CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
41: Lãnh địa Belle-Isle-en-Mer
Nơi đầu
bờ đập con nước lên buổi chiều điên cuồng vỗ mạnh, có hai người đàn ông nắm tay
nhau nói chuyện thật sôi nổi mà không ai nghe được gì hết vì tiếng họ lần lượt
bị xua đuổi bởi những luồng gió mang các cơn sóng bạc đầu thổi vào.
Mặt trời
vừa lặn sau bức thảm đại dương to rộng, sáng rực lên như chảy ra từ một lò đúc
khổng lồ. Đôi khi, một người quay nhìn về phía đông vẻ lo lắng u buồn dò hỏi
mặt biển. Người kia, dò xét trên gương mặt bạn, hình như muốn tìm trong ánh mắt
ông ta xem ông nghĩ gì: Thế rồi cả hai đều nín lặng day dứt bởi những ý nghĩ ảm
đạm và đều tiếp tục cuộc đi dạo.
Hai
người đó là những kẻ lưu đày của chúng ta. Porthos và Aramis đến trú ở
Belle-Isle-en-Mer từ khi mưu đồ to lớn của ông D Herblay bị sụp đổ. Porthos hít
mạnh làn không khí ẩm mặn vào lồng ngực to lớn của mình.
- Bạn
Aramis thân mến ạ, bạn nói vô ích thôi. Chuyện từ hai ngày nay các thuyền đi
đánh cá đều không trở về cả, đó không phải là điều bình thường đâu. Trên biển
không có bão tố, gió lộng, không có một chút gợn sóng nào. Và cho có bão đi nữa
thì các thuyền của ta lẽ nào đều bị đắm cả sao?
Aramis
lẩm bẩm:
- Đúng
bạn nói có lý, Porthos ạ. Có chuyện lạ đây rồi.
Porthos
tiếp theo:
- Thêm
nữa, bạn không thấy là nếu thuyền đắm sao không có xác nào tấp vào bờ hết.
- Tôi
cũng nghĩ như bạn vậy.
Ngoài
ra, bạn có lưu ý đến hai chiếc thuyền còn lại trong đảo cả, hai chiếc thuyền
tôi cho đi tìm các thuyền khác.
Aramis
chặn lời người bạn bằng một tiếng kêu và một động tác bất ngờ khiến Porthos
phải sững sờ im bặt:
- Bạn
nói gì thế, Porthos? Sao? Bạn đã cho hai chiếc thuyền đó đi.
- Đi tìm
các thuyền khác, đúng thế - Porthos điềm tĩnh trả lời - Thật là khốn khổ! Chúng
ta tiêu cả rồi!
- Sao mà
"tiêu"? - Porthos hoảng hốt hỏi - Sao lại là hỏng rồi, hả Aramis?
Aramis
cắn chặt môi:
- Không
sao, không có gì hết. Xin lỗi, tôi muốn nói là nếu chúng ta muốn, nếu chúng ta
có ý ngông muốn đi chơi ngoài biển thì không còn thuyền để đi.
- May
quá! Thế mà bạn cũng bối rối! Mà cũng thú đấy!
- Riêng
tôi thì tôi không tiếc tí nào. Cái mà tôi tiếc, tất không phải là những thú vui
ít hay nhiều ở Belle-Isle, cái mà tôi tiếc, Aramis ạ. Đó là xứ Pierrefonds, đó
là Bracieux, đó là Vallon, đó là đất Pháp tươi đẹp của ta. Ồ! Tôi thành thật
hết sức nói lên điều đó với bạn đấy, bạn có yêu thương tôi thì thứ lỗi cho tôi.
Tôi không thấy sung sướng ở Belle - Isle; không, thật vậy, tôi không sướng chút
nào.
Aramis
thở dài thật nhẹ nói:
- Bạn
thân mến ơi, chính vì vậy mà thật đáng buồn là bạn đã cho hai chiếc thuyền còn
lại đi tìm các thuyền mất tích từ hai ngày nay. Nếu bạn không cho họ đi tìm thì
bây giờ chúng ta đã lên đường rồi.
- Lên
đường! Thế còn hiệu lệnh thì sao, Aramis?
- Hiệu
lệnh nào?
- Hiệu
lệnh mà bạn cứ lặp lại mãi cho tôi trong mọi trường hợp: Phải chống giữ
Belle-Isle thoát khỏi tay kể tiếm ngôi. Bạn biết rồi mà.
- Đúng
vậy - Aramis lại lẩm bẩm.
- Bạn
thấy không, chúng ta không thể ra đi được và chuyện đưa các thuyền còn lại đi
tìm tàu mất tích không hại gì cho ta hết.
Aramis
nín bặt, và đôi mắt mơ màng của ông sáng lên như mắt con hải âu lượn thật sâu
trên mặt biển, dò hỏi trong khoảng không và tìm cách xuyên thấu đường chân
trời. Porthos vẫn xuôi theo ý của mình, tiếp tục nói:
- Làm đủ
chuyện như thế cũng không thể giải thích được việc các tàu thuyền bị mất tích.
Tôi đi đến bất cứ đâu cũng bị người ta dồn dập kêu khóc, trẻ em khóc khi thấy
mẹ chúng buồn, làm như là tôi có thể trả lại cho họ những người cha, người
chồng mất đi. Bạn đoán như thế nào, bạn trả lời thế nào cho họ?
- Đoán
đủ thứ và không nói năng gì hết, Porthos thân mến ạ.
Câu trả
lời này không làm Porthos thoả mãn. Ông quay đi càu nhàu ít tiếng không bằng
lòng. Aramis giơ tay chặn người lính dũng cảm, nắm lấy hai bàn tay người khổng
lồ một cách thân thiết rồi nói với giọng rầu rĩ:
- Bạn có
nhớ không, bạn có nhớ những ngày tươi đẹp trong thời trẻ của chúng ta, lúc
chúng ta còn mạnh khỏe, còn đầy dũng khí, còn đủ hai người kia và chúng ta?
Porthos, bạn có nhớ chăng là vào lúc đó, nếu chúng ta muốn trở về Pháp thì cái
mảng nước mặn này không làm ngăn trở chúng ta được?
- Nói
thật ra, có phải là ở Belle- Isle đây bạn cũng hơi chán rồi, bạn cũng nhớ cảnh
êm ấm ở nhà, ở toà giám mục Vannes?
- Nào
nhận đi.
- Không
- Aramis trả lời mà không giám nhìn Porthos.
- Thế
thì ở lại đi, - Porthos nói kèm theo tiếng thở dài mạnh mẽ không kiềm được -
Thôi hãy ở lại đây. Với lại, dù chúng ta có ý định rõ rệt là trở về Pháp thì
cũng không còn tàu.
Bạn
không thấy một chuyện nữa à? Đó là từ hai ngày nay, từ lúc tàu bè mất tích thì
lại cũng không có một chiếc xuồng nào ghé lại đảo hết.
- Ờ đúng
Tôi cũng thấy như vậy, thật dễ nhận ra; vì trước hai ngày tang tóc này, thì lúc
nào cũng có đến hàng mười chiếc ghe, xuồng đến đảo.
Aramis
bỗng nảy ra ý nghĩ mới.
- Ta phải
đi hỏi xem. Nếu muốn kết một cái bè gỗ
- Nhưng
ta có xuồng rồi bạn có muốn tôi đẩy ra không?
- Xuồng?
Bạn nghĩ thế ư, Porthos? Ngồi trên chiếc xuồng để mà chìm à? Không, nghề đi
biển không phải là của chúng ta.
- Để
xem, để xem!
Rồi
Aramis tiếp tục dạo bước mà vẻ nóng nẩy càng lúc càng tăng, Porthos theo dõi
các biểu hiện nóng nảy đó của bạn mà thấy mệt. Porthos, tâm trí bình yên, không
thể nào hiểu thấu được những giằng xé bên trong của người bạn thể hiện ra ngoài
theo từng cơn giật. Ông chặn bạn lại:
- Chúng
ta ngồi nghỉ trên tảng đá kia, bạn ngồi đó, bên cạnh tôi, Aramis ạ. Rồi xin bạn
lần cuối, hãy giải thích cho tôi biết rõ chúng ta bây giờ phải làm gì ở đây.
-
Porthos - Aramis lúng túng nói.
Tôi biết
rằng ông vua giả muốn lật đổ ông vua thật. Điều đã nói rồi, đã hiểu rồi. Rồi
sao nữa?
- Tôi
cũng biết rằng ông vua giả tính bán Belle-Isle cho người Anh. Tôi cũng hiểu
rồi.
- Tôi
biết rằng những người chỉ huy và làm công việc xây dựng thành luỹ như chúng ta
phải đến Belle-Isle, trông coi công việc và điều khiển mười đại đội do ông
Fouquet chiêu mộ, trả lương và tuân theo ông ấy. Chuyện này thì cũng đã hiểu
rồi.
Aramis
nóng nảy đứng dậy, cứ như là một con sư tử bị con ruồi quấy rầy. Porthos nắm
tay ông kéo lại:
- Nhưng
có điều tôi không hiểu, dù là đã cố gắng suy nghĩ hết sức, có điều tôi không
hiểu được, là tại sao thay vì gửi quân đội đến cho ta, gửi người, đạn súng,
lương thực đến trợ giúp ta, thì người ta chẳng cho thuyền bè, chẳng để
Belle-Isle có sự giúp đỡ nào, tại sao, thay vì bắt liên lạc với chúng ta, hoặc
bằng tín hiệu, hoặc bằng thông tin miệng, hoặc giấy tờ, thì người ta lại cắt
đứt hết. Sao, Aramis, bạn trả lời đi, hay là, trước khi trả lời, bạn muốn cho
tôi nói trước điều tôi nghĩ? Bạn có biết tôi đã nghĩ, đã tưởng tượng rằng chắc có
biến cố gì đã xảy ra ở Pháp. Tôi cả đêm nằm mơ thấy ông Fouquet, tôi thấy cái
chết, trứng vỡ, nhà ở tồi tàn, xộc xệch. Điềm xấu, mơ hoảng, bạn Aramis thân
mến ơi!
-
Porthos, cái gì kia? - Aramis vụt cắt ngang và đứng dậy chỉ cho bạn thấy một
chấm đen trên vạch nước đỏ úa.
Porthos
kêu lên:
-
Thuyền, đúng rồi, một chiếc thuyền. Chúng ta sẽ có tin ngay.
- Hai! -
Người giám mục kêu lên khi thấy một cánh buồm khác - Hai! Ba! Bốn!
- Năm!
Porthos đếm tiếp theo. Sáu? Bảy! Ôi trời, cả một hạm đội.
- Chắc
là tàu thuyền của chúng ta trở về. - Aramis nói mà trong lòng lo lắng tuy cố
giữ bình tĩnh.
Porthos
đưa ra nhận xét:
- So với
tàu đánh cá thì chúng quá lớn. Vả lại bạn không thấy chúng từ cửa sông Loire đi
ra à?
- Từ
sông Loire ra. Đúng.
- Và đây
này, mọi người đều thấy như chúng ta. Đàn bà, trẻ con leo lên kè đá ngóng ra
biển kìa.
Một
người đánh cá già đi ngang qua, Aramis hỏi:
- Có
phải tàu thuyền của chúng ta không?
Ông già
nhìn kỹ vào đường chân trời:
- Thưa
Đức ông, không. Đó là những tàu kéo của quân đội Hoàng gia!
Aramis
giật nảy mình:
- Tàu
của Hoàng gia? Sao lão biết.
Ông già
trả lời:
- Tôi
thấy một tàu có cờ hiệu, tàu của ta và thuyền buôn không bao giờ có cả. Thưa
Đức ông, các tàu kéo đang đến đây, thường là dùng để chuyển quân.
- A!
Aramis kêu lên.
- Hoan
hô! - Porthos kêu lên, - họ tiếp viện cho ta rồi phải không, Aramis?
- Có thể
lắm.
- Trừ
phi là bọn Anh đến.
- Sao
lại qua sông Loire? Porthos, như vậy thì nguy rồi chúng chắc phải đi qua Paris?
- Bạn
nói có lý, nhất định là viện binh hay là tiếp tế.
Aramis
đưa tay ôm mặt, không trả lời. Rồi thình lình, ông nói:
-
Porthos, báo động đi!
- Báo
động à?
- Ừ bảo
các tay súng về khẩu đội, mỗi người giữ súng của mình, nhất là các khẩu đội
canh phòng bờ biển.
Porthos
mở to mắt nhìn chăm chú như là sợ Aramis trở thành mất trí. Aramis dịu dàng nói
tiếp:
- Tôi sẽ
đi, bạn Porthos ạ, tôi sẽ thi hành lệnh này nếu bạn không chịu làm.
- Không,
không, tôi sẽ đến đó ngay, - Porthos trả lời chân bước đi, mắt còn liếc nhìn
phía sau giám mục Vannes có lầm lẫn chăng và nếu ông ta bình tĩnh nghĩ lại thì
có gọi ông trở về không.
Lệnh báo
động ban ra, kèn trống vang lên, gác chuông muốn vỡ ra. Tức thì trên các bờ
đập, các kè đá đầy người tò mò, đầy lính tráng. Các bó đuốc châm ngòi cháy rực
trong tay những người pháo thủ đang đứng sau những khẩu đại bác nằm trên bệ đá.
Khi ai
nấy vào vị trí, khi mọi việc chuẩn bị xong, Porthos rụt rè thì thào:
- Xin
lỗi, bạn Aramis chớ cho cho tôi tò mò tìm hiểu.
- Cứ nói
ra đi bạn ạ, trước sau gì bạn cũng biết, - Aramis thì thầm trả lời người phụ
tá.
- Hạm
đội đằng kia, hạm đội đang trương buồm đến thẳng Belle- Isle là hạm đội Hoàng
gia phải không?
- Nhưng,
vì có đến hai vua Pháp nên phải xem thử hạm đội kia là của vua nào.
- Ồ, bạn
mở mắt cho tôi rồi? - Người khổng lồ ngưng bặt vì lý lẽ kia.
Rồi
Porthos đi thật nhanh đến chỗ các khẩu đội để đốc thúc binh sĩ làm việc.
Trong
khi đó Aramis, luôn chăm chú nhìn về phía chân trời thấy các chiếc tàu cứ đến
gần mãi.
Lúc trời
vừa tối thì một chiếc tàu trong hải đoàn đã làm cho dân Belle- Isle náo động đó
tiến vừa vào tầm súng của đảo.
Dù cảnh
lúc tối trời. Aramis vẫn thấy có sự náo động trên chiếc tàu đó: nơi sườn tàu
tách ra một chiếc xuồng có ba tay trèo rướn mình về phía hải cảng và chỉ một
lúc sau thì ghé vào dưới chân thành. Người chủ xuồng nhảy lên kè đá cầm một bức
thư vẫy vẫy như muốn nói chuyện.
Nhiều
người nhận ra đó là một thuỷ thủ của đảo. Đây là người chủ của một trong hai
chiếc thuyền Aramis để lại đảo mà Porthos trong khi lo lắng cho số phận các
thuyền mất tích trong hai ngày trước nên bảo họ đi tìm. Người này xin được dẫn
đến gặp ông D Herblay.
Một viên
đội ngoắc hai người lính đến dẫn đi.
Aramis
lúc này đang ở trên bến cảng. Trời gần như tối mịt mặc dù có các ngọn đuốc của
những người đi theo Aramis đứng cách đấy một khoảng.
- Sao,
Jonathas, anh từ đâu đến đây?
- Thưa
ngài, từ chỗ những người bắt tôi.
- Ai
bắt?
- Ngài
biết là chúng tôi đi tìm bạn mất tích phải không?
- Biết
rồi sao nữa?
- Thưa
ngài, đi chưa đầy một dặm thì chúng tôi bị thuyền của vua đuổi bắt.
- Vua
nào? - Porthos hỏi.
Jonathas
mở to mắt nhìn. Ông giám mục nói:
- Cứ
tiếp đi!
- Thưa
ngài, như vậy là chúng tôi bị đón bắt và bị gom về một chỗ với mấy người bị bắt
sáng hôm qua.
- Gom
hết các anh để làm quái gì thế? - Porthos ngắt lời.
Jonathas
trả lời:
- Thưa
ngài, để chúng tôi không báo cáo được với các ngài.
Lại đến
lượt Porthos không hiểu gì cả.
- Thế
rồi hôm nay họ lại thả anh ra?
- Thưa
để cho ngài biết rằng họ đã bắt giữ chúng tôi rồi.
- Càng
lúc càng rắc rối? - Con người lương thiện Porthos nghĩ thầm.
Trong
lúc đó, Aramis suy nghĩ rất kỹ rồi nói:
- Thế có
nghĩa là hạm đội Hoàng gia bao vây bờ biển rồi?
- Thưa
ngài, phải.
- Ai chỉ
huy?
- Viên
chưởng quan ngự lâm quân.
- D
Artagnan? - Porthos nói.
- Hình
như là tên người đó?
- Và có
phải là người đưa thư này cho anh phải không?
- Thưa
ngài, vâng.
- Đem
đuốc lại đây!
- Chữ
viết của anh ta! - Porthos nói.
Aramis
đọc:
- Lệnh
vua sai chiếm Belle-Isle;
"Lệnh
vua giết tất cả quân đồn trú, nếu kháng cự. Lệnh bắt giam tất cả quân đồn trú.
Ký tên:
d Artagnan, người bắt ông Fouquet hôm kia và đưa giam vào ngục Bastille".
Aramis
xám mặt, vò nát tờ giấy trong tay. Porthos hỏi:
- Gì
thế?
- Không
có gì bạn ạ.
-
Jonathas, anh có nói chuyện với ngài d Artagnan không?
- Thưa
Đức ông, có.
- Ông ta
nói sao?
- Nói là
ngài sẽ nói chuyện với Đức ông để bàn nhiều hơn.
- Ở đâu?
- Trên
tàu ngoài kia.
- Trên
tàu của ông ta?
Jonathas
nói tiếp:
- Ngài
ngự lâm quân bảo tôi đưa cả hai ngài, ngài và ngài kỹ sư, bằng thuyền của tôi
đến gặp ngài đó.
Porthos
nói:
- Đi đi!
Đến anh bạn d Artagnan thân mến.
Aramis
ngăn lại, kêu lên:
- Bạn có
điên không? Biết đâu chẳng là cái bẫy?
Cũng có
thể vậy. Bây giờ phải làm sao? Nhưng mà, nếu d Artagnan gọi ta.
- Ai bảo
với bạn đó là d Artagnan? - Chữ viết kia - Chữ viết có thể giả được. Chữ này
run run, rõ là giả.
- Bạn
lúc nào cũng có lý, nhưng mà rốt lại ta cũng chẳng biết gì hết.
Aramis
im lặng. Porthos dễ mến nói:
- Đúng
là chúng ta cũng cần biết một tí.
Jonathas
hỏi:
- Tôi
phải làm sao đây?
- Anh
quay lại với ông chưởng quan đó.
- Thưa
ngài, vâng.
- Anh
nói với ông ta là chúng ta mời ông ta đến đảo.
Porthos
nói:
- Tôi
hiểu rồi.
Jonathas
trả lời:
- Thưa
ngài, vâng. Nhưng nếu ông quan đó không chịu tới Belle-Isle thì sao?
- Nếu
ông ta từ chối thì ta kháng cự, vì ta có đại bác.
- Chống
d Artagnan à?
-
Porthos ạ, nếu là D Artagnar, anh ấy sẽ tới. Thôi, Jonathas đi đi.
- Trời,
tôi không hiểu gì hết, - Porthos lẩm bẩm.
- Tôi sẽ
nói cho biết, bạn yêu quý ạ! Đã đến lúc phải nói rồi. Mời bạn ngồi xuống ụ nấp
này, lắng tai nghe cho kỹ.
- Ồ! Tôi
nghe, tôi nghe, chắc chắn nghe?
Jonathas
kêu lên:
- Tôi đi
được chưa, thưa ngài?
- Đi đi,
và mang thư trả lời về đây. Mấy người kia tránh ra cho xuồng đi.
Aramis
nắm tay Porthos và bắt đầu giải thích.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
42: Những lời giải thích của Aramis
Bạn
Porthos ạ, những lời tôi sắp nói đây, chăc là khiến bạn ngạc nhiên, nhưng cũng
làm cho bạn hiểu biết ít nhiều - Tôi thích gặp bất ngờ - Porthos nói - Tôi chịu
đựng được cảm xúc mạnh, bạn đừng ngại gì cả, cứ nói đi.
- Thật
khó, Porthos, khó thật. Bởi vì thật ra, phải báo cho bạn lần nữa, là tôi phải
nói cho bạn biết những chuyện quá lạ lùng, không tưởng tượng nổi.
- Ô, bạn
nói khéo quá làm tôi muốn nghe ngày này qua ngày khác cũng được. Thôi cứ nói
đi. À tôi vừa nảy ra ý kiến này, để cho câu chuyện được dễ dàng, để giúp bạn
nói ra được những chuyện lạ lùng đó, tôi sẽ đặt câu hỏi với bạn.
Tốt lắm.
- Aramis
thân mến, tại sao chúng ta lại phải chuẩn bị đánh nhau?
- Nếu
bạn hỏi những câu như thế mà gọi là giúp tôi kể dễ dàng thì, Porthos ạ, bạn
chẳng giúp tôi được gì hết. Mà trái lại nữa. Này, đánh bạn với một con người
tốt, quảng đại và trung thành như bạn, thì khi bắt đầu câu chuyện, vì cả tôi
lẫn bạn, tôi phải thú tội một cách hết sức can đảm. Tôi đã đánh lừa bạn, người
bạn quý mến ạ.
- Bạn
đánh lừa tôi?
- Chúa
ơi, phải đấy.
- Aramis
đánh lừa vì muốn điều hay cho tôi?
- Tôi đã
tưởng thế Porthos ạ. Tôi thật tình nghĩ thế.
Vị lãnh
chúa lương thiện ở Bracieux nói:
- Thế là
bạn đã giúp tôi rồi. Tôi rất cảm ơn vì nếu bạn không đánh lừa tôi thì tôi cũng
bị lầm lẫn thôi. Bạn đánh lừa tôi cái gì thế?
- Tôi
phục vụ cho kẻ tiếm ngôi, chống lại Louis XIV hiện đang cho quân đến kia.
Porthos
đưa tay lên gãi trán:
- Kẻ
tiếm ngôi là… Tôi hiểu chưa được rõ lắm.
- Đó là
một trong hai kẻ đang tranh giành ngôi vua nước Pháp.
- Thế,
nghĩa là bạn phục vụ một người không phải là Louis XIV?
- Bạn
nói đúng ngay ý rồi.
- Do đó
mà - Do đó mà chúng ta bây giờ trở thành những tên phản loạn, ông bạn đáng
thương ạ.
- Trời!
Trời! - Porthos thất kinh kêu lên.
- Bạn
Porthos ơi, ta vẫn còn có hy vọng thoát được, cứ tin tôi đi Porthos trả lời:
- Tôi
không lo về chuyện đó. Tôi giật mình là vì cái chữ phản loạn tồi tệ kia thôi.
- Ô
đúng.
- Và như
thế thì cái vùng đất của hầu tước mà người ta hứa cho tôi.
- Đó là
của người tiếm ngôi cho.
- Chẳng
giống cái gì hết, Aramis ạ.
- Bạn
ơi, nếu cho tôi ra tay thì bạn được phong tới ông hoàng.
Porthos
buồn bã cắn đầu móng tay và nói:
- Chuyện
bạn lừa gạt tôi là thế. Lỗi thật, vì tôi đinh ninh được vùng đất đã hứa đó lắm.
Ôi! Aramis thân mến ơi, biết bạn là người giữ lời nên tôi rất tin ở lời hứa đó
lắm.
-
Porthos đáng thương? Xin bạn tha lỗi cho tôi.
Porthos
gằn giọng hỏi:
- Như
thế là tôi đã gây sự với vua Louis XIV phải không?
- Bạn
tốt nhất đời của tôi ơi, tôi sẽ thu xếp mọi sự, tôi chịu trách nhiệm tất cả,
chỉ mình tôi thôi. Tôi là người độc nhất chủ trương âm mưu. Tôi cần đến người
bạn không rời nên tôi gọi bạn đến vì nhớ lại châm ngôn xưa của chúng ta. Tất cả
vì một người, một người vì tất cả. Porthos thân mến, tội ác của tôi là tính ích
kỷ.
Porthos
nói:
- Ồ! Tôi
thích lời nói đó lắm và khi mà bạn hành động chỉ vì mình bạn thôi, thì tôi
không có gì không bằng lòng bạn cả. Chuyện tự nhiên mà!
Nói xong
lời thiêng liêng ấy, Porthos liền thân mật siết chặt bàn tay bạn. Aramis thấy
mình nhỏ bé trước tâm hồn cao cả thực tình ấy. Đây là lần thứ hai ông thấy phải
nghiêng mình trước sự hơn hẳn của tâm hồn, thật mạnh hơn cả năng lực của trí
tuệ sáng láng. Ông không nói gì chỉ trả lời bằng cách ép mạnh tay lên bàn tay
mơn man vỗ về của bạn. Porthos nói:
- Bây
giờ chúng ta đã nói rõ với nhau hết rồi, tôi đã biết rõ vị thế của chúng ta đối
với vua Louis, tôi tưởng bạn cũng nên cho tôi biết về các âm mưu chính trị đã
khiến chúng ta là nạn nhân. Bởi vì tôi thấy rõ là có âm mưu chính trị đằng sau
câu chuyện này.
- Bạn
Porthos, d Artagnan sắp tới đây và sẽ cho bạn biết từng chi tiết một. Còn tôi,
xin bạn miễn cho, tôi đang vật vã đau khổ, mệt nhọc, tôi cần phải giữ sáng
suốt, minh mẫn để tìm cách lôi bạn ra khỏi bước lỡ lầm mà tôi đã lôt bạn vào.
Nhưng từ nay thì rõ ràng quá rồi. Vua Louis XIV từ nay chỉ có một kẻ thù. Đó là
tôi, chỉ mình tôi thôi. Tôi đã bắt ép bạn theo tôi, bây giờ tôi thả bạn ra, bạn
hãy về với ông chúa của bạn. Porthos thấy không, không có gì là khó ở đây cả.
Porthos
hỏi:
- Bạn
tưởng thế ư.
- Chắc
lắm rồi.
- Thế
thì sao, nếu chúng ta ở vào một vị thế thuận lợi như thế thì sao chúng ta lại
chuẩn bị đại bác, súng tay, chiến cụ đủ loại? Tôi nghĩ rằng giản dị hơn cả là
nói với chưởng quan d Artagnan: "Bạn thân ơi, chúng tôi đã lầm, bây giờ
phải làm lại, bạn mở cửa cho chúng tôi để chúng tôi đi, xin từ giã bạn".
- Ồ, cứ
nói? - Aramis lắc dầu.
- Sao,
bạn không đồng ý với kế hoạch đó à.
- Tôi
thấy có một điều khó.
- Điều
gì?
- Đó là
khi d Artagnan đến đây mang một mệnh lệnh khiến chúng ta bị bắt buộc phải chống
cự lại.
- Ồ,
chống với d Artagnan? Điên à! Anh bạn d Artagnan tốt bụng đó.
Aramis
lại lắc đầu lần nữa nói:
- Porthos
à, nếu tôi cho đốt mồi lửa, cho đại bác nhằm bắn, nếu tôi cho báo động, nếu tôi
huy động tất cả mọi người chạy ra luỹ, bức luỹ của Belle-Isle mà chúng ta xây
đắp phòng thủ thật vững chắc đó, thì tất cả phải có lý do. Thôi, hãy chờ xem,
hay nói đúng hơn, đừng chờ đợi gì hết cả.
- Bây
giờ phải làm sao đây?
- Nếu
tôi biết phải làm sao thì tôi đã nói ra rồi.
- Nhưng
mà có một việc đơn giản hơn việc chống cự. Đó là kiếm một chiếc tàu, đi về
Pháp.
Aramis
cười buồn:
- Bạn
thân mến ơi, chớ có lý luận như trẻ con thế. Phải làm người lớn để nghe lời
khuyên và để hành động đúng. Này, có ai kêu đằng cảng kìa! Porthos, coi chừng
thật kỹ nhé.
Porthos
bước lên lan can thành rồi nói như sấm dậy:
- D
Artagnan, đúng rồi.
- Vâng,
tôi đây, - người chưởng quan ngự lâm trả lời và nhảy lên các bực kè đá.
Rồi ông
nhanh nhẹn đi về phía thành luỹ có các bạn chờ đợi Porthos và Aramis nhận ra,
phía sau d Artagnan có một sĩ quan đi theo ông sát từng bước một. Người chưởng
quan dừng lại giữa bậc thềm đá thì viên sĩ quan cũng dừng lại theo.
D
Artagnan kêu to với Aramis và Porthos:
- Các
ông cho người lui ra, lui ra ngoài tầm tiếng nói, không ai được nghe gì hết cả.
Lệnh của
Porthos được thi hành ngay. Thế rồi d Artagnan quay sang người đi theo mình.
- Thưa
ông, chúng ta hiện không phải đang ở trên hạm đội của Nhà vua. Ông có quyền
thật, nhưng không nên nói lời xấc xược như vừa rồi nữa.
Người sĩ
quan trả lời:
- Thưa
ngài, tôi không nói lời xấc xược với ngài, tôi chỉ tuân theo thật chính xác
những điều người ta ra lệnh cho tôi thôi. Lệnh bảo tôi đi theo ngài, tôi đi
theo. Lệnh bảo tôi đừng để ngài nói điều gì với ai mà tôi không được biết, tôi
phải chen vào những buổi hội kiến của ngài.
D
Artagnan nghiến hàm răng của mình trèo trẹo, chứng tỏ ông đang tức đến mức muốn
nổ bùng ra, rồi tiến lại gần viên sĩ quan. Ông nói trầm giọng và nhấn mạnh lừng
tiếng chứng tỏ một sự trầm tĩnh sâu xa, ẩn giấu bão táp bên trong:
- Thưa
ông, khi tôi cho một chiếc xuồng đến đây thì ông muốn biết xem tôi viết gì cho
những người bảo vệ Belle-Isle.
Ông đã
đưa cho tôi xem lệnh là việc. Cùng lúc đó, tôi đưa cho ông tờ giấy tôi viết.
Khi ông chủ xuồng trở lại mang theo thư trả lời của hai ông này (ông chỉ Aramìs
và Porthos) thì ông cũng đã nghe lời chuyển đó từ đầu đến cuối. Tất cả những
thứ đó đều đúng theo lệnh ông nhận, tất cả được theo dõi; thi hành đúng tăm
tắp, phải thế không?
- Thưa
ngài vâng, - viên sĩ quan lắp bắp nói, - đúng như vậy. Nhưng mà…
D
Artagnan tiếp tục, càng nói càng cao giọng:
- Thưa
ông, khi tôi có ý muốn rời tàu để đến Belle-Isle, ông đã đòi đi theo tôi, tôi
nhận lời ngay, tôi đem ông đi theo rồi. Ông hiện đang ở Belle-Isle phải không?
- Thưa
ngài vâng, nhưng mà.
- Nhưng
mà… đây không phải là tôi nói về ông Colbert, người bắt ông theo lệnh đó, cũng
không phải về thằng cha căng chú kiết nào mà ông bị buộc phải nghe theo. Đây
chỉ là chuyện của một người đang làm vướng bước chân ông d Artagnan, đang đứng
với ông d Artagnan, một mình, trên bậc thềm, dưới kia là mười thước nước sâu.
Cái vị thế này thấy bất lợi cho người đó, thưa ông, thật là bất lợi, tôi xin
báo cho ông biết như vậy.
- Nhưng
thưa ngài, nếu tôi làm vướng chân ngài, - người sĩ quan nói với giọng rụt rè
gần như sợ sệt, - thì đó chỉ là do nhiệm vụ của tôi.
- Thưa
ông, ông và những người gửi ông đến đây đã mắc phải sai lầm là sỉ nhục tôi. Rõ
ràng rồi. Tôi không thể làm gì được với những người bảo đảm cho ông, tôi không
biết họ và họ cũng quá xa tôi. Nhưng ông lúc này lại đang ở trong tay tôi, tôi
xin thề có Chúa làm chứng, là nếu ông bước thêm một bước trong khi tôi nhấc
chân để đến với các ông kia, tôi thề là tôi sẽ vung gươm chẻ đầu ông làm hai và
ném ông xuống nước. Ô, tới đâu thì tới. Trong đời tôi chỉ có sáu lần nổi giận
thôi và năm lần trước kia đều có một người mất mạng đấy.
Viên sĩ
quan không nhúc nhích, ông ta xanh mặt trước lời đe doạ và chỉ biết trả lời.
- Thưa
ngài, chống lại lệnh ra cho tôi là có lỗi đấy.
Porthos
và Aramis, đứng lặng ngắt và rùng mình trên lầu thành, kêu to lên:
- D
Artagnan thân mến, hãy cẩn thận?
D
Artagnan giơ tay bảo họ im rồi giơ chân bước lên bậc cấp với một dáng đe doạ
rợn người, và quay mặt lại, tay cầm gươm nhìn người sĩ quan đi theo.
Người
này giơ tay làm dấu thánh giá và bước lên.
Porthos
và Aramis vốn biết tính d Artagnan nên kêu lên một tiếng và chạy ùa ra định
ngăn nhát gươm chém xuống mà họ tưởng chừng nghe thấy rồi. Nhưng d Artagnan đã
chuyển gươm sang tay trái, nói với giọng xúc động:
- Ông
thật là con người can đảm. Bây giờ chắc ông sẽ hiểu những lời tôi sắp nói đây,
hiểu còn hơn những lời tôi vừa nói.
- Ngài d
Artagnan, xin cứ nói đi, nói đi.
- Những
người ông thấy kia và ông được lệnh chống họ, những người ấy là bạn thân của
tôi đấy.
- Thưa
ngài, tôi biết rồi.
- Ông
muốn biết là tôi có đối xử với họ đúng như lệnh dặn dò ra cho ông không.
- Tôi
hiểu sự dè dặt của ngài rồi.
- Thế
thì xin ông hãy để tôi nói chuyện với họ không có ai chứng kiến hết.
- Thưa
ngài d Artagnan, nếu tôi theo lời ngài xin thì tôi đã thất hứa với người trên,
nếu tôi không chịu thì tôi phải trái ý ngài. Tôi thấy khó xử quá. Vậy xin ngài
hãy cứ nói chuyện với bạn bè, và xin đừng chê trách tôi đã vì lòng trân trọng,
mến phục đối với ngài, riêng đối với ngài thôi, mà phải làm một điều xấu xa.
D
Artagnan xúc động, vụt đưa tay ôm cổ người trẻ tuổi rồi bước lên phía các bạn.
Người sĩ quan choàng áo ngồi lại trên bậc thềm rêu ẩm. D Artagnan kêu lên:
- Này,
các bạn, tình thế rõ rồi đấv, các bạn tỏ thái độ đi.
Cả ba ôm
chầm lấy nhau, giữ chặt nhau như thời trai trẻ.
Porthos
hỏi:
- Lôi
thôi như thế này để làm gì?
D
Artagnan trả lời:
- Chắc
bạn phải thấy là có chuyện rồi.
- Chuyện
không to lắm đâu, chắc chắn như vậy, ông chưởng quan thân mến ạ. Bởi vì, đúng
là tôi có làm gì đâu, Aramis cũng thế. - Con người tốt tuyệt vời đó vội vã nói
thêm.
D
Artagnan nói:
- Các
bạn thấy không: chặn tất cả những ai từ Belle-Isle ra, từ ngoài vào. Tàu thuyền
của các bạn đều bị tịch thu hết. Nếu các bạn muốn trốn chạy thì các bạn sẽ rơi
vào những chiếc tàu tuần qua lại trên mặt biển rình mò các bạn. Nhà vua muốn
chộp các bạn và chắc chắn là được.
D
Artagnan giận dữ vặt vài sợi râu cằm xám. Aramis mặt tối sầm, còn Porthos thì
nổi giận lên. D Artagnan nói tiếp:
- Ý kiến
tôi là thế này đây: đem các bạn lên tàu tôi, giữ các bạn bên mình tôi rồi thả
các bạn ra. Nhưng bây giờ tôi lại nghĩ rằng lúc tôi trở về tàu biết đâu tôi
chẳng nhận được một lệnh cách chức chỉ huy của tôi, chuyển cho người khác,
khiến cho cả các bạn lẫn tôi không có cách nào cứu vãn được hết.
Aramis
cương quyết nói:
- Phải ở
lại Belle-Isle. Tôi thì tôi trả lời là tôi chỉ đầu hàng khi biết được những gì
dành cho tôi thôi.
D
Artagnan lưu ý thấy Porthos không nói gì hết.
Để tôi
ra dò xét thử người sĩ quan can đảm đi theo tôi kia xem sao. Con người đó thật
lương thiện, thật là một kẻ thù của chúng ta xứng đáng hơn ngàn vạn người về
hùa với chúng ta đấy Để hỏi thử xem hắn biết được những điều gì, lệnh ra cho
hắn phải làm gì, bỏ gì…
Aramis
nói:
- Cứ thử
đi.
D
Artagnan đi lại phía lầu, chồm ra ngoài gọi viên sĩ quan lên:
- Thưa
ông, nếu tôi muốn đem các ông này đi thì ý kiến ông thế nào.
- Tôi
không phản đối, nhưng tôi phải giữ họ vì có lệnh trực tiếp, lệnh bằng văn bản
buộc tôi phải đích thân giữ họ.
D
Artagnan kêu lên một tiếng "A!". Aramis lẩm bẩm:
- Hết
rồi.
Porthos
không nhúc nhích.
- Bạn
đem Porthos đi, anh ấy sẽ chứng tỏ cho Nhà vua biết không có dính dáng gì đến
vụ này hết. Tôi sẽ giúp anh ấy nói và bạn d Artagnan, bọn mình sẽ giúp anh ấy.
D
Artagnan "hừ" một tiếng và hỏi.
-
Porthos, bạn muốn đi không, bạn muốn theo tôi không? Nhà vua rộng lượng lắm.
Porthos
trả lời một cách cao thượng:
- Xin để
tôi suy nghĩ đã.
- Thế
bạn muốn ở lại đây à?
D
Artagnan tiếp lời:
- Ở đến
lúc chúng ta tìm ra phương cách hay. Nhưng tôi nghĩ cũng chẳng lâu đâu vì tôi
đã có ý rồi.
Aramis
nói:
- Thôi
chúng ta chào nhau, Porthos ạ, bạn nên ra đi.
- Không.
Aramis
nghe tiếng trả lời âu sầu của bạn mà hơi chạnh lòng:
- Tuỳ ý
bạn. Tuy nhiên tôi cũng tin tưởng rằng d Artagnan đã có ý kiến giải toả mà tôi
nghĩ là tôi hiểu rồi đấy.
- Thử
xem, - người lính ngự lâm nói xong tiến lại nghiêng tai về phía Aramis.
Người
này nói nhanh vài tiếng và thấy d Artagnan gật đầu:
- Đúng
thế.
- Không
chạy sai vào đâu được, - Aramis vui sướng kêu lên.
- Aramis
ạ, ráng thu xếp vì cơn xúc động ban đầu có thể xảy ra đấy.
- Ô đừng
sợ.
D
Artagnan quay sang nói với người sĩ quan:
- Cám ơn
ông nghìn vạn lần. Ông vừa kết bạn chết sống với ba người đấy.
- Đúng,
- Aramis nói.
D
Artagnan âu yếm hôn hai người bạn lâu năm, rồi giã từ Belle-Isle, theo chân có
người bạn đường không rời của ông Colbert gởi đến.
Như thế
là, ngoài chuyện con người đáng quý trọng Porthos tạm bằng lòng chịu cách giải
thích như trên, thì rõ ràng là hình như số phận của người này người nọ không có
gì thay đổi hết. Aramis tự nhủ:
"Dù
sao, cũng có ý kiến giải quyết của d Artagnan rổi".
D
Artagnan vừa đi về tàu, vừa suy nghĩ kỹ về ý kiến mới phát hiện. Thế mà ai cũng
biết, d Artagnan suy nghĩ thì thế nào cũng ra chuyện. Còn viên sĩ quan thì im
lặng trở lại với vẻ trọng nể sự suy nghĩ của người chưởng quan.
Cho nên
khi bước chân xuống chiếc tàu đang neo ở cách Belle-Isle một tầm súng, d
Artagnan đã liều liệu được mọi cách tấn công và phòng vệ rồi. Ông gọi mọi người
phụ tá đến họp.
Tất cả
là tám người, một người trưởng lực lượng hải quân, một thiếu tá trưởng pháo
binh, một kỹ sư, người sĩ quan chúng ta đã biết và bốn trung uý.
Hội đồng
họp nơi phòng đằng sau lái. D Artagnan đứng lên, giơ mũ ra và bắt đầu lên
tiếng:
- Thưa
quý vị tôi vừa đến khảo sát Belle-Isle-en-Mer, tôi thấy quân trú phòng rất mạnh
và người ta chuẩn bị rất kỹ, có thể làm khó cho ta đấy. Cho nên tôi có ý bảo đi
mời hai sĩ quan chính phòng thủ ở đấy đến nói chuyện, để tách họ ra khỏi quân
họ. Như thế chúng ta dễ làm việc hơn. Quý vị nghĩ sao?
Người
chỉ huy trưởng pháo binh đứng lên nói với giọng cương quyết:
- Thưa
ngài, tôi vừa nghe ngài nói đảo ngược phòng thủ rất kỹ. Vậy ra họ muốn làm loạn
à?
D
Artagnan rõ ràng là bất ngờ trước câu nói đó, nhưng ông không phải là người dễ
chịu thua như thế, nên cứ tiếp tục:
- Thưa
ông, ông nói đúng. Nhưng ông chớ quên rằng Belle-Isle-en Mer là lãnh địa của
ông Fouquet. Các vua trước có cho phép các lãnh chúa ở đấy được quyền vũ trang.
Người
chỉ huy pháo binh định nói, nhưng d Artagnan ngăn lại:
- Ồ, xin
ông chớ ngắt lời tôi. Chắc ông muốn nói rằng quyền được vũ trang là để chống
người Anh chứ không phải chống vua ta. Nhưng nên biết rằng hiện nay không phải
ông Fouquet nắm quyền ở đảo, ông Fouquet bị tôi bắt hôm kia rồi. Dân chúng và
những người phòng vệ không biết gì về chuyện bắt bớ hết. Ông có thông báo cho
họ thì cũng vô ích thôi. Đây là chuyện thật lạ lùng, khó tin và bất ngờ. Thường
một người dân Breton chịu phục vụ chủ của người ấy, một người thôi, phục vụ cho
đến khi chủ chết. Thế mà người Breton này, theo tôi biết, thì chưa hề thấy được
xác của ông Fouquet. Cho nên không lấy làm lạ là người ấy chống với bất cứ ai
không phải là ông Fouquet hay là có chữ ký ông Fouquet.
Người
chỉ huy pháo binh nghiêng mình tỏ vẻ đồng ý.
D
Artagnan tiếp tục:
- Vì thế
mà tôi mới phải mời hai nhân vật chính của quân đồn trú ấy đến đây với tôi. Họ
sẽ gặp quý vị. Họ sẽ thấy được lực lượng của chúng ta. Họ sẽ biết nếu họ chống
lại thì số phận họ sẽ phải chịu như thế nào. Chúng ta sẽ lấy danh dự nói với họ
là ông Fouquet đã bị bắt rồi và mọi sự chống cự đều có hại cho họ hết. Chúng ta
sẽ nói với họ là một khi phát súng đầu tiên bắn ra thì chớ có trông đợi ở sự
thương xót của Nhà vua. Tôi chắc rằng, họ sẽ không chống cự nữa. Chúng ta sẽ
chiếm được đảo một cách êm thấm khỏi phải tốn một giọt máu nào hết.
Người sĩ
quan đi theo d Artagnan đến Belle-Isle định nói, nhưng d Artagnan ngăn lại:
- Ô,
thưa ông, tôi biết ông sắp nói gì rồi. Tôi biết là có lệnh Nhà vua ngăn cấm mọi
sự tiếp xúc bí mật với những người phòng thủ Belle-Isle, nhưng chính vì thế mà
hôm nay tôi mới họp bộ tham mưu.
Trong
khi d Artagnan vui mừng thấy mọi người chịu gửi một chiếc thuyền đi đón Porthos
và Aramis thì người sĩ quan của Nhà vua rút từ trong ngực áo ra một tờ giấy có
đóng dấu, đưa cho d Artagnan. Tờ giấy này có ghi số 1. Người lính ngự lâm ngạc
nhiên hỏi.
- Cái gì
thế này?
- Ông cứ
dọc đi - Viên sĩ quan lễ độ trả lời mà không giấu được chút buồn bã.
D
Artagnan mở ra và đọc:
"Cấm
ông d Artagnan tập họp bất cứ hội đồng nào hay bàn bạc bất cứ việc gì trước khi
chiếm được Belle- Isle, trước khi trị tội hết tù binh.
Ký:
Louis"
D
Artagnan cố nén một cử chỉ nóng nảy chạy khắp toàn thân rồi mỉm cười nhã nhặn:
- Thưa
ông, được, tôi phải tuân theo lệnh vua.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
43: Những ý nghĩ của nhà vua và ý nghĩ của ông d'Artagnan
Ngón đòn
đi thẳng vào đích, thật mạnh, chết người được.
D
Artagnan tức giận vì thấy Nhà vua đã đoán trước ý mình, nhưng không tuyệt vọng
và nhớ đến những suy tính trên đường từ Belle-Isle về, ông tính ra một cách nữa
để cứu các bạn. Ông nói:
- Thưa
quý vị, vì Hoàng thượng đã sai một người khác mang các mệnh lệnh bí mật, tức là
Hoàng thượng đã không tin cậy tôi nữa, tôi lại càng không xứng đáng nếu cứ ôm
giữ mãi cái quyền chỉ huy bị nghi ngờ này. Cho nên tôi sẽ đệ đơn xin từ chức
ngay. Tôi nói điều này trước mặt quý vị và sẽ đi cùng với quý vị về tới bờ nước
Pháp để khỏi làm hại cho lực lượng mà Hoàng thượng đã giao cho tôi, cho nên xin
quý vị trở về vị trí mình và cho lệnh quay mũi tàu. Một giờ nữa sẽ có thủy
triều lên. Thôi về chỗ đi!
Rồi ông
nói thêm khi thấy mọi người đều tuân lệnh, chỉ trừ viên trung sứ:
- Tôi
chắc là bây giờ quý vị không có phản đối phải không?
D
Artagnan tưởng như đã đắc thắng khi nói lên các lời này.
Kế hoạch
này sẽ cứu được các bạn ông. Cuộc bao vây không còn nữa, thì họ có thể lên tàu
trương buồm đi Anh hay đi Tây Ban Nha mà không phải lo lắng gì cả. Trong khi họ
chạy trốn, d Artagnan sẽ về đến bên vua, cho biết lý do ông quay mũi tàu là vì
ông Colbert quá nghi ngờ ông. Nhà vua chắc sẽ cho ông chỉ huy tiếp với đầy đủ
quyền hành để ông chiếm lấy Belle-Isle, nghĩa là chiếm cái lồng mà khỏi phải
bắt hai con chim đã bay thoát rồi.
Nhưng,
trước kế hoạch đó, người sĩ quan kia lại đưa một lệnh khác của vua:
"Nếu
khi ông d Artagnan tỏ ý muốn từ chức thì ông không còn tư cách chỉ huy; mọi sĩ
quan dưới quyền sẽ không nghe lệnh ông nữa. Ông d Artagnan mất địa vị người chỉ
huy trưởng đoàn quân đi đánh Belle-Isle, sẽ về Pháp ngay theo với người sĩ quan
cầm tờ điệp này với tư cách là tù nhân".
D
Artagnan dù đầy can đảm và vô tư lự cũng phải tái mặt.
Mọi sự
đều được tính toán thật kỹ càng khiến ông thấy đây là lần đầu sau ba mươi năm,
ông gặp lại sự trông xa không lầm lẫn và lối suy luận không sai chạy của ngài
Hồng y vĩ đại xưa kia.
Ông giơ
hai tay ôm lấy đầu, như nghẹt thở, suy nghĩ: "Nếu ta bỏ tờ điệp này vào
túi thì ai biết được để mà ngăn trở ta? Trước khi Nhà vua biết tin thì ta đã
cứu được các bạn rồi. Nào, hãy táo bạo lên. Cái đầu của ta không thể rơi vì bất
tuân thượng lệnh được. Không tuân?".
Nhưng
trong khi ông suy tính như thế thì thấy các sĩ quan chung quanh mỗi người đều
đang đọc tờ điệp như thế do người nhân viên truyền đạt tâm hồn tinh ranh, quỉ
quái của Colbert phân phát cho.
Trường
hợp bất tuân thượng lệnh cũng được tính trước rồi.
Viên
trung sĩ nói với ông:
- Thưa
ngài, tôi đợi ngài vui lòng cùng đi.
- Thưa
ông, tôi sẵn sàng rồi, - D Artagnan nói mà nghiến chặt hai hàm răng.
Viên sĩ
quan bảo một chiếc thuyền đến đưa d Artagnan đi.
Thấy
thế, d Artagnan nổi điên lên, lắp bắp:
- Thế
thì làm sao chỉ huy được các binh chủng ở đây.
- Ông đi
thì có tôi được lệnh chỉ huy hạm đội Hoàng gia, - người chỉ huy trưởng đoàn tàu
nói.
Người
tay chân của Colbert hỏi viên tư lệnh mới:
- À thế
là cái lệnh cuối cùng tôi nhận được là dành cho ông đấy. Xin cho coi lệnh.
- Đây
này, - người lính thủy đưa ra chữ ký của Nhà vua.
Viên trung
sứ trả lại tờ giấy và nói:
- Đây là
những chỉ thị gởi cho ông.
Rồi quay
sang d Artagnan, ông nói với giọng xúc động vì thấy nỗi tuyệt vọng của con
người sắt này:
- Thưa
ông, thôi xin ông vui lòng đi với tôi.
- Ngay
tức khắc - D Artagnan nói giọng yếu ớt, đành chịu khuất phục.
Thế là
ông bước lên con thuyền nhỏ mang ông về Pháp theo cơn gió thuận và được thủy
triều lên tiếp sức. Toán lính ngự lâm cũng đi theo ông.
Tuy
nhiên, người lính ngự lâm vẫn còn có chút hy vọng là sẽ đi nhanh được đến
Nantes và sẽ cố sức trình bày bênh vực các bạn trước mặt Nhà vua.
Chiếc
thuyền vút đi như tên bắn. D Artagnan thấy bờ biển hiện rõ bằng đường vạch đen
trên nền mây trắng ban đêm.
Đã hơn
một giờ ông không nói với người sĩ quan lời nào.
Thế rồi
ông nói nhỏ:
- Ô tôi
thật mong biết được các chỉ thị ban cho người tư lệnh mới như thế nào? Chắc các
chỉ thị đó mang tính hoà bình lắm phải không?
Ông nói
chưa dứt lời thì có tiếng đại bác gầm vang trên mặt sóng, rồi lại một tiếng
khác, hai hay ba tiếng nổ to hơn.
- Đã phát
pháo vào Belle-Isle, - người sĩ quan trả lời.
Chiếc
thuyền cũng vừa cập bến đất Pháp.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
44: Tổ tông của Porthos
Khi d
Artagnan rời Porthos và Aramis thì cả hai trở về đồn chính để nói chuyện được
tự do hơn. Porthos vẫn có dáng trầm tư khiến Aramis thấy khó chịu tuy rằng tâm
trí ông cũng không mấy thư thái. Ông bỗng lên tiếng:
- Này
Porthos, để tôi nói cho bạn nghe sự suy tính của d Artagnan. - Thế này, d
Artagnan sẽ xin Nhà vua cho từ chức và trong cơn rối loạn vì anh ta vắng mặt
thì chúng ta ra đi hay nói đúng hơn là bạn sẽ ra khơi, Porthos ạ, một mình bạn,
nếu trường hợp chỉ có thể để cho một người thoát thôi.
Đến đây
thì Porthos lắc đầu:
- Chúng
ta cùng trốn, Aramis ạ, hay là cùng ở lại thôi.
- Bạn
thật có lòng tốt, nhưng tôi không vui được khi thấy nét mặt lo lắng của bạn.
Porthos
đáp:
- Tôi có
lo lắng gì đâu?
- Bạn
không bằng lòng tôi phải không?
- Tôi
không có gì không bằng lòng bạn cả.
- Thế
thì, bạn ơi, sao lại có nét mặt sầu thảm thế?
- Để tôi
nói cho nghe: tôi đang làm tờ di chúc.
Trong
khi nói những lời đó, con người tốt bụng Porthos buồn bã nhìn Aramis.
- Di
chúc? Sao? Bạn nghĩ là thất bại rồi ư?
- Tôi
cảm thấy mệt mỏi. Lần đầu tiên đấy. Và trong gia đình cũng có chung một sự kiện
quen thuộc.
- Gì
đấy, bạn?
- Ông
nội tôi còn khỏe hơn tôi gấp hai lần.
Aramis
kêu lên:
- Ồ! ồ!
Đúng ông nội bạn là Samson(1) rồi.
- Không,
ông tên là Antoine. Lúc ông sống đến tuổi như tôi, có một hôm sắp đi săn, ông
cảm thấy đôi chân yếu đi chuyện không bao giờ xảy ra đấy.
- Mệt
như thế là làm sao?
- Dấu
hiệu chẳng lành đấy. Trong lúc ra đi mà bụng cứ phàn nàn về đôi chân yếu đuối,
ông gặp một con heo rừng húc lúc ông giơ súng bắn hụt nên bị tan xác chết ngay.
- Nhưng
mà đó không phải là lý do để bạn hoảng hốt, Porthos ạ.
- Không,
rồi bạn sẽ thấy. Cha tôi có lúc mạnh như ông. Đó là một chiến sĩ từng xông pha
nhiều trận mạc dưới thời Henri III, Henri IV. Ông không phải tên Antoine mà là
Gaspard như ông De Coligny. Lúc nào ông cũng xông xáo trên ngựa, không biết mệt
là gì. Một buổi tối, khi đứng dậy rời bàn ăn, ông ngã khuỵu xuống.
Aramis
nói:
- Chắc
là tại ăn uống không đầy đủ đấy chứ?
- Ồ
không phải đói đâu. Ông lạ lùng vì sự yếu ớt đó và nói với bà nội tôi lúc bà
dìu ông. "Không biết chừng tôi sắp gặp một con heo rừng như ông già chứ
gì?".
- Thế
rồi sao? - Aramis hỏi.
- Thế
rồi, mặc cho đôi chân yếu, ông vẫn không chịu đi nằm mà lại muốn xuống dưới
vườn. Mới ở bậc cấp đầu ông đã hụt chân. Thang lầu rất dốc, cha tôi ngã lăn đập
vào một cạnh đá có gắn một cái bản lề sắt. Miếng bản lề đâm vào thái dương, ông
chết ngay tức khắc.
Aramis
ngước mắt nhìn bạn nói:
- Hai
trường hợp thật lạ lùng. Nhưng thôi đừng nghĩ là có trường hợp thứ ba. Một con
người sung sức như bạn không thể tin nhảm được, bạn Porthos ạ. Với lại đôi chân
bạn đâu có sụn. Bạn vẫn cứng cáp mạnh khỏe vô cùng; bạn đủ sức nhấc cả toà nhà
đó ấy.
Porthos
nói:
- Bây
giờ thì tôi chẳng có gì, nhưng lúc nãy có hồi tôi xiểng niểng, tôi muốn sụn
xuống và đến bốn lần xảy ra như thế. Chuyện đó không làm cho tôi sợ đâu, nhưng
chỉ làm tôi bất mãn thôi, vì được sống thì thật là đẹp. Tôi có tiền, có đất
sinh lợi, có ngựa tốt, có bạn thân yêu: d Artagnan, Athos, Raoul, và bạn.
Con
người tuyệt vời Porthos cũng không giấu tình cảm mình dành cho Aramis khi lần
lượt kể ra chuyện đó. Aramis nắm tay bạn nói:
- Chúng
ta còn nhiều năm nữa đấy để cho thế giới còn giữ được những con người hiếm
thấy. Bạn cứ tin tôi đi. Chúng ta không có lời đáp của d Artagnan là điềm tốt
đấy. Chắc anh ta đang ra lệnh gom hạm đội và rút khỏi vùng biển này. Lúc nãy
tôi vừa ra lệnh đẩy một chiếc thuyền trên các khúc gỗ lăn cho tới chỗ cửa động
Locmaria nơi mà bạn biết là chúng ta đã đứng rình chồn cáo nhiều lần đấy.
- Đúng,
động ấy thông với vịnh biển hẹp qua một ngách mà có hồi chúng ta đã khám phá ra
khi đuổi theo con chồn đó.
- Khi
nguy biến, ta giấu một chiếc thuyền trong động mà bây giờ chắc đã có rồi. Chúng
ta ở đấy chờ đêm tối thuận tiện để ra đi.
- Ý kiến
thật hay, chúng ta được lợi gì mà ở đấy?
Chúng ta
được lợi là không ai biết được cái động ấy cả, không biết lối ra, trừ hai hay
ba tay săn trên đảo, chúng ta được lợi là nếu đảo bị chiếm, trinh sát địch
không thấy thuyền bè bên bờ tưởng rằng không ai có thể thoát được nên không ngó
ngàng đến.
- Tôi
hiểu rồi.
- Thế
còn đôi chân thì sao?
- Ồ lúc
này thì tốt lắm.
- Bạn
thấy rõ là tất cả mọi sự đều giúp chúng ta yên tâm và đầy hy vọng. D Artagnan
giải toả mặt biển cho chúng ta. Không còn sợ hạm đội Hoàng gia hay cuộc đổ bộ
nào cả. Thượng đế muôn năm! Porthos ơi, chúng ta còn có cả nửa thế kỷ nữa để
vùng vẫy và nếu ta đi được Tây Ban Nha thì tôi dám hứa với bạn là tước hầu của
bạn nắm chắc trong tay rồi.
- Cứ hy
vọng đi - Porthos trả lời, hơi vui lên vì lây cái nhiệt thành của bạn.
Bỗng
nhiên có tiếng hô to:
- Chiến
đấu.
Aramis
ra mở cửa sổ, thấy một đám đông cầm đuốc chạy đi. Đàn bà tản ra, đàn ông mang
vũ khí về vị trí của mình. Một binh sĩ nhận ra Aramis, kêu lên:
- Hạm
đội! Hạm đội!
- Hạm
đội à?
- Ở cách
nửa tầm súng thôi, - người lính tiếp lời.
- Aramis
gào to:
- Chiến
đấu!
Porthos
tiếp lời vang dội.
- Chiến
đấu!
Rồi cả
hai tung người về phía kè đá, nấp sau các khẩu pháo. Người ta thấy có những
chiếc xuồng đầy binh sĩ tiến về ba hướng để đổ quân ở ba nơi khác nhau. Một sĩ
quan phòng thủ hỏi:
- Bây
giờ làm thế nào?
Aramis
trả lời:
- Ngăn
họ lại, nếu họ tiếp tục tiến thì bắn?
Năm phút
sau từng loạt đại bác nổ vang rền. Đó là những tiếng súng d Artagnan nghe khi
đang về Pháp.
Nhưng
các xuồng đã tiến lại quá gần nên súng bắn không trúng. Chúng áp sát bờ và mọi
người giáp mặt nhau chiến đấu.
-
Porthos, sao thế? - Aramis hỏi bạn.
- Không
có gì. Đôi chân thật khó hiểu chúng. Cứ đánh đi rồi chúng sẽ trở lại bình
thường.
Quả thật
Porthos và Aramis bắt đầu chiến đấu thật hăng, họ thúc đẩy quân lính hăng hái
đến mức phe Hoàng gia phải vội vàng rút lui xuống xuồng, chỉ kịp mang người bị
thương thôi.
Aramis
kêu lên:
-
Porthos, phải bắt cho được một tù binh, nhanh, nhanh lên.
Porthos
cúi xuống bậc cấp kè đá, nắm lấy cổ một sĩ quan Hoàng gia đang đứng chờ mọi
người xuống xuồng hết mới bước theo. Cánh tay người khổng lồ chụp lấy con mồi
giơ lên làm mộc che trong khi ông bước lên không có một tiếng súng nào đuổi
theo.
- Tù
binh đây, - Porthos nói với Aramis.
Ông này
cười to:
- Này,
cái chân giỏi quá.
- Tôi
không bắt người tù bằng chân đâu, tôi bắt bằng tay, - Porthos buồn bã trả lời.
Chú thích:
(1) Samson, nhân vật thần thoại có sức mạnh
tuyệt luân
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
45: Người con của Biscarrat
Đám
người Breton trên đảo đều hãnh diện vì chiến thắng.
Aramis
không khuyến khích họ chút nào. Khi mọi người lui hết, ông mới nói với Porthos:
- Chuyện
chắc phải xảy ra là khi Nhà vua nghe được chuyện kháng cự này thì tất nổi giận
hơn lên và những con người can đảm kia hẳn sẽ bị giết hết hoặc bị thiêu hết khi
đảo bị chiếm, mà chắc sẽ không lâu đâu.
Porthos
hỏi:
- Như
thế là chúng ta làm việc đó vô ích à?
- Ngay
lúc này thì không vô ích đâu. Vì chúng ta có một tù binh rồi, ta có thể hỏi xem
kẻ thù của ta chuẩn bị những gì.
- Phải,
ta hỏi hắn, cách làm dễ nhất là chúng ta đi ăn, ta mời hắn, hắn sẽ nói lúc ăn
uống.
Họ thực
hiện như đã nói. Viên sĩ quan lúc đầu hơi lo lắng, nhưng rồi lại yên tâm khi
biết được ông ta tiếp xúc với ai rồi.
Ông
không sợ bị vạ lây, kể rõ tất cả những chi tiết và chuyện d Artagnan từ chức và
ra đi. Ông giải thích rằng sau đó, người tư lệnh mới ra lệnh bất ngờ tấn công
Belle-Isle. Tới đó thì ông không còn biết gì thêm.
Aramis
và Porthos tuyệt vọng đưa mắt nhìn nhau.
Aramis
tiếp tục cuộc thẩm vấn tù binh hỏi xem phe Hoàng gia dự định làm gì đối với
những thủ lĩnh trên đảo Belle-Isle.
Người
này trả lời:
- Lệnh
là trong lúc đánh nhau thì giết hay bắt rồi treo cổ.
Aramis
và Porthos lại nhìn nhau. Mặt hai người đỏ lên.
Aramis
nói:
- Tôi
nhẹ cân lắm, treo không được, thứ người như tôi không để chết treo đâu.
Porthos
nói:
- Còn
tôi thì quá nặng, thứ như tôi thì đứt dây mất.
Người tù
lịch sự nói:
- Tôi
chắc rằng chúng tôi sẽ để cho các ngài tự chọn cái chết.
- Xin
cảm ơn ngàn lần, - Aramis nghiêm giọng nói.
Porthos
nghiêng mình nâng cốc:
- Thêm
một ly chúc mừng sức khỏe của ông.
Từ
chuyện này sang chuyện khác, bữa ăn kéo dài ra; viên sĩ quan vốn là nhà quý tộc
tinh tế nên nghiêng dần dần cảm tình về phía Aramis, con người thông minh đến
mức hấp dẫn và Porthos tốt bụng, xuề xoà. Ông nói:
- Xin
lỗi cho tôi hỏi một câu. Vì rằng ai uống đến chai thứ sáu thì cũng có quyền
được quên một ít.
Porthos
nói:
- Hỏi
đi! Hỏi đi!
- Có
phải hai người đã từng là lính ngự lâm phải không?
- Thưa
ông, phải, và là dân thượng thặng nữa. - Porthos trả lời.
- Đúng
vậy: tôi có thể nói các ông là người giỏi nhất trong các chiến sĩ đấy. Nói thế
chắc là không động chạm đến vong linh thân phụ của tôi đâu.
Aramis
kêu lên:
- Thân
phụ của ông là ai?
- Ông
biết tôi tên là gì không?
- Ồ
không, nhưng chắc ông chịu nói.
- Tôi
tên là Georges De Biscarrat.
Đến lượt
Porthos reo lên:
- A!
Biscarrat? - Aramis nhớ không?
-
Biscarrat à? Hình như Người sĩ quan nói:
- Ông
chịu khó nhớ xem
Porthos
nói:
- Đúng
rồi. Biscarrat tự Hồng y, một trong bốn người, vào ngày chúng ta kết thân với d
Artagnan đã đến chặn chúng ta lại, tay lăm lăm cây gươm.
- Thưa
các ông, đúng lắm rồi.
Aramis
hấp tấp nói:
- Con
người độc nhất mà chúng ta không làm bị thương.
- Vì là
một tay kiếm cừ, - người tù binh nói.
Cả hai
người bạn reo lên:
- Đúng
rồi, đúng rồi! Trời. Chúng tôi rất lấy làm hân hạnh được biết một con người
đáng kính như ông, ông De Biscarrat ạ.
Họ giơ
tay cho Biscarrat nắm chặt. Aramis nhìn Porthos như muốn nói: "Đây là
người sẽ giúp chúng ta", rồi nói ngay tức khắc:
- Phải
công nhận là làm một con người tốt cũng thật thú.
- Phụ
thân tôi cũng nói như thế.
- Phải
nhận thêm nữa là thật buồn khi phải gặp người nhất định là sẽ bị bắn hay treo
cổ, và nhất định khi biết rằng những người đó thuộc hạng quen biết cũ, trúc mai
chi mã đấy.
Chàng
tuổi trẻ nồng nhiệt nói:
- A, các
ông, các bạn ơi, không thể nào đến cùng đường như thế đâu.
- Ô, ông
nói thế.
- Lúc
tôi mới gặp các ông tôi nói thế rồi, bây giờ biết các ông tôi xin nói rõ. Nếu
muốn, các ông có thể thoát khỏi tai kiếp này.
- Tại
sao là: "Nếu muốn"? - Aramis kêu lên và đưa đôi mắt tinh anh nhìn
người tù rồi nhìn Porthos.
Porthos
cũng nhìn lại với sự cứng cỏi đáng phục:
- Miễn
là đừng bắt chúng tôi phải làm chuyện hèn hạ là được!
Nhà quý
tộc của quân đội Hoàng gia tiếp:
- Không
ai đòi các ông điều gì hết. Sao ông lại muốn người ta đòi hỏi ông? Nếu người ta
tìm được ông thì hết chuyện nói rồi. Cho nên các ông phải làm sao cho người ta
không tìm được các ông.
Porthos
nói thật oai vệ:
- Tôi
chắc không lầm đâu, muốn tìm được chúng tôi thì phải tới tận đây mới được.
- Về
chuyện này thì bạn hoàn toàn có lý rồi, - Aramis tiếp lời mà mắt vẫn nhìn dò
hỏi nơi nét mặt của Biscarrat lúc này đang im lặng và nén mình, - Thưa ông De
Biscarrat, có phải ông muốn nói với chúng tôi điều gì đấy, muốn mở đường nào
cho chúng tôi thật đấy không?
- Ồ các
ông, các bạn của tôi; nói ra thì tôi lại phải với điều lệnh mất thôi. Nhưng
nghe kìa, có tiếng gì khoả lấp tiếng của tôi đây.
- Tiếng
súng đại bác. - Porthos nói.
Người ta
nghe có tiếng đại bác gầm đằng xa, giữa núi đá, tiếng súng ghê hồn trong một
trận chiến ngắn ngủi. Porthos hỏi:
- Cái gì
thế?
Aramis
kêu lên:
- Thôi
dúng rồi, đúng như tôi nghi rồi.
- Sao?
- Cuộc
tấn công của ông chỉ là giả vờ phải không thưa ông? Trong khi các đội của ông
bị đẩy lùi thì chắc chắn là sẽ có một toán đổ bộ được phía bên kia đảo.
- Thưa
ông, nhiều toán lắm.
- Thế là
ta nguy rồi, - viên giám mục Vannes bình tĩnh nói.
Viên
lãnh Chúa Pierrefonds trả lời:
- Có thể
là nguy. Nhưng chúng ta không dễ bị bắt, không dễ bị treo cổ đâu.
Nói
xong, ông đứng dậy, tiến lại gần bức vách, lạnh lùng rút gươm, rút súng, đĩnh
đạc như một người lính già sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng gởi gắm cả cuộc đời
mình vào những vũ khí hoạt động tốt, hiệu quả cao của mình.
Aramis
xuất hiện giữa hai cây đuốc nơi cánh cửa sổ ngó ra cái sân lớn lúc này đầy binh
sĩ đang đợi lệnh và đám dân chúng đang cầu khẩn mong được cứu giúp. D Herblay
lên giọng nghiêm nghị vang vang.
- Các
bạn, ông Fouquet, người bảo vệ các bạn, người bạn thân, người cha các bạn đã bị
Nhà vua cho lệnh bắt và ném vào ngục Bastille rồi.
Một
tràng tiếng kêu la giận dữ, đe doạ vang lên đến tận khung cửa sổ người giám mục
đang đứng khiến không khí quanh đó như rung chuyển lên. Những người quá khích
la lên:
- Chúng
ta hãy trả thù cho ông Fouquet! Giết hết bọn bảo hoàng!
Aramis
nghiêm nghị trả lời:
- Không
các bạn ạ, chớ chống cự? Nhà vua là kẻ mang mệnh trời. Thượng đế và Nhà vua đã
đánh ông Fouquet. Các bạn nên chịu trách nhiệm trước bàn tay Thượng đế. Nhưng
chớ tìm cách trả thù cho người chủ các bạn; làm thế các bạn sẽ hy sinh vô ích
vợ con, tài sản và thân xác các bạn: các bạn hãy buông súng xuống rồi trở về
nhà. Chính tôi xin các bạn làm như thế, khẩn cầu các bạn như thế, tôi, người đã
thay mặt ông Fouquet để chỉ huy các bạn đây.
Đám đông
xúm xít dưới cửa sổ la lên một tràng dài rền vang đầy nỗi tức giận và sợ hãi
lẫn lộn, Aramis tiếp:
- Binh
sĩ của Louis XIV đã vào đảo rồi. Từ nay giữa họ và các bạn không có đánh nhau
nữa, đánh nhau thì phải tàn sát thôi. Thôi đi đi, về đi và quên đi. Lần này là
tôi nhân danh Chúa ra lệnh cho các bạn đấy!
Những
người bạo loạn chịu khuất phục lẳng lặng rút lui tù từ Porthos nói:
- Úi dà,
bạn ơi, bạn vừa nói gì thế?
Biscarrat
nói:
- Thưa
ông, ông vừa cứu được dân chúng của ông, nhưng không cứu được bạn ông và ông.
Người
giám mục Vannes nói với một giọng cao cả, dịu dàng đến mức lạ lùng:
- Thưa
ông De Biscarrat, xin ông vui lòng lấy lại tự đo của ông.
- Thưa
ông, tôi rất sẵn sàng, nhưng mà…
- Nhưng
mà ông làm thế là giúp chúng tôi. Vì khi báo cho người giúp Nhà vua biết việc
dân chúng trên đảo chịu thần phục thì ông cũng có thể kiếm cách nào đó chen vào
lời nói xin tha cho chúng tôi.
Porthos
mắt toé lửa:
- Xin
tha? Xin tha? Cái gì thế?
Aramis
thúc cùi chỏ thật mạnh vào người bạn như ông đã làm thời trẻ tuổi xưa, lúc ông
muốn báo cho Porthos biết ông đã làm hay sắp làm điều gì đó. Porthos hiểu nên
nín bặt, Biscarrat cũng hơi ngạc nhiên vì từ xin tha đó thốt ra từ miệng của
người lính ngự lâm kiêu hãnh mới vừa say sưa kể lại những chiến tích trong đời
mình.
- Thưa
các ông, tôi sẽ đi.
Aramis
cúi chào:
- Xin
ông cứ đi, ông De Biscarrat, ạ, và xin thành thật cảm ơn ông trước.
Người sĩ
quan cảm động, nói lời từ giã hai người cựu thù của phụ thân ông.
- Quý
ông là những người tôi thật hân hạnh lúc này được gọi là bạn, theo như các ông
muốn thế, nhưng rồi các ông sẽ ra sao?
- Chúng
tôi chờ đợi ở đây. Tôi là giám mục Vaunes, ông De Biscarrat ạ. Chắc người ta
không giết một linh mục đâu, cũng như người ta không treo cổ một nhà quý tộc
đâu.
- Ồ thưa
ngài, thưa quý ngài, đúng rồi. Đúng, ngài có lý, ngài còn có điều may đó. Thôi
tôi đi về với người chỉ huy chiến dịch. Xin vĩnh biệt, ồ, xin tạm biệt.
Aramis
nhìn anh ta đi và chỉ còn lại một mình với Porthos.
- Sao?
Bạn hiểu chưa?
- Thật
tình chưa.
-
Biscarrat ở đây vướng chân bạn phải không?
- Không
đâu, thằng bé được lắm.
- Nhưng,
cái hang Locmaria đâu có cần cho mọi người biết.
- Ồ,
đúng, đúng rồi. Tôi hiểu rồi. Ta chui theo đường hầm.
Aramis
trả lời:
- Xin
mời, mời bạn Porthos lên đường. Thuyền đang chờ chúng ta và Nhà vua chưa chộp
được chúng ta đâu.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
46: Trong động Locmaria
Động
Locmaria ở khá xa kè đá nên hai người bạn của chúng ta phải giữ sức để đi cho
tới nơi.
Họ đi qua
cánh đầm lầy nằm giữa kè đá và động, tai lắng nghe mọi động tĩnh và cố tránh
tất cả những chỗ phục kích. Họ đi thật vội vã, nhưng vẫn nhiều lần phải thận
trọng dừng lại và cuối cùng đến cái động mà trong đó ông giám mục Vannes lo xa
đã để sẵn một chiếc thuyền trên đà gỗ lăn để có thể ra khơi bất cứ thời tiết
nào. Sau khi thở dốc, Porthos nói:
- Bạn ạ,
hình như đến nơi rồi. Nhưng cũng hình như bạn có nói với tôi rằng có ba người,
ba người giúp việc đi theo, thế họ đâu rồi?
Aramis
trả lời:
-
Porthos thân mến ơi, làm sao ta thấy được. Chắc họ đang ở trong hang và không
biết chừng lại nằm ngủ đâu đó sau khi làm xong công vlệc mệt nhọc khó khăn này
đấy.
Ông giơ
tay ngăn khi thấy Porthos muốn đi vào động:
- Bạn để
cho tôi đi trước được không? Tôi biết tín hiệu đã thỏa thuận với những thuộc hạ
của tôi, nếu không họ lại bắn vào anh hay cho anh một nhát dao từ trong bóng
tối thì phiền.
- Đi
trước đi, Aramis, bạn thì lúc nào cũng khôn ngoan cẩn thận. Tôi cũng đang phải
chịu cơn mệt mà tôi đã nói với bạn đấy!
Aramis
để Porthos ngồi trước cửa động, rồi cúi đầu đi vào bên trong, miệng kêu giả
tiếng cú rúc. Sâu bên trong động, có tiếng cu gù nho nhỏ đáp lại.
Aramis
tiếp tục bước thận trọng và dừng ngay lại lúc nghe có tiếng gù như lần đầu,
cách ông độ mươi bước.
Ông hỏi:
- Yves
đấy phải không?
- Thưa
Đức ông vâng. Có cả Goerrec và con anh ấy theo ta.
- Tốt,
mọi sự êm xuôi cả đấy chứ?
- Thưa
Đức ông, vâng.
Anh ra
ngoài cửa động gặp nhà quý tộc xứ Pierrends ở đấy đang ngồi nghỉ mệt, đang bước
xuống từng bước nặng nề vang động giữa hàng cột đá hoa cương chống trần hang.
Aramis nói:
- Chúng
ta đi thăm chiếc thuyền xem thử chứa gì trong ấy?
Chủ
thuyền Yves nói:
- Chớ
đem đèn gần quá vì như theo lời ngài dặn, nơi phía lái tôi đã để thùng thuốc
súng với đạn pháo tay gởi từ đồn tới.
- Được
rồi, - Aramis trả lời.
- Thế
rồi ông cầm đèn đi soi kỹ lưỡng mọi ngóc ngách trên thuyền với cung cách của
một con người đứng trước nguy hiểm không hề nhút nhát, sợ sệt.
Chiếc
thuyền dài, nhẹ, nổi nhiều, là loại ở Belle-Isle đóng kỹ, lườn hơi cao, vững
vàng dưới nước, rất dễ sử dụng và có trang bị những tấm ván che cho người chèo
và ngăn sóng đập vào khi biển động. Trong hai thùng đậy kín, đặt dưới mũi
thuyền và sau lái, Aramis thấy có sẵn bánh mì, bánh bích quy, trái cây khô thịt
mỡ và các bình đầy nước, tất cả đủ cung cấp cho mọi người ở đấy. Vũ khí gồm có
súng trường và súng lục cho người kỵ sĩ, đều ở tình trạng tốt và có lắp đạn
sẵn. Có các mái chèo dự bị trong trường hợp hư gãy và một chiếc buồm nhỏ không
làm nặng thuyền mấy để phụ cho các tay chèo khi có gió thổi.
Khi
Aramis xem xét xong, ông rất bằng lòng và nói với Porthos.
- Bây
giờ chúng ta phải xem thử nên kéo thuyền qua phía cửa hang bên kia hay là đem
thuyền ra ngoài, kéo trên các cục lăn qua các bụi rậm, qua vách đá cao tới hai
mươi bộ, nhưng xuống ngay được chỗ nước sâu.
Chủ
thuyền Yves kính cẩn trả lời:
- Tôi
thấy là theo độ dốc và theo bóng tối đen của động thì con đường chuyển thuyền
của ta cũng không tiện bằng lối chuyển ngoài trời đâu. Tôi biết vách đá đó, tôi
cam đoan nó bằng phẳng như là bãi cỏ trong vườn thôi. Phía trong động thì gồ
ghề chưa kể là phía đầu kia phải qua các ngách chưa chắc thuyền ta đã lọt được
đấy.
Người
giám mục trả lời:
- Tôi đã
tính rồi, chắc chắn là lọt qua được.
Người
chủ thuyền gắng cản:
- Thưa
Đức ông, tôi cũng mong như thế. Nhưng ngài cũng biết là muốn qua ngách phải đẩy
hòn đá lớn, nơi con chồn luồn qua phía dưới để vào ngách động đấy.
Porthos
nói:
- Không
sao đâu. Đẩy nó đi.
- Ồ, tôi
biết Đức ông có sức bằng mười người, nhưng sợ làm Đức ông mệt nhiều.
Aramis
nói:
- Ông
chủ thuyền nói có lý. Thôi, hãy thử đẩy thuyền ra ngoài xem sao.
Người
chủ thuyền nói tiếp:
- Thêm
nữa là vì nếu phải bỏ công nhiều quá thì chúng ta không thể đi trước lúc trời
sáng được mà sáng ra thì ta cần phải đặt ngay thuyền nơi cửa động đến canh
chừng các tàu tuần tình mò chúng ta.
- Đúng,
Yves ạ, anh nói phải đấy. Ta đi về phía bờ đá vậy.
Ba người
Breton lực lưỡng đặt đòn lăn dưới thuyền sắp đẩy đi thì có tiếng chó sủa đằng
xa vọng qua cánh đồng. Aramis vụt ra khỏi hang. Porthos theo sau.
Trời
rạng ra, nhuộm các đảo và cánh đồng một màu hồng nhạt và màu sáng bạc mờ mờ.
Trong làn ánh sáng chập choạng, những cây thông nhỏ rũ buồn vặn vẹo trên vách
đá và từng đàn quạ lượn đôi cánh đen sà xuống các đồng lúa kiều mạch lưa thưa.
Tiếng chó sủa kéo vọng dài trong hẻm núi sâu, cách hang chừng một dặm. Porthos
nói:
- Chó
săn đấy? Chúng được cho đi đánh hơi.
Aramis
nghĩ:
- Gì
thế? Ai mà lại đi săn vào lúc thế này?
Porthos
tiếp:
- Và lại
săn ở đây, ở nơi ta đang sợ bọn lính Hoàng gia đến!
- Tiếng
chó gần lại rồi, Porthos, bạn có lý đấy. Chúng đang dò theo vết con mồi.
Rồi ông
vụt kêu lên:
- Ơ,
Yves, Yves đến đây nhanh lên.
Yves
đang cầm thanh gỗ định chèn dưới thuyền, nghe tiếng vị giám mục kêu vội bỏ đấy
chạy lại.
Porthos
hỏi:
- Chuyện
đi săn như thế này là nghĩa lý gì?
Người
Breton trả lời:
- Thưa
Đức ông, tôi cũng không biết. Nhà quý tộc ở Locmaria đâu có thể đi săn vào lúc
này được. Thế mà, bọn chó.
- Chắc
là chúng sổng chuồng?
- Không,
- Goennec nói, - không phải chó của nhà quý tộc Locmaria.
Aramis
tiếp:
- Cẩn
thận hơn hết là ta đi vào động. Tiếng chó đến gần rồi, chốc nữa, ta sẽ biết là
của ai.
Họ đi
vào mới được năm bước trong bóng tối thì có tiếng thở ồ ồ của một con vật hoảng
hốt nổi lên trong động, rồi một con chồn thở hồng hộc vụt chạy qua trước mặt
bọn người trốn nấp, nhảy qua chiếc thuyền rồi biến mất để lại phía sau mùi xạ
thỏang vài giây dưới vòm động.
- Con
chồn! - Đám người Breton kêu lên theo thói quen của tay săn giật mình.
- Rủi
cho chúng ta, - Aramis kêu lên - chỗ chúng ta núp bị lộ rồi.
Porthos
hỏi:
- Sao
thế? Sao chúng ta lại sợ con chồn?
- Ờ, bạn
ơi, nói gì thế, ta sợ gì con chồn? Không phải chuyện đó đâu. Bạn không biết là
sau con chồn là đến con chó, sau chó là người sao?
Như để
xác nhận lời của Aramis, bầy chó săn hung hăng theo vết con vật chạy ào tới như
gió lốc. Sáu con chó cùng lúc ló ra từ phía đầm lầy, sủa vang như tiếng kèn
thắng trận. Aramis đứng nấp sau kẽ hở của hai hòn đá, nhìn ra và nói:
- Có đây
rồi, người đâu?
Người
chủ thuyền nói:
- Nếu là
nhà quý tộc ở Locmaria thì ông ta không vào mà để chó tự lùng trong hang, vì
ông ta biết chỗ, cứ để chúng đuổi theo và ông ta qua bên cửa kia đón sẵn con
chồn.
- Không
phải nhà quý tộc ở Locmaria đi săn, - vị giám mục trả lời mà tái mặt.
- Thế
thì là ai? - Porthos hỏi.
- Trông
kìa!
Porthos
nép sát vào lỗ hổng và thấy trên đồi có khoảng mười hai người kỵ sĩ đang thúc
ngựa theo sau bầy chó.
- Quân
cận vệ.
- Đúng
đấy bạn, cận vệ của Nhà vua.
- Thưa
Đức ông, cận vệ của Nhà vua à? - Những người Breton xanh mặt nói theo.
Aramis
nói tiếp:
- Có
Biscarrat dẫn đầu, cỡi ngựa xám.
Cùng lúc
ấy, bọn chó chạy ùa vào động như nước lũ và cả vách đá vang lên tiếng sủa điếc
tai. Aramis lấy lại tất cả bình tĩnh trước mối hiểm nguy không gì tránh được
đó.
- Chúng
ta nguy rồi. Nhưng ít ra ta cũng còn có một cơ hội may mắn. Nếu bọn lính cận vệ
theo chó đến đây thấy có lối vào hang thì hết hy vọng vì vào thì chúng thấy
thuyền, thấy chúng ta mất. Cho nên không để cho bọn chó ra, không để cho chủ
chúng vào.
Vị giám
mục tính toán thật chính xác và nhanh chóng theo lối quen chỉ huy:
- Các
anh hiểu không? Sáu con chó thế nào cũng phải dừng lại trước tảng đá mà con
chồn chui qua được nhưng chó không qua được và phải bị giết.
Những người
Breton cầm dao chạy tới. Vài phút sau có những tiếng ư ử xen lẫn tiếng rú, rồi
không có gì nữa cả. Aramis lạnh lùng nói:
- Tốt.
Bây giờ tới phiên chủ chúng.
Porthos
hỏi:
- Làm gì
đây?
- Đợi
chúng đến, nấp đi và giết.
- Giết
à?
Aramis
bảo:
- Phải
xong trong mười phút. Nào? Yves, Goennec và chú em trai đưa súng cho chúng tôi.
Porthos đợi đến đúng tầm tay hắn. Chúng ta sẽ giết ngay tám người trước khi
chúng kịp trở tay. Chúng ta sẽ tiễn chúng đi bằng dao găm.
Porthos
hỏi:
- Còn
anh chàng Biscarrat đáng thương thì sao?
Aramis
nghĩ ngợi một chút rồi lạnh lùng nói:
- Giết
Biscarrat trước. Vì hắn biết chúng ta.
Mặc dầu
Aramis thật giỏi tính toán, nhưng chuyện xảy ra toàn là tình cờ, nên không diễn
ra như ý ông tiên liệu.
Người sĩ
quan có ngựa tốt hơn nên đến ở cửa động trước các bạn và biết ngay là chồn; chó
đều chui vào đấy. Tuy nhiên, cũng như bất cứ ai vẫn thường sợ các ngách động
tối đen, anh ta dừng lại và chờ người đi theo tụ tập. Cả đoàn người thở dốc
ngạc nhiên trước sự bất động của bạn.
- Sao?
- Không
nghe tiếng chó nữa. Có lẽ chồn và chó đều vào sâu trong hang hết cả rồi.
Một
người lính cận vệ nói:
- Chúng
theo sát lắm, không lạc được mồi đâu. Với lại, chúng ở ngoài thì ta cũng nghe
tiếng nơi này hay nơi khác. Vậy chắc như lời Biscarrat, chúng phải ở trong động
này.
Một
người khác:
- Nhưng
lạ làm sao là ta không nghe tiếng chó nữa?
Lại một
người khác:
- Lạ
thực.
Một
người thứ tư:
- Thế
thì ta vào động đi. Có lệnh cấm vào không?
Biscarrat
trả lời:
- Không
có. Nhưng mà tối quá, ngã gãy cổ đấy.
Một
người lính cận vệ:
- Bọn
chó không gãy cổ mà! Chúng ra sao hết rồi?
Một
người chủ gọi tên chó của mình, huýt gọi theo lối quen thuộc, nhưng không có
tiếng nào đáp lại. Biscarrat nói:
- Không
lẽ động có ma. Để xem sao.
Anh ta
xuống ngựa, cất bước vào động.
- Đợi
đợi tôi theo với, - một người lính cận vệ kêu với theo khi thấy Biscarrat sắp
sửa biến vào vùng tranh tối tranh sáng.
Biscarrat
trả lời:
- Không,
chắc có điều gì lạ đây, đừng liều, nếu trong mười phút nữa không có tin tôi thì
các anh hãy vào, mà vào một lượt.
- Được
rồi, chúng tôi đợi, - những người trẻ tuổi trả lời vì tin rằng Biscarrat chẳng
gặp nguy hiểm gì lớn lắm.
Rồi họ
không xuống ngựa mà đứng vây quanh động. Cho nên Biscarrat đi một mình trong
hang tối đen, đến tận mũi súng của Porthos. Anh thấy vật lạ cản nơi ngực nên
ngạc nhiên vươn tay ra nắm lấy nòng súng lạnh ngắt. Cùng lúc, Yves giơ dao sắp
đâm mạnh xuống người trẻ tuổi với tất cả sức lực có trong cánh tay của một
người Breton thì cánh tay sắt của Porthos cản lại rồi có tiếng "ồ"
gầm lên trong đêm tối:
- Tôi
không cho ai giết hắn.
Biscarrat
như vậy là đang ở giữa một sức bảo vệ và một sự đe doạ, cái nào cũng ghê gớm
như nhau. Dù can đảm đến đâu, người trẻ tuổi cũng thốt lên tiếng kêu, bị chặn
lại vì chiếc khăn tay của Aramis nhét vào miệng. Ông nói nhỏ với anh ta:
- Ông
Biscarrat ạ, chúng tôi không muốn làm hại ông, và ông phải biết điều đó vì ông
đã nhận ra chúng ta rồi, nếu ông nói lên một tiếng, thở một chút, phì một hơi
là chúng tôi giết ông như đã giết chó của ông đó.
Người
trẻ tuổi nói nhỏ:
- Phải,
tôi nhận ra các ông rồi. Nhưng sao các ông lại ở đây? Làm gì ở đây? Thật rủi
ro? Tôi cứ tưởng các ông ở trong đồn.
- Còn
ông, chắc ông đã giúp chúng tôi được một ít chứ gì?
- Tôi
gắng làm hết sức, nhưng thưa các ông có lệnh rõ ràng rồi.
- Lệnh
giết chúng tôi?
Biscarrat
không trả lời gì cả. Nói về sợi dậy treo cổ với các nhà quý tộc này thì cũng
như đem quàng nó vào mình. Aramis hiểu sự im lặng đó của người tù binh:
- Ông De
Biscarrat ạ, ông đã chết rồi nếu như chúng tôi không tiếc cho tuổi trẻ của ông
và sự quen biết với cha ông xưa kia. Còn bây giờ ông cũng có thể thoát chết lần
nữa nếu không nói với các bạn những gì ông thấy ở đây.
- Không
phải chỉ không nói mà còn cố sức ngăn bạn bè tôi đặt chân vào đây.
-
Biscarrat? Biscarrat? - Ở bên ngoài có nhiều tiếng gọi và hút theo ngách động
như một luồng gió xoáy.
Aramis
nói:
- Trả
lời đi.
- Tôi
đây, - Biscarrat kêu lên.
- Thôi
đi đi chúng tôi tin ở lòng trung thực của anh.
Nói rồi,
ông thả người trẻ tuổi ra. Biscarrat tiến lại phía ánh sáng.
-
Biscarrat! Biscarrat! - Những tiếng kêu càng tiến gần lại.
Thế rồi
có các bóng người đổ vào bên trong động.
Biscarrat
chạy vụt về phía trước đón các bạn, chặn kịp lúc họ suýt tiến vào trong động.
Nhờ ánh sáng bên ngoài, một người kêu lên:
- A! Anh
xanh dễ sợ?
Một
người khác kêu tiếp:
- Xanh
à? - Phải nói là mét mới đúng?
- Tại
sao? - người trẻ tuổi nói mà trong lòng cố gắng hết sức để tự trấn tĩnh.
Cả bọn
cùng la lớn:
- Ôi
trời à, anh gặp chuyện gì đấy?
Một
người khác cười vang:
- Bạn
ơi, anh không còn một giọt máu nào trong người hết.
Lại một
người khác:
- Các
ông ơi, chuyện nghiêm trọng rồi, hắn sắp ngất đi đấy, ai có mang muối trong
mình không?
Rất tất
cả phá lên cười ầm ĩ.
Mọi câu
hỏi vặn, mọi lời giễu cợt đều đan xen chung quanh Biscarrat giống như cơn lửa
đạn trong một trận giáp chiến. Anh ta lấy lại được tinh thần và nói:
- Có
thấy gì đâu. Lúc vào động trời nóng quá, trong ấy tôi lại bị lạnh, có thế thôi.
- Còn
chó, anh có thấy mấy con chó không?
Biscarrat
nói:
- Chắc
là chúng đi vào ngả khác rồi.
Một
người trẻ tuổi nói:
- Này
các ông, trong chuyện vừa xảy ra, qua nét mặt xanh mét không chịu nói của bạn
ta thì chắc có chuyện lạ mà Biscarrat không muốn hay là chắc không thể nói ra.
Nhưng đúng chắc là Biscarrat đã thấy cái gì trong động. Tính tôi hay tò mò, cứ
muốn biết xem hắn đã thấy những gì, dù là yêu tinh gì cũng được.
- Hè!
Vào động đi các ông ơi! Vào động đi!
Tiếng
vọng trong động vang đến tai Aramis và Porthos như một lời hăm doạ "Vào động
đi! Vào động đi!" Biscarrat nhảy vụt ra chắn trước mặt các bạn, kêu lên:
- Các
ông, các ông! Chớ có vào! Trời à!
Nhiều
tiếng nói nổi lên:
- Có gì
ghê gớm trong ấy thế?
- Nói
đi, Biscarrat!
Nhất
định là hắn gặp yêu tinh, đó là lời của người đầu tiên nêu ra giả thiết ấy.
- Ồ hắn
đã thấy yêu tinh thì không thể đứng đây ngăn chúng ta không được thấy.
- Các
ông, xin can các ông. - Biscarrat van lơn. Xin các ông đừng vào?
- Nhưng
anh, anh đã vào mà?
Thế rồi,
một sĩ quan lớn tuổi hơn những người khác từ nãy giờ vẫn đứng phía sau, bây giờ
tiến lên nói giọng bình tĩnh khác với giọng sôi nổi của các bạn.
- Thưa
các ông, trong đó có người nào hay vật gì không phải là yêu linh nhưng có sức
để làm cho lũ chó chúng ta im tiếng. Ta phải tìm biết các người hay vật gì đó.
Biscarrat
cố tìm cách ngăn các bạn lần chót nhưng không được. Anh nhảy ra trước mặt những
người táo bạo nhất. Vô ích.
Vô ích
khi anh bám vào đá để chặn làn sóng người theo chân người sĩ quan lớn tuổi nói
sau nhưng làm trước đi vào, tay mang gươm tuốt trần để đề phòng mối hiểm nguy
chưa biết.
Biscarrat
bị các bạn đầy lùi, không thể theo họ vào hang được vì sợ Aramis và Porthos coi
là kẻ phản bội thất hứa. Anh đứng dựa vào một tảng đá xù xì tai nghe ngóng hai
tay chắp lại, cứ mong cho đạn hai bên bắn nhau có một phát trúng vào ngay mình.
Các lính
cận vệ đi càng lúc càng sâu với tiếng kêu la càng lúc càng yếu dần trong động.
Thình lình, một loạt đạn súng tay vang lên như sấm dưới vòm hang.
Hai ba
viên trúng vào tảng tá, Biscarrat đang dựa. Cùng lúc ấy có những tiếng rên rỉ,
kêu thét, cầu khẩn vang lên và toán quân nhỏ hiện ra, có người xanh mét, có
người máu chảy đầm đìa, giữa một đám khói toả như là bị khí trời bên ngoài hút
từ trong đáy động ra. Những người chạy tới la lên:
-
Biscarrat! Biscarrat! Mày biết trong động có phục binh mà mày không chịu nói
với bọn tao.
-
Biscarrat, mày làm cho bốn người trong chúng ta bị giết! Khốn cho mày rồi đó,
Biscarrat!
- Mày
làm cho ta bị tử thương đấy, - một người trẻ tuổi vừa nói vừa vốc máu trong tay
ném vào mặt Biscarrat. - Máu tao sẽ làm cho máu mày đổ!
Rồi anh
ta lăn ra hấp hối dưới chân người trẻ tuổi. Nhiều tiếng kêu giận dữ la lên:
- Nhưng
ít ra mày cũng phải nói cho chúng tao biết là ai ở trong kia!
Biscarrat
nín lặng.
- Nói
đi, không thì chết? - Người bị thương kêu lên và gắng gượng quì một chân, tay
chĩa thanh gươm lúc này đã trở thành vô ích vào người trẻ tuổi, Biscarrat vội
chạy đến phía hắn, mở ngực ra và sẵn sàng nhận nhát đâm, nhưng người bị thương
đã buông mình xuống, không trở dậy nữa và thốt ra tiếng thở hắt cuối cùng.
Biscarrat
đầu óc rối bời, mắt ngơ ngác, không nghĩ ngợi gì được hết, cứ đi thẳng vào
trong động, tự bảo: "Anh nói đúng, ta phải chết đi, tội ở ta đã để cho các
bạn bị ám sát. Ta là thằng hèn".
Thế rồi
anh ném thanh gươm đi xa và vì muốn chết mà không phải tự vệ; anh cúi cầu, chạy
vụt vào đường hầm. Mười một người còn lại bắt chước theo.
Họ chưa
đi xa được hơn lúc trước thì một loạt đạn thứ hai làm năm người ngã xuống cát.
Không thể nào thấy rõ cú sấm sét chết người ấy từ đâu đến, những người còn lại
phải hoảng hốt lui ra. Nhưng chỉ mình Biscarrat không lùi, cứ ngồi đợi trên một
tảng đá, mà yên lành, không một vết thương. Bây giờ chỉ còn có sáu người cận
vệ. Một người nói:
- Có
phải thực là yêu tinh không?
Một
người khác:
- Úi,
còn hơn nữa kìa?
- Hỏi
Biscarrat xem, hắn biết.
- Hắn
đâu?
Những
người trẻ tuổi nhìn quanh, không thấy Biscarrat trả lời.
Có hai,
ba tiếng:
- Hắn
chết rồi.
- Không,
chưa đâu, tôi thấy hắn đứng giữa đám khói, bình tĩnh ngồi trên một hòn đá, bây
giờ nhất định hắn đang chờ chúng ta trong động đấy.
- Chắc
hắn biết những kẻ trong động.
- Sao mà
biết được?
- Hắn bị
bọn nổi dậy bắt một lần.
- Đúng
rồi. Gọi hắn đi, xem chúng ta gây chuyện với ai đây!
Nhưng
Biscarrat không hề trả lời. Người sĩ quan đã tỏ ra điềm tĩnh nói:
- Tốt!
Bây giờ chúng ta không cần đến hắn nữa, tiếp viện đến kìa.
Đúng
vậy, một đại đội cận vệ khoảng 75-80 người bị các sĩ quan hăng hái theo cuộc
săn bỏ rơi đằng xa, đang tiến đến có trật tự, dẫn đầu là người đại uý và người
phụ tá thử nhất.
Năm cận
vệ chạy lại trước toán lính, hấp tấp kể chuyện vừa xảy ra và cầu cứu. Viên đại
uý chặn lại hỏi:
- Bạn
các anh đâu?
- Chết
rồi.
- Các
anh có mười sáu người mà.
- Mười
người chết. Biscarrat trong động, và chúng tôi ở đây năm.
-
Biscarrat bị bắt phải không?
- Chắc
vậy - Không, hắn ta đấy, trông kìa.
Đúng
vậy, Biscarrat đã hiện ra ngoài cửa động. Đám sĩ quan nói:
- Anh ta
ra dấu cho chúng ta lại kìa! Đi đi!
- Đi đi!
- Cả toán đồng thanh rồi cùng đến trước mặt Biscarrat.
Viên đại
uý nói với Biscarrat:
- Thưa
ông, người ta bảo với tôi là ông biết những người trong hang đang chống cự
tuyệt vọng. Đó là ai vậy? Nhân danh Hoàng thượng tôi buộc ông phải nói những
điều ông biết.
Biscarrat
nói:
- Thưa
đại uý, ông khỏi cần mất công bắt buộc tôi, tôi vừa mới được giải toả lời hứa
xong. Những người ấy để tôi đến đây để nói là họ sẽ chống cự đến chết nếu chúng
ta không chịu nhận thỏa hiệp.
- Họ có
bao nhiêu người?
- Hai -
Biscarrat nói.
- Chỉ có
hai, mà muốn đặt điều kiện với chúng ta à?
- Họ có
hai, mà lại vừa giết ta mười người đấy.
- Họ là
ai thế? Những người khổng lồ à?
- Còn
hơn thế nữa. Chắc đại uý nhớ câu chuyện pháo đài Saint-Gervais?
- Ờ, ở
đó bốn người lính ngự lâm chống lại cả một đạo quân.
- Đúng,
hai người trong kia là những người lính ngự lâm đó
- Tên họ
là…
- Vào
lúc đó, người ta gọi họ là Porthos và Aramis. Bây giờ họ là ngài D Herblay và
ngài Du Vallon. Chính họ chống giữ cho ông Fouquet đấy.
Những
người lính xì xầm khi nghe hai tiếng "Porthos và Aramis". Họ lập lại
với nhau: "Lính ngự lâm, lính ngự lâm pháo thủ.
Những
người trẻ tuổi này khi có ý nghĩ là họ sẽ phải đương đầu với hai con người có
tăm tiếng nhất của quân đội, họ rùng mình, vừa sợ hãi vừa đầy hứng khởi. Bốn
cái tên d Artagnan, Athos, Porthos và Aramis được những tay kiếm tôn thờ như
các tên Hercule, Théséc, Castor và Pollux được tôn thờ trong thời xa xưa.
Viên đại
uý kêu lên:
- Hai
người mà giết được mười người của ta? Không thể được, ông Biscarrat ạ.
Người
này trả lời:
- Ô,
thưa đại uý, tôi không giấu rằng họ cũng có hai, ba người phụ giúp như hồi các
tay lính ngự lâm ở St. Gervais cũng có ba, bốn người giúp việc. Nhưng mà ông cứ
tin tôi đi, tôi đã thấy họ, đã bị họ bắt, tôi biết rõ họ. Chỉ có mình họ thôi
cũng đủ tiêu diệt cả một quân đoàn.
Viên đại
uý nói:
- Để
xem, chốc nữa thì biết. Các ông chú ý đây!
Nghe nói
như thế, mọi người đều im lặng, sẵn sàng tuân lệnh. Chỉ có Biscarrat cố thử lần
chót. Anh ta nói nhỏ:
- Thưa
ông, cứ tin tôi đi. Chúng ta bỏ qua vụ này. Hai con người ấy, hai con sư tử ta
sắp tấn công ấy sẽ chiến đấu đến chết.
- Họ đã
giết của ta mười người, họ sẽ giết gấp đôi thế và cuối cùng sẽ tự tử hơn là
chịu đầu hàng. Ta có lợi gì mà đánh họ?
- Thưa
ông, ta có được điều là lương tâm ta không cho phép để cho tám chục lính cận vệ
của vua lại chịu rút lui trước hai tên phản loạn. Nếu tôi nghe lời ông, thì tôi
sẽ mất danh dự, mất danh dự của tôi là mất danh dự của quân đội. Các bạn hãy
tiến lên đi!
Thế rồi
ông đi trước đến cửa hang.
Đến đây,
ông dừng lại. Dừng để Biscarrat và các bạn trẻ cho ông biết địa thế bên trong
hang. Rồi nghĩ rằng đã biết đủ, ông chia đại đội làm ba phân đội, nối nhau tiến
vào, bắn tới tấp đủ mọi hướng. Đánh theo kiểu này thì chắc là sẽ chết năm người
nữa, mười người không biết chừng, nhưng rồi lại sẽ bắt được hai tên phản loạn
vì chúng không có đường rút lui và cũng không thể giết hết tám mươi người,
Biscarrat nói:
- Xin
đại uý cho tôi đi đầu toán tiên phong.
Người
đại uý trả lời:
- Được
ông đáng được vinh dự đó. Đây là món quà tặng của tôi gửi cho ông.
- Cám
ơn? Người trẻ tuổi nói giọng cương quyết của con nhà nòi.
- Thế
thì cầm kiếm đi.
- Thưa
đại uý, tôi đi như thế này thôi, tôi vào không phải để giết mà là để bị giết.
Rồi anh
ta đứng trước toán quân, ngẩng đầu lên khoanh tay lại, nói:
- Chúng
ta đi đi, các ông.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
47: Bài ca chiến đấu
Bây giờ
đến lúc ta quay sang phía bên kia trận tuyến và tả ra những người chiến đấu
cũng như bãi chiến trường.
Aramis
và Porthos dấn mình vào động Locmaria là để lấy chiếc thuyền đã chuẩn bị sẵn
sàng, cùng với ba người Breton phụ giúp chuyển thuyền qua đường hầm trốn đi.
Nhưng con chồn và bầy chó đến khiến cho họ phải đành ẩn nấp kỹ.
Động
rộng gần trăm sải tay, trải dài tới một bờ dốc xuống vịnh. Ngày xưa đây là một
cái đền tà thần đã chứng kiến nhiều cuộc hiến tế người bị xô xuống vực sâu.
Qua con
đường đi xuống qua một mái vòm đá thấp là tới phần động thứ nhất. Bên trong,
mặt đất gồ ghề, phía trên nhũ đá tua tủa chĩa xuống, được chia ra làm nhiều ngăn,
nhiều bậc thông nhau, cao thấp, gập ghềnh khác nhau cách nhau bằng những cây
cột tự nhiên. Ở ngăn thứ ba, vòm động thấp, hành lang hẹp đến nỗi chiếc thuyền
kéo đi vừa sát với hai bờ vách. Tuy nhiên trong hoàn cảnh tuyệt vọng thì ý chí
con người cũng bãt gỗ phải mềm đi, đá cũng phải vui lòng nhường bước.
Đó là ý
nghĩ của Aramis sau lúc lâm trận, lúc ông quyết định phải trốn đi. Cuộc trốn
chạy thật nguy hiểm vì không phải những kẻ tấn công đều bị chết hết và cho rằng
nếu đem được thuyền ra biển thì cũng phải chạy giữa ban ngày ngay trước mũi
những người chiến bại, trông thấy số người chiến thắng ít tất họ phải đuổi
theo.
Khi bắn
xong hai loạt súng giết mười người, Aramis theo các ngách quen thuộc, đến đếm
từng xác chết một vì khói mù mịt không thể đứng ngoài mà biết được. Rồi ngay
tức khắc, ông ra lệnh lăn thuyền đi đến chỗ tảng đá lớn chắn ngang, ngăn con
đường giải thoát.
Porthos
lấy hết sức lực dùng hai tay nâng thuyền lên và khi ba người Breton chạy theo
đẩy các con lăn thật nhanh. Mọi người đi xuống ngăn động thứ ba và đến trước
tảng đá chắn.
Porthos
ôm chân tảng đá khổng lồ ấy, kê chiếc vai lực lưỡng của mình lên, đẩy một cái
làm rung rinh cả khối. Một đám mù bụi bặm rơi từ trên vòm xuống mang theo phân,
rác của mười ngàn thế hệ chim biển xây các tổ dính cứng vào tảng đá.
Đẩy đến
lần thứ ba thì tảng đá chịu nhúc nhích, đu đưa một chút. Porthos dựa mình vào
những tảng đá bên cạnh lấy chân chống lại, đẩy nó ra khỏi mớ đá vôi dính gắn
với vách vòm rộng. Tảng đá ngã ra rồi, ánh sáng rực rỡ, chói lọi qua khung cửa
hang tràn vào và biển xanh hiện ra trước mắt những người Breton ngây ngất hân
hoan.
Mọi
người cho thuyền qua vật cản đó và tính chỉ còn hai chục sải lay nữa là ra đến
biển. Chính vào lúc ấy đại đội cận vệ ập tới, xếp hàng và sẵn sàng tấn công.
Aramis
trông thấy đoàn tiếp viện, đếm người và chỉ thoáng qua là hiểu rõ mối nguy
không vượt qua được nếu chiến trận xảy ra lần nữa. Làm sao có thể chạy trốn ra
biển trong khi con đường hầm bị tràn ngập! Thật vậy, ánh sáng vừa ùa vào soi
rọi các khúc hang phía này tất sẽ chỉ cho toán lính thấy chiếc thuyền đang được
đẩy ra biển, thấy được hai người phản loạn ở đúng tầm súng và chỉ một loạt đạn,
nếu không giết chết năm người thì cũng làm lủng chiếc thuyền.
Thêm
nữa, giả dụ cho cùng là nếu thuyền và người trên đó thoát được xuống biển thì
làm sao khỏi có báo động? Làm sao các tàu của Hoàng gia không được tin? Làm sao
chiếc thuyền khốn khổ này không tan nát trước khi đêm xuống? Aramis nói nhỏ với
Porthos lúc bây giờ đang làm việc có hiệu quả hơn cả con lăn và người lăn:
- Bạn ạ,
họ vừa có tiếp viện.
Porthos
thản nhiên hỏi:
- Ồ! Thế
là làm gì bây giờ.
Aramis
nói:
- Lại
đánh thôi, nhưng còn tùy ở may rủi.
- Đúng
vậy, vì khó có thể nào người ta không giết chết được một trong hai chúng ta, mà
nhất định là nếu một người chết thì người kia cũng chết theo.
Aramis
nghe như có con dao đâm xuyên qua tim.
- Chúng
ta không ai chết cả nếu Porthos nghe lời tôi.
- Nói
đi!
- Bọn
kia sắp xuống động.
- Đúng
rồi!
- Chúng
ta có thể giết độ mười lăm người nhưng không thể hơn. Nếu họ bắn một loạt thì
chúng ta sẽ như cái mặt rổ.
- Nhất
định rồi.
Aramis
nói thêm:
- Không
kể là tiếng nổ làm đá trong động lăn đổ xuống.
- Đúng
vậy, vừa rồi một cạnh đá làm tôi rách vai đấy, nhưng không sao đâu.
- Phải
quyết định ngay. Để các anh em Breton đẩy chiến thuyền xuống biển.
- Được
lắm.
Hai
chúng ta ở đây giữ thùng thuốc súng, súng đạn.
- Nhưng,
Aramis, hai chúng ta không thể bắn ba phát đạn cùng một lúc được, dùng súng
không được.
- Ta hãy
tìm cách khác.
Người
khổng lồ vụt nói:
- Tôi
tìm ra rồi. Tôi mang thanh sắt này đứng lấp sau trụ đá không ai thấy, không ai
đánh được, chờ đến khi họ ào vào, tôi phang xuống đầu họ, hai giây một cú? Sao?
Kế đó được không?
- Tốt
quá bạn ạ, tôi rất tán thành. Tuy nhiên bạn khiến bạn phải sợ rồi phân nửa còn
lại sẽ cứ đứng ở ngoài chờ chúng ta chết đói. Điều cần cho chúng ta là phải
diệt một lần hết tất cả toán quân, một người mà thoát thì chúng ta cũng tiêu
luôn.
- Đúng
rồi, nhưng làm sao gom chúng lại?
- Tôi có
một ý kiến.
- Nếu
được vậy, mà ý kiến bạn lại hay nữa mà nhất định phải hay thì tôi yên lòng rồi.
Porthos
nấp đi và đếm tất cả những người bước vào.
- Tôi
nghe hình như có tiếng nói.
- Chúng
đấy. Vào chỗ đi!
Porthos
đến nấp sau gian động thứ hai tối đen. Aramis lẻn vào gian thứ ba; người khổng
lổ cầm thanh sắt nặng đến hai mươi ba ký một cách dễ dàng. Thanh sắt vốn là để
làm đòn kê cho chiếc thuyền vượt đi.
Trong
khi đó, những người Breton đẩy chiếc thuyền đến phía ghềnh đá. Trong gian động
sáng. Aramis cúi xuống lén lút làm cái gì đó.
Có tiếng
viên đại uý chỉ huy ra lệnh. Hai mươi lăm người nhảy từ trên các mô đá cao
xuống gian động thứ nhất rồi bắt đầu nổ súng. Tiếng vọng gầm lên, tiếng rít
xuyên qua vòm động, một chùm khói mờ toả ra khắp khoảng không. "Bên trái!
Qua bên trái!". Đó là tiếng kêu của Biscarrat.
Cả toán
chạy ù về phía trái. Đường hầm hẹp dần trong khi Biscarrat giang hai tay, tiến
tới trước, nhất định sẽ chết:
- Đến
đây! Có ánh sáng đằng này!
Porthos
bật ra tiếng thở dài.
Thanh
sắt quất thẳng xuống đầu Biscarrat. Anh ta chết không kịp kêu. Rồi nó được giơ
lên, hạ xuống mười lần trong mười giây tạo ra mười xác chết.
Đám lính
không thấy gì hết. Họ chỉ nghe tiếng la khóc, tiếng rên rỉ, họ giẫm đạp lên các
thân người, cứ xô nhau bước lên. Thanh sắt cứ quật xuống mãi, diệt cả toán quân
đầu mà không gây lên một tiếng động nào để báo cho toán sau biết.
Tuy
nhiên toán hai này do người đại uý chỉ huy, đã tước các cành cây thông mọc trên
nền đá, làm được một cây đuốc.
Khi đến
gian động thứ hai, nơi Porthos như một vị thần trừng phạt đã tiêu diệt không
chừa ai hết, hàng đầu của họ lui lại vì khiếp đảm. Không có tiếng súng nào phía
địch cũng như phía cận vệ, thế mà lại có một đống xác chết, máu chảy tràn lan.
Porthos
vẫn nấp sau cột.
Viên đại
uý cầm cây đuốc sáng chập chờn, không hiểu nguyên nhân vì sao xảy ra cảnh tàn
sát rùng rợn ấy, liền lui dần dần đến bên cột. Một bàn tay khổng lồ từ trong
bóng tối hiện ra nắm lấy cổ viên đại uý. Ông ta thở khò khè, đôi tay vươn lên
trời vẫy vẫy thả cây đuốc rơi xuống tắt trong vũng máu. Một giây sau thêm viên
đại uý ngã xuống bên cạnh cây đuốc tắt, thêm một xác chết vào đống xác chặn
ngang đường.
Chuyện
xảy ra thật bí hiểm như chuyện yêu ma.
Nghe
tiếng thở rền của viên đại uý, những người đi theo quay lại thấy hai cánh tay
ông mở ra, mắt lòi ngoài tròng, cây đuốc rơi xuống và tất cả thấy mình ở trong
bóng tối hoàn toàn.
Viên
trung uý kêu lên theo phản ứng.
- Bắn!
Tức thì,
một loạt tiếng súng tay gầm lên trong động làm văng từng mảnh đá lớn trên vòm.
Trong
động sáng lên theo loạt súng đó rồi lại tối đen, càng âm u hơn vì khói súng toả
ra.
Im lặng
tràn ngập dâng lên, chỉ bị dao động bởi tiếng bước chân toán quân thứ ba đang
đi vào.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
48: Cái chết của người khổng lồ
Trong
lúc Porthos quá quen với bóng tối hơn những người kia từ ngoài sáng vào, đang
nhìn xung quanh xem thử Aramis có ra dấu gì không thì thấy ai chạm vào cánh tay
và một giọng thì thào bên tai:
- Đến
đây.
Giữa
tiếng ồn ào của toán quân thứ ba tiếp tục tiến bước, giữa tiếng chởi mắng của
những người còn đứng được, tiếng người hấp hối rên rỉ. Aramis và Porthos len
lén nép mình theo các vách đá đi lần ra trong một hốc vách động.
Đến gian
gần cuối động. Aramis chỉ cho Porthos thấy một thùng thuốc súng nặng khoảng ba
mươi đến bốn mươi ki-lô vừa mới gắn dây ngòi xong. Ông nói với Porthos:
- Bạn ạ,
bạn ôm lấy thùng thuốc súng này, tôi đốt mồi lửa rồi bạn sẽ ném nó vào giữ kẻ
thù của chúng ta. Được không?
- Được
chứ, - Porthos trả lời.
Rồi ông
chỉ lấy một tay nhấc thùng thuốc súng lên:
- Đốt
đi!
- Đợi
đã, - Aramis nói, - đợi cho chúng tập hợp đủ rồi néo vào ngay giữa bọn chúng.
Còn tôi, tôi sẽ lại phía anh em Breton của chúng ta giúp họ đưa thuyền xuống
biển. Tôi đợi bạn trên bờ, bạn ném rồi chạy về phía chúng tôi. Hiểu rồi chứ?
- Hiểu.
Aramis
đưa dây mồi nóng cháy cho Porthos nắm, rồi hai tay ôm lấy cánh tay Porthos đưa
ra, xong, rút lui về phía lối cửa động có ba người đứng chờ.
Porthos
đứng một mình, dạn dĩ dí mồi lửa vào ngòi.
Mồi lửa
sáng yếu ớt trong bóng tối như một con đom đóm, chạm vào ngòi thuốc làm cháy
bùng lên và Porthos lại còn thổi hơi vào đấy cho cháy mạnh hơn nữa.
Lúc này
khói đã hơi tản bớt và chỉ trong một hai giây dưới ánh sáng ngòi lửa bập bùng,
mọi vật nổi bật lên. Hình ảnh lờ mờ của người khổng lồ, mình đầy máu và khuôn
mặt sáng lên dưới ánh sáng giữa bóng tối vây quanh là một cảnh tượng hiện ra
ngắn ngủi nhưng thật hào hùng.
Những
người lính thấy được ông. Họ cũng thấy cái thùng ông cầm trên tay. Họ hiểu rõ
những gì sắp xảy ra cho họ. Thế là, những con người ấy vốn đã sợ hãi khi thấy
những gì đã xảy ra, càng hoảng hốt khi nghĩ đến những gì sắp xảy ra, nên đồng
loạt rú lên như đến hồi hấp hối.
Có người
tìm cách chạy đi, nhưng họ lại gập toán thứ ba chặn mất đường lui. Những người
khác vụt theo thói quen phản ứng giơ súng lên ngắm bấm cò quên rằng súng không
đạn.
Những
người khác nữa quì xuống cầu nguyện.
Chúng ta
vừa nói rằng làn ánh sáng do Porthos thổi trên mồi lửa và ngòi chỉ bùng lên
trong hai giây, nhưng chỉ trong hai giây ấy là đủ rõ những cảnh này: đầu tiên
là con người khổng lồ bật lớn trong bóng tối, rồi bên cạnh ông, cách đó mười
bước là một đống thây bị giầy đạp, nghiền nát, ở khoảng giữa còn một kẻ rên rỉ
hấp hối ưỡn lên như một hơi thở cuối cùng nổi bên sườn của một con quái vật dị
hình sắp chết trong đêm đen.
Tất cả
dưới ánh lửa lung linh của cái ngòi nối với thùng thuốc súng trông thật như một
ngọn đuốc, trong khi soi sáng cái chết đã qua lại chỉ thêm cho thấy cái chết
sắp đến.
Trong
khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, một sĩ quan của toán quân thứ ba tập hợp được
tám tay súng, ra lệnh ngắm vào một khoảng trống giữa toán lính thứ hai để bắn
bừa vào Porthos.
Nhưng
những người được lệnh lại run quá đến nỗi có ba người trúng đạn ngã xuống và
năm viên khác vụt lên trần, rơi xuống đất hay bay vào vách động.
Một
tràng tiếng cười lớn đáp lại loạt súng đó, rồi cánh tay người khổng lồ đung đưa
và trong khoảng không, người ta thấy một vệt lửa dài trông như một ngôi sao
băng.
Thùng
thuốc súng ném cách ba mươi bước vượt qua bức cản bằng xác chết rồi rơi trên
một nhóm lính kia rú lên nằm lăn xuống.
Chỉ một
giây đồng hồ thôi, gió lốc quay cuồng giận dữ, tiếng rít của thuốc trộn lưu
huỳnh, nitrô, lửa bốc lên tàn phá nuốt chửng, tiếng nổ kinh hồn, tất cả cùng
với những gì xảy ra trong hai giây trước đã khiến cho chỗ hang động này thành
một nơi ma quái ẩn nấp.
Đá nứt
như thân cây bị đập dập. Một vòi lửa, khói, mảnh vụn vụt vào giữa động càng bốc
lên càng toả rộng ra. Tường đá nghiêng đổ xuống đất cát, cát đập vào những mặt
người hàng ngàn viên nhỏ sát thương. Những tiếng kêu, những tiếng rú, những
tiếng cầu khẩn và những cuộc đời, tất cả tắt đi trong một cơn đổ vỡ lớn lao. Ba
gian động phía trước thành một vực sâu thăm thẳm hút rơi xuống từng thứ một,
từng mảnh vụn của cây cỏ đất đá, xác người. Rồi sau đó là cát bụi nhẹ hơn trải
ra như một tấm khăn liệm màu xám phủ lên chiếc áo quan rùng rợn này.
Bây giờ
thử tìm đi trong nấm mồ nóng hổi đó, trong hòn núi lửa dưới hang đó, hãy tìm đi
những người cận vệ Hoàng gia mặc áo xanh mang lon bạc?
Hãy tìm
đi những sĩ quan óng ánh chất vàng, hãy tìm những vũ khí họ tin cậy rằng sẽ tự
bảo vệ được, hãy tìm những viên đá giết chết họ, hãy tìm mặt đất mang thân xác
họ đi!
Không
còn gì của ba gian động phía trước, không còn gì để Chúa nhận ra công trình
mình đã tạo dựng, còn Porthos sau khi ném thùng thuốc súng ra giữa kẻ thù liền
theo lời Aramis chạy qua gian động cuối nơi không khí ánh sáng mặt trời theo lỗ
hổng ùa vào. Vừa qua khúc quanh ngăn gian thứ ba và gian thứ tư, ông thấy cách
đó trăm bước là chiếc thuyền đang bồng bềnh trên sóng. Bạn ông đang ở đó, tự do
là ở đó, ở đó là cuộc sống sau chiến thắng.
Chỉ cần
sáu bước chân dài buông sải là ông đã ra khỏi vòm. Một khi ra khỏi vòm thì chỉ
hai, ba đà bước là ông đến nơi thuyền đậu. Bỗng nhiên, ông thấy đầu gối khuỵu
xuống, hai đầu gối trống rỗng, cặp chân mềm oặt dưới thân người. Ông ngạc nhiên
lẩm bẩm:
- Ôi,
ôi, ta lại mệt trở lại rồi, ta không bước đi được nữa rồi. Ta làm sao đây?
Aramis
thấy bóng Porthos qua khung cửa động và không hiểu sao ông này bỗng dừng lại.
- Đến
đây! Porthos đến đây ngay đi.
- Ôi! -
Người khổng lồ ráng hết sức vươn gồng các bắp thịt mà không thể nào cử động
được. - Tôi không làm sao.
Nói
xong, ông quỵ xuống nhưng hai bàn tay to tướng còn cố bám vách đá và gượng đứng
lên.
- Nhanh
lên? Nhanh lên? - Aramis vội vã vươn mình về phía bờ như muốn níu Porthos về
mình.
- Tôi
đến đây! - Porthos gắng hết sức bước thêm một bước.
- Trời
ơi! Porthos đến đây! Đến đây!
Nhưng
không còn kịp nữa, tiếng nổ vang lên, đất nứt ra, khói mù xuyên qua các khe nứt
phủ kín bầu trời, lửa thổi thốc từ trong động như qua một cái miệng của con
quái vật khổng lồ đẩy lùi mặt biển, lôi chiếc thuyền ra ngoài hai mươi sải tay.
Đá dưới
nền nứt ra như bị chẻ, những tảng đá dài rung rinh rồi nghiêng đi, lần lượt đổ
xuống.
Tiếng
động kinh khủng ấy hình như làm cho Porthos lấy lại sức lực đã mất. Ông đứng
dậy, như người khổng lồ giữa đám khổng lồ đá tảng. Nhưng trong khi ông định
lách qua hai hàng âm binh hoa cương thì chúng không còn nối nhau nữa mà lăn
quanh ông, giữa đám đá lúc này như trên trời rơi xuống ném vào ông Porthos cảm
thấy đất chuyển đi dưới chân ông. Ông vung hai cánh tay to lớn qua phải qua
trái để đẩy lùi những tảng đá đang chuồi đi. Hai khối đá khổng lồ áp vào lòng
bàn tay ông, ông cúi đầu xuống trong khi một khối hoa cương đập vào hai vai
ông.
Hai cánh
tay Porthos chùng lại trong một lúc nhưng chàng Hercule tập trung hết lực đẩy
hai tấm vách ra từ từ để nhường chỗ ông đi, ông vươn lên như một thiên thần
thời cổ đại. Nhưng trong khi gạt hai tấm đá hoa bên thì tấm đá đè lên vai đổ ụp
xuống khiến người anh hùng té quỵ. Các tảng đá hai bên bị đẩy ra một lúc lại
tiến gần lần nữa, tất cả dồn sức nặng với nhau đủ để đè chết mười người.
Người
khổng lồ ngã xuống không kêu lên một tiếng cầu cứu ông ngã xuống trong khi vẫn
trả lời Aramis bằng những tiếng khuyến khích mang hy vọng vì có một lúc nhờ hai
bàn tay chống lại, ông tưởng có thể di chuyển được ba sức nặng kia.
Nhưng từ
từ, Aramis thấy khối đá ép lại, hai cánh tay vươn cứng lên một lần chót, cong
xuống, hai vai ưỡn lên dẹt lại, rã nát, và tảng đá tiếp tục hạ xuống.
Aramis
bứt đầu, bứt tai:
-
Porthos! Porthos! Nói đi!
- Kìa!
Kìa! Kiên nhẫn đi! Kiên nhẫn đi! - Porthos thì thầm trong cơn tắt tiếng.
Ông vừa
nói xong lần cuối đó, thì tảng đá lớn hạ xuống tiếp theo là hai tảng đá kia dập
lên, chôn Porthos trong nấm mồ đá vụn.
Nghe
tiếng kêu hấp hối của bạn, Aramis nhảy vội lên bờ.
Hai
người Breton chạy theo cầm đòn bẩy, để một người ở lại đủ trông coi thuyền.
Aramis
nhảy vội đến bên ba tảng đá và dùng hai bàn tay trắng trẻo như của đàn bà giở
lên một góc quan tài hoa cương bằng cả sức mạnh như của phép lạ. Qua khe hở tối
om, ông thấy được con mắt còn sáng quắc của người bạn mình vừa lấy lại chút hơi
thở khi tảng đá được nâng lên một ít. Tức thì hai người kia chạy tới đưa cây
sắt ra phụ nhau giữ lại. Tất cả đều vô ích: cả ba người đau đớn kêu lên vì hết
sức chịu nổi, còn Porthos thấy họ gắng sức vô ích liền thốt ra tiếng nói cuối
cùng theo với hơi thở tận lực, thầm thì ở đầu môi:
- Nặng
quá!
Sau đó,
con mắt mờ dần đi, và mi khép lại, khuôn mặt xanh mướt, và con người khổng lồ
nằm xuống thở hơi cuối cùng.
Không
còn gì nữa cả.
Người
khổng lồ đi vào giấc ngủ muôn đời, dưới nấm mồ trời đã cho xây vừa với tầm vóc
ông.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
49: Lời ghi trên rìa mộ Porthos
Aramis
đứng dậy lặng lẽ rùng mình, run rẩy như một đứa bé trong cơn sợ hãi. Nhưng ông
đứng dậy được mà không thể cất bước nổi. Hình như là có phần nào thân thể
Porthos vừa chết đi trong người ông.
Những
người Breton quây quanh ông; Aramis mặc cho họ nâng đỡ ông, lôi đến thuyền. Thế
rồi khi đặt ông lên ghế gần chỗ lái, họ đỡ mái chèo khua mạnh.
Trên cả
phần mặt bằng của động Locmaria bây giờ đã bị san phẳng chỉ còn có một mô đá
lưu ý người qua lại. Aramis không rời mắt khỏi nơi đó, và nhìn từ xa trên mặt
biển, khối đá gân guốc hiên ngang vươn thẳng lên như ngày xưa Porthos đã từng
như thế, như người bạn anh hùng trung thực, con người mạnh nhất trong bốn người
mà cũng là người chết đầu tiên.
Những
con người dày dạn sương gió có định mệnh thật trớ trêu? Con người chân chất
nhất lại gắn bó với người tinh khôn nhất, sức mạnh thân xác được sự tinh tế của
khối óc hướng dẫn, thế mà trong thời điểm quyết định, khi chỉ sự cương nghị mới
có thể cứu được thân xác và trí óc, thì một hòn cuội, một tảng đá, một sức nặng
không ra gì lại thắng cả nghị lực, ập xuống thân xác, đánh đuổi trí tuệ đi.
Porthos
cao cả! Con người sinh ra để cứu giúp kẻ khác, luôn luôn sẵn sàng hy sinh cho
kẻ yếu, con người hình như được chúa ban cho sức mạnh để làm công việc ấy; lúc
chết đi, ông nghĩ là để làm tròn giao kết với Aramis nhưng giao kết ấy Aramis
lập nên một mình và Porthos chỉ biết được khi sự gắn bó keo sơn đòi hỏi thực
hiện thôi.
Porthos
tôn quý! Có ích gì nữa đâu, những lâu đài đầy đủ tiện nghi, những khu rừng đầy
đủ mồi săn, những ao hồ tràn đầy cá tôm, và các hang động tràn đầy của cải? Có
ích gì nữa đâu, những kẻ hầu cận xênh xang mũ áo trong đó có Mousqueton hãnh
diện vì được anh trao quyền nắm giữ? Ôi Porthos cao cả.
Porthos
âu lo, tích trữ vàng bạc, anh đâu có cần làm việc đến thế để làm đẹp, làm sang
đời sống của anh, để rồi đến nơi bãi đất hoang vắng chỉ có tiếng chim biển kêu
gào, chết đi, thân xác tan nát dưới khối đá lạnh lùng! Porthos cao cả ơi, anh
đâu có cần thu vén bao nhiêu vàng bạc ấy để rồi chẳng có cả lời tưởng niệm của
một thi sĩ nghèo nàn trên nấm mồ của anh!
Porthos
dũng cảm ơi! Cho đến ngày nay, chắc anh vẫn còn yên nghỉ dưới tảng đá mà người
đời đã lãng quên tên tuổi, không nhớ nơi chốn, khiến cho những người chăn thả
cứ tưởng nấm mồ đá đó chỉ là tấm cự thạch của thời hoang sơ nào thôi.
Rồi bao
nhiêu rong rêu lạnh lẽo được gió biển mơn man vỗ về sẽ mọc phủ lên, đem đá liền
với đất khiến có ai đấy đi qua cũng không bao giờ tưởng được rằng một tảng đá
khổng lồ như thế mà một người trần mắt thịt lại có thể cử nổi lên vai!
Aramis
vẫn xanh xao, lạnh lùng nhìn bãi biển mờ dần nơi chân trời, tắt đi trong vệt
sáng ban ngày cuối cùng. Không một lời thốt lên, không một tiếng thở dài sâu
thẳm thoát ra từ lồng ngực. Những người Breton mê tín nhìn ông mà run rẩy. Con
người im lặng này không còn là người mà đã thành tượng đá.
Tuy
nhiên, chiếc thuyền có cánh buồm nhỏ giương lên đón gió rời nhanh khỏi bờ, vững
vàng hướng về Tây Ban Nha, xuyên qua vịnh Gascogne đầy giông bão.
Nhưng
chỉ mới khoảng nửa giờ buồm giương để cho các thủy thủ ngưng tay chèo thì họ
phải vội vã khom mình trên ghế, giơ tay che mắt chỉ cho nhau một điểm trắng
hiện ra ở chân trời, lặng yên như một con hải âu ru mình trong hơi thở rập rình
của sóng.
Mắt
người thường thấy vật đó đứng yên nhưng con mãt nhà nghề của người đi biển lại
thấy nó đang rẽ sóng lao tới.
Thấy
người chủ đắm chìm trong cơn đau khổ, họ không dám đánh thức dậy mà chỉ lo âu
thì thầm trao đổi những lời phỏng đoán với nhau thôi. Một thủy thủ, Goennec,
bạo lời đánh tiếng:
- Thưa
Đức ông, ta bị săn đuổi rồi!
Aramis
không trả lời gì hết; chiếc tàu vẫn tiến tới.
Thế là
tự mình thu xếp, hai người thủy thủ theo lệnh chủ thuyền Yves, hạ cánh buồm
xuống để chỉ còn là một điểm trên sóng, khỏi làm đích cho kẻ thù theo dấu.
Phía tàu
kia, trái lại, người ta kéo thêm hai buồm mới ở hai bên. Rủi ro, lúc này là vào
những ngày đẹp nhất, dài nhất trong năm, và mặt trăng sáng toả tiếp theo buổi
ban ngày bất hạnh.
Như một
chiếc tàu đang đuổi theo, được gió thuận, lại còn hưởng nửa giờ của buổi chiều
và cả một đêm trăng tỏ. Người chủ thuyền gọi to:
- Đức
ông! Đức ông! Chúng ta nguy mất! Họ thấy ta rồi, dù là chúng ta đã cất buồm đi.
Một thủy
thủ thì thầm.
- Không
nên lấy làm lạ: người ta nói dân thành phố có ma quỷ yểm trợ đã chế tạo các
dụng cụ nhìn xa cũng thấy như nhìn gần, đêm cũng như ngày.
Aramis
lấy từ trong thuyền ra một chiếc ống nhòm, vặn nút điều chỉnh rồi đưa cho người
thủy thủ, nói:
- Này,
nhìn đi.
Người
thủy thủ đưa lên mắt và kêu lên ngạc nhiên: anh tưởng là do một phép lạ, chiếc
tàu đang ở xa một tầm súng bỗng nhiên vụt tới bên cạnh. Nhưng khi lấy lại ống
nhòm ra, anh lại thấy rằng tàu vẫn còn ở khoảng xa, tức khoảng cách tàu đã rút
ngắn trong giây phút ngắn ngủi ấy. Người thủy thủ lẩm bẩm:
- Như
thế là họ thấy ta cũng như ta thấy họ, thế phải không?
Aramis
trả lời:
- Họ
đang thấy chúng ta đấy.
Rồi ông
trở lại vẻ lạnh lùng thản nhiên như cũ. Chủ thuyền Yves hỏi:
- Sao,
họ thấy chúng ta à? Không thể được.
Người
thủy thủ nói:
- Này,
thầy cầm thử xem.
Người chủ
thuyền đưa ống nhòm lên mắt:
- A,
thưa Đức ông, phép lạ đây rồi: họ ở kia, tôi tưởng như tôi sắp sờ được họ vậy.
Ít ra là hai mươi nhăm người. Tôi thấy thuyền trưởng ở đầu tàu. Ông ta cầm
chiếc ống nhòm như cái này và đang nhìn chúng ta. Ô! Ông ta đang quay lại, ra
lệnh, bọn kia đẩy một khẩu súng ra, nạp đạn và nhắm vào ta. Trời ơi. Hắn bắn
vào chúng ta đấy!
Chiếc
tàu vẫn còn cách khoảng một dặm nhưng việc động tĩnh bên đó mà người chủ thuyền
đã báo thì rõ ra rồi. Một luồng khói nhỏ xuất hiện phía dưới các cánh buồm, nở
ra như một đoá hoa, rồi cách thuyền khoảng một dặm, người ta thấy trái đạn lăn
qua hai, ba đợt sóng, làm thành một đường dài trên biển và biến đi vô hại như
viên đá của cậu học trò ném thia lia.
Đó vừa
là lời đe doạ vừa là lời cảnh báo. Người chủ thuyền hỏi:
- Làm
sao đây?
- Họ
đánh chìm ta mất, - Goennec nói. Xin Đức ông làm phép cứu rỗi cho chúng ta.
Người
chủ thuyền:
- Nhưng
biết đâu nhờ đêm tối, ta có thể thoát tay họ?
- Ô,
Aramis nói. Họ có đèn tàu soi theo dấu của ta.
Trong lúc
đó như để chứng thực cho lời Aramis, phía trên tàu kia vụt một làn khói thứ hai
bốc từ từ lên trời và giữa đó, một vòng sáng như một cây mống trời đi xuống mặt
biển, cháy sáng mãi chiếu cả một phần tư dặm chung quanh.
Những
người Breton khiếp hãi nhìn nhau. Aramis nói:
- Các
anh thấy không, tốt hơn là cứ chờ họ đến thôi.
Các thủy
thủ không buông mái chèo; thuyền không đi tới nữa, đu đưa trên đầu sóng.
Đêm đến,
chiếc tàu kia cứ tiến đến. Có lẽ ban đêm họ tăng tốc độ gấp đôi. Cuối cùng nó
đến vừa tầm súng tay.
Một
người đã đứng trên boong, tay cầm súng, người xạ thủ đại bác bên khẩu pháo, mồi
lửa cháy rực. Người ta cứ tưởng là bên kia sắp tiếp cận một chiếc thuyền chiến
và sắp phải đánh nhau với một quân số đông hơn chứ không phải là đi bắt một
chiếc thuyền nhỏ với bốn người. Người chỉ huy đứng trên tàu cầm ống loa kêu
sang:
- Hàng
đi. Thủy thủ nhìn Aramis. Aramis gật đầu.
Chủ
thuyền Yves treo miếng giẻ trắng nơi đầu sào.
Chiếc
tàu tiến đến như con ngựa đua.
Bên đó
ném tiếp một hoả tiễn rơi cách thuyền hai mươi bước và chiếu lên sáng hơn cả
ánh mặt trời. Người chỉ huy la lên từ phía bên kia:
- Ai có
biểu hiện chống cự thì bắn ngay.
- Bắt
sống, bắt sống, thưa thuyền trưởng! - Vài người lính thủy say sưa gào lên. -
Phải bắt sống họ!
- Được
rồi, bắt sống, bắt sống. - Viên thuyền trưởng nói.
Rồi ông
quay sang những người Breton, kêu lên:
- Các
anh không phải tội chết, trừ ông hiệp sĩ D Herblay.
Aramis
hơi giật mình.
Trong
khoảng khắc, mắt ông nhìn sâu xuống đại đương, trên mặt biển còn sáng lên ngọn
lửa chạy dọc bên lượn sóng, toả lên trên đầu ngọn sóng khiến cho phía dưới các
vực thẳm trở nên càng đen tối hơn, bí ẩn hơn, ghê gớm hơn. Những người lính
thủy:
- Đức
ông chắc có nghe?
- Rồi.
- Ngài
ra lệnh sao?
- Nhận
đi.
- Thế
còn Đức ông?
Aramis cúi
mình hơn về phía trước, đưa các ngón tay trắng nõn vọc trên nước biển xanh và
cười như với một người bạn thân. Ông nói:
- Các
anh nhận đi.
- Chúng
tôi nhận hàng. - Các thủy thủ lặp lại. - Nhưng có gì bảo đảm?
- Các
ông có lời hứa của một người quý tộc. - Người sĩ quan nói. -Ta thề trên cấp bậc
và dòng họ ta rằng trừ ông hiệp sĩ D Herblay còn tất cả đều được khỏi chết. Ta
là Phó đô đốc chiếc vương thuyền La Pomone và ta lên là Louis Constant De
Bessigny.
Aramis
lúc bấy giờ đang nghiêng mình phân nửa bên ngoài thuyền bỗng vụt ngửng đầu lên,
đứng thẳng dậy, mắt sáng quắc môi nở một nụ cười, nói như chính ông là người
chỉ huy:
- Các
ông thả thang xuống đi.
Thế rồi
Aramis nắm theo dây thang bước lên đầu tiên và những người thủy thủ tưởng gặp
một khuôn mặt nhợt nhạt sợ hãi thì lại rất ngạc nhiên thấy ông tiến thẳng đến
chỗ viên chỉ huy, dáng vững vàng, mắt nhìn thẳng, tay ra một dấu hiệu bí mật
khiến cho người sĩ quan xanh mặt và phải cúi đầu xuống.
Aramis
không nói tiếng nào và giơ bàn tay đến ngay trước mặt người chỉ huy, cho ông
thấy chiếc nhẫn nạm đeo nơi ngón tay áp út phía trái. Khi ra dấu như thế,
Aramis lấy dáng cao ngạo lành lạnh như là một vị hoàng đế giơ tay cho thần dân
hôn.
Người
chỉ huy đã ngẩng đầu lên, lại cúi xuống lần nữa thật cung kính. Rồi ông giơ tay
hướng về phía lái, tức là phía phòng ông, và nép mình cho Aramis bước đi.
Ba người
Breton kinh ngạc nhìn nhau. Cả thủy thủ đoàn đều im lặng.
Năm phút
sau, viên chỉ huy gọi người phụ tá lên và ra lệnh quay mũi tàu về hướng
Corogne(1).
Trong
khi lệnh được thi hành thì Armis lại xuất hiện trên boong tàu, đến ngồi dựa vào
lan can.
Đêm đến
mà trăng chưa lên, tuy nhiên, Aramis vẫn cứ nhìn về phía Belle-Isle, Yves đi về
phía người chỉ huy lúc này đã đến ngồi vào vị trí và hỏi nhỏ ông:
- Thưa
thuyền trưởng, chúng ta đi về đâu thế?
Viên sĩ
quan trả lời:
- Ta đi
theo đường Đức ông chỉ.
Cả đêm,
Aramis vẫn ngồi trên lan can tàu.
Sáng hôm
sau, Yves, đến chỗ ông, thấy mặt gỗ nơi vị giám mục tựa vào ướt đẫm như có
sương thấm.
- Có lẽ
đây là những dòng nước mắt đầu tiên của Aramis?
Porthos
tốt bụng ơi, có dòng bi ký nào có giá trị hơn nữa đâu?
Chú thích:
(1) Corogne, một thành phố thuộc Tây Ban Nha
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
50: Chuyến tuần du của ông de Gesvres
D
Artagnan không quen với những cưỡng ép phải chịu vừa qua. Ông trở lại Nantes mà
lòng thấy bứt rứt. Sự bứt rứt nơi con người hùng dũng này chuyển thành một cuộc
tấn công ào ạt mà đến lúc này chưa có người nào, dù là bậc vua chúa, có thể
đương cự được. D Artagnan toàn thân run rẩy đi thẳng về phía lâu đài và xin
được tiếp kiến vua. Lúc bấy giờ là khoảng bảy giờ sáng và từ lúc biết ông đến
Nantes thì Nhà vua thường dậy sớm.
Ông De
Gesvres lễ phép chặn d Artagnan lại và yêu cầu ông đừng nói lớn tiếng để cho
vua nghỉ. D Artagnan nói:
- Nhà
vua ngủ à? Thôi thì để ngài ngủ. Chừng nào thức dậy?
- Ồ,
khoảng chừng hai giờ nữa thôi. Hoàng thượng thức suốt cả đêm.
D
Artagnan chụp lại chiếc mũ lên đầu, chào ông De Gesvres rồi quay về nhà.
Lúc chín
giờ ba mươi ông trở lại. Người ta bảo là Nhà vua đang ăn sáng. Ông nói:
- Chuyện
này là của tôi, để tôi nói chuyện trong lúc ngài ăn.
Ông De
Brienne lưu ý d Artagnan là Nhà vua không muốn tiếp ai trong bữa ăn cả.
D
Artagnan nhìn xéo ông De Brienne:
- Thưa
ông bí thư, ông không biết là tôi được phép đi khắp nơi và lúc nào cũng được
sao?
Brienne
dịu dàng cầm tay viên chưởng quan và nói:
- Nhưng
không được phép đó ở Nantes, ông d Artagnan thân mến ạ. Hoàng thượng đã xáo
trộn hết nếp cũ trong chuyến đi này rồi.
D
Artagnan dịu lại, hỏi xem lúc nào thì Nhà vua ăn xong.
De
Brienne nói:
- Chẳng
biết khi nào.
- Sao
không biết à? Tại sao thế? Ngài ăn trong bao lâu mà không biết à? Thường là một
tiếng đồng hồ, và nếu khí trời trong mát ở sông Loire làm ngài ăn ngon miệng
thì cho là một giờ rưỡi. Như thế là quá đủ, để tôi ở lại chờ.
- Ông d
Artagnan thân mến ơi! Có lệnh không cho ai đứng ở hành lang này hết. Tôi được
canh giữ nơi này đây.
D
Artagnan lại thấy nổi cơn giận lên nhưng ông phải vội bước vì sợ cơn tức giận
sẽ làm hỏng việc.
Lúc ra
ngoài, ông suy nghĩ: "Rõ ràng là Hoàng thhợng không muốn tiếp ta. Chàng
thanh niên đó nổi giận rồi. Ông ta sợ người ta rồi. Đúng rồi, nhưng vào lúc này
thì người ta đang vây hãm Belle- Isle, đang tấn công và giết hai người bạn thân
của ta.
Porthos
đáng thương! Còn bậc thầy Aramis thì khôn lanh quá chừng, khỏi lo cho anh ta.
Nhưng không, Porthos chưa bị đui què mà Aramis cũng chưa phải là một tên già
ngốc nghếch.
Cánh tay
khỏe của người này và bộ óc sáng suốt của người kia thế nào cũng chắc là sẽ làm
bận rộn cho các binh sĩ của Hoàng thượng lắm. Biết đâu là hai con người dũng
cảm ấy sẽ lập một đồn luỹ Saint Gesvies tí xíu cho Hoàng thượng rất sùng đạo
này. Ta không nên thất vọng. Họ có đại bác và đồn luỹ mà".
D
Artagnan lại lắc đầu, tiếp tục nói với mình: "Tuy nhiên tốt hơn là ta nên
ngăn trận đánh lại, ta thì không chịu nổi cảnh nhà xác và sự phản bội của Hoàng
thượng. Nhưng vì các bạn ta thì bị bạc đãi, gì ta cũng gánh chịu hết. Hay là ta
lại ông Colbert? Với tay này ta phải làm cho hắn sợ mới được. Thôi đi đến ông
Colbert!".
Thế là d
Artagnan hăng hái bước đi. Ông biết rằng Colbert làm việc với Nhà vua ở lâu đài
Nantes. Ông kêu lên:
- Tốt
lắm, bây giờ là trở lại thời kỳ ta bước dài trên đường từ nhà ông Treville đến
nhà Hồng y De Richelieu, từ nhà Hồng y đến cung Hoàng hậu, từ cung Hoàng hậu
đến điện của Louis XIII, người ta nói già thành con nít, thật là đúng. Thôi đi.
Ông quay
lại lâu đài. Ông De Lyonne bước ra, bắt tay và cho ông biết rằng Nhà vua làm
việc cả chiều, cả đêm và có lệnh không cho ai vào hết. D Artagnan kêu lên:
- Cả
viên chưởng quan đến nhận lệnh cũng không được vào?
- Đúng
vậy! - ông De Lyonne trả lời.
D
Artagnan thấy chạm tự ái nhiều, nổi giận lên:
- Nếu
như thế thì, nếu viên chưởng quan ngự lâm quân vốn thường được vào tận phòng
ngủ của vua, bây giờ lại không thể bước vào văn phòng hay phòng ăn của vua, như
thế là Hoàng thượng đã chết rồi, hoặc đã cách chức viên chưởng quan rồi. Ông De
Lyonne, ông được ân sủng vào thì xin ông vui lòng tâu với Hoàng thượng là tôi
xin từ chức.
Ông De
Lyonne kêu lên:
- Coi
chừng đấy, d Artagnan.
- Ông cứ
đi đi, xin vì tình bạn với tôi mà đi đi.
Trong
lúc chờ đợi, d Artagnan đếm bước trên hành lang.
De
Lyonne trở lại, d Artagnan hỏi:
- Sao?
Hoàng thượng nói sao?
- Hoàng
thượng nói là tốt lắm.
Người
chưởng quan đùng đùng nổi giận:
- Tốt
lắm! Được! Bây giờ tôi được tự do rồi. Xin chào ông De Lyonne. Vĩnh biệt lâu
đài, hành lang phòng đợi này. Một con người được không ràng buộc, tự do hít thở
khí trời xin chào tất cả
Rồi
không do dự gì, người chưởng quan nhảy vụt từ thềm xuống cầu thang. Năm phút
sau, ông về tới nhà trọ, vào căn phòng ông được sử dụng theo đặc quyền của
những đại thần có nhà ở trong lâu đài.
Ông
không tháo gươm, rút áo mà lại mang thêm súng, bỏ đầy tiền vào túi lớn, rồi sai
người đến lâu đài lấy ngựa, ra lệnh đi về Vannes trong đêm.
Mọi việc
tiến hành theo ý muốn của ông. Vào lúc tám giờ tối, khi ông vừa bước chân lên
bàn đạp thì ông De Gesvres đến lữ quán với mười hai cận vệ theo sau.
D
Artagnan liếc nhìn thấy hết mười ba người, mười ba ngựa. Nhưng ông làm như
không thấy và cứ tiếp tục nhảy lên yên, Gesvres tới trước mặt ông, nói to:
- Ông d
Artagnan.
- Ô!
Chào ông De Gesvres!
- Ông đi
ngựa đấy à?
- Ông
thấy tôi trên yên rồi đấy!
- Tôi
gặp ông đây thật là may.
- Ông
tìm tôi?
- Đúng
rồi?
- Hoàng
thượng bảo ông tới phải không?
- Đúng
rồi.
- Cũng
giống như hai, ba ngày trước tôi đi tìm ông Fouquet chứ gì?
- A?
- Ồ! Ông
làm bộ làm tịch với tôi đấy à? Thôi vô ích. Có phải ông đến bắt tôi thật đấy
không?
- Bắt
ông? Không đâu trời à?
- Thế
thì ông mang mười hai người ngựa đến đây làm gì thế?
- Tôi đi
tuần.
- Ý kiến
hay! Và trong buổi đi tuần, ông chụp được tôi?
- Tôi
không chụp ông đâu. Tôi chỉ tìm ra ông và xin ông theo tôi.
- Đi
đâu?
- Đến
cung vua.
- Tốt! -
D Artagnan nói với giọng chế giễu. - Hoàng thượng hết việc rồi à?
Ông De
Gesvres hạ thấp giọng với người lính ngự lâm:
- Nhỏ
chút đi ông chưởng quan. Đừng làm hư việc, mấy người này họ nghe đấy.
D
Artagnan cười to trả lời:
- Thôi
đi. Sáu người đi trước, sáu người đi sau tôi. Ôi Hầu tước ơi, thật là một lối
hành động rất hay. Cũng phải đấy thôi, nếu tôi có dịp đi tuần về phía phòng của
ông thì nhất định là tôi phải tỏ ra lễ độ với ông, đúng địệu dân quý tộc. Thôi,
xin ông cho một ân huệ. Hoàng thượng muốn gì tôi đấy?
- À,
Hoàng thượng đang nổi giận.
- Hoàng
thượng chịu khó nổi giận thì cứ chịu khó nuốt giận đi. Tôi không chết đâu, cam
đoan với ông đấy!
- Không,
nhưng mà…
- Nhưng
mà người ta sẽ cho tôi vào làm bạn với ông Fouquet khốn khổ kia chứ gì? Chán quá!
Hắn ta lịch sự lắm. Nhất định là chúng tôi sẽ sống hoà thuận với nhau, thật êm
đềm, chắc chắn như thế.
Rồi d
Artagnan nhìn ông De Gesvres:
- Ồ! Hầu
tước tốt với tôi quá. Người ta nói là ông có ước muốn gộp chung toán cận vệ của
ông với toán ngự lâm quân của tôi. Như thế thì đây là một cơ hội hiếm có đấy!
- Xin
thề có Chúa chứng giám. Tôi không lãnh quân đâu, ông chưởng quan ạ.
- Tại
sao?
- Vì
nhiều lý do, mà còn vì lý do này là, nếu tôi thay ông lãnh toán ngự lâm quân
sau khi ông bị bắt.
- Ồ, ông
nhận là bắt tôi?
- Không!
Không?
- Thế
thì nói: Sau khi gặp tôi. Ông nói là nếu sau khi gặp tôi ông thay thế tôi thì
sao?
- Thì
đám ngự lâm quân của ông ngay từ buổi tập ban đầu, làm sao cũng vô tình bắn về
phía tôi.
Gesvres
để d Artagnan đi trước, đến ngay phòng Nhà vua đang đợi và đứng sau ông nơi
phòng chờ. Trong phòng có tiếng Nhà vua nói to với Colbert trong cùng gian
phòng mấy ngày trước Colbert từng nghe Nhà vua nói to với d Artagnan. Toán cận
vệ cầm giáo ngồi trên ngựa, đứng trước cổng chính và dần dần trong thành phố
người ta loan truyền cái tin Nhà vua vừa lệnh bắt ngài chưởng quan ngự lâm
quân.
Thế là,
người ta thấy ùn ùn người như vào thời thanh bình của Louis XIII và của ông De
Treville. Từng toán người tụ tập nhau lại, đầy thang gác. Những tiếng thì thầm
mơ hồ từ dưới các sân đưa lên các tầng gác trên cao nghe như tiếng rì rầm than
thở của thủy triều dâng ông De Gesvres lấy làm lo lắng. Ông nhìn thấy toán cận
vệ của ông lúc đầu bị những người ngự lâm đến chen vào hỏi han, sau đó đứng
tách ra xa họ và tỏ ra hơi lo lắng.
D
Artagnan thì rõ ràng là ít lo âu hơn ông De Gesvres, người chưởng quan cận vệ.
Ngay từ lúc mới vào, ông đã ngồi trên cửa sổ đưa đôi mắt tinh anh nhìn mọi sự
diễn ra, không chút nhíu mày.
Ông thấy
rõ sự sôi động tiến triển từ lúc tin ông bị bắt loan truyền ra. Ông tiên đoán
được lúc nó nổ bùng và rõ là sự tiên đoán ấy đã đúng. Ông nghĩ: "Chuyện
khá khôi hài là không biết chừng tối nay các tay pháp quan sẽ tấn phong ta làm
vua nước Pháp. Thật là tức cười!"
Nhưng
bỗng nhiên tất cả đều ngưng lại. Cận vệ, ngự lâm quân, sĩ quan, binh sĩ, những
tiếng thì thầm, những mối lo âu, tất cả tản đi, biến đi, mất hẳn. Không còn
giông bão, không còn đe doạ, không còn phiến động nữa.
Chỉ một
lời đã làm sóng gió lặng im.
Nhà vua
vừa bảo Brienne gọi to:
- Suỵt,
các ông làm Hoàng thượng phiền lòng!
D
Artagnan thở dài, suy nghĩ: "Hết rồi, lính ngự lâm quân ngày nay không
phải là lính ngự lâm quân của Louis XIII ngày xưa nữa. Hết rồi!"
Một nội
thần lên tiếng:
- Ngài d
Artagnan triều kiến Hoàng thượng.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
51: Vua Louls XIV
Nhà vua
ngồi trong văn phòng, quay lưng ra cửa vào.
Trước
mặt là một tấm gương nhờ đó trong khi giở giấy tờ, ông có thể liếc mắt nhìn mà
biết được là ai sẽ đến.
Khi d
Artagnan vào, ông không ngưng việc, vẫn từ từ đậy các thư từ, các giấy tờ kế
hoạch với tấm lụa lớn màu xanh lá cây thường dùng để che những thứ của ông cần
giấu kỹ. D Artagnan biết rành cái trò này nên vẫn đứng yên phía sau cho đến lúc
Nhà vua liếc thấy người mà không nghe lên tiếng, phải lên tiếng kêu:
- Ông d
Artagnan có đấy không?
- Thưa
tôi đây! Người lính ngự lâm tiến lại, trả lời.
Đôi mắt
long lanh của Nhà vua nhìn thẳng vào d Artagnan:
- Sao,
thưa ông, ông có điều gì nói không?
D
Artagnan dò xét cử chỉ đầu tiên đó của Nhà vua để tìm lối trả đòn:
- Thưa
ngài, tôi à? Tôi chẳng có gì nói với Hoàng thượng cả nếu không phải là về việc
Hoàng thượng sai bắt tôi và bây giờ tôi ở đây rồi.
Nhà vua
định trả lời là ông không sai bắt d Artagnan nhưng thấy câu đó có vẻ như một
lời xin lỗi nên lại thôi.
D
Artagnan vẫn bướng bỉnh nín lặng. Nhà vua tiếp lời, mắt nhìn thẳng vào d
Artagnan:
- Thưa
ông, ta đã bảo ông làm gì ở Belle-Isle? Xin ông nói đi!
D
Artagnan mở cờ trong bụng: Nhà vua gãi đúng vào chỗ ngứa của ông rồi. Ông trả
lời:
- Hình
như Hoàng thượng bận tâm hỏi rằng tôi đã làm gì ở Belle-Isle phải không?
- Thưa
ông, đúng.
- Thế
thì, thưa ngài, tôi không biết. Không nên hỏi tôi điều đó. Phải. Phải hỏi nơi
cái đám vô số, đủ loại sĩ quan đã được ban cho vô số mệnh lệnh, còn về phần
tôi, người chỉ huy cuộc hành quân thì không được lệnh gì rõ rệt cả.
Nhà vua
thấy động lòng, thốt ra:
- Thưa
ông, người ta chỉ ra lệnh cho những ai tỏ ra trung thành mà thôi.
Người
lính ngự lâm trả miếng:
- Vì thế
nên tôi không ngạc nhiên là một chưởng quan như tôi, có giá trị như là một
thống chế của nước Pháp lại phải chịu dưới quyền của năm hay sáu phụ tá, chỉ
giỏi rình mò dò xét thôi chớ không biết cóc gì về việc chỉ huy một cuộc hành
binh cả. Vì thế tôi mới đến xin Hoàng thượng trả lời thì cửa đóng ngăn. Do bị
xúc phạm đến như thế nên tôi chỉ còn có cách là xin được phép không phục vụ
Hoàng thượng nữa mà thôi.
Nhà vua
nói:
- Thưa
ông, ông cứ tưởng là ông vẫn sống trong thời đại mà các ông vua phải chịu quyền
định đoạt của các kẻ dưới tay như ông vừa than phiền đấy. Ông hình như quên
rằng một ông vua chỉ chịu trách nhiệm trước Thượng đế về hành động của mình
thôi.
Lại đến
lượt người lính ngự lâm chạnh lòng:
- Thưa
ngài, tôi không quên gì cả. Tôi không hiểu sao khi một người lương thiện đến
hỏi ông vua xem hắn ta có việc gì lầm lỗi, thì lại bị coi là xúc phạm đến vua.
- Thưa
ông, ông có lỗi là đứng về phía những kẻ thù của ta chống lại ta.
- Thưa,
ai là kẻ thù của ngài?
- Đó là
những người ta sai ông đi đánh.
- Chỉ có
hai người mà là kẻ thù của cả quân đội Hoàng gia. Thật là khó tin đó, thưa
ngài.
- Ông
không được tỏ ý kiến gì về quyết định của ta.
- Tôi
phải tỏ ý kiến về tình bạn hữu của tôi.
- Ai
phục vụ cho bạn thì không phục vụ cho chủ nhân.
- Thưa
ngài, tôi biết rõ điều đó lắm nên tôi mới cung kính xin ngài cho từ chức.
Nhà vua
nói:
- Và ta
đã nhận cho ông rồi, thưa ông. Trước khi giã từ ông, ta muốn chứng tỏ là ta
cũng biết giữ lời hứa.
D
Artagnan lạnh lùng nói giọng giễu cợt:
- Hoàng
thượng giữ lời hứa quá đấy chứ, vì Hoàng thượng đã sai bắt tôi mà không hề hứa
hẹn điều đó với tôi.
Nhà vua
xem thường câu đùa cợt đó, trở lại nét mặt nghiêm khắc nói:
- Nào
bây giờ xem thử, sự không vâng lời của ông đã khiến cho ta bắt buộc phải làm
sao.
- Tôi
không vâng lời? - D Artagnan đỏ mặt nổi giận.
Nhà vua
tiếp tục:
- Đó là
chữ ta dùng nhẹ nhất đấy. Ý định rõ rệt của ta là bắt và phạt những người chống
đối. Ta đâu có quan tâm đến việc những kẻ đó là bạn hay không của ông?
D
Artagnan trả lời:
- Nhưng
tôi thì tôi phải quan tâm. Hoàng thượng sai tôi đi bắt bạn tôi đem đến giá treo
cổ là một hành động tàn ác.
- Thưa
ông, đó là một cách ta thử thách những kẻ gọi là phục vụ ta đã ăn cơm ta và
phải bảo vệ ta. Sự thử thách không thành rồi ông d Artagnan ạ.
Người
lính ngự lâm chua chát nói:
- Hoàng
thượng mất một người phục vụ kém thì có ngay cùng ngày, mười người đến xin thử
thách. Xin ngài hãy nghe tôi đây. Tôi không quen với các công việc đó. Tôi đau
lòng phải truy đuổi đến chết hai con người mà kẻ cứu mạng Hoàng thượng là ông
Fouquet đã xin ngài để cho họ sống. Hơn nữa hai người ấy còn là bạn thân của
tôi. Họ không tấn công vào Hoàng thượng, họ phải chịu chết vì một cơn giận mù
quáng. Tại sao lại không để họ trốn đi! Họ đã phạm vào tội ác gì? Tôi nhận là
ngài không cho phép tôi xét tư cách hành động của họ. Nhưng tại sao ngài lại
nghi ngờ trước khi tôi thể hiện bằng hành động? Tại sao cho người dò xét tôi?
Tại sao sỉ nhục tôi trước quân đội? Tại sao một người như tôi được ngài tin cậy
hết mực, một người như tôi từng mười ba năm qua ở bên cạnh ngài và được tỏ lòng
trung thành đến cả ngàn lần, đúng thế, thưa ngài, phải nói thế vì hôm nay tôi
bị tố cáo trái lại - tôi như thế mà bắt tôi phải ngồi nhìn ba ngàn lính của vua
tấn công tiêu diệt hai con người?
Nhà vua
hạ giọng.
- Nghe
ông nói người ta tưởng là ông quên những gì các người ấy đã ra tay đối với ta,
nghĩa là ông quan tâm tới họ hơn với sự mất còn của ta.
- Thưa,
ngài quên rằng còn tôi ở đó!
- Thôi
đủ rồi, ông d Artagnan, không nói đến nữa những chuyện thuộc loại gây áp lực đó
làm khuất cả mặt trời quyền lợi của ta. Ta đang lập một quốc gia chỉ có ta là
chủ như ngày xưa ta đã hứa với ông. Đây là lúc ta thực hiện lời hứa của ta. Ông
muốn chiều theo khuynh hướng và tình cảm của ông mà làm ngăn trở chương trình
của ta và cứu thoát các kẻ thù của ta phải không? Ta sẽ bẻ gãy ông hay từ giã
ông thôi. Ông hãy đi tìm một chủ nhân khác dễ chịu hơn. Ta biết rõ rằng một ông
vua khác sẽ không đối xử như ta và để cho ông lấn át dù là có thể một ngày nào
đó sẽ cho ông đi làm bạn với ông Fouquet và những người khác. Nhưng trí nhớ ta
tốt lắm, và đối với ta, thành tín là những tước vị thiêng liêng buộc phải ghi
ơn, phải không được trừng phạt. Ông d Artagnan ạ, ta chỉ cho ông bài học này để
trừng phạt tội bất tuân của ông thôi, ta không bắt chước người trước hành động
như khi họ nổi giận hay họ ban phát ân huệ. Và cũng có nhiều lý lẽ khác khiến
ta phải đối xử dễ dãi với ông. Đầu tiên là vì ông là người tính tình cao cả,
nhạy bén và với ai trị được ông thì ông sẽ trở thành người phục vụ tốt; thứ nữa,
là những lý do bất phục tùng của ông sắp hết rồi. Bạn bè ông đã bị chúng ta
diệt đi hay tàn huỷ, những điểm tựa mà ông theo phản ứng tự nhiên dựa vào đó để
sống theo ý mình đã bị ta làm tan biến đi rồi. Lúc chúng ta đang nói chuyện với
nhau đây thì quân sĩ của ta đã bắt hay giết xong những tên phản loạn ở
Belle-Isle.
D
Artagnan tái mặt, kêu lên:
- Bắt
hay giết xong? A, thưa ngài, nếu ngài nghĩ đến những điều vừa nói, nếu ngài
chắc chắn đó là sự thật thì tôi sẽ quên tất cả những gì là đúng, phải. Sự hào
hiệp có trong lời nói của ngài? Tôi chỉ có thể gọi ngài là một ông vua dã man,
một kẻ mất tính người. Nhưng tôi bỏ qua những lời ngài vừa nói, - D Artagnan
vừa nói vừa kiêu ngạo mỉm cười. - Tôi bỏ qua những lời của ông hoàng trẻ tuổi
không biết, không thể hiểu thế nào là những người như ông D Herblay, như ông Du
Vallon, như tôi. Bắt hay giết! Ha, ha, xin ngài hãy tính xem nếu tin đó mà đúng
thì ngài phải tốn bao nhiêu nhân mạng và tiền bạc? Rồi sau đó ta sẽ tính lời
lãi xem có đáng bỏ công không?
- Ông d Artagnan
trả lời với giọng kẻ phản loạn đấy! Xin ông cho ta biết ai là vua nước Pháp?
Ông biết có ai khác không.
Người
chưởng quan ngự lâm lạnh lùng trả lời:
- Thưa
ngài, tôi nhớ vào một buổi sáng ở Vaux, ngài đã hỏi câu ấy với rất nhiều người
mà không ai trả lời được, trừ có tôi. Nếu Hoàng thượng ngày hôm đó thấy tôi đã
tìm được câu trả lời không dễ ấy, thì ngài cũng không nên đặt lại vấn đề ngày
hôm nay, lúc ngài chỉ có một mình trước mặt tôi.
Nghe
những lời ấy, Louis XIV cúi mặt xuống. Hình như bóng hình Philippe khốn khổ vừa
lướt qua giữa d Artagnan và ông, để nhắc nhở câu chuyện kinh khiếp kia, cùng
lúc ấy, một sĩ quan bước vào, đưa cho Nhà vua một bức điện khiến cho Nhà vua
đổi sắc mặt khi đọc xong, d Artagnan thấy rõ điều đó. Nhà vua vẫn ngồi yên nín
lặng sau khi đọc lại lần thứ hai. Rồi ông bỗng quyết định:
- Điều
ta vừa mới biết, sau này thì ông cũng rõ. Cho nên tốt hơn, để tự miệng ta là
đấng quân vương nói ra. Có giao tranh ở Belle- Isle đấy. Ta mất một trăm lẻ sáu
người.
Ánh mắt
vui sướng, kiêu lãnh của d Artagnan sáng lên.
Ông hỏi:
- Còn
phe phản loạn?
Nhà vua
nói:
- Bọn
phản loạn trốn mất.
D
Artagnan kêu lên, tiếng vui mừng hân hoan. Louis XIV tiếp:
- Nhưng
ta có cả một đội tàu vây siết thật chặt Belle-Isle và nhất định là không có thuyền
nào thoát khỏi.
Người
lính ngự lâm trở lại ý tưởng ảm đạm cũ:
- Như
thế là, nếu hai người đó bị bắt?
- Thì
người ta đem treo cổ họ lên - Nhà vua nói giọng thật bình tĩnh.
D
Artagnan nén rùng mình rồi nói:
- Thưa
ngài, tôi có thể cam đoan với ngài là không bao giờ bắt sống họ được đâu.
Nhà vua
thản nhiên cầm bức điện lên:
- Thế
thì, người ta sẽ đem xác họ về, ông d Artagnan ạ. Cũng thế thôi, vì ta bắt họ
chỉ để treo cổ họ thôi.
D
Artagnan giơ tay, chùi mồ hôi chảy ròng ròng trên trán.
Louis
XIV nói tiếp:
- Ta đã
nói với ông, một ngày nào đó ta sẽ là rnột chủ nhân biết chiều chuộng, rộng rãi
và thủy chung với ông. Ngày hôm nay, ông là con người độc nhất của ngày xưa
xứng đáng được hưởng sự thịnh nộ và tình yêu của ta. tùy theo hạnh kiểm của ông
mà ta sẽ không nề hà ban phát cho cả hai thứ. Ông d Artagnan, ông có thể nào
chịu phục vụ một ông vua có hàng trăm ông vua khác, có những người ngang hàng
với ông ta trong nước không? Ông thử nói xem có thể nào ta dùng sự yếu ớt ấy để
làm công việc vĩ đại mà ta ước ao? Có thể nào một nghệ sĩ sáng tác được những
tác phẩm để đời với các dụng cụ chẳng vừa ý không? Chúng ta đã xa rồi thời đại
của những thứ mầm cằn cỗi, của những lạm dụng phong kiến. Cuộc nổi loạn Fronde
đáng lẽ làm cho vương quyền thất bại thì nó đã tập trung lại được ông d
Artagnan ơi, ta bây giờ là chủ nhà ta, và ta sẽ có những người giúp việc có lẽ
không có tài như ông nhưng biết trung thành, vâng lời đến mức độ cuồng tín. Ta
hỏi ông, cần gì việc Thượng đế không cho các tay chân có được thiên tài? Chỉ
cần cho thiên tài nơi cái đầu là đủ, và ông cũng biết, mọi thứ khác đều vâng
lời cái đầu. Ta, chính ta là cái đầu đây.
D
Artagnan giật nảy mình, Louis tiếp tục như là không thấy gì hết tuy ông không
bỏ qua cái giật mình kia.
- Thôi
bây giờ, chúng ta làm một giao kết với nhau nhé. Ông hãy nhìn chung quanh xem,
các tay tai to mặt lớn đều cúi đầu hết. Ông hãy cúi đầu xuống, hay là chịu đi
đày không biết chừng lại hợp với ông hơn. Có lẽ suy nghĩ lại, ông sẽ thấy rằng
ông vua này cũng có tấm lòng quảng đại, vẫn chịu tin tưởng vào sự trung thực
của ông ngay cả khi ông không bằng lòng, ông, con người đã thấy rõ những bí mật
của quốc gia rồi. Ta biết ông là một người ngay thẳng. Tại sao ông lại xét đoán
ta khi chưa hết thời hạn cam kết? Ông cứ xét ta bắt đầu ngay từ hôm nay, ông d
Artagnan ạ, và cứ nghiêm khắc xét đoán hết mức độ.
Lần đầu
tiên trong đời, d Artagnan thấy choáng váng, không nói nên lời, tâm trí chơi
vơi không định hướng. Ông vừa tìm thấy một địch thủ thật xứng đáng với ông.
Không phải là mưu mô lừa phỉnh nữa mà là tính toán cân nhắc, không phải là sự
hung bạo nữa mà là sức mạnh; không phải là cuồng nộ nữa mà là ý chí, không phải
là sự khoác lác nữa mà là lời chỉ dạy. Con người trẻ tuổi nay vừa đập Fouquet
xong và có thể không cần đến d Artagnan nữa khiến cho những tính toán hơi bướng
bỉnh của người lính ngự lâm bị đảo lộn hết. Nhà vua lại dịu dàng nói:
- Sao,
ông nghĩ gì thế? Ông vừa xin từ chức xong, ông muốn ta từ chối không? Ta đồng ý
là một tay chỉ huy già đời mà phải quyết định lại thì thật khổ tâm.
D
Artagnan buồn bã đáp:
- Ôi đó
không phải là mối bận tâm lớn nhất của tôi. Tôi lưỡng lự không muốn rút đơn từ
chức. Tôi thấy mình đã già trước mặt ngài rồi và vì tôi đã có những thói quen
khó bỏ. Từ nay trở đi phải có những cận thần biết làm cho ngài vui, phải có
những thằng điên biết liều mình vì những thứ ngài gọi là công trình vĩ đại. Vĩ
đại thật đấy, tôi biết, nhưng ví như tôi không thấy nó là vĩ đại thì sao? Thưa
ngài, tôi đã thấy chiến tranh, tôi đã thấy hoà bình, tôi đã phục vụ Richelieu
và Mazarin, tôi lăn lộn với cha ngài trong lửa đạn ở La Rochelle, bị đạn xăm
như cái rổ, làm lại da mới đến hơn mười lần như là lũ rắn. Sau những nhục nhằn
và bất công, tôi được một chức chỉ huy, đối với ngày xưa thì cũng ra gì đấy vì
có được quyền nói thẳng với vua. Nhưng người chưởng quan ngự lâm quân của ngài
bây giờ sẽ chỉ là một sĩ quan giữ cửa nhà bếp thôi. Thực đấy, thưa ngài, nếu
công việc của tôi từ nay chỉ là chừng ấy thì nhân lúc chúng ta còn thuận thảo
ngài rút lại cho tôi nhờ. Ngài đừng nghĩ rằng tôi ấm ức trong lòng, không, ngài
đã trị được tôi như ngài đã nói đấy, nhưng phải công nhận là khi trị được tôi
ngài đã làm tôi kém cỏi đi, khi bắt tôi khom mình, ngài đã làm tôi yếu đi. Ngài
nên biết rằng ngước dầu đi thẳng là tốt đẹp biết bao và bắt tôi ngửi bụi tấm
thảm chân của ngài thật tội nghiệp quá chừng. Ôi, thưa ngài, tôi thành thật
luyến tiếc và chắc ngài cũng biết như tôi cái ngày mà ông vua nước Pháp thấy
trong phòng chờ có những nhà quý tộc ngạo mạn, gầy ốm, lúc nào cũng càu nhàu,
rách rưới, tinh ranh, vừa mới ăn đòn chiến trận trở về. Những người ấy là cận
thần tinh anh nhất dưới tay người nuôi dưỡng họ; họ biết lè lưỡi liếm người
chủ, nhưng với bàn tay đập họ thì ôi, những vết cắn sẽ gọn gẽ làm sao? Một chút
vàng trên lon áo, một chút bụng mỡ bên trong quấn ngắn, một chút màu xám trong
mái tóc khô đó, thế là ngài sẽ thấy họ thành những hầu tước, công khanh đẹp đẽ,
những thống chế oai hùng của nước Pháp. Nhưng nói như thế để làm gì? Hoàng
thượng là chủ nhân của tôi, ngài bắt tôi phải làm thơ, ngài bắt tôi phải mang
giầy lụa, chùi bóng nền tiền sảnh của ngài. Chán quá! khó thật, nhưng tôi đã
từng làm những việc khó hơn nhiều. Tôi sẽ làm. Tại sao tôi sẽ làm! Vì tôi thích
có tiền chăng? Tôi đã có rồi. Vì tôi tham vọng chăng? Chức phận tôi có hạn. Vì
tôi yêu triều đình chăng? Không. Tôi ở lại vì tôi đã quen trong ba mươi năm đến
chỗ vua lấy lệnh, được nghe nói với tôi "Chào ông d Artagnan" với nụ
cười tôi không phải ăn mày mới có nụ cười ấy, rồi tôi sẽ phải van xin mới có.
Thưa Hoàng thượng, ngài bằng lòng rồi chứ?
Thế rồi
d Artagnan từ từ cúi khom cái đầu bạc xuống và nhà vua kiêu ngạo mỉm cười đặt
bàn tay trắng trẻo lên đấy:
- Cám
ơn, người giúp việc lâu năm của tôi, người bạn trung thành của tôi. Từ nay vì
ta không còn có kẻ thù trên đất Pháp, ta phải gửi ông đi đến một chiến trường
lạ để nhặt về cây gậy thống chế cho ông. Hãy tin vào ta để chờ dịp. Trong lúc
chờ đợi cứ ăn thử bánh ngon của ta và ngủ thật yên.
D
Artagnan cảm động nói:
- Thật
sớm. Nhưng các con người khốn khổ ở Belle-Isle thì sao? Nhất là một người ở
đấy, thật tốt, thật dũng cảm.
- Có
phải là ông xin ta tha cho họ không?
- Tôi
lấy đầu tôi bảo lãnh.
- Thôi
đi lãnh họ đi. Mai ta về Paris. Ông nên trở lại vì ta không muốn ông rời ta
nữa.
- Xin
ngài an lòng. - D Artagnan nói và cúi xuống hôn tay Nhà vua.
Thế rồi
ông vui mừng hớn hở phóng vụt ra khỏi lâu đài hướng về Belle-Isle.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
52: Những người bạn của ông Fouquet
Nhà vua
trở về Paris. D Artagnan đi theo và sau một ngày thì nhận được mọi tin tức về
Belle-Isle nhưng không biết được sự tình bí ẩn trong tảng đá nặng nề ở Locmaria
là nấm mồ của Porthos anh hùng.
Người
chưởng quan ngự lâm quân chỉ biết rằng hai con người dũng cảm ấy, hai người bạn
mà ông đã tận lực bênh vực và đã tìm cách cứu mạng đó đã chống chọi được với cả
một đạo quân mà chỉ ba người Breton trung thành phụ giúp. Ông cũng biết thêm
rằng người ta có thấy từ xa một chiếc thuyền giữa biển và một con tàu Hoàng gia
như con chim bé nhỏ khốn khổ đó khi nó đang sải cánh trốn chạy.
Nhưng
đến đó là hết. Ngoài ra chỉ là chuyện phỏng đoán thôi.
Đó là
những tin tức mơ hồ mà d Artagnan đã báo cáo lại với Louis XIV khi Nhà vua trở
lại Paris cùng với cả triều đình.
Vui mừng
vì đã thành công, dịu dàng và khả ái hơn từ lúc thấy mình trở nên có quyền hành
hơn, ông Louis đó không lúc nào ngưng lẩn quẩn bên cửa của Tiểu thư De La
Vallière.
Louis
XIV vừa thức dậy dùng bữa đầu tiên thì người chưởng quan ngự lâm đến trình
diện. D Artagnan mặt hơi xanh xao và có vẻ lúng túng.
Chỉ liếc
mắt nhìn qua, nhà vua đã thấy có sự đổi khác trên khuôn mặt thường vui vẻ ấy.
Ông hỏi:
- Có
chuyện gì đấy. d Artagnan?
- Thưa
Hoàng thượng, tôi vừa gặp chuyện buồn lớn lao.
- Trời?
Cái gì thế?
- Thưa
ngài, tôi mất một người bạn thân, ông Du Vallon, trong biến cố ở Belle-Isle.
Trong
khi nói, d Artagnan liếc đôi mắt chim ưng của ông nhìn vào Louis XIV để đoán
ngay ra những dấu hiệu phản ứng đầu tiên của Nhà vua, Loui XIV trả lời:
- Ta
biết rồi.
D
Artagnan kêu lên:
- Ngài
đã biết mà ngài không nói gì với tôi hết?
- Có ích
gì đâu. Ông bạn ạ, nỗi đau khổ của ông thật đáng trân trọng. Cho nên ta phải
tránh né đi, d Artagnan ạ. Báo cho ông biết chuyện buồn làm cho ông đau khổ đó
là tỏ ra thắng thế trước mặt ông đấy. Đúng, ta biết rằng ông Du Vallon đã bị
chôn dưới các tảng đá ở Locmaria, ta biết rằng ông D Herblay đã đoạt của ta với
cả thủy thủ đoàn đi Bayonne. Nhưng ta muốn ông trực tiếp tìm hiểu các biến cố
ấy để cho ông thấy rằng bạn bè của ta bao giờ cũng được ta vì nể và không cho
ai động đến, và đối với ta, quyền lực và cương vị đòi hỏi mọi người phải biết
hy sinh.
- Nhưng
thưa Hoàng thượng, vì sao ngài biết?
- Thế
còn ông, làm sao ông biết?
- Do bức
thư này của Aramis bây giờ đã thoát vòng nguy hiểm, viết cho tôi từ Bayonne.
- Xem
đây, - Nhà vua rút từ hộc cạnh chỗ d Artagnan đứng dựa, lấy ra thư chép đúng
thư của Aramis - Đây cũng là tờ thư giống như thế do Colbert chuyển cho ta tám
giờ trước khi ông nhận thư ông. Ta chắc đã được phục vụ đúng mực đấy.
Người
lính ngự lâm lẩm bẩm:
- Phải,
Hoàng thượng đúng là con người độc nhất có số mệnh có thể thắng được số mệnh và
sức mạnh của hai người bạn tốt Ngài đã sử dụng, nhưng chắc là không lạm dụng
quyền lực đó phải không?
Nhà vua
mỉm cười độ lượng:
- D
Artagnan ạ, ta có thể sai bắt ông D Herblay ngay trên đất vua Tây Ban Nha và
đem ông ấy về đây để xử tội. Phải công nhận là lúc đầu ta cũng có ý nghĩ như
thế. Đó là lẽ thường thôi, d Artagnan ạ, ông ấy bây giờ đã được tự do, hãy để
cho ông ấy tiếp tục được tự do.
- A,
Hoàng thượng sẽ không thể nào mãi mãi độ lượng cao cả, khoan hồng như thế đối
với tôi và với cả D Herblay vì ngài có nhưng cố vấn sẽ chữa cho ngài khỏi sự
yếu lòng đó.
- Không
d Artagnan ạ, ông đã lầm khi ông cho rằng, nội các xui ta đi quá đà. Ý kiến
khuyên ta nương tay với ông D Herblay là của Colbert đấy!
- Ồ! - D
Artagnan kêu lên tiếng ngạc nhiên.
Nhà vua
tiếp tục tỏ lòng nhân đức lạ thường.
- Còn về
phần ông, ta có nhiều tin mừng báo cho ông nhưng thôi, ông chưởng quan thân mến
ạ, đến lúc ta tính toán xong thì ông sẽ biết. Ta đã nói là muốn và sẽ đem lại
sự nghiệp cho ông. Bây giờ nó đã thành hiện thực rồi đó.
- Muôn
vàn cảm tạ Hoàng thượng. Trong khi tôi ngóng đợi. Xin Hoàng thượng lưu ý tới
những con người khốn khổ từ lâu đã đứng ngoài tiền phòng mong được cầu xin ân
huệ dưới chân ngài.
- Ai
thế?
- Đó là
những kẻ thù của Hoàng thượng.
Nhà vua
ngẩng đầu lên. D Artagnan vội tiếp.
- Những
người bạn thân của ông Fouquet.
- Tên là
gì?
- Ông
Gourville, ông Pellisson và ông Jean De La Fontaine.
Nhà vua
suy nghĩ một lúc:
- Họ
muốn gì?
- Tôi
không biết.
- Dáng
họ thế nào?
- Như
người đưa đám. Họ khóc lóc.
- Cho họ
vào. - Nhà vua nhíu mày nói.
D
Artagnan quay người lại thật mau, giở tấm bình phong che cửa ngự phòng và kêu
vọng sang phòng bên:
- Đem họ
vào!
Tức khắc
ba người d Artagnan nói, xuất hiện nơi cửa phòng. Trên đường đi của họ, mọi
người đều lặng ngắt. Những quan chức khi thấy các bạn hữu của viên tổng giám
khốn khổ đến gần, liền lùi lại như sợ lây sự thất sủng và nỗi bất hạnh của họ.
D
Artagnan bước nhanh đến nắm tay những con người khốn khổ đó đang đứng lưỡng lự
run rẩy trước cửa ngự phòng.
Ông dắt
họ đến trước mặt Nhà vua, lúc này đã ngồi trên ghế, trước khung cửa sổ, và lấy
vẻ mặt thật khôn khéo để tiếp đón những người đến cầu lụy.
Người
bạn của Fouquet tiến lên trước là Pellisson. Ông ta không khóc nữa, nhưng nước
mắt ông chỉ cạn là cốt để nói rõ lời khẩn cầu với Nhà vua thôi. Gourville cắn
chặt môi ngưng khóc vì kính trọng Nhà vua. La Fontaine úp mặt vào chiếc khăn
tay và như người chết rồi nếu người ta thỉnh thỏang không thấy hai vai ông giật
lên vì tiếng nấc.
Nhà vua
giữ thật đúng vẻ trịnh trọng, nét mặt không đổi sắc vẫn còn nhíu mày sau khi d
Artagnan báo cho ông biết sự có mặt của những kẻ thù. Ông làm một cử chỉ có
nghĩa "Nói đi" rồi cứ đứng đấy, lạnh lùng nhìn vào ba con người tuyệt
vọng.
Họ lại
cứ nín lặng hồi lâu, chỉ có những tiếng thở dài, những tiếng rên đau khổ, điều
này khiến cho Nhà vua không phải xúc động vì thương cảm là vì mất kiên nhẫn.
Ông cất
tiếng nói cụt ngủn và khô khan:
- Ông
Pelleson, ông Gourville và ông…
Louis
XIV không gọi tên La Fontaine (Louis tỏ ý trọng nể văn sĩ La Fontaine).
- Tôi
rất không bằng lòng khi thấy các ông đến để xin tha cho một tên trọng phạm đầu
tiên mà ta bắt buộc phải trừng trị. Một vị vua chỉ xót thương khi thấy những
giọt nước mắt của người vô tội và những lời hối lỗi của ông Fouquet cũng như
những giọt nước mắt của các bạn ông ấy, bởi vì Fouquet thì hư hỏng đến tột độ
còn các ông thì phải nên sợ là đã xúc phạm ta ở đây. Cho nên, ông Pellison, ông
Gourville, ông, ông… Ta xin các ông chỉ nên nói lời nào chứng tỏ rõ ràng là
phải tôn trọng ý muốn của ta.
Pellisson
cất tiếng run rẩy trước những lời ghê gớm ấy:
- Thưa
Hoàng thượng, chúng tôi đến đây là để bày tỏ tấm lòng thành kính sâu xa nhất,
thành thật nhất của thần dân đối với ngài. Công lý của Hoàng thượng thật đáng
sợ, mọi người ai cũng phải cúi đầu trước các lệnh truyền ra. Con người phải
chịu cơn thịnh nộ của ngài, có thể là bạn của chúng tôi, nhưng lại là kẻ thù
của Hoàng thượng. Chúng tôi rời bỏ hắn mà kêu khóc trước cơn thịnh nộ của Hoàng
thượng.
Louis
XIV dịu lòng trước giọng nói cầu khẩn, dễ tin đó, nên ngắt lời:
- Nghị
viện ta còn xét xử nữa. Ta không bao giờ đánh đập mà không cân nhắc tội trạng.
Công lý của ta có gươm bén nhưng cũng có cân công bình.
- Cho
nên chúng tôi rất tin tưởng vào sự công bình của Hoàng thượng, và chúng tôi
mong rằng khi chúng tôi xin được phép Hoàng thượng nghe những lời nói nhỏ bé
của chúng tôi.
Nhà vua
nghiêm giọng:
- Các
ông muốn xin gì vậy?
Pellisson
tiếp:
- Thưa
Hoàng thượng, người bị tội có vợ và con. Chút của cải hắn có chỉ vừa đủ trả nợ
nần, thế mà bà Fouquet từ lúc chồng bị bắt thì ai cũng xa lánh bỏ rơi bà. Bàn
tay ngài đánh đập xin giống như tay Thượng đế. Khi Thượng đế ban lệnh cùi lở
hay dịch hạch cho một gia đình thì ai cũng trốn chạy khỏi nơi đó. Thật là hiếm,
nhưng đôi khi chỉ một người thầy thuốc rộng lượng bước đến ngưỡng cửa nhà đó,
đi vào và hy sinh chống chọi với thần chết. Người ấy là hy vọng cuối cùng của
kẻ đang đợi chết, là công cụ của lòng nhân từ trên cao. Thưa Hoàng thượng,
chúng tôi chắp tay van xin ngài. Bà Fouquet không còn bạn bè, không còn người
giúp đỡ, bà ta đang khóc trong căn nhà khốn khổ, vắng lặng nơi mà lúc chồng bà
còn được ân sủng không biết bao người chen chúc chầu chực. Ít ra thì con người
khốn khổ phải chịu cơn thịnh nộ của ngài, dù đáng tội đến đâu nữa, cũng có thể
nhận được miếng bánh của ngài, để ăn với nước mắt. Còn bà Fouquet con người đã
từng được hân hạnh đón mừng ngài trên bàn ăn; người vợ của viên cựu tổng giám
tài chính của Hoàng thượng, bà Fouquet này không còn cả miếng bánh mà ăn!
Nhà vua
mặt vẫn nghiêm trang, nhưng đôi gò má hơi đỏ và nét nhìn dần dần đã dịu lại.
Ông run giọng hỏi:
- Các
ông mong muốn những gì?
Pellisson
càng nói càng xúc động:
- Chúng
tôi đến xin Hoàng thượng cho phép chúng tôi cho bà Fouquet vay hai ngàn pistole
mà khỏi bị liên lụy gì cả. Số tiền này là của các bạn bè xưa chung góp để cho
người vợ goá khỏi thiếu thốn.
Nghe chữ
người vợ goá của Pellisson trong lúc Fouquet còn sống, Louis XIV tái mặt đi. Sự
kiêu hãnh của ông sụp đố xuống, lòng thương dâng lên từ trái tim lên đến môi.
Ông thông cảm nhìn những con người đang quỳ lụy khóc lóc và nói:
- Thượng
đế giận vì ta đã lẫn lộn người có tội với kẻ vô can. Nếu nghi ngờ lòng bác ái
của ta đối với kẻ yếu là không biết ta. Ta chỉ đập những tên xấc xược thôi. Các
ông cứ làm những gì trái tim các ông muốn bảo vệ để cứu giúp bà Fouquet. Thôi
đi đi, các ông đi đi.
Chỉ còn
một mình d Artagnan. Ông bước lại phía ông hoàng trẻ đang nhìn ông, mắt dò hỏi:
- Tốt,
tốt, ông chủ của tôi ạ. Nếu ngài không có cái châm ngôn vẽ trên mặt trời của
ngài, thì tôi xin hiến một câu, khỏi cần để cho ông Colbert dịch ra tiếng
La-tinh: "Nên nhẹ tay với kẻ yếu, cứng rắn với kẻ mạnh".
Nhà vua
mỉm cười bước qua phòng bên sau khi nói với d Artagnan:
- Ta cho
ông nghỉ phép để lo thu xếp cho công việc của ông Du Vallon quá cố, bạn của ông
đấy.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
53: Bản chúc thư của Porthos
Không
khí ở Pienefonds ngập một màu tang chế. Sân bãi vắng người, chuồng trại đóng
kín, vườn cảnh hoang tàn. Các vòi nước ngày xưa phun toả rộng, loang loáng ồn
ào nay đã ngưng bặt.
Trên các
ngả đường quanh lâu đài, vài người nét mặt trầm ngâm cưỡi lừa, cưỡi ngựa quê,
kéo nhau đi đến. Đó là những người láng giềng trong vùng quê, các ông giáo sĩ
và các pháp quan ở đất bên cạnh.
Tất cả
những người đó im lặng đi vào lâu đài, gửi ngựa lại cho một người vẻ mặt ảm đạm
trông coi, và theo chân một người thợ săn mặc đồ đen đi về phía phòng hội có
Mousqueton đứng ở bậc cửa tiếp khách.
Qua hai
ngày, Mousqueton gầy đi, thấy rõ cả áo quần thùng thình như là bao gươm quá
rộng để cho lưỡi dao bên trong tha hồi múa may quay cuồng. Gương mặt nổi mụn đỏ
trắng của ông có hai dòng nước trắng chảy dài trên gò má ngày xưa thật đầy đặn
mà từ lúc chịu tang đã thành nhão nhẹt.
Mỗi một
người tới thăm, Mousqueton lại có dịp đổ hàng nước mắt mới, và thật thương tâm
khi thấy ông lấy bàn tay to lớn chẹn lấy cổ họng để khỏi nấc lên thành tiếng.
Mọi
người đến để nghe đọc bản di chúc của Porthos đã được rao là sẽ phổ biến ngày
hôm nay. Người chết không có kẻ kế nghiệp nên đến tham dự là những tay thèm
muốn của cải và các bạn bè thân hữu của ông. Họ lần lượt tìm chỗ ngồi và cửa
phòng hội đóng lại lúc mười hai giờ trưa, giờ đọc di chúc.
Ông biện
lý từ từ mở tấm giấy da ghi những ước muốn cuối cùng của Porthos do bàn tay to
lớn của ông viết ra.
Nghe
tiếng dấu khằn vỡ ra, lấy đôi mục kính đặt lên mắt và tiếp theo tiếng ho vang
lên, mọi người đều vểnh tai chăm chú nghe. Mousqueton chúi vào một góc để ít
nghe hơn và khóc nhiều hơn.
Thình
lình, đôi cánh cửa phòng hội bỗng mở toang rồi bóng một người đàn ông hiện ra,
lấp loáng trong ánh nắng mặt trời chói chang. Đó là d Artagnan một mình đến tận
cửa này, không thấy ai ra đón nên nhảy xuống cột ngựa và tự bước vào.
Ánh sáng
tràn ngập phòng và tiếng rì rầm của người tham dự nổi lên và nhất là tiếng sủa
mừng của con chó trung thành khiến Mousqueton bị lôi ra khỏi cơn mê. Ông ta
ngửng đầu lên, nhận ra người bạn cũ của chủ nên bước đến ôm ông mà nước mắt lã
chã rơi trên nền gạch.
D
Artagnan nâng người quản gia khốn khổ lên, ôm hôn như với một người anh em, rồi
trịnh trọng chào đám đông nghiêng mình chào lại và thì thầm nhắc tên ông. Ông
đến tận cuối chiếc ghế có chạm khắc, ngồi xuống đấy, tay vẫn nắm lấy bàn tay
Mousquelon rũ rượi buông mình trên bậc cấp.
Thế rồi
ông biện lý lên tiếng đọc.
Sau một
đoạn nhắc nhở đạo lý. Porthos xin kẻ thù tha lỗi cho ông đã gây cho họ.
Nghe
đoạn văn ấy, mắt d Artagnan thoáng hiện lên một niềm kiêu hãnh khó diễn tả rồi.
Ông nhớ lại người lính già kia.
Ông tính
phỏng ra những kẻ thù bị dập nát clưới cánh tay oai hùng Porthos và nghĩ thầm
rằng ông bạn đó thật khôn ngoan khi không chịu kể ra chi tiết về những kẻ thù
đó hay về những lỗi lầm ông đã gây ra cho họ, khiến độc giả muốn tìm hiểu thật
là khó khăn. Thế rồi đến bảng liệt kê sau đây:
"Nhờ
Thượng đế, đến bây giờ tôi có được.
1. Lãnh
địa Pierrefonds gồm đất đai, rừng rú, đồng cỏ, sông ngòi, có tường thành chắc
chắn cây quanh;
2. Lãnh
địa Bracieux gồm lâu đài, rừng, đất canh tác tập trung nơi ba nông trại;
3.
Khoảnh đất nhỏ Vallon, được gọi như thế vì ở trong một tiểu thung lũng.
4. Năm
mươi miếng đất cho mướn trong vùng Touraine, diện tích được 500 mẫu;
5. Ba
nhà cối xay trên sông Cher, mỗi nhà thu hoạch được 600 dồng louis;
6. Ba
cái ao trên sông đào Berri, lợi tức mỗi cái 300 louis;
Còn về
phần các động sản, theo như lời chỉ dẫn của người bạn bác học của tôi, giám mục
Vannes, giải thích tên gọi đó là do chúng không cử động được.
D
Artagnan rùng mình khi nhắc đến tên Aramis. Ông biện lý vẫn tiếp tục đọc:
"Chúng
gồm có:
1. Những
đồ đạc tôi không kẻ tên ra vì không có chỗ vì chúng đặt trong các lâu đài, nhà
cửa của tôi có danh sách do người quản gia lập ra".
Mọi
người quay lại nhìn Mousqueton đang chìm đắm trong đau thương.
2. Hai
chục ngựa cưỡi và ngựa kéo nhất riêng trong lâu đài tôi ở Pierrefonds có tên
là: Bayard, Rolaud, Charlemagne, Pépin, Dimois, La Hire, Ogier, Samson, Milon,
Nemrod, Urgande, Armide, Falstrade, Dahla, R becca, Yolande, Finnette,
Grisette, Lisette và Musette (1)
Tới đây
thì người đọc phải ngừng lại một lúc để lấy hơi. Ai nấy đều thở ra, ho hen và
chú ý gấp bội. Ông biện lý đọc tiếp:
"Tôi
không có con và có lẽ không bao giờ có, thật là điều day dứt lớn nhất của tôi.
Nhưng mà tôi lầm rồi, tôi có một người con chung với các bạn tôi. Đó là ông
Raoul Auguste Jules De Bragelonne, con chính của Bá tước De La Fère.
Tôi thấy
nhà quý tộc này xứng đáng được làm người kế nghiệp cho ba nhà quý tộc bạn của
tôi, những người tôi cúc cung phục vụ".
Đến đây,
có tiếng động rổn rang nổi lên. Đó là tiếng vang của thanh gươm của d Artagnan
rút ra rơi xuống nền gỗ.
Ai nấy
đều quay lại nhìn và thấy dòng nước mắt tràn trề từ đôi mi dầy của d Artagnan
lăn xuống chiếc mũi thẳng lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Người
biện lý đọc tiếp:
"Cho
nên, tôi để lại tất cả tài sản, động sản, bất động sản ghi trong danh sách trên
cho ông Tử tước De Bregelonne con ông Bá tước De La Fère để an ủi nỗi buồn của
ông ấy, chắc là có và để có phương tiện làm sáng danh ông".
"Với
điều kiện ông Từ tước De Bregelonne phải nhận là sẽ trích chu cấp cho Hiệp sĩ D
Herblay, bạn tôi, nếu ông ta cẩn trong cuộc sống lưu đày.
"Với
điều kiện ông Tử tước De Bregelonne phải nhận nuôi dưỡng những người giúp việc
đã làm trong nhà tôi mười năm và cho những người khác mỗi người 500 quan.
"Tôi
để lại cho người quản gia Mousqueton của tôi tất cả áo quần dạo phố, quân phục,
mục phục, gồm bốn mươi bảy bộ với tin tưởng rằng ông ta sẽ mặc đến mòn rách để
yêu thương và nhớ tiếc tôi.
"Thêm
nĩra, tôi nhường cho Tử tước De Bregelonne ông Mousqueton đã nói trên, người
giúp việc già và là bạn trung thành của tôi với điều kiện Tử tước De Bregelonne
phải nhận là hành động thế nào cho đến khi ông Mollsqueton chết đi lúc nào cĩng
thấy được sung sướng".
Mousqueton
cúi đầu chào khi nghe những lời này; đôi vai rộng run bần bật, đôi tay lạnh giá
của ông buông xuống khỏi mặt và người trong phòng trông thấy ông bước chập
choạng ngập ngừng như muốn tìm hướng ra khỏi phòng. D Artagnan nói:
- Ông
bạn Mousqueton thân mến, ra ngoài này đi, hãy sửa soạn đồ đạc, ta sẽ đưa ông
đến Athos, trên đường từ Pierrefonds về tôi sẽ phải ghé vào đấy.
Mousqueton
không nói một lời, chỉ thở nhè nhẹ, coi như cả phòng không có gì đáng phải chú
ý hết. Ông mở cửa bước ra và đi mất.
Ông biện
lý đọc xong tờ di chúc, sau đó phần lớn những ông đến để nghe ý muốn cuối cùng
của Porthos đều ra về, tâm trí thất vọng nhưng đầy lòng kính nể.
D
Artagnan ngồi một mình sau khi được ông biện lý đến chào thật long trọng, liền
nghĩ đến người để lại di chúc thật đủ trí tuệ, khôn ngoan nên mới chia gia tài
thật công bình cho những người xứng đáng được hưởng, cho những người cần thiết,
với sự tế nhị mà không có kẻ quyền thế tinh anh nào, không có con người tốt đẹp
nào có thể vượt hơn.
Thật
thế, Porthos đã ghi điều khoản buộc Raoul De Bregelonne phải đưa ông d Artagnan
những gì ông đòi hỏi.
Nhưng
chàng Porthos đáng kính hiểu rất rõ rằng d Artagnan sẽ không đòi hỏi gì hết, mà
một khi ông đòi hỏi thì không một ai, trừ ông, có thể từ chối được.
Porthos
để lại một số tiền trợ cấp giúp cho Aramis, nhưng ông này dù có muốn nhiều cũng
nhìn vào d Artagnan mà chùn tay lại. Còn về chữ lưu đày thì người trối lại nói
một cách có vẻ không cố ý, nhưng sao không thấy đó là lời chỉ trích dịu dàng
nhất, tinh tế nhất về hành vi của Aramis đã dẫn đến cái chết của Porthos?
Cuối
cùng ông không nói gì đến Athos, nhưng Athos chẳng lẽ nghi ngờ rằng người con
lại không để phần lớn cho cha mình sao? Tâm trí Porthos chất phác vẫn suy nghĩ
được đến mọi lý do, vẫn nắm được những điều tế nhị, hơn cả những gì được đề cập
trong luật pháp, trong thói quen, trong sở thích hàng ngày.
D
Artagnan thở dài nghĩ thầm: "Porthos thật là cả một tấm lòng". Và ông
nghe hình như có tiếng rền rĩ ở tầng trên. Ông nghĩ ngay đến Mousqueton, con
người khốn khổ đang cần được an ủi. Cho nên d Artagnan vội bước ra đi tìm người
quản gia vì thấy ông ta chưa trở lại.
Ông bước
lên thang gác vào phòng Porthos trên tầng một và thấy một đống áo quần trang
phục đủ màu sắc đủ thử loại được xếp kỹ lưỡng có Mousqueton nằm dài trên ấy.
Đây là phần chia của người bạn trung thành, phần chia thật xứng đáng và thật
đúng người được hưởng. Bàn tay Mousqueton giơ lên ôm lấy đặt lên môi hôn, trùm
lên mặt, lên toàn thân duỗi dài ra.
D
Artagnan bước gần lại để tìm lời an ủi. Ông giật mình:
- Trời
à! Ông ta không cử động nữa, chắc ngất đi rồi!
Nhưng d
Artagnan lầm. Mousqueton đã không còn hơi thở.
Chú thích:
(1) Tên các con ngựa đặt theo các hoàng đế,
danh tướng, nhân vật thần thoại và các danh sĩ, giai nhân
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
54: Bản chúc thư của Porthos
Không
khí ở Pienefonds ngập một màu tang chế. Sân bãi vắng người, chuồng trại đóng
kín, vườn cảnh hoang tàn. Các vòi nước ngày xưa phun toả rộng, loang loáng ồn
ào nay đã ngưng bặt.
Trên các
ngả đường quanh lâu đài, vài người nét mặt trầm ngâm cưỡi lừa, cưỡi ngựa quê,
kéo nhau đi đến. Đó là những người láng giềng trong vùng quê, các ông giáo sĩ
và các pháp quan ở đất bên cạnh.
Tất cả
những người đó im lặng đi vào lâu đài, gửi ngựa lại cho một người vẻ mặt ảm đạm
trông coi, và theo chân một người thợ săn mặc đồ đen đi về phía phòng hội có
Mousqueton đứng ở bậc cửa tiếp khách.
Qua hai
ngày, Mousqueton gầy đi, thấy rõ cả áo quần thùng thình như là bao gươm quá
rộng để cho lưỡi dao bên trong tha hồi múa may quay cuồng. Gương mặt nổi mụn đỏ
trắng của ông có hai dòng nước trắng chảy dài trên gò má ngày xưa thật đầy đặn
mà từ lúc chịu tang đã thành nhão nhẹt.
Mỗi một
người tới thăm, Mousqueton lại có dịp đổ hàng nước mắt mới, và thật thương tâm
khi thấy ông lấy bàn tay to lớn chẹn lấy cổ họng để khỏi nấc lên thành tiếng.
Mọi
người đến để nghe đọc bản di chúc của Porthos đã được rao là sẽ phổ biến ngày
hôm nay. Người chết không có kẻ kế nghiệp nên đến tham dự là những tay thèm
muốn của cải và các bạn bè thân hữu của ông. Họ lần lượt tìm chỗ ngồi và cửa
phòng hội đóng lại lúc mười hai giờ trưa, giờ đọc di chúc.
Ông biện
lý từ từ mở tấm giấy da ghi những ước muốn cuối cùng của Porthos do bàn tay to
lớn của ông viết ra.
Nghe
tiếng dấu khằn vỡ ra, lấy đôi mục kính đặt lên mắt và tiếp theo tiếng ho vang
lên, mọi người đều vểnh tai chăm chú nghe. Mousqueton chúi vào một góc để ít
nghe hơn và khóc nhiều hơn.
Thình
lình, đôi cánh cửa phòng hội bỗng mở toang rồi bóng một người đàn ông hiện ra,
lấp loáng trong ánh nắng mặt trời chói chang. Đó là d Artagnan một mình đến tận
cửa này, không thấy ai ra đón nên nhảy xuống cột ngựa và tự bước vào.
Ánh sáng
tràn ngập phòng và tiếng rì rầm của người tham dự nổi lên và nhất là tiếng sủa
mừng của con chó trung thành khiến Mousqueton bị lôi ra khỏi cơn mê. Ông ta
ngửng đầu lên, nhận ra người bạn cũ của chủ nên bước đến ôm ông mà nước mắt lã
chã rơi trên nền gạch.
D
Artagnan nâng người quản gia khốn khổ lên, ôm hôn như với một người anh em, rồi
trịnh trọng chào đám đông nghiêng mình chào lại và thì thầm nhắc tên ông. Ông
đến tận cuối chiếc ghế có chạm khắc, ngồi xuống đấy, tay vẫn nắm lấy bàn tay
Mousquelon rũ rượi buông mình trên bậc cấp.
Thế rồi
ông biện lý lên tiếng đọc.
Sau một
đoạn nhắc nhở đạo lý. Porthos xin kẻ thù tha lỗi cho ông đã gây cho họ.
Nghe
đoạn văn ấy, mắt d Artagnan thoáng hiện lên một niềm kiêu hãnh khó diễn tả rồi.
Ông nhớ lại người lính già kia.
Ông tính
phỏng ra những kẻ thù bị dập nát clưới cánh tay oai hùng Porthos và nghĩ thầm
rằng ông bạn đó thật khôn ngoan khi không chịu kể ra chi tiết về những kẻ thù
đó hay về những lỗi lầm ông đã gây ra cho họ, khiến độc giả muốn tìm hiểu thật
là khó khăn. Thế rồi đến bảng liệt kê sau đây:
"Nhờ
Thượng đế, đến bây giờ tôi có được.
1. Lãnh
địa Pierrefonds gồm đất đai, rừng rú, đồng cỏ, sông ngòi, có tường thành chắc
chắn cây quanh;
2. Lãnh
địa Bracieux gồm lâu đài, rừng, đất canh tác tập trung nơi ba nông trại;
3.
Khoảnh đất nhỏ Vallon, được gọi như thế vì ở trong một tiểu thung lũng.
4. Năm
mươi miếng đất cho mướn trong vùng Touraine, diện tích được 500 mẫu;
5. Ba
nhà cối xay trên sông Cher, mỗi nhà thu hoạch được 600 dồng louis;
6. Ba
cái ao trên sông đào Berri, lợi tức mỗi cái 300 louis;
Còn về
phần các động sản, theo như lời chỉ dẫn của người bạn bác học của tôi, giám mục
Vannes, giải thích tên gọi đó là do chúng không cử động được.
D
Artagnan rùng mình khi nhắc đến tên Aramis. Ông biện lý vẫn tiếp tục đọc:
"Chúng
gồm có:
1. Những
đồ đạc tôi không kẻ tên ra vì không có chỗ vì chúng đặt trong các lâu đài, nhà
cửa của tôi có danh sách do người quản gia lập ra".
Mọi
người quay lại nhìn Mousqueton đang chìm đắm trong đau thương.
2. Hai
chục ngựa cưỡi và ngựa kéo nhất riêng trong lâu đài tôi ở Pierrefonds có tên
là: Bayard, Rolaud, Charlemagne, Pépin, Dimois, La Hire, Ogier, Samson, Milon,
Nemrod, Urgande, Armide, Falstrade, Dahla, R becca, Yolande, Finnette,
Grisette, Lisette và Musette (1)
Tới đây
thì người đọc phải ngừng lại một lúc để lấy hơi. Ai nấy đều thở ra, ho hen và
chú ý gấp bội. Ông biện lý đọc tiếp:
"Tôi
không có con và có lẽ không bao giờ có, thật là điều day dứt lớn nhất của tôi.
Nhưng mà tôi lầm rồi, tôi có một người con chung với các bạn tôi. Đó là ông
Raoul Auguste Jules De Bragelonne, con chính của Bá tước De La Fère.
Tôi thấy
nhà quý tộc này xứng đáng được làm người kế nghiệp cho ba nhà quý tộc bạn của
tôi, những người tôi cúc cung phục vụ".
Đến đây,
có tiếng động rổn rang nổi lên. Đó là tiếng vang của thanh gươm của d Artagnan
rút ra rơi xuống nền gỗ.
Ai nấy
đều quay lại nhìn và thấy dòng nước mắt tràn trề từ đôi mi dầy của d Artagnan
lăn xuống chiếc mũi thẳng lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Người
biện lý đọc tiếp:
"Cho
nên, tôi để lại tất cả tài sản, động sản, bất động sản ghi trong danh sách trên
cho ông Tử tước De Bregelonne con ông Bá tước De La Fère để an ủi nỗi buồn của
ông ấy, chắc là có và để có phương tiện làm sáng danh ông".
"Với
điều kiện ông Từ tước De Bregelonne phải nhận là sẽ trích chu cấp cho Hiệp sĩ D
Herblay, bạn tôi, nếu ông ta cẩn trong cuộc sống lưu đày.
"Với
điều kiện ông Tử tước De Bregelonne phải nhận nuôi dưỡng những người giúp việc
đã làm trong nhà tôi mười năm và cho những người khác mỗi người 500 quan.
"Tôi
để lại cho người quản gia Mousqueton của tôi tất cả áo quần dạo phố, quân phục,
mục phục, gồm bốn mươi bảy bộ với tin tưởng rằng ông ta sẽ mặc đến mòn rách để
yêu thương và nhớ tiếc tôi.
"Thêm
nĩra, tôi nhường cho Tử tước De Bregelonne ông Mousqueton đã nói trên, người
giúp việc già và là bạn trung thành của tôi với điều kiện Tử tước De Bregelonne
phải nhận là hành động thế nào cho đến khi ông Mollsqueton chết đi lúc nào cĩng
thấy được sung sướng".
Mousqueton
cúi đầu chào khi nghe những lời này; đôi vai rộng run bần bật, đôi tay lạnh giá
của ông buông xuống khỏi mặt và người trong phòng trông thấy ông bước chập
choạng ngập ngừng như muốn tìm hướng ra khỏi phòng. D Artagnan nói:
- Ông
bạn Mousqueton thân mến, ra ngoài này đi, hãy sửa soạn đồ đạc, ta sẽ đưa ông
đến Athos, trên đường từ Pierrefonds về tôi sẽ phải ghé vào đấy.
Mousqueton
không nói một lời, chỉ thở nhè nhẹ, coi như cả phòng không có gì đáng phải chú
ý hết. Ông mở cửa bước ra và đi mất.
Ông biện
lý đọc xong tờ di chúc, sau đó phần lớn những ông đến để nghe ý muốn cuối cùng
của Porthos đều ra về, tâm trí thất vọng nhưng đầy lòng kính nể.
D
Artagnan ngồi một mình sau khi được ông biện lý đến chào thật long trọng, liền
nghĩ đến người để lại di chúc thật đủ trí tuệ, khôn ngoan nên mới chia gia tài
thật công bình cho những người xứng đáng được hưởng, cho những người cần thiết,
với sự tế nhị mà không có kẻ quyền thế tinh anh nào, không có con người tốt đẹp
nào có thể vượt hơn.
Thật
thế, Porthos đã ghi điều khoản buộc Raoul De Bregelonne phải đưa ông d Artagnan
những gì ông đòi hỏi.
Nhưng
chàng Porthos đáng kính hiểu rất rõ rằng d Artagnan sẽ không đòi hỏi gì hết, mà
một khi ông đòi hỏi thì không một ai, trừ ông, có thể từ chối được.
Porthos
để lại một số tiền trợ cấp giúp cho Aramis, nhưng ông này dù có muốn nhiều cũng
nhìn vào d Artagnan mà chùn tay lại. Còn về chữ lưu đày thì người trối lại nói
một cách có vẻ không cố ý, nhưng sao không thấy đó là lời chỉ trích dịu dàng
nhất, tinh tế nhất về hành vi của Aramis đã dẫn đến cái chết của Porthos?
Cuối
cùng ông không nói gì đến Athos, nhưng Athos chẳng lẽ nghi ngờ rằng người con
lại không để phần lớn cho cha mình sao? Tâm trí Porthos chất phác vẫn suy nghĩ
được đến mọi lý do, vẫn nắm được những điều tế nhị, hơn cả những gì được đề cập
trong luật pháp, trong thói quen, trong sở thích hàng ngày.
D
Artagnan thở dài nghĩ thầm: "Porthos thật là cả một tấm lòng". Và ông
nghe hình như có tiếng rền rĩ ở tầng trên. Ông nghĩ ngay đến Mousqueton, con
người khốn khổ đang cần được an ủi. Cho nên d Artagnan vội bước ra đi tìm người
quản gia vì thấy ông ta chưa trở lại.
Ông bước
lên thang gác vào phòng Porthos trên tầng một và thấy một đống áo quần trang
phục đủ màu sắc đủ thử loại được xếp kỹ lưỡng có Mousqueton nằm dài trên ấy.
Đây là phần chia của người bạn trung thành, phần chia thật xứng đáng và thật
đúng người được hưởng. Bàn tay Mousqueton giơ lên ôm lấy đặt lên môi hôn, trùm
lên mặt, lên toàn thân duỗi dài ra.
D
Artagnan bước gần lại để tìm lời an ủi. Ông giật mình:
- Trời
à! Ông ta không cử động nữa, chắc ngất đi rồi!
Nhưng d
Artagnan lầm. Mousqueton đã không còn hơi thở.
Chú thích:
(1) Tên các con ngựa đặt theo các hoàng đế,
danh tướng, nhân vật thần thoại và các danh sĩ, giai nhân
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
55: Tuổi già của Arthos
Trong
khi các biến cố đó đã làm chia lìa vĩnh viễn bốn người ngự lâm ngày xưa không
bao giờ rời nhau, thì Athos cô đơn sau lúc con ra đi, đã bắt đầu phải trả nợ
cho cái chết được báo trước vì lẽ những người thân đã đi xa.
Khi trở
về căn nhà ở Blois vắng cả nụ cười héo hắt của Grimaud, mỗi khi bước ra vườn
hoa, Athos cảm thấy càng ngày càng suy nhược trong thân xác mạnh mẽ từ lâu
tưởng không có gì làm sa sút được.
Trước
những đồ vật thân yêu, và với những đau khổ, những sự bối rối lớn dần vì chờ
đợi mỏi mòn ông cảm thấy tuổi già đến thật mau. Athos không còn người con ở đây
nữa để tập đi cho thẳng, để ngẩng đầu lên, làm gương cho con. Ông không còn
thấy đôi mắt sáng của người trẻ tuổi để thấy được cái nhìn rực lửa của mình
được nối tiếp, hồi sinh. Con người này vốn bản chất ưa dịu dàng, dè dặt đến mức
độ thuần nhã nay vì không có gì để kìm hãm nên tuôn đổ vào nỗi buồn như những
con người tầm thường lăn vào sự vui chơi thỏa thích.
Bá tước
De La Fère vẫn còn trẻ trung đến năm sáu mươi hai tuổi, con người thừa sức lực
chiến đấn dù bao nhiêu cực nhọc - con người vẫn giữ được sự tươi mát của tâm
hồn dù gặp nhiều gian khổ, còn giữ được thể xác tinh thần trong sáng dù đã gặp
gỡ Mazarin, La Vallière - Athos, con người đó mới tám ngày đã trở thành một ông
già khi ông mất sự nương cậy vào tuổi trẻ sau lưng.
Từ lúc
Raoul không còn ở đây nữa, ông quên hết những thói quen cứng cỏi học được trong
cuộc sống. Những người giúp việc quen thấy ông ngày nào cũng dậy từ sáng sớm,
nay phải ngạc nhiên vì đã bảy giờ mà chủ nhân chưa ra khỏi giường.
Athos
vẫn nằm đấy, đầu gối trên sách, nằm nhưng không ngủ và không đọc. Nằm chỉ để
khỏi nâng tấm thân nặng nề lên, để tinh thần và trí tuệ thoát khỏi xác phàm,
bay đến nơi con ông ở hay lên tận trời cao.
Đôi khi
người ta sợ hãi thấy cả hàng giờ ông chìm đắm trong cơn mơ mộng, không nói
không rằng, như không hề có cảm giác. Ông không còn nghe được cả tiếng chân
bước nhẹ của người háu phòng đến dò xem chủ nhân ngủ hay thức. Có khi ông quên
bẵng rằng đã nửa ngày trôi qua và hai bữa ăn chưa vào bụng. Khi có người đánh
thức, ông ngồi dậy đi xuống con đường buồn thảm rồi quay lại phơi nắng một chút
như là để chia xẻ chút hơi ấm với người con vắng mặt. Tiếp theo là cuộc đi dạo
âm thầm, không sinh khí cho đến khi ông mệt mỏi trở về căn phòng, chiếc giường,
nơi trú ẩn ưa thích.
Nhiều
ngày, Bá tước không nói một câu. Ông từ chối tiếp khách và hàng giờ trong đêm,
ông thắp đèn lên viết hay lật các giấy tờ. Athos viết thư đến Vannes cho
Aramis, đến Fontainebleau mà không thấy hồi âm. Thật dễ hiểu, Aramis đã rời
Pháp, d Artagnan thì đi từ Nantes đến Paris rồi từ Paris đến Pierrefonds.
Người
hầu phòng nhận thấy mỗi ngày ông đi dạo ít đi mấy vòng. Con đường dương liễu
trở nên quá dài đối với đôi chân ngày xưa từng vượt cả ngàn dặm mỗi ngày. Người
ta thấy vị Bá tước nặng nề đi vào khóm cây ở giữa đường rồi ngồi trên mớ rong
rêu đóng tảng, đợi khi hồi sức hay khi đêm về.
Chẳng
mấy lúc, việc đi một trăm bước làm ông kiệt lực, Athos không muốn ngồi dậy nữa.
Ông không ăn gì hết và dù ông không phàn nàn - vẫn luôn luôn có nụ cười trên
môi, vẫn một giọng dịu dàng - nhưng những người chung quanh vẫn hoảng hốt cho
người đi Blois rước người thầy thuốc của cố
Hoàng
thân về chỗ Bá tước De La Fère. Người ta dặn ông đừng để Bá tước thấy vì sợ chủ
nhân rầy la sao lại đi mời thầy thuốc trong khi ông không bảo.
Vị bác
sĩ nhận lời, đứng nấp kín theo dõi dáng dấp của căn bệnh lạ kỳ gặm nhấm từng
ngày một đến chết con người ngày xưa đầy sức sống, đầy lòng ham sống đó. Ông
chú ý thấy trên gò má của Athos dấu đỏ bừng của cơn sốt chầm chậm, tàn nhẫn,
phát sinh từ một góc kín của tâm hồn, nấp sau bức tường thành đó rồi lớn dần từ
nỗi niềm đau khổ vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của một hoàn cảnh nguy cấp.
Vị bác
sĩ bỏ nhiều giờ để xem cuộc vận động đau thương giữa ý chí với một sức mạnh cao
hơn nó. Ông hoảng hốt nhận ra đôi mắt luôn luôn gắn chặt vào một điểm dừng vô
hình nào đó.
Ông
hoảng hốt thấy nhịp đập đều đều của trái tim không toát ra một tiếng thở dài
nào. Đôi khi thấy sự tinh anh nhạy cảm của cơn đau buồn, vị bác sĩ lại nổi lên
hy vọng. Ông chờ nửa ngày qua rồi cứng rắn quyết định. Ông vụt rời bỏ chỗ nấp
đi thẳng đến chỗ Athos. Thấy Athos không ngạc nhiên chút nào vì sự có mặt của
mình, vị bác sĩ dang hai tay ra nói:
- Ngài
Bá tước, xin lỗi, tôi phải trách ngài một điều ngài nghe tôi không?
Rồi ông
ngồi dưới chân giường Athos. Bá tước thật khó nhọc mới thoát ra được sự trầm tư
của mình và nói sau một lúc im lặng:
- Có gì
thế, bác sĩ?
- Có
chuyện là ngài bị bệnh mà không chịu cho chữa.
Athos
mỉm cười:
- Tôi
bệnh à?
- Sốt,
kiệt sức, yếu người, tàn tạ dần. Bá tước ạ.
Athos
trả lời:
- Yếu à?
Sao thế được? Tôi không vậy đâu!
- Ồ,
ngài Bá tước, chớ gạt tôi! Ngài là người tín đồ thuần thành mà.
- Phải,
chắc thế.
- Ngài
định tự sát sao?
- Không
bao giờ, bác sĩ ạ.
- Thế
thì, xin báo rằng ngài đang chết đấy: cứ như thế này là tự tử Ngài Bá tước ơi,
hãy chữa bệnh đi!
- Chữa
cái gì? Phải cho biết bệnh đã chứ. Tôi thì tôi thấy không có lúc nào bầu trời
đẹp hơn lúc này, không lúc nào tôi thấy yêu mến hoa cảnh hơn lúc này.
- Ngài
có một nỗi buồn giấu kín.
- Sao
lại giấu kín? Bác sĩ ạ, tôi thấy vắng con tôi, nỗi đau tất cả là chỗ đó, tôi có
giấu giếm gì đâu?
- Thưa
Bá tước, con ngài đang sống, mạnh khỏe và có đủ tương lai trước mắt xứng với
con người như thế. Xin ngài hãy sống vì anh ta.
- Nhưng,
tôi vẫn sống đấy chứ, bác sĩ? - Rồi ông mỉm cười buồn bã và nói tiếp - Chừng
nào Raoul còn sống thì tôi còn sống.
- Ông
nói gì thế?
- Chuyện
thường đấy thôi bạn ạ. Hiện giờ tôi treo cuộc đời lửng lơ, Bác sĩ không thể bắt
cái đèn phải cháy trong khi chưa có lửa châm vào, bác sĩ đừng bảo tôi sống với
tiếng động và ánh sáng. Tôi đang sống ngầm, tôi đang đợi đây. Bác sĩ hãy nhớ
đến những người lính đã bao lần bác sĩ thấy họ trên các bến cảng chờ lên tàu.
Họ nằm dài ra đấy, dửng dưng, nửa ở đây, nửa ở nơi khác, không phải ở nơi họ
chờ đưa đi biển mà cũng không ở nơi đất sẽ chôn vùi họ. Hành lý của họ đã sắp
sẵn, tinh thần căng thẳng, mắt nhìn đăm đăm, họ cứ ở trạng thái chờ đợi như thế
đấy Tôi cũng nằm dài như những người lính đó, lắng nghe mọi tiếng động đưa đến,
và sẵn sàng ra đi khi bắt được tiếng kêu gọi đầu tiên. Ai sẽ đưa ra lời kêu gọi
ấy? Cái sống hay thần chết? Thượng đế hay Raoul? Hành lý tôi đã chuẩn bị rồi,
tinh thần tôi đã sẵn sàng, tôi đang chờ hiệu lệnh. Tôi đang đợi bác sĩ ạ, tôi
đang đợi đây.
Vị bác
sĩ hiểu rõ sự kiên quyết trong con người này, nên ông suy nghĩ một lúc rồi biết
rằng nói lời nào cũng vô ích, thuốc nào cũng không chữa được, ông ra về sau khi
bảo các người giúp việc không nên rời Athos một phút nào cả.
Athos
không nổi giận cũng không ghét bỏ vì bị quấy rầy.
Ông trở
nên ít ngủ. Càng suy tư, Athos càng quên mình thêm một vài giờ trong cơn mơ
mộng mỗi lúc một đắm chìm, mỗi lúc một đen tối hơn cả mức độ mà người thường
gọi là cơn mê.
Trong
chuyến du hành của lý trí đó, Athos như có đến hai cuộc sống. Một đêm kia, ông
mơ thấy Raoul đang ở trong một căn lều, sửa soạn đi theo chuyến hành quân do
chính ông De Beaufort chỉ huy. Người thanh niên có nét buồn, rất chậm chạp khi
mặc bộ áo giáp và đeo gươm. Người cha âu yếm hỏi:
- Có gì
đấy, con?
Raoul
trả lời:
- Con
buồn vì người bạn thân nhất của chúng ta Porthos đã chết rồi. Ở đây, con đau vì
nỗi đau của cha ở nơi kia khi phải nghe tin đó.
Rồi bóng
ma biến mất khi Athos thiếp đi.
Lúc trời
vừa sáng, một người hầu bước vào đưa cho ông một bức thư viết từ Tây Ban Nha,
Bá tước thì thầm: "Chữ viết của Aramis".
Rồi ông
đọc. Mới vào dòng dầu, ông đã kêu lên:
-
Porthos chết rồi! Ôi Raoul, Raoul, Raoul, con đã giữ lời hứa với ta, con đã báo
cho ta biết tin!
Rồi thân
mình toát đầy mồ hôi, Athos ngất đi trên giường vì kiệt sức!
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
56: Linh cảm trong cơn mê của Athos
Khi tỉnh
dậy, vị Bá tước hơi xấu hổ vì sự yếu đuối của mình trước sự kiện lạ lùng đó,
liền mặc áo vào, bảo thắng ngựa đi Blois để liên lạc tìm tin rõ hơn, hoặc từ
Phi châu, hoặc từ d Artagnan hay Aramis.
Bức thư
của Aramis cho Bá tước De La Fère rõ về sự thất bại của chuyến viễn chinh
Belle-Isle. Thư viết về cái chết của Porthos thật rõ, thật nhiều chi tiết khiến
cho tấm lòng đa cảm, tận tình của Athos rung chuyển đến tận cùng.
Cho nên
Athos muốn viếng Porthos lần cuối cùng. Ông dự tính đi tìm d Artagnan để cùng
làm chuyến du hành đau khổ đến Belle-Isle thăm nơi an nghỉ cuối cùng của người
bạn chiến đấu cũ, rồi trở về nhà chịu đựng sự lôi kéo âm thầm dẫn đến cõi vô
cùng qua những con đường khuất khúc nào không rõ.
Nhưng
trong lúc những người hầu vừa vui vẻ mặc áo cho chủ mà trong lòng sung sướng
thấy nỗi buồn của ông trong chuyến đi sẽ được xoá tan, trong lúc con ngựa thuần
nhất trong chuồng vừa được thắng yên cương xong, được dắt đến thềm nhà, thì
Athos đầu váng mắt hoa, đôi chân khuỵu xuống, không thể nào bước tới một bước.
Ông bảo
đưa mình ra chỗ nắng, nằm dài lên tấm thảm rêu thật lâu mới hồi phục được.
Thế rồi
khi đã hồi sức, tâm trí đã thảnh thơi, ông liền sai người mang ngựa lại. Nhưng
phải có người hầu giúp đỡ, ông mới khó nhọc bước lên yên được. Chưa được một
trăm bước, khi đến khúc đường quanh, ông cảm thấy rùng mình. Ông nói với người
hầu phòng đi theo:
- Lạ
thật.
Người
giúp việc trung thành kêu lên:
- Xin
ngài hãy dừng lại. Ngài xanh quá đi.
- Nhưng
ta không thể ngừng được. Ta đang trên đường đi.
Rồi ông
gò cương, thúc ngựa. Nhưng con vật thay vì nghe theo lời chủ, lại đứng dừng
lại. Athos kêu lên:
- Có
điềm gì bảo ta không nên đi nữa. Đỡ ta một chút, - Ông vươn tay nói thêm. -
Nhanh lên! Tay chân ta bải hoải, ta sắp ngã xuống ngựa đây!
Người
hầu thấy rõ cử chỉ của chủ cùng với lúc nghe tiếng gọi. Anh ta bước nhanh tới,
đỡ Bá tước xuống. Hai người đi chưa xa, những người giúp việc còn đứng trên cửa
nhìn ra, tuy chưa thấy tình cảnh rối loạn đó, nhưng nghe được tiếng kêu của bạn
nên vội vàng chạy đến thật nhanh.
Athos
vừa đi trở về vài bước thì lại cảm thấy đỡ hơn. Sức khỏe hình như hồi phục và
ông lại muốn đi Blois. Nhưng vừa quay đầu ngựa, lại cảm thấy cứng mình và lo âu
như cũ. Ông lẩm bẩm: "Ô, ta phải ở lại thôi".
Những
người giúp việc áp tới, đưa ông xuống ngựa và khiêng ông về nhà, chuyển ngay
vào phòng. Trước khi ngủ, ông còn nói với họ:
- Các
anh nên lưu ý, ngày nay có thư từ Phi Châu gửi về đấy!
Người
hầu phòng trả lời:
- Ngài
chắc bằng lòng khi biết rằng chúng tôi đã cho người lên ngựa đón người đưa thư
ở Blois rồi.
- Cảm
ơn, - Athos mỉm cười hiền từ nói.
Ngày qua
đi. Con trai Blaisois đi đón người đưa thư không được gì cả đã trở về. Bá tước
tuyệt vọng tính từng phút, rùng mình vì thấy dài như cả giờ. Có lúc ông nghĩ
người ta bỏ rơi ông mà lòng cảm thấy xót xa quặn thắt.
Giờ của
người đưa thư phải tới đã quá lâu, nên không ai còn hy vọng gì, Athos biết rằng
người ấy chỉ đến một tuần một lần. Như thế, ông phải chờ thêm tám ngày chết
người chờ đợi.
Ai bị
bệnh và lo âu thắc mắc thì thường hay nghĩ lan man, giả định điều này điều nọ,
toàn những điều buồn thảm để đem chồng chất lên những nỗi buồn có sẵn. Trong
những giờ đầu của cái đêm chết người này, Athos cũng vậy.
Cơn sốt
đến, ngực ông như có lửa đốt. Người ta phải đi mời thầy thuốc ở Blois đến. Cơn
sốt bốc lên đầu, vị bác sĩ phải rạch máu hai lần mới bớt, nhưng lại làm ông yếu
đi, không hoạt động gì được, trừ bộ não.
Rồi cơn
sốt cũng chấm dứt. Nó còn chống cự ở những nơi tận cùng rồi đến nửa đêm mới dứt
hẳn.
Vị bác
sĩ thấy bệnh tình thuyên giảm rõ rệt, liền ghi vài thứ thuốc và tuyên bố là Bá
tước đã thoát nạn rồi quay trở về Blois.
Sau đó,
Athos cảm thấy mình ở trong một tình trạng rất lạ, không diễn tả được. Trí óc
ông rảnh rang được nghĩ tới Raoul, đứa con yêu quý. Ông đưa trí tưởng tượng về
vùng quanh Djidgelli ở Phi Châu, nơi ông De Beaufort phải đổi quân lên.
Nơi đấy,
các tảng đá màu xám hơi xanh lại vài chỗ vì sóng biển đập vào trong những ngày
mưa bão, gió chướng. Chúng rải ra phía trong bờ như những nấm mồ, xếp thành
từng bậc cấp bao quanh một thị trấn nhỏ, giữa những cây nhũ hương, cây xương
rồng đầy khói bụi, đầy tiếng ồn ào và người lẫn các con vật hoảng hốt qua lại.
Bỗng
nhiên, giữa làn khói vụt bùng lên một ngọn lửa lan khắp thị trấn, toả ra bao
trùm cả những tiếng kêu khóc, la hét, những cánh tay đưa lên trời. Trong một
khoảnh khắc, các tấm ván đua nhau đổ nhào xuống, những thanh gươm cong vẹo,
những hòn đá rã ra, những cây cối bị thiêu cháy, biến đi.
Chuyện
lạ thật là trong cảnh hỗn loạn đó, Athos thấy những cánh tay giơ lên, nghe
những tiếng kêu khóc than thở mà tuyệt nhiên không có bóng một người nào cả.
Súng đại
bác vang rền đằng xa, tiếng đạn, súng tay nổ lép bép, biển cả gầm lên, dê cừu
sút chuồng nhảy nhót trên các vệ đường xanh cỏ. Thế mà lại không có một người
lính nào cầm mồi lửa dí vào đại bác, không một người lính thủy nào lái tàu,
không có một người chăn cừu nào theo đàn.
Sau khi
ngôi làng, đồn luỹ sụp đổ mà không thấy có bóng một người nào can thiệp, như là
do ma quỷ làm, thì lửa lại tất, khói lại bốc lên rồi bớt dần, phai nhạt và tan
biến đi.
Cảnh này
lại được màn đêm bao phủ, đêm mờ mờ trên mặt đất sáng rực rỡ trên bầu trời,
những ngôi sao lớn lấp lánh trên bầu trời Châu Phi, sáng lên mà không soi rõ
được gì hết.
Một
khoảng im lặng dài khiến cho đầu óc xáo trộn của Athos được yên ổn trong một
lúc. Nhưng Athos lại biết rằng những cảnh xuất hiện cho ông thấy chưa chấm dút
nên ông cố sức chú ý, đặt hết tâm trí vào những gì tưởng tượng ra.
Ông vừa
muốn là được thấy ngay.
Mặt
trăng dịu mát và nhợt nhạt hiện ra phía sau dãy núi dọc biển rồi soi bóng xuống
mặt nước lăn tăn gợn sóng, hình như đã lặng yên sau tiếng gầm mà Athos đã nghe,
ánh trăng đó như điểm ngọc, kim cương trên bờ cây, bụi cỏ, núi đồi. Các tảng đá
xám như những bóng ma lặng lẽ, đang ngửng chiếc đầu màu xanh lá để nhìn xét bãi
chiến trường dưới ánh trăng và Athos nhận ra rằng nơi này, lúc đánh nhau không
có người nào, bây giờ lại điểm đầy xác chết.
Ông cảm
thấy rùng mình sợ hãi khi nhận ra bộ đồng phục trắng và xanh của binh sĩ vùng
Picardie, thanh gươm dài cán xanh và các khẩu súng tay chạm hình hoa huệ nơi
báng. Ông rùng mình sợ hãi khi nhìn thấy những vết thương nứt nẻ, xám xịt nhìn
lên bầu trời xanh thẳm, như muốn níu đòi lại những linh hồn thoát ra qua đó.
Như khi
ông nhìn thấy đàn ngựa bị mổ bụng, lưỡi lè bên mép, nằm yên ngủ giữa vũng máu
làm lấm láp cả chóp mao, cả bờm của chúng. Như khi ông thấy con ngựa trắng của
ông De Beaufort nằm dài, đầu dập nát ở ngay hàng đầu các tử thi.
Athos
đưa bàn tay lạnh ngắt lên trán, ngạc nhiên sao không thấy nó nóng. Nhưng do cử
chỉ đó, ông đoán ra là ông chứng kiến cảnh ngày hôm sau một trận chiến xảy ra
trên bờ biển Djidgelli của đoàn viễn chinh đã rời bờ biển nước Pháp đi mất hút
về phía chân trời mà ông đã đem cả tâm hồn và thể xác vẫy chào khi nghe thấy
ánh sáng mờ từ tiếng súng đại bác do Hầu tước sai bắn chào vĩnh biệt Tổ quốc.
Ai lại
có thể diễn tả được nỗi dằng xé của tâm hồn khi phải theo dõi những xác chết
đó, nhìn hết xác này qua xác khác để tìm ra thử trong ấy có Raoul hay không? Ai
lại có thể diễn tả được nỗi vui mừng say sưa khi Athos nghiêng mình cảm ơn Chúa
vì đã không thấy người ông lo sợ tìm kiếm nằm lẫn lộn trong những kẻ đã chết?
Tất cả
những người đó nằm xếp hàng, cứng đơ lạnh lẽo, rõ mặt, đồng lòng kính cẩn quay
hết về phía Bá tước De La Fère như để ông không lầm lộn được trong chuyến tra
xét âm hồn này Nhưng ông ngạc nhiên là tại sao không còn người nào sống ngoài
đống xác chết ấy. Đối với linh cảm của ông, toàn cảnh như là một chuyến đi xác
thực đến Phi châu của người cha lần tìm tin tức rõ ràng về người con.
Ông định
tìm người lính để dẫn đến lều ông De Beaufort.
Trong
khi ông đưa mắt qua lại nhìn suốt cánh đồng, ông thấy một vật gì màu trắng phía
sau bụi đáo kim nhưỡng.
Bóng
người đó mặc quân phục sĩ quan, tay nắm cây gươm gãy tiến lần về phía Athos, Bá
tước đăm đăm nhìn vào đấy không nói lên lời, không cử động nổi và muốn dang hai
tay ra vì ông nhận ra người sĩ quan lặng lẽ xanh xao ấy là Raoul của ông.
Bá tước
muốn thốt kêu lên nhưng bị nghẹn trong cổ họng; Raoul lấy tay đưa lên miệng ra
hiệu cho ông im lặng rồi từ từ bước lui nhưng chân không thấy chuyển dịch chút
nào, Bá tước người tái nhợt hơn là Raoul, run rẩy hơn, cực nhọc bước theo người
con qua chòm cây, bụi cỏ, đất đá, hố hầm, Raoul chân như không chạm đất, đi
thật nhẹ nhàng mà không vật gì làm trở ngại cả.
Bá tước
phải dừng lại, kiệt lực vì đường đất gập nghềnh.
Raoul
vẫn làm dấu cho ông bước theo. Người cha mềm lòng, được tình yêu tiếp sức, cố
gắng nhổm dậy, leo lên núi, theo người con đang mỉm cười vẫy gọi.
Cuối
cùng ông lên tới đỉnh và thấy hình dạng phiêu diêu, mơ mộng của Raoul vẽ một
vệt đen lên trên nền chân trời trắng màu ánh trăng. Athos vươn tay để với tới
người con thân yêu đứng trên cao nguyên và Raoul cũng giơ tay ra, nhưng vẫn lùi
bước lại. Bỗng nhiên hình như chàng bị một sức mạnh nào lôi đi vụt bay bổng lên
và Athos thấy bầu trời sáng lóe giữa khoảng chân của người con và đất trên đồi.
Raoul
trườn mình vào khoảng không, miệng vẫn mỉm cười tay vẫn giơ ra vẫy gọi và mất
hút trên trời xa. Athos sợ hãi kêu lên một tiếng âu yếm và cúi nhìn xuống phía
doanh trại bị tàn phá. Dưới đó là những xác chết trắng lặng yên của cả đạo quân
Hoàng gia.
Và khi
ngẩng đầu lên, ông vẫn thấy con ông vẫy gọi mời chào ông đi theo, trên cao,
trên cao.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
57: Thiên thần của cõi chết
Athos
đang chìm đắm trong cơn mơ thì có tiếng động mạnh nơi cửa ngoài làm cắt đứt
nguồn cảm xúc.
Có tiếng
vó ngựa nện trên đất rắn và tiếng chuyện trò ồn ào đưa lên tận gian phòng Bá
tước.
Athos
chưa nhích được mình ra khỏi chỗ nằm. Ông chỉ quay đầu về phía cửa để nghe
ngóng các tiếng động đưa đến.
Tiếng
chân nặng nề bước lên bậc cấp, con ngựa lúc nãy sải nhanh bây giờ bước chầm
chậm về phía chuồng. Những bước chân tiến dần về phía phòng Athos.
Cửa mở
ra, Athos quay mặt về phía đó, cất giọng yếu ớt hỏi:
- Người
đưa tin từ Phi Châu về phải không?
- Thưa
Bá tước, không, - Một tiếng đáp lại làm người cha của Raoul giật nảy mình.
Ông lẩm
bẩm: "Grimaud!". Rồi mồ hôi tuôn chảy trên đôi má gầy của ông.
Grimaud
hiện ra trên khuôn cửa.
Không
phải một Grimaud trẻ trung vì còn lòng can đảm và tận tâm khi ông nhảy xuống
thuyền đưa Raoul De Bragelonne lên hạm đội Hoàng gia. Bây giờ là một ông già
khắc khổ, xanh xao, áo quần đầy thuốc súng, với vài sợi tóc bạc của năm tháng
đãi dầu. Ông run run đứng dựa vào thành cửa và như muốn ngã ra khi nhìn thấy
khuôn mặt của chủ phía xa, dưới ánh sáng đèn.
Hai con
người đó, từng thấu hiểu nhau, mắt từng nhìn không nói mà thông cảm nhau. Hai
người bạn già đó, tâm tình cao thượng như nhau dù có cách biệt địa vị, họ nhìn
nhau trân trối. Chỉ một cái liếc mắt họ đã nhìn thấy tận đáy tâm hồn sâu kín
của nhau.
Athos
vẫn giữ giọng như đã nói với Raoul trong cơn mê.
-
Grimaud, Raoul chết rồi phải không?
Phía sau
Grimaud, những người giúp việc hồi hộp lắng nghe, mắt nhìn vào giường người
bệnh. Người giúp việc già ấy gắng phát ra một tiếng kèm theo hơi thở dài tuôn
từ lồng ngực:
- Phải.
Thế rồi,
những tiếng rền rĩ than vãn, thương tiếc nổi lên tràn ngập gian phòng trong lúc
người cha hấp hối đưa mắt nhìn lên bức hình của con.
Đối với
Athos, giây phút này như lúc chuyển tiếp trở về cơn mê. Ông không kêu một
tiếng, không khóc, tâm hồn lặng lẽ và nhẫn nhục như một kẻ tử đạo, mắt nhìn lên
trời để tìm lại hình bóng người con thân yêu bay cao trên ngọn núi ở Djidgelli
đúng vào lúc Grimaud trở về.
Chắc là
khi nhìn lên trời, nhớ lại cơn mê kỳ diệu đó, ông đã quay lại con đường cũ mang
ảo ảnh vừa ghê gớm vừa lắng dịu làm sao. Cho nên sau khi nhẹ nhàng nhắm mắt
lại, ông liền mở ra và mỉm cười: ông vừa thấy Raoul cười với ông.
Athos
vẫn chắp hai tay lên ngực, mặt quay về phía cửa sổ mà qua đó hơi lạnh ban đêm
lan vào mang theo hương thơm của cây cỏ; ông đang bước vào, không bao giờ trở
ra nữa trong cõi thiên đường mà người sống không làm sao thấy được.
Cái chết
đến với con người cao cả này thật dễ dãi, thật êm dịu. Không có những cơn dằn
vặt giãy giụa lúc hấp hối. Trong giấc ngủ thiên thu ông còn giữ được nụ cười
cùng theo ông xuống đáy mồ. Những người giúp việc nhìn nét mặt bình thản đó mà
không tin rằng ông đã ra đi rồi.
Họ muốn
lôi Grimaud đi. Nhưng dù mệt mỏi, Grimaud vẫn cố nán lại. Ông ngồi trên bực
cửa, tỉnh táo như người lính gác, trông chờ cái liếc mắt đầu tiên khi Bá tước
tỉnh dậy, hay hơi thở dài cuối cùng của chủ.
Chẳng
còn gì cả. Grimaud thấy sợ, đứng hẳn dậy. Cùng lúc, ông nghe có tiếng chân bước
lên thang gác; tiếng gươm va vào vỏ, ngang ngạnh, quen thuộc và ngưng lại,
trong khi tiến đến giường Athos.
Một
tiếng kêu vang lên cách ông ba bước, chuyển qua tiếng khóc:
- Athos!
Athos! Bạn ơi!
Grimaud
lắp bắp nói:
- Ngài
hiệp sĩ d Artagnan!
Người
lính ngự lâm hỏi:
- Ông ấy
đâu?
Grimaud
vươn cánh tay gầy gò nắm tay ông và chỉ về phía chiếc giường trải ga trắng, nổi
lên khuôn mặt nhợt nhạt của xác chết.
D
Artagnan nấc nghẹn trong cổ. Ông nhón gót bước lại rùng mình, nỗi hãi hùng theo
với tiếng chân trên nền ván, ruột gan vò xé không diễn tả thành lời. Ông
nghiêng tai lên ngực Athos, mặt áp sát môi Bá tước. Không tiếng đập nào, không
hơi thở nào phát ra cả. Ông bước lui lại về phía sau.
Grimaud
theo dõi từng cử động của d Artagnan rụt rè đến ngồi phịch dưới chân giường, úp
môi lên tấm nệm trắng phủ lên đôi chân cứng nhắc của Bá tước. Trên đôi mắt đỏ,
những dòng lệ trào ra, tuôn chảy.
Nhìn ông
già tuyệt vọng tuôn nước mắt mà không khóc nên lời, d Artagnan thấy đó là cảnh
xúc động nhất trong cuộc đời trôi nổi của ông. Người chưởng quan vẫn đứng nhìn
người chết mỉm cười như cố giữ nét tươi vui đó dành để đón chào người bạn thân
nhất, cho người ông yêu nhất sau Raoul. Rồi như để trả lễ cho con người vẫn nhớ
đến ông từ bên kia thế giới, d Artagnan đến cúi hôn lên trán Athos và giơ bàn
tay run rẩy vuốt cho đôi mắt người chết khép lại.
Rồi ông
đến ngồi xuống nơi chân giường, không hề sợ hãi người chết, - con người hiền
hậu, cung thuận trong ba mươi lăm năm qua. Nhìn khuôn mặt cao quý đó, ông nhớ
lại những kỷ niệm xa xưa, có thứ vui tươi, duyên dáng như nụ cười này, có thứ
buồn đau, lạnh lẽo như khuôn mặt mãi mãi bất động này.
Rồi cả
nỗi chua xót dâng lên lồng ngực, như muốn vỡ ra.
Thấy
không đủ sức chịu đựng nữa, ông đứng lên, vụt chạy nhanh ra khỏi gian phòng của
người chết, con người ông đến với ý định báo tin Porthos chết. Ông thốt lên một
tràng tiếng nấc xé lòng khiến cho những người hầu phải tuôn theo những tiếng
than vãn rên rỉ.
Lúc trời
hừng sáng, d Artagnan đi lòng vòng trong phòng dưới, tay dúi vào miệng để nén
tiếng thở dài, rồi bước lên thang gác lần nữa ngóng chừng Grimaud chờ ông ta
quay đầu nhìn lại, vẫy gọi ông đến bên cùng nhau bước xuống lầu.
Lúc vào
phòng thay áo, ông nắm tay ông già, hỏi:
-
Grimaud ạ, tôi vừa thấy người cha chết, bây giờ anh hãy nói cho tôi biết về cái
chết của người con.
Grimaud
rút trong ngực áo ra một bao thư lớn có đề địa chỉ của Athos. D Artagnan nhận
ra nét chữ của ông De Beaufort, liền bẻ gãy dấu niêm và lần lượt đọc trong khi
chân bước trên con đường sầu thảm trồng cây dương liễu vẫn còn hằn rõ vết chân
của vị Bá tước vừa chết kia.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
58: Phúc trình
Nét chữ
to của ông hoàng như của một người học trò vụng về:
"Bá
tước thân mến,
Một đau
thương lớn vừa đến với chúng ta ngay giữa chiến thắng huy hoàng nhất, Hoàng
thượng vừa mất một người lính can đảm nhất. Tôi mất một người bạn. Ngài mất ông
De Bragelonne.
Ông ấy
hy sinh rất vẻ vang, vẻ vang đến mức tôi không đủ sức khóc như ý muốn.
Xin Bá
tước thân mến hãy nhận những lời khen ngợi đau buồn của tôi. Trời đã đặt để cho
mỗi người một thử thách tùy với giá trị của họ. Thử thách ấy thật to lớn nhưng
không quá sức chịu đựng của ngài.
Bạn thân
thiết của ngài.
Hầu tước
De Beaufort".
Bức thư
này có kèm theo một bản ghi chép do người thư ký của Hầu tước viết ra. Đây là
lời tường thuật cảm động nhất, chân thật nhất của câu chuyện thê thảm kết thúc
hai cuộc đời.
D
Artagnan dù đã quen với những xúc động trên trận địa, dù tâm hồn đã chai cứng,
nhưng cũng không khỏi giật nẩy mình khi đọc đến tên Raoul, tên của cậu con yêu
quý, như một bóng hình của người cha.
Người
thư ký của ông hoàng ghi:
"Vào
buổi sáng, Đức ông hầu tước chỉ huy trận tấn công. Quân đoàn Normandie và
Picardie đã chiếm lĩnh các vị trí nơi các tảng đá xám dưới triền núi, trên kia
là các pháo đài của Djidgelli. Đại bác nổ dồn báo hiệu cuộc tấn công. Các trung
đoàn cương quyết tiến lên, những người cầm giáo giơ cao ngọn giáo, những pháo
thủ nâng tay súng. Hoàng thân chăm chú nhìn theo quân đi và sẵn sàng cho một
đoàn dự bị quan trọng tiếp ứng. Bên cạnh Đức ông là những người chỉ huy dày dạn
nhất và những người phụ tá. Ngài Tử tước De Bragelonne được lệnh không rời Điện
hạ.
Đại bác
địch lúc đầu bắn bừa bãi chống lại, sau đó dược điều chỉnh dần và trái đạn đã
giết một số người quanh Hoàng thân. Các trung đoàn xếp thành hàng tấn công
thành luỹ hơi bị thiệt hại. Binh sĩ chùn lại, vì thấy pháo binh ta yểm trợ
không hiệu nghiệm. Các pháo đội đặt trong đêm trước ở vị trí thất lợi nên bắn
ra rời rạc và không trúng đích. Hướng bắn từ dưới lên trên khiến cho tầm bắn và
đích nhắm bị sai lạc.
Đức ông
thấy hiệu quả kém của pháo binh vây hãm nên ra lệnh cho các tàu nằm trong vịnh
bắn tới tấp lên đồn địch. Ngài De Bragelonne là người đầu tiên xin mang lệnh ấy
đi, nhưng Đức ông không thuận.
Đức ông
hành động có lý vì ngài yêu thương và muốn nâng đỡ nhà quý tộc trẻ tuổi. Ngài
có lý vì những biến cố đến sau đó sẽ chứng minh rõ: Người hạ sĩ quan được ngài
sai đi vừa đến bờ biển thì hai phát súng vang lên từ phía địch bắn anh ngã
xuống, mặt úp vào vũng máu hoà trong cát.
Thấy thế
ngài De Bragelonne mỉm cười với Đức ông. Điện hạ nói: "Tử tước thấy không.
Ta vừa cứu mạng ông đấy. Sau này về nói với Bá tước De La Fère để ông ta biết
cho lòng ta".
Nhà quý
tộc trẻ tuổi cười buồn, trả lời Hầu tước:
- Đúng
là nếu không có lòng tốt của Đức ông thì tôi đã bị giết nơi kia và ngủ yên như
người trung sĩ khốn khổ đó rồi!
Giọng
ngài De Bragelonne có vẻ gì không vui đến nỗi Đức ông phải vội lên tiếng:
- Ôi chàng
tuổi trẻ thèm đến chảy nước miếng rổi. Nhưng ta đã hứa với Bá tước là đem anh
về yên lành nên nếu Thượng đế đồng ý thì ta phải giữ lời.
Ngài De
Bragelonne đỏ mặt, hạ thấp giọng nói:
- Xin
Đức ông tha lỗi, chẳng qua là lúc nào tôi cũng muốn cống hiến khi gặp dịp. Và
thật là hân hạnh biết bao nếu được nổi bật trước mặt viên tư lệnh của mình,
nhất là khi tư lệnh đó là ngài Hầu tước De Beallfot.
Đức ông
dịu nét mặt lại rồi quay sang các sĩ quan đang vây quanh để ra một số lệnh
khác.
Toán
mang lựu đạn của hai trung đoàn đã áp sát khá gần các hào thành và vị trí ẩn
núp của địch, rồi ném lựu đạn nhưng hiệu quả không là bao.
Tuy
nhiên, ngài d Estrée chỉ huy hạm đội, đã thấy việc viên trung sĩ muốn đến đoàn
tàu nên hiểu rõ rằng có thể hắn không cần lệnh. Lính A-rập hoảng hốt la hét vì
thấy đạn bắn từ phía hạm đội làm tan nát thành luỹ của họ. Họ cho một toán kỵ
binh chuyển sang tấn công bộ tham mưu lúc này không còn ai bảo vệ hết. Mối nguy
hiểm thật lớn, Đức ông phải rút gươm ra, những người thư ký, cần vụ cũng bắt
chước ngài. Các sĩ quan tùy tùng ra chặn cuộc tấn công dữ dằn kia.
Lúc này
mới làm cho ngài De Bragelonne thỏa mãn với nỗi ham muốn từ lúc đầu ra quân.
Ngài chiến đấu bên cạnh Đức ông như một tay kiếm La Mã và chỉ với thanh gươm
nhỏ ngài giết được ba người A-rập.
Ngài
hăng lên đến nỗi Đức ông phải lên tiếng kêu ngài dừng lại.
Chắc là
ngài phải nghe thấy tiếng của Đức ông chứ, vì chúng tôi ở bên cạnh ngài, chúng
tôi đã nghe. Thế mà ngài không dừng lại và cứ tiếp tục phóng về phía bọn họ cố
thủ.
Ngài De
Bragelonne vốn là một sĩ quan rất tôn trọng kỷ luật nên trường hợp bất phục
tùng lệnh của Đức ông làm mọi người rất lấy làm kinh ngạc. Ngài De Beaufor gọi
giật lại:
-
Blagelonne dừng lại! Anh đi đâu đấy? Ta bảo anh dìrng lại!
Tất cả
chúng tôi đều vẫy tay theo cử chỉ của Hầu tước, đợi người kỵ sĩ quay đầu lại,
nhưng ngài De Bragelonne vẫn quất ngựa hướng về phía các hàng rào, Hoàng thân
lặp lại tiếng kêu thật to:
-
Bragelonne dừng lại! Ta thay lời cha ngươi gọi đấy!
Nghe
tiếng đó, ngài De Bragelonne quay lại, nét mặt đầy vẻ đau đớn, nhưng ngựa vẫn
không dừng, như là lôi ngài đi vậy.
Khi Hầu
tước thấy Tử tước không điều khiển nổi con ngựa nữa, để ngựa vượt lên trước
những người mang lựu đạn nơi hàng đầu thì ông vội kêu lên:
- Pháo
thủ bắn ngựa! Ai hạ sẽ được 100 pistole!
Nhưng
bắn ngựa mà không được đụng đến người cưỡi thì ai dám làm? Sau cùng một tay
súng giỏi của trung đoàn Picardie tên là La Luzeme nhắm bắn trúng vào mông
ngựa. Người ta thấy màu đỏ chảy trên nền lông trắng, nhưng con ngựa thay vì ngã
ra lại mang người cưỡi chạy nhanh hơn.
Cả trung
đoàn Picardie thấy người trẻ tuổi đáng thương ấy chạy đến nơi chết, đều kêu
thất thanh: "Nhảy xuống! Ngài Tử tước nhảy xuống! Nhảy xuống đi! "
Lúc bấy
giờ Tử tước đã vào tầm súng tay của phía lũy.
Một loạt
đạn bắn ra, khói lửa bùng lên che lấp ngài. Khi khói tan, chúng tôi thấy ngài
đứng đấy, con ngựa chết rồi.
Lính
A-rập bảo ngài đầu hàng, nhưng ngài tỏ dấu từ chối và cứ tiếp tục tiến về phía
hàng rào. Thật là cả một sơ suất chết người. Nhưng tất cả mọi người đều biết
ngài không lùi bước.
Ngài đi
tới vài bước nữa và cả hai trung đoàn vỗ tay vang dậy.
Chính
vào lúc ấy, loạt đạn thứ hai nổ ra làm rung chuyển chiến lũy lần nữa và lại lần
nữa ngài Tử tước De Bragelonne biến đi trong cơn lốc khói mù. Nhưng lần này dù
khói tan, lửa tắt, chúng tôi vẫn không thấy ngài đứng dậy nữa. Ngài nằm đấy,
đầu thấp hơn chân, vắt mình lên trên bụi cây. Người A-rập định bước ra khỏi chỗ
nấp đến cắt đầu hay lấy thây ngài theo thói quen của họ.
Nhưng
Đức ông Hầu tước Beaufort đã theo dõi sự việc từ đầu đến cuối sự việc khiến cho
ngài đau lòng lớn tiếng thở than.
Khi thấy
người A-rập chạy như lũ ma trắng giữa đám cây nhũ hương, ngài kêu to lên:
- Toán
tiền quân! Các ngươi chịu để cho chúng cướp được thân xác cao quý kia sao?
Vừa nói,
ngài vừa vung gươm lao về phía địch. Cả các trung đoàn chạy theo, la hét vang
trời. Trận đánh giành xác Tử tước ghê gớm đến nỗi phía địch phải bỏ lại một
trăm sáu mươi xác, còn ta thì thiệt ít ra là năm mươi người.
Một
trung uý trong trung đoàn Normandie vác xác Tử tước lên vai và mang về phía
sau. Lợi thế vẫn nghiêng về phía ta. Các trung đoàn có đủ quân dự bị tiến lên
xô đổ hàng phòng ngự của địch.
Lúc ba
giờ, súng phía A-rập ngưng tiếng. Cuộc chiến đấu chuyển thành trận đánh giáp lá
cà trong hai giờ đồng hồ. Lúc năm giờ, ta toàn thắng trên tất cả mặt trận, địch
quân phải bỏ vị trí và ngài Hầu tước sai cắm cờ trắng trên đỉnh cao nhất của
ngọn đồi.
Lúc bấy
giờ mọi người mới kịp nghĩ đến ngài De Bragelonne hãy còn thoi thóp. Điều này
khiến Đức ông rất vui mừng khi đến chứng kiến các nhà giải phẫu đến săn sóc,
băng bó cho Tử tước.
Có hai
bác sĩ nói là Tử tước sống được. Đức ông vui mừng đến mức nhảy lên và hứa sẽ
cho họ mỗi người mười ngàn louis nếu họ cứu sống ngài De Bragelonne.
Nhà giải
phẫu thứ ba là giáo sư Sulvain De Saint Cosme, nhà bác học nổi danh nhất của
chúng ta. Ông xem xét các vết thương và không nói gì cả.
Ngài De
Bragelonne mở mắt nhìn đăm đăm như muốn dò theo từng cử chỉ, từng ý nghĩ của
nhà bác học. Ông ta trả lời với Đức ông rằng trong tám vết thương có ba vết gây
chết người, nhưng do người bị thương quá mạnh, quá sung sức nhờ tuổi trẻ, cho
nên nếu Chúa thương thì ngài Tử tước De Bragelonne có thể hồi phục nếu đừng
động gì đến ông ta.
Giáo sư
Sulvain quay sang các người phụ tá nói thêm:
- Nhất
là không được nhúc nhích gì hết, nếu không ông ta chết đấy!
Thế là
chúng tôi đi ra khỏi lều, mang một chút hy vọng trong lòng. Người thư ký nói
trước lúc bước ra tưởng như thấy được một nụ cười xanh xao, buồn bã thoáng trên
môi của Tử tước, khi Hầu tước cúi xuống nói lời an ủi:
- Ồ Tử
tước, ta nhất định sẽ cứu được anh!
Nhưng
buổi tối, khi chúng tôi tưởng người bệnh đã nghỉ thì một người phụ tá bước vào,
kêu lên hoảng hốt.
Chúng
tôi xô nhau chạy vào, người phụ tá chỉ cho Hầu tước thấy cái xác của ngài De
Bragelonne nằm trên đất phía dưới giường, máu ướt đẫm thân mình.
Hình như
ngài có quằn quại, giãy giụa nên rơi xuống giường và do đó mau chết hơn như lời
tiên đoán của giáo sư Sylvain.
Người ta
đỡ Tử tước dậy. Ngài đã lạnh ngắt. Tay phải ngài còn nắm một lọn tóc hung, bấu
nơi trái tim.
Tiếp sau
là những chi tiết về cuộc viễn chinh và chiến thắng trước quân A-rập.
D
Artagnan dừng lại. Ở đoạn Raoul chết. Ông lẩm bẩm:
- Tội
nghiệp thằng bé, đây là một vụ tự sát!
Rồi ông
quay về phía toà lâu đài Athos đang yên nghỉ ngàn thu, và nói nhỏ: "Họ đã
giữ lời hứa với nhau. Bây giờ họ đang sung sướng vì đã gặp nhau"
Rồi ông
từ từ đi trên con đường hoa viên. Trên mọi đường phố, khắp vùng chung quanh,
những người láng giềng khóc sướt mướt kể cho nhau nghe về hai tai nạn tang tóc,
và chuẩn bị lễ táng
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
59: Khúc hát cuối của bàl thơ tình
Ngay hôm
sau, nhà đám đã thấy ùa tới tất cả giới quý tộc vùng chung quanh trong tỉnh, ở
mọi nơi kịp mang tin đến báo.
D
Artagnan lánh mình không tiếp ai cả. Hai cái chết nặng nề trút xuống mình người
chưởng quan sau cái chết của Porthos đã dồn dập xô đổ con người đến lúc này
chưa hề biết mệt mỏi. Trừ Grimaud mỗi ngày vào phòng ông một lần, còn thì không
có người hầu cận, không có thực khách nào hết. Nghe tiếng động bên ngoài, ông
hình dung được cảnh ra vào tấp nập để tiễn đưa Bá tước.
Ông xin
phép Nhà vua cho được gia hạn phép nghỉ.
Grimaud
bước vào, ngồi trên chiếc ghế bành bên cửa, trầm tư xa vắng, rồi đứng lên ra
dấu cho d Artagnan đi theo.
Hai
người lẳng lặng đi đến phòng khách, nơi đặt áo quan cho mọi người đến viếng
trước khi thân xác Bá tước bị vĩnh viễn chôn vùi, d Artagnan ngạc nhiên thấy có
đến hai cái áo quan và bước tới theo hiệu ngầm của Grimaud. Ông thấy trong một
quan tài Athos vẫn đẹp và oai hùng cho đến lúc chết, nơi quan tài kia, Raoul
mắt nhắm, gò má trắng nhợt và vẫn còn nụ cười trên đôi môi tím.
Ông rùng
mình khi thấy người con và người cha hai linh hồn đã bay bổng mà còn để lại ở
trần thế này hai cái xác u buồn, thật gần nhau mà không thể tiến sát bên nhau.
Ông lẩm bẩm: "Ô, Raoul ở đây, thế mà Grimaud không cho ta biết!
Grimaud
lắc đầu, không đáp nhưng nắm tay d Artagnan dắt tới chỗ quan tài chỉ cho ông
cái vết thương xạm đen chết người.
Người
chưởng quan quay mặt không nhìn, không hỏi vì biết Grimaud sẽ không trả lời.
Ông nhớ lại những gì người sĩ quan thư ký của ông De Beaufort viết ra mà ông
không có can đảm hiểu thêm. Ông nhớ lại câu cuối cùng của bức thư nhắc lại cái
chết của Raoul.
"Ngài
Hầu tước ướp xác ngài Tử tước theo lối người A-rập thường làm khi họ muốn đem
xác về quê hương và ngài Hầu tước cũng cho sắp trạm để một người hầu tin cẩn
từng nuôi chàng thanh niên từ nhỏ có thể chuyển quan tài về cho ngài Bá tước De
La Fère".
D
Artagnan nghĩ thầm: "Như thế là ta một người già, không có nghĩa gì nữa
trên cõi đời này, ta lại đi đưa đám con và ta phải phủ đất lên trên cái trán mà
hai tháng trước đây ta còn hôn lên đấy. Chúa đã muốn như thế rồi. Con cũng đã
muốn thế. Ta không còn quyền để khóc vì con đã chọn cái chết hơn là cuộc sống
này rồi"
Rồi cũng
đến lúc hai thân xác lạnh lẽo của hai nhà quý tộc phải trả về cho đất.
Athos,
đã chọn nơi yên nghỉ cuối cùng là một góc của nhà nguyện này do ông xây cất nơi
tận cùng lãnh địa của ông. Ông đã cho khuân đến đấy những tượng đá chạm năm
1550 lấy từ một nhà xưa kiểu gô-tic nơi ông sống qua thời thanh xuân.
Ngôi nhà
nguyện xây lại như thế, chuyển đi như thế bây giờ rạng rỡ dưới đám bạch dương.
Phía sau
nhà nguyện là một mảnh đất nhỏ, chung quanh có hàng rào cây phỉ, sơn trà, hương
mộc và một vành hố sâu. Khoảng đất không trồng trọt gì, nhưng trong sự cằn cỗi
ấy có một vẻ tươi vui vì lớp rong rêu mọc cao lên, vì các cây quỳ hoang, cây
đinh hương vàng trộn lẫn mùi hương, vì dưới đám cây lật có một con suối rì rào
chảy quanh trong bờ đá cẩm thạch và trên các cây bạch lý hương, đàn ong từ các
vùng chung quanh đổ tới trong lúc bầy chim đỏ cổ đến hót líu lo, trên các rào
cao đầy hoa, chính nơi này là chỗ hai chiếc quan tài được đưa đến, giữa một đám
đông im lặng và trầm ngâm.
Lễ hạ
huyệt cử hành xong, mọi người chào vĩnh biệt người chết lần cuối cùng rồi tản
ra, vừa đi trên đường vừa bàn tán về những đức hạnh và cái chết êm đềm của
người cha, về những triển vọng trong cuộc sống của người con và cái chết buồn
thảm trên bờ biển Châu Phi.
Rồi dần
dần, các tiếng động tắt đi như những cây đèn trong cánh nhà nguyện. Người hành
lễ chào những người mới nằm xuống lần cuối cùng rồi dẫn người phụ tá tay rung
chiếc chuông rè trở về tu viện.
D
Artagnan còn lại một mình, nhận ra là đêm đã đến.
Ông nghĩ
đến những người nằm kia mà quên cả thời gian.
Ông nhổm
mình dậy khỏi chiếc ghế gỗ sồi và cũng muốn như người giáo sĩ đến nói lời vĩnh
biệt cái hố đôi chứa hai người bạn thân đã ra đi.
Một phụ
nữ đang quỳ trên đất ẩm, cầu nguyện.
D
Artagnan dừng lại nơi bệ cửa nhà thờ để khỏi làm kinh động người đàn bà ấy và
cũng muốn để xem mặt người bạn thành tín nào đã đến làm phận sự một cách tận
tâm và kiên nhẫn đến thế.
Khách lạ
úp mặt trong đôi bàn tay trắng như thạch cao.
Nhìn
trang phục đơn giản một cách trang nhã như thế, người ta đoán rằng người đàn bà
thuộc lớp thượng lưu. Phía bên ngoài, có nhiều người hầu cận ngồi trên ngựa và
một chiếc xe đang đợi bà quý phái nọ.
D
Artagnan nghĩ mãi không ra.
Nàng vẫn
cầu nguyện, thường lấy chiếc khăn tay đưa lên mặt.
D
Artagnan hiểu rằng nàng đang khóc. Ông thấy nàng đấm ngực thình thình theo kiểu
người có đạo. Nhiều lần ông nghe thấy tiếng kêu phát ra từ trái tim rướm máu:
"Xin tha thứ, xin tha thứ cho em!"
Và khi
nàng buông thả hết mực mặc cho nỗi đau khổ lôi đi, khi người sắp ngã ra ngất
xỉu trong lúc cầu nguyện, thì d Artagnan thấy cảm động vì tình nàng đối với
những người bạn khuất bóng, liền đi tới vài bước để ngăn nàng thôi than khóc.
Tiếng
chân giẫm lên trên cát khiến người ấy ngẩng đầu lên cho d Artagnan thấy một
khuôn mặt đẫm nước mắt.
Đó là
Tiểu thư De La Vallière. Nàng lẩm bẩm:
- Ông d
Artagnan.
Người
lính ngự lâm sa sầm nét mặt:
- Ô bà ở
đây à? Tôi thà mong thấy bà được nằm khoác đầy hoa trong trang viên của Bá tước
De La Fère còn hơn.
- Ôi,
thưa ông! - Nàng thổn thức không nên lời.
Người
bạn của những người mới chết nói bằng giọng tàn nhẫn:
- Bởi vì
chính bà đã khiến cho hai người kia chết đi.
- Ôi xin
ông tha cho, tránh cho tôi nỗi đau lòng.
- Thưa
tiểu thư, Chúa cũng không bằng lòng tôi xúc phạm đến một phụ nữ hay làm cho
người ấy phải khóc vô duyên cớ. Nhưng tôi cho rằng, kẻ giết người không nên đến
ở trên nấm mồ của nạn nhân!
Nàng
chắp hai tay lại nói:
- Tôi
biết Tử tước De Bragelonne chết vì tôi.
- Bà
biết điều đó sao?
- Tin về
đến triều ngày hôm qua. Từ hai giờ đêm tôi đã vượt qua bốn mươi dặm đường để
xin Bá tước tha lỗi cho tôi, để được đến bên nấm mồ của Raoul, xin Chúa giáng
họa cho tôi những gì tôi xứng đáng nhận lãnh, trừ một điều. Nhưng bây giờ tôi
biết rằng cái chết của người con đã lôi theo cái chết của người cha. Tôi mắc
hai tội ác, tôi phải chịu hai hình phạt của Chúa.
D
Artagnan nói:
- Thưa
tiểu thư, tôi nhắc lại cho tiểu thư những điều ông De Bragelonne đã nói tới tôi
ở Antibes, khi ông đã nghĩ đến cái chết: "Nếu do lòng kiêu ngạo và sự làm
dáng lôi kéo nàng hành động như thế thì tôi tuy khinh miệt nhưng sẽ tha lỗi cho
nàng. Nếu do tình yêu gây nên sự phản bội thì tôi cũng tha lỗi cho nàng và thề
với nàng rằng trên đời này không ai yêu nàng bằng tôi"
- Đến
hôm nay thì tôi không còn mong ước gì hơn nữa. Cái chết của chàng đã lôi tất cả
mọi niềm vui sướng của tôi xuống dưới mộ chàng rồi. Bởi vì từ nay, tôi sẽ không
bao giờ dám yêu nữa. Tôi cảm thấy hối hận, người tôi yêu, - ôi, đó là luật vay
trả - sẽ bắt tôi chịu đựng những đau khổ mà tôi đã khiến người khác phải chịu
lúc trước.
D
Artagnan không đáp lại; ông cảm thấy là nàng nói đúng.
Nàng
tiếp:
- Thế
nên, thưa ông d Artagnan thân mến, ông chớ hành hạ tôi nữa. Tôi bây giờ như hoa
đã lìa cành, tôi không còn bấu víu vào đâu nữa trên cõi đời này, vật vờ trôi
giạt không biết ghé vào đâu. Tôi đang yêu điên cuồng, yêu đến mức biết mình là
kể không xứng đáng mà cũng đến đây kẻ lể với người chết. Có điều, sau này ông
sẽ thấy tôi đơn độc, bị quên lãng, bị khinh miệt, bị trừng phạt, nên lúc này
đây xin ông cho tôi hưởng một phút hạnh phúc phù du. Để đấy cho tôi trong vài
ngày, trong vài phút. Không biết chừng ngay lúc tôi đang nói với ông, niềm hạnh
phúc ấy cũng không còn nữa rồi. Ôi có lẽ cái án giết hai người của tôi đã được
Chúa tha xong!
Nàng còn
muốn nói thêm thì có tiếng người và bước chân ngựa tiến đến gần. Một quan hầu,
ông De St. Aignan theo lệnh Nhà vua đến tìm La Vallière nói rằng Nhà vua đang
ghen tức và lo lắng.
De St.
Aignan không thấy được d Artagnan lúc này đang nấp nửa mình sau một cây lật tỏa
bóng xuống hai nấm mồ.
Louise
cảm ơn ông kia và vẫy tay bảo ông đi. Người chưởng quan chua chát nói:
- Thưa
bà, bà thấy rồi đó, hạnh phúc của bà vẫn còn đấy.
Người
đàn bà trịnh trọng đứng thẳng người nói:
- Có một
ngày nào đó ông sẽ hối hận là đã xét lầm tôi.
- Thưa
ông, ngày hôm đó, chính tôi sẽ cầu xin Chúa quên lỗi ông đã bất công với tôi.
Tôi sẽ còn đau khổ cho đến khi ông là người đầu tiên không chịu nổi sự đau khổ
của tôi nữa. Thưa ông d Artagnan xin ông chớ trách, niềm hạnh phúc mà ông nói
đó khiến tôi phải trả giá quá đắt, đến bây giờ vẫn chưa trả hết nợ.
Nói
xong, nàng lại nhẹ nhàng kính cẩn quỳ xuống:
- Xin
tha thứ cho em lần cuối, hỡi Raoul của em. Em đã làm đứt mối tình của chúng ta.
Hai chúng ta đều bị định mệnh bắt phải chết đau khổ, anh đã là người ra đi đầu
tiên, em sẽ theo anh xin anh đừng ngại. Anh phải thấy là em không hèn nhát, em
đến đây để nói lời vĩnh biệt thiêng liêng này, Raoul ơi, xin đấng Tối cao chứng
giám cho là nếu cần cuộc sống của em để tái sinh cho anh, em sẽ không ngần ngại
gì để hy sinh cho anh. Một lần nữa, xin anh tha thứ cho em.
Nàng bẻ
một cành cây, cắm chặt trên đất rồi gạt nước mắt chào d Artagnan, bước đi.
D
Artagnan nhìn theo những người kỵ sĩ, xe cộ đi xa dần rồi khoanh tay ép trên
lồng ngực chất chứa đầy thương đau:
- Bao
giờ thì đến lượt ta đây? Có còn gì cho con người, sau tuổi thanh xuân, sau khi
tình yêu đến sau vinh quang, tình bạn, sau lúc khỏe và giàu sang đạt được? Chỉ
còn tảng đá kia làm nơi yên nghỉ cho Porthos sau khi đã có những thứ ta vừa
nói! Chỉ có lớp rêu phong cho Athos và Raoul, những người còn giàu sang hơn thế
nữa."
Ông
lưỡng lự một lúc, đôi mắt không còn tinh anh nữa, rồi đứng dậy nói: "Thôi,
cứ bước mãi trên đường đời. Đến lúc nào phải dừng thì có Thượng đế báo cho ta
hay cũng như ngài đã từng bảo người khác"
Ông chạm
đầu ngón tay trên nền đất đẫm sương tối, làm dấu thánh giá rồi lên đường về
Paris, một mình, vĩnh viễn còn lại một mình.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
60: Hồi kết cuộc
Bốn năm
sau chuyện vừa qua có hai người kỵ sĩ rất sang đi qua Blois vào lúc tảng sáng,
thấy rõ mọi sự đã được xếp đặt đầy đủ để đón chào Louis XIV về săn chim trong
vùng hai bên sông Loire, ở giữa Meung và Amboise.
Đó là
hai viên quan trông coi đoàn chó săn và bầy chim ưng của Nhà vua - hai nhân vật
rất được kính nể dưới thời Louis XIV nhưng đã bị người kế tục không đoái hoài
tới.
Hai
người kỵ sĩ đó sau khi quan sát tình hình khu săn, có ý kiến rõ rệt rồi ra về
thì trông thấy nhiều nhóm binh sĩ được các hạ sĩ quan xếp đặt rải rác nơi các
lối vào vùng khoanh săn. Đến sau họ và viên chưởng quan ngồi trên ngựa tốt, nổi
bật với trang phục thêu kim tuyến. Tóc ông ngả màu xám, râu đã hơi bạc.
Hình như
ông hơi khòm mặc dù vẫn còn điều khiển con ngựa thật dễ dàng và vẫn liếc mắt
nhìn chung quanh kiểm soát công việc Người chưởng quan trông coi chó săn nói
với bạn:
- Ông d
Artagnan không bao giờ già cả. Lớn hơn chúng ta mười tuổi mà trông ngài cưỡi
ngựa lại còn trẻ hơn ta.
Người
chưởng quan trông coi chim ưng đáp:
- Đúng
đấy Hai mươi năm qua rồi mà tôi thấy ngài vẫn vậy thôi.
Ông quan
này đã lầm. Từ bốn năm nay d Artagnan như đã trải qua mười hai năm. Năm tháng
siết nanh vuốt tàn nhẫn lên mắt ông, trán ông nhăn lại, và đôi bàn tay ngày xưa
sạm nắng và mạnh mẽ nay trắng ra như là máu đã bắt đầu nguội lạnh đi trên ấy d
Artagnan đến gần hai viên chưởng quan kia với dáng nhã nhặn của người trên. Hai
người kính cẩn chào lại ông. Người trông coi chim ưng nói:
- Chúng
tôi thật may mắn được gặp ngài d Artagnan ở đây!
Người
chưởng quan trả lời:
- Chính
tôi mới phải nói câu ấy đấy, các ngài ạ. Vì bây giờ thì Nhà vua cần chim săn
hơn là cần ngự lâm quân đấy?
Người
trông coi chim ưng thở dài:
- Cũng
chẳng như thời xưa tốt đẹp đâu. Ngài d Artagnan có nhớ thời mà Đức Hoàng thượng
ăn cắp chim ác là trong vườn nho không? Ô! Lúc đó thì ngài chưa là chưởng quan
ngự lâm quân!
D Artagnan
vui vẻ tiếp lời:
- Và còn
ngài lúc đó chỉ là lính chân chì. Chuyện chẳng quan trọng gì, nhưng dù sao cũng
là cái thời xưa tốt đẹp ấy, thời tuổi trẻ của chúng tôi. Chào ngài chưởng quan
đội chó săn.
- Ngài
làm cho tôi hân hạnh quá, ngài Bá tước ạ, - người kia trả lời.
D
Artagnan không trả lời vì chữ Bá tước không làm ông ngạc nhiên, ông đã được
phong tước đó từ bốn năm trước rồi.
Người
trông coi chim ưng tiếp tục:
- Ngài
không thấy mệt vì đoạn đường dài vừa trải qua sao?
Từ đây
đến Pignerol(1) có dễ đến hai trăm dặm đấy phải không?
- Hai
trăm sáu chục vòng đi và chừng ấy trong vòng về, - D Artagnan thản nhiên trả
lời.
- Và ông
ta không việc gì chứ, - người trông coi chim hỏi nhỏ.
- Sao? -
D Artagnan hỏi.
Người
trông coi chim vẫn tiếp tục thấp giọng.
- Kìa,
ông Fouquet khốn khổ đấy mà!
Người
chưởng quan trông coi bầy chó thận trọng tránh ra xa. D Artagnan trả lời:
- Không!
Con người đó suy sụp đến mức tệ hại rồi. Ông ta không chịu hiểu rằng ở tù còn
là một ân huệ. Ông ta cho rằng nghị viện sẽ công nhận ông vô tội bằng hình thức
phát vãng và lưu đày, như thế là được tự do. Ông không biết rằng người ta muốn
giết ông và nếu muốn dứt ông ra khỏi nanh vuốt của nghị viện thì quả thật thiên
nan vạn nan.
- Ờ,
đúng, con người khốn khổ đó suýt nữa là lên máy chém rồi. Người ta nói là có
lúc ông Colbert đã ra lệnh cho ông giám đốc nhà ngục Bastille thi hành việc đó
rồi.
- Bỏ qua
đi! - D Artagnan nét mặt trầm tư, gạt đi.
Lúc ấy
người chưởng quan trông coi bầy chó tiến lại gần và nói:
- Thế mà
bây giờ ông Fouquet lại ở Pignerol. Ông ta đã ăn cắp nhiều của Đức vua, như thế
là đáng lắm. Thế mà còn được có hân hạnh là ngài áp giải đi.
D
Artagnan căm ghét nhìn ông chủ chó và nói:
- Thưa
ông, nếu có ai nói là ông ăn vỏ bánh mì của chó ông thì không những là tôi
không tin và về sau nếu ông bị nhốt vì lẽ đó thì tôi phàn nàn cho ông, và không
chịu người ta nói xấu ông đâu. Tuy nhiên dù ông có rõ ra là người có tư cách
đến mấy đi nữa thì ông cũng không bén gót được ông Fouquet đáng thương kia đâu.
Sau khi
phải chịu lời khiển trách nặng nề đó, người chưởng quan trông coi bầy chó của
Nhà vua phải cúi đầu và lui ra sau ông trông coi chim hài hước. Ông này nói nhỏ
với d Artagnan:
- Hắn ta
đang cảm thấy bằng lòng. Lúc này, săn bằng chó là hợp thời trang mà. Nếu hắn ta
là người coi chim thì không nói thế đâu.
D
Artagnan cười buồn vì thấy một vấn đề chính trị quan trọng như thế lại được
giải quyết nhờ một sự bất mãn quyền lợi nhỏ nhoi đến thế! Ông nghĩ thêm một lúc
về cuộc sống huy hoàng của viên tổng giám về cơ nghìệp sụp đổ của ông ta, về
cái chết thê thảm đón chờ ông ta, và hỏi cho xong chuyện:
- Ông
Fouquet có ưa lồng chim không?
- A,
thưa ngài, ông ta mê lắm. - Người chủ chim trả lời với một giọng cay đắng và
một tiếng thở dài buồn bã như bài điếu tang cho ông Fouquet.
D
Artagnan tiếp tục đi vào trong đồng, bỏ qua chuyện có một người bất mãn và một
người buồn rầu.
Phía xa
đã thấy bóng những người săn đứng ở các ngả đường vào rừng, các chòm lông vũ
của các mũ kỵ sĩ vút qua như sao băng trong các vạt đất thưa cây và những con
ngựa trắng lấp loáng một lúc dưới bóng râm. D Artagnan lại nói:
- Các
ông bắt chúng tôi săn lâu phải không? Tôi đang mệt, các ông nên bắt chim cho
chúng tôi nhanh đi. Cò hay là thiên nga đấy?
Người
chủ chim săn trả lời:
- Bắt cả
hai, thưa ngài d Artagnan, nhưng ngài không phải lo ngại. Hoàng thượng không
rành săn bắn đâu, Ngài không săn cho mình mà là vì muốn cho các bà mệnh phụ
giải trí thôi.
Ông nhấn
mạnh các chữ bà mệnh phụ khiến d Artagnan phải chú ý và ngạc nhiên
"A" liền một tiếng, nhìn người chủ chim.
Viên
chưởng quan trông coi bầy chó được dịp mỉm cười cầu tài với d Artagnan. D
Artagnan nói:
- À, ông
cứ cười đi. Tôi không biết tin gì hết. Tôi đi vắng một tháng, mới về hôm qua
thôi. Lúc tôi đi, Hoàng gia đang buồn vì Thái hậu mất, Nhà vua không muốn vui
đùa gì từ khi Anne d Autriche thở hơi cuối cùng. Nhưng ở đời này, chuyện gì rồi
cũng phải đến hồi kết cục. Nhà vua bây giờ không còn buồn nữa, càng hay!
Người
chưởng quan trông coi chó săn cười lớn:
- Rồi
tất cả lại bắt đầu.
D
Artagnan kêu lên một tiếng "A!" thứ hai vì nôn nóng muốn biết nhưng
vì thể hiện không thể hạ mình hỏi kẻ dưới.
- Chắc
là có cái gì bắt đầu đấy, phải không?
Người
coi chó nháy mắt cười đầy ý nghĩa, nhưng d Artagnan không muốn hỏi ông ta mà
lại quay về phía người coi chim:
- Hoàng
thượng có xuất hiện sớm không?
- Tôi sẽ
cho chim săn bay lên lúc bảy giờ.
- Hoàng
hậu thế nào?
- Thưa,
ngài đỡ hơn rồi.
- Ngài buồn
gì thế? Đừng ngại cho tôi biết, ông bạn thân mến ạ.
- Hình
như là Hoàng hậu phàn nàn Đức vua hờ hững với ngài từ lúc Thái hậu mất đi.
D
Artagnan kêu lên:
- Ồ thật
tội nghiệp. Chắc bà ghét tiểu thư De La Vallière lắm.
Người
coi chim trả lời:
- Không
phải Tiểu thư De La Vallière đâu!
- Thế
thì ai?
Tiếng
còi săn gọi chó và chim làm ngắt quãng câu chuyện.
Hai
người chưởng quan cắm cổ chạy bỏ d Artagnan lại một mình. Nhà vua xuất hiện
đằng xa, chung quanh có các bà mệnh phụ và các lính kỵ binh.
Cả đoàn
người tiến lên từng bước, trật tự và đẹp mắt, có còi săn và kèn thúc chó, ngựa
hăng lên, cảnh chuyển động này với tiếng ồn ào trong vùng ánh sáng lấp loáng,
ngày nay không thể nào tưởng tượng ra được mà phải nhờ vào các ngón nghề của
sân khấu dối trá tô vẽ ra thôi.
Mắt d
Artagnan hơi kém vẫn thấy có ba chiếc xe sau nhóm người đó: Chiếc xe đầu là
dành cho Hoàng thượng. Xe không người.
D
Artagnan tìm không ra tiểu thư De La Vallière bên cạnh vua nên nhìn vào xe thứ
hai và thấy tiểu thư trong đó. Nàng ngồi một mình với hai phụ nữ có vẻ cũng
đang chán nản như nàng.
Phía
trái Nhà vua một người phụ nữ đẹp lộng lẫy ngồi trên con ngựa hung hăng, cánh
tay điều khiển thật lành nghề. Vua mỉm cười với nàng và nàng cười lại. Khi nàng
nói, mọi người đều cười phá lên.
- Ta
biết người này rồi, - D Artagnan nghĩ thầm. - Nhưng nàng là ai nhỉ?
Lúc đó
Nhà vua vừa thấy d Artagnan và kêu lên:
- Ồ, Bá
tước đã trở về rồi. Sao ông không tới gặp ta?
Người
chưởng quan trả lời:
- Thưa,
khi tôi đến thì Hoàng thượng đã ngủ còn khi tôi đi sáng nay, thì ngài chưa
thức.
Louis
trả lời vẻ thỏa mãn:
- Lại
vẫn thế thôi. Bá tước nghỉ đi, ta ra lệnh cho ông đấy. Tối nay đến ăn cơm với
ta.
Một
tràng tiếng xì xào ngưỡng mộ bao quanh d Artagnan như vuốt ve ông. Mọi người
xúm lại. Ăn tối với Nhà vua không dễ có như với Henri IV đâu. Nhà vua tiến lên
vài bước, một toán sau tiếp theo, giữa đó ông Colbert nổi bật lên. Ông này vui
vẻ nói:
- Xin
chào ông d Artagnan. Chắc ông đi đường suôn sẻ phải không?
- Thưa
ông, vâng, - D Artagnan vừa nói vừa giật cương ngựa và chào.
- Tôi
nghe nói Hoàng thượng mời ông dùng cơm tối nay phải không? Chắc là ông sẽ gặp
bạn cũ đấy.
- Bạn
cũ? - D Artagnan hỏi mà lòng quặn thắt khi phải ngược dòng thời gian, nơi đã
ngập chìm bao nhiêu tình thâm, bao nhiêu hàn thù.
Colbert
trả lời:
- Đó là
ngài hầu tước d Améda mới từ Tây Ban Nha đến đây sáng nay.
D
Artagnan nhìn quanh:
- Hầu
tước d Alaméda?
- Tôi
đây!
Một ông
già tóc trắng như tuyết khom mình bước qua cửa xe tiến về phía d Artagnan.
D
Artagnan sững sờ kêu lên:
-
Aramis!
Ông để
mặc cho đôi tay gầy ốm run run choàng lên cổ ông. Colbert lẳng lặng quan sát
một lúc rồi thúc ngựa tiến lên, để cho hai người bạn cũ chuyện trò. Người lính
ngự lâm nắm tay Aramis:
- Thế là
bạn ở đây, con người bị lưu đày, tên phản loạn lại ở Pháp rồi.
Giám mục
xứ Vannes mỉm cười:
- Và tôi
lại ăn tối với bạn trong cung. Đúng rồi, chắc bạn sẽ hỏi ở trên đời này, chuyện
trung thành là cái quái gì phải không? Này, để cho xe của nàng La Vallirère
đáng thương đi qua. Bạn trông, nàng thật có dáng lo lắng, đôi mắt héo hon vì
khóc lóc đang nhìn ông vua đi ngựa đàng xa kia!
- Với ai
thế?
- Với
tiểu thư De Tonnay Charente bây giờ đã là Bà De Montespan.
Aramis
trả lời. Họ vừa theo dõi cuộc săn, vừa nói chuyện với nhau. Người đánh xe của
Aramis khéo léo đưa họ đến ngay lúc con chim ưng đuổi theo con mồi bắt nó hạ
cánh và sà xuống chộp nó.
Nhà vua
bước xuống đi bộ. Bà De Montespan cũng bắt chước theo. Mọi người đến trước một
ngôi nhà nguyện đơn độc náp dưới những thân cây lớn bắt đầu rụng lá dưới cơn
gió mùa thu. Phía sau nhà nguyện là một khoảng đất có cửa nan đan chặn lại. Con
chim ưng đã buộc con mồi rơi trong khoảng đất ấy và Nhà vua đi vào để nhổ sợi
lông đầu tiên của nó theo tục lệ.
Ai nấy
đều vây quanh nhà nguyện và hàng rào; Aramis muốn bước xuống xe, nhưng d
Artagnan chặn lại:
- Bạn có
biết sự tình cờ đã đưa chúng ta đến đâu không?
- Không.
- Hầu tước trả lời.
D
Artagnan trả lời mà tâm hồn xúc cảm vì kỷ niệm buồn xưa.
- Có
những người tôi quen chôn ở đây.
Aramis
không đoán ra được gì hết. Nhưng đôi chân ông cũng run run khi bước qua cánh
cửa nhà nguyện mở ra theo cánh tay d Artagnan. Ông hỏi:
- Họ
được chôn ở đâu?
- Đằng
kia, trong khoảng đất rào. Bạn trông thấy cây thập tự giá dưới cây trắc bá nhỏ
chứ? Cây trắc bá trồng trên mộ họ.
Bạn đừng
vào, Nhà vua sắp đến ngay vì con cò rơi xuống đấy.
Không ai
biết họ mà họ thì thấy được khuôn mặt tái xanh cả nàng La Vallière bị lãng quên
trong xe, đang đưa mắt buồn bã nhìn nơi cổng vào. Rồi nàng bị lòng ghen tức
thúc đẩy liền bước vào nhà nguyện, đứng dựa cây cột nhìn Nhà vua đứng trong khu
đất, tươi cười vẫy tay gọi Bà De Montespan đến gần, chớ sợ hãi gì ông.
Bà De
Montespan cầm tay Nhà vua. Ngài đưa tay nhổ sợi lông đầu tiên của con cò vừa bị
chim ưng hạ, rồi giắt lông lên chiếc mũ của người bạn gái xinh đẹp.
Đến lượt
nàng mỉm cười âu yếm hôn bàn tay vừa trao quà tặng, Nhà vua sung sướng hỏi:
- Nàng
đổi lại cho ta thứ gì?
Nàng bẻ
một nhánh trắc bá dâng cho Nhà vua mà lòng tràn đầy hy vọng. Aramis nói nhỏ với
d Artagnan:
- Món
quà không vui, vì là của cây trắc bá che nấm mồ.
D
Artagnan nói to:
- Đúng
thế, đó là mồ của Raoul De Bragelonne, Raoul yên nghỉ dưới chiếc thập tự giá
bên cạnh người cha Athos.
Có tiếng
rên rỉ vọng lại sau lưng họ và một người đàn bà ngã xuống ngất đi. Tiểu thư De
La Vallière đã thấy hết và nghe hết. D Artagnan lẩm bẩm: "Người đàn bà
đáng thương! Từ nay nàng sống mãi trong đau khổ."
Tối hôm
đó, d Artagnan ngồi dự tiệc vua thiết bên cạnh ông Colbert và Hầu tước d
Alaméda. Nhà vua rất vui, lễ mực hết độ với Hoàng hậu, rất chiều chuộng Đức bà
lúc bấy giờ đang ngồi phía trái ông và rất buồn. Người ta tưởng như vẫn ở thời
bình yên xưa cũ vào thời Nhà vua nhìn vào mắt Thái hậu trông chờ một dấu hiệu
đồng ý hay không của người mẹ khi ông phát biểu.
Hai hay
ba lần. Nhà vua nói chuyện với Aramis, gọi ông là ngài đại sứ khiến cho d
Artagnan càng ngạc nhiên tại sao người bạn loạn thần của ông lại được ung dung
tự tại như thế giữa triều đình.
Nhà vua
đứng dậy nói chuyện với cô em dâu trong khi Đức ông vẻ mặt lo lắng nói chuyện
với Hoàng hậu mà không rời mắt khỏi bà vợ và ông hoàng anh.
Aramis,
d Artagnan và Colbert lại có đề tài vô thưởng vô phạt. Họ nói về các ông tể
tướng trước, Colbert kể về Mazarin và kể về Richelieu.
D
Artagnan lúc nào cũng thấy con người có đôi lông mày dày, cái trán, cái trán
thấp đó, hiểu biết thật rộng và tính tình thật vui. Còn Aramis ngạc nhiên thấy
một con người nghiêm túc như thế sao lại sử dụng một dáng dấp vô tư để chặn lùi
một đề tài quan trọng hơn mà cả ba đều thấy sắp phải bàn tới ngay nhưng không
ai có ý gợi ra trước cả.
Người ta
thấy Đức ông có dáng bối rối vì câu chuyện trao đổi giữa Nhà vua và Đức bà. Mắt
Đức bà đỏ hoe; có phải bà sắp than vãn điều gì? Có phải bà sắp gây ra chuyện ồn
ào nhỏ ngay giữa triều?
Nhà vua
dắt bà ra một chỗ riêng và hỏi với giọng dịu dàng, nhắc nhở bà nhớ lại những
ngày được yêu thương.
- Này cô
em của ta, tại sao đôi mắt đẹp kia lại khóc?
- Không,
thưa ngài - ông em ta lại ghen rồi phải không, cô em ta?
Bà liếc
nhìn về phía Đức ông, muốn nhắc Nhà vua nên coi chừng.
- Thưa
vâng.
Nhà vua
nói:
- Em
nghe đây, nếu bạn bè của em có làm em phiền thì đó không phải là lỗi ở em trai
ta đâu.
Ngài nói
thật dịu dàng khiến Đưc bà lâu nay phải đè nén nỗi buồn, lúc này được ân cần
chăm sóc, suýt bật khóc.
- Này,
này, cô em thân mến, hãy tin nơi người anh này mà kể ra cái gì làm em buồn. Ta
sẽ lấy quyền vua mà chấm dứt cho.
Đức bà,
ngước đôi mắt đẹp buồn lên nói:
- Không
phải bạn bè em làm em buồn. Họ không có mặt ở đây hay trốn chạy cả rồi. Những
người đó đều hết sức tốt, hết sức trung thành, thế mà người ta lại dèm pha với
Hoàng thượng.
- Cô nói
tới tên Guiche(2) mà ta cho đầy theo lời yêu cầu của em trai ta đấy ư?
- Từ
ngày bị phạt đầy bất công như thế, anh ta lúc nào cũng muốn tự tử cho xong!
- Bất
công à. Em nói sao?
- Bất
công đến mức mà nếu không có lòng kính trọng, và thêm tình thân đối với Hoàng
thượng thì…
- Thì
sao?
- Thì em
đã xin với anh Charles của em… Nhất định sẽ được.
Nhà vua
giật nẩy mình:
- Sao?
- Em sẽ
xin với anh ấy trình với ngài là đức ông chồng của em và ông hiệp sĩ De
Lorraine, người tin cẩn của ông, không phải là không có trách nhiệm trong việc
giày vò danh dự và hạnh phúc của em đâu?
Nhà vua
nói:
- Lại có
chuyện gì của ông hiệp sĩ De Lorraine, cái khuôn mặt khó đăm đăm đấy.
- Hắn là
kẻ thù không đội trời chung với em đấy! Chừng nào mà hắn còn ở chung nhà với em
vì chồng em lưu giữ và cho hắn đủ quyền hành, thì em còn là người thấp giá nhất
của vương quốc này.
Nhà vua
thong thả nói:
- Thế cô
cho rằng ông vua nước Anh, người anh em của ta là tốt với cô hơn ta chứ gì? Cho
nên cô mới đi cầu cứu với ông.
- Hơn là
nhờ cậy ở trong nước, thưa Hoàng thượng, đúng đấy - Nàng lên giọng kiêu hãnh.
Nhà vua
trả lời:
- Cô là
cháu của Henri IV như ta đấy.
Henriette
nói:
- Thế
thì xin ngài hãy ra tay đi.
- Chúng
ta phải liên kết với nhau trong việc này.
- Ngài
cứ bắt đầu trước.
- Cô nói
là ta đã bất công khi cho đày Guiche à?
Nàng đỏ
mặt:
- Thưa
vâng.
- Thế
thì Guiche sẽ trở về.
- Tốt
lắm.
- Bây
giờ là chuyện cô nói rằng ta có lỗi để hiệp sĩ De Lorraine ở trong nhà cô và
xúi Đức ông chống lại cô.
- Xin
ngài nhớ kỹ câu vừa nói: ông hiệp sĩ De Lorraine là người có thể làm đủ chuyện
đồi bại xấu xa đấy.
- Ông
hiệp sĩ De Lorraine sẽ không làm phiền cô nữa. Ta hứa như thế.
- À, thế
thì bước đầu hợp tác tốt đấy. Em xin ký liên minh. Nhưng đó là phần của ngài,
còn em phải đóng góp gì đây?
- Xin cô
thay vì để ta bất hoà với anh Charles của cô, phải khiến cho ông ta thành người
thân thiện nhất với ta.
- Chuyện
đó dễ lắm.
- A,
không dễ đâu. Trong tình thân bình thường, người ta ôm nhau, mời tiệc nhau và
chỉ tốn có một cái hôn hay một bữa ăn tổn phí chẳng bao nhiêu. Nhưng tình bạn
chính trị thì…
- Ồ thế
đây là một tình bạn chính trị!
- Đúng
đấy cô em ạ. Và như thế là thay vì ngoéo tay, tiệc tùng phải có quân tước phục
vụ đầy đủ, trung thành cho bạn, phải có các chiến thuyền trang bị đại bác,
lương thực. Như thế thì không phải lúc nào trong kho cũng đủ để tạo nên loại
tình bạn ấy đâu.
- Ô!
Hoàng thượng nói đúng đấy, tủ sắt của vua nước Anh mấy lúc sau này rủng rỉnh
khá lắm.
- Về
phần cô em, cô em có thừa sức ảnh hưởng đến vua nước Anh và chắc sẽ thu hoạch
được nhiều hơn bất cứ ông đại sứ nào của ta.
- Như
thế thì em phải đi London một chuyến, ông anh ạ.
Nhà vua
hấp tấp nói:
- Ta đã
nghĩ đến điều ấy rồi. Chắc là một chuyến viễn du như thế sẽ làm cho cô đỡ bận
trí hơn.
Đức bà
chặn lại:
- Tuy
nhiên cũng có thể là em sẽ thất bại. Vua nước Anh có những ông cố vấn sừng sỏ
lắm.
- Cô
muốn nói các bà cố vấn à?
- Đúng
như vậy. Ví dụ như nếu Hoàng thượng bảo em xin vua nước Anh làm đồng minh chiến
đấu.
- Chiến
đấu à?
- Vâng.
Thế là các bà cố vấn của Nhà vua, - bảy người tất cả: Tiểu thư Stewart. Tiểu
thư Gwyn, Tiểu thư Wells. Cô nương Orchay, Tiểu thư Zunga, Cô nương Daws và bà
Bá tước De Castelmaine sẽ xúm lại nói với vua là chiến tranh tốn nhiều tiền
lắm, trang bị tàu chiến ở Portsmouth, ở Greenwich không bằng mở dạ vũ hay bày
bữa ăn nhẹ ở Hampton Court đâu.
- Như
thế cuộc điều đình thất bại?
- À mấy
bà đó sẽ làm thất bại mọi cuộc điều đình nào không phải của họ đề xướng.
- Cô em
biết ta có ý định gì không?
- Không.
Ngài nói đi.
- Cô tìm
quanh cô thế nào cũng ra một bà cố vấn đủ sức hùng biện đánh tan ý xấu của bảy
người kia.
- Thưa
ngài, được đấy. Để em đi tìm.
- Nhất
định phải ra.
- Ta
mong thế.
- Phải
là một người đẹp, một khuôn mặt dễ ưa bao giờ cũng hơn là một kẻ dị hình phải
không?
- Nhất
định thế rồi.
- Lanh
trí, vui vẻ, táo bạo.
- Nhất
định.
Thuộc
dòng quý tộc đủ để đến bên vua mà không vụng về lúng túng. Nhưng cũng không quá
cao để dòng quý tộc khỏi phải ngượng ngùng.
- Đúng
quá rồi.
- Và
biết một chút tiếng Anh.
Đức bà
hấp lấp kêu lên:
- Chúa
ơi, một người như thế phải như Tiểu thư De Kéroualle chẳng hạn.
Louis
XIV nói:
- Đúng
rồi. Cô tìm ra rồi. Chính cô tìm ra đấy cô em ạ.
- Em sẽ
mang cô ta đi. Chắc là cô ta không phàn nàn chứ gì?
- Không
đâu, trước tiên ta sẽ phong cô la là đặc mệnh toàn quyền hấp dẫn. Và sau đó ta
sẽ cấp cho quyền hưởng thụ di sản theo chức tước.
- Tốt.
Cô em
thân mến ơi, ta thấy như cô đã lên đường rồi và sẽ khuây khoả mọi nỗi buồn đau.
- Em đi
với hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất là em phải biết đi điều đình chuyện gì.
- Chuyện
này. Cô biết bọn Hòa Lan chửi bới ta trên báo hàng ngày và cũng tỏ thái độ dân
chủ để làm nhục ta. Ta thì không thích dân chủ.
- Điều
đó thấy rõ rồi, thưa ngài.
- Ta
không chịu được cảnh các ông vua trên mặt biển như họ tự xưng đấy, lại nắm toàn
quyền thương mại của nước Pháp trên đất âu và sẽ chiếm hết các tài sản của châu
Âu. Một lực lượng như thế ở quá gần ta, cô em ạ.
- Nhưng
họ là đồng minh của ngài mà?
- Chính
vì thế mà họ đã sai trái khi cho đánh tấm huy chương tượng trưng nước Hà Lan
che cả mặt trời với chú thích "Mặt trời dừng lại trước mặt ta". Kiểu
này không mấy thân thiện phải không?
- Em
tưởng là ngài đã quên chuyện khổ tâm ấy rồi chứ?
- Ta
không bao giờ quên đâu cô em ạ. Nếu các bạn thực sự của ta, như ông anh Charles
của cô, muốn giúp ta thì…
Đức bà
có vẻ lo nghĩ, Louis XIV nói:
- Cô
nghe đây: phải chia nhau vùng biển chiếm lĩnh. Trong việc này, ta không xứng để
thay Hà Lan ư?
Đức bà
trả lời:
- Chuyện
này thì để Tiểu thư Kéroualle lo điều đình.
- Thế
còn điều kiện thứ hai của cô là gì?
- Phải
có sự đồng ý của chồng em.
- Cô sẽ
có!
- Thế
thì thưa anh, em sẽ đi.
Nghe câu
này, Louis XIV quay về phía góc Colbert, Aramis và d Artagnan đứng, gật đầu làm
hiệu.
Thế là
Colbert cắt đứt câu chuyện dở chừng và nói với Aramis:
- Thưa
ngài đại sứ, bây giờ ta nói chuyện công vụ nhé?
D Artagnan
kín đáo rút lui. Ông đi về phía lò sưởi, cách khoảng vừa đủ để nghe những lời
Nhà vua sắp nói với Đức ông khi ông này bước gần lại, lòng đầy lo lắng.
Gương
mặt Nhà vua thật rạng rỡ và có vẻ cương quyết của con người từ trước đến nay
không gặp gì trái ý ở nước Pháp và từ nay trở đi sẽ không gặp gì trái ý trên
khắp châu Âu. Nhà vua nói với người em:
- Thưa
ông, ta không bằng lòng về ông hiệp sĩ De Lorraine. Ông là người che chở ông
ta, ông hãy khuyên ông ta đi chơi vài tháng.
Những
lời nói đó ào ào đổ xuống đầu Đức ông, khiến ông phải kêu lên:
- Ông
hiệp sĩ làm gì mà Hoàng thượng không bằng lòng thế?
Ông liếc
mắt giận dữ về phía Đức bà. Nhà vua lạnh lùng tiếp:
- Khi
ông ta đi, ta sẽ nói lý do. Và cũng vào lúc Đức bà đã qua Anh rồi.
- Bà ấy
đi Anh? - Đức ông sững sờ, lẩm bẩm.
Nhà vua
tiếp tục:
- Trong
tám ngày nữa; còn hai chúng ta sẽ đi đến một nơi nói sau.
Thế rồi
Nhà vua quay gót sau khi mỉm cười để xoa dịu nỗi cay đắng của ông em trước hai
tin kia. Trong lúc đó Colbert vẫn nói chuyện với Hầu tước d Alaméda:
- Thưa
ngài, đây là lúc chúng ta thỏa thuận với nhau. Tôi đã nối sợi dây liên lạc giữa
ngài và Nhà vua, chuyện đó chỉ là bổn phận tôi phải làm cho một người xứng đáng
như ngài thôi. Nhưng vì có khi ngài lại đối xử với tôi theo tình bằng hữu nên
tôi phải tìm dịp chứng tỏ. Ngài lại là người Pháp hơn người Tây Ban Nha. Cho
nên xin ngài trả lời thật tình, lúc chúng tôi chống Hòa Lan thì Tây Ban Nha có
đứng trung lập không.
Aramis
trả lời:
- Thưa
ngài, quyền lợi của Tây Ban Nha thật rõ ràng: Dùng Hòa Lan gây rối châu Âu là
chủ trương của chúng tôi, nhưng đó là trường hợp nước Pháp liên minh với Hòa
Lan. Nhưng nếu chống nhau thì ngài hẳn biết là có chiến tranh trên mặt biển và
tôi nghĩ là nước Pháp không thể giữ ưu thế, phải không?
Colbert
quay lại thấy d Artagnan đi tìm một người nói chuyện trong lúc Nhà vua và Đức
ông thì thầm. Ông gọi d Artagnan và nói nhỏ với Aramis.
- Ngài
muốn chúng ta nói chuyện với ông d Artagnan!
- Ồ tất
nhiên rồi. - Viên đại sứ trả lời.
Colbert
nói với d Artagnan vừa kịp đến:
- Ngài d
Alaméda và tôi vừa nhận định rằng chiến tranh với Hà Lan phải xảy ra trên mặt
biển.
- Đúng
rồi.
- Ngài
nghĩ thế nào.
- Tôi
nghĩ rằng muốn đánh nhau trên biển thì phải có một đạo quân bộ thật lớn mạnh.
Colbert
tưởng mình nghe lầm:
- Thế
nào?
- Sao
lại phải có quân bộ? - Aramis hỏi.
- Bởi vì
Hoàng thượng mà không có quân Anh giúp thì sẽ bị đánh bại và bị đánh bại thì
nước Pháp sẽ bị chiếm hoặc là từ các cửa biển do quân Hòa Lan đổ vào, hoặc là
từ đất liền của Tây Ban Nha.
Aramis
hỏi:
- Tây
Ban Nha trung lập thì sao?
D
Artagnan trả lời:
- Hoàng
thượng còn mạnh thì Tây Ban Nha còn trung lập.
Colbert
thán phục khối óc thông thái của d Artagnan, con người suy nghĩ bao giờ cũng
thật thấu đáo đủ mọi khía cạnh của vấn đề Còn Aramis thì mỉm cười vì ông biết
quá rõ là về phương diện ngoại giao thì không ai hơn d Artagnan được.
Colbert
như tất cả mọi con người kiêu ngạo khác cứ cho rằng mình sẽ thành công, nên nói
tiếp:
- Ai bảo
với ngài d Artagnan rằng Hoàng thượng không có thủy quân?
Người
chưởng quan:
- A, tôi
không quan tâm đến chi tiết. Tôi là dân đi biển loại tồi. Tôi là dân nóng tính
nên ghét biển. Tuy nhiên tôi có ý kiến là vì nước Pháp có hàng trăm cửa biển
cho nên nếu có tàu thì sẽ có hải quân.
Colbert
rút từ trong túi ra một cuốn sổ tay có chia làm hai cột. Trên cột thứ nhất là
tên các tàu, cột thứ nhì ghi tóm số đại bác, số người trang bị cho tàu. Ông nói
với d Artagnan:
- Tôi
cũng có ý kiến như ngài nên tôi sai liệt kê các con tàu mới đóng thêm và thấy
là ba mươi lăm chiếc.
D
Artagnan kêu lên:
- Ba
mươi lăm chiếc tàu! Vô lý.
- Nghĩa
là khoảng hai ngàn cỗ đại bác Hoàng thượng hiện có trong tay. Với ba mươi lăm
tàu thì được ba hạm đội, nhưng tôi thì muốn có đến năm hạm đội.
Aramis
kêu lên:
- Năm!
- Thưa
các ngài, cuối năm nay là có đủ năm. Hoàng thượng sẽ có năm chục tàu hoạt động.
Phải cật lực mới có phải không?
D
Artagnan nói:
- Chế
tạo tàu thì khó, nhưng còn có thể được. Nhưng làm sao trang bị được. Ở Pháp
không có lò đúc súng, cũng không có nơi làm đạn dược.
Colbert
hân hoan trả lời:
- D
Artagnan, theo kiểu nói của Nhà vua.
Nhưng
người chưởng quan chỉ cười thôi.
- Không,
tôi không biết.
- Đây
cũng là một người do tôi phát hiện. Một chuyên viên sắm sửa. Ông Florant này
mua cho tôi được 350.000 louis sắt để làm trái đạn, 200.000 louis thuốc súng,
12 giàn gỗ phương bắc, cây mồi lửa, lựu đạn; chổi quét, dầu nhựa tiết kiệm được
7% nếu như tôi sản xuất thứ này tại Pháp.
D
Artagnan trả lời:
- Ý kiến
lấy gậy ông đập lưng ông như thế là hay đấy.
- Không
phải sao? Có tính thêm hư hao nữa.
Thế rồi
Colbert cười to vì khoái trá với câu nói đùa của mình rồi nói thêm:
- Vì thế
tôi mới lộ ra với ngài đại sứ để Tây Ban Nha chịu đứng trung lập và nước Anh
chịu giúp chúng ta.
Aramis
nói:
- Nếu
nước Anh giúp các ngài thì tôi bảo đảm sự trung lập của Tây Ban Nha.
Colbert
vội vã theo với tính xởi lởi bộp chộp của ông:
- Cứ làm
đi. Về chuyện Tây Ban Nha thì ngài sẽ không có huân chương Sợi giây vàng đâu,
ngài d Alaméda ạ. Tôi nghe Hoàng thượng nói là thích trao cho ngài huân chương
St. Michel thì hơn.
Aramis
nghiêng mình cảm tạ. D Artagnan nghĩ thầm:
- Ôi
tiếc là Porthos không có ở đây. Hoàng thượng rộng rãi như thế này thì anh chàng
lương thiện đó sẽ lãnh biết bao nhiêu ân huệ!
Colbert
lại nói:
- Xin
nói riêng với ngài d Artagnan. Tôi cam đoan là ngài sẽ biết cách dẫn đoàn ngự
lâm quân đi Hòa Lan. Ngài biết bơi không?
Rồi ông
ta cười như một người quen vui tính. D Artagnan trả lời:
- Như
một con lươn đấy.
- Phải
đi qua các kênh rạch, qua ao đầm, cực lắm và có nhiều người bơi giỏi đã chết
đuối rồi đấy, ngài d Artagnan ạ.
Người
lính ngự lâm trả lời:
- Tôi
sống chết vì Hoàng thượng. Nhưng ở mặt trận thì nước không nhiều bằng lửa đâu,
cho nên tôi báo trước cho ngài biết là tôi chọn lửa trước hết. Tôi già rồi,
nước lạnh lắm, trong khi lửa sưởi ấm được tôi, ngài Colbert ạ.
Bây giờ
lại đến lượt Colbert thấy thán phục, thấy d Artagnan còn đầy khí phách hiên
ngang của tuổi trẻ khi nói những lời ấy.
D
Artagnan thấy kết quả lời nói của mình và vụt nhớ là người đi buôn bao giờ cũng
đòi giá cao cho món hàng của mình khi nó có giá trị trên thị trường. Ông liền
chuẩn bị đưa ra tính toán của mình. Lúc ấy, Colbert nói:
- Thế là
chúng ta đi Hòa Lan phải không?
- Vâng,
nhưng mà… nhưng mà trong chuyện này có lẫn lộn lợi ích và lòng tự ái. Làm ông
chưởng quan ngự lâm quân được trả lương khá lắm. Nhưng ngài nên nhớ là hiện nay
ta có đoàn cận vệ của Hoàng thượng và nhà quân vụ của Hoàng thượng nữa. Như thế
thì viên chưởng quan ngự lâm quân phải chỉ huy hết tất cả các đơn vị này và chỉ
riêng tiệc tùng, phô diễn, anh ta đã phải tốn cả trăm ngàn louis mỗi tháng rồi?
Colbert
nói:
- Giả dụ
rằng Hoàng thượng sẽ tính toán với ông thì sao?
D
Artagnan thắc mắc về vấn đề tiền nong rồi, nên nói:
- Ôi
ngài chưa hiểu rõ tôi. Tôi ngày xưa là trưởng toán ngự lâm của Hoàng thượng,
bây giờ là chưởng quan già dặn, ngang hàng với Thống chế nước Pháp. Thế mà, có
một ngày nào đó ở chiến hào, lại có mặt đến ba người, người chưởng quan cận vệ
người chỉ huy toán lính gác của nhà quân vụ. Ờ, chẳng sao đâu tôi không khổ tâm
việc đó đâu. Tôi quen rồi, tôi chịu đựng được hết.
Colbert
hiểu ngay. Vả lại, ông cũng đã tiên liệu việc này.
Ông trả
lời:
- Tôi đã
nghĩ đến điều ngài vừa nói xong.
- Điều
gì, thưa ngài?
- Chúng
ta vừa nói đến kênh rạch, ao đầm có thể dìm chết người.
- Rồi
sao?
- Thì ở
đó người ta chết là do lỗi của một chiếc tàu, một tấm ván, một cây gậy.
- Vì một
cây gậy, dù ngắn đến đâu cũng vậy. - D Artagnan nói.
- Đúng
vậy, - Colbert trả lời. - Chính vì thế mà tôi không thấy ở đâu có chuyện một
Thống chế nước Pháp lại chết đuối cả.
D
Artagnan xanh mặt vì sung sướng nói giọng run run:
- Nếu
tôi là Thống chế của nước Pháp, thì xứ sở sẽ hãnh diện về tôi. Nhưng muốn có
gậy thống chế thì phải biết điều khiển cuộc viễn chinh đúng bậc chỉ huy.
Colbert
nói với ông:
- Thưa
ngài, trong quyển sổ này có một kế hoạch chiến dịch dự tính cho ngài chỉ huy cả
đoàn quân mà Hoàng thượng sẽ đặt dưới tay ngài vào mùa xuân năm sau. Ngài suy
nghĩ tính toán cho kỹ.
D Artagnan
run run cầm quyền sổ, tay chạm tay Colbert.
Viên tể
tướng thẳng thắn bắt thật chặt bàn tay của người ngự lâm và nói:
- Thưa
ngài, cả hai chúng ta đều có thù phải trả với nhau.
- Tôi
bắt đầu rồi đó, còn bây giờ thì đến lượt ngài! - D Artagnan trả lời:
- Tôi sẽ
đền bù cho ngài. Tôi xin ngài nói với Hoàng thượng là gặp dịp chiến đấu nào đầu
tiên thì hoặc sẽ có chiến thắng, hoặc tôi sẽ chết đi.
Colbert
nói:
- Ngay
bây giờ tôi sẽ cho thêu bông huệ vàng trên cây gậy thống chế của ngài.
Hôm sau,
Aramis đến khách sạn từ giã d Artagnan để về lo liệu việc trung lập của Tây Ban
Nha, d Artagnan nói:
- Chúng
ta bây giờ chỉ còn có hai người để mà yêu thương cho cả bốn đấy!
Aramis
nói:
- D
Artagnan thân mến ơi, bạn chắc sẽ không còn gặp được tôi nữa. Tôi yêu thương
bạn biết chừng nào. Tôi già rồi, lịm tắt, chết đi rồi.
- Bạn ạ,
bạn còn sống dai hơn tôi, vì ngành ngoại giao đòi hỏi như thế. Nhưng tôi thì
danh dự bắt tôi phải chết.
- Ôi, những
người như chúng ta khi chết đi thì chỉ có đầy lòng vui sướng và đầy vinh quang
mà thôi.
D
Artagnan cười buồn:
- Ô! Lúc
này là lúc tôi cảm thấy ham muốn nhất đấy, ngài Hầu tước ạ.
Họ lại
ôm nhau lần nữa và hai giờ sau, họ chia tay nhau.
Chú thích:
(1) Pignerol nay thuộc nước Ý, có lúc thuộc
Pháp là nơi nhốt Fouquet và Người Mặt sắt (trong truyện là Philippe)
(2) Guiche, Bá tước, tướng Pháp (1638-1673)
nổi danh vì khả năng quân sự cũng như về những chuyện lăng nhăng
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
61: Cái chết của ngài d'Artagnan
Trái
ngược với thói thường hoặc trong trường hợp chính trị hoặc trên phương diện
tinh thần đạo đức, ở đây mỗi người đều giữ lời hứa của mình và cam kết đặt hết
danh dự của mình vào việc thực hiện.
NHòa vua
gọi De Guiche về và đuổi hiệp sĩ De Lorraine đi.
Chuyện
này làm cho Đức ông phải đau lòng.
Đức bà
đi London. Bà để cho ông anh Charles II nghe thấm lời Tiểu thư cố vấn chính trị
De Kéroualle khiến cho mối liên minh Anh - Pháp được hoàn thành và khiến tàu
chiến Anh-Pháp được hoàn thành và khiến tàu chiến Anh đeo nặng vài triệu đồng
tiền vàng Pháp mở một chiến dịch kinh khiếp chống hạm đội Hòa Lan.
Charles
II hứa đền ơn những lời khuyên bảo hay ho của Tiểu thư De Kéroualle nên phong
nàng làm Nữ hầu tước Pothmouth. Colbert hứa với Nhà vua xây dựng tàu thuyền,
làm đạn dược, giành chiến thắng. Ông đã giữ lời hứa như chúng ta thấy rồi.
Cuối
cùng là Aramis - Lời hứa của ông này khó tin được thực hiện nhất trong đám, thế
mà Aramis đã làm hơn những lời ông hứa. Bây giờ chỉ còn xem Nhà vua, Colbert và
d Artagnan có giữ lời hứa với nhau hay không, Như Colbert tiên đoán, vào mùa
xuân quân đội trên bộ bắt đầu vào chiến dịch.
Theo một
trật tự thật đẹp, đi sau đoàn quân là cả triều đình của Louis XIV, mang cả tầng
lớp ưu tú trong hệ đẫm máu này, hết thảy đều đi ngựa. Chung quanh có các xe
song mã chở các bà mệnh phụ, các nội thần.
Tất
nhiên các sĩ quan quân đội chỉ có loại âm nhạc là pháo binh từ trong đồn Hòa
Lan bắn ra, nhưng bấy nhiêu đó cũng đủ cho một số đông tìm được danh vọng thăng
quan tiến chức, tiền bạc, hay cái chết trong cuộc chiến này.
Ngài d
Artagnan cầm đầu một toán quân mười hai ngàn người gồm kỵ binh và bộ binh, được
lệnh phải tiến chiếm nhiều địa điểm then chốt trên vùng chiến lược có tên là
Frise.
Chưa bao
giờ một đoàn quân viễn chinh được điều khiển chu đáo đến như thế. Các sĩ quan
đều biết rằng chủ tướng vốn tính cẩn thận, khôn khéo và can đảm sẽ không bao
giờ hy sinh vô ích một mạng người, một tấc đất nào cả.
Ông đã
quen từ lâu với cung cách xử trí ở tiền tuyến: sống bằng quyền lợi của đất
địch, để cho quân ta ca hát và kẻ thù khóc than.
Người
chưởng quan ngự lâm quân thích khoe khoang kiểu cách rằng ông ta biết rõ tình
hình chiến trận. Chưa bao giờ người ta thấy có những dịp tấn công được chọn lựa
khéo đến như thế, chưa có những cuộc đột kích và yểm trợ hoàn hảo như thế, chưa
lúc nào lỗi lầm của quân địch được khai thác tốt đẹp như thế.
Cho nên,
quân của d Artagnan trong một tháng đã chiếm được mười hai địa điểm nho nhỏ.
Hiện giờ
đang tiến đánh địa điểm thứ mười ba đã được quân đồn trú giữ vững năm ngày rồi.
D Artagnan cho đào chiến Hòao. Trong đội quân của ông, những người đào đắp và
các tay thợ đều đầy tinh thần thi đua, tận lực và nhiều sáng kiến vì ông đối xử
với họ như chiến binh, làm cho họ hiểu công việc này là vinh quang và chỉ chịu
để họ chết đi khi không còn cách nào khác, cho nên ta phải trông thấy họ hùng
hục đào lộn vùng đất đầm lầy của xứ Hòa Lan đến thế nào! Theo lời các binh sĩ
thì vùng đất than bùn, đất sét này giống như loại bơ trong các chảo lớn của các
bà nội trợ vùng Frise.
Ngài d
Artagnan cho một người lính trạm đi báo cho Nhà vua biết những tin chiến thắng
gần nhất để ngài ban ý kiến về điều này khiến cho ngài vui mừng gấp bội và ra
lệnh đãi tiệc các bà thật là trọng thể.
Các
chiến thắng đó của ngài d Artagnan giúp cho oai vũ của ông hoàng tăng lên khiến
bà Montespan từ nay chỉ gọi ông là Louis vô địch. Tướng tinh của tiểu thư De La
Vallière chìm sau các đám mây ở chân trời và trong những giọt nước mắt. Còn nỗi
vui của bà De Montespan thì tăng gấp bội theo với chiến thắng của nhà vua và
giúp ngài quên mọi kẻ bạc đãi khác.
Tất cả
cũng đều nhờ d Artagnan. Nhà vua muốn trả công phục vụ của ông, nên viết thư
cho Colbert:
- Ông
Colbert, chúng ta có lời hứa phải làm tròn với ông d Artagnan trong khi ông ta
đã giữ lời. Ta cho ông biết là đã đến lúc rồi đó. Mọi sự cần thiết đã chuẩn bị
sẵn cho việc này, sẽ cung cấp cho ông khi cần đến.
Colbert
đưa cho viên sĩ quan liên lạc của d Artagnan một bức thư riêng và một cái hộp
nhỏ bằng gỗ mun, khảm vàng, bên ngoài không có gì to lớn lắm nhưng chắc là nặng
vì người ta đã cho đến năm người hộ vệ giúp người đưa tin mang đi.
Những
người này đến nơi ngài d Artagnan đang vây hãm vào lúc tờ mờ sáng và đi thẳng
vào đại bản doanh.
Họ được
trả lời là ngài d Artagnan vừa đi ra với khoảng mười đại đội lính mang lựu đạn
để trông coi việc sửa chữa lại một đoạn Hòao. Đêm trước, viên quan trấn mất bảy
mươi bảy người nhưng phá hoại được một nơi trên phòng tuyến.
Người
của Colbert sai phái được lệnh tìm ngài d Artagnan bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc
nào, dù là ban ngày sáng sủa hay đêm tối đen mò. Cho nên, người ấy thúc ngựa đi
về phía chiến hào, theo sau có tất cả toán hộ vệ.
Người ta
thấy lồ lộ giữa đồng ngài d Artagnan đội mũ gắn lon vàng, cầm gậy dài và dải áo
thếp vàng. Ông nhai nhai hàm ria trắng, bàn tay trái to phủ đám bụi tung lên từ
các trái đạn cày xới chung quanh ông. Trong lửa khói mù trời, đầy tiếng đạn
rít, các sĩ quan lo đào xúc, binh sĩ lăn xe đất, mười, hai mươi người mang vác,
lôi kéo các bó cừ to đến gác che trên đầu chiến hào đào sâu xuống theo lệnh
thúc hối dồn dập và gay gắt của viên tư lệnh.
Sau ba
giờ, mọi hư hỏng đều được sửa chữa xong xuôi, d Artagnan mới bắt đầu nói chuyện
nhẹ nhàng. Ông hoàn toàn trở lại bình tĩnh khi viên đại uý toán quân đào đất,
mũ cầm tay, đến báo cáo rằng đường hào đã có thể sử dụng được. Người này vừa
nói xong thì một viên đạn bay đến cắt đứt một chân khiến ông ngã vào người d Artagnan.
Ông đỡ
người sĩ quan lên và bình tĩnh vỗ về thuộc hạ, dìu người này xuống đường hào
giữa tiếng hoan hô vang dội của cả trung đoàn.
Từ đó,
không phải chỉ là tinh thần hăng hái nữa mà là cả sự cuồng nhiệt nổi lên. Hai
đại đội chạy tràn lên phía pháo đài liền tiêu, xông vào chiếm ngay trong nháy
mắt. D Artagnan cố sức ghìm những người còn lại nhưng khi họ thấy các bạn nhảy
được lên các pháo đài thì họ cũng tiếp tục xông lên theo và tấn công đợt cuối
cùng vào toà thành.
D
Artagnan thấy chỉ có mỗi một cách làm cho quân ông dừng lại là để cho họ vào
thành, nên xua tất cả quân vào hai khoảng thành vỡ mà bên địch đang cố sửa
chữa. Mười tám đại đội tham gia vào đợt tấn công quyết liệt này. D Artagnan dẫn
đoàn quân còn lại đến cách phân nửa tầm súng trong thành để yểm trợ họ từng
đợt.
Người ta
nghe rõ tiếng kêu la của những pháo thủ Hòa Lan bị quân mang lựu đạn của d
Artagnan đâm chết ngay trên mâm pháo. Cuộc chiến càng dữ dội càng đem lại thất
vọng cho viên quan trấn giữ thành đang chống giữ từng tấc đất một.
D
Artagnan muốn kết thúc cho xong nên cho một đạo quân mới đến chiếm các cửa còn
có người chống lại. Họ xô vào như một mũi dùi nhọn. Tức thì trên tHòanh thấy có
cảnh kẻ vây đuổi đánh người bị vây hốt hoảng chạy giữa đám khói đạn mịt mu.
Chính
vào lúc d Artagnan thở ra một hơi thỏa mãn thì ông nghe một tiếng nói bên cạnh:
- Thưa
ngài, đây là thư của ngài Colbert.
Ông bóc
ra, đọc:
"Thưa
ngài d Artagnan,
Hoàng
thượng sai tôi báo cho ngài biết rằng ngài được phong làm thống chế nước Pháp
để thưởng công lao và vinh dự ngài đã đem lại cho quân đội của Hoàng thượng.
Hoàng
thượng rất vui vẻ về những thành quả ngài đem lại và ra lệnh cho ngài hoàn
thành cuộc bao vây mà ngài đã hân hoan bắt đầu và sẽ đem lại chiến thắng cho
Hoàng thượng".
D
Artagnan đứng thẳng người, mặt nóng bừng, mắt sáng quắc ông nhìn lên thành,
theo dõi quân ông tiến giữa vùng khói đạn mịt mù. Ông trả lời người đưa tin.
- Tôi đã
thanh toán xong. Độ một khắc nữa là thànhh phố sẽ đầu hàng.
Ông cúi
xuống đọc tiếp bức thư:
"Thưa
ngài d Artagnan, chiếc còi này là tặng phẩm riêng của tôi. Ngài chắc sẽ không
nổi giận khi thấy rằng trong lúc những chiến binh như ngài rút gươm ra bảo vệ
ngai vàng, thì tôi đây biết thúc đẩy các nghệ thuật thời thanh bình để trang
điểm cho các tưởng lệ xứng đáng với ngài. Tôi tin cậy ở tình bạn của Thống chế,
và xin ngài vững tin hơn tình bạn của tôi".
D
Artagnan say sưa, ra hiệu cho người đưa tin mang cái hộp đến. Nhưng vào lúc
viên Thống chế nhìn vào đó thì có tiếng nổ to trên thành khiến ông phải quay
lại. Ông nói:
- Lạ
thực, sao chưa thấy cờ vua ta bay trên thành và chưa nghe hiệu trống đầu hàng?
Ông tung
ra ba trăm người mạnh khỏe dưới quyền một sĩ quan thật hăng hái đến đánh một
nơi vỡ khác trên thành. Rồi ông bình tĩnh tiến về phía cái hộp người đưa tin
còn cầm.
Lúc d
Artagnan vươn tay mở hộp thì một trái đạn từ phía toà thành vụt tới nghiền nát
cái hộp trong tay rồi đập thẳng vào ngực ông, xô ông nằm trên triền đất, còn
chiếc gậy chạm hình hoa huệ văng từ cạnh hông chiếc hộp vỡ, lăn ra dừng lại
trên bàn tay rũ liệt của viên Thống chế.
D
Artagnan cố gượng dậy.
Lúc đầu
người ta tưởng ông ngã ra không bị thương.
Nhưng
phía các sĩ quan có tiếng kêu kinh khiếp.
Viên
Thống chế mình đầy máu, thần chết xanh xao hiện rõ dần trên gương mặt cao quý.
Dựa
người vào những cánh tay từ mọi phía cố nâng ông lên, ông đưa mắt nhìn lần cuối
về phía toà thành và thấy cây cờ trắng bay trên pháo đài chính. Đôi tai ông đã
ù đi không nghe thấy được dấu hiệu của cuộc sống nhưng cũng nhận ra tiếng trống
vang rền báo tin thắng trận.
Thế là
tay ông siết lên cây gậy thêu hoa huệ bằng chỉ vàng, mắt ông cụp xuống, không
còn đủ sức ngước lên trời cao.
Ông ngã
người xuống đất, miệng lẩm bẩm những tiếng thật đầy ý nghĩa mà trên cõi đời này
không ai ngoài người chế hiểu thấu được:
"Hẹn
gặp lại Athos, Porthos! Vĩnh biệt Aramis mãi mãi".
Bốn con
người dũng cảm mà chúng tôi vừa kể lại cuộc đời, nay chỉ còn có một thân xác,
Thượng đế đã mang linh hồn họ đi rồi.
Thư mục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét