà cứu cho thoát
nạn, vậy chức Chủ trại đây, nguyên là Ca Ca phải giữ, có lẽ nào lại nhượng cho
tôi? Nếu Ca Ca không ưng thuận mà cố nhường cho thì đệ xin chết trước cho xong,
không bao giờ lại dám mang tâm như thế! Tiều Cái không nghe mà nói rằng: - Hiền
đệ bất tất như thế? Hồi trước nếu không có hiền đệ ra tay gánh vác mà cứu cho
bảy anh em chúng tôi, thì còn đâu có được ngày nay, vậy ngôi Chủ trại ở đây
hiền đệ không có thể nhường lại cho ai được nữa... Tống Giang lại nói rằng: -
Nói về niên sỉ, thì nhân huynh hơn Tống Giang đây mươi tuổi, vậy Tống Giang
ngồi đó, chẳng hóa ra hổ thẹn lắm sao. Nói xong liền cố nhường Tiều Cái ngồi
vào ghế thứ nhất, tự mình ngồi ghế thứ hai, và để Ngô Học Cưú ngồi ghế thứ ba,
Công Tôn Thắng ngồi ghế thứ tư. Đoạn rồi Tống Giang nói với mọi người rằng: Bây
giờ chưa phân công lai trên dưới, vậy các Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc ngày trước,
xin cứ ngồi bên hữu, còn các vị Đầu Lĩnh mới đến sau, xin ngồi về phía bên tả,
đến khi có công cán thế nào; sẽ phân định thứ tự về sau. Chúng nghe nói đều
vâng lời ngồi chia ra hai bên. Dãy bên tả có Lâm Xung, Lưu Đường, Nguyễn Tiểu
Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đỗ Thiên, Tống Vạn; Chu Quý. Dãy bên
hữu thì các vị Đầu Lĩnh tính tuổi cao thấp, rồi suy nhượng với nhau mà ngồi.
Thoạt đầu Hoa Vinh ngồi trên, rồi đến Tần Minh, Hoàng Tín, Đới Tung, Lý Quỳ, Lý
Tuấn, Mục Hoằng, Trương Hoành, Trương Thuận, Yến Thuận, Lã Phương, Quách Thịnh,
Tiêu Nhượng, Vương Nụy Hổ, Tiết Vĩnh, Kim Đại Kiện, Mục Xuân, Lý Lập, Âu Bằng,
Tưởng Kính, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Mã Lân, Thạch Dũng, Hầu Kiện, Trịnh Thiên Thọ,
Đào Tôn Vượng cùng ngồi một hàng. Hai bên cộng tất cả hai mươi bốn vị hảo hán,
đều hớn hở, vui mừng, mở cờ dóng trống, cùng ngồi uống rượu với nhau. Bấy giờ
Tống Giang lại đem chuyện mình kể cho các vị Đầu Lĩnh nghe mà nói rằng; - Việc
tôi chẳng qua vì tên Hoàng Văn Bính, vẽ hươu vẽ vượn, tán nghĩa mấy câu ca
dao,mà bảo với tên Xài Tri Phủ là hai câu dưới, ứng vào độ số tôi là loạn ở đất
Sơn Đông, rồi xui Tri Phủ tiền trảm hậu tấu, nên mới như thế. Nếu không có anh
em nhiệt tâm mau cứu cho thì còn khi nào được trông thấy Lương Sơn Bạc mà bàn
định công việc sau nầy nữa. Lý Quỳ nghe nói, vội nhảy lên mà nói rằng: - Phải
đấy, Ca Ca chính là hợp ý trời đấy. Nay dẫu bị chút khó nhọc, song thằng giặc
già Hoàng Văn Bính tôi đã giết, thực là khoái lắm! Túng sử cho chúng tôi có ít
quân mã, chúng tôi làm phản chơi cũng được, đã sao? Khi đó Tiều Cái Ca Ca làm
Đại Tống Hoàng Đế, Tống Giang Ca Ca làm Tiểu Tống Hoàng Đế, Ngô Dụng Tiên Sinh
làm thừa Tướng, Công Tôn Đạo Nhân làm Quốc sư, còn chúng tôi đều làm Tướng
Quân; kéo binh mã thẳng vào kinh sư mà cướp lấy đế vị, chẳng thú lắm hay sao?
Như thế há không hơn ở vũng nước này? Đới Tung nghe nói quát lên rằng: - Thiết
Ngưu làm chi mà nói thoắng lên thế? Nay ngươi đến đây, không thể còn giữ tính
nết như ở Giang Châu được, phải nghe hiệu lệnh của các vị Đầu Lĩnh Ca Ca, không
được nói càn nói dỡ...Nếu còn nói luôn, là hãy cắt đầu làm lệnh, để răn người
sau đó. Lý Quỳ tắc lưỡi mà rằng: - Chết nỗi! Nếu cắt đầu tôi, thì bao giờ lại
mọc được cái đầu lớn như thế nữa? Đã vậy tôi chỉ uống rượu thì thôi, chứ làm
gì? Các vị hảo hán đều vỗ tay cười ầm cả lên. Tống Giang lại tiếp luôn đến
chuyện cự địch quan quân mà rằng: - Khi trước tôi mới nghe nói, đã hơi kinh sợ,
ai ngờ ngày nay quả nhiên lại đến lần tôi ở đây... Ngô Dụng nói: - Nếu trước
huynh trưởng nghe lời anh em mà ở lại sơn trại đây, thì có phải lã đỡ được bao
nhiêu sự rắc rối; Cái đó cũng là số trời đã định, không thế hẳn cũng không
xong. Tống Giang lại hỏi: - Hoàng An bây giờ ở đâu? Tiều Cái nói: - Ông ta đến
đây được vài ba tháng thì bị bệnh chết ngay. Tống Giang nghe nói, lấy làm
thương tiếc vô cùng. Ngày hôm ấy các vị Đầu Lĩnh uống rượu với nhau, đến khi
tận hưởng mới thôi. Tiều Cái lại xếp đặt cho Mục Thái Công và gia quyến họ Mục
ở vào một nơi, rồi đem cả tài vật lấy ở nhà Hoàng Văn Bính, mà thưởng cho các
bọn lâu la. Đoạn rồi đem hòm châu báu của Xài Tri Phủ ngày trước trao trả cho
Đới Viện Trưởng. Đới Tung nhất định không chịu nhận, bèn cho chứa vào kho, để
trữ làm công của sơn trại. Tiều Cái lại bắt tiểu lâu la lên bái kiến bọn Đầu
Lĩnh mới, rồi nhất diện giết trâu dê, ăn mừng luôn trong mấy hôm trời, và nhất
diện sửa sang phòng ốc trước sau, để các vị Đầu Lĩnh ở, cùng là sức cho lâu la
chỉnh bị thành quách rất là cẩn thận. Cách ba hôm sau, một bữa Tống Giang đương
ngồi dự tiệc bỗng dưng ra nét mặt lo nghĩ, rồi đứng dậy nói với các vị Đầu Lĩnh
rằng: - Tống Giang tôi còn có việc này, muốn xin phép anh em đi trong mấy hôm,
không biết rằng các vị có ưng thuận cho không? Các Đầu Lĩnh nghe nói đều ngạc
nhiên, không hiểu việc chi, àm cùng xúm nhau vào để hỏi...
Mới hay:
Xương
tan máu đẫm Giang Thành, Đoái trông ngọn sóng bất bình còn đâu? Trăm năm trong
cuộc bể dâu, Tử sinh vinh nhục cùng nhau mấy người, Tiếng thơm ai để trên đời,
Có chăng riêng bạn anh tài biết cho... Rồi đây ngang dọc giang hồ, Anh hùng gây
dựng cơ đồ khó chi!
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi trên
tả Ngô Dụng cướp pháp trường Giang Châu, đều gọi mọi người trao cho một kế, đến
khi cướp pháp trường, mới đột nhiên nảy ra bốn hạng người; Hồi này tả Tống
Giang đánh thành Vô Vi Quân, lại đem bí quyết nói ra, không giấu nửa lời hay một
chút, đều là đặc biệt khác nhau, các nhà văn đều có phép, đã tỉnh càng làm cho
tỉnh, đã tăng lại phải cho tăng, đã tả Tống Giang định kế rõ ràng, lại tả từng
người y kế, nếu không tả ra, chỉ nói một câu, khi đã tả ra lại nói mấy lần, đó
là đặc biệt khác với tục bút. Không thể không biết cho ra.
Một việc
đánh thành Vô Vi Quân, đã ở trong định kế rõ rệt, rồi sau mới chép rõ ra, chỉ
nói ra nhiều chữ "Thấy" đếm cho đủ số người mà thôi; Ví như khéo đánh
cờ, thế trận bầy ra đấy, rồi chỉ thấy dùng một con hai con, đánh cướp từng chỗ,
khiến cho toàn cục phải biến động theo, văn chương như thế, mới là diệu bút.
Tả Tống
Giang bấy lâu từng nói ra mồm, theo lời cha dặn: Thà chết không làm nghề lạc
thảo, thế mà trước kia, đã thu thập lũ tám người, Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Hồ,
Lã Phương, Quách Trịnh, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Thạch Dũng,
nhặt lại đem về sơn trại, đến lúc này lại thu thâoh mười sáu người, Đới Tung,
Lý Quỳ, Trương Hoành, Trương Thuận, Lý Tuấn, Lý Lập, Mục Hoằng, Mục Xuân, Đồng
Uy, Đồng Mãnh, Tiết Vĩnh, Hầu Kiện, Âu Bằng, Tưởng Kính, Mã Lân, Đào Tôn Vượng,
nhặt lại đem về sơn trại. Hai bên đều chép lớn ra cho rõ trung gian kế sảo. Đó
là pháp của Sử Gia án mà không quyết đoán vậy. Tả Tống Giang dùng những quyền
trá, lại tiếp tả ngay Lý Quỳ nói thẳng lời thô, độc giả thấy Lý Quỳ thô trực,
cho rõ Tống Giang quyền trá ngõ hầu nhận thấy ra.
Tả Tống
Giang khi tới Lương Sơn, đã vội đổi thay phép cũ, theo ý của mình làm mới, đã
áp ngầm mọi người, lấn rõ Tiều Cái, lộ chân tướng con người, không ngờ trong
việc bút mực, có sức làm ra như thế.
Phụ Lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét