Hồi 83 -
Tống Giang Vâng Mệnh Đánh Giặc Liêu
Đang nói chuyện năm ấy vua nước Liêu
cho quân đánh qua biên giới Cửu Châu.
Quân Liêu chia bốn đường kéo vào tàn
phá cướp bóc các tỉnh Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc. Châu huyện các nơi gửi
biểu văn về xin quân cứu viện triều đình trước hết phải chuyển đến khu mật viện
rồi khu mật viện mới trình lên nhà vua. Nhưng quan chưởng viện khu mật là Đồng
Quán cùng với thái sư Sái Kinh, thái uý Cao Cầu, thái uý Dương Tiễn bàn nhau ỉm
các tờ biểu ấy đi, chỉ sai người đến đốc thúc các phủ châu lân cận cho quân mã
đi cứu ứng, rốt cuộc cũng chẳng thấy thám tháp vào đâu. Việc ấy ai cũng biết,
chẳng qua chỉ bịt được mắt thiên tử mà thôi. Mới đây bốn tên gian thần ấy bàn
mưu với nhau rồi giao cho quan khu mật Đồng Quán tâu với thiên tử để hãm hại
anh em Tống Giang. Chẳng ngờ từ sau bức bình phong lại có viên đại thần buớc ra
quát lớn, người ấy chính là quan điện tiền đô thái uý Túc Nguyên Cảnh. Khi ấy
Túc thái úy tâu với thiên tử.
- Thưa bệ hạ, anh em Tống Giang là
hạng hảo hán, nay mới về nhận chiếu chiêu an, cả trăm linh tám người chịu ơn
nghĩa lẫn nhau như chân với tay, ý chí cùng nhau như anh em ruột thịt. Bọn họ
quyết không khi nào chịu rời nhau, thà chết chứ không nỡ chia lìa. Giờ đây bởi
duyên cớ gì mà rắp tâm hãm hại bọn họ? đám hảo hán ấy trí mưu dũng cảm đều
không phải hạng vừa. Nếu chẳng may xẩy việc biến loạn trong thành thì biết lấy
gì cưu giữ? nay nước Liêu đưa mười vạn quân tràn xuống xâm chiếm châu huyện
nước ta. Các nơi ấy đã gửi biểu văn về cầu cứu, triều đình có điều quân đi đánh
dẹp, nhưng giao phong mấy trận chẳng qua cũng như nước đổ tổ kiến mà thôi. Thế
giặc rất lớn mà quan quân sai đi thì không có kế sách gì hay, trận nào cũng bị
hao binh tổn tướng nên phải che giấu không dám tâu trình lên bệ hạ. Cứ như ngu
ý của thần thì tốt nhất là nên sai tất cả lương tướng bọn anh em Tống Giang đưa
toàn bộ quân tướng người ngựa dưới quyền lên biên giới dẹp yên giặc Liêu,
truyền lệnh cho đám hảo hán ấy lập công để được triều đình bổ dụng, như thế
thật là vừa thụân tiện lại vừa hữu ích. Hạ thần không dám định đọat, cúi xin bệ
hạ soi xét.
Nghe lời tâu của Túc thái uý, thiên
tử rất vui lòng, đem việc ấy ra hỏi các quan thì ai cũng cho là phải. Thiên tử
quát mắng Đồng Quán cùng bọn các quan ở viện khu mật.
- Bọn dối trá gian nịnh các ngươi
làm lỡ hết việc nước, ghen ghét người tài đức, rào đường rấp lối kẻ hiền, đơm
lời đặt chuyện làm hư nát cả việc đại sự của triều đình. Ta hãy tạm tha chưa
hỏi tội.
Thiên tử tự tay viết chiêu sắc phong
cho Tống Giang chức Phá Liêu đô tiên phong, Lư Tuấn Nghĩa chức phó tiên phong,
còn các tướng khác thì đợi sau khi lập công sẽ phong quan ban tước. Tiếp đó
thiên tử sai thái uý Túc lĩnh chiếu săc đưa đến tuyên đọc trước hành doanh quân
Tống Giang. Rồi thiên tử bãi triều, các quan ai nấy đều lui về.
Nói tiếp Túc thái uý lĩnh thánh chỉ
ra khỏi triều liền đi ngay đến hành doanh quân Tống Giang làm lễ tuyên đọc.
Tống Giang và các tướng sĩ vội bày hương án nghênh tiếp, mọi người đều quỳ nghe
đọc chiếu sắc. Xong lễ ai nấy đều vui. Tống Giang vái tạ Túc thái uý, nói:
- Anh em chúng tôi đều đang mong
được ra sức giúp nước, dựng nghiệp lập công để xứng đáng làm kẻ trung thần. Nay
được ân tướng thái uý hết lòng tâu bày giúp cho, ơn đức thật như cha mẹ. Có
điều hiện nay linh vị Tiều thiên vương của anh em tôi ở Lương Sơn Bạc chưa có
nơi thờ phụng yên ổn, già trẻ gia quyến quân sĩ chưa kịp cho đưa về quê, bao
nhiêu thành lũy trên sơn trại đều chưa phá huỷ, đội chiến thuyền cũng chưa kịp
đưa về. Vì vậy xin phiền ân tướng thái uý giúp tâu lên thiên tử xin cho nới hạn
một tuần để anh em chúng tôi về trại cũ thu xếp cho xong mấy việc ấy, nhân tiện
cũng cần phải sửa sang thương đao, giáp mã cùng các thứ binh khí khác để sau đó
được dốc lòng trung báo đền ơn nước.
Túc thái uý nghe xong cả mừng, về
cung tâu ngay lên thiên tử. Thiên tử mở kho lấy một ngàn lạng vàng, năm ngàn
lạng bạc, năm ngàn tấm lụa màu, đem ban thưởng cho các tướng; lại sai Túc thái
uý đưa sổ cấp lương đến doanh trại ghi tên phát cho các tướng: những ai có bố
mẹ già con nhỏ thì cấp sổ cho gia đình được hưởng để nuôi sống cả đời, những ai
không có gia đình thì cấp cho bản thân được lĩnh để chi dùng. Tống Giang vâng
lĩnh chiếu sắc, đáp lễ tạ ơn Túc thái uý. Xong lễ liền đem các thứ ban thưởng
phân phát cho mọi người. Túc thái uý sắp sửa về triều, căn dặn Tống Giang:
- Tướng quân về sơn trại mau chóng
trở lại kinh, hễ về đến nơi thì sai người báo tin ngay cho hạ quan biết, chớ
nên chậm trễ!
Lại nói chuyện Tống Giang triệu tập
các tướng cùng nhau bàn bạc xem nên cắt cử những ai đưa quân về sơn trại: Tống
Giang, cùng quân sư Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Lâm Xung, Lưu Đừơng, Đỗ Thiên,
Tống Vạn, Chu Quý, Tống Thanh, ba anh em họ Nguyễn dẫn hơn một vạn vừa quân mã,
quân bộ, quân thuỷ trở về, còn đại quân người ngựa thì đặt dưới quyền Lư Túân
Nghĩa đóng tại kinh sư.
Tống Giang cùng bọn Ngô Dụng, Công
Tôn Thắng lên đường, chuyện quân đi đường không phải nói. Về đến Lương Sơn Bạc,
các tướng đều lên cả Trung Nghĩa đường. Tống Giang truyền lệnh cho phép các nhà
thu xếp hành lý để đưa gia quyến già trẻ về quê. Một mặt sai giết dê, mổ lợn,
thắp hương, đốt nến hoá vàng làm lễ tế Tiều thiên vương, rồi hoả thiêu linh vị.
Kế đó cho đưa gia quyến các nhà trở về nguyên quán. Xe đã sắp sẵn, ngựa cũng
đóng xong, ai nấy ra đi. Rồi Tống Giang sai riêng những người khi trước là gia
nhân của mình đưa Tống thái công cùng lớn bé trong nhà về Tống gia thôn ở huyện
Vận Thành, trở lại làm kẻ lương dân. Lại giao cho ba anh em họ Nguyễn lựa chọn
đủ số thuyền cần dùng, những thuyền nhỏ còn lại không cần đến thì cho dân chúng
địa phương đem về. Tất cả nhà cửa lán trại trên núi cũng cho dân dỡ lấy, Thành
tam quan, nhà Trung Nghĩa đường, v..v.. cũng đều phá dỡ hết. Việc nào việc ấy
thu dọn đã xong, Tống Giang lại lập hợp người ngựa lên đường cấp tốc trở về
kinh.
Việc đi đường không có gì phải nói.
Chẳng bao lâu quân mã của Tống Giang về đến Đông Kinh. Lư Tuấn Nghĩa và các đầu
lĩnh khác ra đón tiếp vào doanh trại. Trước hết sai Yến Thanh vào thành báo tin
với Túc thái uý, xin cáo từ thiên tử để đưa đại quân lên đường. Túc thái uý
được tin báo liền vào nội cung tâu lên thiên tử.
Ngày hôm sau Túc thái uý dẫn Tống
Giang đến điện Vũ Anh yết kiến thiên tử. Thiên tử rất mừng, ban rượu ngự cho
Tống Giang rồi nói:
- Khanh vào cáo từ như thế là đủ,
cho quân lên đường đánh tan giặc Liêu, chóng ca khúc khải hoàn, trẫm sẽ ghi
công lớn để trọng dụng khanh, các tướng sĩ khác cũng sẽ được xét công để thăng
gia quan tước. Khanh chớ nên biếng trễ!
Tống Giang cúi đầu tạ ơn, tay nâng
chiếc hốt tâu rằng:
- Thần vốn là một tiểu lại hèn kém,
trót phạm tội hình, bị phạt lưu đến đất Giang Châu. Rượu vào quá chén, nói năng
ngông cuồng, sắp bị bêu đầu giữa chợ, được bọn anh em ra sức cứu thoát không
biết trốn tránh vào đâu, đành náu thân nơi bờ lau bến nước cố sống thêm kiếp
hèn. Cứ như tội của thần thì không thóat muôn lần tội chết. May đội ơn thánh
thượng có lòng thương xót khoan dung mà thu dụng, lại rủ ơn đức rộng lớn tha
thứ cho mọi điều tội lỗi; dẫu thần có phải phơi ruột bày gan cũng chưa thể gọi
là báo đền ơn lớn. Nay được phụng lĩnh chiếu sắc của hoàng thượng, thần dám đâu
không dốc hết lòng trung, thà chết không dám tiếc thân mình!
Thiên tử cả mừng, lại thưởng cho
rượu ngự, rồi truyền lấy một bộ cung tên có hình chim Thước nạm vàng, một con
ngựa nòi, một bộ yên cương và thanh đao quý ban cho Tống Giang. Tống Giang cúi
đầu tạ ơn rồi cáo từ lui ra, mang theo các thứ vua ban trở về doanh trại,
truyền lệnh cho tướng sĩ ba quân chuẩn bị lên đường.
Sáng hôm sau vua Tống Huy Tông sai
Túc thái uý truyền lệnh cho Viện trung thư phái hai viên quan đến trạm Trần
Kiều cùng Tống tiên phong khao thưởng ba quân. Mỗi tên quân sĩ được phát một
nậm rượu, một cân thịt, theo đúng số quân mà phân phát cho đủ. Viện trung thư
tiếp được thánh chỉ liền thâu đêm suốt sáng lo sửa soạn rượu thịt rồi cắt cử
hai viên quan đem đến trạm Trần Kiều phân phát.
Lại nói Tống Giang truyền lệnh cho
ba quân rồi cùng quân sư Ngô Dụng bàn chia quân hai đường cùng tiến: năm viên
hổ tướng và tám viên bưu tướng đưa quân bộ đi trước; mười viên tướng phiêu kỵ
dẫn quân mã đi sau; Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng thống
lĩnh đội trung quân. Cánh quân đi đường sông thì do các đầu lĩnh thuỷ quân là
ba anh em họ Nguyễn, Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận cùng bọn Đồng Uy, Đồng
Mãnh, Mạnh Khang, Vương Định Lục cùng các đầu mục thuỷ thủ chỉ huy đội chiến
thuyền theo sông Sái Hà ra sông Hoàng Hà, tiến lên phía bắc.
Tống Giang đốc thúc ba quân tiến
theo con đường lớn đi qua trạm Trần Kiều, ra lệnh cho tướng sĩ và quân lính
không được làm phiền nhiễu dân chúng các làng. Việc ấy có đoạn thơ làm chứng
như sau:
Chiêu dao tinh bái xuất thiên kinh,
Thụ mệnh truyền sư sự viễn chinh.
Thỉnh khán Lương Sơn quân kỷ luật,
Hà như thái uý ngự doanh binh.
Cờ mao phấp phới quân rời kinh
Vâng mệnh triều đình đi viễn chinh.
Hãy xem kỷ luật Lương Sơn Bạc,
Đâu phải như là bọn ngự binh.
Nói tiếp, Viện trung thư cử hai viên
quan ở phủ thành Đông Kinh đưa rượu thịt đến trạm Trần Kiều khao thưởng ba
quân. Chẳng ngờ bọn chúng lòng dạ tham lam, lợi dụng việc ấy xoay sở kiếm
riêng, tự ý cắt bớt phần rượu thịt của quân sĩ. Bọn gian nịnh ấy xưa nay vẫn
tham ăn của đút. Lần này rượu quan đã phát, mỗi nậm chúng bớt chỉ còn một nửa,
thịt thì mỗi cân xẻo mất sáu lạng. Tiền quân nhận phần đã xong, đang phát đến
đội hậu quân đội mũ đen, mặc giáp phục đen, đó là giáp sĩ dưới quyền của Hạng
Sung, Lý Cổn. Trong đội quân ấy có một viên hiệu uý sau khi nhận được phần rượu
thịt liền giơ lên xem, thấy rượu chỉ còn nửa nậm, thịt còn chừng mười lạng,
người ấy liền chỉ vào mặt tên quan phát khao mà mắng:
- Chỉ vì bọn chúng bay tham lam mà
làm phí cả ân thưởng của triều đình!
Tên quan phát khao quát lại:
- Sao người dám bảo ta là bọn gian
tham?
Viên hiệu uý đáp:
- Hoàng đế đã ban cho bọn ta mỗi
người rượu một nậm, thịt một cân, bọn bay bớt xén hết. Không phải chúng ông vì
miếng ăn, chỉ căm tức bọn bay là quân vô đạo nên phải vạch trần bộ mặt giả nhân
giả nghĩa cho mà biết đó thôi.
Tên quan phát khao chửi lớn:
- Thằng giặc chết chém mọc đầu kia
dám to gan! Thói phản nghịch Lương Sơn Bạc vẫn không chừa!
Viên hiệu uý tức giận vác rượu thịt
ném ngay vào mặt tên quan phát khao. Tên quan hô hoán: "Bắt trói ngay
thằng giặc kia". Viên hiệu uý liền rút thanh đao đang cầm kèm bên chiếc
thuẫn. Tên quan chỉ tay nói:
- Thằng giặc nhơ bẩn kia cầm đao
định giết ai?
Viên hiệu uý đáp:
- Khi trước ở Lương Sơn Bạc, những
đứa như ngươi ta chém đầu kể có hàng ngàn hàng vạn! liệu ngươi có chịu nổi một
nhát không?
Tên quan hét to:
- Ngươi dám giết ta chăng?
Viên hiệu uý xáp lên một bước, vung
đao trúng giữa mặt, hất tên quan ngã ngay ra đất. Dân chúng kêu la rồi lảng đi
cả. Viên hiệu uý bước đến gần phạt thêm mấy nhát nữa, thấy chết hẳn mới thôi.
Quân lính đứng xúm quanh lúng túnng không biết xử trí ra sao.
Khi ấy Hạng Sung, Lý Cổn lập tức phi
báo cho Tống Giang biết. Tống Giang nghe nói cả sợ, liền bàn ngay với Ngô Dụng
để tìm cách tính liệu việc này. Ngô Dụng nói:
- Bọn các quan ở sảnh viện vốn đã
không ưa gì anh em ta, nay xảy ra việc thế này, thế nào bọn chúng cũng thừa cơ
mượn dịp. Chỉ còn một cách trước hết phải chém đầu viên hiệu uý để thị uy, một
mặt sai người về trình với sảnh viện, xin dừng quân đợi tội. Lại cần sai Đái
Tôn, Yến Thanh đi gấp trở về, lặng lẽ vào thành, đến thưa đầu đuôi câu chuyện
để Túc thái uý biết, nhờ thái uý tâu giúp để thiên tử biết trước nỗi oan ức,
như thế dù cho viện trung thư có thổi chuyện tâu lên thì cũng không làm hại
được anh em mình. Chỉ có cách ấy mới mong bảo toàn mọi việc.
Bàn bạc vừa xong, Tống Giang liền
lên ngựa phi nhanh đến trạm Trần Kiều. Viên hiệu uý vẫn đứng yên ở chỗ tên quan
phát khao bị giết. Tống Giang ra lệnh vào nhà trạm lấy rượu thịt ra tiếp tục
khao quân, rồi cứ cho lên đường. Mặt khác gọi viên hiệu uý vào trạm hỏi rõ đầu
đuôi sự việc. Viên hiệu uý thưa:
- Tên quan ấy nhiều lần nhiếc móc
quân phản nghịch Lương Sơn Bạc, chửi rủa bọn tiểu nhân là giặc mọc đầu, vì thế
trong lúc tức giận, tiểu nhân trót chém chết hắn, tiểu nhân xin chịu tội, chờ
huynh trưởng xét xử.
Tống Giang nói:
- Người ấy là quan thừa lệnh của
triều đình, ngay đến ta cũng phải vì nể, thế mà ngươi dám giết chết! việc này rồi
hết thảy chúng ta đều phải chịu liên luỵ! nay ta vừa mới vâng chiếu đi đánh
giặc Liêu, công lao chưa mảy may lập được đã gây chuyện rắc rối này. Biết tính
sao bây giờ?
Viên hiệu uý cúi đầu xin chịu tội
chết.
Tống Giang khóc nói:
- Ta từ lúc lên Lương Sơn Bạc, anh
em lớn nhỏ chưa phải bỏ một ai. Nay thân ta phải chịu quan trên cai quản, dù
chỉ một bước cũng không thể theo ý muốn của mình. Dẫu rằng ngươi chưa bỏ hết
được tính nóng nảy, nhưng xử sự bây giờ không thể như cách trước đây.
Viên hiệu uý nói:
- Tiểu nhân xin chịu tội chết!
Tống Giang sai dọn cơm rượu cho viên
hiệu uý ăn uống thật no say rồi bảo trèo lên cây thắt cổ. Xong đó sai chặt đầu
thị uy. Lại sai thu nhặt thủ cấp, thi thể của tên quan phát khao khâm niệm nhập
quan quách cẩn thận, sau đó viết văn thư trình về viện trung thư, việc ấy không
nói nữa.
Lại nói Đái Tôn, Yến Thanh bí mật về
thành, đi đừơng tắt đến phủ gặp Túc thái uý kể lại đầu đuôi sự tình. Ngay đêm
ấy, Túc thái uý vào nội cung tâu lên để thiên tử biết chuyện. Sáng hôm sau, hoàng
thượng ngự triều ở điện Văn Đức, quan trung thư bước lên tâu:
- Binh lính bộ hạ của tướng mới về
chịu chiếu chiêu an là Tống Giang vừa giết chết một viên quan do sảnh viện sai
đi trông nom việc phân phát rượu thịt, cúi xin thánh chỉ cho phép bắt về để hỏi
tội.
Thiên tử nói:
- Quả nhân thật không còn trông cậy
được vào sảnh viện của các ngươi, chuyện rắc rối cũng do nơi các ngươi mà ra.
Bọn ngươi không biết chọn người mà sai việc cho nên mới xảy ra chuyện lôi thôi.
Rượu thịt ban khao lĩnh nhiều chia ít, quân lính có tiếng được hưởng mà không
được ăn mới nên chuyện!
Quan trung thư lại thưa:
- Ngự tửu có ai dám bớt xén đâu?
Thiên tử nổi giận quát lớn:
- Trẫm ngầm sai người đi dò xét, hư
thực ra sao trẫm đã biết rõ, bọn ngươi còn định giả dối khéo mồm để bưng bít
trẫm sao? rượu ngự của trẫm ban, mỗi nậm bị bớt mất một nửa, thịt mỗi suất một
cân chỉ còn năm lạng, vì thế kẻ tráng sĩ kia mới nổi giận, gây chuyện đổ máu!
Thiên tử lại quát hỏi:
- Thủ phạm hiện giờ ở đâu?
Quan trung thư tâu:
- Tống Giang đã chém đầu thị chúng
và trình lên bản viện xin dừng quân đợi tội.
Thiên tử nói:
- Thủ phạm đã bị chém đầu, như thế
là Tống Giang biết nghiêm trị kẻ có tội. Nay hãy tạm ghi việc ấy lại, đợi khi
đánh giặc Liêu xong trở về sẽ xét công mà xử lý.
Quan trung thư đành lặng thinh lui
ra. Liền đó thiên tử sai quân truyền lệnh đi đốc thúc Tống Giang cho quân lên
đừơng, còn tên hiệu uý đã bị chém thì đưa bêu đầu trước trạm Trần Kiều để thị
uy cho dân chúng biết.
Lại nói Tống Giang đang dừng quân ở
trạm Trần Kiều chờ triều đình hỏi tội tì có quan trung sứ đến truyền đạt mệnh
chỉ của thiên tử cho phép Tống Giang tiến quân đi đánh giặc Liêu, còn tên hiệu
uý phạm tội thì đưa bêu đầu thị chúng. Tống Giang tạ ơn xong bèn đưa thủ cấp
viên hiệu uý treo trước trạm Trần Kiều, còn thi thể thì cho chôn cất. Tống
Giang khóc lớn hồi lâu rồi gạt nước mắt lên ngựa, dẫn quân tiến về phía bắc.
Quân đi cứ mỗi ngày sáu mươi lăm dặm lại đóng trại nghỉ ngơi, không mảy may xâm
phạm quấy nhiễu dân chúng các châu huyện bên đường. Chuyện đi đường không có gì
phải nói. Một ngày kia người ngựa đã đến đóng quân gân biên giới nước Liêu,
Tống Giang cho mời quân sư Ngô Dụng đến bàn bạc, Tống Giang nói:
- Nay quân Liêu chia bốn đường sang
xâm phạm, ta cũng nên chia quân tiến đánh các ngả, hay nên đánh thẳng vào thành
trì của chúng?
Ngô Dụng đáp:
- Nếu chia quân tiến đánh các ngả
thì sợ miền này đất rộng người thưa, đầu đuôi không tiếp ứng được nhau. Chi
bằng cứ đánh thẳng vào thành trì của chúng rồi sau sẽ liệu. Nếu ta đánh mạnh
bọn chúng chắc phải lui quân.
Tống Giang nói:
- Quân sư nghĩ kế ấy thật cao tay!
Nó đoạn Tống Giang cho gọi Đoàn Cảnh
Trụ đến căn dặn:
- Đường sá ở miền bắc này ngươi đi
lại đã quen, nay giao cho ngươi dẫn quân mã tiến trước. Gần đây là châu huyện
nào?
Đoàn Cảnh Trụ thưa:
- Phía trước là Đàn Châu, một cửa ải
hiểm yếu của nước Liêu. Thành ấy có con sông Lộ Thuỷ bao quanh, nơi ngả ba dòng
chảy rất sâu. Sông Lộ Thủy ăn thẳng ra sông Vị Hà, có thể cho chiến thuyền tiến
đánh được. Nếu đốc thúc các đầu lĩnh thuỷ quân đưa chiến thuyền đến, sau đó
thuỷ lục cùng tiến, thuyền ngựa tiếp ứng cho nhau thì chắc lấy được Đàn Châu.
Tống Giang liền sai Đái Tôn đi
truyền lệnh cho các đầu lĩnh thuỷ quân là bọn Lý Tuấn ngày đêm đốc thúc chiến
thuyền tiến gấp đến tập trung ở sông Lộ Thuỷ.
Tống Giang cho chỉnh đốn kiểm điểm
người ngựa, thuỷ thủ, chiến thuyền, định ngày cho thuỷ lục cùng tiến đến thành
Đàn Châu. Trong thành Đàn Châu, quan trấn thủ là Động Tiên thị lang, dưới quyền
có bốn viên mãnh tướng là: A Lý Kỳ, Giảo Nhi Duy Khang, Sở Minh Ngọc, Tào Minh
Tế. Cả bốn viên mãnh tướng ấy đều có sức địch nổi vạn người. Nghe tin nhà Tống
sai bọn Tống Giang đưa quân đến đánh, Động Tiên thị lang liền gửi biểu văn tâu
lên vua Liêu, một mặt sai người báo tin cho các châu lân cận là Kế Châu, Bá Châu,
Trác Châu, Hùng Châu để cùng cứu ứng, một mặt sai hai tướng là A Lý Kỳ và Sở
Minh Ngọc đưa quân ra ngoài thành nghênh chiến.
Nói tiếp, Đại đao Quan Thắng giữ
chức tiên phong của đội tiền quân dẫn người ngựa tiến đến gần huyện Mật Vân
thuộc phủ Đàn Châu. Quan huyện Mật Vân được tin liền phi báo cho hai tướng A Lý
Kỳ và Sở Minh Ngọc: "Người ngựa quân Tống trương cờ hiệu lớn, chính là bọn
Tống Giang ở Lương Sơn Bạc mới về hàng".
A Lý Kỳ nghe xong cười nói:
- Bọn giặc cỏ ấy không đáng nói đến!
Rồi truyền lệnh cho quân lính đóng
trại để hôm sau ra ngoài huyện Mật Vân giao chiến với quân Tống Giang.
Ngày hôm sau, nghe tin báo quân Liêu
đã đến gần, Tống Giang liền hạ lệnh cho tướng sĩ trong khi giao chiến phải xem
xét tình thế để khỏi bị quân giặc chia cắt bao vây. Các tướng được lệnh lập tức
khoác giáp lên ngựa, Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa cũng mặc giáp đeo đai, thân
hành ra trước quân đốc chiến.
Từ xa đã thấy quân Liêu kéo đến chật
đất, bóng cờ đen che kín một góc trời. Hai bên dàn ngay quân cung nỏ làm thành
trận tuyến. Đứng giữa môn kỳ bên quân cờ đen là một viên tướng cưỡi con ngựa
Thát đang tung vó. Cờ hiệu của viên tướng ấy đề rõ chữ: "Đại Liêu thượng
tướng A Lý Kỳ". Tống Giang thấy vậy nói với tả hữu:
- Không nên xem thường viên tướng
này!
Nói chưa dứt lời đã thấy Kim thương
thủ Từ Ninh cắp ngang ngọn thương móc câu nhảy phắt lên yên, thúc ngựa ra trước
trận. Tướng Liêu là A Lý Kỳ trông thấy liền mắng:
- Nhà Tống các ngươi thua to, nay
lại sai tên giặc cỏ cầm quân xâm phạm nươc ta, sao chưa biết tội chết!
Từ Ninh nói:
- Tên tướng nhãi ranh làm nhục quốc
thể kia, sao dám nói năng khinh mạn?
Quân hai bên hò reo. Từ Ninh và A Lý
Kỳ đấu nhau giữa trận. Hai ngựa chạm đầu, đôi thương cùng múa. Hai tướng đánh
chừng hơn ba mươi hiệp. Từ Ninh không địch nổi A Lý Kỳ, liền quay ngựa chạy về
trận nhà. Hoa Vinh vội lấy cung tên cầm tay, sẵn sàng đối phó với tên tướng
Liêu đang đuổi tới. Trương Thanh từ nãy đã vịn chặt yên ngựa, lúc này liền thọc
tay vào túc gấm lấy một viên đá, chờ cho tướng Liêu đến gần liền vung tay nhằm
đúng giữa mặt mà ném. Viên đá trúng ngay vào mắt trái, A Lý Kỳ lăn nhào xuống
đất. Lập tức bốn tướng Vinh Hoa, Lâm Xung, Tần Minh, Sách Siêu phóng ngựa xông
ra, trước hết đọat lấy con ngựa tốt rồi bắt sống A Lý Kỳ đưa về bản trận. Phó
tướng Sở Minh Ngọc thấy A Lý Kỳ bị bắt vội xông tới cứu. Đại quân của Tống
Giang ào tới đánh riết quá, Sở Minh Ngọc đành phải bỏ huyện Mật Vân, chịu một
phen đại bại chạy về Đàn Châu.
Tống Giang tạm thời không đuổi theo,
lệnh cho quân sĩ vào huyện Mật Vân đóng trại. Ngó tới A Lý Kỳ mới biết y bị vỡ
hố mắt, rơi mất một tròng nên đau đớn quá sức mà chết. Tống Giang ra lệnh cho
hoả thiêu thi hài tên tướng Liêu ấy. Trong quyển sổ ghi công, Trương Thanh được
ghi lên đầu. Tống Giang lấy các thứ như bộ giáp sắt liên hoàn, ngọn thương hoa
lê, đai lưng sư tử nạm ngọc, ngựa bạch lông xoắn cùng cung tên, giày trận,
chiến bào thu được của A Lý Kỳ thưởng cho Trương Thanh. Ngày hôm ấy ở huyện Mật
Vân tướng sĩ đều vui, bày tiệc rượu chúc mừng thắng trận, việc không có gì phải
nói.
Hôm sau, Tống Giang vào trướng quan
truyền lệnh lên đường, tất cả rời khỏi huyện Mật Vân thẳng tiến đến Đàn Châu.
Lại nói trấn thủ Đàn Châu là Động Tiên thị lang nghe tin quân mình bị mất một
viên chánh tướng, liền ra lệnh đóng chặt cổng thành không ra nghênh chiến. Tiếp
đó có tin đội thuỷ quân chiến thuyền tiến sát dưới thành, Động Tiên thị lang
bèn dẫn các tướng lên mặt thành quan sát, thấy bên trận Tống Giang các viên
mãnh tướng đang múa cờ quát thét, diễu võ dương oai khiêu chiến. Động Tiên thị lang
thấy vậy nói:
- Bọn chúng như thế, trách gì tiểu
tướng quân A Lý Kỳ chẳng bị thua!
Phó tướng Sở Minh Ngọc đáp:
- Tiểu tướng quân A Lý Kỳ đâu chịu
thua? quân Tống thua trước, tiểu tướng đuổi theo, chẳng may bị một tên mặc áo
bào xanh ném đá trúng mặt nên mới ngã ngựa. Bọn chúng bốn tên cầm bốn ngọn
thương xông ra chặn bắt; bên ta trở tay không kịp đành phải bó tay.
Động Tiên thị lang nói:
- Tên Tống ném đá ấy hình thù ra
sao?
Trong số tả hữu có kẻ nhận mặt được
liền chỉ tay nói:
- Tên chít khăn xanh kia, hiện đang
mặc áo giáp, cưỡi ngựa của tướng quân, chính là tên ném đá.
Động Tiên thị lang vịn tay nem xuống
bậc tường thấp để nhìn cho rõ. Chẳng ngờ Trương Thanh đã nhìn thấy trước liền
thúc ngựa đến gần vung đá ném lên. Quân tướng tuỳ tùng hoảng hốt chỉ kịp hét to
"nằm xuống", viên đá bay sạt qua đầu Động Tiên thị lang, xé rách một
mảnh tai. Động Tiên thị lang đau đớn kêu lên:
- Tên giặc ấy thật lợi hại!
Rồi Động Tiên thị lang xuống thành
trở về; một mặt viết biểu văn tâu lên vua Liêu, một mặt sai người đi báo tin
cho các phủ châu lân cận biết để phòng bị.
Lại nói đến Tống Giang đưa quân đến
dưới thành đốc chiến bốn năm ngày không thắng, tạm cho người ngựa trở về đóng
trại ở huyện Mật Vân rồi cùng các tướng vào trong trướng quân bàn tính kế hoạch
phá thành. Đái Tôn báo tin các đầu lĩnh thuỷ quân đã đem chiến thuyền đến sông
Lộ Thuỷ. Tống Giang cho mời bọn Lý Tuấn đến dự bàn. Lý Tuấn và các đầu lĩnh
thuỷ đến dưới trướng yết kiến Tống Giang. Tống Giang nói:
- Chuyến này ra quân không giống như
hồi còn ở Lương Sơn Bạc. Trước hết phải dò xét xem thế nước sông sâu thế nào
rồi mới tiến quân. Cứ như ta xem thì sông Lộ Thuỷ nước chảy rất xiết, chẳng may
thất lợi thì khó bề cứu ứng. Các người phải thăm dò cho kỹ không được xét đoán
qua loa. Chiến thuyền phải che đậy cho kín, khiến bọn chúng tưởng lầm là thuyền
chở lương. Anh em đầu lĩnh các ngươi giắt sẵn vũ khí nấp trong các thuyền. Mỗi
thuyền chỉ để bốn năm tên quân chèo chống, thêm hai tên quân kéo dây đi trên
bờ, cứ từ từ mà tiến đến sát thành, cho đậu thuyền hai bên bờ sông, đợi ta ở
đây dẫn quân tiến đến. Trong thành bọn chúng nghe báo tin sẽ mở cửa sông cho
quân ra cướp thuyền lương. Phục binh trong các thuyền nhất tề nổi dậy đọat lấy
cửa khẩu, như thế thì công lớn chắc hẳn sẽ thành.
Bọn Lý Tuấn vâng lệnh đi ra. Vừa lúc
ấy có viên hiệu uý đi dò xét đường thuỷ về báo: "phía tây bắc có một đội
kỵ mã ước hơn một vạn quân, trương cờ hiệu thêu hình chim diều hâu đen, đang
tiến về Đàn Châu".
Ngô Dụng nói:
- Đây ắt là quân cứu viện do vua
Liêu sai đến. Ta nên cử các tướng đưa quân chặn đường đánh tan, chớ để cho bọn
trong thành được tiếp thêm dũng khí.
Tống Giang bèn sai Trương Thanh,
Đổng Bình, Quan Thắng, Lâm Xung mỗi người đem theo hơn bốn chục tiểu đầu lĩnh
cùng năm ngàn quân mã cấp tốc đi chặn đánh.
Nguyên là được tin báo bọn hảo hán
Tống Giang ở Lương Sơn Bạc đưa quân đến vây hãm Đàn Châu, vua Liêu bèn đặc cách
sai hai hoàng điệt là Da Luật Quốc Trân và Da Luật Quốc Bảo dẫn quân đi cứu
ứng. Hai người ấy là thượng tướng của nước Liêu, lại đều là cháu nhà vua. Lúc
này hai tướng đang dẫn hơn một vạn quân đến cứu viện cho Đàn Châu. Quân Liêu
đến gần, quân Tống đón chặn. Quân Liêu tản ra hai bên dàn trận, hai tướng cùng
lúc phóng ngựa lên.
Hai tướng ấy là anh em ruột, ăn mặc
như nhau, hai chiếc thương cũng giống hệt. Quân Tống đón tới, bầy trận cũng vừa
xong. Song thương tướng Đổng Bình thúc ngựa ra, cất tiếng quát to:
- Quân giặc kia từ đâu tới?
Da Luật Quốc Trân cả giận quát lại:
- Bọn giặc cỏ đến xâm phạm đại quốc
ta, lại còn dám hỏi chúgn ta từ đâu tới?
Đổng Bình chẳng thèm đáp lại, xách
thương thúc ngựa lao vào đánh Da Luật Quốc Trân. Viên tướng Liêu trẻ tuổi, tính
khí đang hăng đâu có chịu nhường một bước, thấy vậy liền vác thương đón đánh.
Hai ngựa giao nhau, ba thương cùng cất. Giữa đám bụi tung mịt mù, hai tướng hầm
hầm sát khí, quần lộn giao tranh: tướng đánh hai thương có cách đánh lạ, tướng
một thương lại biết lợi dụng rất đúng thời cơ. Hai người đánh năm mươi hiệp vẫn
không phân thắng bại.
Da Luật Quốc Bảo thấy giao chiến quá
lâu, sợ anh mình đuối sức, sai nổi hiệu chiêng. Da Luật Quốc Trân đang lúc đánh
hăng, nghe hiệu chiêng vội quay ngựa về. Đổng Bình múa hai thương chặn ngay
không bỏ lỡ. Da Luật Quốc Trân núng thế, đường thương đỡ gạt vụng về. Đổng Bình
liền vung tay phải gạt ngọn Lục trầm thương, tiếp liền nâng thương tay trái đâm
trúng ngay sau gáy. Thương thay Da Luật Quốc Trân mũ trụ chúi đất, hai chân đạp
trời, lăn nhào xuống ngựa! Da Luật Quốc Bảo thấy anh bị đâm ngã, một mình một
ngựa xông ra cứu. Bên trận quân Tống, Một vũ tiễn Trương Thanh thấy Da Luật
Quốc Bảo phóng ngựa đến, đâu chịu bỏ qua, lúc này đã chống ngọn thương hoa lê
ngồi vững trên yên ngựa, thọc tay vào túi gấm lấy sẵn một hòn đá rồi vỗ ngựa
phóng như bay ra trước trận. Da Luật Quốc Bảo cũng đang lao đến. Trương Thanh ngẩng
đầu thúc ngựa chồm tới. Hai ngựa cách nhau không đầy mười trượng, Da Luật Quốc
Bảo không đề phòng vì nghĩ rằng viên tướng kia sẽ đến giao chiến. Bất ngờ
Trương Thanh vung tay thét lớn: "xem!" Hòn đá vụt tới trúng giữa mặt
tên tướng Liêu; Da Luật Quốc Bảo vỡ đầu, lăn nhào xuống đất. Quan Thắng, Lâm
Xung khua quân ào tới giáp chiến. Quân Liêu mất chủ tướng thì hoảng sợ tìm
đường chạy tháo thân. Chỉ một trận ấy, quân Tống đánh tan hơn một vạn người
ngựa quân Liêu, giết hai tướng, chặt lấy thủ cấp, thu toàn bộ yên cương giáp
trụ và hai tấm kim bài. Ngựa chiến bắt được cũng đến hơn nghìn con, đều cho dắt
về huyện Mật Vân giao nộp cho Tống tiên phong. Tống Giang cả mừng, cho khao
thưởng ba quân, ghi công trận thứ hai cho Đổng Bình và Trương Thanh, chờ khi lấy
được Đàn Châu sẽ viết biểu văn tâu lên triều đình luôn thể.
Tống Giang cùng bàn với Ngô Dụng:
đến chập tối viết quân thiếp sai người đưa đi hạ lệnh cho Lâm Xung, Quan Thắng,
dẫn một đội quân mã và đánh Đàn Châu từ hướng tây bắc, lại điều Hô Diên Chước, Đổng
Bình đưa quân mã đánh vào hướng đông bắc, Lư Tuấn Nghĩa từ hướng tây nam. Tống
Giang nói:
- Còn ta dẫn đội trung quân đánh từ
phía đông nam, hễ nghe một tiếng súng lệnh tất cả cùng lúc lên đường.
Lại sai pháo thủ Lăng Chấn cùng các
tứớng Lý Quỳ, Phàn Thuỵ, Bao Húc hợp sức với Hạng Sung, Lý Cổn chỉ huy đội giáp
sĩ hơn một nghìn quân tiến thẳng đến chân thành, bắn súng lệnh báo hiệu. Đã
định giờ vào lúc canh hai, thuỷ lục hai đường cùng tiến; các cánh quân đều phải
sẵn sàng tiếp ứng cho nhau. Lệnh truyền đã xong, các tướng ai nấy chuẩn bị đi
đánh thành.
Lại nói Động Tiên thị lang ra sức cố
thủ thành Đàn Châu trông chờ viện binh. Bỗng có tàn quân người ngựa liều chết
chạy được vào thành, kể lại việc hai hoàng điệt Da Luật Quốc Trân bị viên tướng
đánh hai thương đâm chết; Da Luật Quốc Bảo thì bị tên chít khăn xanh ném đá
trúng đầu ngã ngựa rồi bị bắt. Động Tiên thị lang giẫm chân kêu lên:
- Lại vẫn tên chít khăn xanh! chưa
đánh chác ra sao mà đã mất hai hoàng điệt, ta còn mặt mũi nào về yết kiến quốc
vương? bắt được tên chít khăn xanh ấy phải băm nát ra từng mảnh.
Tối hôm ấy quân lính đến báo với
Động Tiên thị lang: "ngoài sông Lộ Thuỷ có chừng năm bảy trăm chiếc thuyền
lương đậu hai bên bờ, phía sau có quân mã đang tiến đến". Động Tiên thị
lang nghe xong nói:
- Bọn giặc ấy không biết đường thuỷ
ở đây nên mới dại dột đưa thuyền lương đến tận chỗ ấy. Còn người ngựa trên bờ
thì chắc hẳn là đội quân đi đón thuyền lương.
Nói đoạn bèn gọi ba tướng là Sở Minh
Ngọc, Tào Minh Tế, Giảo Nhi Duy Khang đến căn dặn:
- Bọn Tống Giang ngu ngốc đêm nay
lại đưa nhiều người ngựa đến đánh, nhưng có đoàn thuyền lương lại đậu cả ở bờ
sông của ta. Ta giao cho Giảo Nhi Duy Khang đưa một ngàn quân kỵ ra đánh ngoài
thành, còn Sở Minh Ngọc và Tào Minh Tế thì mở cửa sông thả thuyền qua chỗ nước
xoáy. Số thuyền lương của chúng chia ba, đánh đắm cho được hai phần, thế đã là
công to của các ngươi rồi đó!
Chưa rõ thắng bại ra sao, chỉ biết
có thơ làm chứng như sau:
Diệu toán tòng lai hồi bất đồng,
Đàn Châu thành hạ liệt mông xung.
Thị lang bất thức binh gia ý,
Phản tự khai môn bả lộ thông.
Mưu lược xưa rày thật khác nhau
Chiến thuyền kéo đến đánh Đàn Châu.
Thị lang thấp kế không tính trước
Trót mở đường sông đón địch vào.
Lại nói người ngựa bên quân Tống
Giang, chập tối hôm ấy Lý Qùy, Phàn Thuỵ dẫn đội quân bộ kéo đến chân thành
mắng chửi ầm ĩ. Động Tiên thị lang gọi Giảo Nhi Duy Khang đưa kỵ binh ra đánh.
Cổng thành mở toang, cầu treo hạ xuống cho quân Liêu tiến ra. Nhưng năm hảo hán
Lý Quỳ, Phàn Thuỵ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn chỉ huy đội quân bộ hơn một nghìn
ngươi, thảy đều là quân giáp sĩ gan dạ vác đao mang thuẫn, lập tức xông đến
chiếm giữ phía đầu cầu, quân Liêu không thể nào ra đuợc. Trong khi đó, Lăng
Chấn cho dựng giá súng, đợi đúng lúc là bắn. Quân trên thành bắn tên xuống thì
đã có quân giáp sĩ đứng hai bên giơ thuẫn đỡ gạt hết, còn quân Bao Húc thì đứng
phía sau hò reo không ngớt. Tuy chỉ hơn nghìn người nhưng khí thế ầm ầm như
quân đông hàng vạn. Động Tiên thị lang đứng trong thành thấy quân kỵ không xông
ra được, vội gọi Sở Minh Ngọc và Tào Minh Tế mở cửa sông đưa quân thuỷ đi cướp
thuyền lương. Lúc ấy các đầu lĩnh thuỷ quân của Tống Giang nấp trong các thuyền
đã chuẩn bị sẵn nhưng giữ yên không động cựa. Thấy quân Liêu ra mở cửa sông, ai
nấy đều bật dậy hất tung mái che, chèo thuyền lao tới. Lăng Chấn được tin lập
tức châm ngòi lửa. Tiếng pháo lệnh nổ vang, chiến thuyền hai bên bờ cùng lúc
lướt tới đón đánh chíên thuyền quân Liêu. Bên trái là Lý Tuấn, Trương Hoành,
Trương Thuận, phía bên phải là ba anh em họ Nguyễn, tất cả đều nhảy lên mui đốc
thúc chiến thuyền lao thẳng vào giữa đội thuyền quân Liêu. Tướng Liêu là Sở
Minh Ngọc và Tào Minh Tế thấy chiến thuyền của địch ào ào lướt tới, biết không
chống cự nổi, lại sợ có bộ binh mai phục trên bờ, vội cho quay thuyền chạy về.
Nhưng thuyền quân Tống đã đuổi kịp, thuỷ thủ ào ạt nhảy sang, Sở Minh Ngọc và
Tào Minh Tế phải nhảy lên bờ chạy trốn. Sáu đầu lĩnh thuỷ quân của Tống Giang
liền chiếm ngay cửa sông, quân tướng canh giữ phần thì bị chém chết, số còn lại
đều tìm đường chạy trốn. Sở Minh Ngọc và Tào Minh Tế liều thân chạy thoát. Như
đã định trước, đội thuỷ quân đốt lửa hiệu trên cửa sông, Lăng Chấn liền bắn
súng đáp lại. Phát đạn lửa bay vọt lên nổ vang lưng trời.
Động Tiên thị lang liên tiếp nghe
tiếng hoả pháo rung trời, hỏang sợ phách lạc hồn xiêu. Lý Qùy, Phàn Thuỵ, Bao
Húc dẫn quân giáp sĩ của Hạng Sung, Lý Cổn áp đánh vào thành. Động Tiên thị
lang và Giảo Nhi Duy Khang thấy cổng thành đã bị chiếm, quân Tống bốn bề đều
nhất loạt đánh tới, chỉ kịp lên ngựa, bỏ thành chạy ra phía cửa bắc thoát thân.
Chưa đầy hai dặm chúng lại gặp Đại đao Quan Thắng và Báo tử đầu Lâm Xung xông
ra chặn đường. Thật là:
Lưới trời buông thấp khôn lối thoát,
Võng đất giơ cao thật khó luồn.
Chưa biết Động Tiên thị lang có chạy
thoát hay không, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 84 -
Tống Công Minh Đánh Thành Kế Châu
Đang nói chuyện Động Tiên thị lang
thấy Đàn Châu đã mất, bèn tẩu thoát khỏi thành, có Giảo Nhi Duy Khang theo hộ
vệ, không ngờ gặp phải Lâm Xung và Quan Thắng, đành phải một phen giao chiến
quyết liệt. Nhưng Động Tiên thị lang chẳng còn ham đánh, chỉ chờ một đường đâm
trượt liền thóat ra ngoài chạy trốn. Quan Thắng và Lâm Xung muốn tiến vào chiếm
thành nên cũng không đuổi theo.
Lại nói Tống Giang dẫn đại quân
người ngựa vào thành Đàn Châu, đánh tan quân Liêu, treo bảng vỗ yên dân trăm
họ, ra lệnh cho quân sĩ không được tơ hào xâm phạm của dân. Lại sai quân đi thu
thập các chiến thuyền đưa về đậu cả ở bến sông trong thành, một mặt cho khao
thưởng ba quân. Lại xét đến những người từng làm quan cho giặc Liêu, ai có họ
thì được lưu dùng, cho giữ chức quan như trước, ai không có họ thì đuổi ra khỏi
thành bắt phải trở về sa mạc. Một mặt viết biểu văn tâu về triều báo tin đã thu
phục Đàn Châu, xin đem báu vật vàng lụa thu được trong kho nộp hết về kinh.
Trong thư gửi Túc thái uý có nói rõ sự việc để nhờ tâu giúp lên thiên tử.
Thiên tử nghe tâu hết sức vui mừng,
liền hạ chiếu bổ nhiệm viên quan họ Triệu đang giữ chức đồng tri an phủ sứ Đông
Kinh lĩnh chức khâm sai, thống lĩnh hai vạn quân kỵ và quân bộ thuộc ngự doanh
lên vùng chiến trận để giám chiến. Tống Giang được tin báo liền dẫn các tướng
ra tận ngoài thành nghênh tiếp, mời quan khâm sai về nghỉ trong dinh phủ Đàn
Châu, tạm dùng nơi ấy làm suý phủ chỉ huy việc hành quân. Các đầu lĩnh và đầu
mục đều đến hành dinh làm lễ yết kiến.
Triệu an phủ vốn dòng dõi tôn thất
họ Triệu, xưa nay có tiếng là người độ lượng, nhân đức, thẳng thắng trong khi
làm việc quan, lại được Túc thái uý đề cử nên được thiên tử đặc cách sai lên
biên giới xem xét việc quân. Triệu an phủ thấy Tống Giang là người nhân đức, cả
mừng nói:
- Thánh thượng biết anh em các tướng
quân một lòng chăm lo công việc, quân sĩ trải nhiều vất vả gian lao, nên đặc
cách sai hạ quan đến đây trông coi việc quân. Hạ quan cũng chuyển đến đây các
thứ vàng bạc gấm vóc của thiên tử ban cho các tướng sĩ, tất cả là hai mươi lăm
xe. Thiên tử căn dặn hễ các tướng lập được công to thì tâu về để triều đình
phong quan tước. Nay tướng quân đã lấy được châu quận của nước Liêu, hạ quan sẽ
xin tâu ngay về triều. Mong các tướng quân gắng sức dốc lòng cho chóng thành
công lớn, khi về kinh ắt sẽ được thiên tử trọng dụng.
Mọi người đều vái tạ, Tống Giang
nói:
- Nay xin mời tướng công ở lại trấn
thủ Đàn Châu. Anh em tiểu tướng sẽ chia quân đi đánh những châu quận hiểm yếu,
khiến cho quân Liêu không trông dựa vào nhau được nữa.
Tiếp đó, Tống Giang một mặt sai chia
đồ thưởng cho các tướng sĩ, một mặt cho gọi các đạo quân mã đóng xa trở về, chờ
lệnh điều đi đánh các châu quận khác của nước Liêu. Dương Hùng thưa:
- Vùng này tiếp liền với Kế Châu, đó
là một quận lớn, lắm của nhiều lương, thóc gạo dồi dào, xưa nay vẫn coi là kho
đụn của nước Liêu. Đánh được Kế Châu thì các nơi khác đều lấy được.
Tống Giang nghe xong liền cho mời
quân sư Ngô Dụng vào bàn bạc.
Lại nói Động Tiên thị lang cùng với
Giảo Nhi Duy Khang đang tế ngựa chạy trống về phía đông thì gặp tàn quân người
ngựa của Sở Minh Ngọc và Tào Minh Tế, bèn cùng nhau chạy vào thành Kế Châu.
Động Tiên thị lang liền đến yết kiến hoàng đế đại vương Da Luật Đắc Trọng, kể
lại rằng:
- Quân tướng Tống Giang thế lực rất
lớn, trong số đó có một tên ném đá trăm phát trăm trúng làm thiệt mạng quân ta
rất nhiều. Hai hoàng điệt và tiểu tướng A Lý Kỳ đều bị tên ấy ném chết.
Da Luật đại vương nói:
- Ngươi hãy ở lại đây giúp chúng ta
chặt đầu tên ấy.
Chưa dứt lời thấy quân thám mã trở
về cấp báo: "Tống Giang chia quân hai ngả tiến đánh Kế Châu, một đường
đánh vào huyện Bình Dụ, một đường đánh vào huyện Ngọc Điền".
Da Luật đại vương nghe xong liền ra
lệnh cho Động Tiên thị lang:
- Khanh hãy dẫn ngay đội quân kỵ đến
bịt đường ở cửa huyện Bình Dụ, không cần giao chiến với quân Tống. Ta sẽ đưa
quân đến, trước hãy bắt trói tướng giặc ở huyện Ngọc Điền, rồi vòng sau lưng
đánh quật lại, bọn giặc ở huyện Bình Dụ có chạy thóat đằng trời! một mặt báo
ngay cho Bá Châu và U Châu để hai nơi ấy điều quân mã đến tiếp ứng.
Nguyên thành Kế Châu này vua Liêu đã
sai em ruột là Da Luật Đắc Trọng đến đóng giữ. Dưới trướng Da Luật Đắc Trọng có
bốn con trai: con cả là Tông Vân, con thứ hai là Tông Điện, con thứ ba là Tông
Lôi, con thứ tư là Tông Lâm. Thủ hạ còn có mười mấy viên chiến tướng. Tổng binh
đại tướng là Bảo Mật Thánh, phó tổng binh là Thiên Sơn Dũng lo việc canh giữ
thành trì quận Kế Châu. Lúc này Da Luật đại vương giao cho Bảo Mật Thánh ở lại
giữ thành, còn mình cùng với bốn con trai và phó tổng binh Thiên Sơn Dũng dẫn
đại quân thúc ngựa tiến như bay về huyện Ngọc Điền.
Tống Giang kéo quân đến huyện Bình
Dụ, thấy cửa ải phía trước đã đóng chặt, chưa dám tiến quân, bèn cho đóng trại
ở phía tây huyện thành.
Lại nói Lư Túân Nghĩa và các đầu
lĩnh dẫn ba vạn quân kỵ tiến đến huyện Ngọc Điền, mỗi lúc một gần quân Liêu, Lư
Tuấn Nghĩa bàn với quân sư Chu Vũ:
- Nay đã đến gần quân địch nhưng
quân ta chưa quen vượt biên giới, đến miền đất lạ không hiểu địa thế ra sao,
chẳng hay quân sư có kế sách gì hay?
Chu Vũ đáp:
- Cứ theo ngu ý của Chu Vũ tôi, nếu
chưa thông hiểu địa thế thì không thể tuỳ tiện cho quân tiến liều. Nay hãy dàn
quân theo kế "trường xà"; đầu đuôi tiếp ứng, khép kín hai đầu, cứ theo
đường cuộn tròn mà tiến. Như thế thì không lo là chưa quen thuộc địa thế.
Lư tiên phong nói:
- Lời quân sư rất hợp ý ta.
Nói đoạn Lư Tuấn Nghĩa thúc quân
tiến lên. Nhìn ra phía trước, Lư Tuấn Nghĩa thấy quân Liêu, đang tiến đến rợp
đất.
Ngự đệ đại vương Da Luật Đắc Trọng
dẫn quân mã đến huyện Ngọc Điền liền dàn ngay thế trận. Bên quân Tống, quân sư
Chu Vũ trèo lên chòi cao xem xét, rồi xuống nói với Lư Tuấn Nghĩa.
- Quân Liêu bày trận theo thế
"ngũ hổ kháo sơn" (năm con hổ dựa vào núi), chẳng có gì lạ.
Nói đọan lên tướng đài cầm cờ hiệu
phất trái vẫy phải điều quân dàn trận. Lư Tuấn Nghĩa hỏi:
- Quân sư bày trận gì?
Chu Vũ đáp:
- Ấy là trận "côn hoá vi
bằng" (cá Côn hoá thành chim bằng).
Lư Tuấn Nghĩa hỏi:
- Thế nào gọi là trận Côn hoá vi
bằng?
Chu Vũ đáp:
- Ở biển bắc có loài cá gọi là cá
Côn, có thể hoá thành chim bằng, mỗi chuyến bay xa chín vạn dặm. Trận đang bày
đây, nhìn gần nhìn xa đều thấy là một thế trận nhỏ, nhưng khi quân địch đánh
tới thì có thể chuyển ngay thành một trận lớn. Vì vậy mà gọi là trận "Côn
hoá vi bằng".
Lư Tuấn Nghĩa nghe xong tấm tắc khen
ngợi mãi.
Bên trận quân Liêu đã nổi trống. Từ
dưới môn kỳ, Da Luật đại vương cưỡi ngựa ra trước trận, bốn con trai theo sát
hai bên. Da Luật đại vương đi giữa, bốn tiểu tướng đi kèm hai bên, vai áo người
nào cũng lấp lánh hai miếng gương nhỏ, ngoài vành có giát vòng hột đen. Bốn
ngọn đao dài, hai đôi tuấn mã phóng đều ra trước trận. Sau lưng Da Luật đại
vương quân lính lớp lớp dàn hàng, đội ngũ đều đặt dưới quyền của các viên chiến
tướng. Bốn tiểu tướng đồng thanh quát to:
- Bọn giặc cỏ kia sao dám xâm phạm
biên giới nước ta!
Lư Túân Nghĩa nghe đoạn, quay lại
hỏi:
- Hai bên sắp vào trận, ai là kẻ anh
hùng dám ra đánh trước?
Chưa dứt lời đã thấy Đại đao Quan
Thắng múa cây thanh long yến nguyệt phóng ngựa lên trước. Tướng Liêu là Da Luật
Tông Vân khua đao thúc ngựa đón đánh Quan Thắng. Hai tướng đánh chưa quá năm
hiệp thì Da Luật Tông Lâm vác đao xông vào trợ chiến. Hô Diên Chước thấy vậy
liền vung đôi roi sắt thẳng tới chặn đường. Hai anh em Da Luật Tông Điện và Da
Luật Tông Lôi cũng quất ngựa vào đánh. Bên quân Tống, Từ Ninh và Sách Siêu lập
tức ra nghênh chiến. Bốn đôi chiến tướng ra sức quyết đấu giữa trận. Giữa lúc
ấy, Một vũ tiễn Trương Thanh lặng lẽ thúc ngựa ra trước trận. Bên Liêu có tên
quân sĩ nguyên là tàn quân ở Đàn Châu chạy về, nhận ra Trương Thanh, hoảng hốt
đến báo với Da Luật đại vương:
- Viên tướng mặc chiến bào xanh kia
chính là tay ném đá!
Thiên Sơn Dũng nói:
- Xin đại vương cứ bình tâm, để tôi
cho hắn thử nếm một mũi tên!
Thiên Sơn Dũng vốn quen ngồi trên
ngựa dùng chiếc nỏ sơn đen, mũi tên sắt kẹp lông chim, nổi tiếng với tên hiệu
là "nhất điểm du" (một đốm sáng). Bấy giờ Thiên Sơn Dũng đặt tay sẵn
bên lẫy nỏ, thúc ngựa ra trận, lệnh cho hai viên phó tướng đi trước. Ba ngựa êm
gót tiến ra trước trận, Trương Thanh đã nhìn thấy trước, cầm đá sẵn trong tay,
nhằm đúng giữa đầu tên tướng Liêu mà ném, quát to: "xem". Viên đá bay
suợt qua mũ sắt. Thiên Sơn Dũng cúi rạp xuống lưng ngựa tránh khỏi, liền đặt
tên lên nỏ áp tay lẫy cò, cho ngựa tiến gần thêm nữa rồi kéo lẫy phóng tên đi.
Trương Thanh kêu lên một tiếng "Ái dà!", vội cúi tránh thì mũi tên đã
trúng vào cổ họng, ngã lăn xuống ngựa. Song thương tướng Đổng Bình, Cửu văn
long Sử Tiến và Giản Trân, Giải Bảo liều chết xông ra cứu đựợc Trương Thanh đưa
về trận nhà. Lư tiên phong thấy vậy vội báo nhổ ngay mũi tên. Máu chảy nhiều,
Lư Tuấn Nghĩa phải cho băng tạm rồi sai Trâu Uyên, Trâu Nhụân đỡ Trương Thanh
lên xe chở gấp về Đàn Châu giao cho thần y An Đạo Toàn điều trị.
Xe chở Trương Thanh vừa đi khỏi,
phía trước lại nghe có tiếng reo hò, quân thám mã phi ngựa đến báo.
- Có một đội kỵ binh từ phía tây bắc
đang đánh vào giữa trận.
Lư Tuấn Nghĩa thấy Trương Thanh
trúng tên, không ham đánh nữa. Bốn tướng đang giao chiến cũng giả cách đánh
thua, lui về trận nhà. Bốn tướng Liêu thừa thế đuổi theo, đội kỵ binh từ phía
tây bắc tới cũng đánh vào giữa trận. Quân Liêu thế mạnh như nước đổ, ồ ạt tràn
sang, làm thay đổi hẳn thế trận của quân Tống. Quân Lư Tuấn Nghĩa bị cắt đứt thành
bảy tám đoạn, tướng sĩ ba quân không thể cứu ứng được cho nhau. Lư Tuấn Nghĩa
một thương một ngựa, hết sức đánh dẹp mở đường chạy thoát. Trời sắp tối, bốn
tướng Lieu quay lại đón đánh Lư Tuấn Nghĩa. Một ngựa một thương đương đầu với
bốn tướng địch, Lư Tuấn Nghĩa vẫn không nao núng. Đánh giữ một hồi lâu, nhân
lúc tướng giặc sơ hở, Lư Tuấn Nghĩa đánh dứ một đường thương, Da Luật Tông Lâm
lia đao xông vào. Lư Tuấn Nghĩa hét to một tiếng, viên tướng Liêu trở tay không
kịp bị Lư Tuấn Nghĩa đâm trúng, hất nhào xuống ngựa. Ba tướng còn lại khiếp sợ
thúc ngựa quay về. Lư Tuấn Nghĩa xuống ngựa, rút đoản đao chặt đầu Da Luật Tông
Lâm treo dưới yên ngựa rồi nhẩy lên yên phóng như bay về phía nam. Lại đụng đầu
với một đội quân Liêu chừng hơn một nghìn tên, Lư Tuấn Nghĩa xông thẳng vào
chém giết, đánh giạt hết. Đi tiếp chưa được vài dặm lại gặp một đội quân nữa.
Đêm ấy tối trời, không rõ là bên
quân bên nào, nhưng nghe tiếng nói thie biết là quân Tống. Lư Túân Nghĩa gọi
to:
- Quân bên nào?
Nghe tiếng Hô Diên Chước trả lời, Lư
Tuấn Nghĩa cả mừng cho ngựa đi tới. Hô Diên Chước nói:
- Bị quân Liêu đánh bạt, anh em tiểu
đệ không cứu ứng được cho nhau. Đệ xông ra mở đường rồi cùng bọn Hàn Thao, Bành
Kỷ vừa đánh vừa chạy đến đây, không biết đại huynh lâm trận thế nào?
Lư Túân Nghĩa nói:
- Ta một mình đánh với bốn tứơng của
bọn chúng, đâm chết một tên, ba tên còn lại bỏ chạy. Sau lại đánh tan một đội
quân khác chừng hơn nghìn tên. Đến đây không ngờ lại gặp hiền đệ.
Hai người cùng sánh ngựa, đưa quân
đi về hướng nam. Chưa được mười dặm, phía trước thấy có một đội quân chặn
đường. Hô Diên Chước nói to:
- Ban đêm không giao chiến, đợi sáng
mai hãy trổ tài quyết chiến!
Quân phía trước nghe xong hỏi lại:
- Có phải tướng quân Hô Diên Chước
đó không?
Hô Diên Chước nhận ra tíêng của Đại
đao Quan Thắng, bèn gọi to:
- Có Lư tiên phong ở đây!
Các đầu lĩnh đều xuống ngựa ngồi
nghỉ trên bãi cỏ. Lư Túân Nghĩa, Hô Diên Chước thụât lại chuyện phá vây thóat
hiểm. Quan Thắng nói:
- Thấy tình thế bất lợi, đệ cùng bọn
Tuyên Tán, Hách Tư Văn, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, năm người năm ngựa cố
sức đánh để thóat ra, sau thu nhặt tàn quân hơn nghìn quân rút về. Vì không
biết đường đành phải nghỉ lại đây chờ đến lúc trời sáng, may sao lại gặp đại
huynh.
Các tướng hợp quân hai đội, cho quân
sĩ nghỉ ngơi, sáng hôm sau lại đi tiếp về hướng nam. Gần đến huyện Ngọc Điền
thấy một toán quân kỵ đi tuần tiễu. Nhìn kỹ thì hoá ra là Song thương tứơng
Đổng Bình và Kim thương thủ Từ Ninh. Bấy giờ mới biết quân Liêu đã rút chạy và
các tướng khác của Lư Tuấn Nghĩa đã đưa quân vào trong huyện Ngọc Điền. Đổng
Bình nói:
- Hầu Kiện và Bạch Thắng đến quân
doanh của Tống tiên phong để báo tin, các đầu lĩnh khác đã đem quân về, chỉ
thiếu Giải Trân, Giải Bảo, Dương Lâm và Thạch Dũng.
Lư Tuấn Nghĩa ra lệnh cho quân đi
tiếp. Đến cửa huyện Ngọc Điền điểm số tướng sĩ thấy thiếu hơn năm nghìn quân.
Chừng quá trưa có tin bọn Giải Trân, Giải Bảo, Dương Lâm, Thạch Dũng đã dẫn hai
nghìn quân trở về. Lư Tuấn Nghĩa gọi vào hỏi, Giải Trân nói:
- Bốn anh em chúng tôi thoát được,
nhưng vì vào sâu nơi đất hiểm bị lạc đường nên không dám quay về. Sáng nay lại
chạm trán với giặc, giao chiến một trận lớn mới về được đến đây.
Lư Tuấn Nghĩa sai bêu thủ cấp Da
Luật Tống Lâm ngoài cửa huyện Ngọc Điền, một mặt cáo thị vỗ yên quân dân trăm
họ.
Trước lúc trời tối, khi quân sĩ đang
thu dọn để nghỉ ngơi, một viên tiểu hiệu ở đội tuần tiễu vào báo:
- Quân Liêu rất đông, đang tiến đến
vây thành.
Lư Túân Nghĩa nghe báo cả kinh, liền
dẫn Yến Thanh lên mặt thành quan sát, thấy đuốc sáng rực trời. Tướng Liêu là Da
Luật Tống Vân cưỡi ngựa đứng dưới mấy bó đuốc đang đốc thúc ba quân.
Yến Thanh nói:
- Phải bắt bọn chúng trả món nợ bắn
trộm Trương Thanh!
Nói đoạn Yến Thanh giương nỏ, thả
một mũi tên cắm phập giữa mũi Da Luật Tống Vân, hất hắn lăn nhào xuống ngựa.
Quân Liêu vội lui về phía sau năm dặm.
Lư Tuấn Nghĩa báo với các tướng:
- Tuy một mũi tên giết chết tướng
giặc, quân giặc phải tạm lui, nhưng sáng mai thế nào bọn chúng cũng lại đến
đánh. Nếu bị vây ở đây chẳng khác gì bị nhốt trong thùng kín, bấy giờ không
biết thoát ra bằng cách nào?
Chu Vũ nói:
- Nếu Tống tiên phong biết tin, thế
nào cũng đưa quân đến cứu. Trong đánh ra, ngòai đánh vào tất sẽ phá được thế
nguy.
Đêm ấy mọi người đều chờ đợi. Mờ
sáng nhìn ra thấy quân Liêu vây kín bốn phía. Từ phía đông nam có quân mã đông
đến mấy vạn đang tiến đến, bụi cát bốc mù trời. Ai nấy đều hồi hộp chờ đợi.
Quân sư Chu Vũ nói:
- Đúng là quân của Tống tiên phong!
quân Liêu thế nào cũng phải quay lại đánh quân cứu viện, chúng ta sẽ đem quân
đánh thốc vào sau lưng chúng.
Lại nói quân Liêu vây thành từ sáng
sớm đến quá trưa; quân lính đã mỏi mệt, nên khi bị quân Tống Giang đánh tới thì
không chống cự nổi. Quân Liêu phải rút chạy.
Chu Vũ nói:
- Bây giờ chính là lúc phải cho quân
đuổi theo.
Lư Tuấn Nghĩa liền hạ lệnh mở cả bốn
cửa thành cho quân kỵ đuổi đánh. Quân Liêu một phen đại bại, thây chết ngổn
ngang, bọn sống sót tan tác tháo chạy.
Tống Giang tung quân đuổi theo quân
Liêu đến chiều tối mới khua chiêng thu quân tiến vào huyện Ngọc Điền hội quân
với Lư Tuấn Nghĩa. Hai vị chánh phó tiên phong cùng bàn tính việc tiến đánh Kế
Châu. Cắt cử các tướng: Sài Tiến, Lý Ứng, Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận,
ba anh em họ Nguyễn, Vương Nuỵ Hổ, Nhất Trượng Thanh, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Thái
viên tử Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Bùi Tuyên, Tiêu Nhượng, Tống Thanh, Nhạc
Hoà, An Đại Toàn, Hoàng Phủ Đoan, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Vương Định Lục ở lại giúp
Triệu khu mật đóng giữ thành Đàn Châu. Các tướng còn lại đều chia vào hai đội
quân tả hữu. Tống tiên phong thống lĩnh đội tả quân, dưới cờ có bốn mươi bảy
viên tùy tướng là: quân sư Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần
Minh, Hoàng Tín, Chu Đồng, Lôi Hoành, Lưu Đường, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng,
Dương Hùng, Thạch Tú, Dương Chí, Tôn Lập, Âu Bằng, Đặng Phi, Lã Phương, Quách
Thịnh, Phàn Thuỵ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Mục Hoằng, Mục Xuân, Khổng Minh,
Khổng Lượng, Yến Thuận, Mã Lân, Thị Ân, Tiết Vĩnh, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Chu Quý,
Chu Phú, Lăng Chấn, Thanh Long, Sái Phúc, Sái Khánh, Đái Tôn, Tưởng Kính, Kim
Đại Kiên, Đoàn Cảnh Thụ, Thời Thiên, Úc Bảo Tứ, Mạnh Khang.
Phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa thống
lĩnh đội hữu quân dưới cờ có ba mươi sáu viên tùy tướng: quân sư Chu Vũ, Quan
Thắng, Hô Diên Chước, Đổng Bình, Một vũ tiễn Trương Thanh, Sách Siêu, Từ Ninh,
Yến Thanh, Sử Tiến, Giải Trân, Giải Bảo, Hàn Thao, Bành Kỷ, Tuyên Tán, Hách Tư
Văn, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Trần Đạt, Dương Xuân, LÝ Trung, Chu Thông,
Đào Tông Vượng, Trịnh Thiên Thọ, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Trâu Uyên, Trâu
Nhuận, Lý Lập, Lý Vân, Tiêu Đĩnh, Thạch Dũng, Hầu Kiện, Đỗ Hưng, Tào Chính,
Dương Lâm, Bạch Thắng.
Theo kế hoạch đã định thì Tống tiên
phong tiến quân qua huyện Bình Du; Lư tiên phong xuất quân từ huyện Ngọc Điền.
Còn Triệu khu mật cùng hai mươi bay tuỳ tướng ở lại đóng giữ Đàn Châu thì không
phải nói tới.
Tống Giang thấy quân sĩ bao ngày vất
vả, bèn hoãn việc đánh Kế Châu, cho quân sĩ nghỉ ngơi. Trong mấy ngày ấy Tống
Giang đã sai người về Đàn Châu thăm hỏi Trương Thanh. Thần y An Đạo Toàn phúc
đáp: "Trương Thanh bị vết thương xé thị nhưng không phạm vào trong, chỉ
đắp thuốc ít hôm cho khô mủ thì sẽ khỏi. Hiện đang mùa viêm nhiệt, quân sĩ bị
đau ốm nhiều, đã xin Triệu khu mật phái Tiêu Nhượng và Tống Thanh về Thái y
viện xin cấp tiền để mua các thứ thuốc men cần dùng. Hoàng Phủ Đoan xin cấp
thêm cỏ khô và thuốc chữa bệnh cho ngựa. Mọi việc đều đã uỷ thác cho Tiêu
Nhượng và Tống Thanh lên đường về Đông Kinh".
Tống Giang được tin cả mừng, lại
cùng với Lư Tuấn Nghĩa tính việc tiến đánh Kế Châu. Tống Giang nói:
- Ngay khi chưa biết tin hiền đệ bị
vây ở huyện Ngọc Điền, ta đã trù tính việc đánh Kế Châu. Công Tôn Thắng vốn là
người bản châu, Dương Hùng trước đã giữ chức tiết cấp ở đó, Thạch Tú, Thời
Thiên cũng đã từng ở Kế Châu. Sau khi đánh lui quân Liêu ta đã cho Thời Thiên và
Thạch Tú cải trang trà trộn trong đám tàn quân chạy về Kế Châu. Khi vào thành,
hai người ấy tất sẽ biết cách hành sự. Thời Thiên, Thạch Tú hiến kế: trong
thành Kế Châu có một ngôi chùa lớn gọi là chùa Bảo Nghiêm, dưới hành lang toà
nhà chính là nhà chứa kinh, khoảng giữa là điện Đại Hùng, trước điện có một
ngọn tháp rất cao. Thời Thiên sẽ trèo lên nấp ở trên đỉnh tháp, hàng ngày cơm
nước đã có Thạch Tú lo liệu. Khi đại quân tiến vào sát thành, Thời Thiên sẽ đốt
lửa trên đrinh tháp để làm hiệu. Về tài nghệ trèo tường vượt mái nhà thì khó có
ai hơn được Thời Thiên, chẳng lo không tìm được chỗ ẩn náu. Thạch Tú sẽ lén đến
đốt phủ nha. Trước khi ra đi, hai người đã cùng nhau bàn tính kỹ. Ta ước hẹn
với bọn họ thu xếp các việc sẽ cho tiến quân.
Ngày hôm sau, Tống Giang bỏ huyện
Bình Dụ, đưa quân về hợp binh với Lư Tuấn Nghĩa, cùng đốc thúc quân mã cấp tốc
đánh Kế Châu.
Lại nói ngự đệ vương Da Luật Đắc
Trọng buồn phiền tức giận vì hai con chết trận, bèn bàn với đại tướng Bảo Mật
Thánh, Thiên Sơn Dũng và Động Tiên thị lang.
- Trước đây viện binh từ Trác Châu
và Bá Châu điều đến đã cho về hết. Nay Tống Giang hợp binh ở huyện Ngọc Điền,
sớm muộn cũng đến đánh Kế Châu, biết tính sao đây?
Đại tướng Bảo Mật Thánh nói:
- Chưa biết quân Tống Giang có đến
hay không? nếu bọn chúng đánh tới, tiểu tứơng xin đưa quân ra đón đánh, không
bắt sống được tứơng giặc thì không dám lui quân.
Động Tiên thị lang nói:
- Trong bọn chúng có tên tướng mặc
áo xanh ném đá rất lợi hại, cần hết sức đề phòng.
Thiên Sơn Dũng nói:
- Lần trước tiểu tướng đã cắm một
mũi tên vào họng hắn, chắc đã chầu trời.
Động Tiên thị lang nói:
- Đã khử được tên ấy, những tên khác
không phải lo gì.
Giữa lúc ấy có viên tiểu hiệu vào
báo quân mã Tống Giang đang tiến vào Kế Châu. Da Luật đại vương liền điểm ngay
người ngựa giao cho Bảo Mật Thánh và Thiên Sơn Dũng cấp tốc đi nghênh địch, ra
ngoài thành hơn ba mươi dặm thì gặp quân của Tống Giang.
Đôi bên dàn ngay thành thế trận. Bảo
Mật Thánh cắp giáo thúc ngựa lên trước. Tống Giang đứng trước trận hỏi các tướng:
- Ai ra chém tướng cướp cờ để ghi
công đầu?
Chưa dứt lời đã thấy Báo tử đầu Lâm
Xung thúc ngựa lên giao chiến với Bảo Mật Thánh. Hai tuớng đánh nhau hơn ba
mươi hiệp không phân thắng bại. Lâm Xung cầm chắc ngọn bác xà mâu xông vào, hét
to một tiếng tựa sét đánh, nghiêng người tránh thương, rồi vung xà mâu đâm vào
giữa cổ Bảo Mật Thánh, hất nhào xuống ngựa. Quân hai bên hò reo vang trời.
Thiên Sơn Dũng thấy Bảo Mật Thánh ngã ngựa, vội xách thương xuất chiến. Bên
quân Tống, Từ Ninh vác câu liêm thương phóng ngựa đón đánh. Hai người ngồi trên
ngựa quần thảo chừng ba mươi hiệp thì Thiên Sơn Dũng bị Từ Ninh khua câu liêm
giật lăn xuống đất. Tống Giang hô quân xông vào hỗn chiến. Quân Liêu thua to
phải chạy về Kế Châu. Tống Giang cho quân mã đuổi theo hơn chục dặm mới thu
quân về.
Hôm ấy, Tống Giang cho đóng trại,
khao thưởng ba quân. Ngày hôm sau truyền lệnh nhổ trại lên đừơng tiến đánh Kế
Châu. Ngày thứ ba đang lúc Da Luật đại vương lo sợ vì bị mất thêm hai tướng thì
có tin báo: "quân Tống đang kéo đến", Da Luật đại vương vội bảo Động
Tiên thị lang:
- Ngươi hãy dẫn ngay đội quân kỵ ra
ngoài thành chặn địch!
Động Tiên thị lang không dám trái
lệnh, miễn cưỡng cùng với Giảo Nhi Duy Khang, Sở Minh Ngọc và Tào Minh Tế dẫn
một ngàn quân ky ra bầy trận dưới chân thành.
Quân Tống Giang dàn hàng tiến sát
chân thành. Từ dưới môn kỳ, Sách Siêu vác búa phóng ngựa ra trước trận. Bên
quân Liêu, Giảo Nhi Duy Khang cũng xách thương thúc ngựa tiến ra. Hai tướng
xông vào đánh liền hơn hai mươi hiệp. Giảo Nhi Duy Khang hoảng sợ chùn tay,
không dám ham đánh, chỉ đỡ gạt chờ dịp tháo thân. Sách Siêu thúc ngựa chồm lên,
hai tay khua búa bổ xuống. Giảo Nhi Duy Khang không tránh kịp, đầu vỡ làm hai
mảnh. Động Tiên thị lang thấy vậy hoảng hốt gọi Sở Minh Ngọc và Tào Minh Tế ra đối
phó. Hai tướng đều run sợ nhưng không dám trái lệnh đành phải xách thương cho
ngựa tiến ra. Bên quân Tống, Cửu văn long Sử Tiến thấy hai tướng Liêu xuất trận
liền múa đao vỗ ngựa xông ra đón đánh. Sử Tiến thật anh hùng, một đao vung lên
liền bay đầu Sở Minh Ngọc. Tào Minh Tế hoảng hốt bỏ chạy. Sử Tiến liền đuổi
theo, đưa một đao, Tào Minh Tế đầu rơi xuống đất. Sử Tiến thừa thắng cho ngựa
xông vào giữa trận quân Liêu. Tống Giang giơ roi hiệu cho quân sĩ ùa lên giáp
chiến. Quân Liêu bị đánh đuổi đến tận cầu treo. Da Luật Đắc Trọng hoảng sợ, sai
đóng cổng, truyền lệnh cho các tướng lên mặt thành đốc thúc chống giữ, một mặt
viết biểu văn cho người về tâu với vua Liêu, một mặt sai người sang Bá Châu và
U Châu xin cứu viện.
Kể tiếp, Tống Giang bàn với quân sư
Ngô Dụng:
- Quân Liêu cố thủ ở trong thành, ta
nên bày trận thế nào?
Ngô Dụng nói:
- Chưa rõ Thời Thiên và Thạch Tú ở
trong thành còn chờ đợi gì mà chưa ra tay? bây giờ xin tiên phong truyền lệnh
cho quân sĩ bắc thang và đặt giá súng để đánh thành ngay. Giao cho Lăng Chấp
bắn hoả pháo khắp cả bốn phía. Đánh thật gấp thì thành này ắt phá được.
Tống Giang truyền lệnh cho quân sĩ
sẵn sàng đánh thành ngay trong đêm ấy.
Lại nói ngự đệ đại vương Da Luật Đắc
Trọng thấy quân Tống vây thành đánh mạnh khắp bốn phía, bèn ra lệnh bắt hết dân
chúng lên mặt thành phòng thủ. Bấy giờ Thạch Tú ẩn nấp ở chùa Bảo Nghiêm đã mấy
ngày mà chưa thấy bên ngoài có động tĩnh gì. Bỗng Thời Thiên từ trên đỉnh tháp
tụt xuống nói:
- Quân mã của huynh trưởng Tống tiên
phong đang đánh đến chân thành, bọn ta phải nổi lửa ngay!
Thạch Tú nói:
- Trước hết đốt lửa trên đỉnh tháp,
sau đó quăng lửa cho điện Phật cháy luôn.
Thời Thiên nói:
- Đại ca mau đến phóng hoả đốt phủ
nha. Cửa thành phía nam là nơi hiểm yếu, bên ngoài thấy hiệu lửa ắt sẽ ra sức
đánh vào, lo gì thành này không phá được!
Bàn định xong xuôi, mỗi người đều
lấy mồi thuốc, đá và dao đánh lửa, ống phụt giắt theo bên người. Trời vừa tối,
quân Tống Giang bắt đầu đánh thành rất gấp.
Lại nói Thời Thiên coi việc trèo
tường vượt thành chẳng khác gì đi lại giữa đất bằng, bèn trèo lên đỉnh tháp
đánh đá châm lửa. Lửa bốc trên ngọn tháp cao, ánh lửa sáng rực, ngoài ba mươi
dặm vẫn thấy rõ như một mũi khoan lửa dựng lên giữa trời. Đốt trên tháp xong,
Thời Thiên từ tháp cao tụt xuống, quăng tiếp một mồi lửa đốt luôn điện Phật.
Thấy hai đám lửa rừng rực bốc cháy giữa thành, dân chúng giả trẻ kêu khóc nháo
nhác lo sợ tìm nơi trốn tránh. Trong khi đó Thạch Tú lẻn vào trèo lên tận lỗ
thông gió phóng hoả đốt dinh phủ Kế Châu. Dân chúng trong thành thấy một lúc ba
đám cháy biết quân Tống đã lọt vào thành. Những người canh giữ trên mặt thành
cũng đều bỏ chạy. Những người canh giữ trên mặt thành cũng đều bỏ chạy. Một lúc
sau, ở phía cửa nam lại thấy bốc lên một đám cháy nữa do Thời Thiên đốt sau khi
rời khỏi chùa Bảo Nghiêm.
Hoàng đệ đại vương Da Luật Đắc Trọng
thấy im hẳn tiếng trống cầm canh, lại thấy bốn năm đám cháy, lửa bốc đùng đùng,
biết quân Tống Giang đã lọt vào thành, bèn vội vang thu thập quân mã, cùng với
hai con trai đưa hết người nhà lên xe ra cửa bắc mở cổng thành chạy trốn.
Tống Giang thấy quân Liêu rối loạn
liền hô quân sĩ xông lên chiếm thành. Khắp trong ngoài thành tiếng hò hét chém
giết vang trời. Chỉ trong chốt lát quân Tống đã chiếm được cổng thành phía nam.
Động Tiên thị lang lượng sức quân ít địch đông, chỉ còn cách chạy về cửa bắc
trốn thóat theo ngự đệ đại vương.
Tống Giang dẫn đại quân người ngựa
vào thành Kế Châu, cho quân đi dập tắt các đám cháy, sáng hôm sau cho yết bảng
chiêu an, vỗ yên dân chúng. Tống tiên phong cho người ngựa vào đóng trại trong
thành, khao thưởng ba quân tướng sĩ. Thạch Tú, Thời Thiên cũng được ghi tên
trong sổ lập công. Sau đó Tống Giang gửi văn thư báo cho Triệu an phủ biết tin
thắng trận, quan quân đã chiếm được thành Kế Châu, mời quan khu mật dời đến đồn
trú. Triệu an phủ cho đưa thưa phúc đáp: "tạm thời hạ quan còn đóng ở Đàn
Châu, uỷ cho Tống tiên phong trấn thủ Kế Châu. Hiện nay đang giữa mùa hè, thời
tiết nóng bức chưa nên dùng binh, đợi khi trời dịu mát sẽ liệu tính". Được
thư phúc đáp, Tống Giang giao cho Lư Tuấn Nghĩa lĩnh đủ quân tướng như lúc xuất
phát, quay lại đóng giữ huyện Ngọc Điền, còn đại quân ở lại trấn thủ Kế Châu.
Lại nói hoàng đệ đại vương Da Luật
Đắc Trọng cùng với Động Tiên thị lang đưa thân quyến qua U Châu về Yên Kinh vào
cung yết kiến vua Liêu. Vua Liêu đang ngự triều ở Điện Vàng, các quan văn võ
đều đến chầu đông đủ. Lễ chầu đã xong, quan hạp môn đại sứ vào tâu: "ngự
đệ đại vương ở Kế Châu đã về trước cửa hoàng cung".
Vua Liêu vội sai gọi vào trong điện.
Da Luật Đắc Trọng và Động Tiên thị lang sụp lạy dưới thềm rồi oà lên khóc lớn.
Vua Liêu nói:
- Hoàng đệ chớ quá buồn phiền, cho
phép tâu bầy hết cho trẫm nghe.
Da Luật Đắc Trọng tâu rằng:
- Vua nhà Tống sai bọn Tống Giang
đem quân hùng tướng mạnh đến đánh. Quân ta không chống cự nổi. Hai con của thần
và bốn viên đại tứớng ở Đàn Châu đã tử trận. Quân Tống tiến như cuốn chiếu,
thành Kế Châu cũng đã mất. Thần đến trước điện cúi đầu xin chịu tội.
Vua Liêu nghe xong truyền rằng:
- Cho khanh đứng dậy, trẫm và các
quan sẽ bàn xem phải đối phó thế nào?
Vua Liêu lại hỏi:
- Viên tướng chỉ huy quân Tống là kẻ
thế nào?
Hữu thừa tướng thái sư Chữ Kiên bước
lên tâu rằng:
- Thần nghe nói là bọn Tống Giang
nguyên là thảo khấu đến trước điện cúi đầu xin chịu tội.
Vua Liêu nghe xong truyền rằng:
- Cho khanh đứng dậy, trẫm và các
quan sẽ bàn xem phải đối phó thế nào?
Vua Liêu lại hỏi:
- Viên tướng chỉ huy quân Tống là kẻ
thế nào?
Hữu thừa tướng thái sư Chữ Kiên bước
lên tâu rằng:
- Thần nghe nói là bọn Tống Giang
nguyên là thảo khấu ở Lương Sơn Bạc, nhưng không giết hại lương dân, một lòng
chăm lo thay trời hành đạo. Về sau, bọn Đồng Quán, Cao Cầu đưa quân đi đánh dẹp
trước sau năm trận bị quân Tống Giang đánh tan tành không còn mảnh giáp về
kinh. Biết không thể tiễu trừ được đám hảo hán ấy, vua Tống ba lần sai sứ đến
chiêu an, cuối cùng bọn Tống Giang mới chịu đầu hàng. Triều đình nhà Tống chỉ
mới phong cho Tống Giang làm tiên phong, chứ chưa được phong chức quan thực
thụ, còn những người khác vẫn chỉ là chân bạch đinh mà thôi. Nay nhà Tống sai
Tống Giang đem quân đến đây là để mượn tay anh em Tống Giang đánh với quân ta.
Anh em Tống Giang cả thảy một trăm linh tám người đều ứng với các ngôi sao trên
trời, kẻ nào cũng tài gỉoi, xin bệ hạ chớ nên coi thường!
Vua Liêu hỏi:
- Như ngươi nói thì nên thế nào cho
ổn?
Từ trong hàng chầu, một viên quan
bước ra. Đó là Âu Dương thị lang, áo thụng quết đất, thẻ ngà đeo ngực. Âu Dương
thị lang tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, thần dẫu bất tài
cũng xin dâng một kế nhỏ có thể làm lui quân Tống.
Vua Liêu cả mừng, nói:
- Người có kiến thức gì hay, cứ nói!
Lời tâu của Âu Dương thị lang khá
dài, chỉ biết rằng chuyến này mọi việc xong xuôi, tên tuổi Tống Giang được ghi
vào sử sách, sự tích chép trong sổ vàng.
Thật là:
Giữ nước mưu thành, chê Lã Vọng.
Thuận trời công toại, thách Trương
Lương.
Muốn biết Âu Dương thị lang tâu
chuyện gì, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 85 -
Tống Giang Đêm Vượt Ích Tân Quan
Đang nói chuyện Âu Dương thị lang
tâu rằng:
- Bọn Tống Giang đều là những kẻ anh
hùng hảo hán ở Lương Sơn Bạc. Nay vua nhà Tống bị bốn tên gian thần là Sái
Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu, Dương Tiễn lộng quyền. Bọn chúng ghen ghét kẻ tài,
rào đường rấp lối người hiền, không phải người thân thích thì không tiến cử,
không có tiền tài đút lót thì không tin dùng; lâu dài về sau làm sao mà dung
nạp được bọn Tống Giang! cứ như ngu ý của thần thì bệ hạ nên phong quan ban
tước cho bọn Tống Giang, trọng thưởng vàng lụa cùng nhiều áo cừu, ngựa quý.
Thần xin làm sứ giả đến thuyết phục Tống Giang về hàng nước Đại Liêu ta. Nếu bệ
hạ thu phục được đội quân người ngựa ấy thì việc nhòm ngó đất Trung nguyên dễ
như lật bàn tay. Thần không dám tự ý định liệu, cứ mong bệ hạ soi xét.
Vua Liêu nghe xong phán:
- Ý hay đấy. Vậy người hãy lĩnh mệnh
làm sứ thần, đem một trăm linh tám con ngựa tốt, một trăm linh tám tấm đoạn
quý, cùng với đạo sắc dụ của ta đến phong cho Tống Giang tước Trấn quốc đại
tướng quân, giữ chức Đại nguyên soái tổng lĩnh quân lính nước Liêu, ban cho
vàng một để, bạc một xứng, để tạm làm rin, rồi bảo làm một bản sao kê họ tên
các đầu lĩnh đưa về triều để ta xét phong quan tước.
Lúc ấy, quan đô thống quân là Ngột
Nhan từ trong hàng chầu bước lên tâu:
- Chiêu hàn bọn giặc cỏ Tống Giang
ấy làm gì? xin bệ hạ cứ để cho thủ hạ của hạ thần cả thảy hai mươi tám viên
tướng quân, mười một viên đại tướng, có binh hùng tướng mạnh trong tay lo gì
không thắng? nếu quân giặc vẫn không chịu lui, hạ thần xin đích thân dẫn quân
đi đánh.
Vua Liêu nói:
- Ngươi kể cũng là tay hảo hán như
rắn hổ mang mọc cánh rồi đấy, nếu thêm bọn Tống Giang thì ngươi sẽ mọc thên
cánh nữa, can gì mà ngăn trở?
Thấy nhà vua không nghe lời Ngột
Nhan, chẳng ai dám nói thêm gì nữa. Ngột Nhan giữ chứ đô thống, là chức thượng
tướng cao cấp nhất của nước Liêu, mười tám ban võ nghệ đều tinh thông, binh thư
chiến sách thuộc làu làu, tuổi vừa băm lăm, băm sáu, uy nghi bệ vệ khác thường,
lẫm liệt, tấm thân cao hơn tám thước, môi hồng mặt trắng, mắt biếc râu vàng; ra
trận quen dùng một ngọn thương bằng thép, xông xáo giữa chốn hiểm nguy, bất
chợt lại rút chiếc hốt sắt giắt bên mình vung lên, phát tiếng gió vù vù, đúng
là kẻ có sức vạn người không địch nổi.
Tạm gác chuyện Ngột Nhan thống quân
canh ngăn nhà vua để nói tiếp việc Âu Dương thị lang lĩnh sắc chỉ của vua Liêu,
đem theo lễ vật cùng nhiều ngựa quý lên đường đi Kế Châu.
Bấy giờ Tống Giang đang cho quân
lính nghỉ ngơi ở Kế Châu nghe báo tin nước Liêu sai sứ thần đến. Tống Ginag
chưa biết việc tốt xấu ra sao, bèn lấy sách bói lời Cửu Thiên Huyền Nữ ra bói,
bốc được quẻ "Thượng thượng cát" bèn bàn với quân sư Ngô Dụng:
- Điềm quẻ "thượng thượng
cát" chắc là vua Liêu sai sứ đến chiêu hàng, nếu vậy nên đối phó ra sao?
Ngô Dụng đáp:
- Nếu thật như thế thì ta sẽ tương
kế tựu kế, cứ nhận lời chiêu an, rồi giao cho Lư Tuấn Nghĩa đóng giữ Kế Châu,
ta sẽ dùng mưu chiếm Bá Châu. Lấy được Bá Châu thì nước Liêu chẳng lo gì không
phá được. Nay ta chiếm Đàn Châu, tức là đã chặt cánh tay trái của nước Liêu đó.
Thu xếp việc này kể cũng dễ thôi, nhưng trước hết phải làm ra vẻ khó khăn rồi
sau mới nhận, như thế bọn chúng mới không nghi.
Lại nói khi Âu Dương thị lang đến
dưới thành, Tống Giang truyền lệnh mở cổng cho vào. Âu Dương thị lang vào
thành, đến trước cổng phủ nha thì xuống ngựa đi vào dinh. Hai bên chào hỏi
xong, chia ngôi chủ khách cùng ngồi, Tống Giang hỏi:
- Quan thị lang đến đây chắc có việc
gì?
Âu Dương thị lang nói:
- Có chút việc nhỏ muốn trình bày
lên tiên phong, xin cho tả hữu lui ra ngoài.
Tống Giang liền quát tả hữu lui ra
rồi mời Âu Dương thị lang vào phòng riêng sau hậu đường nói chuyện. Vào hậu
đường, Âu Dương thị lang kính cẩn cúi mình nói với Tống Giang:
- Nước Liêu chúng tôi từ lâu được
nghe danh của tướng quân, nay chẳng dám nề hà núi sông xa cách, tới đây chỉ
mong đựợc yết kiến uy nhan. Lại nghe nói tướng quân từng đóng trại ở đất Lương
Sơn Bạc thay trời hành đạo, anh em trên dưới cùng đồng lòng chung sức. Nay bọn
gian thần trong triều đình nhà Tống rào đường rấp lối người hiền, ai có vàng
lụa đút hót thì được bổ quan cao chức trọng, không có tiền của hối lộ thì dù có
công lớn cũng bị dìm dập không cho thăng thưởng. Chính vì bọn gian thần lộng
quyền gièm pha nịnh hót, mưu lợi, ghen ghét hiền tài, thưởng phạt bất công nên
thiên hạ mới sinh đại loạn. Khắp vùng Giang Nam, giặc giã hoành thành, khiến
cho lương dân phải chịu cảnh lầm than, không được làm ăn yên ổn. Nay tướng quân
thống lĩnh mười vạn tinh binh, một tấm lòng son trở về quy thuận, thế mà triều
đình chỉ giao cho chức mọn tiên phong, còn như phẩm tước thì không mảy may ban
thưởng. Các anh em đầu lĩnh vất vả đền đáp ơn vua, nhưng hết thảy vẫn chỉ là
dân chân trắng. Nay triều đình lại giao cho dẫn quân lên miền sa mạc, chịu lao
khổ lập công cho nước, thế mà cũng không ban thưởng. Đây hẳn là mưu kế của bọn
gian thần. Nếu dọc đường đại quân ra sức vơ vét vàng bạc châu báu của dân, sai
chở về nuôi béo bọn bốn tên gian thần Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu, Dương Tiễn,
thì hẳn sẽ được phong quan ban tước, bổng lộc cao sang. Còn như không muốn dằn
lòng làm thế thì dù tướng quân có tấm lòng son báo đền ơn nước, lập được công
to, đến lúc về kinh có khi lại bị triều đình khép tội cũng chưa chừng. Nay Âu
Dương tôi vâng mệnh vua nước Đại Liêu đến đây, đem một đạo sắc phong cho tướng
quân giữ chức đại nguyên soái tổng lĩnh binh mã của nước Liêu, tước Trấn quốc
đại tướng quân, tài vật ban thưởng mang theo có một đề vàng, một xứng bạc, một
trăm linh tám tấm đoạn mầu, một trăm linh tám con ngựa quý. Tiếp đó xin sao lục
cho một bản kê họ tên một trăm linh tám vị đầu lĩnh để chuyển về kinh, vua nước
Đại Liêu chiếu theo danh sách sẽ phong quan ban tước cho tất cả. Không phải
tiểu nhân dám tự ý đến chiêu dụ mà do hoàng đế nước Liêu từ lâu biết tiếng
tướng quân là người nhân đức nên đặc cách sai tiểu nhân đến đây thỉnh cầu tướng
quân cùng các tướng thuộc hạ vui lòng về giúp rập cho nước Đại Liêu!
Tống Giang nghe xong, đáp:
- Quan thị lang nói đúng. Chỉ ngại
là Tống Giang tôi xuất thân hèn kém, được làm chức tiểu lại ở huyện Vận Thành,
trót phạm tội phải trốn tránh, đành tạm nương náu ở chốn thuỷ bạc đất Lương
Sơn. Thiên tử nhà Tống ba lần hạ chiếu xá tội chiêu an, dẫu quan thấp chức nhỏ,
nhưng Tống Giang tôi tự xét thấy chưa lập công lao gì để báo đáp ơn đựợc triều
đình xá tội. Nay đội ơn quân vương quý quốc ban cho tước hậu lộc nhiều. Tuy thế
nhưng Tống Giang tôi chưa dám nhận, xin quan thị lang hãy tạm lui. Hiện giờ
đang giữa mùa hè nóng bức, Tống Giang tôi mượn tạm của quý quốc hai thành này
để người ngựa đóng trại nghỉ ngơi. Sớm muộn sang thu tiết trời dịu mát, khi ấy
sẽ cùng bàn bạc.
Âu Dương thị lang nói:
- Xin tướng quân cứ vui lòng tạm
nhận cho số vàng bạc, vóc lụa, ngựa mà quốc vương tôi gửi biếu. Tiểu nhân xin
cáo lui, còn công việc bàn sau cũng chưa muộn.
Tống Giang nói:
- Quan thị lang không biết một trăm
linh tám anh em chúng tôi tai mắt cũng nhiều, chẳng may chuyện lọt ra ngoài thi
Tống Giang tôi tất tự chuốc lấy tai vạ.
Âu Dương thị lang nói:
- Binh quyền trong tay tướng quân,
ai dám không tuân theo?
Tống Giang nói:
- Quan thị lang chưa rõ nội tình;
anh em chúng tôi nhiều người tính tình cương trực, Tống Giang tôi phải bàn
tính, dàn xếp cho mọi người ai nấy đều chung lòng rồi sẽ xin trả lời sau cũng
chưa muộn.
Có bài thơ làm chứng như sau:
Kim Bạch trọng đà xuất Kế Châu,
Huân phong hồi thủ bất thăng tu.
Liêu vương nhược vấn quy hàng sự,
Vân tại thanh sơn, nguyệt tại lâu.
Vàng bạc nặng xe khuất Kế Châu
Vời trông trời rộng thẹn mày râu.
Vua Liêu hỏi chuyện chiêu hàng ấy,
Mây ở trên non, nguyệt ở lầu!
Nói đoạn Tống Giang sai dọn rượu khoản đãi, rồi đưa tiễn
Âu Dương thị lang ra ngoài thành lên ngựa trở về.
Tống Giag cho mời quân sư Ngô Dụng đến hỏi:
- Ngô tiên sinh thấy câu chuyện của viên thị lang nước
Liêu thế nào?
Ngô Dụng chỉ thở dài, cúi đầu trầm ngâm không đáp. Tống
Giang hỏi:
- Sau quân sư lại thở dài?
Ngô Dụng đáp:
- Tiểu đệ có một ý đáng suy nghĩ nhưng biết huynh trưởng
trước sau vẫn lấy trung nghĩa làm đầu nên chưa dám nói. Tiểu đệ thấy Âu Dương
thị lang nói kể cũng có lý. Thiên tử nhà Tống vốn là bậc chí thánh chí minh,
nhưng nay quả thật đã bị bọn bốn tên gian thần Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu,
Dương Tiễn lấn quyền, việc gì thiên tử cũng tin lời bọn chúng. Giả sử ngày sau
anh em ta có lập công to cũng không chắc gì đã được thăng thưởng. Ba lần chiêu
an mới xong, thế mà đối với anh em ta, huynh trưởng là bậc đứng đầu cũng chỉ
giữ chức tiên phong, thực ra là một hư chức mà thôi. Cứ như ngu ý của tiểu đệ,
thì bỏ Tống theo Liêu lại thành hay, có điều như thế thì phụ mất tấm lòng trung
nghĩa của huynh trưởng.
Tống Giang nghe nói liền nói:
- Quân sư sai rồi! chuyện theo Liêu nhất thiết không được
nói tới nữa. Dù cho nhà Tống phụ ta, nhưng lòng trung nghĩa của ta quyết không
phụ nhà Tống. Sau này, dù không được thưởng công, anh em ta cũng còn được lưu
danh sử sách. Nếu bỏ chính theo tà, trời đất hẳn không dung thứ! anh em ta đều
nên dốc lòng trung báo đền ơn nước.
Ngô Dụng hỏi:
- Nếu huynh trưởng vẫn giữ lòng trung thì cứ theo kế ấy
thế nào cũng lấy được Bá Châu. Nay đang giữa mùa hè oi bức, hãy tạm cho người
ngựa nghỉ ngơi.
Tống Giang, Ngô Dụng bàn mưu tính kế nhưng tạm giữ kín,
cùng các tướng đóng ở Kế Châu, chờ cho qua mùa hè oi bức.
Ngày hôm sau, nhân rỗi việc quân, Tống Giang cùng ngồi
nói chuyện với Công Tôn Thắng, Tống Giang nói:
- Từ lâu nghe tiếng La chân nhân sư phụ của hiền đệ là
bậc cao sĩ đời này. Lúc trước nhân đánh châu Cao Đường, cần phải phá tà thuật
của Cao Liêm, ta đã đặc cách sai Đái Tôn và Lý Quỳ đến tìm hiền đệ, hai người
trở về nói: "tôn sư La chân nhân phép thuật rất linh nghiệm". Dám
phiền hiền đệ ngày mai đưa ta đến cửa pháp đốt hương làm lễ, xin sư phụ cho lời
chỉ bảo để tẩy lòng trần tục. Chưa biết hiền đệ có bằng lòng không?
Công Tôn Thắng đáp:
- Bần đạo cũng đang muốn về thăm mẹ già và yết kiến sư
phụ, nhưng bấy nay thấy huynh trưởng chưa đóng quân ổn định nên chưa tiện xin
về. Hôm nay bần đạo cũng định thưa chuyện, không ngờ huynh trưởng cũng muốn đến
yết kiến La Chân nhân, vậy thì sáng sớm mai bần đạo xin mời huynh trưởng cùng
đi, sau đó bần đạo sẽ về nhà thăm mẹ.
Ngày hôm sau, Tống Giang giao cho quân sư Ngô Dụng ở lại
coi giữ việc quân, rồi cho sửa soạn hương nhang quả vật cùng vàng ngọc vóc lụa.
Sáu tướng Hoa Vinh, Đái Tôn, Lã Phương, Quách Thịch, Yến Thuận, Mã Lân cùng đi
với Tống Giang và Công Tôn Thắng. Tám người đi tám ngựa, dẫn theo năm nghìn
quân bộ đi tuỳ tòng, lên đường đi về núi Nhị Tiên ở huyện Cửu Cung.
Đoàn người ngựa của Tống Giang rời Kế Châu đi sâu vào
chốn núi rừng trùng điệp, thông xanh rợp đường, khí trời mát rượi. Thật là một
nơi danh sơn thắng cảnh. Công Tôn Thắng ngồi trên lưng ngựa nói:
- Núi ấy gọi là núi Mũi Cá.
Đoàn người ngựa của Tống Giang và Công Tôn Thắng đã đến
trước Tử Hư quán. Mọi người đều xuống ngựa, sửa lại khăn áo cho ngay ngắn. Một
viên tiểu hiệu bưng khay hương nhang, lễ vật đến trước cửa Hạc Hiên. Các đạo
nhân trong quán chào Công Tôn Thắng và Tống Giang. Công Tôn Thắng nói:
- Sư phụ ta đâu?
Các đạo nhân đáp:
- Mấy ngày nay sư phụ lui về tĩnh toạ ở nhà nghỉ sau núi,
ít khi đến quán.
Công Tôn Thắng nghe nói, liền cùng Tống Giang men đường
núi đi đến nơi ở của La chânh nhân. Hai người vòng ra sau quán, đi theo một lối
nhỏ gồ ghề nhiều bậc quanh co. Chưa đầy một dặm đã thấy khu vườn có dãy rào
gai, phía ngoài là thông xanh tùng biếc, trong vườn có dãy rào gai, phía ngoài
là ba gian nhà tuyết. La chân nhân đang tĩnh toạ tụng kinh. Tiểu đồng thấy có
khách mở cửa tiếp đón. Công Tôn Thắng một mình vào thảo am, đến trước Hạc Hiên
chào sư phụ rồi thưa:
- Người bạn cũ của đệ tử là Tống Công Minh ở Sơn Đông đã
về nhận chiêu an, nay vâng mệnh triều đình giữ chức tiên phong đưa quân đi đánh
giặc Liêu, tiện quan Kế Châu, muốn được đến bái yết sư phụ, hiện người ấy đã
đến đây.
La chân nhân nghe nói liền sai mời vào.
Tống Giang đi vào thảo am. La chân
nhân xuống dưới thềm đón tiếp. Tống Giang hai ba lần thỉnh cầu La chân nhân
ngồi để lạy chào, nhưng La chân nhân nói:
- Tướng quân là bậc thượng tướng của
quốc gia, còn bần đạo chỉ là kẻ thôn phu nơi sơn dã, có đâu dám thế!
Tống Giang vẫn một mực khiêm nhường
muốn được quỳ lạy làm lễ bái kiến, La chân nhân mới chịu ngồi. Tống Giang đốt
lò hương làm lễ lạy tám lạy, sau mới gọi bọn Hoa Vinh sáu đầu lĩnh vào lạy. La
chân nhân mời mọi người cùng ngồi rồi sai tiểu đồng pha trà, bày hoa quả mời
khách. La chân nhân nói:
- Tướng quân trên ứng sao thiên
khôi, ngoài hợp chư vị quần tinh chiếu mệnh, cùng nhau thay trời hành đạo, nay
về quy thuận triều đình nhà Tống, tấm thanh danh ấy vạn năm không phai mờ!
Tống Giang nói:
- Tống Giang tôi vốn là kẻ tiểu lại
ở huyện Vận Thành, trót phạm tội phải trốn tránh nơi rừng núi, nhờ có hào kiệt
bốn phương tin yêu tìm đến. Anh em chúng tôi quả là đồng thanh tương ứng, đồng
khí tương cầu, cùng chịu ơn nhau như da với thịt, tình nghĩa như chân tay. May
có điềm trời giáng xuống, mới biết anh em chúng tôi đều ứng với các thiên tinh
địa dược, cùng chung sống với nhau. Nay Tống Giang tôi vâng chiếu chỉ triều
đình thống lĩnh đại binh tiến đánh nước Liêu, đi qua đây được đến bái yết chân
nhân, thật là nhờ duyên kiếp trước. Muốn trông chân nhân chỉ giáo cho biết việc
tiến trình, thật muôn vàn may mắn.
La chân nhân nói:
- Đội ơn tướng quân có lòng hỏi tới.
Bần đạo xuất gia lánh tục đã lâu, lòng trần cơ hồ nguội lạnh, không giúp ích gì
được cho tướng quân, xin miễn thứ cho!
Tống Giang quỳ lạy hai lạy để cầu
xin chỉ giáo. La chân nhân nói:
- Tướng quân hãy tạm ngồi, hiện đang
cho sửa soạn bữa chay mà bây giờ trời cũng đã tối, mời tướng quân tạm nghỉ lại
chốn rừng hoang núi rậm một đêm, sáng mai hãy trở về. Chẳng hay ý tướng quân
thế nào?
Tống Giang nói:
- Tống Giang đang muốn nghe lời chỉ
giáo của sư phụ để tỉnh ngộ những điều tăm tối u mê, đâu dám vội về ngay!
Nói đoạn gọi quân sĩ bưng mâm vàng
ngọc gấm vóc vào biếu La chân nhân. La chân nhân nói:
- Bần đạo là kẻ già nua lánh đời,
gửi thân nơi quán vũ, nếu nhận vàng ngọc cũng không biết để làm gì. Che thân đã
có tấm áo vải, gấm vóc bần đạo xưa nay không quen dùng. Tướng quân thống lĩnh
mấy vạn quân binh, việc khen thưởng cần đến nhiều. Chỗ vàng ngọc này, xin tướng
quân thu nhận lại cho!
Tống Giang lại quỳ lạy, La chân nhân
một mực chối từ, liền đó gọi dọn bữa chay. Ăn xong, mọi người cùng ngồi xuống
uống trà. La chân nhân cho Công Tôn Thắng về nhà thăm mẹ, hẹn sáng mai quay lại
để theo Tống Giang về thành. Đêm ấy La chân nhân lưu Tống Giang nghỉ lại cùng
trò chuyện trong thảm am. Tống Giang đem hết chuyện tâm phúc kể lại với La chân
nhân, xin được nghe lời chỉ giáo. La chân nhân nói:
- Tấm lòng trung nghĩa của tướng
quân cao cả như trời đất, ắt sẽ được thần linh phù hộ. Tướng quân lúc sống thì
được phong hầu, lúc chết có miếu đường thờ phụng, điều ấy chẳng phải nghi ngờ.
Có điều là tướng quân một đời phận mỏng, kết cục không được trọn vẹn.
Tống Giang hỏi lại:
- Thưa sư phụ, như thế phải chăng
Tống Giang sẽ phải bất đắc kỳ tử?
- Không phải thế! tướng quân mất tại
chính tẩm, mai táng có phần mộ hẳn hoi, chỉ có điều là tướng quân phận mỏng,
gặp nhiều điều trắc trở, vui ít lo nhiều, đế khi đắc ý mãn nguyện thì nên cáo
lui, đừng lưu luyến ở lâu nơi phú quý.
Tống Giang lại nói:
- Thưa sư phụ, phú quý không phải là
ý nguyện của Tống Giang tôi, chỉ ước mong sao cho anh em mãi mãi cùng nhau đoàn
tụ, dẫu nghèo hèn mà mọi người được bình yên vui vẻ cũng thoả lòng.
La chân nhân cười nói:
- Gặp lúc vận hạn rủi ro, anh em các vị muốn lưu luyến mà
được sao?
Tống Giang lạy hai lạy, xin La chân nhân cho lời pháp
ngữ. La chân nhân sai tiểu đồng đưa giấy bút ra, viết tám câu thơ đóan mệnh đưa
cho Tống Giang, tám câu thơ ấy như sau:
Trung tâm giả thiểu,
Nghĩa khí giả hi.
U, yên công tất,
Minh nguyệt hư huy.
Thủy phùng đông mộ,
Hồng nhạn phân phi.
Ngô đầu Sở vĩ,
Quan lộc đồng quy.
(Người trung thì ít
Kẻ nghĩa chẳng nhiều
U, yên công hết
Trăng sáng vắng teo
Trời đông mờ tối
Nhạn bay theo nhau
Đầu Ngô mình Sở
Quan lộc dừng theo.)
Tống Giang xem xon không hiểu, bèn vái tạ thỉnh cầu:
- Xin sư phụ cho lời vàng, giảng giải giúp cho Tống Giang
thoát đuợc điều ngu tối.
La chân nhân nói:
- Đấy là thiên cơ không tiết lộ được. Ngày sau thấy ứng
hợp, tướng quân sẽ tự suy ra. Bây giờ đêm đã khuya, mời tướng quân ra quán nghỉ
ngơ, sáng mai gặp lại. Bần đạo năm nay đã yếu nhiều, ngủ thường chập chờn không
mấy khi yên giấc. Bây giờ bần đạo cũng đã muốn đi nghỉ, mong tướng quân bỏ quá
cho.
Tống Giang gấp bài thơ đoán mệnh cất vào người, từ biệt
La chân nhân trở ra ngoài đạo quán, các đạo nhân đưa Tống Giang đến nhà phương
trượng nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau, Tống Giang lại vào yết kiến La chân nhân,
khi đến thảo am đã thấy Công Tôn Thắng ở đấy. La chân nhân sai dọn tiệc chay
khoản đãi. Mọi người ăn uống đã xong, La chân nhân nói với Tống Giang:
- Trên có tướng quân, bần đạo xin thưa điều này: đồ đệ
Công Tôn Thắng đây theo bần đạo vào núi tu hành, lẽ ra phải lánh tuyệt bụi
trần, nhưng duyên tiền định ứng với thiên tinh, thì cũng đành kể như chưa đến
với bần đạo. Nhưng tục duyên chỉ ngắn ngủi, đường tu luyện mới thật dài lâu.
Nếu hôm nay giữ luôn ở đây thì phiền cho đồ đệ ấy không được vẹn tròn tình
nghĩa với các anh em. Hôm nay đồ đệ Công Tôn Thắng lại theo tướng quân đi lập
công, khi thắng trận về kinh, đồ đệ ấy có lời xin từ biệt thì mong tướng quân
vui lòng chấp thụân cho. Được như thế thì một là bần đạo có học trò mà truyền
đạo, hai là mẹ già của đồ đệ ấy khỏi tựa cửa chờ trông. Tướng quân là người
trung nghĩa, thấy việc trung nghĩa hẳn sẽ làm. Chưa biết tướng quân có vui lòng
chấp nhận lời thỉnh cầu của bần đạo hay không?
Tống Giang đáp:
- Sư phụ đã dạy thế, Tống Giang tôi đâu dám trái lời!
hiền đệ Công Tôn Thắng đây đã cùng anh em Tống Giang tôi kết nghĩa, việc về hay
ở là do ý nguyện riêng, Tống Giang tôi đâu dám ngăn trở!
La chân nhân và Công Tôn Thắng nghe Tống Giang nói thế
đều cúi đầu đáp tạ:
- Đa tạ lời hứa vàng ngọc của tướng quân!
Rồi mọi người bái từ La chân nhân. Lúc theo tiễn Tống
Giang ra cửa thảo am, La chân nhân nói:
- Tướng quân hãy cẩn thận giữ gìn để sớm được phong quan
ban tước!
Tống Giang vái chào từ biệt La chân nhân đi ra nhà chính
quán. Ngựa buộc trong vườn đều được ăn no, lúc này đã dắt ra chờ trước cổng.
Các đạo nhân tiễn chân anh em Tống Giang ra ngoài quán mới từ biệt quay về.
Tống Giang sai dắt ngựa đến chỗ bằng phẳng giữa lưng chừng núi mới cùng bọn
Công Tôn Thắng lên ngựa trở về Kế Châu.
Chuyện trên đường đi không có gì đáng nói, mọi người đi
gấp về thành, đến trước cổng phủ nha mới xuống ngựa. Hắc toàn phong Lý Quỳ ra
đón, nói:
- Huynh trưởng đi thăm La chân nhân, sao không cho tiểu
đệ cùng đi?
Đái Tôn nói:
- Vì hiền đệ có lần toan giết La chân nhân, cho nên chân
nhân chẳng thích gì hiền đệ!
Lý Quỳ nói:
- Ông ta đã thế thì mỗ đây cũng cóc cấn
Mọi người cười ồ, Tống Giang vào trong phủ, còn những
người khác trở về nơi an nghỉ sau hậu đường. Tống Giang lấy bài thơ pháp ngữ
của La chân nhân đưa cho Ngô Dụng. Ngô Dụng xem kỹ cũng không hiểu, mấy người
xung quanh cũng cầm lấy xem nhưng không biết gì hơn. Công Tôn Thắng nói:
- Thưa huynh trưởng đấy là lời huyền ngữ nói việc thiên
cơ, không thể tiết lộ được. Huynh trưởng cứ cất giữ bên mình, trọn đời suy
nghiệm, chớ nên băn khoăn dò đoán. Lời pháp ngữ của sư phụ ra sao, say này rồi
sẽ hiểu.
Tống Giang đem cất vào chiếc tráp đựng tờ chiếu thư.
Kể từ hôm ấy, quân mã còn đóng tại Kế Châu hơn một tháng
nữa, trong quân không xảy ra việc gì. Đến hạ tuần tháng bảy, Triệu khu mật ở
Đàn Châu gửi văn thư đến báo tin cho triều đình đã có sắc chỉ thúc giục đưa
quân xuất chiến. Nhận được văn thư của khu mật viện, Tống Giang liền bàn với
quân sư Ngô Dụng, định trước hết sẽ đưa quân đến huyện Ngọc Điền hợp binh cùng
Lư Tuấn Nghĩa để thao luyện quân mã, chỉnh đốn khí giới, cắt đặt quân ngũ đâu
đó xong xuôi lại trở về Kế Châu làm lễ tế cờ, chọn ngày xuất quân. Đang lúc hai
người bàn việc thì tả hữu vào báo:
- Có sứ thần nước Liêu đến!
Tống Giang ra tiếp, thấy Âu Dương thị lang, Tống Giang
mời vào hậu đường nói chuyện. Hai bên chào hỏi xong, Tống Giang hỏi:
- Lần này thị lang đến có việc gì?
Âu Dương thị lang nói:
- Xin cho lui tả hữu!
Tống Giang lập tức quát lui hết quân sĩ. Âu Dương thị
lang nói;
- Quốc vương nước Đại Liêu tôi hâm mộ danh đức của tướng
quân. Nếu tướng quân đồng ý quy thuận, giúap rập cho nứớc Đại Liêu thì quốc
vương tôi sẽ cắt đứt phong hầu cho tướng quân. Việc đại nghĩa, dám mong tướng
quân thu xếp ngay để khỏi phụ lòng quốc vương tôi mong chờ.
Tống Giang đáp:
- Ở đây không có ai là người ngoài, xin thưa thực tình để
quan thị lang biết cho: lần trước thị lang tới đây, tướng sĩ chúng tôi đã đoán
được, có đến nửa anh em không ưng quy thuận. Nếu Tống Giang tôi theo quan thị
lang về U Châu triều kiến vua Liêu thì phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa ắt sẽ đem
quân đuổi theo. Để xảy ra việc xô xát dướii cửa thành của quý quốc thì mất hết
tình nghĩa anh em tôi từ trước đến nay. Nay tôi đem theo một số người tâm phúc
tạm lánh đến một thành nào đó, cứ để cho Lư Tuấn Nghĩa biết, hắn sẽ đưa quân
đuổi theo. Khi ấy tôi sẽ liệu cách lánh mặt. Nếu hắn vẫn đuổi theo, bấy giờ tôi
sẽ ra quân đọ sức cũng không muộn. Nếu quá kín chuyện, Lư Tuấn Nghĩa không biết
tôi đem quân đi đâu, tất hắn sẽ cho người về Đông Kinh trình báo, như vậy lại
sinh rắc rối. Đợi anh em tôi vào triều kiến quốc vương quý quốc xong, sẽ đưa
quân mã nước Đại Liêu giao chiến với Lư Tuấn Nghĩa cũng không muộn!
Âu Dương thị lang nghe Tống Giang trả lời như vậy thì
mừng thầm, nói:
- Thành Bá Châu của nước Đại Liêu ở gần đây, muốn vào
thành ấy phải qau hai cửa ải: một là cửa Ích Tân quan, hai bên vách núi dựng
đứng, giữa có đường xe trạm đi qua; một ải nữa là cửa huyện Văn Yên, hai bên
cũng núi cao hiểm trở, qua cửa ải là trị sở của huyện. Hai ải ấy cũng như cửa
ngõ vào thành Bá Châu. Quan trấn thủ Bá Châu là quốc cữu nước Liêu tôi, tên là
Khang Lý Định An. Đến Bá Châu sẽ xin mời tướng quân vào nghỉ ngơi dinh quốc
cữu, đợi nghe ngóng tình hình.
Tống Giang nói:
- Nếu vậy thì Tống Giang tôi sẽ cho quân sĩ hoả tốc về
quê đón cha già tới đây để tránh mọi hậu hoạ. Sau đó quan thị lang sẽ cho người
đến dẫn Tống Giang tôi cùng đi. Việc như thế thì ngay đêm nay chúng tôi sẽ bắt
đầu thu xếp.
Âu Dương thị lang vui mừng khôn xiết, cáo biệt Tống Giang
lên ngựa trở về. Có thơ làm chứng như sau:
Quốc sĩ tòng hồ chí khả thương,
Thường sơn mạ tặc tính danh hương.
Tống Giang nhược khẳng hàng Liêu quốc,
Hà tự Lương Sơn tác đại vương.
(Bại tướng theo thù thật đáng thương
Non xanh chửi giặc tiếng vang lừng
Tống Giang ví phỏng hàng Liêu chúa
Thà giữ Lương Sơn chúa một phương!)
Ngay hôm ấy, Tống Giang sai đi mời Lư Tuấn Nghĩa, Ngô
Duọng, Chu Vũ đến Kế Châu cùng bàn tính việc dùng mưu chiếm Bá Châu. Tống Giang
cắt đặt mọi việc xong xuôi, Lư Tuấn Nghĩa vâng lệnh trở về. Ngô Dụng và Chu Vũ
bí mật dặn dò các tướng cứ theo như thế... như thế... mà làm. Các tướng Lâm
Xung, Hoa Vinh, Chu Đồng, Lưu Đường, Mục Hoằng, Lý Quỳ, Nhàn Thuỵ, Bao Húc,
Hạng Sung, Lý Cổn, Lã Phương, Quách Thịnh, Khổng Minh, Khổng Lượng, tất cả là
mười lăm đầu lĩnh đi theo Tống Giang, chỉ đưa theo chưa đầy một vạn quân. Cắt
cử người nào việc ấy đã xong, chỉ còn chờ Âu Dương thị lang tới là đi ngay.
Chờ hai ngày thì thấy Âu Dương thị lang phi ngựa đến nói
với Tống Giang:
- Quốc vương tôi thật hiểu lòng của tướng quân, nhưng
tướng quân đã ưng lòng quy thuận thì còn sợ gì quân Tống? Nước Đại Liêu chúng
tôi binh hùng tướng mạnh, sẽ cho người ngựa thiện chiến giúp sức tướng quân.
Còn việc đón lệnh đại nhân thì tướng quân không phải bận tâm, tướng quân cứ đến
Bá Châu chơi với quốc cữu, chúng tôi sẽ cho người đến đón cũng không muộn.
Tống Giang nghe xong, đáp:
- Các tướng bằng lòng đi với tôi
hiện đã thu xếp xong, bao giờ thì lên đường?
Âu Dương thị lang đáp:
- Đi ngay đêm nay, xin tướng quân
truyền lệnh!
Tống Giang một mặt căn dặn: ngựa
tháo đạc, người ngậm tăm, đợi đêm xuống là lên đường, một mặt khoản đãi sứ
Liêu. Xẩm tối, Tống Giang truyền lệnh mở cửa thành phía tây đi gấp. Âu Dương
thị lang dẫn mấy chục quân kỵ đi trước dẫn đường. Tống Giang dẫn một đội quân
đi sát theo sau. Được chừng hai mươi dặm chợt nghe tiếng Tống Giang đang ngồi
trên ngựa hốt hoảng kêu lên: "khổ quá!" rồi nói:
- Đã hẹn quân sư Ngô Dụng cùng sang
quy thuận nước Đại Liêu, vì vội quá quên không chờ. Bây giờ cho quân đi chậm
lại để sai người về đón ông ta.
Lúc ấy vào khoảng canh ba, phía
trước đã là cửa ải Ích Tân quan, Âu Dương thị lang quát to:
- Mở cửa!
Quân tướng giữ ải vội ra mở cửa,
người ngựa lần lượt qua ải, đi thẳng đến Bá Châu. Tảng sáng, Âu Dương thị lang
mời Tống Giang vào thành, sai người báo tin cho quốc cữu Khang Lý Định An.
Quốc cữu Khang Lý Định An là anh
ruột hoàng hậu nước Liêu, uy nghi quyền thế, vũ dũng gan dạ hơn người, dưới
quyền có hai viên thị lang là Kim Phúc thị lang và Diệp Thanh thị lang cùng lo
việc trấn thủ Bá Châu. Nghe báo tin Tống Giang đến hàng, Khang Lý Định An
truyền lệnh tất cả người ngựa hãy tạm đóng trại ở ngoài, chỉ cho Tống tiên
phong được vào thành. Âu Dương thị lang cùng đi với Tống Giang đến yết kiến
quốc cữu Định An.
Quốc cữu Định An thấy tướng mạo Tống
Giang không phải kẻ tầm thường, bèn xuống dưới thềm đón tiếp mời vào hậu đường,
chào hỏi xong mời Tống Giang ngồi lên ghế nhất. Tống Giang nói:
- Quốc cữu là bậc lá ngọc cành vàng,
còn tiểu tướng chỉ là kẻ chịu chiêu an, dám đâu phiền quốc cữu phải tiếp đón
trọng đãi như thế! Tống Giang tôi biết lấy gì báo đáp!
Quốc cữu Định An nói:
- Bấy lâu nghe nói tướng quân hùng
cứ một cõi đất Trung Nguyên, danh vang bốn biển, nước Đại Liêu chúng tôi cũng
từng biết tiếng. Quốc vương tôi vẫn có lòng ái mộ tướng quân.
Tống Giang nói:
- Nhờ quốc cữu che chở, tiểu tướng
Tống Giang tôi xin nguyện dốc lòng báo đáp ơn lớn của quốc vương.
Quốc cữu Định An cả mừng, vội sai
người bày tiệc chúc mừng Tống Giang, một mặt cho mổ bò giết ngựa khao thưởng ba
quân. Quốc cữu lại mời Tống Giang và bọn các tướng Hoa Vinh nghỉ ngơi ở một toà
nhà riêng. Sau đó cho phép tất cả người ngựa vào đóng cả trong thành. Bọn Hoa
Vinh cùng đến yết kiến quốc cữu Đinh An và các quan chức bản châu. Sau lúc ở
dinh quốc cữu, Tống Giang mời Âu Dương thị lang đến bàn:
- Xin phiền quan thị lang sai người
báo cho quân sĩ giữ cửa ải biết để nếu quân sư Ngô Dụng đến thì họ mở cửa cho
vào và dẫn đến nghỉ chỗ tôi. Đêm qua đi vội không kịp đợi ông ta. Ngô Dụng giữ
chức quân sư, nhiều mưu trí, lại hiểu biết lục thao tam lược.
Âu Dương thị lang nghe xong liền sai
người báo cho quân canh cửa ải Ích Tân quan và cửa huyện Văn Yên: "hễ thấy
người ăn mặc giống thư sinh, xưng họ tên là Ngô Dụng thì mở cửa cho vào!"
Quân sĩ giữ ải Văn Yên nhậnt được
lệnh truyền của Âu Dương thị lang liền sai người đi đến ải Ích Tân quan truyền
đạt lại. Quân canh đứng trên cửa quan nhìn ra, thấy đằng xa bụi cát mù trời,
một đội quân người ngựa đang phóng gấp về phía cửa quan. Quân giữ ải chuẩn bị
gỗ lao đá bắn, sẵn sàng đối địch. Chợt thấy một người cưỡi ngựa đứng trước núi,
dáng dấp thư sinh, theo sau là một hoà thượng cùng đám dân chúng chừng dăm chục
người đang chạy ùa đến trước cửa ải. Người cưỡi ngựa đi đến cửa thành gọi to:
- Tôi là Ngô Dụng, thủ hạ của Tống
Giang, chúng tôi đi theo huynh trưởng, đang bị quân Tống đuổi gấp, mau mở cửa
cứu chúng tôi!
Viên tướng giữ ải nói:
- Chắc đúng là người ấy!
Rồi sai mở cửa ải cho Ngô Dụng vào. Hoà thượng và bác đầu
đà cũng chen vào nhưng bị quân canh chặn lại.
Vị hoà thượng nói:
- Hai chúng tôi là người tu hành, chẳng may bị quân lính
đuổi rất gấp, xin cứu chúng tôi!
Quân canh định xô hai người ra khỏi cổng, vị hoà thượng
nổi cáu, bác đầu đà cùng phát khùng quát:
- Chẳng phải tu hành nào cả, chúng tôi là Lỗ Trí Thâm và
Võ Tòng giữ mệnh sao Thái Tuế chuyên việc giết người đây!
Hoà thượng Lỗ Trí Thâm liền vung cây thiết thiền trượng
vụt tới tấp, hành giả Võ Tòng cũng múa đôi song giới đao cứ nhằm đầu nhè cổ bọn
quân canh mà chém như bổ dưa thái rau. Còn đám dân chúng mấy chục người chính
là bọn Giải Trân, Giải Bảo, Lý Lập, Lý Vân, Dương Lâm, Thạch Dũng, Thời Thiên,
Đoàn Cảnh Trụ, Bạch Thắng, Úc Bảo Tứ, hết thảy đều ùa vào xông chiếm cửa ải. Lư
Tuấn Nghĩa dẫn đội quân kỵ cũng vừa kịp tới nơi, kéo thẳng vào đánh huyện Văn
Yên. Bọn quan quân giữ cửa huyện có tài thánh cũng không giữ nổi! quân tướng
của Lư Tuấn Nghĩa kéo vào chiếm huyện Văn Yên.
Lại nói chuyện Ngô Dụng tế ngựa như bay đến trước cửa
thành Bá Châu. Viên quan giữ cổng thành hạ lệnh mở cửa cho vào. Tống Giang và
Âu Dương thị lang ra tận cổng đón tiếp đưa Ngô Dụng đến yết kiến quốc cữu Định
An. Ngô Dụng nói:
- Ngô Dụng tôi chậm chân nên không được cùng đi với Tống
huynh trưởng. Vừa ra khỏi thành không ngờ bị Lư Tuấn Nghĩa phát giác, đưa quân
đuổi theo đến tận cửa ải huyện Văn Yên. Tiểu nhân may thóat vào được thành,
không biết bây giờ ở đó ra sao?
Vừa lúc ấy quân thám mã lưu tinh về báo: "quân Tống
đã chiếm huyện Văn Yên, người ngựa của chúng đang tiến đến Bá Châu".
Tống Giang nói:
- Quốc cữu chưa cần điều quân đi vội. Đợi hắn đến dưới
thành, Tống Giang tôi sẽ ra lựa lời chiêu dụ. Nếu hắn không nghe ta sẽ đưa quân
ra đánh cũng không muộn.
Quân thám mã lại về báo: "Quân Tống đã đến sát
thành". Quốc cữu Định An và Tống Giang cùng lên cổng thành xem xét. Quân
Tống hàng ngũ chỉnh tề đã dàn sẵn ngoài thành. Lư Tuấn Nghĩa đội mũ trụ, mặc
giáp sắt, cắp ngang ngọn thương phóng ngựa khắp trận điều binh khiển tướng,
diễu võ dương oai rồi dừng lại dưới môn kỳ quát to:
- Hãy đem tên Tống Giang phản bội ra đây!
Tống Giang đứng trên bậc tường thấp dưới cổng thành giơ
tay chỉ Lư Tuấn Nghĩa mà nói:
- Này hiền đệ Lư Tuấn Nghĩa, chỉ vì triều đình nhà Tống
thưởng phạt bất công, bọn gian thần chuyên quyền, nịnh hót nên ta quy thuận
quốc vương nước Đại Liêu. Nếu hiền đệ cùng ý nguyện với ta thì sẽ giữ được vẹn
toàn tình nghĩa.
Lư Tuấn Nghĩa lớn tiếng mắng:
- Khi trước ta ở Bắc Kinh, đang yên ổn thì ngươi đến lừa
dụ ta lên núi. Thiên tử nhà Tống ba lần giáng chiếu chiêu an, có làm gì tổn hại
đến ngươi mà ngươi dám phản bội? ngươi thật là kẻ nông nổi bất tài! hãy mau ra
đây cùng ta đọ sức!
Tống Giang cả giận, quát mở cửa thành, sai bốn tướng là
Lâm Xung, Hoa Vinh, Chu Đồng, Mục Hoằng ra bắt sống Lư Tuấn Nghĩa. Lư Tuấn
Nghĩa trông thấy liền tự mình cắp thương phóng ngựa lên đón đánh cả bốn tướng.
Bọn Lâm Xung đánh hơn hai mươi hiệp rồi quay ngựa bỏ chạy về thành. Lư Tuấn
Nghĩa vẫy thương ra hiệu, đội quân người ngựa phía sau nhất loạt xông lên. Lâm
Xung, Hoa Vinh chặn giữ đầu cầu treo, quay lại chặn đánh rồi giả thua dẫn Lư
Tuấn Nghĩa đuổi theo vào thành. Ba quân phía sau hò hét dậy đất. Tống Giang và
các tướng trong thành chiếm khắp nơi. Quan quân đành chịu bó tay quy hàng, quốc
cữu Định An trơ mắt đứng nhìn cùng bọn thị lang giơ tay chịu trói.
Tống Giang đưa quân vào thành, các tướng đều đến phủ nha
yết kiến Tống Giang. Tống Giang ra lệnh đưa quốc cữu Định An và bọn thị lang Âu
Dương, Kim Phúc, Diệp Thanh vào trong phủ, mời ngồi tiếp đãi tử tế. Tống Giang
nói:
- Nước Liêu các người thật không biết điều, đánh giá anh
em chúng ta sai lắm! bọn hảo hán chúng ta đâu phải quân cường đạo tụ tập nơi
rừng núi. Mỗi người bọn ta đều có mệnh thiên sứ, há lại cam tâm phản chủ theo
hàng nước Liêu sao? Chẳng quan bọn ta thừa cơ mượn kế chiếm thành Bá Châu này
đó! nay việc đã xong, cho quốc cữu cùng bọn tuỳ tòng các ngươi trở về bản quốc.
sau khi các ngươi cùng bộ hạ, gia quyến trở về, thành Bá Châu này thuộc triều
đình nhà Tống. Các ngươi chớ có tính chuyện trở lại tranh chấp, nếu không ta
quyết không dúng
Tống Giang truyền lệnh xong, tất cả quan quân ở thành Bá
Châu buộc phải thu xếp theo quốc cữu Định An trở về U Châu ngay. Tống Giang cho
viết bảng vỗ yên dân chúng, một mặt giao cho phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa đưa
nửa số quân người ngựa trở về trấn thủ Kế Châu, một nửa quân sĩ dưới quyền Tống
Giang thì ở lại đóng giữ Bá Châu. Một mặt sai quân sĩ đưa quân thiếp phi báo để
Triêu khu mật biết tin. Triệu An phủ nghe báo cả mừng, liền viết biểu văn tâu
về triều.
Lại nói tiếp chuyện quốc cữu Định An cùng bọn ba viên thị
lang dẫn bộ hạ về đến Yên Kinh liền vào yết kiến vua Liêu, tâu lại đầu đuôi
việc Tống Giang trá hàng chiếm Bá Châu. Vua Liêu nghe xong cả giận mắng Âu
Dương thị lang:
- Chỉ tại thằng nịnh thần này đi chuốc vạ vào thân. Bá
Châu là thành trì hiểm yếu mà bị mất thì thành Yên Kinh chống giữ làm sao? mau
lôi hắn ra chém đầu cho ta!
Lúc ấy thống quân Ngột Nhan bước ra khỏi hàng tâu:
- Xin quốc vương đừng giận, bọn giặc cỏ ấy có gì đáng để
quốc vương phải bận tâm! hạ thần xin quốc vương hãy tha tội chết cho Âu Dương
thị lang, vì nếu Tống Giang biết chuyện sẽ không khỏi chê cười chúng ta.
Vua Liêu nghe theo, truyền xá tội cho Âu Dương thị lang.
Ngột Nhan thống quân lại tâu:
- Hạ thần xin đưa bộ hạ hai mươi tám viên tướng quân,
mười một viên đại tướng đưa quân đi dàn trận, chỉ một tiếng trống đủ lấy lại Bá
Châu.
Ngột Nhan thống quân chưa dứt lời, Hạ thống quân bước lên
tâu:
- Xin bệ hạ bình tâm, hạ thần có chút ý riêng xin tâu
lên. Tục ngữ có câu "mổ gà chẳng bỏ đao to", việc này chẳng phải
phiền chánh thống quân đem quân đi, hạ thần chỉ xin thi hành một kế nhỏ đủ
khiến bọn giặc Tống kia chết không còn đất chôn.
Vua Liêu nghe nói cả mừng, nói:
- Trẫm muốn nghe diệu kế của khanh!
Hạ thống quân bèn lựa giọng tâu trình mưu kế.
Chưa biết rồi sẽ ra sao, cứ như diệu kế ấy thì Lư Tuấn
Nghĩa rồi sẽ phải lâm vào một nơi ngựa không dám ăn cỏ, người hết lương ăn.
Thật là:
Ba quân kiêu dũng đều mất vía
Một đấng anh hùng phải cau mi.
Chưa biết Hạ thống quân tâu bầy mưu
kế gì, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 86 -
Núi Hươu Lẻ, Tống Công Minh Đánh Lớn
Đang nói chuyện viên võ quan họ Hạ
tên là Trọng Bảo, giữ chức phó thống quân nước Liêu, dưới quyền đô thống Ngột
Nhan. Hạ thống quân người cao một trượng, sức sánh vạn người, lại giỏi yêu
thuật, ra trận thường quen dùng một ngọn giáo hai lưỡi ba chĩa. Trọng Bảo hiện
đang cầm quân đóng giữ U Châu, kiêm lĩnh chức đề đốc quân doanh các lộ. Bấy giờ
Trọng Bảo tâu rằng:
- Thần cai quản U Châu, ở đó có một
nơi gọi là lũng Đá Xanh. Lũng ấy chỉ có một con đường đi qua, bốn phía đều núi
cao không có lối thoát. Hạ thần sẽ dẫn chừng hơn chục quân mã dụ địch vào đó
rồi đổ quân vây bên ngoài. Quân Tống phía trước không đường tiến, phía sau
không đường lùi, ắt phải chịu chết đói.
Ngột Nhan thống quân hỏi:
- Làm sao dụ địch đến đó được?
Trọng Bảo đáp:
- Quân Tống lấy được ba quận lớn của
ta, khí thế kiêu căng ắt hẳn muốn nhòm ngó U Châu. Ta chia quân đi tìm các ngả,
dụ địch đuổi theo. Đã lọt vào giữa hẻm núi, quân Tống chạy thoát đằng trời?
Ngột Nhan thống quân nói:
- Chỉ sợ kế ấy không thành, lại phải
phiền hạ quan đưa đại quân đi đánh mới xong. Nhưng đề đốc cứ thử thi thố xem
sao.
Trọng Bảo liền cáo từ vua Liêu, mặc
giáp đội mũ, rồi xách giáo lên ngựa dẫn quân bộ mã trở về U Châu. Hạ Trọng Bảo
điểm quân kỵ mã chia thành ba đội: một đội ở lại giữ thành U Châu, hai đội chia
đường tiến đánh Bá Châu và Kế Châu. Lệnh truyền ra các đội quân mã tiến ra khỏi
thành. Trọng Bảo sai em thứ hai là Hạ Sách chỉ huy cánh quân đánh Bá Châu, em
út là Hạ Vân chỉ huy cánh quân đánh Kế Châu. Hạ thống quân căn dặn không được
đánh thắng, phải giả thua để dụ quân Tống đuỏi theo vào đất U Châu.
Lại nói Tống Giang và các tướng đang
đóng giữ ở Bá Châu thì có tin báo: "Quân Liêu đang tiến đánh Kế Châu. Các
tướng giữ thành xin tiên phong điều quân cứu viện ". Tống Giang nói:
- Giặc đánh thì ta nghênh chiến!
thừa thắng sẽ đánh lấy U Châu.
Tống Giang chỉ để một ít quân lính ở
lại giữ thành Bá Châu rồi hạ lệnh cho đại quân nhổ trại tiến về Kế Châu hội
quân với Lư Tuấn Nghĩa, hẹn ngày tiến đánh U Châu.
Lại nói tướng Liêu là Hạ Sách đưa
quân đến Bá Châu đúng lúc quân Tống Giang vừa xuất phát. Quân hai bên gặp nhau
dàn trận giao chiến. Hạ Sách chỉ đỡ gạt vài hiệp xong quay ngựa bỏ chạy. Tống
Giang không cho quân đuổi theo.
Lại nói Hạ Vân đến đánh Kế Châu,
giao chiến với đại tướng Hô Diên Chước. Hai bên chưa kịp vào trận, Hạ Vân đã hạ
lệnh lui quân.
Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa vào
trướng quân cùng bàn kế đánh U Châu.
Ngô Dụng, Chu Vũ nói:
- Quân Liêu xuất phát từ U Châu đi
hai phía, đây tất là kế dụ địch của bọn chúng. Xin tiên phong để thư thả hãy
đánh U Châu.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Quân sư nhầm rồi! bọn chúng thua
liền mấy trận, đâu dám dùng kế dụ địch? đáng đánh mà bỏ lỡ, về sau sẽ khó.
Không đánh U Châu thì còn đợi bao giờ?
Tống Giang nói:
- Quân Liêu thế cùng lực tận, còn kế
sách gì đáng thi thố? Ta cứ thừa thắng tiến đánh luôn.
Rồi Tống Giang truyền lệnh cất quân
đi đánh U Châu.
Tiền quân báo tin:"phía trước
có quân Liêu chặn đường ". Tống Giang lên phía trước quan sát thấy từ sau
sườn núi có một đạo quân cờ đen đang tiến ra, Tống Giang liền hạ lệnh dàn trận.
Quân Liêu cũng chia làm bốn đạo, dàn trận trước chân núi. Mấy vạn quân Liêu
người ngựa ùn ùn như mây đên kéo tới. Một viên tướng cắp ngọn giáo hai lưỡi ba
chĩa dừng ngựa đứng trước trận. Trên cờ tướng đề to mấy chữ "Đại Liêu phó
thống quân Hạ Trọng Bảo". Trọng Bảo cắp giáo thúc ngựa ra trước trận. Tống
Giang hỏi các tuỳ tướng:
- Chức thống quân của nước Liêu ắt
là một viên thượng tướng, ai dám ra đánh?
Tống Giang chưa dứt lời đã thấy Đại
đao Quan Thắng múa thanh long đao cưỡi ngựa xích thố phóng như bay ra trước
trận chẳng nói chẳng rằng xông vào giao chiến với Hạ Trọng Bảo. Đánh chừng hơn
ba mươi hiệp, Trọng Bảo đuối sức xách giáo chạy về trận nhà. Quan Thắng quất
ngựa đuổi theo.
Trọng Bảo dẫn bại binh chạy dạt theo
sườn núi. Tống Giang hô quân đánh đuổi. Bỗng nghe bốn bên trống trận nhất loạt khua
vang, Tống Giang vội cho quân quay lại, vừa đến phía bên trái sườn núi thì gặp
một đội quân Liêu chặn đường. Tống Giang chỉ kịp chia quân nghênh chiến, phía
bên phải đã thấy một đội quân liêu nữa tiến ra. Hạ Trọng Bảo đang chạy phía
trước đem quân quay lại đánh. Đại quân của Tống Giang bốn phía không cứu ứng
được cho nhau, bị quân Liêu đánh vào giữa cắt đứt làm hai đoạn.
Lại nói Lư Tuấn Nghĩa ở phía sau cố
hết sức mà đánh, trông lên không thấy tiền quân, vội tìm đường đánh thóat. Đang
lúc ấy, từ giữa lũng núi lại có một cánh quân khác ra chặn đường. Quân Liêu hò
reo vang trời đón đánh khắp nơi. Bị vây ép vào giữa, Lư Tuấn Nghĩa đốc suất
tướng sĩ tả hữu xung đột cố sức đánh mở đường. Các tướng đều dốc sức trổ tài
đánh xáp tới. Bỗng thấy mây đen trùm kín, ám khí bốc mù, trời đất bỗng tối om.
Lư Tuấn Nghĩa hoảng hốt dẫn một đội quân kỵ liều chết đánh ra. Trong bóng tối
chỉ nghe phía trước leng keng tiếng đạc ngựa, Lư Tuấn Nghĩa bèn thúc quân tiến
theo hướng ấy. Đến trước cửa núi, nghe phía trong có tiếng ngựa hí và tiếng
người lao xao, Lư Tuấn Nghĩa đem quân đuổi tới. Bỗng gió bão nổi lên ầm ầm,
đứng sát mặt cũng không thấy người. Quân Lư Tuấn Nghĩa đã vào hẳn trong lũng
núi, nhưng mãi đến gần canh hai gió lặng mây tan mới thấy rõ vòm sao trên trời.
Mọi người nhìn ra xung quanh thấy toàn núi cao, hai bên đều là vách đá dựng
đứng. Lư Tuấn Nghĩa ngoái lại thấy bên mình chỉ còn bọn Từ Ninh, Sách Siêu, Hàn
Thao, Bành Kỷ, Trần Đạt, Dương Xuân, Chu Thông, Lý Trung, Trâu Uyên, Trâu
Nhuận, Dương Lâm, Bạch Thắng cùng năm nghìn quân kỵ. Dưới ánh sao lờ mờ quân sĩ
cố sức tìm đường về nhưng không có cách nào vượt ra được. Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Quân sĩ giao chiến cả ngày đều mỏi
mệt, hãy tạm nghỉ lại ở đây một đêm, sáng ra sẽ tìm đường về.
Lại nói Tống Giang đang lúc giáp
trận với quân Liêu bỗng thấy mây đen ùn khắp bốn phía, gió bão cuốn đất đá bay
tung, quân sĩ sát mặt cũng không thấy nhau. Công Tông Thắng ngồi trên ngựa thấy
vậy biết là trúng yêu thuật của quân Liêu, vội nhẩm đọc mấy câu thần chú rồi
rút bảo kiếm giơ lên hô lớn: "Mau!" lập tức mây tan gió ngừng. Quân
Liêu thấy tình thế bất lợi phải rút lui. Tống Giang thúc quân đánh lên phá vòng
vây. Đến bên một ngọn núi cao, Tống Giang cho quân dừng lại để chờ các cánh
quân sau. Tống Giang sai dồn các xe chở lương xếp đầu đuôi tiếp nhau làm thành
một hàng rào. Kiểm lại tướng sĩ thấy thiếu bọn Lư Túân Nghĩa mười ba đầu lĩnh
và hơn năm nghìn người ngựa. Tảng sáng hôm sau, Tống Giang sai Hô Diên Chước,
Lâm Xung, Tần Minh, Quan Thắng chia nhau dẫn quân đi các ngả tìm bọn Lư Tuấn
Nghĩa. Hết một ngày vẫn không có tin báo về. Tống Giang bèn lấy tập thơ giáng
bút Cửu Thiên Huyền Nữ ra thắp hương gieo quẻ bói, rồi nói: "cứ như lời
quẻ bói thì tính mạng bọn Lư Tuấn Nghĩa được an toàn, chẳng may bị giam hãm ở
một nơi hẻo lánh chưa về ngay được". Tuy vậy, Tống Giang vẫn không yên
tâm, bèn sai Giải Trân, Giải Bảo giả ăn mặc như người đi săn luồn đường đi tìm
trong núi. Lại cho Thời Thiên, Thạch Dũng, Đòan Cảnh Trụ và Tào Chính đi dò hỏi
tin tức các nơi.
Giải Trân, Giải Bảo khoá áo da hổ,
xách chĩa sắt, trông rừng thẳm mà đi. Chiều tối, hai người đến một ngọn núi.
Nhìn quanh không thấy một nhà dân, bốn bên đều là non trung núi lớp. Đi qua mấy
núi thì thấy đằng xa, dưới ánh trăng lờ mờ có đốm lửa bên sườn núi. Hai người
nói với nhau: "có đèn lửa ắt là có nhà dân".
Hai người nhằm theo ánh đèn mà đi.
Chưa đầy một dặm thấy vài ba gian nhà tranh bên sườn núi, cây cối um tùm. Từ
sau bức tường đổ có ánh đèn hắt ra. Giải Trân, Giải Bảo đẩy cổng bước vào. Dưới
ánh đèn thấy một cụ bà trạc ngoài sáu mươi. Anh em Giải Trân, Giải Bảo bỏ chĩa
sắt xuống đất, cúi đầu vái chào. Bà lão nói:
- Già cứ ngỡ là con già trở về,
chẳng ngờ là hai vị. Chẳng hay hai vị từ đâu tới?
Giải Trân nói:
- Thưa lão mẫu, anh em tiểu nhân
người ở Sơn Đông, xưa làm nghề săn bắn, nay lên buôn bán ở vùng đây. Chẳng may
gặp lúc quan quân đánh nhau liên miên, chúng tôi phải ăn chực nằm chờ, tiêu
sạch lưng vốn, không biết sinh sống cách gì, đành phải vào núi kiếm cái ăn. Vì
không thuộc đường nên bị lạc đến đây. Anh em muốn xin lão mẫu cho nghỉ nhờ một
đêm, sáng mai đi sớm.
Bà lão nói:
- Tục ngữ có câu "đi đường ai
đội nhà theo". Hai đứa con trai của già cũng làm nghề săn bắn, vào khoảng
giờ này thì anh em nó đã về nhà rồi. Mời hai vị ngồi nghỉ, già đi nấu cơm để
hai vị xơi tạm.
Giải Trân, Giải Bảo nói:
- Xin đa tạ lão mẫu.
Bà lão vào nhà soạn cơm, anh em Giải
Trân, Giải Bảo ngồi nghỉ trước cửa. Một lát sau thấy hai người khiêng một con
nai từ ngoài cổng đi vào. Bà mẹ đi ra bảo:
- Các con hãy để con nai đó để đến
chào hai vị khách đây đã.
Giải Trân, Giải Bảo vội xuống dưới
thềm chào hỏi. Hai người con chủ nhà đáp lễ xong, hỏi:
- Chẳng hay hai vị từ đâu đến, có
việc gì?
Giải Trân, Giải Bảo cũng nói sơ qua
như lúc trước đã nói với bà mẹ. Người con lớn nói:
- Tổ tiên chúng tôi vốn người ở đây.
Tôi là Lưu Nhị, em
tôi đây là Lưu Tam. Thân phụ chúng tôi là Lưu Nhất đã qua đời, hiện chỉ còn
thân mẫu đó thôi. Chúng tôi theo nghề săn bắn đã hơn hai chục năm nay. Đường đi
lối lại ở đây rắc rối lắm, ngay anh em chúng tôi cũng có khi lạc đường. Hai ông
ở tận Sơn Đông sao lại lên làm ăn tận trên này? hai ông chớ có nói dối: có đúng
hai ông là người săn bắn hay không?
Giải Trân, Giải Bảo đáp:
- Anh em chúng tôi tới đây thật không dám nói dối. Sẽ xin
thưa chuyện với hai đại ca thôi.
Có đoạn thơ làm chứng như sau:
Phong loan trùng điệp nhiễu chu tào,
Binh hãm cai tâm bất khả đào.
Nhị Giải dục tri tì hổ lộ,
Cố tương tung tích hỗn ngư tiều.
(Khe ghềnh trùng điệp núi non cao,
Quân lọt rừng sâu dễ thoát nào.
Nhị Giải muốn tìm đường hổ chạy,
Cố tình che mắt chuyện ngư tiều.)
Bấy giờ Giải Trân, Giải Bảo quỳ cả
xuống đất, nói:
- Anh em chúng tôi là Giải Trân,
Giải Bảo quả thật là người săn bắn ở Sơn Đông, bấy lâu theo huynh trưởng Tống
Công Minh làm nghề lạc thảo ở Lương Sơn Bạc, sau về quy thuận triều đình. Nay
chúng tôi cùng với huynh trưởng vâng mệnh triều đình đi đánh giặc Liêu. Ngày
hôm kia giao chiến với quân Liêu do tên Hạ thống quân chỉ huy, chúng tôi bị mất
một đội quân người ngựa hiện không biết bị vây hãm ở đâu. Vì vậy Tống tiên
phong sai chúng tôi đến đây thăm dò tin tức.
Hai người con chủ nhà nghe xong,
cười nói:
- Mời hai hảo hán đứng dậy, anh em
chúng tôi sẽ giúp chỉ đường cho hai vị. Bây giờ hai vị cứ nghỉ ngơi, anh em
chúng tôi đi thui thịt hai và hâm rượu để ăn uống đã.
Một lúc sau, thịt nai thui xong,
bưng lên. Anh em Lưu Nhị ngồi tiếp rượu, cùng chuyện trò với Giải Trân, Giải
Bảo.
Anh em Lưu Nhị nói:
- Lâu nay ở nước Liêu chúng tôi cũng
nghe danh Tống Công Minh ở Lương Sơn Bạc thay trời hành đạo, không làm tổn hại lương
dân.
Giải Trân, Giải Bảo đáp:
- Huynh trưởng chúng tôi lấy trung
nghĩa làm đầu, đã thề không làm hại đến lương dân, chỉ trị tội bọn tham quan ô
lại ức hiếp dân lành.
Anh em Lưu Nhị nói:
- Trước đây chúng tôi chỉ nghe tiếng
đồn, nay hỏi hai vị mới biết thực có như vậy.
Anh em Lưu Nhị cả mừng, đối xử với
Giải Trân, Giải Bảo lại càng thêm thân mật.
Giải Trân nói:
- Đội quân bị lạc của chúng tôi có
tới mười mấy vị đầu lĩnh cùng kỵ mã đến bốn năm nghìn, không rõ lạc đi phương
nào. Chúng tôi phỏng đóan phải là một nơi địa thế hiểm trở mới vây hãm được một
đội quân người ngựa đông chừng ấy.
Lưu Nhị nói:
- Hai vị không quen địa hình ở miền
bắc. Ở U Châu này có một hẻm núi gọi là lũng Đá Xanh, chỉ có một con đường đi
qua hai vách núi cao dốc đứng. Nếu bị lọt vào lũng ấy mà hai đầu đều bị chặn
thì không có đường thoát. Đội quân của các vị chắc bị hãm trong lũng ấy thôi.
Còn ngọn núi mà hiện giờ Tống Công Minh đang đóng quân gọi là núi Hươu Lẻ. Dưới
chân núi ấy có một bãi đất bằng, quân đôi bên có thể bày trận giao chiến được.
Nếu đứng trên đỉnh núi mà trông thì người ngựa bốn bên kéo tới đều thấy rõ. Các
vị muốn cứu đội quân bị vây thì phải liều đánh vào lũng Đá Xanh. Ngoài cửa núi
chắc hẳn có đông quân lính chặn giữ để cắt đứt đường ra. Núi ấy có nhiều cây
tùng, nhưng chỉ hai cây ở cửa núi là cao nhất. Đứng xa trông tựa như hai cai ô.
Đường vào trong lũng ở gần hai cây tùng ấy. Nhưng các vị phải đề phòng vì tên
Hạ thống quân có tài yêu thuật, phải báo để Tống tiên phong biết tìm cách phá
cho được tà phép của nó.
Nghe xong, Giải Trân, Giải Bảo cảm
tạ anh em họ Lưu rồi cáo từ luôn đêm đi ngay về trại.
Tống Giang thấy Giải Trân, Giải Bảo
trở về liền hỏi:
- Có tin gì không?
Giải Trân, Giải Bảo kể lại cho Tống
Giang nghe việc gặp anh em họ Lưu. Tống Giang nghe xong giật mình lo sợ, bèn
mời quân sư Ngô Dụng vào bàn bạc. Đang lúc ấy, viên tiểu hiệu vào báo:
"Đòan Cảnh Trụ và Thạch Dũng đã tìm được Bạch Thắng đưa về". Tống
Giang nói:
- Bạch Thắng về được tất là có tin
của Lư tiên phong.
Nói đoạn cho gọi cả ba người vào
trong trướng quân hỏi chuyện. Đoàn Cảnh Trụ nói:
- Tiểu đệ và Thạch Dũng đang đứng
bên bờ khe trên núi thì thấy một cái gói lăn từ trên núi xuống. Anh em tiểu đệ
vội xuống chân núi thấy một bao chãn, ngoài buộc dây thừng chắc chắn. Anh em
tiểu đệ đến mở bao thì hoá ra bên trong là Bạch Thắng.
Bạch Thắng nói:
- Lư tiên phong cùng anh em tiểu đệ
cả thảy mười ba người đang khi giao chiến bỗng thấy ánh nắng vụt tắt, trời đất
tối om không phân biệt được phương hướng nữa. Nghe có tiếng ngựa hí. Lư tiên
phong cho lệnh đuổi theo, chẳng ngờ lọt vào nơi hiểm yếu. Chỗ ấy bốn bên là núi
cao, quân ta bị vây hãm trong đó, lương thảo của người ngựa đều cạn hết. Lư
tiên phong sai tiểu đệ lăn từ trên núi xuống tìm đường về báo tin, may sao lại
gặp được Thạch Dũng và Đoàn Cảnh Trụ. Xin huynh trưởng đưa quân đi tiếp ứng.
Tống Giang liền điểm quân, ngay đêm
ấy lệnh cho Giải Trân, Giải Bảo đi trước dẫn đường, nhằm hướng hai cây tùng mà
tiến. Quân kỵ quân bộ đều được lệnh ra sức đánh chiếm cho được đầu núi. Người
ngựa đi thâu đêm. Tảng sáng, từ xa đã thấy rõ hai cây tùng to trước cửa núi,
quả đúng như hình hai chiếc ô. Giải Trân, Giải Bảo dẫn đội quân kỵ tiến đến. Hạ
thống quân cho người ngựa dàn sẵn thế trận, hai em ruột là Hạ Sách và Hạ Vân
đều tranh ra đánh trước. Quân tướng của Tống Giang tiến vào chiếm cửa núi. Báo
tử đầu Lâm Xung phóng ngựa lên đánh Hạ Sách. Hai tướng ngồi trên lưng ngựa quần
thảo nhau. Chỉ hai hiệp, Hạ Sách bị mũi bát xà mâu của Lâm Xung đâm thủng bụng,
lăn nhào xuống ngựa. Các đầu lĩnh chỉ huy quân bộ thấy kỵ binh đánh thắng liền
hô quân đánh tràn vào cửa núi. Hắc toàn phong Lý Quỳ hai tay hai búa xông vào
đánh giết quân Liêu. Tiếp theo sau là Hỗn thế ma vương Phàn Thuỵ, Tang môn thần
Bao Húc cùng với Hạng Sung, Lý Cổn dẫn đội qân đao thuẫn đánh vào giữa trận
quân Liêu. Lý Quỳ đón đánh Hạ Vân, sấn đến gần phạt một búa đứt ngang chân
ngựa. Hạ Vân vừa lăn xuống đất, Lý Quỳ liền vung búa băm nhừ cả người lẫn ngựa.
Quân Liêu ùa tới bị quân đao thuẫn của Phàn Thuỵ, Bao Húc đánh dạt hết.
Chủ tướng quân Liêu là Hà Trọng Bảo
thấy hai em ruột bị giết liền niệm thần chú trổ yêu thuật: cuồng phong nổi lên,
mây đen che kín đất, ám khí đầy trời. Bên quân Tống Giang, Công Tôn Thắng vừa
đến kịp, liền tuốt bảo kiếm cầm tay, ngồi yên trên lưng ngựa nhẩm đọc thần chú
rồi quát to: "Mau". Trận gió mạnh tức thời nổi lên quét sạch mây đen,
mặt trời lại sáng như cũ. Tướng sĩ cả ba quân mã bộ ào ạt xông lên đánh giết
quân Liêu.
Hạ thống quân thấy pháp thuật mất
thiêng mà quân Tống lại áp trận rất gắt, đành thúc ngựa múa đao ra trước trận.
Quân hai bên xông vào hỗn chiến. Quân Liêu cả bại tìm đường chạy trốn.
Tống Giang cho kỵ binh đuổi theo
quân Liêu, còn quân bộ thì vào mở cửa lũng. Nguyên cửa lũng này đã bị quân Liêu
vần những tảng đá xanh thật to xếp chồng nhau để bịt đường. Quân Tống Giang mở
thông cửa núi tiến vào trong lũng. Lư Tuấn Nghĩa đến gặp Tống tiên phong, có
phần hổ thẹn vì sơ súat để quân sĩ bị vây. Tống Giang ra lệnh thu quân về núi
Hươu Lẻ nghỉ ngơi. Lư Tuấn Nghĩa khóc nói với Tống Giang:
- Nếu đại huynh không đem quân đến
cứu thì Tuấn Nghĩa tôi đã làm nguy hại tính mệnh của các anh em.
Sau đó Tống Giang, Lư Túân Nghĩa
cùng Ngô Dụng, Công Tôn Thắng sánh ngựa trở về trại, xuống lệnh cho ba quân
nghỉ ngơi.
Ngày hôm sau, quân sư Ngô Dụng bàn
với Tống tiên phong:
- Quân ta đang thừa thắng, nên đánh
lấy U Châu. Lấy được U Châu thì chỉ ngồi xoa tay chờ vua Liêu đầu hàng.
Thấy các tướng sĩ bị vây ở khe Đá
Xanh còn mệt mỏi, Tống Giang bàn với Lư Tuấn Nghĩa đưa bọn họ vào thành Kế Châu
nghỉ ngơi. Tống Giang đích thân đem quân rời núi Hươu Lẻ lên đường tiến gấp về
U Châu.
Lại nói bên quân Liêu, Hạ thống quân
từ khi rút lui về U Châu buồn phiền vì hai em chết trận, lại nghe quân thám mã
về báo:"quân Tống đang đến U Châu". Quân lính lo sợ, trèo lên mặt
thành nhìn ra, thấy hai đội quân mã dùng cờ hiệu màu đỏ và màu xanh đang từ hai
phía đông bắc và tây bắc bon nhanh về U Châu. Hạ thống quân nghe tin báo xiết
đỗi kinh sợ, đích tân lên mặt thành xem xét, bấy giờ mới hay hai đội quân mã
giương cờ xanh thêu chữ vàng là quân của đại tướng Lý Kim Ngô, quân sĩ đều cắm
lông chim trì trên chóp mũ. Viên tướng ấy họ tên thật là Lý Tập, vốn dòng dõi
con cháu Lý Lăng nhờ tập ấm đuợc phong tước Hoàng môn thị lang, tả chấp kim
ngô, mọi người vì vậy vẫn quen gọi là Lý Kim Ngô. Lý Kim Ngô hiện giữ chức trấn
thủ Hùng Châu, dưới trướng có gần một vạn người ngựa. Chính tên Lý Kim Ngô này
đã đưa quân sang xâm phạm nước Tống. Nay nghe tin triều đình bị mất luôn mấy
thành vội dẫn quân về U Châu trợ chiến.
Hạ thống quân thấy vậy liền sai lính
ra đón đường báo cho phò mà Thái Chân và đại tướng Lý Kim Ngô đưa quân ra mai
phục sau núi, nghỉ ngơi tại chỗ, chờ hợp sức với quân trong thành đánh ốp vào
đại quân của Tống Giang.
Hạ thống quân truyền lệnh điều quân
xong, tự mình dẫn quân ra ngoài thành chặn địch.
Quân Tống Giang tiến gần đến thành U
Châu, Ngô Dụng bàn rằng:
- Nếu quân Liêu đóng cổng thành tức
là bên trong chưa kịp phòng bị, nếu chúng ra ngoài đón đánh thì thế nào cũng có
quân mai phục. Ta nên chia quân tiến theo ba cánh: một cánh tiến vào thành, sẵn
sàng đánh quân nghênh chiến, còn hai cánh khác rẽ ra hai bên tả hữu cùng phối
hợp. Nếu có quân mai phục thì hai cánh này lo đối phó.
Tống Giang liền sai Quan Thắng cùng
bọn Tuyên Tán, Hách Tư Văn đưa quân đi cánh trái, Hô Diên Chước cùng bọn Đan
Đình Khuê, Ngụy Định Quốc dẫn quân đi cánh phải. Mỗi cánh đều có hơn vạn quân
kỵ mã, men theo đường nhỏ sau núi mà đi. Tống Giang dẫn đại quân đi theo hướng
chính diện, tiến đánh thành U Châu.
Lại nói Hạ thống quân đem quân ra
ngoài thành liền gặp đại quân Tống Giang, Lâm Xung vỗ ngựa ra đánh Hạ Trọng
Bảo, chưa đầy năm hiệp, Trọng Bảo đã quay ngựa bỏ chạy. Quân mã của Tống Giang
phóng ngựa đuổi theo. Hạ Trọng Bảo liền rẽ quân ra hai phía. Ngô Dụng ngồi trên
ngựa quát to:
- Chớ đuổi theo!
Nói chưa dứt, quân của phò mã Thái
Chân từ bên trái ùa ra. Quan Thắng hô quân chặn đánh. Quân Lý Kim Ngô xuất hiện
ở phía bên phải gặp ngay cánh quân của Hô Diên Chước. Ba cánh quân giao chiến
quyết liệt, thây chất thành núi, máu chảy thành sông.
Hạ Trọng Bảo liệu sức không thắng
nổi, định dẫn quân vào thành, liền bị hai tướng là Hoa Vinh và Tần Minh đem
quân chặn đánh. Hạ Trọng Bảo quay chạy về cửa tây, gặp Song thương tướng Đổng
Bình. Quân đôi bên lại một phen kịch chiến. Trọng Bảo lui chạy về cửa nam, lại
gặp quân của Chu Đồng. Hạ Trọng Bảo thấy tình thế bất lợi không dám về thành,
đành theo đường lớn đưa quân chạy lên phía bắc. Đang lúc không đề phòng, bỗng
thấy Trấn tam sơn Hoàng Tín từ phía trước múa đại đao dẫn quân đón đánh. Hạ
Trọng Bảo hốt hoảng, chưa kịp trở tay đã bị Hoàng Tín lia một đao đúng giữa đầu
ngựa. Trọng Bảo liền bỏ ngựa chạy trốn, không ngờ lại có quân bộ của hai đầu
lĩnh Dương Hùng và Thạch Tú từ bên sườn núi xông ra đánh ngã. Tống Vạn từ xa
trông thấy, xách thương đuổi theo. Quân bộ tốt không muốn cho Tống Vạn tranh
công, liền mỗi người một giáo đâm Hạ Trọng Bảo nát nhừ. Quân Liêu biết tình thế
nguy cấp, tán loạn tìm đường chạy trốn. Thái Chân phò mã thấy ngọn cờ suý bên
trận của Hạ thống quân đã đổ và quân lính ùa nhau tẩu thoát, biết sức không cứu
vãn được, liền dẫn quân cờ đỏ theo đường sau núi mà chạy. Lý Kim Ngô đang dốc
sức đánh, ngoảnh nhìn không thấy quân cờ đỏ đâu cả, biết tình thế nguy, cũng
vòng qua đường núi dẫn quân cờ xanh tìm đường chạy trốn.
Thấy quân Liêu cả ba phía đều thua
chạy, Tống Giang bèn truyền lệnh cho quân sĩ vào thành đóng trại nghỉ ngơi.
Tống tiên phong hạ lệnh yết bảng chiêu an. Lại sai quân thám mã ruổi gấp về Đàn
Châu báo tin thắng trận, mời Triệu khu mật dời hành dinh đến đóng giữ Kế Châu,
Lư Tuấn Nghĩa đưa quân đi trấn thủ Bá Châu và xin cho các đầu lĩnh thuỷ quân
đưa đoàn chiến thuyền đến đóng ở U Châu đợi lệnh. Trước sau quân Tống Giang đã
chiếm được bốn quận lớn của nước Liêu. Triệu khu mật được tin báo vui mừng khôn
xiết, liền viết biểu tâu về triều, rồi đưa quân đi đóng giữ Kế Châu thay cho Lư
Tuấn Nghĩa đi Bá Châu. Lại truyền cho các đầu lĩnh thuỷ quân thu xếp đưa chiến
thuyền đến U Châu phối hợp với quân của Tống tiên phong, sẵn sàng thuỷ lục cả
hai đường đều tiến.
Lại nói vua Liêu ra ngự triều, các
quan văn võ đều vào chầu. Tả thừa tướng là U Tây Bột Cẩu, hữu thừa tướng là th
ai sư Chữ Kiên và các viên đại tướng thống quân cùng nhau bàn bạc. vua Liêu
hỏi:
- Bọn Tống Giang xâm phạm biên giới,
nay đã chiếm bốn quận lớn của nước ta, sớm muộn sẽ xâm phạm kinh đô, thành Yên
Kinh khó bề chống giữ. Nay quốc gia hữu sự mà ba anh em Hạ thống quân đều đã tử
trận, văn võ các khanh có kế sách gì đối phó hay không?
Quan hữu đô thống Ngột Nhan Quang
dõng dạc tâu rằng:
- Xin bệ hạ chớ lo phiền! mấy lần
trước hạ thần muốn dẫn quân đi đánh, nhưng lần nào cũng bị ngăn cản, vì vậy mà
dung cho thế quân giặc thêm mạnh, thật là mối họa lớn cho nước nhà. Nay cúi xin
bện hạ giáng chỉ cho hạ thần được phép tuyển chọn quân mã, hội họp binh tướng
các nơi về, định ngày xuất quân, phải bắt sống cho được bọn Tống Giang, khôi
phục các thành trì đã mất!
Vua Liêu chuẩn tấu, ban cho Ngột
Nhan thống quân thẻ minh châu hổ bài, sắc chỉ áp sẵn ngự ấn cùng là tiết việt,
cờ đỏ lọng đen.
Vua Liêu nói:
- Cho phép khanh điều khiển mệnh
lệnh: dù là hoàng tử, công chúa, tôn thân quốc thích bất kể là đội quân mã nào
cũng đều phải tuân lệnh. Khanh hãy mau đưa quân ra trận.
Ngột Nhan thống quân lạy nhận thánh
chỉ, binh phù, rồi ra bãi luyện võ tập hợp các tướng, truyền lệnh đi các nơi
điều quân mã về tiếp ứng. Lệnh truyền xong, con trai Ngột Nhan thống quân là
tiểu tướng Ngột Nhan Diên Thọ bước lên giảng võ đình thưa rằng:
- Xin phụ thân ở lại kinh thành để
lo liệu điều binh khiển tướng, con xin dẫn mấy viên mãnh tướng đến góp sức với
phò mã Thái Chân và đại tướng Lý Kim Ngô đưa quân đi đanh thu phục thành Kế
Châu. Chưa biết tôn ý của phụ thân thế nào?
Ngột Nhan thống quân cả mừng, nói:
- Con nói hợp ý ta! cho con làm tiên
phong, dẫn năm ngàn quân đội kỵ cùng hai vạn bộ binh thiện chiến đến hợp với
quân của phò mã Thái Chân và đại tướng Lý Kim Ngô. Con hãy lên đường ngay, hễ
có tin thắng trận, sai quân thám mã về phi báo.
Ngột Nhan Diên Thọ cả mừng, nhận
hiệu lệnh, chỉnh điểm quân sĩ, rồi đem quân lên đường tiến nhanh về U Châu.
Đúng là:
Muôn ngựa bon nhanh trời đất sợ,
Nghìn quân tiến mạnh quỷ thầnh kinh.
Chưa biết Ngột Nhan Diên Thọ tới
đánh ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 87 -
Tống Công Minh Đại Chiến U Châu
Đang nói chuyện bấy giờ Ngột Nhan
Diên Thọ dẫn hơn hai vạn quân mã và quân bộ đến hội với quân của phò mã Thái
Chân và đại tướng Lý Kim Ngô, cả thảy ba vạn năm ngàn quân, cho sửa sang khí
giới, thương đao cung tên, mọi thứ đã đầy đủ, bèn cho quân lên đường. Quân thám
mã dò được tin tức liền phi về U Châu báo với Tống Giang. Tống Giang cho mời
quân sư Ngô Dụng đến bàn bạc. Tống Giang nói:
- Quân Liêu mấy phen thua to, lần
này lại chọn tinh binh mãnh tướng đến hòng chiếm lại U Châu, ta nên đối phó thế
nào?
Ngô Dụng đáp:
- Trước hết đưa quân ra ngoài thành
bày sẵn thế trận, quân Liêu kéo đến sẽ từ từ khiêu chiến. Nếu đánh không thắng,
bọn chúng ắt phải lui quân.
Tống Giang liền điều kỵ binh ra
ngoài thành quá mười dặm, đến dưới chân núi Phương Sơn là nơi địa thế bằng
phẳng, lại liền núi kề sông, hạ lệnh dàn trận Cửu cung bát quái. Quân Liêu chia
thành ba đội tiến đến: đội quân của Ngột Nhan Diên Thọ trương cờ đen, đội quân
của Thái Chân phò mã trương cờ đỏ, quân của đại tướng Lý Kim Ngô trương cờ
xanh. Cả ba đội quân đến gần, thấy bên quân Tống Giang đã bày sẵn trận địa.
Ngột Nhan Diên Thọ theo nghề võ của cha, học đủ mọi cách bầy trận, hiểu biết
binh pháp cũng khá gọi là tinh thông, lúc ấy liền truyền lệnh cho quân cờ đỏ và
quân cờ xanh dàn ra đóng giữ hai bên tả hữu, tự mình chỉ huy đội trung quân,
sai dựng ngay chòi quan sát rồi trèo lên nhìn sang bên trận Tống Giang. Xem
xong, trở xuống cười khẩy một mình. Các phó tướng hỏi:
- Tướng quân cười gì vậy?
Diên Thọ đáp:
- Bày trận như vậy, sai chẳng biết
là trận Cửu cung bát quái! đã chẳng che mắt được ai thì ta đây há lại sợ?
Nói đoạn sai quân sĩ gióng ba hồi
trống trận và chọn chỗ đắp tướng đài. Đắp xong, Diên Thọ trèo lên, hai tay cầm
hai cây cờ hiệu, phất trái vẫy phải điều khiền quân dàn trận xong xuôi rồi bước
xuống, nhẩy lên ngựa, ra lệnh cho viên phó tướng nổi hiệu khai chiến. Ngột Nhan
Diên Thọ tế ngựa ra đấu khẩu với Tống Giang.
Ngột Nhan Diên Thọ ghìm ngựa đứng
trước trận, lớn tiếng hỏi:
- Nhà ngươi bày trận Cửu cung bát
quái hòng che mắt ai? Còn quân ta dàn trận thế nào, ngươi có hiểu không?
Tống Giang nghe nói, biết tướng Liêu
muốn đấu khẩu về binh pháp bèn sai dựng chòi quan sát. Tống Giang, Ngô Dụng,
Chu Vũ cùng lên chòi cao nhìn sang, thấy quân Liêu dàn thành ba cánh liên tiếp,
hai bên tả hữu ngoảnh mặt vào nhau. Chu Vũ thoạt nhìn biết ngay, nói với Tống
Giang:
- Đó là trận Thái Ất tam tài.
Tống Giang bảo Ngô Dụng và Chu Vũ cứ
đứng trên chòi, chỉ một mình đi xuống lên ngựa ra trận. Tống Giang giơ roi chỉ
thẳng mặt tên tướng Liêu mà quát:
- Cái trận Thái Ất tam tài của bọn
ngươi có gì là lạ!
Ngột Nhan Diên Thọ đáp:
- Ngươi nhận ra cách bày trận, nhưng
chưa chắc đã biết cách biến đổi thế trận.
Nói xong quay ngựa về, bước lên
tướng đài phát cờ hiệu điều quân đổi trận. Ngô Dụng, Chu Vũ đứng trên chòi cao
nhìn sang, biết quân Liêu đã chuyển sang thế trận Hà Lạc tứ tượng bèn sai quân
sĩ báo Tống Giang biết. Diên Thọ lại phi ngựa ra trước trận, cắp ngang ngọn
kích, hỏi:
- Ngươi có biết trận gì không?
Tống Giang đáp ngay:
- Đó là trận Hà Lạc tứ tượng.
Diên Thọ gật đầu cười nhạt, lại quay
ngựa về, lên tướng đài phất cờ hiệu cho thay trận. Ngô Dụng và Chu Vũ đứng trên
chòi đã thấy cả. Chu Vũ nói:
- Lại đổi sang trận Bát quái tuần
hoàn.
Bèn sai người đến báo cho Tống
Giang. Diên Thọ lại ra trước trận hỏi to:
- Ngươi có đóan được không?
Tống Giang cười nhạt đáp:
- Lại xoay sang trận Bát quái tuần
hoàn, có gì lạ!
Ngột Nhan Diên Thọ nghe Tống Giang
trả lời nghĩ bụng: "Mấy thế trận vừa rồi đều là môn binh pháp bí truyền,
vậy mà viên tướng kia đều nhận ra cả, như thế bên quân Tống ắt có quân sư đại
tài!". Nghĩ vậy, bèn quay ngựa về, lại bên tướng đài phất cờ đổi trận, hai
cánh quân tả hữu dời chuyển theo đường vòng, biến thành một thế trận mới: bốn
phía đều khép kín, ở giữa là sáu mươi tư đội quân kỵ đứng thành từng khối, mỗi khối
tám đội.
Chu Vũ lại trèo lên chòi cao,quan
sát thật kỹ rồi nói với Ngô Dụng:
- Đó là trận Vũ hầu bát trận đồ, che
đàu giấu đuôi không mấy ai hiểu được.
Nói đoạn sai người xuống mời Tống
Công Minh cùng lên quan sát. Chu Vũ nói:
- Viên tướng này không thể coi
thường. Cứ xem bốn kiểu dàn trận vừa qua thì biết đó là một môn phái binh pháp
riêng mà y được truyền thụ, chưa hề tiết lộ ra ngoài. Trước hết là trận Thái Ất
tam tài biến thành trận Hà Lạc tứ tượng, trận Hà Lạc tứ tượng lại biến thành
trận Bát quái tuần hoàn, trận Bái quái tuần hoàn lại biến thành trận Lục thập
tứ quái, tức là đã biến thành thế Bát trận đồ. Lối bầy trận này cứ thế tuần
hoàn biến hoá, phải kể là một phép bầy trận rất cao tay.
Tống Giang xuống chòi nhẩy lên ngựa
phóng xa trước trận. Diên Thọ xách kích ngang tay, ghìm ngựa hỏi to:
- Lần này ngươi còn đóan được không?
Tống Giang quát đáp:
- Nhà ngươi như ếch ngồi đáy giếng,
học được một phép bầy trận đã vội tưởng là cao tay. Cái phép "bát trận
đồ" giấu đầu che đuôi ấy phỏng bịt mắt được ai? đến đứa con nít nước đại
Tống ngươi cũng đừng hòng lừa nổi!
Ngột Nhan Diên Thọ nói:
- Tuy nhà ngươi biết được thế trận
của ta, nhưng liệu ngươi có dàn được thế trận nào khiến ta phải chịu tài ngươi
không?
Tống Giang quát đáp:
- Trận Cửu cung bát quái của ta, tuy
chẳng kỳ lạ lắm, liệu bọn ngươi có dám sang đánh không?
Ngột Nhan Diên Thọ cười to đáp:
- Cái quân bé toèn hoen của ngươi có
gì mà không phá nổi! ngươi chớ lập kế đánh trộm, chờ đó xem ta cho quân phá tan
trận của ngươi!
Nói tiếp chuyện Ngột Nhan Diên Thọ
trở về truyền lệnh cho Thái Chân phò mã và Lý Kim Ngô, mỗi người dẫn một nghìn
quân, dặn "đợi ta phá thuỷ trận sẽ dẫn quân sang tiếp ứng".
Lệnh truyền xong, ba quân đều nổi
trống trận. Bên quân Tống, lệnh truyền cũng vừa xong, trong quân cũng gióng ba
hồi trống trận, môn kỳ mở rộng cho tướng Liêu dẫn quân đánh vào.
Ngột Nhan Diên Thọ đưa theo hai chục
viên nha tướng, một ngày quân kỵ mặc áo giáp xông trận. Bấm tay tính ngày thấy
hôm đó thuộc về ngày hoả, nên không tiến quân theo hướng chính nam, là phương
vị vẻ Ly, mà dẫn quân sang bên phải, theo hướng tây là hương vị quẻ Đoài. Diên
Thọ cho trương cờ trắng, thúc quân ào ạt tiến sang trận địa quân Tống. Kỵ binh
tiến sau bị đội xạ thủ cung nỏ bên quân Tống Giang bắn ra như mưa phải dừng
lại, chỉ một nửa số kỵ binh lọt vào được, số còn lại phải quay về trận nhà.
Lại nói Ngột Nhan Diên Thọ thúc quân
lao vào giữa trận, ngước trông phía trước chỉ thấy một bức tường trắng mờ mờ
như tường bạc vách sắt vây chặt xung quanh quân Liêu. Diên Thọ tái mặt nghĩ:
"trong trận này làm gì có bức thành kia!". Bèn ra lệnh cho quân bốn
phía quay lại, ra sức đánh mở thông đường cũ thóat ra ngoài. Quân sĩ vừa quay
lại thì thấy phía sau là mặt biển mênh mông sóng bạc, sóng vỗ ầm ầm chẳng còn
biết đâu là lối ra. Diên Thọ hoảng sợ dẫn quân chạy về hướng nam, ở đó lại hiện
ra hàng nghìn khối lửa đỏ rực cuộn lăn trên mặt đất, tuyệt không thấy một bóng
người ngựa của quân Tống. Diên Thọ không dám chạy về hướng nam nữa, đành tạt
sang phía cửa đông thì thấy từng đống cây tươi mới chặt xếp cao như núi, hai
bên là hàng rào chông bằng gỗ tươi vót nhọn tua tủa chĩa ra bên ngoài, không có
cách gì tiến qua được. Diên Thọ đành quay về cửa bắc, thấy phía bắc mây giông
cuốn đầy trời, một luồng khí đen che mịt đất, tối bưng ngửa tay không nhìn
thấy, chẳng khác gì lọt vào một nơi địa ngục tối tăm. Diên Thọ bị lọt vào giữa
trận bốn bên không lối thoát, có ý ngờ: "Ắt là Tống Giang thực hành yêu
pháp. Dù thế nào cũng phải liều chết thóat ra ngoài". Quân lính nghe lệnh,
cùng la hét ồ ạt lao ra. Bỗng phía bên đường một viên đại tướng phi ngựa tới
quát to:
- Tên nhãi tướng kia chạy đằng nào!
Ngột Nhan Diên Thọ định phóng ngựa
tới đánh, chưa kịp trở tay đã thấy ngọn roi sắt đang vút xuống đất. Diên Thọ
vốn nhanh tay tinh mắt, liền giơ ngay cây phương thiên kích lên đỡ, chỉ nghe
đánh "rắc" một tiếng, cán kích của Diên Thọ gẫy làm hai đoạn. Hai
người xông vào vật lộn, Diên Thọ bị viên tướng kia quật ngã sấp rồi nhẹ nhàng
bẻ quặt cánh tay ra sau, đè chặt lên lưng. Viên tướng Liêu bị bắt sống. Kỵ binh
theo sau đến cũng đều bị viên tướng kia chặn lại, quát bắt xuống ngựa. Trời đất
tối bưng, quân Liêu chẳng trông thấy gì đành chịu xuống ngựa đầu hàng. Người
bắt sống Ngột Nhan Diên Thọ chính là viên đại tướng đội Hổ quân Song tiên Hô
Diên Chước.
Lúc đó, Công Tôn Thắng đang đứng
trong quân điều khiển yêu pháp, nghe tin đã bắt được tướng Liêu, bèn thu yêu
thuật. Mặt đất lại sáng, trời quang mây tạnh như trước.
Lại nói phò mã Thái Chân và đại
tướng Lý Kim Ngô mỗi người chỉ huy một nghìn quân, chỉ đợi tin phá trận là đưa
quân sang tiếp ứng. Nhưng chờ mãi không thấy động tĩnh gì nên không dám cho
quân tiến lên. Tống Giang cưỡi ngựa, ra trước trận quát lớn:
- Hai đội quân kia chưa đầu hàng
ngay, còn đợi đến bao giờ? tiểu tướng Ngột Nhan đã bị bắt sống?
Nói đoạn bèn hô quân đao thủ xuất
hiện. Lý Kim Ngô thấy vậy liền cắp thương tế ngựa ra đánh để cứu Diên Thọ. Tích
lịch hoả Tần Minh đang ghìm ngựa trước quân, lập tức múa cây lang nha côn phóng
ra đánh Lý Kim Ngô. Hai ngựa quần nhau, thương côn cùng múa tít, quân lính đôi
bên hò la trợ chiến. Chẳng mấy chốc Lý Kim Ngô núng thế, đường thương có phần
rối loạn chậm chạp, liền bị Tần Minh giáng ngay một côn vào đầu, vỡ tan mũ trụ.
Lý Kim Ngô lăn nhào xuống đất, Phò mã Thái Chân thấy Lý Kim Ngô bị giết liền
thu quân rút chạy. Tống Giang thúc quân đuổi đánh. Quân Liêu đại bại, binh lính
sống sót đều tìm đường lẩn trốn. Quân Tống Giang bắt được hơn ba nghìn con ngựa
chiến, cờ quạt gươm giáo quăng đầy hốc núi.
Tống Giang bèn dẫn quân thẳng tới
Yên Kinh. Quân tiến nhanh như muốn co đất để sớm thu phục bờ cõi cũ cho triều
đình.
Lại nói chuyện tàn binh quân Liêu về
đến Yên Kinh vào yết kiến Ngột Nhan thống quân, báo tin tiểu tướng Diên Thọ cầm
quân phá trận, chẳng may bị bắt sống, các nha tướng đều đầu hàng, Lý Kim Ngô tử
trận, còn phò mã Thái Chân không biết trống đằng nào. Ngột Nhan thống quân thất
kinh, nói:
- Con ta từ nhỏ theo học binh pháp,
biết đủ mọi điều huyền bí tinh vi. Bọn Tống Giang bầy trận gì mà bắt sống được
con ta?
Quân lính thưa:
- Chỉ là trận Cửu cung bát quái có
gì lạ. Tiểu tướng Diên Thọ dàn bốn thế trận đều bị bọn Tống Giang nhận biết.
Trước khi giao chiến tên tướng ấy hỏi tiểu tướng Diên Thọ: "ngươi biết
trận Cửu cung bát quái của ta, liệu ngươi có dám đánh vào không?" tiểu tướng
bèn dẫn quân hơn một nghìn quân kỵ mã theo hướng tây đánh vào, nhưng bị quân xạ
thủ cung tên bắn chặn như mưa, chỉ một nửa số kỵ binh xông vào được trận địch,
sau không biết vì sao mà tiểu tướng lại sa vào tay chúng.
Ngột Nhan thống quân nói:
- Trận Cửu cung bát quái khó gì mà
không phá được, chắc quân Tống Giang đổi trận thế.
Có tên quân sĩ thưa:
- Bọn tiểu nhân chúng tôi đứng trên
chòi cao nhìn sang thấy hàng ngũ quân Tống không di động, các cờ hiệu cũng ở
nguyên vị trí lúc đầu, chỉ thấy một đám mây đen trùm kín trận.
Ngột Nhan thống quân nói:
- Bị trúng yêu thụât rồi! nay ta
không cất quân đi đánh thì bọn chúng cũng kéo tới đây. Chuyến này không thắng,
ta đành tự sát chứ không quay về! các tướng có ai dám cầm quân đi tiên phong?
ta sẽ dẫn đại quân đi tiếp theo sau.
Cùng lúc hai tướng bước ra trước
trướng, nói:
- Hai tướng tôi xin đi tiên phong.
Hai tướng ấy một người là Quỳnh Yêu
Nạp Diên, giữ chức phiên tứớng, một người họ Khấu, tên kép là Chấn Viễn, chỉ
huy đội quân kiêu kỵ ở Yên Kinh. Ngột Nhan thống quân vui mừng nói:
- Các ngươi phải hết sức đề phòng.
Ta giao cho các ngươi một vạn quân đi tiền bộ, gặp sông bắc cầu mà sang, gặp
núi mở đường mà tiến. Ta sẽ đích thân dẫn đại quân đi sau tiếp ứng.
Hãy chưa nói chuyện hai tướng Quỳnh,
Khấu đưa quân lên đường, nói tiếp chuyện Ngột Nhan thống quân kiểm điểm các
tướng bản bộ, đủ mười một viên đại tướng và hai mươi tám viên tướng quân, thảy
đều được lệnh cầm quân đi đánh.
Mười một viên đại tướng ấy là: Thái
dương tinh ngự đệ đại vương Da Luật Đắc Trọng, dẫn năm nghìn quân; Thái âm tinh
Thiên Thọ công cháu Đáp Lý Bột, dẫn năm nghìn nữ binh; La hầu tinh Hoàng điệt
Da Luật Đắc Vinh, dẫn ba nghìn quân; Kế đô tinh Hoàng điệt Da Luật Đắc Hoa, dẫn
ba nghìn quân; Tử khí tinh Hoàng điệt Da Luật Đắc Trung, dẫn ba nghìn quân;
Nguyên bột tinh Hoàng điệt Da Luật Đắc Tín, dẫn ba nghìn quân; Đông phương
Thanh đế Thuỷ tinh đại tướng Chí Nhi Phất Lang, dẫn ba nghìn quân; Tây phương
Thái Bạch Kim tinh đại tướng Ô Lợi Khả An, dẫn ba nghìn quân; Nam phương Huỳnh
cảm hoả tinh đại tướng Đông Tiên Văn Vinh, dẫn ba nghìn quân; Bắc phương Huyền
vũ Thuỷ tinh đại tướng Khúc Lợi Xuất Thanh, dẫn ba nghìn quân; Trung ương Trấn
Tinh Thổ tinh thượng tướng đô thống quân.
Ngột Nhan Quang, tổng lĩnh các đạo
binh mã, dẫn năm nghìn quân, giữ lệnh ở tướng đài trung quân.
Ngột Nhan thống quân lại điểm tới
hai mươi tám tướng bộ hạ, đó là:
Giác mộc giao Tôn Trung, Cang kim
long Trương Khởi, Đê thổ lại Lưu Nhân, Phòng nhật thổ Tạ vũ, Tâm nguyệt hổ Bùi
Trực, Vĩ hoả hổ Cố Vĩnh Hưng, Cơ thuỷ báo Giả Mậu, Đậu mộc giải Tiêu Đại quan,
Ngưu kim ngưu Tiết Hùng, Nữ thổ bức Du Đắc Thành, Hư nhật thử Từ Uy, Nguy
nguyệt Yến Lý Ích, Thất hoả trư Tổ Hưng, Bích thuỷ du Thành Châu Na Hải, Khuê
mộc lang Quách Vĩnh Xương, Lâu kim cẩu A Lý Nghĩa, Vị thổ trĩ Cao Bưu, Mão nhật
kê Thụân Thụ Cao, Tất nguyẹt ô Quốc Vĩnh Thái, Chuỷ hoa hầu Phan Dị, tham thúy
viên Chu Báo, Tỉnh thuỷ hãn Đồng Lý Hợp, Quỷ kim dương Vương Cảnh, Liễu thổ
chương Lôi Xuân, Tinh nhật mã Biện Quân Bảo, Trương nguyệt lộc Lý Phục, Dực hoả
xà Địch Thánh, Chẩn thuỷ dẫn Ban Cổ Nhi.
Ngột Nhan thống quân điểm đủ mười
một viên tướng, hai mươi tám vêin tướng quân, dẫn đại quân tinh binh kỵ mã hơn
hai mươi vạn, thanh thế lật đất nghiêng trời, phò giá vua Liêu thân chinh đi
đánh giặc.
Hãy tạm chưa nói việc Ngột Nhan
thống quân tiến binh như cuốn đất mà tới. Nói tiếp chuyện hai viên tướng tiên
phong Quỳnh, Khấu dẫn hơn một vạn quân kỵ mã đi trước. Quân do thám kịp về báo
cho Tống Giang biết tin quân Liêu ra trận lần này thế lực rất mạnh. Tống Giang
nghe nói cả kinh, vội truyền lệnh đi các nơi chuẩn bị đối phó; một mặt cho gọi
hết quần bộ hạ của Lư Tuấn Nghĩa, một mặt quân trấ thủ ở Đàn Châu và Kế Châu
đến chờ lệnh, mời Triệu khu mật cùng tới giám sát việc tiến quân. Lại lệnh cho
các đầu lĩnh thuỷ quân đưa quân lính lên bờ, tập trung ở Bá Châu để tiến bằng
đường bộ.
Cuối cùng, các đầu lĩnh thuỷ quân
dẫn thuỷ thủ theo hộ vệ Triệu khu mật cũng đã tới. Tất cả quân kỵ quân bộ đều
đã đến U Châu. Anh em Tống Giang tới yết kiến Triệu khu mật. Nghi thức chào hỏi
đã xong, Triệu khu mật nói:
- Tướng quân bấy nay xông pha chốn
hiểm nguy, tâm thần hao tổn, đảm đương công việc khác nào cây thạch trụ chống
đỡ cho nước nhà. Hạ quan khi về triều sẽ xin tâu lên để thiên tử biết hết công
lao của tướng quân.
Tống Giang đáp:
- Kẻ tiểu tướng bất tài này thật
không dám nhận lời khen của quan khu mật. Trên nhờ ơn lớn của thiên tử, dưới
may được dựa uy hổ của nguyên soái tướng công, anh em Tống Giang tôi có lập
được chút công lao nhỏ mọn, thật cũng không phải do có tài năng. Nay quan do tham
về báo viên đô thống quân nước Liêu là Ngột Nhan dẫn hơn hai mươi vạn quân mã
bộ, thế mạnh lật đất nghiêng trời sắp tiến đánh quân ta. Việc thắng bại hưng
vong chắc hẳn định đọat ở trận này. Tống Giang tôi muốn mời tướng công đống
riêng một doanh trại ở ngoài mười lăm dặm để theo dõi anh em chúng tôi gắng sức
khuyến mã, quyết chiến một trận này.
Triệu khu mật nói:
- Xin tướng quân cứ tuỳ nghi hành
sự.
Tống Giang cáo từ Triệu khu mật rồi
cùng Lư Tuấn Nghĩa đưa quân đến đóng trại đồn trú ở huyện Vĩnh Thanh thuộc địa
phận U Châu. Tới nơi liền mời các đầu lĩnh vào trong trướng cùng bàn định. Tống
Giang nói:
- Lần này đích thân viên thống quân
Ngột Nhan đưa quân tới, thế địch nghiên trời lật đất, không thể xem thường!
sống chết, thắng bại định đọat cả ở trận này. Anh em ta phải hết sức mà đánh,
chớ nản lòng lùi bước để sau này phải hối hận. Nếu lập được chút công lao tâu
báo về triều, được ơn ban thưởng thì tất cả anh em ta sẽ cùng chung hưởng.
Các tướng đều đứng dậy đồng thanh
nói:
- Xin tuân lệnh huynh trưởng!
Đang lúc cùng nhau bàn định, một
viên đội trưởng vào thưa:
- Quân Liêu cho người đưa chiến thư
tới.
Tống Giang sai gọi vào dưới trướng
trình thư. Tống Giang xem thư mới biết hai tướng Quỳnh và Khấu là tướng tiên
phong dưới trướng của Ngột Nhan thống quân, hiện đã kéo quân mã bộ tới nơi, hẹn
ngày mai ra quân quyết chiến. Tống Giang liền cầm bút phê vào dưới thư trả lời
sẵn sàng giao chiến. Đoạn sai dọn cơm rượu cho người đưa thưa ăn uống, rồi thả
cho về bản trại.
Bấy giờ đã là tiết cuối thu đầu
đông, người mặc giáp sắt ngựa khóac áo da đều hợp. Sáng sớm hôm sau, mới đầu
canh năm quân lính đã dậy thổi cơm ăn, mặt trời vừa lên là nhổ trại trên đường.
Chưa qúa bốn dặm, quân hai bên đã gặp nhau. Từ xa, trong lơ cờ diều hâu đen,
thấy rõ cờ hiệu của hai tướng tiên phong. Tiếng trống thúc vang trời, từ trong
cửa môn kỳ, tướng tiên phong họ Quỳnh phi ngựa ra trước trận.
Quỳnh Yêu Nạp Diên cắp thương ghìm
ngựa trước trận. Tống Giang đứng dưới môn kỳ, thấy viên tướng Liêu dũng mãnh
bèn hỏi:
- Ai có thể ra giao chiến?
Cửu văn long Sử Tiến lập tức xách
đao thúc ngựa ra khiêu chiến với Quỳnh Yêu Nạp Diên. Hai ngựa quần nhau, vũ khí
đôi bên cùng nhau tít. Hai tướng đấu hai ba mươi hiệp, Sử Tiến phạt mạnh một
đường đao, không ngờ chém hụt vào khoảng không, giật mình kinh sợ, bèn quay
ngựa chạy về bản trận. Quỳnh Yêu Nạp Diên quất ngựa đuổi theo. Bên trận quân
Tống, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đứng sau Tống Giang, thấy Sử Tiến thua chạy, liền
nhấc cung đặttên, phóng ngựa thật gần tên tướng Liêu mới thả dây cho mũi tên
vút đi, cắm trúng giữa mặt Quỳnh Yêu Nạp Diên. Tên tướng Liêu lăn nhào xuống
ngựa. Sử Tiến nghe phía sau có tiếng người ngã ngựa, bèn quay lại bồi một đao,
kết liễu tính mạng Quỳnh Yêu Nạp Diên.
Khấu Chấn Viễn thấy Quỳnh Yêu Nạp
Diên bị chém, hầm hầm tức giận cắp thương tế ngựa ra trước trận, quát to:
- Tặc tướng sao dám giết anh ta!
Lập tức, Bệnh Uý Trì Tôn Lập phóng
ngựa ra đánh. Trống trận vang trời, quân hai bên hò ta dậy đất. Ngọn kim thương
trong tay Tôn Lập múa loang loáng như có phép thần. Khấu Chấn Viễn đánh chưa
đầy hai chục hiệp, lượng sức không địch nổi bèn quay ngựa chạy về, nhưng không
dám phi thẳng vào trong quân, sợ xông vào quân lính, đành kéo ngựa chạy vòng
trong quân, sợ xô vào quân lính, đành kéo ngựa chạy vòng về phía đông bắc. Tôn
Lập đang lúc muố lập công đâu chịu buông tha, liền thúc ngựa đuổi theo, nhưng
Khấu Chấn Viễn đã chạy xa. Tôn Lập liền ghìm ngựa, chống thương, tay trái cầm
cung, tay phải đặt tên kéo căng hết cỡ, nhằm đúng sau gáy tên tướng Liêu mà
bắn. Khấu Chấn Viễn nghe tiếng dây cung đằng sau, liền rạp người cúi tránh. Vừa
vặn mũi tên bay vèo tới, Khấu Chấn Viễn giơ tay chộp bắt. Tôn Lập thấy vậy thầm
khen là giỏi. Khấu Chấn Viễn nhếch mép cười gằn: "thằng này cũng muốn chơi
tên", bèn đưa tên ngậm ngang miệng, tay trái vội cầm nỏ, tay phải lấy mũi
tên trên miệng đặt lên dây, quay lại nhằm bắn vào giữa mỏ ác Tôn Lập. Tôn Lập
kịp nhìn thấy bèn chao người lắc trái, lắc phải, tên bay đến trước mặt liền ngả
người trên lưng ngựa cho mũi tên bay vút ra sau. Ngựa của Tôn Lập đang đà phóng
hăng vẫn lao về ph a trước. Khấu Chấn Viễn khóac nỏ lên vai, quay lại thấy Tôn
Lập ngã xoài trên mình ngựa, nghĩ bụng "thế là trúng tên rồi!" Thật
ra đôi chân Tôn Lập vẫn kẹp chặt vào yên, ngửa người trên ngựa để lừa địch.
Khấu Chấn Viễn quay lại định bắt sống Tôn Lập. Hai ngựa xuýt xô vào nhau vì
khoảng cách chưa đầy một trượng. Tôn Lập vụt vùng dậy hét to một tiếng. Khấu
Chấn Viễn giật mình quát đáp:
- Mi tránh được mũi tên nhưng không
thóat khỏi ngọn thương của ta!
Rồi nhằm giữa ngực Tôn Lập ráng sức
đâm tới. Tôn Lập ưỡn ngực đón mũi thương. Mũi thương đâm vào áo giáp, trượt ra
bên sườn. Khấu Chấn Viễn mất đà ngã dúi về phía trước. Tôn Lập liền vung cây
roi sắt quất mạnh, bổ sọ tên tướng Liêu làm hai mảnh. Khấu Chấn Viễn nửa đời
giữ chức phiên tướng, nay chết bởi tay Tôn Lập, xác lăn trước đầu ngựa. Tôn Lập
xách thương quay lại trận nhà. Tống Giang hô quân ùa sang giáp trận. Quân Liêu
mất tướng, tán loạn chạy tháo thân.
Tống Giang đang dẫn quân đuổi theo,
bỗng nghe phía trước có tiếng súng liên châu liền sai đầu lĩnh thuỷ quân dẫn
một đội quân mã bộ đến chặn cửa khe. Lại sai Hoa Vinh, Tần Minh, Lã Phương,
Qúach Thịnh cưỡi ngựa lên núi quan sát tình hình địch. Bọn Hoa Vinh đứng trên
đỉnh núi nhìn ra xa, thấy quân Liêu người ngựa ào ạt kéo đến rợp đất. Thật là:
Ngựa hí vang trời mờ biên địa
Bụi tung rợp đất cuống hồ binh.
Chưa biết đội quân Liêu đang tiến
đến kia do viên tướng nào chỉ huy, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 88 -
Nhan Thống Quân Bày Côn Thiên Trận
Đang nói chuyện lúc bấy giờ Tống
Giang đứng trên gò cao thấy thế lực quân Liêu rất mạnh, vội quay ngựa trở lại
trận, ra lệnh cho lui quân về đóng giữ cửa núi vào huyện Vĩnh Thanh. Sau đó,
Tống tiên phong cho mời Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng vào trong
trướng bàn bạc. Tống Giang nói:
- Hôm nay tuy quân ta thắng trận,
giết được hai tướng tiên phong của chúng, nhưng vừa rồi ta lên gò cao quan sát,
thấy quân giặc kéo đến đen trời rợp đất. Ngày mai thế nào cũng đánh nhau to.
Quân ta ít, quân địch nhiều làm sao địch nổi?
Ngô Dụng đáp:
- Kẻ giỏi dùng binh xưa nay biết lấy
ít thắng nhiều. Ngày trước Tạ Huyền nước Tấn chỉ có năm vạn người ngựa mà đánh
lui trăm vạn hùng binh của Phù Kiên, huynh trưởng hà tất phải lo ngại. Xin
truyền lệnh cho tướng sĩ ba quân ngày mai cờ xí chỉnh tề, cung tên lắp sẵn, đao
kiếm tuốt trần, hào lũy cờ xí chỉnh tề, cung tên lắp sẵn, đao kiếm tuốt trần,
hào lũy sửa sang thật vững chắc, doanh trại canh phòng nghiêm ngặt, vũ khí có
sẵn đều đem ra sử dụng, chòi cao đạn đá mọi thứ đều phải sẵn sàng. Dàn quân xin
theo thế trận Cửu cung bát quái là đủ, hễ quân địch kéo đến đánnh mặt nào thì
mặt ấy ứng chiến. Cứ như vậy, dù bọn chúng đông trăm vạn cũng chưa chắc đã dám
xông vào.
Tống Giang nói:
- Lời quân sư rất phải!
Nói đọan Tống Giang truyền lệnh cho
ba quân tướng sĩ đầu canh năm dậy thổi cơm ăn, tảng sáng chia quân đi đóng giữ
các nơi sát đến địa giới huyện Xương Bình. Quân mã quân bộ khi đến nơi quy định
liền dàn thành trận thế. Phía trước là trận của quân kỵ dưới quyền các mãnh
tướng Tần Minh, Hô Diên Chước, Quan Thắng, Lâm Xung, Sách Siêu, Từ Ninh, Đổng
Bình, Dương Chí. Tống tiên phong giữ lệnh ở trung quân, các phó tướng vẫn theo
thứ tự như các trận trước. Mặt hậu là trận của bộ binh dưới quyền của ba tướng
Lư Tuấn Nghĩa, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng. Cả mấy vạn quân đều như những viên dũng
tướng đánh quen trăm trận, ai nấy đều vén áo xoa tay, sẵn sàng quyết chíên. Thế
trận đã dàn xong, sẵn sàng chờ quân Liêu kéo đến.
Không mấy chốc từ xa đã thấy quân
Liêu đang tiến đến. Đi đầu mở đường là sáu đội kỵ binh, mỗi đội năm trăm người
ngựa, bên phải ba, bên trái ba, đội bình không nhất định, lúc lên trước, lúc
xuống sau. Sáu đội du binh ấy đều có cờ hiệu đề chữ "Tiêu lộ" và
"Áp trận". Đại quân ào ạt tiến theo sau.
Tiền quân trương cờ tua màu đen,
liên tiếp bẩy khóm môn kỳ cách quãng đều nhau, mỗi môn kỳ đi trước một nghìn
quân kỵ do một viên đại tướng chỉ huy. Các viên tướng ấy đều cưỡi ngựa ô, đội
mũ trụ đen bóng, mặc chiến bào thâm, ngoài chẽn áo giáp đen bó sát người, vũ
khí của từng người đặt tên theo các chòm sao phương bắc: Bắc Đẩu, Ngưu Lang,
Chức Nữ, Hư Tinh, Ngụy Tinh, Bích Tinh. Giữa bảy khóm môn kỳ là viên thượng
tướng chỉ huy đội tiền quân ứng với sao Huyền Vũ Thuỷ Tinh. Viên tướng ấy tóc
bỏ xoã, trán sát phẩm vàng, vòng đai nạm vàng bịt chắc ngang trán, mặc chiến
bào đen ngắn tay, ngòai bịt giáp sắt đen bóng, tay cầm đinh ba cán sơn đen,
cưỡi ngựa ô truy thiên lý mã. Đó chính là thượng tướng Khúc Lợi Xuất Thanh xưng
hiệu là Bắc thần ngũ khí tinh quân dẫn ba nghìn quân kỵ mặc giáp đen. Dưới bóng
cờ đen, đội quân bộ đông vô kể ồ ạt tiến theo.
Tả quân trương cờ rồng xanh, liên
tiếp bảy nhóm môn kỳ cách quãng đều nhau, mỗi môn kỳ đi trước một nghìn quân kỵ
do một viên đại tướng chỉ huy. Các viên tướng ấy đều cưỡi ngựa đeo yếm bờ xanh,
đội mũ trụ bốn góc, mặc chiến bào màu xanh cánh trả, ngoài chẽn áo giáp xếp lớp
hình lá liễu. Vũ khí của từng người đặt tên theo các nhóm sao phương đông: Giác
tinh, Canh tinh, Đê tinh, Phòng tinh, Tâm tinh, Vĩ tinh, Cơ tinh. Đi giữa bảy
tòa môn kỳ ấy là viên đại tướng chỉ huy đội tả quân ứng với sao Thương Lang Mộc
tinh ở phương đông. Viên tướng ấy đầu đội mũ sư tử, mặc chiến bào xanh thêu hoa
màu cánh trả, ngoài chẽn áo giáp sư tử, thắt đai lưng nạm vàng giát mặt ngọc,
tay cầm ngọn búa lưỡi cong có kết ngù tơ, ngồi trên lưng ngựa long câu lót đệm
yên bằng gấm xanh màu ngọc thạch. Đó là đại tướng Chỉ Nhi Phất Lang xưng hiệu
Đông Chấn Cửu Khí tinh quân, dẫn ba nghìn quân kỵ trương cờ xanh. Dưới bóng cờ
xanh, quân bộ tiến theo lớp lớp tầng tầng đông không kể xiết.
Hữu quân trương cờ hổ trắng, cũng
liên tiếp bẩy khóm môn kỳ cách quãng đều nhau, mỗi môn kỳ đi trước một nghìn
quân kỵ do một viên đại tướng chỉ huy. Các viên đại tướng ấy đều cưỡi ngựa bạch
tuyết, đầu đội mũ trụ tròn, mặc chiến bào trắng ngoài chẽn giáp bạc. Vũ khí của
từng người đặt tên theo các chòm sao phương tây: Khuê tinh, Lâu tinh, Vị tinh,
Mão tinh, Tất tinh, Tuy tinh, Tham tinh. Đi giữa bảy khóm môn kỳ ấy là viên đại
tướng chỉ huy đội hữu quân, ứng với sao Hàm Trì Kim tinh ở phương tây. Viên
tướng ấy đội mũ trụ nhọn cắm lông phượng, chiến bào bó sát thân trắng phau như
tuyết, ngoài mặc áo giáp song câu bằng bạc chạm hoa, đai lưng giát ngọc toả ánh
lạnh ngắt, tay cầm ngọn giáo nước thép sáng ngời, cưỡi ngựa Dạ ngọc nòi lai sư
tử. Đó là đại tướng Ô Lợi Khả Ân xưng hiệu là Tây Đoài Thất khí tinh quân dẫn
ba nghìn quân kỵ trương cờ hổ trắng. Dưới bóng cờ trắng quân ngự binh theo hộ
vệ xa giá vua Liêu.
Hậu quân trướng cờ đỏ, cũng liên
tiếp bảy khóm môn kỳ cách quãng đều nhau. Mỗi môn kỳ dẫn đầu một nghìn quân kỵ
mã do một viên đại tướng chỉ huy. Các viên tướng ấy đội mũ chóp bả sơn đỏ, mặc
chiến bào màu huyết dụ, ngoài chẽn áo giáp vẩy cá màu hồng tươi, cưỡi ngựa Long
câu xích thố. Vũ khí của từng người đặt tên theo các chòm sao phương nam: Tỉnh
tinh, Quỷ tinh, Liễu tinh, Tinh tinh, Trương tinh, Dực tinh, Chẩn tinh. Đi giữa
bảy khóm môn kỳ ấy là viên đại tướng chỉ huy đội hậu quân, ứng với sao Chu tước
Hoả tinh ở phương nam. Viên tướng ấy đội mũ chóp đỏ đính tua cườm đỏ lấp lánh,
mặc chiến bào loé mắt màu hồng tươi, ngoài chẽn áo giáp ráng đỏ, lưng đeo đai
da, màu đỏ thẫm, chân đi giày ống thêu hoa, vai khoác cung tên, tay cầm than
hoả long đao dài tám thước, cưỡi trên lưng ngựa chiến lông saong óng mượt. Đó
là đại tướng Động Tiên Văn Vinh, xưng hiệu Nam ly tam khí tinh quân, dẫn ba nghìn
quân kỵ trương cờ đỏ. Dưới bóng cờ đỏ, quân bộ binh mũ tua áo đỏ tiến theo sau,
đông không kể xiết.
Trận phía trước dàn như sau:
Bên trái là một đội năm nghìn quân
thiện chiến trương cờ đỏ thêu hình ngọn lửa, cưỡi ngựa hồng lót đệm yên gấm đỏ,
thảy đều đội mũ biền có ngù thêu kinh tuyến, mặc chiến bào hồng đính giải tua,
ngoài chẽn áo giáp đồng. Dẫn đầu đội quân ấy là một viên đại tướng đội mũ chóp
sắt hình hoa sen, mặc chiến bào thêu hình ngọn lửa cháy, ngoài chẽn áo giáp
liên hoàn nạm vàng vẽ hình mặt thú, đai lưng nạm vàng giát ngọc thất bảo, hai
tay cầm hai thanh nhật nguyệt đao, trên lưng ngựa xích thố có sao năm đốm. Đó
là đại tướng Da Luật Đắc Trọng, em quốc vương nước Liêu, xưng hiệu là Thái
dương tinh quân.
Bên phải là đội nữ binh năm nghìn
người ngựa, trương cờ trắng cưỡi ngựa bạch, đội mũ biền chạm hoa bạc, mặc chiến
bào trắng có giải tua ngoài chẽn áo gíap bạc, cán thương, cán đao đều sơn
trắng. Đi đầu đội nữ tướng tóc giắt hoa vàng đánh má hồng, đeo vòng cườm cánh
trả, quân gấm áo thêu vai bồng, ngoài chẽn giáp bạc, tay cầm cây thất tinh bảo
kiếm, chân đi giày ống thêu hoa, giẫm chắc bàn đạp trên lưng chiến mã trắng. Đó
là Thọ Thiên công chúa, tiểu danh là A Lý Bột, xưng hiệu Thái âm tinh quân.
Giữa hai đội quân tả hữu ấy là lớp
lớp đội quân cờ vàng, tướng sĩ thảy đều cưỡi ngựa vàng mặc giáp sắt, áo khăn
san sát như một tầng mây vàng rực. Chỉ huy đội quân cờ vàng áo vàng ấy là bốn
viên đại tướng, mỗi tướng ba nghìn quân đứng riêng một góc sẵn sàng tiếp ứng
cho nhau. Viên tướng ở góc đông nam mặc giáp sắt, áo bào xanh da trời, tay cầm
một ngọn thương, cưỡi ngựa xám đứng trước trận. Đó là hoàng diệt Da Luật Đắc
Vinh, xưng hiệu là La hầu tinh quân. Viên đại tướng ở góc tây nam mặc giáp bạc
áo bào tía, tay cầm thanh bảo đao, cưỡi ngựa Hải lưu đứng trước trận. Đó là
Hoàng diệt Da Luật Đắc Hoa, xưng hiệu là Kế đô tinh quân. Viên đại tướng ở góc
đông bắc mặc giáp bạc, áo bào xanh thẫm, tay cầm cây phương thiên họa kích,
cưỡi ngựa vàng đốm trắng đứng trước trận. Đó là hoàng diệt Da Luật Đắc Trung,
xưng hiệu là Tử khí tinh quân. Viên đại tướng ở góc tây bắc, mặc giáp đồng,
chiến bào trắng, tay cầm cây thất tinh bảoo kiếm cưỡi ngựa ô truy đứng trước
trận. Đó là hoàng diệt Da Luật Đắc Tín, xưng hiệu là Nguyệt Bột tinh quân.
Giữa trận quân cờ vàng binh mã đứng
san sát phía sau một viên thượng tướng. Bên cạnh viên tướng ấy có quân sĩ cầm
cờ đứng xung quanh. Cờ xanh bên trái, cờ trắng thêu lưỡi búa bên phải, cờ đổ
phía trước, cờ đen phía sau. Cờ hiệu các loại vòng trong vòng ngoài hai mươi
bốn là ứng với hai mươi bốn thế trận, sáu mươi tư lá ứng với sáu mươi tư phép
biến trận, đủ các lọai Nam thần Bắc đẩu, Phi long, Phi hổ, Phi hùgn, Phi báo,
âm dương tả hữu, xếp đặt rõ ràng có hàm ý thể hiện hình tượng kiền khôn còn hỗn
chung chưa phân định. Viên thượng tướng ấy cầm ngọn phương thiên kích cán sơn
son chạm khắc, đội mũ sắt tia tím giát ngọc thất bảo, ngoài nị giáp mai rùa nạm
vàng, trong mặc chiến bào bằng gấm Tây Xuyên hoa xanh nền đỏ, đai lưng lóe sáng
ánh ngọc Lam Điền, chân đi giày ống mũi cong, cưỡi chiến mã lưng đen bờm trắng,
yên lót đệm thêu, cương tơ nhuộm tía, lưng đeo kiếm lệnh để các tướng đều nhận
rõ, tay cầm roi uy điều khiển đội hoàng quân đứng sát bốn góc trời. Đó là đại
nguyên soái Ngột Nhan Quang giữ chức đô thống quân của nước Liêu, xưng hiệu là
Trung cung thổ tính nhất khí thiên quân.
Tiếp sau đội quân cờ vàng là đội ngự
binh phò xa giá quốc vươnng ra trận. Đằng trước đằng sau, bên tả bên hữu, bảy
tầng quân sĩ cầm thương đao kiếm kích hộ vệ, ở giữa là ba mươi sáu đôi lực sĩ
khăn vàng bám theo cỗ long xa chín ngựa thắng yên vàng, theo sau lại còn có tám
đôi lính cẩm y vệ sĩ đi hộ vệ. Ngự trên xe rồng là quốc vương nước Liêu: đầu
đội mũ xung thiên, khóac hoàng bào thêu chín hình rồng cuộn, lưng đeo đai ngọc
Lam Điền, chân đi hia tơ thêu chỉ đỏ. Tả hữu theo hầu là hai viên đại thần: tả
thừa tướng U Tây Bột Cẩn và hữu thừa tướng thái sư Chữ Kiên. Hai thừa tướng đều
đội mũ cánh chuồn, mặc quần hồng áo đỏ, trước ngực đính ngù tía, đeo thẻ vàng,
tay cầm hốt ngà, lưng đeo đai ngọc. Các thị đồng nam nữ ngồi hầu bên ngai rồng
trên ngự xa, ai cũng có thẻ ngà ngọc khuê cầm sẵn. Đội thiên binh lớp trong lớp
ngoài theo hộ giá xe rồng. Quốc vương nước Liêu xưng hiệu Bắc cực tử vi đại đế,
tổng lĩnh trấn tinh, hai thừa tướng xưng hiệu Tả phụ tinh quân và Hữu bật tinh
quân. Có thơ làm chứng như sau:
Tú diệu tuỳ nghi liệt bát phương,
Cánh tương thổ đức trấn trung ương.
Hồ nhân tòng bất quan thiên tượng,
Hà sự phân phân độc thướng thương.
(Tinh tú dàn đều khắp tám phương
Ước đem đức thổ trấn trung ương.
Quân Hồ sao chẳng xem thiên tượng
Làm rối thiên cung tội chẳng
thường.)
Quân Liêu dàn trận đã xong. Thế trận
tựa hình bát úp, bốn góc cờ trương, tám phương giáo dựng, tuần hoàn vô định,
nhưng quân tiến quân lùi đều theo cách thức.
Tống Giang bèn ra lệnh cho quân cung
nỏ lên dàn ngang trước trận, sai dựng chòi cao ở giữa đội trung quân, rồi cùng
Ngô Dụng và Chu Vũ lên đài quan sát. Tống Giang nhìn khắp một lượt, xiết đỗi
ngạc nhiên kinh sợ. Chu Vũ nhận ra thế thiên trận, bèn nói với Tống Giang và
Ngô Dụng:
- Đó là trận Thái Ất côn thiên
tượng.
Tống Giang hỏi:
- Đánh cách nào?
Chu Vũ đáp:
- Thế trận này biến hóa khôn lường,
chưa dò biết các nơi quan yếu thì không thể tuỳ tiện mà đánh được!
Tống Giang nói:
- Nếu không mở đường phá trận thì
làm sao khiến địch lui quân?
Ngô Dụng nói:
- Hiện giờ chưa biết thế trận bên
địch hư thực ra sao chưa nên đánh vội.
Bọn Tống Giang, Ngô Dụng, Chu Vũ
đang bàn bạc thì bên quân Liêu, tướng Ngột Nhan thống quân truyền lẹnh rằng hôm
nay thuộc ngày Kim, nên sai bốn tướng là Cang Kim long Trương Khởi, Ngưu Kim
Ngưu Tiết Hùng, Lâu Kim cẩu A Lý Kỳ, Qủy Kim dương Vương Cảnh cùng đại tướng
Thái bạch kim tinh Ô Lợi Khả An dẫn quân ồ ạt sang đánh quân Tống.
Tống Giang cùng các tướng đứng trước
trận nhìn sang bên quân Liêu, thấy đội hữu quân có mấy cửa môn kỳ đã bắt đầu
khép lại, trong quân trống thúc vang trời, thế trận cuồn cuộn chuyển dịch. Một
lá cờ tướng từ phía đông chuyển lên phía bắc, từ phía bắc vòng sang phía tây,
rồi từ phía tây vòng xuống phía nam. Chu Vũ ngồi trên ngựa nói:
- Đấy là cách hành quân vòng trái
vòm trời. Hôm nay là ngày Kim, quân địch di chuyển về bên trái, ắt sẽ cho quân
sang đánh.
Chưa dứt lời đã nghe năm tiếng pháo
lệnh nổ vang, quân Liêu từ phía trước ào ào xông tới. Đi giữa lá Thái bạch kim
tinh, tả hữu trước sau là bốn sao lân thuộc, năm tướng dẫn theo năm đội kỵ binh
ào ạt đánh sang, thế lực nghiêng trời đổi núi không sức nào chống nổi. Quân
Tống Giang trở tay không kịp, bỏ chạy tán loạn. Quân Liêu áp sát trận địa, từ
hai mặt đánh kẹp vào trong. Tống Giang đại bại, vội ra lệnh cho quân lui về
trại, quân Liêu thấy vậy cũng không đuổi theo. Điểm lại các đầu lĩnh thì Khổng
Lượng bị đao đâm, Lý Vân trúng tên, Chu Phú trúng đạn đá, Thạch Dũng bị một mũi
thương, số quân sĩ bị thương nhiều không đếm xuể. Tống Giang liền sai chở về
phía sau cho Thần y An Đạo Toàn chạy chữa. Một mặt ra lệnh cho đội tiền quân
cắm chông sắt, chôn thêm rào nhọn, canh giữ thật chắc ở các cửa trại.
Tống Giang buồn phiền ngồi trong
trướng quân nói với bọn Lư Tuấn Nghĩa:
- Hôm nay ta bị thua, không biết nên
đối phó thế nào? nếu không đưa quân ra giao chiến, ắt bọn chúng sẽ lại đến
đánh.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Ngày mai ta sẽ cho hai đội quân kỵ
ra đón đánh tiền quân của địch, lại điều hai đội quân kỵ khác đánh thẳng vào
cửa chính bắc, còn bộ binh thì đánh thọc mặt giữa, như vậy mới biết trận địa
địch hư thực thế nào.
Tống Giang nói:
- Hiền đệ nói đúng đấy!
Hôm sau Tống Giang cho quân theo kế
của Lư Tuấn Nghĩa. Quân sĩ lo dọn trại chuẩn bị lên đường. Tống Giang truyền mở
cửa lớn, các tướng dẫn quân ra khỏi trại, quân Liêu đang ầm ầm kéo đến, sáu đội
kỵ binh áp trận đang tiến gấp mỗi lúc một gần. Tống Giang sai Quan Thắng bên
tả, Hô Diên Chước bên hữu đưa quân bản bộ ra đánh lui đội kỵ binh áp trận của
quân Liêu. Đại quân tiến thẳng về phía trước tiếp trận địch. Tống Giang lại sai
Hoa Vinh, Tần Minh, Đổng Bình, Dương Chí bên tả; Lâm Xung, Từ Ninh, Sách Siêu,
Chu Đồng bên hữu, đem hai đội kỵ binh lên đánh đội quân cờ đen ở cửa chính bắc.
Quả nhiên phá thủng được. Kỵ bih cờ đen bị đánh tan, hàng ngũ trong đội môn kỳ
bị rối loạn.
Bên trận Tống Giang, bọn Lý Quỳ,
Phàn Thuỵ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn được lệnh dẫn năm trăm quân giáp sĩ xông
lên trước. Phía sau là Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân,
Giải Bảo và các đầu lĩnh khác dẫn quân bộ xông vào giáp trận. Trong trận Côn
thiên tượng của quân Liêu bỗng nghe bốn bên súng nổ vang trời, hai cánh quân từ
phía đông và phía tây cùng đội quân cờ vàng ở chính giữa ào ào đánh tới. Quân
Tống Giang không địch nổi đều quay đầu tháo chạy. Đội quân tiến sau hàng ngũ
rối lọan bị thua to phải rút về trại. Tống Giang cho kiểm điểm quân sĩ, thấy
mất quá nửa. Hai tướng Thời Thiên, Tống Vạn bị trọng thương. Về đến trại lại
thấy thiếu Hắc toàn phong Lý Qùy. Lý Quỳ vốn hăng máu chỉ muốn chém giết thật
nhiều, chẳng ngờ lọt vào giữa trận, bị quân Liêu giơ câu liêm kéo bắt sống.
Tống Giang được tin lại thêm buồn phiền. Liền đó sai người đưa Thời Thiên, Tống
Vạn về trại sau cho An Đạo Toàn chạy chữa, ngựa chiến bị thương thì sai dắt cả
lại cho Hoàng Phủ Đoan băng bó.
Tống Giang sai mời Ngô Dụng và các
tướng vào bàn bạc.
Tống Giang nói:
- Hôm nay Lý Quỳ bị bắt, quân ta
thua thêm trận nữa, biết tính liệu sao đây?
Ngô Dụng nói:
- Viên tướng ta bắt được trận trước
là con trai của đô thống Ngột Nhan, bây giờ là lúc cần hắn để đổi lấy Lý Quỳ.
Tống Giang nói:
- Đem đổi lần này các tướng sau bị
bắt lấy gì mà cứu?
Ngô Dụng đáp:
- Huynh trưởng chớ lo xa, cứ tạm thu
xếp lần này đã!
Chưa dứt lời thì có viên tiểu hiệu
vào báo tướng Liêu sai sứ đến xin nói chuyện, Tống Giang cho gọi vào. Sứ Liêu
vào yết kiến Tống Giang, nói:
- Hạ quan vâng lệnh đại nguyên soái
đô thống quân của bản quốc, xin đến thưa chuyện với tướng quân: hôm nay chúng
tôi bắt được một đầu mục của quý quốc đem nộp lên, quan đô thống chúng tôi
không nỡ giết, lại mở lòng hiếu sinh sai dọn rượu thịt khoản đãi. Quan đô thống
chúng tôi muốn trao trả vị đầu mục ấy cho tướng quân để xin đổi tiểu tướng lệnh
nam Diên Thọ. Nếu tướng quân bằng lòng, chúng tôi sẽ xin đưa vị đầu mục ấy đến
ngay.
Tống Giang nói:
- Nếu vậy, ngày mai ta sẽ cho đưa
tiểu tướng Diên Thọ ra trước trận, hai bên cùng trao đổi.
Sứ Liêu nghe Tống Giang nói bèn lên
ngựa trở về, Tống Giang lại bàn với Ngô Dụng:
- Hiện nay ta chưa có kế gì phá được
trận của chúng, âu là đem Diên Thọ ra đổi rồi giải hòa với quân Liêu, hai bên
cùng rút quân bãi chiến.
Ngô Dụng đáp:
- Muốn tạm thời cho người ngựa nghỉ
ngơi thì cũng không còn cách nào tốt hơn. Sau đó lại đưa quân phá trận địch kể
cũng chưa muộn.
Sáng hôm sau, Tống Giang sai người hoả
tốc về U Châu đưa Ngột Nhan Diên Thọ đến, một mặt sai người sang thương thuyết
với Ngột Nhan Quang.
Lúc ấy Ngột Nhan Quang đang ngồi
trong trướng thấy quân sĩ vào báo: có người của tiên phong Tống Giang sai sang,
xin được vào yết kiến. Ngột Nhan Quang thống quân cho gọi vào trước trướng, sứ
giả của Tống Giang vào yết kiến Ngột Nhan thống quân, nói:
- Tống tiên phong chúng tôi giữ lời
ước với quý quan của thống quân, ngày hôm nay sẽ xin đưa tiểu tướng Diên Thọ
đổi lấy đầu mục của chúng tôi. Hiện nay đang giữa mùa đông giá rét, quân sĩ đôi
bên đều gian lao vất vả, Tống tiên phong chúng tôi muốn bàn với thống quân cho
ngưng chiến để người ngựa đôi bên khỏi tổn thương vì rét mướt, đến mùa xuân
sang năm sẽ xin cùng thương lượng. Xin được lĩnh ý của thống quân.
Ngột Nhan Quang nghe nói cả giận
quát:
- Con ta ngu ngốc, chịu nhục cho
chúng bay cầm tù, nếu có sống thử hỏi còn mặt mũi nào về gặp ta? nếu không đổi
thì cứ đưa ra chém. Còn muốn ngưng chiến để nghỉ ngơi, cứ bảo tên đầu sỏ Tống
Giang tự trói đến hàng, ta sẽ tha cho các ngươi tội chết. Bằng không một khi ta
đã dẫn đại quân đến thi một ngọn cỏ cũng không còn!
Nói đoạn quát lớn:
- Lui ra!
Sứ giả vội lên ngựa, phi ngay về trại kể hết cho Tống
Giang nghe. Tống Giang lo lắng chỉ sợ không cứu kịp Lý Quỳ, vội rời khỏi trại
đưa Ngột Nhan Diên Thọ thẳng tới trận địch của đội tiền quân, gọi to sang trận
bên kia:
- Các ngươi hãy thả đầu mục Lý Quỳ, ta sẽ thả tiểu tướng
Diên Thọ, các ngươi không muốn ngưng chiến, ta sẽ đem quân đối địch với các
ngươi!
Một lúc sau, bên Liêu cho lính dắt ngựa đưa lý Quỳ ra
trước trận. Bên này Tống Giang cũng sai dắt ngựa đưa Ngột Nhan Diên Thọ đi ra,
hai bên đều giữ lời giao hứa. Lý Quỳ trở về thì Ngột Nhan Diên Thọ cũng phi
ngựa sang trận bên kia.
Hôm ấy hai bên không giao chiến, Tống Giang cho lui quân
về trại, chúc mừng Lý Quỳ trở về được bình yên.
Tống Giang vào trướng bàn bạc với các tướng:
- Thế địch rất mạnh chưa có kế gì phá được, ruột gan ta
như lửa đốt, không biết phải tính sao đây?
Hô Diên Chước nói:
- Ngày mai chia quân làm mười đội: hai đội đánh mở đường,
tám đội nhất loạt cùng xông vào giáp chiến, quyết thắng cho kỳ được!
Tống Giang nói:
- Trông mong hết thảy anh em đều đồng lòng dốc sức, ngày
mai nhất định sẽ đưa quân xuất chiến.
Ngô Dụng nói:
- Hai lần trước đưa quân đánh chặn địch đều không thắng,
chi bằng cứ cố thủ chờ chúng kéo đến sẽ giao chiến.
Tống Giang nói:
- Đợi địch đến mới đánh không phải là thượng sách. Tất cả
anh em đều dốc sức, lẽ nào lại thua luôn mấy trận!
Rồi truyền lệnh sáng mai ra trận sớm, chia quân mười đội
tiến gấp.
Hôm sau, hai đội kỵ mã của Tống Giang thọc vào chặn ngang
sau lưng tiền quân của địch, tám đội còn lại nhất loạt phất cờ hò la đánh thẳng
vào giữa trận Côn thiên tượng. Bỗng nghe súng nổ vang trời, quân Liêu lập tức
dàn hết hai mươi tám cửa môn kỳ biến thành thế trậnh chữ nhất, như hình con rắn
dài, từ phía trong đánh ra, quân Tống Giang đều trở tay không kịp. Tống Giang
vội ra lệnh lui quân, chịu một phen đại bại, bỏ mặc cờ quạt, giáo mác, chiêng
trống ngả nghiêng chỉ cốt chạy thật nhanh. Kiểm lại người ngựa thấy hao tổn mất
số lớn. Tống Giang ra lệnh cho quân tướng canh giữ cẩn mật ở cửa trại đầu núi,
đào hào sâu thêm, đắp lũy cao hơn, cắm thêm rào chông cho đầy, ra sức cố thủ
qua mấy ngày đông giá rét.
Lại nói việc quan phó khu mật Triệu an phủ liền mấy lần
gửi văn thư về kinh xin ban cấp áo rét cho quân sĩ. Triều đình đặc cách sai
quan đoàn luyện sứ Trịnh Châu là Vương Văn Bân, hiện giữ chức giáo đầu chỉ huy
tám mươi vạn cấm quân, vốn là người văn võ kiêm toàn, có uy tín trong triều,
dẫn hơn một vạn người ngựa hộ tống đoàn dân phu ở kinh sư chở năm mươi vạn bộ
quần áo ra trận cho Tống tiên phong, đồng thời đốc thúc tướng sĩ quyết đánh
quân Liêu để sớm báo tin thắng trận. Vương Văn Bân lĩnh chiếu xong liền đeo
gươm mặc giáp lên ngựa, đốc thúc quân sĩ cùng đoàn dân phu đánh xe ra khỏi
thành Đông Kinh, tiến về phía trạm Trần Kiều. Quân mã hộ tống gần hai trăm xe
quân trang, xe đầu cắm cờ vàng đề bốn chữ "Ngự tứ y áo", đòan xe
ngoằn ngoèo tiến tới. Đoàn vận chuyển đi đến đâu đều có các quan chức địa
phương tiếp đón ăn uống. Một ngày kia đoàn vận chuyển đã ra ngoài biên giới.
Vương Văn Bân tới yết kiến Triệu khu mật, trình công văn của toà trung thư.
Triệu an phủ xem xong rất vui mừng, nói:
- Tướng quân đến thật đúng lúc, hiện nay thống quân nước
Liêu là Ngột Nhan đang bày trận Côn thiên tượng, mấy lần đánh bại quân của Tống
tiên phong. Số tướng sĩ bị thương rất nhiều, hiện đang ở đây cho thầy thuốc An
Đạo Toàn điều trị. Tống tiên phong đóng quân ở huệng Vĩnh Thanh chưa dám cho
quân ra giao chiến, Tống tiên phong hiện đang rất buồn phiền.
Vương Văn Bân thưa:
- Triều đình sai tiểu nhân đến đây nhân tiện đốc thúc
quân sĩ để sớm báo tin thắng trận. Nay Tống tiên phong thua liền mấy trận, tiểu
nhân về kinh thật khó lòng tâu bẩm. Văn Bân tôi tuy bất tài, nhưng từ nhỏ theo
học binh thư có hiểu biết đôi chút trận pháp, xin tướng công cho được ra trận
thi thố chút mưu kế, quyết chiến một phen để san sẻ nỗi phiền với Tống tiên
phong, chẳng hay tôn ý của tướng công thế nào?
Triệu khu mật cả mừng, sai bầy tiệc rượu khoản đãi Vương
giáo đầu, một mặt cho khao thửơng uý lạo quân sĩ cùng đoàn dân phu chở xe, rồi
để cho Vương giáoo đầu dẫn đoàn xe quần áo đến tận doanh trại Tống Giang ban
phát cho quân lính.
Trước đó, Triệu an phủ đã sai người đến báo cho Tống tiên
phong biết tin.
Lại nói Tống Giang đang buồn phiền ngồi trong trướng thì
người của Triệu khu mật đến báo tin: ở Đông Kinh sai giáo đầu giữ chức đòan
luyện sứ Trịnh Châu là Vương Văn Bân dẫn đoàn xe chở năm mươi vạn bộ quần áo
đến ban phát cho quân lính và thúc giục việc tiến quân. Tống Giang liền sai
người đi đón Vương giáo đầu mời vào tận sân trại mới xuống ngựa, rồi mời vào
trong trướng quân mở tiệc tẩy trần. Rượu cạn mấy tuần Vương giáo đầu mới hỏi
việc quân, Tống Giang đáp:
- Tống Giang tôi từ khi đội ơn triều đình được cầm quân
lên biên giới, trên nhờ hồng phúc của thiên tử, xuất quân trước sau chiếm được
bốn quận lớn của nước Liêu. Nay tiến đến đất U Châu, không ngờ gặp tên thống
quân Ngột Nhan bày trận Côn thiên tượng, quân bên chúng có đến hai mươi vạn
đóng giữ các nơi, thế trận chỉnh tề, bầy bố như vị trí các chòm sao trên trời.
Quốc vương nước Liêu thân chinh ra trận. Chúng tôi mấy lần thua bại, chưa biết
đối phó cách nào nên chưa xuất trận, may có tướng quân đến đây, xin chỉ giáo
giúp cho?
Vương Văn Bân nói:
- Thế trận Côn thiên tượng xem ra cũng không có gì kỳ lạ!
Vương mỗ tôi tuy bất tài, cũng xin cùng tướng quân ra trước trận quan sát, may
ra có góp được ý gì.
Tống Giang cả mừng, đoạn sai Bùi Tuyên đem quần áo phân phát
cho mọi người. Quân lính nhận xong cùng nhau nhìn về hướng nam cúi đầu tạ ơn.
Ngày hôm ấy trong quân bầy tiệc rượu khoản đãi đoàn vận chuyển cũng là khao
thưởng công lao khó nhọc của ba quân.
Ngày hôm sau, cả năm đạo quân đều xuất trận. Quân Liêu
thấy quân Tống ra quân liền báo tin lên chủ tướng. Khắp trận bên Liêu chiêng
trống khua vang, quân lính reo hò, sáu đội chiến mã lập tức phóng ra trước
trận. Tống Giang chia quân các ngả đánh lui quân Liêu. Vương Văn Bân lên chòi
cao nhìn khắp một lượt trở xuống nói:
- Xem cách bầy trận không có gì đáng sợ.
Hay đâu Vương Văn Bân đã không biết cách bầy trận của
địch lại muốn ra oai loè người ra lệnh cho tiến quân nổi trống khiêu chiến. Bên
quân Liêu cũng gióng trống khua chiêng đáp lại. Tống Giang ghìm ngựa quát lớn
sang trận địch:
- Đánh địch không được thập thò, quân Liêu có giỏi đưa
quân ra nghênh chiến!
Nói chưa dứt lời, trong đội quân cờ đen từ dưới khóm môn
kỳ thứ tư thấy một viên tướng tế ngựa ra. Viên tướng ấy đầu tóc bỏ xoã, trán
xát phẩm vàng, mặc chiến bào thâm ngắn tay, ngoài nịt giáp sắt đen bóng, tay
cầm đinh ba, cưỡi ngựa ô truy ra trận. Phía sau là các nha tướng đông vô kể
đang dẫn đầu đội quân trương cờ đen đề chữ trắng: "đại tướng Khúc Lợi Xuất
Thanh" lao nhanh đến. Vương Văn Bân nghĩ bụng: "phen này không ra tay
trổ tài, sau còn dịp nào mà thi thố". Nghĩ đoạn xách thương thúc ngựa ra
trận, chẳng nói chẳng rằng xông vào giao chiến với tên tướng Liêu. Vương Văn
Bân giơ thương đâm tới, tướng Liêu cũng múa đao nghênh chiến. Hai tướng đánh chưa
đầy hai mươi hiệp tướng Liêu đã quay ngựa bỏ chạy. Vương Văn Bân thấy vạy liền
thúc ngựa đuổi theo. Tên tướnng Liêu vờ thua chạy chờ cho Văn Bân đến gần liền
vung đao đúng vào sau gáy. Văn Bân bị xả xiên một nhát từ vai qua ngực, thân
đứt làm hai đoạn lăn xuống ngựa, Tống Giang trông thấy vội cho lệnh thu quân.
Quân Liêu ào sang chiếm trận mà chém giết, quân Tống lại một phen thua trận,
hốt hoảng lui về bản trại. Quân sĩ tận mắt thấy Văn Bân bị chém lăn ngựa, ai
nấy đều sợ hãi đưa mắt nhìn nhau.
Tống Giang đưa quân về trại, viết ngay văn thư gửi lên
Triệu khu mật phúc bẩm về việc Vương Văn Bân tình nguyện ra trận không may bị
thiệt mạng. Quân lính và dân phu trong đoàn vận chuyển thì cho phép về kinh.
Triệu an phủ tiếp tin rất đỗi lo phiền, cũng đành viết tờ trình tâu lên viện
trung thư nhờ đoàn vận chuyển đem về kinh. Có thơ làm chứng như sau:
Triệu Quát đồ năng độc phụ thư
Văn Bân vẫn mệnh hựu hà ngu
Bình thời khoa khẩu thiên nhân hữu
Lâm trận thành công nhất cá vô.
(Triệu Quát cùng đường biết giữ thân
Văn Bân uổng mạng chẳng ai cần
Thường ngày khua mép muôn người kém
Lâm trận nên công chẳng một phần.)
Lại nói Tống Giang từ khi thua trận hết sức lo buồn, suy
tính trăm chiều vẫn không thấy kế sách nào phá được trận quân Liêu. Vì thế mà
mất ăn mất ngủ. Đem ấy trời rét căm căm, Tống Giang cho đóng cửa dinh, một mình
ngồi trước ngọn nến trầm ngâm nghĩ ngợi. Quá canh hai, tâm thần mỏi mệt, bèn để
cả áo quần nghỉ lưng trên ghế. Chợt có cơn gío lạnh tê người ào vào phòng, Tống
Giang choàng dậy thấy một nữ đồng mặc áo xanh đi tới cúi chào, Tống Giang hỏi:
- Nữ đồng từ đâu tới?
Nữ đồng cười đáp:
- Nữ đồng theo lệnh tiên nương đến mời tướng quân, xin
phiền tướng quân vui lòng đi theo.
Tống Giang hỏi:
- Tiên nương hiện ở đâu?
Nữ đồng chỉ tay nói:
- Cách đây không xa!
Tống Giang bèn theo nữ đồng ra ngoài
dinh, thấy một vùng trời ánh vàng xanh rạng toả, hương thơm thoang thoảng, gió
nhẹ mây trôi, thời tiết dễ chịu như tiết đầu xuân. Đi chưa đầy hai ba dặm, thấy
một khu rừng lớn rợp bóng tùng biếc thông xanh, cây quế tím vươn cao đến lưng
trời, dưới rặng cây xa thấp thóang dăm hàng cột đá, hai bên lối đi là những
khóm trúc cao chen liễu rũ, rặng đào nở hoa đỏ thắm, đi hết hàng lan can uốn
lượn, rẽ qua chiếc cầu đá đến trước một toà lầu son lung linh ánh sáng. Ngước
mắt trông lên ngói xanh lớp lớp, san sát tường hồng, cột chạm xà hoa, cửa son
khuôn vàng, rèm cuốn râu tôm, cửa chính màn buông, mai rùa hai nửa. Nữ đồng dẫn
Tống Giang đi theo hàng lang bên trái đến trước một căn phòng ở phía đông. Nữ
đồng đẩy cánh cửa son mời Tống Giang vào phòng ngồi đợi. Đưa mắt nhìn ra, bốn
bên đều yên tĩnh, ráng mây ngũ sắc toả ánh đầy thềm, muôn hoa đua nở, ngát lừng
hương thơm.
Nữ đồng ra lối cửa sau, một lát sau
lại nói với Tống Giang:
- Tiên nương mời tướng quân vào.
Tống Giang vội đứng dậy đi theo. Lại
thấy hai tiên nữ đội mũ phù dung giát ngọc bích, khoác áo lụa hồng, đeo dây tua
kim tuyến từ ngoài vào cúii chào. Tống Giang không dám ngước nhìn, Tiên nữ nói:
- Tướng quân hà tất phải quá khiêm
nhường, Tiên nương đang sửa soạn tíếp tướng quân để cùng bàn việc quốc gia đại
sự. Xin mời tướng quân cùng đi.
Tống Giang lặng lẽ đi theo, nghe
trên điện ngân vang tiếng chuông vàng khánh ngọc. Thị nữ áo xanh đón Tống Giang
mời lên trên điện. Hai tiên nữ đi trước dẫn Tống Giang theo bậc thềm phía đông
đến trước rèm châu. Tống Giang nghe sau rèm có tiếng ngọc bội rung rinh. Thị nữ
áo xanh mời Tống Giang vào, đến quỳ trước hương án. Ngước mắt nhìn lên trên
điện thấy hào quang toả rạng, mây lành cuộn bay, tiên Cửu Thiên Huyền Nữ ngồi trên
sập rồng giữa điện, đầu đội mũ long phượng, khoác áo lụa hồng thêu hình long
phượng thất bảo, lưng thắt đai gấm thêu hình sơn hà nhật nguyệt, chân đi giày
cườm ngũ sắc, tay cầm một cành ngọc khuê trắng muốt. Hai bên có đến vài chục
tiên nữ
đứng hầu.
Cửu Thiên Huyền Nữ nói với Tống
Giang:
- Từ khi ban thiên thư cho ngươi đến
nay đã mấy năm rồi. Xét ra nhà ngươi vẫn bền lòng trung nghĩa. Nay thiên tử nhà
Tống sai ngươi đi đánh giặc Liều, việc quân thắng bại ra sao?
Tống Giang sụp đầu vái lạy, nói:
- Hạ thần từ đội ơn tiên nương ban
cho đạo thiên thư đến nay không hề dám khinh suất tiết lộ với ai. Nay hạ thần
vâng mệnh thiên tử cầm quân đi đánh giặc Liêu, chẳng ngờ gặp viên thống quân
nước Liêu là Ngột Nhan bày trận Côn thiên tượng, quân của hạ thần thua mấy trận
liền. Hạ thần không có kế sách gì đối phó, hiện thời đang rất nguy cấp.
Cửu Thiên Huyền Nữ nói:
- Ngươi có biết trận pháp Côn thiên
tựơng thế nào không?
Tống Giang lại sụp lạy tâu:
- Hạ thần ngu dốt không hiểu trận
pháp ấy thế nào, cúi mong tiên nương chỉ giáo cho.
Cửu Thiên Huyền Nữ nói:
- Pháp trận ấy theo hình tượng
"tụ dương", nếu chỉ đánh như cách thông thường thì không khi nào phá
được. Muốn phá được phải hiểu rõ lẽ "tương sinh tương khắc". Nếu ở
phía trước quân cờ đen có viên đại tướng xưng hiệu là Thuỷ tinh, ứng với ngôi
sao thứ năm ở phương bắc, thì bên quân Tống ngươi hãy chọn lấy bảy viên tướng
đại tướng trương cờ vàng, mặc giáp phục vàng, cưỡi ngựa vàng, dẫn quân vào đánh
bảy khóm môn kỳ của đạo quân cờ đen, rồi sai một viên mãnh tướng áo vàng ra
giao chiến với viên đại tướng thủy tinh. Như thế nghĩa "thổ khắc
thuỷ". Tiếp đó điều đạo quân áo trắng do tám tướng chỉ huy đánh thọc vào
trận địa đạo quân cờ xanh ở phía bên tả, như thế nghĩa là "kim khắc
mộc", lại điều đạo quân áo đỏ do tám tướng chỉ huy đánh vào trận của đạo
quân cờ trắng ở phía bên hữu, như thế nghĩa là "hoả khắc kim", lại
điều đạo quân cờ đen do tám viên đại tướng chỉ huy đánh xuyên vào trận của đạo
hậu quân cờ đỏ bên địch, ấy nghĩa là "thuỷ khắc hoả". Tiếp đến chọn chín
viên đại tướng dẫn đạo quân cờ xanh đánh thẳng vào quân trung ương cờ vàng do
chủ tướng bên địch chỉ huy, như thế nghĩa là "mộc khắc thổ". Lại chọn
hia đội: một đội cờ gấm áo hoa, giả trang quân của La Hầu tinh, xông vào phá
trận Thái dương, một đội cờ trắng giáp bạc, giả trang như quân của Kế Đô tinh,
xông vào phá trận Thái âm. Phải cho đóng ngay hai mươi bốn cỗ "lôi
xa" là để ứng với hai mươi bốn khí, trên mỗi xe đều để sẵn hoả pháo và mồi
đánh lửa, khi lâm chiến thì đẩy thẳng vào giữa trận quân Liêu, rồi lệnh cho
Công Tôn Thắng thi hành pháp thuật "Lôi phong thiên cang" để giúp sức
cho quân sĩ xông vào giữa chỗ xa giá vua Liêu. Theo đúng kế ấy nhất định sẽ
thắng. Nhưng trận pháp này chỉ được tiến hành ban đêm. Nhà ngươi phải thân hành
ra trận giữ tướng lệnh ở trung quân, đốc thúc quân mã quân bộ ra sức giao chiến
thì chỉ một hồi trống trận là xong. Lời dặn của ta, ngươi phải nhập tâm ghi
nhớ, không được tiết lộ. Mong ngươi gắng sức giúp nước yên dân, chớ nản lòng
thoái chí. Cõi tiên kẻ phàm ngăn cách, từ đây vĩnh biệt. Ngày sau ở chốn gác
ngọc lầu vàng may còn có cơ trùng hội. Ngươi nên mau chóng trở về không được
nấn ná ở đây!
Cửu Thiên Huyền Nữ nói xong gọi thị
nữ mời Tống Giang uống trà, rồi sai đưa Tống Giang về trại.
Tống Giang sụp đầu lạy tạ ơn Cửu
Thiên Huyền Nữ rồi lui ra ngoài điện. Thị nữ dẫn Tống Giang xuống bệ thềm phía
tây qua cửa thiên môn sơn son thiếp vàng, sau đó đi theo đường cũ. Vừa sang
khỏi cầu đá đến con đường nhỏ dưới rặng thông, thị nữ bèn chỉ tay mà thôi:
- Quân Liêu hiện ở chỗ kia, tướng
quân phải đánh tan đi!
Tống Giang vừa ngóai đầu nhìn lại,
thị nữ liền đẩy tay xô mạnh... Tống Giang kinh sợ, bừng tỉnh mới biết là vừa
nằm mộng trong trướng.
Nghe trống đã điểm canh tư, Tống
Giang cho mời quân sư Ngô Dụng đến đoán mộng. Quân sư Ngô Dụng vào trong
trướng, Tống Giang hỏi:
- Quân sư đã có kế gì để giải phá
thế trận "Hỗn thiên" của quân Liêu chưa?
Ngô Dụng đáp:
- Tiểu nhân vẫn chưa có kế gì!
Tống Giang nói:
- Ta vừa mộng được tiên Cửu Thiên
Huỳên Nữ bảo cho bí quyết phá trận quân Liêu, ta còn nhớ rõ nên cho mời ngay
quân sư đến cùng bàn. Bàn xong sẽ cho gọi các tướng đến hội để cắt cử công việc
cho từng người.
Đúng là:
Dấy động thiên cơ bàn diệu kế
Dàn hàng tinh đẩu phá mê cung
Chưa biết Tống Giang điều quân đánh
trận ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 89 -
Tống Công Minh Phá Trận Thành Công
Đang nói chuyện Tống Giang mộng được
phép tiên của Cửu Thiên Huyền Nữ, nhớ kỹ không sót một câu, liền bàn định mọi
việc với quân sư Ngô Dụng, rồi viết văn thư báo cho Triệu khu mật biết tin.
Quân sư được lệnh chọn sắt lá, gỗ hoa đóng ngay hai mươi tư cỗ lôi xa. Dưới mỗi
xe đều xếp củi khô, rưới dầu đốt, trên đặt hoả pháo, liền ngày thâu đêm đốc
thúc làm cho xong. Các tướng chỉ huy quân mã quân bộ đều được mời đến dự họp để
bàn cách đánh trận. Tống Giang truyền lệnh cắt đặt như sau:
Đại tướng Song thương Đổng Bình chỉ
huy đạo kỵ binh áo vàng, gọi là đạo Thổ quân, dàn trận ở hai phương Mậu, Kỷ
giữa trung ương, xuất chiến đánh vào trận của viên đại tướng Thuỷ tinh. Hai bên
tả hữu đánh bảy khóm môn kỳ của đạo quân cờ đen giao cho bảy phó tướng là Chu
Đồng, Sử Tiến, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Mã Lân, Mục Xuân.
Đại tướng Báo tử đầu Lâm Xung chỉ
huy đạo kỵ binh áo trắng gọi là đạo Kim quân, dàn trận liền hai phương Canh,
Tân ở phía tây, xuất chiến đánh vào trận của viên đại tướng Mộc tinh. Hai bên
tả hữu đánh bảy khóm môn kỳ của đạo quân cờ xanh giao cho bảy viên phó tướng là
Từ Ninh, Mục Hoằng, Hoàng Tín, Tôn Lập, Dương Xuân, Trần Đạt, Dương Lâm.
Đại tướng Tích lịch hoả Tần Minh chỉ
huy đạo quân kỵ mã áo đỏ gọi là đạo Hoả quân, dàn trận liền hai phương Bính,
Đinh ở phía nam, xuất chiến đánh vào trận của viên đại tướng Kim tinh. Hai bên
tả hữu đánh bảy khóm môn kỳ của đạo quân cờ trắng giao cho bảy viên phó tướng
là Lưu Đường, Lôi Hoành, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc, Chu Thông, Cung Vựng,
Đinh Đắc Tôn.
Đại tướng Song tiên Hô Diên Chước
chỉ huy đội kỵ mã áo đen, gọi là đạo Thuỷ quân, dàn trận liền hai phương Nhâm,
Quý ở phía bắc, xuất chiến đánh vào trận của viên đại tướng Hoả tinh. Hai bên tả
hữu đánh khóm toà môn kỳ của đạo quân cờ đỏ giao cho bảy viên phó tướng là
Dương Chí, Sách Siêu, Hàn Thao, Bành Kỷ, Khổng Minh, Trâu Uyên, Trâu Nhuận.
Đại tướng Đại đao Quan Thắng chỉ huy
đạo quân kỵ mã áo xanh, gọi là đạo Mộc quân, dàn trận liền hai phương Giáp, Ất
ở phía đông, xuất chiến đánh vào trận của viên thượng tướng Thuỷ tinh. Hai bên
tả hữu đánh vào trận chính của đạo trung quân cờ vàng giao cho tám viên phó
tướng là Hoa Vinh, Trương Thanh, Lý Ứng, Sài Tiến, Tuyên Tán, Hách Tư Văn, Thi
Ân, Tiết Vĩnh.
Lại sai bảy viên đại tướng là Lỗ Trí
Thâm, Võ Tòng, Dương Hùng, Thạch Tú, Tiêu Đình, Thang Long, Sái Phúc chỉ huy
đạo bộ binh trương cờ gấm, mặc áo hoa xuất chiến đánh vào trận Thái dương của
đạo Tả quân bên địch.
Bảy viên đại tướng là Hỗ Tam Nương,
Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương, Vương Anh, Tôn Tân, Trương Thanh, Sái Khánh chỉ huy
đạo bộ binh áo trắng giáp bạc, xuất chiến đánh vào trận Thái âm của đạo Hữu
quân bên địch.
Lại chọn một đội kỵ mã dũng mãnh do
sáu viên đại tướng là Lư Tuấn Nghĩa, Yến Thanh, Lã Phương, Quách Thịnh, Giải
Trân, Giải Bảo chỉ huy đánh thẳng vào trung tâm quyết bắt sông vua Liêu.
Các cỗ lôi xa do một đội quân bộ đi
hộ tống, cầm đầu là năm viên đại tướng: Lý Quỳ, Phàn Thuỵ, Bao Húc, Hạng Sung,
Lý Cổn.
Còn các đầu lĩnh thuỷ quân và những
người khác cùng đều ra trước quân giúp sức phá trận. truớc trận cũng cắm tám lá
"ngũ phương kỳ". Sắp đặt quân tướng vẫn theo thế trận Cửu cung bát
quái.
Tống Giang truyền lệnh đã xong, các
tướng quân tuân lệnh thi hành, một mặt đốc thúc đóng cho xong các cỗ lôi ra,
kịp chất các vật dẫn hoả để đưa ra trận.
Thật là:
Lập kế kinh thiên địa
Bày mưu khiếp quỷ thần.
Lại nói Ngột Nhan thống quân mấy
ngày liền không thấy Tống Giang cho quân ra giao chiến, hôm ấy thống lĩnh các
đạo quân xông trận kéo đến đánh doanh trại Tống Giang. Bên quân Tống các cỗ lôi
xa cũng vừa làm xong, hẹn định đêm nay sẽ xuất trận theo hình chữ nhất, phía
trước bố trí quân xạ thủ cung nỏ để giữ vững trận thế chờ đến tối. Qúa chiều,
trời bỗng nổi gió bấc, mây đen ùn ùn kéo đến che kín bầu trời, chưa tối hẳn mà
trời đất đã đen như mực. Tống Giang ra lệnh cho quân sĩ bẻ lá lau ngậm vào mồm
làm kèn thổi báo hiệu cho nhau biết đường. Đêm ấy bốn đạo quân đều xuất phát
theo đường riêng, còn đạo kỵ binh áo vàng ở lại dàn trận đối diện với quân
Liêu. Người ngựa bốn đạo tiến đến đâu đánh bạt quân tiền tiêu địch đến đấy, các
đội quân lớn men theo trận tuyến mà đi về phía bắc.
Vào lúc gần canh một, trong quân
Tống Giang nổi hiệu pháo liên châu. Hô Diên Chước cầm quân đánh vào mở cửa
trận, xông thẳng đến tận đạo hậu quân giao chiến với viên đại tướng Hoả tinh.
Đạo quân của Quan Thắng lập tức tiến vào giữa đạo trung quân giao chiến với chủ
tướng Thổ tinh. Lâm Xung dẫn quân đánh vào trận của đội tả quân, giao chiến với
viên đại tướng Mộc tinh. Tần Minh dẫn quân đánh vào trận của đội hữu quân giao
chiến với viên đại tướng Kim tinh. Đổng Bình đưa quân đánh vào đầu trận, giao
chiến với viên đại tướng Thuỷ tinh. Công Tôn Thắng đứng ở đạo trung quân giơ
kiếm điều khiển phép thuật, đạp Thiên cang vượt Bắc đẩu, ra lệnh cho trời đất
nổi trận sấm sét. Đêm ấy gió nam nổi rất mạnh, cây cối đổ rạp, cát sỏi bay mù
trời. Hai mươi bốn cỗ lôi xa đều nhất loạt phát hoả. Lý Quỳ, Phàn Thuỵ, Bao
Húc, Hạng Sung, Lý Cổn dẫn năm trăm quân giáp sĩ thiện chiến đẩy các cỗ lôi xa
vào giữa trận quân Liêu. Nhất trượng thanh Hỗ Tam Nương cầm quân đánh vào trận
Thái âm, quân của Hoa hoà thượng Lỗ Trí Thâm đánh vào trận Thái dương. Ngọc kỳ
lân Lư Tuấn Nghĩa dẫn đội quân kỵ theo sau các cỗ lôi xa đánh vào đạo trung
quân của địch. Quân đôi bên đều tự tìm đối phương mà đánh. Rồi các cỗ lôi xa
bốc cháy, lửa sáng rực trời. Thật là một trận đánh rung chuyển trời đất, lu mờ
nhật nguyệt, quỷ khóc thần kêu, quân binh đều rối loạn.
Lại nói Ngột Nhan thống quân đang
đứng giữa đạo trung quân điều khiển tướng lệnh, bỗng nghe tiếng hò la dậy đất,
khắp bốn bên đều có quân đến đánh. Ngột Nhan vừa kịp lên ngựa thì quân Tống
Giang đã đẩy các cỗ lôi xa vào giữa trung quân. Lửa bốc cao lưng trời, tiếng nổ
dậy đất, một cánh quân của Quan Thắng đã ập đến trước trướng. Ngột Nhan thống
quân vội cầm phương thiên họa kích giao chiến với Quan Thắng. Cùng lúc, Một vũ
tiễn Trương Thanh ném đá tới tấp, các nha tướng ở cạnh Ngột Nhan bị thương rất
nhiều, bỏ chạy tán loạn. Lý Ứng, Sài Tiến, Tuyên Tán, Hách Tư Văn phóng ngựa
vung đao xông vào đám quân tướng mà chém giết. Ngột Nhan thống quân thấy tả hữu
không còn ai bèn quay ngựa chạy về hướng bắc. Quan Thắng lập tức thúc ngựa đuổi
theo. Đúng là:
Vịn trời tẩu thóat khôn đường chạy
Đạp mây đuổi bắt dễ như không
Hoa Vinh từ phía sau thấy Ngột Nhan
Quang thua chạy liền giương cung bắn rượt theo. Mũi tên trúng vào mảnh kính hộ
tâm sau lưng áo giáp của Ngột Nhan, nghe "cạch" một tiếng, tia lửa
tóe ra. Hoa Vinh chưa kịp bắn phát thứ hai thì Quan Thắng đã đuổi kịp, vung
thanh long đao chém trúng Ngột Nhan Quang. Nhưng viên tướng này mặc đến ba lần
áo giáp: trong là giáp sắt liên hoàn, giữa là giáp bằng da rái cá, ngoài cùng
mới là giáp hộp nạm vàng, nhát đao của Quan Thắng chỉ mới đứt được hai tầng
ngoài. Quan Thắng thu đao bồi thêm một nhát, nhưng Ngột Nhan trông bóng đao kịp
né mình tránh rồi ghìm ngựa nâng cây phương thiên kích nghênh chiến. Hai tướng
đánh gần năm mươi hiệp, Hoa Vinh đuổi tới nhằm giữa trán Ngột Nhan Quang bắn
thêm phát nữa. Ngột Nhan Quang vừa kịp cúi tránh, mũi tên liền cắm phập vào
chiếc mũ cắm lông chim phượng. Ngột Nhan Quang vội quay ngựa chạy, Trương Thanh
tế ngựa đuổi theo ném đá trúng đầu. Ngột Nhan Quang ngã gục trên ngựa, kéo lê
cây họa kích mà chạy. Quan Thắng kịp tới bồi thêm một nhát. Cây thanh long đao
bổ xuống ngang lưng hất Ngột Nhan Quang xuống đất. Hoa Vinh đuổi tới nhảy sang
đổi lấy con ngựa tốt. Trương Thanh cũng kịp tới đâm tiếp một mũi thương. Thương
thay Ngột Nhan Quang thống quân! một đời hào kiệt cũng đành kết liễu bởi lưỡi đao,
ngọn giáo. Có thơ làm chứng như sau:
Lý Tĩnh lục hoa nhân diệc thức,
Khổng Minh bát quái thế ưng tri.
Hỗn nhiên chỉ tưởng vô nhân địch
Dã hữu thần cơ đả phá thời
(Bát quái Khổng Minh ai cũng biết
Lục hoa Lý Tĩnh mọi người hay
Hỗn nhiên những tưởng là vô địch
Lại có mưu thần phá vỡ ngay!)
Lại nói Lỗ Trí Thâm cùng bọn Võ Tòng
sáu đầu lĩnh dẫn quân hò hét đánh vào trận Thái dương của quân Liêu, hoàng điệt
Da Luật Đắc Trọng hốt hoảng định bỏ chạy bị thanh giới đao của Võ Tòng chém đứt
đầu ngựa ngã lăn xuống đất. Võ Tòng liền túm tóc Da Luật Đắc Trọng xách lên
khua một đao chặt lấy thủ cấp. Trận Thái dương bị đánh tan tành. Lỗ Trí Thâm
nói:
- Bọn ta cứ đánh luôn vào trung
quân, bắt sống vua Liêu cho dứt chuyện!
Lại nói bên quân Liêu, Thọ Thiên
công chúa đang đứng trong trận Thái âm nghe bốn phía tiếng hò la dậy đất, vội
xách vũ khí nhảy lên ngựa, gọi nữ binh theo hộ vệ. Chợt thấy Nhất trượng thanh
Hỗ Tam Nương hai tay vung hai đao dẫn bọn Cố Đại Tẩu sáu đầu lĩnh ập vào trướng
tướng. Hỗ Tam Nương và Thọ Thiên công chúa cùng xông vào giao chiến. Hai nữ
tướng đánh không biết bao nhiêu hịệp vẫn không phân thắng bại. Hỗ Tam Nương bèn
vứt đao, xáp ngựa vào vít cổ níu áo Thọ Thiên công chúa. Hai người cứ ngồi trên
ngựa mà níu kéo nhau không rời ra được. Vương Nuỵ Hổ kịp tới xông vào bắt sống
công chúa Thọ Thiên. Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương xông trận đánh tan bọn nữ binh.
Tôn Tân, Trương Thanh, Sái Khánh từ bên ngoài đánh ốp vào. Thương thay công
chúa Thọ Thiên, cành vàng lá ngọc nay phải chịu trói quy hàng!
Lại nói Lư Tuấn Nghĩa đem quân đánh
vào giữa đạo trung quân của địch, Giải Trân, Giải Bảo chém gãy ngọn cờ soái rồi
xông vào giữa đám loạn quân mà chém giết. Hộ giá đại thần cùng các nha tướng
phò giá vua Liêu chạy về hướng bắc. Hai hoàng điệt La hầu tinh và Nguyệt bột
tinh bị đâm ngã ngựa chết ngay tại trận. Hoàng điệt Kế đô tinh bị bắt sống ngay
trên ngựa. Còng hoàng điệt Từ khí tinh không biết chạy trốn đằng nào.
Đại binh quân Tống vây chặt lớp
trong lớp ngoài, ốp đánh quân Liêu tới tận canh tư mới dừng. Quân Liêu bị chém
giết đến hơn hai mươi vạn, mười phần thương vong đến bảy tám.
Trời gần sáng, các tướng đuổi theo
quân Liêu đã quay lại. Tống Giang cho khua chiêng thu quân, truyền lệnh cho
quân tướng ai bắt đựợc tù binh thì dẫn đến nộp để báo công. Nhất trượng thanh
Hỗ Tam Nương nộp Thái âm tinh Thọ Thiên công chúa; Lư Tuấn Nghĩa nộp Kế đô tinh
hoàng điệt Da Luật Đắc Hoa; Chu Đồng nộp Thuỷ tinh đại tướng Khúc Lợi Xuất
Thanh; Âu Bằng, Đặng Phi nộp Đẩu mộc giải Tiêu Đại Quan; Dương Lâm, Trần Đạt
nộp Tâm Nguyệt Hồ Bùi Trực; Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc nộp Vị Thổ trĩ Cao
Bưu; Hàn Thao, Bành Kỷ nộp Liễu thổ chương Lôi Xuân và Dục Hoả Đà Địch Thánh.
Các tướng đem nộp thủ cấp tướng địch thì nhiều vô kể. Tống Giang ra lệnh cho
giải đám tướng giặc bị bắt sống đến giam bên doanh trại của Triệu khu mật, số
ngựa bắt được thì cho phép các tướng đổi lấy mà dùng.
Lại nói vua Liêu hốt hoảng rút chạy
về đến Yên Kinh, lập tức truyền lệnh đóng chặt bốn cổng thành, cố sức giữ kinh
đô, không dám nghĩ đến chuyện đối địch với quân Tống Giang nữa.
Tống Giang biết tin vua Liêu rút
chạy liền truyền lệnh cho quân sĩ nhổ trại lên đường, tiến thẳng đến vay sát
chân thành Yên Kinh. Lại mời Triệu khu mật dời hành dinh đến phía sau để giám
thị việc đánh thành. Quân sĩ được lệnh hạ trại, dựng chòi cao, đặt súng bắn đá
khắp mặt ngoài, chuẩn bị đánh vào thành Yên Kinh.
Vua Liêu hoảng sợ triệu quần thần
vào cung bàn bạc. Quần thần đều nói: "Tình thé hết sức nguy cấp,chỉ còn
cách đầu hàng nước Tống là thượng sách". Vua Liêu nghe theo, cắm cờ hàng
trên mặt thành, sau đó sai người đến doanh trại quân Tống thưa: "Hàng năm
sẽ xin tiến cống bò ngựa châu báu, không dám xâm phạm đến Trung Quốc nữa".
Tống Giang đưa sứ Liêu đến hậu doanh
bái kiến Triệu khu mật để thưa lại việc xin đầu hàng. Triệu khu mật nghe xong,
nói:
- Đây là việc quốc gia đại sự, phải
theo ý triều đình, ta không dám tự tiện quyết định. Nước Liêu ngươi thực bụng
đầu hàng thì phải sai quan đại thần có danh tiếng đến Đông Kinh triều kiến
thiên tử. Nếu thiên tử bằng lòng giáng chiếu xá tội, thuận cho nước Liêu ngươi
được đầu hàng thì ở đây ta mới dám cho lui quân bãi chiến.
Sứ Liêu vâng lời trở về tâu lại với
vua Liêu. Vua Liêu liền triệu các quan văn võ vào bàn định. Hữu thừa tướng là
thái sư Chử Kiên bước lên tâu:
- Nay nước ta thiếu quân ít tướng,
người ngựa cơ hồ sạch không, liệu còn gì mà đánh nhau với địch? cứ nhu ngu ý
của hạ thần thì đưa lễ vật thật hậu đến với Tống tiên phong. Một mặt xin Tống
tiên phong cho đóng quân ngưng chiến, một mặt thu xếp lễ vật đưa về Đông Kinh hối
lộ cho các quan đại thần giữ việc ở các sảnh viện, nhờ họ khéo lời tâu bẩm với
thiên tử giúp cho. Hiện nay ở Trung Quốc, bốn tên gian thần là Sái Kinh, Đồng
Quán, Cao Cầu, Dương Tiễn chuyên quyền, vua Tống chỉ nhắm mắt nghe theo. Ta nên
sai người đưa vàng lụa hối lộ, nhờ bọn chúng thu xếp việc giảng hoà, tất thế
nào vua Tống cũng ưng thụân cho lui binh bãi chiến.
Vua Liêu chuẩn theo lời tâu ấy.
Ngày hôm sau, thừa tướng Chử Kiên ra
khỏi thành đi đến doanh trại Tống Giang. Tống Giang cho mời vào trong trướng,
Chử Kiên nói lại việc quốc vương nước Liêu xin đầu hàng, sau đó đem vàng lụa
cùng nhiều báu vật biếu Tống Giang. Tống Giang nghe xong đáp:
- Quân ta bất quá chỉ vây đánh trong
mấy hôm, lo gì không phá được thành trì nước ngươi, luôn tiện nhổ cỏ bỏ rễ để
trừ hậu hoạ. Thấy nước Liêu ngươi cắm cờ hàng trên thành, ta tạm cho dừng quân
chưa đánh. Hai nước xuất quân giao chiến, xưa nay vẫn cho nước địch được đầu
hàng! ta án binh bất động là để cho nước ngươi thu xếp bằng lòng cử người về
triều đình xin chuộc tội. Nay ngươi đưa lễ vật đến đút lót, vậy bọn ngươi coi
Tống Giang là kẻ thế nào? Chuyện ấy không được nói đến nữa.
Chử Kiên sợ hãi xin vâng. Tống Giang
nói tiếp:
- Ta bằng lòng cho ngươi sửa soạn
biểu văn đưa về kinh tuỳ triều đình định đọat. Ở đây ta cứ tạm đóng quân không
đánh. Nhưng ngươi phải đi mau, đừng để bọn ta phải đợi!
Chử Kiên vái tạ Tống Giang, ra khỏi
trại, lên ngựa trở về Yên Kinh tâu lại với vua Liêu. Các quan đại thần cùng
nhau bàn bạc đã xong, ngày hôm sau vua Liêu cho sửa soạn lễ vật vàng bạc châu
báu xếp lên xe, sai thừa tướng Chử Kiên cùng mười lăm viên thuộc quan lên
đường. Sứ bộ một đoàn hơn ba chục người ngựa mang theo biểu văn tạ tội, dời Yên
Kinh đến doanh trại quân Tống thưa chuyện với Tống Giang. Tống Giang đưa Chử
Kiên đến yết kiến Triệukhu mật trình bày việc nước Liêu sai thừa tướng Chử Kiên
về kinh sư triều kiến thiên tử nhận tội và xin đầu hàng. Triệu khu mật lưu Chử
Kiên ở lại tiếp đãi tử tế, một mặt bàn với Tống Giang, rồi viết tờ tâu trình
lên thiên tử. Sài Tiến và Tiêu Nhượng được cử đi cùng với sứ bộ về kinh dâng
tấu và chuyên công văn lên viện trung thư tường trình việc hành quân. Đường xa
chẳng phải một ngày. Về đến kinh sư, người ngựa và mười xe lễ vật vàng bạc châu
báo vào nghỉ ngơi ở nhà công quán. Sài Tiến và Tiêu Nhượng đi trước đưa công
văn vào viện trung thư, trình rằng:
- Hiện nay binh mã đang vây chặt
thành Yên Kinh, chỉ nội ngày đêm là phá được. Vua nước Liêu đã sai cắm cờ hàng
trên mặt thành, nay lại sai thừa tướng, Chử Kiên về kinh trình biểu văn tạ tội
xin đầu hàng để thiên tử cho bãi binh. Triệu khu mật không dám định đọat nên
sai bọn tiểu nhân chúng tôi về xin thánh chỉ.
Các quan ở viện trung thư nghe xong
nói:
- Cho ngươi cùng sứ Liêu cứ tạm nghỉ
ngoài nhà trạm, đợi bọn ta bàn định đã!
Hồi bấy giờ Sái Kinh, Đồng Quán, Cao
Cầu, Dương Tiễn cùng các quan lớn bé ở viện trung thư đều là một bọn tham hám
lợi. Bọn Chử Kiên tìm mối vào yết kiến bọn Sái Kinh và lo biếu xé lễ vật cho
các quan ở viện trung thư. Ai theo mối ấy, bọn chúng lo việc đút lót cho các quan
ở viện trung thư.
Sáng hôm sau vào chầu, các quan lạy
mừng thiên tử đã xong, quan khu mật sứ Đồng Quán bước ra tâu:
- Tướng tiên phong là Tống Giang
hiện đã đánh đuổi quân Liêu đến tận Yên Kinh, vây chặt thành trì chỉ sớm chiều
là phá được. Liêu chủ đã cắm cờ tự nguyện đầu hàng, nay lại cử thừa tướng Chử
Kiên đưa biểu văn đến xin thuần phục, mong được thiên tử xá tội, cho phép giảng
hoà và ra lệnh bãi chiến, giao hứa hàng năm phụng tiến lễ vật không dám sai
mệnh. Cúi xin thánh thượng soi xét.
Thiên tử phán:
- Lần này cho giảng hoà, lui binh
bãi chiến, các khanh thấy thế nào?
Thái sư Sái Kinh bước lên tâu:
- Hạ thần cùng các quan cũng đã bàn:
bọn tứ di xưa nay chưa bị trừ hết. Theo ngu ý của bọn hạ thần thì cứ cho nước
Liêu được thần phục để chắn giữ phía bắc, hàng năm dâng đồ cống nạp cũng có ích
cho nước nhà. Xét như vậy thì nên chuẩn tấu cho nước Liêu được tạ tội đầu hàng,
một mặt cho lui quân bãi chiến, triệu hồi quân mã trở về lo giữ kinh sư. Bọn hạ
thần không dám tự tiện, cúi xin bệ hạ phán xét.
Thiên tử chuẩn tấu, truyền thánh chỉ
cho phép sứ Liêu được vào triều yết kiến. Quan truyền lệnh liền dẫn bọn Chử
Kiên vào Kim Điện. Bọn Chử Kiên phủ phục vái lạy, tung hô vạn tuế. Thị thần
nhận biểu văn bóc trình lên trước ngự án. Quan tuyên biểu học sĩ cao giọng đọc
như sau:
Quốc chủ nước Liêu, thần Da Luật Huy
cúi đầu trăm lạy xin tâu lên:
Thần vốn sinh cư ở chốn sa mạc
phương bắc, xưa nay thuộc cõi phiên bang, không thông hiểu kinh sách của thánh
hiền, không biết rõ cương thường lễ nghĩa. Lại thêm, thuộc hạ đều một phường
văn ngu võ dốt tả hữu rặt những kẻ xấu bụng gian lòng, tham lam tiền tài, thích
ăn của đút, trông trước ngó sau đều những kẻ tướng mạo bất lương. Hạ thần bị mê
muội, họp nhau gây chuyện ngông cuồng, xâm phạm cương vực của nước Đại Tống,
đến nỗi thiên binh phải tới trị tội. Sự ấy chẳng những khiến cho quân sĩ người
ngựa phải vất vả xông pha mà còn làm nhọc lòng các quan ở triều đình phải lo
việc dấy quân chinh phạt. Tự biết sức mình con sâu cái kiến sao đủ lay chuyển
được Thái Sơn, nghĩ rằng trăm nguồn đều chảy về biển lớn. Nay hạ thần đặc sai
Chử Kiên đi sứ, mạo muội khiêu động đến thiên uy, xin rập đầu nhận tội. Dám
mong được đội ơn thánh thượng thương cho mạng sống nhỏ nhoi, không nỡ phế huỷ
chút cơ nghiệp tổ tông truyền lại, ân xá cho điều lỗi cũ của hạ thần, mở cho
con đường để lo toan nghiệp mới, lui về giữ đất Di Địch ở cõi phiên bang, mãi
mãi làm phên giậu che chắn cho thiên triều. Được như thế thì già trẻ lớn bé
thật đội ơn tái sinh, con cháu đều cảm nhớ ơn đức muôn thuở. Từ nay hàng năm
đều dâng lễ vật tuế cống, xin thề chẳng dám đơn sai!
Bọn thần xiết bao sợ hãi! kính cẩn
dâng tờ biểu lên để xin soi xét.
Niên hiệu Tuyên Hoà năm thứ tư, đông
nguyệt (tháng 11), ngày..
Quốc chủ nước Liêu, thần là Da Luật
Huy cẩn biểu.
Thiên tử Huy Tông ngự lãm biểu văn
đã xong, quần thần đều chúc mừng. Thiên tử truyền lấy ngự tửu ban cho đoàn sứ
bộ. Bọn Chử Kiên phụng cống lễ vật dâng lên trước sân chầu. Thiên tử sai quan
khố ti thu cất, một mặt cũng cho thu nhậnt số bò ngựa cống nộp. Rồi lại ban cho
vóc lụa, quần áo mang về, và cho vào viện Quang Lộc hưởng yến. Thiên tử truyền
lệnh rằng:
- Thừa tướng Chử Kien cùng bộ hạ cứ
về nước, đón đợi quả nhân cho người đến tận nơi giáng chiếu.
Bọn Chử Kiên tạ ơn, lạy chào lui ra,
tạm về nghỉ ở nhà công quán.
Hôm ấy tan chầu, Chử Kiên lại sai
người đi đến nhà riêng các quan biếu thêm lễ vật để thu xếp cho xong mọi việc.
Sái Kinh hết sức hứa hẹn: "Đã nói thừa tướng cứ về, mọi việc đều do bọn ta
xếp đặt".
Lại nói thái sư Sái Kinh sáng hôm
sau dẫn bá quan vào chầu, nhắc thiên tử việc giáng chiếu cho nước Liêu. Thiên
tử thụân theo, liền truyền cho oquan học sĩ ở viện hàn lâm thảo tờ chiếu và
ngay buổi chầu hôm ấy giao cho thái uý Túc Nguyên Cảnh phụng chiếu sang nước
Liêu tuyên đọc. Một mặt, hạ sắc chỉ cho Triệu khu mật truyền lệnh cho Tống tiên
phong thu quân bãi chiến, đưa người ngựa về kinh, còn hết thảy tù binh đều thả
cho về, các thành trì đã chiếm đều giao lại cho nước Liêu quản lĩnh, vật dụng
tài sản trong các kho thì giao lại cho các quan chức người Liêu quản lý.
Thiên tử lui triều, các quan ai về
nhà ấy. Ngày hôm sau các quan ở viện trung thư đều đến phủ Túc thái uý hẹn ngày
đưa tiễn Túc thái uý lên đường.
Lại nói Túc thái uý đã lĩnh chiếu
sắc không dám nấn ná trì hoãn, liền cho chuẩn bị xe kiệu cùng đoàn người ngựa
tuỳ tùng vào cung cáo từ thiên tử, chào biệt các quan ở viện trung thư rồi cùng
Sài Tiến, Tiêu Nhượng lên đường sang nước Liêu. Đoàn người ngựa ra khỏi kinh
đô, qua trạm Trần Kiều, đi lên biên giới phía bắc. Đoàn người lên đường đúng vào
tháng rét nhất trong năm, mây đen che kín bầu trời, tuyết trắng phủ đầy mặt
đất. Rừng đông trắng phau như rắc bột, đường trường như bạc tráng lối đi. Đoàn
người ngựa của Túc thái uý cứ hứng gió đạp tuyết, lặn lội mà đi. Mưa tuyết vẫn
chưa tạnh, Túc thái uý đành phải cho người ngựa dừng lại ở trạm nghỉ gần biên
giới. Sài Tiến, Tiêu Nhượng sai người đi trước báo tin cho Triệu khu mật và
Tống tiên phong. Tống Giang được tin liền sửa soạn rượu lễ, dẫn quân sĩ ra
ngoài hơn năm mươi dặm đón đường nghênh tiếp. Khi Túc thái uý đến, hai bên chào
hỏi xong, Tống Giang sai rót rượu mời Túc thái uý cùng đoàn tùy tùng uống cho
ấm người, các quan ai nấy đều vui. Rồi mọi người cùng về trại mở tiệc chúc
mừng, cùng nhau đàm đạo công việc triều đình. Túc thái uý nói chuyện bọn Sái
Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu, Dường Tiễn và bọn ở các sảnh viện đều nhận lễ vật đút
lót của sứ nước Liêu, trước mặt thiên tử bọn chúng ra sức tâu bầy, nên thiên tử
chuẩn tấu cho nước Liêu đầu hàng, truyền mệnh thu quân bãi chiến, triệu hồi
người ngựa trở về lo giữ vững kinh đô.
Tống Giang nghe xong thở dài, nói:
- Tống Giang tôi không dám có ý oán
trách triều đình, nhưng công sức anh em chúng tôi thật uổng phí!
Túc thái uý nói:
- Tiên phong chớ lo, Nguyên Cảnh tôi
về triều sẽ tâu bầy để thiên tử biết rõ công lao của anh em tướng quân.
Triệu khu mật cũng nói:
- Hạ quan được triều đình sai đi
chứng thực việc quân, lẽ đâu dám để công lớn của anh em tướng quân bị mai một!
Tống Giang thưa lại:
- Anh em chúng tôi một trăm lẻ tám
người dốc sức báo đền ơn nước, không dám có lòng dạ khác, cũng không dám trông
chờ ân tứ của triều đình, chỉ mong sao tất cả anh em dù cực khổ nhưng được có
nhau là may mắn lắm rồi! nếu tướng công có lòng nâng đỡ thì anh em tôi được nhờ
ơn lớn.
Hôm ấy mở tiệc cả ngày, mọi người ai
nấy đều vui, mãi đến tối mới tan tiệc ra về, một mặt sai người báo tin ngay cho
nước Liêu biết để chuẩn bị đón chiếu.
Ngày hôm sau, Tống Giang cử mười
viên đại tướng đi theo hộ tống Túc thái uý vào kinh đô nước Liêu tuyên đọc
chiếu thư, mười viên đại tướng ấy đều mặc áo cẩm bào ngoài chẽn áo giáp nạm
vàng, lưng đeo đai da võ tướng. Mười viên đại tướng ấy là: Quan Thắng, Lâm
Xung, Tần Minh, Hô Diên Chước, Hoa Vinh, Đổng Bình, Lý Ứng, Sài Tiến, Lã
Phương, Quách Thịnh dẫn theo quân kỵ quân bộ ba nghìn người tiền hô hậu ủng,
dàn thành đội ngũ tiến vào thành Yên Kinh. Dân chúng thành Yên Kinh đã mấy trăm
năm không được thấy quân của triều đình Trung Quốc, nay nghe tin Túc thái uý
đến, hết thảy mọi người đều vui mừng hoan hỉ, nhà nào cũng bày hương án, treo đèn
kết hoa ngoài cửa. Vua Liêu thân hành dẫn các quan văn võ mặc đại lễ, cưỡi ngựa
ra ngoài cửa thành phía nam nghênh tiếp chiếu chỉ, rước về điện Kim Loan. Mười
viên đại tướng đứng hầu hai bên. Túc thái uý đứng chếch ở phía trái toà long
ngai đặt ở giữa. Vua nước Liêu cùng các quan văn võ đều quỳ dưới thềm điện.
Quan điện đầu hô lệnh lạy, vua Liêu cùng các quan văn võ đều lạy theo. Lễ lạy
đã xong, quan thị lang nước Liêu cúi nhận chiều thư, quỳ đọc trên điện như sau:
"Hoàng đế nước Đại Tống xét
rằng: từ khi Tam hoàng lập ra thứ bậc, Ngũ đế truyền ngôi, ngay như đát Trung
Hoa mà còn cần phải có chủ, huống chi cõi Di, Địch lại dám không vua? Nay nước
Liêu các ngươi không tuân theo thiên mệnh, mấy lần xâm phạm đến cương vực của
thiên triều, đáng lẽ khua một hồi trống cho quân tràn vào diệt sạch đi mới
phải. Nay trẫm xem tờ biểu của ngươi tâu bầy tình thực, thấy lời lẽ bi ai thống
thiết cũng đáng thương, lại xét cho tình cảnh của ngươi anh em cô độc hiếm hoi
nên trẫm không nỡ tru di tàn hại, cứ cho nước ngươi tồn tại đó. Ngày nào chiếu
thư này truyền đến nơi thì hết thảy quân tướng khi trước đã bị bắt đều được tha
cho về nước, những thành trì quân trẫm đã chiếm cũng sẽ giao lại cho ngươi quản
lĩnh. Hàng năm phải lo nộp lễ vật tuế cống, không được trễ nãi! tôn thờ nước
lớn, kính sợ đất trời, ấy là chức phận của kẻ bề tôi coi giữ miền phiên thuộc.
Nhà ngươi phải kính cẩn tuân theo!
Niên hiệu Tuyên Hoà thứ tư, Đông
nguyệt (tháng 11), ngày...
Quan thị lang nước Liêu tuyên đọc
chiếu thư xong, vua Liêu cùng các quan đều lễ tạ ơn hai lạy. Vua quan làm lễ đã
xong lính hầu khiêng cất long ngai cùng hộp chiếu thư, sau đó vua Liêu lên điện
tiếp kiến Túc thái uý. Nghi thức tương kiến đã xong, vua Liêu mời Túc thái uý
vào hậu điện dự đại yến chúc mừng. Trên mâm yến mọi thứ hải vị sơn hào đều có
đủ. Các quan văn rót rượu, các tướng võ bưng mời, lời ca điệu múa tưng bừng,
tiếng kèn lá êm tai; gái đẹp thành Yên Kinh vừa hoà tấu nhạc Hồ, vừa uốn lượn
nhảy múa theo tiếng sênh tiêu đàn trống.
Yến tiệc đã ta, các thị thần mời Túc
tháii uý và các tuỳ tướng về nghỉ ở nhà công quán. Cùng ngày hôm ấy, hết thảy
mọi người trong đoàn tùy tùng của Túc thái uý cũng đều được dự phần khao
thưởng.
Ngày hôm sau, vua Liêu sai thừa
tướng Chử Kiên đến tận doanh trại mời Triệu khu mật và Tống tiên phong cùng vào
thành dự tiệc.Tống Giang bàn với quân sư Ngô Dụng, thấy không nên nhận lời đi,
bèn kính Triệu khu mật vào thành dự yến với Túc thái uý. Hôm ấy vua Liêu lại mở
đại yến khoản đãi sứ bộ. Rượu bồ đào rót khắp chén bạc, thịt dê non bày kín mâm
vàng; các thứ hoa thơm quả lạ không thiếu thứ gì. Tiệc rượu gần tan, vua Liêu
sai bưng ra một mâm đồ trang sức vàng bạc dâng tặng Túc thái uý và Triẹu khu
mật. Yến tiệc còn tiếp tục mãi đến tận đêm khuya ai nấy mới ra về.
Ngày thứ ba, vua Liêu hội quần thần văn
võ, dàn xếp quân ngũ chỉnh tề, đánh trống cử nhạc tiễn đưa Túc thái uý và Triệu
khu mật về trại, lại truyền mệnh cho thừa tướng Chử Kiên đưa bò, dê, ngựa cùng
lễ vật vàng bạc vóc lụa đến doanh trại Tống tiên phong mở hội lớn khao thế ba
quân, trọng thưởng các tướng.
Tống Giang ra lệnh đưa Thiên công
chúa hết thảy quân tướng bị bắt thả cho về. Lại giao trả các thành Đàn Châu, Kế
Châu, Bá Châu, U Châu cho nước Liêu quản lý. Một mặt tiễn đưa Túc thái uý về
kinh trước, còn bản quân ở lại thu xếp xe cộ người ngựa sắp đặt quân ngũ rồi về
sau. Đạo kỵ binh trung quân được lệnh hộ tống Triệu khu mật khởi hành trước.
Tống Giang mở tiệc khao thưởng các đầu mục thuỷ quân, rồi lệnh cho các đầu mục
dẫn đội thủy quân xuống thuyền đi đường thuỷ về trước đóng thuyền ở Đông Kinh
chờ lệnh.
Tống Giang lại cho người vào thành
mời hai thừa tướng tả hữu của nước Liêu ra doanh trại nói chuyện. Vua Liêu cho
tả thừa tướng U Tây Bột Cẩn và hữu thừa tướng là thái sư Chử Kiên tới hành
doanh hội kiến với Tống Giang. Tống Giang mời hai thừa tướng vào trướng, chia
ngôi chủ khách cùng ngồi, rồi nói:
- Bọn võ tướng chúng tôi một khi
quân đã đến sát thành, tướng đứng sẵn bên hào thì việc lập công chỉ là chuyện
vặt. Cứ như bản ý của ta thì không cho các ngươi đầu hàng, phải đem quân phá thành
tiễu trư bằng sạch. May cho ngươi được chủ soái của ta y thuận cho tâu bầy với
triều đình. Hoàng thượng đóai lòng thương tình cảnh của các ngươi, động lòng
trắc ẩn không nỡ truy bức sát hại, chuẩn tấu cho nước ngươi được tạ tội đầu
hàng. Việc triều đình như thế là xong, nay chúng ta chỉ còn đợi về Kinh. Các
ngươi chớ tưởng lầm anh em Tống Giang ta không đánh nổi mà mưu toan gây chuyện
lần nữa. Lễ vật triều cống hàng năm phải lo dâng nộp cho đủ! nay ta đưa quân về
nước, bọn ngươi phải kính cẩn lo giữ tròn phận sự, chớ cố tình tái phạm! quân
binh của thiên triều mà phải tới lần nữa quyết không dung!
Hai thừa tướng rập đầu lạy tạ, nhận
lỗi. Tống Giang lựa lời khuyên nhủ. Hai thừa tướng thành thực cảm tạ rồi xin
cáo lui.
Tống Giang cho nữ tứớng Nhất Trượng
Thanh Hỗ Tam Nương dẫn một đội quân bộ đi trước. Tiếp đó cho gọi thợ đá đi theo
trong quân đến giao cho chọn đá, đục một tấm bia, sai Tiêu Nhượng soạn bài văn
bia ghi chép chiến công chinh phạt. Kim Đại Kiên lo việc đục đá khắc chữ, rồi
cho dựng tấm bia ấy dưới núi Mao Sơn cách huyện Vĩnh Thanh mười lăm dặm về phía
đông, đến nay bia ấy vẫn còn. Có thơ làm chứng như sau:
Mỗi năm Hồ mã độ âm sơn
Hận sát Đàn uyên túng lỗ hoàn.
Thuỳ tạo mao sơn công tích ký
Khấu công tuyền hạ diệc khai nhan.
(Giận nghe tin giặc vượt biên thuỳ
Thẳng tới Đàn Châu quyét sạch đi
Ai dựng bia công Mao Sơn ấy
Khấu công yên giấc chẳng lo nguy.)
Tống Giang chia quân mã thành năm
đội, định ngày cho tất cả lên đường về kinh. Bỗng thấy Lỗ Trí Thâm vội vào
trướng, chắp tay vái chào rồi thưa:
- Tiểu đệ từ khi đánh chết tên Trấn
Quan Tây phải trốn đến huyện Nhạn Môn ở Đại Châu, may nhờ có Triệu viên ngọai
đưa lên Ngũ Đài Sơn bái yết Trí Chân trưởng lão, được trưởng lão cho cắt tóc
làm hòa thượng trong chùa. Chẳng may quá chén hai lần làm náo động cửa thiền.
Sư phụ lại phải gửi về chùa Đại Tướng Quốc ở Đôngg Kinh nhờ thiền sư Trí Thanh
cho tiểu đệ một chức sư tăng chấp sự. Tiểu đệ được giao việc coi giữ vườn rau
của chùa Đại Tướng Quốc. Sau vì việc cứu Lâm Xung, bị tên Cao thái úy bức hại
nên phải trốn tránh làm nghề lạc thảo, sau may đựợc gặp đại huynh. Từ đó đến
nay đã mấy năm, tiểu đệ vẫn một lòng nhớ truởng lão nhưng chưa có dịp về thăm.
Tiểu đệ vẫn ghi nhớ lời trưởng lão nói rằng tiểu đệ tuy có tính hay giết người
đốt nhà, nhưng về sau chân thân ắt được chính quả. Nay nhân lúc thái bình vô
sự, tiểu đệ xin phép đại huynh cho nghỉ vài ngày để về Ngũ Đài Sơn thăm chùa,
nghe thuyết pháp. Tiểu đệ đi chuyến này xin đem theo số vàng lụa được ban
thưởng từ trước đến nay nộp vào chùa làm của bố thí, sau nữa cũng là để xin sư
phụ chỉ giáo cho biết sự việc sau này. Đại huynh cứ dẫn quân mã đi trước, tiểu
đệ xin đuổi kịp theo ngay.
Tống Giang nghe nói ngạc nhiên, suy
nghĩ một lúc rồi nói:
- Vị Phật sống ấy ở gần đây thế mà
hiền đệ không nói sớm để anh em cùng đến lễ chùa, xem sư phụ chỉ giáo cho biết
hậu vận của anh em ta thế nào.
Tống Giang nói việc ấy với mọi
người, ai cũng xin đi, chỉ có Công Tôn Thắng là người tu hành bên Đạo giáo nên
không cùng đi. Tống Giang lại bàn riêng với quân sư Ngô Dụng: "để bốn
người là Kim Đại Kiên, Hoàng Phủ Đoan, Tiêu Nhượng và Nhạc Hoà ở lại cùng phó
tien phong Lư Túân Nghĩa chuẩn bị cho quân lên đường. Anh em ta chỉ đưa theo
một nghìn quân đi cùng Lỗ Trí Thâm đến bái yết Trí Chân trưởng lão. Bàn bạc xong,
mọi người đều lui về. Tống Giang cho sắp xếp hương thơm, vóc lụa, quần áo, vàng
bạc để lên đường đi Ngũ Đài Sơn. Đúng là:
Tạm rời yên cương giáp mã
Du lãng thiền lâm chốn xa
Mưa hoa rắc đầy lối
Cao tăng đi ngang qua
Theo chân vào nhà pháp
Dâng hương Phật Thích Ca
Chỉ biết rằng:
Tiễn trình chỉ rõ đường danh lợi
Pháp ngữ suy ra cửa tử sinh.
Chưa biết Tống Giang cùng Lỗ Trí
Thâm đi lễ chùa ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 90 -
Núi Ngũ Đài, Tống Giang Đi Lễ Phật
Đang nói chuyện Trí Chân trưởng lão
tu hành trên núi Ngũ Đài có tiếng là đức Phật sống ở thời Tống bấy giờ. Trưởng
lão hay biết cả việc quá khứ và việc tương lai. Từ mấy năm trước, Trí Chân
trưởng lão biết rõ Lỗ Trí Thâm này sẽ có chính quả, chỉ hiềm tục duyên chưa
dứt, còn nặng nợ sát sinh, nên hãy để cho một phen long đong nơi trần thế. Vốn
có lúc căn từ kiếp trước, Lỗ Trí Thâm vẫn giữ được đạo tâm, hôm ấy chợt có ý
muốn về lễ chùa nghe sư phụ thuyết pháp. Tống Công Minh sẵn có thiện tâm, nhân
dịp ấy cũng muốn cùng Lỗ Trí Thâm đến lễ chùa yết kiến trưởng lão.
Hôm ấy Tống Giang và các tướng chỉ
đưa theo một ít quân mã tuỳ tòng cùng đi với Lỗ Trí Thâm. Đến chân núi Ngũ Đài,
Tống Giang sai dựng trại cho quân sĩ nghỉ ngơi rồi cho người lên chùa báo tin.
Tống Giang và các tướng đều thay mặc thường phục, đi bộ lên núi. Vừa đến trứơc
cổng chùa đã nghe bên trong tiếng trống dóng chuông khua, rồi các sư đều ra
cổng ngoài đón tiếp, chắp tay vái chào Tống Giang, Lỗ Trí Thâm và các đầu lĩnh
cùng đi. Trong số các sư ra đó, có nhiều người nhận ra Lỗ Trí Thâm, lại thấy
đoàn đông các vị đầu lĩnh ấy hàng ngũ chỉnh tề theo sau Tống Giang, các nhà sư
đều ngạc nhiên. Nhà sư thủ toà gian chùa ngoài đến thưa với Tống Giang:
- Trưởng lão hiện đang tọa thiền
nhập định, chưa tiếp kiến ngay được, xin tướng quân chớ làm kinh động.
Nói đoạn mời Tống Giang và các đầu
lĩnh vào phòng khách ngồi nghỉ. Trà nước xong người hầu vào thưa:
- Trưởng lão thiền định đã xong,
hiện đang đợi ở nhà phương trượng, xin mời tướng quân vào.
Tống Giang và hơn trăm đầu lĩnh đều
theo đến nhà phương trượng yết kiến Trí Chân trưởng lão. Trưởng lão trông thấy
vội xuống dưới thềm đón tiếp, mời tất cả Tống Giang và hơn trăm đầu lĩnh đều
theo đến nhà phương trượng yết kiến Trí Chân trưởng lão. Trưởng lão trông thấy
vội xuống dưới thềm đón tiếp, mời tất cả cùng lên. Chủ khách thi lễ đã xong,
Tống Giang ngước thấy vị hoà thượng ấy trạc ngoài sáu mươi, mày tóc bạc trắng,
cốt cách thanh tao, tướng mạo uy nghi đường bệ. Mọi người đã lên cả trên nhà
phương trượng. Tống Giang mời Trí Chân trưởng lão ngồi ghế thượng tọa rồi thấy
hương làm lễ bái kiến. Các đầu lĩnh xếp hàng cùng lạy. Lễ xong, Lỗ Trí Thâm lại
bước lên dâng hương lạy chào riêng. Trí Chân trưởng lão nói:
- Đồ đệ ra đi đã mấy năm nhưng tính
hay đốt nhà giết người xem ra vẫn chưa bỏ được.
Lỗ Trí Thâm lặng thinh không dám
đáp. Tống Giang bước lên đỡ lời:
- Bấy lâu từng được nghe tiếng đức
thanh cao của trưởng lão, chẳng may tục duyên phận mỏng chưa được bái yết tôn
nhân. Nay anh em chúng tôi phụng chiếu triều đình đi đánh giặc Liêu về qua đây,
được yết kiến trưởng lão, thật là phúc lớn trong đời. Hiền đệ Trí Thâm đây quả
có chuyện đốt nhà giết người, nhưng vốn lòng trung nghĩa không dám tàn hại
lương dân, hôm nay Trí Thâm hiền đệ đưa bọn anh em chúng tôi cùng đến kính thăm
sư phụ.
Trí Chân trưởng lão đáp:
- Các vị cao tăng thường đến đây
cùng bần đạo luận bàn thế sự, nhờ thế bần đạo được biết lâu nay tướng quân thay
trời hành đạo, lấy trung nghĩa làm gốc cõi tâm. Đồ đệ Trí Thâm theo giúp tướng
quân thì có gì sai trái!
Tống Giang nghe xong cảm tạ trưởng
lão hồi lâu.
Lỗ Trí Thâm lấy gói vàng bạc vóc lụa
đem dâng lên sư phụ. Trí Chân trưởng lão nói:
- Này đồ đệ, những thứ này ở đâu ra?
của phi nghĩa ta quyết không thu nhận!
Lỗ Trí Thâm thưa:
- Đệ tử có chút công lao, mấy lần
được ban thưởng nhưng không dùng đến, đệ tử dành góp lại, nay xin dâng lên sư
phụ để dùng vào việc chung của nhà chùa.
Trưởng lão nói:
- Việc chung cũng không cần đến, ta
sẽ mua riêng cho đồ đệ một bộ kinh để sớm tối tụng niệm cho tiêu trừ tội ác,
sớm thành chính quả.
Lỗ Trí Thâm lạy tạ hồi lâu. Tống
Giang cũng lấy vàng bạc vóc lụa đưa biếu trưởng lão, trưởng lão một mực từ
chối. Tống Giang thưa:
- Sư phụ nhất định không chịu thu
nhận, vậy xin phép được sai khố ti sửa soạn bữa tiệc chay để cúng hiến tăng ni
trong chùa.
Hôm ấy anh em Tống Giang ngủ đêm ở
chùa Ngũ Đài Sơn. Trí Chân trưởng lão sai dọn cơm chay tiếp đãi, việc không có
gì phải nói.
Ngày hôm sau, khố ti sửa soạn tiệc
chay đã xong, Trí Chân trưởng lão sai điểm chuông gõ trống gọi tất cả tăng ni
lên nhà giảng kinh nghe thuyết pháp. Chỉ một lát các sư ni lần lượt đến đông
đủ, người nào cũng cầm theo một chiếc ghế thấp vào ngồi trong nhà giảng kinh.
Tống Giang, Lỗ Trí Thâm và các đầu lĩnh sắp hàng hai bên. Theo nhịp khánh mở
đầu cuộc lễ, hai sư bác x ach hai ngọn đèn lồng bọc lụa đỏ đi hai bên dìu
trưởng lão lên bệ giảng kinh. Trưởng lão Trí Chân đứng trên bệ, đốt hương chúc
niệm: "nén hương thứ nhất xin cầu chúc cho hoàng thượng thánh thọ vô
cương, muôn dân được yên cư lạc nghiệp. Nén thứ hai xin cầu nguyện cho trai chủ
hôm nay được vui vẻ bình an, tuổi thọ thêm dài. Nén thứ ba cầu chúc cho nước
nhà yên ổn chúng dân hưởng thái bình, mưa hoà gío thuận, mùa màng tươi tốt, tam
giáo đều hưng thịnh, bốn phương yên lành.
Chúc niệm xong, Trí Chân trưởng lão
ngồi xuống ghế giảng kinh, còn các tăng ni xong lễ vấn tấn vẫn đứng yên như cũ.
Tống Giang cầm hương bước lên vái lễ rồi chắp tay trước ngực thưa:
- Đệ tử thường nghe nói: "Kiếp
phù sinh có hạn mà bể khổ vô bờ, thân phận con người nhỏ mọn mà việc tử sinh
coi là chuyện lớn nhất trên đời". Dám mong được sư phụ chỉ giáo cho.
Trí Chân trưởng lão bèn đọc một bài
kệ đáp:
Lục căn trói buộc lâu năm
Tứ đại giềng chân đã lắm
Đá loà chớp lửa ầm ầm
Thây rụng xương tan thê thảm
Thế giới bao la rộng lớn
Chúng sinh bùn đất bết lầm.
Trưởng lão đọc xong bài kệ, Tống Giang lạy tạ rồi lui về
đứng chỗ cũ. Sau đó các đầu lĩnh cầm hương vái lễ, cùng đồng thanh thề:
"cầu cho anh em chúng tôi được cùng sống, cùng chết, lúc nào cũng có
nhau".
Lễ cầu hương đã xong, các tăng ni đều đến nhà Vân Đường
dự tiệc chay. Mọi người ăn uống đã xong, Tống Giang và Lỗ Trí Thâm theo Trí
Chân trưởng lão về nhà phương trượng. Tối hôm ấy ngồi hầu chuyện trưởng lão,
Tống Giang nói:
- Đệ tử và hiền đệ Lỗ Trí Thâm vẫn muốn ở hầu sư phụ thêm
vài hôm để đuợc chỉ giáo cho điều tăm tối u mê, nhưng vì phải thống lĩnh đại
quân, không dám nấn ná ở lại. Lời kệ ngũ sư phụ ban cho hôm nay đệ tử quả thật
chưa hiểu rõ. Nay sắp bái từ sư phụ về kinh, không biết việc tiền trình của anh
em đệ tử ra sao, cúi mong sư phụ cho lời dạy bảo.
Trí Chân trưởng lão sai lấy giấy bút viết bài kệ bốn câu
như sau:
Đương phong nhạn ảnh phiên
Đông khuyết bất đoàn viên
Chỉ nhãn công lao túc
Song Lâm phúc thọ tuyển
Trời cao bóng nhạn vờn
Cung khuyết chẳng đoàn viên
Hễ thấy công lao đủ
Song Lâm phúc vẹn tuyền.
Viết xong, trưởng lão cầm đưa cho Tống Giang, nói:
- Bài kệ này nói đến việc cả đời của tướng quân. Tướng
quân cứ giữ kín, sau sẽ thấy ứng nghiệm.
Tống Giang xem hết vẫn không hiểu, hỏi lại Trí Chân
trưởng lão:
- Đệ tử ngu muội không hiểu lời thiền ngữ, xin sư phụ
giải thích để đệ tử khỏi băn khoăn nghĩ ngợi.
Trưởng lão nói:
- Đấy là lời ẩn ngữ can hệ đến cơ thiền, tướng quân phải
suy ngẫm tự hiểu, chứ không thể nói rõ.
Nói đoạn trưởng lão gọi Lỗ Trí Thâm lại gần căn dặn:
- Đồ đệ đi chuyến này chắc không còn gặp lại ta: có lẽ ta
sắp đến gần chính quả! nay cho ngươi bài kệ bốn câu nói việc tiến trình của
ngươi, hãy cất giữ để trọn đời suy nghiệm.
Bài kệ viết:
Phùng hạ nhi cầm
Ngô lạp nhi chấp
Thích triều nhi viện
Kiến tín nhi tịch
Gặp Hạ thì bắt
Gặp Lạp thì giữ
Nghe triều thì viên
Thấy sóng thì tịch.
Lỗ Trí Thâm lạy nhận bài kệ, đọc đi đọc lại mấy lần mới
xếp cất trong người, rồi lạy tạ sư phụ lần nữa. Anh em Tống Giang nghỉ thêm một
đêm trên chùa Ngũ Đài Sơn.
Sáng hôm sau, Tống Giang, Lỗ Trí Thâm cùng Ngô Dụng và
các đầu lĩnh đến từ biệt Trí Chân trưởng lão trở về doanh trại. Trí Chân trưởng
lão và các tăng ni theo tiễn đưa đến tận cổng ngoài mới quay lại.
Không nói việc Trí Chân trưởng lão và các tăng ni đi tiễn
trở về. Kể tiếp chuyện Tống Giang và các đầu lĩnh đến doanh trại dứới núi Ngũ
Đài Sơn liền hạ lệnh cho quân sĩ nhổ trại gấp rút trở về. Đến trước doanh trại
đã thấy bọn Lư Tuấn Nghĩa, Công Tôn Thắng ra tiếp đón. Mọi người cùng nhau trò
chuyện vui vẻ. Tống Giang kể lại cho bọn Lư Tuấn Nghĩa nghe chuyện các anh em
đầu lĩnh đã cùng nhau đốt hương chung thề trên chùa Ngũ Đài Sơn. Lại lấy bài
thơ thiền ngữ đưa cho Lư Tuấn Nghĩa và Công Tôn Thắng cùng xem nhưng cũng chẳng
ai hiểu gì.
Tiêu Nhượng nói:
- Lời thiền bí ẩn, anh em bọn ta hiểu sao được!
Ai nấy đều kinh lạ.
Tống Giang truyền lệnh đốc thúc quân mã lên đường. Các
tướng được lệnh liền gấp rút cho ba quân xuất phát, thẳng hướng trở về Đông
Kinh. Quân lính không mảy may đụng chạm đến tài sản của dân những vùng đi qua.
Dân chúng già trẻ dắt dìu nhau đi xem quân đội của nhà vua. Thấy Tống Giang và
các tướng uy nghi lẫm liệt, ai nấy đều trầm trồ thán phục.
Quân Tống Giang đã đi mấy ngày đường, hôm ấy đi qua Song
Lâm trấn. Dân trong trấn cùng dân các làng lân cận đều kéo đến xem. Anh em Tống
Giang xếp hàng đôi, sánh cương ngựa đi qua. Hàng quân đang tiến, bỗng một đầu
lĩnh từ trên ngựa nhảy xuống chạy đến kéo tay một người trong đám dân chúng
đang đứng bên vệ đường reo to:
- Đại huynh sao lại ở đây!
Hai người chào hỏi, chuyện trò với nhau. Tống Giang đến
gần thấy Lãng Tử Yến Thanh đang nói chuyện với một người. Yến Thanh chắp tay
nói:
- Hứa đại huynh, đây chính là Tống tiên phong.
Tống Giang thấy tướng mạo người ấy có phần cổ quái, nhưng
phong thái ung dung nhã nhặn, vội xuống ngựa cúi chào:
- Mong được biết quý danh của cao sĩ!
Người khách lạ thấy Tống Giang liền quỳ xuống vái lạy,
nói:
- Từng nghe đại danh đã lâu, nay mới được yết kiến!
Tống Giang đáp lễ không kịp, vội đỡ người ấy đứng dậy,
nói:
- Tống Giang tôi không dám làm phiền cao sĩ!
Người kia nói:
- Tiểu nhân họ Hứa, tên Quán Trung, tổ phụ vốn quê ở phủ
Đại Danh, đến ngụ cư ở nơi sơn dã này. Ngày trước Hứa tôi từng kết bạn với
tướng quân Yến Thanh, xa nhau đã hơn mười năm. Về sau lênh đênh trên sông nước,
nghe nói Yến huynh tìm đến dưới cờ của tướng quân, Hứa tôi thật mát lòng hởi
dạ. Nay nghe tin tướng quân đại phá giặc Liêu trở về, Hứa tôi đón đường ngóng
trông, được thấy chư vị anh hùng thật vô cùng may mắn. Nay Hứa tôi muốn mời Yến
huynh đến tệ xá nghỉ chân, anh em cùng nhau trò chuyện, không biết tướng công
có ưng thuận không?
Yến Thanh cũng thưa:
- Tiểu đệ với Hứa huynh đây xa cách đã lâu, bất ngờ được
gặp lại, Hứa huynh có nhã ý như vậy, tiểu đệ cũng xin tướng quân cho phép theo
Hứa huynh về ở chơi ít ngày. Đại huynh cùng các tướng quân cứ đi trước, tiểu đệ
xin đuổi theo sau.
Tống Giang chợt nẩy ra một ý liền nói:
- Này hiền đệ Yến Thanh, ta thường nghe nói Hứa tiên sinh
là bậc anh hùng quả cảm, Tống Giang này chỉ giận mình phận mỏng không có duyên
tương ngộ. Nay gặp Hứa đại huynh có lòng thương yêu hiền đệ, chi bằng ta mời
Hứa đại huynh cùng đi để được nghe lời chỉ giáo.
Hứa Qúan Trung từ tạ nói:
- Biết tướng quân là người trung
nghĩa, khảng khái, Hứa tôi vẫn ao ước từ lâu được đi theo tướng quân, hiềm vì
còn có mẹ già ngoài bảy mươi nên không dám đi xa.
Tống Giang nói:
- Nếu quả như vậy Tống Giang tôi
không dám nài ép.
Đoạn quay lại nói với Yến Thanh:
- Hiền đệ đi chóng mà về cho kịp,
chớ để anh em ta mong. Vả lại về đến kinh đô còn phải thu xếp để sớm vào triều
kiến.
Yến Thanh đáp:
- Tiểu đệ không dám sai lệnh của đại
huynh!
Rồi Yến Thanh đi tìm Lư Tuấn Nghĩa
để báo tin và tạm biệt Lư Tuấn Nghĩa.
Tống Giang lên ngựa đi tiếp. Các đầu
lĩnh đi được một quãng quá tầm tên bắn, thấy Tống Giang đứng nói chuyện với Hứa
Qúan Trung thì đều dừng ngựa đứng chờ. Tống Giang thúc ngựa đuổi kịp, lại cùng
các đầu lĩnh tiến về phía trước.
Tiếp đây chuyện kể theo hai mối.
Yến Thanh gọi một quân sĩ tuỳ tòng
thân tín đi theo mang hành lý, cho lấy thêm ngựa, nhường con tuấn mã của mình
cho Hứa Quán Trung. Đến một quán rượu gần đó, Yến Thanh cởi xếp giáp phục, mặc
quần áo thường. Hai người cùng lên ngựa, người lính hầu khoác bao hành lý theo
sau. Ra khỏi trấn Song Lâm, ba người theo con đường nhỏ đi về phía tây bắc. Đi
qua vài làng xóm, lại vượt mấy cánh rừng, đằng trước là con đường núi hẻo lánh
quanh co. Hai người đóng ngựa vừa đi vừa kể lại tình bạn ngày xưa, nói cả những
ý nghĩ vẫn giấu kín trong lòng. Ra khỏi đường vách núi, vòng theo con suối lớn,
đi chừgn ba mươi dặm nữa, Hứa Quán Trung chỉ tay nói:
- Nhà tranh của tiểu đệ ở dãy núi
cao kia!
Lại đi hơn mười dặm nữa mới đến nơi.
Quả lả một vùng non xanh nước biếc, phong cảnh khác thường, Yến Thanh mãi nhìn
cảnh núi, bất giác bóng chiều đã ngả về tây.
Ngọn núi này gọi là núi Đại Phi, đời
thượng cổ vua Vũ nhà Hạ khơi sông trị thuỷ từng đi qua vùng này. Kinh Thư có
câu: "Chi vu Đại Phi" quả có di tích này chứng thực. Vùng núi này
ngày nay ở vào địa phận huyện Túân thuộc phủ Đại Danh, việc ấy không cần nói
đến.
Kể tiếp chuyện, Hứa Quán Trung dẫn
Yến Thanh đi vòng qua mấy ngọn núi vào sâu một lũng hẻm có bãi cát bằng rộng
chừng ba bốn dặm. Từ xa trông thấp thoáng mấy khu nhà khuất sau lùm cây, lại có
mấy nếp nhà tranh chếch về hướng cổng khép hờ. Một vùng sau trước tốt tươi,
rặng phong đỏ ối, thông xanh tùng biếc chen màu.
Hứa Quán Trung chỉ tay nói với Yến
Thanh:
- Nhà tiểu đệ ở nơi đó!
Yến Thanh nhìn qua hàng giậu, thấy
một đứa trẻ đầu tóc đỏ hoe, mặc chiếc áo bán thân đang lúi húi nhặt củi khô chất
lên bờ hè. Nghe tiếng vó ngựa, tiểu đồng vội ngẩnh nhìn, kinh ngạc thốt lên:
"quái lạ, ngựa nào qua đây thế?" Nhìn kỹ thấy chủ nhà cưỡi ngựa đi
sau, tiểu đồng vội chạy ra cổng vòng tay đứng ngây mà nhìn. Nguyên lúc sửa soạn
lên đường, Hứa Qúan Trung bảo không cần đạc ngựa, vì thế gần đến nơi người nhà
mới biết.
Hai người xuống ngựa đi vào. Người
lính hầu buộc ngựa bên gốc cây. Quán Trung và Yến Thanh vào nhà chia ngôi chủ
khách cùng ngồi. Trà nước xong, Quán Trung bảo người lính hầu tháo yên cương
dắt ngựa ra nhà sau, sai tiểu đồng đi cắt cỏ cho ngựa rồi mời người lính hầu
vào nghỉ trong buồng xép. Liền đó Yến Thanh vào chào thăm sức khỏe thân mẫu
Quán Trung. Quán Trung cầm tay Yến Thanh dắt sang gian buồng chếch về phía tây.
Đẩy cửa sổ nhìn ra, bên ngoài là dòng suối nước trong như lọc, hai người ngồi
dựa lưng bên bậu cửa.
Quán Trung nói:
- Nhà của tiểu đệ chật hẹp, mong
huynh trưởng đừng cười.
Yến Thanh đáp:
- Nhân huynh ở nơi non xanh nước
biếc, tiểu đệ dẫu muốn cũng khó lòng theo kịp!
Qúan Trung hỏi Yến Thanh về việc đi
đánh giặc Liêu. Một lúc sau, tiểu đồng khép cửa thắp đèn đưa lên, thu dọn bàn
ghế bày ra năm sáu bát thức ăn, lại bưng thêm một đĩa thịt gà, một đĩa cá rán
và trái thơm quả lạ nơi rừng núi, sau hết mới rót rượu vào bình đem hâm. Quán
Trung rót chén rượu nóng đưa mời Yến Thanh, nói:
- Tiểu đệ mời nhân huynh quá bộ đến
tệ xá mà chỉ có rượu quê rau rừng, tiểu đệ thật có lỗi!
Yến Thanh đỡ lời nói:
- Chớ bầy vẽ phiền phức mới thật
tình anh em.
Rượu cạn mấy tuần, ngoài song trăng
soi vằng vặc. Yến Thanh đẩy cửa nhìn ra, phong cảnh thật hữu tình: gió nhẹ mây
cao, suối trong lồng bóng núi, ánh nguyệt hắt đầy thềm. Yến Thanh không ngớt
lời ca ngợi, nói:
- Ngày trước ở phủ Đại Danh, bọn ta
thật tâm đầu ý hợp. Từ khi nhân huynh đăng trường thi võ cử, anh em không gặp
lại nhau, hay đâu nhân huynh tìm đến chốn này, thật là một nơi thanh u nhã
cảnh! còn như tiểu đệ theo việc chính chiến, nay đây mai đó chưa từng được một
ngày rảnh rỗi.
Qua n Trung cười đáp:
- Tống Công Minh cùng quý vị tướng
quân là những bậc anh hùng cái thế, ứng mệnh vớii thiên tinh, nay đi đánh dẹp
khuất phục được cường địch. Hứa tôi chẳng qua như con ốc sên ẩn náu nơi rừng
hoang núi vắng, dám đâu sánh với các đại huynh. Tính Hứa tôi không hợp thời
nay, thấy bè đảng quyền thần gian nịnh lừa dối triều đình, Hứa tôi buồn chán
không còn ham thiết công danh, chỉ thích ngao du sơn thủy.
Nói đoạn cười ha hả, nâng chén uống
cạn lại rót thêm. Yến Thanh lấy ra hai chục lạng bạc đưa biếu Quán Trung, nói:
- Có món quà mọn, gọi chút lòng
thành của tiểu đệ.
Qúan Trung một mực từ chối không
nhận. Yến Thanh lại lựa lời khuyên Quán Trung:
- Nhân huynh là người có tài năng
thao lược, chuyến này nên cùng tiểu đệ về kinh sư tìm đường xuất thân.
Qúan Trung thở dài đáp:
- Thời nay, bọn tà gian điều hành
chính sự, ghen ghét kẻ hiền tài, rặt những quỷ quái yêu ma đeo đai đội mũ, còn
những kẻ trung lương ngay thẳng đều bị hãm hại ở chốn lao tù. Tấm lòng của đệ
đã nguội lạnh. Đến ngày công thành danh toại, huynh trưởng cũng nên tìm đường
thoái lui. Từ xưa đã có câu: "chim săn đã hết, cung báu cất đi".
Yến Thanh gật đầu thở dài. Hai người
trò chuyện đến tận nửa đêm mới đi nghỉ.
Sánt hôm sau, rưae mặt mũi xong,
Qúan Trung mời Yến Thanh ăn cơm sáng rồi dẫn đi dạo chơi xem cảnh núi. Yến
Thanh lên cao nhìn ra thấy đèo dốc chập chùng, bốn bên đều núi cao rừng rậm
chưa có dấu chân người, tiếng chim hót khi gần khi xa. Dân ở đây chỉ có độ hơn
hai chục nhà. Yến Thanh nói:
- Cảnh vật nơi đây, Đào Nguyên dễ
đâu sánh kịp!
Yến Thanh mải mê ngắm cảnh núi rừng.
Tối hôm ấy lại nghỉ ở nhà Quán Trung.
Hôm sau, từ biệt Quán Trung lên
đường, Yến Thanh nói:
- Ở lại đây lâu sợ Tống tiên phong
trông đợi, hôm nay xin từ biệt nhân huynh!
Qúan Trung đưa Yến Thanh ra cửa,
nói:
- Huynh trưởng chờ chút đã!
Lát sau tiểu đồng cầm ra một cuộn
giấy, Quán Trung cầm cuộn giấy trao cho Yến Thanh, nói:
- Mấy bức họa vụng về này tiểu đệ
mới vẽ gần đây. Huynh trưởng về đến kinh hãy xem kỹ, ngày sau hoặc giả cũng có
khi dùng đến.
Yến Thanh cảm tạ đưa cuộn tranh cho
người lính hầu cất vào trong bao hành lý. Yến Thanh và Quán Trung tiễn đưa lưu
luyến, lại cùng nhau đi thêm mấy dặm đường. Yến Thanh nói:
- Tiễn đưa dù nghìn dặm, đến lúc
cũng phải xa. Nhân huynh đừng buồn, sau này còn dịp gặp nhau.
Rồi hai người buồn rầu chia tay.
Yến Thanh ngóai lại thấy Hứa Quán
Trung đi đã xa mới gọi lính hầu cùng lên ngựa. Hai người đi mấy ngày đường, đến
Đông Kinh vừa lúc Tống tiên phong đang đóng quân ở trạm Trần Kiều chờ thánh
chỉ. Yến Thanh vào doanh trại yết kiến Tống tiên phong, việc ấy không có gì
phải nói.
Nói tiếp Túc thái uý cùng đội trung
quân của Triệu khu mật về thành từ trước đã tâu lên thiên tử biết công lao của
bọn anh em Tống Giang. Nay nhận được tin báo Tống Giang đưa tướng sĩ hồi kinh,
hiện đã về đến ngoài cửa quan, Triệu khu mật liền vào tâu triều đình, cũng nhắc
lại công lao vất vả của anh em Tống Giang khi hành quân ngoài biên giới. Thiên
tử nghe tâu hết lời khen ngợi, truyền quan hoàng môn thị lang gọi anh em Tống
Giang vào triều kiến, cho phép được mặc giáp phục và mang theo binh khí vào
thành. Tống Giang và các tướng vâng mệnh chỉ, ai nấy đều mặc cẩm bào ngoài chẽn
giáp sắt, lưng đeo đai da, đầu đội mũ trụ, trước ngực đeo thẻ vàng thẻ bạc,
theo cửa Đông Hoa môn vào thành, đến điện Văn Đức triều kiến thiên tử. Các
tướng đều quỳ lạy dưới thềm, tung hô "thiên tử vạn tuế". Thiên tử
nhìn khắp lượt thấy Tống Giang và các tướng khí phách anh hùng lẫm liệt, tất cả
đều mặc nhung y cẩm bào; chỉ có Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Lỗ Trí Thâm và Võ
Tòng mặc thường phục. Thiên tử vui lòng, nói:
- Quả nhân biết các khanh trận mạc
vất vả, tổn lực hao tâm, thương vong cũng nhiều, quả nhân thực lấy làm thương
tiếc.
Tống Giang sụp lạy hai lạy, tâu:
- Đội nhờ hồng phúc của thánh
thượng, bọn hạ thần chúng tướng tuy cũng có kẻ bị thương, nhưng đều được bình
yên vô sự. Nay quân giặc phải đầu hàng, khắp miền biên giới đều được yên ổn,
thật là nhờ uy đức của bệ hạ, đâu phải do công lao của bọn hạ thần.
Nói xong lại sụp đầu lạy tạ. Thiên
tử truyền mệnh cho các quan sảnh viện bàn bạc để phong tước cho bọn Tống Giang.
Thái sư Sái Kinh và quan khu mật Đồng Quán bàn riêng với nhau rồi tâu:
- Việc phong tước cho bọn anh em
Tống Giang, xin thư thả để bọn thần nghĩ kỹ rồi sẽ tâu lên bệ hạ.
Thiên tử chuẩn tâu rồi sai viện
quang lộc sửa soạn bày đại yến, ban thưởng cho Tống Giang một chiếc cẩm bào,
một áo giáp nạm vàng, một con ngựa quý, từ Lư Túân Nghĩa trở xuống đều được
thưởng vàng lụa, tất cả đều dùng ngân quỹ trong nội phủ. Tống Giang và các
tướng sĩ tạ ơn hồi lâu rồi ra khỏi hoàng thành, đi bộ đến ngoài cửa Hoa Môn mới
lên ngựa trở về doanh trại nghỉ ngơi chờ thánh chỉ. Thấm thoát đã hết mấy ngày,
bọn Sái Kinh, Đồng Quán không bàn tính gì đến chuyện phong tước, thực tâm cốt
để anh em Tống Giang phải chờ đợi.
Nói tiếp chuyện Tống Giang nhân lúc
rỗi rãi ngồi đàm đạo với quân sư Ngô Dụng về sự đời hưng vong, được mất xưa
nay, bỗng Đái Tôn và Thạch Tú cùng mặc thường phục vào thưa:
- Bọn tiểu đệ ở doanh trại không có
việc gì buồn lắm, hôm nay xin huynh trưởng cho bọn tiểu đệ ra ngoài chơi một
chuyến.
Tống Giang nói:
- Hai hiền đệ đi chóng về, ta sẽ đợi
để uống với hai hiền đệ dăm chén cho khuây khoả!
Đái Tôn và Thạch Tú ra khỏi trạm
Trần Kiều, lững thững đi về hướng bắc. Qua mấy phố phường chợ búa, chợt thấy
một bia đá to chôn bên vệ đường. Giữa bia có ba chữ lớn: "tạo tự
đài", phía trên có mấy hàng chữ nhỏ đã bị mưa gío bào mòn. Đái Tôn xem kỹ
rồi nói:
- Hoá ra chỗ này là nơi Thương Hiệt
đặt ra chữ viết.
Thạch Tú cười nói:
- Chúng ta chẳng cần đến những thứ
này!
Cả hai người cùng cười rồi lại đi
tiếp. Qua một bãi rộng thấy ngổn ngang những ngói vỡ gạch vụn, phía chính bắc
có một cổng đá cổ. Tấm bia bắc ngang khắc ba chữ lớn: "Bác Lãng
thành". Đái Tôn ngẫm nghĩ rồi nói:
- Thì ra chỗ này Hán Lưu hầu đánh
Tần Thuỷ Hoàng.
Rồi Đái Tôn lại tấm tắc thán phục:
"Lưu hầu thật giỏi". Thạch Tú tiếp lời:
- Chỉ tiếc ngọn chùy ấy lại đánh
trượt!
Hai người lấy làm tiếc vừa đi về
hướng bắc vừa bàn tán, hay đâu cách xa doanh trại đã ngoài hai mươi dặm. Thạch
Tú nói:
- Bọn ta đi chơi đã quá buổi, phải
kiếm chút gì ăn mới được!
Đái Tôn nói:
- Đằng trước có quán rượu đấy!
Hai người vào trong quán chọn chỗ
ngồi bên cửa sổ sáng sủa. Đái Tôn gõ tay lên bàn gọi:
- Cho rượu đây!
Tửu bảo bưng đến năm sáu đĩa thức
ăn, hỏi:
- Hai quan dùng bao nhiêu rượu ạ?
Thạch Tú đáp:
- Cứ cho hai giác đã, để xem món
nhắm có khá không rồi hãy gọi thêm.
Lát sau tửu bảo hâm hai giác rượu
nóng bê lên cùng một đĩa thịt bò, một đĩa thịt dê và đĩa thịt gà tơ. Đái Tôn và
Thạch Tú ngồi nhắm rượu bàn chuyện phiếm, chợt thấy một người chống cán ô, vai
khoác tay nải, áo dài thâm vén cao, lưng buộc bao tượng, đi giày bát tháp bện
bằng gai, xà cạp quấn quá gối, hổn hển mệt mỏi rẽ vào quán. Vào đến nơi liền
vứt ô quăng đẫy, ngồi phịch xuống ghế gọi ngay.
- Mau đưa rượu thịt ra đây!
Tửu bảo bưng ra một giác rượu nóng
và hai ba đĩa mùi rau. Người khách nói:
- Chẳng kể ngon dở gì, có thịt thì
thái đưa ra đây, ta ăn mau còn kịp vào thành đi công cán.
Vừa nói vừa rót rượu uống cạn một
hơi. Đái Tôn đưa mắt nhìn người khách, nghĩ bụng: "gã này là công sai,
không biết có việc gì mà gấp thế?"
Nghĩ đọan liền tới trước mặt người
khách vòng tay lễ phép hỏi:
- Đại ca có việc gì mà gấp thế?
Người ấy vừa nhấp rượu vừa khề khà
nói mấy câu. Chỉ biết:
Tống Công Minh lại lập tiếp kỳ công
Miền Phần, Tẩm sẽ thu về Đại Tống.
Chưa biết người công sai kia nói
điều gì, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 91 -
Tống Công Minh Đưa Quân Vượt Hoàng Hà
Đang nói chuyện Đái Tôn, Thạch Tú
thấy người khách ăn mặc như công sai, bộ dạng hấp tấp vội vàng, Đái Tôn hỏi:
"có việc gì gấp thế?" Người công sai đặt đũa, giơ tay quyệt mép đáp:
- Ngươi không biết Điền Hổ làm loạn
ở Hà Bắc à?
Đái Tôn đáp:
- Chúng tôi cũng có biết.
Người công sai nói:
- Bọn Điền Hổ nổi dậy chiếm châu
huyện, quan quân không chống đỡ nổi. Mới đây bọn chúng lấy được Cái Châu, sớm
muộn thế nào cũng đánh sang Vệ Châu. Dân chúng trong thành ngày đêm lo sợ, kẻ ở
ngoài thành cũng nháo nhác tìm đường lánh nạn, vì thế quan phủ sai tiểu nhân
đưa công văn về cáo cấp với triều đình.
Nói xong liền đứng dậy cầm ô, khóac
tay nải, trả vội tiền rượu đi ngay, ra đến cửa còn thở dài than vản:
- Làm cái chức công sai rõ thật là
bó buộc, hiện giờ cả nhà tôi đều ở trong thành! lạy trời cho quân cứu viện đến
kịp.
Nói đoạn lê bước đi về phía kinh đô.
Đái Tôn, Thạch Tú nghe được tin ấy
cũng trả tiền rượu rồi rời khỏi quán, về doanh trại báo tin cho Tống Giang,
Tống Giang cùng bàn với Ngô Dụng.
- Anh em các tướng chúng ta nhàn rỗi
ở đây cũng không tiện lắm, chi bằng tâu lên thiên tử xin cho anh em ta được đưa
quân đi đánh dẹp.
Ngô Dụng nói:
- Việc này phải nhờ Túc thái uý tâu
giúp thì mới được.
Liền đó Tống Giang cho mời các tướng
đến bàn bạc, ai nấy đều vui mừng. Ngày hôm sau Tống Giang mặc quan phục dẫn
theo hơn chục quân kỵ đi vào thành, đến cửa phủ Túc thái uý thì xuống ngựa. Gặp
lúc Túc thái uý có mặc ở phủ, Tống Giang sai người vào báo tin. Túc thái uý
nghe nói vội sai mời vào.
Tống Giang lên thềm lạy chào, Túc
thái uý hỏi:
- Tướng quân đến chắc có việc gì?
Tống Giang đáp:
- Xin thưa ân tướng thái uý, Tống
Giang tôi nghe tin bọn Điền Hổ ở Hà Bắc làm phản, chiếm cứ các châu huyện, thay
đổi niên hiệu, hiện đã xâm phạm đến Cái Châu, sớm muộn cũng đến đánh Vệ Châu.
Bọn Tống Giang chúng tôi quân mã bấy lâu ở rỗi, nay xin tình nguyện đưa quân đi
tiễu trừ để được dịp dốc tận lòng trung báo đền ơn nước. Cúi mong ân tướng thái
iuý bảo tâu giúp cho!
Túc thái uý nghe thế cả mừng, nói:
- Chư vị tướng quân thật có lòng
trung nghĩa, lần này lại tự nguyện ra sức giúp nước, Nguyên Cảnh tôi xin hết
sức tâu bầy lên thiên tử.
Tống Giang cảm tạ nói:
- Anh em Tống Giang tôi đội ơn thái
uý đã nhiều, tuy rằng khắc cốt ghi tâm nhưng thật chưa biết lấy gì báo đáp!
Túc thái uý sai dọn rượu tiếp đãi.
Chiều tối Tống Giang mới trở về doanh trại thuật lại cho các đầu lĩnh cùng
biết.
Lại nói sáng sớm hôm sau Túc thái uý
vào triều kiến thiên tử ở điện Phi Hương, gặp lúc quan sảnh viện đang tâu về
việc Điền Hổ ở Hà Bắc làm phản, đã chiếm được năm mươi sáu huyện trong năm phủ,
thay đổi niên hiệu, tiếm xưng vương, hiện giờ bọn chúng đang đánh đến Lăng
Xuyên, tri phủ Hoài Châu là Chấn Lân đệ trình biểu văn về cáo cấp. Thiên tử
nghe tâu cả kinh, bèn hỏi quan văn võ:
- Các khanh ai có thể giúp quả nhân
cầm quân tiễu trừ bọn giặc ấy?
Túc thái uý đứng trong hàng quan bồi
tụng cầm thẻ giơ trước ngực, quỳ xuống tâu:
- Thần nghe nói bọn Điền Hổ giơ gậy
làm cờ, tụ tập dân chúng, bây giờ thế lực lớn mạnh như đốm lửa cháy đồng, nếu
không có binh hùng tướng mạnh thì khó lòng đánh đựơc. Tống tiên phong đánh
thắng giặc Liêu trở về hiện đang đóng quân ở ngoài thành, xin bệ hạ xuống chiếu
sai đội quân người ngựa hùng mạnh ấy đi đánh dẹp, ắt sẽ thành công.
Thiên tử nghe tâu cả mừng, liền sai
quan sảnh viện phụng chỉ đến doanh trại truyền gọi Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa
vào điện Phi Hương triều kiến. Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa vào cung lạy chào đã
xong, thiên tử nói:
- Trẫm biết các khanh là kẻ anh hùng
trung nghĩa, nay trẫm ban sắc chỉ sai các khanh đi dẹp loạn ở Hà Bắc, các khanh
chớ nề hà lao khổ, mau thắng trận trở về, trẫm sẽ vui lòng thăng thưởng cho các
khanh.
Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa rập đầu
tâu:
- Bọn hạ thần đội ơn thánh thượng
giao phó, dám đâu không hết sức dốc lòng, thà chết không tiếc thân!
Thiên tử rất hài long, ban sắc chỉ
phong cho Tống Giang chức "Bình bắc chánh tiên phong", Lư Tuấn Nghĩa
chức "Phó tiên phong". Hai người được ban ngự tửu, mỗi người đựợc ban
một áo cẩm bầo, một đai vàng, một giáp vàng, một tấm vóc, các đầu lĩnh tả hữu
đều được ban mỗi người một tấm lụa, một nén bạc, đợi khi dẹp yên giặc trở về sẽ
luận công thăng thưởng, gia phong quan tước. Các quan nội phủ vâng mệnh trích
xuất công khố cho các đầu lĩnh ba quân. Ngày tháng đưa quân lên đường cũng đã
định sẵn. Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa tạ thụ ân, vâng lĩnh thánh chỉ, cáo từ
lui ra rồi lên ngựa trở về doanh trại. Tống Giang về đến trướng quân liền cho
họp các tướng truyền lệnh sửa soạn giáp mã, chuẩn bị lên đường đi đánh Điền Hổ.
Ngày hôm sau đem số lụa và bạc nhận
ở nội phủ theo thứ tự phân phát cho các đầu lĩnh ba quân. Tống Giang cùng Ngô
Dụng bàn định, rồi hạ lệnh cho các đầu lĩnh thủy quân chỉnh đốn chíến thuyền đi
trước, theo đường sông Biện Hà vào sông Hoàng Hà, đến địa giới huyện Nguyên Vũ
thì dừng lại, chờ đại quân đến chở người ngựa qua sông. Các đầu lĩnh quân kỵ
cũng nhận lệnh chỉnh đốn quân mã để thuỷ lục hai đường cũng tiến sẵn sàng đưa
quân dời kinh.
Lại nói Điền Hổ sinh sống bằng nghề
săn bắn ở huyện Tẩm Nguyên châu Uy Thắng, vốn là kẻ sức vóc hơn người, giỏi võ
nghệ, chuyên kết giao với hạng du thủ du thực quanh vùng. Vùng này vốn là nơi
núi non trùng điệp, tụ họp dễ dàng, lại gặp lúc hạn hán, liên tiếp mất mùa, dân
tình đói khổ, lòng người sinh chuyện phản loạn. Điền Hổ nhân dịp ấy tụ tập những
kẻ lang thang, phao tin đồn nhảm làm mê hoặc dân chúng. Mới đầu bọn chúng kéo
nhau đi cướp bóc của cải, sau đánh chiếm cả châu huyện, quan quân yếu thế không
dám chống cự. Điền Hổ chỉ là kẻ đi săn, do đâu mà hoành hành ngang ngược như
vậy? Vì lẽ rằng: lúc bấy giờ bọn văn quan thì tham tiền hám của, bọn võ tướng
thì hèn nhát lo thân, các châu huyện tuy có quân lính đóng giữ, nhưng kỳ thực
nội tình suy yếu; hoặc là có một tên thì khai thành hai ba để lấy binh lương,
hoặc có kẻ muốn cho người nhà được nhàn thân không bị trưng binh thì đem nộp
hơn chục lạng bạc mua một suất lính, rồi cứ hàng tháng nhận lương về dùng. Khi
quan trên về điểm danh thao luyện thì thuê người đứng vào cho đủ số, trên dưới
một giuộc che giấu cho nhau, không ai biết đâu mà bắt bẻ. Nhà nước cứ thế tiêu
phí lương tiền mà không được thực dụng. Bọn lính ấy khi lâm trận không biết cầm
giáo đánh nhau, hễ thấy phía trứớc bụi tung pháo nổ thì cắm đầu bỏ chạy, oán
giận cha mẹ chỉ sinh cho mình có hai chân! bấy giờ cũng từng có mấy viên quan đưa
binh mã đến đánh dẹp Điền Hổ, nhưng chẳng dám tiến trước, chỉ lẽo đẽo theo sau
quân sĩ, chạy bên đông vòng bên tây để hư trương thanh thế, thậm chí còn giết
cả dân làng để mạo xưng công. Dân chúng vì thế càng thêm oán ghét, theo về với
giặc để tránh họa quan quân. Chính bởi lẽ ấy mà năm châu quận, tất cả là năm
mươi sáu huyện bị mất về tay Điền Hổ. Năm châu ấy là: châu Uy Thắng, nay là Tẩm
Châu; châu Phần Dương, nay là Phần Châu; châu Chiêu Đức, nay là châu Lộ An;
châu Tấn Ninh, nay là châu Bình Dương; Cái Châu, nay là Trạch Châu. Tất cả năm
mươi sáu huyện đều thuộc địa hạt cai quản của năm châu ấy. Điền Hổ lập cung
điện ở châu Phần Dương, cũng đặt các chức quan văn trong triều tướng võ ngoài
quân, chiếm cứ một phương trời tự xưng là Tấn Vương, sai phái tinh binh mãnh
tướng đem quân đóng giữ những nơi núi sông hiểm trở. Nay quân Điền Hổ chia làm
hai ngả, sắp kéo đến xâm phạm Vệ Châu.
Lại nói Tống Giang đúng ngày đã định
đưa quân lên đường, trước khi đi vào thành cáo từ các quan ở sảnh viện. Túc
thái uý thân hành đi tiễn, Triệu khu mật vâng mệnh chỉ đến tận doanh trại khao
thưởng ba quân. Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa cảm tạ từ biệt Túc thái uý và Triệu
khu mật, chia quân theo ba đội lên đường, năm viên hổ tướng và tám viên phiêu
kỵ tướng quân dẫn quân mã đi đầu.
Năm viên hổ tướng ấy là: Đại đao
Quan Thắng, Báo tử đầu Lâm Xung, Tích lịch hoả Tần Minh, Song tiên Hô Diên
Chước, Song thương tướng Đổng Bình.
Tám viên tướng phiên kỵ ấy là: Tiểu
lý Quảng Hoa Vinh, Kim thương thủ Từ Ninh, Thanh diện thú Dương Chí, Cấp tiên
phong Sách Siêu, Một vũ tiễn Trương Thanh, Mỹ nhiêm công Chu Đồng, Cửu văn long
Sử Tiến, Một già lan Mục Hoằng.
Sai mười sáu viên bưu tướng đi hậu
đội. Mười sáu viên bưu tướng ấy là: Trấn tam sơn Hoàng Tín, Bệnh uý trì Tôn
Lập, Xú quận mã Tuyên Tán, Tỉnh mộc hãn Hách Tư Văn, Bách thắng tướng Hàn Thao,
Thiên mục tướng Bành Kỷ, Thánh thủy tướng quân Đàn Đình Khuê, Thần hoả tướng
quân Nguỵ Định Quốc, Ma vân kim si Âu Bằng, Hoả nhãn toan nghê Đặng Phi, Cẩm
mao hổ Yến Thuận, Thiết địch tiên Mã Lân, Khiêu giản hổ Trần Đạt, Bạch hoa xà
Dương Xuân, Cẩm báo tử Dương Lâm, Tiểu bá vương Chu Thông.
Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng,
Công Tôn Thắng và các đầu lĩnh khác thống suất đội trung quân. Ngày hôm ấy ba
tiếng pháo hiệu nổ vang, kèn trống tư bừng, đoàn quân rời trạm Trần Kiều nhằm
phía đông bắc tiến phát.
Tống Giang truyền lệnh rất nghiêm
minh, quân ngũ chỉnh tề, những nơi đi qua không mảy may xâm phạm đến tài sản
của dân, việc không phải nói.
Quân mã kéo đến địa giới huyện Vũ
Nguyên, quan huyện ra tận ngoài thành nghênh tiếp. Đội tiền quân báo tin các
đầu lĩnh thuỷ quân đã đưa chiến thuyền đến bên bờ chờ chở đại quân vượt sông
Hoàng Hà. Tống Giang truyền lệnh cho Lý Tuấn và một số đầu lĩnh dẫn sáu trăm
thuỷ binh, chia hai đội chèo thuyền đi hộ tống hai bên; lại trưng dụng thêm một
số thuyền ở địa phương để vận chuyển. Đại quân Tống Giang theo thứ tự lần lượt
sang bờ phía bắc. Tống Giang truyền lệnh cho Lý Tuấn thống lĩnh đoàn chiến
thuyền đến sông Vệ Hà ở Vệ Châu đợi lệnh.
Đội tiền quân của Tống Giang đã đến
Vệ Châu đóng trại. Tri phủ Vệ Châu sắp sẵn tiệc rượu, chờ nghênh tiếp Tống tiên
phong. Tri phủ Vệ Châu nói:
- Bọn giặc Điền Hổ thanh thế rất lớn,
chớ nên xem thường. Trạch Châu hiện giờ thuộc quyền trấn thủ của tên ngụy quân
của Điền Hổ, tên là Nữu Văn Trung, giữ chức khu mật sứ. Nữu Văn Trung sai bộ hạ
là bọn Trương Tường, Vương Cát đem một vạn quân đến đánh huyện Huy thuộc bản
châu; lại sai bọn Thẩm An, Tần Thăng đưa một vạn quân đến đánh huyện Vũ Thiệp
thuộc phủ Hoài Châu. Mong nhờ quân tiên phong cấp tốc đến cứu nguy!
Tống Giang nghe xong, trở về doanh
trại cùng Ngô Dụng bàn bạc đem quân đi cứu ứng. Ngô Dụng nói:
- Lăng Xuyên là nơi hiểm yếu của phủ
Cái Châu, chi bằng ta đưa quân đánh Lãng Xuyên, tự khắc sẽ giải vây được cả hai
huyện.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Đệ dẫu bất tài cũng xin đưa quân
đi đánh Lăng Xuyên.
Tống Giang cả mừng, liền giao cho Lư
Tuấn Nghĩa một vạn quân kỵ và năm trăm quân bộ đi đánh Lăng Xuyên. Chỉ huy quân
kỵ là các đầu lĩnh Hoa Vinh, Tần Minh, Đổng Bình, Sách Siêu, Hoàng Tín, Tôn
Lập, Dương Chí, Sử Tiến, Chu Đồng, Mục Hoằng. Các đầu lĩnh quân bộ là Lý Quỳ,
Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường, Dương Hùng, Thạch
Tú.
Ngay ngày hôm sau Lư Tuấn Nghĩa cho
quân lên đường. Tống Giang cùng Ngô Dụng ngồi trong trướng tiếp tục trù tính kế
xuất quân. Ngô Dụng nói:
- Quân giặc kiêu thắng đã lâu, Lư
tiên phong đi chuyến này ắt thành công lớn. Còn một việc nữa: miền Tam Tấn núi
non hiểm trở, cần cử hai đầu lĩnh đi do htám trước để biết rõ địa thế núi sông,
rồi mới có thể tiến quân được.
Chưa dứt lời đã thấy Yến Thanh bước
vào trong trướng thưa:
- Quân sư khỏi phải lưu tâm: hình
thế núi sông vùng Tam Tấn hiện đã ở đây cả!
Yến Thanh nói xong mở cuộn giấy trải
rộng lên mặt bàn, Tống Giang và Ngô Dụng xem kỹ, hóa ra là một tấm họa đồ vẽ đủ
núi sông thành quách, quan ải thành trì của vùng Tam Tấn. Phàm những nơi nào có
thể đóng quân, mai phục, dàn trận giao chiến, đều có ghi tỉ mỉ. Ngô Dụng lấy
làm lạ nói:
- Hiền đệ kiếm đâu được tấm hoạ đồ
này?
Yến Thanh đáp:
- Lúc đi đánh giặc Liêu trở về, qua
trấn Song Lâm, tiểu đệ gặp lại người bạn cũ là Hứa Quán Trung. Quán Trung mời
tiểu đệ chơi nhà, khi ra về Quán Trung đưa tặng cho tiểu đệ bức hoạ này, nói
rằng đấy chỉ là bức họa vụng về. Sau đó nhân lúc nhàn rỗi, tiểu đệ mở xem mới
biết đó là tấm họa địa hình miền Tam Tấn.
Tống Giang nói:
- Dạo ấy hiền đệ trở về gặp lúc sửa
soạn vào triều kiến, vì bận rộn ta chưa kịp hỏi rõ. Ta xem người ấy cũng là bậc
hảo hán ở đời, hiền đệ đã từng nói với ta những đức tính tốt của người ấy,
chẳng hay Quán Trung trước nay làm gì?
Yến Thanh đáp:
- Quán Trung học rộng, tài nhiều, võ
nghệ cao cường can đảm, các nghề mọn khác như cầm kỳ thi họa đều có biết qua.
Rồi Yến Thanh thụât lại chuyện Quán
Trung không thích làm quan, sô ng ẩn dật ở nơi rừng núi, cũng kể cả những tâm
sự của Quán Trung. Ngô Dụng nói:
- Thiên hạ cũng còn nhiều người có
lương tâm.
Tống Giang và Ngô Dụng không ngớt
lời thán phục.
Lại nói Lư Túân Nghĩa dẫn binh mã
đi, trước hết sai Hoàng Tín, Tôn Lập đưa ra ba nghìn quân bộ đến mai phục ở
phía đông các thành huyện Lăng Xuyên ngoài năm dặm; Sử Tiến, Dương Chí cũng dẫn
ba nghìn quân mai phục ở phía tây cách huyện thành năm dặm. Lư Tuấn Nghĩa căn
dặn các tướng:
- Đêm nay nghe năm tiếng trống lệnh
thì đưa quân lên đường, người ngậm tăm, ngựa tháo đạc mà đi. Ngày mai quân ta
đến, nếu giặc không phòng bị, ta lấy ngay được thành thì các người cứ trông cờ
hiệu ở cửa nam, thư thả đưa quân vào thành. Nếu quân giặc phòng bị trước, ta sẽ
cho bắn súng báo hiệu, cả hai phía cùng đánh vào tiếp ứng.
Bốn tướng lĩnh kế nhau ra đi. Sáng
sớm hôm sau, từ canh năm Lư Túân Nghĩa đã cho quân sĩ dậy thổi cơm, rạng sáng
thì lên đường, tiến gấp đến sát chân thành Lăng Xuyên. Quân chia ba đội, dàn
hàng ngang, gióng trống khua cờ khiêu chiến.
Quân giữ thành vội phi báo cho chánh
tướng trấn thủ là Đổng Trừng và hai phó tướng là Thẩm Ký và Cảnh Cung biết.
Đổng Trừng là tướng tiên phong bộ hạ của Nữu Văn Trung, thân dài chín thước,
sức lực hơn người, thừơng quen sử dụng cây bát phong đao nặng ba mươi cân. Lúc
ấy, nghe báo triều đình nhà Tống điều quân Lương Sơn Bạc, hiện đã kéo đến tận
nơi đóng trại sắp đánh vào thành, Đổng Trừng vội ra trước trướng, điểm ngay
quân mã ra ngoài thành chặn đánh. Cảnh Cung can:
- Cảnh Cung tôi nghe nói Tống Giang
là bọn anh hùng, ta không nên khinh thường. Nay hãy giữ thành cho vững, sai
người về Cái Châu xin quân cứu viện, trong đánh ra, ngoài đánh vào mới mong
thắng được.
Đổng Trừng cả giận nói:
- Bọn giặc ấy cả gan đến đánh thành
này, thật coi thường chúng ta quá lắm! quân chúng từ xa đến đây tất mỏi mệt,
đợi ta đem quân ra đánh cho mảnh giáp chẳng còn!
Cảnh Cung cố sức can ngăn nhưng Đổng
Trừng vẫn không nghe. Đổng Trừng nói:
- Đã thế thì cho ngươi một nghìn
quân mã ở lại giữ thành. Ngươi cứ lên ngồi cổng thành xem ta đánh tan bọn
chúng!
Nói đọan đeo giáp, xách đao cùng
Thẩm Ký ra ngoài thành nghênh chiến.
Cổng thành mở toang, cầu treo hạ
xuống, hai ba nghìn quân kỵ rầm rập lao qua cầu. Đội quân cung nỏ bên trận quân
Tống bắn tên như mưa chặn đường. Bỗng nghe trống nổi vang trời, một viên tướng
trong thành Lăng Xuyên phóng ngựa ra trận.
Đổng Trừng dừng ngựa cầm ngang thanh
đao quát to:
- Giặc cỏ Lương Sơn Bạc hãy ra đây
chịu chết!
Chu Đồng phóng ngựa ra quát đáp:
- Thiên binh đã đến đây, bọn bay mau
xuống ngựa chịu trói để khỏi bẩn đao của ta!
Quân hai bên hò hét xáp vào giao
chiến. Chu Đồng và Đổng Trừng quần ngựa đánh nhau giữa trận. Hai tướng đấu chưa
đầy mười mấy hiệp, Chu Đồng quay ngựa chạy về phía đông, Đổng Trừng liền bám
đuổi theo. Từ đội quân phía đông, Hoa Vinh xách thương phóng ngựa ra tiếp ứng.
Đánh nhau hơn ba mươi hiệp vẫn không phân thắng bại. Thẩm Ký đứng bên cầu treo
thấy Đổng Trừng thế không thắng nổi liền vác thương thúc ngựa ra chợ chiến. Hoa
Vinh thấy bị ép giữa hai tướng, liền quay ngựa chạy về phía đông. Đổng Trừng,
Thẩm Ký đuổi theo rất gấp, Hoa Vinh lại quya ngựa đánh tiếp.
Cảnh Cung ở trên cổng thành thấy
Đổng Trừng, Thẩm Ký đuổi theo, sợ bị mắc mưu địch, muốn đánh chiêng thu quân,
chợt thấy bên trận quân Tống có một đội binh đang xông tới. Đó là bọn Lý Quỳ,
Lỗ Trí Thâm, Bao Húc, Hạng Sung, tất cả mười mấy đầu lĩnh dẫn quân chạy như bay
đến chiếm cầu treo. Quân Điền Hổ không thể nào chặn đựợc đội hùng binh mãnh
tướng ấy. Cảnh Cung vội ra lệnh đóng cổng thành nhưng không kịp, Lỗ Trí Thâm và
Lý Quỳ đã lọt được vào thành. Quân canh cổng vừa tới, Lỗ Trí Thâm hét to một
tiếng, vung cây thiền trượng đánh chết ngay hai đứa, Lý Quỳ cũng khua búa bổ
gục năm sáu tên. Bao Húc đưa quân ở ngoài ào ào chiếm cổng thành, quân canh bỏ
chạy tán loạn. Cảnh Cung thấy tình thế nguy cấp vội xuống thành, cắm đầu chạy
về phía bắc liền bị quân bộ đuổi theo bắt sống.
Đổng Trừng, Thẩm Ký đang đánh Hoa
Vinh, nghe tiếng hò reo ở phía cầu treo vội quay ngựa lại, Hoa Vinh không đuổi
theo, liền móc thương vào dây đeo, lấy cung lắp tên, nhằm đúng giữa gáy Đổng
Trừng mà bắn. Đổng Trừng hai chân đạp trời, lăn nhào xuống ngựa. Lư Túân Nghĩa
hô quân xông lên đánh giết. Thẩm Ký bị Đổng Bình đâm chết. Quân Lăng Xuyên
người ngựa thiệt hại đến quá nửa, bọn còn lại tán loạn tìm đường chạy trốn. Các
tướng cùng đưa quân vào thành. Hắc toàn phong Lý Quỳ bừng bừng sát khí, chém
giết không ngừng tay. Lư Tuấn Nghĩa phải gọi to: "Lý hiền đệ, không được
sát hại dân chúng!", bấy giờ Lý Quỳ mới dừng tay.
Lư Tuấn Nghĩa một mặt sai quân sĩ
đến cắm ngay cờ hiệu ở cổng thành phía nam báo tin cho hai đội phục binh, một
mặt cắt cử quân sĩ đi canh gác ở các cửa thành. Chẳng bao lâu Hoàng Tín, Tôn
Lập, Sử Tiến, Dương Chí đem hai đội phục binh vào thành. Hoa Vinh đem nộp thủ
cấp Đổng Trừng; Đổng Bình nộp thủ cấp Thẩm Ký, Bao Húc và mấy đầu mục bộ hạ bắt
sống Cảnh Cung áp giải đến dưới trướng. Lư tiên phong ra lệnh cởi trói, thân
xuống dưới thềm dìu Cảnh Cung lên trướng chia ngôi chủ khách mời ngồi. Cảnh
Cung sụp lạy tạ ơn:
- Tiểu nhân làm tướng, lâm trận bị
bắt, chẳng ngờ được đội ơn tiên phong tiếp đãi trọng hậu.
Lư Tuấn Nghĩa đỡ dậy nói:
- Tướng quân không đem quân ra đón
đánh ngoài thành, hẳn đã có ý suy xét sâu xa. Tống tiên phong chúng tôi quý trọng
người hiền, tin dùng kẻ sĩ, nếu tướng quân có lòng quy thuận, Tống tiên phong
sẽ xin tâu lên để triều đình trọng dụng.
Cảnh Cung cúi đầu cảm tạ, nói:
- Nhờ ơn tướng quân tha cho khỏi
chết, Cảnh Cung tôi xin nguyện làm tên tiểu tốt đứng dưới cờ.
Lư Tuấn Nghĩa cả mừng, lại lựa lời
khuyên giải để các đầu mục bắt sống Cảnh Cung được vui lòng. Rồi một mặt sai
treo bảng vỗ yên dân chúng, một mặt cho sửa soạn rượu thịt khao thưởng quân sĩ
và bày tiệc khoản đãi Cảnh Cung cùng các tướng bộ hạ.
Lư Tuấn Nghĩa hỏi Cảnh Cung tình
hình quân tướng ở thành Cái Châu. Cảnh Cung đáp:
- Cái Châu do viên khu mật Nữu Văn
Trung cầm trọng binh đóng giữ; hai huyện Dương Thành, Thẩm Thuỷ đều ở phía tây
phủ Cái Châu. Chỉ có huyện Cao Bình cách đây sáu mươi dặm huyện thành ở sát núi
Hàn Vương Sơn, do hai tướng là Trương Lễ và Triệu Năng cầm quân đóng giữ, bộ hạ
có hai vạn quân mã.
Lư tiên phong nghe xong, nâng chén
rượu về phía Cảnh Cung, nói:
- Mời tướng quân cạn chén, chỉ đêm
nay Lư tôi sẽ nhờ tướng quân đi lập công, mong tướng công vui lòng giúp cho.
Cảnh Cung nói:
- Tiên phong rộng lượng hậu đãi,
Cảnh Cung tôi đâu dám không dốc lòng báo đáp!
Lư Tuấn Nghĩa cả mừng, nói:
- Tướng quân đã ưng thuận, Lư tôi sẽ
cử theo mấy anh em đầu lĩnh để hợp sức cùng các đầu mục bộ hạ của tướng quân
theo kế của Lư tôi cứ như thế.. như thế.. dám phiền tướng quân sửa soạn ngay
cho.
Nói đoạn sai gọi sáu bảy đầu mục vừa
quy hàng đến, thưởng rượu thịt và cho mỗi người một nén bạc, hứa sau khi lập
công sẽ có trọng thửơng.
Sau đó tan tiệc ngay. Lư Tuấn Nghĩa
truyền lệnh cho anh em Lý Quỳ, Bao Húc cả thảy bẩy đầu lĩnh bộ binh cùng một
trăm tên quân bộ mặc chiến phục và trương cờ hiệu giả làm quân trong thành Lăng
Xuyên. Lại sai Sử Tiến, Dương Chí lĩnh năm trăm quân kỵ, ngựa tháo đạc, người
ngậm tăm, đi đằng sau đội quân của Cảnh Cung. Sai Hoa Vinh và một số tướng khác
ở lại giữ thành, còn tự mình dẫn ba nghìn quân đi sau tiếp ứng.
Cắt cử mọi việc xong xuôi, bọn Cảnh
Cung lĩnh kế ra khỏi thành, lúc ấy đã quá chiều. Khi đoàn người ngựa đến ngoài
cửa nam thành huyện Cao Bình thì trời đã xẩm tối. Dưới ánh sao lờ mờ, nhìn lên
thành thấy cờ cắm trên mặt thành san sát, nghe trong thành trống điểm canh hai
rất đều. Cảnh Cung đến cửa thành, gọi to:
- Ta là Cảnh Cung, phó tướng trấn
thủ Lăng Xuyên. Chỉ vì hai tướng Đổng Trừng và Thẩm Ký không nghe lời bàn,
khinh địch, mở cổng để đến nỗi bị mất thành. Ta vội dẫn hơn trăm quân mở cửa
bắc theo đường tắt chạy thóat đến đây, anh em mau mở cửa!
Quân giữ thành đốt đuốc soi xuống
nhìn, rồi đi báo ngay cho Trương Lễ và Triệu Năng biết. Trương Lễ, Triệu Năng
đích thân lên cổng thành, quân lính đốt mấy bó đuốc to, đằng trước đằng sau
sáng rực, Trương Lễ cúi xuống nói với Cảnh Cung:
- Tuy là quân nhà, nhưng cũng phải
nhìn cho rõ đã!
Trương Lễ nhìn kỹ, quả đúng là Cảnh
Cung ở Lăng Xuyên đem theo hơn trăm tên lính. Quân sĩ đứng trên thành phần
nhiều nhận mặt được các đầu mục bộ hạ của Cảnh Cung, kẻ này bảo: "kia là
Tôn Như Hổ", kẻ khác nói: "đó là Lý Cầm Long"... Trương Lễ cười
nói:
- Mở cửa cho họ vào!
Quân canh liền mở cửa, hạ cầu treo,
ba bốn chục tên quân theo ra chặn giữ cầu, sau đó mới cho Cảnh Cung vào. Quân
đi sau cũng tràn tới, vừa chạy vừa kêu "nhanh lên! nhanh lên! có quân đuổi
theo sau!". Chẳng ai nể gì Cảnh tướng quân nữa, chen nhau ùa vào, quân
canh cổng thét to:
- Thế này là thế nào? các ngươi làm
loạn chắc?
Quân trong thành, ngoài thành đang
cãi nhau, bỗng thấy ở rìa núi Hàn Vương Sơn lửa bốc sáng rực, một đội quân phi
ngựa lao tới. Hai tướng đi đầu quát to: "bọn giặc kia chớ chạy".
Trong đám Cảnh Cung đã có bảy đầu lĩnh là Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn,
Lưu Đường, Dương Hùng, Thạch Tú trà trộn vào. Mọi người lập tức vung binh khí,
nhất loạt hò la xông vào đánh thành. Quân trong thành trở tay không kịp, nói gì
đến chuyện đóng chặn cửa thành. Các tướng Lư Tuấn Nghĩa mỗi người chém chết đến
mấy chục tên quân canh, chiếm lấy cổng thành. Trương Lễ không ngớt mồm kêu khổ,
vội x ach thương chạy xuống thành tìm Cảnh Cung, không ngờ gặp phải Thạch Tú.
Hai bên đánh bốn năm hiệp, Trương Lễ không còn hồn vía nào mà đánh nữa, bèn bỏ
chạy, Lý Quỳ đuổi theo phang một búa bổ đôi làm hai mảnh.
Lại nói đội quân bên rìa núi Hàn
Vương Sơn phóng đến nơi liền theo cầu treo vào thành. Đó là đội quân của Sử
Tiến và Dương Chí chia quân đi đuổi đánh quân Điền Hổ. Triệu Năng chết trong
đám loạn quân. Quân lính trong thành Cao Bình bị giết quá nửa; cả nhà Trương Lễ
già trẻ lớn bé đều bị chém chết. Dân chúng trong thành đang ngủ say, hoảng hốt
tỉnh dậy kêu khóc vang trời. Một lúc sau, Lư tiên phong cũng vừa đem quân tới,
liền ra lệnh cho các đầu mục canh giữ cổng thành, sai ngay người đi truyền lệnh
không được giết hại dân thường. Tảng sáng cho yết bảng vỗ yên dân chúng, khao
thưởng quân sĩ, một mặt sai lính hoả tốc báo tin cho Tống tiên phong.
Do đâu mà Lư Tuấn Nghĩa lấy được hai
thành dễ dàng nhanh chóng như vậy? vì rằng bộ hạ của Điền Hổ tung hoành bấy
lâu, không ai dám đương đầu đối địch nên coi thường quan quân triều đình. Lư
Tuấn Nghĩa nắm được thóp ấy, nhân lúc xuất kỳ bất ý đánh lấy luôn hai thành.
Bởi thế Ngô Dụng đã đoán trước: "Lư tiên phong đi chuyến này ắt thành công
to".
Lại nói quân mã Tống Giang đóng trại
ngoài thành Vệ Châu, Tống tiên phong đang ngồi bàn việc quân trong trướng bỗng
có người của Lư tiên phong về báo tin thắng trận và xin kế hoạch tiến quân.
Tống tiên phong cả mừng, nói với Ngô Dụng:
- Lư tiên phong một ngày đánh được
hai thành, quân giặc phải một phen kinh hồn bạt vía!
Đang nói chuyện lại có quân thám mã
hai đường về báo: "quân Điền Hổ đang bao vây huyện Huy và huyện Vũ Thiệp,
nghe tin Lăng Xuyên thất thủ đã rút hết!". Tống Giang nói với Ngô Dụng:
- Mưu kế của quân sư thật thần diệu,
xưa nay chưa dễ ai sánh kịp.
Nói đoạn định ra lệnh nhổ trại tiến
về phía tây hội quân với Lư Tuấn Nghĩa để bàn kế tiến binh, Ngô Dụng nói;
- Phủ Vệ Châu này bên trái là cửa
Mạnh Môn, bên phải là núi Thái Hàng, phía nam là sông lớn, phía tây sát đất
giặc, địa thế rất xung yếu. Nếu giặc biết đại quân ta đi về phía tây đem quân
từ phủ Chiêu Đức đánh xuống, bên ta đông tây hai phía không tiếp ứng được cho
nhau thì làm thế nào?
Tống Giang nói:
- Quân sư nói đúng lắm!
Rồi truyền lệnh cho Quan Thắng, Hô
Diên Chước, Công Tôn Thắng lĩnh năm nghìn quân mã ở lại đóng giữ Vệ Châu; lại
lệnh cho các đầu lĩnh thuỷ quân là Lý Tuấn; anh em Trương Hoành, Trương Thuận;
ba anh em Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, anh em Đồng Uy,
Đồng Mãnh thống lĩnh đội chiến thuyền đóng ở bờ sông Vệ Hà, để cùng với quân
trong thành làm thế ỷ dốc. Cắt cử mọi việc xong xuôi, các tướng nhận lệnh chuẩn
bị lên đường.
Tống Giang và các tướng thống lĩnh
đại quân nhổ trại lên đường ngay hôm ấy. Chuyện quân đi đường không có gì phải
nói. Đại quân đến huyện Cao Bình, anh em Lư Tuấn Nghĩa ra tận ngoài thành đón
tiếp. Tống Giang nói:
- Các hiền đệ một ngày đánh lấy hai
thành, công lao thật không nhỏ, ta sẽ cho ghi đầy đủ vào sổ lập công.
Lư Tuấn Nghĩa dẫn hàng tướng Cảnh
Cung tới yết kiến Tống tiên phong. Tống Giang nói:
- Tướng quân bỏ tà theo chính, cùng
anh em Tống Giang tôi ra sức giúp nước, chắc hẳn sẽ được triều đình trọng dụng.
Cảnh Cung lạy tạ đứng dậy. Tống
Giang thấy quân lính đông, đưa vào trong thành không tiện, bèn hạ lệnh cho đóng
trại ở ngoài thành. Trong ngày hôm ấy, Tống Giang cùng Ngô Dụng và Lư Tuấn
Nghĩa bàn tính nên đánh tiếp phủ huyện nào. Ngô Dụng nói:
- Cái Châu núi cao khe thẳm, đường
đi hiểm trở, nay ta đã lấy được hai huyện, phủ Cái Châu tất cả ở vào thế cô. Ta
nên đánh Cái Châu trước để chia sức địch, sau đó sẽ chia quân hai ngả mà đánh
ép vào thình phủ Uy Thắng sẽ phá được.
Tống Giang nói:
- Quân sư nói rất hợp ý ta!
Bèn truyền lệnh cho Sài Tiến cùng Lý
Ứng đến trấn thủ huyện thành Lăng Xuyên thay cho bọn Hoa Vinh, sáu tướng về Cao
Bình chờ lệnh; sai Sử Tiến cùng Mục Hoằng ở lại đóng giữ Cao Bình. Bọn Sài Tiến
bốn người vâng lệnh ra đi. Liền đó thấy Một vũ tiễn Trương Thanh vào thưa:
- Tiểu tướng bị cảm lạnh đã hai ngày
nay, muốn nghỉ lại Cao Bình cho khỏi rồi sẽ xin đến chờ lệnh.
Tống Giang liền cho thần y An Đạo
Toàn cùng vào huyện Cao Bình lo việc chữa bệnh cho Trương Thanh.
Ngày hôm sau, bọn Hoa Vinh đã kéo về
đông đủ. Tống Giang sai Hoa Vinh, Tần Minh, Sách Siêu, Tôn Lập lĩnh năm nghìn
quân đi tiên phong; Đổng Bình, Dương Chí, Chu Đồng, Sử Tiến, Mục Hoằng, Hàn
Thao, Bành Kỷ lĩnh một vạn người đi cánh trái; Hoàng Tín, Lâm Xung, Tuyên Tán,
Hách Tư Văn, Âu Bằng, Đặng Phi lĩnh một vạn quân đi cánh phải; Từ Ninh, Yến
Thuận, Mã Lân, Trần Đạt, Dương Xuân, Dương Lâm, Chu Thông, Lý Trung chỉ huy đội
hậu quân. Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa và các tướng còn lại thống lĩnh đại quân đi
giữa.
Năm đội hùng binh tiến gấp về Cái
Châu, khác nào rồng rời biển cả, hổ thóat rừng sâu. Thật là:
Người người những muốn phong quan
tước
Ai nấy đều mong lập chiến công.
Chưa biết binh mã Tống Giang đến
đánh Cái Châu ra sao xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 92 -
Bắn Tên Thần, Lừng Danh Tiểu Lý Quảng
Đang nói chuyện Tống Giang thống
lĩnh người ngựa chia năm đội tiến đến Cái Châu. Quân do thám Cái Châu được tin
xác thực liền phi báo về thành. Tướng trấn thủ Cái Châu là Nữu Văn Trung vốn
xuất thân trong đám lục lâm, bao nhiêu tài sản vàng bạc cướp được nơi bờ sông
bến nước đều dốc hết giúp Điền Hổ làm phản, nổi lên chiếm các châu quận của
triều đình nhà Tống, vì thế mà được phong chức quan khu mật sứ. Nữu thường quen
dùng một ngọn đầu nâu hai lưỡi ba chìa, võ nghệ kể là tay xuất chúng. Bộ hạ
dưới quyền có bốn viên mãnh tướng, gọi chung là "bốn uy tướng" hợp
sức đống giữ Cái Châu. Bốn viên tướng ấy là: Nghê uy tướng Phương Quỳnh, Tì uy
tướng An Sĩ Vinh, Bưu uy tướng Chữ Hanh, Hùng uy tướng Vu Ngọc Lân.
Mỗi viên uy tướng ấy lại có bốn phó
tướng, cả thảy là mười sáu viên, đó là: Dương Đoan, Quách Tín, Tô Cát, Trương
Tường, Phương Thuận, Thẩm An, Lư Nguyên, Vương Cát, Thạch Kính, Tần Thăng, Mạc
Chân, Thịnh Bổn, Hách Nhân, Tào Hồng, Thạch Tốn, Tang Anh.
Nữu Văn Trung cùng các chánh phó
tướng thống lĩnh ba vạn quân đóng giữ Cái Châu. Mấy ngày nay được tin hai huyện
Lăng Xuyên, Cao Bình thất thủ. Nữu Văn Trung một mặt lo chuẩn bị quan quân để
nghênh địch, một mặt viết văn thư gửi về hai châu Uy Thắng, Tấn Ninh cáo cấp
xin quân cứu viện. Lúc ấy nghe báo quân Tống Giang đã tới, Nữu Văn Trung liền
sai chánh tướng Phương Quỳnh, phó tướng Dương Toan, Quách Tín, Tô Cát, Trương
Tường đưa năm nghìn quân ra ngoài thành nghênh chiến. Khi sắp đi, Nữu Văn Trung
dặn Phương Quỳnh:
- Tướng quân phải hết sức chú ý, ta
sẽ đưa quân tiếp ứng sau!
Phương Quỳnh đáp:
- Xin khu mật chớ lo. Hai thành kia
chẳng phải là không chống cự nổi, chỉ vì mắc mưu mà mất vào tay bọn chúng.
Phương Quỳnh tôi hôm nay không chém đầu mấy tên thề không quay về thành!
Các tướng lập tức mặc giáp lên ngựa,
đưa quân ra khỏi cửa phía đông tiến nhanh về phía trước. Đội tiền quân của Tống
Giang đã dàn trận chờ sẵn, trống trận nổi vang trời. Bên quân Điền Hổ, Phương
Quỳnh từ dưới cờ tướng phóng ngựa ra trước trận, bốn viên phó tướng theo sát
hai bên. Phương Quỳnh đầu đội mũ mây cuộn, ngoài nịt áo giáp vẩy rồng, trong
mặc cẩm bào xanh, lưng thắt đai sư tử, chân đi hài xanh, vai trái khoác cung,
vai phải đeo ống tên ngồi trên lưng chiến mã đeo yếm vàng.
Phương Quỳnh giơ chiếc thương mũi
thép quát to:
- Bọn giặc cỏ Lương Sơn Bạc sao dám
bày quỷ kế chiếm đọat thành trì của chúng ta!
Bên trận quân Tống, Tôn Lập quát
đáp:
- Bọn bay là tay chân của tên phản
nghịch, nay thiên triều đưa quân đến đây, sao không biết tội chết?
Nói xong vỗ ngựa xông thẳng vào đánh
Phương Quỳnh. Hai tướng quần nhau trong đám bụi mù, bừng bừng sát khí. Đánh hơn
ba mươi hiệp, Phương Quỳnh đã thấy chán tay. Bên trận quân Điền Hổ, Trương
Tường thấy chủ tướng không đánh nổi Tôn Lập, liền đặt tên, trương cung thúc
ngựa ra trận, nhằm thẳng Tôn Lập mà bắn. Tôn Lập trông thấy vội giật ngựa chồm
lên tránh, mũi tên cắm phập vào mắt ngựa. Con ngựa đau quá chồm đứng lên. Tôn
Lập nhảy xuống, cầm thương xông vào đanh bộ. Ngựa của Tôn Lập cứ thế phóng đi
một quãng xa mới khuỵy ngã. Trương Tường bắn trượt Tôn Lập, liền xách đao phi
ngựa tới nhưng bị Tần Minh đón đường chặn đánh. Tôn Lập muốn quay về trận nhà
lấy ngựa khác nhưng bị ngọn thương của Phương Quỳnh ghìm ép cả hai bên không
thể nào thóat ra được. Hoa Vinh thấy vậy tức giận mắng:
- Tướng giặc kia dám bắn tên ngầm,
ngươi hãy nếm mũi tên của ta!
Hoa Vinh liền trương cung, kéo dây
thật căng, nhằm đúng Phương Quỳnh thả tên phóng đi. Mũi tên cắm phập giữa trán,
Phương Quỳnh lăn nhào xuống ngựa. Tôn Lập đuổi tới, đưa một thương kết liễu
tính mệnh tên tướng giặc rồi chạy về trận nhà lấy ngựa. Trương Tường và Tần
Minh vẫn đang giao chiến: ngọn côn của Tần Minh tới tấp vụt sát đầu Trương
Tường. Trương Tường chỉ còn biết giơ đao đỡ gạt. Thấy Phương Quỳnh ngã ngựa,
Trương Tường càng thêm hoảng hốt. Bên quân Điền Hổ, Quách Tín xách thương vỗ ngựa
ra đánh giúp Trương Tường. Tần Minh bình tĩnh đánh lại hai tướng. Ba ngựa dàn
thành hình chữ "đinh" quần lộn trước trận. Hoa Vinh lại đặt một mũi
tên nữa, nhằm thật đúng giữa gáy Trương Tường, căng dây hết cỡ mới buông. Mũi
tên như một vệt sao sa vút đi, Hoa Vinh quát lớn: "hãy xem!" Lúc ấy
mũi tên đã cắm phập sau gáy Trương Tường, xuyên qua cổ họng, Trương Tường chúi
đầu, hai chân chới với, lăn nhào xuống ngựa. Quách Tín thấy Trươnng Tường trúng
tên, đánh dứ một đường rồi quay ngựa chạy về trận nhà, liền bị Tần Minh đuổi
sát theo. Lúc ấy Tôn Lập đã thay ngựa khác, cùng Hoa Vinh, Sách Siêu vẫy quân
ào lên giáp chiến. Quân Điền Hổ rối loạn. Dương Đoan, Quách Tín, Tô Cát chống
cự không nổi, vội lui chạy về phía sau. Bỗng nghe phía sau quân Cái Châu tiếng
hò reo dậy đất, hoá ra Nữu Văn Trung sợ Phương Quỳnh sơ hở bèn ra lệnh cho An
Sĩ Vinh, Vu Ngọc Lân mỗi người lĩnh năm nghìn quân kỵ chia hai đường đến đánh
bọc vào. Bên trận quân Tống, bọn Hoa Vinh bốn tướng vội chia quân ngự địch, gặp
ngay Dương Đoan, Quách Tín, Tô Cát quay quân lại đánh. Quân Tống bị ba mặt đánh
kẹp vào, bọn Hoa Vinh bốn tướng ra sức tả xung hữu đột xem chừng bị ép vào giữa
vòng vây. Lại nghe phía đông tiếng hò la vang trời, quân Cái Châu bỗng nhiên
rối loạn. Đó là lúc bên tả bọn Đổng Bình bẩy tướng, bên hữu bọn Hoàng Tín bẩy
tướng dẫn đầu hai cánh quân kỵ mã cùng ào tới chém giết. Quân Cái Châu đại bại,
số bị chém giết rất nhiều. An Sĩ Vinh, Vu Ngọc Lân hốt hoảng đưa quân chạy về,
đóng ngay cửa thành lại. Quân Tống đuổi theo đến sát dưới chân thành. Quân bên
trong lên mặt thành lao gỗ bắn đá xuống quân Tống mới chịu lui.
Một lúc sau, Tống tiên phong và các
tướng quân dẫn đại quân đến, đóng trại cách thành năm dặm. Tống Giang vào
trướng quân, bảo Tiêu Nhượng ghi công đầu cho Hoa Vinh. Bỗng đâu có cơn gió lạ
từ phía tây thổi tạt qua đồng cuốn tung đất cát, các loại cờ hiệu đều bị lay
chuyển ngả nghiêng. Ngô Dụng nói: "cứ xem trận này chắc hẳn đêm nay chủ
tướng của giặc sẽ đem quân đến cướp trại. Phải cấp tốc đề phòng ngay".
Tống Giang nói:
- Quả thật chẳng phải cơn gió
thường!
Nói đọan truyền lệnh cho các tướng
Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thụân, Mã Lân đưa ba nghìn quân ra mai phục phía bên
trái doanh trại; các tướng Vương Anh, Trần Đạt, Dương Xuân, Lý Trung dẫn ba
nghìn quân mai phục phía bên phải; Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng
Sung, Lý Cổn chỉ huy năm trăm quân mai phục ngay trong trại; nghe hiệu lệnh một
tiếng pháo nổ thì nhất tề xông ra giết giặc. Cắt cử mọi việc đâu đó xong xuôi,
Tống Giang và Ngô Dụng thắp nến ngồi trong trướng đàm đạo việc quân.
Lại nói Nữu Văn Trung bị mất hai
tướng, điểm số quân sĩ thấy hụt hơn hai nghìn tên, đang buồn rầu ngồi trong
trướng, Tỳ uy tướng An Sĩ Vinh hiến kế:
- Xin ân tướng cứ yên lòng! bọn Tống
Giang thắng liền mấy trận, khí thế xem chừng rất kiêu căng, ắt hẳn không chuẩn
bị đề phòng. Đêm nay Sĩ Vinh tôi đưa một đội quân đến cướp trại chắc sẽ giành
toàn thắng, báo thù trận thua hôm nay.
Nữu khu mật nói:
- Nếu tướng quân ra trận thì ta đích
thân sẽ đưa quân đến tiếp ứng, giao cho hai tướng Chữ Hanh và Vũ Ngọc Lân ở lại
giữ thành.
An Sĩ Vinh rất mừng, nói:
- Ân tướng đích thân đưa quân đi,
phen này hẳn bắt sống được Tống Giang.
Bàn định xong, khoảng canh hai đêm
ấy, Sĩ Vinh cùng các phó tướng là Thẩm An, Lư Nguyên, Vương Cát, Thạch Kính
thống lĩnh năm nghìn quân kỵ, người bỏ giáp, ngựa tháo đạc lặng lẽ ra khỏi
thành tiến đến doanh trại quân Tống, nhất lọat hò reo xông vào cướp trại. Thấy
trại quân Tống cửa cổng mở toang, trong trại đèn đuốc sáng trưng. An Sĩ Vinh
đóan bị trúng kế, vội hô quân lui. Bỗng trong trại một tiến súng lệnh nổ vang,
bên trái bọn Yến Thuận bốn tướng, bên phải bọn Vương Anh bốn tướng nhất tề đánh
ập vào, giữa trại bọn Lý Quỳ sáu tướng chỉ huy đội giáp sĩ đao thuẫn từ trong
đánh thốc ra. Quân Cái Châu đại bại, tán loạn tìm đường thoát thân. Thẩm An nếm
ngọn giới đao của Võ Tòng, đầu lìa khỏi cổ. Vương Cát cũng bị Vương Anh đâm
chết. Quân Tống ép chặt người ngựa của An Sĩ Vinh, Lư Nguyên, Thạch Kính vào
giữa vòng vây. Tình thế thật nguy cấp, may sao chủ tướng Nữu Văn Trung cùng các
phó tướng Tào Hồng, Thạch Tốn vừa kịp dẫn quân đến cứu ứng. Hai bên một phen
hỗn chiến sau mới thu quân.
Sáng hôm sau Nữu Văn Trung điểm lại
quân sĩ mới biết mất hơn nghìn tên, lại mất thêm hai tướng Thẩm An và Vương
Cát, còn Thạch Tốn thì bị trọng thương cũng đang hấp hối. Đang lúc buồn rầu
bỗng nghe tin báo có sứ thần từ Uy Thắng đến truyền mệnh chỉ. Nữu Văn Trung vội
lên ngựa ra ngoài cửa bắc nghênh đón. Sứ thần vào thành tuyên đọc mệnh chỉ,
truyền rằng: "gần đay ty thiên giám quan sát thiên tượng thất sao thiên
cang xâm phạm vào phận dã ứng với miền đất của Tấn vương, vì vậy các nơi phải
lo canh giữ thành trì cho chắc chắn, không được sơ hở".
Nữu Văn Trung đem việc triều đình
nhà Tống sai bọn Tống Giang đưa binh mã đến đánh, liên tiếp chiếm hai thành
thưa với sứ giả, hiện giờ quân Tống đã kéo đến Cái Châu, hôm qua giao chiến mấy
trận các chánh phó tướng bị thiệt mạng mất năm người, nếu có viện binh đến sớm
thì may ra mới giữ được.
Sứ thần nói:
- Hạ quan khi ở Uy Thắng ra đi thì
chưa biết tin ấy, đến giữa đường mới nghe đồn triều đình nhà Tống sai quân đến
đánh vùng này.
Nữu Văn Trung bày tiệc khoản đãi và
đem lễ vật biếu sứ giả, một mặt sai chuẩn bị gỗ lao đá bắn, cung mạnh nỏ cứng,
tên lửa cùng các đổ hoả khí khác, quyết giữ vững thành trì chờ viện binh đến
cứu, việc ấy không phải nói.
Lại nói Yến Thanh, Vương Anh và các
tướng khác đánh tan quân giặc đến cứơp trại, đắc thắng trở về. Ngày hôm sau
Tống Giang truyền lệnh tu sửa xe cộ khí giới, chuẩn bị đánh thành. Lệnh cho Lâm
Xung, Sách Siêu, Tuyên Tán, Hách Tư Văn lĩnh một vạn quân đánh vào cửa đông; Từ
Ninh, Tần Minh, Hàn Thao, Bành Kỷ lĩnh một vạn quân đánh vào cửa nam; Đổng
Bình, Dương Chí, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc lĩnh một vạn quân đánh vào cửa
tây; trừ cửa bắc không đánh, ngại răng nếu có viện binh đến, quân trong thành
đánh ra nữa thì bị đánh ốp cả hai mặt. Lệnh cho Sử Tiến, Chu Đống, Mục Hoằng,
Mã Lân lỉnh năm nghìn quân mai phục sau gò cao ở phía đông bắc thành; Hoàng
Tín, Tôn Lập, Âu Bằng, Đặng Phi lĩnh năm nghìn quân mai phục trong rừng rậm
phía tây bắc. Nếu viện binh của giặc kéo đến thì hai đội phục binh ấy từ hai
bên xông ra đánh ốp vào. Lệnh cho Hoa Vih, Vương Anh, Trương Thanh, Tôn Tân,
Tôn Lập lĩnh một nghìn quân mã làm đội du kỵ binh, qua lại khắp bốn cửa để thám
thính tình hình; Lý Qùy, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Lưu Đường, Lôi Hoành lĩnh
ba trăm quân sẵn sàng tiếp ứng với đội du kỵ binh của Hoa Vinh. Cắt cử mọi việc
đã xong, các tướng quân tuân lệnh ra đi. Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng
cùng các chánh phó tướng khác dời doanh trại vào gần thành, chỉ cách cửa đông
ngoài một dặm. Lệnh cho Lý Vân, Thang Long đốc thúc tu sửa xe thang và chòi cao
để đưa ra trận.
Lại nói bọn Lâm Xung bốn tướng đến
mé đông dựng chòi cao sát thành, sai một số quân sĩ lanh lợi trèo lên bám đà
chòi nhẩy sang, trong khi ấy quân ở dưới hò reo tăng thêm thanh thế. Chẳng ngờ
tên lửa bắn ra tới tấp, quan trên chòi tránh nấp không kịp. Không bao lâu chòi
bén lửa cháy rực, từng mảnh rơi lả tả. Quân trèo chòi ngã chết năm sáu người,
bị thương cũng đến hơn chục. Hai phía tây, nam đánh vào cũng bị tên lửa và hoả
pháo bắn ra, quân sĩ bị chết, bị thương mất một số. Cứ thế đánh liền trong sáu
bảy ngày mà vẫn không hạ được thành.
Tống Giang thấy đánh mãi không lấy
được thành bèn cùng Lư Tuấn Nghĩa và Ngô Dụng đích thân đến dưới chân thành cửa
nam đốc thúc quân sĩ. Lúc ấy vừa gặp bọn Hoa Vinh năm tướng dẫn đội du kỵ binh
từ phía tây vòng qua. Trên cổng thành, Vu Ngọc Lân cùng hai phó tướng là Dương
Đoan, Quách Tín đang đốc thúc quân sĩ cố sức phòng thủ. Dương Đoan chợt trông
thấy Hoa Vinh sắp đi qua cửa thành, nói: "chính tên này hôm qua giết của
ta hai tướng, nay nhất định phải báo thù!" Rồi vội vàng ngắm đúng giữa
ngực Hoa Vinh mà bắn. Hoa Vinh nghe tiến bật dây cung liền chao người ngã ngửa
về phia sau, khi thấy mũi tên bay qua thuận tay chộp lấy, đưa lên miệng ngậm
rồi nhổm dậy đeo thương vào móc, tay trái cầm cung, tay phải lấy ngay chiếc tên
trên miệng đặt lên dây nhắm thật trúng Dương Đoan, rồi buông tay cho tên phóng
đi. Dương Đoan bị trúng tên ngay giữa cổ họng ngã ngửa ra phía sau. Hoa Vinh
quát lớn:
- Lũ chuột chúng bay sao dám bắn
trộm, đợi đó ta sẽ cho chầu trời hết!
Nói đọan lại rút tên lắp bắn phát
nữa. Quân lính đứng trên cổng nháo nhác la hét chạy xuống dưới thành. Vu Ngọc
Lân và Quách Tín mặt tái mét hốt hoảng tìm nơi ẩn nấp. Hoa Vinh cười nhạt nói:
"hôm nay chúng bay biết mặt thần tiễn tướng quân rồi đấy!".
Tống Giang và Lư Túân Nghĩa không
ngớt lời khen ngợi tài nghệ của Hoa Vinh, Ngô Dụng nói:
- Thưa đại huynh, chúng ta cùng với
Hoa tướng quân đi một vòng quanh thành xem tình hình ra sao.
Rồi bọn Hoa Vinh hộ vệ Tống Giang,
Lư Tuấn Nghĩa và Ngô Dụng đi quan sát xung quanh thành.
Khi Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô
Dụng trở về doanh trại, Ngô Dụng gọi hàng tướng Lăng Xuyên là Cảnh Cung lên hỏi
đường đi lối lại trong thành Cái Châu ra sao. Cảnh Cung nói:
- Nữu Văn Trung đóng suý phủ giữa
thành, ở trị sở Cái Châu lúc trước; dùng sân, vừơn của mấy ngôi đền ở phía bắc
làm nơi chứa cỏ khô cho ngựa.
Ngô Dụng nghe xong, bàn bạc mưu kế
với Tống Giang rồi gọi Thời Thiên, Thạch Tú đến rỉ tai nói: "cứ theo kế ấy
đến chỗ Hoa Vinh truyền đạt mệnh lệnh, sau đó tuỳ cơ ứng biến". Lại gọi
Lăng Chấn, Giải Trân, Giải Bảo lĩnh hai trăm tên quân sĩ, mang theo pháo hiệu
"oanh thiên" đầy đủ các loại pháo mẹ pháo con, loại to, loại nhỏ,
theo đúng mưu kế đã định ra đi. Lệnh cho Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng dẫn đầu đội quân
chiêng trống ba trăm tên: Lưu Đường, Dương Hùng, Úc Bảo Tứ, Đoàn Cảnh Trụ mỗi
người dẫn hai trăm quân sĩ cầm đuốc, từ bốn phía đông, nam, tây, bắc đi vào,
làm đúng như mưu kế đã định. Lại sai Đái Tôn đến cả ba doanh ở cửa đông, cửa
nam, cửa tây truyền lệnh, hễ thấy trong thành nổi lửa thì ra sức đánh vào. Cắt
cử mọi việc đâu đấy xong xuôi các tướng đều vâng lệnh ra đi.
Lại nói Nữu Văn Trung ngày đêm trông
chờ viện binh nhưng mãi không thấy tăm hơi thì càng lo buồn, cho thêm quân vác
gỗ, chuyển đá lên mặt thành để lo chống giữ. Hôm ấy trời mới nhá nhem tối bỗng
nghe ngoài cửa bắc tiếng quân hò reo vang trời, trống trận, tù và nổi lên dóng
dả. Nữu Văn Trung cưỡi ngựa ra cửa bắc trèo lên mặt thành đứng trông, lúc ấy
tiếng hò la chiêng trống đã dứt, không biết quân địch ở chỗ nào. Đang lúc hồ
nghi lưỡng lự chưa biết ra sao, chợt lại nghe tiếng hô reo dậy lên phía cửa
nam, chiêng trống vang trời. Nữu Văn Trung giao cho Vu Ngọc Lân giữ cửa bắc, tự
mình tế ngựa về cửa nam xem xét. Tiếng reo hò lại im bặt, chiêng trống cũng không
thấy đâu. Nữu Văn Trung ngó nhìn hồi lâu chỉ nghe tiếng trống cầm canh xa xa ở
trại nam quân Tống, xung quanh im ắng, không thấy một đốm tên lửa nào. Nữu Văn
Trung lững thững đi xuống, định trở về suý phủ xem xét các việc lại một lượt,
bỗng nghe súng nổ liên tiếp ở cửa đông, tiếng hò reo chiêng trống vang trời ở
cửa tây. Nữu Văn Trung chạy đông, chạy tây, cứ như thế cho đến sáng. Quân Tống
lại tiếp tục đánh thành đến tận chiều tối mới lui. Đêm ấy từ lúc canh hai lại
nghe tiếng hò reo, tiếng trống chiêng, tù và dóng dả. Nữu Văn Trung nói:
"đó là kế nghi binh thôi, mặc xác bọn chúng, ta cứ giữ thành cho vững, xem
bọn chúng giở trò gì". Bỗng có tin báo lửa đuốc sáng rực ngoài thành cửa
đông, không biết cơ man nào là đuốc, xe thang chòi cao đã bắc áp sát thành. Nữu
Văn Trung nghe báo, vội phi ngựa ra cửa đông cùng với Chữ Hanh, Thạch Kính, Tân
Thăng đốc thúc quân sĩ bắn tên lửa, đạn đá. Đang lúc bắn ra, bỗng nghe bên
ngoài dội vào một tiếng hoả pháo, tiếng nổ rung chuyển lũng núi, cả chòi canh
trên cổng thành cũng thấy rung rinh, quân lính và dân chúng trong thành nháo
nhác hoảng sợ. Hai đêm liền lo sợ sáng ra quân Tống lại đến đánh, quân sĩ không
một lúc nào được chợp mắt, Nữu Văn Trung cũng phải luôn luôn lên mặt thành quan
sát. Bỗng từ phía tây bắc có đội quân bóng cờ che rợp một góc trời đang tiến về
phía đông nam, hơn chục tên tiêu binh của quân Tống đang phóng ngựa chạy như
bay về trại Nữu Văn Trung đoán là có viện binh, liền sai Vu Ngọc Lân sửa soạn
ra ngoài thành tiếp ứng.
Lại nói đội quân từ phía tây bắc
đang tiến đến là đội quân do Tam đại vương Điền Bưu, em thứ ba của Điền Hổ, giữ
chức trấn thủ châu Tân Ninh, sau khi nhận đựợc thư cầu cứu của Cái Châu liền
sai viên mãnh tướng bộ hạ tên là Phượng Tường, Vương Viễn đưa hai vạn quân đến
cứu viện. Lúc ấy đội viện binh đã vượt qua huyện Dương Thành, đang tiến thẳng
về Cái Châu. Chỉ còn cách thành hơn chục dặm nữa, bỗng nghe một tiến súng nổ,
từ sau gò cao rừng rậm ở hai phía đông bắc, tây bắc có hai đội quân đổ ào ra.
Đó là một vạn hùng binh do tám tướng chỉ huy là Sử Tiến, Chu Đồng, Mục Hoằng,
Mã Lân, Hoàng Tín, Tôn Lập, Âu Bằng, Đặng Phi, đang phóng gấp đến. Quân Tấn
Ninh tuy đông đến hai vạn, nhưng đi đường xa mệt nhọc, địch sao nổi hai cánh
quân tinh nhuệ mai phục sẵn ở đây đã hơn mười ngày. Quân Tấn Ninh đại bại;
trống, chiêng, cờ, ngựa, đao thương, giáp trụ vứt bỏ lại không đếm xuể, quân
lính bị chém giết mất quá nửa. Phương Tường, Vương Viễn lo chạy tháo thân, đưa
tàn quân chạy về Tấn Ninh, việc ấy không phải nói nữa.
Lại nói Nữu Văn Trung thấy quân hai
bên đánh nhau, vội sai Vu Ngọc Lân đưa quân qua cửa bắc ra tiếp ứng. Thấy cửa
bắc không có quân Tống, Vu Ngọc Lân đưa quân ra ngoài, vừa qua khỏi cầu treo
liền gặp đội du kỵ binh của Hoa Vinh từ phía tây phóng tới. Quân Cái Châu la
hét: "thần tiễn tướng quân đến kìa!" Quân lính hoảng sợ chạy lui
không kịp, tranh cướp nhau vào thành. Hôm trước ở cửa nam Vu Ngọc Lân đã một
phen chết khiếp, đâu còn dám nghĩ đến chuyện giao chiến với Hoa Vinh, cũng đành
theo lính chạy trốn vào thành. Bọn Hoa Vinh xông tới chém chết hơn hai chục tên
nhưng không đuổi theo, bỏ mặc cho chúng chạy. Quân canh lập tức đống cổng lại.
Chính lúc ấy, Thời Thiên và Thạch Tú
mặc áo dấu hiệu như quân Cái Châu đã trà trộn chạy theo vào thành. Nhân lúc lộn
xộn, Thời Thiên, Thạch Tú rẽ vào một ngõ hẹp. Đi hết ngõ ấy thấy một ngôi đền
có tấm biển đề mấy chữ "đương cảnh thổ địa thần từ". Thời Thiên,
Thạch Tú nhón chân lẻn vào trong đền, thấy thủ từ đang ngồi sưởi lửa ở góc đền.
Thủ từ thấy hai người đi vào bèn nói:
- Các vị trưởng quan có biết ngoài
ấy ra sao không?
Thạch Tú đáp:
- Mới rồi Vu tướng quân điều chúng
tôi đi đánh, chẳng may lại gặp phải ông thần tiễn tướng quân, ngay cả Vu tướng
quân cũng không dám ra giao chiến. Quân lính tranh cướp nhau chạy vào thành,
chúng tôi nhân lúc lộn xộn chạy rẽ vào đây.
Nói đoạn lấy hai lạng bạc lẻ đưa cho
thủ từ, nói:
- Ông có rượu để lại cho chúng tôi
hai bát, uống cho đỡ rét.
Thủ từ cười đáp:
- Trưởng quan không biết mấy ngày
nay việc quân nguy cấp, hương nhang thờ cúng ở đền đây cũng chẳng có nữa là
rượu!
Nói rồi đưa bạc trả lại cho Thời
Thiê, Thạch Tú gạt đi, nói:
- Thôi ông cứ cầm lấy, chúng tôi
canh gác trên thành liền mấy ngày đêm vất vả quá, chẳng chợp mắt được chút nào,
muốn ngủ nhờ một đêm sáng mai đi sớm.
Ông thủ từ xua tay nói:
- Hai trưởng quan nói lạ quá! Nữu
tướng quân đã có lệnh rất nghiêm, chốc lại cho lính đến tra xét, nếu tôi để hai
vị ngủ đây thì tai vạ ai chịu cho!
Thời Thiên nói:
- Vậy thì chúng tôi đi nơi khác!
Thạch Tú thì cứ xán đến cùng ngồi
sưởi lửa với ông thủ từ. Thời Thiên trông trước nhìn sau không thấy ai liền
liếc mắt ra lệnh cho Thạch Tú. Thạch Tú lén rút đoản đao ra, người thủ từ vẫn
ngồi sửơi lửa, bất ngờ bị Thạch Tú lia một đao, đầu lăn xuống đất. Hai người
liền gài chặt cửa đền, lúc ấy đã vào khoảng giờ dậu. Thời Thiên đi vòng ra sau
bệ thờ, thấy có một cửa thông ra đằng sau, ngoài cửa có một dãy chái mái bằng
chất hai đống cỏ khô. Hai người ôm cỏ vào phủ lên xác người thủ từ, rồi mở cửa
ra đằng sau. Thời Thiên, Thạch Tú trèo lên mái chái rồi chuyền lên nằm sát nóc
đền, ngẩng đầu nhìn chỉ thấy mấy chục ngôi sao sáng ở tít tận chân trời xa.
Thời Thiên, Thạch Tú nằm chờ một hồi lâu rồi mới tụt xuống, ra nghe ngóng ngoài
đền, tịnh không có một bóng người qua lại, hai người rón rén vừa đi vừa chú ý
xem xét. Quanh đấy chỉ có mấy nhà dân nhưng đều cửa đóng then cài, nghe thóang
có tiếng ti tỉ. Thời Thiên, Thạch Tú lại đi về hướng nam, đi qua bức tường đất
thì đến một bãi đất rộng chất đến mấy chục đống to củi đun và rơm cỏ khô cho
ngựa. Thời Thiên nghĩ thầm: "đây là nơi chứa củi cỏ mà sao không thấy quân
canh nào canh giữ?" Nhưng quân tướng của Nữu Văn Trung còn lo việc canh
giữ ngoài thành thì còn hơi đâu mà đến đây xem xét. Mấy tên lính gác ở đây nghe
tin quân Tống đánh ta đội viện binh, liệu chừng thành cũng sắp mất, nên ai lo
thân nấy, liệu đường trốn sớm là hơn. Thời Thiên, Thạch Tú quay lại đền thổ
thần nhóm mồi lửa, đốt luôn đống cỏ phủ trên xác thủ từ, rồi chạy ra nơi chứa
cỏ châm lửa đến sáu bảy noi. Chỉ trong khoảnh khắc thảo trừơng cháy rừng rực,
ngọn lửa bốc cao lưng trời. Đền thổ thần cũng cháy to. Dân xung quanh nghe kêu
cháy vội đốt đuốc chạy đến. Thời Thiên, Thạch Tú bổ nhào ra, giật bó đuốc trên
tay một người mà chạy. Thạch Tú nói: "cho chúng tôi mượn đuốc để còn đi
báo tin cho Nữu nguyên suý!" Dân chúng nghe hai người lính nói thế chẳng
dám không tuân theo. Thời Thiên cầm đuốc cùng Thạch Tú chạy về phía nam, vừa
chạy vừa nói lẩm bẩm "đi báo nguyên suy", ngang qua mấy nhà dân bên
đường tiện tay châm luôn hai mồi lửa rồi quăng đuốc chạy quanh theo lối khác.
Đến đây hai người cởi bỏ áo dấu của quân Cái Châu rồi nấp kín một chỗ.
Lúc ấy trong thành bốn năm đám cháy
rừng rực. Nữu Văn Trung thấy cháy ở phía thảo trường vội đưa quân đến cứu. Quân
ngoài thành thấy lửa cháy ở trong, biết Thời Thiện, Thạch Tú đã lọt vào làm nội
ứng liền hợp sức đánh vào. Tống Giang, Ngô Dụng cùng Giải Trân, Giải Bảo phóng
ngựa đến phía thành cửa nam. Ngô Dụng nói:
- Hôm trước tôi thấy tường thành
đằng kia thấp hơn.
Tống Giang bèn lệnh cho bọn Tần Minh
dời chòi cao đến chân thành gần chỗ tường Ngô Dụng nói với Giải Trân, Giải Bảo:
- Giặc sợ mất vía rồi, quân lính của
chúng cũng tán loạn bỏ chạy cả, anh em hãy cố sức trèo lên chiếm thành!
Giải Trân giắt mã tấu bên lưng, trèo
lên chòi với tay bám bờ tường nhảy lên mặt thành. Tiếp theo là Giải Bảo hăng
hái nhảy vượt lên. Hai người hò hét nhẩy bổ xuống tường thấp bên trong vung đao
chém giết. Quân lính giữ thành vốn đã mỏi mệt khiếp sợ, lại thấy Giải Trân,
Giải Bảo dữ tợn như thế, tên nào tên nấy tụt vội xuống cho nhanh. Chữ Hanh thấy
Giải Trân, Giải Bảo chiếm mặt thành vội xách thương đến đánh, chừng hơn mười
hiệp đã bị ngay Giải Bảo chém một đao ngã nhào. Giải Trân đuổi tới bồi thêm một
đao, Chữ Hanh đầu rời khỏi cổ, bấy giờ đã có khoảng hơn trăm tên quân Tống
Giang trèo lên chòi cao nhẩy qua thành. Giải Trân, Giải Bảo dẫn số quân ấy đánh
xuống dưới thành, quát to rằng:
- Kẻ nào cản trở sẽ cho thành đống
thịt!
Quân Giải Trân ào tới đâm chết Thạch
Kính và Tần Thăng, giết quân canh chiếm cổng thành, hạ cầu treo, Từ Ninh và mấy
tướng khác dẫn quân ồ ạt xông vào. Từ Ninh và Hàn Thao đưa quân đánh sang cửa
đông. An Sĩ Vinh chống cự không nổi, bị Từ Ninh đâm chết. Quân Từ Ninh chiếm
cổng thành, hạ cầu treo cho bọn Lâm Xung ở ngoài đưa quân vào. Tần Minh và Bành
Kỷ đưa quân đánh sang chiếm cửa tây, mở cổng cho bọn Đổng Bình vào thành. Mạc
Chân, Hách Nhân, Tào Hồng bị giết trong đám loạn quân. Thây chết đầy chợ, máu
chảy loang đường. Nữu Văn Trung thấy các cửa thành đã bị chiếm đành bỏ thành,
nhảy lên ngựa cùng Vu Ngọc Lân đưa hơn hai trăm quân chạy ra phía cửa bắc tẩu
thoát. Chạy chưa đầy một dặm đã gặp ngay một viên tướng và một nhà sư từ bóng
tối xông ra chặn đường, đó là Hắc toàn phong Lý Qùy và Hoa hoà thượng Lỗ Trí
Thâm. Thật là:
Lưới trời buông khắp khôn rời bước,
Võng đất giăng cao khó thoát thân.
Chưa biết Nữu Văn Trung, Vu Ngọc Lân
sống chết ra sao xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 93 - Lý
Quỳ Say Mộng Náo Thiên Trì
Đang nói chuyện Nữu Văn Trung thấy
Cái Châu mất đành đem theo bọn Vu Ngọc Lân, Quách Tín, Thịnh Bổn, Tang Anh
trống khỏi thành, không ngơ gặp bọn Lý Qùy, Lỗ Trí Thâm đưa quân ra chặn đường,
Lý Qùy quát lớn:
- Bọn ta vâng lệnh Tống tiên phong
chờ các ngươi đã lâu!
Nói đoạn vung đôi búa xông vào đanh,
chém ngã ngay Quách Tín và Tang Anh. Nữu Văn Trung mất hồn bạt vía, trở tay
không kịp, bị cây thiền trượng của Lỗ Trí Thâm vụt trúng nát vụn cả mũ lẫn đầu,
lăn nhào xuống ngựa. Hơn hai trăm tên lính chạy theo cũng biết giết sạch, chỉ
có Vu Ngọc Lân và Thịnh Bổn liều chết mở đường chạy thóat được vào làng. Lỗ Trí
Thâm nói:
- Tha cho hai con lừa ấy sống sót về
báo tin!
Nói đoạn chặt thủ cấp của ba tên
tướng kia, thu nhặt yên cương, mũ giáp đem về thành nộp.
Lại nói đại quân người ngựa của Tống
Giang vào thành Cái Châu, trước hết Tống Giang truyền lệnh đi chữa cháy để
tránh tổn hại cho dân chúng. các tướng đều tới báo công, Tống Giang sai quân sĩ
đem thủ cấp ba tên tướng giặc bêu ở cửa thành, tảng sáng cho yết bảng vỗ yên
dân chúng. Người ngựa kéo vào đóng trại cả trong thành Cái Châu, tướng sĩ ba
quân đều được khao thưởng. Thạch Tú, Thời Thiên, Giải Trân, Giải Bảo được ghi
tên vào sổ lập công. Một mặt Tống tiên phong viết biểu văn tâu lên triều đình
về việc lấy lại được Cái Châu, tất cả vóc lụa, vàng ngọc thu được trong các kho
đều chuyển nộp về kinh kèm theo văn thư tường trình với Túc thái uý. Bấy giờ đã
gần cuối thágn chạp, Tống Giang bận rộn lo liệu việc quân, ngoảnh đi ngoảnh lại
đã mất ba bốn ngày, bỗng có tin báo Một vũ tiễn Trương Thanh khỏi ốm, hiện đã
cùng An Đạo Toàn tới nơi chờ sai phái. Tống Giang cả mừng nói:
- Hay lắm! ngày mai đúng mồng một
tết năm Tuyên Hoà thứ năm, anh em lại được cùng nhau xum họp!
Sáng hôm sau, các tướng đều mặc lễ
phục, chít khăn quỳ theo Tống Giang, quay mặt về phía triều đình chúc vọng năm
lạy. Lễ xong, tất cả chín mươi hai đầu lĩnh có mặt, thêm cả hàng tướng Cảnh
Cung đều thay lễ phục, mặc chiến bào gấm đỏ, hàng ngũ chỉnh tề đến chúc mừng
Tống Giang. Tống tiên phong mở tiệc lớn đón mừng năm mới, anh em các tướng lần
lượt nâng cốc chúc thọ Tống Giang. Rượu cạn mấy tuần, Tống Giang nói với các
tướng:
- Nhờ công sức của anh em, nay đã
thu phục ba thành cho triều đình, lại gặp tết nguyên đán ở đây, anh em ta được
cùng nhau xum họp, thật là dịp vui hiếm có. Hiện chỉ thiếu Công Tôn Thắng, Hô
Diên Chước, Quan Thắng, tám anh em đầu lĩnh thuỷ quân cùng bọn Sài Tiến, Lý Ứng
ở lại giữ Lăng Xuyên; Sử Tiến, Mục Hoằng ở lại giữ Cao Bình, tất cả là mười lăm
anh em đầu lĩnh, thật đáng tiếc.
Liền đó gọi các đầu mục trong quân
cùng hai trăm tên lính giúp việc nhận các vật phẩm đưa đến tận các doanh khao
tết quân sĩ. Trong ngày hôm ấy cũng sai đưa dê rượu đến Vệ Châu, Lăng Xuyên,
Cao Bình để các đầu lĩnh chia cho quân ăn tết, nhân thể báo tin thắng trận ở
Cái Châu. Tống Giang vừa dặn dò xong mọi việc thì nghe báo các đầu lĩnh trấn
thủ ở ba nơi trên đều cử người thay mặt đến chúc mừng chủ tướng. Tống tiên
phong cả mừng, nói:
- Có tin đến cũng như gặp người rồi!
Liền cho mời luôn vào cùng các anh
em đầu lĩnh cạn chén vui mừng, đến khi ai nấy đều say mới thôi.
Ngày hôm sau, Tống tiên phong sắm
sửa ra ngoài thành đón xuân vì thấy hôm ấy đẹp trời, mỗi giờ vừa chẵn tám khắc,
lại vừa đúng tiết lập xuân. Đến đêm gió đông bắc thổi về, mây đen kéo đến đầy
trời, rồi một cơn mưa tuyết lớn ập xuống. Sáng hôm sau nhìn ra thấy tuyết trắng
ngợp trời.
Địa văn tinh Tiêu Nhượng nói với các
đầu lĩnh:
- Giống tuyết thế mà cũng có nhiều
lọai khác nhau: bông tuyết chỉ một cánh gọi là tuyết con ong, hai cánh gọi là tuyết
lông ngỗng, ba cánh gọi là tuyết quần tam, bốn cánh gọi là tuyết tụ tứ, năm
cánh gọi là tuyết hoa mai, sau cánh gọi là tuyết lục xuất. Tuyết vốn do khí ẩm
ngưng kết lại mà thành nên có sáu cánh để ứng với âm số. Từ sau tiết lập xuân
thì chỉ còn tuyết hoa mai. Hôm nay tuy đã lập xuân nhưng đang lúc đông xuân
giao thời nên bông tuyết có lẽ gồm cả loại năm cánh và sáu cánh đấy.
Nhạc Hoà nghe Tiêu Nhượng nói thế
bèn ra gần mái hiên giơ ống tay áo hứng mấy bông tuyết đem thử, thấy đúng là
tuyết sáu cánh trong đó có một cánh đã sắp mất, lại có những bông khác năm
cánh. Nhạc Hoà thích quá reo to:
- Đúng thế! đúng thế!
Mọi người đều chạy lại xem. Lý Quỳ
cũng ghé sát vào, thở hơi nóng hầm hập làm cả mấy bông tuyết chảy tan ra. Ai
nấy được một trận cười no bụng. Tống Giang tưởng có việc gì vội đi ra hỏi:
- Các anh em có chuyện gì mà cười
thế?
Mọi người đáp:
- Anh em chúng tôi đang xem bông
tuyết thì Hắc tòan phong Lý Quỳ thở hơi ra làm tan mất cả.
Tống Giang cũng cười, nói:
- Ta đã cho dọn rượu ở vườn Nghi
Xuân để anh em cùng thưởng ngoạn.
Nguyên là ở góc phía đông trị sở Cái
Châu có vườn cảh tên là Nghi Xuân, trong vườn có gian đình gọi là Vũ Hương
đình, phía trước trồng các loại cây như thông, tùng, mai. Hôm ấy anh em Tống
Giang đến Vũ Huơng đình chuyện trò cười nói vui vẻ, ai nấy thoả sức uống say,
trời sắp tối cũng không hai biết, lại thắp đèn đuốc tiếp tục cuộc vui. Tống
Giang ngấm rượu, nhân lúc chuyện phiếm nói rằng qua được những lúc gian nan
ngày trước đều là nhờ các anh em. Tống Giang nói:
- Như ta vốn là một kẻ tiểu lại ở
huyện Vận Thành, thân mang tội lớn, may nhờ có các anh em bao phen không quản
tính mệnh xông vào giữa nơi gươm giáo, thập tử nhất sinh mới cứu được ta. Lúc ở
Giang Châu, ta cùng hiền đệ Đái Tôn bị áp giải ra giữa chợ, cái chết đã rõ mười
mươi... nay anh em ta về làm tôi triều đình, được ra sức giúp nước, nhớ lại
chuyện xưa ta cứ nghĩ như trong mộng.
Tống Giang nói tới đây nước mắt bất
giác trào ra, Đái Tôn, Hoa Vinh và mấy anh em cùng gặp nạn lúc trước nghe nhắc
lại đều ứa nước mắt.
Lý Quỳ bấy giờ quá chén đã say mềmn,
tuy cũng ngồi nghe chuyện nhưng mắt cứ díp lại, bèn chống tay gục đầu mà ngủ.
Lý Quỳ lúc ấy chợt nghĩ:"ngoài kia vẫn chưa ngớt tuyết". Thầm nghĩ
thế nhưng vẫn gục đầu ngồi yên không động và cảm thấy như mình đã ra ngoài
vườn. Nhìn xung quanh, lạ thay: "thì ra hết tuyết rồi, thế mà cứ ngồi ở
trong ấy mãi! ta phải ra ngoài phố dạo chơi một lúc mới được".
Lý Quỳ nói đoạn đi khỏi vườn Nghi
Xuân, một lúc sau đã ra ngoài thành. Sực nhớ điều gì, Lý Quỳ thốt lên: "ái
dà! quên búa rồi". Bèn quờ tay ra sau thì búa vẫn giắt sau lưng. Lý Quỳ cứ
thế đi miết, chẳng kể nam bắc, lau lách, bờ bụi, cũng chẳng biết xa gần, thấy
trong lũng núi có người đang đi ra. Người ấy đầu chít khăn mỏ rìu, khoác áo đạo
bào vàng nhạt, đi đến gần Lý Quỳ cười bảo:
- Tướng quân muốn dạo chơi thì rẽ
qua đừơng này, hoạ chăng được vừa ý đấy!
Lý Quỳ hỏi:
- Đại ca cho hỏi, đó là núi gì?
Người tú sĩ đáp:
- Đó là ngọn Thiên Trì lĩnh. Khi
tướng quân dạo chơi trở vè, ta lại gặp nhau ở đây.
Lý Quỳ theo lời người ấy đi rẽ vào
núi Thiên Trì lĩnh. Chợt thấy một toà trang viện gần đường, nghe bên trong có
tiếng ồn ào quát tháo, Lý Quỳ lặng lẽ lẻn vào, thấy hơn chục người tay cầm gậy
gộc, vũ khí đang đập bàn đập ghế, quăng vứt đồ đạc. Trong số ấy có một tên cao
lớn đang to tiếng quát:
- Lão đầu kia, mau giao con gái cho
ta đem về làm vợ thì mọi sự đều yên. Nếu không ta sẽ giết hết cả nhà.
Lý Quỳ nghe thấy thế thì điên tiết,
liền hét một tiếng như phun ra lửa:
- Thằng khốn nạn kia sao dám đến
cướp con gái người ta?
Tên kia lầu bầu đáp:
- Chúng tao đến hỏi con gái lão thì
việc gì đến ngươi?
Lý Quỳ cả giận rút búa xông vào. Tên
to lớn kia tác oai tác quái như thế mà chẳng chống đỡ được, liền bị Lý Quỳ chém
đứt làm ba đoạn. Những tên bỏ chạy, liền bị Lý Quỳ chém sáu bảy búa, chúng chết
lăn như rạ, chỉ có một tên chạy thóát. Lý Quỳ quay vào nhà thì thấy cửa đã đóng
chặt, bèn co chân đạp tung. Vợ chồng ông lão đang ngồi khóc trong nhà, thấy Lý
Quỳ đi vào, hai người bảo nhau:"chết thôi, lại phá cửa vào rồi". Lý
Quỳ quát lớn:
- Ta là kẻ qua đường thấy việc bất
bình, bọn kia bị giết hết ròoi, không tin ông lão cứ theo ta mà xem.
Ông lão run cầm cập theo Lý Quỳ ra
xem, khi trở vào níu áo Lý Quỳ nói:
- Tuy hảo hán giết hết bọn hung ác
ấy rồi, nhưng lại làm liên luỵ đến nhà lão phải theo hầu kiện cửa quan.
Lý Quỳ cười nói:
- Chắc lão không biết ta là Hắc toàn
phong Lý Quỳ ở Lương Sơn Bạc, nay theo huynh trưởng Tống Công Minh phụng chiếu
đi đánh Điền Hổ. Hiện giờ bọn họ đang uống rượu trong thành, còn ta chẳng ngại
phiền hà đi dạo qua đây. Đừng nói mấy đứa ấy, ngay cả nghìn đứa ta cũng giết
sạch, có gì mà phải sợ!
Ông lão quyệt nước mắt nói:
- Đuợc thế thì may quá! mời tướng
quân vào nhà nghỉ đã.
Lý Quỳ theo vào, thấy trong nhà đã
bầy sẵn một mâm rượu thịt. Ông lão dắt Lý Quỳ ngồi vào ghế giữa, rót đầy bát
rượu bưng đến mời, nói:
- Đội ơn tướng quân cứu thóat cho
con gái của già, xin mời tướng quân cạn chén cho!
Lý Quỳ đỡ bát rượu ung dung ngồi
nhắm, ông già ngồi bên cạnh hầu tiếp. Chỉ một loáng Lý Quỳ đã uống hết bốn năm
bát đầy. Bà lão ngồi khóc lúc nãy đang dẫn người con gái từ trong nhà bước ra.
Người con gái chắp tay vái chào Lý Quỳ, bà lão nói:
- Tướng quân là bộ hạ của Tống tiên
phong, danh tiếng thật lừng lẫy, nếu tướng quân không chê con gái già xấu xí,
già xin gả nó cho tướng quân.
Lý Quỳ nghe thế nhẩy chồm lên, nói:
- Bà lão nói bậy bạ quá! thế chẳng
hóa ra ta lập mưu giết bọn kia để chiếm con gái bà sao? ta cấm bà nói đến
chuyện ấy!
Nói đoạn co chân đạp tung bàn rượu
thịt rồi đi ra ngoài. Chợt phía truớc có một gã cao lớn dữ tợn xách đại đao
chạy đến. Trông thấy Lý Quỳ, gã kia liền quát:
- Thằng giặc đen kia chớ chạy! cớ gì
dám giết cả mấy người anh em của ta? bọn ta đến dạm hỏi con gái nhà kia thì can
dự gì đến ngươi?
Dứt lời khua đao xông vào. Lý Quỳ cả
giận vung búa đón đánh, hai bên đọ sức hơn hai mươi hiệp. Tên kia biết sức
không địch nổi, nhân lúc tránh được một lưỡi búa của Lý Quỳ liền xách đao ù té
chạy. Lý Quỳ đuổi sát theo, đến một khu rừng, bỗng thấy phía trước có nhiều
cung điện. Tên cao lớn chạy đến trước cửa điện lìền vứt đao lẩn vào đám đông
mất hút. Đúng lúc ấy bỗng nghe trên điện có tiếng quát:
- Lý Quỳ không đựợc vô lễ! để yên
cho người kia vào chầu.
Lý Quỳ sực nhớ ra: "hóa ra là
điện Văn Đức, lúc trước mình đã theo huynh trưởng Tống Công Minh vào triều
kiến, hoàng đế ngự triều chốn này đây!" lại nghe trên điện quát to:
- Lý Quỳ mau quỳ lạy!
Lý Quỳ liền giắt búa giấu trong
người, bước lên nhìn, thấy hoàng đế ngồi trên điện cao, các quan đứng xếp hàng
trước điện. Lý Quỳ đường hoàng đứng ngước lên vái ba vái rồi nghĩ bụng:
"ái dà! thiếu mất một vái rồi!"
Thiên tử phán hỏi:
- Vừa rồi vì cớ gì mà một lúc ngươi
giết bấy nhiêu người?
Lý Quỳ quỳ xuống tâu:
- Bọn kia cậy đông kéo đến cướp con
gái nhà người ta, thần nhất thời tức giận bèn giết đi.
Thiên tử nói:
- Thế ra Lý Quỳ chỉ là kẻ qua đường
thấy chuyện bất bình nghĩa khí dũng cảm thật đáng khen. Trẫm tha tội cho ngươi
và cho giữ chức trực điện tướng quân.
Lý Quỳ rất mừng, nghĩ bụng:
"thì ra hoàng đế cũng sáng suốt đấy!", liền rập đầu tạ ơn một lúc hơn
chục lạy, rồi nhỏm dậy đứng hầu dưới điện.
Một lúc sau, bọn bốn người Sái Kinh,
Đồng Quán, Dương Tiễn, Cao Cầu đến quỳ một hàng trước điện lạy chào thiên tử
rồi tâu:
- Tống Giang thống lĩnh binh mã đi
đánh giặc Điền Hổ, nhưng cứ chần chừ khong chịu tiến quân, suốt ngày tụ họp
rượu chè, cúi xin hoàng thượng trị tội.
Lý Quỳ nghe câu ấy không nén nổi
giận dữ liền rút đôi búa phạt cho mỗi đứa một nhát rồi kêu to:
- Hoàng thượng chớ nghe bọn tặc thần
ấy! huynh trưởng Tống Công Minh của chúng tôi đã đánh lấy được ba thành, hiện
đang đóng ở Cái Châu chuẩn bị xuất quân, thế mà bọn này dám đặt điều dối trá!
Các quan văn võ thấy Lý Quỳ giết bốn
đại thần đều chạy tới hô bắt Lý Qùy. Lý Qùy lăm lăm đôi búa trong tay, quát
lớn:
- Đứa nào dám bắt ta thì cứ trông
bốn tên ấy!
Chẳng ai dám ho he, Lý Quỳ cười
vang:
- Hả quá! hả quá! thật đáng đời bốn
tên gian thần kia! ta phải về báo cho Tống đại huynh biết mới được.
Nói rồi rảo bước ra khỏi cung điện.
Bỗng lại thấy ngọn núi gặp người tú sĩ ban nãy. Người tú sĩ đứng chờ bên sườn
núi đi lại đón Lý Quỳ, cười hỏi:
- tướng quân dạo chơi có được vừa ý
không?
Lý Qùy đáp:
- Báo cho đại ca biết: mới rồi cả
bốn tên gian thần đã bị ta giết.
Người tú sĩ cười nói:
- Thì ra thế đấy! ta nguyên là người
tu hành ở miền Phần Tẩm, mấy hom nay qua chơi vùng này biết anh em tướng quân
là những người trung nghĩa nên có mấy lời hệ trong muốn nói với tướng quân.
Hiện nay Tống tiên phong đi đánh dẹp Điền Hổ, ta có một bí quyết vẻn vẹn chỉ
mười chữ, nếu làm đúng như thế thì bắt sống được Điền Hổ. Tướng quân hãy nhớ
thật kỹ về nói lại với Tống tiên phong.
Nói đoạn đọc cho Lý Quỳ
nghe:"muốn dẹp tan Điền Hổ, phải có mũi tên Quỳnh". Đọc đi đọc lại
năm sáu lần, Lý Quỳ thấy cũng có lý bèn lẩm nhẩm đọc theo cho thật thuộc mười
chữ ấy. Người tú sĩ chỉ tay nói:
- Đằng kia có một bà cụ đang ngồi
trong núi!
Lý Quỳ ngóai nhìn, quay lại thì
không thấy người tú sĩ đâu nữa. Lý Quỳ lẩm bẩm một mình: "quái lạ, cái
người kia đi đâu mà nhanh thế? ta cứ thử vào trong núi kia xem bà già ấy là
ai". Nói đoạn Lý Quỳ xăm xăm đi vào núi, quả nhiên thấy một bà già đang
ngồi, Lý Quỳ lại gần nhìn kỹ, hóa ra lại đúng là mẹ mình! bà cụ mắt nhắm
nghìền, đẫn đờ ngồi xoãi chân trên tảng đá xanh, Lý Quỳ chạy tới ôm chầm lấy bà
cụ, nói to:
- Mẹ ơi, bao lâu nay mẹ lưu lạc
những nơi nào? Thiết Ngưu con chỉ nghe nói mẹ bị hổ vồ, nay sao lại ở đây?
Mẹ Lý Quỳ nói:
- Con ơi, không phải mẹ bị hổ vồ
đâu.
Lý Quỳ oà khóc nói:
- Nay Thiết Ngưu con đã chịu chiêu
an, làm quan triều đình rồi đấy. Đại quân của huynh trưởng Tống Công Minh đang
đóng trại ở phủ Cái Châu, Thiết Ngưu xin cõng mẹ vào thành.
Lý Quỳ nói đến đấy chợt nghe một tiếng
gầm váng tai, một con hổ vằn dữ tợn từ trong rừng chạy đến. Con hổ gầm gừ vẫy
đuôi chồm tới. Lý Quỳ vội rút búa nhằm đúng giữa đầu hổ bổ xuống, nhưng vì quá
đà nên hai búa đều giáng hụt, người ngã chúi theo. Lý Quỳ chợt tỉnh mới biết
mình vừa gục đầu trên bàn rượu ở đình Vũ Hương trong vườn Nghi Xuân.
Anh em Tống Giang cùng nhau ôn lại
chuyện cũ, câu chuyện đang đến lúc đằm. Mới đầu thấy Lý Qùy thiu thiu ngủ gật
cũng chẳng ai để ý, chợt nghe tiếng đổ rầm rầm thì ra Lý Quỳ mê ngủ giang tay
đấm thình thình trên mặt bàn, bát đĩa nẩy tung, nước canh đổ đầy hai tay áo,
miệng thều thào: "mẹ ơi, hổ cút rồi". Lúc ấy, Lý Quỳ mới mở được mắt,
thấy đèn đuốc vẫn sáng trưng, mọi người đang quây quần cả đấy, tiệc rượu cũng
chưa tàn, Lý Quỳ nói:
- Ối dà! hóa ra là chiêm bao, nhưng
mà kể cũng khóai!
Mọi người cười ồ, hỏi Lý Quỳ:
- Ngủ mê thấy gì mà khóai chí thế?
Lý Quỳ kể lại chiêm bao thấy mẹ chưa
chết, hai mẹ con đang nói chuyện thì bị hổ vồ cắt ngang. Anh em nghe kể đều
thương cảm thở dài. Lý Quỳ lại kể tiếp việc giết bọn côn đồ, đá tung bàn rượu
thiệt của chủ nhà. Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Thạch Tú nghe nói đều vỗ tay reo to:
- Khóai đấy! khóai đầy!
Lý Quỳ cười, nói:
- Cũng chưa hả bằng việc này...
Rồi kể tiếp việc giết một lúc bốn
tên gian thần Sái Kinh, Đồng Quán, Dương Tiễn, Cao Cầu. Ai nấy đều đập tay reo
to:
- hả lắm! hả lắm! như thế cũng đáng
giấc chiêm bao!
Tống Giang nói:
- Thôi anh em đừng ồn ào nữa, chẳng
qua chỉ là giấc chiêm bao, có gì quan trọng đâu.
Lý Quỳ đang hứng chuyện liền vén tay
xắn áo nói:
- Sao lại không quan trọng? cả đời
đã chắc có được việc nào thảo thích như thế? lại còn chuyện này cũng lạ lắm: có
một người tú sĩ nói với Lý Quỳ tôi: "muốn dẹp tan Điền Hổ, phải có mũi tên
Quỳnh". Người ấy nói mười chữ ấy là bí quyết để thắng Điền Hổ, bảo Lý Quỳ
tôi nhớ thật kỹ về nói lại với Tống huynh trưởng.
Tống Giang, Ngô Dụng nghe nói thế
cũng chưa hiểu thế nào. Chỉ có An Đạo Toàn nghe đến ba chữ "mũi tên
Quỳnh", đang định nói điều gì đó thì Trương Thanh liếc mắt ra hiệu. An Đạo
Toàn mỉm cười không nói nữa, Ngô Dụng nói:
- Giấc mộng của Lý Quỳ cũng lạ đấy,
đợi khi trời ngớt tuyết ta có thể tiến quân.
Mọi người tan tiệc về nghỉ ngơi,
việc không nói nữa.
Ngày hôm sau, tuyết tạnh hẳn. Tống
Giang vào trướng quân cùng Lư Tuấn Nghĩa và Ngô Dụng bàn định sẽ chia quân hai
đường đông tây tiến đánh: cánh quân phía đông vượt qua ải Hồ Quan, đánh lấy phủ
Chiêu Đức, theo đường qua Lộ Thành, Du Xã đánh thẳng vào sau lưng sào huyệt
giặc, đến lũng núi Đại Cốc thì rẽ về phía huyện Lâm, hợp binh với cánh quân
phía tây rồi cùng tiến; cánh quân phía tây đánh chiếm châu Tấn Ninh, vượt qua
núi Hắc Sơn lấy châu Phần Dương, theo đường qua các huyện Giới Hưu, Bình Đao và
huyện Kỳ thẳng tiến đến phía tây bắc châu Uy Thắng, đưa quân đến huyện Lâm hợp
binh với cánh quân phía đông cùng đánh vào châu Uy Thắng bắt Điền Hổ.
Cắt cử các tướng chỉ huy hai cánh
quân ấy như sau:
Chánh tiên phong Tống Giang quản
lĩnh chánh phó tướng bốn mươi bảy người: Quân sư Ngô Dụng, Lâm Xung, Sách Siêu,
Từ Ninh, Tôn Lập, Trương Thanh, Đái Tôn, Chu Đồng, Phàn Thuỵ, Lý Quỳ, Lỗ Trí
Thâm, Võ Tòng, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc, Mã
Lân, Yến Thuận, Giải Trân, Giải Bảo, Tống Thanh, Vương Anh, Hỗ Tam Nương, Tôn
Tân, Cố Đại Tẩu, Lăng Chấn, Thanh Long, Lý Vân, Lưu Đường, Yến Thanh, Mạnh
Khang, Vương Định Lục, Sái Phúc, Sái Khánh, Chu Quý, Bùi Tuyên, Tiêu Nhượng,
Tưởng Kính, Nhạc Hoà, Kim Đại Kiên, An Đạo Toàn, Úc Bảo Tứ, Hoàng Phủ Đoan, Hầu
Kiện, Đoàn Cảnh Trụ, Thời Thiên và hành tướng Hà Bắc Cảnh Cung.
Phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa quản
lĩnh chánh phó tướng bốn mươi người: Quân sư Chu Vũ, Tần Minh, Dương Chí, Hoàng
Tín, Âu Bằng, Đặng Phi, Lôi Hoành, Lã Phương, Quách Thịnh, Tuyên Tán, Hách Tư
Văn, Hàn Thao, Bành Kỷ, Mục Xuân, Tiêu Đĩnh, Trịnh Thiên Thọ, Dương Hùng, Thạch
Tú, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Lý Lập, Trần Đạt, Dương
Xuân, Lý Trung, Khổng Minh, Khổng Lượng, Dương Lâm, Chu Thông, Thạch Dũng, Đỗ
Thiên, Tống Vạn, Đinh Đắc Tôn, Cung Vượng, Đào Tông Vượng, Tào Chính, Tiết
Vĩnh, Chu Phú, Bạch Thắng.
Tống Giang cắt cử xong nói với Lư
Tuấn Nghĩa:
- Nay ta chia quân ở đây, đông tây
hai phía cùng tiến đánh, chẳng hay hiền đệ muốn đi phía nào?
Lư Tuấn Nghĩa đáp:
- Đại huynh làm chủ trong quân, giữ
lệnh sai binh khiển tướng, mọi việc đều tuân theo nghiêm lệnh của đại huynh, đệ
đâu dám tự ý lựa chọn?
Tống Giang nói:
- Đã đành như thế nhưng cũng còn
phải xem mệnh trời ra sao.Số phận hai cánh đã định, bây giờ sẽ viết thăm, mỗi
người bốc một chiếc xem sao?
Tống Giang liền gọi Bùi Tuyên lấy
giấy bút viết hai thăm "đông", "tây". Tống Giang và Lư Tuấn
Nghĩa thắp hương cầu khấn, rồi Tống Giang bốc trước. Chỉ biết Tống Giang bốc
được thăm ấy, đưa quân đi, đội ngũ ba quân lại có thêm mấy viên mãnh tướng, rồi
đây:
Hành ba quân thêm vài viên mãnh
tướng
Núi Năm Rồng thấy phép lạ thuật kỳ.
Chưa biết Tống tiên phong bốc được
thăm đi phía nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 94 -
Quan Thắng Khuyên Hàng Ba Tướng
Đang nói chuyện Tống Giang ở Cái
Châu bàn định xong xuôi việc phân chia binh mã thành hai đội rồi viết thăm,
cùng Lư Tuấn Nghĩa thắp hương cầu khấn. Tống Giang bốc một thăm, mở ra xem thấy
ghi chữ "đông". Lư Tuấn Nghĩa bốc thăm kia có chữ "tây".
Chuyện không phải nói nữa. Tất cả chỉ còn chờ khi tuyết đóng băng là cất quân
lên đường. Việc đóng giữ Cái Châu thì giao cho bọn Hoa Vinh, Đổng Bình, Thi Ân,
Đỗ Hưng cùng hai vạn quân lính. Đúng hôm mồng sáu là ngày tốt, Tống Giang và Lư
Túân Nghĩa đưa quân lên đường. Bỗng có tin báo hai huyện thuộc phủ Cái Châu là
Dương Thành, Tẩm Thuỷ trước kia bị Điền Hổ tàn hại, bức bách quá nên đành phải
chịu theo. Nay nghe tin triều đình sai quân đến, quân dân ở Tẩm Thuỷ bắt trói
tướng trấn thủ là Trần Khải, hiện đã áp giải đến trước trướng quân. Các bô lão
hai huyện cùng đám đông dân chúng dắt dê gánh rượu đến xin hiến nộp thành trì.
Tống tiên phong cả mừng, khen thưởng trọng hậu cho quân dân hai huyện, cấp bảng
chiêu an cho về treo vỗ yên trăm họ, cho ai nấy được trở lại làm kẻ lương dân.
Tống tiên phong xét bọn Khấu Phu, Trần Khải nghe tin triều đình đưa quân đến mà
không sớm cởi giáp quy hàng, ra lệnh chém đầu làm lễ tế cờ, cảnh cáo quân giặc.
Trong ngày hôm ấy, hai đạo quân đều theo đường cửa bắc ra đi. Hoa Vinh và các
tướng ở lại đặt rượu tiễn đưa, Tống Giang cầm chén, nói với Hoa Vinh:
- Hiền đệ mấy phen khiến quân giặc
bạt vía kinh hồn, uy danh hiền đệ lừng lẫy cũng đủ giữ yên thành. Nhưng miền
này phía bắc liền đất địch, nếu chúng kéo đến, hiền đệ phải nghĩ mưu sâu kế lạ
mà đánh trả, khiến bọn chúng lần sau không dám đánh tràn xuống phía nam nữa.
Bọn Hoa Vinh dạ vâng lệnh. Tống
Giang lại cầm chén quay nói với Lư Tuấn Nghĩa:
- Hôm nay xuất quân vừa gặp dịp may,
dân hai huyện Dương Thành, Tẩm Thuỷ giải tù binh đến nộp. Hai huyện ấy đã dẹp
yên, hiền đệ có thể rong ruổi tiến thẳng đến Tấn Ninh, sớm lập công lớn, bắt
sống tên đầu sỏ giặc là Điền Hổ, báo tin thắng trận về triều, anh em ta sẽ cùng
chung hưởng phú quý.
Lư Tuấn Nghĩa đáp:
- Nhờ uy danh của huynh trưởng, hai
huyện kia không cần đánh mà lấy được về. Nay vâng lệnh theo nghiêm lệnh, Tuấn
Nghĩa tôi đâu dám không hết sức dốc lòng!
Tống Giang lại lấy ra một cuộn địa
đồ mà từ hai hôm trước đã sai Tiêu Nhượng theo đúng bức họa của Hứa Quán Trung
sao thêm một bản đưa cho Lư Tuấn Nghĩa. Tống Giang chia cánh quân của mình
thành ba đội: Lâm Xung, Sách Siêu, Từ Ninh, Trương Thanh dẫn một vạn quân đi
tiền đội; Tôn Lập, Chu Đồng, Yến Thuận, Mã Lân, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc,
Thang Long, Lý Vân dẫn một vạn quân đi hậu đội. Tống Giang, Ngô Dụng, và các
tướng còn lại thống lĩnh đội trung quân ba vạn người. Tất cả năm vạn, nhằm
hướng đông bắc mà tiến.
Phó tiên phong Lư Túân Nghĩa cáo từ
Tống Giang, tạm biệt anh em Hoa Vinh, thống lĩnh ch anh phó tướng bốn mươi ngàn
quân ra đóng trại ở hai nơi cách cửa thành phía bắc năm dặm, bố trí sẵn quân
cung nỏ và hỏa khí, sẵn sàng giao chiến với quân địch. Hai phía đông tây cũng
đặt sẵn quân mai phục, việc ấy không cần nói đến.
Lúc này bọn Sử Tiến, Mục Hoằng cầm
quân giữ huyện Cao Bình: Lý Ứng, Sài Tiến cầm quân giữ huyện Lăng Xuyên; ở Vệ
Châu thì có Công Tôn Nhất Thanh, Quan Thắng và Hô Diên Chước, chắc bạn đọc hãy
còn nhớ cả.
Nói tiếp ba đội quân mã của Tống
tiên phong rời khỏi Cái Châu đã được hơn ba mươi dặm. Tống Giang ngồi trên ngựa
xa trông phía trước thấy một ngọn núi cao. Chẳng bao lâu, người ngựa dần dần đi
qua chân núi bên trái.
Tống Giang mài ngắm cảnh núi, chợt
thấy Lý Quỳ đi đến gần, chỉ tay nói:
- Thưa huynh trưởng, phong cảnh núi
này chẳng khác gì ngọn núi hôm trước đệ thấy trong giấc chiêm bao.
Tống Giang bèn gọi hàng tướng Cảnh
Cung đến hỏi:
- Ngươi ở vùng đây đã lâu, chắc có
biết lai lịch ngọn núi này? cứ như trong bức họa đồ của Hứa Quán Trung thì dãy
núi phía đông thành Cái Châu này gọi là ngọn Thiên Trì lĩnh.
Lý Quỳ vội nói:
- Đúng là núi Thiên Trì lĩnh, người
tú sĩ trong giấc chiêm bao nói với đệ như thế, ban nãy đệ quên khuấy đi mất.
Cảnh Cung nói:
- Núi này đúng là ngọn Thiên Trì
lĩnh, vách núi dựng đứng như bức thành, người xưa từng lánh quân trong đó. Gần
đây, dân quanh vùng đồn ngọn núi ấy là điềm thiêng, ban đêm thấy ánh sáng đỏ
rực trên đỉnh núi. Lại nghe nói có người kiếm củi ngửi thấy mùi thơm sực nức
bên hẻm núi.
Tống Giang nghe xong, nói:
- Nếu thế thì càng phù hợp với giấc
chiêm bao của Lý Quỳ.
Ngày hôm ấy quân đi sáu mươi dặm mới
nghỉ đóng trại. Chuyện trên đường đi không cần nói đến. Đoàn người ngựa đi mất
mấy hôm mới đến phía nam cửa ải Hồ Quan. Khi cách thành năm dặm thì dừng lại
đóng trại nghỉ ngơi.
Lại nói Hồ Quan nguyên là một cửa ải
ở phía đông sườn núi, hình núi trông giống như nậm rượu, từ đời Hán đã đặt cửa
ải tại đây, nhân thế nên gọi ải Hồ Quan. Sườn núi ải Hồ Quan chạy dài tiếp liền
với núi Bão Độc Sơn thuộc tỉnh Sơn Đông, Hồ Quan ở giữa hai núi ấy là cửa ải
hiểm yếu cách phủ thành Chiêu Đức hơn tám mươi dặm. Lúc ấy tám viên mãnh tướng
của Điền Hổ chỉ huy ba vạn tinh binh đóng giữ phủ Chiêu Đức. Tám viên mãnh
tướng ấy là: Sơn Sĩ Kỳ, Lục Huy, Sử Định, Ngô Thành, Trọng Lương, Vân Tông Vũ,
Ngũ Túc, Trúc Kính.
Lại nói Sơn Sĩ Kỳ, nguyên là con một
nhà phú hộ ở Tẩm Châu sức vóc võ nghệ hơn người, vì giết người phải lánh trốn
rồi làm thủ hạ cho Điền Hổ, sau ra trận có công, được giao chức đô giám. Sơn Sĩ
Kỳ quen dùng một cây thiết côn nặng bốn mươi cân. Điền Hỏ nghe tin triều đình
sai bọn Tống Giang đưa binh mã đến đánh, đặc sai Sơn Sĩ Kỳ đến phủ Chiêu Đức
chọn lấy một vạn tinh binh, cùng bọn Lục Huy ra đóng giữ ải Hồ Quan. Sơn Sĩ Kỳ
được quyền tuỳ nghi điều khiển quân dân trong phủ.
Sơn Sĩ Kỳ đến ải Hồ Quan, nghe tin
Cái Châu đã mất, nghĩ quân Tống thế nào cũng đến đánh lấy cửa ải nên lo lắng vỗ
yên binh dân, sẵn sàng nghênh địch. Bỗng có tin báo quân Tống đến đóng trại
cách cửa ải năm dặm, Sĩ Kỳ liền điểm ngay một vạn kỵ binh cùng Sử Định, Trúc Kính,
Trọng Lương mặc giáp lên ngựa đưa quân ra ngoài cửa ải dàn trận đối địch với
quân Tống. Hai bên bày sẵn trận thế, đặt quân cung nỏ để giữ vững trận tuyến.
Trống trận hai bên cùng khua vang, cờ lệnh đủ màu tung bay phấp phới. Dưới cờ
suý bên quân Điền Hổ, một viên tướng ghìm ngựa đứng trước trận.
Sơn Sĩ Kỳ quát lớn:
- Bọn giặc cỏ sao dám xâm phạm cương
giới của chúng ta?
Bên quân Tống, Báo tử đầu Lâm Xung
vỗ ngựa ra trước trận quát to:
- Tên phản tặc kia, thiên binh đã
đến sao mi còn dám chống cự?
Dứt lời, Lâm Xung xách mâu thúc ngựa
xông đến đánh Sơn Sĩ Kỳ. Hai tướng đọ tài trước trận hơn năm mươi hiệp chưa
phân thắng bại. Quân đôi bên hò la trợ chiến. Lâm Xung thầm khen võ nghệ của
địch thủ. Trúc Kính thấy Sơn Sĩ Kỳ không chắc thắng liền vỗ ngựa múa đao ra
đánh giúp. Bên trận quân Tống, Một vũ tiễn Trương Thanh phóng ngựa ra chặn
đường. Bốn tướng chia làm hai đôi quần thảo trên lưng ngựa. Trương Thanh và
Trúc Kính đánh hơn hai mươi hiệp thì Trương Thanh đuối sức bèn quay ngựa chạy
về. Trúc Kính vỗ ngựa đuổi theo. Trương Thanh liền đeo thương vào móc đai, thò
tay vào túi gấm lấy đá rồi quay lại nhắm đúng giữa mặt Trúc Kính liệng vút đi,
miệng quát: "trúng này!" Quả nhiên viên đá trúng giữa mũi Trúc Kính
lăn nhào xuống ngựa, máu me đầm đìa. Trương Thanh xách thương quay ngựa lại
nhưng bên quân Điền Hổ có Sử Định, Trọng Lương phóng ngựa ra cứu thóat. Quân
giữ ải thấy Trúc Kính ngã ngựa, sợ Sơn Sĩ Kỳ có điều sơ suất bèn đánh chiêng
thu quân. Tống Giang cũng cho thu quân về trại.
Tống Giang bàn với Ngô Dụng:
- Hôm nay mất một tướng chắc bọn
chúng có phần nhụt chí. Nhưng địa thế ở đây núi non hiểm trở, thành lũy kiên
cố, chưa biết dùng mưu gì mà đánh?
Lâm Xung nói:
- Ngày mai bọn ta lại lên cửa ải
khiêu chiến, giết cho được tên tướng kia rồi đốc quân đánh vào chiếm ải.
Ngô Dụng nói:
- Lâm tướng quân chớ nôn nóng. Binh
thư Tôn Vũ có câu: "chưa thắng thì giữ, chắc thắng mới đánh". Nay ta
chưa chắc thắng thì phải phòng giữ, khi nào thắng được hãy nên đánh vào.
Tống Giang nói:
- Quân sư nói đúng lắm.
Hôm sau, Lâm Xung, Trương Thanh đến
xin Tống tiên phong cho đưa quân đi khiêu chiến, Tống Giang căn dặn:
- Dù có thắng hai tướng cũng chớ nên
khinh suất, đưa quân vào chiếm ải.
Một mặt Tống Giang sai Từ Ninh và
Sách Siêu đưa quân đi tiếp ứng. Lâm Xung, Trương Thanh liền dẫn năm nghìn quân
kỵ tiến đến trước cửa ải đánh trống phất cờ quát mắng khiêu chiến. Nhưng từ
giữa buổi đến đúng ngọ, trên cổng Hồ Quan hoàn toàn im ắng. Lâm Xung, Trương
Thanh định cho quân quay về trại, bỗng nghe một tiếng pháo lệnh nổ vang, cửa ải
bật mở, Sơn Sĩ Kỳ cùng bọn Ngũ Túc, Sử Định, Ngô Thành, Trọng Lương dẫn hai vạn
quân ào ạt xông ra. Lâm Xung gọi to:
- Quân giặc chờ cho ta mệt mỏi mới
đánh ra, anh em phải cố sức mà đánh!
Sách Siêu, Từ Ninh đang ở phía sau
liền hô quân vượt lên trước. Hai bên dàn thành thế trận, chẳng thèm đối đáp gì,
từng đôi chiến tướng xáp vào giao chiến. Lâm Xung đánh Ngũ Túc, Sơn Sĩ Kỳ vừa
thúc ngựa ra, Trương Thanh trông thấy liền xách ngọn hoa lê thương chặn đánh.
Ngô Thành, Sử Định cùng ra một lúc, một mình Sách Siêu vung búa ghìm đánh cả
hai tướng. Quân hai bên hò reo không ngớt, bẩy tướng sát khí hầm hầm quần thảo
trên lưng ngựa. Chiến mã lúc qua lúc lại, từng đôi tung vó giữa đám bụi mù.
Đang lúc say đánh, Báo tử đầu Lâm Xung quát to một tiếng, tay thúc đầu mâu đâm
Ngũ Túc lăm nhào xuống ngựa. Ngô Thành và Sử Định đuối sức không địch nổi Sách
Siêu. Thấy Ngũ Túc ngã ngựa, Sử Định vội đâm dứ một đường rồi rẽ ngựa chạy về
trận nhà. Ngô Thành thấy vậy cũng muốn tìm lúc sơ hở để thóat ra ngoài nhưng luống
cuống bị lưỡi búa của Sách Siêu chém đứt làm hai đoạn. Sơn Sĩ Kỳ mất hai tướng,
vội quay ngựa về trận nhà. Trương Thanh đuổi sát, vung tay liệng đá trúng vào
sau mũ sắt của Sơn Sĩ Kỳ, nghe đánh "cheng" một tiếng. Sĩ Kỳ kinh
hoảng, rạp lưng sát yên ngựa mà chạy. Trọng Lương cũng vội khua quân quay về
cửa quan. Lâm Xung dẫn quân đuổi sát theo sau. Quân Điền Hổ thua to. Sơn Sĩ Kỳ
trống vào sau ải, gọi quân canh đóng chặt cổng. Quân Lâm Xung bị tên đạn từ
trên mặt thành bắn xuống rào rào không xông lên được. Lâm Xung bị trúng tên bên
vai trái, đành phải lui quân. Tống Giang sai mời thần y An Đạo Toàn buộc thuốc
điều trị. Cũng may áo giáp khá dày nên vết thương không sâu lắm.
Lại nói Sơn Sĩ Kỳ vào sau ải, điểm
lại quân sĩ thấy hao hụt hơn hai nghìn, lại mất thêm hai tướng. Sĩ Kỳ một mặt
sai người về phủ Uy Thắng tâu với Điền Hổ: vì binh thế Tống Giang rất mạnh,
trấn ải khó giữ, xin Tấn vương sai thêm tướng giỏi đến đóng giữ. Lại sai đưa
thư mật hẹn với các tướng trấn thủ ở núi Bão Độc là Đường Bân, Văn Trọng Dung,
Thôi Dã đưa quân thiện chiến từ phía đông núi Bão Độc vòng ra phía sau quân
Tống, đúng ngày đã hẹn sẽ cho bắn pháo làm hiệu ở ải Hồ Quan. Sĩ Kỳ sẽ đưa quân
ra cửa ải, hai phía đánh ốp vào thì cầm chắc phần thắng. Mọi việc bàn tính
xong, ai nấy trở về lo canh phòng quan ải, chờ tin của bọn Đường Bân, việc ấy
không có gì phải nói.
Lại nói Tống tiên phong thấy địa thế
ải Hồ Quan hiểm trở chưa thể lấy ngay được, đành cho đóng quân cầm cự đã hơn
nửa tháng. Lúc này Tống tiên phong đang ngồi trong trướng, bỗng có người vào
báo: đại đao Quan Thắng trấn thủ ở Vệ Châu có việc cơ mật sai người đưa thư
đến. Tống Giang và Ngô Dụng liền mở ra xem, trong thư viết:
"Trại chủ Bão Độc Sơn là Đường
Bân trước giữ chức võ quan ở phủ Bồ Đông, từng kết nghĩa anh em với Quan Thắng
tôi. Vì bọn cừơng hào hãm hại, Đừơng Bân tức giận giết chết kẻ thù, bị quan phủ
truy lùng rất gấp phải trống xuống phương nam. Lúc ấy Đường Bân định theo về
Lương Sơn Bạc, nhưng khi qua núi Bão Độc bị quân cướp chặn đường. Đường Bân
đánh lại bọn đầu mục trên núi là Văn Trọng Dung, Thôi Dã. Bọn này không thắng
nổi mời Đường Bân lên núi nhường làm trại chủ. Năm ngoái Điền Hổ chiếm ải Hồ
Quan bức b ach bọn Đường Bân quy thuận. Bản ý Đường Bân vẫn không muốn theo
Điền Hổ, nhưng vì thế cô, đành phải đầu hàng, xin đóng quân ở núi cũ làm thế ỷ
dốc cho ải Hồ Quan. Nghe tin Quan Thắng tôi đến làm trấn thủ ở Vệ Châu, nhân
dịp tết nguyên đán vừa qua, Đường Bân cưỡi ngựa đi lén về Vệ Châu tìm gặp, kể
lại với Quan Thắng tôi nỗi niềm oan khuất. Đường Bân từ lâu kính trọng huynh
trưởng là người trung nghĩa, vẫn mong đến đầu hàng dưới cờ của huynh trưởng để
được lập công chuộc tội. Quan Thắng tôi cũng lấy ngựa cùng Đừơng Bân về trại
Bão Độc sơn. Văn Trọng Dung, Thôi Dã cũgn là người hào hiệp thẳng thắn, muốn uy
thụân triều đình. Bọn họ muốn mật ước với huynh trưởng để thừa cơ đọat ải, dâng
nộp huynh trưởng để làm lễ tiến thân ".
Tống Giang xem xong thư, bàn với Ngô
Dụng đóng binh bất động, chờ xem trong cửa ải động tĩnh ra sao rồi liệu cách
đối phó.
Lại nói Sơn Sĩ Kỳ sai quân đưa thư,
hẹn Đường Bân đưa quân vòng sau lưng quân Tống. Quân đưa thư về thưa:
- Hiện nay đang giữa kỳ trăng sáng
như ban ngày. Xin đợi ít lâu trời tối hãy cho xuất binh.
Sĩ Kỳ nói:
- Thế cũng được!
Tiếp liền mười mấy ngày sau cũng
không thấy bên Tống đem quân đến đánh, chợt có tin báo Đường Bân dẫn theo mấy
tên quân kỵ rẽ tắt đầu núi Bão Độc vòng đến sau cửa ải. Một lúc sau, Đường Bân
đến cổng Hồ Quán yết kiến Sơn Sĩ Kỳ.
Đường Bân nói:
- Canh ba đêm nay Văn Trọng Dung,
Thôi Dã sẽ dẫn một vạn quân người bỏ giáp, ngựa tháo đạc, lén đi về phía đông
núi Bão Độc, mờ sáng sẽ đến phía sau doanh trại quân Tống. Vậy xin tướng quân
hãy chuẩn bị sẵn sàng để kịp thời tiếp ứng.
Sơn Sĩ Kỳ vui mừng nói:
- Hai mặt đánh ốp vào, quân Tống ắt
đại bại!
Nói đoạn Sĩ Kỳ sai dọn rượu khoản
đãi Đường Bân. Đêm đến Đừơng Bân lên cổng ải nhìn ra, bất chợt nói:
- Qúai lạ, dưới ánh sao mờ mờ ta
trông thấy dường như có tên quân do thám?
Vừa nói vừa với tay rút hai chiếc
tên trong ống của tên lính đứng hầu bên cạnh trương cung ngắm ra ngoài cửa ải
mà bắn. Đúng lúc ấy, theo mưu kế định trước có mấy tên quân Tống giả làm quân
do thám đi nghe ngóng tình hình bên trong cửa ải. Một tên quân do thám trúng
tên ở bắp chân đau nhói nhưng lấy làm lạ vì thấy phát tên dường như không có
mũi. Tên quân ấy nhặt lên xem, hoá ra đầu mũi tên quấn lụa, biết có điều bí ẩn
liền chạy về trại nộp mũi tên cho Tống tiên phong. Tống Giang ghé sát ngọn nến,
tháo lớp bọc đầu ra xem thấy bên trong có mảnh giấy viết chữ nhỏ. Đó là thư mật
ước của Đường Bân: rạng sáng ngày mai sẽ dâng nộp cửa ải. Văn Trọng Dung và
Thôi Dã dẫn quân lén đến phía sau doanh trại của Tống tiên phong. Nghe tiếng
pháo lệnh, Sơn Sĩ Kỳ sẽ đưa quân mở cửa ải đánh ra tiếp ứng. Đường Bân ở bên
trong thừa cơ đọat lấy cửa ải, xin Tống tiên phong sẵn sàng đưa quân vào ngay.
Tống Giang xem xong bàn ngay với quân sư Ngô Dụng để biết mật chuẩn bị. Ngô
Dụng nói:
- Quan Thắng tính liẹu chu đáo.
Nhưng ở vào thế có địch sau lưng, chúng ta không thể không đề phòng. Nên sai
Tôn Lạp, Chu Đồng, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc, Yến Thụân dẫn một vạn quân,
cuốn cờ im trống lặng lẽ ra sau trại. Nếu hai tướng Văn, Thôi đưa quân đến thì
tìm cách ngăn lại, không cho vào sát doanh trại, chỉ khi nào nghe pháo hiệu
"oanh thiên" báo tin quân ta đã lấy được ải thì mới để cho họ đưa
quân vào. Lại sai Từ Ninh, Sách Siêu dẫn năm nghìn quân lén ra mai phục ở phía
đông; Lâm Xung, Trương Thanh dẫn năm nghìn quân lén ra mai phục ở phía tây, hễ
nghe trong trại bắn súng lệnh thì cả hai phía nhất tề xông ra tiếp ứng, hợp
binh đánh vào chiếm cửa ải. Nếu gặp bất trắc quân ta mắc mưu gian của giặc thì
hai đội quân đông, tây ấy sẽ quay về cứu ứng trong doanh trại.
Tống Giang nói:
- Quân sư trù liệu rất chu đáo!
Liền đó Tống Giang theo lời bàn của
Ngô Dụng truyền lệnh cho các tướng thì hành, ai nấy đều tuân lệnh ra đi.
Lại nói Sơn Sĩ Kỳ ở trong cửa ải,
theo mưu kế của Đường Bân, đang chờ nghe tiếng súng nổ sau doanh trại quân
Tống. Đợi đến gần sáng, bỗng nghe tiếng pháo liên châu nổ vang ở phía nam cửa
ải. Đường Bân cùng Sơn Sĩ Kỳ lên cửa ải nhìn ra, thấy bụi cuốn mịt mù sau doanh
trại quân Tống cờ lệnh nhiều màu tung bay. Đường Bân nói:
- Hai tướng Văn, Thôi đưa quân đế!
xin tướng quân cho người ngựa ra ngoài cửa quan tiếp ứng!
Sơn Sĩ Kỳ cùng Sử Định dẫn một vạn
tinh binh đi trước giao cho Đường Bân và Lục Huy đem một vạn quân tiếp ứng, lại
sai Trúc Kính và Trọng Lương ở lại đóng giữ cửa ải. Lúc ấy, quân Tống thấy quân
bên trong đánh ra vội rút lui về phía sau. Sơn Sĩ Kỳ dẫn đầu hô quân đuổi theo.
Bỗng nghe tiếng súng nổ vang, rồi hai đội quân kỵ từ hai phía tả hữu ào ra đánh
úp.
Đường Bân thấy vạy vội quay ngựa đưa
quân về, cầm ngang đầu mâu đứng chặn trước cửa ải. Sơn Sĩ Kỳ và Sử Định đang
giao chiến với quân Tống, bỗng nghe một tiếng súng nổ trong doanh trại quân
Tống. Ấy là lúc Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn dẫn quân đao thuẫn xông tới.
SƠn Sĩ Kỳ biết quân Tống đã chuẩn bị trước, vội vẫy quân quay ngựa trở về, Sơn
Sĩ Kỳ về đến nơi thấy viên tướng đang ghìm ngựa đứng trước ải bất ngờ quát to:
- Có Đường Bân ở đây! Sơn Sĩ Kỳ hãy
xuống ngựa đầu hàng.
Đường Bân chưa dứt lời đã vung đầu
mâu đâm chết Trúc Kính. Sơn Sĩ Kỳ hoảng sợ dẫn hơn chục tên quân kỵ liều mạng
đánh mở đừơng chạy về phía tây. Lâm Xung, Trương Thanh vội đem quân lên chiếm
cửa ải nên không đuổi theo. Lúc ấy Lý Quỳ đã dẫn quân bộ trèo lên chiếm cửa ải,
cho bắn súng báo hiệu, rồi cùng với Đường Bân đuổi đánh quân canh cửa, đoạt lấy
ải Hồ Quan, Trọng Lương bị đâm chết trong đám loạn quân. Ngoài cừa ải, Sử Định
bị Từ Ninh đâm hất nhào xuống ngựa. Quân Điền Hổ tan tác chạy trốn, ngựa chiến,
áo giáp, mũ trận vứt bỏ lại rất nhiều, chết tại trận hơn một nghìn, bị bắt cũng
hơn năm trăm, số đầu hàng đông không đếm xuể.
Một lúc sau đại quân của Tống tiên
phong lần lượt kéo vào cửa ải. Đường Bân xuống ngựa, đến yết kiến Tống Giang,
Đừơng Bân nói:
- Tiểu nhân trót phạm tội, nghe danh
tiếng tiên phong là người nhân nghĩa, đã từng khi muốn theo về đại trại, hiểm
vì không có ai tiến dẫn cho. Không ngờ hôm nay lại may mắn được bái yết tôn
nhan. Nếu tiên phong chấp thuận cho tiểu nhân từ nay được cầm cương theo hầu
thì Đường Bân tôi thoả nguyện trọn đời.
Đường Bân nói xong lại sụp lạy lần
nữa. Tống Giang đáp lễ không kịp, vội dìu Đừơng Bân đứng dậy nói rằng:
- Nay tướng quân quy thuận triều
đình, cùng Tống Giang tôi đi dẹp giặc, khi về triều Tống Giang tôi sẽ xin tâu
lên để thiên tử xét công thăng thưởng cho tướng quân.
Một lúc sau, bọn Tôn Lập, Văn Trọng
Dung, Thôi Dã dẫn hai đội quân mã đến ngòai cửa ải chờ lệnh. Tống Giang sai mời
hai tướng Văn, Thôi vào tiếp kiến, còn anh em Tôn Lập cứ tạm cho đóng quân
ngoài cửa ải. Văn Trọng Dung và Thôi Dã vào yết kiến, nói với Tống tiên phong rằng:
- Trọng Dung, Thôi Dã bọn tôi thật
có duyên may được theo hầu dưới cờ của tiên phong, xin nguyện dốc lòng tận tuỵ.
Tống Giang cả mừng, nói:
- Các tướng quân góp sức lấy cửa ải
này, công lao thật không nhỏ, Tống Giang tôi sẽ cho ghi công.
Nói đọan sai bầy tiệc khoản đãi bọn
Đường Bân. Một mặt sai điểm số quân giữ ải, số quân quy thuận tất cả hơn hai
vạn người, hơn nghìn con ngựa chiến. Các tướng đều đến báo công. Khai thưởng
quân sĩ xong, Tống tiên phong hỏi chuyện Đường Bân về tình hình quân giặc ở phủ
thành Chiêu Đức.
Đường Bân nói:
- Trong thành truớc có ba vạn quân
mã, Sơn Sĩ Kỳ lấy đi giữ ải một vạn, hiện còn hai vạn do mười viên chánh phó
tướng chỉ huy. Mười viên tướng ấy là: Tôn Kỳ, Diệp Thanh, Kim Đĩnh, Hoàng Việt,
Lãnh Ninh, Đái Mỹ, Ông Khuê, Dương Xuân, Ngưu Canh, Sái Trạch.
Đường Bân lại nói:
- Điền Hổ coi ải Hồ Quan là tấm chắn
cửa thành Chiêu Đức, nay Hồ Quan thất thủ, Điền Hổ khác nào cụt mất một tay.
Đường Bân tôi dẫu bất tài cũng xin dẫn quân đi đánh phủ Chiêu Đức.
Khi ấy, hàng tướng Lăng Xuyên là
Cảnh Cung cũng xin được đi hàng tiền bộ cùng Đường Bân. Lát sau, Tống Giang nói
với Văn Trọng Dung, Thôi Dã:
- Hai tướng quân uy danh lừng lẫy,
từ trước vẫn đóng trại ở Bão Độc sơn, đã biết rõ địa hình. Tống Giang tôi muốn
nhờ hai tướng quân quản lĩnh binh mã bản bộ trở về đóng giữ ở đó để chắn giữ
một phương, đợi khi anh em Tống Giang tôi lấy được thành Chiêu Đức sẽ xin mời
hai tướng quân đến hội, chẳng hay hai vị có vui lòng không?
Văn Trọng Dung, Thôi Dã đáp:
- Tướng quân sai phái, chúng tôi đâu
dám trái lệnh!
Tan tiệc hai tướng Văn Trọng Dung,
Thôi Dã từ biệt Tống tiên phong đưa quân về Bão Độc sơn.
Ngày hôm sau, Tống tiên phong vào
trong trướng sai Đái Tôn sang châu Tấn Ninh gặp phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa để
hỏi tin chiến trận. Tống Giang cùng quân sư Ngô Dụng bàn tính điều động quân
đánh thành Chiêu Đức. Đường Bân, Cảnh Cung dẫn một vạn quân đánh vàoo cửa đông.
Sách Siêu, Trương Thanh dẫn một vạn quân đánh vào cửa nam, cửa tây bỏ trống vì
nếu có quân cứu viện từ châu Uy Thắng đến thì đằng trước đằng sau đều gặp địch.
Sai Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn chỉ huy năm trăm quân bộ làm thành đội
du binh qua lại sẵn sàng tiếp ứng cho các cửa; giao cho Tôn Lập, Chu Đồng, Yến
Thuận đưa quân vào đóng ở cửa ải, cùng với Phàn Thuỵ, Mã Lân quản lĩnh binh mã
nhổ trại tiến đến cách phía nam thành Chiêu Đức mười dặm.
Chuyện kể theo hai hướng: trước hãy
nói chuyện ở châu Uy Thắng, quan sảnh viện tiếp được văn thư cáo cấp của tướng
trấn thủ cửa ải Hồ Quan là Sơn Sĩ Kỳ và trấn thủ châu Tấn Ninh Điền Bưu liền
tâu để Tấn vương Điền Hổ biết tình thế nguy cấp ở hai nơi đó. Điền Hổ ngự triều
cùng các quan bàn tính đưa quân đi cứu viện. Trong hàng chầu có viên quan đội
mũ vàng mặc áo lông hạc bước ra khỏi hàng quỳ tâu:
- Muôn tâu đại vương, hạ thần xin
đến Hồ Quan đánh lui quân địch.
Người ấy là Kiều Liệt, gốc tích
người huyện Kinh Nguyên tỉnh Thiểm Tây. Khi bà mẹ mang thai chiêm bao thấy chó
sói vào nhà, sau lại biến thành con hươu, tỉnh giấc thì sinh Kiều Liệt. Lên tám
tuổi Kiều Liệt đã biết đánh gậy múa thương. Một hôm vào chơi trong núi Không
Động, Kiều Liệt tình cờ được một người lạ dạy cho phép huyễn thuật có thể gọi
gió kêu mưa, đi mây về mù. Sau đó Kiều Liệt tìm đến núi Ngưu Tiên ở huyện Cửu
Cung tìm thầy học đạo. La chân nhân không tiếp, sai đạo đồng ra bảo Kiều Liệt
"ngươi dùng phép thuật làm điều bất chính không giác ngộ đạo lý huyền vi.
Khi nào đạo đức của ngươi được cảm hóa hãy đến tìm ta". Kiều Liệt tức
giậnc về nhà, tực đắc có tài phép thuật, ngao du khắp nơi chẳng chút e dè. Dân
chúng thấy gã ta có phép huyễn thuật, ai nấy đều gọi là "huyễn ma
quân". Về sau Kiều Liệt đến châu An Định. Châu này bị đại hạn đã năm tháng
không có một hột mưa, quan quân treo bảng hễ ai cầu đảo được mưa thì sẽ cấp ba nghìn
quan tiền thưởng. Kiều Liệt nhạnt việc lên đàn, liền có ngay một trận mưa nhuần
rất lớn. Quan châu thấy ứng nghiệm sai đem tiền thưởng cho Kiều Liệt. Vùng này
có một gã họ Hà tên Tài, tuy cũng có học hành chút ít nhưng quen thói bất
lương, thường ngày chơi thân với tên tiểu lại giữ kho tiền. Bấy giờ Hà Tài biết
chuyện liền xui tên tiểu lại giữ kho lấy quá nửa số tiền đáng phải trả thưởng
cho Kiều Liệt đem biếu cho quan châu, còn thừa thì lấy riêng cho mình. Hà Tài
và tên tiểu lại lấy tiền ấy cho vay lãi chia phần với nhau. Khi Kiều Liệt đến
lĩnh thưởng, viên tiểu lại coi kho nói:
- Đại ca có phép thụât cao cường thì
chẳng cần dùng đến tiền! bọn tôi đây chỉ sống nhờ chút ít lương bổng, ăn tiêu
chẳng đủ, thường cứ vay cào vay cấu mới xong. Khoản tiền thưởng đại ca cứ tạm
để trong kho bọn tôi giữ hộ, khi cần dùng thì đến đây lấy dần.
Kiều Liệt nghe xong nổi giận mắng:
- Tiền thưởng là do các nhà giầu có
trong châu góp lại, sao ngươi dám quỵt của ta? Lương tiền trong kho đều là máu
mủ của dân, các ngươi chỉ tìm cách vơ vét cho béo thân, ăn chơi trác táng, làm
hỏng nát bao chuyện quốc gia đại sự! ngươi thật là một tên lại dịch bẩn thủi!
ta phải giết ngươi để trừ bỏ con sâu con mọt đục khoét trong kho.
Nói đọan vung tay đấm vào mặt tên
coi kho. Tên ấy người to béo, nhưng vì tửu sắc trác táng nên sức lực hư nhụt
chưa nhấc chân động tay đã thở hồng hộc, nói chi đến chuyện đọ sức tay đôi!
Kiều Liệt đấm đá một hồi, tên coi kho chỉ còn thở thoi thóp như cái xác, bò lết
về nhà nằm rên bốn năm ngày rồi đau quá mà chết. Vợ hắn phát đơn kiện lên quan.
Quan châu xem qua, sáu bảy phần đã đóan ra nguyên do vì món tiền thưởng, liền
thảo trát sai quân đi bắt hung thủ Kiều Liệt. Kiều Liệt biết tin, đang đêm trốn
về Kinh Nguyên thu xếp đưa mẹ bỏ nhà trốn sang châu Uy Thắng, đổi họ, thay tên
là Thanh, đặt pháp hiệu là Đạo Thanh để che giấu tung tích. Về sau Điền Hổ nổi
loạn biết Đạo Thanh có phép thuật bèn loi kéo theo mình. Đạo Thanh đặt chuyện
phao đồn, trổ ngón huyễn thuật mê hoặc dân chúng cho Điền Hổ chiếm đọat các
châu huyện. Điền Hổ có việc gì cũng hỏi ý của Đạo Thanh, đặt hiệu cho Đạo Thanh
là "hộ quốc linh cảm chân nhân", phong chức quân sư tả thừa tướng.
Đến lúc này Đạo Thanh mới chịu nói họ thật, vì thế người ta gọi y là quốc sư
Kiều Đạo Thanh.
Bấy giờ Kiều Đạo Thanh tâu với Điền
Hổ đưa quân mã đến ải Hồ Quan cự địch, Điền Hổ nói:
- Quốc sư biết chia sẻ nỗi lo với
quả nhân!
Điền Hổ chưa nói dứt lời, lại có
quan điện suý là Tôn An tâu rầng:
- Hạ thần xin đưa quân mã cứu viện
châu Tấn Ninh.
Điền Hổ liền phong cho Kiều Đạo Thanh
và Tôn An chức chính nam đại nguyên suý, mỗi người lĩnh hai vạn quân mã bộ lên
đuờng chặn địch. Kiều Đạo Thanh lại tâu:
- Hồ Quan đang nguy cấp, thần xin
dẫn một đội khinh kỵ đi ngay.
Điền Hổ cả mừng, truyền lệnh cho khu
mật điện điều quân cho Kiều Đạo Thanh và Tôn An ra trận. Kiều Đạo Thanh và Tôn
An điểm quân lên đường ngay hôm ấy.
Tôn An người huyện Kinh Nguyên, cùng
quê với Kiều Đạo Thanh, thân dài chín thước, có tài thao lược, sức vóc hơn
người học võ nghệ vào loại xuất sắc, quen dùng đôi kiếm thép. Vì báo thù cho
cha, Tôn An giết hai kẻ cừu địch, bị quan phủ truy lùng phải bỏ nhà chạy trốn.
Tôn An chơi thân với Kiều Đạo Thanh. Khi nghe tin Kiều Đạo Thanh đã theo Điền
Hổ, Tôn An liền chạy sang châu Uy Thắng tìm Kiều Đạo Thanh kể thật sự tình. Kiều
Đạo Thanh bèn tiến dẫn Tôn An cho Điền Hổ. Tôn An cầm quân ra trận có công,
được Điền Hổ phong chức điện suý.
Hôm ấy Tôn An thống lĩnh mười viên
chánh phó tướng, quân mã, bộ hai vạn lên đường cứu nguy châu Tấn Ninh. Mười
viên chánh phó tướng ấy đều được phong chức thống chế. Đó là: Mai Ngọc, Tần
Anh, Kim Trinh, Lục Thanh, Phan Tấn, Dương Phương, Phùng Thăng, Hồ Mại, Lục
Phương.
Tôn An từ biệt Kiều Đạo Thanh thống
lĩnh quân mã lên đường đi Tấn Ninh.
Lại nói Kiều Đạo Thanh giao hai vạn
quân mã cho hai viên đoàn luyện sứ là Nhiếp Tân và Phùng Kỷ chỉ huy đi sau, còn
mình dẫn bốn viên phó tướng đem quân tiền bộ đi trước. Bốn viên phó tướng ấy
là: Lôi Chấn, Nghê Lân, Phí Trân, Tiết Xán.
Bốn viên phó tướng ấy đều được phong
chức tổng quản, dẫn hai nghìn tinh binh theo Kiều Đạo Thanh ngày đêm ruổi nhanh
về châu Chiêu Đức. Chẳng bao lâu, tiền quân của Kiều Đạo Thanh đã tới phía bắc
cách thành Chiêu Đức hơn mười dặm. Quân thám mã quay lại báo tin: "hôm
quan quân Tống lấy đựợc ải Hồ Quan, đã chia quân ba đường đi đánh phủ thành
Chiêu Đức".
Kiều Đạo Thanh nghe tin báo, nổi
giận nói:
- Bọn Tống Ginag thật vô lễ! phải
cho chúng biết phép thụât sở trường của ta!
Dứt lời Kiều Đạo Thanh liền thúc
quân phóng ngựa như bay về phía trước, vừa hay gặp cánh quân đánh cửa bắc do
Đường Bân và Cảnh Cung cầm đầu.
Đường Bân, Cảnh Cung được tin báo
phía tây bắc có chừng hai ngàn quân kỵ đang tiến nhanh đến, liền cho quân dàn
trận thế sẵn sàng đón đánh. Quân Kiều Đạo Thanh vừa tới, hai bên gióng trống
phất cờ dàn trận đối nhau chỉ cách ngoài một tầm tên. Đường Bân, Cảnh Cung thấy
bên quân Điền Hổ có bốn viên tướng hộ vệ vị nguyên suý đang ghìm ngựa đứng dưới
chiếc lọng lụa hồng. Trước ngựa người ấy là một ngọn cờ đen thêu hai hàng chữ
vàng: "hộ quốc linh cảm chân nhân quân sư tả thừa tướng chinh nam đại
nguyên suý Kiều".
Cảnh Cung nhìn chữ trên cờ, mặt biến
sắc nói:
- Viên tướng này rất nguy hiểm!
Lúc ấy Lý Quỳ dẫn năm trăm du binh
bất ngờ xuất hiện. Lý Quỳ muốn xông lên đánh, Cảnh Cung phải gọi to can rằng:
- Nguyên suý giặc là tay chân đắc
lực nhất của Điền Hổ. Hắn có phép yêu thuật rất nguy hiểm.
Lý Quỳ đáp:
- Để ta chặt đầu xem hắn có còn dùng
yêu thuật được không?
Đường Bân nói:
- Tướng quân chớ nên khinh thường.
Lý Quỳ không nghe lời, liền vung búa
xông lên đánh. Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn lo Lý Quỳ không địch nổi, liền dẫn
năm trăm quân đao thuẫn ào tới. Kiều Đạo Thanh bật cười quát:
- Các người thật điên cuồng.
Kiều Đạo Thanh nói xong thong thả
rút bảo kiếm chỉ lên không, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú rồi hét
"mau". Lập tức giữa thanh thiên bạch nhật mây đen kéo đến che kín bầu
trời, gió bão thổi ầm ầm, đất cát bay mù mịt. Rồi một luồng ám khí trùm kín đội
quân đao thuẫn của Lý Qùy, khác nào cả bọn bị nhốt gọn trong một chiếc bị lớn.
Cả đội quân không cựa quậy được, chỉ nghe tiếng mưa gió ầm ầm, xung quanh tối
đen như mực, không ai biết hiện giờ mình đang ở đâu. Chỉ biết rằng:
Hảo hán anh hùng khôn khắp cánh cao
bay
Bồ Tát Kim cương khó tìm đường trốn
thoát.
Chưa biết bọn Lý Quỳ bị Kiều Đạo
Thanh dùng yêu thuật bao vây, tính mạng sống chết ra sao, xem hồi sau sẽ rõ
Phụ Lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét