PHONG TỤC TANG CHẾ "TRÍCH SÁCH THỌ MAI GIA LỄ"
1/ THỌ MAI GIA LỄ LÀ GIA LỄ NƯỚC TA HAY TRUNG
QUỐC?
"Thọ
Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức
gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu
gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật
tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp
dụng phổ biến, nhất là tang lễ.
Tác giả
của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người
làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai
triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
2/ BA CHA TÁM MẸ LÀ NHỮNG AI?
Theo Thọ
Mai gia lễ thì:
Ba cha là:
- Thân
phụ: Bố (Cha) sinh ra mình.
- Kế
phụ: Sau khi Bố (Cha) đẻ chết, mẹ lấy chồng khác, chồng mới của mẹ là kế phụ
hay bố dượng.
- Dưỡng
phụ: Bố (Cha) nuôi.
Tám mẹ là:
- Đích
mẫu: Vợ cả của bố (mẹ già).
- Kế
mẫu: Khi còn nhỏ mẹ đã mất, bố lấy vợ khác để nuôi nấng mình (mẹ kế).
- Từ
mẫu: Khi còn nhỏ mẹ đã mất, bố sai người vợ lẽ nuôi mình bú mớm.
- Dưỡng
mẫu: Mẹ nuôi, cha mẹ nghèo cho mình để người khác nuôi.
- Xuất
mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng bị cha ruồng rẫy đuổi đi.
- Giá
mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng khi cha mất thì đi lấy chồng khác.
- Thứ
mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng là vợ lẽ của cha.
- Nhũ
mẫu: Mẹ vú, cho mình bú mớm từ khi còn tấm bé.
Trên đây
là định nghĩa theo Thọ Mai gia lễ, chưa nói đến những người đã lấy vợ lấy chồng
thì cha mẹ vợ, cha mẹ chồng cũng như cha mẹ mình. Vậy thì còn có ba nhạc phụ
(ba cha vợ), tám nhạc mẫu (tám mẹ vợ). Như vậy tất cả là sáu cha, mười sáu mẹ.
3/ CHÚC THƯ LÀ GÌ?
"Chúc"
là lời dặn dò, phó thác. "Chúc thư" hay "Di chúc" là lời
dặn dò của người chủ gia đình, người lãnh đạo đất nước trước khi mất. Chúc thư
hay di chúc viết thành văn bản có giá trị hành chính, pháp lý. Nếu không biết
chữ, hoặc yếu quá không viết được nữa thì nhờ người khác viết, đọc lại cho nghe
rồi ký tên hoặc điểm chỉ vào dưới. Di chúc của nhà vua thì gọi là di chiếu.
Nội dung
chính của chúc thư thường là việc chia gia tài. Nhà có bao nhiêu ruộng đất, nhà
cửa, chia cho con trai con gái, ai được hưởng khoảnh nào, mấy mẫu, mấy sào, ở
đâu, còn lại bao nhiêu dành cho mẹ làm của dưỡng lão, giao cho người nào trông
nom. Nếu còn bao nhiêu nợ làng, nợ họ cũng giao phó cho con nào phải đòi, phải
trả. Quy định dành bao nhiêu làm ruộng hương hoả, giao cho con trưởng hoặc cháu
đích tôn. Di chiếu của nhà vua giao cho ai là đại thần có mệnh phò thái tử lên
ngôi. Nếu ngôi thái tử chưa định thì truyền chỉ cho cho hoàng tử nào nối
ngôi....
4/ CƯ TANG LÀ GÌ?
Thời
xưa, dẫu làm quan đến chức gì, theo phép nước, hễ cha mẹ mất đều phải về cư
tang ba năm, trừ trường hợp đang bận việc quân nơi biên ải hay đi sứ nước
ngoài. Lệ này không quy định đối với binh lính và nha lại. Trong thời gian cư
tang, lệnh vua không đến cửa.
Ba năm
cư tang là ba năm chịu đựng gian khổ, nhẫn nhục, không dự mọi cuộc vui, không
dự lễ cưới, lễ mừng, không uống rượu (ngoài chén rượu cúng cha mẹ), không nghe
nhạc vui, không ngủ với vợ hoặc nàng hầu, trừ trường hợp chưa có con trai để
nối dõi tông đường. Ngoài ra ai sinh con trong thời kỳ này cũng bị coi là bất
hiếu. Không được mặc gấm vóc, nhung lụa, không đội mũ, đi hia, phải đi chân
đất, cùng lắm chỉ đi guốc mộc hoặc giầy cỏ.
Dẫu làm
đến tể tướng trong triều đình, khi khách đến viếng cha mẹ mình, bất kể sang hay
hèn cũng phải cung kính chào mời và lạy tạ. Khi ra đường không sinh sự với bất
cứ người nào. Ở trong nhà, đối với kẻ ăn người ở cũng không được to tiếng.
Ba năm
sầu muộn, tự nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với kẻ dưới, cung kính với
khách để tỏ lòng thành kính với cha mẹ.
Thời nay
không còn lệ cư tang, nhưng biết lệ cư tang của ông cha ta ngày xưa, hậu sinh
có thể học được điều gì đó trong thái độ ứng xử!
5/ VÌ SAO CÓ TỤC MŨ GAI ĐAI CHUỐI VÀ CHỐNG
GẬY?
Tục đội
mũ rơm quấn thật to quanh đầu, thắt lưng bằng dây gai, dây chuối ngày nay đã
lỗi thời, nhiều nơi đã bãi bỏ, còn tục chống gậy chỉ áp dụng đối với con trai
tang cha (gậy tre tròn) tang mẹ (gậy vông-gậy gỗ đẽo vuông) vẫn còn ở nhiều địa
phương.
Nguyên
do: Thời xưa, đường đi còn chật hẹp, có khi còn phải leo núi cao, người mất
được chôn cất ở nơi xa khu dân cư, trong rừng núi, có nơi chôn ở triền núi đá
có nhiều hang động. Đã có trường hợp, người con vì quá thương xót cha mẹ, khóc
lóc thảm thiết, đến nỗi không kể gì đến sinh mạng của mình, đập đầu vào vách
đá, khi leo núi đi về vì thương cảm quá mất cả thăng bằng ngã lăn xuống vực. Để
tránh tình trạng trùng tang thảm hại đó, người ta mới đặt ra lệ phải quấn quanh
đầu những vật liệu mềm, xốp để nếu va vấp đỡ gây tổn thương. Và đặt ra lệ phải
chống gậy để đi đứng an toàn hơn. Vật liệu dễ kiếm nhất, giàu nghèo ai cũng có
thể tự lo liệu được, và ở đâu cũng có thể kiếm được, đó là rơm, lá chuối, dây
gai, dây chuối, dây đay. Xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của một số người, dần
dần trở thành phong tục phổ biến.
Vì ngày
thường đi lao động ở đồng ruộng, núi rừng hoặc đi đứng đều mặc quần áo gọn bó
vào người, đến khi có tang tế phải mặc áo dài rộng, dễ vướng gai góc nên phải
có dây đai. Tục này cũng xuất xứ từ việc tránh nạn trùng tang.
6/ NĂM HẠNG TANG PHỤC (NGŨ PHỤC) LÀ GÌ?
Theo Thọ
Mai gia lễ, có năm hạng tang phục tuỳ theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình
phân biệt thân sơ. Đó là:
1. Đại tang: Trảm thôi và tề thôi.
* Quần
áo sổ gấu gọi là trảm thôi: Con để tang cha, mẹ.
* Quần
áo không sổ gấu gọi là tề thôi: Con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha chưa
mất.
* Thời
hạn: Ba năm, sau giảm bớt còn hai năm ba tháng (sau lễ giỗ hết thêm ba tháng dư
ai là hai bẩy tháng).
* Áo xô,
khăn xô thắt có hai dải sau lưng (gọi là khăn ngang). Nếu cha mẹ đều đã mất thì
hai dải bằng nhau, nếu còn mẹ hoặc còn cha thì hai dải dài ngắn lệch nhau.
* Con
trai chống gậy: Tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông-gậy gỗ, mũ rơm quấn đầu, dây
chuối, dây đay hoặc dây gai thắt lưng (Thời nay nhiều nơi đã bãi bỏ những tang
phục này. Ở thành phố nhiều nhà dùng băng đen theo tang chế Châu Âu).
* Con
trai, con gái, con dâu đều để tang cha mẹ (kể cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu,
từ mẫu và dưỡng phụ).
* Vợ để
tang chồng.
* Nếu
con trưởng mất trước cha mẹ thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng đại tang
thay cha.
2. Cơ niên: Để tang một năm. Từ cơ niên trở
xuống dùng khăn tròn, vải trắng, không chống gậy.
* Cháu
nội để tang ông bà nội.
* Con
riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở cùng, nếu không ở
cùng thì không tang; trước có ở cùng sau thôi thì để tang ba tháng.
* Con để
tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị cha ruồng rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy
chồng khác (giá mẫu).
* Chồng
để tang vợ cả có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.
* Cháu
để tang bác trai, bác gái, chú, thím và cô ruột.
* Anh
chị em ruột để tang nhau (cùng cha khác mẹ thì cũng tang một năm, cùng mẹ khác
cha thì tang năm tháng).
* Cha mẹ
để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con nuôi nhà người.
* Chú,
bác, thím, cô ruột để tang cháu (con anh em ruột).
* Ông bà
nội để tang cháu trưởng (cháu đích tôn).
* Đích
mẫu, kế mẫu, từ mẫu để tang các con chồng, thứ mẫu để tang con mình và con chồng
như nhau (đều là một năm). Để tang con dâu cả cũng một năm.
* Con
dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).
* Con rể
để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã lấy vợ khác cũng vậy).
* Nàng
hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con mình (các
họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang).
3. Đại công: Để tang chín tháng.
* Anh
chị em con chú con bác ruột để tang nhau.
* Cha mẹ
để tang con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng.
* Chú,
bác, thím ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh em ruột).
* Cháu
dâu để tang ông bà của chồng, chú, bác, thím, cô ruột của chồng.
* Mẹ để
tang con dâu thứ và con gái riêng của chồng.
* Con
gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú, thím, cô ruột.
4. Tiểu công: Để tang năm tháng.
* Chắt
để tang Cụ (Hoàng tang: Chít khăn vàng).
* Cháu
để tang anh chi em ruột của Ông nội (ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô).
* Con để
tang vợ lẽ, nàng hầu của cha (nếu cha giao cho nuôi mình thì để tang ba năm như
mẹ để).
* Cháu
để tang đường bá thúc phụ mẫu và đường cô (anh chị em con chú con bác ruột của
cha).
* Anh
chị em con chú, bác ruột để tang vợ của nhau.
* Anh
chị em chung mẹ khác cha để tang nhau (vợ con của anh chị em ấy thì không tang
).
* Chú
bác ruột để tang cháu dâu (con dâu của anh em ruột).
* Ông bà
bác, ông chú, bà thím, bà cô để tang cháu (tức là cháu nội của anh em ruột).
* Ông bà
nội để tang vợ cháu đích tôn hoặc cháu gái xuất giá.
* Cháu
ngoại để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột của mẹ, kể cả
đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu)
* Cháu
dâu để tang cô ruột của chồng.
* Chị
dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những người đó ( tức là
cháu gọi bằng bác, bằng thím).
5. Ty ma phục: Để tang ba tháng.
* Chít
để tang Can (Kị) nội (ngũ đại: Hồng tang - chít khăn đỏ).
* Chắt
để tang Cụ nhà Bác, nhà Chú (tằng tổ bá thúc phụ mẫu và tằng tổ cô, tức là anh
em ruột với Cụ nội).
* Cháu
để tang bà cô đã lấy chồng (chị em ruột với ông nội).
* Cháu
để tang cô bá (chị em con chú bác ruột với bố).
* Con để
tang bố dượng (nếu trước có ở cùng, sau mới về bên nội).
* Con để
tang nàng hầu của cha.
* Con để
tang bà vú (cho bú mớm).
* Cháu
để tang tộc bá thúc phụ mẫu (anh em cháu chú, cháu bác với cha).
* Chồng
để tang vợ lẽ nàng hầu.
* Anh
chị em họ nội năm đời để tang cho nhau.
* Bố mẹ
vợ để tang con rể.
* Ông bà
ngoại để tang cháu ngoại và cháu dâu ngoại.
* Ông
của chồng để tang cháu dâu.
* Cụ để
tang chắt nội.
* Cháu
để tang vợ cậu, chồng cô, chồng dì có cùng ở một nhà.
* Anh
chị em con cô ruột và con dì ruột để tang cho nhau.
* Cậu
ruột để tang vợ của cháu trai.
* Cháu
dâu để tang các ông bà anh chị em ruột với ông nội chồng.
* Chắt
dâu để tang cụ nội của chồng.
* Cụ để
tang chắt nội trai gái.
* Ông bà
để tang các cháu gái của con nhà chú, nhà bác.
Tang bên
cha mẹ nuôi:
1. Kị
bên cha nuôi thì ba tháng, cụ bên cha nuôi thì năm tháng, ông bà thì một năm.
2. Cha
mẹ nuôi thì áo bằng gấu, hoặc áo sổ gấu ba năm có cả gậy.
3. Từ
ông bà trở lên nếu mình thừa trọng cũng sổ gấu ba năm.
4. Ông
bà sinh ra mẹ nuôi thì năm tháng, còn thì đều không có.
Tang họ
nhà mình (Đã là con nuôi người khác, để tang bên họ của mình):
1. Ông
bà sinh ra cha thì chín tháng.
2. Cha
mẹ sinh ra mình thì một năm có gậy.
3. Bác
trai, bác gái, chú, thím và cô là anh chị em ruột với cha thì đều chín tháng,
cô đã xuất giá thì năm tháng.
4. Anh
chị em ruột thì chín tháng, chị dâu, em dâu thì ba tháng, chị em đã xuất giá
thì năm tháng.
5. Ông
bà sinh ra mẹ thì ba tháng.
Xét trong
lễ nói rằng: Con gái đã xuất giá thì các tang có giáng, song đi lấy chồng, hoặc
bị chồng rẫy bỏ, hoặc chồng chết, con lại chẳng có, lại trở về nhà cũng như
chưa lấy chồng, tang chẳng có giáng.
Nếu
đương để tang cha mẹ được một năm mà chồng rẫy bỏ thì phải tang cha mẹ ba năm,
hoặc để tang cha mẹ được một năm đã trừ phục đoạn thì chẳng được để lại ba năm,
dù phải chồng rẫy trước, sau mới để tang cha mẹ chưa đủ một năm mà chồng mới
gọi về thì chẳng nên về vội phải nên để trọn ba năm.
Trường
phục có ba loại:
1.
Trưởng trường: Từ 16-19 tuổi.
2. Trung
trường: Từ 12-15 tuổi.
3. Hạ
trường: Từ 8-11 tuổi.
(Đều lấy
thứ tự giáng một bậc)
Ví dụ:
trai đã lấy vợ, gái đã lấy chồng, dẫu còn trẻ cũng không thể gọi là trường
được, nhưng vốn mình phải tang một năm trưởng trường giáng xuống chín tháng,
trung trường giáng xuống bẩy tháng, hạ trường giáng xuống năm tháng.
Như vốn
tang chín tháng, trưởng trường giáng xuống bẩy tháng, trung trường giáng xuống
năm tháng, hạ trường giáng xuống ba tháng, các trường hợp khác đều như thế mà
suy.
7/ CHA MẸ CÓ ĐỂ TANG CON KHÔNG?
Tang
phục là thể hiện tình nghĩa, có phân biệt thân sơ "Họ đương ba tháng, láng
giềng ba ngày", thể hiện lòng thương xót giữa kẻ mất người còn. Vì thế,
chẳng những thân thích mà người ngoài đến phúng viếng cũng nên đeo băng tang.
Theo "Thọ Mai gia lễ" thì chẳng những cha mẹ để tang con mà ông bà và
cụ kị cũng để tang hàng cháu, hàng chắt.
"Thọ
Mai gia lễ" quy định như vậy nhưng ở Bắc Bộ quan niệm: "Phụ bất bái
tử" (Cha không lạy con), Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, là bất
hiếu, con chưa kịp báo hiếu cha mẹ đã trốn nợ đời, chẳng những cha mẹ không để
tang con mà khi khâm liệm con còn phải quấn trên đầu tử thi một vòng khăn
trắng, nếu là đàn bà mà tứ thân phụ mẫu còn cả thì phải quấn đến hai vòng, có
nghĩa là ở dưới cõi âm cũng để tang báo hiếu sẵn cho cha mẹ đang ở trên dương
trần.
8/ TẠI SAO CÓ TỤC KIÊNG KHÔNG ĐỂ CHA MẸ ĐƯA
TANG CON?
Tử biệt
sinh ly, ai không thương xót, nhưng theo quy luật tự nhiên, cha mẹ già yếu từ
trần, con báo hiếu cha mẹ, đưa tang cha mẹ là chuyện thường tình. Con chết
trước cha mẹ là nghịch cảnh, nhiều trường hợp chết non, gây nhiều nỗi đau
thương cho bố mẹ. Giờ phút hạ huyệt là giờ phút xúc động đến cực điểm, có nhiều
ông bố bà mẹ đã bị ngất lịm đi. Đã có nhiều trường hợp mẹ chết luôn bên huyệt
chôn con. Hơn nữa, ngày xưa phương tiện và thuốc thang cấp cứu khó khăn, không
cho cha mẹ đưa tang con để vơi bớt nỗi đau buồn và để tránh nạn trùng tang là
đúng. Chẳng những cha mẹ mà các ông già bà cả trong nội thân, sức khoẻ đã tàn
cũng không được dự đưa tang, sợ vướng đến sức khoẻ.
9/ ĐÁM TANG TRONG NGÀY TẾT TÍNH LIỆU RA SAO?
Ngày Tết
Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của
cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để
hoà chung với niềm vui của toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong
ba ngày tết. Nhà có đại tang kiêng không đi chúc tết, mừng tuổi bà con, xóm
giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc tết và an ủi gia đình bất
hạnh.
Trường
hợp gia đình có người chết vào ngày 30 hoặc mùng một Tết thì sao? Trường hợp
này hiếm nhưng không phải không có. Nếu ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể
định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, nếu để sang năm mới thì
có nhiều bất tiện. Đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng một đầu năm.
Trường hợp chết đúng ngày mùng một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn
bị mọi thứ để sáng mùng hai phát tang.
10/ LỄ CƯỚI ĐÃ CHUẨN BỊ SẴN VẤP PHẢI LỄ TANG,
TÍNH SAO ĐÂY?
Đó là
trường hợp "Ưu hỷ trùng phùng". Vui và buồn dồn vào một lúc.
"Sinh hữu hạn, tử vô kỳ", cuộc đời thì có hạn nhưng ai biết trước
chết vào lúc nào. Theo lễ nghi thì khi trong nhà còn tang, trên đầu còn có vành
khăn trắng, nhất là đại tang thì tránh mọi cuộc vui. Nhưng lễ cưới đã chuẩn bị
sẵn, nếu quá câu lệ thì quả gay go cho cả hai gia đình, nhiều trường hợp tình
duyên đôi lứa dở dang, nhất là các gia đình cả đôi bên đều ông già bà cả, có
khi đợi đến bẩy tám năm sau chưa hết tang. Vì vậy tục lệ xưa cũng có khoản
"Trừ hao": "Cưới bôn tang, tức là cưới chạy tang". Khi đó
người chết nằm tạm trên giường, đắp chăn chiếu lại, chưa nhập quan, hoặc gia
đình có thể tự làm thủ tục khâm liệm, nhập quan nhưng chưa làm lễ thành phục.
Theo nghi lễ, nếu chưa thành phục thì trong nhà chưa ai được khóc. Hàng xóm tuy
có biết nhưng gia đình chưa phát tang thì chưa đến viếng, trừ thân nhân ruột
thịt và những người lân cận tối lửa tắt đèn có nhau, coi như người nhà.
Trong
khi đó, cả hai gia đình chuẩn bị gấp đám cưới cũng làm đủ lễ đưa dâu, đón dâu,
yết cáo gia tiên, lễ tơ hồng,... nhưng lễ vật rất đơn sơ, thành phần giản lược,
bó hẹp trong phạm vi gia đình và một vài thân nhân. Khách, bạn đã mời cũng
miễn, sẽ thông cảm sau. Công việc cưới, gả xong xuôi mới bắt đầu phát tang. Cô
dâu, chú rể mới, trở thành thành viên của gia đình, chịu tang chế như mọi con
cháu khác. Nếu hai gia đình thông cảm cho nhau, có thể trong một ngày, từ sáng đến
trưa cưới dâu, chiều tối phát tang cũng xong.
Trường
hợp nhà có đám cưới mà hàng xóm lân cận có đám tang thì sao?
Người
biết phép lịch sự và lòng nhân ái không bao giờ cười đùa vui vẻ trước cảnh buồn
thảm của người khác. Gia đình có giáo dục, hiểu biết không bao giờ cho phép con
cháu nô đùa ấm ỹ hoặc mở băng nhạc inh ỏi khi hàng xóm có việc buồn. Trong
trường hợp trên, vẫn tiến hành lễ cưới bình thường nhưng không nên đốt pháo, mở
băng nhạc và ca hát ầm ỹ, tránh tình trạng kẻ khóc người cười. Trường hợp có
Quốc tang cũng như vậy.
11/ NGƯỜI DỰ ĐÁM TANG NÊN NHƯ THẾ NÀO?
Dù thân
hay sơ, đã đến dự đám tang phải nghiêm túc, biểu lộ lòng thành kính đối với
người đã khuất, tình ưu ái đối với tang quyến. Thật là bất lịch sự nếu bô bô
cười nói, đùa giỡn trong lúc tang chủ đau buồn.
Ở nông
thôn, nhiều nơi còn tục lệ cỗ bàn ăn uống linh đình trong đám tang, thực không
hợp tình, hợp cảnh chút nào.
Đành
rằng việc ăn uống là không tránh khỏi, nhưng chỉ nên hạn chế trong số người đến
giúp việc và thân nhân ở xa về. Đối với bà con, làng xóm, khách, bạn thì tang
lễ không phải là dịp để "trả nợ miệng". Có vui vẻ gì trong lúc tang
gia bối rối.
Nếu như
chưa bỏ được thủ tục rượu chè đình đám thì trong lễ tang, mọi người cũng nên tự
kiềm chế mình, giúp được việc gì thì tận tình giúp đỡ, không tiện về nhà ăn cơm
thì cũng không nên hạch sách, trách móc. Thói cũ "Ma chê, cưới trách"
có hay ho gì!
Cũng cần
lưu ý lớp trẻ: Khi đi dự đám tang không nên ăn mặc loè loẹt, hở hang, lố lăng,
như vậy rất không hợp cảnh sẽ gây khó chịu cho nhiều người.
12/ NGƯỜI SẮP CHẾT CÓ NHỮNG DẤU HIỆU GÌ BÁO
TRƯỚC?
Thật kỳ
lạ, xưa nay đã ai chết hai lần đâu mà biết trước rút kinh nghiệm, thế nhưng, có
những cụ cao tuổi có kinh nghiệm "Tri thiên mệnh", biết trước được
ngày mất của mình, mặc dầu ngày hôm trước vẫn khoẻ mạnh, thậm chí có người còn
tính trước được giờ mất, đánh điện cho con cháu ở xa về, trong trường hợp đó
gia đình phần nào đã chủ động chuẩn bị tang lễ, nhưng những trường hợp đó rất
ít.
Đối với
những người già yếu, có những dấu hiệu gì báo trước giờ hấp hối mà ta có thể
quan sát được?
* Xem
thần sắc: Chủ yếu xem hai đáy mắt còn tinh anh không hay đã đục mờ.
* Sờ
chân tay xem còn nóng hay đã lạnh, người sắp chết thường lạnh từ đầu đến chân.
Có người còn nhận biết mình đã chết đến đâu.
* Mạch
rất trầm, có khi người còn sống nhưng không bắt mạch được nữa. Đối với người
suy tim, sờ tưởng như tim đã ngừng đập, nhưng vì đập yếu nên không phát hiện
được.
* Để một
ít bông vào lỗ mũi mà bông không còn động đậy tức là đã tắt thở.
Có người
đau ốm lâu dài, bỗng nhiên mạnh khoẻ trở lại, rất tỉnh táo, nhiều khi đó là dấu
hiệu của ngọn đèn hết dầu loé sáng lên để rồi tắt ngấm. Các cụ già thường bỏ
ăn, hoặc là rất muốn ăn nhưng ăn được rất ít trước khi mất
Cũng có
trường hợp, mệnh đã tuyệt nhưng có lẽ vì nuối tiếc con cháu ở xa chưa gặp được,
hoặc do được bổ sâm hồi dương với hy vọng trong muôn một có thể qua khỏi, hoặc
kéo thêm ít giờ để tránh ngày xấu như trùng tang, trùng phục, ... thì có thể
kéo dài thêm chút ít.
13/ TRONG GIỜ PHÚT THÂN NHÂN HẤP HỐI, NGƯỜI
NHÀ CẦN LÀM GÌ?
- Dời
người sắp mất sang phòng chính tẩm, đầu hướng về phía Đông.
- Hỏi
xem có dặn dò trối trăng gì không.
- Đặt
tên:
+ Đặt
tên tự (tên chữ): Tên tự chỉ đặt cho các cụ ông. Tên tự được đặt từ khi còn đi
học, nếu khi đi học chưa đặt tên tự thì trước lúc lâm chung con cháu phải đặt
tên tự cho cụ và hỏi cụ có nhất trí không. Hoặc đặt tên tự cho cụ rồi ghé tai
cụ nói với cụ là "tên tự của cụ là.......nhé".
+ Đặt
tên huý (tên cúng cơm): Nếu lúc đẻ ra cha mẹ chưa đặt tên cho cụ thì trước lúc
lâm chung con cháu phải đặt tên cúng cơm cho cụ gọi là tên huý. Vì có tục kiêng
tên nên thường ngày không gọi tên huý của cụ mà chỉ gọi tên tự, hoặc tên hiệu,
hoặc tên con đầu lòng.
- Luôn
luôn có người túc trực bên cạnh.
- Người
có theo tôn giáo thì làm lễ cầu nguyện theo phép của từng tôn giáo.
- Chuẩn
bị mọi thứ để tắm gội (Làm lễ Mộc dục) và khâm liệm (Lễ nhập quan).
14/ SAU KHI THÂN NHÂN MẤT, GIA ĐÌNH CẦN LÀM
NHỮNG GÌ?
Đây là
những việc làm đối với những người già yếu, mất tại nhà, theo phong tục cổ
truyền. Trường hợp mất tại bệnh viện, mất dọc đường, quán trọ, chết vì tai nạn,
gươm súng, xe cộ, rắn độc, thuỷ hoả tai, ... không đủ điều kiện để thực hiện
toàn bộ thao tác và nghi lễ, vậy nên châm trước, tuỳ nghi vận dụng.
1. Lễ chiêu hồn (Lễ phục hồn):
Vừa tắt
thở thì cầm áo của người chết trèo lên nóc nhà, giơ áo lên, gọi tên người chết
3 lần: "Ba hồn bảy vía của ông ..... ở đâu thì về". hoặc "Ba hồn
chín vía của bà ..... ở đâu thì về". Sau đó cầm áo người chết xuống đắp
lên thi hài. Một lúc sau nếu người chết không tỉnh lại thì làm lễ mộc dục.
2. Lễ mộc dục (Lễ Tiểu liệm - Tắm gội):
Lúc tắm
gội cho người vừa chết thường để sẵn một con dao nhỏ, một sợi vải để buộc tóc, hai
vuông vải trắng một để tắm một để lau (hai khăn), một cái lược để chải tóc, một
cái gáo múc nước, một nồi nước ngũ vị hương và một nồi nước nóng khác, một chậu
để nước thừa. Lúc tắm vây màn cho kín, tang chủ quỳ xuống khóc, người hộ việc
cũng quỳ rồi cáo từ rằng: " Nay xin tắm gội để sạch bụi trần", xong
phục xuống, đứng dậy. Cha thì con trai vào tắm, mẹ thì con gái vào tắm. Những
người không có con lúc đó thì người phục vụ làm thay các con. Lấy vuông vải dấp
vào nước ngũ vị hương, lau mặt, lau mình cho sạch rồi lấy lược chải tóc, lấy
sợi vải buộc tóc, lấy khăn khác lau hai chân hai tay, lấy dao cắt móng chân
móng tay, mặc quần áo mới (hoặc bộ quần áo đẹp nhất lúc sinh thời) cho chỉnh
tề, gói móng chân móng tay, dao, lược, gáo để vào quan tài đem đi chôn, trải
tấm vải khâm lên giường (Vải khâm gọi là chăn để liệm, dùng loại vải dầy, rộng
5 khổ vải, dài 12 thước - 1 thước = 40 Cm) , rước thi thể đặt lên giường (đặt
lên trên tấm vải khâm). Sau đó dùng các sợi vải trắng để buộc vai, buộc hông,
buộc đầu gối chân, buộc hai ngón chân cái vào với nhau, đặt hai tay lên bụng và
buộc hai ngón tay cái vào với nhau, Lấy vuông vải trắng hoặc tờ giấy bản phủ
lên mặt. Con cháu thay phiên nhau canh giữ thi hài thật cẩn thận, không được để
cho chó mèo tới gần thi hài. Việc canh giữ thi hài kết thúc khi mà tổ chức nghi
thức đưa tang.
3. Lễ thiết hồn (Lễ thắt hồn bạch):
Lấy 7
thước vải trắng (1 thước = 40 Cm) kết như hình người, một đầu hai tay ngắn, còn
2 đầu dải vải dài rời ra làm 2 chân gọi là thắt hồn bạch. Đặt hồn bạch đặt lên
ngực, hô cho hồn người chết nhập vào hồn bạch. Sau khi làm lễ nhập quan thì đặt
hồn bạch lên linh toạ (Bàn thờ tang). Ngày nay dùng ảnh thay cho hồn bạch. Đắp
chăn hoặc chiếu, buông màn, đặt một chiếc ghế con phía trên đầu giường trên đó
đặt một bát cơm úp, một quả trứng, cắm một đôi đũa đòng đòng lên bát cơm và
thắp hương.
4. Lễ phạn hàm:
Lễ này
theo tục xưa, bỏ gạo và tiền vào miệng tránh tà ma ác quỷ đến cướp đoạt, để
tiễn vong hồn đi đường xa được siêu thoát. Lễ này ngày nay nhiều nơi đã bỏ,
thay thế bằng may một cái túi, trong túi đựng một ít tiền, một ít gạo và một
vài đồ vật lặt vặt khác mà khi sống người đó hay dùng đến.
Theo
"Thọ Mai gia lễ" lễ này được tiến hành như sau:
Lấy ít
gạo nếp vo sạch, ba đồng tiền mài cho sáng (Nhà giầu thì dùng vàng hoặc viên
ngọc trai).
Tang chủ
vào quỳ khóc, người chấp sự cũng quỳ, cáo từ rằng: "Nay xin phạn hàm, phục
duy hâm nạp". Người chấp dự lần lượt xướng: "Sơ phạn hàm, tái phạn
hàm, tam phạn hàm". Tang chủ làm ba lần, mỗi lần xúc một ít gạo và một
đồng tiền cho vào mồm bên phải, rồi đến bên trái, cuối cùng vào giữa. Xong, bóp
mồm lại, phủ mặt như cũ, nếu hàm bị trễ xuống thì phải dùng sợi vải trắng buộc
hàm dưới lên sát hàm trên . Tang chủ (chủ tang) là con trai trưởng, nếu con
trai trưởng chết rồi thì cháu đích tôn làm chủ tang, nếu cha vẫn còn sống thì
cha làm chủ tang, nếu ông vẫn còn sống thì ông làm chủ tang, ...
5. Lễ khâm liệm nhập quan (Lễ Đại liệm):
Là lễ
chuyển thi hài người chết từ giường người chết đang nằm vào quan tài (áo quan).
Lễ này những người thân thích ruột thịt buộc phải có mặt. Các con vào, con trai
bên trái, con gái bên phải, mọi người khác đứng xung quanh. Người chấp sự
xướng: Tự lập (đứng gần vào), cử ai (khóc cả lên), quỳ. Chấp sự cũng quỳ mà cáo
từ rằng: "Nay được giờ lành, xin rước nhập quan". "Cẩn
cáo". Xong lại xướng: Phủ phục (lễ xuống), hưng (dậy), bình thân (đứng
thẳng).
Sau đó
các con cháu đứng ra hai bên, người giúp việc đưa thi hài từ trên giường xuống
đất đặt lên trên vải liệm, bọc vải liệm vào thi hài, nhấc lên đặt xuống 3 lần,
sau đó đưa vào áo quan nhẹ nhàng êm ái, rút vải khâm ra. Đối với các cụ bà đi
chùa có Hải Hội thì Hải hội thay cho vải liệm. Bổ sung quần áo cho đầy đủ. Chú
ý: Những quần áo của người đang sống, hoặc những quần áo của người đang sống
mặc chung với người chết thì kiêng không được bỏ vào áo quan.
Đồ khâm
liệm: Đồ khâm là tấm vải rất dầy chiều dài 12 thước, chiều rộng 5 khổ vải. Khi
di chuyển thi hài, bốn người giúp việc cầm bốn góc tấm vải khâm để di chuyển;
bởi vậy vải khâm phải dùng vải thật dầy để khỏi bị rách khi di chuyển thi hài.
Đồ liệm nhà giàu dùng gấm, vóc, nhiễu, lụa; nhà thường dùng vải trắng làm Đại
liệm (1 mảnh dọc, 5 mảnh ngang) hoặc Tiểu liệm (1 mảnh dọc, 3 mảnh ngang). Ngày
xưa, quy định Đại liệm hay Tiểu liệm vì khổ vải nhỏ. Ngày nay, dùng vải khổ
rộng, miễn kín chân, tay, đầu, gót là được; và đa số các nơi đã bỏ đồ khâm chỉ
dùng đồ liệm, bởi vậy người giúp việc phải trực tiếp khiêng thi hài khi di
chuyển.
"Tục
ở ta nhiều người tin theo thầy phù thuỷ, trong quan tài thường có mảnh ván đục
sao Bắc đẩu thất tinh. Trước khi nhập quan thường chọn giờ, tránh tuổi rồi dùng
bùa nọ bùa kia dán ở trong, ngoài quan tài. Có người cho rằng chết phải giờ xấu
thì phải bỏ cỗ bài tổ tôm, hoặc quyển lịch, hoặc tàu lá gồi để trấn át ma quỷ".
Mọi việc
xong thì sơn gắn quan tài cho kỹ càng, đặt chính giữa gian giữa, hoặc nhà còn
người cao hơn thì đặt sang gian bên, đầu quay ra ngoài. Đặt lên trên quan tài
bát cơm bông, bát hương, thắp 7 ngọn nến trên quan tài theo hình sao Bắc Đẩu.
Hương và nến phải duy trì liên tục đến khi đưa tang.
6. Lễ thiết linh (Sau khi nhập quan):
Lễ thiết
linh là Lễ thiết lập linh vị, thiết lập linh toạ (lập bàn thờ tang) thường gọi
là thiết linh vị, thiết linh toạ. Linh toạ đặt ở phía trước linh cữu, linh vị
đặt trên linh toạ, hồn bạch đặt tựa vào linh vị. Ngày nay thường dùng ảnh thay
cho linh vị và hồn bạch. Bát hương để trước với 3 đài rượu phía ngoài, hai bên
là đèn nến, ống hương. Trước linh vị đặt mâm ngũ quả, hai bên linh vị đặt hai
cây chuối con. Đặt hai cây chuối có nghĩa lá rụng về cội (lá chuối khô không
rời ra mà ôm lấy thân cây chuối).
Khi chưa
chôn cất mỗi lần lạy chỉ lạy hai lạy, lạy tạ lại một lạy. Trong linh vị và văn
khấn dùng chữ "Cố phụ", "Cố mẫu" chứ không dùng chữ
"Hiển khảo", "Hiển tỷ". Sau khi đã chôn cất rồi mỗi lần lạy
phải lạy bốn lạy, lạy tạ lại hai lạy.
7. Lễ thành phục:
Tức là
con cháu mặc đồ tang để cúng tế và đáp lễ khi khách đến viếng. Trước khi thành
phục, nếu có khách đến thì người chủ tang chưa ra tiếp mà người hộ tang thay
mặt tiếp khách và thông cảm với khách.
Sau lễ
thành phục mới chính thức phát tang. Sau đó thân bằng cố hữu, làng xã mới đến
phúng viếng.
8. Tại sao có thủ tục hú hồn trước khi nhập
quan?
Vì đã có
những trường hợp bị choáng, ngất, bất tỉnh nhân sự. Người ta dùng mọi thủ thuật
để kích thích thì hồi tỉnh, trong đó có thuật hú hồn hú vía. Cũng có trường hợp
đã tắt thở, tưởng là đã chết rồi nhưng sau một thời gian bỗng nhiên sống lại.
Do đó với một hy vọng dầu mỏng manh, mặc dầu trong muôn một, người sống tiếc
thương muốn cứu vãn... nên cầm chiếc áo quần của người đã tắt thở, leo lên mái
nhà chỗ cao nhất hú " Ba hồn bảy vía ông ..." hoặc "Ba hồn chín
vía bà ..." về nhập xác. Hú ba lần không được thì cũng đành lòng chịu khâm
liệm mà tin rằng như vậy hồn đỡ vất vưởng, biết tìm đường về nhà (Khâm liệm
xong vẫn chưa nỡ đóng chốt áo quan). Đây là một phong tục chủ yếu để thoả mãn
tâm linh.
9. Trường hợp chết đã cứng lạnh, người co rúm
không bỏ lọt áo quan thì làm thế nào?
Theo
kinh nghiệm dân gian: Hơ lửa nắn dần cho thẳng ra, hoặc dùng cồn, rượu xoa bóp,
nếu vẫn còn cứng lại thì có thuật dùng hai chiếc đũa cả để hai bên mép áo quan
rồi cho thi hài lọt xuống dần, khi thi hài lọt vào áo quan rồi thì tháo bỏ
những dây buộc chân, tay, mông, vai để người chết có thể nằm thoải mái.
10. Người xưa dùng những vật gì lót vào áo
quan?
Trong
các ngôi mộ cổ khai quật được, ngoài các đồ trang sức của người chết, phía
trong áo quan thường có lót lá chuối, giấy bản, chè búp, bỏng nếp hoặc khăn gấm
vóc áo nhiễu... Trong quan, ngoài quách, giữa quan và quách đổ cát vàng. Các
thứ đó đều là những chất hút ẩm và ngăn giữ khí hôi hám khỏi bốc ra ngoài, nhất
là thời xưa chết xong chưa mấy ai đã chôn ngay, còn phải sắm đủ lễ vật, tế khí,
còn phải xa gần phúng viếng linh đình, còn phải chọn ngày, chọn đất mới làm lễ
an táng.
11. Sau lễ thành phục, trước lễ an táng phải
làm gì?
Thời nay
đơn giản, để giữ vệ sinh không nên để quá 24 giờ. Thời xưa, có những nhà giàu
sang để năm bảy hôm trong nhà, chờ con cháu về đông đủ, để họ hàng, làng xã,
hàng tổng, hàng huyện đến phúng viếng; để dựng rạp trước sân, dựng nhà trạm dọc
đường từ nhà đến mộ để chuẩn bị mọi thứ khi tế và cỗ bàn thết đãi linh đình; để
thày cúng chọn ngày, thày địa lý chọn đất an táng, phân kim lập hướng hẳn hoi.
Có nhà còn sắm đủ trong quan ngoài quách, quàn tạm trong vườn, vài tháng sau
mới làm lễ an táng.
Trong thời
gian chưa chôn có "Lễ triêu tịch điện": Buổi sáng dậy bưng khăn lược
vào linh sàng, các con quỳ khóc ba tiếng rồi quấn màn lên cáo từ rằng: "
Ngày đã sáng rồi xin rước linh bạch ra linh toạ". Sau đó rước Hồn Bạch ra
đặt vào ỷ, vắt màn, dọn chăn gối, chiều tối lại rước linh bạch vào,đắp chăn,
thả chiếu, buông màn xuống. Thờ như lúc sống, chỉ lạy hai lạy (Chỉ sau khi an
táng, làm lễ ...... xong mới lạy bốn lạy theo nghi lễ người chết).
Các buổi
tối trước khi chôn, có "Lễ chúc thực" (Trồng bó đuốc trước sân):
Phường bát âm tấu nhạc, con cháu thay nhau túc trực bên linh cữu, trong nhà
ngoài sân đèn đuốc sáng trưng.
Khi thân
bằng cố hữu đến phúng viếng, người chủ tang và người chủ phụ đứng cạnh linh toạ
và ngoảnh mặt về phía khách, hễ khách lạy hai lạy thì chủ lễ tạ lại một lạy.
Khách vái cha mẹ mình ba vái thì vái tạ lại một vái. Trách nhiệm tiếp trầu,
nước, cỗ bàn thuộc về người hộ tang.
Nếu có
người con trai nào đi vắng chưa kịp về thì để mũ, khăn xô và gậy cạnh hương án.
Trước
khi làm lễ chuyển cữu để chuẩn bị phát dẫn thì áo quan vẫn trở đầu vào trong,
coi như lễ người sống, đọc văn khấn cũng chưa dùng chữ "Hiển khảo"(Cha)"Hiển
tỷ"(Mẹ) mà dùng chữ"Cố phụ"(Cha)"Cố mẫu"(Mẹ).
Ở thành
phố ngày nay đã có nhà ướp lạnh, ở nông thôn có nhà để năm bảy ngày trong nhà,
phải làm sao cho khỏi nhiễm uế khí? - Điều quan trọng nhất là người trị tang
phải có kinh nghiệm: Áo quan vỏ dầy, gỗ tốt, trám thật kín, không để một khe hở
nào. Đáy áo quan lót những chất chống ẩm như lá chuối, giấy bản, than, vôi,
bỏng nếp, chè búp, ... Các khe hở của áo quan được bịt kín trước bằng sơn ta,
nhựa đường, dán giấy tráng kim. Nếu để lâu ngày phải có trong quan ngoài quách,
giữa quan và quách đổ cát vàng rang khô nóng. Phủ trên thi hài có các thứ hương
vị để khử uế khí.
Trước
ngày an táng còn có thêm tục "Lễ yết cáo tổ tiên", nếu không đưa được
linh cữu, thì rước hồn bạch đến nhà thờ họ. Hồn bạch chỉ được đặt phía trước
bàn thờ, để ở dưới, không được đưa lên bàn thờ tổ. Nội dung: Báo cáo với gia
tiên có thân phụ hoặc thân mẫu về chầu tổ. Xong lại rước hồn bạch về nhà mình,
đặt lại lên linh toạ.
12. Những người điều hành công việc trong lể
tang?
Trong
lúc tang gia bối rối không có người chủ đạo điều hành, công việc sẽ rất lúng
túng và phạm nhiều sai sót.
Khi thân
nhân sắp từ trần, việc đầu tiên tang gia phải mời được người hộ tang. Người hộ
tang phải là người thân thích gần gũi, có tuổi tác, kinh nghiệm, tháo vát, có
uy tín trong họ. Người hộ tang thay mặt tang chủ điều hành mọi công việc, đối
nội đối ngoại.
Nếu
người hộ tang biết cúng lễ thì kiêm luôn, nếu không thì mời người chấp sự.
Người chấp sự lo việc hướng dẫn về mặt nghi lễ từ Mộc dục, Khâm liệm, Thiết
linh, Thành phục đến An táng. Thành phần và Tế ngu (Lễ 3 ngày sau khi chôn).
Người chấp sự thường là người có văn hoá (Chữ Hán, chữ Quốc ngữ) nên có thể
kiêm luôn cả việc tư vấn (Viết văn cúng, văn tế, bài vị, long triệu, đối,
trướng, cáo phó, ...).
Người
thu lễ: Sau khi thành phục cho đến hết 3 ngày sau khi an táng phải có người thu
lễ. Người đó chuyên túc trực ở nhà ngoài, hễ có khách đến phúng viếng thì tiếp
khách , nhận lễ đặt lên bàn thờ, báo cho thân chủ ra bái tạ. Người thu lể phải
ghi đầy đủ danh sách người đến viếng và số lễ vật, để sau này tang chủ biết mà
tạ ơn. Người thu lễ kiểm tra lễ vật sau khi khách đã cúng lễ xong ra về. Vì vậy
phải chọn người thân tín của tang gia làm người thu lễ.
Người
chấp hiệu: Thông thường các ban hành lễ đã có người chấp hiệu chuyên trách.
Người chấp hiệu là người chỉ huy đám phụ kiệu đưa quan tài từ nhà ra xe tang
hoặc đại dư (Tuy không có xe nhưng khiêng kiệu thay xe gọi là đại dư), điều
khiển việc đi đứng, nâng lên, hạ xuống, sang trái, sang phải, bằng hiệu lệnh
hai thanh gỗ ngắn cầm tay, cho đến lúc hạ huyệt. Người chấp hiệu đi bộ giật lùi
trước quan tài để diều khiển.
Nếu gia
đình nào tự thu xếp để con cháu khiêng áo quan thì phải chú ý chọn người chấp
hiệu nhiều kinh nghiệm.
Chủ tang
và chủ phụ: Là con trai trưởng và con dâu trưởng. Nếu tang cha mà mẹ còn sống
thì mẹ làm chủ phụ. Nếu cháu đích tôn thừa trọng (Thay thế cha đã mất, khi làm
lễ tang ông bà) thì cháu đích tôn là chủ tang, các ông chú đứng hai bên chỉ là
bồi tế, vợ của người cháu là chủ phụ khi bà chồng và mẹ chồng đã mất, còn các
bà thím chỉ là phụ. Nếu cháu đích tôn còn bé quá, chưa chống gậy lễ tạ được thì
chú thứ hai thay thế, nhưng vẫn phải nhân danhcháu mà bái lễ và bái tạ.
Những
tục nghi lễ ngày xưa khá phức tạp, ngày nay đã được cải tiến, một số tục lệ lạc
hậu, lỗ thời đã bị nhiều vùng bãi bỏ, ví dụ tục lăn đường, đuổi tà ma ác quỷ.
Lệ tục chung vận dụng vào từng địa phương, từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau,
ngày xưa đã vậy, huống hồ ngày nay. Có gia đình con đàn cháu lữ, của ăn của để,
sung túc đề huề, có gia đình đơn bạc nghèo nàn nên phải tuỳ nghi châm trước.
13. Lễ an táng tiến hành như thế nào?
Tuỳ từng
địa phương, từng tôn giáo, mỗi nơi nhi lễ phong tục một khác. Thời trước có
thôn ấp cử những người trai tráng trong làng xóm ra khiêng vác chôn cất. Nơi có
hội tư văn, thì hội tư văn đứng ra lo liệu điều hành công việc theo hương ước
định cẵn. Hiện nay ở nông thôn có các hội trợ tang, thành phố thị xã có ban
quản lý nghĩa trang, một số chi hội trọng thọ của các phường xã hoạt động, đứng
ra lo liệu chu đáo.
Lễ an
táng tiến hành tuỳ theo hoàn cảnh từng nhà, "Giàu làm kép, hẹp làm
đơn". Ở đây chỉ nói phần tang gia cần làm gì:
* Khi có
người thân mất, tang chủ cần đến báo gấp, để cùng bàn bạc theo quy ước đã định.
* Thời
xưa, tang chủ có khoản tiền thưởng cho người chấp hiệu và những phu kiệu. Nếu
từ khi đưa áo quan lên kiệu, đi đến huyệt mà chén rượu, đĩa dầu lạc để trên áo
quan không sóng sánh ra ngoài thì tang chủ đưa tiền thưởng rất hậu.
* Thân
nhân, theo thứ tự nhân sơ quy định, tang phục theo gia lễ, đều xếp hàng đi theo
sau linh cữu. Thời xưa có cái bạt bằng vải trắng che trên đầu gọi là "Bạch
mạc". Người con trưởng đi trước hoặc sau quan tài theo tục "Cha đưa
mẹ đón".
* Hạ
huyệt xong, tất cả người đi đưa đều đi một vòng quanh mộ, mỗi người ném xuống
mộ một hòn đất.
* Đắp mộ
xong, mọi người đứng vòng quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến hành lễ
thành phần.
* Nghi
thức chung như trên, nhưng nhiều nơi còn có tục riêng như cầu kinh, yểm bùa,
nhốt con gà, cài cây lá chứa, dựng cây nêu, đóng cửa mả, đốt hình nhân, ... rắc
vàng khẩu dọc đường, cắm hương ở các mộ xung quanh, mời người qua đường ăn trầu
hút thuốc, đãi người đắp mộ, ...
14. Hơi lạnh ở xác chết, cách phòng?
Hơi lạnh
hay âm khí, tà khí có ở xác người chết không?
Chưa ai
đo nhiệt độ cụ thể trong thi thể người chết, nhưng nhiều người đã công nhận
rằng: Theo cảm giác thì người mới chết lạnh hơn nhiều so với nhiệt độ bình
thường của con người cũng nhyư của môi trường xung quanh.
Hiện
tượng đó được giải thích như sau: Con người đang ở nhiệt độ bình thường, tự
nhiên mất nhiệt thì nhiệt độ không chỉ hạ xuống tới hoà đồng với nhiệt độ môi
trường mà còn tụt xuống thấp hơn, sau đó một thời gian nhiệt độ mới nhích dần
lên tới thể ổn định.
Dân gian
công nhận hiện tượng hơi lạnh ở nhà người chết mới chết là hiện tượng có thực,
hiện tượng vướng phải hơi lạnh bị ốm cũng là hiện tượng phổ biến, nhất là đối
với những người bị các chứng kinh niên như phong thấp, áp huyết cao, tâm
thần,... còn đối với những thanh niên mạnh khoẻ thì không mấy ai bị ảnh hưởng.
Có
thuyết cho rằng: Những người đồng khí huyết (Con cái với cha mẹ, anh chị em
ruột hoặc gần huyết thống) thì không bị nhiễm hơi lạnh, không có phản ứng gì kể
cả khi ôm ấp thi hài và khâm liệm. Tuy nhiên, để phòng xa, người ta vẫn kiêng
không cho các bậc cao lão, phụ nữ có thai sắp đến ngày sinh hoặc sản phụ hài
nhi đến dự khâm liệm, an táng và cải táng.
Có người
hấp thi hơi lạnh thì phản ứng tức thì. Có người trực tiếp khâm liệm, nhiễm hơi
lạnh, bản thân khoẻ mạnh không việc gì, nhưng để phòng ngừa cho người ở nhà nên
khi vào nhà có người già , ốm yếu, tre sơ sinh vẫn phải xông khói rồi mới vào.
Những người hàng xóm xung quanh nhà có tang lễ, nếu có cụ già trẻ nhỏ ốm yếu
thường đặt sẵn ở cửa ra vào một lò than đốt vỏ bưởi và quả bồ kết để trừ úê
khí. Những người nghi bị chó dại cắn, gia đình thường tuyệt đối cách ly đám
tang và nơi nghĩa trang, e rằng vướng phải hơi lạnh chưa kịp chạy chữa đã phát
bệnh.
15. Lễ ba ngày (Lễ tế ngu) tính từ sau khi mất
hay sau khi chôn cất?
Tục này
không thống nhất, có nơi tính ba ngày sau khi mất, có nơi tính ba ngày sau khi
chôn. Xét trong điển lễ thì không có "Lễ ba ngày" mà chỉ có "Lễ
tế ngu" gồm có: "Sơ ngu", "Tái ngu", "Tam
ngu". "Ngu" nghĩa là "Yên", tức là ba lần tế lễ cho
yên hồn phách, theo "Thọ Mai gia lễ" thì khi chôn xong, rước linh vị
về đến nhà tế sơ ngu. Làm sơ ngu xong gặp ngày nhu (Tức là ất, kỷ, tân, quý)
làm lễ tái ngu, gặp ngày cương (Tức là ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm) làm lễ
tam ngu. Phan Kế Bính cũng dẫn giải như trên.
Dần dần
về sau người ta giảm lược, kiêm cả ba lễ luôn, chỉ làm lễ tam ngu, vì thế nên
gọi là lễ ba ngày. Vậy là tính ba ngày từ sau khi chôn, theo tục gọi là lễ mở
cửa mả. Ngày đó con cháu ra sửa lại mồ mả, đắp cỏ, khơi rãnh thoát nước,... Ngu
là tế ngu, tế chỉ tế người chết, tế thần. Theo phong tục cũ thì ít khi chết
xong chôn ngay, thường còn để năm bảy ngày trong nhà. Khi chưa chôn làm lễ
triêu tịch điện, tức cúng cơm hàng ngày vẫn theo lễ thờ người sống. Vậy tế ngu
phải tính từ sau khi chôn.
Còn có
một lập luận khác: Có ba điều không yên khiến phải làm lễ tế ngu:
- Đang
sống hoạt động, nay mọi hoạt động bỗng nhiên đình chỉ.
- Đang
nhìn thấy bóng dáng, khi đã nhập quan không nhìn thấy bóng dáng nữa.
- Đang ở
trên dương thế, nay xác về cõi âm, hồn vất vưởng lìa khỏi xác. Âm dương hoàn
toàn cách biệt từ sau lễ thành phần. Sơ ngu, tái ngu, tam ngu là tế để làm cho
yên hồn phách, vậy phải tế sau khi mất, sau khi lễ nhập quan và sau khi lễ
thành phần xong.
Thời nay
cũng có trường hợp sau khi chết 4-5 ngày còn để trong nhà lạnh chưa chôn, nên
không thể làm lễ ba ngày trước lễ an táng.
16. Tại sao có lễ cúng cơm trong 100 ngày?
Gia đình
Việt Nam nhà nào cũng vậy, mỗi ngày có hai bữa cơm là giờ phút đầm ấm nhất.
Trong nhà có người về muộn, mọi người cũng cố chờ về cùng ăn cơm cho vui vẻ,
đầm ấm. Con cháu cầm bát cơm lên, trước hết mời ông bà, cha mẹ, chờ ông bà, cha
mẹ ăn rồi mới dám ăn. ăn xong, trước khi buông bát đũa còn phải xin phép ăn
xong và mời tiếp tục ăn cơm. Cuộc sống gia đình vui vẻ, êm đẹp như vậy, vắng
mặt trong bữa cơm còn nhắc, huống chi vĩnh viễn đi xa. Do đó, trước bữa ăn
người thân dâng lên bàn thờ một bát cơm úp, một vài món ăn bình thường, nhà ăn
thứ gì cúng thứ ấy. Thắp hương xong, dựng đôi đũa vào giữa bát cơm, có rượu thì
rót chén rượu. Khấn vái xong cũng rót chén nước.
Thờ cúng
vong linh cũng giống như đang sống, cũng là để thoả nguyện tâm linh.
Nhưng
tại sao lại cúng 100 ngày?
Cũng tùy
từng địa phương, có nơi chỉ cúng 49 ngày (Tức là lễ chung thất). Theo thuyết
của Phật giáo: Qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ở âm ty (Tức
1 tuần, nhưng không phải tuần lễ theo dương lịch:; sau 7 tuần vong hồn đã siêu
thoát. Có nơi cúng hết 100 ngày (Tức lễ tốt khốc nghĩa là thôi khóc). Theo giải
thích của các cụ ngày xưa thì thời gian này âm hồn vẫn còn phảng phất luẩn quẩn
trong nhà chưa đi xa.
17. Làm lễ chung thất (49 ngày) và tốt khốc
(100 ngày) có phải chọn ngày không?
Theo
"Thọ Mai gia lễ" thì cứ đúng ngày quy định trong gia lễ mà làm, không
có sự chuyển dịch tuỳ tiện theo lời thầy lễ hay thầy bói nào cả. Chỉ trừ ngày
làm lễ an táng và ngày làm lễ trừ phục (Hết tang) trong gia lễ có ghi chọn ngày
lành. Người ta không ai có thể chọn ngày chết, vậy nên từ xưa tới nay, hàng năm
cứ đến ngày mất thì làm giỗ. Theo gia lễ: Lễ chung thất, tốt khốc, tiểu tường,
đại tường cứ theo đúng ngày mà làm lễ.
Con cháu
ở xa nhớ ngày về làm lễ. Thân nhân ở chỗ khác sắm sửa lễ đúng ngày tới dự. Tang
chế theo ngày định sẵn, thân bằng, cố hữu ai lưu luyến đến thăm viếng, không
đợi thiếp mời như lễ mừng, lễ cưới, không có chuyện "Hữu thỉnh hữu lai, vô
thỉnh bất đáo" (Mời thì đến, không thì thôi".
18. Khi hết tang làm lễ trừ phục (Đàm tế) như
thế nào?
Sau hai
năm chọn một ngày tốt trong vòng ba tháng dư ai để làm lễ trừ phu8cj. Trừ phục
gồm 3 lễ:
1. Lễ
sửa mộ: Lễ sang cát, chuyển từ mộ dài sang mộ tròn.
2. Lễ
đàm tế: Cất khăn tang, huỷ đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị vào bàn
thờ chính, bỏ bàn thờ tang, thu cất các bức trướng, câu đối viếng.
3. Lễ
rước linh vị vào chính điện và yết cáo tổ tiên: Chép sẵn linh vị mới, phủ giấy
hay vải đỏ, khi đàm tế ở bàn thờ tang xong thì đốt linh vị cũ cùng với băng đen
ở quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung (Nếu
có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới. Trường hợp nhà con thứ không thờ
gia tiên bậc cao hơn thì vẫn để nguyên bàn thờ như cũ, không phải chuyển bàn
thờ mà chỉ cần yết cáo gia thần và yết cáo tổ tiên ở nhà thờ tổ.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét