Tác giả: Ethel Lilian Voynich
Thể
loại: Khác, Phương Tây
Ruồi
trâu là một tác phẩm văn học nổi tiếng trên thế giới. Với số lượng hàng triệu
bản, đã được xuất bản nhiều lần tại việt Nam và nhiều nước trên thế giới, được
bạn đọc Việt Nam và thế giới hết sức yêu quý và mến mộ. Xuất bản chính thức lần
thứ năm này tại Việt Nam, dịch giả Hà Ngọc và NXB Văn học đã đầu tư rất nhiều
công sức để biên tập, hiệu đính lại nội dung cho sát với tình hình thực tế hiện
nay để đáp lại sự mếm mộ của bạn đọc gần xa.
...Những
cuốn sách tả các chiến sĩ cách mạng dũng cảm đầy quyết tâm và ý chí, không biết
sợ sệt, đem cả thể lực lẫn tinh thần hiến cho sự nghiệp của chúng ta, những
cuốn sách đó để lại cho tôi một ấn tượng không bao giờ phai nhoà, nuôi trong
người tôi một ý chí noi gương những anh hùng ấy.... (Trích giới thiệu của cố
nhà văn, nhà báo Thép Mới)
“Ruồi
trâu” là một tác phẩm rất đáng đọc. Câu chuyện diễn ra vào thế kỉ 19 tại Ý.
Thời đó, đất nước này đang bị chia cắt. Dưới quyền kiểm soát của đế quốc Áo,
các phong trào cách mạng nhằm thống nhất nước Ý đều bị đàn áp. Một thanh niên Ý
kiên cường đã dành cả cuộc đời mình để đấu tranh cho lí tưởng giải phóng đất
nước.
Cuộc đời
anh chứa đựng những bí mật khiến anh bị giằng xé giữa tình yêu và nỗi tức giận,
chịu đựng những nỗi đau cả về thể xác và tinh thần. Nhưng vượt lên tất cả anh
đã luôn tiến về phía trước. Anh đã sống với ý chí và nghị lực đáng khâm phục.
“Ruồi
trâu” gửi tới người đọc một thông điệp: Cuộc sống dù ngắn ngủi nhưng vẫn có ý
nghĩa khi ta sống có lí tưởng.
“Ruồi
Trâu là một cuốn tiểu thuyết rất lạ, theo cả nghĩa thông thường của tên ấy. Tác
giả là một nữ sĩ người Anh đã từng hoạt động cách mạng ở Nga và cuốn tiểu
thuyết của bà lại nói về những nhà hoạt động cách mạng bí mật ở Ý cách đây trên
một thế kỷ. Cả cuốn sách chứa chan một thế giới quan nhân đạo, lòng yêu và quý
trọng phẩm chất con người. Từng nhân vật trong cuốn truyện, từ Ruồi Trâu đến
những nhân vật phụ, những bạn chiến đấu gần và xa của anh, không nhân vật nào
là không có cá tính sâu sắc của mình.
Bản thân
nhân vật Ruồi Trâu không phải là một con người khô cứng, mà ở anh, người đọc
thấy rõ một con người cách mạng giàu tình cảm nhất. Tình cảm của Ruồi Trâu rất
mãnh liệt. Chính vì thế, cho đến chết, anh vẫn không dứt tình yêu đối với
Môntaneli.
Thương
yêu có thể là mê đắm mà không yếu đuối, không một chút nào yếu đuối. Quan hệ giữa
Ruồi Trâu và Môntaneli phát triển hết sức kỳ dị mà cũng hết sức logic và chân
thật. “Cha hãy chọn đi, hoặc Giêsu hoặc con”. Cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa hai
người cùng dòng máu, tưởng không thể nào sống không có nhau mà lại là hai kẻ
thù không đội trời chung về tư tưởng, là những trang sách có sức nổ lớn trong
tâm trí người đọc. “
RUỒI
TRÂU
Chương 1
Áctơ
ngồi trong thư viện trường dòng thánh Pidơ (1), đang lần giở từng tập bản thảo
những bài giảng đạo. Đó là một chiều tháng sáu oi ả. Khung kính các cửa sổ đều
mở toang, cửa chớp khép nửa chừng. Môngtaneli, cha giám đốc trường, ngừng viết
và âu yếm nhìn mái tóc đen cặm cụi trên những trang giấy.
- Không
tìm thấy ư, carino (2)? Không sao. Phải viết lại thôi. Chắc cha xé tờ ấy đi rồi
làm con
phải phí
công ngồi lại.
Tiếng
Môngtaneli cất lên khe khẽ, nhưng rất lắng sâu và du dương. Giọng trong như bạc
làm cho tiếng nói có một sức quyến rũ lạ thường. Đó là tiếng nói của một nhà
hùng biện bẩm sinh, một thứ tiếng nói uyển chuyển giàu âm điệu. Mỗi khi cha
giám đốc nói với Áctơ thì lúc nào tiếng nói ấy cũng đượm vẻ trìu mến.
- Không,
thưa cha (3), con sẽ tìm thấy. Con chắc chỉ ở đâu đây thôi. Nếu cha có viết lại
thì cũng chẳng được như cũ đâu.
Môngtaneli
lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Một con bọ dừa vo ve độc điệu ở đâu ngoài
cửa sổ. Từ ngoài đường phố vọng lại tiếng rao kéo dài và não nuột của một người
bán hoa quả : “Dâu tây đây! Dâu tây đây!” (4)
- “Giảng
về chúa và những người tật phong” (5) đây rồi.
Áctơ
tiến lại gần Môngtaneli với những bước đi nhẹ nhàng. Những bước đi ấy lúc nào
cũng làm cho người nhà Áctơ bực bội. Dáng người mảnh khảnh yếu ớt, Áctơ giống
như người Ý vẽ trong tranh thế kỷ mười sáu hơn một chàng trai trẻ của những năm
ba mươi (6) sinh trưởng trong một gia đình tư sản Anh. Mọi vẻ ở anh đều hết sức
xinh đẹp như tạc vậy. Đôi hàng lông mày dài như hai mũi tên, đôi môi mỏng, chân
tay nhỏ nhắn. Khi anh ngồi yên người ta có thể cho anh là một cô gái yêu kiều
giả trai; những cử chỉ mềm dẻo của anh lại làm cho người ta nhớ tới một con báo
đã thuần, một con báo không nanh vuốt.
- Tìm
thấy thật ư? Áctơ ạ, không có con thì cha chẳng biết làm thế nào. Có lẽ rồi lúc
nào cha cũng đánh mất đồ đạc... Thôi chẳng viết nữa. Đi ra vườn đi, cha sẽ giúp
con học bài. Chỗ nào không hiểu, hở con?
Họ bước
vào một khu vườn im ả, đầy bóng mát của trường dòng. Ngày xưa, ngôi trường vốn
là một tu viện rất cổ kính của dòng Thánh Đôminích (7), nên hai trăm năm trước
đây khu vườn vuông vắn này được chăm bón rất chu đáo. Đôi bờ hoàng dương đều
đặn viền lấy khu đất trồng cỏ thơm và cắt xén gọn ghẽ. Những tu sĩ mặc áo trắng
xưa kia chăm bón những cây cỏ này đã bị chôn vùi và lãng quên từ lâu rồi, nhưng
giờ đây trong những buổi chiều hè êm dịu cỏ thơm vẫn cứ ngào ngạt mặc dù không
còn ai lấy cỏ về làm thuốc nữa. Ngày nay những nhánh cần dại Hà Lan và rau sam
đã mọc lởm chởm giữa những kẽ đá trên lối đi. Giếng nước giữa vườn mọc đầy cỏ
lưỡi mèo. Những gốc hồng bỏ thành hoang dại; những cành hồng dài chằng chịt lan
theo mọi lối đi. Những đoá mào gà đỏ choé giữa những bụi hoàng dương. Những
nhánh mao địa hoàng cao lớn ngọn loà xoà trên thảm cỏ. Còn cây nho không người
tỉa bón và cằn cỗi thì cũng rung rinh lả ngọn trên cành một cây sơn trà đang
buồn bã gật gù chiếc chỏm um tùm.
Ở góc
vườn sừng sững một cây mộc lan với chòm lá xum xuê, xanh thẫm, lơ thơ điểm hoa
màu trắng sữa. Cạnh thân cây mộc lan là một chiếc ghế gỗ thô sơ. Môngtaneli
ngồi xuống chiếc ghế ấy.
Áctơ học
triết học ở trường đại học. Hôm ấy gặp một đoạn khó trong sách, anh đến xin cha
giảng giúp. Tuy Áctơ không học ở trường dòng song đối với anh Môngtaneli là cả
một pho từ
điển
bách khoa.
Khi nghe
cha giảng xong những đoạn khó hiểu, Áctơ nói:
- Thôi,
xin phép cha, con về thôi. Chẳng hay cha còn có điều gì cần đến con không?
- Thôi,
cha không làm việc nữa đâu. Nếu con có thì giờ thì ở lại với cha một chút.
- Tất
nhiên con có thì giờ!
Áctơ tựa
lung vào thân cây, và qua đám cành lá um tùm anh ngắm nhìn những vì sao đầu
tiên run rẩy trong bầu trời yên tĩnh và sâu thẳm. Dưới hàng mi đen, đôi mắt
xanh biếc của anh mơ màng và bí ẩn. Đôi mắt ấy là di sản của bà mẹ người miền
Coócuên (8). Môngtaneli quay mặt đi để tránh phải nhìn đôi mắt ấy.
Môngtaneli
nói:
- Sao
con có vẻ mệt mỏi thế, carino?
- Biết
làm sao được, thưa cha.
Môngtaneli
cảm thấy ngay vẻ mệt mỏi chứa chất trong giọng nói của Áctơ.
- Con
vội vào đại học như thế làm gì, hở con? Thời gian chăm sóc mẹ con ốm và những
đêm không ngủ đã làm con kiệt sức. Lẽ ra cha phải bắt con nghỉ ngơi đầy đủ rồi
mới rời khỏi Livoócnô (9).
- Nghỉ
làm gì thưa cha? Sau khi mẹ con mất đi, con không thể nào ở lại ngôi nhà thảm
hại đó được. Giuli làm cho con phát điên mất.
Giuli là
vợ người anh cả cùng bố khác mẹ và từ lâu đối với Áctơ là một chiếc gai nhọn.
Môngtaneli
nói:
- Cha
cũng không muốn con ở với anh em bà con đâu. Cha biết điều đó làm con rất đau
lòng. Nhưng sao con không nhận lời mời của người bạn bác sĩ người Anh, đến đó
chơi một tháng rồi hãy về học?
- Không,
thưa cha! Con cũng chẳng muốn thế. Gia đình nhà Uaren tuy đối xử tốt và thân
tình, nhưng họ cũng không sao hiểu được con. Họ có vẻ thương hại con. Trông mặt
họ cũng đủ biết. Đến đấy họ sẽ lại khuyên dỗ, lại nhắc đến mẹ... Giêma thì chắc
chắn không thế đâu. Giêma bao giờ cũng cảm thấy được chuyện gì là không nên
nhắc tới. Ngay từ lúc chúng con còn bé, Giêma đã thế rồi. Còn những người khác
thì không được như vậy đâu. Nhưng cũng chẳng phải vì thế mà thôi...
- Vậy
còn vì sao nữa, con của cha?
Áctơ
ngắt mấy bông hoa trên cành mao địa hoàng lả ngọn, và bực bội vò nát trong tay.
Sau giây
lát yên lặng, Áctơ nói tiếp:
- Sống
trong thành phố đó, con không sao chịu nổi nữa. Con không muốn nhìn thấy những
cửa hàng xưa kia mẹ con đã đến mua đồ chơi cho con và cả con đường bờ sông mà
con vẫn đưa mẹ con đi chơi khi mẹ con chưa ốm nặng. Đi đến đâu cũng gặp cảnh
như vậy. Các cô gái bán hoa trong chợ lại cứ mời con mua hoa như xưa... Họ
tưởng đâu bây giờ con vẫn cần mua hoa thì phải? Rồi cả khu nghĩa trang nữa...
Không, con nhất định phải rời khỏi thành phố đó! Nhìn thấy cảnh cũ con đau lòng
lắm.
Áctơ nín
lặng. Anh ngồi, tay xé nhỏ từng chiếc chuông nhỏ trên nhánh hoa mao địa hoàng.
Phút im lặng kéo dài nặng trịch khiến Áctơ phải đưa mắt nhìn cha, không hiểu
sao cha lại không trả lời. Bóng chiều dần tắt dưới những cành mộc lan. Mọi vật
đều trở nên u ám mơ hồ, nhưng ánh sáng vẫn chưa đủ để trông thấy bộ mặt trắng
bệch như da người chết của Môngtaneli. Môngtaneli ngồi, đầu cúi gục, tay phải
nắm lấy mép ghế, Áctơ quay mặt đi. Anh cảm thấy lạ lùng và kinh hãi, dường như
đã vô tình lọt vào nơi đất thánh vậy.
Áctơ
thầm nghĩ:
“Trời
ơi! Sao so với cha thì ta bé nhỏ, yếu hèn và ích kỷ đến thế! Nếu nỗi khổ của ta
không phải là nỗi khổ của cha thì cha đâu đến nỗi cảm thương đến như vây”.
Môngtaneli
ngẩng đầu nhìn xung quanh rồi âu yếm nói:
- Thôi,
bây giờ cha không ép con phải trở về đấy nữa. Nhưng con phải hứa với cha rằng
dịp nghỉ hè này con sẽ nghỉ ngơi thực sự, mà nghỉ ở nơi nào xa Livoócnô thì tốt
hơn. Cha không muốn để con hao phí sức khoẻ.
- Trường
dòng đóng cửa nghỉ thì cha đi đâu, thưa cha?
- Cũng
như mọi lần, cha sẽ dẫn học sinh lên nghỉ trên núi. Cha phó giám đốc đi nghỉ
mát đến trung tuần tháng tám sẽ về. Lúc ấy cha sẽ đi du ngoạn trên dãy núi
Anpơ. Ừ nhỉ! Hay là con đi với cha? Cha sẽ đưa con đi rong chơi trong núi sâu
và con sẽ có dịp tìm hiểu các loài rêu trên núi Anpơ. Nhưng cha chỉ sợ đi với
cha con sẽ chán thôi.
- Thưa
cha! – Áctơ nắm chặt tay. Thói quen ấy Giuli gọi là “cái lối kiểu cách của
người ngoại quốc” – Con có thể từ bỏ mọi thứ trên đời này để đi với cha! Nhưng
con không tin rằng...
Áctơ
ngưng bặt.
- Con sợ
anh Bớctơn không cho phép con đi chăng?
- Tất
nhiên anh sẽ không hài lòng nhưng anh không cản được con và cha. Con đã mười
tám tuổi đầu, con muốn làm gì con làm. Hơn nữa anh ấy với con chỉ là anh em
khác mẹ, con không nhất thiết phải phục tùng anh ta. Đối với mẹ con, anh ấy bao
giờ cũng tỏ ra không tốt.
- Nhưng
dù sao nếu anh Bớctơn không thuận thì cha thiết tưởng con nên nhịn là hơn. Tình
cảnh của con trong gia đình có thế khó xử hơn nhiều nếu...
- Khó xử
hơn ư? Chưa chắc! – Áctơ nóng nảy ngắt lời – Họ đã ghét con thì dù con làm gì
đi nữa họ cũng vẫn ghét. Vả lại, con đi với cha... là cha linh hồn của con thì
anh ấy phản đối sao được?
- Con
nên nhớ rằng anh ấy theo đạo Tin lành! Cứ nên viết thư hỏi anh ấy thì hơn. Xem
anh ấy trả lời ra sao. Đừng nóng vội con ạ! Thái độ của ta đối với mọi người
không thể chỉ vì rằng người yêu ta hoặc ghét ta.
Lời
thuyết phục ấy thốt ra một cách nhẹ nhàng đến nỗi nghe xong Áctơ đỏ mặt. Anh
thở dài đáp:
- Vâng,
con biết. Nhưng làm được như vậy thật là khó.
- Cha
rất tiếc là thứ ba vừa qua con đã không đến được – Môngtaneli đột nhiên lảng
sang chuyện khác – Cha định đẻ con biết mặt đức giám mục từ Arétxô (10) đến.
- Hôm đó
con đã trót hứa đến chơi nhà một người bạn học. Ở đấy có cuộc họp, mọi người
đều đợi con.
- Họp
gi?
Áctơ
dưòng như luống cuống vì câu hỏi đó.
- Có
lẽ... có lẽ, gọi là cuộc họp thì không đúng – Áctơ có phần lúng túng – Một sinh
viên ở Giênôva (11) đến diễn thuyết. Gọi là nghe nói chuyện thì đúng hơn.
- Nói
chuyện về vấn đề gì?
Áctơ do
dự:
- Cha.
cha đừng hỏi tên người đó nhé! Vì con đã hứa...
- Thôi
cha cũng chẳng hỏi gì thêm. Nếu con đã hứa là phải giữ bí mật thì đừng nên nói.
Nhưng cha thiết tưởng đến nay hầu như con có thể tin cha.
- Tất
nhiên là con tin, thưa cha. Ngưòi ấy nói về... chúng con và nhiệm vụ chúng con
trước nhân dân, nói về nghĩa vụ của chúng con trước nhân dân... và trước bản
thân mình. Và nói về vấn đề chúng ta phải làm gì để phụng sự...
- Phụng
sự ai? Cho ai?
- Nhân
dân (12) và...
- Và?
- Nước
Ý.
Một hồi
im lặng kéo dài.
Rồi
Môngtaneli quay lại về phía Áctơ và hết sức nghiêm giọng hỏi:
- Áctơ,
con nói cho cha hay. Con nghĩ đến điều đó từ hồi nào?
- Từ mùa
đông vừa qua.
- Trước
khi mẹ con mất ư? Và mẹ con có biết không?
- Không.
Lúc đó con chưa nghĩ tới.
- Thế
bây giờ?
Áctơ
ngắt thêm một nắm chuông hoa mao địa hoàng. Mắt nhìn xuống đất anh bắt đầu kể:
- Thưa
cha, sự việc xảy ra đầu đuôi như thế này: Mùa thu năm ngoái con chuẩn bị thi
vào đại học. Chắc cha còn nhớ lúc ấy con có quen với nhiều bạn học. Trong bọn
họ có một vài người nói với con tất cả những chuyện trên... Họ cho con mượn cả
sách. Nhưng lúc bấy giờ con chưa để ý. Con chỉ vội về để trông mẹ. Lúc ấy tình
cảnh của mẹ ở Livoócnô thật là cô đơn! Nhà y như nhà tù vậy. Chỉ một miệng lưỡi
của Giuli cũng đủ giết chết mẹ con rồi. Kế đến mùa đông khi mẹ con bắt đầu ốm
nặng thì con cũng chẳng nhớ gì đến bạn bè và những cuốn sách họ đưa cho con. Và
chắc cha cũng biết là con không hề bước chân vào thành Pidơ nữa. Lúc ấy con
nghĩ tới những vấn đề trên thì con đã kể cho mẹ nghe rồi. Nhưng quả thực là nó
biến đi đâu mất cả. Sau, con biết là mẹ con sắp chết... Chắc cha cũng biết là
con không rời mẹ con cho tới phút chót, lúc mẹ con qua đời con cứ thức thâu đêm
bên giường bệnh. Tới sáng Giêma đến con mới đi ngủ... Chính trong những đêm
trường đó con bắt đầu suy nghĩ tới những điều mình đã đọc và những điều bạn học
nói với con. Con cố gắng tìm xem họ nói có đúng không... Con nghĩ: Thế thì đối
với những điều Đức chúa Giêsu sẽ nói như thế nào?
- Con có
cầu xin Chúa không? – Giọng nói của Môngtaneli có phần run rẩy.
- Thưa
cha, con luôn luôn cầu xin Chúa. Con đã cầu xin Chúa chỉ dẫn cho con hoặc cho
con
chết
theo với mẹ... nhưng con không được Chúa phán bảo.
- Áctơ,
vậy mà con không cho cha hay! Còn cha thì cha cứ tưởng con tin cha!
- Thưa
cha, chắc cha cũng biết là con tin cha. Nhưng có những điều con không thể thổ
lộ với ai được. Con có cảm tưởng rằng về việc này cả cha và mẹ con đều không
thể nào giúp đỡ con được. Con muốn được nghe lời phán truyền trực tiếp của
Chúa. Vì cả sinh mệnh của con, cả linh hồn con sống thác đều là ở đó.
Môngtaneli
quay mặt đi và chăm chú nhìn vào bóng tối dày đặc bao trùm lên rạng mộc lan.
Hoàng hôn quá âm u làm cho thân hình Môngtaneli biến thành một bóng ma đen xịt
giữa những cành lá tối om.
Môngtaneli
chậm rãi hỏi:
- Rồi
sau thế nào?
- Rồi
sau... mẹ con chết. Chắc cha cũng biết là ba đêm cuối cùng con không hề rời xa
mẹ con.
Áctơ
ngừng nói nhưng Môngtaneli vẫn ngồi im không nhúc nhích.
- Hai
ngày trước khi an táng mẹ con, con không nghĩ được gì cả, – Áctơ khe khẽ nói
tiếp – Rồi sau khi an táng xong con ốm. Chấc cha còn nhớ là con không đến xưng
tội được!
- Phải,
cha còn nhớ.
- Đêm
hôm ấy con trở dậy và vào buồng mẹ con. Thật là trống trải. Chỉ có một cây thánh
giá to trên bàn thờ. Con có cảm giác rằng đêm nay Chúa sẽ giúp đỡ con. Con quỳ
xuống và đợi thâu đêm. Đến sáng khi con hồi tỉnh thì... Không, thưa cha! Những
điều đã thấy con cũng không thể cắt nghĩa mà cũng không thể kể cho cha nghe
được. Chính con cũng không biết nữa. Nhưng con chỉ biết rằng Chúa đã phán
truyền cho con. Và con không thể làm trái ý Chúa được.
Họ ngồi
mấy phút im lặng trong đêm tối; sau đó Môngtaneli quay lại về phía Áctơ và đặt
tay lên vai anh:
- Con
của cha! Cha không được phép nói rằng Chúa không phán truyền cho linh hồn con.
Nhưng con phải nhớ rõ tâm trạng của con lúc ấy thế nào, và đừng lẫn lộn ảo
tưởng do đau thương và ốm yếu của mình với lời kêu gọi cao cả của Chúa. Nếu
thực sự là Chúa đã phán truyền thánh ý của người cho con trong khi sự chết đang
đến nhà con, thì con hãy nghĩ để khỏi hiểu sai lời Chúa. Tiếng gọi của lòng con
xui con đến chỗ nào?
Áctơ
đứng dậy và trả lời một cách nghiêm trang như khi đọc kinh thánh:
- Hiến
dâng đời mình cho nước Ý, giải phóng nước Ý khỏi cảnh nô lệ lầm than, đánh đuổi
người Áo, lập nên một nước cộng hòa tự do mà không kẻ nào ngự trị được ngoài
Chúa Giêsu!
- Áctơ,
hãy suy nghĩ một chút những lời con nói! Con đâu có phải là người Ý!
- Điều
đó không can hệ gì. Dù sao con cũng vẫn là con, con đã hiểu rõ sự nghiệp đó, và
đã là một con người của sự nghiệp đó.
Lại một
hồi im lặng.
- Con
vừa nói rằng đức Chúa Giêsu đã dạy... – Môngtaneli chậm rãi nói.
Nhưng
Áctơ không để cho Môngtaneli dứt lời:
- Đức
Chúa Giêsu đã dạy rằng: “Kẻ nào vì ta hãy hy sinh sự sống của mình, kẻ ấy giữ
được sự sống đời đời!”
Môngtaneli
tựa khuỷu tay vào cành mộc lan, bàn tay che lấy đôi mắt. Cuối cùng, ông nói:
- Con
của cha, hãy ngồi lại một chút đã.
Áctơ
ngồi xuống ghế dài và Môngtaneli nắm chặt lấy đôi tay anh. Ông nói:
- Hôm
nay cha chưa có thể tranh luận với con được. Sự việc xảy ra đột ngột quá... cha
chưa kịp suy nghĩ. Sau này chúng ta sẽ nói chuyện với nhau rõ ràng hơn. Nhưng
lúc này cha chỉ xin con ghi nhớ một điều là: Nếu con gặp tai nạn, nếu con...
chết đi thì lòng cha sẽ tan nát.
- Cha!
- Con
đừng ngắt lời cha, để cha nói cho cạn đã, có lần cha đã nói với con là ngoài
con ra trên thế gian này cha chẳng còn có ai nữa. Chưa chắc con đã hiểu hết
được lời cha nói. Điều đó đối với con rất khó hiểu, con còn trẻ lắm. Ví thử cha
bằng tuổi con thì cha cũng không hiểu nổi. Áctơ, cha coi con như... như con đẻ
của cha. Hiểu không con? Con là hy vọng của lòng cha! Cha sẵn sàng chết để giữ
cho con khỏi lạc bước, vì nếu lạc bước thì sinh mệnh của con sẽ tan vỡ! Nhưng
cha không làm gì được cả. Cha không bắt con phải hứa với cha. Cha chỉ xin con:
Hãy nhớ lời cha và phải thận trọng. Trước khi quyết định một việc gì quan
trọng, con hãy đắn đo cho kĩ. Hãy để linh hồn mẹ con được yên vui trên thiên
đàng và hãy vì cha.
- Vâng,
thưa cha, con sẽ suy nghĩ... còn cha… cha... hãy cầu nguyện cho con và cho nước
Ý.
Áctơ
lặng lẽ quỳ xuống. Môngtaneli cũng lặng lẽ đặt tay lên mái đầu cúi gục. Một lát
sau, Áctơ đứng dậy, hôn tay linh mục và êm ái bước đi trên thảm cỏ đầy sương.
Môngtaneli vò võ ngồi dưới gốc mộc lan, đăm đắm nhìn vào bóng tối trước mặt.
Môngtaneli
nghĩ:
“Đó là
Chúa đã trừng phạt ta như đã trừng phạt vua Đa-vít (13). Ta đã làm ô danh Chúa,
ta đã làm phép mình thánh bằng đôi tay ô uế. Lòng nhẫn nại của Đức Chúa Trời
rất cao cả, nhưng đã đến lúc Chúa không nhẫn nại được nữa rồi. “Mày đã làm điều
đó một cách thầm vụng, còn tao sẽ làm sự này trước toàn dân Israel và trước mặt
trời. Vì thế, đứa con trai sinh ra cho mày nhất định sẽ chết” (14)”
Chú thích:
(1) Trường dòng thánh Pidơ: trường đào tạo các
linh mục và các nhà truyền đạo do Toà thánh La mã lập ra ở Pidơ, một trung tâm
văn hoá lớn ở Ý.
(2) Carino (tiếng Ý) nghĩa là “con thân yêu”.
Tác giả muốn nhấn mạnh Môngtaneli là người Ý.
(3) Nguyên văn tiếng Ý: Padre, nghĩa là cha cố.
(4) Nguyên văn tiếng Ý: “Fragola! Fragola!”
(5) Một sự tích trong Kinh Thánh về việc chúa
Giêsu làm phép chữa bệnh hủi.
(6) Ý nói những năm ba mươi của thế kỉ mười
chín (1830 – 1840).
(7) Dòng thánh Đôminích (Dominique, còn gọi là
thánh Đaminh) là dòng tu lấy tên thánh Đôminích, một dòng tu của Thiên chúa
giáo, được lập ra năm 1215.
(8) Coócuên: một quận ở tây nam nước Anh, dân
ở đó thuộc giống người Xentơ, thường là mắt xanh tóc sẫm.
(9) Livoócnô: một hải cảng lớn của nước Ý, gần
thành Pidơ.
(10) Arétxô: một thị trấn ở Tôxcan.
(11) Giênôva: một thành phố cảng lớn ở bắc Ý,
nằm trên bờ Địa Trung Hải.
(12) Nguyên văn tiếng Ý “contadini”, nghĩa là
nông dân.
(13) Vua Đavít, một nhân vật trong kinh thánh,
vua nước Israel, đã bị Chúa trời quở phạt vì đã phản bội một trong những tướng
lĩnh của mình, lấy vợ người đó.
(14) Một đoạn trong Kinh Thánh: lời của Chúa
trời quở phạt Đavít.
RUỒI
TRÂU
Chương 2
Ý của
người em cùng cha khác mẹ muốn cùng với Môngtaneli “dạo chơi Thuỵ Sĩ” chẳng làm
cho Giêmxơ Bớctơn hài lòng chút nào. Nhưng ông cấm đoán sao được khi cuộc du
chơi ấy là một cuộc du chơi vô hại mà bạn đường là một vị giáo sư thần học, vả
lại còn để nghiên cứu về vạn vật học nữa. Áctơ sẽ không hiểu được những nguyên
nhân sâu xa vì sao ông từ chối và có thể cho ông là độc đoán, cực đoan, cho ông
là thành kiến về tôn giáo hoặc chủng tộc mà họ hàng nhà Bớctơn thì lại rất tự
hào về đức tính rộng lượng tân tiến của mình. Mọi người trong họ đều là người
gốc đạo Tin lành và những nhà Bảo thủ trung kiên từ hơn một thế kỉ nay, kể từ
khi công ty thương thuyền “Bớctơn và con, Luân Đôn – Livoócnô” ra đời.
Nhưng họ
hàng nhà Bớctơn chủ trương rằng người quý phái nước Anh phải có thái độ vô tư
cả với những người theo đạo Thiên chúa, một giáo mẫu xinh đẹp của những đứa con
nhỏ của mình, thì những đứa con lớn như Giêmxơ và Tômatxơ cũng chỉ đành nuốt
giận mà tuân theo ý trời, vì thực ra họ không chịu nổi việc mẹ kế của họ chỉ
xấp xỉ tuổi họ.
Sau khi
người cha mất, và nhất là sau khi người con cả lấy vợ thì không khí nặng nề
trong gia đình lại càng rắc rối thêm. Nhưng khi Gơlêđixơ còn sống thì cả hai
người anh cũng cố hết sức bênh vực bà, chống lại miệng lưỡi độc ác của Giuli.
Họ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của họ đối với Áctơ. Họ không thích cậu bé và cũng
không giấu điều đó. Tất cả tình cảm của họ đối với em trai chỉ là đưa nhiều
tiền cho em tiêu vặt và để cho em phóng khoáng tự do.
Trả lời
bức thư của Áctơ là một ngân phiếu để chi tiền đi đường và dăm câu nói nhạt
nhẽo, cho phép Áctơ muốn đi nghỉ hè đâu thì đi. Áctơ trích một nửa số tiền thừa
để mua các sách vạn vật học và một số cặp bìa để đựng các vật mẫu, rồi chẳng
bao lâu cùng các vị linh mục lên đường bắt đầu cuộc du lịch đầu tiên trên dãy
núi Anpơ.
Từ lâu
Áctơ chưa bao giờ thấy cha nhẹ nhõm như những ngày ấy. Sau câu chuyện làm cho
Môngtaneli xúc động lần đầu tiên trong khu vườn hôm nọ, đến nay sự thăng bằng
đã dần dần trở lại và bây giờ Môngtaneli đã bình tĩnh trước chuyện đó.
Môngtaneli cho rằng Áctơ còn non dại lắm. Quyết định của Áctơ chắc chưa phải là
đã dứt khoát. Cũng chưa đến nỗi muộn. Với những lời khuyên bảo nhẹ nhàng và
những lí lẽ đúng mức còn có thể làm cho Áctơ quay lại, rời bỏ con đường mà Áctơ
vừa mới bước chân vào.
Họ định
ở Giơnevơ vài hôm. Nhưng khi Áctơ vừa trông thấy những đường phố chói nắng và
những đám người du lịch đứng đầy trên các nẻo đường bụi bặm ven hồ, thì anh
nhăn nhó ngay. Môngtaneli theo dõi thái độ của Áctơ với một nụ cười bình tĩnh.
- Sao?
Con không thích nơi này ư, carino?
- Chính
con cũng không biết nói thế nào nữa. Con vẫn chờ đợi được nhìn một khung cảnh
khác hẳn như thế này, kể ra thì cảnh hồ rất đẹp và đồi núi cũng xinh tươi
đấy... – Họ đứng trên đảo Rútxô (1), và Áctơ đưa tay chỉ lên những nét dài và
khắc khổ của rặng núi Anpơ Xavoa...
– Nhưng
thành phố thì câu nệ và vuông vắn quá, như đượm một vẻ gì… của đạo Tin lành. Nó
có vẻ tự mãn. Không, con không ưa thành phố này, nó giông giống như Giuli vậy.
Môngtaneli
bật cười:
- Thật
không may, con đáng thương của cha! Nhưng không hề gì, ta đi du lịch chỉ để tìm
thú vui mà thôi, cũng chả cần ở đây lâu. Thôi, hôm nay ta hãy dạo thuyền buồm
chơi trên hồ, và sáng mai ta sẽ lên núi.
- Nhưng
thưa cha, chắc cha còn muốn ở đây chơi?
- Con
yêu quý, cha đã từng qua đây hàng chục lần rồi. Cha chỉ cốt sao cho con được
vui trong cuộc đi chơi này với cha. Thế con muốn đi chơi đâu?
- Nếu
cha đi đâu cũng được thì con và cha sẽ đi ngược dòng sông , đi tới tận nguồn!
- Đi
ngược dòng sông Rôn ấy ư?
- Không,
ngược sông Ácvơ. Sông ấy chảy xiết lắm.
- Thế ta
đi Samôni vậy.
Suốt
buổi chiều họ lênh đênh trên một chiếc thuyền buồm nhỏ. Những người thanh niên
vẫn thích dòng sông Ácvơ xám đục hơn là cảnh hồ mĩ lệ. Áctơ lớn lên bên bờ Địa
Trung Hải nên đã quen nhìn những làn sóng biếc xanh. Những dòng sông nước chảy
xiết bao giờ cũng lôi cuốn tâm hồn Áctơ và vì thế, dòng nước cuồn cuộn của sông
Ácvơ từ vùng băng giá chảy về làm anh say mê hết sức.
Áctơ
nói:
- Thế
này mới thật là sông chứ. Chảy như thế này mới thật say mê!
Sáng sớm
hôm sau, họ lên đường đi Samôni. Con đường chạy qua một thung lũng phì nhiêu.
Nhìn cảnh vật chung quanh, Áctơ cảm thấy lòng mình phơi phới. Nhưng gần tới
Cờluydơ thì họ phải ngoặt vào một quãng đường núi quanh co. Những ngọn núi lớn
hình răng cưa vây chặt lấy họ. Áctơ trở nên nghiêm nghị và trầm ngâm. Từ Xanh
Máctanh họ chầm chậm leo đèo. Họ nghỉ đêm trong những mái nhà gỗ ven đường hoặc
ở những xóm làng nhỏ bé rồi lại tiếp tục lên đườn, không bó mình theo một hành
trình nhất định. Cảnh thiên nhiên của vùng núi Anpơ để lại một ấn tượng sâu sắc
trong tâm trí Áctơ, và khi gặp con thác đầu tiên anh đã cảm thấy rộn ràng vui
sướng. Nhưng càng tới gần những ngọn núi tuyết bao nhiêu thì Áctơ càng trở nên
say sưa mơ mộng bấy nhiêu. Tâm trạng này của Áctơ, Môngtaneli mới thấy lần này
là lần đầu tiên. Hình như giữa chàng thanh niên và những ngọn núi này có một
sợi dây liên lạc thần bí nào. Áctơ có thể yên lặng hàng giờ giữa tiếng âm vang
của nhưng cây thông âm u, bí ẩn, đưa mắt theo dõi những thân cây cao thẳng mà
nhìn vào thế giới chan hoà ánh nắng đang nhuộm vàng những ngọn núi sáng long
lanh và những vách đá trơ trụi. Môngtaneli theo dõi Áctơ một cách buồn rầu,
thèm muốn.
Một hôm
Áctơ đã nằm hơn một tiếng đồng hồ trên mặt đất đầy rêu, mở to mắt chăm chú nhìn
mãi những ngọn núi cao óng ánh và khoảng trời xanh thăm thẳm. Môngtaneli bèn
rời trang sách, nhìn Áctơ mà hỏi:
- Cha
muốn biết con trông thấy cái gì ở đó, carino?
Họ định
nghỉ đêm trong một xóm làng tĩnh mịch cách thác nước Điôdơ không xa, nên đến
chiều họ không đi theo đường lớn mà leo lên mỏm núi mọc đầy thông để ngắm cảnh
hoang hôn buông dần trên nhưng ngọn núi lô nhô và trên đỉnh Mông Bờlăng. Áctơ
ngẩng đầu say sưa nhìn khung cảnh huyền ảo trước mặt và trả lời Môngtaneli:
- Con
trông thấy gì ư, thưa cha? Con tưởng như nhìn thấy qua một bức màn pha lê sẫm
một sinh linh vĩ đại mặc quần áo trắng trên khoảng không gian xanh thẳm vô cùng
tận ấy. Bao thế kỉ nay, sinh linh ấy đã chờ đợi ơn thiêng liêng của Chúa soi
sáng cho.
Môngtaneli
thở dài.
- Xưa
kia cha cũng đã từng thấy những cảnh tượng như con nói.
- Thế
hiện nay?
- Nay
thì không. Không bao giờ cha còn thấy những cảnh tượng như thế nữa. Cha biết
rằng những cảnh tượng ấy chưa biến mất, nhưng đối với những cảnh tượng ấy mắt
cha đã nhắm lại không còn nhìn thấy nữa rồi. Bây giờ cha nhìn thấy những cảnh
tượng khác hẳn.
- Vậy
cha nhìn thấy gì?
- Nhìn
thấy gì ư, carino? Trên cao cha nhìn thấy khoảng trời xanh và đỉnh núi tuyết
trắng xoá, nhưng ở dưới kia cha nhìn thấy một cảnh khác hẳn thế – Môngtaneli
chỉ tay xuống dưới chân đèo.
Áctơ quỳ
gối cúi người trên bờ vực nhìn xuống những cây thông to lớn thu mình dưới ánh
hoàng hôn, đứng thẳng tắp trên các bờ sông như những người lính gác. Một lát
sau, mặt trời đỏ như cục than hồng đã khuất mình sau mỏm đá lô nhô và mọi vật
như ngừng đọng lại và mờ mịt cả. Một cái gì đen tối, dữ tợn trùm lên khắp thung
lũng. Những mỏm đá lô nhô ở phía tây mọc thẳng lên trời như những chiếc vuốt
nhọn của một hung thần sắp sửa nhảy xuống vồ mồi mà đem xuống cửa miếng há hốc
của vực thẳm nơi rừng rú đương rên rỉ trong gió. Những ngọn thông cao lớn vươn
lên như những lưỡi dao nhọn, thầm thì trong tiếng reo vi vút: “Hãy rơi xuống
đây!” Suối nước réo ầm ầm trong đêm tối, tuyệt vọng xô mình vào những vách đá
đứng sừng sững như vách nhà tù.
- Cha!
Áctơ nhỏm dậy rùng mình lui khỏi bờ vực thẳm – Thật giống địa ngục!
- Không,
con ạ! – Môngtaneli nhẹ nhàng nói – Nó giống như linh hồn con người.
- Linh
hồn của những kẻ đang chơi vơi trong tăm tối và dưới bóng đen của tử thần ư?
- Linh
hồn của những kẻ mà hàng ngày con vẫn gặp trên đường phố!
Áctơ co
rúm mình, nhìn vào bóng đêm phía dưới. Sương mù mờ trắng trôi giữa rừng thông,
dừng lại chầm chậm trên dòng suối đang giãy chết tuyệt vọng, thật giống như một
bóng ma ủ rũ, không đủ sức thốt ra một lời an ủi.
Bỗng
Áctơ nói:
- Trông
kìa! Những kẻ chơi vơi trong tăm tối đã nhìn thấy ánh sáng mặt trời rồi!
Đằng
đông ánh hoàng hôn đốt cháy những đỉnh núi tuyết. Nhưng rồi, ngay sau khi những
tia nắng mờ đó tắt đi, thì Môngtaneli quay lại đặt tay lên vai Áctơ:
- Thôi
về đi, carino. Trời đã tối, khéo lạc đường.
- Mỏm đá
kia thật giống như một người đã chết. – Áctơ nói như vậy, mắt rời khỏi đỉnh núi
tuyết còn lóng lánh ở đằng xa trong ánh hoàng hôn.
Họ từ từ
xuống núi, len lỏi giữa những hàng cây đen tối và tiến về phía nhà trọ.
Khi bước
vào phòng ăn, nơi Áctơ đang ngồi đợi, Môngtaneli thấy rằng cậu bé đã lãng quên
những cảnh đen tối ảm đạm vừa qua và dường như đã biến thành một con người khác
hẳn.
- Cha,
mời cha lại đây! Cha xem con chó ngộ nghĩnh chưa này! Nó nhảy nhót được bằng
hai chân sau đấy!
Cậu bé
say mê con chó và những bước nhảy tung tăng của nó, chẳng khác gì một giờ trước
đây cậu đã say mê cảnh hoàng hôn trên núi Anpơ.
Bà chủ
nhà, một người đàn bà má đỏ mặc bộ cánh trắng, hai tay đẫy đà chống ngang hông,
mỉm cười nhìn Áctơ đùa với con chó.
Bà nói
với con gái bằng tiếng địa phương:
- Trông
cậu ấy nô nghịch như thế thì chắc chắn cậu ấy chẳng phải lo nghĩ nhiều. Cậu ấy
xinh trai quá.
Áctơ đỏ
mặt như một cô học trò, còn bà chủ thấy anh hiểu câu nói của mình thì liền bỏ
đi, buồn cười vì nỗi thẹn thò của anh.
Trong
bữa cơm anh chỉ bàn về chương trình đi chơi sắp tới, bàn chuyện leo núi, chuyện
tìm cây cỏ. Những hình ảnh huyền ảo vừa qua dường như chẳng có gì ảnh hưởng đến
tâm tình cũng như khẩu vị của anh cả.
Sáng sớm
hôm sau, khi tỉnh dậy Môngtaneli đã không thấy Áctơ đâu nữa. Trước lúc rạng
đông, Áctơ đã lên trên đồng cỏ cao để “giúp Gátsparu chăn dê” rồi.
Nhưng
sắp tới giờ ăn sáng thì Áctơ chạy xổ vào buồng đầu không mũ, vai công kênh một
cô bé chừng ba tuổi và tay ôm một bó hoa dại lớn.
Môngtaneli
nhìn Áctơ mỉm cười. Thật hoàn toàn khác hẳn với Áctơ nghiêm nghị trầm lặng tại
Pidơ và Livoócnô trước đây.
- Đi đâu
về thế, quái con? Chưa ăn gì cả mà đã chạy khắp núi rồi.
- A,
thưa cha, trên ấy hay lắm! Mặt trời mọc trên đỉnh núi, tráng lệ biết bao! Sương
xuống nhiều quá. Này, cha trông!
Áctơ
nhấc chân giơ chiếc giày ướt át và lấm bùn lên.
- Lúc đi
chúng con chỉ mang theo một ít bánh và phomát, nhưng đến đồng cỏ chúng con được
uống sữa dê... Khiếp lắm cơ! Nhưng con lại đã đói rồi. Với lại con cũng muốn
cho cô bé này ăn một tí gì nữa cơ. Này, có muốn uống mật không, Anét?
Áctơ
ngồi xuống, đặt cô bé vào lòng rồi xếp gọn hoa lại cho nó.
Môngtaneli
vội ngăn:
- Thôi,
thôi! Thế rồi lại cảm đấy. Đi thay quần áo đi... Anét, lại đây cháu... Con thấy
con bé này ở đâu Áctơ?
- Ở tận
cuối làng ạ. Nó là con gái của ông thợ giày mà chúng ta gặp hôm qua đấy. Cha
trông nó có đôi mắt xinh kháu khỉnh chưa! Trong túi nó lại có một con rùa tên
là Carôlina.
Sau khi
Áctơ thay bít tất ướt và xuống ăn lót dạ, thì thấy cô bé ngồi trong lòng vị linh
mục. Nó liến thoắng kể chuyện con rùa. Nó đặt con rùa nằm ngửa trong lòng bàn
tay mũm mĩm để “monsieur” (2) thấy cẳng rùa ngọ nguậy.
Nó nói
với giọng người lớn:
-
Monsieur trông này! Carôlina nó đi giày đây này!
Môngtaneli
ngồi chơi với Anét, vuốt mái tóc của nó, xem con rùa ngộ nghĩnh và kể cho nó
nghe những chuyện cổ tích thật hay.
Bà chủ
nhà vào dọn bàn thấy Anét đang móc túi của vị mặc quần áo cố đạo nghiêm trang
thì rất đỗi ngạc nhiên.
Bà nói:
- Thật
là trời xui con trẻ nhận ra người tốt bụng. Anét tính hay sợ người lạ, thế mà
bây giờ thấy cha, nó lại chẳng sợ sệt gì cả kia. Kể cũng thật lạ lùng! Anét,
cháu quỳ xuống xin cha ban phép lành cho. Cha sẽ ban phúc cho cháu đấy cháu
ạ...
Một giờ
sau, khi hai người đi trên đồng cỏ chói nắng, Áctơ nói:
- Thưa
cha, con thật không ngờ cha lại khéo vui đùa với con trẻ thế. Con bé cứ nhìn
cha chằm chặp. Thưa cha, con...
- Sao?
- Con
định nói rằng... rất tiếc tại sao Giáo hội lại cấm không cho các cha kết hôn.
Con thật không hiểu vì sao. Giáo dục trẻ con – đó là một việc rất quan trọng
lắm chứ! Ngay từ lúc lọt lòng, nếu trẻ em được sống giữa những ảnh hưởng tốt
thì hay biết bao. Con tưởng rằng, người nào sự nghiệp càng cao quý bao nhiêu,
cuộc sống càng trong sạch bao nhiêu thì người đó càng xứng đáng làm nhiệm vụ
người cha bấy nhiêu. Thưa cha, con tin rằng nếu cha không bị ràng buộc bởi lời
thề, mà cha lập gia đình thì con cái của cha chắc sẽ rất...
- Im đi
con!
Câu nói
ấy thốt ra bằng một giọng thì thầm vội vã nên càng làm sâu sắc thêm sự im lặng.
Thấy nét
mặt Môngtaneli sa sầm, Áctơ rất buồn và nói tiếp:
- Thưa
cha, con nói như thế có gì sai đâu? Cũng có thể con lầm nhưng con nghĩ như thế
nào thì nói như thế ấy...
Môngtaneli
dịu dàng đáp:
- Có lẽ
con chưa thật hiểu rõ những lời con nói. Vài năm nữa con sẽ biết nhiều. Bây giờ
ta hãy nói chuyện khác thì hơn.
Đó là
vết rạn nứt đầu tiên trong không khí thoải mái và hoà hợp hoàn toàn giữa hai
người từ lúc nghỉ hè đến nay.
Từ
Samôni, Môngtaneli và Áctơ vượt qua đỉnh Tếttơnoa. Đến Máctinhi thì họ tạm dừng
chân vì thời tiết rất oi ả.
Sau bữa
cơm trưa, họ bước lên sân thượng khuất nắng của khách sạn. Một cảnh núi rừng mĩ
lệ mở ra trước mắt. Áctơ đem hộp mẫu cây cỏ ra và say sưa nói chuyện với
Môngtaneli về thực vật học. Họ nói với nhau bằng tiếng Ý.
Hai họa
sĩ người Anh cũng đang ngồi ở sân thượng. Một người khác thì phác họa phong
cảnh, còn người kia thì tán dóc. Người này không ngờ rằng hai người kia hiểu
được tiếng Anh.
Hắn nói:
- Thôi,
Uyli, xếp cái trò vẽ phong cảnh lăng nhăng ấy đi! Vẽ anh chàng người Ý đẹp trai
đang ngồi mải mê với mấy cái lá mèo lười kia kìa! Mày hãy trông đôi lông mày
của nó! Thay chiếc kính lúp trong tay nó bằng một cây thánh giá, thay chiếc
quần soóc và chiếc áo ngắn bằng một bộ áo La Mã thì mày sẽ vẽ nên một tín đồ
Thiên chúa giáo hết sức điển hình của những thế kỉ đầu tiên.
- Thiên
chúa thiên chiếc gì! Khi ăn cơm tao ngồi cạnh nó. Nó thích gà rán như thích đám
cỏ kia vậy. Còn nói gì nữa, thằng bé kháu lắm, nước da màu ôliu thật tuyệt.
Nhưng ông bố nó còn đáng vẽ hơn nhiều.
- Bố nó
ấy à, ai thế?
- Bố nó
ngồi ngay trước mặt mày ấy, mày không chú ý à? Khuôn mặt ông ta thật là đẹp.
- Chà
cái thằng mêtôđít (3) này, mày đần thật! Mày không nhận ra cả cố đạo Thiên chúa
giáo à!
- Cố đạo
ư! Ừ nhỉ! Chết chưa! Tao quên mất, họ thề không phá giới và không gì gì nữa cơ
mà... Thôi, thế thì ta cũng có thể thương hại ông ta một tí, cho thằng bé là
cháu gọi bằng bác vậy.
Đôi mắt
tươi cười đung đưa nhìn Môngtaneli, Áctơ nói thầm:
- Sao họ
ngu thế! Dù sao họ cũng còn tốt là nhận thấy con giống cha lắm. Con cũng muốn
làm cháu thực của cha... Cha, sao thế! Sao mặt cha tái đi?
Môngtaneli
đứng dậy, lấy tay sờ trán. Giọng khàn khàn và yếu ớt, ông nói:
- Cha
hơi chóng mặt. Chắc sáng nay cha dãi nắng nhiều quá. Cha đi ngả lưng một tí
đây, Carino ạ. Vì nóng quá đấy thôi.
*
* *
Sau hai
tuần du ngoạn bên bờ hồ Luyxécnơ, Áctơ và Môngtaneli vượt đèo Xanh Gôta trở về
Ý. Tiết trời lúc nào cũng thuận lợi nên cuộc chơi nào cũng đều thú vị cả. Nhưng
niềm vui trong lòng họ những ngày đầu tiên bây giờ đã biến mất.
Môngtaneli
luôn luôn băn khoăn nghĩ cách nói với Áctơ câu chuyện nghiêm trang mà
Môngtaneli
tưởng rằng kì nghỉ hè này dễ nói hơn cả. Trên đồi Ácvơ, Môngtaneli cố ý tránh
nhắc tới câu chuyện mà họ đã bàn với nhau trong vườn, dưới cây mộc lan. Môngtaneli
nghĩ rằng nếu đem câu chuyện nặng nề ấy làm đen tối những nguồn vui đầu tiên mà
thiên nhiên vùng Anpơ đã đem lại cho một tâm hồn nghệ sĩ như Áctơ thì thật tàn
nhẫn quá. Nhưng từ ngày ở Máctinhi đến nay, cứ mỗi buổi sáng Môngtaneli tự nhủ
thầm:
“Hôm nay
phải nói với nó mới được”, nhưng cứ đến tối thì lại “Thôi, để mai”. Nghỉ hè sắp
hết mà Môngtaneli vẫn tự nhủ thầm “Mai, mai”. Điều kìm hãm Môngtaneli chính là
một cảm nghĩ mờ mờ tê lạnh, thấy rằng quan hệ giữa hai người không còn như cũ
nữa, mà dường như có một tấm màn vô hình ngăn cách họ. Mãi đến buổi chiều cuối
cùng của vụ hè Môngtaneli mới đột nhiên hiểu rằng nếu muốn nói thì chỉ có nói
ngày hôm nay.
Họ ở lại
Luganô để nghỉ đêm sáng hôm sau sẽ lên đường về Pidơ. Môngtaneli định ít nhất
cũng tìm xem đứa con yêu của mình đã sa vào vũng lầy tai hoạ của tình hình
chính trị nước Ý tới mực nào.
Sau khi
mặt trời đã khuất, Môngtaneli nói:
- Tạnh
mưa rồi, carino ạ. Bây giờ là lúc đi ngắm cảnh hồ. Đi đi, cha muốn nói chuyện
với con.
Họ men
theo bờ hồ, tới một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, rồi ngồi lên bức tường đá thấp, cạnh
tường là một bụi hồng dại chi chít đầy quả đỏ tía. Trên cành cao còn run rẩy
một vài đoá hồng nhỏ muộn màng màu trắng sữa đã phai tàn và đầm đìa giọt mưa,
như đang rưng rưng khóc. Lướt trên mặt hồ phẳng lặng và xanh rờn là một con
thuyền nhỏ với cánh buồm trắng nhẹ nhàng rung rinh trong làn sương ấm. Con
thuyền mảnh khảnh trông thật giống cánh hoa màu bạc buông trên mặt nước. Cao
cao trên ngọn Môngtơ Sanvato, cửa sổ một chiếc nhà cô quạnh của dân mở rộng,
trông giống như một con mắt vàng. Những đoá hồng cúi đầu mơ ngủ dưới bầu trời
đầy mây của tiết tháng chín; nước hồ rì rào xô từng đợt lên những viên cuội ven
bờ.
Môngtaneli
bắt đầu nói:
- Đã lâu
nay, chỉ tới giờ phút này cha mới có thể bình tĩnh nói chuyện được với con. Rồi
đây con sẽ trở về với công việc nhà trường, với chúng bạn, còn cha thì cũng sẽ
rất bận trong suốt mùa đông tới. Cha muốn biết rõ, rồi đây cha và con sẽ ăn ở
ra sao. Và nếu con...
Môngtaneli
ngừng một chút rồi chậm rãi nói:
- Và nếu
con cảm thấy rằng vẫn có thể tin cha được như xưa thì cha muốn con không nên
nói với cha như trong vườn trường dòng dạo nọ, mà nên nói thật cho cha hay rằng
con sẽ đi xa tới mức độ nào.
Áctơ
nhìn mặt nước lăn tăn, bình tĩnh lắng nghe và im lặng.
Môngtaneli
tiếp:
- Nếu
con có thể trả lời được thì con cho cha rõ là con đã ràng buộc mình bằng một
lời thề hoặc... bằng một cái gì khác.
- Cha
thân yêu, con chẳng có gì nói với cha cả, con chẳng ràng buộc gì mình cả, nhưng
con vẫn bị ràng buộc.
- Cha
không hiểu...
- Những
lời thề có ý nghĩa gì? Ràng buộc con người không phải là lời thề. Chỉ cần mình
tự cảm thấy thiết tha với một điều nào đó, thế là đủ rồi. Ngoài cái đó ra,
chẳng có gì ràng buộc được mình cả.
- Thế
nghĩa là điều đó... điều đó không thể thay đổi được ư? Áctơ, con đã nghĩ kĩ về
những lời con nói chưa?
- Thưa
cha, cha hỏi con có tin cha không. Vậy thì cha cũng có thể tin con không? Bởi
vì nếu có gì thì con đã nói cho cha nghe. Nhưng những chuyện ấy nói cũng chẳng
ích gì. Con vẫn không quên và sẽ không bao giờ quên những lời cha nói với con
chiều hôm ấy. Nhưng con phải đi theo con đường của con đi, tới phía ánh sáng
đang bừng lên trước mặt con.
Môngtaneli
ngắt một đoá hoa nhỏ khỏi bụi hồng, bứt từng cánh hoa và ném xuống nước.
- Con đã
nói đúng, carino. Thôi đủ rồi, ta đừng nói chuyện ấy nữa. Mà nói nhiều cũng
chẳng ích gì... Thôi, ta về đi.
Chú thích:
(1) Đảo Rútxô: hòn đảo có dựng tượng của nhà
tư tưởng và nhà văn Giăng Giắc Rútxô (1712 – 1778), người Pháp, sinh ở Giơnevơ.
(2) Monsieur: tiếng Pháp nghĩa là ông. Tác giả
muốn nhấn rõ con bé Anét là người vùng Anpơ (vùng nói tiếng Pháp).
(3) Méthodiste: tín đồ hội giám lí – một môn
phái của đạo Cơ đốc, xuất hiện hồi thế kỉ 18 ở Anh
RUỒI
TRÂU
Chương 3
Thu và
đông trôi qua không có việc gì xảy ra. Áctơ học rất chăm nên chẳng mấy lúc rỗi.
Tuy vậy mỗi tuần một hoặc hai lần, anh vẫn bớt thời giờ tới thăm cha
Môngtaneli. Đôi khi Áctơ mang sách đến nhờ giảng những đoạn khó, và những lúc
ấy câu chuyện chỉ xoay quanh nội dung của đoạn văn thôi. Cảm thấy một hàng rào
vô hình đã ngăn cách hai người, Môngtaneli cố tránh mọi cái gì tỏ ra mình muốn
giữ lại sự thân mật xưa kia. Việc Áctơ đến thăm bây giờ chỉ đem lại cho
Môngtaneli nhiều đắng cay hơn là sung sướng. Chịu đựng tình trạng luôn căng thẳng,
làm ra vẻ bình tĩnh và đối xử y như không có việc gì xảy ra thì thật là khó.
Áctơ cũng nhận thấy là sự thay đổi tế nhị trong cách đối xử của cha và phảng
phất cảm thấy rằng điều đó có liên quan gì tới câu chuyện nặng nề về “những tư
tưởng mới” của mình, nên cũng tránh nhắc tới điều mình hằng suy nghĩ ấy.
Nhưng dù
sao Áctơ vẫn chưa bao giờ yêu Môngtaneli một cách thắm thiết như bây giờ. Trước
kia, khi cảm thấy vướng mắc và trống rỗng trong tâm hồn thì Áctơ dốc sức nghiên
cứu khoa học thần học, làm đúng lẽ đạo dạy để xua tan những cảm giác ấy. Nhưng
từ khi tiếp xúc với “nước Ý trẻ” (1) thì cảm giác ấy đã tan đi không để lại vết
tích nào.
Tính mơ
mộng ốm yếu do nỗi cô đơn và do những đêm săn sóc mẹ bên giường bệnh cùng với
những mối hoài nghi trước kia, Áctơ dùng khấn cầu để lẩn trốn, nay cũng không
còn nữa. Cùng một lúc với sự say mê mới, với một lí tưởng mới và rõ hơn về tôn
giáo (vì trong phong trào sinh viên, Áctơ không chỉ thấy cơ sở chính trị mà còn
thấy nhiều hơn về cơ sở tôn giáo), Áctơ còn có một cảm giác bình tĩnh, thấy
lòng thoải mái, tâm hồn thảnh thơi, yêu mến mọi người. Đối với Áctơ toàn thế
giới chói loà ánh sáng mới. Áctơ đã tìm thấy những khía cạnh mới rất đáng yêu
trong con người, ngay cả ở những người mà trước kia Áctơ lấy làm khó chịu. Năm
năm qua, Môngtaneli đối với Áctơ là một người anh hùng lí tưởng thì ngày nay
Áctơ có cảm tưởng rằng Môngtaneli là một nhà tiên tri tương lai của tín ngưỡng
mới, đang mang theo một đạo hào quang mới trên đầu. Áctơ say sưa nghe cha giảng
đạo, cố tìm ra mối quan hệ huyết mạch của những câu giảng đạo ấy và những lí
tưởng cộng hoà. Áctơ cố gắng nghiên cứu kinh thánh và rất vui sướng với khuynh
hướng dân chủ của đạo Cơ đốc sơ kì.
Một ngày
tháng giêng, Áctơ đến trường dòng để trả sách. Thấy cha giám đốc đi vắng, anh
bèn vào phòng làm việc riêng của Môngtaneli. Áctơ đặt sách lên giá, định bước
ra thì bỗng thấy một quyển sách nằm trên bàn giấy. Đó là tuyển tập “De
Monarchia” (2) của Đăngtơ. Áctơ cầm lấy đọc và phút chốc đã mê mải đến nỗi cửa
mở ra rồi đóng lại mà anh vẫn không hay. Chỉ mãi tới khi sau lưng vang lên
tiếng nói của Môngtaneli thì Áctơ mới ngừng đọc.
Cha liếc
nhìn tên sách rồi nói:
- Không
ngờ hôm nay con lại đến. Cha vừa định cho người hỏi xem tối nay con có đến được
không.
- Có gì
quan trọng hở cha? Tối nay con có hẹn nhưng nếu...
- Thôi,
mai cũng được. Cha muốn được gặp con. Thứ ba này cha đi rồi. Cha được triệu về
La Mã.
- Về La
Mã ư? Có lâu không?
- Trong
thư chỉ nói là “tới sau lễ phục sinh” thôi. Thư của Vaticăng. Cha đã định cho
con biết, nhưng lúc thì cha bận, lúc thì chuẩn bị đón giám đốc mới.
- Thưa
cha, con chắc cha không rời bỏ trường này?
- Đành
phải đi thôi. Nhưng cha còn về Pidơ nữa. Ít nhất là về một thời gian.
- Nhưng
tại sao cha lại bỏ trường?
- Ấy...
Bề trên định phong cha làm giám mục, nhưng lệnh đó còn chưa được công bố chính
thức!
- Nhưng
cha được bổ nhiệm ở đâu cơ?
- Chính
vì thế mà phải về La Mã mới biết được. Chưa quyết định hẳn là cha sẽ làm giám
mục ở địa phận vùng núi Apenanh hay làm giám mục tại đây.
- Thưa
cha, cha giám đốc mới được bổ nhiệm chưa?
- Rồi,
đó là cha Cácđi. Mai sẽ đến.
- Thật
là đột ngột quá!
- Ừ...
nhưng quyết định của Vaticăng thường đến phút cuối cùng mới được công bố.
- Cha có
quen cha giám đốc mới không?
- Cha
không quen biết riêng, nhưng nghe người ta khen cha ấy lắm. Đức giám mục Belôni
viết thư cho cha, nói cha Cácđi học vấn rất uyên thâm.
- Cha đi
thì trường sẽ thiệt thòi nhiều lắm.
- Cha
không biết trường sẽ ra thế nào, nhưng con thân yêu, chắc con sẽ cảm thấy thiếu
cha. Có lẽ cũng gần như cha cảm thấy thiếu con vậy.
- Vâng.
đúng thế. Nhưng dù sao con cũng mừng cho cha.
- Mừng ư
con? Còn cha thì cha không biết cha có mừng không.
Môngtaneli
ngồi vào bàn, vẻ mặt bơ phờ như thực sự không vui mừng gì về chức trọng quyền
cao mà mình sắp được thụ phong, bổ nhiệm.
Sau giây
lát yên lặng. Môngtaneli bắt đầu nói:
- Áctơ,
chiều nay con có bận gì không? Nếu không con hãy ở lại với cha, vì tối nay con
không đến thăm cha được. Cha thấy bứt rứt trong người. Cha muốn trước khi đi
còn được gần con nhiều hơn.
- Được
ạ. Nhưng đến 6 giờ con sẽ phải đi...
- Đi họp
phải không?
Áctơ gật
đầu, Môngtaneli vội chuyển ngay đầu đề câu chuyện:
- Cha
muốn nói đến việc của con. Khi cha không ở đây con cần có một cha linh hồn cho
con.
- Khi
nào cha trở về thì con sẽ có thể xin cha giải tội cho cơ mà?
- Sao
con lại nói thế, carino? Đây là cha chỉ nói thời gian ba tháng bốn tháng mà cha
đi vắng. Con có ưng một cha ở nhà thờ Đức bà Catarina (3) giải tội cho con
không?
- Xin
vâng.
Họ nói
chuyện với nhau chút ít về những việc khác. Rồi Áctơ đứng dậy:
- Thưa
cha, con đi đây. Anh em họ đang đợi con.
Một vẻ
thẫn thờ lại hiện trên gương mặt Môngtaneli.
- Đã đi
ngay ư? Thế mà vừa rồi cha tưởng đã thoát khỏi những ý nghĩ đen tối. Thôi được
con đi.
- Kính
chào cha. Nhất định mai con sẽ đến.
- Con có
thể đến sớm một chút để cha kịp gặp riêng con. Mai cha Cácđi tới... Áctơ yêu
quý, cha xin con hãy thận trọng, điều gì chưa nghĩ kĩ thì chưa nên làm, ít nhất
là cho tới khi cha trở lại. Con chưa rõ lòng cha lo cho con biết chừng nào khi
cha không ở đây!
- Thưa
cha, cha đừng lo. Vạn sự đều bình yên cả, và còn bình yên lâu.
- Thôi,
con đi.
Môngtaneli
giật giọng nói như vậy rồi cúi đầu trên bàn viết.
*
* *
Bước vào
phòng họp của sinh viên, người mà Áctơ trông thấy đầu tiên chính lại là con gái
bác sĩ Uaren, bạn gái của Áctơ từ thời còn để chỏm. Cô ngồi bên cửa sổ tận góc
phòng, đang chăm chú nghe một thanh niên cao lớn mặc bộ quần áo cũ kiểu
Lômbácđi, nói chuyện. Anh ta là một trong “những người khởi xướng” của phong trào.
Mới qua mấy tháng mà cô bé khác hẳn trước: lớn lên và trở thành một thiếu nữ
đến thì. Chỉ còn đôi bím tóc to và đen sau lưng cô là gợi lại hình ảnh một nữ
sinh thuở bé. Cô bận toàn đen, đầu cũng quàng một chiếc khăn đen vì gió lạnh
lùa manh vào phòng họp. Trên ngực cô đeo một cành bách nhỏ, huy hiệu của “Nước
Ý trẻ”. Anh thanh niên người Lômbácđi đang say sưa nói về những nỗi đói khổ của
nông dân Calabơri (4). Còn cô gái thì ngồi nghe, tay chống cằm, mắt nhìn xuống
sàn. Nhìn cô, Áctơ thấy hiện ra trước mắt một cảnh đau buồn. Thần Tự do đang
khóc than nền cộng hoà đã mất. (Vậy mà Giuli cứ chê bai nào là một cô gái cao
quá khổ, nào mặt tái, mũi dô, nào chiếc áo ngoài đã cũ và ngắn cũn cỡn.)
Khi có
người gọi chàng thanh niên Lômbácđi ra đầu phòng kia, Áctơ lại gần cô gái nói:
- Dim,
cũng ở đây à?
Dim – đó
là tên hồi nhỏ và là tên gọi tắt của Diniphơ, tên đặt lúc rửa tội. Bạn gái
người Ý thường gọi cô ta là Giêma.
Dim
ngẩng đầu và ngạc nhiên:
- Áctơ!
Ồ, tôi không biết là anh cũng ở đây!
- Tôi
cũng không ngờ lại gặp Dim ở đây. Dim ạ! Từ hồi nào...
Cô vội
ngắt lời:
- Không,
anh ạ. Tôi chưa phải là đảng viên. Tôi mới làm được vài ba công tác nhỏ thôi.
Tôi có quen với Bini... Anh chắc biết Cáclô Bini chứ?
- Tất
nhiên có.
Bini là
người lập ra chi bộ Livoócnô, trong “nước Ý trẻ” ai cũng biết anh ta.
- Ấy,
chính Bini nói chuyện với tôi về việc này. Tôi liền yêu cầu Bini cho dự cuộc
hội nghị sinh viên. Sau Bini có viết thư đến Phơlorăngxơ (5) cho tôi... tôi có
dự lễ Nôen tại Phơlorăngxơ, anh có biết không nhỉ?
- Không,
dạo này tôi ít được tin nhà lắm.
- À, ừ
nhỉ... Thế là tôi liền đi Phơlorăngxơ để gặp chị em Raitơ (chị em Raitơ là bạn
học cũ của Giêma). Khi đến nơi Bini lại viết thư cho tôi lúc về thì ghé qua
Pidơ, vì thế hôm nay tôi mới đến đây... Kìa bắt đầu rồi...
Bản báo
cáo nói về nền Cộng hoà lí tưởng và nói rằng thanh niên phải sẵn sàng phấn đấu
cho nền cộng hoà Ý. Bản báo cáo cũng còn đôi chút mơ hồ nhưng Áctơ vẫn nghe với
một lòng cảm phục chân thành. Trong thời kì này điều gì Áctơ cũng tin theo, và
bất cứ cái gì là lí tưởng luân lí mới, anh cũng đều nốc cạn một hơi, không hề
nghĩ ngợi.
Bản báo
cào và phần thảo luận dài tiếp theo đã xong, các sinh viên bắt đầu giải tán thì
Áctơ trở lại chỗ Giêma lúc nãy vẫn ngồi trong góc phòng.
- Tôi
đưa Dim về nhé. Dim ở với ai?
- Tôi ở
nhà Marietta.
- Bà
quản gia cũ nhà Dim đấy ư?
- Phải,
cũng khá xa đấy.
Họ đi
trầm ngâm một hồi lâu. Áctơ bỗng hỏi:
- Dim
bao nhiêu tuổi rồi, mười bảy phải không?
- Tháng
mười năm qua mười bảy tuổi tròn.
- Lúc
nào tôi cũng nghĩ rằng khi lớn lên Dim chẳng say mê nhảy nhót như các cô gái
khác đâu.
Dim thân
yêu, tôi luôn tự hỏi không biết Dim sẽ có trong hàng ngũ của chúng ta không
nhỉ?
- Tôi
cũng nghĩ như thế đấy.
- Dim
nói Bini đã giao công tác cho Dim. Vậy mà tôi không hề biết là Dim có quen cả
Bini.
- Có
phải tôi làm giúp Bini đâu, làm giúp người khác kia.
- Giúp
ai?
- Giúp
Bôla, người nói chuyện với tôi lúc nãy.
- Dim có
quen Bôla lắm không?
Giọng
nói của Áctơ có chút ghen tị. Anh chẳng ưa người ấy. Hai người ganh nhau làm
một công tác, nhưng sau ban chấp hành “nước Ý trẻ” giao cho Bôla làm vì cho
rằng Áctơ còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm.
- Cũng
khá thân. Tôi mến anh ấy lắm. Anh ấy có ở Livoócnô.
- Tôi
biết... Anh ấy đến Livoócnô vào khoảng tháng một.
- Phải,
đến đợi tàu (6). Áctơ, chắc dùng chỗ nhà anh ở để làm việc này thì an toàn hơn.
Không ai nghi ngờ một nhà chủ hãng tàu giàu có như nhà anh. Với lại anh còn
quen biết mọi người trên bến nữa.
- Khẽ
chứ, đừng nói to thế, Dim thân yêu! Thế ra tài liệu từ Mácxây tới vẫn giấu ở
nhà Dim ư?
- Chỉ để
ở đấy một ngày thôi... Nhưng có lẽ không nên nói với anh chuyện này thì phải
nhỉ?
- Sao
lại không? Dim cũng biết tôi là người của đoàn thể kia mà. Giêma thân yêu, nếu
Giêma và… đức cha cùng đi theo chúng tôi thì tôi không có gì sung sướng hơn
trên đời này!
- Đức
cha của anh ấy à, chẳng lẽ ông cũng...
- Không,
cách nghĩ của đức cha khác hẳn. Nhưng đôi khi tôi vẫn nghĩ... Tôi hi vọng rằng…
- Áctơ,
ông ấy là cố đạo kia mà!
- Thì đã
sao? Trong tổ chức của chúng ta cũng có cả các cha chứ. Có hai cha đang viết
báo cho chúng ta (7). Mà như thế có sao đâu! Vì sứ mệnh của giáo sĩ là dẫn thế
gian tới những lí tưởng và mục đích cao cả. Xã hội chúng ta chẳng nhằm tiến tới
đó hay sao? Rốt cuộc chính là vấn đề tôn giáo và luân lí hơn là vấn đề chính
trị. Vì nếu người ta muốn trở thành công dân tự do và có trách nhiệm thì không
ai có thể nô dịch họ được.
Giêma
nhíu mày lại:
- Áctơ,
tôi có cảm tưởng là luân lí của anh có chỗ nào lầm lẫn đấy. Cha cố cổ động học
thuyết
tôn giáo. Tôi thấy cái đó chẳng dính dáng gì đến việc chúng ta tự giải phóng
mình khỏi ách nước Áo cả.
- Các
cha là người cổ động cho đạo chúa Giêsu; mà chúa Giêsu là người vĩ đại nhất
trong các nhà cách mạng.
- Anh
biết không, tôi có nói chuyện với cha tôi về vấn đề cha cố, ngay cả cha tôi
cũng...
- Nhưng
cha Giêma theo đạo Tin lành kia mà.
Sau
khoảnh khắc im lặng, cô mạnh dạn nhìn thẳng vào mắt Áctơ:
- Thôi
đừng nói chuyện ấy nữa thì tốt hơn. Hễ nói về đạo Tin lành là bao giờ anh cũng
có vẻ khó chịu lắm.
- Không
phải thế đâu. Chính người theo đạo Tin lành khó chịu khi nghe nói tới người
theo đạo
Thiên
chúa thì có.
- Thôi
thì cứ coi là như thế. Nhưng chúng ta đã tranh cãi quá nhiều vấn đề này rồi,
không cần trở lại nữa... Anh có thích buổi nói chuyện hôm nay không?
- Thích
lắm, nhất là đoạn cuối. Hay nhất là lúc báo cáo viên nhấn mạnh: chúng ta không
nên chỉ mơ ước một nền cộng hoà, mà phải hiện thực những lí tưởng cộng hoà!
Điều đó đúng với học thuyết của chúa Giêsu: “Thiên đàng là ở trong lòng chúng
ta”.
- Chính
đoạn ấy tôi lại không thích. Báo cáo viên nói quá nhiều về những điều kì diệu
mà chúng ta phải cảm nghĩ, nhưng không vạch ra cụ thể những cái mà chúng ta
phải làm.
- Khi
thời cơ đến chúng ta sẽ có khối việc mà làm. Chúng ta phải kiên nhẫn. Những
biến cố vĩ đại không thể xảy ra ngay trong một ngày được.
- Nhiệm
vụ càng lâu dài càng phức tạp thì càng có lí do để bắt đầu ngay từ lúc này. Anh
nói cần phải chuẩn bị mình đầy đủ để hưởng tự do. Thế nhưng có ai là người đầy
đủ để hưởng tự do hơn mẹ anh? Bà chẳng phải là một người hiền hậu bậc nhất đó
sao? Nhưng lòng tốt của bà đã đưa bà đến đâu? Bà chỉ là một người nô lệ cho tới
ngày cuối cùng của đời mình. Vì vợ chồng anh Giêmxơ mà bà đã phải chịu đựng bao
nhiêu dằn vặt, đay nghiến. Nếu bà không dịu dàng, không kiên nhẫn chịu đựng đến
thế thì chắc bà đã sống dễ chịu hơn, người ta không dám đối xử với bà tệ bạc
đến thế! Đối với nước Ý cũng vậy: không phải là nhẫn nhục mà phải là đứng lên
bảo vệ quyền lợi của mình.
- Dim
thân yêu, nếu tức giận và nhiệt tình có thể cứu vãn được nước Ý thì nước Ý đã
tự do từ lâu rồi. Nước Ý không cần hận thù mà cần tình yêu.
Máu bỗng
bốc mạnh lên mặt anh rồi lại lắng xuống, khi anh nói lên câu cuối cùng. Nhưng
Giêma không nhận thấy. Nàng nhìn thẳng về phía trước, nhíu mày, mím môi.
Sau giây
lát im lặng, Giêma nói:
- Áctơ,
chắc anh cho là tôi sai. Nhưng không, tôi đúng chứ không sai đâu. Rồi một ngày
kia anh sẽ rõ... Tới nhà Marietta rồi. Anh có vào chơi không?
- Không,
khuya rồi. Thôi, chào Dim thân yêu!
Anh đứng
ở thềm, hai tay anh nắm chặt lấy tay Giêma.
- “Vì
thượng đế và nhân dân...”
Và Giêma
cũng chậm rãi và trịnh trọng đọc tiếp câu khẩu hiệu:
-
“…trung thành suốt đời”.
Rồi nàng
rút tay ra, chạy vào nhà. Khi cánh cửa đã khép lại, Áctơ cúi nhặt cành bách nhỏ
vừa rơi xuống từ ngực nàng.
Chú thích:
(1) Nước Ý trẻ: tên một đảng cách mạng của
tiểu tư sản, dưới sự lãnh đạo của Giudéppê Mátdini lập ra năm 1831 ở Thuỵ Sĩ để
đấu tranh giải phóng nước Ý khỏi ách thống trị của Áo, thống nhất đất nước và
lập ra nền cộng hoà Ý.
(2) Luận về chính thể quân chủ: tác phẩm của
nhà thơ người Ý Alighêri Đăngtơ (1265 – 1321), chủ trương thủ tiêu tình trạng
phong kiến phân quyền của nước Ý, bằng cách lập một nền quân chủ thống nhất, và
công kích Giáo hoàng La Mã định can thiệp vào chính quyền trong xã hội. Trong
thế kỉ XIX, sách này bị Giáo hoàng cấm.
(3) Nhà thờ Đức bà Catarina (tiếng Pháp:
Sainte Catherine) Nhà thờ bà thánh Catơrin ở Pidơ.
(4) Calabơri: Vùng núi trong vương quốc
Nêapôn, miền nam nước Ý.
(5) Phơlôrăngxơ: thủ đô của công quốc Tôxcan,
thành phố đẹp nổi tiếng nước Ý.
(6) Hồi ấy Mátdini xuất bản tờ báo “Nước Ý
trẻ” tại Mácxây (Pháp). Báo này và những tài liệu chính trị do tổ chức bí mật
xuất bản ngầm đưa từ Mácxây về Livoócnô.
(7) Tức là tờ “Nước Ý trẻ”.
RUỒI
TRÂU
Chương 4
Lòng
lâng lâng nhẹ nhàng như đôi cánh chim, Áctơ trở về nhà. Áctơ cảm thấy tràn ngập
một niềm vui trong sáng không gợn một chút mây lo buồn. Tại hội nghị, người ta
đã có ý nói tới chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Và Giêma giờ đây đã là đồng chí
của Áctơ, và Áctơ đã yêu Giêma. Hai người sẽ cùng nhau công tác và có lẽ sẽ
cùng nhau hi sinh trong cuộc đấu tranh cho nền cộng hoà đang tiến tới nền cộng
hoà, mùa nở hoa của hi vọng đã đến kia rồi! Đức cha sẽ thấy và sẽ tin.
Nhưng
sáng hôm sau, khi Áctơ bừng tỉnh dậy, lòng anh đã tỉnh táo hơn. Anh sực nhớ
rằng Giêma sắp đi Livoócnô còn đức cha sẽ đi La Mã.
Giêng,
hai, ba... còn ba tháng dài nữa mới tới lễ Phục sinh! Giêma trở về với gia
đình, lỡ ra lại rơi vào ảnh hưởng của đạo Tin lành thì sao? (trong ngữ vựng của
Áctơ, “tín đồ Tin lành” và “Philistanh” (1) chỉ là một nghĩa)... Không, khác
hẳn thế, Giêma sẽ không đua đòi thói mơn trớn, làm đỏm để hòng quyến rũ các tay
du lịch và những chủ tàu hói trán, như những tiểu thư Anh khác ở Livoócnô.
Nhưng Giêma chắc sẽ rất khổ tâm. Tươi trẻ như vậy, lại không có bạn bè, Giêma
hẳn sẽ cảm thấy rất cô đơn giữa những con nguời gỗ đá ấy... Ồ, giá mẹ mà còn
sống nhỉ!
Đến
chiều, Áctơ vào trường dòng thấy Môngtaneli đang nói chuyện với cha giám đốc
mới. Vẻ mặt Môngtaneli vừa mệt mỏi vừa cau có. Thấy Áctơ, Môngtaneli không tươi
vui lên như mọi khi mà sa sầm nét mặt.
Khi giới
thiệu Áctơ với cha giám đốc mới, Môngtaneli nói bằng một giọng khô khan:
- Đây là
cậu sinh viên tôi vừa nói với cha. Cha cứ cho cậu ấy dùng sách của thư viện như
trước thì tôi rất đội ơn.
Cha
Cácđi là một giáo sĩ có tuổi, vẻ mặt phúc hậu. Cha nói chuyện ngay với Áctơ về
trường học. Giọng nói tự nhiên thân mật của cha chứng tỏ cha rất hiểu sinh hoạt
của sinh viên. Câu chuyện chuyển rất mau lẹ tới một vấn đề nóng hổi trước mắt
bấy giờ là những chế độ quá nghiêm ngặt của nhà trường đại học.
Điều làm
Áctơ hết sức vui mừng là cha giám đốc mới phê bình kịch liệt ban giám đốc nhà
trường đã hạn chế sinh viên những đìều hết sức vô lí khiến cho sinh viên công
phẫn.
Cha nói:
- Về
việc hướng dẫn thanh niên, tôi có nhiều kinh nghiệm. Nguyên tắc của tôi là bất
cứ việc gì không có lí do xác đáng thì nhất định không nên cấm. Nếu đối xử tốt
với thanh niên, tôn trọng nhân cách của họ, thì số thanh niên làm cho bề trên
phải phiền lòng cũng rất ít thôi. Con giun xéo lắm cũng quằn nữa là.
Áctơ
tròn xoe mắt. Anh không ngờ cha giám đốc mới lại bênh vực quyền lợi của sinh
viên đến thế. Môngtaneli không tham gia câu chuyện, hình như ông không quan tâm
gì đến vấn đề ấy.
Trông
ông phờ phạc chán ngán đến nỗi cha Cácđi phải đột nhiên nói:
- Thưa
đức cha, chắc tôi làm đức cha mệt lắm nhỉ. Đức cha thứ lỗi cho, tính tôi hay
nói nhiều, tôi quá chú tâm vào vấn đề này thành thử không để ý đến việc người
khác có thể thấy chán.
- Trái
lại, vấn đề ấy tôi rất quan tâm.
Môngtaneli
chẳng bao giờ tỏ vẻ khách sáo cả, nên giọng nói của ông làm Áctơ khó chịu.
Khi cha
Cácđi đi khỏi, Môngtaneli quay về phía Áctơ, nhìn anh với vẻ lo lằng đăm chiêu
suốt buổi chiều hôm nay. Ông chậm rãi nói:
- Áctơ,
con thân yêu, cha có việc cần nói với con.
Áctơ lo
ngại nhìn bộ mặt đờ đẫn của Môngtaneli, óc vụt nghĩ: “Chắc lại có tin chẳng
lành đây”.
Im lặng
hồi lâu.
Môngtaneli
bỗng hỏi:
- Con có
thích cha giám đốc mới không?
Câu hỏi
đột nhiên đến nỗi Áctơ không biết trả lời ra sao cả.
- Con...
con rất thích... Con nghĩ... ít nhất là... à không con cũng chưa biết chắc là
con có thích cha ấy không. Nhưng mới gặp lần đầu thì cũng khó nói.
Ngồi gõ
tay vào ghế, một cử chỉ rất quen thuộc mỗi khi có điều gì phải lo nghĩ, Môngtaneli
nói
tiếp:
- Còn về
việc cha đi, nếu con không đồng ý... Ờ... Áctơ nếu con muốn, thì cha sẽ viết
thư về La Mã và nói rằng không thể đi được.
- Thưa
cha! Nhưng Vaticăng...
-
Vaticăng sẽ tìm người khác. Cha sẽ viết thư xin lỗi.
- Nhưng
sao lại thế? Con không hiểu được.
Môngtaneli
đưa tay lên vuốt trán.
- Cha lo
cho con lắm. Cha không thể không nghĩ rằng... Vả lại cũng chẳng cần thiết phải
đi
nữa...
- Thế
còn chức giám mục thì sao?
- Ồ,
Áctơ! Còn sung sướng nỗi gì nếu cha được thăng chức giám mục mà lại mất mất...
Môngtaneli
bỗng ngừng bặt, Áctơ thấy bối rối vô cùng. Chưa bao giờ Áctơ thấy cha như vậy
cả.
Anh
luống cuống nói:
- Con
chẳng hiểu thế nào cả... Cha, cha nói rõ đi, cha cho con biết cha lo lắng điều
gì?
- Có gì
đâu. Cha bị một mối lo khủng khiếp ám ảnh. Con cho cha hay, con có gặp một mối
nguy hiểm đặc biệt nào không?
Áctơ nhớ
tới những lời xì xào bàn tán về chuẩn bị khởi nghĩa và nghĩ thầm: “Chắc cha
nghe thấy rồi đây?”
Nhưng
biết rằng không thể lộ bí mật, Áctơ chỉ trả lời bằng một câu hỏi:
- Có gì
đặc biệt được thưa cha?
- Đừng
hỏi, hãy trả lời đi – Vì xúc động Môngtaneli nói gần như gay gắt. – Có gì đe
dọa con không? Cha không muốn biết những bí mật của con đâu. Con chỉ trả lời
cho cha điều ấy thôi.
- Thưa
cha, tất cả chúng ta đều ở trong tay Chúa cả. Điều gì cũng có thể xảy ra. Nhưng
con thấy rằng không có lí gì con lại không thể bình yên vô sự cho đến khi cha
trở về.
- Cho
tới khi cha trở về... hãy nghe đây, carino. Cha để cho con quyết định lấy. Cha
không cần con giải thích nhiều. Chỉ cần con nói: “Cha hãy ở lại” là cha sẽ từ
chối không đi nữa. Điều đó chẳng có hại cho ai và con, cha tin rằng có cha ở
đây thì con sẽ bằng an.
Tâm
trạng kì quặc của Môngtaneli hôm nay làm Áctơ nhìn ông với một vẻ hết sức lo
âu.
- Cha,
cha ốm mất rồi. Cha phải đi La Mã mà tĩnh dưỡng cho khỏi bệnh mất ngủ và nhức
đầu đi thôi...
- Được
lắm. – Môngtaneli cắt ngang câu chuyện hình như đã chán ngấy rồi. – Sáng mai
cha sẽ
đi
chuyến xe ngựa chở khách đầu tiên.
Áctơ ngơ
ngác nhìn Môngtaneli:
- Hình như
cha còn điều gì muốn nói với con?
- Không,
không, không có gì nữa... Không có gì quan trọng nữa cả.
Trong
đôi mắt sững sờ của Môngtaneli là một vẻ lo âu, gần như hoảng sợ.
*
* *
Vài ngày
sau khi Môngtaneli ra đi, Áctơ đến thư viện trường dòng để mượn sách, gặp cha
Cácđi ở
cầu thang. Cha giám đốc kêu:
- A, cậu
Bớctơn. Tôi đang cần cậu đây. Mời cậu lên phòng tôi. Tôi có việc khó khăn đang
định nhờ cậu giúp.
Ông mở
cửa phòng làm việc, và Áctơ bước theo ông ta với một cảm giác khó chịu ngấm
ngầm. Nhìn căn phòng làm việc thân yêu, nơi thánh thất của cha Môngtaneli nay
bị người khác chiếm mất, Áctơ cảm thấy chua xót trong lòng.
Cha giám
đốc nói:
- Tôi là
một con mọt sách đấy. Tôi đến đây, việc đầu tiên là xem thư viện. Đó là một
việc hứng thú, nhưng tôi chẳng hiểu bản kê sách sắp xếp theo hệ thống nào cả.
- Bản
thư mục chưa được đầy đủ, phần lớn các sách quý đều mới đưa đến.
- Cậu có
thể để độ nửa giờ giảng giúp tôi hệ thống thư mục không?
Hai
người bước vào thư viện, và Áctơ tỉ mỉ nói rõ, mọi điều cần thiết. Khi Áctơ cầm
mũ định đi ra thì cha giám đốc ngăn lại với một nụ cười:
- Không,
không. Tôi không thể cho cậu vội về như thế đâu. Hôm nay thứ bảy, để đến sáng
thứ hai học cũng được. Cậu ở lại đây, ăn cơm với tôi, đằng nào cũng muộn rồi
còn gì. Bây giờ tôi chỉ có một mình thôi, thêm cậu tôi vui lắm.
Thái độ
xởi lởi và đon đả của cha làm cho Áctơ thấy dễ chịu ngay từ phút đầu. Sau mấy
câu chuyện phiếm, cha giám đốc hỏi Áctơ biết Môngtaneli từ lâu chưa.
- Gần
bảy năm. Năm đức cha ở Trung Quốc về, con mới mười hai tuổi.
- À
phải. Bên ấy cha nổi tiếng là một nhà truyền đạo xuất sắc. Và từ đó trở đi cha
hướng dẫn cho cậu học ư?
- Một
năm sau đức cha mới dạy con học, vào khoảng con bắt đầu nhận cha là cha linh
hồn. Khi con vào đại học Xapiênđa thì cha tiếp tục bảo con học những môn không
có trong chương trình đại học. Cha đối xử với con tốt lắm! Tốt không thể tưởng
tượng được!
- Tôi
sẵn lòng tin lắm. Con người ấy ai mà chẳng mến phục, thật là một tâm hồn đẹp đẽ
cao quý hết sức. Nhiều lần tôi có dịp gặp các nhà truyền giáo đã từng làm việc
với đức cha tại Trung Quốc. Họ cũng tìm đủ lời để khen ngợi nghị lực, tinh thần
dũng cảm trong những giờ phút khó khăn và lòng thành không gì lay chuyển nổi
của đức cha. Cậu nên cảm ơn số mệnh đã cho cậu một người như thế để dìu dắt cậu
trong thời niên thiếu. Nghe đức cha nói hình như cậu mồ côi từ sớm.
- Thưa
vâng, cha con mất từ khi con còn bé, mẹ con qua đời cách đây một năm.
- Cậu có
anh chị em gì không?
- Không,
chỉ có hai anh cùng cha khác mẹ thôi... Nhưng khi con còn phải ẵm các anh ấy đã
lập nghiệp cả rồi.
- Chắc
rằng vì cậu mồ côi từ nhỏ nên cậu mới càng thêm quý mến lòng tốt của đức cha
Môngtaneli như vậy. Thế khi đức cha Môngtaneli đi vắng thì cậu có cha nào giải
tội không?
- Nếu
các cha xứ Đức bà Catarina không có nhiều người đến xưng tội quá thì con định
xin một cha giải tội cho.
- Thế
cậu có muốn tôi giải tội cho không?
Áctơ trố
mắt ngạc nhiên:
- Thưa
cha kính mến, tất nhiên, con... con rất sung sướng, nhưng chỉ sợ...
- Chỉ sợ
cha giám đốc trường dòng thường không giải tội cho người ngoài đời phải không?
Đúng thế, nhưng tôi biết là Môngtaneli rất chăm sóc cậu và nếu tôi không lầm,
cha rất lo lắng cho sự bằng an của cậu thì phải. Nếu tôi phải xa học trò yêu
của tôi thì tôi cũng lo lắng như vậy. Nếu đức cha Môngtaneli biết rằng có đồng
nghiệp chăm sóc cho phần hồn của cậu thì chắc cha vui lòng lắm. Hơn nữa, con
của cha, cha nói thật với con là cha ưa con lắm. Điều gì giúp được con thì cha
vui lòng giúp.
- Nếu
vậy thì tất nhiên con rất đội ơn cha.
- Thế
đến tháng sau cha sẽ đợi con tới xưng tội nhé...? Tốt lắm! Ngoài ra chiều nào
rảnh rang con cứ lại đây với cha, con của cha ạ!
*
* *
Trước lễ
phục sinh không lâu, có tin chính thức Môngtaneli bổ nhiệm làm giám mục và đi
cai quản địa phận Brixighêla, một khu nhỏ vùng núi Apênanh Êtơrút (2). Đọc
những lời lẽ bình tĩnh và phấn khởi trong thư ông gửi cho Áctơ từ La Mã cũng
thấy nỗi u buồn của ông đã qua rồi. Môngtaneli viết: “Mỗi kì nghỉ hè con phải
đến thăm cha và cha hứa sẽ luôn đến thành Pidơ. Thế nào cha cũng phải gặp con,
dù không được gặp nhiều như cha mong muốn cũng được.”
Bác sĩ
Uơren mời Áctơ đến ăn mừng lễ Phục sinh ở nhà ông chứ không phải ở toà lâu đài
cổ lỗ, âm u và đầy chuột mà Giuli hiện nay đã độc chiếm. Trong thư có kèm theo
một mẩu giấy con với nét chữ viết vội, nguệch ngoạc như trẻ con của Giêma.
Giêma khẩn khoản rằng nếu có điều kiện thì Áctơ đến chơi vì “Giêma có chuyện
cần nói với Áctơ”.
Tin đồn
đại trong đám sinh viên càng làm cho Áctơ phấn khởi. Mọi người đều chờ đợi
những
biến cố
lớn sau lễ Phục sinh.
Tất cả
những điều đó đem đến cho Áctơ một tâm trạng hân hoan chờ đợi, và Áctơ tưởng
chừng như tất cả những điều vô lí hết sức kì lạ mà sinh viên thì thào với nhau
đều rất tự nhiên và sắp trở thành hiện thực đến nơi trong vòng hai tháng tới.
Áctơ
định đến thứ năm trong tuần Thánh (3) sẽ về nhà nghỉ ngơi mấy ngày đầu để nỗi
vui gặp gỡ Giêma khỏi ảnh hưởng tới tâm niệm nghiêm trang mà giáo hội khuyên
răn bổn đạo phải giữ trong những ngày lễ ấy. Tối thứ tư, Áctơ viết cho Giêma
báo tin sẽ tới vào ngày thứ hai, sau ngày lễ Phục sinh rồi Áctơ đi ngủ, lòng
rất thư thái.
Áctơ quỳ
trước Thánh giá. Cha Cácđi hứa sáng mai sẽ giải tội cho nên lúc này Áctơ phải
đem
hết lòng
thành cầu nguyện rất lâu để dọn mình ăn năn lần cuối cùng trước lễ Phục sinh.
Quỳ gối, chắp tay, Áctơ cúi đầu ôn lại từng ngày trong tháng qua, nhớ lại từng
tội lỗi nhỏ nhặt đã làm vẩn đục tâm hồn trong trắng của mình như sốt ruột, cẩu
thả, không cầm trí. Ngoài những điều ấy, Áctơ chẳng tìm thêm được gì cả: trong
những ngày hạnh phúc như thế làm gì có nhiều tội lỗi được? Áctơ làm dấu thánh
giá đứng dậy và bắt đầu cởi quần áo.
Khi cởi
áo sơ mi một mảnh giấy từ trong áo rơi ra. Đó là thư của Giêma mà Áctơ ấp ủ
trong ngực suốt tuần lễ nay. Áctơ nhặt lên, mở ra, hôn những dòng chữ nguệch
ngoạc yêu quý rồi gấp lại, và bỗng dưng lấy làm hổ thẹn vì cử chỉ buồn cười của
mình. Giở nhìn mặt sau, Áctơ bỗng thấy bức thư có thêm mấy dòng tái bút, mà anh
chưa hề đọc tới: “Áctơ, thế nào cũng đến nhé, càng sớm càng hay; Giêma sẽ giới
thiệu Áctơ với Bôla. Bôla ở đây, ngày nào hai đứa chúng tôi cũng làm việc với
nhau”.
Một làn
máu nóng trào lên mặt khi Áctơ đọc những dòng chữ đó.
Lại vẫn
Bôla: Y còn đến Livoócnô làm gì nữa? Mà tại sao Giêma lại nghĩ ra chuyện cùng
làm việc với y? Y lại đem những sách báo riêng ra để mê hoặc Giêma chăng? Ngay
trong buổi họp hồi đầu tháng giêng đã thấy ngay được là Bôla yêu Giêma. Chắc vì
thế nên lúc ấy y mới nói hăng đến thế! Và bây giờ y lại tìm cách ở cạnh Giêma,
hàng ngày ở cạnh Giêma...
Áctơ gạt
mạnh bức thư ra một bên rồi lại quỳ trước mặt thánh giá.
Và đó
lại là một linh hồn sẵn sàng ước ao được giải tội, sẵn sàng chịu lễ trong ngày
Phục sinh, sẵn sàng sống bằng an với Chúa, với mình và với toàn thế giới! Thế
nghĩa là linh hồn ấy vẫn có thể ghen tuông nghi ngờ một cách thấp hèn, vẫn có
thể kèn cựa và tức giận nhỏ nhen với cả đồng chí của mình nữa! Áctơ tự trách
mình một cách cay đắng và đưa hai bàn tay bưng lấy mặt. Vừa cách đây năm phút
mơ tưởng tới sự tuẫn tiết vì đạo mà bây giờ anh lại phạm tội với những ý nghĩ
xấu xa, thấp hèn như vậy!
Sáng thứ
năm, khi bước chân tới nhà nguyện của trường dòng thì Áctơ thấy cha Cácđi đang
ở đó một mình. Đọc xong kinh ăn năn tội, Áctơ kể ngay tội lỗi mình mới phạm tối
qua.
- Lạy
cha, con là kẻ có tội, con có tội ghen tuông, tức giận và có những ý nghĩ không
xứng đáng đối với một người không làm gì sai với con cả.
Thừa
hiểu mình đang giải tội cho ai, cha Cácđi dịu dàng nói:
- Này
con, con chưa cáo mình cùng cha hết mọi sự.
- Lạy
cha! Con đã có những ý nghĩ không Cơ đốc đối với một người mà đáng lẽ con phải
đặc biệt yêu mến và kính trọng.
- Một
người mà con có quan hệ thân thiết như ruột thịt ư?
- Hơn cả
ruột thịt nữa.
- Hỡi
con, vậy thì sự gắn bó của con với người ấy?
- Tình
đồng chí.
- Tình
đồng chí ư? Đồng chí về việc gì?
- Tình
đồng chí trong sự nghiệp vĩ đại và thiêng liêng.
Một
thoáng im lặng.
- Và con
tức giận... đồng chí đó, con ghen tị vì người đó làm việc có nhiều thành tích
hơn con ư?
-
Vâng... một phần như vậy. Con thèm muốn kinh nghiệm và tài năng của người ấy...
Và rồi... con nghĩ... con sợ rằng người ấy cướp mất trái tim một thiếu nữ... mà
con yêu.
- Thế
người yêu của con có phải là con cái Hội Thánh chúa không?
- Không,
cô ta là tín đồ Tin lành.
- Kẻ
khác đạo ư?
Áctơ nắm
chặt hai tay, lúng túng đến cực độ.
Anh nhắc
lại:
- Vâng,
khác đạo. Chúng con cùng lớn lên với nhau. Mẹ chúng con là bạn của nhau và
con... con ghen ghét người ấy vì con thấy rằng người ấy cũng yêu cô ta và vì...
vì...
Sau giây
lát yên lặng cha Cácđi bắt đầu nói, từ tốn và trang nghiêm:
- Hỡi
con, con chưa xưng hết mọi điều. Trong linh hồn con còn một sự gì nặng nề làm
vậy?
- Thưa
cha, con...
Áctơ
lúng túng rồi lại nín bặt. Người giải tội im lặng chờ.
- Con
ghen ghét người ấy là vì đoàn thể “Nước Ý trẻ” của chúng con...
- Vậy ư?
- ...đã
giao cho người ấy một việc mà con muốn đoàn thể giao cho con... Con tự cho mình
đủ sức làm việc đó hơn.
- Việc
đó là việc gì?
- Nhân
sách báo, sách báo chính trị, ở trên tàu xuống, rồi... tìm chỗ cất giấu trong
thành phố.
- Việc
ấy, đảng đã giao cho kẻ tình địch của con ư?
- Vâng,
giao cho Bôla... và con ghen tị với anh ta.
- Vậy về
phía anh ấy có làm gì để con khó chịu không? Con có trách anh ấy coi thường
nhiệm vụ đã giao phó cho không?
- Không,
thưa cha. Bôla hoạt động rất dũng cảm và hi sinh. Anh là một người yêu nước
chân chính, và lẽ ra con phải yêu mến kính trọng.
Cha
Cácđi đắn đo suy nghĩ.
- Hỡi
con, nếu ánh sáng mới đã chiếu rọi vào tâm hồn con, nếu trong tâm hồn con đã
nảy nở một khát vọng làm việc vì hạnh phúc của đồng bào, nếu con có ước mong
giảm nhẹ gánh nặng cho những người cùng khổ bị áp bức thì đó là một của quý Đức
Chúa Lời đã ban cho con mà con phải suy nghĩ mà sử dụng cho nên. Mọi sự tốt
lành đều bởi Chúa ban ra, việc sinh ra con trong một cuộc đời mới cũng là nhờ
ơn Chúa, nếu con đã chọn con đường hi sinh, đã tìm được lối đi tới hoà bình,
nếu theo các đồng chí thân yêu để giải phóng cho những kẻ đang than khóc và đau
thương âm thầm, thì con hãy cố gắng để linh hồn con thoát khỏi tham muốn và dục
vọng, để lòng con là một bàn thờ thánh mà ngọn lửa thiêng liêng sẽ đời đời
không tắt. Con hãy nhớ rằng đó là một sự nghiệp cao cả và thiêng liêng, và trái
tim nào đã thấm nhuần sự nghiệp ấy thì phải tẩy sạch mọi tính toán ích kỉ. Sứ
mệnh đó giống với sứ mệnh các đấng giảng đạo. Họ không thể phụ thuộc vào tình
yêu đối với một người đàn bà hoặc những dục vọng nhất thời. Sứ mệnh đó là: vì
Thượng đế và vì nhân dân, là: trung thành suốt đời.
- Ồ! –
Áctơ xiết chặt hai tay sửng sốt.
Nghe
khẩu hiệu quen thuộc, Áctơ suýt phát khóc.
- Thưa
cha, cha đã ban cho chúng con sự chuẩn y của Nhà thờ! Đức chúa Giêsu là ở phía
chúng ta...
Cha
Cácđi trịnh trọng đáp:
- Hỡi
con, Đức chúa Giêsu đã đuổi lũ gian thương ra khỏi Đền thánh vì Đền thánh là
nơi cầu nguyện, mà bọn chúng đã biến thành hang kẻ cướp!
Sau một
hồi lâu im lặng, Áctơ run run nói khẽ:
- Và khi
đuổi được bọn chúng đi rồi thì nước Ý sẽ là đền thờ của Chúa...
Áctơ im
lặng. Một giọng trả lời êm ru vọng lại:
- Đức
Chúa Lời đã phán truyền rằng: “Mặt đất này và của cải bởi đất mà ra đều thuộc
về Ta cả”.
Chú thích:
(1) Philistanh: tên Do Thái cũ. Theo thiên
kiến trước đây thì họ là hạng người “phàm phu tục tử”, trục lợi, nhỏ nhen,
thiếu văn hoá.
(2) Apênanh Êtơrút: dãy núi phía đông thành
phố Phơlôrăngxơ.
(3) Tuần thánh: tuần lễ kỉ niệm chúa Giêsu
chịu nạn, ngày thứ sáu tuần đó bị đóng đinh trên cây thánh giá.
RUỒI
TRÂU
Chương 5
Chiều
hôm ấy Áctơ cảm thấy muốn đi chơi một chuyến xa. Anh giao đồ đạc cho một người
bạn học, rồi đi bộ về Livoócnô.
Trời ẩm
thấp đầy mây, nhưng không lạnh. Áctơ cảm thấy mình đang đi trên một vùng đồng
bằng tươi đẹp hơn bao giờ hết. Cỏ ướt mịn dưới chân; và nhìn những bông hoa dại
mùa xuân mỉm cười thẹn thò mà duyên dáng ở bên đường, Áctơ thấy vô cùng khoan
khoái. Một con chim đang làm tổ trong bụi gai xiêm vàng nơi ven rừng nhỏ hẹp.
Thấy bóng Áctơ đi qua, chim hốt hoảng kêu, bay vụt lên không trung, vỗ đôi cánh
nhỏ màu nâu sẫm.
Áctơ cầm
trí suy nghĩ những ý nghĩ đạo đức, đúng với ý nghĩa bước sang ngày thứ sáu chịu
nạn (1). Nhưng hình ảnh Môngtaneli và Giêma luôn hiện ra, cho nên cuối cùng
Áctơ đành phải bỏ ý nghĩ ép mình làm như thế. Tính chất kì diệu và quang vinh
của cuộc khởi nghĩa sắp tới, ý nghĩa về vai trò gắn cho hai thần tuợng của mình
trong cuộc khởi nghĩa ập đến rất nhanh. Trong trí tưởng tượng của của Áctơ, đức
cha sẽ là lãnh tụ, là thánh tông đồ, là đấng tiên tri mà mọi thế lực đen tối
phải chạy trốn trước sự giận dữ thiêng liêng của người. Dưới chân Người, những
vệ sĩ trẻ tuổi của tự do sẽ phải học lại niềm tin và những chân lí cũ trong ý nghĩa
mới mà từ trước đến nay chưa ai khám phá ra.
Còn
Giêma? Ồ, Giêma sẽ chiến đấu trên chiến lũy. Giêma sinh ra để trở thành nữ anh
hùng. Đó là một đồng chí tốt hoàn toàn. Đó sẽ là một thánh nữ trong sáng và
dũng cảm mà biết bao thi sĩ hằng mơ ước. Giêma sẽ đứng bên anh, vai kề vai cùng
anh chia sẻ niềm vui dưới đôi cánh của bão táp sinh tử. Và họ sẽ cùng nhau hi
sinh, hi sinh trong giờ phút thắng lợi vì họ không nghi ngờ gì rằng thắng lợi
nhất định sẽ tới. Áctơ sẽ không thổ lộ cho Giêma biết tình yêu của mình, sẽ
không ngỏ một lời nào, để khỏi phá cõi lòng yên tĩnh và tình cảm đồng chí êm
đẹp của Giêma. Đối với Áctơ, Giêma là một vật linh thiêng, một của lễ thanh
khiết hiến dâng lên bàn thờ để sẵn sàng chịu hoả thiêu vì tự do của nhân dân.
Vậy mà Áctơ lại dám len vào nơi đất Thánh trong trắng của một tâm hồn chưa biết
tình yêu nào khác ngoài tình yêu Thượng đế và nước Ý hay sao?
Thượng
đế và nước Ý... Nhưng anh đã thốt nhiên rơi xuống từ chín tầng mây khi anh bước
vào ngôi nhà đồ sộ và âm thầm ở “phố Cung điện”. Ngay ở cầu thang anh đã chạm
trán với Ghípbơn, người quản gia của Giuli. Y vẫn ăn mặc hết sức sạch sẽ, thái
độ vẫn bình thản, và
vẫn
khinh khỉnh một cách lễ phép như mọi lần.
- Chào
bác Ghípbơn, các anh tôi có nhà không?
- Thưa
cậu có ông Tômátxơ ở nhà và bà Bớctơn nữa. Hai vị đang ngồi trong phòng khách.
Áctơ
bước vào phòng với một cảm giác nặng nề và khó thở. Sao căn nhà ảm đạm thế! Nó
chẳng dính dấp gì với cuộc sống sôi nổi như một dòng sông chảy xiết bên ngoài.
Trong phòng không hề thay đổi mảy may: vẫn những con người ấy, vẫn những bức
ảnh gia đình ấy, vẫn những đồ đạc nặng trịch và những bộ ấm chén khó coi ấy,
vẫn một vẻ khoe của kệch cỡm ấy, vẫn một trạng thái không sức sống nằm trong
tất cả mọi vật... Ngay đến những bông hoa tươi cắm trong lọ đồng chạm bằng kim
khí và phủ một lớp sơn cũng y như hoa giả. Có lẽ trong những ngày xuân ấm áp,
nhựa non cũng chẳng bao giờ trào lên hoa cả.
Giuli
ngồi trong phòng ấy, nơi trung tâm cuộc sống của mình, đương đợi khách đến ăn
cơm. Bộ quần áo dự lễ, nụ cười trơ trẽn, những búp tóc hung, một con chó nhỏ
nằm gọn trên đùi – đúng là tranh vẽ trong tờ báo quảng cáo mốt ăn mặc.
- Chào
chú Áctơ!
Giuli
cất giọng khô khan, thò vội mấy ngón tay cho Áctơ bắt rồi rụt ngay lại để vuốt
ve bộ lông mượt của con chó cho thích thú hơn.
- Chắc
chú vẫn khoẻ và học được đấy chứ!
Áctơ lầm
rầm mấy câu qua quýt vừa thoáng nghĩ ra rồi im lặng một cách gượng gạo. Gã
Giêmxơ đã tới với bộ cánh sang trọng và với một viên đại lí hàng tàu đã có tuổi
nhưng chải chuốt đi cạnh. Nhưng sự có mặt của họ cũng chẳng làm cho không khí
được khá hơn. Mãi đến khi Ghípbơn lên báo cơm chiều đã sửa soạn xong, Áctơ mới
đứng dậy khe khẽ thở dài khoan khoái.
- Chị
Giuli, hôm nay em không ăn cơm chiều. Xin chị thứ lỗi cho em về phòng đây.
Tômátxơ
nói:
- Chú
giữ chay quá mức rồi đấy. Tôi dám chắc rằng như vậy chính chú lại tự làm ốm
mình đấy thôi.
- Ồ,
không đâu! Xin chào anh chị.
Gặp
người đầy tớ gái ở hành lang, Áctơ dặn sáu giờ sáng mai đánh thức hộ.
- Mai
cậu chủ (2) đi lễ nhà thờ ư?
- Phải. Thôi,
chào chị Têrêda.
Áctơ
bước vào buồng của mình. Buồng này trước kia là của mẹ Áctơ. Cửa tò vò đối diện
với cửa sổ dùng làm nơi cầu kinh khi bà đang ốm liên miên. Một cây thánh giá
đặt trên chiếc bệ đen ở giữa bàn thờ. Trước cây thánh giá treo một cây đèn La
Mã nhỏ (3). Chính mẹ Áctơ đã qua đời trong buồng này. Một bức chân dung của bà
treo trên tường ở một bên giường. Trên bàn, một di vật khác của bà là chiếc bát
sứ, trong cắm đầy hoa lan tím, một thứ hoa bà rất ưa thích. Bà Gơlêđixơ mất đã
tròn một năm nhưng những người Ý làm trong nhà vẫn chưa quên bà.
Áctơ lấy
trong bọc hành lí ra một bức tranh đóng khung bọc cẩn thận. Đó là bức chân dung
truyền thần của Môngtaneli gửi từ La Mã về cách đây vài hôm. Áctơ vừa định giở
vật quý ấy ra thì thấy một người hầu nhỏ của Giuli bưng vào một chiếc khay.
Trên khay, bà ở nấu bếp già người Ý, người đã phục vụ bà Gơlêđixơ mãi cho đến
ngày bà chủ mới khắc nghiệt xuất hiện trong nhà này, đã dọn đầy những thức ăn
ngon mà theo bà cậu chủ quý mến có thể ăn, không phạm giới răn của Hội Thánh.
Áctơ từ chối hết thảy, chỉ nhón một chiếc bánh nhỏ. Cậu hầu nhỏ là cháu
Ghípbơn, mới ở Anh sang. Cậu cười một cách láu lỉnh, bưng khay ra khỏi phòng.
Cậu đã gia nhập phe Tin lành dưới bếp.
Áctơ
bước vào cửa tò vò, quỳ trước thánh giá, cố sức định thần để cầu kinh và suy
nghĩ về Chúa. Nhưng qua một hồi rất lâu, Áctơ vẫn chưa định thần được. Đúng như
Tômátxơ nói, Áctơ thực quá khắc khổ. Những nỗi kham khổ mà anh tự gây cho mình
đã có tác dụng như rượu mạnh. Áctơ hơi rùng mình, tự thấy cây thánh giá như
chơi vơi trong sương mù. Nguyện kinh một hồi lâu anh mới cầm trí được để ăn năn
tội. Cuối cùng, sự mệt mỏi cực độ của cơ thể đã áp đảo sự căng thăng của thần
kinh. Áctơ thiu thiu ngủ, tâm hồn yên tĩnh, thoát khỏi được những ý nghĩ xao xuyến
và nặng nề.
Áctơ
đương ngủ say thì có tiếng đập cửa phòng rất mạnh và gấp.
“Lại
Têrêda chứ ai”, anh nghĩ như vậy và uể oải trở mình thì lại có tiếng đập cửa.
Áctơ giật thót, bừng tỉnh. Một giọng đàn ông gọi bằng tiếng Ý: “Cậu ơi! Cậu!
Dậy ngay đi, trời ơi!”
Áctơ
nhảy khỏi giường:
- Cái gì
thế! Ai đấy?
- Tôi
đây, Gian Batítstơ đây ạ. Lạy Đức mẹ đồng trinh phù hộ cho cậu, xin cậu dậy
nhanh lên!
Áctơ vội
vã mặc quần áo và mở khoá cửa. Anh còn đang ngơ ngác nhìn bộ mặt tái xanh tái
xám của người xà ích thì đã nghe thấy tiếng bước chân và tiếng sắt loảng xoảng
ngoài hành lang và tức khắc anh hiểu hết mọi việc xảy ra.
Áctơ
bình tĩnh hỏi:
- Họ đến
tìm tôi phải không?
- Họ đến
tìm cậu đấy! Nhanh lên, cậu ơi! Cần cất giấu gì không? Tôi xin giúp cậu...
- Tôi
chẳng có gì phải cất giấu cả, các anh tôi đã biết chưa?
Ở đầu
hành lang, bộ quần áo lính sen đầm đầu tiên đã hiện ra.
- Ông
nhà đã bị gọi dậy. Cả nhà đều dậy cả rồi. Khổ chưa, khổ biết chừng nào lại nhằm
vào ngày thứ sáu tuần Thánh nữa chứ. Xin các Thánh phù hộ cho chúng con!
Gian
Batítstơ oà lên khóc. Áctơ tiến lên mấy bước về phía những tên sen đầm đang
gươm giáo loảng xoảng tiến vào phòng. Theo sau họ là đám người ở, quần áo xộc
xệch, run lẩy bẩy. Lũ sen đầm vây lấy Áctơ. Đi cuối cùng đoàn người lạ lùng ấy
là ông bà chủ nhà. Ông đi dép lê, mặc áo ngủ, bà quấn chiếc áo choàng dài, đầu
đầy giấy uốn tóc. “Thật y như bầy súc vật chạy đi tìm thuyền để lánh nạn đại
hồng thủy thứ hai vậy (4); kìa, lại thêm một đôi vợ chồng thú vật ngộ nghĩnh
đến nữa kia!” Ý nghĩ ấy thoáng hiện khi Áctơ thấy những bộ mặt ngây ngô đó.
Nhưng hiểu rằng cười trong giờ phút nghiêm trọng này là không đúng lúc nên anh
cố bấm bụng nhịn.
- “Ave,
Maria, Regina, Coeli...” (5)
Áctơ
thầm cầu nguyện và quay mặt đi để khỏi trông thấy và khỏi phì cười về những
mảnh giấy uốn tóc đang phập phồng trên đầu Giuli.
Bớctơn
tiến lại gần viên sĩ quan sen đầm nói:
- Xin
ông cho biết tại sao các ông lại dùng vũ lực xông vào nhà riêng như thế này?
Tôi xin báo cho các ông biết trước là nếu các ông không giải thích được thoả
đáng thì tôi buộc đi thưa ông đại sứ Anh.
Viên sĩ
quan lạnh lùng nói:
- Tôi
chắc lời giải thích của chúng tôi sẽ thoả mãn được cả ông và đại sứ Anh nữa.
Hắn đưa
cho Giêmxơ giấy ra lệnh bắt chàng sinh viên khoa triết học tên là Áctơ Bớctơn.
- Nếu
ông cần giải thích gì thêm thì tôi khuyên ông đến hỏi ông chánh sen đầm.
Giuli
giật tờ giấy trong tay chồng, đọc lướt qua rồi xỉa xói vào mặt Áctơ với một vẻ
thô bỉ của một mụ quý phái lịch thiệp lúc nổi cơn tam bành.
- Mày
làm nhơ nhuốc gia đình tao! – mụ ta tru tréo – Bây giờ hàng phố kẻ chợ phỉ nhổ
vào
mặt
chúng tao như thế nào? Lòng ngoan đạo của chúng mày dẫn mày tới đâu? Vào tù à?
Không ngờ con mẹ đi đạo Thiên chúa lại đẻ ra cái giống con như mày...
Viên sĩ
quan cắt ngang:
- Thưa
bà, bà không được phép nói chuyện bằng tiếng nước ngoài với kẻ bị bắt.
Nhưng
câu nói của viên sĩ quan bị át đi bởi những lời kết tội mà Giuli tuôn ra hàng
tràng tiếng
Anh.
- Tao đã
biết trước mà! Ăn chay, đọc kinh, cầu nguyện, rặt một thứ che đậy! Tao biết
tỏng từ lâu mà!
Có lần
bác sĩ Uơren đã ví Giuli như một món xà lách đổ nhiều dấm. Áctơ thấy lợm giọng
vì giọng nói the thé của Giuli và chợt nhớ đến lời so sánh ấy.
Áctơ
nói:
- Chị
không cần phải nói thế. Chị không việc gì mà sợ lôi thôi. Ai cũng biết anh chị
chẳng dính dáng gì đến việc này đâu...
Quay về
những tên sen đầm anh nói:
- Chắc
các ông muốn khám đồ đạc của tôi? Tôi chẳng có gì giấu giếm cả.
Trong
khi lính sen đầm khám phòng, lục ngăn kéo, đọc thư, xem sổ ghi bài ở trường đại
học, thì Áctơ ngồi ở mép giường. Anh hơi xúc động nhưng không lo lắng gì.
Việc
khám xét chẳng làm cho Áctơ lo ngại. Những thư từ nào có thể liên luỵ đến người
khác, Áctơ đều đã đốt cả. Giờ đây, ngoài mấy bài thơ chép tay nửa cách mạng,
nửa thần bí và hai ba số “nước Ý trẻ”, lính sen đầm chẳng tìm thấy cái gì có
thể thưởng công được cho việc lục soát của chúng cả.
Sau một
hồi kèo nhèo trước những lời khuyên của Tômátxơ, Giuli mới chịu đi ngủ. Vẻ đài
các khinh bỉ, Giuli lướt qua mặt Áctơ. Giêmxơ ngoan ngoãn theo sau.
Từ nãy
đến giờ Tômátxơ vẫn đi đi lại lại trong phòng cố làm ra vẻ thản nhiên. Khi vợ
chồng Giêmxơ ra rồi, Tômátxơ tiến lại chỗ viên sĩ quan xin phép nói chuyện với
kẻ bị bắt. Viên sĩ quan gật đầu đồng ý. Tômátxơ tới chỗ Áctơ, khàn khàn nói:
- Chuyện
xảy ra thật lôi thôi quá! Tôi rất lấy làm phiền lòng.
Áctơ
ngước nhìn Tômatxơ với đôi mắt trong như một buổi trưa hè tươi nắng. Anh nói:
- Lúc
nào anh cũng tốt với em. Anh không có gì phải phiền lòng. Em chẳng sao đâu.
Tômátxơ
giật mạnh ria mép và ra cái điều quyết định nói thẳng:
- Chú
Áctơ, nghe tôi bảo! Việc này có dính dáng đến tiền nong không? Nếu có thì
tôi...
- Sao
lại có thể tiền nong được? Tất nhiên, không.
- Vậy
thì chính trị phải không? Tôi chắc thế. Thôi thì biết làm thế nào bây giờ...
Chú đừng thất vọng và cũng đừng chấp chị Giuli làm gì. Chắc chú cũng đã biết
miệng lưỡi chị ấy rồi. Nếu cần tôi giúp tiền nong hoặc gì đó, thì chú cứ cho
tôi biết.
Áctơ
chìa tay cho Tômatxơ bắt, và Tômatxơ bước ra khỏi phòng. Y cố làm ra vẻ phớt
đời nên bộ mặt y lại càng thêm thộn hơn lúc nào hết.
Trong
khi đó, bọn sen đầm đã khám xét xong. Viên sĩ quan bảo Áctơ mặc áo khoác ngoài.
Áctơ định bước ra khỏi phòmg nhưng bỗng dừng lại và ngập ngừng ở ngưỡng cửa,
anh thấy khổ tâm phải từ giã phòng cầu kinh của mẹ trước mặt bọn sen đầm.
Anh nói:
- Các
ông có thể ra phòng ngoài một chút không? Tôi không chạy trốn được, mà cũng
chẳng có gì giấu giếm cả.
- Tiếc
rằng chúng tôi không có quyền để kẻ bị bắt ở lại một mình.
- Thôi
thế cũng được.
Áctơ
bước vào cửa tò vò, quỳ gối, hôn chân thánh giá và khấn cầu:
- Lạy
chúa hãy cho con có đủ sức để trung thành đến cùng.
Viên sĩ
quan đứng cạnh bàn ngắm nhìn bức ảnh của Môngtaneli, rồi hất hàm hỏi:
- Người
thân thuộc của anh đấy à?
- Không,
đó là cha linh hồn của tôi, đức giám mục mới tại Brixighêla.
Những
người Ý làm trong nhà lo sợ và buồn rầu đứng đợi Áctơ ở thang gác. Cũng như mẹ,
anh được mọi người trong nhà yêu mến. Giờ đây những người làm xúm lại quanh
Áctơ, buồn thương hôn tay và áo Áctơ. Gian Batítstơ cũng đứng đó, nước mắt trào
ra và rỏ cả xuống chòm râu bạc. Người nhà Bớctơn chẳng có ai ra tiễn cả. Sự
lạnh nhạt đó càng làm nổi bật lòng trung thực và tình yêu thương của những
người ở khiến Áctơ suýt phải khóc trong khi nắm lấy bàn tay đang giơ ra cho
anh.
- Thôi
chào bác Gian Batítstơ, nhờ bác hôn giùm các cháu nhé! Chị Têrêda ở lại nhé!
Hãy cầu nguyện cho tôi, và mong Chúa phù hộ cho mọi người! Thôi chào tất cả,
tôi đi đây...
Áctơ
chạy nhanh xuống cầu thang.
Một lát
sau, chiếc xe ngựa chuyển bánh, trên bậc cửa chỉ còn lại một nhóm đàn ông thẫn
thờ và đàn bà khóc thút thit đứng trông theo.
Chú thích:
(1) Ngày thứ sáu chịu nạn: ngày thứ sáu trước
ngày chủ nhật của lễ Phục sinh, ngày Giêsu bị đóng đinh trên cây thánh giá.
(2) Nguyên văn tiếng Ý: signorio, tiếng đầy tớ
gọi con cái chủ nhà.
(3) Cây đèn kiểu La Mã xưa, thường đặt trước
ảnh thờ.
(4) Một điều trích trong Kinh Thánh. Khi có
đại hồng thuỷ trên khắp thế gian, súc vật do Nôê dẫn đầu lên chiếc thuyền đi
lánh nạn.
(5) Câu đầu trong một kinh đạo Thiên chúa bằng
tiếng La tinh: Kính mừng nữ vương Maria trên trời.
RUỒI
TRÂU
Chương 6
Áctơ bị
giải tới một pháo đài lớn thời trung cổ, ở ngay cạnh bến tàu. Đời sống trong tù
thế mà cũng chẳng đến nỗi. Xà lim ẩm thấp và đen tối, nhưng Áctơ đã từng lớn
lên trong toà nhà ở phố Cung điện, nên ngột ngạt, hôi thối và chuột bọ đối với
anh cũng chẳng lấy gì làm lạ. Trong tù cho ăn rất ít và kém nhưng chẳng bao lâu
Giêmxơ đã xin phép được gửi mọi thứ cần dùng đến cho cậu em. Áctơ bị giam một
mình trong xà lim. Tuy canh gác chẳng nghiêm ngặt lắm nhưng anh vẫn không hiểu
rõ mình bị bắt vì cớ gì. Dù sao từ khi vào tù đến nay tâm hồn anh vẫn bình
tĩnh. Trong tù không được đọc sách nên anh luôn luôn cầu kinh và suy nghĩ về
đạo, kiên nhẫn chờ đợi mọi việc xảy ra.
Một hôm,
lính gác mở cửa xà lim và nói:
- Mời
ra!
Áctơ hỏi
lai hai ba lần nhưng chỉ nghe một câu trả lời: “Không có quyền nói chuyện”. Anh
đành chịu phép, đi theo người lính đi vào mảnh sân, những hành lang và thang
gác ngoắt ngoéo và hôi hám. Cuối cùng anh bị dẫn vào một căn phòng lớn sáng
sủa, trong đó có ba người mặc binh phục đang ngồi tán chuyện uể oải sau một
chiếc bàn dài chất đầy giấy. Thấy Áctơ bước vào họ liền ra vẻ quan trọng. Người
cao tuổi nhất trong bọn họ là một viên đại tá có tuổi nhưng rất bảnh bao, ria mép
đã bạc. Y chỉ cho anh chiếc ghế phía bên kia bàn rôi bắt đầu thẩm vấn.
Áctơ
chắc họ sẽ doạ dẫm, rỉa rói chửi mắng nên đã sẵn sàng kiên nhẫn đối phó cho
xứng với phẩm chất của mình. Nhưng sự thật thì ngược lại, và anh cảm thấy dễ
chịu. Viên đại tá tỏ ra rất đường bệ, lạnh lùng một cách quan liêu nhưng lại vô
cùng lễ phép.
Đầu tiên
là những câu hỏi thường lệ: tên gì, bao nhiêu tuổi, quốc tịch gì, địa vị xã hội
ra sao:
họ ghi
đều đều từng câu trả lời một.
Áctơ đã
bắt đầu thấy chán ghét và sốt ruột thì viên đại tá chợt hỏi:
- Nào,
cậu Bớctơn, thế cậu biết gì về “Nước Ý trẻ”?
- Theo
chỗ tôi biết thì đó là một đoàn thể chính trị, xuất bản báo tại Mácxây, phát
hành báo ở
Ý để cổ
động nhân dân khởi nghĩa và đánh đuổi quân đội Áo ra khỏi biên giới.
- Cậu có
đọc báo ấy chứ?
- Phải,
tôi có quan tâm đến vấn đề đó.
- Vậy
khi đọc báo cậu có nghĩ mình đã làm điều bất hợp pháp không?
- Tất
nhiên có,
- Mấy tờ
báo thấy trong phòng cậu lấy ở đâu ra?
- Tôi
không thể nói với ông được.
- Cậu
Bớctơn, đây không phải chỗ nói “tôi không thể”. Cậu phải trả lời mọi câu hỏi
của tôi.
- Nếu
chữ “tôi không thể” không vừa ý ông thì tôi nói là “tôi không muốn” vậy.
- Nếu
cậu cứ nói kiểu đó với tôi thì cậu sẽ phải lấy làm hối tiếc.
Không
thấy Áctơ trả lời, y tiếp:
- Tôi có
thể nói thêm rằng, theo tài liệu trong tay chúng tôi thì quan hệ giữa cậu với
đoàn thể
đó gần
hơn nữa chứ không chỉ đọc sách báo quốc cấm mà thôi đâu. Tốt hơn là cậu cứ
thẳng
thắn thú
nhận cả đi. Đằng nào chúng tôi cũng sẽ biết sự thật và cậu sẽ thấy rằng dù
chống chế và chối cãi để ẩn núp thì không có ích gì.
- Tôi
chẳng muốn ẩn núp. Các ông muốn biết điều gì?
- Trước
hết, cậu hãy nói cho tôi biết: cậu là người nước ngoài thì cậu đã làm cách nào
mà
dính
dáng vào chuyện này?
- Tôi
nghĩ nhiều về những vấn đề ấy và tôi đã đi đến những kết luận nhất định.
- Ai
thuyết phục cậu vào đoàn thể này?
- Chẳng
ai thuyết phục cả. Đó là do ý muốn của cá nhân tôi.
- Đừng
giở trò loanh quanh với tôi – Viên đại tá xẵng giọng. Chắc y đã bắt đầu mất
kiên nhẫn – Không có ai tham gia hội kia mà không có người giới thiệu. Anh nói
với ai để xin vào tổ chức đó?
Im lặng.
- Anh có
sẵn lòng trả lời không?
- Nếu
ông hỏi kiểu đó thì tôi sẽ không trả lời.
Giọng
Áctơ có vẻ bực bội. Một cơn giận kì lạ xâm chiếm Áctơ. Lúc ấy anh đã biết có
nhiều vụ bắt bớ tại Livoócnô và Pidơ, mặc dầu chưa hình dung được phạm vi của
tai hoạ đã thực sự lên tới mức nào. Nhưng những tin đến tai Áctơ cũng đủ làm
anh bồn chồn lo lắng cho số phận của Giêma và các bạn khác.
Thái độ
lễ phép giả dối của viên sĩ quan, cách nói ngoắt ngoéo, lối hỏi thâm độc tẻ
ngắt và những câu trả lời đánh trống lảng làm cho Áctơ nôn nao bực tức. Thêm
vào đó, tiếng giày đinh lộp cộp của tên lính gác ngoài cửa lại càng làm cho anh
thêm khó chịu.
Bỗng
viên đại tá hỏi:
- Vậy
lần cuối cùng anh gặp Giôvani Bôla vào lúc nào? Ngay trước khi anh dời Pidơ
phải không?
- Tôi
không quen ai có tên như vậy cả.
- Sao?
Không quen Giôvani Bôla hả. Anh quen hắn lắm chứ! Người thanh niên, cao lớn,
râu cạo
nhẵn,
hắn là bạn học của anh mà.
- Tôi
quen làm sao với tất cả sinh viên được.
- Ồ,
nhưng nhất định là anh biết Bôla. Nhìn đây, chữ hắn viết đây. Thấy không? Hắn
quen anh lắm.
Và viên
đại tá hờ hững đưa cho Áctơ một tờ giấu trên đề 2 chữ “Biên bản”, dưới kí
“Giôvani Bôla”. Áctơ đưa mắt lướt nhanh từ trên xuống dưới – và bắt gặp tên
mình. Anh ngước mắt nhìn một cách ngạc nhiên.
- Ông
bắt tôi phải đọc ư?
- Lẽ tất
nhiên. Việc đó có dính líu đến anh.
Áctơ bắt
đầu đọc, các viên sĩ quan thì im lặng theo dõi nét mặt của anh. Tài liệu đó là những
lời khai trả lời một loạt câu hỏi. Rõ ràng, Bôla cũng đã bị bắt! Những lời đầu
tiên rất thông thường. Tiếp đó là một lời khai ngắn về quan hệ giữa Bôla với
đoàn thể, về việc phát hành sách báo cấm tại Livoócnô và các cuộc họp sinh
viên. Tiếp nữa, Áctơ đọc thấy: “Trong số những người theo chúng tôi có cả một
thanh niên người Anh tên là Áctơ Bớctơn, con một chủ hãng tàu giàu có ở
Livoócnô”
Máu trào
lên mặt Áctơ. Thế là Bôla đã cung khai anh! Chính gã Bôla đã nhận trách nhiệm
khởi xướng trọng yếu ấy, chính cái tay đã tổ chức Giêma… và đã yêu Giêma ấy!
Áctơ buông tờ giấy và đăm đăm nhìn xuống sàn nhà.
Viên đại
tá lễ phép nói:
- Tôi
mong tài liệu nhỏ ấy có thể làm sáng trí nhớ anh ra.
Áctơ lắc
đầu. Anh lạnh lùng và cứng cỏi nhắc lại:
- Tôi
không hề biết người này. Chắc đây chỉ là một sự nhầm lẫn.
- Lầm
lẫn ư? Láo! Anh Bớctơn, anh nên hiểu rằng phong độ hiệp sĩ và tinh thần Đông
Kisốt (1) là rất tốt theo nghĩa của nó nhưng nếu đi quá mức thì lại chẳng có
ích lợi gì. Đó là một sai lầm mà thanh niên các anh thường mắc phải. Anh thử
nghĩ lại xem: có nên vì chuyện cỏn con ấy mà làm liên luỵ tới mình và phá hoại
tương lai của mình không? Anh thương hại một kẻ cung khai anh. Anh thấy chưa?
Khi đã khai thì nó có kiêng nể gì anh đâu!
Giọng
viên đại tá nói như châm chọc. Một dự đoán chợt loé ra trong óc Áctơ, làm anh
giật mình.
Áctơ
thét:
- Đó là
sự dối trá! Đó là một sự bịa đặt! Trông mặt các người ta đủ biết! Các người hèn
nhát… Các người định hãm hại một trong những kẻ đã bị các người bắt hoặc là các
người định đưa ta vào tròng! Đồ bịa đặt, đồ ăn gian nói dối, đồ khốn nạn…
- Câm
ngay! – Viên đại tá điên cuồng bật khỏi ghế hét lên. Cả bè lũ hắn cũng đứng
phắt dậy.
Viên đại
tá nói với một tên trong bọn:
- Đại uý
Tômaxi, gọi lính gác vào đây. Quẳng thằng này vào ngục tối, giam liền mấy ngày.
Tôi phải cho nó một bài học đích đáng, phải dạy cho nó biết điều mới được.
Ngục tối
là một chiếc hầm nhỏ âm u, ẩm ướt, bẩn thỉu, ở sâu dưới đất. Viên đại tá định
dạy cho Áctơ biết điều, nhưng điều đó lại làm cho Áctơ tức giận đến cực độ.
Sinh trưởng trong một gia đình giàu có, Áctơ quen tính sạch sẽ trong mọi việc.
Viên đại tá bị xúc phạm kia hoàn toàn có thể thoả mãn về cảm giác đầu tiên mà
những bức tường nhầy nhụa, lúc nhúc ròi bọ, mặt đất đầy rác rưởi bẩn thỉu, mùi
rêu mốc, mùi nước cống rãnh và gỗ mục hôi thối đem đến cho Áctơ. Chúng đẩy Áctơ
vào hầm rồi đóng sập cửa lại. Áctơ giơ hai tay lò dò bước về phía trước, anh
rùng mình vì ghê tởm khi ngón tay đụng phải bức tường nhầy nhụa. Trong bóng
tối,
anh lần
mò tìm chỗ đỡ bẩn nhất để ngồi.
Suốt
ngày Áctơ ngồi trong ngục tối im lìm không một tiếng động; đêm trôi qua mà
chẳng thấy biến chuyển gì. Cách biệt hẳn với thế giới bên ngoai, Áctơ dần dần
mất ý niệm về thời gian. Và sáng hôm sau, khi tiếng chìa khoá tra vào ổ kêu lách
cách, những con chuột hốt hoảng chạy rúc vào chân, thì Áctơ bàng hoàng nhỏm
dậy. Tim anh đập rộn ràng, tai ù lên như đã xa rời ánh sáng và tiếng động hàng
mấy tháng ròng.
Cửa mở,
một ánh đèn yếu ớt le lói rọi vào hầm cũng đủ làm cho Áctơ chói mắt. Cai ngục
đem vào một mẩu bánh và một bát nước. Áctơ tiến lên chắc mẩm thế nào cũng được
ra khỏi nơi này. Nhưng anh chưa kịp nói gì, thì người cai ngục đã giúi cho anh
mẩu bánh mì với bát nước rồi quay người lặng lẽ bước ra và khoá chặt cửa lại.
Áctơ dậm
chân. Lần đầu tiên trong đời anh cảm thấy mình điên tiết. Giờ phút càng trôi
qua, ý niệm của anh về không gian và thời gian càng thêm mờ mịt. Đối với anh,
bóng tối là vô cùng vô tận, cuộc sống như ngừng hẳn lại.
Chiều
thứ ba cai ngục lại vào lần này có thêm một tên lính. Đầu choáng váng, mắt hoa,
Áctơ nhìn lên, anh phải che lấy mắt để tránh làn ánh sáng không quen thuộc ấy.
Anh cố tình xem mình đã ở trong nhà mồ này bao nhiêu tuần lễ, nhưng cảm thấy mờ
mịt, không sao tính được.
Cai ngục
lạnh lùng khô khan noi:
- Mời
ra…
Áctơ
đứng dậy bước theo như một cái máy. Anh choáng váng một cách kì lạ, chân nam đá
chân chiêu như người say rượu. Cai ngục định dìu Áctơ leo lên cầu thang nhỏ và
dốc ngược để chui ra khỏi hầm. Áctơ gạt tay y ra. Nhưng, đến bậc cuối cùng thì
Áctơ bỗng thấy chóng mặt, lảo đảo. Nếu cai ngục không nắm vội lấy vai anh thì
anh đã ngã lộn xuống.
*
* *
Một
giọng vui vẻ cất lên:
- Không
sao, khỏi ngay thôi. Anh nào chui ra cũng đều thế cả.
Khi được
té nước vào mặt lần thứ hai, Áctơ cũng vẫn phải cố vùng vẫy rất khó nhọc mới
thở
được.
Đêm tối hình như đã bị rũ sạch khỏi mình anh, vỡ loảng xoảng ra từng mảnh một.
Áctơ
tỉnh ngay. Anh gạt cai ngục ra, bước vững vàng ra hành lang và cầu thang. Họ
dừng lại giây lát trước một cánh cửa. Khi cánh cửa mở ra, Áctơ bị dẫn vào căn
phòng đèn đuốc sáng choang, nơi anh đã bị hỏi cung lần đầu. Nhưng Áctơ chưa
nhận ra ngay. Anh bỡ ngỡ nhìn chiếc bàn giấy tờ đầy ngộn và những viên sĩ quan
vẫn ngồi ở chỗ cũ.
Viên đại
tá nói:
- A, cậu
Bớctơn. Chắc lần này chúng ta nói chuyện với nhau dễ hơn nhỉ! Sao, cậu có thích
ngục tối không? Chắc chẳng được sang trọng như phòng khách của ông anh cậu nhỉ?
Nhìn bộ
mặt tươi cười của y, một ý muốn điên rồ xui giục Áctơ nhảy xổ vào lão ria bạc
chải chuốt ấy mà cắn vào cổ y.
Chắc viên
đại tá thấy được điều đó trên nét mặt Áctơ nên y đổi giọng ngay:
- Anh
Bớctơn, ngồi xuống và uống nước đi. Anh đang xúc động lắm, tôi biết.
Áctơ đẩy
cốc nước mà người ta đưa cho anh, tựa khuỷu tay vào bàn, tay bóp trán, anh cố
định thần. Viên đại tá chăm chú nhìn Áctơ. Cặp mắt từng trải của lão ta nhìn
thấy tay anh run lẩy bẩy, môi run rẩy, mái tóc ướt sũng và đôi mắt lờ đờ. Tất
cả những cái đó chứng tỏ thể lực anh đã suy nhược, não cân anh đã rối loạn rồi.
Sau mấy
phút im lặng, viên đại tá lại ôn tồn:
- Anh
Bớctơn, bây giờ chúng ta trở lại vấn đề hôm trước. Lần ấy giữa chúng ta đã xảy
ra một vài chuyện không vui. Nhưng bây giờ tôi phải nói ngay với anh trước rằng
nguyện vọng duy nhất của tôi là khoan hồng. Nếu anh tỏ ra thoả đáng và biết
điều thì tôi cam đoan là sẽ không có gì quá khắc nghiệt với anh cả.
- Các
ông muốn gì tôi?
Áctơ nói
với giọng cục cằn, uất ức khác hẳn ngày thường.
- Tôi
chỉ muốn anh nói thẳng, nói thật những điều anh biết về đảng ấy và những đảng
viên của đảng ấy. Trước hết, anh quen với Bôla từ bao giờ?
- Tôi
chưa bao giờ gặp người ấy trong đời. Tôi hoàn toàn không biết một tí gì về anh
ta.
- Thật
chứ? Thôi được, ta trở lại vấn đề này sau. Vậy anh có biết người thanh niên nào
là
Cáclô
Bini không?
- Chưa
bao giờ tôi nghe nói tới người ấy.
- Thế
thì lạ thật. Còn Phơransetscô Neri, anh có biết không?
- Lần
đầu tiên tôi nghe nói đến tên ấy.
- Nhưng
chẳng phải bức thư chính tay anh viết gửi cho hắn là gì đây! Nhìn xem
Áctơ ngó
qua bức thư rồi gạt qua một bên.
- Bức
thư ấy anh biết chứ?
- Không.
- Anh
chối không nhận là chữ của anh à?
- Tôi
chẳng chối gì cả. Tôi không nhớ bức thư ấy là gì.
- Vậy
anh có nhớ bức thư này không?
Chúng
đưa bức thư thứ hai, Áctơ nhận ra đấy là thư mình viết cho một người bạn học
dạo mùa thu vừa rôi.
- Không.
- Và anh
cũng không biết người nhận thư là ai nữa à?
- Không
biết.
- Trí
nhớ anh kém lạ!
- Tôi
mắc tật ấy từ lâu rồi.
- Thế à!
Nhưng có hôm tôi nghe một giáo sư đại học nói anh chẳng có kém gì đâu, trái
lại, thông minh nữa là khác.
- Chắc
tại các ông xét trí thông minh của người ta bằng con mắt mật thám. Các giáo sư
đại học dùng chữ nói trên theo một nghĩa khác.
Giọng
bực tức mỗi lúc một tăng rõ rêt trong những câu trả lời của Áctơ. Đói, không
khí ngột ngạt và những đêm mất ngủ đã hút kiệt sức khỏe của anh. Anh đau rời rã
từng khớp xương một mà lời nói của viên đại tá thì không ngừng chà xát cân não
anh, khiến hai hàm răng anh siểt chặt lại như phấn cứng xiết vào bảng đen.
Viên đại
tá ngả lưng vào ghế nghiêm nghị nói:
-
Bớctơn, anh lại quẫn rồi. Tôi cảnh cáo anh một lần nữa là kiểu nói ấy không tốt
lành gì đâu.
Anh đã
nếm mùi ngục tối, chắc không muốn nếm lần thứ hai nữa.Tôi nói thẳng cho anh
biết: nếu xử nhũn không ăn thua thì tôi phải xử tệ. Anh nên nói rằng tôi có đủ
chứng cớ và chắc chắn rằng một vài thanh niên trong số những người mà tôi đọc
tên đã bí mật đưa sách báo cấm qua hải cảng này. Anh có liên lạc với bọn chúng.
Vậy anh có tự khai hết ra không?
Áctơ
càng cúi gục đầu xuống. Một nỗi uất ức điên cuồng, mù quáng cựa quậy trong
người anh như một sinh vật. Và Áctơ sợ mình mất bình tĩnh hơn là sợ những sự
hăm doạ. Lần đầu tiên Áctơ cảm thấy rõ rằng sự thận trọng theo lối quân tử và
sự nhịn nhục kiểu đạo Thiên chúa có thể phản lại anh, nên anh đâm ra ghê sợ cả
bản thân mình.
Viên đại
tá nói:
- Tôi
đợi anh trả lời.
- Tôi
chẳng có gì trả lời ông cả.
- Vậy
anh nhất định không chịu trả lời chứ?
- Tôi
chẳng nói gì hết.
- Nếu
thế thì tôi lại phải buộc lòng ra lệnh nhốt anh vào hầm tối cho tới khi nào anh
tỉnh ngộ mới thôi. Nếu anh càng không chịu biết điều thì tôi sẽ hạ lệnh cùm anh
lại.
Áctơ
ngẩng đầu, toàn thân run lên, và chậm chạp nói:
- Các
ông muốn làm gì thì làm nhưng đối xử với một kiều dân Anh như vậy lại không có
chứng
cứ gì về
tội lỗi của người ta thì liệu vị đại sứ Anh có để cho các ông yên không?
Sau
cùng, Áctơ bị dẫn về xà lim cũ và anh lăn ra giường ngủ ngay một mạch đến sáng
hôm sau. Chúng không cùm mà cũng chẳng nhốt Áctơ vào cái lỗ ngục tối đáng sợ
ấy, nhưng qua mỗi lần thẩm vấn thì mối thù giữa anh và tên đại tá ngày một sâu
thêm.
Mặc dù
Áctơ luôn cầu xin Chúa cho anh đủ sức tự chiến thắng sự giận dữ trong lòng, mặc
dù Áctơ suy nghĩ thâu đêm về đức nhẫn nhục và tính khiêm nhường của Đức chúa
Giêsu nhưng đều vô hiệu quả. Mỗi khi người ta dẫn Áctơ vào căn phòng dài và
trống trải nơi cái bàn phủ dạ xanh vẫn đứng nguyên chỗ cũ, mỗi khi Áctơ trông
thấy bộ ria nhuộm của viên đại tá, thì tinh thần phi cơ đốc lại xâm chiếm lòng
Áctơ, thúc đẩy anh thốt ra những câu trả lời hiểm hóc và khinh mạn. Áctơ ngồi
tù chưa được một tháng mà anh và viên đại tá căm thù nhau đến nỗi cứ trông thấy
nhau là nổi giận.
Cuộc
chiến tranh nhỏ nhưng luôn luôn gay gắt ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến thần kinh
Áctơ. Áctơ biết chúng theo dõi anh rất chặt. Áctơ nhớ lại những câu chuyện ghê
gớm kể rằng người ta thường cho ngầm những kẻ bị bắt ăn cà độc dược (2) để nghe
họ nói mê nên Áctơ hầu như không ăn ngủ gì cả. Đêm đến, hễ nghe tiếng chuột
chạy bên mình, Áctơ lại toát mồ hôi vùng dậy tưởng chừng có kẻ manh tâm nào núp
trong phòng để nghe ngóng xem anh có nói mê gì không.
Rõ ràng
bọn sen đầm cố bắt nọn Áctơ để kết tội Bôla. Áctơ rất lo hớ hênh bị mắc lừa
chúng đến nỗi thần kinh quá căng thẳng, làm anh rất có thể lại thực sự rơi vào
nguy cơ đó. Tên của Bôla vang lên văng vẳng trong tai Áctơ suốt ngày đêm; Áctơ
đọc ra tên Bôla ngay cả lúc cầu kinh. Đáng lẽ đọc “Maria” thì anh lại thốt ra
“Bôla”. Nhưng nguy hơn cả là đức tin tôn giáo cùng với thế giới bên ngoài mỗi
ngày một xa rời anh. Anh cầu nguyện suy tưởng hàng mấy tiếng đồng hồ liền để
gắng hết sức bấu víu lấy chỗ dựa cuối cùng ấy. Nhưng ý nghĩ của anh lại càng
luôn luôn trở về với Bôla và anh chỉ nhai đi nhai lại các câu kinh một cách máy
móc.
Người
cai ngục già là nguồn an ủi lớn nhất của Áctơ. Lúc đầu, ông lão người nhỏ bé,
hơi béo và hói trán ấy cố làm ra vẻ nghiêm khắc. Nhưng tính hiền lành toả ra từ
mỗi nét trên bộ mặt đầy đặn của cụ đã dần dần lấn át cả sự chăm lo về chức vụ.
Chẳng bao lâu cụ đã chuyển giúp thư từ phòng giam nọ sang phòng giam kia.
Một buổi
chiều giữa tháng năm, cai ngục bước vào phòng với vẻ âm thầm, buồn bực làm cho
Áctơ
phải ngạc nhiên.
Áctơ
hỏi:
- Cụ
Enricô, cái gì thế? Hôm nay cụ làm sao thế?
- Chẳng
sao cả.
Cụ
Enricô cáu kỉnh trả lời rồi tới bên giường Áctơ lật đệm lên.
- Sao cụ
lại lấy đệm của cháu đi? Chúng bắt cháu sang phòng khác à?
- Không,
họ sắp thả cậu ra.
- Thả
ra? Hôm nay à? Thả tất cả chứ?... Cụ Enricô?
Áctơ cảm
động níu lấy tay cụ, nhưng cụ giận dữ gạt tay ra.
- Cụ
Enricô, cụ làm sao thế? Sao cụ không trả lời cháu? Cụ cho bíết, chúng cháu có
được thả ra cả không?
Cụ
Enricô chỉ đáp lại một tiếng “sì” khinh bỉ.
Áctơ
cười, nắm lấy tay cụ.
- Cụ
nghe cháu, cụ đừng trêu cháu. Cháu chẳng tức đâu, cụ cứ nói cho cháu biết, các
anh em khác thế nào?
Cụ
Enricô đang gấp áo cho Áctơ bỗng đặt xuống bàn lẩm bẩm:
- Anh em
nào khác? Bôla ấy ư?
- Vâng,
Bôla và các anh em khác nữa. Cụ Enricô, cụ làm sao thế?
- À, một
đồng chí đã phản anh ta thì làm sao anh ta được thả sớm thế được, thật đáng
thương, hừ!
Và cụ
Enricô bực dọc lại cầm chiếc áo lên.
Áctơ
trợn tròn mắt:
- Một
đồng chí làm phản anh ấy ư? Ồ, thật kinh khủng!
Cụ
Enricô quay ngoắt lại phía Áctơ:
- Thế,
không phải anh phản bội à?
- Cháu
ư? Cụ Enricô, cụ tỉnh đấy chứ? Cháu mà phản bội ư?
- Hôm
qua khi hỏi cung, người ta nói với Bôla như thế đấy. Nếu thật anh không phản
bội thì tôi rất hài lòng. Xưa nay tôi vẫn cho anh là người thanh niên tốt.
Thôi, chúng ta đi!
Cụ
Enricô bước ra hành lang, Áctơ theo sau. Bỗng một tia sáng loé lên trong óc
anh:
- Chúng
nó bảo Bôla là cháu khai anh ấy! Lẽ tất nhiên là như thế, cụ Enricô ơi! Với
cháu thì chúng lại nói là Bôla khai cháu ra. Nhưng Bôla chẳng đến nỗi khờ dại
mà tin lời chúng đâu.
Cụ
Enricô dừng bước bên cầu thang, nhìn Áctơ bằng con mắt thử thách:
- Thật
không phải như thế chứ?
Áctơ
nhún vai:
- Tất
nhiên, đó chẳng qua chỉ là nói láo!
- Vậy à!
Thế thì lão vui lòng lắm, con ạ. Lão nhất định sẽ tin cho Bôla nhưng con nên
biết chúng nói với Bôla... rằng là... con khai Bôla vì con ghen. Hình như hai
đứa chúng mày cùng yêu một người con gái thì phải.
Áctơ gấp
gáp, khẽ nhắc lại:
- Chúng
nó nói láo! Cùng yêu một người con gái!... Ghen! Tại sao chúng nó biết? Tại sao
chúng nó biết hở cụ?
- Con
đợi lão một chút! – Cụ Enricô dừng chân ở đầu hành lang dẫn tới phòng thẩm vấn
và thì thào:
– Lão
tin con, nhưng hãy cho lão hay một điều này nữa. Lão biết con theo đạo Thiên
chúa.
Vậy lúc
xưng tội con có nói gì không?
- Chúng
nó nói láo! – Lần này giọng Áctơ như rít lên thành một tiếng nức nở.
Cụ
Enricô nhún vai rồi lại tiến bước.
- Dĩ
nhiên là con hiểu rõ hơn lão. Nhưng chẳng phải một mình con là người thanh niên
dại dột
ăn phải
bả của chúng nó đâu. Giờ đây người ta đang đồn đại rất nhiều về một tên cố đạo
nào đó ở Pidơ. Anh em bạn con đang vạch mặt nó. Họ lại còn rải truyền đơn báo
cho mọi người biết rằng đó là một tên mật thám.
Cụ mở
cửa phòng thẩm vấn. Thấy Áctơ cứ đứng lặng, sững sờ nhìn về phía trước, cụ khẽ
đẩy
anh bước
qua cửa.
Viên đại
tá nhoẻn miệng cười nhe cả hai hàm răng ra, nói:
- Chào
cậu Bớctơn. Tôi rất vui lòng chúc mừng cậu. Phơlôrăngxơ đã ra lệnh thả cậu ra.
Mời
cậu kí
vào tờ giấy này.
Áctơ
tiến lại gần viên đại tá. Anh cất giọng trầm trầm, khô khan:
- Tôi
muốn biết kẻ nào đã khai tôi ra.
Viên đại
tá nhướn mày, nhăn nhở cười:
- Cậu
không đoán được à, thử nghĩ xem.
Áctơ lắc
đầu. Viên đại tá giơ hai tay tỏ vẻ ngạc nhiên một cách lễ phép:
- Cậu mà
không đoán ra thật à? Chính cậu đấy, cậu Bớctơn ạ! Còn ai mà biết được chuyện
yêu đương của cậu?
Áctơ
lặng lẽ quay mặt đi. Một cây thánh giá bằng gỗ lớn treo trên tường. Áctơ từ từ
ngước
nhìn mặt
Giêsu. Nhưng đôi mắt anh chẳng tỏ vẻ khẩn cầu, mà chỉ mờ mờ ngạc nhiên tại sao
Đấng nhân lành và vô tư này không có sấm sét để quật chết tên thầy cả đã tiết
lộ cả bí mật của phép giải tội ấy đi.
Viên đại
tá nhã nhặn nói:
- Xin
cậu kí nhận giấy tờ cho, chúng tôi sẽ không giữ cậu làm gì nữa. Chắc cậu muốn
về nhà cho nhanh, mà tôi thì cũng rất bận. Cả ngày phải đánh vật với vụ thằng
Bôla điên rồ này. Chính hắn đã làm cho lòng dạ khoan dung của người ngoan đạo
như cậu phải qua một cơn thử thách tàn nhẫn. Chắc hắn sẽ bị kết án nặng...
Thôi, chào cậu!
Áctơ kí
nhận tờ giấy rồi bước ra không nói nửa lời. Anh lẳng lặng đi theo cụ Enricô ra
tới chiếc cổng to lớn và nặng nề đó. Rồi cũng không cả một lời từ biệt cụ, anh
bước xuống phía kênh đào có người lái đò đã chờ sẵn. Khi Áctơ đang bước lên bậc
đá để ra phố thì một thiếu nữ mặc bộ đồ vải, đội mũ rơm, chìa tay lại đón anh:
- Áctơ!
Ôi, sung sướng quá, sung sướng quá!
Áctơ run
bắn lên, rụt tay lại.
Mãi sau
anh mới cất tiếng gọi, giọng lạc hẳn đi:
- Dim!
Dim!!
- Em đợi
ở đây đã nửa tiếng rồi. Nghe nói đến bốn giờ thì chúng thả anh ra. Áctơ, sao cứ
nhìn em chằm chặp thế? Có điều gì chăng? Làm sao thế? Kìa, anh hãy khoan đi
chứ!
Áctơ
quay lưng, chầm chậm bước trên đường phố. Thấy vậy, Giêma hốt hoảng chạy theo
nắm lấy tay anh:
- Áctơ!
Áctơ
dừng bước, ngước đôi mắt kinh hoàng nhìn Giêma.
Nàng
khoác tay anh và hai người sánh bước cùng đi, không nói một lời.
Giêma
dịu dàng bắt chuyện:
- Áctơ
thân mến, nghe Dim nhé. Việc gì mà cứ phải khổ tâm về chuyện hiểu lầm vớ vẩn
ấy?
Dim biết
anh đau lòng lắm, nhưng mọi người đều hiểu cả...
Áctơ vẫn
giọng trầm trầm khô khan:
- Chuyện
hiểu lầm nào?
- Ấy,
Dim nói bức thư của Bôla ấy mà.
Hai
tiếng Bôla làm cho gương mặt Áctơ quắt lại đau đớn.
Giêma
nói tiếp:
- Chắc
là anh chưa được đọc bức thư ấy? Nhưng có lẽ họ đã nói với anh rồi. Nếu Bôla
tưởng
tượng ra
những chuyện đó thì thật điên rồ.
- Chuyện
gì thế?
- Thế
anh không biết thật à? Bôla viết thư nói rằng Áctơ đã lộ ra chuyện tàu bè làm
Bôla bị bắt. Thật là bậy! Điều đó ai mà chẳng rõ. Chỉ có người nào không biết
Áctơ thì mới tin. Chính vì thế mà Dim đến đây. Dim muốn nói để anh biết rằng
trong nhóm của Dim chẳng ai tin bức thư ấy một tí nào cả.
- Giêma!
Nhưng việc đó... việc đó có thật đấy!
Giêma từ
từ lùi xa Áctơ và đứng lặng người; đôi mắt nàng trợn tròn và tối sầm lại vì sợ
hãi.
Mặt nàng
trắng bệch như chiếc khăn quàng ở cổ. Một làn không khí im lặng lạnh buốt bủa
vây lấy họ như một bức tường bít kín không cho họ nghe tiếng ồn ào và nhìn thấy
cảnh nhộn nhịp trên đường phố nữa.
Cuối
cùng Áctơ khẽ nói:
- Phải.
Tàu bè... Tôi có nói về tàu bè và cả tên Bôla nữa... Ôi! Trời ơi! Trời ơi! Làm
thế nào
bây giờ?
Nhưng
Áctơ chợt tỉnh và hiểu rằng người đang đứng chết lặng sững sờ nhìn anh là người
nào. Dĩ nhiên là Giêma đang nghĩ rằng...
Áctơ
bước lại phía nàng, kêu lên:
- Giêma!
Giêma chưa hiểu tôi!
Nàng lùi
lại, hét:
- Đừng
có chạm vào người tôi!
Với một
sức mạnh đột ngột, Áctơ nắm lấy tay nàng:
- Trời
ơi, Giêma hãy nghe tôi, vì chúa! Không phải tại tôi! Tôi...
- Buông
ra! Buông tay tôi ra! Buông ra!
Nàng
giật tay ra khỏi tay Áctơ rồi tát vào mặt anh. Một màn sương bao phủ lấy mắt
Áctơ. Trong giây lát, anh chỉ còn nhìn thấy bộ mặt tái xám, đau buồn vô hạn của
Giêma và thấy nàng chùi tay phải vào váy áo. Rồi màn sương tan đi… Áctơ ngước
nhìn chung quanh và chỉ thấy có mình đang đứng trơ ra đó.
Chú thích:
(1) Nhân vật chính trong tác phẩm nổi tiếng
“Đông Kisốt” của nhà văn Tây Ban Nha Xécvăngtét (1547 – 1616)
(2) Cà độc dược: một thứ thuốc độc, nuốt vào
thì thần kinh sẽ rối loạn, đồng tử trương to.
RUỒI
TRÂU
Chương 7
Trời đã
tối từ lâu, khi Ác-tơ bấm chuông gọi cửa tòa nhà ở Vi-a Bô-ra. Anh nhớ mình đã
lê chân khắp đường phố nhưng chẳng biết đã đi đâu, tại sao lại đi và đi trong
bao lâu nữa. Tên hầu nhỏ của Giu-li ra mở cửa ngáp dài rồi nhăn răng ra cười
hóm hỉnh, khi thấy vẻ mặt bơ phờ lặng ngắt của anh : ngộ nghĩnh nhỉ, cậu chủ
nhà ở tù ra trông chẳng khác gì một gã hành khât say bi tỉ, sống với áo thế kia
!
Ác-tơ
bước lên cầu thang. Đến tầng thứ nhất anh gặp Gip-bơn đang đi xuống, vẻ chê
trách trang nghiêm và khinh khỉnh. Anh lẩm bẩm : " Chào bác". Rồi
định lướt tránh qua. Nhưng người như Gíp-bơn đâu có dễ để ai chạm mặt mà đi
luôn được. Hắn soi mói nhìn từ mái tóc bù xù đến bộ quần áo lếch thếch của anh
và nói :
- Thưa
cậu, các ông chủ không có nhà. Các ông đã đi dự dạ hội với bà chủ, chắc phải
quãng nửa đêm mới về.
Ác-tơ
nhìn đồng hồ : mới chín giờ. À, được! Còn giờ...đủ chán...
- Thưa
cậu, bà chủ dặn tôi hỏi cậu có muốn dùng bữa tối không. Bà còn dặn nhắc lại cậu
là hãy chờ bà về, bà có chuyện cần nói với cậu tối nay.
- Cám
ơn, tôi không ăn. Bác cứ nói với bà ấy là tôi còn thức. Ác-tơ đi lên phòng
mình. Không có gì thay đổi. Từ ngày anh bị bắt, chân dung Mông-ta-ne-li anh để
trên bàn hôm ấy vẫn y nguyên, thánh giá vẫn dựng trên bàn thờ. Anh ngừng giây
lát tại ngưỡng cửa nghe ngóng : ngôi nhà hoàn toàn im ắng, hiển nhiên sẽ chẳng
có ai đến quấy rầy anh. Anh nhẹ nhàng bước vào phòng, khóa trái cửa lại.
Thôi,
thế là xong. Sẽ chẳng có gì phải lo âu suy nghĩ . Chỉ cần làm sao rũ sạch cái ý
thức phiền nhiễu và vô dụng kia đi là xong. Dù sao việc này cũng có vẻ vô mục
đích và xuẩn ngốc thật !
Tự tử :
óc anh chưa hình thành một quyết định nào, mà cũng chẳng cần phải suy nghĩ
nhiều, sự việc đã quá hiển nhiên và tất yếu rồi. Anh cũng chưa xác quyết xem
phải chọn cách chết nào, miễn là tất cả kết thúc nhanh chóng...cho xong rồi
quên đi. Trong phòng chẳng có một thứ vũ khí, đến một lưỡi dao cũng không.
Nhưng không cần gì, một tấm khăn hoặc một tấm vải trải giường xé nhỏ cũng đủ.
Ngay
trên cửa sổ có môht chiếc đinh lớn. Được đấy, nhưng phải thật vững chắc, nhỡ
mình nặng quá. Anh leo lên ghế thử lại : cũng chưa được chắc chắn lắm. Anh lại
bước xuống lục ngăn kéo lấy búa ra đóng đinh lại. Sắp lôi vải trải giường ra
anh sực nhớ mình chưa đọc kinh. Dĩ nhiên, người Công giáo ai cũng phải cầu kinh
trước khi chết chứ ! Có cả những kinh dọn linh hồn chịu chết mà !
Anh bước
đến bàn thờ, quỳ trước thánh giá :
- Lạy
Chúa toàn năng và lòng lành...
ANh đọc
to, thế rôi ngưng bặt. Thật ra, trần thế đã quá ê chề, còn gì để cầu khẩn cho
được hoặc tránh được nữa. Vả lại, Giê-su làm sao biết được nỗi niềm
này...Giê-su đã phải chịu đựng thế đâu? Cũng như Bô-la, anh là kẻ bị phản bội
chứ có phải anh ta bị mắc lỡm mà đi phản bội đồng chí mình đâu !
Ác-tơ
đứng dậy, làm cây thánh giá theo thói quen từ bé. Đến gần bàn, anh thấy một lá
thư của Mông-ta-ne-li viết bằng bút chì :
"
Con thân yêu của Cha,
Cha rất
buồn vì không được gặp con ngày con được tha. Cha phải đi làm phúc cho một
người đang hấp hối. Chắc khuya lắm cha mới về. Sáng mai con đến gặp cha sớm
vậy. Gấp lắm.
LM
"
Anh đặt
thư xuống thở dài : chắc Padre khổ tâm vì chuyện này lắm.
Dưới
đường phố thiên hạ vẫn cười đùa rộn rã ! Chẳng có gì thay đổi từ giây phút anh
thấy mình còn sống. Cuộc sống tủn mủn quanh anh không mảy may thay đổi, cho dù
đã có linh hồn một con người đang sống bị đánh chết gục. Tất cả vẫn như cũ.
Những vòi nước vẫn phun đều, bầy chim sẻ vẫn ríu rít dưới mái hiên. Hôm qua đã
vậy và ngày mai sẽ vẫn thế. Về phần anh, anh đã chết...chết hẳn rồi.
Ác-tơ
ngồi xuống mép giường, tay khoanh lên thành giường rồi gục đầu lên tay. Còn
chán thì giờ. Đầu anh nhức như búa bổ, nhức tận cùng trung tâm não bộ. Mọi cái
sao mà mù mịt, xuẩn ngốc...sao mà vô nghĩa đến thế...
Chuông
trước cửa reo lên đinh tai, Ác-tơ vùng dậy hoảng sợ đến nghẹt thở, nhói đau,
anh đưa hai tay sờ cổ họng Họ đã về...thế mà nãy giờ anh vẫn ngồi đó nghĩ ngợi
vớ vẩn để thì giờ quý báu vụt qua...Giờ đây anh lại phải giáp mặt, nghe giọng
nói độc địa của họ...những hằn học, xỉa xói...anh chỉ cần một lưỡi dao thôi
mà...
Ác-tơ
tuyệt vọng đảo mắt quanh phòng. Giỏ đồ khâu của mẹ còn trên tủ nhỏ, trong ấy ắt
phải có kéo, anh có thể rạch đứt mạch máu. Không, vải trải giường và chiếc đinh
an toàn hơn, giá anh có đủ thì giờ...
Anh giật
tấm vải trải giường cố xé lấy một đoạn dài. Đã có tiếng chân lên cầu thang.
Không được, đoạn vải rộng quá, khó thắt chặt được, phải làm nút thòng lọng cơ
mà. Anh xé nhỏ thêm. Tiếng bước chân càng gần, anh càng thêm luýnh quýnh. Mạch
máu giần giật hai bên thái dương, tai anh ù đi. Nhanh lên...nhanh nữa lên !
Chúa ơi ! Năm phút nữa trôi thôi !
Tiếng gõ
cửa đã vang lên. Đoạn vải rời khỏi tay anh . Anh ngồi lặng người, nín thở lắng
nghe. Nắm cửa xoay xoay, rồi tiếng Giu-li réo : - Ác-tơ !
- Ác-tơ,
mở cửa nào ! Chúng tao đợi đây !
Anh vo
vội miếng vải trải giường rách ném vào ngăn kéo, hấp tấp sửa lại giường.
- Ác-tơ
! - Đó là tiếng Giêm-xơ. Hắn sốt ruột giật quả nắm - Chú ngủ à ?
Ác-tơ
thấy căn phòng đã ngăn nắp, mới mở khóa cửa ra. Giu-li lồng lộn nhảy xổ vào
buồng hét váng lên :
- Ác-tơ,
tao tưởng mày ít nhất cũng phải nghe lời tao, đợi chúng tao về đã chứ ! Mày làm
chúng tao phải đợi hàng nửa tiếng đồng hồ thế à ?
Giêm-xơ
bước theo đuôi váy sa tanh hồng của vợ, vội nhẹ nhàng chữa lời :
- Mới
bốn phút thôi, mình ạ ! Ác-tơ, anh thấy lẽ ra chú phải nên...
Ác-tơ
ngắt lời :
- Anh
chị muốn gì ?
Ác-tơ
đứng tỳ tay vào nắm cửa. Và như một con thú dữ mắc bẫy, Ác-tơ gườm gườm tráo
nhìn Giêm-xơ rồi nhìn Giu-li. Nhưng Giêm-xơ thì quá đần độn mà Giu-li thì đã
điên tiết lên rồi nên chẳng ai nhận thấy cái nhìn ấy của Ác-tơ. Giêm-xơ đưa ghế
cho vợ ngồi. Rồi ông cũng tự kiếm ghế ngồi, kéo lại cẩn thận đôi ống quần mới.
Ông ta
giáo đầu :
- Anh và
chị Giu-li thấy có trách nhiệm phải nói chuyện đứng đắn với chú...
- Tối
nay tôi chưa nghe được. Tôi...tôi mệt. Tôi nhức đầu...Anh chị hãy đợi bữa khác.
Ác-tơ
nói với một giọng là lạ, nghe lí nhí, rời rạc và lộn xộn. Giêm-xơ ngạc nhiên
đảo mắt nhìn bốn xung quanh.
Sực nhớ
là Ác-tơ mới chui ở hang đầy bệnh truyền nhiễm ra, Giêm-xơ lo lắng hỏi :
- Chú
làm sao thế ? Không ốm chứ ? Trông chú như sốt rét ấy.
Giu-li
đanh đá ngắt lời :
- Chẳng
sao cả! Cứ giở trò hề mãi. Chắc thấy người ta thì sướng mặt đấy thôi...Ác-tơ
lại ngồi đây.
Ác-tơ từ
từ đi sang phía bên kia ngồi xuống mép giường, rôi uể oải nói :
- Anh
chị bảo gì ?
Giêm-xơ
đằng hắng, vuốt bộ râu vốn đã mượt, và lên giọng đọc một bài diễn văn đã chuẩn
bị kỹ càng từ trước :
- Anh
thấy có trách nhiệm...có trọng trách phải nói chuyện nghiêm chỉnh với chú về
hạnh kiểm kỳ quặc của chú và về việc chú đã liên lạc với những kẻ thành tích
bất hảo. Anh chắc chú dại dột quá chứ không phải hư hỏng...
Ông
ngừng lời.
- Sao
nữa ạ !
Thấy vẻ
thẫn thờ, mệt mỏi hiện ra trong mỗi cử chỉ của Ác-tơ, Giêm-xơ tự nhiên phải dịu
giọng hơn :
- Vì thế
anh cũng không muốn quá nghiêm khắc với chú. Anh chắc rằng những bạn bè hư hỏng
đã lôi kéo chú, chứ anh thì anh biết là chú còn non trẻ, thiếu chín chắn và
nông nổi, và có lẽ đó là những tính mà chú đã phải chịu ảnh hưởng của mẹ chú
trước kia...Ác-tơ từ từ ngước mắt nhìn ảnh mẹ rồi lại nhìn xuống, nhưng vẫn nín
lặng.
Giêm-xơ
lại tiếp :
- Nhưng
chắc chú cũng hiểu rằng anh không thể chứa mãi trong nhà một kẻ đã làm nhơ
nhuốc thanh danh của một gia đình như gia đình ta được. Ác-tơ lại nói gọn lỏn :
- Sao
nữa ạ ?
Giu-li
gấp cái quạt đánh phạch, đặt ngang đầu gối rồi gân cổ hét :
- Ô hay
! Mày không biết nói gì nữa hay sao mà cứ "sao nữa ạ" mãi thế ?
Ác-tơ
không nhúc nhích đủng đỉnh trả lời :
- Anh
chị muốn gì thì cứ làm. Tôi thì thế nào cũng được.
- Thế
nào cũng được à ?- Giêm-xơ sửng sốt về câu trả lời của Ac-tơ, còn vợ hắn thì
đứng dậy cười gằn :
- Thế
nào cũng được phải không ?...Thôi, anh Giêm-xơ, chắc bây giờ anh đã hiểu là
chúng ta đừng hòng nó biết ơn chúng ta nữa rồi. Tôi đã bảo mà, làm phúc đức mãi
với những kẻ giang hồ công giáo ấy và với cái đứa mà chúng...
- Chớ,
chớ ! Mình chớ nói cái đó..
- Chớ
chớ cái gì nữa ? Chúng ta đã có quá đủ cái thứ tình cảm hờ ấy rồi. Mà để thương
yêu ai? Để thương yêu một đứa con hoang lộn sòng vào gia đình ta ư ? Cần phải
bảo cho nó biết mẹ nó là ai rồi ! Tại sao chúng ta lại cứ phải hầu hạ thằng con
riêng của lão cố đạo thiên chúa giáo ? Này, đọc xem !
Giu-li
rút một mảnh giấy nhàu nát trong túi ra, quẳng qua bàn cho Ác-tơ. Mở ra, Ác-tơ
nhận ra chữ của mẹ. Theo như ngày tháng đề trong giấy thì mẹ Ác-tơ đã viết giấy
này trước khi sinh Ác-tơ bốn tháng. Đó là một tờ giấy thú nhận với chồng. Bên
dưới có hai chữ ký.
Ác-tơ
đưa mắt lần đọc từng dòng, cuối cùng thấy tiếp sau nét chữ run run của mẹ chữ
ký chắc nét, quen thuộc " Lô-ren-xô Mông-ta-ne-li". Anh dán mắt vào
chữ ký ấy tới mấy phút đồng hồ. Không nói một lời, anh gập tờ giấy lại và đặt
lên bàn.
Giêm-xơ
đứng dậy, cầm tay vợ :
- Thôi,
Giu-li, thế là đủ, đi xuống đi. Khuya rồi. Anh cần nói chuyện công việc với
Ác-tơ. Mình ở lại đây nghe chẳng lí thú gì đâu.
Giu-li
lườm chồng rồi lườm Ác-tơ. Ác-tơ lặng lẽ ngồi nhìn xuống sàn,
Giu-li
lầm bầm :
- Như
thằng mất hồn ấy.
Sau khi
Giu-li cuốn váy bước ra khỏi phòng. Giêm-xơ đóng chặt cửa lại rồi ngồi vào cạnh
bàn.
Ác-tơ
vẫn ngỗi yên như pho tượng, không hé răng nói nửa lời.
Giêm-xơ
lại bắt đầu nói, giọng dịu dàng hơn vì bây giờ không còn sợ Giu-li nghe lỏm
nữa.
- Ác-tơ,
chuyện vỡ lở ra thật đáng tiếc. Lẽ ra chú cũng không nên biết. Nhưng thôi
chuyện đã qua rồi ! Tôi rất vui lòng thấy chú tỏ ra điềm tĩnh như thế. Chị
Giu-li hơi quá xúc động. Đàn bà thường hay thế...Dù sao tôi cũng không muốn xử
tệ với chú....
Hắn
ngừng nói để thăm dò xem những lời lẽ ngọt nhạt đã tác động đến Ác-tơ như thế
nào, nhưng Ác-tơ vẫn không nhúc nhích.
Một lát
im lặng, Giêm-xơ tiếp :
- Chú ạ,
tất nhiên câu chuyện ấy đáng buồn lắm, đừng nhắc tới nữa thì hơn. Cha tôi cũng
thật rộng lượng. Khi mẹ chú đã thú nhận tội lỗi của mình thì cha tôi không đòi
ly dị mà chỉ đòi kẻ quyến rũ mẹ chú phải rời bỏ ngay nước Ý. Như chú đã biết,
người ấy đã đi sang Trung quốc để truyền giáo. Khi người ấy về, tôi phản đối
việc để chú gặp người ấy. Nhưng tới phút lâm chung, cha tôi lại thuận để người
ấy giúp chú học tập với điều kiện duy nhất là người ấy không được tìm cách gặp
mẹ chú. Cũng phải nhận rằng cả hai người đều đã theo đúng điều kiện ấy đến
cùng. Tất cả những việc ấy thật đau lòng, nhưng...
Ác-tơ
ngẩng đầu, gương mặt anh không còn một nét sống một biểu lộ nào mà chỉ còn như
một chiếc mặt nạ bằng sáp.
Anh nói
khẽ và không hiểu sao lại hơi lắp bắp :
- Theo
a..anh thì ch..chắc là câu ch..chuyện ấy b..buồn cười lắm nhỉ !
- Buồn
cười à ?
Giêm-xơ
đẩy lùi chiếc ghế ra khỏi bàn. Hắn quên cả giận dữ, sửng sốt nhìn Ac-tơ chòng
chọc :
- Buồn
cười ư ? Ác-tơ ! Chú điên rồi à !
Ác-tơ
bỗng ngửa mặt lên trời cười sằng sặc.
Ông chủ
hãng tàu bệ vệ đứng dậy, kêu lên :
- Ác-tơ
! Tôi rất lấy làm lạ về sự nhẹ dạ của chú.
Một
chuỗi cười lại vang lên. Tiếng cười sặc sụa làm Giêm-xơ ngờ ngợ không biết đấy
có phải chỉ vì nhẹ dạ hay là vì một cớ gì khác nhiều hơn thế.
Hắn
khinh bỉ nhún vai, sốt ruột đi bách bộ trong phòng và lẩm bẩm :
- Như
một con điên vậy. Ác-tơ, chú thật còn tồi hơn cả Giu-li. Đừng cười nữa ! Tôi
hơi sức đâu mà ngồi đây suốt đêm được !
Nói như
thế mà ăn thua thì có lẽ Giêm-xơ đã mời được tượng gỗ bước xuống đất. Ác-tơ
chẳng nghe thấy những lời khuyên nhủ và dạy dỗ ấy. Anh chỉ cười, cười mãi không
thôi.
Cuối
cùng, Giêm-xơ dừng bước nói :
- Thật
là điên rồ. Chắc chú xúc động quá nên đã mất cả lý trí lành mạnh. Thế thì tôi
chẳng thể nói với chú nữa. Sáng mai ăn sáng xong chú đến chỗ tôi. Bây giờ chú
đi ngủ thì hơn. Chào chú !
Giêm-xơ
đi ra, đóng sầm cửa lại, vừa nện chân xuống cầu thang hăn vừa hậm hực :
- Bây
giờ lại đến cảnh điên ở nhà dưới đây. Chắc lại có cả nước mắt.
Chuỗi
cười điên dại bỗng ngừng bặt trên môi Ác-tơ. Anh giật lấy chiếc búa con trên
bàn và nhảy xổ tới cây thánh giá.
Sau nhát
búa đầu tiên, anh tỉnh ngay. Nằm trơ trước mặt anh là chiếc bệ trống không. Tay
anh còn giữ chặt búa. Những mảnh thánh giá vỡ tan tành văng trên sàn. Ác-tơ
quẳng búa sang một bên. Dễ dàng thế thôi ư ?- anh lầu bầu một mình và quay đi -
Sao ta lại ngốc đến thế !
Ác-tơ
thở hổn hển, ngồi thụp xuống ghế, hai tay bưng chặt lấy thái dương. Rồi anh
đứng dậy, bước tới bồn rửa mặt, lấy một bình nước lạnh dội lên đầu. Thấy đã
bình tĩnh hơn, anh trở về chỗ cũ, ngồi trầm ngâm suy nghĩ.
Chính vì
những con người giả dối và nô lệ ấy, chính vì những thần thánh không hồn và câm
như hến ấy mà anh đã phải chịu mọi giày vò của nhục nhã, giận dữ và đau buồn,
chính tại chúng mà anh đã sửa soạn dây chuẩn bị treo cổ tự tử chỉ vì rằng có
một cố đạo đã ăn gian nói dối. Làm như không phải tất cả bọn họ đều đã ăn gian
nói dối ấy ! Nhưng thôi, thế là được rồi ! Từ nay anh sẽ khôn hơn. Chỉ cần rũ
sạch ròi bọ khỏi mình và bắt đầu làm lại cuộc đời.
Có nhiều
tàu buôn cập bến, trốn lên trên một chiếc tàu ấy và đi biệt tăm, đi tới bất cứ
nơi nào đó như Canada, Úc, hoặc Nam Phi thì khó gì !
Đi đâu,
điều đó không quan trọng, chỉ cốt lánh xa chốn này. Còn như sinh sống thế nào
thì cái đó tuỳ tình hình, nơi này không thích hợp thì lại đi nơi khác.
Anh móc
ví. Chỉ còn ba mươi pa-ô-li. Nhưng còn một chiếc đồng hồ đáng giá nữa. Nó có
thể giúp ích không ít. Và dù sao cũng chẳng có gì quản ngại, thế nào anh cũng
sống qua ngày đoạn tháng được. Nhưng còn lũ người đó, họ sẽ đi tìm anh, sẽ ra
bến hỏi dò. Không, phải đánh lạc hướng mới được. Làm cho họ tưởng rằng anh đã
chết. Và lúc đó anh sẽ được tự do, hoàn toàn tự do. Tưởng tượng tới lúc nhà
Bớc-tơn đi tìm xác anh, Ác-tơ cười thầm. Thật là một trò cười !
Anh lấy
mảnh giấy nhỏ và viết ngay ý nghĩ của mình.
"
Tôi đã tin ông như đã tin Đức chúa Lời. Nhưng Đức chúa Lời chỉ là một tượng
đất, đập một búa là tan, còn ông thì ông đã lừa dối tôi suốt đời ".
Ác-tơ
gập mảnh giấy lại đề tên Mông-ta-ne-li, và lấy một mảnh giấy khác viết :
"
Tìm xác tôi ở bến Đác-xen-na"
Rồi anh
đội mũ, bước khỏi phòng. Qua nức ảnh mẹ, anh lướt nhìn, nhún vai cười khẩy.
Chính mẹ cũng lừa dối anh kia mà !
Anh bước
nhẹ nhàng qua hành lang, đẩy chốt cửa và ra đến cầu thang gác lớn và tối tăm
lát bằng đá hoa mà cứ mỗi khi có tiếng sột soạt lại âm vang lên. Thang gác há
rộng miệng dưới chân anh như một vực thẳm đen sì. Ác-tơ rón rén bước qua sân để
khỏi đánh thức ông già Gian Ba-tit-stơ đang ngủ ở nhà dưới. Trong kho củi ở
cuối vườn có một chiếc cửa sổ chấn song nhỏ. Cửa sổ trông ra kênh đào và ở cách
mặt đất chừng một thước hai. Ác-tơ chợt nhớ rằng chấn song cửa sổ han gỉ đã gãy
mất một bên, chỉ cần lay nhẹ là có thể phá được một lỗ vừa lọt người chui.
Nhưng
chấn song lại chắc hơn là anh tưởng. Anh lay đến sướt da và rách cả tay áo.
Nhưng có hề chi. Anh nhìn ra phố, không một bóng người. Kênh đào đen ngòm và
lặng ngắt trông như một cái hang khủng khiếp chạy ngoằn ngoèo giữa hai bức
tường trơn dựng đứng.
Thế giới
trước mắt mà anh chưa bước chân tới có thể là 1 hố sâu mù mịt , nhưng trong thế
giới ấy chưa chắc đã nhiều đê tiện và nhơ nhốc như ở sau lưng anh . Ko thương
tiếc gì nữa , ko nhìn lại làm gì nữa . Đó là 1 thế giới nhỏ nhen , ôn dịch ,
thối nát , đầy lừa lọc đê hèn và lường gạt bỉ ổi - đó là 1 vũng bùn lầy nước
đọng thối tha , nông cạn đến nỗi 1 người cũng ko thể trẫm mình ở đó được .
Áctơ men
theo bờ kênh , rồi rẽ về phía quảng trường nhỏ cạnh cung điện Mêđitri. Chính
nơi đấy Giêma đã chạy đến đón anh và hớn hở chìa 2 tay cho anh . Những bậc đá
ướt nối dài xuống tận mặt nước còn đó. Toà pháo đài cau có nhìn xuống dòng nước
bẩn thỉu còn đây . Cho đến nay anh vẫn ko ngờ nó thấp lùn , ti tiện như vậy .
Dọc theo
những đường phố chật hẹp , Áctơ đi tới bến tàu Đácxenna. Anh ném mũ xuống nước.
Khi họ mò tìm xác ắt sẽ thấy chiếc mũ. Anh men theo bờ biển, và suy nghĩ lung
tung ko biết nên làm gì nữa .Bây giờ phải tót lên chiếc tầu nào đó.Nhưng ko
dễ.Chỉ còn cách duy nhất là rẽ về phía con đê chắn sóng Mêđitri cao lớn và lâu
đời kia.Ở tận cuối chân đê có 1 quán rượu tồi tàn . May ra vớ được 1 gã thuỷ
thủ nào mình có thể đút lót được.
Nhưng
cửa bến tàu khoá mất rồi . Làm thế nào qua được, mà lại thoát khỏi tay lính
đoan nữa ? Với số tiền ít ỏi ko thể nghĩ tới chuyện hối lộ để tráo qua cửa bến
lúc ban đêm được , nhất là lại ko có hộ chiếu . Hơn nữa lính đoan cũng có thể
nhận ra anh .
Khi Áctơ
đảo qua trước mặt tượng đài " Bốn người Môrơ " bằng đồng đen , phía
bên kia đường , từ 1 ngôi nhà cổ lỗ , 1 người mở cửa lù lù bước ra . Người ấy
đi về phía cầu.Áctơ vội lẩn vào bóng tối, nép mình vào bệ tượng đen ngòm , len
lén nhìn ra.
Đó là 1
đêm xuân ấm áp , trời đầy sao.Sóng vỗ vào kè đá và xô tới gần các bậc đá thành
những xoáy nước xinh xinh với một tiếng rì rào êm ái giống như 1 tiếng cười.
Đâu đây , 1 đoạn xích sắt từ từ đưa võng , kêu kẽo kẹt. Một chiếc cần trục lớn
buồn rầu đứng sững trong đêm tối . Dưới bầu trời đầy sao lấp lánh in bóng những
làn mây như những vòng hạt trân châu , là 4 người nô lệ bị gông cùm đang vật
lộn và vươn lên phản đối số phận tàn nhẫn 1 cách kịch liệt nhưng tuyệt vọng.
Người ấy
bước loạng choạng trên bờ biển , vừa đi vừa nghêu ngao 1 bài hát Anh rẻ tiền .
Chắc là 1 tay thuỷ thủ vừa nhậu nhẹt ở quán rượu về. Chung quang chẳng có 1 ai
. Khi người đó tới gần , Áctơ ra đứng ở giữa đường. Người thuỷ thủ ngừng hát ,
chửi đổng 1 câu rồi đứng lại.
Áctơ nói
tiếng Ý :
- Tôi
muốn nói chuyện với anh . Anh có hiểu ko ?
Người
kia lắc đầu :
- Đằng
ấy nói y a y ô , đây chẳng hiểu gì hết.- Rồi hắn quay lại và nói ấm ớ tiếng
Pháp , hỏi bằng 1 giọng bực tức : - Đằng ấy muốn gì ? Tại sao đằng ấy lại chắn
lối tớ đi ?
- Anh
vào chỗ tối kia 1 lúc, Tôi cần nói chuyện với anh.
- Úi
chao ! Vào chỗ tối à ! Đằng ấy có thủ dao găm ko đấy ?
0 Ko ,
ko ai thủ dao găm làm gì ! Anh ko thấy tôi đang cần giúp đỡ đây ư ? Tôi sẽ biếu
anh tiền.
- Sao ?
Cái gì ? Ừ mà đằng ấy diện kẻng nhỉ!- Người thuỷ thủ nói như vậy bằng tiếng Anh
, rồi bước vào bóng tối , tựa lưng vào hàng rào chắn quanh tượng đài.
- Nào !
- Hắn lại nói bằng thứ tiếng Pháp chối tai ấy - Đằng ấy muốn gì ?
- Tôi
muốn đi khỏi nơi này.
- À ra
thế ! Chuồn hả ? Đằng ấy muốn tớ chở lậu chứ gì ? Giở trò gì rồi hả ? Mổ bụng
thằng nào rồi ? Ông bạn ngoại quốc đếch nào ở đây cũng vậy. Thế đằng ấy định
tẩu đi đâu ? Chắc chả đi vào bốt cảnh sát nhỉ ?
Hắn cười
hềch hệch và nháy Áctơ :
- Anh ở
tàu nào ?
- Tàu
Cáclốtta. Từ LIvoócno đi Buênốt Airét . Chở da thú về bên này và chở dầu ăn
sang bên kia. Tàu kia kìa ! - Và hắn trỏ tay về phía đê chắn sóng - Tàu cà là
khổ hết sức.
-Buênốt
Airét à ! Vậy anh giấu tôi trên tàu anh nhé.
-Đằng ấy
cho bao nhiêu ?
- Ko
nhiều đâu. Chỉ còn vẻn vẹn mấy đồng paôlô thôi.
- Ko
được.Dưới 5 chịch là đây ko màng.Diện kẻng như đằng ấy thế là đã hời rồi.
-Anh nói
diện kẻng nghĩa là làm sao ? Nếu anh thích bộ quàn áo của tôi , tôi có thể đổi
cho anh.Nhưng tiền thì tôi chỉ có thế , ko thể nào biếu anh hơn được.
-Đằng ấy
có cái đồng hồ kia.Đưa đây!
Áctơ rút
ra chiếc đồng hồ bỏ túi vàng kiểu phụ nữ , chạm trổ và tráng men rất tinh vi ,
có 2 chữ tắt "G.B" ở nắp sau.Đấy là đồng hồ của mẹ anh , nhưng bâu
giờ điều đó cũng còn nghĩa lý gì nữa đâu !
Người
thuỷ thủ liếc nhìn , kêu lên :
-A!Xoáy
được chứ gì ? Đưa xem nào !
Áctơ rụt
tay lại :
-Không .
Chưa bước xuống tàu thì chưa thể trao được.
- Té ra
cũng lõi đời nhỉ ? Nhưng đánh cuộc này : chắc đằng ấy lần đầu tiên phải ba đào
nhỉ ? Đúng ko ?
-Đó là
chuyện của tôi.Kìa , lính gác đã đến!
Hai
người nồi núp sau tượng đài, chờ cho lính gác đi qua. Rồi người thuỷ thủ đứng
dậy, bảo Áctơ đi theo vừa bước vừa cười hềnh hệch một mình.Áctơ im lặng và theo
sau.
Người
thuỷ thủ dẫn anh trở lại quảng trường nhỏ bé và méo mó cạnh cung điện Mêđitri
và dừng lại trong xó tối. Hắn nói ồ ồ , và tưởng chừng như thế là khẽ lắm .
-Đằng ấy
đợi đây kẻo lính nó trông thấy.
-Anh
định làm gì ?
-Đi tìm
cho đằng ấy 1 bộ cánh khác.Tay áo vấy máu thế kia thì đưa đằng ấy xuống tàu làm
sao được.
Áctơ
nhìn tay ái bị chấn song xé rách , cánh tay bị sướt , máu thấm ra tay áo.Chắc
vì thế người thuỷ thủ nọ cho anh là 1 kẻ giết người. Cũng chẳng sao ! Hắn cho
mình là ngươid thế nào , điều đó bây giờ cũng chẳng can hệ gì nữa!
Phút
chốc người thuỷ thủ đã trở lại.Hắn tỏ vẻ đắc ý , nách cắp 1 gói nhỏ.
Hắn thì
thào :
- Thay đi
, nhanh lên.Đã đến giờ xuống tàu rồi mà lão Do Thái bán đồ cũ cứ bắt mặc cả mãi
đến nửa tiếng đồng hồ.
Áctơ
thay quần áo.Anh bất giác rùng mình ghê sợ khi chạm tay phải chiếc áo cũ. Nhưng
may sao , chiếc áo tuy thô cứng nhưng cũng còn khá sạch sẽ .Khi anh bước ra chỗ
sáng , người thuỷ thủ nhìn anh với bộ điệu nghiêm trang của người say rượu và
gật đầu ưng ý.
Hắn nói
:
-Được
đấy!Đi thôi ! Khe khẽ chứ nhé!
Áctơ
nhặt lấy chiếc áo vừa thay ra.Anh bước theo người thuỷ thủ qua những kênh đào
ngoắt ngoéo , những ngỏ hẻm khúc khuỷu , đen tối giữa những xóm nhà lụp sụp
thời Trung cổ , nơi mà những người Livóocnô gọi là " Vênêtxia mới
".Giữa những căn nhà điêu tàn và những mảnh sân nhếch nhac, giữa 2 đường
hào sâu hôi thối , đây đó 1 toà lâu đài cũ kĩ và âm thầm còn ngạo nghễ vươn lên
1 cách cô độc , hoài công phí sức giữ lấy vẻ uy nghiem cổ kín xa xưa . Mấy ngõ
hẻm này là sào huyệt của trộm cướp , giết người và buôn lậu; mấy ngõ hẻm khác
là thế giới của khốn khổ và bần cùng.
Người
thuỷ thủ dừng bước cạnh chân cầu nhỏ.Hắn đảo mắt nhìn quanh rồ bước xuống bậc
đá, đi về phía bến thuyền chật hẹp.Dưới cầu , dập dềnh 1 chiếc thuyền nát , bẩn
thỉu.Hắn sỗ sàng ra lệnh cho Áctơ nhảy xuống nằm tận đáy thuyền , rồi tự cầm
lấy mái chèo , bơi về phía cửa bến.Áctơ nằm im thin thít trên ván thuyền trơn
ướt. Giấu mình dưới mớ quần áo cũ người thuỷ thủ vừa quẳng lên người anh , Áctơ
lét nhìn những mái nhà và những đường phố quen thuộc.
Thuyền
bơi qua cầu tớip hần kênh đào nằm dưới 1 pháo đài đồ sộ. Những bức tường thành
, dưới rộng trên thót lại thành những tháp canh chật hẹp và âm thầm , sừng sững
nhô lên mặt nước. Cách đây mấy tiếng đồng hồ, đối với anh , những bức tường ấy
kiên cố và đáng sợ biết bao ! Nhưng giờ đây...Nằm dưới đáy thuyền anh cười lên
khe khẽ.
Người
thuỷ thủ thì thào :
- Im đi
! Che đầu lại cho kín. Nhà đoan ở ngay cạnh đây này.
Áctơ kéo
mớ quần áo cũ lên che kín đầu.Chiếc thuyền dừng lại trước hàng cột có xích sắt
giằng lại với nhau , chắn ngang mặt kênh nhỏ hẹp giữa nhà đoan với pháo đài.
Một gã viêc chức nhà đoan đang ngái ngủ, cầm đèn bước ra khỏi nhà , vừa ngáp
vừa nói chõ xuống nước:
- Cho
xem hộ chiếu.
Người
thuỷ thủ đưa giấy tờ lên cho y xem. Áctơ cố gắng nín thở lắng nghe.
Gã viên
chức nhà đoan càu nhàu:
- Về tàu
lúc nửa đêm gà gáy này mới thật đúng giờ chứ nhỉ ! Lại đi bê tha trác táng về
phải ko ? Cái gì trong thuyền kia?
- Quần
áo cũ. Vừa đi mia rẻ về đấy mà.
Vừa nói
người thuỷ thủ vừa giơ chiếc gilê của Áctơ lên cho gã viên chức nhà đoan xem. Y
hạ thấp đèn, cúi xuống căng mắt nhìn.
- Thôi được.
Cho đi.
Y cất
gióng gỗ lên và chiếc thuyền nhè nhẹ bập bềnh trôi qua mặt nước đen ngòm và
đang dâng lên. Di được 1 quãng ngắn Áctơ ngồi dậy, tung mớ quần áo cũ ra.
Người
thuỷ thủ thì thào :
- Đây,
tàu tớ đây rồi.Cứ theo tớ, nhưng cốt nhất phải ngậm tăm ko được nói gì.
Hắn leo
lên boong của con quái vật khổng lồ đen sì ấy. Vừa leo hắn vừa khẽ mắng Áctơ
" kẻ trên cạn hậu đậu ", mặc dù Áctơ ko đáng trách như vậy hơn ai
hết, vì xưa nay anh rất khéo léo và nhanh nhẹn. Hai người lò rò lách giữa những
đống dây cáp và những máy móc tối thui rồi lần mãi đến 1 cửa hầm tàu. Người
thuỷ thủ khẽ mở nắp hầm.
Hắn rỉ
tai Áctơ :
- Bò
xuống ! Tớ lại ngay bây giờ.
Hầm tàu
ẩm ướt, vừa tối , lại vừa ngột ngạt ko chịu được. Áctơ thốt nhiên lùi lại,
nghẹn họng vì mùi da tươi và dầu thối. Nhưng nhớ ngay tới hầm ngục tối, anh
nhún vai , bước xuống bậc thang. Có lẽ cuộc sống đâu đâu cũng như vậy : thối
tha , ghê tởm , lúc nhúc giòi bọ , đầy bí hiểm nhơ nhuốc và ngoắt ngoéo tối
tăm. Nhưng cuộc sống là cuộc sống - và vẫn phải tìm lấy ở cuộc sống tất cả
những gì còn là có thê có ích hơn cả.
Mấy phút
sau , người thuỷ thủ trở lại , tay mang 1 vật gì mà Áctơ ko nhìn rõ vì trời
tối.
- Nào !
Bây giờ đằng ấy đưa tiền và đồng hồ đây.Nhanh lên !
Lợi dụng
hầm tối Áctơ bớt lại mấy đồng tiền.
Anh nói
:
- Có gì
mang cho tôi ăn với. Tôi đói lắm rồi.
-Mang
tới rồi. Đây , cầm lấy.
Người
thuỷ thủ trao cho anh một bình nước , mấy miếng bánh quy rắn như đá và 1 mẩu
thịt lợn muối.
- Thế
này nhé. Sáng mai lính đoan sẽ lên khám tàu. Chui vào cái thùng rỗng này mà
núp. Nằm im như chuột ấy , ra khơi hẵng hay. Khi nào bò ra được, đây sẽ báo cho
biết. Để cho chúa tàu nó trông thấy thì đừng có trách. Thế thôi! Chưa làm đổ
bình nước chứ ! Chào đằng ấy nhé !
Nắp hầm
đóng sập lại. Áctơ tìm chỗ chắc chắn đặt bình nước quý giá. Leo lên 1 chiếc
thùng rỗng , anh mở thịt muối và bánh quy ra ăn. Rồi anh nằm cuộn tròn trên sàn
bẩn; và, từ thuở nhỏ đến giờ, lần đầu tiên anh đi ngủ ko đọc kinh. Chuột chạy
quanh mình anh trong đêm tối. Nhưng dù tiếng chuột rúc rích thâu đêm , dù con
tàu ngả nghiêng trên mặt sóng, dù là mùi dầu lợm mửa , dù là ngày mai những cơn
say sóng đang chờ đợi , anh vẫn say sưa trong giấc ngủ ngon lành. Tất cả những
cái đó càng ko làm cho anh xao xuyến, cũng như những thần tượng uy nghiêm mà
hôm qua anh còn cúi lạy tôn thờ, thì nay chúng đã bị vứt bỏ, bị đập vỡ tan tành
và ko còn làm cho lòng anh rạo rực nữa.
RUỒI
TRÂU
Chương 8
Một
chiều tháng 7 năm 1846 ở Phôlơrăngxơ , 1 số người quen biết cùng nhau nhóm họp
tại nhà giáo sư Phabơritxi để bàn bạc kế hoạch công tác chính trị sắp tới.
Một vài
người thuộc Đảng Mátdini nhất định đòi ít nhất fải thành lập 1 nước Cộng hoà
dân chủ và fải thống nhất nước Ý. Còn những nguêòi khác thì thuộc phái quân chủ
lập hiến và phái tự do nhiều màu sắc khác nhau . Nhưng tất cả đèu giống nhau ở
1 điểm là bất mãn với cơ quan kiển duyệt của Tôxcan . Vị giáo sư nổi tiếng
Phabơritxi triệu tập cuộc họng với hy vọng rằng , khi thảo luận vấn đề này may
ra sẽ ko nảy sinh cãi lộn giữa đại diện các phe phái.
Từ khi
Giáo hoàng Piô IX lên ngôi , tuyên bố đại xá cho tù chính trị tại các lãnh địa
của Giáo hoàng tới nay mới được 2 tuần lễ , mà làn sóng tự do chủ nghĩa do sự
kiến vang dội ấy gây ra đã lan tràn khắp nước Ý. Ở Tôxcan , lênhk đại xá của
Giáo hoàng đã tác động đến cả chính phủ. Giáo sư Phabơritxi và 1 số lãnh tụ các
chính đảng ở Phơlôrăngxơ cho rằng đó là cơ hội thuận lợi hơn cả đẻ đòi cải cách
luật báo chí.
Khi nghe
nói thế , nhà soạn kịch Lêga phát biểu :
- Lẽ dĩ
nhiên , chừng nào chưa sửa đổi luật báo chí hiện hành thì chưa thể xuất bản báo
được. Phải hoãn số báo đầu tiên lại. Nhưng có lẽ chúng ta cũng có cơ hội khiến
cho 1 số các bài châm biếm có thẻ lọt lưới kiểm duyệt được. Chúng ta càng làm
sớm được điều đó bao nhiêi thì càng chóng sửa đổi được luật báo chí bấy nhiêu.
Ngồi
trong phòng đọc sách của giáo sư Phabơritxi , nhà soạn kịch Lêga trình bày quan
điểm lập trường của mình mà theo ý ông , những nhà văn tự do phải theo trong
lúc này .
Một
người tham dự buổi họp , nhà luật sư tóc bạc, bắt đầu phát biểu với 1 giọng kéo
lê thê :
- Hiển
nhiên là chúng ta fải cướp ngay thời cơ. Sau này ko thể có những điều kiện
thuận lợi như thế để tiến hành những cải cách ra trò được . Nhưng chắc gì những
bài châm biếm đã làm nên chuyện. Nó chỉ có thể chọc tức và làm cho chính phủ
hoảng sợ thôi chứ ko thể giúp ta tranh thủ được chính phủ. Mà tranh thủ được
chính phủ mới chính là điều chúng ta định đạt tới. Nếu nhà đương cục có cảm
tưởng chúng ta là những kẻ phiến động nguy hiểm thì chúng ta ko thể nào có được
sự hiệp trợ của họ.
- Vậy
ông định thế nào ?
- Phải
đề ra yêu sách.
- Yêu
sách Đại công tước ư ?
- Phải ,
yêu sách mở rộng quyền tự do báo chí.
Một
người nước da sẫm , vẻ mặt sắc sảo , ngồi cạnh cửa sổ , nhìn nhà luật sư , cười
khẩy và nói :
- Ông đi
yêu sách chắc được nhiều kết quả lắm nhỉ ! Tôi tưởng rằng vụ Rentxi đã chữa cho
ông thoát khỏi những ảo tưởng ấy rồi.
- Thưa
ngài ! Về chuyện chúng ta ko ngăn cản được việc Renxti bị bắt giao cho Giáo
hoàng, tôi cũng rất lấy làm tiếc ko kém gì ngài . Tôi ko muốn làm mếch lòng các
quý vị có mặt ở đây , nhưng dù sao tôi vẫn nghĩ rằng sở dĩ chúng ta thất bại
trong việc này , chủ yếu là do 1 số người trong chúng ta đã sốt ruột và nóng
nảy , mà nếu ở cương vị tôi , tôi đã ko vội quyết định...
Người da
sẫm cắt ngang 1 cách sỗ sàng :
-Nghĩa
là ông sẽ do dự như dân Piêmôntê chứ gì ? Tôi ko hiểu ông thấy sốt ruột và nóng
nảy ở chỗ nào. Cóp hải những yêu sách rụt rè mà chúng ta cứ ra hết cái này đến
cái khác hay ko ? Có lẽ ở Tôxcan hoặc Piêmôntê người ta mới cho cái đó là nóng
nảy , chứ ở Napôli thì ko ai nghĩ như thế cả.
Người
miến Piêmôntê cũng chẳng chịu lép :
- May
thay, chỉ Napôli mới có thứ nóng nảy của Napôli mà thôi.
Giáo sư
Phabơritxi xen lời :
- Thôi ,
thôi , xin các ông. Tập quán của người Napôli và Piêmôntê đều có cái hay riêng.
Nhưng hiện nay chúng ta đang ở Tôxcan mà tập quán Tôxcan là nắm chắc công việc
trước mắt. Ông Gơrátxini tán thành yêu sách , mà ông Gali thì fản đối. Vậy ý
kiến bác sĩ Ricácđô thế nào ?
- Tôi
thấy yêu sách cũng chẳng có gì hại cả và nếu ông Gơrátxini thảo ra yêu sách thì
tôi rất vui lòng ký tên ngay. Tuy nhiên tôi cũng nghĩ rằng , nếu chỉ yêu sách
ko thôi thì chẳng kết quả bao nhiêu. Tại sao chúng ta lại ko có thể vừa đề ra
yêu sách lại vừa cho xuất bản cả các bài châm biếm ngắn ?
Gơratxini
nói :
- Dễ
hiểu thôi , là vì các bài châm biếm ngắn ấy sẽ làm cho chính phủ hẳn học chúng
ta và ko chấp nhận yêu sách của chúng ta.
Người
miền Napôli đứng bật dậy , tiến tới cạnh bàn :
- Có các
bài báo ấy hay ko , chính phủ cũng ko đếm xỉa tới yêu sách đâu. Thưa các vị ,
các vị đã đi lầm đường rồi! Thoả hiệp với chính phủ là vô ích. Chúng ta phải
kêu gọi nhân dân vùng dậy.
- Việc
ấy nói thì dễ , nhưng làm thì khó. Ông định làm gì để kêu gọi nhân dân ?
- Hỏi
ông Gali điều ấy thì thật vớ vẩn. Tất nhiên là trước hết ông ấy sẽ đánh vỡ đầu
viên kiểm duyệt ra!
Gali
vững vàng đáp lại :
- Không
phải thế đâu. Các ông cứ tưởng rằng người miền Nam chúng tôi thì chẳng có lý lẽ
gì khác ngoài dao găm hay sao ?
- Vậy
ông bảo nên làm thế nào ? Thưa các vị , hãy im lặng 1 chút để nghe ong Gali
trình bày 1 kiến nghị.
Mọi
người từ nãy tới giờ túm 5 tụm 3 ở các góc phòng bây giờ quây lại quanh bàn để
nghe Gali nói. Nhưng ông ta giơ 2 tay tỏ vẻ muốn thanh minh :
- Không
, thưa các vị, ko phải là kiến nghị mà chỉ là 1 ý kiến thôi. Tôi cho rằng sự
hân hoan hiện nay về việc Giáo hoàng mới tấn phong có chứa đựng 1 nguy cơ thực
tế. Giáo hoàng theo 1 đường lối chính trị mới , ban ra lệnh đại xá và do đó ,
làm cho nhiều người kết luận rằng mọi người dân nước Ý chúng ta , ai ai cũng
fải đổ xô vào lòng giáo hoàng để được ngài dẫn tới " miền đất hứa ".
Bản thân tôi cũng thán phục Giáo hoàng ko kém người khác. Đại xá - đó là 1 nước
cờ cao!
Gơrátxini
khinh bỉ tiếp luon :
- Được
tán tụng như thế chắc Đức Thánh Cha cũng mát ruột lắm....
Đến lượt
Ricácđô ngắt lời :
- Thôi
đi , ông Gơrátxini ! Để ông ấy nói hết đã! Lạ thật , sao ông với ông Gali lúc
nào cũng cứ cào cắn nhau như chó với mèo ấy!...Nào , ông Gali , ông cứ nói tiếp
đi.
Ông
người Napôli lại nói :
- Ý kiến
là tôi như thế này. Tôi chắc rằng Đức Thánh Cha làm như thế là xuất phát từ
những ý định tốt đẹp. Còn như Đức Thánh Cha có thể cải cách rộng rãi đến mức
nào - đó lại là vấn đề khác. Bây giờ thì mọi việc đều đang thuận buồm xuôi gió
cả. Vì thế , bọn phản động trên khắp nước Ý sẽ ngồi yên chừng một hai tháng,
chờ cho cơn sốt hân hoan nguội dần đi sau khi ân xá . Nhưng chưa chắc chúng đã
chịu để mất quyền lực mà ko có 1 phản ứng nào. Theo tôi thì : đến giữa mùa đông
, những bọn Giêduýt , Grêgoariêng , Xanphêđích và cả bè lũ chúng sẽ bày ra mọi
mưu ma chước quỷ mới , rồi tất cả những người ko chịu mua chuộc sẽ bị chúng đưa
vào tròng hết.
- Rất có
thể là như thế.
- Tốt
lắm ! Vậy thì chúng ta có nên cứ gửi hết đơn yêu sách này đến đơn yêu sách khác
, và đợi đến lúc Lambruxkini và phe lũ thuyết phục đại công tước bắt chúng ta
giao cho chính quyền phái Giêduýt hoặc kéo kỵ binh Áo đến tuần tiễu trên các
đường phố và bắt chúng ta phải nằm yên , hay là chúng ta nên đánh phủ đầu , lợi
dụng chúng đang tạm thời thất thế mà tấn công trước?
- Trước
hết mong ông hãy nói rõ " tấn công trước " là thế nào ?
- Tôi đề
nghị trước hết chúng ta tuyên truyền và cổ động có tổ chức để chống lại phái
Giêduýt
- Thế
nghĩa là tuyên chiến bằng các bài văn châm biếm chứ gì !
-Phải ,
chúng ta sẽ vạch trần mưu ma chước quỷ của bọn chúng , và kêu gọi nhân dân đoàn
kết đấu tranh chống phái Giêduýt.
- Nhưng
ở đây có kẻ Giêduýt nào đâu mà vạch trần ?
- Ko có
à ? Thử đợi chừng 3 tháng , rồi các ngài sẽ thấy. Lúc ấy e rằng ko làm gì nổi
bọn chúng đâu.
-Phải .
Nhưng chắc ông cũng hiểu rằng , nếu muốn động viên nhân dân chống phái Giêduýt
thì chúng ta phải nói toạc móng heo ra. Vậy ông làm cách nào để tránh kiểm
duyệt ?
- Tôi
chẳng cần tránh gì cả. Tôi thách thức cả sự kiểm duyệt nữa.
- Nghĩa
là ông sẽ cho xuất bản những bài châm biếm ngắn nặc danh ư ? Chuyện ấy nghe thì
hay đấy , nhưng chúng tôi cũng đã từng in sách báo bí mất , chúng tôi biết
rằng...
- Ko !
Tôi đề nghị in các bài châm biếm ngắn ấy 1 cách công khai, có đề tên và đề rõ
địa chỉ của chúng ta hẳn hoi. Nếu họ có đủ can đảm thì họ cứ việc truy tố.
Gơrátxini
kêu lên :
- Thật
là 1 chủ trương hết sức điên rồ. Thế có nghĩa là cả gan lao đầu vào hàm sư tử .
Gali gắt
ngay :
- Ồ ,
ông việc gì phải sợ. Chúng tôi cũng chẳng mong ông ngồi tù chuộc tội cho chúng
tôi kia mà!
Ricácđô
nói :
- Thôi
đừng nói quá lời nữa, ông Gali ! Đâu phải vấn đề sợ hay ko sợ. Chúng tôi cũng
như ông , sẵn sàng ngồi tù nếu có lợi cho sự nghiệp của chúng ta. Nhưng nếu vì
những chuyện ko đâu mà dấn thân vào chỗ hiểm nghèo thì lại thật quá ngây thơ.
Tôi muốn bổ sung vào kiến nghị vừa rồi.
- Bổ
sung gì ?
- Tôi
tưởng có thể nghĩ cách đấu trang với phái Giêduýt mà khoit đụng chạm đến cơ
quan kiểm duyệt.
- Tôi ko
hiểu ông định làm thế nào?
- Có thể
tìm cách nguỵ trang những ý kiến mà chúng ta phát biểu , dùng cách nói quanh co
để...
-....Để
viên kiểm duyệt ko hiểu được chăng ? Nhưng ông tưởng rằng bất cứ người thợ thủ
công hoặc 1 công nhân nghèo khổ và trình độ học thức thấp nào cũng đoán hiểu
được đúng ý nghĩa của những bài ông viết hay sao ? Như thế là ko sát thực tế
lắm đâu.
Giáo sư
Phabơritxi quay sang 1 người vai rộng , râu rậm màu nâu , ngồi cạnh ông , hỏi :
- Ông
Máctini , ý kiến ông thế nào ?
- Cho
tới khi chưa có nhiều sự việc thực tế thì tôi chưa muốn phát biểu vội. Phải thí
nghiệm độ vài lần xem kết quả ra sao dã.
- Còn
ông , ông Sáccôni ?
- Tôi
muốn nghe xem ý kiến bà Bôla thế nào , vì ý kiến của bà thường rất có giá trị.
Mọi
người đều dồn mắt về phía 1 người đàn bà duy nhất trong phòng. Bà ngồi trên ghế
xô pha, tay chống cằm , im lặng nghe tranh luận. Cặp mắt vốn đen , sâu thẳm và
nghiêm nghị của bà bây giờ đang ánh lên 1 tia giễu cợt.
Bà nói :
- Tôi e
rằng ý kiến của tôi khác hẳn ý kiến các ông/
Ricácđô
xen lời :
- Thường
là thế đấy , nhưng khốn nỗi , ý kiến của bà lại thường là đúng.
- Tôi
hoàn toàn đồng ý rằng chúng ta phải đấu tranh với phái Giêduýt bằng cách này
hay cách khác. Thứ vũ khí này ko dùng được ta dùng thứ khác . Nhưng , thách
thức bọn chúng thì chưa đủ , mà lẩn tránh kiểm duyệt lại cũng rất khó
khăn...Còn yêu sách thì chỉ là 1 trò trẻ con.
Vẻ mặt
hết sức trịnh trọng , Gơratxini nói :
- Thưa
bà , tôi mong rằng bà ko đề nghị những thủ đoạn chém giết chứ ?
Nghe câu
ấy , Máctini phải đưa tay lên rứt bộ râu rậm , còn Gali thì phá lên cười. Ngay
cả người thiếu phụ nghiêm trang kia cũng phải tủm tỉm cười .
Bà nói :
- Các
ông hãy tin rằng , nếu tôi là kẻ hung hãn đến như thế , thì chắc hẳn tôi ko đến
nỗi ấu trĩ mà đem ra nói công khai ở đây. Thứ vũ khí lợi hại nhất mà tôi biết
là sự giễu cợt. Nếu chúng ta đả lích được phái Giêduýt 1 cách sâu cay , làm cho
nhân dân chê cười bọn chúng cùng với những tham vọng của bọn chúng , thì chúng
ta sẽ thằng mà ko fải đổ máu.
Phabơritxi
tiếp lời :
- Tôi
thấy bà nói đúng. Nhưng tôi ko hiểu bà sẽ thực hiện bằng cách nào.
Máctini
hỏi :
- Tại
sao chúng ta lại ko thực hiện được việc đó? Một bài báo châm biếm dễ lọt lưới
kiểm duyệt hơn là 1 bài báo nghiêm trang. Nếu có phải nói bóng gió xa xôi thì
ngay trong những câu hái hước có vẻ ngớ ngẩn ấy , người đọc thông thường vẫn có
thể tìm ra nghĩa kép 1 cách dễ dàng hơn là hiểu nội dung 1 bài luận văn khoa
học hoặc kinh tế ?
- Thưa
bà , như vậy ý kiến của bà là chúng ta phải xuất bản những sách châm biếm nhỏ
hoặc ra 1 tờ báo hài hước chứ gì ? Tôi dám chắc rằng rốt cục cơ quan kiểm duyệt
cũng chẳng bỏ qua đâu.
- Ý của
tôi ko hẳn phải là một loại nào trong 2 loại ấy. Nếu chúng ta in và bán rẻ hoặc
phát ko những tờ truyền đơn châm biếm bằng thơ hoặc bằng văn xuôi thì rất có
lợi . Nếu chúng ta lại tìm được 1 hoạ sĩ giỏi nào hiểu được ý chúng ta thì
chúng ta có thể còn in những tờ truyền đơn có minh hoạ nữa.
- Nếu ý
đó được thực hiện thì thật tuyệt diệu.Nhưng đã chủ trương làm thì phải làm cho
ra trò. Chúng ta cần có 1 nhà châm biếm hạng nhất.Vậy tìm đâu ra ?
Nhà soạn
kịch Lêga nói thêm :
-Các vị
thừa hiểu rằng số đông chúng ta đều là những nhà văn cừ khôi cả. Tôi hết sức
tôn trọng cử toạ ở đây. Nhưng tôi e rằng chúng ta mà đóng vai khôi hài thì
chẳng khác gì con voi nhay điệu tanrantenla cả thôi.
- Tôi ko
hề nói rằng tất cả chúng ta đều phải đi làm 1 việc ko hợp với khả năng của
mình. Tôi chỉ nói rằng chúng ta phải cố tìm cho được 1 nhà châm biếm thật sự có
tài , mà ở Ý chắc có. Và phải chuẩn bị đầy đủ quỹ đài thọ cho ông ta. Dĩ nhiên
, chúng ta phải hiểu người đó và phải chắc chắn rằng người đó theo đúng hướng
của chúng ta.
- Nhưng
tìm đâu ra ? Tôi có thể đếm đầu ngón tay tất cả những nhà trào phúng ít nhiều
có tài , nhưng đó mà kiếm được người thích hợp. Giútxi chắc chẳng thuận đâu ,
ông ta cũng quá bận việc rồi . Có 1 hoặc 2 nhà văn Lômbácđia có thể làm được ,
nhưng họ lại viết bằng phương ngữ Milan.
Gơrátxini
nói :
- Hơn
nữa , chỉ dùng những biện pháp cao siêu hơn thì mới có tác dụng đối với dân
Tôxcan. Nếu dùng hình thức bông đùa mà đề cập tới 1 vấn đề nghiêm trang như vấn
đề tự do chính trị và tự do tôn giáo thì e rằng ít nhất người ta cũng cho là
chúng ta thiếu " savoir faire " về chính trị. Phơlôrăngxơ ko phải là
1 thành phố mở xưởng kiếm lời như Luân Đôn , mà cũng ko phải là ổ xa hoa đàng
điếm như Pari . Nó là thành phố có lịch sử vĩ đại...
Bà Bôla
mỉm cười , ngắt lời :
- Thì
thành phố Aten cũng thế. Nhưng thành phố này " đã trở thành quá lớn và trở
thành quá lười nhác mất rồi , cần phải có 1 con ruồi trâu nó đốt cho thì mới
thức tỉnh được họ "....
Bác sĩ
Ricácđô đập tay xuống bàn :
- Ruồi
trâu ! Thế mà chúng ta quên khuấy đi mất ! Đó chính là người chúng ta đang cần!
- Là ai
thế ?
- Ruồi
trâu - Phêlitrê Rivarét. Các vị ko nhớ ư ? Ông ta thuộc nhóm Muratôri. Ba năm
trước , nhóm ấy đã từng tràn từ tren núi xuống đây.
- Ông
biết nhóm ấy ư ? Phải rồi , tôi còn nhớ là ông đã tiễn họ đi Pari!
- Phải,
tôi cùng Rivarét đến Livóocnô , rồi ở đó tôi tiễn ông ta đi Mácxây. Ông ta ko
muốn ở lại Tôxcan . Ông ta nói rằng khời nghĩa thất bại rồi thì chỉ còn biết
cười nữa mà thôi, vì vậy tốt nhất là đi Pari. Chắc ông ta cũng đồng ý với ông
Gơrátxini rằng Tôxcan ko fải là chỗ để cười. Nhưng nếu chúng ta mời Rivarét và
nếu ông ta biết được hiện đã có điều kiện hoạt động ở Ý thì chắc ông ta sẽ trở
về. Điều đó tôi có thể tin chắc.
- Ông
vừa nói tên là gì nhỉ ?
-
Ri-va-rét. Hình như người Bơ-rê-din thì phải. Nói chung là đã từng sống ở
Bơ-rê-din. Có lẽ tôi chưa thấy người nào sắc sảo như thế. Lúc bấy giờ ở
Li-voóc-nô chúng tôi buồn lắm ! Cứ nghĩ đến Lam-béc-ti-ni đã hy sinh, cũng đủ
đau lòng rồi !...Nhưng mỗi khi Ri-va-rét bước vào phòng thì không ai nhin được
cười ! Dường như lúc nào ông ta cũng có thể kể mãi được những câu chuyện dí dỏm
! Tôi nhớ nhất là trên mặt ông ta có một vết dao chém rất đáng sợ. Ông ta là
người rất kỳ quặc... Nhưng tôi tin rằng những câu chuyện khôi hài của ông ta đã
giúp rất nhiều người đau thương lúc đó khỏi tuyệt vọng.
- Có
phải ông ta đã viết những bài tiểu luận chính trị trong các báo Pháp ký tên là
Le taon ( Le taon : ruồi trâu ) không ?
- Phải,
phần lớn những bài báo ngắn và những bài tiểu luận châm biếm. Những kẻ buôn lậu
vùng A-pe-nanh gọi ông ta là Ruồi trâu vì miệng lưỡi ông ta cay độc lắm. Và từ
đó ông ta lấy cái tên ấy làm biệt hiệu.
Vẫn với
giọng trang trọng và chậm rãi, Gơ-rát-xi-ni tham gia bàn luận :
- Tôi
cũng có biết qua người ấy. Nhưng tôi không thể nói rằng mọi điều tôi nghe thấy
về Ri-va-rét đều là những lời khen ngợi cả. Tất nhiên Ri-va-rét có một trí sắc
sảo hấp dẫn bề ngoài nào đó, nhưng tôi có cảm tưởng rằng người ta đã thổi phồng
tài cán của ông ta. Rất có thể ông ta không thiếu dũng cảm. Nhưng thanh danh
ông ta ở Pa-ri và Viên chưa phải đã là tòan vẹn. Có lẽ ông ta có một cuộc đời
đầy phong ba chìm nổi nhưng người ta không hiểu thân thế ông ta ra sao cả. Nghe
nói hình như đội thám hiểm Đuy-pơ-rê đã thương hại và thâu nạp ông ta vào đội ở
đâu vùng xích đạo Nam Mỹ hoang vu. Lúc ấy ông ta thật là thân tàn ma dại. Theo
chỗ tôi biết thì ông ta chưa bao giờ giải thích được rõ rằng tại sao ông ta lưu
lạc đến bước ấy. Còn về vụ A-pe-nanh, thì có lẽ không còn ai là người không
biết rằng có đủ mọi hạng người phức tạp tham gia cuộc khởi nghĩa thất bại đó.
Mọi người đều biết, những kẻ bị xử tử ở Bô-lô-nhơ đều là những kẻ bất lương.
chính cống cả. Còn những kẻ đang bỏ trốn thì phẩm chất của nhiều tên trong bọn
đó có lẽ cũng chẳng cần nói tới làm gì. Dĩ nhiên, vẫn có vài người thật là có
phẩm chất cao quý...
Ri-các-đô
ngắt lời Grat-xi-ni, giọng đã có vẻ bực dọc :
- Và
những người ấy lại rất thân với nhiều người có mặt tại đây nữa ! Ông Grat-xi-ni
ạ, phân biệt tỉ mỉ không vơ đũa cả nắm là những đức tính rất đáng khen, nhưng
ông không nên quên rằng những kẻ "kẻ bất lương chính cống" ấy đã hy
sinh vì những lý tưởng của mình, thế cũng đủ hơn những cái mà ông hoặc tôi chưa
làm được.
Ga-li
chêm vào :
- Lần
sau hễ có kẻ nào đem những chuyện nhảm nhí ở Pa-ri kể lại với ông thì xin ông
nói hộ tôi rằng họ hiểu lầm rất nhiều về đội thám hiểm Đuy-pơ-rê. Tôi có quen
người phụ tá của Đuy-pơ-rê tên gọi là Mác-ten. Ông ta kể cho tôi nghe tình đầu,
bảo rằng đội thám hiểm đã gặp Ri-va-rét lưu lạc ở nơi nói trên, điều đó đúng.
Ri-va-rét đã chiến đấu cho nước cộng hòa Ác-giăng-tin, bị bắt làm tù binh nhưng
đã trốn thoát. Sau ông ta cải trang, bôn ba khắp nơi và tìm mọi cách trở về
Buênôt Airét. Còn chuyện đội thám hiểm thấy thương hại mà mộ ông vào đội chỉ là
một điều hoàn toàn bịa đặt. Thực ra lúc ấy người thông ngôn của đội thám hiểm
bị ốm phải trở về nước; những người Pháp thì không hiểu được tiếng địa phương
nên họ đề nghị Ri-va-rét giúp làm thông ngôn. Ông ta theo đội thám hiểm đi điều
tra các nhánh sông Amadôn suốt ba năm trời. Theo lời Mac-ten, nếu lúc ấy không
có Ri-va-rét thì họ không sao hoàn thành được cuộc thám hiểm.
Pha-bơ-ri-xi
cũng pha lửng :
- Mặc dù
ông ta là người thế nào nhưng đến những nhà thám hiểm từng trải như Mac-ten và
Đuy-pơ-rê cũng phải cảm phục thì con người ấy chắc hẳn phải có cái gì xuất sắc.
Bà nghĩ thế nào thưa bà ?
- Tôi
không biết tí gì về ông ta cả. Khi họ chạy trốn qua Tôs-can thì tôi càng đang ở
bên Anh. Nhưng nếu những người bôn ba khắp nơi với Ri-va-rét suốt ba năm trời
và cả những đồng chí đã tham gia khởi nghĩa cũng đều nhận thấy ông ta tốt thì
tôi thiết tưởng thế là đủ, cần gì phải đếm xỉa tới những xó chợ đầu đường.
Ri-cac-đô
nói :
- Về ý
kiến các đồng chí của ông ta thì chẳng phải bàn nữa. Từ Mu-ra-tô-ri đến
Dăm-béc-ca-ri cho chí những dân miền núi thô lỗ nhất, ai ai cũng hết lòng kính
phục ông ta. Ngoài ra ông ta còn là bạn thân của Ooc-xi-ni ( Ooc-xi-ni
Phê-li-trê (1819-1858)- Một nhà hoạt động của phong trào giải phóng dân tộc ở
Ý, sau khi ám sát hụt vua Napôlêông III của Pháp thì bị xử tử tại Pari ). Mặt
khác, cũng đúng là ở Pari người ta bàn tán nhảm nhí đủ điều về ông ta, những kẻ
nào thù hằn cá nhân thì sao viết được văn châm biếm về chính trị.
Lê-ga
nói :
- Tôi không
nhớ rõ lắm, nhưng hình như khi những người lánh nạn chính trị chạy qua đây đã
có lần thấy ông ta. Có lẽ ông ta hơi gù, hơi khập khiễng hoặc là có một tật gì
đó.
Nhà giáo
sư liền rút ô kéo bàn viết lấy ra một tập giấy, lật hết tờ nọ đến tờ kia rồi nói
:
- Hình
như tôi có giữ một tờ cáo thị truy nã của sở cảnh sát tả nhận dạng ông ta. Chắc
các ông còn nhớ là khi họ chạy trốn lên núi thì đâu đâu cũng dán đầy cáo thị tả
nhận dạng họ. Còn lão giáo chủ...tên thằng cha khốn nạn ấy là gì nhỉ ?...À, lão
Spi-lô-na ! ( Spi-lô-na - Hồng y giáo chủ, một trong những tay chân đắc lực của
giáo hoàng đàn áp rất dã man những người tham gia các cuộc khởi nghĩa 1830-1840
) Chính lão đã treo giải thưởng lấy đầu nghĩa quân. Về việc này, người ta kể
một câu chuyện rất lý thú về Ri-va-rét. Chuyện kể rằng Ri-va-rét mặc một bộ đồ
lính cũ đi lang thang khắp nơi, vờ như làm một kỵ binh bị thương đi tìm đồng
đội. Đang đi thì đụng ngay phải một đội lính mà Spi-nô-la phái đi lùng bắt ông.
Ông ta ngồi suốt ngày với bọn lính trên một chiếc xe, kể cho chúng nghe những
chuyện khiếp vía, nào là bọn phiến loạn bắt ông làm tù binh, nào là chúng đưa
ông lên sào huyệt ở trên núi và tra tấn ông ghê gớm. Bọn lính có thị tả nhân
dạng cho ông xem, thế mà ông cứ điềm nhiên kể cho chúng nghe đủ mọi thứ chuyện
hoang đường về tên quỷ sứ ruồi trâu mãi. Đến đêm, khi bọn lính đi ngủ cả rồi,
Ri-va-rét đổ một thùng nước lớn vào túi thuốc đạn của chúng, nhét đầy lương
thực và đạn vào túi mình rồi tẩu thoát...À, tờ cáo thị ấy đây rồi !
Pha-bơ-ri-xi ngừng chuyện - " Phê-li-trê Ri-va-rét, biệt hiệu Ruồi trâu.
Tuổi gần ba mươi. Nguyên quán và gia đình : Không rõ, nhưng có thể là ở Nam Mỹ.
Nghề nghiệp : Làm báo. Người thấp. Tóc đen, râu đen, da ngăm ngăm, mắt xanh.
Trán cao và vuông. Mũi, mồm, cằm.." À còn nữa : " Đặc điểm chân phải
đi khập khiễng, cánh tay trái khòng khoèo, bàn tay trái mất hai ngón. Có vết
dao chém trên mặt. Nói lắp". Chỗ này có chú thích thêm : Bắn rất giỏi -
khi bắt phải coi chừng".
- Kể
cũng thật lạ lùng ! Nhân dạng tả kỹ như thế mà làm sao ông ta vẫn bịp được cả
một đội lính ?
- Dĩ
nhiên ông ta phải là người gan dạ phi thường nên mới thoát được. Chỉ cần bọn
chúng tình nghi một chút là chết ngay. Sở dĩ ông ta thoát được mọi hiểm nghèo
là vì ông ta làm ra vẻ ngời nghệch hết sức khéo...Thưa các vị, vậy các vị nghĩ
sao ? Té ra nhiều người chúng ta biết rõ Ri-va-rét cả nhỉ ? Thế thì ta viết thư
mời ông ta đến giúp chứ ?
Pha-bơ-ri-xi
nói :
- Tôi
nghĩ trước hết cũng vẫn nên cho ông ta biết kế hoạch của chúng ta và thăm dò
xem ông ta có tán thành không.
- Còn
phải xem điều gì nữa, cứ nói đến vấn đề đấu tranh chống phái Giê-dúyt là
Ri-va-rét tán thành ngay. Tôi chưa thấy người nào chống phá giáo hội kịch liệt
như vậy. Về phương diện ấy ông ta thật hăng máu.
- Vậy
ông Ri-cac-đô viết thư nhé ?
- Được,
tôi sẽ viết. Nhưng để tôi nhớ xem bây giờ ông ta ở đâu đã. Hình như ở Thụy sĩ
thì phải. Thật là một con người ham hoạt động : suốt đời bôn ba đây đó. À, thế
còn vấn đề các bài báo châm biếm...
Cuộc
tranh luận kéo dài và sôi nổi. Khi mọi người sắp sửa giải tán, Mác-ti-ni tiến
lại gần người thiếu phụ trầm mặc đó.
-
Giê-ma, tôi đưa Giê-ma về nhé.
- Cám ơn
Mac-ti-ni. Tôi cũng có việc muốn bàn với anh.
Mác-ti-ni
khẽ hỏi :
- Vấn đề
địa chỉ lại có gì lôi thôi phải không ?
- Không
có gì nghiêm trọng lắm. Nhưng tôi thấy đã đến lúc cần thay đổi đi đôi chút.
Tuần này bưu điện có giữ lại hai bức thư. Cả hai đều không có gì cả, và có lẽ
ngẫu nhiên họ giữ lại thôi. Nhưng không thể mạo hiểm được. Nếu cảnh sát tình
nghi một trong những địa chỉ của chúng ta là lập tức phải đổi ngay tất cả mọi
địa chỉ khác.
- Sáng
mai tôi sẽ đến chỗ Giê-ma. Bây giờ không nên bàn việc nữa. Trông Giê-ma có vẻ
mệt mỏi rồi.
- Tôi
không mệt đâu.
- Thế
chắc lại lo nghĩ gì rồi ?
- Ồ,
không có gì đâu.
RUỒI
TRÂU
Chương 9
- Kê-ti,
bà Bô-la có nhà không ?
- Dạ
thưa ông có, bà con đang mặc áo, mời ông vào phòng khách, bà con xuống bây giờ.
Kê-ti
đón khách với thái độ thân tình niềm nở đặt biệt của các cô gái vùng Đi-vô-sơ.
Mac-ti-ni là một trong những người được Kê-ti đặc biệt quý mến. Mác-ti-ni nói
tiếng Anh lẽ dĩ nhiên là như người ở nước ngoài nói tiếng Anh, nhưng nói rất
giỏi - khác với mọi người khách, ông không bao giờ ngồi tới một giờ đêm, bàn
chính trị oang oang, chẳng kể gì đến sự mệt nhọc của bà chủ. Hơn thế nữa, trong
khi bà Bô-la đương gặp lúc đau khổ nhất là con chết, chồng hấp hối thì
Mac-ti-ni đã tới Đi-vôn-sơ để giúp đỡ bà . Từ đó trở đi con người cao lớn, vụng
về và ít nói đó đối với Kê-ti đã trở thành "người nhà" giống như con
Pát - con mèo đen lười biếng đang nằm phục trên lòng ông ta. Còn con Pát thì
cũng xem Mac-ti-ni như một thứ đồ đạc gì đó rất có ích trong nhà này. Ông khách
này không bao giờ dẫm vào đuôi nó, không thở khói thuốc vào mắt nó và nói chung
là một giống vật đi hai chân rất dễ dãi. Ông cư xử đúng như một con người : ông
cho phép nó tự do nằm rù rù trên lòng ông; khi ngồi vào bàn ăn, ông luôn nhớ
rằng mèo không chỉ thích ngồi nhìn người ta ăn cá. Tình bạn giữa mèo và ông đã
có từ lâu. Khi Pát còn là mèo con, thì Mac-ti-ni đã chăm sóc nó, bỏ nó vào giỏ
mang từ Anh sang Ý vì lúc đó bà chủ đang ốm không thể chăm nom nó được. Và từ
đó trở đi, Pát đã có nhiều dịp để thấy rằng con gấu người vụng về ấy là một
người bạn chí tình của nó.
Giê-ma
bước vào phòng vừa nói :
- Cả mèo
lẫn người cùng ngồi ấm cúng gớm nhỉ ! Dễ thường định ngồi như thế suốt buổi
chiều đấy chắc ?
Mac-ti-ni
nâng niu mèo ra khỏi lòng. Ông nói :
- Tôi
đến sớm xin một cốc nước trà trước khi lên đường. Chỗ Grát-xi-ni hôm nay chắc
đông người và ăn kém lắm. Những nhà kiểu cách như thế thường cho ăn uống chẳng
ra làm sao.
Giê-ma
bật phì cười :
- Úi chà
! Miệng anh cũng ác chẳng kém gì Ga-li. Rõ khổ, bao nhiêu tội vạ đổ lên đầu
Grát-xi-ni chưa đủ hay sao mà còn bắt ông ta chịu tội thay cho bà vợ kém đảm
đang nữa ! Trà có ngay bây giờ. Kê-ti đặc biệt làm cho anh một ít bánh ga-tô
Đi-vôn-so đấy.
- Cô
Kê-ti hẳn là tốt rồi, phải không Pát nhỉ ? Với lại, cả Giê-ma cũng tốt nữa,
Giê-ma ạ ! Giê-ma đã mặc chiếc áo đẹp mà tôi thích. Thế mà tôi cứ lo Giê-ma
quên mất đấy !
- Chiều
nực thế này mặc nó hơi nóng, nhưng đã hứa với anh rồi thì phải mặc.
Chả sao
đâu, đến Phê-dô-lê sẽ mát hơn nhiều. Giê-ma mặc thứ vải casơmia trắng ấy đẹp
lắm. Tôi mang mấy bông hoa đến cho hợp với bộ quần áo đấy.
- Thích
quá ! Những bông hồng tuyệt đẹp ! Nhưng để cắm lọ thì tốt hơn. Tôi không thích
cài hoa vào áo đâu.
- Lại mê
tín rồi !
- Không
phải thế đâu. Tôi chỉ sợ mình vô duyên thế này mà cài hoa vào thì chỉ làm cho
hoa buồn uổng công suốt tối nay thôi.
- Tôi
cũng lo tất cả chúng ta đều buồn uổng suốt cả tối nay, và e rằng những câu
chuyện tối nay thế nào cũng sẽ vô duyên không chịu nổi.
- Sao
thế ?
- Một
phần là bởi hễ Grát-xi-ni mó tới đâu là vô duyên tới đấy, vô duyên như bản thân
hắn vậy.
- Chớ
nên ghét bỏ người ta như thế ! Đến thăm người ta lại nói xấu người ta như thế
mà không biết thẹn à !
- Thưa
bà chị, bà chị nói bao giờ cũng đúng. Vậy nói thế này nhé : vô duyên là vì đa
số những người nói chuyện thú vị chiều nay lại không đến được.
- Tại
sao ?
- Người
thì đi vắng, người thì ốm, người thì bận gì đó tôi không rõ nữ. Chắc chỉ còn
hai ba vị sứ thần, vài học giả Đức, mấy vương tước Nga là đám người đủ màu sắc
ta thường thấy. Ngoài ra còn một hai người trong giới văn học và vài văn võ
quan người Pháp. Theo chỗ tôi biết thì chẳng còn ai nữa ngoài một nhà văn châm
biếm mới tới. Có lẽ ông ta sẽ đóng vai trò chính.
- Nhà
văn châm biếm mới à ? Sao ? Ri-va-rét ấy ư ? Nhưng hình như Grat-xi-ni cũng
muốn mọi người gặp vị danh nhân ấy ở nhà mình trước tiên. Chắc Ri-va-rét chưa
ngờ tới Grat-xi-ni đối với ông ta như thế nào. Nhưng rồi cũng đoán ra vì ông ta
cũng tinh lắm.
- Ông ấy
đã đến đây rồi mà tôi không biết nhỉ !
- Mới
đến hôm qua...Trà đây rồi. Không, chị đừng đứng dậy, tôi sẽ tự lấu bình trà
đến.
Mac-ti-ni
cảm thấy không đâu dễ chịu bằng trong phòng khách nhỏ này. Giê-ma đối với anh
rất thân mật, chị hoàn toàn không biết rằng đối với anh, chị có một sức hấp dẫn
rất lớn, chị lại giản dị và chân thành trong tình đồng chí - tất cả những điều
đó chiếu sáng cuộc đời không lấy làm vui vẻ gì của Mac-ti-ni . Mỗi lần
Mac-ti-ni thấy buồn tẻ khác thường thì anh lại đến đây ngồi sau giờ làm việc ,
thường thường là để im lặng nhìn Giê-ma căm cụi khâu vá hoặc chuyện trò. Giê-ma
không hỏi gì Mac-ti-ni , mà cũng không biểu lộ một cảm tình nào qua lời nói cả.
Tuy vậy, mỗi khi giã từ Giê-ma, Mac-ti-ni vẫn thấy mình hăng hái hơn, yên tâm
hơn và cảm thấy, như lời anh nói, "còn có thể sống qua một hai tuần lễ
nữa". Giê-ma có tài an ủi hiếm có, mặc dù chị không biết rằng mình có tài
ấy. Hai năm trước đây, khi các bạn thân của Mac-ti-ni bị phản bội ở Ca-la-bơ-ri
và bị bắn chết như một bầy chó sói, thì lúc ấy chỉ có lòng tin vững mạnh không
gì lay chuyển nổi của Giê-ma mới cứu được Mac-ti-ni thoát khỏi tuyệt vọng.
Những
ngày chủ nhật, thỉnh thoảng Mac-ti-ni lại đến nhà Giê-ma vào buổi sáng để
"bàn việc", nghĩa là, để bàn công tác của Đảng Mat-di-ni mà cả hai
đều là những Đảng viên đắc lực và trung thành. Trong những giờ phút ấy, Giê-ma
biến đổi hẳn, chị trở nên sắc bén, trầm tĩnh, lập luận vững chắc, rất chính xác
và công bằng. Những người chỉ biết Giê-ma qua công tác chính trị đều cho rằng
chị là một nhà cách mạng bí mật dày dặn kinh nghiệm, có kỷ luật, đáng tin cậy,
dũng cảm, là một đảng viên đáng quý về mọi phương diện, nhưng có phần nào ít
hiểu biết về cuộc sống và thiếu cá tính rõ rệt. Ga-li nói : " Chị ta là
một nhà cách mạng bí mật bẩm sinh , đáng giá bằng hàng chục những người như
chúng ta, nhưng ngoài những điều đó chị ta chẳng có gì khác cả ".
Mac-ti-ni rất hiểu Giê-ma. Nhưng đối với nhiều người khác thì con người của chị
vẫn còn rất khó hiểu.
Vừa mở
tủ, Giê-ma vừa ngoái nhìn Mác-ti-ni và hỏi :
- Vậy
nhà Xê-da ạ, có kẹo mạch nha và mứt hộp cho anh đây. Tại sao những người cách
mạng đều thích của ngọt cả thế nhỉ
- Người
khác cũng thích đấy chứ, nhưng vì thể diện nên họ không dám đấy thôi...Còn nhà
châm biếm mới ư ? Đó là một kiểu người mà những người phụ nữ bình thường rất dễ
ưa thích, nhưng chắc Giê-ma thì chẳng ưa đâu. Đó là một con người chuyên sống
về nghề nói những câu châm chọc, bôn tẩu khắp nơi với một vẻ khổ đau và với một
cô vũ nữ ba lê xinh đẹp đi theo sau.
- Có vũ
nữ thật không, hay vì không bằng lòng nên anh lại muốn bắt chước những lời châm
chọc đấy ?
- Lạy
trời phù hộ ! Vũ nữ có thật lắm chứ, và cũng thật xinh đẹp nữa chứ ! Những
người nào thích vẻ đẹp cay độc thì chắc ưa cô ta lắm. Nhưng sở thích của tôi
thì lại khác. Theo lời Ri-cac-đô thì đâu cô ta là người tsi-gan Hungari thì
phải. Ri-va-rét xin được cô ta ra khỏi gánh hát tỉnh nhỏ ở Ga-la-xi. Chàng Ruồi
trâu của chúng ta thật là trơ tráo, đi đâu cũng giới thiệu người vũ nữ ấy như
một bà cô vậy.
- Thì đã
sao. Đưa được cô ấy ra khỏi cảnh sống tối tăm là một cử chỉ rất đẹp của ông ta.
- Nhưng
với chuyện ấy, xã hội người ta quan niệm khác, chứ có như Giê-ma đâu. Chắc trên
đời này ít ai cho rằng làm quen với cô ta là một vinh dự lớn khi biết rõ đó là
tình nhân của ông ta.
- Tại
sao họ biết cô ta là tìn nhân hay không tình nhân ? Có phải ông ta nói thế
không ?
- Còn
nghi ngờ gì nữa, thoáng trông cô ta cũng đủ rõ. Nhưng tôi cứ cho rằng Ri-va-ret
không dám cả gan đưa cô ta đến nhà Grat-xi-ni đâu.
- Mà
cũng chưa chắc họ đã tiếp cô ấy. Bà Grat-xi-ni không phải là người phụ nữ dễ
chịu để cho những chuyện phá giới như thế trong nhà mình đâu. Nhưng tôi muốn
biết Ri-va-ret về tài châm biếm hơn là đời tư của ông ta. Pha-bơ-ri-xi nói đã
nhận được thư của Ri-va-ret và ông ta đã đồng ý tới đây gây phong trào chống
phái Giê-duýt. Ngoài ra tôi không được biết gi hơn. Tuần qua công việc bề bộn
quá....
- Tôi
cũng chẳng biết gì hơn. Về vấn đề tiền nong thì không đến nỗi khó khăn như
trước đây đã tưởng. Hình như ông ta không túng thiếu gì và sẵn sàng làm việc
không lấy tiền.
- Thế có
nghĩa là ông ta có tài sản riêng chứ gì ?
- Chắc
thế. Kể ra thì cũng lạ thật. Chắc Giê-ma còn nhớ tối hôm đó khi họp ở nhà giáo
sư Pha-bơ-ri-xi có người kể chuyện là khi đội thám hiểm Đuy-pơ-rê mời ông ta
vào làm gì thì ông ta tang thương lắm. Nhưng giờ lại nghe nói ông ta có cổ phần
ở vùng mỏ Bơ-rê-din, ngoài ra ông ta lại thành công rất lớn trong nghề đoản văn
ở Pa-ri, Viên và Luân đôn. Hình như ông ta thông thạo tới năm sáu thứ tiếng.
Cho nên, mặc dù ở đây, ông ta vẫn có thể tiếp tục liên lạc được với báo chí
nước ngoài như thường. Chửi bới bọn Giê-duýt cũng chẳng mất hết thời giờ của
ông ta.
- Đúng
đấy...nhưng đến giờ đi rồi, Xê-da ạ. Tôi cài mấy bông hồng đã nhé. Anh chờ tôi
một lát.
Giê-ma
lên gác và phút chốc trở xuống, mấy bông hồng cài trước ngực, đầu quấn một
chiếc khăn thêu đen dài kiểu Tây Ban Nha. Mác-ti-ni nhìn chị với con mắt hoạ sĩ
và nói :- Giê-ma thật là một bà chúa, Giê-ma ạ, bà chúa Siba vĩ đại và sáng
suốt .
Giê-ma
cười , chối nguyây nguẩy :
- Sao
lại nói năng tệ bạc thế, nhất là anh biết rằng tôi đã tốn bao nhiêu công phu
mới làm được ra vẻ một bà lịch thiệp đấy chứ. Làm cách mạng bí mật mà giống như
bà chúa Siba thì hoạt động sao được. Chỉ tổ cho mật thám chú ý mà thôi !
- Giê-ma
làm thế nào cũng chẳng thể giống mấy mụ quen thói xã giao ăn không ngồi rồi
được đâu. Nhưng không can chi. Giê-ma rất đẹp nên mật thám trông thấy cũng
chẳng ngờ tới chính kiến của Giê-ma cho dù Giê-ma không biết bắt chước bà
Grat-xi-ni đi đâu cũng lấy quạt che miệng cười khúc khích đi nữa.
- Thôi,
Xê-da, anh đừng làm tội người đàn bà đáng thương ấy nữa. Để miệng lưỡi ấy mà
nếm kẹo mạch nha cho dịu bớt độc ác đi...Xong chưa ? Nào, giờ ta đi thôi.
Mác-ti-ni
đoán rất đúng. Buổi gặp mặt tối hôm ấy vừa đông lại vừa vô duyên. Mấy nhà văn
tán hươu tán vượn một cách rất khách sáo, xem chừng rất ngán ngẩm. Còn đám
người du lich và vương tước Nga đủ màu sắc thì hết mò hết phòng nọ sang phòng
kia gặp ai cũng hỏi thăm các danh nhân để cố nói cho được những câu chuyện văn
hoa.
Grat-xi-ni
tiếp khách với một thứ lễ độ cũng trơn bóng như đôi giày của ông ta vậy. Nhưng
khi trông thấy Giê-ma thì bộ mặt lạnh lùng của ông ta sáng hẳn lên. Thật ra
Grat-xi-ni không ưa gì Giê-ma và trong thâm tâm còn có phần e sợ nàng nữa là
khác. Nhưng ông ta hiểu rằng nếu không có người thiếu phụ ấy thì phòng khách
của ông sẽ mất sức hấp dẫn đi nhiều lắm. Grat-xi-ni làm ăn phát tài, phất rất
nhanh trong nghề nên bây giờ đâm ra giàu có và nổi danh. Ông định biến nhà
riêng thành nơi trung tâm của giới trí thức tự do. Nhiều lần ông cay đắng thừa
nhận rằng người vợ mà ông trót lấy thời trẻ chỉ là một người đàn bà thấp bé
diêm dúa và vô vị, ăn nói vô duyên mà sắc đẹp đã phai tàn, không thể làm chủ
một phòng khách văn học lớn như thế. Khi được tin Giê-ma đến ông rất yên tâm
tin rằng buổi gặp mặt sẽ thành công rực rỡ. Những cử chỉ khoan thai và thanh tú
của người thiếu phụ ấy đem đến cho mọi người cảm giác nhẹ nhàng thoải mái và
chỉ riêng sự có mặt của nàng cũng xua tan được bầu không khí dung tục mà theo
ông tưởng tượng vẫn lẩn quất trong căn nhà này.
Bà
Grat-xi-ni đón tiếp Giê-ma rất thân tình :
- Trông
bà hôm nay xinh quá !
Bà vừa
bô bô nói thầm với Giê-ma như thế vừa nhìn bộ áo bằng vải casơmia của chị với
con mắt xoi mói ghen tị.
Bà
Grat-xi-ni ghét cay ghét đắng Giê-ma chính là ở những nét Mac-ti-ni lại yêu mến
: từ tính điềm đạm, thẳng thắn cho đến tâm trí lành mạnh và cả nét mặt của chị
nữa. Nhưng khi bà Grat-xi-ni căm ghét một phụ nữ thì thái độ của bà ta lại tỏ
ra quá mức niềm nở. Giê-ma thừa hiểu giá trị những lời khen sởi lởi ấy và không
vì thế mà bận tâm. Đối với chị, việc đi vào xã hội như thế là một nhiệm vụ nhọc
nhằn, không lấy gì làm thích thú, mà người cách mạnng bí mật phải làm tròn một
cách có ý thức để tránh sự chú ý của mật thám. Chị cho công tác đó mệt óc không
kém gì công tác mật mã và biết rằng muốn khỏi bị tình nghi thì điều đó có giá
trị thực tế là phải làm cho mình nổi tiếng như một người đàn bà khéo ăn mặc. Vì
thế chị đã phải nghiên cứu các báo quảng cáo mốt ăn mặc tỉ mỉ không khác gì
việc nghiên cứu cách đọc mật mã cả.
Nghe tin
Giê-ma tới, mặt các danh sĩ đang tẻ ngán bỗng sáng sủa hẳn lên vì Giê-ma vốn
rất nổi danh trong giới này. Các nhà báo cấp tiến xô cả lại phía chị. Nhưng Giê-ma
là nhà hoạt động bí mật kinh nghiệm có thừa nên chị không chịu để cho mình bị
họ độc chiếm. Phe cấp tiến thì ngày nào mà chẳng gặp được họ ! Vì thế chị nhẹ
nhàng bảo họ nên đi làm nhiệm vụ trước mắt của họ, mỉm cười nhắc họ không nên
uổng phí thời gian đi tuyên truyền giác ngộ cho chị mà nên đi nói chuyện với
biết bao khách du lịch tới thăm. Còn chị thì tìm đến nói chuyện với một nghị sĩ
nước Anh vì sự đồng tình của ông này là rất cần thiết cho đảng Cộng hoà. Biết
ông ta chuyên về vấn đề tài chính , nên đầu tiên Giê-ma hỏi ý kiến ông ta về
một vần đề chuyên môn có liên quan đến tiền tệ nước Áo, rồi sau đó khéo léo lái
câu chuyện sang vấn đề ngân sách của vùng Lôm-bac-đi và vùng Vơ-ni-dơ. Nhà nghị
sĩ nước Anh vốn chờ đợi một câu chuyện xã giao thông thường và tẻ ngắt nhìn
Giê-ma một cách lo ngại, dáng chừng sợ mắc phải cạm bẫy của một nhà văn kiêu
kỳ. Nhưng sau khi bắt chuyện với người thiếu phụ ấy, ông ta thấy hứng thú chẳng
kém gì ngắm chị nên đành chịu hàng phục hoàn toàn và bàn bạc rất sâu về tình hình
tài chính nước Ý, chẳng khác gì người đang tiếp chuyện ông chính là Met-te-nich
vậy và khi - Tôi cũng chẳng biết gì hơn. Về vấn đề tiền nong thì không đến nỗi
khó khăn như trước đây đã tưởng. Hình như ông ta không túng thiếu gì và sẵn
sàng làm việc không lấy tiền.
- Thế có
nghĩa là ông ta có tài sản riêng chứ gì ?
- Chắc
thế. Kể ra thì cũng lạ thật. Chắc Giê-ma còn nhớ tối hôm đó khi họp ở nhà giáo
sư Pha-bơ-ri-xi có người kể chuyện là khi đội thám hiểm Đuy-pơ-rê mời ông ta
vào làm gì thì ông ta tang thương lắm. Nhưng giờ lại nghe nói ông ta có cổ phần
ở vùng mỏ Bơ-rê-din, ngoài ra ông ta lại thành công rất lớn trong nghề đoản văn
ở Pa-ri, Viên và Luân đôn. Hình như ông ta thông thạo tới năm sáu thứ tiếng.
Cho nên, mặc dù ở đây, ông ta vẫn có thể tiếp tục liên lạc được với báo chí
nước ngoài như thường. Chửi bới bọn Giê-duýt cũng chẳng mất hết thời giờ của
ông ta.
- Đúng
đấy...nhưng đến giờ đi rồi, Xê-da ạ. Tôi cài mấy bông hồng đã nhé. Anh chờ tôi
một lát.
Giê-ma
lên gác và phút chốc trở xuống, mấy bông hồng cài trước ngực, đầu quấn một
chiếc khăn thêu đen dài kiểu Tây Ban Nha. Mác-ti-ni nhìn chị với con mắt hoạ sĩ
và nói :- Giê-ma thật là một bà chúa, Giê-ma ạ, bà chúa Siba vĩ đại và sáng
suốt .
Giê-ma
cười , chối nguyây nguẩy :
- Sao
lại nói năng tệ bạc thế, nhất là anh biết rằng tôi đã tốn bao nhiêu công phu
mới làm được ra vẻ một bà lịch thiệp đấy chứ. Làm cách mạng bí mật mà giống như
bà chúa Siba thì hoạt động sao được. Chỉ tổ cho mật thám chú ý mà thôi !
- Giê-ma
làm thế nào cũng chẳng thể giống mấy mụ quen thói xã giao ăn không ngồi rồi
được đâu. Nhưng không can chi. Giê-ma rất đẹp nên mật thám trông thấy cũng
chẳng ngờ tới chính kiến của Giê-ma cho dù Giê-ma không biết bắt chước bà
Grat-xi-ni đi đâu cũng lấy quạt che miệng cười khúc khích đi nữa.
- Thôi,
Xê-da, anh đừng làm tội người đàn bà đáng thương ấy nữa. Để miệng lưỡi ấy mà
nếm kẹo mạch nha cho dịu bớt độc ác đi...Xong chưa ? Nào, giờ ta đi thôi.
Mác-ti-ni
đoán rất đúng. Buổi gặp mặt tối hôm ấy vừa đông lại vừa vô duyên. Mấy nhà văn
tán hươu tán vượn một cách rất khách sáo, xem chừng rất ngán ngẩm. Còn đám
người du lich và vương tước Nga đủ màu sắc thì hết mò hết phòng nọ sang phòng
kia gặp ai cũng hỏi thăm các danh nhân để cố nói cho được những câu chuyện văn
hoa.
Grat-xi-ni
tiếp khách với một thứ lễ độ cũng trơn bóng như đôi giày của ông ta vậy. Nhưng
khi trông thấy Giê-ma thì bộ mặt lạnh lùng của ông ta sáng hẳn lên. Thật ra
Grat-xi-ni không ưa gì Giê-ma và trong thâm tâm còn có phần e sợ nàng nữa là
khác. Nhưng ông ta hiểu rằng nếu không có người thiếu phụ ấy thì phòng khách
của ông sẽ mất sức hấp dẫn đi nhiều lắm. Grat-xi-ni làm ăn phát tài, phất rất
nhanh trong nghề nên bây giờ đâm ra giàu có và nổi danh. Ông định biến nhà
riêng thành nơi trung tâm của giới trí thức tự do. Nhiều lần ông cay đắng thừa
nhận rằng người vợ mà ông trót lấy thời trẻ chỉ là một người đàn bà thấp bé
diêm dúa và vô vị, ăn nói vô duyên mà sắc đẹp đã phai tàn, không thể làm chủ
một phòng khách văn học lớn như thế. Khi được tin Giê-ma đến ông rất yên tâm
tin rằng buổi gặp mặt sẽ thành công rực rỡ. Những cử chỉ khoan thai và thanh tú
của người thiếu phụ ấy đem đến cho mọi người cảm giác nhẹ nhàng thoải mái và
chỉ riêng sự có mặt của nàng cũng xua tan được bầu không khí dung tục mà theo
ông tưởng tượng vẫn lẩn quất trong căn nhà này.
Bà
Grat-xi-ni đón tiếp Giê-ma rất thân tình :
- Trông
bà hôm nay xinh quá !
Bà vừa
bô bô nói thầm với Giê-ma như thế vừa nhìn bộ áo bằng vải casơmia của chị với
con mắt xoi mói ghen tị.
Bà
Grat-xi-ni ghét cay ghét đắng Giê-ma chính là ở những nét Mac-ti-ni lại yêu mến
: từ tính điềm đạm, thẳng thắn cho đến tâm trí lành mạnh và cả nét mặt của chị
nữa. Nhưng khi bà Grat-xi-ni căm ghét một phụ nữ thì thái độ của bà ta lại tỏ
ra quá mức niềm nở. Giê-ma thừa hiểu giá trị những lời khen sởi lởi ấy và không
vì thế mà bận tâm. Đối với chị, việc đi vào xã hội như thế là một nhiệm vụ nhọc
nhằn, không lấy gì làm thích thú, mà người cách mạnng bí mật phải làm tròn một
cách có ý thức để tránh sự chú ý của mật thám. Chị cho công tác đó mệt óc không
kém gì công tác mật mã và biết rằng muốn khỏi bị tình nghi thì điều đó có giá
trị thực tế là phải làm cho mình nổi tiếng như một người đàn bà khéo ăn mặc. Vì
thế chị đã phải nghiên cứu các báo quảng cáo mốt ăn mặc tỉ mỉ không khác gì
việc nghiên cứu cách đọc mật mã cả.
Nghe tin
Giê-ma tới, mặt các danh sĩ đang tẻ ngán bỗng sáng sủa hẳn lên vì Giê-ma vốn
rất nổi danh trong giới này. Các nhà báo cấp tiến xô cả lại phía chị. Nhưng
Giê-ma là nhà hoạt động bí mật kinh nghiệm có thừa nên chị không chịu để cho mình
bị họ độc chiếm. Phe cấp tiến thì ngày nào mà chẳng gặp được họ ! Vì thế chị
nhẹ nhàng bảo họ nên đi làm nhiệm vụ trước mắt của họ, mỉm cười nhắc họ không
nên uổng phí thời gian đi tuyên truyền giác ngộ cho chị mà nên đi nói chuyện
với biết bao khách du lịch tới thăm. Còn chị thì tìm đến nói chuyện với một
nghị sĩ nước Anh vì sự đồng tình của ông này là rất cần thiết cho đảng Cộng
hoà. Biết ông ta chuyên về vấn đề tài chính , nên đầu tiên Giê-ma hỏi ý kiến
ông ta về một vần đề chuyên môn có liên quan đến tiền tệ nước Áo, rồi sau đó
khéo léo lái câu chuyện sang vấn đề ngân sách của vùng Lôm-bac-đi và vùng
Vơ-ni-dơ.
Nhà nghị
sĩ người Anh vốn chờ đợi một câu chuyện xã giao thông thường và tẻ ngắt , nhìn
Giê-ma một cách lo ngại, dáng chừng sợ mắc phải cạm bẫy của một nhà văn kiêu
kỳ. Nhưng sau khi bắt chuyện với người thiếu phụ ấy, ông ta thấy hứng thú chẳng
kém gì ngắm chị nên đành chịu hàng phục hoàn toàn và bàn bạc rất sâu về tình
hình tài chính của nước Ý, chẳng khác gì người đang tiếp chuyện với ông là Mét-to-nich
vậy
(Met-tô-nich
(1773-1859 : tể tướng " sắt và máu" nước Áo, người đại diện tiêu biểu
nhất của liên minh phong kiến phản động châu Âu, người Ý rất căm thù vì hắn đã
ra lệnh thi hành một chính sách khủng bố và đàn áp dã man những năm 1815-1848)
Và khi Grat-xi-ni dẫn tới chỗ Giê-ma một người Pháp muốn tìm hiểu thành lập
Đảng nước Ý trẻ thì viên nghị sĩ Anh đứng dậy, với một cảm giác hầu như tin
tưởng rằng người Ý có đủ lý do để bất mãn hơn là ông tưởng trước đây.
Khi buổi
gặp mặt sắp kết thúc, Giê-ma nhẹ nhàng rời phòng khách lẩn ra sân ngoài. Chị
muốn ngồi một mình trong giây lát dưới rặng trà hoa và trúc đào cao lớn.. Không
khí ngột ngạt và dòng người tấp nập làm cho chị nhức đầu, choáng váng.
Ở cuối
sân ngoài là một dãy thùng gỗ trồng cây dừa và cây lưỡi mèo cao. Chung quanh
dãy thùng lại là môjt hàng hoa bách hợp và những cây hoa khác. Tất cả những cái
đó kết thành một tấm bình phong dày đặc. Sau tấm bình phong ấy là một khoảng
trống nhìn ra khung cảnh tuyệt vời của vùng thung lũng phủ đầy hoa cuối mùa rủ
xuống lối đi hẹp giữa hai rặng cây.
Giê-ma
len lỏi vào trong góc ấy để cho chẳng ai tìm được mình nữa. Chị muốn nghỉ ngơi
yên tĩnh một mình để đỡ nhức đầu. Đêm ấy rất ấm áp, tĩnh mịch và dịu đẹp nhưng
Giê-ma vừa ở trong phòng tiếp khách ra nên chị cảm thấy trời có vẻ lạnh. Chị
lấy khăn mang theo quấn lên đầu.
Chị đang
thiu thiu chợp mắt thì bỗng tiếng người nói và tiếng chân lại gần làm chị bừng
tỉnh. Chị lui nữa vào bóng tối để khỏi bị người ta trông thấy và để giành thêm
mấy phút yên tĩnh quý giá trước khi trở vào phòng khách với những câu chuyện
làm căng thẳng cân não đã mệt mỏi. Nhưng khốn thay, những bước chân đã dừng lại
ngay cạnh tấm bình phong cây lá. Tiếng nói nhỏ nhẻ thanh thanh đang tuôn ra như
suối của bà Grat-xi-ni chợt im bặt. Tiếp đó là một tiếng người đàn ông nghe êm
ái và du dương; nhưng người đó có thói nói kéo dài nên đôi chút khó nghe. Tại
sao lại nói kéo dài thế ? Phải chăng đó là vì kiểu cách hoặc là vì phải cố gắng
thường xuyên để che giấu một tật gì trong giọng nói ? Nhưng dù sao người nghe
vẫn có một cảm giác rất khó chịu
Tiếng
nói đó hỏi :
- Người
Anh à ? Nhưng tên bà ấy lại là tên Ý. Bà nói tên là Bô-la phải không ?
- Phải.
Bà ta là vợ goá của ông Giôvani Bôla đã bất hạnh từ trần đấy mà. Ông còn nhớ
không, ông ta chết ở Anh cách đây khoảng bốn năm. Phải rồi, thế mà tôi cứ quên
: ông sống nay đây mai đó thì làm sao nhớ hết được tên những liệt sĩ mà Tổ quốc
bất hạnh của chúng tôi. Hàng bao nhiêu người ấy chứ.
Bà
Grat-ci-ni thở dài. Hễ cứ nói chuyện với người nước ngoài là bà ấy giở cái
giọng ấy ra. Bà đóng vai một người yêu nước đau buồn vì cảnh ngộ nước Ý. Bà
khéo phối hợp vai trò ấy trong những điệu bộ nữ sinh và với vẻ mặt buồn sịu
theo lối trẻ con của mình.
Tiếng
người đàn ông nhắc lại :
- Chết ở
Anh... Vậy ra ông ta là người lưu vong à ? Tôi có nghe nói tên ấy. Có phải Bôla
đã gia nhập đảng nước Ý trẻ ngay từ năm mới thành lập không ?
- Phải,
Bôla và một trong những người thanh niên bất hạnh khác bị bắt năm 1833. Ông
chắc còn nhớ vụ án bi thảm ấy chứ ? Mấy tháng sau đó Bôla được thả, nhưng rồi
qua hai ba năm lại có lệnh bắt nên ông ta phải bỏ trốn sang Anh. Sau đó có tin
đồn là ông ta kết hôn bên đó. Thật là một câu chuyện lãng mạn hết sức, nhưng
được cái là ông Bôla tội nghiệp của chúng ta lại cũng là một người thích lãng
mạn.
- Bà nói
là rồi sau đó ông ấy chết ở Anh ư ?
- Phải,
chết vì lao. Ông ta chịu không nổi khí hậu nghiệt ngã ở Anh . Khi ông ta sắp
tắt thở thì bà ta lại mất đứa con một . Thằng bé chết vì bệnh đậu. Câu chuyện
kể cũng thật đáng buồn ông nhỉ. Nhưng chúng tôi ai nấy đều quý Giê-ma lắm. Tội
nghiệp cho bà ấy ! Bà ta phải cái hơi cứng rắn như mọi người dân nước Anh vậy.
Mà lại phải chịu bao điều bất hạnh ! Thành thử cứ rầu rĩ và...
Giê-ma
đứng dậy, rẽ cành thạch lựu. Không thể ngôi yên nghe người ta nói chuyện phiếm
mà thóc mách tới những nỗi đau khổ trong đời tư của mình, chị bước ra chỗ sáng,
mặt không giấu nổi vẻ bực tức.
Bà
Grát-xi-ni kêu lên một tiếng giọng thản nhiên như không có việc gì xảy ra :
- Ô kìa,
bà ấy đây rồi ! Bà Giê-ma thân yêu ơi, thế mà tôi cứ lấy làm lạ chẳng biết bà
biến đâu mất. Ông Phi-lê-trê Riva-ret muốn được làm quen với bà đấy.
Giê-ma
nhìn Rivảet với con mắt hiếu kỳ và nghĩ bụng : " À, Ruồi trâu đây rồi
"
Ri-va-ret
lễ phép nghiêng mình, nhưng chăm chú nhìn Giê-ma với đôi mắt mà Giê-ma cảm thấy
sắc sảo, ngạo mạn và như dò hỏi điều gì. Ri-va-ret liếc nhìn tấm bình phong
cảnh lá xanh rờn, nói :
- Vâng,
chỗ tốt lắm. Tôi ra đây để hít thở không khí trong lành.
- Đêm
đẹp thế này mà ngồi trong phòng thì thật phụ lòng nhân từ của chúa ban cho ! -
Bà chủ nhà vừa nói vừa ngước mắt nhìn lên những ngôi sao. (Bà ta có đôi hàng
lông mi đẹp nên thường thích khoe) - Kìa, ông thử nhìn xem, nước Ý thân yêu của
tôi chẳng phải là một thiên đường hay sao ? Ước gì nước tôi được tự do ! Đất
nước có những đoá hoa với những bầu trời đẹp nhường này mà lại là một đất nước
nô lệ !
Ruồi
trâu kéo dài giọng một cách uể oải, khẽ nói :
- Và lại
có những người phụ nữ yêu nước nhường này nữa !
Giêma
giật mình nhìn Ri-va-ret : ăn nói sỗ sàng như vậy ai mà chẳng nhận thấy ! Nhưng
quả là chị còn đánh giá quá thấp tính ưa phỉnh nịnh của bà Grat-xi-ni. Người
đàn bà đáng thương ấy hạ làn mi xuống thở dài :
- Chao
ôi, phụ nữ chúng tôi thật làm được ít việc quá ông ạ ! Nhưng biết đâu một ngày
kia tôi lại chẳng có thể làm cho mọi người thấy rằng tôi có quyền làm một người
phụ nữ Ý...Tuy thế bây giờ tôi hãy trở lại nhiệm vụ của tôi đã . Ông đại sứ
Pháp mới nhờ tôi giới thiệu con gái nuôi của ông ta với các bậc danh tiếng ở
đây. Ông và bà cũng nên gặp cô ta một chút. Thật là một cô gái yêu kiều...Bà
Giêma thân yêu ạ, tôi dẫn ông Ri-va-ret đến đây để ông ta ngắm phong cảnh mĩ lệ
nơi này. Tôi giao ông ấy cho bà nhé. Tôi chắc bà sẽ hết sức giúp đỡ ông ta,
giới thiệu ông ta với mọi người...Kìa vị vương tước đáng mến người Nga đã tới
kia rồi ! Ông và bà đã gặp ông ta chưa ? Nghe nói ông ta là sủng thần của Sa
hoàng Ni-cô-lai đấy. Ông ta chỉ huy đồn binh ở một thành phố Balan, tên là gì
khó gọi chết đi được ấy. Quelle nuit magnifique ! N est ce pas, mon prince ? (Đêm
tuyệt quá, fải không ông hoàng của tôi ?)
Bà ta
nhún nhẩy tiến lại nói chuyện liến thoắng với một người đàn ông cổ to như cổ
bò, cằm bạnh đầy mề đay trên bộ quân phục. Rồi những lời than vãn rằng tổ quốc
bất hạnh chốc chốc lại chen lấn trong những tiếng khen " charmant"
(đáng yêu) và "mon prince" tắt dần ở đằng xa.
Giêma
lặng lẽ đứng dưới cây thạch lựu. Chị cảm thấy khó chịu vì sự sỗ sàng của Ruồi
trâu và thấy thương hại người đàn bà ngu ngốc đáng thương ấy. Ruồi trâu nhìn
theo bà Grat-xi-ni và vị vương tước người Nga với một con mắt làm Giêma rất bực
bội; người ta đáng thương như thế mà nhìn với con mắt nhạo báng như vậy thì
bụng dạ thật hẹp hòi .
Ruồi
trâu quay lại phía chị, mỉm cười nói :
- Đấy bà
xem, đó là lòng yêu nước của người Ý và người Nga đấy. Khoác tay nhau đi hể hả
lắm ! Giữa hai lòng yêu nước ấy bà ưa lối nào hơn ?
Giêma
hơi cau mày, nín lặng .
Ri-va-ret
nói tiếp :
- Tất
nhiên, tuỳ sở thích từng người . Nhưng theo tôi thì tôi thích cái lối yêu nước
của người Nga hơn, vì nó thực sự làm đến nơi đến chốn ! Nếu nước Nga không dựa
vào thuốc súng và đại bác mà dựa vào hoa và bầu trời thì "ông hoàng của
tôi" ngồi yên trong pháo đài Balan được mấy nả !
Giêma
lạnh nhạt nói :
- Ông có
thể phát biểu quan điểm của mình nhưng tại sao lại nhân đó mà chế nhạo bà chủ
nhà như thế !
- Ồ phải
! Ở Ý người ta rất mến khách, thế mà tôi không nhớ ! Người Ý thật là một dân
tộc mến khách tuyệt trần ! Tôi chắc người Áo cũng nhận thấy thế...Mời bà ngồi
nhé !
Ruồi
trâu khập khễnh bước qua sân, mang ghế lại cho Giê-ma ngồi, rồi đứng trước mặt
chị, tì khủyu tay vào lan can. Ánh sáng từ cửa sổ chiếu ra rọi thẳng vào mặt
anh. Bây giờ Giêma mới ngắm nhìn Ruồi trâu được cẩn thận.
Giêma
rất thất vọng. Chị tưởng rằng diện mạo của người ấy, nếu không dễ ưa thì cũng
phải có gì đáng ghi nhớ và gân guốc. Nhưng trái lại điểm nổi bật nhất trong con
người ấy lại là khuynh hướng diện sang và một sự ngạo mạn che giấu nhưng rõ nét
trong tháo độ và cử chỉ. Da ông ta ngăm ngăm và như da người Muy-lat (người lai
do bố da trắng và mẹ da đen sinh ra). Và mặc dù khập khễnh nhưng ông ta vẫn
nhanh nhẹn như một con mèo.
Tòan bộ
dáng điệu của ông làm cho người ta rất dễ liên tưởng đến một con báo đen vùng
châu Phi. Trán và má bên trái sâu hoắm một vết sẹo dài hình móc câu của nhát
gươm chém làm cho bộ mặt méo mó đi một cách đáng sợ. Giêma nhận thấy, cứ mỗi
khi ông ta nói lắp bắp thì đường gân lạo giần giật khắp nửa mặt bên trái . Nếu
không có những khiếm khuyết ấy thì có lẽ ông ta cũng là một con người đẹp đẽ
đấy, nhưng bây giờ thì diện mạo của ông ta chẳng có gì là hấp dẫn cả.
Ruồi
trâu lại cất tiếng, giọng êm ái, nhỏ nhẹ và mơ hồ (Giêma càng thấy bực bội,
nghĩ thầm : " Thật giống như một con báo biết nói và đang nói giữa lúc nó
hiền lành nhất".)
- Tôi có
nghe bà nói rất quan tâm đến báo chí cấp tiến và cũng có bài viết cho các báo
ấy nữa.
- Thỉnh
thoảng tôi có viết. Phải cái tôi ít thì giờ rỗi lắm.
- À,
vâng ! Điều đó tôi có biết : bà Grat-xi-ni nói rằng bà bận nhiều việc quan
trọng khác.
Giêma
ngước mắt nhìn. Chắc cái bà Grat-xi-ni ngờ nghệch ấy lại dại dột ba hoa với con
người không đáng tin cậy này rồi, một người mà hiện nay chị thấy bắt đầu thực
sự không ưa.
Chị trả
lời bằng một giọng khô khan :
- Vâng,
bận thì quả có bận. Nhưng bà Grat-xi-ni đã quá quan trọng hóa công việc tôi
làm. Thực ra những việc ấy phần lớn là những việc rất nhỏ mọn.
- Thưa
bà, nếu tất cả chúng ta chỉ biết có than khóc nước Ý thì thế giới này sẽ thật
nguy hiểm. Tôi thiết tưởng tiếp xúc nhiều với cái xã hội của ông bà chủ nhà này
dễ làm cho người ta trở thành phù phiếm, dù chỉ là phù phiếm để tự vệ. Phải,
phải. Tôi biết ý của bà lắm. Đúng, đúng ! Nhưng lối yêu nước của họ làm cho tôi
không nhịn cười được !...Bà muốn trở về phòng ư ? Về làm gì ?Ở đây dễ chịu thế
kia mà ?
- Không,
tôi phải về. À, chiếc khăn quàng của tôi..Cảm ơn ông.
Rivaret
nhặt chiếc khăn, đứng thẳng dậy, nhìn Giêma với cặp mắt vô tội và xanh biếc như
những đóa hoa lưu ly bên bờ suối.
Anh nói
với giọng hối lỗi :
- Tôi
biết bà giận tôi vì tôi đã cười những con rối sặc sỡ đó. Nhưng làm thế nào mà
không cười cho được ?
- Ông đã
hỏi thì tôi xin thưa : Theo ý tôi, chế nhạo sự tàn tật về tinh thần của người
khác là thiếu độ lượng, thậm chí là hèn nhát, cũng như chế nhạo một người què
quặt hoặc...Rivaret đột nhiên nín thở , vẻ đau đớn hiện lên nét mặt. Anh lùi
bước, đưa mắt nhìn cái chân khập khễnh và cánh tay tàn tật của mình. Nhưng anh
trấn tĩnh ngay được và cười vang :
- Thưa
bà, so sánh như thế thì không được sát lắm: những người què quặt chúng tôi
chẳng hề khoe khoang sự tàn tật của mình như bà chủ nhà vẫn hay khoe khoang sự
ngu ngốc cuả bà ấy ! Vả lại, chúng tôi cũng công nhận rằng bị méo mó về vật
chất cũng khổ sở chẳng kém gì bị méo mó về tinh thần...Đây có bậc thang, bà hãy
vịn vào tay tôi.
Giêma
lặng lẽ bước cạnh Rivaret, sự nhạy cảm đột nhiên của anh đã làm Giêma lúng
túng, ngượng ngiụ. Rivaret vừa mở rộng cánh cửa vào phòng khách lớn, Giêma liền
hiểu ngay rằng một sự gì không bình thường đã xảy ra khi chị không có mặt ở
đây. Các ông thì lộ vẻ vừa bực tức vừa bối rối, còn các bà thì xúm lại bên cửa
ra vào, mặt đỏ gay, tuy cố làm ra vẻ bình thản. Ông chủ chốc chốc lại sửa lại
cặp kính cố giấu vẻ giận dữ, còn nhóm người du lịch lại tò mò nhìn về phía cuối
phòng. Rõ ràng là ở đó đã có việc gì xảy ra làm các nhà du lịch cảm thấy buồn
cười, còn những người khác thì cảm thấy bị lăng nhục. Chỉ có mỗi bà Grat-xi-ni
là hình như không hay biết gì cả. Vừa phe phẩy chiếc quạt , bà vừa tán gẫu với
một viên bí thư sứ quán Hà Lan. Ông này vừa nghe vừa tóet miệng cười.
Giêma
dừng bước giây lát ở ngưỡng cửa. Chị liếc nhìn xem Ruồi trâu có nhận thấy sự
xôn xao trong phòng không. Thấy ông ta đảo mắt nhìn từ phía bà chủ nhà sang
chiếc đi văng ở cuối phòng với một vẻ đắc thắng ác độc, Giêma đoán biết ngay :
ông ta đã đưa tình nhân của mình đến với danh nghĩa giả dối và chỉ đánh lừa
được bà Grat-xi-ni mà thôi.
Cô gái
tsi-gan ngồi ngả lưng vào chiếc đi văng. Chung quanh chị ta là một đám thanh
niên và sĩ quan kị binh. Họ tiếp chuyện chị ta nhưng vẫn không giấu những nụ
cười nhạo báng. Bộ cánh đắt tiền màu vàng đỏ sặc sỡ theo kiểu phương Đông và
những đồ trang sức đeo đầy người nổi bật lên trong cảnh xalông văn học này của
Phơ-lô răng - xơ, chị ta giống như một con chim vùng nhiệt đới lạc vào giữa đàn
chim sẻ vậy. Chắc chị ta cũng cảm thấy mình không hợp với cảnh này nên luôn
luôn cau mày một cách khinh bỉ và dữ dội nhìn vào các bà đang khó chịu vì sự có
mặt của chị. Thấy Ruồi trâu đang cùng với Giêma bước vào phòng, chị đứng bật
dậy, chạy tới và tuôn ra một tràng tiếng Pháp văn phạm sai bét :
-
Rivaret, tôi tìm ông khắp nơi khắp chốn. Bá tước Xan tư cốp hỏi tối mai ông có
đến đằng biệt thự không ? Hình như có khiêu vũ đấy.
- Rất
tiếc rằng tôi không đi được. Hơn nữa, dù có đi được thì tôi lại không thể nhảy
được...Bà Bôla, cho phép tôi giới thiệu với bà đây là Di-ta Rê-ni.
Cô gái
tsigan ném một cái nhìn hầu như muốn khiêu khích Giêma và lạnh nhạt nghiêng
mình. Mac-ti-ni nói rất đúng : cô ta đẹp thật, nhưng trong vẻ đẹp đó có một cái
gì đấy sống sượng , thô lỗ và muông thú. Cô ta có những cử chỉ rất nhịp nhàng
tự nhiên, trông rất vui mắt, nhưng trán thì thấp hẹp, mũi thì nhỏ một cách vô
duyên và trông có vẻ dữ tợn. Sự ngượng ngiụ vừa qua của Giêma khi nói chuyện
với ruồi trâu nay lại càng tăng khi chị đứng trước mặt cô gái tsi gan này; vì
thế khi ông chủ nhà đến mời chị sang phòng bên kia nói chuyện với các nhà du
lịch thì cảm thấy nhẹ nhõm lạ thường.
Đến tận
khuya, Giê-ma và Mac-ti-ni trở về Phơ-lô-răng-xơ, Mác-ti-ni hỏi :
- Sao
chị thấy Ruồi trâu thế nào ? Anh chàng trâng tráo quá ! Ai ngờ anh ta lại đánh
lừa bà Grat-xi-ni đáng thương như thế bao giờ !
- Anh
nói về cô vũ nữ ba lê ấy ư ?
- Còn gì
nữa ! ! Vậy mà anh ta lại còn khoe rằng cô ấy sẽ là ngôi sao của mùa biểu diễn
này đấy ! Còn bà Grat-xi-ni thì thật hết lòng đối với các bậc tài danh.
- Làm
như vậy thật chẳng đẹp mà cũng chẳng tốt tí nào cả. Ông ta đã đưa chủ nhân vào
thế bị hớ, và hơn nữa, lại làm tội cả người con gái ấy. Tôi chắc cô ta cũng
chẳng thoải mái gì.
- Hình
như chị nói chuyện với ông ta thì phải. Cảm tưởng chị thế nào ?
- Xê-da
ạ, không có cảm tưởng gì khác ngoài nỗi vui mừng khi thoát khỏi nói chuyện với
ông ta ! Lần đầu tiên trong đời tôi gặp một người làm cho mình mệt óc một cách
đáng sợ như thế. Mới nói chuyện chừng mươi phút mà đã nhức cả đầu. Ông ta thực
giống quỷ sứ không biết yên tĩnh là gì.
- Tôi
chắc chị cũng không ưa ông ta được. Người đâu mà giảo hoạt, trơn như lươn vậy.
Tôi không tin được con người ấy.
RUỒI
TRÂU
Chương
10
Ruồi
trâu thuê một ngôi nhà ở ngoài cửa La mã, cách nhà Di-ta không xa. Anh ta hẳn
là một người hào hoa. Thật ra căn phòng của anh ta cũng không có gì là quá xa
xỉ nhưng trong mọi chi tiết đều thấy nổi bật lên một khuynh hướng thích lộng
lẫy, môt khiếu thẩm mỹ tế nhị làm cho Ga-li và Ri-cac-đô rất đỗi ngạc nhiên. Họ
tưởng con người đã sống lâu năm ở vùng Amadôn hoang dại ấy chắc sẽ có những sở
thích đơn giản lắm vì thế khi nhìn thấy những chiếc cavat sạch bong và những
giày dép đủ kiểu của Ruồi trâu, trên bàn viết lại luôn luôn cắm nhiều hoa tươi
thì họ càng thêm ngơ ngác. Nói chung, sự tiếp xúc của họ với Ruồi trâu là rất
tốt đẹp. Đối với ai, Ruồi trâu cũng đều tỏ ra niềm nở và thân mật, nhất là đối
với những đảng viên đảng bộ địa phương của đảng Mat-di-ni. Tuy vậy, hình như
Giêma lại bị gạt ra ngoài quy luật đó; từ lần gặp đầu tiên Ruồi trâu đã có vẻ
không ưa chị, cố tránh mặt chị và đã hai ba lần tỏ thái độ cục cằn đối với chị
làm cho Mac-ti-ni hết sức phản đối. Ngay từ lúc đầu Ruồi trâu và Mac-ti-ni đã
không ưa nhau vì tính tình của họ khác hẳn nhau đến mức độ không thông cảm được
với nhau một chút nào. Nhưng ở Mac-ti-ni thì chẳng bao lâu sự không ưa đó biến
thành thù ghét ra mặt.
Một hôm,
Mac-ti-ni cáu kỉnh nói với Giêma :
- Ông ta
không ưa tôi thế nào điều đó tôi không quan tâm lắm. Chính thôi cũng không
thích ông ta, nên chẳng ai mếch lòng cả. Nhưng thái độ của ông ta đối với chị
thì tôi thật không thể chịu được. Tôi đã định cùng ông ta tính món nợ đó, buộc
ông ta phải giải thích việc này nhưng lại sợ thành to chuyện, mang tiếng rằng
tự mình mời người ta rồi lại cãi cọ với người ta.
- Xê-da,
kệ ông ta . Chẳng có gì quan trọng cả đâu. Hơn nữa chính tôi cũng có lỗi không
kém ông ta.
- Chị có
lỗi gì ?
- Tôi có
lỗi ở chỗ làm ông ta không ưa tôi đến thế. Khi tôi gặp ông ta lần đầu tại nhà
Grat-xi-ni tối hôm đó, tôi đã trót nặng lời với ông ta.
- Chị
nặng lời à ! Tôi không tin.
- Chuyện
đó xảy ra cũng là vô tình thôi và lúc đó tôi đã lấy làm hối hận. Lúc đó tôi có
nói rằng chế nhakp người tàn tật là không tốt và ông ta tưởng tôi ám chỉ ông
ta. Thật tôi không hề có ý nghĩ cho ông ta là người tàn tật, ông ta cũng chẳng
đến nỗi đui què mẻ sứt.
- Dĩ
nhiên là không đến nỗi. Chỉ có vai bên nọ cao hơn vai bên kia, tay trái bị tật
nặng thôi chứ còn ông ta không gù mà cũng không què. Ông ta hơi khập khiễng
nhưng điều đó cũng không có gì đáng nói.
- Tôi
còn nhớ lúc ấy ông ta run bắn người và tái mặt đi. Tất nhiên lúc ấy tôi nói một
câu rất hớ, nhưng cũng rất lạ là tại sao ông ta nhạy cảm đến thế. Có lẽ ông ta
đã nhiều lần đau khổ vì những lời nhạo báng độc địa như vậy.
- Nhưng
rất có thể bản thân ông ta cũng đã từng chế nhạo người khác độc ác như vậy. Ông
ta có những cử chỉ lịch thiệp, nhưng bản chất thì lại tàn nhẫn thành thử càng
làm cho tôi hết sức khó chịu.
- Xê-da,
anh nói như thế không hay đâu. Tôi cũng không ưa Rivarét đâu nhưng thổi phồng
khuyết điểm của ông ta để làm gì. Đã đành ông ta có thói kênh kiệu làm cho
người khác bực mình. Điều đó có thể là do được người ta tán tụng quá gây nên.
Và thói châm chọc ấy quả thật hết sức khó chịu. Nhưng tôi vẫn không cho rằng
ông ta không có ý định xấu đâu.
- Tôi
chẳng biết ông ta có ý định gì nhưng một con người cái gì cũng nhạo báng thì
tâm địa cũng chẳng trong sạch gì. Một lần trong cuộc họp ở nhà Pha-bơ-ri-xi tôi
đã chối tai về những lời nhạo báng của ông ta đối với những sự cải cách vừa qua
tại La mã. Cái gì ông ta cũng cố tìm cho ra những động cơ xấu xa, đê tiện.
Giêma
thở dài :
- Tôi e
rằng về điểm này tôi lại đồng ý với Rivaret hơn là đồng ý với anh. Là những
người tốt bụng, đầu óc các anh lúc nào cũng chứa chan những hy vọng và chờ đón
êm đẹp. Lúc nào các anh cũng sẵn sàng cho rằng nếu một vị nào trạc trung tuần
lòng đầy thiện ý mà lên ngôi Giáo hoàng thì mọi việc đều ổn cả, vị đó sẽ mở cửa
nhà tù ban phước lành cho mọi người chung quanh, và độ vài ba tháng sau là thời
đại hoàng kim của chúa Giê-su đến. Hình như các anh không hiểu rằng dù Giáo
hoàng kia có muốn hết sức đi nữa, ông ta cũng không thể lập nên chính nghĩa
trên trần gian này được. Vấn đề là nguyên tắc sai chứ không phải là ở thái độ
của một cá nhân này hay một cá nhân khác.
- Cái gì
là nguyên tắc sai ? Quyền lực của giáo hoàng đối với cuộc sống thế tục của các
tín đồ là nguyên tắc sai à ?
- Đâu
phải chỉ có thế ? Đó chỉ là một phần trong sai lầm chung mà thôi. Chủ yếu là ở
chỗ để cho một người có quyền sinh sát đối với tính mạng con người . Trên cơ sở
sai lầm đó không thể xây dựng được những quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
Mac-ti-ni
giơ hai tay lên. Anh vừa cười vừa nói :
- Thôi,
xin chị tha cho, cái thuyết "đạo đức ngoại trừ" (một thuyết tôn giáo
chủ trương chỉ cần tin vào Phúc âm là đủ, không cần nói gì tới đạo đức luân lý
nữa) ấy tôi không sao kham nổi. Tôi chắc rằng các cụ nhà ta xưa hẳn là những
người theo chủ nghĩa bình đẳng xã hội ( một thuyết của phái cấp tiến trong thời
kỳ cách mạng tư sản Anh ) ở Anh trong thế kỷ 17. Hơn nữa tôi đến đây không phải
để tranh luận, mà để đưa chị xem bản thảo này.
Mac-ti-ni
rút trong túi ra mấy tờ giấy.
- Lại
một bài văn châm biếm mới nữa à ?
- Vâng,
lại một chuyện dại dột nữa mà Rivaret mới đưa ra phiên họp ban chấp hành hôm
qua. Tôi cảm thấy rằng chẳng bao lâu chúng ta sẽ đi tới đến chỗ đánh nhau với
hắn ta mất.
- Chuyện
gì thế ? Xê-da, anh thành kiến với người ta rồi. Rivaret có thể là một người
khó gần nhưng ông ta không dại dột gì đâu.
- Tôi
cũng không hề phủ nhận rằng bài này viết khá, nhưng chị cứ đọc qua thì đủ rõ.
Bài văn
đả kích sự hân hoan rầm rộ do vị Giáo hoàng mới lên ngôi hiện còn tiếp diễn ở
Ý. Cũng như mọi tác phẩm khác của Ruồi trâu, bài này viết bằng giọng văn hằn
thù cay độc. Nhưng mặc dù lối văn của Ruồi trâu làm cho Giêma khó chịu đến thế
nào chăng nữa, tự trong thâm tâm, chị vẫn không thể không nhận rằng sự phê phán
của Ruồi trâu là xác đáng.
Chị đặt
bản thảo lên bàn và nói :
- Tôi
rất đồng ý với anh rằng lời văn bài báo cáo này cay độc một cách đáng ghét.
Nhưng, khốn thay, nội dung lại đều là đúng sự thật cả.
- Giêma
!
- Phải,
đúng như thế đấy. Anh có thể gọi Rivaret một con lươn máu lạnh hay là gì gì đi
nữa tuỳ thích, nhưng sự thật vẫn ở phía ông ta. Cố chứng minh rằng bài văn này
không đánh trúng đích là vô ích, nó đánh rất trúng đích.
- Vậy
chắc ý kiến của chị là nên in bài ấy ?
- Đấy
lại là vấn đề khác. Tôi không cho rằng cứ đem in ngay nguyên văn như thế. Để
thế thì nhất định nó sẽ làm mất lòng người đẩy mọi người xa rời chúng ta chứ
chẳng đem lại lợi ích gì cả. Nhưng nếu Rivaret sửa lại một chút, vứt bỏ những
lời đả kích cá nhân thì bài báo sẽ là một tác phẩm có giá trị thật sự. Còn về
phần phê phán chính trị thì bài văn viết rất hay. Tôi không ngờ Rivaret viết
giỏi đến thế. Ông ta nói đúng những điều cần nói và nói những điều chúng ta
chưa ai dám nói. Chẳng hạn, Rivaret ví nước Ý như một người say rượu khóc lóc
van xin một thằng ăn cắp, để cho hắn tha hồ nắn túi. Chỗ ấy thật là hay tuyệt.
- Giê-ma
! Nhưng chính chỗ ấy lại là chỗ dở nhất trong toàn bài văn ! Tôi không sao chịu
nổi thái độ cắn càn tất cả mọi người và tất cả mọi việc như thế !
- Tôi
cũng vậy. Nhưng vấn đề không phải ở đó. Lối văn của Rivaret rất khó chịu và bản
thân ông ta củng rất khó gần. Nhưng khi Rivaret bảo rằng chúng ta quá say sưa
với những đám rước tôn giáo với những cử chỉ trìu mến với những lời kêu gọi về
tình yêu và hoà giải để cho phái Giê duýt và phái Xan phê đích tha hồ lợi dụng
thì ông ta đã một ngàn lần đúng. Tiếc rằng tôi không dự buổi họp mặt ban chấp
hành hôm qua. Thế cuối cùng các anh quyết định ra sao ?
- Chính
vì thế nên hôm nay tôi đến gặp chị, Ban chấp hành yêu cầu chị đến gặp Rivaret
để thuyết phục ông ta sửa lại lời văn cho nhẹ bớt.
- Tôi
đến ư ? Nhưng tôi gần như hoàn toàn không quen biết gì ông ta. Hơn nữa hiện nay
ông ta lại đang ghét tôi. Tại sao cứ phải tôi đi, người khác đi không được hay
sao ?
- Chỉ vì
hôm nay ai cũng bận cả. Hơn nữa, trong bọn chúng ta chỉ có chị là người ăn nói
có lý lẽ hơn cả : chị biết tránh những lập luận không cần thiết và sẽ không mất
thời giờ cãi vã với ông ta như chúng tôi.
- Tất
nhiên tôi chẳng cãi vã với ông ấy làm gì. Thôi được, nếu các anh muốn thì tôi
sẽ đi. Nhưng tôi nói trước là ít hy vọng lắm đấy !
- Tôi
tin rằng nếu chị cố gắng thì nhất định sẽ trị được ông ta. Và chị nên nói cho
Rivaret biết rằng , đứng về quan điểm văn học, ban chấp hành rất hoan nghênh
bài văn châm biếm của ông ấy. Chắc nói thế ông ta rất thích, mà điều đó cũng
hoàn toàn đúng thôi.
Ruồi
trâu ngồi cạnh bàn viết cắm đầy hoa và cỏ phượng vĩ, lơ đãng nhìn xuống sân.
Trên lòng anh là một bức thư ngỏ. Một con chó thuộc giống chó chăn cừu Scot-len
xù lông nằm cuộn tròn trên thảm, cạnh chân anh. Khi Giêma gõ vào cánh cửa còn
bỏ ngỏ thì nó cất đầu lên sủa. Ruồi trâu vội vã đứng dậy, nghiêng mình chào
khách một cách cứng nhắc và trang trọng. Gương mặt bỗng nhiên sắt lại và phớt
tỉnh như không, anh hết sức lạnh lùng nói :
- Bà rất
có nhã ý. Nếu bà cho biết trước là muốn nói chuyện gì với tôi thì tôi xin lại
nhà ngay.
Ruồi
trâu lại nghiêng mình và đẩy chiếc ghế lại. Thấy Ruồi trâu tỏ ý đuổi mình một
cách tế nhị như thế Giêma liền đi ngay vào câu chuyện :
- Tôi
đến đây theo sự uỷ thác của ban chấp hành. Trong ban chấp hành có những ý kiến
khác nhau về bài văn châm biếm của ông.
- Tôi
cũng nghĩ thế.
Ruồi
trâu mỉm cười ngồi xuống trước mặt Giêma và đẩy lọ hoa cúc lớn trên bàn che cho
ánh sáng khổ chiếu vào mặt
- Phải
nói rằng đứng về quan điểm văn học đa số uỷ viên trong ban chấp hành rất hoan
nghênh bài ấy, nhưng mọi ngưòi đều nhận thấy nếu cứ để nguyên như thế mà in thì
không lợi. Giọng văn quá kịch liệt có thể làm mất lòng và đẩy xa những người mà
lúc nàu sự giúp đỡ và ủng hộ của họ đối với đảng rất quan trọng.
Ruồi
trâu rút một bông cúc ra khỏi lọ, ngắt dần từng cánh hoa trắng. Đôi mắt Giêma
ngẫu nhiên dừng lại trên bàn tay phải nhỏ nhắn của Ruồi trâu đang bứt từng cánh
hoa một. Chị thấy rạo rực. Hình như ngày xưa chị đã nhìn thấy những cử chỉ ấy ở
đâu rồi.
Ruồi
trâu lại nói, giọng khẽ khàng và lạnh lùng :
- Đứng
về mặt văn học thì bài văn của tôi chẳng có giá trị gì. Chỉ những người không
hiểu gì về văn học thì mới hoan nghênh nó về phương diện ấy. Còn nói là làm mất
lòng người thì chính là tôi muốn như thế.
- Điều
đó tôi rất hiểu. Nhưng vấn đề là ở chỗ ông đả kích không trúng những kẻ mà
chúng ta cần đả kích.
Ruồi
trâu nhún vai nhấm nháp cánh hoa vừa bứt khỏi đài .
- Theo
tôi thì bà lầm rồi. Vấn đề là thế này : Ban chấp hành của các ông các bà mời
tôi đến đây làm gì ? Tôi hiểu là để lột mặt nạ và phản kích Giê duýt. Tôi hiện
đang dốc hết khả năng để chấp hành nhiệm vụ đó.
- Tôi có
thể cam đoan với ông rằng không một ai nghi ngờ về tài năng và thiện ý của ông.
Nhưng ban chấp hành e rằng bài văn sẽ làm mất lòng đảng Tự do và làm cho chúng
ta mất sự ủng hộ về tinh thần của công nhân viên chức trong thành phố này. Bài
văn của ông nhằm chống phá Xan phê đích, nhưng nhiều bạn đọc có thể sẽ cho rằng
ông muốn đả kích cả giáo hội lẫn giáo hoàng mới. Điều đó về mặt sách lược thì
ban chấp hành cho là không nên.
- Bây
giờ tôi mới hơi hiểu. Khi tôi công kích các giáo sĩ có quan hệ xấu với đảng thì
người ta cho phép tôi tha hồ nói thẳng thừng. Nhưng khi tôi vừa chạm vào các
giáo sĩ mà ban chấp hành vì nể thì hoá ra là "chân lý giống như một con
chó, nó nhất định phải bị nhốt vào cũi. Nhưng nó có thể bị roi quất đuổi ra
ngoài nếu như Đức thánh cha đứng bên cạnh lửa và..."(lời vai hề trong bi
kịch của Shakespeare " Vua Lia" - King Lear màn 1 cảnh 4). Phải, vai
hề nói thế mà đúng. Nhưng thà làm cái gì còn hơn làm vai hề. Tất nhiên tôi phải
phục tùng quyết định của ban chấp hành, nhưng tôi vẫn cho rằng ban chấp hành
chỉ chú ý đến những tên lính hầu mà bỏ qua vao chủ yếu nhất trong đó là
đức...đức...giám...giám ...mục Mông...Mông-ta-ne-li.
Giê-ma
nhắc lại :
-
Mông-ta-ne-li ư ? Tôi không hiểu ý ông thế nào cả....Ông muốn nói tới giám mục
địa phận Bơ-ri-xi-ghê-la ấy ư ?
- Phải,
vị tân giáo hoàng vừa mới cử ông ta làm Hồng y giáo chủ. Đây là một bức thư nói
về ông ta. Thư của một anh bạn ở vùng bên kia biên giới viết cho tôi. Bà có
muốn nghe không ?
- Biên
giới lãnh địa của giáo hoàng ấy ư ?
- Phải.
Anh ta viết như sau .
Ruồi
trâu với lấy bức thư mà anh cầm trong tay lúc Giêma bước vào nhà và cất tiếng
đọc to, líu cả lưỡi :
- "
Anh....anh sắp...sắp được hân hạnh đương ...đương đầu với một trong những kẻ
thù độc ác nhất của chúng ta là Hồng ...Hồng y giáo chủ Lô...Lô-ren-xô
Mông-ta-ne-li , tức là giám mục địa phận Bờ-ri-xi-ghê-la. Hắn..."
Rivaret
ngừng bặt và im lặng trong giây lát. Rồi anh lại đọc tiếp, rất chậm chạp và hết
sức kéo dài, nhưng không líu giọng nữa :
- "
Hắn định tới kinh lý Tô-scan trong tháng sau với một sứ mệnh đặc biệt quan
trọng là "hoà giải". Trước tiên, hắn sẽ giảng đạo tại Phơ-lô-răng-xơ,
ở đó độ ba tuần rồi đi Xi-ê-na, Phi-dơ, và cuối cùng qua Pi-stôi-a để trở về
Rô-ma-nha. Bề ngoài hắn thuộc phái Tự do trong giáo hội, nhưng hắn ta là bạn
thân của giáo hoàng và Hồng y giáo chủ Phê-rét-ti. Trong thời giáo hoàng
Gơ-rê-goa hắn là kẻ thất sủng nên bị đổi đến một vùng hẻo lánh nào đó tại
A-pe-nanh. Hiện nay Mông-ta-ne-li đột nhiên thăng chức rất mau. Về thực chất,
tất nhiên hắn cũng bị phái Giê duýt giật dây như mọi tên Xan phê đích khác. Sứ
mệnh mà hắn đang chấp hành là do ý kiến của các cha cố Giê duýt xúi giục. Hắn
là một trong những tay truyền giáo xuất sắc nhất của Giáo hội và thủ đoạn cũng
thâm độc không kém gì Lam-bơ-ru-tri-ni. Nhiệm vụ hiện nay của hắn là duy trì
càng lâu càng tốt lòng hân hoan của mọi người đối với giáo hoàng mới, dùng cách
đó để đánh lạc hướng dư luận cho đến khi đại công tước kí tên vào một đạo dụ do
bè lũ tay sai của pháo Giê duýt thảo ra. Tôi chưa tìm được cách gì để dò biết
nội dung của đạo dụ đó". Rồi bức thư viết tiếp : " Hiện nay tôi cũng
chưa rõ Mông-ta-ne-li có biết lý do vì sao hắn được phái đến Tô-scan không hay
hắn chỉ là công cụ trong tay bọn Giê duýt. Hắn có thể là một tên vô cùng giảo
hoạt hoặc là một con lừa ngu xuẩn nhất. Nhưng có một điều hết sức kỳ lạ là theo
chỗ tôi biết thì Mông-ta-ne-li không ăn hối lộ và không có tình nhân. Thật là
một trường hợp hiếm có ! "
Ruồi
trâu đặt bức thư xuống mắt lim dim, ngồi nhìn Giêma đợi xem chị nói gì :
Sau một
lát im lặng, Giêma hỏi :
- Ông
tin chắc rằng người bạn viết thư cho ông nói đúng sự thật chứ ?
- Nói về
đời tư trong sạch của ngài Mông-ta-ne-li ấy ư ? Không, chính anh ta cũng không
tin chắc điều đó. Bà còn nhớ là anh ta đã viết một cách dè dặt " Theo chỗ
tôi biết " chứ ?
Giêma
lạnh lùng ngắt lời :
- Không
phải vấn đề đời tư. Điều tôi muốn biết là vấn đề sứ mệnh của Mông-ta-ne-li .
- Vấn đề
đó thì tôi có thể hoàn toàn tin cậy anh ta. Anh ta là bạn cũ của tôi, một trong
những đồng chí năm 1843. Hiện nay công tác mà anh ta phụ trách có nhiều thuận
lợi đặc biệt cho phép anh ta tìm hiểu những vấn đề đó.
Giê-ma
sực nghĩ " Chắc là một viên quan lại nào ở Va-ti-căng đây", và chị
nói :
- Ông có
nhiều đầu mối liên lạc bí mật như thế ư ? Tôi cũng đã đoán chừng là như vậy.
Ruồi
trâu nói tiếp :
- Tất
nhiên bức thư đó chỉ có tính chất riêng mà thôi. Chắc bà cũng hiểu rằng không
nên cho một người nào biết nội dung của nó ngoài các ủy viên trong ban chấp
hành của bà
- Điều
đó khỏi phải nói. Nhưng chúng ta hãy trở lại vấn đề bài văn. Liệu tôi có thể
nói với các đồng chí trong ban chấp hành rằng ông đã vui lòng sửa đổi đôi chút,
làm cho lời lẽ được dịu nhẹ hơn, hay là...
- Thế bà
không thấy rằng nếu sửa thì không những sẽ có thể làm yếu sức châm biếm đi mà
còn có thể làm mất cả cái đẹp của "tác phẩm văn học" hay sao ?
- Đấy là
ông hỏi ý kiến riêng tôi. Còn tôi đến đây nói chuyện với ông là nhân danh ban
chấp hành.
- Như
vậy có nên kết luận rằng cá...cá nhân bà không đồng ý với ý...ý kiến của ban
chấp hành không ?
Ruồi
trâu nhét bức thư vào túi, hơi cúi mình và nhìn Giê-ma với đôi mắt chăm chú,
khẩn thiết làm cho nét mặt anh bỗng dưng đổi khác.
- Bà cho
rằng...
- Nếu
ông muốn biết ý kiến cá nhân tôi, thì tôi cũng xin vâng : tôi không đồng ý với
số đông về cả hai điểm. Tôi hoàn toàn không hoan nghênh bài văn về quan điểm
văn học, nhưng tôi thấy bài văn ấy chân thực về trình bày sự việc và khôn khéo
về thể hiện sách lược.
- Thế
nghĩa là...
- Tôi
hoàn toàn đồng ý rằng nước Ý đang bị lóa mắt bởi những ánh sáng huyễn hoặc và
tất cả những niềm hân hoan vui sướng hiện nay sẽ dẫn nó tới một vũng lầy ghê
gớm. Tôi sẽ rất sung sướng nếu điều đó được nói ra một cách công khai và mạnh
dạn dù cho như thế có làm mất lòng hoặc đẩy xa một vài bạn hiện đang ủng hộ
chúng ta đi nữa. Nhưng là một thành viên của đoàn thể tôi không thể kiên trì ý
kiến cá nhân của mình trong khi số đông đang có ý kiến đối lập. Và, lẽ dĩ
nhiên, tôi cũng cho rằng nếu đã nói, thì phải nói cho ôn hòa và bình tĩnh chứ
không nên nói như giọng bài văn này.
- Xin bà
chờ một phút cho tôi xem lại bản thảo.
Ruồi
trâu cầm lấy bài văn đọc lướt từ đầu đến cuối, rồi cau mày tỏ vẻ không vừa ý :
- Phải,
thật vậy, bà hoàn toàn đúng. Thật là một bài đoản văn kêu mà rẻ tiền, chứ không
phải là một bài văn châm biếm chính trị. Nhưng làm thế nào được ? Nếu không
viết cho tao nhã thì công chúng sẽ không hiểu được. Nếu không viết cho cay độc
thì bài văn sẽ tẻ ngán.
- Thế
ông không thấy rằng nếu cay độc quá mức thì cũng làm cho bài văn tẻ ngán hay
sao ?
Ruồi
trâu nhìn chị một cách sắc bén và lanh lợi rồi phá lên cười :
- Thưa
bà, có lẽ bà thuộc về một hạng người rất đáng sợ là lúc nào nói cũng đúng.
Nhưng nếu tôi không đứng vững trước sự quyến rũ, không nói cho thâm độc thì có
lẽ tôi cũng sẽ thành một người buồn tẻ như bà Grat-xi-ni mất. Trời ! Nếu số
kiếp đưa mình đến bước ấy thì khổ biết bao nhiêu ! Không, xin bà chớ cau mày !
Tôi biết rằng bà không ưa tôi nên tôi xin trở lại vấn đề. Tình hình hiện nay
như sau : Nếu tôi vứt bỏ mọi chỗ đả kích cá nhân mà giữ nguyên phần chủ yếu của
bài văn thì ban chấp hành sẽ tỏ ý tiếc rằng không thể chịu trách nhiệm in bài
văn được; nhưng nếu tôi hy sinh chân lý chính trị và dốc toàn lực công kích một
vài kẻ cá biệt của đảng, thì ban chấp hành sẽ tâng bốc bài văn lên tận mây
xanh, còn tôi với bà thì sẽ lại thấy rằng bài văn đó không đáng in. Vấn đề thật
hoàn toàn siêu hình. In mà không cần biết tới giá trị hay là giữ nguyên giá trị
mà không in, đằng nào hơn ? Thưa bà Bô-la ?
- Theo
tôi thì vấn đề không nhất thiết phải đặt như vậy. Nếu ông bỏ những đọan nói về
cá nhân thì ban chấp hành sẽ đồng ý in dù sẽ có nhiều người phản đối. Và tôi
tưởng như vậy sẽ rất có ích. Nhưng ông phải làm dịu lời văn đi mới được. Nếu đã
muốn cho người đọc uống một liều thuốc nặng như thế thì ngay lúc đầu không nên
dùng hình thức quyết liệt làm người ta sợ không dám uống.
Ruồi
trâu nhún vai và thở dài khuất phục :
- Thưa
bà, tôi xin phục tùng ý kiến của bà, nhưng phục tùng với một điều kiện. Hiện
nay bà có thể tước quyền cười của tôi, nhưng trong tương lai gần đây phải để
cho tôi sử dụng quyền đó. Khi nào đức ngài Hồng y giáo chủ trong sạch ấy ló mặt
ra ở Phơ-lo-răng-xơ thì cả bà lẫn ban chấp hành không được ngăn tôi, tôi muốn
nói cay độc bao nhiêu thì nói ! Đó là quyền của tôi !
Anh
buông thõng với một giọng hết sức lạnh lùng, chốc chốc lại rút những bông cúc
ra khỏi bình, giơ lên cao để ngắm nhìn ánh sáng xuyên qua những cánh hoa trắng
muốt. Thấy những bông hoa rung rinh xiêu vẹo, Giê-ma nghĩ : - Sao ông ta run
rẩy thế ? Chắc không phải là ông ta say rượu !"
Chị vừa
đứng dậy vừa nói :
- Vấn đề
ấy ông nên bàn với các ủy viên khác trong ban chấp hành. Tôi không thể đoán
trước được ý kiến của họ.
Ruồi
trâu cũng đứng dậy, tì tay lên bàn và áp những đóa hoa vào mặt :
- Còn
bà, ý kiến của bà thế nào ?
Giê-ma
ngập ngừng. Vấn đề ấy làm cho chị đau khổ và gợi lên những kỷ niệm cay đắng xưa
kia.
Cuối
cùng chị nói :
- Thật
tôi cũng không rõ. Cách đây nhiều năm tôi có được biết phần nào về ông
Mông-ta-ne-li. Lúc ấy ông ta là cố đạo và là giám đốc trường dòng trong tỉnh mà
tôi sống thủa nhỏ. Một người rất gần Mông-ta-ne-li kể cho tôi nghe nhiều chuyện
về ông ta. Tôi chưa hề nghe nói điều gì xấu về ông ta cả và tôi tin rằng ít
nhất là lúc bấy giờ ông ta thực sự là một nhân vật rất đáng tôn kính. Nhưng đã
lâu lắm rồi và từ đó đến nay ông ta có thể thay đổi. Quyền hành vô tội vạ đã
làm hỏng biết bao con người !
Ruồi
trâu ngẩng đầu, nét mặt kiên quyết, nhìn thẳng vào mắt chị và nói :
- Dù sao
đi nữa, nếu bản thân ông Mông-ta-ne-li không phải là một kẻ khốn nạn thì ông ta
cũng là một công cụ trong tay bè lũ khốn nạn. Nhưng đối với tôi và các bạn hữu
của tôi ở bên kia biên giới thì khốn nạn hay công cụ của kẻ khốn nạn cũng chỉ
là một. Tảng đá nằm trên đường có thể có những ý định hết sức tốt đẹp nhưng thế
nào người ta cũng phải hất nó đi... Thưa bà, xin bà cho phép...
Anh bấm
chuông rồi khập khiễng bước ra mở cửa cho Giê-ma.
- Thưa
bà, bà đã rất có nhã ý đến thăm tôi. Xin bà để cho người đi gọi xe ngựa
nhé?...Bà không cần ư? Vậy xin chào bà...Bi-an-ca, chị làm ơn mở giùm cửa
ngoài.
Giê-ma
bước ra đường phố với bao nhiêu ý nghĩ xao xuyến.
"
Các bạn hữu của tôi ở bên kia biên giới". Họ là những người nào? Và ông ấy
định hất tảng đá ra khỏi đường bằng cách nào ? Nếu có phải chỉ bằng châm biếm
không thôi, thì tại sao mắt ông ta lại lóe lên một cách dữ dội như vậy ?
RUỒI
TRÂU
Chương
11
Hồng y
giáo chủ Mông-ta-ne-li tới Phơ-li-răng-xơ vào tuần đầu tháng mười. Việc ông đến
đã gây nên một làn sóng dư luận sôi nổi trong thành phố. Ông là một nhà truyền
đạo nổi danh và là đại diện của triều đại giáo hoàng mới cách tân. Mọi người
khao khát mong mỏi ông trình bày "học thuyết mới", nói lên những tình
thương và hòa giải đặng điều trị những nỗi đau thương của nước Ý. Việc bổ nhiệm
Hông y giáo chủ Gi-tsi làm Quốc vụ khanh Tòa thánh La mã để thay
Lam-bơ-ru-tri-ni mà mọi người đều căm ghét, đã nâng sự hân hoan lên đến cực
điểm. Và Mông-ta-ne-li chính là người có năng lực duy trì tâm trạng hân hoan
đó. Đời tư liêm khiết của ông ta là một hiện tượng ít có trong hàng giáo phẩm
cao cấp của giáo hội La mã. Do dó, Mông-ta-ne-li đã thu hút được nhiều cảm tình
của dân chúng vì xưa nay dân chúng vẫn cho rằng gian lận, tham nhũng và dâm ô
đen tối là những đặc điểm hầu như không thể thiếu được của các giáo sĩ cao cấp.
Hơn thế, ông ta thật có tài ba của một nhà truyền đạo.
Giọng
nói uyển chuyển và phong cách dễ thu hút lòng người như đá nam châm, đó là
những điều thường làm cho ông thành công ở bất kỳ nơi nàp và vào lúc nào.
Cũng như
mọi lần, lần này Grat-xi-mi hết sức xoay xở để mời được bậc tài danh mới tới
ấy. Nhưng điều đó không phải dễ : đối với mọi lời mời của Grat-xi-ni,
Mông-ta-ne-li từ chối rất lich thiệp mà kiên quyết, lấy cớ kém sức khỏe và bận
việc.
Một buổi
sớm chủ nhật lạnh trời và chói nắng, Mac-ti-ni cùng Giêma đi qua quảng trường
Xi-nhô-ri-a. Mac-ti-ni khinh miệt nói :
- Vợ
chồng lão Grat-xi-ni thật là những con vật tạp thực, bạ cái gì cũng nuốt. Chị
có thấy họ cúi rạp đầu trước xe ngựa của Hồng y giáo chủ không ? Bất kể ai họ
cũng vơ cả, miễn là kẻ đó nổi tiếng. Từ thủa bé đến giờ thật tôi chưa thấy ai
hám danh như thế. Mới dạo tháng tám đón Ruồi trâu nay lại rước Mông-ta-ne-li.
Chắc là đức cha phổng mũi lắm về sự quan tâm đó. Mà tất cả bè lũ đầu cơ cũng
chia ngọt sẻ bùi với đức cha về sự quan tâm này.
Mác-ti-ni
và Giêma vừa đi nghe Mông-ta-ne-li giảng đạo ở nhà thờ. Ngôi nhà thờ lớn này
chật ních những người háo hức được nghe nhà truyền đạo nổi tiếng giảng thuyết
đến nỗi Mac-ti-ni sợ Giêma nhức đầu phải khuyên chị bỏ buổi lễ ra về trước khi
kết thúc. Sau một tuần lễ mưa rả rích, hôm nay mới có một buổi sáng nắng đẹp. Mac-ti-ni
bèn rủ Giêma đi Xanh Ni-cô-lô dạo chơi trên những sường đồi xanh tốt.
- Không.
Chị trả lời. Nếu anh có thì giờ thì tôi xin đi, nhưng không đi về phía ấy được
đâu. Ta đi theo đường bờ sông Ác-nô đi vì khi Mông-ta-ne-li trở về ông ta sẽ
qua đó. Cũng như Grat-xi-ni tôi muốn chiêm ngưỡng bậc tài danh ấy.
- Nhưng
chị vừa trông thấy Mông-ta-ne-li kia mà !
- Mới
đằng xa thôi. Trong nhà thờ đông quá...mà lúc ông ta đến thì chúng ta lại đứng
phía sau ông ta. Bây giờ ta tới đứng gần cầu chắc thấy rõ được. Chắc anh biết
là ông ta tạm nghỉ ở bờ sông Ác-nô.
- Nhưng
tại sao bỗng dưng chị lại muốn nhìn mặt Mông-ta-ne-li ? Có bao giờ chị chú ý
đến những nhà truyền đạo nổi tiếng đâu ?
- Giờ
đây tôi cũng vẫn không để ý đến những nhà truyền đạo, mà chỉ chú ý tới bản thân
con người. Tôi muốn xem từ lần gặp cuối cùng đến nay ông ta có khác đi nhiều
không ?
- Lần
đầu ấy là bao giờ ?
- Sau
khi Ac-tơ chết hai ngày.
Mac-ti-ni
bàng hoàng nhìn Giê-ma. Hai người đã ra tới đường bờ sông. Đôi mắt Giê-ma thẫn
thờ nhìn xuống nước. Vẻ mặt chị làm Mac-ti-ni hoảng hốt.
Một lát
sau anh nói :
-
Giê-ma, Giê-ma thân yêu ! Có lẽ nào câu chuyện thê thảm ấy vẫn cứ suốt đời ám
ảnh Giê-ma ? Tuổi mười bảy ai mà chẳng lỡ lầm.
Tay vịn
vào cầu thang, mắt nhìn xuống dòng sông, chị mệt mỏi đáp :
- Nhưng
không phải ai mười bảy tuổi cũng đều giết chết người bạn tốt nhất của mình.
Mac-ti-ni
nín lặng. Mỗi lần nỗi niềm tâm sự ấy đến với Giêma thì anh rất ngại chuyện trò.
- Hễ bao
giờ nhìn thấy mặt nước là tôi lại nhớ tới chuyện xưa. Giêma từ từ ngước mắt
nhìn anh rồi run run nói tiếp :
- Thôi,
Xê-da, ta đi nữa đi. Đứng đây lạnh lắm.
Họ lẳng
lặng bước qua cầu và rẽ sang theo bờ sông. Vài phút sau Giêma lại nói :
- Sao con
người ấy có giọng nói êm đẹp đến thế ! Trong giọng nói của ông ta có một cái gì
đó mà tôi chưa từng nghe thấy trong giọng nói của một ai. Tôi cho rằng ông ta
có sức truyền cảm mạnh như vậy quá nửa là nhờ bí quyết ấy.
Cho là
đã đến lúc có thể làm Giêma quên được những kỷ niệm khủng khiếp qua dòng sông
gợi lên, Mac-ti-ni liền nói tiếp :
- Phải,
giọng nói thật tuyệt trần ! Ngoài giọng nói ấy, ông ta còn là một nhà truyền
đạo giỏi nhất trong số các nhà truyền đạo mà tôi được nghe giảng. Nhưng tôi
nghĩ bó quyết hấp dẫn của ông ấy còn sâu xa hơn nữa. Lối sống của ông ta khác
hẳn mọi giáo sĩ cao cấp khác. Có lẽ trừ Giáo hoàng ra thì trong toàn Giáo hội Ý
khó lòng tìm được một Giáo sĩ cao cấp nào có thanh danh như vậy. Còn nhớ dạo
năm ngoái khi đi Rô-ma-nha, tôi đã có dịp qua địa phận của Mông-ta-ne-li. Trời
mưa tầm tã mà những người dân miền núi vẫn cứ kiên trì chầu trực để được thấy
mặt ông ta hoặc sờ vào áo ông ta. Họ tôn thờ Mông-ta-ne-li như thánh. Và điều
đó không phải chuyện thường là vì ở Rô-ma-nha cứ thấy ai mặc áo chức giáo sĩ là
người ta ghét thậm tệ. Tôi có hỏi một bác nông dân già, một người buôn lậu điển
hình mà tôi chưa từng thấy trong đời rằng hình như dân ở đây hình như rất trung
thành với đức giám mục thì người ấy trả lời : " Chúng tôi không ưa cha cố
đâu vì họ đều là những kẻ gian dối. Nhưng chúng tôi yêu ngài Mông-ta-ne-li vì
ngài không lừa dối chúng tôi bao giờ và ngài rất công minh chính trực".
Giêma
lên tiếng hầu như để nhủ mình chứ không phải để nói với Mac-ti-ni :
- Lạ
thật ! Không biết ông ta có biết dân chúng nghĩ gì về ông ta không.
- Chắc
là biết. Sao ? Chị cho là không phải như thế ư ?
- Vâng,
không phải thế.
- Tại
sao chị biết ?
- Chính
ông ta nói với tôi.
- Ông ta
? Mông-ta-ne-li ấy ư ? Giêma, chị nói sao ?
Chị vuốt
mớ tóc lòa xòa trên trán và ngoảnh lại phía Mac-ti-ni. Họ lại dừng bước.
Mac-ti-ni tì tay vào lan can còn Giêma thì lấy dù chậm rãi vẽ hình lên trên nền
đường.
- Xê-da,
tôi với anh quen nhau đã bao năm ròng mà tôi chưa bao giờ kể chuyện Ac-tơ cho
anh biết cả.
Mac-ti-ni
vội vã ngắt lời :
- Mà
cũng không cần kể nữa. Giêma thân yêu. Tôi biết cả rồi.
-
Giô-va-ni kể cho anh nghe ư ?
- Phải.
Lúc anh ấy hấp hối. Một đêm không lâu trước khi Giô va ni chết, tôi ngồi bên
giường anh có kể cho tôi nghe về Actơ...Giêma thân yêu, đã trót rồi thì tôi
phải nói hết sự thật để Giêma rõ...Anh ấy bảo tôi rằng chị luôn âm thầm vấn
vương về câu chuyện bi thảm ấy. Anh ấy nhờ tôi đến với chị như một người bạn để
giúp chị tránh khỏi những ý nghĩ nặng nề. Tôi đã hết sức cố gắng mặc dù công
việc của tôi hình như không có hiệu quả.
Ngước
nhìn Mac ti ni trong giây lát, chị êm ái trả lời :
- Tôi
biết. Nếu khong có tình bạn của anh thì tôi còn đau khổ biết bao nhiêu...Còn về
giáo chủ Mông-ta-ne-li thì lúc ấy Giô-va-ni không nói gì với anh ư ?
- Không.
Lúc ấy tôi cũng không biết Mông-ta-ne-li lại có liên quan gì đến câu chuyện ấy.
Anh ấy chỉ nói với tôi toàn bộ câu chuyện về một tên mật thám và...
- Và về
chuyện tôi tát Ac-tơ đến nỗi Ac-tơ phải nhảy xuống biển tự tử có phải không ?
Được, vậy bây giờ tôi kể cho anh nghe chuyện Mông-ta-ne-li.
Họ quay
trở lại chiếc cầu mà lát nữa xe của Hồng y giáo chủ sẽ đi qua. Mắt không rời
khỏi mặt nước Giêma bắt đầu kể :
- Lúc ấy
Mông-ta-ne-li còn là một cha cố và là giám đốc trường dòng ở thành Pi-dơ. Ông
ta thường dạy triết học cho Ac-tơ và khi Ac-tơ vào đại học ông ta vẫn tiếp tục
giúp đỡ. Hai người yêu thương nhau như một cặp tình nhân chứ không phải là thầy
trò nữa. Ac-tơ sùng bái cả bất cứ nơi nào Mông-ta-ne-li đi qua. Tôi còn nhớ một
hôm Ac-tơ nói với tôi rằng nếu mất đi padre thì Ac-tơ sẽ nhảy xuống biển mà
chết. Ac-tơ thường gọi Mông-ta-ne-li là padre. Còn chuyện tên mật thám anh biết
rồi...Đến ngày hôm sau cha tôi và họ hàng nhà Bớc-tơn tức là mấy người anh cùng
cha khác mẹ hết sức đáng ghét của Ác-tơ đều ra cửa biển Đac-xen-na để mò tìm
xác. Còn tôi thì tôi ngồi một mình trong phòng nghĩ những việc do chính tay
mình gây ra...
Giê-ma
im lặng một lát rồi kể tiếp :
- Đến
tận khuya cha tôi vào nói với tôi : " Giê-ma con xuống nhà dưới đi, có
người đến tìm gặp con". Chúng tôi xuống phòng khách. Một anh bạn học và là
người trong tổ tôi, ngồi đợi ở đó. Mặt tái mét, anh ta run run kể cho tôi nghe
bức thư thứ hai của Giô-va-ni, trong đó kể lại tất cả những gì mà ông già coi
ngục đã nói với anh em phạm nhân về tên cố đạo Các-đi là người trước kia dụ dỗ
Ác-tơ xưng tội. Tôi còn nhớ người bạn học ấy nói với tôi rằng : " Dù sao
chúng ta cũng còn được một chút an ủi là : bây giờ chúng ta biết rằng Ac-tơ
không có lỗi gì cả". Cha tôi nắm lấy tay tôi, hết lòng khuyên nhủ. Lúc ấy
cha tôi vẫn chưa biết chuyện tôi tát Ac-tơ. Tôi trở về phòng suốt đêm không
ngủ. Đến sáng cha tôi và họ hàng nhà Bớc-tơn lại ra bến. Mọi người vẫn còn hy
vọng tìm xác Ac-tơ. - Nhưng hình như không tìm thấy phải không ?
- Không
tìm thấy. Chắc sóng cuốn ra khơi mất rồi. Tôi đang ngồi trong phòng bỗng có chị
người làm vào báo cho biết vừa rồi có một vị cố đạo tới nhà, thấy cha nói tôi
ra bến thì ông đi thẳng. Đoán là Mông-ta-ne-li, tôi liền chạy theo lối sau,
đuổi kịp ông ngay ở cổng vườn.Khi tôi gọi : " Cha Mông-ta-ne-li con muốn
nói chuyện với cha" thì ông ta đứng lại, lặng lẽ nhìn tôi. Trời ơi, Xê-da,
nếu anh trông thấy mặt ông ta lúc ấy ! Nét mặt ấy cứ hiện ra trước mắt tôi mấy
tháng ròng ! Tôi nói với Mông-ta-ne-li : " Con là con bác sĩ Uơ-ren. Con
đến để nói với cha rằng chính con đã giết chết Ac-tơ". Tôi thú nhận tất cả
mọi điều còn ông ta thì cứ đứng trơ trơ như tượng đá mà nghe tôi nói. Khi tôi
dứt lời ông ta an ủi : " Cứ yên tâm, con ạ ! Không phải con giết Ac-tơ đâu
mà chính là cha đây. Cha đã lừa dối Ac-tơ và điều đó Ac-tơ đã biết". Nói
xong ông ta quay gót bước nhanh ra khỏi vườn, không nói thêm một lời nào nữa.
- Rồi
sau thế nào hở chị ?
- Sau
tôi cũng không biết ông ta ra sao nữa. Chỉ nghe nói ngay tối hôm đó ông ngất đi
ở ngoài phố cách bến không xa rồi người ta đưa ông ta vào một căn nhà gần đấy.
Ngoài ra tôi không biết gì thêm. Cha tôi thật hết lòng đối với tôi. Khi tôi kể
lại mọi việc thì cha tôi liền bỏ cả công việc đưa tôi về Anh để khỏi vương vấn
tới chuyện xưa. Cha tôi sợ tôi cũng nhảy xuống biển tự tử nốt và hình như đã có
lần tôi xuýt nhảy xuống biển thật. Nhưng sau khi biết cha tôi mắc bệnh ung thư
thì tôi phải trấn tĩnh lại vì ngoài tôi ra không còn ai săn sóc cha tôi. Sau
khi cha tôi mất đi, chỉ còn lại tôi với mấy đứa em trai nhỏ. Trong lúc anh cả
tôi chưa đưa chúng về nuôi được thì mình tôi phải cáng đáng. Sau Giô-va-ni tới,
Xê-da ạ. Buổi đầu chúng tôi thật rất ngại gặp nhau bởi vì giữa chúng tôi là cả
một kỷ niệm ghê gớm. Giô-va-ni thường ân hận cay đắng rằng chính anh cũng có
lỗi nặng vì anh đã viết bức thư trong tù gửi ra. Nhưng tôi nghĩ chính nỗi đau
khổ chung đã làm chúng tôi gần nhau.
Mac-ti-ni
mỉm cười, lắc đầu nói :
- Có lẽ
về phía chị thì như thế đấy, nhưng còn Giô-va-ni thì đã quyết tâm ngay từ buổi
đầu gặp gỡ với chị rồi. Tôi còn nhớ sau chuyến đầu tiên đi Li-voóc-nô trở về
Milan, suốt ngày anh ấy nhắc đến chị, nói rất nhiều về một thiếu nữ người Anh
tên là Giê-ma làm cho tôi nhức cả đầu. Tôi còn nhớ hình như lúc ấy tôi ghét chị
lắm....Kìa, Hồng y giáo chủ đến rồi !
Chiếc xe
ngựa ruổi qua cầu và dừng bánh trước một ngôi nhà lớn ven sông. Mông-ta-ne-li
ngồi, ngả lưng vào gối tựa. Chắc hẳn ông ta rất mệt và không để ý tới đám đông
đang hớn hở xúm xít cạnh cửa để ngóng nhìn mặt ông. Niềm xúc động ngời lên trên
bộ mặt đó trong nhà thờ, nay đã tắt đi và giờ đây, dưới ánh mặt trời vẻ lo âu
và mệt mỏi hiện ra rõ nét. Khi Mông-ta-ne-li
bước ra
khỏi xe và bước lên bậc cửa với dáng đi nặng nhọc, lờ đờ của tuổi già mệt mỏi
lại đau tim, thì Giê-ma trở gót, từ từ đi ra cầu. Cái nhìn mờ mịt và tuyệt vọng
của Mông-ta-ne-li dường như thoáng phản ánh trên mặt chị. Mac-ti-ni lặng lẽ đi
bên cạnh.
Giê-ma
lại phân vân sau giây lát im lặng :
- Tôi
nghĩ mãi không biết ông ta lừa dối Ác-tơ điều gì ? Và đôi lúc tôi nghĩ...
- Nghĩ
sao hở chị ?
- Phải,
thật là một điều hết sức kỳ lạ...Tại sao hai người trông giống nhau một cách lạ
lùng...
- Hai
người nào nhỉ ?
- Ác-tơ
và Mông-ta-ne-li. Mà cũng không chỉ riêng tôi nhận thấy điều đó. Hơn nữa, những
người trong gia đình nhà ấy có một cái gì bí ẩn lắm. Bà Bớc-tơn, mẹ Ác-tơ, là
một trong những người đàn bà hiền dịu nhất mà tôi từng quen biết. Cũng một
khuôn mặt thanh tú như Ác-tơ và có lẽ cả tính nết cũng không khác gì nhau.
Nhưng lúc nào bà cũng có vẻ sợ sệt như một kẻ tội phạm bị bắt quả tang. Đứa con
dâu của người vợ trước đối với bà thật còn tệ hơn cả người đối với chó. Còn
chính Ác-tơ thì cũng chẳng giống như những người anh hèn nhát của mình chút
nào...Lúc nhỏ thì dĩ nhiên nhiều cái chỉ thoáng qua, nhưng sau khi nghĩ lại tôi
luôn luôn ngờ rằng Ác-tơ không phải là người họ Bớc-tơn.
Cố nghĩ
ra lời an ủi Giê-ma, Mac-ti-ni nói :
- Cũng
có thể là Ác-tơ biết chuyện gì của mẹ nên đi tới quyết định tự tử chứ không
phải vì câu chuyện lừa gạt của Các-đi.
Nhưng
Giê-ma lắc đầu :
- Xê-da,
nếu anh nhìn thấy vẻ mặt Ác-tơ sau khi tôi tát Ác-tơ thì anh sẽ chẳng nói như
vậy. Sự phỏng đoán về Mông-ta-ne-li có lẽ đúng, có thể như thế lắm...Nhưng cái
gì tôi đã làm thì trót làm mất rồi.
Họ im
lặng bước trong mấy phút.
Cuối
cùng, Mac-ti-ni nói :
- Giê-ma
thân yêu, nếu như trên thế gian này chúng ta có một phép lạ nào có thể xóa bỏ
được cái đã trót làm thì mới nên vấn vương về sai lầm cũ. Nhưng nếu không thì
thôi, cứ để cho người chết chôn vùi những gì đã chết. Câu chuyện ấy thật khủng
khiếp. Nhưng, dù sao người bạn trẻ đáng thương ấy đã được giải thoát rồi và có
lẽ lại may mắn hơn bao kẻ hiện nay còn ngồi trong tù hoặc đang rên siết nơi đầy
ải xa xăm. Đấy, chính đó mới là những người chúng ta nên nghĩ tới. Chúng ta không
có quyền để cho lòng mình tan nát chỉ vì xót thương cho những người đã chết.
Chắc chị nhớ câu nói của thi sĩ Sê-li mà chị hằng ưa thích : " Cái gì đã
qua là thuộc về cái chết, còn tương lai là của ta". Chị hãy nắm lấy tương
lai. Trong khi tương lai còn thuộc về chị thì chị không nên tập trung suy nghĩ
về những cái xa xưa để gây hại cho mình, mà nên nghĩ tới cái gì hiện nay mình
có thể làm được để giúp cho tương lai.
Say sưa
với câu nói của mình, Mac-ti-ni nắm lấy tay Giê-ma. Nhưng khi nghe thấy một giọng
nói mềm mại, lạnh lùng và uốn éo ở đằng sau thì anh vội buông tay ra.
Giọng
nói đó kéo dài và se sẽ như lời nói thầm
- Hồng y
giáo chủ Mông-ta...ta-ne-li hiển nhiên có đủ tất cả những đức tính như ông vừa
nói, thưa ông bác sĩ rất đáng kính của tôi ơi ! Thực ra đối với thế giới này,
ông ấy thật quá tốt nữa ấy chứ ! Vì vậy cần phải tống tiễn ông ấy sang thế giới
khác một cách cung kính hơn. Tôi tin rằng ở nơi đó ông ta cũng sẽ oanh liệt
chẳng kém gì ở đây. Ở thế giới đó chắc là chẳng...chẳng thiếu gì những con ma
cũ chưa ...chưa hề trông thấy những của hiếm như vị Hồng y giáo chủ có lương
tâm của chúng ta. Mà ma quỷ lại rất ưa sự mới lạ.
Liền đó
vang lên giọng nói của bác sĩ Ri-cac-đô. Trong giọng ấy lộ ra một vẻ bực tức
không nén nổi :
- Sao
ông biết điều đó ?
- Dạ
thưa ông tôi đọc ở Kinh thánh ra ạ. Nếu tin vào sách Phúc âm thì đến con ma
đáng kính nhất cũng thích làm những chuyện gán ghép cừ khôi. Mà lương tâm và
Hồng y giáo...giáo chủ theo tôi, thì đó là một sự gán ghép rất kỳ khôi đến khó
mà nuốt cho trôi, chẳng khác gì đem tôm trộn với mật. À ! Ông Mac-ti-ni và bà
Bô-la ! Hôm nay trời đẹp sau trận mưa, có phải không ạ ? Các vị cũng có nghe
Xa-vô-ra-nô-la mới giảng đạo đấy chứ ?
(
Xa-vô-ra-nô-la Gi-rô-la-mô (1452-1498) :một nhà truyền đạo nổi tiếng ở
Phơ-lô-răng-xơ. Ông thường vạch tội những hành vi xấu xa của Giáo hội và nhà
cầm quyền nên đã bị xử tử vì tội theo tà giáo)
Mac-ti-ni
quay ngoắt lại. Ruồi trâu miệng ngậm xì gà, ve áo cài một bông hoa tươi đang
giơ bàn tay gầy gò nhưng đeo găng rất lịch sự cho anh bắt. Giờ đây, khi ánh
dương nhảy nhót trên đôi giày bóng lộn và từ mặt nước ánh lên bộ mặt tươi cười
của Ruồi trâu thì Mac-ti-ni thấy Ruồi trâu không đến nỗi què quặt, mà lại chững
chạc hơn bao giờ hết. Họ bắt tay nhau : người thì vồn vã, kẻ thì lầm lì. Giữa
lúc ấy Ri-cac-đô bỗng kêu lên :
- Bà
Bô-la, bà mệt hay sao !
Mặt
Giê-ma lấp lánh dưới vành mũ nên đã tái lại càng thêm tái nhợt đi, dải mũ buộc
dưới cổ rõ ràng phập phồng cùng một nhịp với trái tim đập thon thót.
Chị nói
một cách yếu ớt :
- Xin
phép các ông tôi muốn về nhà.
Họ gọi
một chiếc xe đến, Mac-ti-ni theo xe đưa chị lại nhà. Khi Ruồi trâu cúi xuống gỡ
chiếc áo choàng của Giê-ma vướng vào bánh xe, anh đột nhiên ngước mắt nhìn chị.
Và Macti-ni thấy chị co rúm người lại, nét mặt khủng khiếp.
Xe vừa
chuyển bánh, Mac-ti-ni liền dùng tiếng Anh hỏi chị :
- Sao
thế, Giê-ma ? Thằng khốn kiếp ấy nói gì với chị thế ?
- Không,
có nói gì đâu. Không phải tại ông ấy đâu. Tôi..tôi sợ đấy thôi !
- Chị sợ
gì ?
- Phải !...Hình
như tôi thấy...
Giê-ma
lấy tay che mắt, và Mac-ti-ni lặng lẽ đợi chị hồi tỉnh lại. Cuối cùng nét mặt
Giê-ma đã trở lại tự nhiên. Quay về phía Mac-ti-ni, chị nói với một giọng bình
thường :
- Ý anh
nói rất đúng. Nhìn về quá khứ thê thảm thật không ích gì. Nó làm cho cân não
suy nhược và đưa đến những ảo tưởng hết sức kỳ dị. Thôi từ nay đừng nhắc tới
chuyện ấy nữa Xê-da ạ, kẻo cứ gặp ai tôi cũng lại thấy giống như Ác-tơ. Thật
đúng là một ảo tưởng, một cơn ác mộng giữa ban ngày. Anh có biết không, lúc nãy
khi con người đáng ghét ấy tới tôi tưởng chừng như trông thấy Ác-tơ.
RUỒI
TRÂU
Chương
12
Ruồi
trâu quả là người sở trường về môn tự gây cho mình có nhiều kẻ địch. Tháng tám,
anh ta mới đến Phơ-lô-răng-xơ mà cuối tháng mười đã có đến ba phần tư ủy viên
trong ban chấp hành trước kia đã mời anh đến, thì nay tấn thành ý kiến
Mac-ti-ni. Ngay cả những người khâm phục anh nhất cũng bất mãn về những sự công
kích điên cuồng của anh đối với Mông-ta-ne-li. Và chính Ga-li lúc đầu là người
bao giờ cũng sẵn sàng bênh vực mọi lời nói và việc làm của nhà châm biếm sắc
sảo ấy thì nay cũng bắt đầu tỏ ra lo lắng băn khoăn rằng có lẽ không nên động
đến Mông-ta-ne-li. " Những Hồng y giáo chủ có lương tâm rất hiếm, đối với
họ ta nên tử tế một chút".
Mông-ta-ne-li
lại chính là người duy nhất rất thản nhiên trước hàng loạt bài châm biếm và bài
báo bôi nhọ mình. Mac-ti-ni nhiều lần nói rằng không cần phải tấn công chế giễu
mãi một người có thái độ tốt đối với những sự châm biếm. Người ta đồn rằng một
hôm Mông-ta-ne-li đang ăn cơm với tổng giám mục Phơ-li-răng-xơ trong phòng mình
bỗng thấy một trong bài bôi nhọ cay độc nhất của Ruồi trâu. Mông-ta-ne-li đọc
hết từ đầu đến cuối rồi đưa cho tổng giám mục xem và nói rằng : " Viết
cũng giỏi đấy nhỉ?"
Có một
hôm trong thành phố xuất hiện một tờ truyền đơn nhan đề là Sự bí mật của Lễ
truyền tin ( Giáo hội Thiên chúa có ngày lễ kỷ niệm thiên thần truyền tin cho
bà Maria mang thai chúa Giê-su ). Cho dù dưới bài văn đó không vẽ một con ruồi
trâu đang giương cánh, "chữ ký" quen thuộc đối với bạn đọc thì số lớn
những người đọc vẫn có thể căn cứ vào giọng văn cay độc và sắc bén mà đoán biết
tác giả là ai. Bài văn viết theo thể đối thoại giữa Đức bà đồng trinh Maria
tượng trưng cho công quốc Tô-scan và Mông-ta-ne-li tượng trưng cho vị thiên
thần truyền tín phái Giê-duýt đã giáng lâm. Mông-ta-ne-li đầu quấn cành ô liu
hòa bình, tay cầm cành huệ trắng muốt tượng trưng cho sự trong sạch. Trong bài
văn chỗ nào cũng đầy rẫy những lời bóng gió chua cay và ám chỉ liều lĩnh. Toàn
thành Phơ-lo-răng-xơ cảm thấy tính chất bất công và độc ác của tác phẩm châm
biếm ấy. Tuy nhiên, mỗi khi đọc nó họ đã cười đến vỡ bụng. Những chuyện hoang
đường đã được nói ra bằng một giọng rất khôi hài mà trang nghiêm đến nỗi những
kẻ địch nhất cũng như những người hết sức khâm phục Ruồi trâu đều phải lăn ra
cười. Và mặc dù giọng điệu của bài văn ấy rất khó chịu nhưng phần châm biếm của
nó đã có ảnh hưởng nhất định tới tâm trạng nhân dân thành phố. Danh tiếng
Mông-ta-ne-li quá cao, tưởng chừng bất cứ một tác phẩm bôi nhọ nào dù sắc sảo
đến đâu cũng không lay chuyển nổi. Thế mà có lúc dư luận công chúng đã quay lại
phản đối Mông-ta-ne-li. Ruồi trâu rất biết đánh vào chỗ yếu. Vì thế mặc dù quần
chúng vẫn xúm xít đón chào và tiễn đưa cỗ xe ngựa của Hồng y giáo chủ như cũ,
nhưng qua những tiếng hoan hô và câu chúc, thường thường vẫn vang lên những
tiếng hô ác độc " Đồ Giê-duýt ! " " Đồ do thám
Xan-phê-đích".
Nhưng
Mông-ta-ne-li không thiếu gì người ủng hộ, hai ngày sau khi bài văn ra đời, tờ
Tín đồ, cơ quan ngôn luận có uy tín của giáo hội đã đăng một bài báo lời lẽ rất
sắc sảo đầu đề là Trả lời bài " Sự bí mật của lễ truyền tin", dưới ký
Một con chiên. Bài báo hết sức bênh vực Mông-ta-ne-li trước những lời công kích
tố cáo của Ruồi trâu. Tác giả nặc danh đã say sưa trình bày một cách hùng biện
thuyết "Hòa bình trên trái đất và thiện ý với con người " mà Giáo
hoàng mới lên ngôi truyền bá. Tác giả thách Ruồi trâu dẫn chứng để xác minh bất
cứ một điều gì buộc tội nào của chính mình và cuối cùng tác giả khuyên bạn đọc
không nên tin kẻ vu khống đáng khinh ấy. Về phương diện lập luận đanh thép cũng
như về giá trị văn học, bài báo này hơn hẳn mọi bài báo hàng ngày nên rất được
toàn thành Phơ-lo-răng-xơ chú ý. Mặc dù ngay cả người chủ bút tờ báo Tín đồ
cũng không biết một con chiên là ai. Sau đó bài báo được xuất bản thành sách
nhỏ và từ đó trong các quán cà phê người ta luôn nhắc tới kẻ nặc danh bênh vực
Mông-ta-ne-li
Đến lượt
Ruồi trâu thì anh lại kịch liệt công kích Giáo hoàng mới và những người ủng hộ
giáo hoàng, nhất là đối với Mông-ta-ne-li thì anh lại ám chỉ một cách khéo léo
rằng kẻ viết bài tán tụng Mông-ta-ne-li là do Mông-ta-ne-li sai khiến. Người
viết báo nặc danh biện hộ cho Mông-ta-ne-li liền trả lời, phủ nhận một cách rất
căm phẫn trên tờ báo Tín đồ. Trong suốt thời gian Mông-ta-ne-li còn lưu lại ở
Phơ-lo-răng-xơ cuộc tranh luận kịch liệt giữa hai nhà văn đó được sự chú ý của
công chúng nhiều hơn là bản thân nhà truyền đạo nổi danh đó.
Một vài
đảng viên đảng tự do tìm cách chứng minh cho Ruồi trâu thấy rằng dùng lời nói
cay độc đối với Mông-ta-ne-li là không cần thiết. Nhưng họ chẳng đi đến kết quả
gì. Nghe họ nói , Ruồi trâu chỉ nhã nhặn mỉm cười và ngượng nghịu lắp bắp trả
lời :
- Thưa
các ngài, các ngài thật...thật là không công bằng chút nào. Khi tôi nhượng bộ
bà Bô-la, tôi đã đặc biết đưa ra điều kiện là khi nào Mông-ta-ne-li tới thì tôi
có quyền cười cho thỏa chí. Điều đó đã được ghi trong văn tự rồi cơ mà !
Đến
tháng mười, Mông-ta-ne-li trở về Rô-ma-nha, trong buổi giảng đạo từ biệt trước
khi rời Phơ-lo-răng-xơ, Mông-ta-ne-li đã đề cập tới cuộc tranh luận ầm ĩ vừa
qua. Mông-ta-ne-li tỏ ý tiếc rằng cả hai tác giả đã quá nóng nảy và yêu cầu kẻ
nặc danh bênh vực mình nên làm gương độ lượng cho người khác noi theo, nghĩa là
chủ động đình chỉ cuộc luận chiến vô bổ và vô lối ấy. Hôm sau, trên tờ tín đồ
xuất hiện một mẩu cáo bạch nói rằng : thể theo ý muốn cua Hồng y giáo chủ
Mông-ta-ne-li đã được bày tỏ một cách công khai, từ nay Một con chiên sẽ thôi
không tranh luận nữa.
Ruồi
trâu được nói tiếng cuối cùng. Trong tờ truyền đơn nhỏ tiếp theo anh tuyên bố
rằng thái độ ôn hòa theo tinh thần Cơ đốc của Mông-ta-ne-li đã thuyết phục được
anh. Anh sẵn sàng nhỏ nước mắt và bá cổ người Xan-phê-đích đầu tiên nào mà anh
gặp. Cuối cùng, anh nói : " Tôi sẵn sàng ôm hôn cả đối thủ nặc danh của
tôi ! Nếu bạn đọc của tôi hiểu tại sao tôi phải làm như thế và tại sao đối thủ
của tôi phải giữ kín tên tuổi của mình như là tôi và Hồng y giáo chủ hiểu, thì
chắc bạn đọc sẽ tin tưởng vào sự hối tiếc chân thành của tôi".
Cuối
tháng mười một, Ruồi trâu nói với ban chấp hành rằng anh muốn đi ra biển nghỉ
chừng hai tuần lễ. Dư luận chung quanh bảo rằng có lẽ anh đi Li-voóc-nô. Nhưng
sau đó ít lâu, bác sĩ Ri-cac-đô cũng tới Li-voóc-nô định tìm gặp ruồi trâu mà
không sao tìm thấy. Đến mùng năm tháng chạp một cuộc biểu tình chính trị hết
sức gay gắt nổ ra suốt dọc núi A-pa-nanh trong lãnh địa Giáo hoàng. Lúc ấy
nhiều người mới đoán biết tại sao Ruồi trâu có ý định kỳ dị là đi nghỉ mát giữa
mùa đông tháng giá như vậy. Khi cuộc bạo động đã tạm yên, Ruồi trâu trở về
Phơ-lo-răng-xơ. Gặp Ri-cac-đô ngoài phố, anh nhã nhặn nói :
- Tôi
nghe nói ông có đến Li-voóc-nô tìm tôi nhưng lúc ấy tôi đang ở Pi-dơ. Thành phố
thật sự cổ kính và đẹp tuyệt vời ! Ở đó có thể tưởng tượng đến Ác-ca-đi-a. (
Ác-ca-đi-a : một miền ở Hy lạp chung quanh có núi bao bọc, dân cư nơi đó chuyên
chăn cừu và thích hát những bài dân ca trữ tình, được các nhà thơ ca ngợi là
thiên đường ở trần gian )
Một buổi
chiều trong tuần lễ Nô-en, anh đến dự hội nghị của tiểu ban văn học họp ở nhà
riêng bác sĩ Ri-cac-đô. Cuộc họp rất đông. Khi Ruồi trâu bước vào nghiêng mình
mỉm cười xin lỗi vì đến muộn thì đã không còn một ghế nào trống. Ri-cac-đô định
sang phòng bên lấy ghế thì Ruồi trâu ngăn lại :
- Xin
ông chớ phiền, tôi sẽ tìm được chỗ ngay.
Anh bước
qua phòng, tiến tới phía cửa sổ cạnh chỗ Giê-ma và ngồi lên thành cửa, lơ đãng
ngả đầu vào cửa chớp.
Giê-ma
cảm thấy Ruồi trâu đang mỉm cười và lim dim đôi mắt nhìn mình với cái nhìn tế
nhị của tượng Nhân sư. Cái nhìn ấy cũng giống như cái nhìn vẽ trong một bức họa
của Lê-ô-na Đơ vanh xi. Sự nghi ngờ theo bản năng của chị đối với con người ấy
mỗi lúc một tăng và biến thành một nỗi lo âu khó hiểu.
Hội nghị
bàn vấn đề ra một bản tuyên bố về nạn đói đang đe dọa Tô-scan. Ban chấp hành
cần tỏ thái độ và vạch ra những biện pháp để ứng phó với tình hình đó. Đi tới
một nghị quyết cụ thể thật là gay go vì ý kiến lại vẫn cứ khác nhau. Nhóm tiến
bộ nhất trong ban chấp hành gồm có Giêma, Mac-ti-ni, Ri-cac-đô và những người
khác tán thành kiên quyết kêu gọi chính phủ và công chúng lập tức cứu tế ngay
cho nông dân. Những kẻ ôn hòa tất nhiên trong đó có Grat-xi-ni thì lại sợ rằng
nếu lời kêu gọi mà gay gắt quá sẽ không có sức thuyết phục lại chỉ làm cho
chính phủ nóng gáy.
Vẻ mặt
bình tĩnh và thương hại, Grat-xi-ni nhìn về phía những phần tử cấp tiến đang
phồng mang trợn mắt nói :
- Thưa
các vị, ai cũng hiểu rằng cứu tế càng sớm càng tốt. Phần lớn chúng ta đều muốn
làm nhiều thứ mà chúng ta khó lòng đạt được. Nhưng nếu chúng ta kêu gọi theo
giọng mà các vị đề nghị thì từ giờ cho tới khi nạn đói thực sự xảy ra rất có
thể chính phủ sẽ không chịu làm gì cả. Bắt chính phủ điều tra mùa màng, tôi
thiết tưởng đó là một bước tiến rồi.
Ga-li
ngồi trong góc cạnh lò sưởi lập tức nhảy xổ vào địch thủ của mình.
- Một
bước tiến ư ? Phải, thưa ngài tôn kính, nhưng khi nạn đói xảy tới thực sự, thử
hỏi bước tiến ấy có hãm được nạn đói không ? Nếu chúng ta cứ tiến bước theo
kiểu đó thì chưa kịp cứu tế nhân dân đã chết đói nhăn răng ra cả rồi.
Sác-cô-ni
lên tiếng :
- Tôi
muốn biết là...
Nhưng
nhiều tiếng nói đã cắt đứt lời anh :
- Nói to
lên, không nghe thấy gì hết !
Ga-li
cáu kỉnh :
- Quái
lạ, sao ngoài phố cũng ầm ĩ thế ?Cửa sổ đóng chưa Ri-cac-đô ? Tôi không nghe
thấy cả tiếng tôi nói nữa !
Giê-ma
ngoái nhìn :
- Phải,
cửa đóng rồi. Ngoài ấy hình như có đám xiếc rong gì đó đang diễn qua.
Ngoài
phố vang lên tiếng hò hét, tiếng cười tiếng chuông rung, tiếng chân bước rậm
rịch xen lẫn cả tiếng kèn đồng của một đội nhạc hạng bét và tiếng trống khua
inh ỏi vô tội vạ.
Ri-cac-đô
lẩm bẩm :
- Ngày
lễ thì chịu vậy thôi chứ làm thế nào, Nô-en bao giờ chả ầm ĩ..Nào ông
Sac-cô-ni, ông vừa định nói gì ?
- Tôi
nói : Tôi muốn biết dư luận Pi-dơ và Li-voóc-nô đối với cuộc chống đói này như
thế nào. Có lẽ ông Ri-va-rét có thể cho chúng ta biết vì ông ta mới ở đó về.
Ruồi
trâu không đáp. Anh chăm chú nhìn ra cửa sổ, hình như không nghe thấy những lời
bàn tán trong phòng.
Giê-ma
là người duy nhất ngồi gần đấy gọi :
- Ông
Ri-va-rét !
Thấy
Ruồi trâu vẫn không thưa, Giêma cúi mình hướng về phía trước sờ vào tay anh.
Ruồi trâu từ từ quay lại nhìn Giêma và chị giật mình hoảng sợ thấy gương mặt
anh đờ đẫn một cách lạ lùng. Trong giây lát, Giêma tưởng chừng đó là gương mặt
của người đã chết. Rồi đôi môi anh mấp máy một cách kỳ dị không sức sống. Anh
thầm nói :
- Vâng,
đó là một gánh xiếc rong...
Chưa
hiểu sao, nhưng Giêma đoán rằng cả tâm hồn và thể xác Ruồi trâu phút chốc bị
một ảo ảnh ghê rợn nào chi phối. Bản năng đầu tiên của chị là che lấy Ruồi trâu
để tránh những cặp mắt tò mò khỏi nhìn vào anh. Chị vội vàng đứng dậy đứng chắn
lấy anh, rồi mở cửa sổ làm ra vẻ nhìn xuống đường phố. Ngoài chị ra, không ai
trông thấy bộ mặt của Ruồi trâu lúc đó.
Gánh
xiếc rong đang riễu trên đường phố. Những vai hề cưỡi trên mình lừa, những vai
Ac-lơ-canh mặc quần áo hoa hoét. Đám rước đeo mặt nạ, vừa cười vừa xô đẩy bông
đùa ném những cuộn giấy nhỏ hình con rắn cho các vai hề và những túi kẹo cho
vai Cô-lum-bi-a. Cô gái đóng vai này ngồi ngất ngưởng trên chiếc xe ngựa, mặc
quần áo lóng lánh sặc sỡ dắt đầy lông chim, đầu đeo tóc giả nụ cười gượng gạo
còn đọng lại trên đôi môi đỏ choét. Sau xe là một đoàn người : lưu manh, ăn
xin, mấy vai hề vừa đi vừa nhào lộn và cả một đám hàng rong bán các đồ chơi lặt
vặt và kẹo bánh. Cả bọn cùng chen vai thích cánh, thi nhau ném như mưa và vỗ
tay hoan hô một người đứng giữa đám đông xô đẩy nhau lộn xộn, nhưng lúc đầu
Giêma chẳng trông rõ người đó là ai. Lát sau chị mới nhận ra là họ ném và hoan
hô một chú lùn xấu xí lưng gù mặc quần áo hề, đội mũ cao bằng giấy, đeo nhạc
chung quanh mình. Chắc là chú ở gánh xiếc rong đó. Chú vừa đi vừa nhăn nhó,
quằn quại một cách gớm ghiếc để làm vui cho đám đông.
Ri-cac-đô
tiến lại gần cửa sổ hỏi :
- Cái gì
thế ? Ông và bà xem cái gì hay thế ?
Ông ta
hơi lấy làm lạ rằng Ruồi trâu và Giêma mải xem hề để bắt cả ban chấp hành ngồi
đợi.
Giêma
quay lại phía Ri-cac-đô nói :
- Có gì
hay đâu, gánh xiếc rong đấy mà. Nhưng họ làm huyên náo, tôi cứ tưởng có chuyện
gì xảy ra.
Chị còn
đang đứng, một tay đặt trên bậc cửa sổ và thình lình chị cảm thấy những ngón
tay lạnh lẽo của Ruồi trâu nhiệt tình xiết lấy tay chị.
Ruồi
trâu nói khẽ và dịu dàng :
- Cám ơn
bà !
Anh đóng
cửa rồi lại ngồi lên thành cửa. Vẫn với vẻ nhẹ nhàng thanh thoát, anh nói :
- Xin
lỗi đã làm trở ngại các vị. Tôi mải xem gánh xiếc. Thật...thật là vui mắt.
Mac-ti-ni
giật giọng nói :
- Ông
Sac-cô-ni đang hỏi ông đấy !
Mac-ti-ni
thấy thái độ của Ruồi trâu có vẻ như chống chế một cách hết sức vụng về. Anh
lại cảm thấy bực bội vì Giêma đã hớ hênh bắt chước Ruồi trâu. Thật là một cử
chỉ anh chưa hề thấy ở chị.
Ruồi
trâu tuyên bố rằng anh không biết gì về tâm trạng nhân dân thành phố Pi-dơ bởi
vì anh " chỉ đến đó để nghỉ " thôi. Rồi anh quay lại phát biểu ý kiến
một cách sôi nổi. Trước hết, anh nói về triển vọng của mùa màng, tiếp đó nói về
bản tuyên bố, rồi cuối cùng anh làm cho mọi người khổ tại vì hàng tràng lý luận
thao thao bất tuyệt và vì giọng nói lắp của anh. Họ có cảm tưởng rằng hình như
anh đã tìm thấy một thú vui ốm yếu nào trong bản thân tiếng nói của chính mình.
Khi buổi
họp kết thúc, các ủy viên bắt đầu giải tán thì Ri-cac-đô tiến lại chỗ Mac-ti-ni
:
- Ông ở
lại ăn cơm với tôi nhé. Pha-bơ-ri-xi và Sac-cô-ni cũng ở lại đấy.
- Cảm ơn
ông. Nhưng tôi phải tiễn chị Bô-la về nhà.
Giêma
đứng dậy, choàng khăn lên đầu nói :
- Anh sợ
tôi không về tới nhà được một mình hay sao ? Được rồi, anh Mac-ti-ni sẽ ở lại
đấy, bác sĩ Ri-cac-đô ạ, anh ấy cần thay đổi không khí mới được, ngồi nhà nhiều
quá rồi.
Ruồi
trâu xen lời :
- Nếu bà
cho phép, tôi xin được đưa bà về phía đó.
- Nếu tiện
đường thì...
Ri-cac-đô
vừa mở cửa vừa hỏi :
- Còn
ông Ri-va-ret, nếu ông có thì giờ thì mời ông chiều nay ở lại chơi ?
Ruồi
trâu cười, ngoái lại nói :
- Tôi ấy
ư, ông bạn ? Không, tôi đang muốn đi xem xiếc.
Trở về
phòng, Ri-cac-đô nói :
- Anh chàng
kỳ quặc thật ! Tại sao ông ta lại mê hề đến thế ?
Mac-ti-ni
nói :
- Chắc
là cùng tâm trạng với nhau chứ gì ! Chính hắn cũng hề đặc.
Pha-bơ-ri-xi
nghiêm trang nói :
- Tôi
mong rằng ông ta chỉ là hề thôi, không là cái gì khác. Nhưng ông ta dù là hề đi
nữa thì cũng là một vai hề cực kỳ nguy hiểm.
- Nguy
hiểm ư ? Về phương diện nào ?
- Tôi
không ưa những chuyến đi nghỉ ngắn hạn đầy bí ẩn và liên tiếp của ông ta như
vậy. Chuyến này là chuyến thứ ba rồi đấy, và tôi không tin là vừa qua ông ta đi
Pi-dơ đâu.
Sac-cô-ni
nói :
- Theo
tôi thì rõ ràng là Ri-va-ret bí mật đi vào vùng núi. Ông ta cũng cố ý giấu là
vẫn có quan hệ với bọn buôn lậu. Ông ta có quan hệ với chúng lâu rồi, từ hồi có
vụ bạo động ở Xi-va-nhô kia. Và lẽ tự nhiên là Ri-va-ret nhờ tay bọn chúng để
chuyển những truyền đơn qua biên giới lãnh địa giáo hoàng.
Ri-cac-đô
nói :
- Chính
đó là vấn đề tôi muốn bàn với các ông. Tôi nảy ra một ý kiến : tốt hơn là yêu
cầu Ri-va-rét phụ trách quản lý việc chuyên trở bí mật cho chúng ta. Theo tôi
thì nhà in ở Pi-stôi-a làm việc rất kém và cứ dũng mãi cách nhét truyền đơn vào
xì gà mà chuyên chở thì thô sơ quá.
Mac-ti-ni
bướng bỉnh cãi :
- Từ
trước đến giờ xì gà vẫn làm được việc rất tốt.
Ga-li và
Ri-cac-đô lúc nào cũng đưa Ruồi trâu ra làm mẫu mực khiến cho Mac-ti-ni phát
ngấy lên. Anh nghiêng về phía cho rằng nếu "ông tướng cướp" ấy không
chui vào đây để lên mặt dạy đời thì công việc đã có thể tiến hành tốt biết bao
nhiêu.
Ri-cac-đô
lại nói :
- Phải,
từ trước tới giờ phương pháp ấy vẫn làm cho chúng ta thỏa mãn vì chúng ta không
có cách nào tốt hơn. Nhưng các anh cũng biết thời gian qua đã xảy ra quá nhiều
vụ bắt bớ và tịch thu. Theo tôi nghĩ, nếu Ri-va-ret phụ trách việc đó thì những
vụ như thế sẽ ít xảy ra hơn.
- Tại
sao ông nghĩ thế ?
- Vì một
là những kẻ buôn lậu coi chúng ta là người ngoài, hoặc có thể chỉ coi chúng ta
như con bò để vắt sữa; còn Ri-va-ret thì ít nhất ông ta cũng là bạn của chúng,
nếu không phải là lãnh tụ. Chúng nghe và tin ông ta. Một người đã từng tham gia
khởi nghĩa tại Xi-va-nhô thì bọn buôn lậu ở A-pe-nanh vui lòng giúp nhiều hơn
ai hết. Hai là, trong chúng ta chắc không thể tìm được người nào quen biết miền
núi như Ri-va-ret được. Các anh cần nhớ rằng ông ta từng lẩn trốn ở đó, thuộc
lòng từng đường hầm trên núi. Không một kẻ buôn lậu nào dám bịp Ri-va-ret nếu
có thì cũng chỉ thất bại.
Mac-ti-ni
lại hỏi :
- Vậy
ông định đề nghị giao cho ông ấy toàn bộ đưa tài liệu của chúng ta vào lãnh địa
của Giáo hoàng, phụ trách hết thảy từ việc phân phối cho tới địa điểm, kho tàng
bí mật v.v... hay chỉ giao cho ông ta việc chuyển qua biên giới thôi ?
- Không
những ông ta chỉ biết các địa điểm và kho tàng bí mật của chúng ta mà còn biết
nhiều địa điểm và kho tàng khác nữa mà chúng ta không có. Vậy không cần lên lớp
gì cho ông ấy. Thế còn vấn đề phân phối thì tùy các anh định. Theo tôi, điều
quan trọng nhất là chuyển qua biên giới; một khi tài liệu đã vào tới Bô-lô-nha
ròi thì phân phối không khó nữa.
Mac-ti-ni
nói :
- Về
phần tôi thì...tôi phản đối kế hoạch đó. Vì, trước hết nếu bảo rằng ông ta khéo
léo như thế nhưng nào đã ai thấy đâu mà chỉ là phỏng đoán thôi. Chúng ta chưa
thật mắt trông thấy ông ta làm công tác biên giới, nên chưa thể tin rằng đến
giờ phút nghiêm trọng ấy ông ta có thể giữ được bình tĩnh.
Ri-cac-đô
ngắt lời :
- Ồ,
điều đó ông không cần nghi ngờ gì nữa. Ông ta có thể giữ nổi bình tĩnh. Cuộc
bạo động ở Xi-va-nhô là một chứng minh cụ thể nhất.
Mac-ti-ni
tiếp tục :
- Hơn
nữa, do còn ít hiểu Ri-va-ret nên tôi hoàn toàn không tán thành đem mọi bí mật
của đảng giao phó cho ông ta. Theo tôi, Ri-ve-ret là một kẻ nhẹ dạ và hay đóng
kịch lắm. Phó thác việc chuyển tài liệu bí mật vào tay một người không phải là
chuyện chơi. Ông Pha-bơ-ri-xi, ông nghĩ thế nào ?
-
Mac-ti-ni, nếu chỉ có những ý kiến phản đối như ông nói thì tôi có thể gạt phắt
ngay là vì Ruồi trâu thực sự và rõ ràng có đủ mọi đức tính mà Ri-cac-đô nói.
Tôi tin chắc Ri-va-ret rất dũng cảm, thành thực và bình tĩnh. Ông ta rất hiểu
địa hình và dân cư miền núi. Chúng ta có rất nhiều chứng cứ về tất cả những cái
đó. Nhưng tôi có một lý do phản đối khác. Tôi không tin Ri-va-ret đi về rừng
núi chỉ để bí mật chuyển các bài văn châm biếm của ông ta, mà còn có thể có mục
đích khác. Tất nhiên, điều này chỉ nên nói riêng giữa chúng ta vì chỉ mới là
nghi ngờ thôi. Tôi có cảm tưởng ông ta liên lạc chặt chẽ với một nhóm bí mật
nào ở vùng núi và có lẽ là nhóm nguy hiểm nhất.
- Nhóm
nào ? Nhóm " Thắt lưng đỏ" có phải không ?
- Không,
nhóm " Dao găm"
- Nhóm
" Dao găm" ?Nhưng nhóm ấy chỉ là một nhúm người đứng ngoài vòng pháp
luật phần lớn là nông dân dốt nát và không có kinh nghiệm chính trị gì.
Pha-bơ-ri-xi
nói :
- Những
kẻ bạo động ở Xi-va-nhô thì cũng thế.Nhưng trong bọn họ có cả những người trí
thức và họ được những người đó lãnh đạo. Có lẽ nhóm " Dao găm" này
cũng vậy. Ngoài ra ai cũng biết rằng số lớn thành viêm những nhóm quá khích
nhất ở Rô-ma-nha hiện nay chính là những kẻ đã từng sống sót trong cuộc bạo
động tại Xa-vi-nhô. Họ hiểu rằng nếu khởi nghĩa côngkhai thì không thể đè bẹp
được Giáo hội nên họ đã bước vào con đường khủng bố. Chưa đủ sức dùng súng họ
đành phải dùng dao găm vậy.
- Tại
sao ông lại cho rằng Ri-va-ret liên lạc với nhóm này ?
- Đây là
tôi mới chỉ nghi ngờ thôi. Vì dù sao trước khi giao cho ông ta vận chuyển tài
liệu thì cũng cần phải điều tra cho rõ đầu đuôi. Nếu Ri-va-ret định nhất cử
lưỡng tiện thì ông ta sẽ làm hại đảng ta nhiều. Ông ta sẽ chỉ làm tan rã thanh
danh của Đảng chứ không giúp ích được gì. Nhưng chuyện đó sau ta sẽ bàn. Bây
giờ tôi báo để các anh biết mấy tin tức La mã. Có tìn đồn rằng La mã định cử ra
một tiểu ban dự thảo đề án thành phố tự trị...
RUỒI
TRÂU
Chương
13
Giêma
cùng Ruồi trâu lặng lẽ đi theo bờ sông Lâng Ac-nô. Hứng thú nói thao thao bất
tuyệt của Ruồi trâu dường như đã cạn rồi. Từ lúc bước ra khỏi nhà Ri-cac-đô đến
giờ , Ruồi trâu hầu như không nói một lời. Sự im lặng của anh làm cho Giêma
thực sự vui sướng. Bao giờ gặp Ruồi trâu là Giêma cũng cảm thấy lúng túng. Nhất
là trong ngày hôm nay chị lại cảm thấy lúng túng bởi vì thái độ kỳ dị của Ruồi
trâu ở nhà Ri-cac-đô làm cho chị hết sức bối rối.
Đến cạnh
cung điện Up-phi-tsi, Ruồi trâu thình lình dừng lại, quay sang hỏi chị :
- Bà có
mệt không ?
- Không.
Sao ?
- Và
chiều nay bà không bận lắm phải không ?
- Không.
- Vậy
xin bà một vinh dự đặc biết mời bà cùng dạo chơi với tôi.
- Ta đi
đâu ?
- Đi đâu
cũng được. Xin tùy bà.
- Nhưng
để làm gì ?
Ruồi
trâu do dự, không trả lời ngày.
- Tôi
không thể nói được, ít nhất đó là điều rất khó nói...nhưng tôi rất mong bà đồng
ý nếu có thể. Ruồi trâu bỗng ngước mắt nhìn chị. Ý tứ của đôi mắt làm Giêma rất
ngạc nhiên.
Chị dịu
dang nói :
- Hình
như ông có một tâm sự gì.
Ruồi
trâu bứt một chiếc lá khỏi cành hoa trên ve áo rồi xé nhỏ nó ra thành từng
mảnh. Cử chỉ này gợi cho chị chạnh nhớ tới ai ? Cũng những ngón tay run run cử
động một cách hấp tấp đó..
Mắt
không rời tay. Ruồi trâu nói như bằng một hơi thở :
- Tôi
thấy trong lòng phiền muộn lắm. Chiều nay tôi không muốn cô đơn. Bà đi chơi với
tôi nhé ?
- Vâng,
ta đi. Nhưng tốt nhất là mời ông về nhà tôi.
- Không,
mời bà đi ăn cơm với tôi ở hiệu ăn, hiệu ăn cách đây không xa, ở quảng trường
Xi-nhô-ri-a. Bà đã hứa thì xin chớ từ chối.
Họ đi
vào hiệu ăn. Ruồi trâu gọi thức ăn nhưng anh không đụng tới một tí gì. Anh cứ
đăm chiêu, lặng lẽ nghiền nát một mẩu bánh mỳ trên mặt bàn và vân vê mép khăn
bàn.
Giêma
cảm thấy rất khó xử và bắt đầu hối hận là đã trót nhận lời đi với Ruồi trâu. Sự
im lặng mỗi lúc một trở nên nặng nề nhưng chị vẫn không muốn mở đầu câu chuyện
với người mà chị vảm thấy người đó hầu như đã quên bẵng rằng có mình đang ngồi
trước mặt. Cuối cùng Ruồi trâu ngước mắt nhìn chị và đột nhiên nói :
- Bà có
muốn đi xem xiếc không ?
Giêma
kinh ngạc nhìn anh. Sao lại nghĩ tới chuyện xem xiếc ?
Chị chưa
kịp trả lời thì Ri-va-ret lại hỏi :
- Có bao
giờ bà đi xem xiếc không ?
- Chưa,
tôi chưa xem bao giờ. Tôi không thấy xiếc có gì là hay lắm.
- Xiếc
rất hay. Tôi nghĩ nếu không xem xiếc thì không thể nào nghiên cứu được sinh
hoạt của nhân dân. Ta quay lại cửa Cơ-rô-trê đi.
Đám xiếc
rong đã cắm xong lều ở cạnh cổng thành . Khi Ruồi trâu và Giêma tới nơi thì
tiếng vĩ cầm đã rít lên lanh lảnh , tiếng trống rộn ràng, báo hiệu buổi biểu
diễn đã bắt đầu.
Buổi
biểu diễn hôm ấy hết sức đơn sơ. Cả gánh xiếc chỉ có mấy vai hề mấy vai
Ac-lơ-canh và mấy tài tử nhào lộn một người đi ngựa nhảy qua vòng, một vai
Cô-lôm-bi-na đỏm dáng và một vai gù múa may một cách nhạt nhẽo và ngớ ngẩn để
làm vui cho công chúng. Nói chung, những câu pha trò không đến nỗi quá chướng
tai thô bỉ, nhưng đều rất tầm thường và hủ lậu. Mọi cái đều đầy một vẻ dung
tục. Công chúng cười và vỗ tay với vẻ nhã đặc biệt của dân Tô-scan. Tiết mục
duy nhất làm cho khán giả thực sự vui cười có lẽ là tiết mục của vai gù. Nhưng
Giêma thấy ở vai gù này cũng chẳng có gì là láu lỉnh và khéo léo cả, mà chỉ
toàn là múa may quay cuồng một cách vụng về, gớm ghiếc. Người xem thì luôn luôn
nhại vai gù, cho trẻ con ngồi trên vai để cho chúng thấy " thằng gù"
Ruồi
trâu đứng cạnh Giêma, một tay vịn vào cột lều. Giêma quay lại phía anh hỏi :
- Ông
Ri-va-ret, chả lẽ ông lại thực sự cho những trò này là hay, hay sao ? Theo rôi
thì...
Giêma
không nói hết và lặng lẽ nhìn anh . Suốt đời có lẽ chỉ có lần đứng với
Mông-ta-ne-li cạnh cổng vườn ở Li-voóc-nô là chị mới nhìn thấy nỗi đau khổ
không bờ bến và tuyệt vọng như thế này trên khuôn mặt con người. Nhìn Ruồi trâu
Giêma sực nghĩ tới cảnh " Địa ngục" của Đăng-tê.
Ở sân
khấu người gù đang bị một vai hề đá. Anh ta lộn nhào và gieo mình ra ngoài vòng
sân với một tư thế hết sức kỳ cục. Khi hai vai hề bắt đầu đối đáp thì Ruồi trâu
bỗng dường như bình tỉnh khỏi một giấc mơ. Anh hỏi :
- Ta đi
chứ ? Hay bà muốn ở lại xem nữa ?
- Không,
đi đi thôi.
Họ bước
ra khỏi lều, vượt qua dặm cỏ đen tối mà tiến về phía bờ sông. Cả hai đều im
lặng trong mấy phút.
Ruồi
trâu cất tiếng hỏi :
- Sao,
bà thấy xiếc thế nào ?
- Tôi
thấy khiếp quá, và có tiết mục thấy hết sức khó chịu
- Tiết
mục nào khó chịu ?
- Những
cái trò nhăn nhó, quằn quại ấy là hết sức khó chịu. Thật là lố bich, không có
gì là khôn khéo cả.
- Bà nói
tiết mục của người gù có phải không ?
Nhớ rằng
Ruồi trâu đặc biệt nhạy cảm về sự tàn tật của mình, Giêma hết sức tránh không
nói tới tiết mục ấy. Nhưng chính Ruồi trâu lại nhắc đến vai gù nên chị đành
phải trả lời :
- Vâng,
tôi không thích tiết mục ấy một chút nào.
- Nhưng
đó lại là tiết mục mua vui cho công chúng nhiều nhất.
- Tôi
dám cả quyết rằng cái tệ là ở đó.
- Tại
sao cơ ? Có phải tại tiết mục của anh ta không có chút nghệ thuật nào chăng ?
- Tiết
mục nào cũng phi nghệ thuật cả. Nhưng tôi muốn nói rằng : tại vì nó tàn nhẫn...
Ruồi
trâu mỉm cười.
- Tàn
nhẫn ? Đối với người gù có phải không ?
- Tôi
muốn nói là... Dĩ nhiên, chính anh ta thì rất bình thản trước sự tàn nhẫn đó.
Đối với anh ta , đó chính là một cách kiếm ăn, không khác gì người đi ngựa phải
nhảy và cô gái phải đóng vai Cô-lôm-bi-na. Nhưng nó làm cho tâm hồn người ta
thấy nặng nề. Đó thật là nhục nhã. Đó là một sự sa sút của con người.
- Trước
khi bắt đầu đi làm trò, chưa chắc anh ta đã sa sút đếnt hế. Số đông chúng ta
đều có sa sút cách này hay cách khác.
- Phải,
nhưng ở đây... Có lẽ ông thì ông cho đó là một thành kiến vô lý nhưng tôi thì
tôi cả quyết rằng thể xác con người là rất thiêng liêng. Khi thấy người ta giày
xéo và bôi nhọ thể xác con người tôi không sao chịu nổi.
- Thế
còn linh hồn con người ?
Ruồi
trâu đứng sững lại, một tay tựa vào lan can bên bờ sông, nhìn thẳng vào mặt
Giêma.
- Linh
hồn ư ?
Chị nhắc
lại và cũng dừng bước, ngạc nhiên quay lại nhìn anh. Ruồi trâu vung hai tay,
đột nhiên trở nên sôi nổi :
- Vậy bà
chưa hề nghĩ rằng vai hề khốn khổ ấy có thể có một linh hồn, một linh hồn sống,
một linh hồn chiến đấu của con người , một linh hồn bị trói chặt vào một thể
xác méo mó và bị buộc phải phục vụ cho vai hề ấy như một kẻ nô lệ hay sao ? Bà
là một người đa cảm biết xót thương thể xác trong tấm áo lố lăng treo đầy nhạc
ngựa của vai hề ấy. Vậy có bao giờ bà nghĩ tới một linh hồn bất hạnh không có
lấy một manh áo sặc sỡ ấy để che lấp cái trần trụi ghê gớm của nó không ? Bà
thử nghĩ xem, khi linh hồn đó run rảy vì rét mướt khi linh hồn đó đau khổ vì
nghèo hèn và hổ thẹn trước mặt mọi người, khi những lời nhạo báng quất vào linh
hồn đó như một ngọn roi da, khi tiếng cười đốt cháy linh hồn đó như một mũi dùi
nung đỏ xiên vào da thịt ? Bà thử nghĩ xem lúc ấy linh hồn đó tuyệt vọng nhìn
bốn xung quanh , nhìn lên núi cao nhưng núi cao không muốn sụp xuống, nhìn vào
vách đá nhưng đá không lăn lại để che chở cho mình; linh hồn đó ước ao cả kiếp
làm chuột nhắt vì chuột nhắt còn có thể chui vào tổ mà lẩn tránh. Và bà nên nhớ
rằng linh hồn vốn câm lặng không biết nói, nó không kêu la được. Linh hồn phải
chịu đựng và chịu đựng mãi...Ồ! Có lẽ tôi lại nói nhảm rồi... Tại sao bà lại
không cười nhỉ ? Bà thật thiếu tính cười đùa.
Giêma
chậm rãi quay đi và lặng lẽ bước. Suốt buổi chiều nay, chị không hề nghĩ rằng
nỗi lòng phiền muộn của Ruồi trâu lại có liên quan tới gánh xiếc rong. Và giờ
đây, khi chị đã thấy được một cảnh tượng mờ mờ trong nội tâm của Ruồi trâu lộ
ra qua thái độ sôi nổi bất ngờ ấy, thì chị không biết lấy gì mà an ủi anh, mặc
dù lòng chị dạt dào xót thương. Ruồi trâu bước bên cạnh chị, mặt quay đi, nhìn
xuống nước.
Bỗng
nhiên, anh quay lại nhìn Giêma đầy vẻ thách thức :
- Mong
bà hiểu cho những điều tôi vừa nói chỉ thuần túy là tưởng tượng. Tôi rất ưa
tưởng tượng nhưng lại không thích người ta cho những điều tưởng tượng của tôi
là thật.
Giêma
không đáp. Hai người cứ lặng lẽ cất bước. Khi đi qua cổng lớn cạnh cung điện
Up-phi-tsi bỗng Ruồi trâu rảo bước qua đường. Anh cúi nhìn một vật gì đen đen
nằm bên cạnh hàng rào sắt.
- Làm
sao thế hở cháu ?
Ruồi
trâu hỏi bằng một giọng rất dịu dàng mà Giêma chưa nghe thấy bao giờ.
- Tại
sao cháu không về nhà.
Vật đen
ấy động đậy.Một tiếng rên khe khẽ. Giêma lại gần và thấy một em bé chừng sáu
tuổi, rách rưới, bẩn thỉu nằm nép vào hàng rào như một con thú nhỏ đang khiếp
sợ. Ruồi trâu đứng bên cúi xuống vuốt mái tóc rối tung của nó.
- Sao
thế hở cháu ?
Ruồi
trâu nhắc lại và cúi thấp hơn để nghe rõ tiếng trả lời yếu ớt.
- Cháu
phải về đi ngủ thôi. Đêm, trẻ con không nên ra đường. Ở đây thì chết rét mất.
Đưa tay đây cho chú, đứng dậy như người lớn ấy nào ! Nhà cháu ở đâu ?
Ruồi
trâu nắm lấy tay em bé để nâng nó dậy, nhưng nó hét lên rồi lại nằm phục xuống
đất.
- Sao,
cháu làm sao thế ?
Ruồi
trâu quỳ xuống sát cạnh đứa bé.
- Trời,
bà nhìn xem !
Vai em
bé và chiếc áo ngắn của nó đầy máu.
Ruồi
trâu lại âu yếm hỏi :
- Cháu
làm sao thế, nói đi ! Cháu ngã có phải không ?...Không phải à ?...Ai đánh cháu
chứ gì ?...Chắc là thế. Ai đánh cháu thế ?
- Bác
cháu đánh.
- À ra
thế ! Đánh bao giờ ?
- Ban
sáng. Bác ấy say rượu, cháu, cháu...
- Cháu
lại đứng gần bác ấy phải không ? Chớ đứng gần người say rượu cháu ạ ! Người say
họ không thích thế đâu...Bà xem làm thế nào bây giờ nhỉ ? Nào cháu đi ra chỗ
sáng cho chú xem vai cháu nào. Ôm lấy cổ chú, đừng sợ... Thế, được rồi.
Ruồi
trâu ẵm em bé qua phố, đặt nó ngồi lên một lan can bằng đá rộng. Anh rút dao
díp khỏi túi, lanh lẹ cắt ống tay áo rách, ghì đầu em bé vào ngực mình; Giêma
nâng cánh tay bị thương của em. Vai em bị đánh thâm tím, sưng vù. Trên cánh tay
còn có một vết thương khá sâu.
- Nhóc
con thế này mà bị đánh tệ thế !
Ruồi
trâu vừa nói vừa lấy khăn của mình quấn cho áo khỏi chà sát vào vết thương.
- Bác ấy
đánh cháu bằng gì ?
- Bằng
xẻng. Cháu hỏi xin bác ấy một xu để mua quà thế mà bác ấy lấy xẻng đánh cháu.
Ruồi
trâu rùng mình. Anh êm ái nói :
- Ừ,
cháu bị đánh đau quá đấy, cháu nhỉ ?
- Bác ấy
lấy xẻng đánh cháu, cháu...cháu chạy mất vì bác ấy đánh cháu.
- Suốt
ngày cháu phải nhịn đói lang thang khắp phố à ?
Em nhỉ
chỉ khóc nức nở, không trả lời. Ruồi trâu ẵm nó khỏi lan can bằng đá :
- Thôi,
cháu đừng khóc, đừng khóc nữa ! Không sao đâu. Làm thế nào gọi được xe bây giờ
? Rạp hát hôm nay có biểu diễn lớn chắc đông người xem, xe ở đó cả. Xin lỗi bà,
tôi đã lôi bà đi hết chỗ nọ đến chỗ kia, nhưng...
- Tôi
sẵn lòng đi với ông. Chắc ông cũng cần tôi giúp. Ông có bế được nó đến nơi
không ? Có nặng không ?
- Không
sao, tôi bế được, bà cứ yên tâm.
Trước
cửa rạp hát chỉ còn mấy chiếc xe nhưng người ta thuê cả rồi.
Buổi hát
đã tan, phần lớn người xem đã ra về. Tên của Di-ta được in bằng chữ lớn trên
các tời quảng cáo cạnh lối ra vào. Di-ta biểu diễn vở ba lê tối nay. Ruồi trâu
bảo Giêma chờ một chút rồi tiến tới lối ra vào của nghệ sĩ và hỏi người phục vụ
:
- Bà
Rê-ni về chưa ?
Người đó
giương mắt nhìn cảnh tượng một vị ăn mặc sang trọng tay ẵm một đứa trẻ lang
thang rách rưới, trả lời :
- Thưa
ông, chưa ạ ! Bà ấy sắp ra. Xe còn đang đợi...Kìa bà ấy đã ra kia rồi.
Di-ta
khoác tay một vị sĩ quan kị binh trẻ tuổi, bước xuống bậc thang. Trông nàng
thật lộng lẫy trong chiếc măngtô nhung đỏ khóac trên bộ y phục dạ hội với một
chiếc quạt lông đà điểu to giắt bên mình.
Cô gái
tsi-gan dừng bước ở cửa. Nàng rút tay ra khỏi cánh tay viên sĩ quan rất ngạc
nhiên rảo bước tới chỗ ruồi trâu.
Nàng khẽ
mói :
-
Phi-lê-trê ! Ông ôm cái gì thế ?
- Tôi
bắt gặp em bé này ngoài phố. Nó bị đánh đau lắm và đói nữa. Tôi phải đưa nó
ngay về nhà càng sớm càng hay. Không còn chiếc xe nào cả. Chị nhường xe cho tôi
nhé !
-
Phi-lê-trê ! Ông định mang thằng bé ăn mày kinh tởm này về nhà đấy à ? Nên gọi
cảnh sát tới cho họ mang nó vào nhà tế bần hoặc mang đi đau thì mang. Người ăn
xin đầy thành phố thì làm sao rước về nhà cho hết được...
- Em bé
bị thương đau lắm. Nếu cần thì sáng mai đưa nó vào nhà tế bần cũng được. Nhưng
bây giờ phải băng bó và cho nó ăn đã.
Di-ta
nhăn mặt với một vẻ khinh ghét :
- Ông
trông kìa ! Nó gục đầu vào người ông mà sao ông chịu để yên ? Bẩn thế kia kìa !
Ruồi
trâu ngẩng đầu nhìn Ri-ta đôi mắt tóe một tia lửa giận dữ. Anh giật giọng :
- Thằng
bé đang đói ! Chị không hiểu đói là gì hay sao ?
Giêma
tiến lại xen lời :
- Ông
Ri-va-ret ! Nhà tôi rất gần đây. Đưa em bé về nhà tôi. Nếu chưa kiếm được xe
thì để nó ngủ ở nhà tôi một đêm...
Ruồi
trâu quay ngoắt lại phía chị :
- Bà
không khinh nó ư ?
- Tất
nhiên là không... Xin chào bà Rê-ni !
Vũ nữ
tsi-gan lạnh lùng gật đầu nhún vai. Nàng lại khoác tay viên sĩ quan, cuốn tà
váy, lòa xòa tiến lại cỗ xe ngựa mà người ta định cuỗm mất.
Nàng
ngoái cổ lại ở bậc xe :
- Ông
Ri-va-rét nếu ông cần thì tôi sẽ cho xe lại đón ông và đứa bé.
- Được.
Tôi sẽ bảo chỗ cho xe đến.
Anh ra
bờ đường bào cho người xà ích biết địa chỉ rồi trở lại với Giêma, tay vẫn ôm
đứa bé.
Kê-ti
đợi chủ ở nhà. Nghe rõ đầu đuôi câu chuyên, cô liền chạy đi lấy nước nóng và
lấy các đồ băng bó.
Ruồi
trâu đặt em bé ngồi lên ghế, quỳ xuống bên cạnh và lẹ làng cởi bỏ bộ quần áo
rách của em ra. Anh nhẹ nhàng khéo léo rửa và băng vết thương. Khi Giêma mang
khay thức ăn vào phòng thì anh vừa tắm rửa xong cho em bé và lấy chăn ấm bọc
cho nó.
- Sao ?
Có thể cho bệnh nhân của ông ăn được rồi chứ ? - Chị cất tiếng hỏi rồi mỉm cười
với chú bé - Tôi đã làm cơm cho em bé rồi đây.
Ruồi
trâu đứng dậy, thu nhặt các mảnh giẻ rách trên sàn.
- Bà
trông chúng tôi bày bừa hết ra đây rôi ! Phải đem đốt sạch nhưng giẻ rách này
rồi mai mua cho nó một bộ đồ mới. Bà có rượu mạnh không ? Cho chú bé tội nghiệp
này một ngụm thì tốt quá. Còn tôi thì xin phép bà đi rửa tay.
Ăn xong,
đứa bé ngủ thiếp ngay trên lòng Ruồi trâu , gục đầu mái tóc rối bù vào chiếc áo
sơ mi trắng muốt của anh. Giêma giúp Kê-ti dọn dẹp sạch sẽ trong phòng rồi lại
ngồi vào bàn.
- Ông
Ri-va-ret, ông phải ăn chút gì rồi hãy về. Lúc nãy ông chưa ăn được gì mà bây
giờ thì khuya lắm rồi.
- Tôi
sẵn lòng xin uống một ly trà. Đã khuya mà còn phiền bà quá !
- Không
hề gì ! Ông đặt em bé xuống đi văng một tí, bế mãi nặng. Nhưng ông chờ cho một
lát tôi lấy tấm chăn phủ đệm đã...Ông định ngày mai sẽ thế nào ?
- Mai à
? Mai tôi xem ngoài con ma men ấy em còn người thân thích nào không, nếu không
thì có lẽ phải theo lời khuyên của bà Rê-ni đưa nó vào nhà tế bần. Kể ra, đúng
hơn cả là buộc cho nó một hòn đá vào cổ rồi quẳng xuống sông. Nhưng làm thế thì
tôi sẽ phải chịu những hậu quả không hay...Ngủ say chưa này ! Thật khổ thân cho
thằng bé xấu số ! Mày yếu lom nhom như một chú mèo con thì chống cự sao nổi !
Khi
Kê-ti bưng trà lên thì chú bé vừa mở mắt, ngồi nhỏm dậy, ngơ ngác nhìn bốn
phía. Trông thấy Ruồi trâu nay đã trở thành người che chở tự nhiên đối với nó,
nó bò khỏi đi văng lúng túng trong tấm chăn, đến nép chặt vào Ruồi trâu. Chú bé
đã tươi tỉnh và đủ sức hỏi những câu tò mò. Em chỉ vào bàn tay trái méo mó đang
cầm chiếc bánh ngọt của Ruồi trâu mà hỏi :
- Cái gì
đây hả chú ?
- Cái
này ư ? Bánh ngọt đây. Cháu có muốn ăn không ? Thôi, hôm nay ăn thế là đủ rồi.
Mai hãy ăn, cháu ạ !
- Không,
cái này cơ !
Chú đưa
tay sờ vào mấy ngón tay cụt và vết sẹo lớn ở cổ tay Ruồi trâu .
Ruồi
trâu bèn đặt miếng bánh lên bàn.
- À cái
này ấy à ! Nó cũng giống như cái ở vai cháu ấy mà. Một người khỏe hơn chú đã
đánh chú thành sẹo như thế đấy.
- Thế
chú có đau lắm không ?
- Chú
không nhớ. Nhưng có nhiều cái còn đau hơn, cháu ạ. Thôi bây giờ đi ngủ đi không
hỏi lôi thôi nữa, khuya rồi.
Khi xe
tới, em bé đã ngủ say. Ruồi trâu cố tránh cho em khỏi thức giấc, nhẹ nhàng bế
em xuống dưới nhà.
Dừng
bước ở cửa, anh nói với Giêma :
- Hôm
nay bà là thiên thần phù hộ cho tôi. Nhưng tất nhiên điều đó chưa làm cho bà và
tôi sau này hết tha hồ cãi nhau đâu.
- Tôi
chẳng muốn cãi cọ với ai cả.
- Nhưng
tôi lại cứ muốn cãi nhau cơ. Đời mà không có chuyện cãi cọ với nhau thì không
sao chịu nổi. Cãi nhau một cách lành mạnh là điều không thể thiếu trên đời này.
Nó còn hay hơn cả xiếc nữa kia !
Ruồi
trâu khẽ cười một mình rồi đi xuống thang gác. Chú bé vẫn ngủ say trong tay
anh.
Thư mục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét