XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2019

Hậu Thủy Hử (Hồi 109-120end)


Hồi 109 - Vương Khánh Qua Sông Bị Bắt

Đang nói chuyện hôm ấy Tống Giang vào trong trướng nghị bàn việc quân, các tướng đứng vòng tay chờ lệnh. Những quân sĩ giữ việc bắn pháo hiệu, đánh chiêng trống, vẫy cờ cùng đầu mục chỉ huy các doanh lần lượt đến dưới trướng xếp hàng chỉnh tề chờ nghe hiệu lệnh. Sau một hồi trống điểm, quan tuyên lệnh đọc chiến lệnh xong, các đầu lĩnh chỉ huy các trại đều lần lượt cúi đầu nghiêng mình nhận lệnh, rồi đứng xếp hàng hai bên. Quân tuần tra giũ cờ xanh quỳ nghe lệnh:

- Những ai hò reo không đều, hàng ngũ lộn xộn, làm ồn ào, ra trận chần chừ không tiến đều phải bắt về nghiêm trị. Các viên kỳ bài tả hữu mỗi bên hai mươi người, Tống tiên phong đích thân ra lệnh:

- Các ngươi trở về doanh trại đốc thúc quân sĩ ra trận, kẻ nào chần chừ lui bước không nghe lệnh thì cứ bắt về trị tội. Các viên kỳ bài tuân lệnh, ai nấy trở về bản doanh nổi hiệu chiêng trống, sắp xếp đội ngũ đợi lệnh lên đường. Sau cùng Tống Giang truyền lệnh cho các đầu lĩnh thủy bộ, đợi kèn nổi hiệu lần thứ nhất chỉnh điểm đội ngũ, lần thứ hai giương cờ, lần thứ ba các đội quân tiến ra khỏi trại lên đường ra trận. Chiêng trống nổi vang, cờ ngũ phương phấp phới, đại pháo nổ rung trời. Đúng là:
- Vang trời chiêng nổi rung đầu núi Rực đất cờ bay át quỷ thần.Lính thủy quân Tưởng Sĩ Văn, Nhân Thế Sùng đã sai đi xa, Vương Khánh giao cho Lưu Dĩ Kính, nguyên là đô giám chỉ huy quân mã châu Vân An làm chánh tiên phong, giao cho Thượng Quan Nghĩa nguyên là đô giám chỉ huy quân mã châu Đông Xuyên làm phó tiên phong; thống quân châu Nam Phong là Lý Hùng và Tất Tiên chỉ huy cánh quân bên tả; thống quân châu An Đức là Liễu Nguyên và Phan Trung chỉ huy cánh quân bên hữu; giao cho thống quân đại tướng Đoàn Ngũ chỉ huy đội hậu quân; ngự doanh sứ Khâu Tường làm phó chỉ huy; giao cho quan khu mật Phương Hàn làm vũ dực đội trung quân. Vương Khánh đích thân thống lĩnh đội trung quân, dưới quyền có nhiều ngụy quan thượng thư, ngự doanh kim ngô, vệ giá tướng quân, hiệu úy và bọn tướng tá giúp rập, tất cả đến mấy chục tên. Lý Trợ được phong làm nguyên súy. Đội quân người ngựa mười phần chỉnh tề, Vương Khánh tự mình đốc suất và giám chiến. Tướng sĩ đeo đai khoác giáp lên ngựa, quân sĩ giương cung kéo dây, nghe ba hồi trống lệnh tất cả đều rời trại xuất phát.

Quân tiến chứa đầy r~lười dặm, từ xa trong đám bụi mù đã thấy đội tiền tiêu bên quân Tống tiến đến mỗi lúc một gần, tiếng đạc ngựa mỗi lúc một rõ, thấp thoáng chừng hơn ba chục quân thám mã, tất cả đều chít khăn chóp xanh, phía sau cắm lông trĩ, mặc áo màu lục, bờm ngựa tết tua hồng, hai bên hông đeo vài chục chiếc lục lạc, tay cầm giáo dài sáng quắc, vai đeo cung tên nhẹ. Viên tướng đi đầu là Hổ kỵ tướng quân Một vũ tiễn Trương Thanh vừa được Đạo quân hoàng đế ban sắc mệnh cho được giữ chức cũ. Trương Thanh đầu quấn khăn chóp xanh giát vàng, mặc chiến bào xanh thẫm thêu hoa, thắt đai lụa màu tía, đi giày thơm da mềm, cưỡi ngựa yên mầu ánh bạc. Bên trái là Trinh Thuận nghi nhân

Quỳnh Anh quận chúa, đầu đội mũ gió mầu tía giát vàng khảm ngọc, mặc chiến bào tía thêu hoa, thắt đai lụa nhiều màu, đi giày đỏ mui cong thêu hoa, cưỡi tuấn mã bờm trắng.

Đi phía sau bên phải là Nghĩa bộc chánh bài quân Diệp Thanh.

Đội tiền tiêu của Trương Thanh tiến thẳng tới quân Lý Trợ, cách chừng hơn trăm bước thì ghìm ngựa quay về. Bên quân Vương Khánh, tiên phong đội tiền quân Lưu Dĩ Kính, Thượng Quan Nghĩa giật ngựa đuổi đánh. Trương Thanh lao ngựa đến, nâng ngọn thương bạch lê hoa chặn đánh Trương Dĩ Kính và Thượng Quan Nghĩa. Quỳnh Anh múa cây phương thiên họa kích thúc ngựa ra trợ chiến. Bốn tướng quần thảo hơn mười hiệp. Trương Thanh, Quỳnh Anh đỡ gạt mấy đường rồi quay ngựa chạy. Lưu Dĩ Kính và Thượng Quan Nghĩa bèn thúc ngựa đuổi theo, quân tả hữu gọi lớn:

- Tiên phong chớ đuổi theo? Hai người ấy có túi đá sau yên ngựa, thường vẫn ném trăm phát trăm trúng.

Lưu Dĩ Kính, Thượng Quan Nghĩa nghe vậy bèn ghìm ngựa lại Vừa lúc ấy từ phía sau núi Long Môn tiếng trống trận nổi vang rồi năm sáu trăm quân bộ xông ra. Bốn tướng đi đầu là Hắc toàn phong Lý Quỳ. Hỗn thế ma vương Phàn Thuỵ.

Bát tí Na Tra Hạng Sung, Phi thiên đại thánh Lý Cổn phăng phăng dẫn đoàn quân ập tới. Năm sáu trăm quân bộ dàn hàng chữ nhất dưới chân núi, quân đao thuẫn đứng hai bên.

Khi quân giặc đánh tới, Lý Quỳ, Phàn Thụy liền chia quân làm hai cánh, tất cả đều chúc khiên xuống đất, đi vòng ra sau núi. Đại quân của Vương Khánh và Lý Trợ vừa tiến đến, thấy bóng quân Tống liền đuổi gấp. Bọn Lý Quỳ, Phàn Thụy thúc quân chạy như bay lên núi, vượt đèo, xuyên rừng rồi mất hút.

Lý Trợ truyền lệnh cho quân sĩ dàn thế trận trên khoảng đất bằng dưới chân núi. Bỗng từ phía sau núi tiếng pháo nổ vang, một đội quân mã do ba viên tướng dẫn đầu từ phía nam phi nhanh tới:

- Chính giữa là Nụy cước hổ Vương Anh, bên trái là Tiêu úy Trì Tôn

Tân, bên phải là Thái viên tử Trương Thanh. Ba tướng thống lĩnh năm nghìn quân mã cắt đường ruổi đến. Vương Khánh định sai tướng thủ hạ tiến lên đón đánh, bỗng lại nghe một tiếng pháo nữa nổ vang, rồi từ phía bắc một đội quân mã khác vùn vụt lao tới, đi đầu là ba nữ tướng:

- Chính giữa là Nhất trượng thanh Hỗ Tam Nương, bên trái là Mẫu đại trùng Cố Đại Tẩu, bên phải là Mẫu dạ xoa Tôn Nhị Nương, ba tướng thống lĩnh năm nghìn quân mã vừa đuổi gấp tới thì gặp cánh quân giặc bên phải do Liễu Nguyên và Phan Trung chỉ huy chặn lại. Quân của bọn Vương Anh cũng bị cánh quân giặc bên trái do Lý Hùng, Tất Tiên chỉ huy chặn đánh. Các tướng đôi bên đánh nhau hơn mười hiệp thì ở cánh quân phía nam là bọn Vương Anh, Tôn Tân, Trương Thanh quay ngựa dẫn quân chạy về phía đông. Ở cánh quân phía bắc, bọn Hỗ Tam Nương, Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương cũng quay ngựa cho quân chạy về phía đông. Vương Khánh thấy vậy nhếch mép cười nói:

- Thủ hạ của Tống Giang chỉ là bọn đàn ông đàn bà tầm thường thế mà không hiểu tại sao quân tướng của ta cứ thua mãi? Nói đoạn xua quân đuổi theo. Được chừng năm sáu dặm, bỗng nghe tiếng thanh la nổi vang, rồi cánh quân bộ của bọn bốn tướng Lý Quỳ, Phàn Thuỵ, Hạng Sung, Lý Cổn từ khu rừng bên trái đổ ra. Lại thêm toán quân bộ năm trăm người dưới quyền bốn tướng:

- Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm, Hành giả Võ Tòng, Một diện mục Tiêu Đĩnh, Xích. phát quỷ Lưu Đường, ai nấy tay lăm lăm đao thuẫn xông tới. Phó tiên phong giặc là Thượng Quan Nghĩa vội cho hai nghìn quân bộ chặn đánh. Bọn Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm đánh nhau chừng dăm hiệp rồi vờ thua chia hai tốp cắp vũ khí chạy vào rừng, quân giặc đuổi theo nhưng không kịp. Lý Trợ thấy vậy nói với Vương Khánh:

- Đại vương không nên cho quân đuổi theo, đấy là kế dụ địch của bọn chúng. Ta nên dàn trận nghênh địch là hơn.

Nói đoạn, Lý Trợ lên tướng đài điều khiển binh mã dàn trận. Thế trận bầy bố chưa xong, một tiếng pháo oanh thiên nổ vang sau núi, liền đó là đại quân người ngựa ào ạt xông ra chiếm giữa bãi núi và dàn ngay thế trận. Vương Khánh cho dừng n~a rồi đích thân lên tướng đài xem xét, chỉ thấy đội quân mã ở phía chính nam dùng cờ lệnh màu đỏ, tướng sĩ đều mặc giáp đỏ, đai tua đỏ, cưỡi n~a đỏ:

- Đi đầu là lá cờ dẫn quân màu đỏ lấp lánh. Sát lớp cờ đỏ dưới cờ dẫn quân, một viên đại tướng cưỡi ngựa xông ra, đó là Tích lịch hỏa Tần Minh, bên trái là Thánh thủy tướng quân Đan Đình Khuê, bên phải là Thần hỏa tướng quân Ngụy Định Quốc. Ba viên đại tướng nâng thương vác đao, cưỡi ngựa đỏ dừng trước trận.

Đội quân mã ở sườn núi phía đông dùng cờ lệnh màu xanh, tướng sĩ mặc giáp xanh, chiến bào xanh, đeo dải tua xanh, cưỡi n~a xanh:

- Lá cờ dẫn quân đi đầu sáng màu xanh lấp lánh. Sát lớp cờ xanh dưới cờ dẫn quân, một viên đại tướng phi n~a tới. Đó là Đại đao Quan Thắng. Bên trái là Xú quận mã Tuyên Tán, bên phải là Tỉnh mộc hãn Hách Tư Văn. Ba viên đại tướng nâng thương vác đao, cưỡi ngựa xanh dừng trước trận.

Đội quân mã ở sườn núi phía tây dùng cờ hiệu màu trắng, tướng sĩ mặc giáp trắng, chiến bào trắng, đeo dải tua trắng, cưỡi ngựa trắng:

- Lá cờ dẫn quân đi đầu sáng màu trắng lấp lánh. Sát lớp cờ trắng dưới cờ dẫn quân, một viên đại tướng phi ngựa tới. Đó là Báo tử đầu Lâm Xung. Bên trái là Trấn tam sơn Hoàng Tín, bên phải là Bệnh úy Trì Tôn Lập. Ba viên đại tướng nâng thương vác giáo, cưỡi ngựa trắng dừng trước trận.

Đội hậu quân dùng cờ hiệu màu đen, tướng sĩ mặc giáp đen, chiến bào đen, đeo giải tua đen, cưỡi ngựa đen:

- Lá cờ dẫn quân đi đầu màu đen lấp lánh. Sát lớp cờ đen dưới cờ dẫn quân, một viên đại tướng cưỡi ngựa phi tới. Đó là Song tiên tướng Hô Diên Chước. Bên trái là Bách thắng tướng Hàn Thao, bên phải là Thiên mục tướng Bành Kỷ. Ba viên đại tướng nâng thương, vác đao, cưỡi ngựa đen dừng trước trận.

Dưới vùng cờ rợp phía đông nam, một đội quân mã dùng cờ hiệu xanh, mặc áo giáp đỏ. Dưới lá cờ thêu dẫn quân, một viên đại tướng xông ra. Đó là Song thương tướng Đổng Bình, bên trái là Ma vân kim xí âu Bằng, bên phải là Hỏa nhãn toan nghê Đặng Phị Ba viên tướng cùng xách thương vác đao, cưỡi ngựa chiến dừng trước trận.

Dưới vùng cờ rợp phía tây nam, một đội quân mã dùng cờ hiệu đỏ, mặc giáp trắng, dưới lá cờ thêu dẫn quân, một viên đại tướng xông ra. Đó là Cấp tiên phong Sách Siêu. Bên trái là Cẩm mao hổ Yến Thuận, bên phải là Thiết dịch tiên Mã Lân. Ba viên đại tướng cùng nâng thương cắp giáo, cưỡi ngựa chiến dừng trước trận.

Dưới vùng cờ rợp phía đông bắc, một đội quân mã dùng cờ hiệu đen, mặc giáp xanh, dưới lá cờ thêu dẫn quân, một viên đại tướng xông ra. Đó là Cửu văn long Sử Tiến. Bên trái là Khiêu giản hổ Trần Đạt, bên phải là Bạch hoa xà Dương Xuân.

Ba viên đại tướng cùng nâng thương vác giáo, cưỡi ngựa chiến dừng trước trận.

Dưới vùng cờ rợp phía tây bắc, một đội quân mã dùng cờ hiệu trắng, mặc giáp đen, dưới lá cờ thêu một viên đại tướng xông ra:

- Đó là Thanh diện thú Dương Chí. Bên trái là Cẩm báo từ Dương Lâm, bên phải là Tiểu bá vương Chu Thông.

Ba viên đại tướng cùng nâng thương vác giáo, cưỡi ngựa chiến dừng trước trận.

Thế trận tám phương như xếp thùng sắt. Ở cửa trận, quân mã quân bộ đều xếp thành từng đội; tướng sĩ ai nấy cầm đao sắc búa to, kiếm lớn thương dài, cờ hiệu chỉnh tề, đội ngũ uy nghiêm. Phương trung ương nằm giữa tám trận là đội quân mã dùng cờ hiệu màu vàng ánh kim, gồm sáu mươi tư lá cờ lệnh cán dài. Cao hơn ở phía trên là cờ sáu mươi tư quẻ, cũng chia thành bốn lớp cửa cờ. Dưới cửa cờ phương nam là quân mã. Hai viên đại tướng đứng dưới cờ lệnh màu vàng, đi đầu là Mỹ nhiêm công Chu Đồng, tiếp sau là Sáp sĩ hổ Lôi Hoành, thảy đều dùng cờ hiệu màu vàng, cưỡi ngựa vàng, chiến bào vàng, mặc giáp đồng, đeo đai tua vàng. ở trận trung ương, giữ cửa phía đông là Kim. nhãn bưu Thi ân, giữ cửa phía tây là Bạc.li diện lang quân Trịnh Thiên Thọ, giữ cửa phía nam là Vân lý kim cương Tống Vạn, giữ cửa phía bắc là Bệnh đại trùng Tiết Vĩnh. Sau đội quân cờ vàng là các xe hỏa pháo, bên cạnh là pháo thủ súng oanh thiên lôi Lăng Chấn cùng với hơn hai chục pháo.thủ đứng vây quanh các cỗ pháo. Sau mỗi cỗ pháo là đội quân câu liêm, thòng lọng chuyên dùng bắt tướng. Sau đội quân câu liêm là quân mã dùng cờ hiệu nhiều màu. Xung quanh là hai mươi tám lá cờ Nhị thập bát tú. Giữa vùng cờ thêu ánh vàng lấp lánh là lá cờ súy màu vàng thiên nga bằng gấm thêu vòng ngọc châu, đuôi cờ đeo đạc vàng, đầu ngọn cắm lông trĩ. Tráng sĩ cầm cờ đội mũ đuôi cá cài trâm vàng, mặc giáp mềm xếp vảy kỳ lân, thân cao hơn trượng, lẫm liệt uy phong; đó là Hiểm đạo thần ục Bảo Tứ. Hai bên là hai tướng hộ kỳ cưỡi ngựa chiến và trang phục giống như Chánh kỳ thủy:

- Đó là Mao đầu tinh Khổng Minh và Độc hỏa tinh Khổng Lượng.

Trước sau cửa súy hai mươi bốn tên quân sĩ mặc giáp sắt, vác lang nha côn dàn thành hàng. Sau cờ súy là hai lá cờ lĩnh chiến bằng gấm thêu, hai bên dàn hai mươi bốn quân sĩ vác thiên phương họa kích hộ vệ hai viên kiêu tướng, bên trái là Tiểu ôn hầu Lã Phương, bên phải là Trại nhân quý Quách Thịnh. Hai viên kiệu tướng tay cầm họa kích dừng ngựa đứng hai bên. Phía trong hàng họa kích là đội quân sĩ vác đinh ba do hai viên bộ quân kiêu tướng Lưỡng đầu xà Giải Trân và Song vĩ yết Giải Bảo cầm đinh ba hoa sen chỉ huy quân sĩ bảo vệ trung quân. Cưỡi hai chiến mã yên cương gấm đứng sau, phía bên trái là Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng, bên phải là Thiết diện khổng mục Bùi Tuyên. Phía sau hai tướng ấy

là đội quân áo tía vác đao ma tra tua tủa như rừng, giữa là hai tướng chỉ huy quân đao phủ:

- Đằng trước là Thiết tí bác Sái Phúc, đằng sau là Nhất chi hoa Sái Khánh. Hai bên sườn là hai đội kim thương và ngân thương do hai viên đại tướng chỉ huỵ Chỉ huy đội kim thương là Kim thương thủ Từ Ninh, chỉ huy đội Ngân thương là Tiểu lý quảng Hoa Vinh. Tiếp sau là lính cẩm y xếp hàng đôi, mũ hoa áo gấm tầng tầng lớp lớp, cờ mao tiết việt phướn đỏ lọng vàng. Đi đầu là ba vị anh hùng:

- Bên phải là Nhập vân long Công Tôn Thắng, bên trái là Trí đa tinh Ngô Dụng, vị tướng cưỡi trên ngựa chiến dạ ngọc sư tử là Chinh tây bình khấu chánh tiên phong Sơn Đông Cập thời vũ HÔ bảo nghĩa Tống Công Minh nai nịt chặt chẽ, tay cẩm bảo kiếm Côn Ngô chỉ huy đội trung quân đích thân ra trận giám chiến. Trước ngựa Tống Giang, phía trái là Thần hành thái bảo Đái Tôn chuyên việc phi báo truyền lệnh điều binh khiển tướng; phía phải là Lãng tử Yến Thanh quen giúp việc cơ mật ở trung quân. Phía sau là một đội ba mươi lăm viên phó tướng cầm kích lớn, giáo dài đeo cung tên ngồi trên chiến mã phủ yên gấm. Tiếp sau là đội nhạc binh đeo tù và, khoác kèn trống. Hậu quân đặt hai đội du binh mai phục hai bên để hộ vệ các cánh trung quân:

- Đội bên trái do Thạch tướng quân Thạch Dũng và Cửu vĩ quy Đào Tông Vượng chỉ huy ba nghìn quân mã bộ. Đội bên phải do Một già lan Mục Hoẵng và Tiểu già lan Mục Xuân chỉ huy ba nghìn quân mã bộ. Thế trận thật chỉnh tề chặt chẽ. Đúng là:

- Quân sư đa lược súy khôi hoẵng, Sĩ dũng tì hưu mã khóa long.

Chỉ huy yếu kiến bình tây tích, Suất sá tư thành đãng khấu công.

Quân sư mưu lược tướng anh hùng Sĩ tốt hùm beo ngựa vượt rồng.

Dưới trên những muôn bình Tây tặc Quát thét đua tài lập chiến công.

Lúc ấy Vương Khánh cùng Lý Trợ lên tướng đài dựng giữa trận xem xét kỹ tình hình binh mã của Tống Giang. Chỉ trong chốc lát quân Tống đã thay đổi vị trí, xếp thành thế trận Cửu cung bát quái, tướng sĩ dũng mãnh anh hùng, quân phong chỉnh tề, nghiêm túc, thương sắc đao bén. Vương Khánh thấy vậy sợ hãi lo lắng, buột miệng kêu lên:

- Bọn chúng lợi hại như thế hèn gì quân ta cứ thua mãi? Bỗng nghe bên quân Tống trống trận nổi vang như sấm.

Vương Khánh, Lý Trợ rời tướng đài lên ngựa, hai bên tả hữu có các tướng kim ngô hộ vệ, phía sau là đám đông quân cận vệ theo hầu. Vương Khánh truyền lệnh cho tướng tiền bộ tiên phong xuất trận. Quân Tống và quân ngụy triều Vương Khánh đối trận đúng vào ngày mộc theo cách tính của thuật số ngũ hành. Từ dưới cờ tướng phương chính nam, bên quân Tống, Báo tử đầu Lâm Xung phi ngựa ra trận. Quân hai bên hò reo vang trời. Lâm Xung dừng ngựa cầm ngang cây bát xà mâu quát to:

- Lũ phản nghịch điên cuồng ngu ngốc, quân thiên triều đã đến đây, không cởi giáp quy hàng còn đợi đến bao giờ? Lúc thịt nát xương tan hối thì đã muộn?

Bên quân Vương Khánh, Lý Trợ vốn là gã thầy bói hiểu được phép ngũ hành tương sinh tương khắc, liền truyền lệnh cho hai viên chỉ huy cánh quân bên trái là Liễu Nguyên và Phan Trung dẫn đội quân cờ đỏ xông trận. Hai tướng tuân lệnh phóng ngựa vẫy quân tiến lên. Trống trận cả hai bên khua dồn, quân sĩ hò reo không ngớt. Lâm Xung chặn đánh Liễu Nguyên, bốn cánh tay cùng vung khí giới, tám vó ngựa chồm tung. Hai tướng đằng đằng sát khí quần thảo trong đám bụi mù, bên qua bên lại, vòng phải vòng trái, đấu đến hơn năm mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại. Phan Trung thấy Liễu Nguyên là viên tướng dũng mãnh mà cũng khó thắng nổi, bèn vung đao thúc ngựa đến trợ chiến. Lâm Xung một mình địch lại hai tướng. Bất ngờ Lâm Xung quát vang một tiếng, uy phong phấn khích, vọt tới đưa ngang ngọn mâu đâm Liễu Nguyên lăn nhào xuống ngựa. Phó tướng của Lâm Xung là Hoàng Tín, Tôn Lập cũng phi ngựa tiến đến. Hoàng Tín tuốt thanh tang môn kiếm nhằm Phan Trung chém xuống.

Chỉ thấy một tia máu phọt lên, chiếc đầu đội mũ đâu mâu lăn lông lốc.

Thấy Phan Trung lăn ngựa, quân sĩ hoảng sợ bỏ chạy tán loạn, chân trận(l) bên quân Vương Khánh bắt đầu nao núng.

Thủ hạ của Phan Trung vội phi báo vào trung quân. Vương Khánh nghe tín bị mất hai tướng, vội truyền lệnh cho lui quân. Bỗng nghe bên quân Tống một tiếng pháo lệnh nổ vang, rồi quân mã ào ào chuyển động:

- Cờ trắng dẫn quân đen, cờ đen dẫn quân xanh, cờ xanh dẫn quân đỏ, biến thành thế trận trường xà, các đội quân chuyển quanh xoay vòng cuộn thắt lại. Vương.Khánh, Lý Trợ vội sai tướng điều quân chặn đánh các phía, nhưng quân Tống vững chắc như bức thành đồng, quân Vương Khánh không sao phá nổi vòng vây. Đó là trận đại chiến của quan quân Tống Giang với tặc quân Vương Khánh.

Sau lúc hỗn chiến, quân giặc đại bại quân Tống Giang thắng lớn, Vương Khánh truyền lệnh lui quân về đại nội ở thành Nam Phong tìm cách đối phó. Bỗng nghe tiếng súng nổ từ phía hậu quân rồi thám mã đến báo:

- Thưa đại vương, phía sau cũng có quân Tống Giang đánh đến.

Viên đại tướng anh hùng cầm ngang cây điểm cương thương, cưỡi ngựa dẫn đầu đội quân ấy chính là Phó tiên phong Hà Bắc Ngọc Kỳ lân Lư Tuấn Nghĩa. Vị hảo hán cầm phác đao đi bên trái là Bệnh Quan Sách Dương Hùng, người cầm phác đao đi bên phải là Phanh mệnh tam lang Thạch Tú. Đội quân 1 Nguyên văn là "trận cước", chỉ hàng quân đầu tiên trong thế trận dàn hàng ngang.

Này gồm một vạn tinh binh, tinh thần phấn khích, ào ạt xông tới chém giết. Dương Hùng chém rơi đầu Đoàn Ngũ, Thạch Tú đâm chết Khêu Tường, quân sĩ ùa theo đuổi đánh, quân giặc thua to tan chạy. Đang lúc Vương Khánh hoảng hốt lo sợ, lại nghe một tiếng súng nổ vang. Phía bên trái là tám vị đầu lĩnh dũng mãnh:

- Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lý Quỳ, Tiết Vĩnh, Hạng Sung, Lý Cổn, Phàn Thuỵ, vung thiền trượng, giới đao, búa lớn, phác đao, tang môn kiếm, phi đao, tiêu thương, khiên thuẫn dẫn một nghìn quân bộ xông đến chém giết quân của bọn Lý Hùng, Tất Tiên như băm rau bổ dưa. Phía bên phải là bốn đôi vợ chồng anh hùng:

- Trương Thanh, Vương Anh, Tôn Tân, Trương Thanh, Quỳnh Anh, Hỗ Tam Nương, Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương dẫn một nghìn quân kỵ múa hoa lê thương, tiêu cương thương, phương thiên họa kích, nhật nguyệt song kiếm, cương thương, đoản đao, xông đến đánh tan cánh quân bên trái của Vương Khánh, khí thế như xô cành khô, đạp gỗ mục, quân giặc bị cắt đứt thành bốn năm mảng, tan tác tìm đường tháo chạy. Lư Tuấn Nghĩa, Dương Hùng, Thạch Tú đánh thẳng vào trung quân. Phương Hàn vừa chống cự liền bị Lư Tuấn Nghĩa đâm chết. Bọn Lư Tuấn Nghĩa tả xung hữu đột đánh tan đội vũ dực trung quân, rồi thúc ngựa đuổi gấp vào bắt Vương Khánh. Vừa lúc ấy Kim kiếm tiên sinh Lý Trợ phóng ngựa đến chặn đường. Tên Lý Trợ vốn có kiếm thuật, từ xa vung kiếm vù vù loang loáng như chớp tiến đến. Đang lúc Lư Tuấn Nghĩa lúng túng chưa kịp đối phó thì đội trung quân của Tống Giang vừa đánh tới. Nhập vân long Công Tôn Thắng thấy Lý Trợ dùng kiếm thuật đánh Lư Tuấn Nghĩa, vội nhấm thần chú rồi quát:

- "Mau?". Thanh kiếm của Lý Trợ liền rời khỏi tay hắn rơi xuống đất. Lư Tuấn Nghĩa phóng ngựa tới gần, vươn tay túm đai lưng Lý Trợ giật mạnh, kéo sang ngựa mình, rồi vứt xuống giao cho quân sĩ trói gô lại. Lư Tuấn Nghĩa lại nâng thương thúc ngựa tiến lên phía trước bắt sống vương Khánh, dũng mãnh như phim eắt bắt én, như hổ dữ vồ dê non. Quân giặc quẳng chiêng bỏ trống, vứt đao thương, hoảng sợ kêu la tìm đường chạy trốn. Quân Vương Khánh hơn mười vạn bị chém giết đến quá nửa, thây chết đầy đồng, máu chảy đỏ sông, số đầu hàng hơn ba vạn. Những tên sống sót phần nhiều đều bị thương thập tử nhất sinh, nằm gục la liệt, lại bị đại quân người ngựa băng đến xéo nát như bùn. thương vong không đếm xuể. Hai mãnh tướng Lưu Dĩ Kính và Thượng Quan Nghĩa bị Tiêu Đĩnh chém ngựa, ngã nhào rồi bị giết. Lý Huỳnh bị Quỳnh Anh ném ngã và đâm chết.

Tất Tiên đang tìm đường trốn thì Hoạt thiểm bà Vương Định Lục đột ngột xông đến lia một phác đao hất xuống ngựa, lại thêm một nhát vào giữa ngựa, kết liễu đời hắn. Các tên ngụy thượng thư, khu mật, điện súy, kim ngô tướng quân đều không kịp trốn, chỉ một mình Vương Khánh chạy thoát, không biết trốn đằng nào. Quân Tống đại thắng.

Tống Giang eho khua chiêng thu quân về thành Nam Phong, giao cho Trương Thanh, Quỳnh Anh dẫn năm nghìn quân mã đi trước dò đường. Lại sai Thần hành thái bảo Đái Tôn đi nghe ngóng tình hình bọn Tôn An đánh úp thành Nam Phong.

Đái Tôn tuân lệnh, trổ phép thần hành vượt cả Trương Thanh, Quỳnh Anh, chẳng bao lâu đã từ thành Nam Phong trở về báo tin:

- Tôn An vâng lệnh Tống tiên phong chõđóng giả làm quân Vương Khánh đi vào thành, bị giặc phát giác. Bọn chúng đào hố sập ở phía trong cửa thành rồi mở cửa phía đông đưa người ngựa đi ra. Bẩy phó tướng của Tôn An là bọn Mai Ngọc, Kim Xước, Tất Tiệp, Phan Tấn, Dương Phương, Phùng Thăng, Hồ Mại vội đưa năm trăm quân sĩ vào thành, cả người lẫn ngựa bị lăn hết xuống hố. Quân giặc mai phục hai bên nhất tề vùng dậy dùng giáo dài, kích nhọn đâm xuống. Hơn năm trăm quân sĩ của bọn Mai Ngọc đều chết hết. Tôn An đi sau thừa thế tiến vào thành đánh giết quân giặc, một mặt sai quân sĩ lấp hố. Một mình Tôn An dẫn quân đánh vào, quân giặc chống cự không nổi. Tôn An liền hô quân ào lên chiếm cửa thành phía đông. Sau đó quân giặc từ bốn phía kéo đến, người ngựa của bọn Tôn An hiện bị bao vây trong thành. Tiếu đệ nghe được tin này, vội về phi báo. Dọc đường gặp vợ chồng Trương tướng quân, hai người biết chuyện đang eho quân ruỏl gấp đến cứu Tôn An".

Tống Giang nghe xong liền đốc thúc quân sĩ tiến đánh Nam Phong. Bấy giờ Trương Thanh, Quỳnh Anh đã đem quân vào cửa đông. Tôn An được giao giữ eừa, còn Trương Thanh, Quỳnh Anh tự mình đốc quân giao chiến với giặc. Tống Giang cho đại quân người ngựa theo lối cửa đông tiến vào chiếm thành, đánh tan quân giặc, dựng cờ hiệu quân Tống trên khắp bốn mặt thành. Bọn Phạm Toàn và nhiều ngụy quân văn võ khác đều bị giết sạch. Nghe tin quân Tống vào chiếm thành, chính phi của Vương Khánh là Đoàn Tam Nương vội nai nịt lên ngựa dẫn hơn năm trăm quân hầu ai nấy đều mang khí giới, rời cung điện đi về phía sau nội uyển ra cửa tây, định chạy về châu Vân An. Vừa lúc Quỳnh Anh dẫn quân vào đến nội uyển, Đoàn Tam Nương múa bảo đao, thúc ngựa liều chết xông vào đánh Quỳnh Anh. Quỳnh Anh vung tay ném đá trúng giữa trán Đoàn Tam Nương máu chảy đầm đìa lăn xuống ngựa, quân sĩ ùa tới bắt sống, lính hầu thì bị giết không còn một tên. Quỳnh Anh dẫn quân vào nội cung. Cáe cung tần mỹ nữ của Vương Khánh nghe tin quân Tống chiếm thành, kẻ treo cổ, đập đầu, người nhảy xuống giếng tự sát đến quá nửa. Quỳnh Anh cho quân sĩ trói bắt sốeòn lại đem nộp trước doanh. Tống tiên phong cả mừng, sai giam bọn Đoàn thị, chờ bắt được Vương Khánh sẽ cùng giải về kinh. Một mặt sai quân chia đi bốn hướng tìm bắt Vương Khánh.

Lại nói Vương Khánh dẫn vài trăm quân thiết kỵ vừa đánh vừa chạy vượt vòng vây về phía đông thành Nam Phong. Thấy quân Tống đã lọt vào đánh phá thành, Vương Khánh khiếp sợ hồn xiêu khánh lại. Vừa lúc ấy đại binh của Tống Giang từ phía sau ập tới, Vương Khánh ehỉ còn biết nhằm hướng bắc thúc ngựa chạy trốn. Vương Khánh ngoái nhìn hai bên

tả hữu thấy chỉ còn mấy trăm người, ngoài ra vô số quân tướng ngày thường được sủng ái, nay thấy tình thế nguy ngập đều đã cao chạy xa.baỵ Bọn Vương Khánh lthằm phía châu Vân An mà chạy. Dọc đường Vương Khánh nói với viên hầu cận:

- Quả nhân còn giữ được các thành Vân An, Đông Xuyên, An Đức, há chẳng phải là "Giang Đông tuy nhỏ cũng đủ xưng vương" đó sao? Có điều đáng giận là bọn quan viên đại thần thường ngày được quả nhân cho hưởng bổng cao lộc hậu, nay có sự biến, lũ khăn ấy đã theo nhau bỏ trốn. Đợi khi hưng binh đánh lui quân Ương, ta sẽ bắt hết đem về băm vằm làm mắm.

Bọn Vương Khánh không kịp cho ngựa nghỉ chân, chạy miết đến lúc trời sáng. Từ xa nhìn thấy thành Vân An, Vương Khánh ngồi trên ngựa vui mừng nói:

- Tướng sĩ của ta đóng giữ thành này rất nghiêm mật. Xem ra cờ quạt khí giới trên thành vẫn chỉnh tề, nghiêm túc.

Nói đoạn Vương Khánh vẫy quân mã phi gấp vào thành.

Trong số quân hầu có người biết chữ, bỗng nói to:

- Thưa đại vương, nguy rồi! Trên mặt thành chỉ thấy toàn cờ hiệu quân Tống?

Vương Khánh nghe nói liền ngước nhìn, quả nhiên thấy lá cờ đại dựng trên cửa thành phía đông có thêu dòng chữ vàng lớn "Ngự tây Tống tiên phong mao hạ thủy quân chánh tướng Hỗn giang...", tiếp sau còn mấy chữ nữa bị gió lay che khuất không đọc được. Vương Khánh kinh sợ rụng rời, đứng chết lặng hồi lâu, nghĩ bụng:

- "Đúng là quân Tống từ trên trời rơi xuống". Bấy giờ trong thủ hạ của Vương Khánh có một viên hầu cận vốn là người khá hiểu biết, liền nói:

- Thưa đại vương, mọi việc không nên chậm trễ. Đại vương mau thay ngự bào, chạy gấp về Đông Xuyên, nếu để dân trong vùng nhìn thấy sẽ sinh biến loạn.

Vương Khánh đáp:

- Khanh nói rất phải? Rồi tự tay tháo bỏ khăn xung thiên, ngự bào thêu hình nhật nguyệt đai vàng khảm ngọc châu, hia thêu kim tuyến,

thay bằng khăn chít, áo ngắn, giày mềm. Bọn hầu cận đi theo cũng lần lượt cởi thay quần áo. Cả bọn cắm đầu chạy theo đường tắt chạy qua thành Vân An về châu Đông Xuyên. Dọc đường cả bọn đói khát, người ngựa đều mỏi mệt rã rời. Dân chúng bị giặc giết hại, lại nghe đại binh của triều đình đến đánh, nên ở những nơi đường sá giao thông quan yếu mọi người đã dời hết đi nơi khác. Khắp nơi vắng tanh vắng ngắt, không một bóng người, không một tiếng gà, ngay cả nước cũng không có uống, nói gì đến rượu thịt? Bấy giờ bọn thủ hạ đi theo Vương Khánh, kẻ mượn cớ này, người tìm kế khác bỏ trốn đến sáu bẩy chục.

Vương Khánh dẫn hơn ba chục tên quân kỵ chạy miết đến chiều tối mới đến huyện Khai Châu thuộc châu Văn An. Đến đây thì bị con sông chặn đường. Sông này bắt nguồn từ đầm Vạn Khoảnh ở Đạt Châu, nước sông trong vắt, nên có tên là Thanh Giang. Vương Khánh nói:

- Tìm đâu ra thuyền mà qua sông bây giờ?

Tên quân hầu đứng sau chỉ tay nói:

- Thưa đại vương, có mấy chiếc thuyền câu ở chỗ bến lau vắng vẻ đằng kia. Vương Khánh nhìn theo rồi cùng bọn quân hầu đi ra bờ sông. Bấy giờ đã là tháng đầu đông, trời mới se lạnh. Trên sông, vài chục chiếc thuyền con đang buông câu thả lưới, có vài chiếc lững lờ giữa dòng, mấy người trên thuyền đang hoa tay múa chân cười nói uống rượu vui vẻ. Vương Khánh thở dài nói:

- Bọn chài lưới kia hôm nay làm gì mà vui thế nhỉ? Chúng vốn là thần dân của ta, chẳng biết ta đang khốn khổ lại còn vui vẻ thế Tên quân hầu gọi to:

- Mấy ông chài kia, đem thuyền vào cho sang sông, bọn ta sẽ hậu tạ?

Hai ông chài nghe tiếng vội bỏ rượu, lướt mái chèo ràn rát đưa thuyền vào bờ. Ông chài đứng đầu mũi thuyền cầm sào, những thuyền áp bờ đưa mắt nhìn Vương Khánh từ đầu đến chân rồi nói:

- Hay lắm, đang còn rượu thịt đây. Mời xuống? Mời xuống!

Tên quân hầu dìu Vương Khánh xuống ngựa. Vương Khánh ngước mắt thấy ông chài thân hình cao lớn, mày rậm mắt to, da mặt đỏ au, râu ngạnh trê đen nhánh, giọng nói sang sảng như chuông đồng. Người ấy một tay cầm sào, một tay đỡ Vương Khánh xuống thuyền, rồi chống sào dún mạnh, chiếc thuyền con liền rời khỏi bờ đến hơn một trượng. Bọn quân hầu của Vương Khánh đứng trên bờ nháo nhác đồng thanh gọi to:

- Quay thuyền lại đã? Bọn chúng tôi cũng cần qua sông!

ông chài trừng mắt quát:

- Xuống đây! Đi đâu mà vội? Nói đoạn buông sào, bất ngờ thụp nghe áo rồi du mạnh Vương Khánh ngã xuống sàn thuyền. Vương Khánh đang cố giãy giụa vùng dậy thì người cầm chèo vội bỏ tay chèo nhảy tới giúp sức ghì trói Vương Khánh. Những người đang phơi lưới trên eáe thuyền gần đó thấy Vương Khánh bị bắt vội nhẩy lên bờ chặn đường bắt giặc. Bọn quân hầu của Vương Khánh hơn ba mươi tên đều bị trói cổ.

Nguyên ông chài kia không ai xa lạ mà chính là Hỗn long giang Lý Tuấn, người cầm chèo là Xuất động giao Đồng Uỵ Những người đánh cá, phơi lưới cũng phần nhiều là các đầu lĩnh thủy quân cả?

Trước đó, Lý Tuấn vâng lệnh Tống tiên phong đã đem chiến thuyền đến đánh một trận lớn với thủy quân của Vương Khánh ở eo sông Cù Đường, giết chủ súy thủy quân là đô đốc Tưởng Sĩ Văn và Nhân Thế Sùng, bắt sống phó tướng Hồ Tuấn, quân giặc đại bại. Lý Tuấn thấy Hồ Tuấn tưởng mạo khác thường bèn tha chết. Hồ Tuấn eảm kính, bầy mưu cho Lý Tuấn lừa giặc mở cửa sông thành Vân An rồi đưa thuyền vào phiếm thành. Tướng trấn thủ của giăm là bọn Thi Tuấn đều bị giết. Hỗn long giang Lý Tuấn đã tính trước:

- Quân giặc giao chiến với đại binh, nếu

tan vỡ tất phải tìm đường nhạy về sào huyệt, vì vậy đã sai Trương Hoành Trương Thuận ở lại đóng giữ thành, tự mình cùng bọn Đồng Uy, Đồng Mãnh dẫn các đầu lính thủy quân đóng giả làm người đánh cá chèo thuyền trên sông để thám thính. Lại sai ba anh em họ Nguyễn đóng giả làm người Dán cá đến gò Diệm Dự, sông Mân và bến cá để nghe ngóng tin tức Vừa nãy, Lý Tuấn trông thấy từ xa có một người cưỡi ngựa đi đầu, theo sau eo nhiều người hộ vệ, đoán ngay là một tên đầu mục nào đó của giặc, nhưng không biết đích xác là ai. Tra hỏi bọn tùy tùng biết khánh là Vương Khánh, Lý Tuấn vỗ tay reo mừng, trói gô Vương Khánh áp giải về thành Vân An. Một mặt sai người báo cho anh em họ Nguyễn và anh em họ Trương ở lại giữ thành Vân An, còn tự mình cùng hàng tướng Hồ Tuấn tiếp tục giải bọn Vương Khánh đến quân doanh của Tống tiên phong. Dọc đường nghe tin Tống Giang đã hạ thành Nam Phong, bọn Lý Tuấn bèn đi thẳng vào thành, giải Vương Khánh đến súy phủ. Lúe ấy Tống Giang nghe tin báo đã bắt được Vương Khánh thì vui mừng khôn xiết. Lý Tuấn vào trong trướng yết kiến Tống tiên phong. Tống Giang khen:

- Công này của hiền đệ quả là không nhỏ!

Rồi lại hỏi tên hàng tướng Hồ Tuấn và bảo bọn Hồ Tuấn kể cho nghe kế lừa giặc để lấy thành Vân An như thế nào. Tống Giang xuống lệnh vỗ về khen thưởng tướng sĩ, rồi cùng các tướng bàn kế tiến đánh hai thành Đông Xuyên và án Đức. Hàng tướng Hồ Tuấn thưa:

- Xin tiên phong chớ lo nghĩ nhiều, Hồ Tuấn tôi có một kế lấy hai thành đó dễ như trở bàn taỵ Tống Giang cả mừng, đứng dậy đến bên Hồ Tuấn hỏi mưu kế. Hồ Tuấn cúi người nói nhỏ với Tống Giang mấy câu. Chỉ biết rằng:

Một tên không mất, thành liền ha.

Ba quân yên giữ, giặc đầu hàng.

Chưa biết Hồ Tuấn nói mưu kế gì, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 110 - Yến Thanh Qua Rừng Thu Bắn Nhạn

Đang nói chuyện Tống Giang hỏi các tướng có cách nào để đánh lấy hai thành Đông Xuyên, An Đức. Hồ Tuấn nói:

- Tướng trấn thủ thành Đông Xuyên Hồ Hiển chính là em ruột Hồ Tuấn tôi. Tiểu tướng đội ơn Lý tướng quân tha mạng, nguyện xin vào thành gọi Hồ Hiển đến quy làng. Còn một thành An Đức trơ trọi, không cần đánh, quân giặc ở đó tất cũng phải dâng nộp.

Tống Giang cả mừng sai Lý Tuấn cùng đi. Một mặt Tống Giang điều khiển các tướng chia quân đi gọi hàng những huyện chưa thu phục được. Một mặt sai Đái Tôn đưa biểu văn về triều đình xin thánh chỉ định đoạt, đưa thư trình ĩ ~n an phủ và Túc thái úy biết. Tống Giang sai tướng sĩ vào cung điện của Vương Khánh thu đoạt báu vật vàng bạc, ngọc ngà gấm vóc, rồi cho phóng hỏa đốt hết các nơi cung cấm, gác phượng lầu rồng, hiên son mải trả cùng là các thứ đồ dùng quần áo của ngụy triều. Lại sai người đến thành Vân An truyền lệnh cho bọn Trương Hoành cũng thu đoạt các báu vật rồi thiêu hủy hành cung của Vương Khánh.

Nói tiếp, chuyện Đái Tôn đem văn thư của Tống Giang về Kinh Nam, vào trình Trần an phủ. Trần an phủ viết ngay biểu văn nhờ Đái Tôn đelỉ về kinh.

Đái Tỗl về Đông Kinh đem thư và lễ vật trình lên Túc thái úy Túc thái úy dâng biểu vào hoàng cung. Huy Tông hoàng đế cả mừng, truyền chỉ đến Hoài Tây, sai áp giải phản tặc Vương Khánh về kinh chờ lệnh trảm quyết. Còn bọn ngụy phi, ngụy quan và những tên giặc khác đã bắt được thì đem ra chợ chém đầu thị chúng. Dân chúng Hoài Tây từng bị Vương Khánh bạo ngược thì cho phép trích một ít quân lương để chia cấp cho các hộ dân nghèo. Các tướng sĩ trận vong, các hàng tướng có công, đều được ấm phong trọng hậu. Các châu huyện ở Hoài Tây hiện còn thiếu quan viên chánh phó, đều cấp tốc sai bộ lại tìm người để kịp đi nhậm chức. Ngụy quân ở các châu phần nhiều là những người bị giặc bức theo, sau đã cải tà quy chính, đều giao cho Trần Quán tùy liệu phân biệt, cho được tự ý xử lý. Các chánh phó tướng có công đánh dẹp thì đợi ngày về kinh đô sẽ xét công thăng thưởng. Sắc mệnh của hoàng đế chưa kịp truyền xuống thì Đái Tôn đã về trước báo tin.

Bấy giờ Trần an phủ đã từ Kinh Nam dời súy phủ đến thành Nam Phong. Hồ Tuấn thuyết phục được Hồ Hiển đầu hàng, đem sổ sách, hộ khẩu của quân dân Đông Xuyên cùng sổ ghi lương tiền các khoản đến nộp trước dinh súy phủ xin chịu tội. Quân giặc ở châu An Đức biết tình thế nguy khốn cũng xin quy hàng. Dân chúng ở ba châu Vân An, Đông Xuyên, An Đức kẻ làm nông không phải rời ruộng vườn, kẻ đi buôn không phải bỏ hàng quán, đều là do công của Lý Tuấn. Tất cả tám mươi sáu châu huyện thuộc tám quận bị Vương Khánh chiếm đoạt đều đã thu lại được hết.

Sau khi Đái Tôn về đến Nam Phong hơn mười ngày, sứ giả mang chiếu thư từ Đông Kinh cũng vừa tới. Trần an phủ và các tướng tiếp thánh chỉ nhất nhất vâng chiếu thi hành. Ngày hôm sau sứ giả lên đường về kinh. Trần an phủ ra lệnh cho quân đao phủ vào nhà giam bắt Đoàn thị, Lý Trợ và bọn tùy tùng đem ra chợ Nam Phong chém đầu thị chúng. Đoàn Tam Nương từ bé không nghe lời cha mẹ dạy dỗ, về sau tự mình kén chồng, gây những tội ác tầy trời, đến nay không những đầu lìa khỏi cổ mà còn làm liên lụy bao nhiêu thân quyến, cha là Đoàn thái công thì trước đó đã chết ở trại Phòng Sơn.

Lại nói đến Trần an phủ và Tống tiên phong ghi công đầu, công thứ cho bọn Lý Tuấn, Hồ Tuấn, Quỳnh Anh, Tôn An, sai treo bảng chiêu an ở các châu huyện, vỗ yên trăm họ. Dân chúng ở tám mươi sáu châu huyện được trở lại làm lương dân như lại thấy mặt trời. Những kẻ đã theo làm giặc nhưng không giết hại dân chúng thì được trả lại sản nghiệp để làm ăn sinh sống. Tướng trấn thủ Tây Kinh là Kiều Đạo Thanh và Mã linh giao lại nhiệm sở cho quan mới cũng đã về đến Nam Phong. Quân chánh phó các châu huyện mới được bổ nhiệm cũng đã lục tục về đến lỵ sở. BọTL Lý Tuấn, anh em họ Trương, anh em họ Nguyễn, anh em họ Đồng đã giao lại việc châu cho quan mới, cũng đã về yết kiến Tống tiên phong. Trần an phủ và các quan tùy tòng cùng anh em Tống Giang một trăm linh tám đầu lĩnh và các hàng tướng Hà Bắc mở tiệc lớn trong thành Nam Phong chúc nền thái bình, mừng công các quan văn võ, khao thưởng ba quân. Tống Giang giao cho Công Tôn Thắng và Kiều Đạo Thanh chủ trì lập đàn chay bẩy ngày bẩy đêm cầu siêu cho các tướng sĩ trận vong và các oan hồn ở Hoài Tây bị bức tử. Xong việc, bỗng có tin báo Tôn An bi bệnh cấp phát đã chết ở doanh. Tống Giang buồn thương vô hạn, bèn sai khâm liệm, làm lễ mai táng bên chân núi Long Môn.

Kiều Đạo Thanh xót thương đau đớn nói với Tống Giang:

- Tôn An với bần đạo là người cùng một quê, đối xử với bần đạo rất tốt, vì báo thù cha mà phạm tội rồi rơi vào tay giặc tiêu, đội ơn tiên phong thu dụng, mong ngày sau làm nên sự nghiệp, không may giữa đường đứt gánh. Bần đạo đội ơn tiên phong thu dùng cũng là nhờ Tôn An chỉ đường khai sáng cho.

Nay Tôn An đã mất, bần đạo không còn bụng dạ nào mà theo việc quân nữa. Bần đạo vân khắc cốt ghi lòng ơn lớn của hai vị tiên phong nhưng chưa chút báo đền. Nay xin hai vị cho bần đạo trở về quê quán kéo dài chút hơi tàn.

Mã Linh biết Kiều Đạo Thanh xin về cũng đến vái tạ Tống Giang mà nói:

- Xin tiên phong cho phép Mã Linh tôi được cùng đi với Kiều pháp sư.

Tống Giang lấy làm buồn không muộn xa cách, nhưng vì hai người quyết ý xin đi, khuyên nài mãi mà không được, đành phải ưng thuận, sai bày tiệc rượu tiễn biệt hai người.

Công Tôn Thắng ngồi bên im lặng không nói. Kiều Đạo Thanh, Mã Linh vái chào từ tạ Tống Giang và Công Tôn Thắng, sau đó đến chào Trần an phủ, rồi nhẹ nhàng ra đi. Về sau Kiều Đạo Thanh và Mã Linh cùng đến chỗ La chân nhân theo thầy học đạo, trọn đời sống tu hành.

Trần an phủ vỗ về chẩn cấp quân dân các châu quận Hoài Tây đã xong. Nguyên miền này ở về phía tây sông Hoài, người đời Tống vẫn gọi Uyển Châu, Nam Phong v.v... là đất Hoài Tây. Trần an phủ xuống lệnh cho tiên phong và các đầu mục sửa soạn đem quân về kinh. Quân lệnh truyền xuống, Tống Giang một mặt cho quân mã của đội trung quân đi trước hộ tống Trần an phủ, Hầu tham mưu, La vũ dụ lên đường. Một mặt truyền cho các đầu lĩnh thủy quân đưa chiến thuyền đi trước về kinh. Tống Giang sai Tiêu Nhượng soạn bài ký, Kim Đại Kiên khắc đá làm bia ghi chiến công dựng ở chân núi Long Môn phía đông thành Nam Phong, đến nay bia ấy vẫn còn. Hàng tướng Hồ Tuấn, Hồ Hiển bày tiệc rượu tiễn biệt Tống Giang. Sau đó Tống Giang về triều tâu lên thiên tử biết việc chiêu hàng và hai tướng Hồ Tuấn. Hồ Hiển đã cải tà quy thính. Thiên tử đặc ân phong cho Hồ Tuấn, Hồ Hiển chức đoàn luyện thủy quân ở Đông Xuyên, nhưng đó là chuyện vê sau.

Tống Giang chia quân mã làm năm đoàn, trước sau lần lượt lên đường. Các quân sĩ, ngoài một số ở lại đóng giữ các châu huyện cũng có một số ít xin về quê quán, số hiện còn tất cả hơn mười vạn người lục tục rời Nam Phong lên đường về Đông Kinh. Quân lính giữ nghiêm kỷ luật, những nơi đi qua không tơ hào xâm phạm của dân. Trăm họ bưng bàn bày hương hoa đèn nến đặt bên vệ đường để chào mừng đại quân.

Sau mấy ngày đi đường, đại quân đi qua bến đò có tên là bến Thu Lâm. Bến đò này nằm ở phía nam núi Thu Lâm ở huyện Hương thuộc Uyển Châu. Trên núi nhiều nơi suối đẹp đá lạ.


Tống Giang ngồi trên ngựa ngắm nhìn phong cảnh từ xa. Ngước nhìn bầu trời, Tống Giang thấy giữa tầng không một đàn chim nhạn con cao con thấp, không bay thành hàng, có ý như kinh sợ Tống Giang thấy vậy lấy làm ngờ lạ, lại nghe trong đoàn quân phía trước có tiếng cười reo khen giỏi, bèn sai người thúc ngựa lên hỏi nguyên do. Hóa ra là Lãng tử Yến Thanh luyện tập bắn cung, nhằm đàn nhạn trên không, bắn phát nào trúng phát ấy, chỉ một lát Yến Thanh hắn rơi hơn chục con, các tướng ngạc nhiên khen ngợi mãi. Tống Giang bèn cho gọi Yến Thanh. Một lúc sau Yến Thanh khoác cung tên phi ngựa đến sau lưng đeo mấy con nhạn vừa bắn được. Yến Thanh xuống ngựa, tháo yên, đến chào Tống Giang. Tống Công Minh hỏi:

- Ban nãy hiền đệ bắn nhạn phải không?

Yến Thanh đáp:

- Tiểu đệ bắn cung còn kém, ngẫu nhiên thấy đàn nhạn bay qua bèn bắn chơi, không ngờ phát nào cũng trúng.

Tống Giang nói:

- Tập bắn cung cho giỏi là công việc của bọn ta. Vừa rồi hiền đệ bắn thê là khá lắm. Nhưng nghĩ rằng người ta thường ví chim hồng, chim nhạn như khách, vì tránh rét mới phải rời núi Thái sơn qua quan ải bay vào địa phận nước ta để đến miền Giang Nam ấm áp tìm thức ăn, đến mùa xuân loài chim ấy lại bay về đất cũ. Loại hồng, nhạn ấy đáng gọi là loài chim nhân nghĩa, hợp đoàn từ mười đến ba bốn chục con, kính nhường lẫn nhau, những con được tôn quý bay đầu, những con khác tiếp sau giữ đúng thứ tự mà bay, không con nào vượt lấn bầy bạn, đêm tối dừng lại nghỉ cũng có hiệu báo cho cả đàn cùng biết. Lại cũng loài chim ấy, nếu con trống mà mất con mái, hoặc con mái mà mất con trống thì trọn đời không sánh đôi cùng con khác. Loài chim như thế đáng gọi là có đủ ngũ thường:
- Nhân, nghĩa, lễ, trì, tín. Thấy đồng loại bị giết, cả đàn đều tỏ ý đau buồn, những con mất bạn bay lẻ không con nào tranh đến, ấy là nhân. Một con trống hoặc con mái chết, con còn sống không sánh đôi với con khác, ấy là nghĩa. Theo tôn ti thứ bậc mà bay, không lấn vượt kẻ sau người trước, ấy là lễ. Biết báo tin cho nhau khi bị diều hâu đại bàng săn đuổi, ngậm cỏ tranh bay qua ải đem về làm tổ ở phương nam, ấy là trí. Mùa thu bay về phương nam, xuân đến lại bay về phương bắc, không tùy tiện thay đổi, ấy là tín.

Loài chim có đủ ngũ thường như thế, sao hiền đệ nỡ lòng giết hại chúng? Một đoàn hồng nhạn kêu gọi nhau mà bay trên trời, chẳng khác gì bọn anh em ta sống chết có nhau. Hiền đệ bắn rơi mấy con, cũng ví như trong anh em ta chẳng may bị mất mấy người, những người còn lại đau xót đến thế nào?

Hiền đệ nên nghe lời ta, từ nay không giết hại loài chim có lễ nghĩa ấy nữa.

Yến Thanh hối lỗi đứng lặng không đáp. Tống Giang trong lòng xúc động ngồi trên lưng ngựa khẩu chiếm một bài thơ:

Sơn lĩnh kỳ khu, thủy diễn mang,

Hoành không nhạn trận lưỡng tam hàng.

Hốt nhiên thất khước song phi bạn,

Nguyệt lãnh phong thanh dã đoạn tràng.

Đèo núi gồ ghề, nuộc mênh mang,.

phải xử trị theo quân pháp, làm hư hỏng thanh danh của cả bọn ta. Như thế triều đình không cho phép anh em ta vào thành hóa ra lại là điều may vậy. Bọn các ngươi nếu tị hiềm vì bị bó buộc mà có dị tâm thì trước hết hãy chém đầu Tống Giang này, rồi sau đó muốn làm gì tùy ý:

- Nếu trái lại thì Tống Giang cũng không còn mặt mũi nào mà sống ở đời, tất phải tự mình treo cổ chết cho xong. Mọi việc bây giờ tùy vào các ngươi định đoạt cả.

Các anh em đầu lĩnh nghe nói đều rơi lệ, cùng nhau thề không trái ý huynh trưởng, rồi ra về. Có thơ làm chứng như sau:

- Thùy tướng Tây Chu hoài hảo âm,.

Công Minh trung nghĩa bất di tâm.

Đương thời hữu sát Tần trưởng cước,.

Thân tại Nam triều, tâm tại Kim (câm).

Ai ngóng Tây Chu mong chủ mới, Công Minh trung nghĩa chẳng thay lòng.

Vung dao hỏi tội Tần trưởng lại.

Chung một triều vua lòng chẳng đồng.

Từ đó, Tống Giang và các tướng khi không có việc gì không vào thành. Bấy giờ sắp đến rằm tháng giêng, tục lệ Ở Đông Kinh hàng năm đều mở hội treo đèn kết hoa mừng đêm nguyên tiêu Các ngả đường đèn đuốc sáng trưng, các nơi công sở dinh thự phần nhiều có đốt pháo bông. Ở trong trại quân của Tống Giang, Lãng Tử Yến Thanh bàn với Nhạc Hòa:

- Ngày mai ở Đông Kinh có hội đèn hoa chúc năm mới được mùa, thiên tử cùng dân chúng đều vui chơi. Bọn ta thay quần áo khác lén vào thành chơi một chuyến xem sao?

Vừa lúc ấy có ai nói to:

- Các ngươi đi xem hội đèn phải cho ta cùng đi với!

Yến Thình nhìn lên mới biết là Hắc toàn phong Lý Quỳ.

Lý Qùy nói:

- Các ngươi đừng có giấu ta, các ngươi rủ nhau đi xem hội đèn ta đã nghe rõ cả!

Yến Thanh đáp:

- Đại ca muốn cùng đi cũng được, nhưng chỉ sợ đại ca nóng nẩy lại gây ra sự rắc rối, trúng phải mưu bọn ác độc ở sảnh viện.

Lý Qùy đáp:

- Lần này ta không gây sự nữa, các ngươi bảo sao ta nghe vậy!

Yến Thanh nói:

- Vậy thì ngày mai đại ca thay khăn áo, ăn mặc như người thường, rồi theo anh em tiểu đệ vào thành.

Lý Qùy cả mừng, ngày hôm sau cải trang như người khách hàng đi chơi, chờ bọn Yến Thanh đến rủ. Không ngờ Nhạc Hòa vì sợ Lý Qùy gây rắc rối, nên đã cùng Thời Thiên lén đi trước rồi. Yến Thanh không làm sao được đành phải cùng đi với Lý Quỳ. Hai người không dám qua trạm Trần Kiều, mà đi đường vòng rồi vào lối cửa Phong Khâu. Lý Qùy và Yến Thanh dắt tay nhau đi về phía nhà rạp dựng bên đường. Đến trước cửa, nghe tiếng phèng la trong rạp vọng ra, Lý Qùy muốn vào xem, Yến Thanh đành phải theo. Lý Qùy chen lấn đám đông mà vào. Lúc ấy trên nhà rạp diễn trò kể tích Tam quốc chí, đang đến đoạn Quan Vân Trường mổ xương chữa bệnh. Bấy giờ Vân Trường bị trúng tên ở cánh tay trái, thuốc độc ngấm vào xương, thầy thuốc Hoa Đà bảo:

- "Muốn giải được chất độc ngày phải dựng một cây cột đồng, bên trên gắn một chiếc vòng sắt, đút cánh tay vào trói lại, rồi lấy dao mổ rạch thịt cắt ba phần ống xương để loại bỏ chỗ bị nhiễm độc. Sau đó khâu lại, ngoài bôi thuốc điều trị, trong uống thuốc bồi trợ, khoảng nửa tháng thì lành. Việc chữa trị vì vậy rất khó khăn". Quan công cả cười nói:

- "Đại trượng phu chết cũng không sợ huống hồ chỉ một cánh tay? Ta không cần phải cột đồng, vòng sắt gì hết, cứ giơ tay mà mổ, ngại gì?". Nói đoạn liền gọi đem bàn cờ ra cùng người khác ngồi đánh,.đồng thời giơ tay trái cho Hoa Đà tiên sinh mổ xương khử độc, sắc mặt vẫn thản nhiên, ung dung cười nói như thường. Người thuyết thoại kể đến đây thì Lý Qùy chen vào nói to:

- Thế mới đáng là bậc mày râu nam tử!

Mọi người giật mình quay lại nhìn Lý Quỳ. Yến Thanh phải vội vàng nói chặn:

- Này Lý đại ca, sao mà quê mùa thế? Vào rạp nghe tích, xem hát lại kêu toáng lên làm cho mọi người khiếp sợ.

Lý Qùy nói:

- Kể đến chỗ này thì phải cho người ta khen hay chức Yến Thanh vội kéo Lý Qùy đi ra. Hai người rời khỏi khu nhà rạp, qua ngã tư thấy một gã to lớn đang cầm gạch đá ném vào một nhà dân gần đó. Người trong nhà kêu ầm lên:

- Thời buổi thanh bình, giữa ban ngày ban mặt thế này, đã quệt tiền hai lần không trả, lại còn giở mặt ném đá phá nhà người ta!

Hắc toàn phong giữa đường thấy chuyện bất bằng, nổi nóng muốn xông vào đánh. Yến Thanh cố sức ôm chặt Lý Qùy nhưng Lý Qùy vẫn trừng mắt như muốn đánh nhau. Gã to lớn nói với Lý Quỳ:

- Ta vay tiền của nhà kia thì can hệ gì đến ngươi? Hôm nay ta sắp theo Trương chiêu thảo xuống Giang Nam đánh giặc, ngươi đừng có sinh sự với ta? Xuống đánh chác ở đó thì cầm bằng cái chết, ngươi muốn đánh thì ta đánh với ngươi, có chết cũng được, ở đâu cũng đến cho vào quan tài là xong!

Lý Qùy hỏi:

- Ngươi bảo cái gì xuống Giang Nam? Lão gia chẳng nghe ai nói quân tướng nào đi đánh dưới đó cả.

Yến Thanh ra sức can ngăn để hai người khỏi cãi nhau, rồi kéo tay Lý Qùy ra khỏi ngõ hẻm. Sang bên kia đường, thấy một quán trà, hai người vào kéo ghế gọi trà uống. Ngồi đối diện lcả một người có tuổi, bọn Yến Thanh róc nước mời, rồi bàn chuyện phiếm. Yến Thanh nói:

- Thưa lão trượng, vừa rồi bọn tiểu nhân gặp một gã to lớn ở đầu ngõ kia, hắn ta bảo sắp theo Trương chiêu thảo xuống Giang Nam đánh giặc. Lão trượng có biết giặc nào không?

Cụ già đáp:

- Thì ra hai vị chưa biết chuyện, nay có bọn giặc cỏ Phương Lạp ở Giang Nam đã nổi lên chiếm đoạt tám châu hai mươi lăm huyện, từ Mục Châu đến Nhuận Châu, tự xưng là một nước, sớm muộn sẽ đánh đến Dương Châu. Vì thế triều đình sai Trương chiêu thảo và Lưu đô đốc đi đánh đẹp.

Yến Thanh và Lý Qùy nghe xong câu chuyện của cụ già vội trả tiền rồi rời quán trà trở về. Vừa đến doanh trại hai người gặp ngay quân sư Ngô Dụng, liền báo cho Ngô Dụng biết tin ấy. Ngô Dụng cả mừng báo ngay việc này với Tống Giang. Tống Giang nói:

- Binh mã của anh em các tướng bọn ta lâu ngày đóng trại ở đây cũng có điều bất tiện, chi bằng ta nên nói với Túc thái úy để thái úy tâu lên thiên tử xin cho bọn ta được đem quân đi đánh dẹp.

Nói đoạn Tống Giang truyền họp các tướng để bàn bạc, ai nấy đều vui lòng thuận nguyện. Ngày hôm sau Tống Giang đổi trang phục đưa theo Yến Thanh vào thành:

- Hai người đến thẳng phủ đệ Túc thái úy mới xuống ngựa. Lúc ấy Túc thái úy đang ở phủ, Tống Giang nhờ quân hầu báo tin. Túc thái úy vội cho mời Tống Giang vào. Tống Giang vào trước sảnh đường lạy chào xong, Túc thái úy hỏi:

- Tướng quân có việc gì mà phải đổi quần áo để vào đây?

Tống Giang đáp:

- Gần đây vì các quan ở sảnh viện có treo bảng truyền cho các quan quân chuyên đi đánh trận, nếu không có lệnh gọi thì không được tự ý vào thành. Hôm nay tiểu tướng đi riêng vào đây là có công chuyện muốn trình lên ân tướng. Anh em Tống Giang tôi nghe nói Phương Lạp nổi loạn ở Giang Nam, chiếm cứ các châu quận, thay đổi niên hiệu, hiện đã xâm phạm Nhuận Châu, sớm muộn sẽ vượt sông lớn, đánh Dương Châu. Người ngựa của bọn Tống Giang tôi lâu nay nhàn rỗi đóng yên một nơi, thật cũng không tiện lắm. Vì thế anh em Tống Giang tôi tình nguyện xin đem quân mã đi đánh dẹp để tận trung báo quốc, cúi mong ân tướng tâu lên, xin thiên tử chuẩn cho lời thỉnh cầu ấy.

Túc thái úy nghe xong cả mừng nói:

- Lời của tướng quân chính hợp ý hạ quan. Hạ quan xin hết sức tâu với thiên tử. Tướng quân cứ về nghỉ ngơi, buổi chầu sáng mai hạ quan tâu lên, thiên tử tất sẽ vui lòng trọng dụng.

Tống Giang cáo từ Túc thái úy, lên ngựa về doanh trại báo cho các đầu lĩnh biết.

Lại nói Túc thái úy sáng hôm sau vào triều, gặp lúc thiên tử bàn việc với các quan văn võ ở điện Phi Hương, đang nói đến việc Phương Lạp nổi loạn, gây thiệt hại cho dân chúng, chiếm giữ tám châu hai mươi lăm huyện của triều đình, tiếm xưng niên hiệu, tự xưng bá xưng tôn, chẳng bao lâu nữa sẽ xâm phạm đến Dương Châu. Thiên tử nói:

- Trẫm đã truyền chỉ sai Trương chiêu thảo và Lưu đô đốc đi đánh, nhưng chưa thấy hai viên ấy cho quân xuất phát.

Túc thái úy bước ra khỏi hàng tâu:

- Theo ngu ý của thần thì bọn giặc cỏ ấy nay đã thành mối lo lớn cho triều đình. Xin bệ hạ một mặt sai Trương tổng binh và Lưu đô đốc đem quân đi đánh, nhưng cũng nên sai thêm quân mã của Tống tiên phong vừa mới dẹp tan giặc Vương Khánh ở Hoài Tây trở về nữa. Hai đội quân mã ấy làm tiền bộ tiên phong, chắc hẳn sẽ lập công lớn, tiễu trừ được giặc Phương Lạp ở Giang Nam.

Thiên tử nghe tâu cả mừng, hến sai trung sứ truyền cho quan sảnh viện vào nhận thánh chỉ. Trương chiêu thảo và Lưu đô đốc lúc ấy có mặt tại triều cũng tâu xin thiên tử điều quân mã của Tống Giang làm quân tiên phong tiền bộ. Quan sảnh viện vào trước điện vâng nhận thánh chỉ rồi lập tức sai người đi tuyên triệu Tống tiên phong và Lư tiên phong đến điện Phú Hương triều kiến thiên từ. Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa đến dưới điện lạy chào xong, thiên tử ban sắc phong cho Tống Giang làm Bình nam đô tổng quản chánh tiên phong, phong Lư Tuấn Nghĩa làm Binh mã phó tổng quản Bình nam phó tiên phong. Mỗi người đều được ban đai vàng, cẩm bạc mỗi thứ một chiếc, áo giáp vàng một bộ, tuấn mã một con, lụa màu hai mươi lăm tấm. Các chánh phó tướng khác đều được ban bạc, lụa, đợi khi xét công chiếu theo danh sách mà ban thưởng, và gia phong quan tước. Các viên đầu mục trong ba quân cũng được thưởng bạc, tự đến phủ nội vụ để lĩnh.

Các việc ban thưởng đã xong, lại định rõ ngày tháng đưa quân lên đường.

Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa vâng mệnh vào tạ Ơn thiên tử Thiên tử nói:

- Trong số các khanh có người là Kim Đại Kiên giỏi nghề chạm ngọc khắc đá, lại có Hoàng Phủ Đoan có tài xem tướng ngựa, trẫm muốn giữ hai người đó ở kinh đô để tiện sai phái.

Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa cúi đầu lĩnh mệnh, lại sụp lạy tạ Ơn rồi rời khỏi đại nội lên ngựa trở về.

Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa vui vẻ sánh ngựa ra khỏi thành.

Trên đường đi, khi qua phố chợ thấy một người tay ôm một vật hai bên đeo hai thanh gỗ đã mọt, ở giữa có lỗ xâu dây, người ấy cầm sợi dây mà kéo, cái vật bưng trong tay liền phát ra tiếng kêu. Tống Giang không biết đó là vật gì bèn hỏi:

- Cái này gọi là vật gì?

Người kia đáp:

- Đây là cái đàn của người Hổ, dùng tay kéo dây tự nhiên sẽ có tiếng. Tống Giang cảm hứng làm một bài th.ơ:

- Nhất thanh đê liễu nhất thanh cao,.

Liêu lượng thanh âm thấu bích tiêu.

Không hữu hứa đa hùng khí lực,.

Vô nhân đề khế mạn đồ lao.

Tiếng trầm vừa dứt lại lên cao.

Rít gió âm thanh nhịp dạt dào.

Rỗng ruột tiếng vang nghe náo nức,.

Không người nâng kéo nghĩ buồn sao.

Tống Giang ngồi trên ngựa nói với Lư Tuấn Nghĩa:

- Cái đàn Hổ ấy khá giống ta và hiền đệ:

- Trong lòng hàm chứa bản lĩnh cao cường nhưng không có ai nâng kéo thì âm thanh không vang lên được?

Lư Tuấn Nghĩa hỏi:

- Sao huynh trưởng lại nghĩ như vậy? Xét về học thức thì anh em ta cũng không thua kém các bậc danh tướng xưa nay.

Nếu bản thân mình tài năng võ nghệ thấp kém thì dẫu có người nâng kéo cũng không dùng được việc gì.

Tống Giang nói:

- Hiền đệ nghĩ nhầm rồi, anh em ta nếu không có Túc thái úy hết lòng đề cử thì làm sao được thiên tử trọng dụng? Uống nước phải nhớ nguồn!

Lư Tuấn Nghĩa biết lỡ lời nên lặng im không đáp.

Hai người về đến doanh trại, vào trong trướng cùng ngồi, sau đó cho gọi các tướng đến hội. Trừ nữ tướng Quỳnh Anh đang lúc có mang mà bị Ốm nặng phải nghỉ ở kinh và vợ chồng Diệp Thanh ở lại thuốc phang hầu hạ, còn các tướng khác đều sửa sang áo giáp, yên ngựa sẵn sàng đem quân đi dẹp giặc Phương Lạp. Sau đó Quỳnh Anh khỏi ốm, đủ ngày trọn tháng sinh được một đứa con trai mặt vuông tai lớn, đặt tên là Trương Tiết. Về sau nghe tin chồng bị tướng giặc là Lệ Thiên Nhuận giết ở ải Độc Tùng, Quỳnh Anh đau xót chết ngất, rồi cùng với vợ chồng Diệp Thanh tìm đến ải Độc Tùng đưa linh cữu Trương Thanh về an táng ở quê nhà tại phủ Chương Đức.

Sau đó Diệp Thanh cũng bị Ốm chết, Quỳnh Anh cùng với bà già họ An nuôi dưỡng Trương Tiết. Đến khi khôn lớn Trương Tiết theo Ngô Giới đánh bại quân Kim ở cao nguyên Hòa thượng, khiến vua Kim là Ngột Truật phải quắp râu chạy trốn. Trương Tiết dược phong quan tước, trở về quê phụng dưỡng mẹ già và nghỉ ngơi cho đến hết đời còn thân mẫu thì được ban tặng tôn hiệu Trinh tiết. Đấy là gương hiếu nghĩa, trinh tiết của Quỳnh Anh và những người trong gia quyến.

Khỏi kể rườm rà; sau ngày nhận chiếu của thiên tử sai đi đánh Phương Lạp, Tống Giang đến kho nội phủ lĩnh các khoản đồ thưởng bạc lụa chia phát cho các tướng, các đầu mục. Lại cho Kim Đại Kiên và Hoàng Phủ Đoan vào hoàng cung chờ thiên tử sai phái. Sau đó Tống Giang lệnh cho các đầu lĩnh thủy quân sửa sang sào chèo, buồm lái, rồi truyền lệnh cho đoàn chiến thuyền xuất phát trước. Một mặt truyền lệnh cho các đầu lĩnh quân mã chỉnh đốn đai giáp, giáo gươm, cung nỏ, sẵn sàng xuất phát tiếp theo, thủy lục cùng tiến.

Quân chưa lên đường thì có sai nhân của thái sư sai đến gọi lấy Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng để giữ việc sao chép giấy tờ Ngày hôm sau lại có Vương đô úy đến hỏi Tống Giang muốn xin Thiết khiếu tử Nhạc Hòa về phủ để trông nom công việc ca xướng. Tống Giang đành phải chia tay với Tiêu Nhượng và Nhạc Hòa. Cũng kể từ đây các anh em đầu linh thiếu mất năm người, Tống Giang cảm thấy lòng buồn vô hạn. Mọi việc đã xong xuôi, Tống Giang bàn bạc với Lư Tuấn Nghĩa, rồi truyền lệnh cho ba quân chuẩn bị lên đường.

Lại nói ở đất Giang Nam, Phương Lạp làm phản đã lâu, tích tiểu thành đại, đã dựng được cơ nghiệp khá lớn. Phưỡvìg Lạp nguyên chỉ là một gã tiều phu ở vùng núi Hấp Châu, một hôm đi đại tiện bên bờ khe thấy dòng nước phản chiếu bóng mình đội mũ bình thiên, mặc áo long cổn, nhân đó thường nói với dân làng là nhà mình có phúc phát vương. Khi Chu Miễn đưa dân phu đến đất Ngô Trun~l) đào đá hoa cương, dân chúng oán giận, muốn dấy loạn. Phương Lạp nhân cơ hội ấy nổi lên làm phản, rồi xây dựng lâu dài, cung điện, nội uyển ở trong 1 Ngô Trung:

- Chỉ Ngô huyện (và phụ cận) tỉnh Giang Tô.

vùng động Bang Nguyên thuộc huyện Thanh Khê. Ở Mục Châu, Hấp Châu cũng đều có hành cung của Phương Lạp Triều đình của Phương Lạp cũng có đủ tướng văn tướng võ, các đại thần đứng đầu đài sảnh. Mục Châu thì đương thời là châu Kiến Đức, nhà Tống đổi là Nguyên Châu. Hấp Châu đương thời là châu Vụ Nguyên, nhà Tống đổi là Huy Châu. Phương Lạp từ vùng này chiếm đoạt đất đai đến tận Nhuận Châu, đương thời gọi là châu Trấn Giang. Tính tất cả thuộc đất của Phương Lạp là tám châu hai mươi lăm huyện. Tám châu ấy là:

- Hấp Châu, Mục Châu, Hàng Châu, Tô Châu, Thường Châu, Hồ Châu, Tuyên Châu, Nhuận Châu. Bấy giờ các nơi như Gia Hưng, Tùng Giang, Sùng Đức, Hải Ninh đều là huyện lỵ Phương Lạp tự xưng là quốc vương, độc chiếm một miền không phải nhỏ. Phương IJạP tự cho mình có số ứng với sách trời, thường vẫn nói rằng trong sách có câu:

- "Thập thiên gia nhất điểm, đông tận thủy xưng tôn. Tung hoành quá Chiết Thủy, hiển tích tại Ngô Hưng". Thập thiên (mười nghìn) là vạn, trên đầu thêm dấu chấm là chữ Phương. Đông tận tức là Lạp (tháng mười hai). Còn "xưng tôn" có nghĩa là làm vua. Cả mấy câu ấy chính ứng vào hai chữ Phương Lạp Phương Lạp chiếm giữ tám quận miền Giang Nam, ngăn cách với miền bắc bởi con hào thiên nhiên là sông Trường Giang, lại có phần rộng lớn hơn miền Hoài Tây nữa.

IJạI nói Tống Giang tuyển chọn tướng tá điều khiển quân sĩ đã xong, bèn vào thành cáo từ các quan sảnh viện. Túc thái úy và Triệu khu mật đích thân đến doanh trại khao thưởng ba quân, tiễn đưa anh em Tống Giang đem quân lên đường.

Bấy giờ các đầu lĩnh thủy quân đã đưa đoàn chiến thuyền từ sông Tứ vào sông Hoài, dọc theo bờ đê ở quận Hoài An tiến đến Dương Châu. Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa từ tạ Túc thái úy và Triệu khu mật, dẫn quân mã chia làm năm đoàn, theo đường bộ tiến về Dương Châu. Chuyện trên đường đi không có gì đáng nói. Chẳng bao lâu tiền quân đã đến hạ trại ở huyện Hoài An. Các quan bản châu ra ngoài thành đón tiếp, mời Tống tiên phong vào thành, mở tiệc lớn đón mừng. Quan châu doãn nói:

- Giặc Phương Lạp thế lực rất mạnh không thể xem thường.

Trước mặt thành đây là sông cái Dương Tử Giang, là nơi hiểm yếu bậc nhất ở miền Giang Nam. Bên kia sông là Nhuận Châu, hiện do thủ hạ của Phương Lạp là bọn khu mật Lữ sư Nang và mười hai viên thống chế đóng giữ vùng ven sông. Nếu không lấy được Nhuận Châu thì khó lòng đương đầu nổi bọn chúng.

Tống Giang nghe xong liền mời quân sư Ngô Dụng đến bàn định kế sách để dùng chiến thuyền vượt sông sang bờ nam.

Ngô Dụng nói:

- Bờ nam sông Dương Tử có hai hòn núi gọi là núi Kim và núi Tiêu chắn sát sau chân thành Nhuận Châu. Ta nên cho vài anh em sang đó thăm dò tin tức, rồi mới biết nên dùng loại thuyền nào để vượt sông.

Tống Giang cho gọi các đầu lĩnh thủy quân đến hỏi:

- Trong các anh em, ai có thể giúp đi dò xét tin tức bên bờ nam?

Cùng lúc đứng dưới trướng có bốn viên chiến tướng đều tự nguyện xin đi. Không biết bốn người này đi dò đường như thế nào. Chỉ biết rằng:

- Thây chất như núi cao Bắc Cổ,.

Máu chảy ngầu sông đỏ Trường Giang.

Đúng là:

Trận Rồng đen đại binh vượt bên,.

Bờ Nhạn trắng chiến hạm đầu quân.

Chưa biết quân mã của Tống Giang tiến đánh Phương Lạp ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 111 - Trương Thuận Ban Đêm Nấp Chùa Núi

Đang nói chuyện sông lớn Dương Tử dài chín nghìn ba trăm dặm, nguồn xa tiếp với ba sông Hán Dương, Tầm Dương, và Dương Tử. Từ Tứ Xuyên chảy ra biển cả, dòng sông thông tiếp với ngàn vạn sông lạch nhỏ, vì thế người ta gọi là Vạn Lý trường giang. Ở địa phận tiếp giáp hai miền Ngô, Sở, giữa dòng sông nhô lên hai ngọn núi, đó là Kim Sơn và Tiêu Sơn.

Trên núi Kim Sơn có ngôi chùa dựng trùm trên chóp mái đá, vì thế gọi là núi Tự Lý sơn (núi trong chùa). Trên núi Tiêu Sơn lại có một ngôi chùa dựng lọt vào lõm núi, ở ngoài không nhìn thấy, vì thế gọi là Sơn Lý tự (chùa trong núi). Hai núi này nhô lên giữa sông, đúng vào vùng đầu đất Ngô cuối đất Sở, một bên là đất Dương Châu thuộc Hoài Đông, một bên là Nhuận Châu thuộc Chiết Tây, đương thời gọi là quận Trấn Giang, chính là vùng đất này.

Lại nói chuyện thành Nhuận Châu do thủ hạ Phương Lạp là Đông sảnh khu mật sứ Lữ Sư Nang làm trấn thủ đóng giữ vùng ven sông. Lữ Sư Nang nguyên là phú hộ Ở Hấp Châu, vì dâng lương tiền nhiều cho Phương Lạp nên được phong làm Đông sảnh khu mật sứ. Thuở nhỏ Sư Nang cũng có học binh thư sách lược, quen dùng một cây trượng bát xà mâu, võ nghệ hơn người. Dưới quyền của Sư Nang có mười hai viên thống chế thường gọi là "Mười hai thần Giang Nam", cùng nhau hợp sức đóng giữ vùng bờ sông Dương Tử phía Nhuận Châu. "Mười hai ông thần" đó là:

- Kình thiên thần Thẩm Cương đóng giữ Phúc Châu, Du dịch thần Phan Văn Đắc. đóng giữ Hấp Châu, Độn giáp thần ứng Minh, đóng giữ Mục Châu, Lục đinh thần Từ Thống, đóng giữ Minh Châu, Tích lịch thần Trương Cận Nhân, đóng giữ Việt Châu, Cựu linh thần Thẩm trạch, đóng giữ Hàng Châu, Thái Bạch thần Triệu Nghị, đóng giữ Hồ Châu, Thái Tuế thần Cao Khả Lập, đóng giữ Tuyên Châu, Điếu khách thần Phạm Trù, đóng giữ Thường Châu, Hoàng phiên thần Trác Vạn Lý, đóng giữ Nhuận Châu, Bảo vĩ thần Hòa Đồng, đóng giữ Giang Châu. Tang môn thần Thẩm Lâm, đóng giữ TÔ Châu.

Nói tiếp chuyện khu mật sứ Lữ Sư Nang thống lĩnh năm vạn quân Giang Nam đóng giữ vùng ven sông. Phía dưới đình Cam Lộ hơn ba nghìn chiến thuyền dàn hàng đậu san sát.

Phía bắc bờ sông là bến đò Qua Châu, bãi cát phẳng rộng mênh mông.

Bấy giờ binh mã chiến thuyền của Tống tiên phong đã đến đóng ở Hoài An, hẹn hội quân ở Dương Châu. Hôm ấy Tống tiên phong ngồi trong trướng cùng bàn việc với quân sư Ngô Dụng:

- Từ đây ra sông lớn chẳng còn bao xa, bờ sông phía Giang Nam quân giặc đóng giữ nghiêm mật, ta nên cho người đi trước thăm dò tin tức bên bờ nam.

Cùng lúc ấy, bốn viên chiến tướng bước vào trong trướng tự nguyện xin đi. Bốn tướng ấy là:

- Tiểu toàn phong Sài Tiến, Lãng lý bạch điều Trương Thuận, Phanh mệnh tam lang Thạch Tú, Hoạt Diêm la Nguyễn Tiểu Thất. Tống Giang nói:

- Bốn anh em chia làm hai đường:

- Sài Tiến cùng đi với Trương Thuận, Thạch Tú cùng đi với Nguyễn Tiểu Thất. Các hiền đệ có thể đến núi Kim và núi Tiêu, tùy cơ thăm dò tình hình sào huyệt giặc ở Nhuận Châu, rồi trở lại Dương Châu gặp ta.

Bốn người cáo từ Tống Giang, chia làm hai toán, giả cách ăn mặc làm người buôn, lên đường đi Dương Châu. Nghe tin triều đình sai đại quân đến đánh Phương Lạp, dân chúng hai bên đường cái phần nhiều đã đem gia quyến lánh đến các thôn xa. Bọn Trương Thuận bốn người chia tay nhau ở thành Dương Châu, mỗi người đem theo một ít lương khô. Thạch Tú và Nguyễn Tiểu Thất đi về phía núi Tiêu Sơn, đem theo hai người hầu. Sài Tiến và Trương Thuận cũng đem hai người hầu, ai nấy đều đem túi lương khô và dao tay nhọn; xách mã tấu, cùng rảo bước về phía bến đò Qua Châu.

Bấy giờ là tháng đầu xuân, tiết trời ấm áp, hoa nở khắp nơi. Bọn Sài Tiến đến bên bờ sông Dương Tử, từ trên cao nhìn xuống, sóng bạc mênh mông, dòng trôi cuồn cuộn, quả là cảnh sắc tráng lệ miền sông nước. Có thơ làm chứng như sau:

- Vạn lý yên ba vạn lý thiên, Hồng hà giao ánh hải đông biên.

Đả ngư chu tử hồn vô sự, Túy dũng thanh tồi tự tại miên.

Khói sóng trên sông vạn dặm trời Mây hồng rung bóng biển mù khơi.

Lưới chài thong thả thuyền về bên.

Say khoác chăn nằm giấc thảnh thơi.

Bọn Sài Tiến nhìn thấy phía dưới núi Bắc Cố một _áy cờ hai màu xanh trắng, một đoàn chiến thuyền dàn dọc theo bờ sông, còn bờ sông phía bắc thì không có cây cối. Sài Tiến nói:

- Xung quanh bến đò Qua Châu tuy có. nhà nhưng không có người ở, trên sông cũng không thấy thuyền bè, biết tìm ai mà dò hỏi?

Trương Thuận nói:

- Tạm vào một nhà nào nghỉ ngơi, rồi đệ sẽ bơi sang chân núi Kim Sơn nghe ngóng động tĩnh ra sao?

Sài Tiến nói:

- Đúng đấy!

Bốn người đến bên bờ sông, đẩy cửa bước vào một nếp nhà tranh cửa đóng im lìm. Trương Thuận đến đầu hè vạch liếp chui vào thì thấy một cụ bà đầu tóc bạc phơ từ dưới bếp đi lên.

Trương Thuận hỏi:

- Thưa lão mẫu, sao nhà ta không mở cửa ra?

Bà cụ đáp:

- Không giấu gì quý khách, nghe tin triều đình đem đại quân đi đánh Phương Lạp, chúng tôi ở đây là nơi đầu sóng ngọn gió, có mấy hộ nhà dân đều đem con cái lánh đi cả, chỉ còn mình già ở lại trông nhà thôi.

Trương Thuận nói:


- Các con cụ lánh đi đâu?

Cụ già đáp:

- Con trai của già đem vợ con vào trong thôn rồi.

Trương Thuận hỏi:

- Anh em tiểu nhân có bốn người muốn qua sông, không biết ở gần đây có thuyền không?

Bà cụ trả lời:

- Làm gì có thuyền? Gần đây Lữ khu mật nghe nói đại quân sắp đến nên đã bắt hết thuyền đưa về bên Nhuận Châu rồi.

Trương Thuận nói:

- Bọn chúng ta có lương ăn mang theo, chỉ muốn phiền lão mẫu cho nghỉ tạm vài ngày, khi đi xin gửi tiền trọ cho lão mẫu.

Bà cụ nói:

- Qúy khách nghỉ lại đây, chỉ ngại không có giường nằm.

Trương Thuận đáp:

- Không sao, anh em tiểu nhân tự lo lấy.

Bà cụ nói:

- Chỉ sợ đại quân đến đây nay mai thôi!

Trương Thuận nói:

- Khi ấy anh em tiểu nhân sẽ lánh đi nơi khác.

Bà cụ mở cửa cho Sài Tiến và hai người hầu vào nhà. Bốn người dựng mã tấu bên vách, đặt hành lý, rồi lấy lương khô, bánh nướng ra ăn. Sau đó Trương Thuận lại ra bờ sông nhìn sang chùa Kim Sơn, thầm nghĩ:

- "Tên Lữ Sư Nang đóng ở Nhuận Châu chắc hẳn thường ngày vẫn lên núi này. Đêm nay ta thử sang đó tất sẽ săn được tin tức". Nghĩ đoạn Trương Thuận quay vào bàn với Sài Tiến:

- Bọn ta đến đây, thuyền bè không có thì chẳng được tích sự gì. Chi bằng đêm nay đệ sẽ buộc quần áo và hai thỏi bạc lên đầu bơi sang chùa Kim Sơn, đem bạc đút lót hòa thượng trụ trì chùa ế.y để hỏi tin, rồi sẽ báo lại với Tống tiên phong.

Đại ca cứ ở đây chờ đệ.

Sài Tiến nói:

- Ta chờ ở đây, hiền đệ mau đi xong việc về sớm.

Đêm ấy sáng trăng, gió yên sóng lặng, trời nước một mầu.

Vừa sẩm tối, Trương Thuận mặc quần đùi lụa, gói ghém quần áo và hai thỏi bạc quấn lên đầu, lưng đeo dao nhọn rồi đi ra bãi Qua Châu, lội xuống sông, lao người bơi ra, nhẹ nhàng lướt nước chẳng khác gì người ta đi lại trên đất liền. Chẳng bao lâu Trương Thuận bơi đến chân núi Kim Sơn. Nhìn quanh thấy một chiếc thuyền con buộc dưới vách đá, Trương Thuận bò đến, tháo bọc vải quấn trên đầu trèo lên thuyền, than quần áo ướt Lúc ấy trống trong thành Nhuận Châu đã điểm canh ba. Trương Thuận nằm nép dưới thuyền đưa mắt quan sát.

Từ đầu dòng, có chiếc thuyền con đang bơi đến. Trương Thuận thầm nghĩ:

- "Chiếc thuyền này có vẻ khả nghi, chắc có quân gian tế Nghĩ đoạn bèn đẩy thuyền định chèo đi, không ngờ thuyền bị một sợi dây to buộc chặt, lại không có sào chèo.

Trương Thuận đành cởi quần áo rút dao nhọn nhẩy xuống nước, nhẹ nhàng bơi đến bên chiếc thuyền lạ đang lướt tới.

Hai người trên thuyền không ngờ có người lạ theo dõi, cứ nhằm phía bờ bắc chèo sang. Trương Thuận từ dưới nước ngoi lên, bám mạn thuyền, rồi dùng dao nhọn cắt dây cọc, mái chèo liền tuột ra. Hai người kia mất đà, ngã lộn xuống nước.

Trương Thuận nhanh nhẹn nhẩy lên thuyền. Vừa lúc ấy trong khoang thuyền hai người nữa chui ra. Trương Thuận vung dao chém ngay một tên, hất xuống nước, tên kia sợ quá ngã lăn ra sàn. Trương Thuận quát:

- Mi là ai? Từ đâu chèo thuyền tới đây? Nói thật thì ta tha chết.

Người kia đáp:

- Thưa hảo hán, tiểu nhân là đầy tớ của Trần Tướng Sĩ ở thôn Định Phố ngoài thành Dương Châu. Chủ nhân sai chúng tôi sang Nhuận Châu bái kiến Lữ khu mật để xin hiến lương.

Lữ khu mật đã chấp nhận, sai một viên ngu hầu cùng trở về với tiểu nhân. Họ đòi nộp năm vạn thạch gạo trắng và ba trăm chiếc thuyền.

Trương Thuận hỏi:

- Tên ngu hầu ấy họ tên gì, hiện ở đâu?

Tên đầy tớ đáp:

- Đó là tên Diệp Quý, vừa bị hảo hán chém lăn xuống nước.

Trương Thuận lại hỏi:

- Còn mi họ tên gì? Đi xin nộp lương từ khi nào?

Tên đầy tớ đáp:

- Tiểu nhân họ Ngô, tên Thành, qua bên đây từ hôm mùng bẩy tháng giêng. Lữ khu mật bảo tiểu nhân đến Tô Châu yết kiến Đệ tam đại vương Phương Mạo để nhận ba trăm chiếc cờ hiệu cùng với quan bằng phong cho Trần Tướng Sĩ làm phủ doãn Dương Châu, tước Trung minh đại phu, nhân tiện giúp chuyển về cho Lữ khu mật một nghìn chiếc áo dấu.

Trương Thuận lại hỏi:

- Chủ nhân của mi họ tên gì? Có bao nhiêu người ngựa?

Ngô Thành đáp:

- Chủ nhân tôi họ Trần tên Quan, biệt danh là Trần Tư

Sĩ có hơn một nghìn quân và hơn trăm con ngựa. Hai con trai, con trưởng là Trần ích, con thứ là Trần Thái.

Trương Thuận tra hỏi tỉ mỉ mọi chuyện rồi khua dao đâm hất Ngô Thành xuống nước, bước xuống đuôi thuyền, buộc lại mái chèo, rồi chèo thuyền về bãi Qua Châu. Sài Tiến nghe tiếng mái chèo khua trên sông, chạy ra xem thì đúng là Trương Thuận. Hai người gặp nhau, Trương Thuận kể lại mọi việc cho Sài Tiến nghe. Sài Tiến cả mừng, vội xuống thuyền lấy bó giấy tờ, ba trăm chiếc cờ hiệu bằng lụa đỏ và một nghìn chiếc áo dấu không đồng mầu sắc, tất cả xếp chặt trong hai gánh. Trương Thuận nói:

- Bây giờ đệ phải đi lấy quần áo đệ đang để ở dưới núi Kim Sơn.

Nói đoạn đẩy thuyền chèo sang núi Kim Sơn, lấy lại gói quần áo, tiền bạc rồi quay thuyền trở lại bãi Qua Châu. Bấy giờ trời đã sáng, nhưng trên sông mây mù vẫn dầy. Trương Thuận khoét thủng đáy thuyền, đẩy ra giữa sông lật chìm.

Xong việc, Trương Thuận quay lại lấy hai lạng bạc đem cho bà lão chủ nhà rồi bảo hai người hầu gánh đồ đạc trở về Dương Châu.

Bấy giờ quân mã của Tống Giang cũng đã đến đóng ở ngoài thành. Quan bản châu ra đón tiếp, mời Tống tiên phong vào nghỉ ở khách quán trong thành. Ngay ngày hôm ấy cho dọn yến tiệc khoản đãi Tống tiên phong, úy lạo quân sĩ.

Nói tiếp, Sài Tiến và Trương Thuận chờ tiệc tan rồi vào nhà khách yết kiến Tống Giang, kể lại tỉ mỉ việc cha con Trần Quan ngầm thông với Phương Lạp, sớm muộn sẽ dẫn quân giặc qua sông đánh Dương Châu. Trương Thuận nói:

- Trời đất xui khiến tiểu đệ bắt được tên gian tế trên sông, hẳn chuyến này huynh trưởng lập được công lớn.

Tống Giang nghe xong cả mừng sai mời quân sư Ngô Dụng vào bàn định kế sách. Ngô Dụng nói:

- Đã có cơ hội như thế này thì thành Nhuận Châu lấy ~i? như trở bàn tay. Xin chủ tướng trước hết cho bắt tên Trần Quan, các việc lớn tự khắc sẽ được xếp đặt.

Tống tiên phong liền cho Lãng tử Yến Thanh đóng giả làm tên Diệp ngu hầu, sai Giải Trân, Giải Bảo đóng giả làm hai tên quân của Phương Lạp. Giải Trân, Giải Bảo tuân lệnh quảy quang gánh đi theo Yến Thanh. Ra khỏi thành Dương Châu, hỏi đường đến thôn Định Phố, đi chừng hơn bốn chục dặm thì đến trang viện của Trần Tướng Sĩ. Thấy trước cổng có hai ba chục trang khách ăn mặc gọn gàng cùng một kiểu quần áo, Yến Thanh giả giọng người Triết Giang lên tiếng chào hỏi:

- Các trang khách cho hỏi Trần chủ nhân có ở nhà không?

Các trang khách hỏi lại:

- Qúy vị từ đâu đến?

Yến Thanh đáp:

- Chúng tôi từ bên Nhuận Châu sang đây, đi nhầm hướng hỏi thăm mất nửa ngày mới tới được đây.

Trang khách bèn dẫn Yến Thanh vào nhà, bảo hai người hầu đặt gánh nghỉ ngơi, rồi mời Yến Thanh ra sau hậu đình yết kiến Trần Tướng Sĩ.

Trông thấy chủ nhân, Yến Thanh hến sụp lạy nói:

- Diệp Qúy tôi xin kính chào đại nhân.

Trần Tướng Sĩ hỏi:

- Túc hạ từ đâu đến?

Yến Thanh vẫn nói bằng giọng Triết Giang:

- Xin đại nhân cho người hầu lui ra, rồi mới dám thưa.

Trần Tướng Sĩ nói:

- Không ngại gì, mấy tên người nhà đều là tâm phúc cả.

Yến Thanh nói:

- Tiểu nhân họ Diệp, tên Quý, là ngu hầu dưới trướng của Lữ khu mật. Ngày bẩy tháng giêng năm nay, tiếp được mật thư của Ngô Thành, Lữ khu mật cả mừng đặc cách sai Diệp Qúy tôi đưa Ngô Thành đến TÔ Châu yết kiến đệ tam đại vương để trình nhã ý của đại nhân. Đại vương sai người tâu lên, Đệ nhất đại vương đã ban quan bằng phong cho tướng công làm phủ doãn Dương Châu, hai quan trực ở các nói đợi khi gặp Lữ khu mật sẽ bàn chuyện phong tước. Hôm nay Lữ khu mật định cho Ngô Thành về báo tin, không ngờ Ngô Thành bất ngờ bị cảm mạo, hiện còn sốt li bì không dậy được. Lữ khu mật sợ lỡ việc lớn, đặc cách sai Diệp Qúy tôi chuyển đến tướng công quan bằng, văn thư của Lữ khu mật cùng là ấn quan phòng, thẻ bài, ba trăm chiếc cờ hiệu và một nghìn chiếc áo dấu cho quân sĩ, định ngày để tướng công đem thuyền bè lương thực sang Nhuận Châu giao nộp.

Yến Thanh nói đoạn lấy quan bằng và văn thư giao cho Trần Tướng Sĩ. Trần Quan xem xong cả mừng, vội sai bầy hương án quay về phía nam, đặt quan bằng lên vái lạy, cảm tạ Ơn lớn của đại vương Phương Lạp. Sau đó Trần Quan gọi hai con là Trần ích và Trần Thái ra chào Diệp ngu hầu. Yến Thanh gọi Giải Trân, Giải Bảo chuyển gánh quần áo, cờ hiệu vào hậu đình giao nộp. Song việc, Trần Tướng Sĩ mời Yến Thanh cùng ngồi. Yến Thanh nói:

- Diệp Qúy tôi chỉ là kẻ tiểu lại, đâu dám tự tiện cùng ngồi với tướng quân.

Trần Quan nói:

- Túc hạ là người của Lữ khu mật đến trao quan bằng cho tiểu nhân, Trần Quan tôi đâu dám khinh mạn. Xin mời túc hạ ngồi xuống cho.

Yến Thanh hai ba lần khiêm nhường từ chối, rồi giữ ý ngồi ra góc xa. Trần Quan gọi người hầu bưng rượu, tự tay róc mời Yến Thanh. Yến Thanh từ tạ nói:

- Tiểu nhân không quen uống rượu.

Khi Trần Quan đã cạn chén đôi ba tuần, bọn Trần ích, Trần Thái cũng ra chuốc rượu chúc mừng cha. Yến Thanh lựa dịp đưa mắt ra hiệu cho Giải Trân, Giải Bảo. Giải Bảo liền lấy gói thuốc mê giắt sẵn trong người lén bỏ vào bìn rượu. Yến Thanh đứng dậy nói:

- Diệp Qúy tôi không tiện mang rượu từ Nhuận~hâu sang nay cũng xin mượn gia chủ chén rượu này để~chúc mừng tướng công thăng quan tiến chức.

Nói đoạn róc một chén đầy bưng mời Trần Tướng Sĩ, lại róc luôn hai chén mời Trần ích và Trần Thái uống cạn. Cả mấy tên trang khách tâm phúc của Trần Quan có mặt lúc ấy, Yến Thanh cũng róc rượu mời mỗi người một chén. Yến Thanh khẽ huýt sáo, Giải Trân liền đi lấy mồi lửa rồi ra sân bắn pháo hiệu. Các đầu lĩnh đi theo hỗ trợ đã nấp chờ ở ngoài trang, nghe tiếng pháo hiệu nổ vang bèn ùa vào tiếp ứng. Yến Thanh đứng trên nhà chính thấy mọi người đã đến đủ bèn rút đoản đao bên người, cùng Giải Bảo lập tức ra tay, xông vào đám người hầu của Trần Tướng Sĩ mà chém giết. Từ ngoài cửa trang viện, mười vị hảo hán hò reo chạy vào. Đó là các đầu lĩnh:

- Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm, Hành giả Võ Tòng, Cửu văn long Sử Tiến, Bệnh Quan Sách Dương Hùng, Hắc toàn phong Lý Quỳ, Bát tí Na Tra Hạng Sung, Phi thiên đại thánh Lý Cổn, Tang môn thần Bao Húc, Cẩm báo tử Dương Lâm, Bệnh đại trùng Tiết Vĩnh. Một nhóm trang khách đứng canh bên ngoài không thể nào chống cự nổi. Từ trong trang viện, bọn Yến Thanh, Giải Trân, Giải Bảo xách thủ cấp cha con Trần Quan đi ra. Vừa lúc ấy lại thêm một đội quân mã tiến đến. Sáu viên tướng dẫn đầu là:

- Mỹ nhiêm công Chu Đồng, Cấp tiên phong Sách Siêu, Một vũ tiễn Trương Thanh, Hỗn Thế ma vương Phàn Thụy, Đã hổ tướng Lý Trung, Tiểu bá vương Chu Thông. Sáu tướng dẫn hơn một nghìn quân mã vây chặt trang viện, giết sạch lớn bé cả nhà Trần Tướng Sĩ.

Sau đó các đầu lĩnh bắt bọn trang khách dẫn ra xem xét ở bến sông, thấy ba bốn trăm chiếc thuyền bỏ neo sát bến đều đã chứa đầy gạo tốt. Các tướng cho kiểm số rồi sai người trở về phi báo với Tống tiên phong.

Tống Giang được tin các tướng đã giết Trần Quan, bèn cùng quân sư Ngô Dụng bàn kế tiến quân. Ngay sau đó, Tống tiên phong thu xếp hành lý, đến cáo từ Trường chiêu thảo, rồi đích thân dẫn đại quân người ngựa đến trang viện của Trần Quan. Tống tiên phong đến nơi, cắt cử các tướng đem quân đi, một mặt sai người đốc thúc đưa chiến thuyền đến để sẵn sàng vượt sông. Ngô Dụng nói:

- Xin chủ tướng cho chọn ba trăm thuyền nhẹ cắm cờ hàng Phương Lạp, chở một nghìn quân mặc áo dấu và khoảng ba bốn nghìn quân mặc áo không đồng mầu, lại cho hai vạn quân mai phục dưới các khoang thuyền, sai Mục Hoẵng đóng giả Trần ích, Lý Tuấn đóng giả Trần Thái ngồi trên hai thuyền lớn, các đầu lĩnh còn lại chia xuống chỉ huy các thuyền khác.

Đoàn thuyền thứ nhất do Mục Hoẵng, Lý Tuấn chỉ huy.

Dưới quyền Mục Hoẵng là mười phó tướng:

- Hạng Sung, Lý Cổn, Bao Húc, Tiết Vĩnh, Dương Lâm, Đỗ Thiên, Tống Vạn, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Thạch Dũng.

Dưới quyền Lý Tuấn là mười phó tướng:

- Đồng Uy, Đồng Mãnh, Khổng Minh, Khổng Lượng, Trịnh Thiên Thọ, Lý Lập, Lý Vân, Thi ân, Bạch Thắng, Đào Tông Vượng.

Đoàn thuyền thứ hai do Trương Hoành, Trương Thuận chỉ huy. Dưới quyền Trương Hoành là bốn viên phó tướng:

- Tào Chính, Đỗ Hưng, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn.

Dưới quyền Trương Thuận là bốn phó tướng:

- Mạnh Khang, Hầu Kiện, Thang Long, Tiêu Đĩnh.

Đoàn thuyền thứ ba cũng chia làm hai cánh do mười viên chánh tướng chỉ huy:

- Sử Tiến, Lôi Hoành, Dương Hùng, Lưu Đường, Sái Khánh, Trương Thanh, Lý Quỳ, Giải Trân, Giải Bảo, Sài Tiến.

Tất cả là bốn mươi hai chánh phó tướng chỉ huy ba trăm chiến thuyền vượt sông Dương Tử. Tống Giang và các tướng còn lại dẫn một nghìn chiến thuyền hiệu "Du long phi kình" chở quân lính cắm cờ "Tống triều tiên phong sứ Tống Giang".

Tất cả quân mã bộ cùng lúc xuống thuyền vượt sông. Hai đầu lĩnh thủy quân Nguyễn Tiểu Nhị và Nguyễn Tiểu Ngũ quản lĩnh toàn bộ công việc đưa đại quân vượt sông.

Tạm chưa nói đến chuyện đội trung quân của Tống Giang vượt sông, hãy nói chuyện quân tuần tiễu của Phương Lạp lên núi Bắc Cố ở Nhuận Châu nhìn sang bờ bắc. Thấy một đoàn ba trăm chiến thuyền cùng lúc rời bến, trên thuyền cắm cờ hiệu đỏ thêu dòng chữ "Hộ tống y lương tiên phong", bọn chúng liền trở về báo tin lên sảnh viện. Lữ khu mật bèn tập hợp mười hai viên thống chế tất cả đều đeo đai, khoác giáp, cung tên căng dây, đao kiếm tuốt vỏ. Mỗi viên đem theo một đội tinh binh ra bờ sông xem xét. Đoàn thuyền một trăm chiếc đi đẩu cặp bờ trước. Từ xa trông thấy nổi bật hai người đàn ông cao lớn, dáng mạo hùng dũng, mình mặc áo dấu thêu kim tuyến, đằng sau có nhiều quân hộ vệ. Lữ khu mật xuống n~a, ngồi nghỉ trên ghế chéo sơn màu bạc. Mười hai viên thống chế chia làm hai hàng tản quân đi giữ bờ sông.

Mục Hoẵng, Lý Tuấn thấy Lữ khu mật đã bắc ghế ngồi trên bờ, liền chống sào đưa thuyền đến thật gần rồi lên tiếng chào hỏi. Bọn ngu hầu hai bên tả hữu, ra lệnh cho thuyền dừng lại. Một trăm chiếc thuyền của bọn Lý Tuấn lục tục dừng lại neo sát vào nhau, dàn thành hàng chữ nhất. Hai trăm thuyền đi sau nhờ thuận gió cũng đã tới nơi, chia thành hai mũi, mỗi mũi một trăm thuyền áp sát vào bờ. Viên quan trông coi việc đón khách xuống thuyền hỏi:

- Thuyền từ đâu đến?

Mục Hoẵng đáp:

- Hai anh em tiểu nhân là Trần ích, Trần Thái. Thân phụ tiểu nhân là Trần Quan đặc cách sai anh em chúng tôi đem đoàn thuyền ba trăm chiếc và đội quân tinh nhuệ chở năm vạn thạch gạo ngon sang đây tạ Ơn Lữ ân tướng đã hết lòng tâu lên thiên tử.

Tên quan đón khách nói:

- Hôm trước Khu mật tướng công có sai Diệp ngu hầu sang bên đó. Vậy Diệp ngu hầu đâu?

Mục Hoẵng đáp:

Diệp ngu hầu và người công sa

là Ngô Thành bị cảm ma.

bất ngờ, hiện đang nghỉ bên trang trại của tiểu nhân. Anh em chúng tôi xin trình văn thư, ấn quan phòng do Diệp ngu hầu đưa tới.

Tên quan đón khách đưa tay nhận thư, rồi lên bờ trình với Lữ khu mật:

- Hai con trai của phủ doãn Trần Quan, người thôn Định Phố, phủ Dương Châu là Trần ích và Trần Thái đem binh lương đến nộp, có văn thư đóng ấn quan phòng đem đến trình.

Lữ khu mật cầm xem thấy đúng tờ văn thư đã gửi cho Trần Quan hôm trước, bèn truyền lệnh cho phép Trần ích và Trần Thái lên bờ. Tên quan đón khách dẫn hai người lên yết kiến

- Lữ khu mật. Mục Hoẵng, Lý Tuấn lên bờ, theo sát sau là hai mươi sáu tướng. Viên bài quân quát:

- Các bậc khanh tướng hiện đang ở đây, người thường không được đến gần Bọn Mục Hoẵng, Lý Tuấn dừng lại, chắp tay cúi lạy, rồi đứng chờ xa xa. Một lúc sau tên quan đón khách dẫn Trần ích đến yết kiến Lữ khu mật. Mục Hoẵng cúi xuống lạy chào.

Lữ khu mật hỏi:

- Thân phụ ngươi là Trần Quan sao không đích thân đến đây?

Mục Hoẵng đáp:

- Nghe đồn bọn Tống Giang ở Lương Sơn Bạc đem quân đến, thân phụ chúng tôi sợ quân giặc vào quấy nhiễu trang viện nên phải ở nhà đối phó.

Lữ khu mật hỏi:

- Trong hai các ngươi người nào là anh?

Mục Hoẵng đáp:

- Trần ích tôi là anh.

Lữ khu mật hỏi:

- Anh em các ngươi có biết võ nghệ không?

Mục Hoẵng đáp:

- Đội ơn ân tướng, anh em chúng tôi cũng có học qua.

Lữ khu mật nói:

- Số gạo các ngươi đem đến chất chở trên thuyền thế nào?

Mục Hoẵng đáp:


- Thưa tướng công, thuyền lớn chúng tôi xếp ba trăm thạch, thuyền nhỏ hai trăm.

Lữ khu mật nói:

- Các ngươi còn có ý đồ gì nữa không?

Mục Hoẵng nói:

- Cha con chúng tôi một lòng hiếu thuận, đâu dám có ý đồ gì khác!

Lữ khu mật lại nói:

- Anh em ngươi thì có lòng tốt nhưng đoàn thuyền của các ngươi có vẻ khác thường, ta có ý nghi ngờ. Bây giờ anh em ngươi cứ ở đây, chờ ta sai bốn quan thững chế đem quân ương xem xét từng thuyền, nếu chở vật gì khác thì quyết không dung thứ.

Mục Hoẵng nói:

- Anh em tiểu nhân đến đây chỉ mong được ân tướng trọng dụng, hà tất phải nghi ngờ.

Lữ Sư Nang định sai gọi bốn viên thống chế để ra lệnh cho đem quân đi khám thuyền, chợt có thám mã đến báo:

- Có sứ giả truyền thánh chỉ hiện đang chờ ở ngoài cửa nam, xin khu mật tướng công trở về tiếp đón..

Lữ khu mật vội lên ngựa, quát bảo:

- Các ngươi canh giữ bờ sông cho cẩn mật, còn hai người Trần ích và Trần Thái hãy đi theo ta. ~ Mục Hoẵng đưa mắt nhìn Lý Tuấn, chờ cho Lữ khu mật phi ngựa vượt lên trước, Mục Hoẵng, Lý Tuấn liền vẫy tay ra hiệu cho các võ tướng ùa lên chạy băng vào thành. Tướng giữ thành quát chặn:

- Khu mật tướng công chỉ cho hai người vào, những kẻ khác không được phép Lúc ấy Mục Hoẵng, Lý Tuấn đã qua được, các phó tướng thì bị chặn lại trước cửa thành.

Lại nói Lữ khu mật đến ngoài thành vội xuống ngựa, hỏi sứ giả:

- Có việc gì gấp không?

Viên trung sứ này là Phùng Hỷ chuyên dẫn khách vào bệ kiến Phương Lạp. Bấy giờ Phùng Hỷ nói nhỏ với Lữ Sư Nang:

- Gần đây quan tư thiên giám Phốvân Anh tâu rằng:

- "Ban đêm xem thiên tượng thấy nhiều sao thiên cang rơi vào vùng đất Ngô, trong số đó có đến một nữa là sao không có ánh sáng xen vào, ấy là điều tai họa không nhỏ". Vì thế thiên tử truyền cho khu mật phải canh giữ cẩn mật vùng ven sông. Hễ có người bên bờ bắc sang thì phải xét hỏi cẩn thận, kẻ nào tướng mạo kỳ dị khả nghi thì bắt chém ngay.

Lữ khu mật nghe nói cả kinh:

- Chết nỗi, vừa rồi có bọn người rất đáng ngờ, nhưrlg hạ quan chưa kịp đối phó. Bây giờ xin mời trung sứ vào thành tuyên đọc thánh chỉ.

Phùng Hỷ cùng Lữ khu mật về sảnh đường tuyên đọc thánh chỉ. Vừa lúc đó lại có quân thám mã về báo:

- Có sứ giả từ TÔ Châu mang lệnh chỉ của Đệ tam đại vương Phương Mạo đến. Lệnh chỉ nói:

- "Hôm trước khanh có nói Trần Tướng Sĩ ở Dương Châu đầu hàng bên ta, việc ấy chưa thể tin ngay được, sợ bên trong có điều giả trá. Hôm qua lại nhận được thánh chỉ nói gần đây quan tư thiên giám nói sao thiên cang rơi vào vùng trời thuộc đất Ngô, vì thế cần phải nghiêm mật canh phòng vùng ven sông, sớm muộn ta sẽ sai người đến đốc thúc xem xét".

Nói đoạn Lữ khu mật liền sai người truyền lệnh giữ chặt vùng ven sông, không cho một ai trong đoàn thuyền mới đến được lên bờ. Một mặt truyền bầy tiệc rượu để khoản đãi hai viên sứ giả.

lại nói bọn Trương Thuận ở trên thuyền chờ lâu không thấy động tĩnh gì, liền dẫn tám phó tướng ở đoàn thuyền bên trái xách vũ khí nhảy lên bờ. Các tướng ở đoàn thuyền bên phải cũng nhẩy xuống theo. Quân của Lữ Sư Nang canh giữ bến sông không thể ngăn cản được. Hắc toàn phong Lý Qùy và bọn Giải Trân, Giải Bảo chạy ùa vào thành. Quan canh vội đuổi theo để chặn lại, liền bị Lý Qùy vung búa vừa chạy vừa đánh, chém ngã hai tên. Bên cửa thành bọn Giải Trân, Giải Bảo cũng hò hét vung đinh ba xông vào, quân canh không đóng cổng kịp. Lý Qùy nhoài người nhìn vào từng góc tường tìm giặc mà giết. Lữ khu mật vội sai người truyền lệnh giữ bến sông, nhưng lệnh chưa đến nơi thì các dũng tướng của Tống Giang đã ồ ạt đánh xáp tới. Mười hai tên thống chế nghe tiếng quân sĩ hò reo la hét phía cửa thành, vội gọi quân lên ngựa.

Bấy giờ bọn Sừ Tiến, Sài Tiến đã ra lệnh cho quân sĩ trên thuyền cởi hết áo dấu của quân Phương Lạp, nhẩy lên bờ.

Quân mai phục trong khoang thuyền cũng nhất tề xuống thuyền xông đánh. Hai cánh quân mã của giặc do hai thống chế Thẩm Cương và Phan Văn Đắc chỉ huy cố đánh giữ cửa thành. Thẩm Cương bị Sử Tiến vung đao chém lăn xuống ngựa. Phan Văn Đắc bị Trương Hoành đâm xiên một giáo ngã nhào. Quân đôi bên xông vào hỗn chiến, mười thống chế còn lại đều cho quân chạy lui về đưa vợ con chạy trốn. Mục Hoẵng, Lý Tuấn đang ở trong thành biết thời cơ đã đến vội xông vào quán rượu đoạt lấy mồi châm lừa đốt nhà. Lữ khu mật thấy tình thế nguy cấp vội nhảy lên ngựa, vừa may có ba viên thống chế chạy đến tiếp ứng.

Bấy giờ đám cháy đã lan rộng, lửa bốc ngùn ngụt đầy trời.

Từ bãi Qua Châu ở phía bên kia sông, Tống Giang thấy hiệu lừa liền cho quân xuất phát vượt sông để tiếp ứng. Khắp bốn cửa thành, quân hai bên xông vào hỗn chiến. Một lúc sau quân Tống Giang tràn vào chiếm thành, cắm cờ hiệu khắp bốn phía.

Lại nói một trăm năm mươi chiến thuyền chở cả ngựa chiến tới bờ phía bắc vượt sông, mười chiến tướng đeo đai, khoác giáp cùng lúc dẫn quân lên bờ, đó là các đại tướng:

- Quan Thắng, HÔ Diên thước Hoa Vinh, Tần Minh, Hách Tư Văn, Tuyên Tán, Đan Đình Khuê, Hàn Thao, Bành Kỷ, Ngụy Định Quốc. Mười chiến tướng dẫn hai nghìn quân mã tiến đánh vào thành. Quân của Lữ khu mật thua to. Lữ Sư Nang dẫn tàn quân người ngựa bị thương chạy về huyện Đan Đồ. Đại quân bèn chiếm thành Nhuận chầu Ch;a đi dập các đám cháy canh giữ các cổng thành. Bấy giờ các tướng mới ra bờ sông đón Tống tiên phong. Đoàn thuyền cắm cờ hiệu "Du long phi kình" xuôi gió lướt phăng phăng vào bờ. các tướng mời Tống tiên phong vào thành. Tống Giang truyền lệnh cho yết bảng chiêu an, vỗ yên dân chúng. Một mặt cho điểm số tướng sĩ người ngựa và. xuống lệnh cho mọi người đến trước trướng tiên phong báo công. Sài Tiến dâng thủ cấp Thẩm cương, Trương Hoành dâng thủ cấp Phan Văn Đắc, Lưu Đường dâng thủ cấp Thẩm Trạch; Khổng Minh, Khổng Lượng bắt sống Trác Vạn Lý; Hạng Sung, Lý eổn bắt Sống Hòa Đồng, Hách Tư Văn giết Từ Thống. Quân Tống Giang tiến vào Nhuận chầu giết bốn tên thống chế, bắt sống hai tên. các tướng tá binh sĩ của giặc bị giết không đếm xuể. Bên quân Tống Giang thiệt mạng ba phó tướng là Vạn lý kim cương Tống Vạn, Một diện mục Tiêu Đĩnh và eửu Vĩ quy ĐàO Tông Vượng, kẻ thì bị trúng tên, người ngã ngựa bị loạn quân xéo chết. Tống Giang mất ba tướng, trong lòng buồn rầu vô hạn. Ngô Dụng khuyên can:

- Sống chết có số, dù sao quân ta cũng đã thu phục được một thành trọng yếu, xin huynh trưởng đừng quá buồn phiền.

Muốn lập được công lớn, xin tiên phong phải bàn định ngay các việc quân cơ đại sự.

Tống Giang nói:

- Anh em ta một trăm linh tám người ứng với các sao thiên cáng, địa sát đã ghi trong sách trời. Khi chung thề ở Lương Sơn Bạc, khi phát nguyện ở Ngũ Đài Sơn, anh em đều mong sống chết có nhau. Không ngờ sau ngày về kinh thì công Tôn Thắng ra đi, thiên tử lại giữ Kim Đại Kiên, Hoàng Phủ Đoan ở lại, Sái thái sư lấy dùng Tiêu Nhượng. Lần này đi đánh Phương Lạp chỉ mới qua sông đã mất thêm ba anh em. Nghĩ Tống Vạn tuy chưa lập được kỳ công, nhưng có nhiều công lao với anh em từ khi mở mang cơ nghiệp ở Lương Sơn Bạc.

Vậy mà hôm nay Tống Vạn đã vội xuống làm khách suối vàng.

Tống Giang sai quân sĩ đặt bàn thờ ở chỗ Tống Vạn chết, dâng hương hoa vàng mã, giết lợn dê làm cỗ tế. Tống Giang đích thân đến róc rượu làm lễ, truyền giải bọn ngụy thống chế Trác Vạn Lý, Hòa Đồng đến chém đẩu, lấy máu dâng tế anh linh ba đầu lĩnh. Xong việc, Tống Giang trở về phủ đường ban phát phẩm vật khen thưởng tướng sĩ, một mặt viết thư báo tin thắng trận, mời Trương chiêu thảo dời bản doanh đến Nhuận chầu Chuyện không có gì đáng kể. Một mặt Tống Giang sai quân sĩ thu dọn tử thi, dẹp gọn đường phố, làm lễ an táng ba vị phó tướng ở ngoài cửa đông thành Nhuận chầu Lạ; nói Lữ khu mật mất quá nửa người ngựa, cùng sáu viên thống chế lui về giữ huyện Đan Đồ, không dám nghĩ đến chuyện giành lại phủ thành Nhuận chầu Một mặt Lữ khu mật viết thư cáo cấp, sai người đem đến TÔ Châu trình với Đệ tam đại vương Phương Mạo xin cho quân cứu viện. Quân thám mã về báo:

- Đệ tam đại vương ở TÔ châu đã Sai nguyên súy Hình thành đem quân đi cứu viện. Lữ khu mật liền ra ngoài huyện thành tiếp kiến Hình thành. Sau khi thăm hỏi, Lữ khu mật mời nguyên súy về huyện đường. Sau khi kể lại đầu đuôi chuyện quân Tống mạo danh Trần Tướng S giả hàng, lợi dụng sơ hở đem quân mã sang sông, Lữ khu mật nồi:

- Nay được nguyên súy đưa quân đến cứu viện, hạ quan sẽ hợp sức để cùng thu phục Nhuận Châu.

Hình Chính nói:

- Đệ tam đại vương nghe tin sao thiên cáng xâm phạm đất Ngô, nên đặc cách sai hạ quan đem quân đến đây canh giữ các vùng ven sông, không ngờ khu mật tướng công bị thất lợi, Hình Chính tôi xin hết sức đánh báo thù, xin tướng công cho quân trợ chiến.

Ngày hôm sau, Hình Chính đưa quân tiến đánh Nhuận Châu.

Lại nói bấy giờ Tống Giang ở súy phủ ở trong phủ đường Nhuận Châu bàn bạc với quân sư Ngô Dụng rồi sai Đồng Uy, Đồng Mãnh dẫn hơn trăm người đến núi Tiêu Sơn tìm bọn Thạch Tú, Nguyễn Tiểu Thất, một mặt điều năm nghìn quân mã lên đường đi đánh huyện Đan Đồ, đặt dưới quyền chỉ huy của mười viên chánh tướng:
- Quan Thắng, Lâm Xung, Tẩn Minh, HÔ Diên Chước, Đổng Bình, Hoa Vinh, Từ Ninh, Chu Đồng, Sách Siêu, Dương Chí. Các tướng đem quân xuất phát, rời thành Nhuận Châu tiến về huyện Đan Đồ. Trên đường đi bọn Quan Thắng gặp quân mã của Hình Chính~từ phía huyện Đan Đồ kéo đến. Quân hai bên đối mặt bắn cung nỏ dàn thành trận thế. Bên trận quân nam, Hình Chính nâng thương ra ngựa, sáu viên thống chế theo hộ vệ hai bên. Bên trận quân Tống, Quan Thắng múa thanh long đao phóng ngựa đến đánh Hình Chính. Hai tướng giao đấu chừng mười bốn mười lăm hiệp thì có một tướng ngã ngựa. Đúng là:

- Vò gốm vỡ tan bên miệng giếng,

Tướng quân yên nghỉ giữa chiến trường.

Chưa biết hai tướng đánh nhau thua được ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 112 - Đường Tương Châu, Lưu Tuấn Nghĩa Tiến Quân

Đang nói chuyện ngụy nguyên súy Hình Chính bên quân nam ngồi trên lưng ngựa giao chiến với Đại đao Quan Thắng, chưa đầy mười bốn mười lăm hiệp thì bị Quan Thắng vung đao chém lăn nhào xuống ngựa. HÔ Diên Chước thấy Quan Thắng giết Hình Chính, bèn thúc quân mã xông lên giao chiến.

Sáu tên thống chế của Hình Chính cắm đầu thúc ngựa chạy trốn về phía nam. Lữ khu mật thấy Hình Chính quân bại, thân tan vội bỏ huyện Đan Đồ dẫn tàn quân người ngựa chạy về phủ Thường Châu. Các tướng của Tống Giang tiến vào chiếm huyện lỵ, sai người phi báo tin thắng trận với Tống tiên phong. Tống Giạng bèn đưa đại quân người ngựa đến đóng trại ở huyện Đan Đồ, một mặt sai người phi báo mời Trương chiêu thảo dời bản doanh đến đóng ở thành Nhuận Châu. Ngày hôm sau hai viên tham mưu họ Tùng, họ Cảnh ở đội trung quân của Trương chiêu thảo mang tặng phẩm đến.

Tống Giang kính cẩn đón nhận rồi sai phân phát cho các tướng.

Tống Giang mời phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa vào trướng trù hoạch việc điều quân tiến đánh. Tống Giang nói:

- Hiện nay Tuyên Châu và Hồ Châu cũng đang bị giặc Phương Lạp chiếm đó ~g. Ta và hiền đệ chia hai đường đưa quân đi đánh hai cllâu ấy. Ta sẽ làm hai chiếc thăm, ai bốc được bên nào thì đi đường ấy. Tống Giang bắt được thăm đánh Thường Châu và TÔ Châu. Lư Tuấn Nghĩa bốc được thăm đánh Tuyên Châu, Hồ Châu. Tống Giang sai Thiết diện khổng mục Bùi Tuyên chia đều các tướng. Trừ Dương Chí bị Ốm phải nghỉ lại ở ngoài thành huyện Đan Đồ, còn các tướng tá khác đều đem quân theo hai tiên phong. Các chánh phó tướng cầm quân theo Tống tiên phong đi đánh Thường Châu, TÔ Châu tất cả là bốn mươi hai người:

- Chánh tướng mười ba viên, phó tướng hai mươi chín viên.

Chánh tướng:

- Tiên phong sứ HÔ bảo nghĩa Tống Giang, Quân sư Trì đa tinh Ngô Dụng, Phác thiên điêu Lý ứng, Đại đao Quan Thắng, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, Tích lịch hỏa Tần Minh, Kim thương thủ từ Ninh, Mỹ nhiêm công Chu Đồng, Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm, Hành giả Võ Tòng, Cừu văn long Sử Tiến, Hắc toàn phong Lý Quỳ, Thần hành thái bảo Đái Tôn.

Phó tướng:

- Trấn tam sơn Hoàng Tín, Bệnh úy Trì Tôn Lập, ĩ nh mộc hãn Hách Tư Văn, Xú quận mã Tuyên Tán, Bách Thắng tướng Hàn Thao, Thiên mục tướng Bành Kỷ, Hỗn thế ma vương Phàn Thuỵ, Thiết địch tiên Mã Lân, Cẩm mao hổ Yến Thuận, Bát tý Na Tra Hạng Sung, Phi thiên đại thánh Lý Cổn, Tang môn thần Bao Húc, Nụy cước hổ Vương Anh, Nhất trượng thanh Hỗ Tam Nương, Cẩm báo từ Dương Lâm, Kim nhãn bưu Thi ân, Quỷ kiểm nhi Đỗ Hưng, Mao đầu tinh Khổng Minh, Độc hỏa tinh Khổng Lượng, Oanh thiên lôi Lăng Chấn, Thiết tý bác Sái Phúc, Nhất chi hoa Sái Khánh, Kim mao khuyển Đoàn Cảnh Trụ, Thông tí viên Hầu Kiện, Thần toán tử Tưởng Kính, Thần y An Đạo Toàn, Hiểm đạo thần ục Bảo Tứ, Thiết phiến tử Tống Thanh, Thiết diện khổng mục Bùi Tuyên.


Bốn mươi hai chánh, phó tướng dẫn tinh binh ba vạn người ngựa theo dưới cờ của Tống tiên phong.

Phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa đưa quân đi đánh hai châu Tuyên, Hồ. Các chánh phó tướng tất cả bốn mươi bảy viên:

- Chánh tướng mười bốn viên, phó tướng ba mươi ba viên. Chu Vũ là người đứng đầu hàng phó tướng giữ chức quân sự Chánh tướng:

- Phó tiên phong Ngọc kỳ lân Lư Tuấn Nghĩa, Quân sư:

- Thần cơ Chu Vũ, Tiểu toàn phong Sài Tiến, Báo từ đầu Lâm Xung, Song thương tướng Đổng Bình, Song tiên HÔ Diên Chước, Cấp tiên phong Sách Siêu, Một già lan Mục Hoẵng, Bệnh Quan Sách Dương Hùng, Sáp sĩ hổ Lôi Hoành, Lưỡng đầu xà Giải Trân, Song sĩ yết Giải Bảo, Một vũ tiễn Trương Thanh, Xích phát quỷ Lưu Đường, Lãng từ Yến Thanh.

Phó tướng:

- Thánh thủy tướng Đan Đình Khuê, Thần hỏa tướng Ngụy Định Quốc, Tiểu ôn Hầu Lã phương, Trại Nhân Qúy Quách Thịnh, Ma vân kim sĩ âu Bằng, Hỏa nhãn toan nghê Đặng Phi, Đả hổ tướng Lý Trung, Tiểu bá vương Chu Thông, Khiêu giản hổ Trần Đạt, Bạch hoa xà Dương Xuân, Bệnh đại trùng Tiết Vĩnh, MÔ trước thiên Đỗ Thiên, Tiểu già lan Mục Xuân, Sơn lâm long Trâu Uyên, Độc giác Long Trâu Nhuận, Thôi mệnh phán quan Lý Lập, Thanh nhãn hổ Lý Vân, Thạch tướng quân Thạch Dũng, Hạn địa hốt luật Chu Quý, Tiếu diện hổ Chu Phú, Tiểu uy trì Tôn Tân, Mẫu đại trùng Cố Đại Tẩu, Thái viên tử Trương Thanh, Mẫu dạ xoa Tôn Nhị Nương, Bạch diện lang quân Trịnh Thiên Thọ, Kim tiền báo từ Thang Long, Thao đao quỷ Tào Chính, Bạch nhật thử Bạch Thắng, Hoa hạng hổ Cung Vượng, Trúng tiễn hổ Đinh Đắc Tôn, Hoạt thiểm bà Vương Định Lục, Cổ thượng sắt Thời Thiên, Bốn mươi bảy viên chánh phó tướng dẫn tinh binh ba vạn người ngựa theo dưới cờ của phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa. Qúy vị xem chuyện hãy nhớ cho kỹ Lư tiên phong đưa theo chánh phó tướng tất cả là bốn mươi bảy người đi đánh Tuyên Châu, Hồ Châu. Tống Công Minh đem theo chánh phó tướng tất cả là bốn mươi hai người đi đánh Thường Châu, TÔ Châu. Còn về các đầu lĩnh thủy quân thì liên quan đến việc Đồng Uy, Đồng Mãnh được sai đi tìm Thạch Tú và Nguyễn Tiểu Thất. Nguyên là bọn Đồng Uy, Đồng Mãnh đến núi Tiêu Sơn trở về báo rằng:

- Thạch Tú và Nguyễn ~liểu Thất đến bên bờ sông, giết sạch một nhà dân, đoạt lấy chiếc thuyền nhẹ chèo sang chùa Tiêu Sơn. Sư trụ trì chùa biết bọn Thạch Tú là hảo hán Lương Sơn Bạc bèn mời nghỉ lại trong chùa. Sau đó nghe tin Trương Thuận đã lập công lớn, bọn Thạch Tú cũng dò hỏi được tình hình thuyền bè đậu dưới núi Tiêu Sơn nên đã tìm cách đánh chiếm bến Mão. Tiếp đó lại kéo đi đánh chiếm vùng ven sông như các huyện lỵ Giang âm, Thái Thương, rồi cho người đem văn thư gửi Tống tiên phong xin cho sai các đầu lĩnh thủy quân đưa thêm thuyền bè chiến cụ đến. Tống tiên phong bèn sai bọn Lý Tuấn tám người dẫn năm nghìn thủy quân theo Thạch Tú, Nguyễn Tiểu Thất đi đánh chiếm các nơi ven sông, tất cả chánh phó tướng mười viên:

- Chánh tướng ba viên, phó tướng bẩy viên:

- Phanh mệnh tam lang Thạch Tú, Hỗn giang long Lý Tuấn, Thuyền hỏa nhi Trương Hoành, Lãng lý bạch điều Trương Thuận, Lập địa thái tuế Nguyễn Tiểu Nhị, Đoản mệnh tam lang Nguyễn Tiểu Ngũ, Hoạt diêm la Nguyễn Tiểu Thất, Xuất động giao Đồng Uy, Phan giang thẩn Đồng Mãnh, Ngọc phan can Mạnh Khanh, Mười viên chánh phó tướng đó chỉ huy năm ngàn thủy binh tinh nhuệ và một trăm chiến thuyền.

Lại nói Tống Giang chia quân từ huyện Đan Đồ, các chánh phó tướng chỉ huy quân thủy quân bộ tất cả chỉ còn chín mươi chín người. Chiến thuyền ìớn đều;.đã giao cho các đầu lĩnh thủy quân đưa đi đánh các huyện:

-Giang âm, Thái Thương, chiến thuyền nhỏ thì đóng ở bến Lý để theo đại quân đi đánh Thường Châu. Lại nói Lữ Sư Nang và sáu tên thống chế hộ vệ lui về giữ quận Tì Lăng phủ Thường Châu. Phủ Thường Châu nguyên là do viên thống chếtiền Chấn Bằng làm trấn thủ, dưới quyền có hai phó tướng là Kim Tiết, người thôn Thượng Hào huyện Tấn Lăng và Hứa Định vốn là kẻ tâm phúc của Tiền Chấn Bằng. Tiền Chấn Bằng xuất thân là đô đầu ở huyện Thanh Khê, từng giúp Phương Lạp đánh chiếm nhiều thành trì, được thăng chức Thường Châu chế trí sứ. Nghe tin Lữ khu mật đã để mất thành Nhuận Châu, hiện đang trên đường đem quân chạy về Thường Châu, Tiền Chấn Bằng liền cùng Kim Tiết và Hứa Định đi đón tiếp, mời Lữ khu mật vào nghỉ ngơi ở công đường phủ Thường Châu. ăn uống khoản đãi xong, Lữ khu mật và bọn Tiền Chấn Bằng cùng bàn bạc việc quân.

Tiền Chấn Bằng nói:

- Xin tướng quân yên lòng, Chấn Bằng tôi tuy bất tài cũng xin đem hết sức khuyển mã đánh cho quân Tống Giang đại bại phải lui về bờ bắc, lấy lại bằng được Nhuận Châu thì Chấn Bằng tôi mới thỏa nguyện Lữ khu mật an ủi:

- Nếu chế sứ quyết chí như thế thì nước nhà lo gì không yên ổn? Sau ngày đánh thắng, hạ quan sẽ hết lòng tiến cử để vương thượng thăng quan tiến chức cho chế sứ.

Hôm ấy Lữ khu mật và bọn Tiền Chấn Bằng cùng nhau cạn chén, chuyện không có gì đáng nói. Lại nói Tống tiên phong đem quân mã lên đường đi đánh Thường Châu và TÔ Châu đưa quân ruổi dài nhằm huyện Tì Lăng thẳng tiến. Dẫn đầu là Quan Thắng, dưới cờ có mười viên tướng tá, đó là:

- Tần Minh, Từ Ninh, Hoàng Tín, Tôn Lập, Hách Tư Văn, Tuyên Hán, Hàn Thao, Bành Kỷ, Mã Lân, Yến Thuận. Kể chung cả chánh phó tướng là mười một viên, dẫn ba nghìn quân kỵ mã tiến thẳng đến dưới thành Thường Châu, vẫy cờ gióng trống khiêu chiến. Lữ khu mật hỏi:

- Ai dám mở cửa thành ra đánh lui quân địch?

Tiền Chấn Bằng xốc yên lên ngựa, đáp:

- Chấn Bằng tôi xin hết sức!

Lữ khu mật điều sáu viên thống chế ra trợ chiến. Sáu viên thống chế đó là:

- Ứng Minh, Trương Cận Nhân, Triệu Nghị, Thẩm Biện, Cao Khả Lập, Phạm Trù. Bẩy viên đại tướng ấy dẫn năm nghìn quân mã ra mở cửa thành, thả cầu treo. Tiền Chấn Bằng tay cầm thanh bát phong đao, cưỡi ngựa xích thố lông xoắn, dẫn quân qua cầu treo ra đánh. Quan Thắng thấy vậy liền lệnh cho quân hơi lui về phía sau, nhường cho Tiền Chấn Bằng dàn trận trước. Sáu tên thống chế dàn quân ra hai bên. Bên quân Tống, Quan Thắng cầm ngang thanh đao, dừng ngựa trước trận cất tiếng quát to:

- Quân phản nghịch hãy nghe đây:

- Các ngươi theo giúp kẻ suất phu mưu làm loạn, giết hại sinh linh, thần người đều oán giận. Nay quân thiên triều đã đến đây, các người sao chưa biết tội chết còn dám đương đầu chống lại? Bọn ta đã chỉ ngọn giáo mà thề:

- Chưa giết sạch quân phản nghịch, chưa trở về!

Tiền Chấn Bằng cả giận mắng:

- Các ngươi chỉ là bọn giặc cỏ ở Lương Sơn Bạc, không biết mệnh trời, không dám mưu đồ nghiệp bá vương, hàng phục tên hôn quân vô đạo lại dám đến đây đọ sức với vương triều tạ Nay ta quyết đánh cho các ngươi không còn mảnh giáp mà về~ Quan Thắng cả giận múa cây đao thanh long yến nguyệt xông lên. Tiền Chấn Bằng cũng vung cây bát phong đao đón đánh. Hai tướng ngồi trên ngựa quần thảo đến hơn ba mươi hiệp, Chấn Bằng dần dần đuối sức không chống cự nổi. Dưới cờ tướng bên quân nam, hai viên thống chế thấy vậy liền xách thương, thúc ngựa đến tiếp chiến. Quan Thắng gạt thương của Triệu Nghị, đỡ giáo của Phạm Trù. Dưới cờ tướng bên quân Tống hai phó tướng Trấn tam sơn Hoàng Tín, Bệnh úy Trì Tôn Lập vung tang môn kiếm và hổ nhãn tiên tế ngựa ra đón đánh. Sáu tướng cụm thành ba đôi cùng giao chiến trước trận. Lữ khu mật vội sai Hứa Định và Kim Tiết đem quân ra trợ chiến. Hai tướng tuân lệnh sửa cương xách khí giới xông ra. Triệu Nghị và Phạm Trù còn đánh tiếp với Hoàng Tín và Tôn Lập mươi hiệp nữa rồi đuối sức lui ra. Hứa Định và Kim Tiết liền vung đao đến tiếp chiến. Bên quân Tống, hai tướng Hàn Thao, Bành Kỷ vội múa đao ra trận. Kim Tiết chặn đánh Hàn Thao, Hứa Định chặn đánh Bành Kỷ. Trước trận đôi bên các tướng chia thành năm cặp giao chiến.

Nguyên là Kim Tiết đã có ý muốn quy hàng triều đình Đại Tống, vì thế cố ý làm rối loạn trận nhà. Đánh qua loa mươi hiệp nữa, Kim Tiết bèn quay ngựa chạy về. Hàn Thao thừa thế thúc ngựa đuổi theo. Bên trận quân nam, Cao Khả Lập thấy Kim Tiết bị Hàn Thao đuổi đánh gấp quá vội lắp tên giương cung thật căng nhằm vào Hàn Thao bắn trúng giữa trán. Hàn Thao lăn nhào xuống ngựa. Bên quân Tống, Tần Minh cắp cây lang nha côn thúc ngựa đến cứu Hàn Thao, nhưng bên quân nam Trương Cận Nhân đã đến trước đâm một giáo vào cổ họng, kết liễu tính mạng Hàn Thao. Bành Kỷ với Hàn Thao là đôi anh em kết nghĩa một chánh một phó, thấy Hàn Thao tử trận, Bành Kỷ quyết đánh báo thù. Bành Kỷ liền bỏ Hứa Định tế ngựa sang trận quân nam tìm giết Cao Khả Lập. Hứa Định đuổi theo liền bị Tần Minh chặn đánh. Cao Khả Lập thấy Bành Kỷ xông tới vội nâng thương ra nghênh chiến. Bất ngờ Trương Cận Nhân từ bên sườn trận xông tới đâm một giáo hất Bành Kỷ xuống ngựa. Quan Thắng thấy mất hai tướng trong lòng buồn rượi, càng tức giận không đánh được vào thành Thường Châu. Ngay lúc ấy Quan Thắng trổ hết thần uy vung tay chém Tiền Chấn Bằng rơi đầu xuống ngựa. Quan Thắng định nhoài người bắt lấy con ngựa xích thố của Tiền Chấn Bằng, không ngờ chính con ngựa xích thố của Quan Thắng lại vấp chân làm Quan Thắng chới với ngã xuống. Bên quân nam, Cao Khả Lập và Trương Cận Nhân sánh ngựa phóng tới định bắt sống Quan Thắng, nhưng Từ Ninh cùng với Tuyên Tán và Hách Tư Văn đã xông ra cứu được Quan Thắng đem về trận nhà. Lữ khu mật xua người ngựa từ trong thành ồ ạt tiến ra. Quân Quan Thắng thua to phải chạy về phía bắc, quân nam đuổi theo đến ngoài hai mươi dặm.

Ngày hôm ấy Quan Thắng bị hao tổn người n~a, đem quân về gặp Tống Giang báo tin Hàn Thao, Bành Kỷ tử trận. Tống Giang khóc lớn nói:

- Ai ngờ từ khi sang sông đã mất năm anh em. Phải chăng lòng trời giận không muốn cho Tống Giang đánh thắng Phương Lạp nên mới đến nỗi hao binh tổn tướng như thế?

Ngô Dụng khuyên:

- Chủ súy nói thế thật không phải. Được thua, thắng bại là lẽ thường của binh gia. Chẳng qua hôm nay là ngày hết lộc của hai người anh em đó mà thôi. Xin tiên phong chớ buồn phiền quá thì mới lo liệu được việc lớn.

Đúng lúc ấy, Hắc toàn phong Lý Qùy từ ngoài bước vào trướng nói lớn:

- Có ai biết mặt thằng giặc đã giết hai người anh em của ta thì dẫn Lý Qùy này đi, nhất định phải giết bọn chúng để báo thù.

Tống Giang truyền lệnh làm một cây cờ trắng viết dòng chữ:

- "Ta đích thân dẫn các tướng đến bên thành, quyết giao phong một phen thắng bại với quân giặc". Ngày hôm sau Tống Công Minh truyền lệnh cho quân sĩ nhổ trại, dẫn đại quân người n~a thủy lục cùng tiến. Hắc toàn phong Lý Qùy cùng các đầu lĩnh Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn dẫn năm trăm quân bộ dũng mãnh đi trước, tiến thẳng đến dưới chân thành Thường Châu. Lữ khu mật bị mất Tiền Chấn Bằng, trong lòng buồn rầu, luôn ba lần ~i thư phi báo cho Đệ tam đại vương Phương Mạo ở TÔ Châu xin cứu viện. Một mặt ~i biểu tâu lên triều đình. Lúc ấy Lữ khu mật lại nghe phi báo:

- Năm trăm quân bộ của Tống Giang đến đánh thành, trên cờ hiệu đề rõ tướng dẫn đầu là Hắc toàn phong Lý Quỳ. Lữ khu mật nói:

- Đó là tên hảo hán hung hãn nhất ở Lương Sơn Bạc, ai dám ra bắt tên giặc ấy cho tả Hai viên thống chế hiếu thắng là Cao Khả Lập và Trương Cận Nhân bước đến dưới trướng. Lữ khu mật nói:

- ~. Nếu hai vị bắt được tên giặc này, ta sẽ xin hết lòng tâu lên triều đình trọng thưởng.

Cao Khả Lập và Trương Cận Nhân khoác giáp đeo đai lên n~a, dẫn một nghìn quân mã ra ngoài thành nghênh địch.

Hắc toàn phong Lý Qùy trông thấy liền lệnh cho năm trăm quân bộ dàn thành hàng ngang, còn mình cầm đôi búa đứng trước trận, Tang môn thần Bao Húc chống kiếm đứng bên cạnh, Hạng Sung, Lý Cổn tay trái khoác thuẫn của người Man, tay phải cầm tiêu sắt. Cả bốn tướng đều mặc áo giáp sắt dầy, chắn lưng che n~c đứng trước trận. Cao Khả Lập và Trương Cận Nhân đang lúc đắc thắng khác nào ác là, sáo sậu khinh thường chim ưng, liền dẫn một nghìn quân mã dựa vào thành dàn thành thế trận. Bên quân Tống có người nhận ra Cao Khả Lập và Trương Cận Nhân bèn bảo Lý Quỳ:

- Chính hai tên ấy đã giết hai tướng quân của chúng tạ Lý Qùy nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, liền hai tay hai búa xông thẳng sang trận quân nam. Bao Húc thấy Lý Qùy đã đánh sang trận địch, vội gọi Hạng Sung, Lý Cổn vung đao, giơ thuẫn chạy theo tiếp ứng. Bốn tướng cùng lúc hét lớn, phăng phăng chạy sang trận giặc. Cao Khả Lập và Trương Cận Nhân ngồi trên n~a đâm thương xuống. Hạng Sung, Lý Cổn giơ thuẫn gạt đánh. Lý Qùy vung búa chém gầy chân n~a chiến của Cao Khả Lập, Lập liền ngã nhào xuống. Hạng Sung gọi to:

- Phải bắt sống!

Lý Qùy bản tính hiếu sát, không kiềm chế nổi, đã nhanh tay hạ búa, chém rụng đầu Cao Khả Lập. Bao Húc túm đai lưng Trương Cận Nhân giật xuống đất, sả một đao cho đầu lìa khỏi cổ. Bốn tướng tả xung hữu đột, xông vào trận quân nam. Lý Qùy đeo thủ cấp Cao Khả Lập bên hông rồi vung đôi búa lăn xả vào chém giết đến ba bốn trăm người. Lý Qùy và Bao Húc muốn xông thẳng vào thành, Hạng Sung và ~ý Cổn phải hết sức ngăn lại. Vừa lúc ấy quân giặc trên mặt thành lao gỗ, bắn đạn đá xuống tới tấp. Bọn ~ý Quỳ, Bao Húc quay về trước trận. Năm trăm quân bộ của ~ý Qùy vẫn đứng dàn hàng ngang như cũ. Nguyên là bọn họ cũng muốn xông lên hỗn chiến nhưng lại sợ Hắc toàn phong chém nhầm, bất tất phân ta địch, nên đành đứng im.

Giữa lúc ấy từ phía sau bụi cuốn tung trời. Đó là quân mã của Tống tiên phong đang tiến đến. ~ý Quỳ, Bao Húc đến dâng thủ cấp hai tên giặc. Các tướng nhận ra đầu Cao Khả Lập và Trương Cận Nhân, ai nấy đều kinh ngạc hỏi:

- Hai đại ca làm thế nào lấy hai đầu tên này nhanh thế?

~ý Quỳ, Bao Húc đáp:

- Còn giết cả mấy trăm tên khác nữa đấy? Bọn ta định bắt sống, nhưng ngứa tay không chịu được, trót giết mất!

Tống Giang nói:

- Đã lấy được thủ cấp kẻ thù về đây, chúng ta hãy treo cờ trắng dâng thủ cấp tế vong linh hồn hai tướng Hàn Thao, Bành Kỷ.

Tống Giang nói đoạn đau xót khóc to, sai hạ bỏ cờ trắng, thưởng công cho Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng Sung, ~ý Cổn rồi phát lệnh tiến quân đến sát dưới thành Thường Châu. Lại nói ~ữ khu mật ở trong thành hoảng hốt cùng Kim Tiết, Hứa Định và bốn viên thống chế bàn mưu kế đối phó với quân Tống Giang. Các tướng của ~ữ khu mật thấy bọn ~ý Qùy đánh hăng thì run sợ không dám đem quân ra giao chiến. Gặng hỏi mấy lần, các tướng vẫn ngồi im như thóc, ~ữ khu mật bực tức, sai người lên mặt thành xem xét. Bấy giờ thành Thường Châu đã bị quân mã của Tống Giang bao vây khắp ba phía, quân sĩ đứng sát mặt thành, phất cờ gióng trống hò reo khiêu chiến. ~ữ khu mật liền gọi các tướng lên mặt thành chỉ huy đánh giữ, nhưng tất cả đều thoái thác lui ra. Lữ khu mật cũng vào hậu đường, không nghĩ được kế gì, bèn gọi bọn hầu cận thân tín đến bàn bạc, nhưng đã có ý định bó thành chạy trốn, việc không phải nói đến.

Lại nói tướng trấn thủ thành Thường Châu là Kim Tiết về nhà nói với vợ là Tần Ngọc ~an:

- Hiện nay quân của triều đình nhà Tống đã vây cả ba mặt thành. Bọn ta ở trong thành lương thực thiếu thốn, không kham chịu được. Nếu quân bên ngoài đánh vào thì tất cả đều làm ma không đầu!

Tần Ngọc ~an đáp:

- ~ang quân là người có lòng trung hiếu, vẫn có ý định quy thuận triều đình. Hơn nữa lang quân ngày trước đã ra làm quan, chưa từng bị triều đình phụ bạc, chi b~ ~g cứ bỏ tà theo chính, bắt ~ữ Sư Nang nộp cho Tống tiên pl~õl ~

- ~y cũng là một kế tiến thân.

Kim Tiết nói:

- Nhưng ~ữ Sư Nang hiện có thủ hạ là bốn viên thống chế, mỗi người đều có quân mã riêng. Hứa Định là kẻ tâm phúc của ~ữ Sư Nang vốn không thân thiết với tôi. Chỉ sợ việc không xong lại chuốc thễm tai vạ.

Tần Ngọc ~an nói:

- ~ang quân cứ ngầm viết thư buộc vào mũi tên bắn ra ngoài thành báo tin cho Tống tiên phong biết, trong ngoài ứng hợp với nhau thì tất lấy được. Ngày mai ra trận, lang quân giả vờ thua để dụ quân Tống đuổi theo vào thành, lang quân ắt lập được công lớn.

Kim Tiết nói:

- Hiền thê nói rất phải, ta sẽ theo kế ấy. Người kể chuyện có thơ vịnh rằng:

- Khí ám đầu minh miễn họa cơ, Tì đăng trùng kiến phụ ki thệ Phụ nhân thượng thả tồn trung nghĩa, Hà sự nam nhi thác kiến mể Bỏ tối theo lành họa phải phòng, Tì Lăng lại thấy vợ khuyên chồng.

phụ nhân còn giữ lòng trung nghĩa, Nam tử sao chưa tỉnh giấc nồng Ngày hôm

sau Tống Giang truyền lệnh cho quân

sĩ đảnhgấp vào thành. Lữ khu mật hội các tướng để hỏi kế. Kim Tiết đáp:

- Thành Thường Châu tường cao hào rộng, ta nên thế thủ chứ không nên đọ sức với địch. Cứ như ngu ý của tôi thì các tướng nên giữ thành thật vững, đợi viện binh ở TÔ Châu đến rồi hợp sức ra đánh.

Lữ khu mật nói:

- Kim tướng quân nói rất phải!

Nói đoạn cắt cử các tướng:

- Ứng Minh, Triệu Nghị đóng giữ cửa đông; Thẩm Biện, Phạm Trù đóng giữ cửa bắc; Kim Tiết đóng giữ cửa tây; Hứa Định đóng giữ cửa nam. Cắt cử mọi việc xong xuôi, các đầu lĩnh ai nấy đều về bản doanh nhận quân để chia đi đóng giữ. Đêm ấy Kim Tiết viết thư riêng, buộc vào mũi tên rồi nhân lúc vắng vẻ trèo lên mặt thành, nhằm phía có quân thám mã ở ngoài cửa tây mà bắn xuống. Quân Tống Giang nhặt được mũi tên vội đem về trại trình lên chủ tướng. Chánh tướng trại cửa tây là Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm và hành giả Võ Tòng nhận được bức thư liền giao cho phó tướng Đỗ Hưng phi ngựa chuyển gấp về đại trại ở ngoài cửa đông bắc. Tống Giang, Ngô Dụng đang đốt nến ngồi trong trướng bàn định việc quân thì Đỗ Hưng đưa mật thư của Kim Tiết vào trình. Tống Giang xem xong cả mừng, bèn truyền lệnh cho các tướng chỉ huy ba trại biết.

Cả ngày hôm sau các đầu lĩnh chỉ huy quân sĩ ở ba trại từ ba phía cho quân đánh vào thành. Lữ khu mật đứng trên lầu chiến thấy giữa trận quân Tống, Oanh thiên lôi Lăng Chấn đang đặt giá súng, liền đó một mồi đạn, lửa bay thẳng đến ~ trúng vào một góc lầu vọng địch, một tiếng nổ xé tai vang lên, mặt thành bay sạt một mảng. Lữ Sư Nang thoát chết, vội chạy lánh xuống dưới thành, dốc thúc các tướng trấn thủ đưa quân ra đánh. Ba hồi trống trận khua vang, cửa thành mở toang, cầu treo hạ xuống. Ở cửa bắc, Thẩm Biện, Phạm Trù nhanh chóng đưa quân ra ngoài thành. Bên quân Tống, Đại đao Quan Thắng ngồi trên ngựa xích thố lông xoắn của Tiền Chấn Bằng phóng ra trước trận giao chiến với Phạm Trù.

Trong lúc hai tướng đánh nhau thì ở cửa tây Kim Tiết dẫn một đội quân mã ra khiêu chiến. Bên quân Tống Giang, Bệnh úy Trì Tôn Lập thúc ngựa ra trận, hai tướng đánh chưa đầy vài hiệp thì Kim Tiết giả thua quay ngựa bỏ chạy. Tôn Lập liền xua quân đuổi tới, theo sau Tôn Lập là các tướng Yến Thuận, Mã Lân, rồi đến Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Khổng Minh, Khổng Lượng, Thi ân, Đỗ Hưng. Kim Tiết đem quân chạy lui vào thành. Tôn Lập đuổi sát đến chiếm lấy cửa phía tây. Trong thành náo động, ai nấy bảo nhau người ngựa của quân Tống đã lọt vào cửa phía tây. Dân chúng trong thành bấy lâu bị Phương Lạp tàn hại khổ cực, oán giận ngút trời, nay nghe tin quân mã của triều đình Đại Tống đã tiến vào, mọi người đều đổ ra hưởng ứng. Bấy giờ cờ hiệu của Tống tiên phong đã cắm trên mặt thành. Phạm Trù, Thẩm Biện thấy trong thành có biến vội phóng ngựa về nhà lo cứu vợ con. Lúc ấy từ phía bên trái cổng thành hai tướng Vương Nấy Hổ và Nhất Trượng Thanh xông ra bắt sống Phạm Trù. Tiếp đó từ phía bên phải hai tướng khác là Tuyên Tán và Hách Tư Văn cũng xông ra đâm Thẩm Biện ngã ngựa. Quân sĩ liền ào tới bắt sống. Tống Giang, Ngô Dụng phát hiệu cho đại quân người ngựa ồ ạt tiến vào chiếm thành rồi tung quân đi bốn phía bắt giết quân nam. Lữ Sư Nang vội dẫn bọn Hứa Định chạy ra cổng thành phía nam, liều chết cướp đường chạy trốn. Quân Tống đuổi theo không kịp phải quay về thành Thường Châu đợi lệnh.

Tống Giang xuống lệnh xét công thăng thưởng ba quân tướng sĩ Triệu Nghị trốn sang nhà dân bị chủ nhà trói nộp. ứng Minh bị đám loạn quân giết chết, chặt lấy thủ cấp. Tống Giang vào phủ đường, sai yết bảng chiêu an trăm họ. Dân chúng già trẻ dắt nhau đến trước phủ đường vái tạ. Tống Giang an ủi mọi người, khuyên họ trở lại làm lương dân, yên nghiệp làm ăn.

Kim Tiết vào phủ đường yết kiến Tống tiên phong. Tống Giang xuống dưới thềm đón tiếp, mời Kim Tiết lên đại sảnh cùng ngồi. Kim Tiết bầy tỏ lòng cảm kích vô hạn, mong muốn được trở lại làm lương thần của triều đình nhà Tống và nói công này là nhờ vợ giúp mưu chọ Tống Giang sai giam Phạm Trù, Thẩm Biện, Triệu Nghị vào xe tù, viết thư trình Trương chiêu thảo, giao cho Kim Tiết đích thân chuyển thư và áp giải tù. Kim Tiết nhận văn thư, áp giải ba cỗ xe tù đến Nhuận Châu giao nộp. Trước đó Tống Giang đã sai Thần hành thái bảo Đái Tôn mang văn thư đi trước đến Nhuận Châu tiến cử Kim Tiết, nên khi Kim Tiết đến Nhuận Châu vào yết kiến, Trương chiêu thảo vui mừng mở tiệc rượu khoản đãi, thưởng vàng bạc, vóc lụa và yên ngựa cho Kim Tiết. Phó đô đốc Lưu Quang Thế xin cho Kim Tiết thăng chức Hành quân đô thống, ở lại trong quân để hiệu dụng. Về sau khi Kim Tiết theo Lưu Quang Thế đi đánh giặc Kim do thái tử thứ tư của Ngột Truật xâm phạm bờ cõi, lập nhiều công, được thăng đến chức thân quân chỉ huy sứ, rồi tử trận ở Trung Sơn. Cuộc đời của Kim Tiết là như vậy, có thơ làm chứng như sau:

- Tòng tà lang miếu sinh kham quý, Tuẫn nghĩa sa trường cốt dã hương.

Tha nhật Trung Sơn trung nghĩa quỷ, Hà như Phương Lạp trận trung vong.

Tà gian lang miếu nhìn thêm thẹn Tiết nghĩa sa trường chết cũng thơm Mai hậu Trung Sơn làm nghĩa qt~y?, Đâu như Phương Lạp, chẳng người chôn.

Hôm ấy Trương chiêu thảo và Lưu đô đốc ban thưởng cho Kim Tiết rồi truyền lệnh đem ba tên phản tặc ra hành hình, phanh thây muôn mảnh, bêu đầu thị chúng. Sau đó Trương chiêu thảo sai người đến Thường Châu khao thưởng ba quân tướng sĩ của Tống tiên phong.

Lại nói Tống Giang đóng quân ở Thường Châu, sai Đái Tôn đến Tuyên Châu và Hồ Châu hỏi Lư Tuấn Nghĩa tin tức việc điều quân đánh trận. Lại có quân thám mã về phi báo ngụy khu mật là Lữ Sư Nang chạy trốn về huyện VÔ Tích, hội với quân cứu viện từ TÔ Châu đến, hiện đang tìm cách giao phong với đại quân. Tống giang xuống lệnh điều một vạn quân mã bộ dưới quyền mười chánh phó tướng xuất phát tiến về phía nam. Mười tướng ấy là:

- Quan Thắng, Tần Minh, Chu Đồng, Lý ứng, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn. Quan Thắng cùng các tướng cáo từ Tống tiên phong đem binh mã rời Thường Châu tiến xuống phía nam.

Nói tiếp chuyện Đái Tôn đã biết tình hình tiến quân của Lư Tuấn Nghĩa ở Tuyên Châu, Hồ Châu bèn cùng Sài Tiến trở về yết kiến Tống Giang. Đái Tôn báo tin phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa lấy được Tuyên Châu, đặc cách sai Sài Tiến đến báo tin thắng trận. Tống Giang xiết đỗi vui mừng. Khi Sài Tiến vào phủ đường bái kiến, Tống tiên phong sai dọn rượu tẩy trần, rồi mời Sài tiến vào hậu đường nói chuyện.

Tống Giang thăm hỏi tỉ mỉ tình hình Lư tiên phong đánh thành Tuyên Châu. Sài Tiến trình văn thư, thuật lại mọi diễn biến cho Tống Giang nghe:

- Tướng trấn thủ thành Tuyên Châu của Phương Lạp là kinh lược sứ Gia Dư Khánh, dưới quyền có sáu viên thống chế đều là người quê ở Hấp Châu và Mục Châu. Sáu viên thống chế ấy là:

- Lý Thiều, Hàn Minh, Đỗ Kính Thần, Lỗ An, Phan Tuấn, Trình Thắng Tổ. Hôm ấy Gia Dư Khánh điều quân của sáu viên thống chế, chia làm ba cánh, đem quân ra ngoài thành chặn địch. Lư tiên phong cũng chia quân mã làm ba cánh dàn trận đón đánh. Ở trận giữa HÔ Diên Chước giao chiến với Lý Thiều, Đổng Bình đánh với Hàn Minh. Chưa đầy mười hiệp thì Hàn Minh bị Đổng Bình đâm song thương giết chết, Lý Thiều hến chạy trốn. Cánh quân giữa của giặc thua tọ Trận bên trái đâm Xung giac chiến với Đỗ Kính Thần, Sách Siêu đánh với ~ỗ An. Đỗ Kính Thần bị Lâm Xung múa xà mâu đâm chết, Sách Siêu vung búa chém rơi đầu ~ỗ An. Trận bên phải Trương Thanh giac chiến với Phan Tuấn, Mục Hoẵng đánh với Trình Thắng Tổ.

Trương Thanh ném đá đánh hạ Phan Tuấn, Đả hổ tướng ~ý Trung liền đuổi tới kết liễu đời hắn. Trình Thắng Tổ bỏ ngựa chạy trốn. Ngày hôm ấy quân giặc bị mất sáu tướng, phải lui binh về. ~ư tiên phong đốc thúc ba quân tướng sĩ đuổi sát đến chân thành. Không ngờ quân giặc trên thành lăn đá xuống, làm chết một phó tướng. liền đó tên độc bắn xuống như mưa, lại làm trúng thương hai phó tướng nữa. Khi về đến doanh trại hai người đều chết cả. ~ư tiên phong bị mất ba tướng.

liền truyền lệnh ngay đêm ấy đánh gấp vào thành. Tướng giặc giữ thành cửa đông không vững, quân Lư Tuấn Nghĩa bèn chiếm được thành Tuyên Châu. ~ý Thiều bị loạn quân giết chết, Gia Dư Khánh dẫn đầu tàn quân chạy trốn về Hồ Châu. Bên quân Tống, Hoa hòa thượng ~ỗ Trí Thâm bị bao vây sau không rõ ở đâu. Phó tướng bị quân giặc lăn đá đè chết là Bạch diện lang quân Trịnh Thiên thọ, hai tướng.

- Đúng tên độc là Thao đao quỷ Tào Chính và Hoạt thiểm bà Vương Định ~u.c. Tống Giang biết tin lại mất thêm ba đầu lĩnh nữa, bật khóc to rồi ngã ngất đi. Đúng là:

- Hoa nở vừa khi cơn gió thổi Trăng ngời gặp lúc mây mù chẹ Chưa biết Tống Giang ngất xỉu ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 113 - Đến Thái Hồ, Lý Tuấn Kết Nghĩa Nhỏ

Đang nói chuyện lúc bấy giờ các tướng vực Tống Giang dậy, chăm sóc hồi lâu mới tỉnh lại. Tống Giang nói với Ngô Dụng:

- Phen này anh em ta chắc khó đánh nổi bọn Phương Lạp. Từ khi qua sông Dương Tử đến này liên tiếp mất tám anh em.

Ngô Dụng khuyên can:

- Chủ súy đừng nói thế nản lòng quân sĩ. Lúc trước đi đánh quân Liêu, anh em được toàn vẹn về kinh, ấy là nhờ có số trời. Lần này tổn thất mấy người cũng là do số mệnh thế thôi.

Từ ngày vượt sông đến nay chưa bao lâu đã thu phục ba quận lớn là Nhuận Châu, Thường Châu và Tuyên Châu, đó là nhờ phúc lớn của thiên tử và uy danh hổ tướng của chủ súy, sao lại bảo là bất lợi? Lẽ nào chủ súy lại tỏ ra nhụt chí?

Tống Giang nói:

- Dù con người ta sống chết có số, nhưng số phận một trăm linh tám anh em ta ứng với các sao thiên càng, địa sát đã ghi trong sách trời, thân thiết như ruột thịt. Nay gặp chuyện buồn như thế, không đau lòng sao được?

Ngô Dụng lại khuyên:

- Chủ tướng chớ quá buồn phiền mà hao tổn tâm lực, xin hãy trù liệu điều binh tiếp ứng đánh thành VÔ Tích. Tống Giang nói:

- Bây giờ quân sư để Sài Tiến ở lại đây giúp ta rồi viết quân thiếp, nhờ Đái Tôn đem về phúc đáp để Lư tiên phong cho xuất quân tiến đánh Hồ Châu, hẹn sớm gặp nhau ở Hàng Châu.

Ngô Dụng bèn sai Bùi Tuyên viết thiếp, giao cho Đái Tôn đem đến Tuyên Châu, việc không có gì đáng nói.

Lại nói Lữ Sư Nang dẫn bọn Hứa Định chạy về huyện VÔ Tích, dọc đường may gặp quân cứu viện từ TÔ Châu do Đệ tam đại vương Phương Mạo sai đến. Dẫn đầu là chỉ huy sứ lục quân Vệ Trung:

- Dưới quyền có hơn mười phó tướng thống lĩnh một vạn quân đến cứu Thường Châu. Hai bên hội quân, kéo vào đóng giữ huyện Vô Tích. Lữ khu mật kể cho bọn Vệ Trung biết chuyện Kim Tiết dâng thành cho địch, Vệ Trung nói:

- Xin khu mật cứ yên lòng, tiểu tướng nhất định sẽ lấy lại Thường Châu.

Chợt có quân thám mã vào báo:

- "Quân tống đã đến gần, xin chủ tướng xuất quân chặn địch". Vệ Trung liền lên ngựa đem quân ra ngoài cửa bắc đón đánh.

Lúc ấy binh mã của Tống Giang thế lực hùng mạnh đang tiến đến, Hắc toàn phong Lý Qùy cùng bọn Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn chỉ huy quân bộ đánh xáp vào. Vệ Trung lấy làm lo sợ, quân sĩ chưa kịp dàn thành trận thế đã bị đánh tan. Tàn quân hoảng sợ quay chạy vào thành VÔ Tích. Bọn Lý Quỳ, Bao Húc đuổi sát theo chân ngựa mà vào thành. Lữ khu mật chạy ra cửa nam tìm đường tẩu thoát. Quan Thắng dẫn quân mã tiến vào thành rồi sai người phi báo với Tống tiên phong.

Tống Giang được tin liền cùng các tướng đem quân đến VÔ Tích, yết bảng chiêu an trăm họ, một mặt sai người báo tin thắng trận, mời Trương chiêu thảo và Lưu đô đốc đem quân đến đóng giữ Thường Châu. Lại nói Lữ Sư Nang cùng Vệ Trung và Hứa Định dẫn tàn quân người ngựa chạy về TÔ Châu cầu cứu Đệ tam đại vương.

Lữ Sư Nang nói:

- Binh mã quân Tống hùng mạnh, thế như chẻ tre, cho nên thành không giữ được.

Đệ tam đại vương Phương Mạo nổi giận quát quân sĩ lôi Lữ khu mật ra chém đầu. Bọn Vệ Trung tâu:

- Bộ hạ của Tống Giang phần lớn là các hảo hán dũng cảm có võ nghệ hơn người, quân lính hầu hết lại là lâu la ở Lương Sơn Bạc từng quen chiến đấu, quân ta khó lòng địch nổi.

Phương Mạo nói:
- Hãy tạm gửi đầu ngươi trên cổ đó. Nay giao cho ngươi năm nghìn quân mã đi tiền bộ, ta sẽ đích thân đưa các tướng tiến theo tiếp ứng. ~ Lữ Sư Nang vái tạ, rồi đeo đai khoác giáp, cầm cây bát xà mâu lên ngựa dẫn quân ra ngoài thành.

Lại nói Đệ tam đại vương Phương Mạo tập hợp tám viên chiến tướng thường gọi là "Phiêu kỵ tướng quân", người nào cũng cao to khỏe mạnh, võ nghệ tinh thông. Tám viên "Phiêu kỵ tướng quân"ấy là:

- Phi long đại tướng quân Lưu Vân, Phi Hổ đại tướng quân Trương Uy, Phi hùng đại tướng quân Từ Phương, Phi báo đại tướng quân Quách Thế Quảng, Phi thiên đại tướng quân Ô Phúc, Phi vân đại tướng quân Câu Chính, Phi Sơn đại tướng quân Chấn Thành, Phi thủy đại tướng quân Xương Thịnh.

Bấy giờ Đệ tam đại vương Phương Mạo, tự mình khoác giáp đeo đai, tay cầm phương thiên họa kích lên ngựa ra trận, đốc thúc binh mã tiến đánh quân Tống. Phía sau tám viên đại tướng là hai ba chục các phó tướng đội ngũ chỉnh tề, chỉ huy năm vạn quân người ngựa, tiến ra ngoài thành.

Đội quân tiến bộ của Lữ Sư Nang, dưới quyền hai tướng Vệ Trung và Hứa Định đã đi qua chùa Hàn Sơn, tiến về phía huyện Vô Tích. Tống Giang sai người do thám tin tức từ trước, lúc ấy cũng đã dẫn nhiều chánh phó tướng đưa quân mã ra khỏi thành Vô Tích mươi dặm. Quân hai bên cờ trống đối nhau, dàn thành trận thế. IJữ sư Nang. bừng bừng tức giận nhảy lên ngựa, cầm ngang cây xà mâu phóng ra trước trận muốn giao chiến với Tống Giang. Tống Giang đứng dưới cờ súy, quay lại hỏi các tướng:

- Ai dám ra bắt sống tên giặc này?

Chưa dứt lời đã thấy Kim thương thủ Từ Ninh xách cây thương vàng thúc ngựa ra trận giao chiến với Lữ Sư Nang.

Hai tướng quần thỏa trên lưng ngựa, quân hai bên hò reo trợ chiến. Đánh hơn hai mươi hiệp, IJữ sư Nang sơ hở một đường mâu, liền bị Từ Ninh phóng thương đâm nhào xuống đất.

Quân hai bên hò reo vang dậy. Hắc toàn phong Lý quỳ hai tay vung hai búa, Tang môn thần Bao Húc múa phi đao, hạng Sung, Lý Cổn vung thương múa thuẫn dẫn quân đánh ào sang, quân nam thua lớn.

Tống giang khua quân đuổi theo, gặp ngay đại quân của Phương Mạo đến tiếp ứng. Quân hai bên bắn cung tên dàn thành trận thế. Trước trận quân nam, tám viên đại tướng dàn thành hàng ngang. Phương Mạo đứng giữa đội trung quân, nghe tin Lữ khu mật bị giết, nổi giận nâng kích nhảy lên ngựa, lớn tiếng mắng Tống Giang:

- Các ngươi là giặc cỏ Lương Sơn Bạc, quan quân nhà Tống không dẹp nổi mới cho làm tiên phong đem quân đến xâm phạm bờ cõi của ta. Phải giết sạch bọn ngươi,ta mới chịu lui binh?

Tống Giang ngồi trên ngựa chỉ tay đáp Phương Mạo:

- Gã quê mùa Mục Châu kia, ngươi lầm tưởng thời cơ phát phúc, rông càn xưng bá đồ vương. Nay quân thiên triều đến đây, hãy mau đầu hàng thì được tha tội chết. Nếu ngươi còn hỗn xược chống cự, ta chưa giết sạch bọn ngươi nhất quyết chưa đem quân về!

Phương Mạo quát:

- Không nhiều lời nữa! Tám viên mãnh tướng của ta hiện đang có mặt ở đây, ngươi có dám cho tám tướng của ngươi ra giao chiến? ~ Tống Giang cười đáp:

- Nếu ta sai hai tướng ra đánh một mình ngươi thì mang tiếng không phải là hảo hán. Vậy ngươi cứ cho tám tướng ra, ta cũng sẽ cho tám tướng đọ tài xem bên nào thua được? Nhưng nếu bị đâm ngã ngựa, quân ra khiêng về thì bên kia không được bắn lén, cũng không được cướp xác. Nếu không phân thắng bại cũng không được cho quân hỗn chiến, ngày mai sẽ đánh tiếp.

Phương mạo nghe xong liền gọi tám tướng ra đánh. Cả tám viên tướng được lệnh đều cầm vũ khí tế ngựa ra trước trận. Tống Giang nói:

- Anh em hãy nhường các tướng quân kỵ.

Chưa dứt lời đã thấy tám tướng cưỡi ngựa rẽ cửa trận hai bên tả hữu xông ra. Đó là:

- Quan Thắng, Hoa Vinh, Từ Ninh, Tần Minh, Chu Đồng, Hoàng Tín, Tôn IJậP Hách Tư Văn.

Quân hai bên khua trống hò reo vang trời, mỗi bên đều bắn một phát pháo hiệu và phát cờ lệnh nhiều màu. Mười sáu con ngựa chiến rầm rập tung vó hướng tới địch thủ. Quan Thắng đánh Lưu Bân, Tần Minh đánh Trương Uy, Hoa vinh đánh Từ Phương, Từ Ninh đánh Ô Phúc, Chu Đồng đánh Câu Chính, Hoàng Tín đánh Quách Thế Quảng, Tôn IJậP đánh Chấn Thành, Hách Tư Văn đánh Xương Thịnh. Mười sáu viên mãnh tướng quả thật là những kẻ anh hùng, ai nấy trổ hết tài ra giao chiến. Đánh chừng hơn ba mươi hiệp thì một tướng ngã ngựa. ấy là Câu Chính bị Mỹ nhiêm công Chu Đồng đâm ngã. Hai bên đều khua chiêng thu quân, bảy đôi chiến tướng ngừng đánh, lui về trận nhà.

Đệ tam đại vương phương Mạo thấy Câu Chính bị giết, biết không thắng được, bèn dẫn quân lui về thành TÔ Châu.

Ngay ngày hôm ấy Tống Giang đốc thúc quân mã tiến thẳng đến hạ trại ở gần chùa Hàn Sơn. Tống Giang ban thưởng cho Chu Đồng, rồi sai Bùi Tuyên viết văn thư trình lên Trương chiêu thảo, việc không có gì đáng nói.

Lại nói Đệ tam đại vương Phương Mạo đem quân về thành cố thủ, chia quân giữ chặt các cửa thành, cắm thêm rào nhọn trên mặt thành đặt thêm máy nỏ, máy bắn đạn đá và gỗ lao.

đào hố phía sau cổng thành rồi bỏ đồ kim khí đốt cho nóng chảy, bên các ụ tường chất sẵn các bình tro để sẵn sàng đối phó với quân đánh thành.

Ngày hôm sau Tống Giang không thấy quân nam ra trận bèn dẫn bọn Hoa Vinh, Từ Ninh, Hoàng Tín, Tôn Lập dẫn ba nghìn quân kỵ tiến đến xem xét quanh thành.

Thành Tô Châu có sông ngòi bao bọc tường thành vững chắc. Tống Giang thầm nghĩ" "Không thể đánh ngay vào thành được, Nghĩ đoạn Tống Giang dẫn các tướng trở về trại, rồi vào trong trướng bàn định kế sách với quân sư Ngô Dụng.

Vừa lúc ấy có tên quân vào báo:

- Thủy quân đầu lĩnh chánh tướng Lý Tuấn từ huyện Giang âm đến xin yết kiến chủ tướng.

Tống Giang truyền mời Lý Tuấn vào trong trướng hỏi thăm tình hình các vùng ven biển. Lý Tuấn đáp:

- Từ khi đệ cùng bọn Thạch Tú dẫn thủy quân đến chiếm các huyện Giang âm, Thái Thương, tưởng trấn thủ là bọn Nghiêm Dũng và phó tướng Lý Ngọc đem chiến thuyền ra giao chiến. Nghiêm Dũng ngồi trên thuyền bị Nguyễn Tiểu Nhị đâm hất xuống sông, Lý Ngọc bị giết dưới làn tên của đám loạn quân. Hiện nay bọn Thạch Tú, Trương Hoành Trương Thuận đánh chiếm huyện Gia Định, ba anh em họ Nguyễn đi đánh huyện Thường Thục. Vì vậy tiểu đệ về đây báo tin thắng trận lên huynh trưởng.

Tống Giang nghe nói cả mừng, liền ban thưởng Lý Tuấn, cho phép đến yết kiến Trương chiêu thảo và Lưu đô đốc để trình thư báo tiệp.

Nói tiếp chuyện Lý Tuấn lên đường đến Thường Châu yết kiến Trương chiêu thảo và Lưu đô đốc, thuật lại việc thu phục huyện Giang âm và hải đảo Thái Thương, giết bọn tướng giặc Nghiêm Dũng, Lý Ngọc. Trương chiêu thảo ban thưởng cho bọn Lý Tuấn và cho phép trở về chờ lệnh dưới trướng Tống tiên phong. Lý Tuấn về đến sơn trại ở chùa Hàn Sơn, vào yết kiến Tống tiên phong. Tống Giang thấy ngoài thành TÔ Châu là miền sông nước rộng lớn, tất phải dùng đến thủy quân, bèn lưu Lý Tuấn ở lại đánh. Lý Tuấn nói:

- Xin chủ tướng cho Lý Tuấn tôi đi xem xét tình hình sông ri.ước để tính kế dùng binh, rồi sẽ trình lên chủ tướng.

Tống Giang cho là phải. Lý Tuấn đi được hai ngày trở về thưa:

- Thành Tô Châu phía chính nam tiếp gần với Thái Hồ, Lý Tuấn tôi muốn xin một chiếc thuyền vào lạch Nghi ứng, từ đó bí mật vào Thái Hồ rồi ra phía sông Ngô Giang nghe ngóng tin tức ở bờ nam, sau đó mới có thể tiến quân. Từ bốn phía ốp vào thì chắc chắn đánh tan được giặc.

Tống Giang nói:

- Hiền đệ nói rất phải, có điều không biết chọn ai cùng đi?

Nói đoạn bèn sai Lý ứng đem bọn Khổng Minh, Khổng Lượng, Thi ân, Đỗ Hưng đến các huyện Giang âm, Thái Thương, Côn Sơn, Thường Thục, Gia Định hiệp trợ với thủy quân để thu phục các huyện miền duyên hải, nhân tiện cho gọi anh em Đồng Uy, Đồng Mãnh về giúp Lý Tuấn. Lý ứng vâng lệnh chào Tống Giang rồi dẫn bốn phó tướng lên đường đi huyện Giang âm. Hai ngày sau Đồng Uy, Đồng Mãnh trở về chào Tống Tiên Phong để nhận lệnh. Tống Giang thăm hỏi công việc của anh em họ Đồng, rồi giao cho hai người giúp Lý Tuấn chèo thuyền đi nghe ngóng tin tức ở phía nam.

Nói tiếp việc Lý Tuấn cùng anh em Đồng Uy, Đồng Mãnh đi thuyền con do hai thủy thủ cầm chèo, tất cả năm người lướt nhẹ vào cảng Nghi ứng, rồi theo đường vòng mà ra Thái Hồ. Nhìn quanh phong cảnh Thái Hồ quả là nơi trời nước mênh mông muôn khoảnh một màu xanh biếc. Bấy giờ Lý Tuấn cùng Đồng Uy, Đồng Mãnh và hai thủy thủ chèo thuyền con lướt nhanh qua Thái Hồ tiến dần đến sông Ngô Giang.

Từ xa đã nhìn thấy một đoàn thuyền đánh cá chừng bốn năm chục chiếc. Lý Tuấn nói:

- Bọn ta giả làm người mua cá, đến chỗ họ nghe ngóng xem sao.

Nói đoạn, Lý Tuấn cho thuyền đến gần chỗ thuyền đánh cá Lý Tuấn lên tiếng hỏi:

- Các bác chài có cá chép to không?

Người đánh cá đáp:

- Các vị muốn mua cá chép to xin mời về nhà.

Lý Tuấn bèn bảo chèo thuyền đi theo người đánh cá. Chẳng bao lâu thuyền của bọn họ đến một xóm nhỏ bên bờ sông có hàng liễu rủ. Phía trong hàng giậu có chừng hơn hai chục nóc nhà. Người đánh cá buộc thuyền rồi dẫn Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh lên bờ đi vào một trang viện. Đến cổng, người ấy đằng hắng một tiếng, bẩy gã to lớn từ hai bẩn tay cầm câu liêm nhảy ra trói nghiến bọn Lý Tuấn dẫn vào trang viện.

Bọn bảy người chẳng cần hỏi đầu đuôi trói ngay bọn Lý Tuấn vào gốc cây trang. Lý Tuấn ngước mắt thấy trên thảo đường có bốn hảo hán đầu đội mũ lông đen, bên người đeo khí giới.

Người ngồi đầu tóc vàng râu đỏ, mặc áo ngắn tay bằ~ ~ gấm xanh. Người thứ hai mình gầy, râu ngắn, mặc áo vải cổ viền màu xanh đen. Người thứ ba mặt đen, râu dài. Người thứ tư mặt xương, mép rộng, râu quăn. Cả hai người sau đều mặc áo nẹp màu xanh. Người cầm đầu bọn quát hỏi Lý Tuấn:

- Bọn các ông ở đâu? Đến đây làm gì?

Lý Tuấn đáp:

- Bọn tôi người bên Dương Châu, sang đây thăm bà con, nhân tiện ghé vào mua cá.

Người mặt xương xương nói:

- Đại ca không phải hỏi nữa, thoáng nhìn đệ đã biết ngay bọn này là quân do thám. Cứ cho đệ moi gan uống rượu là xong.

Lý Tuấn nghe vậy nghĩ thầm:

- "Đã bao năm ta làm nghề buôn bán trên sông Tầm Dương, lại mấy năm làm hảo hán ở Lương Sơn Bạc, ai ngờ hôm nay chịu chết ở đây. Chà, chà!

Lý Tuấn thở dài, ngoái sang nói với Đồng Uy, Đồng Mãnh:

- Hôm nay vì ta mà hai hiền đệ bị liên lụy, đành cùng chết làm ma với nhau một nơi.

Đồng Uy, Đồng Mãnh đáp:

- Đại ca đừng nói nữa, bọn đệ xin chết cùng đại ca. Có điều anh em ta chết uổng ở đây thì làm mất thanh danh của Tống huynh trưởng.

Ba người đưa mắt nhìn nhau, cùng phanh áo sẵn sàng chịu chết. Bốn hảo hán ngồi trên thảo đường vẫn để ý nghe bọn Lý Tuấn nói chuyện, rồi bảo nhau:

- Người cầm đầu kia chắc chẳng phải tay vừa.

Hảo hán đứng đầu hỏi:

- Bọn các ngươi là ai, hãy nói rõ họ tên cho ta biết.

Lý Tuấn đáp:

- Các ngươi muốn giết thì giết, còn ta thì có chết cũng không khai họ tên để khỏi bị hảo hán trong thiên hạ chê cười.

Hảo hán đứng đầu nghe xong liền đứng dậy, cầm dao cắt dây cởi trói cho ba người. Rồi cả bốn hảo hán đều xúm đến đỡ bọn Lý Tuấn, mời lên cùng ngồi trên thảo đường. Hảo hán cầm đầu sụp lạy, rồi hỏi:

- Bọn chúng tôi làm nghề lạc thảo ở đây chưa từng thấy một ai dũng cảm nghĩa khí như các vị. Xin các hảo hán vui lòng cho biết quý tính đại danh?

Lý Tuấn nói:

- Xem chừng cả bốn đại ca đây đều là hảo hán, vậy xin nói thật để tùy các vị đưa chúng tôi đi đâu thì đưa. Ba anh em chúng tôi đều là phó tướng thủ hạ của Tống Công Minh ở Lương Sơn Bạc. Tôi 13 Hỗn giang long Lý Tuấn, còn hai người đây là Xuất động giao Đồng Uy và Phan giang thẩn Đồng Lý Tuấn nói:

- Kế ấy rất hay?

Phí Bảo liền gọi mấy tên đánh cá sai đi nghe ngóng tin tức, còn mình cùng Lý Tuấn ở lại uống rượu trong trang trại.

Lý Tuấn nghỉ ngơi ở Du Liễu trang chừng hai ba hôm thì thủ hạ của Phí Bảo trở về báo tin.

- Ở trấn Bình Vọng có mười mấy chiếc thuyền vận chuyển, sau đuôi thuyền có cắm cờ vàng đề chữ "Thừa tạo vương phủ y giáp (vâng lệnh chế quần áo giáp trụ cho vương phủ). Có lẽ những thuyền ấy đều từ Hàng Châu tới, mỗi thuyền chỉ có chừng sáu bẩy thủy thủ.

Lý Tuấn nói:

- Thật là một dịp may. Mong các anh em hết sức giúp cho.

Phí Bảo nói:

- Chúng ta sẽ đi ngay hôm nay.

Lý Tuấn nói:

- Nếu để một tên chạy thoát thì sẽ hỏng cả.

Phí Bảo nói:

- Đại ca cứ yên lòng, tiểu đệ đã sắp đặt đâu vào đó.

Nói đoạn Phí Bảo cho đem đến sáu bẩy chục chiếc thuyền đánh cá, bẩy hảo hán mỗi người đi một thuyền, số còn lại đều là những người giả làm dân đánh cá, ai nấy đều ngầm dắt theo vũ khí, từ rạch nhỏ chèo ra sông lớn rồi tản đi bốn phía.

Đêm ấy trăng sao đầy trời, mười chiếc thuyền vận chuyển của Phương Lạp đậu cả trước miếu Long Vương ở bờ sông phía đông. Thuyền của Phí Bảo đến trước, nghe một tiếng còi hiệu, sáu bẩy chục chiến thuyền cá liền vọt lên giúp sức các thuyền lớn, thủy thủ trên các thuyền của Phương Lạp chui ra liền bị câu liêm móc ngã rồi cứ trói bốn năm tên lại làm một. Những tên nhẩy xuống nước cũng bị bọn Lý Tuấn dùng câu liêm lôi lên thuyền. Sau đó những người đi trên thuyền con áp sát đoàn thuyền vận chuyển của Phương Lạp dong sâu vào trong Thái Hồ, khoảng canh tư thì đến Du Liễu trang.

Tất cả bọn lâu la tiểu tốt của Phương Lạp đều bị buộc đá ném xuống hồ, chỉ giữ lại hai tên cầm đầu để xét hỏi. Nguyên hai tên này là người coi kho, thủ hạ của thái tử Nam An vương Phương Thiên Định, vâng lệnh chỉ hộ tống đoàn thuyền từ Hàng Châu chở ba nghìn giáp sắt mới chế đến TÔ Châu giao cho Phương Mạo. Lý Tuấn bắt hai tên khai rõ họ tên, bắt nộp văn thư quan phòng rồi cũng cho về chầu hà bá. Lý Tuấn nói:

- Việc này phải bàn với Tống huynh trưởng đã.

Phí Bảo nói:

- Đệ sẽ cho thuyền chở đại ca theo lạch nhỏ về trại là tiện nhất.

Nói đoạn Phí Bảo sai hai tên thủ hạ làm dân đánh cá chèo thuyền đưa Lý Tuấn trở về. Lý Tuấn căn dặn Đồng Uy, Đồng Mãnh hợp sức cùng bọn Phí Bảo lặng lẽ đưa các thuyền chở áo giáp vào giấu ở lạch phía sau trang viện. Phí Bảo nói:

- Đại ca cứ yên lòng, ở đây tất không xây ra việc gì.

Nói đoạn tự mình đi lo liệu việc cất giấu đoàn thuyền.

Lại nói hai người đánh cá chèo thuyền đưa Lý Tuấn theo lạch nhỏ về đến doanh trại đóng trên bờ gần chùa Hàn sơn.

Lý Tuấn vào trước yết kiến Tống tiên phong kể lại mọi việc.

Quân sư Ngô Dụng nghe xong cả mừng nói:

- Nếu như vậy thì thành TÔ Châu có thể xoa tay là lấy được xin tiên phong truyền lệnh cho bọn Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn dẫn hai trăm quân đao thuẫn theo Lý Tuấn về Du Liễu trang ở Thái Hồ cùng với bọn Phí Bảo bốn hảo hán cứ như thế... như thế... mà làm, hẹn ngày hôm sau nữa thì cho quân xuất phát.

Lý Tuấn tuân lệnh cùng hai người đánh cá đưa bọn Lý Qùy cùng lên thuyền chèo qua Thái Hồ đến Du Liễu trang.

Lý Tuấn dẫn bọn Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn đến gặp anh em Phí Bảo. Anh em Phí Bảo thấy tướng mạo bọn lý Qùy hung dữ ai nấy đều sợ hãi. Phí Bảo mời Lý Tuấn đem cả hai trăm quân đao thuẫn vào trang viện bầy tiệc khoản đãi Đến ngày thứ ba, theo kế đã định, Phí Bảo đóng giả làm viên quan coi kho. Nghê Vân đóng giả làm phó quan cùng mặc áo dấu của quan quân Phương Lạp đem theo văn thư quan phòng. Bọn đánh cá làm thủy thủ chèo thuyền cũng đều mặc quần áo quân Phương Lạp. Bọn Hắc toàn phong Lý Qùy và quân đao thuẫn đều nấp trong khoang thuyền. Bốc Thanh và Địch Thành áp giải đoàn thuyền chở khí giới hỏa công đi sau. Mọi người đang chuẩn bị nhổ neo thì có tin quân đánh cá vào báo:

- "Trên hồ có một chiếc thuyền đang chèo đến". Lý Tuấn ngạc nhiên:

- Thuyền nào thế nhỉ?

Nói đoạn vội đi xem xét. Lý Tuấn nhận ra hai người đứng đầu mũi thuyền là Thần hành bảo Đái Tôn và Oanh thiên lôi Lăng Chấn. Lý Tuấn hít còi làm hiệu, chiếc thuyền kia vun vút chèo vào bờ. Mọi người gặp nhau vui vẻ. Lý Tuấn nói:

- Hai đại ca đến chắc có việc gấp?

Đái Tôn đáp:

- Tống tiên phong vội sai anh em Lý Qùy đi nên quên mất một việc lớn cho nên sai ta và Lăng Chấn chở đến một trăm quả pháo hiệu. Ở đây toàn sông nước chắc khó mà tìm ra.

Huynh trưởng dặn, sáng mai vào giờ Mão thì cho quân tiến vào thành. Hễ vào đến nơi bắn hết chỗ pháo này báo hiệu cho đại quân biết.

Lý Tuấn nói:

- Hay quá!

Rồi cho chuyển các giá súng và pháo hiệu sang cất giấu ở các thuyền chở áo giáp. Bọn Phí Bảo nghe tin Đái Tôn đến lại cho dọn rượu khoản đãi. Mười pháo thủ của Lăng Chấn đều nấp trong chiếc thuyền thứ ba. Đêm ấy vào khoảng canh tư mọi người rời trang viện xuống thuyền, tảng sáng chèo đến chân thành TÔ Châu. Quân canh đứng trên mặt thành, từ xa đã nhìn rõ cờ hiệu của quân nam, vội báo tin cho chủ tướng là Phi Báo đại tướng quân Quách Thế Quảng. Thế Quảng đích thân lên mặt thành gọi hỏi cặn kẽ rồi mới thả dây xuống nhận văn thư kéo lên. Xem xong Quách Thế Quảng liền sai người chuyển thư vào trình lên Đệ tam đại vương. Phương Mạo được tin vội sai người ra xem xét. Quách Thế Quảng đến ngồi bên cửa sông đốc thúc quân sĩ khám xét, chỉ thấy các thuyền chở đầy giáp sắt, áo dấu. Quách Thế Quảng cho từng chiếc lần lượt vào thành. Sau khi cả mười chiếc thuyền đã đi qua, Thế Quảng liền sai đóng cửa sông. Quan giám thị do Phương Mạo sai tới dẫn năm trăm quân đi theo trên bờ, đến đoạn sông vòng thì lệnh cho đoàn thuyền dừng lại. Bọn Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn từ trong khoang thuyền chui ra. Tên quan giám thị trông thấy bốn người tướng mạo hung dữ, chưa kịp hỏi đã bị Hạng Sung, Lý Cổn xông tới vung đao chém rơi đầu. Quân Phương Lạp ở trên bờ định xô xuống thuyền, liền bị Lý Qùy vung đôi búa xông đến đánh, chỉ trong khoảnh khắc chém lăn hơn mười tên. Năm trăm quân đao thuẫn trên thuyền nhất loạt xông lên bờ châm mồi đốt lửa.

Các pháo thủ của Lăng Chấn chuyển giá súng lên bờ bắn liền hơn chục phát pháo hiệu. Tiếng pháo nổ làm rung chuyển cả lầu thành. Quân Tống từ bốn phía ồ ạt đánh vào.

Đại vương Phương Mạo đang ngồi trong phủ bàn định mưu kế, nghe tiếng hỏa pháo liên tiếp nổ vang, giật mình kinh sợ.

Tướng trấn thủ các cửa thành nghe phía trong súng nổ không ngớt vội đem quân chạy vào. Các cửa thành cùng lúc báo tin quân canh bị tên ngầm bắn chết, quân Tống đã trèo lên chiếm thành. Quân dân trong thành TÔ Châu nháo nhác không biết quân Tống nhiều ít bao nhiêu. Hắc toàn phong Lý Qùy và Bao Húc cùng hai tên quân đao thuẫn sục sạo khắp nơi tìm quân nam mà chém giết. Lý Tuấn, Đái Tôn cùng bọn anh em Phí Bảo hộ vệ cho các pháo thủ của Lăng Chấn bắn súng. Ba cánh quân của Tống Giang ồ ạt xông đến chiếm thành. Quân Phương Lạp tan rã tìm đường chạy trốn.

Đệ tam đại vương Phương Mạo vội khoác giáp lên ngựa dẫn năm trăm quân mặc giáp sắt, cướp đường chạy về phía nam không ngờ gặp bọn Hắc toàn phong Lý Quỳ. Quân của Phương Mạo bị chặn đánh bỏ chạy tán loạn. Vừa lúc đó Lỗ Trí Thâm từ trong ngõ hẻm vung thiền trượng xông ra. Phương Mạo chống cự không nổi phải quay ngựa về phủ. Từ dưới cầu Ô Thước, Võ Tòng kịp thời đuổi theo lia một đao chém đứt chân ngựa. Phương Mạo lăn xuống liền bị Võ Tòng chém ngã, rồi khua đao cắt lấy thủ cấp đem về nộp trước trướng Tống tiên phong.

Bấy giờ Tống Giang đã vào thành đóng dinh trong vương phủ của Phương Mạo, truyền lệnh cho các tướng đi tìm đánh bọn tàn quân cò n ẩn náu trong thành. Quân tướng của Phương Mạo bị bắt sống hết, chỉ một mình Lưu Bân dẫn tàn quân chạy thoát về Tú Châu. Có thơ làm chứng như sau:

- Thần khí tùng lai bất khả cam, Tiếm vương xưng hiệu tự năng an.

Võ Tòng lập mã tru Phương Mạo,.

Lưu dữ hung ngoan tố dạng khan.

Ngôi báu xưu nay thật khó lay,.

Tiêm xưng danh hiệu họa nào tày.

Võ Tòng dùng ngựa đâm Phương Mạo.

Gian ác xem gương thủ cấp này.

Tống Giang truyền lệnh cho các tướng sĩ không được giết hại lương dân trăm họ, một mặt sai quân đi dập tắt các đám cháy, rồi cho treo bảng hiểu dụ vỗ yên dân chúng. Sau đó Tống Giang triệu họp các tướng để báo công xét thưởng:

- Võ Tòng giết Phương Mạo, Chu Đồng bắt sống Từ Phương, Sử Tiến bắt sống Chấn Thành, Tôn Lập giết Trương Uy, Lý Tuấn đâm giết Xương Thỉnh, Phàn Thụy giết Ô Phúc, Tuyên Tán giao chiến với Quách Thế Quảng cả hai đều bị thương người ngựa rơi xuống sông mà chết. Các đầu lĩnh khác bắt được tướng giặc cũng đem đến báo công lĩnh thưởng. Tống Giang hết sức đau buồn về việc Xú quận mã Tuyên Tán chết trận, bèn sai người đóng áo quan khâm liệm rồi đưa đến mai táng dưới chân núi Hổ Khẩu. Một mặt Tống tiên phong sai đem thủ cấp của Phương Mạo và áp giải bọn Từ Phương, Chấn Thành đến Thường Châu giao nộp trước quân doanh của Trương chiêu thảo. Trương chiêu thảo sai đem chém bọn Từ Phương, Chấn Thành bêu đầu ở chợ, còn thủ cấp của Phương Mạo thì sai người đem nộp về kinh sư. Một mặt cho đem vàng bạc phẩm vật đến TÔ Châu ban thưởng các tướng. Trương chiêu thảo lại gửi thư mời đô đốc Lưu Quang Thế dện trấn thủ TÔ Châu, một mặt truyền lệnh cho Tống tiên phong thừa thắng tiến quân truy bắt quân giặc. Quân thám mã vào báo:

- "Lưu đô đốc và Cảnh tham mưu đang trên đường đến TÔ Chầu.

Ngay ngày hôm ấy, các tướng theo Tống tiên phong ra ngoài thành đón tiếp, mời đô đốc Lưu Quang Thế và các quan cùng đi vào nghỉ trong cung phủ của Phương Mạo. Lễ chào mừng đã xong, Tống Giang và các tướng trở về phủ đường bàn định công việc. Tống Giang sai người đi tìm các đầu lĩnh thủy quân để hỏi tình hình đánh chiếm các huyện miền duyên hải. Không bao lâu Tống tiên phong nhận được tin quân Phương Lạp ở các huyện ven biển đã tan rã, chạy trốn. Tống Giang cả mừng gửi văn thư về dinh trung quân báo tin thắng trận, mời Trương chiêu thảo đến hiểu dụ cho các quan lại cũ trở lại làm việc, một mặt điều các viên thống chế ở trung quân đi đóng giữ các nơi, một mặt ra lệnh cho các đầu lĩnh thủy quân đem thuyền về TÔ Châu chờ lệnh. Mấy ngày sau các viên thống chế đem quân đi các nơi đóng giữ. Các đầu lĩnh thủy quân cũng đã trở về TÔ Châu. Bấy giờ mới biết khi ba anh em họ Nguyễn đánh vào huyện Thường Thục, tiếp đó đánh sang huyện Côn Sơn thì Thi ân, Khổng Lượng tử trận. Bọn Thạch Tú, Lý ứng đã đem quân trở về, Thi ân và Khổng Lượng vì không biết bơi mà chết đuối. Tống Giang đau buồn thương tiếc mãi. Võ Tòng nghĩ tình nghĩa anh em, khóc lởn hồi lâu.

Bốn anh em bọn Phí Bảo đến từ biệt Tống tiên phong để trở về. Tống Giang nài giữ mãi không được bèn trọng thưởng, rồi sai Lý Tuấn tiễn đưa bốn người về Du Liễu trang. Về đến nơi anh em Phí Bảo bầy tiệc rượu khoản đãi bọn Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh. Trong bữa rượu, Phí Bảo đứng dậy chạm chén và nói với Lý Tuấn mấy câu.

Chỉ biết rằng về sau Lý Tuấn rời bỏ đất Trung nguyên, biệt lập cơ nghiệp ở hải ngoại..

Đúng là:

Hết đời đạt mệnh cóc rời vỏ,.

Lập nghiệp thành danh cá hóa rồng.

Chưa biết Phí Bảo nói với Lý Tuấn những gì, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 114 - Thành Hàn Châu, Tống Giang Viếng Bạn

Đang nói chuyện lúc ấy Phí Bảo nói với Lý Tuấn:

- Tiểu đệ tuy là kẻ suất phu lỗ mãng nhưng cũng.nghe những người có học từng nói:

- "Việc đời có thành có bại, đời người có thịnh có suỵ Đại ca ở Lương Sơn Bạc huân nghiệp đến nay đã mười mấy năm, từng quen trăm trận trăm thắng. Khi đánh quân Liêu, anh em chưa từng mất người, lần này đi đánh Phương Lạp nhuệ khí xem chừng không bằng trước nữa,.nghĩ số trời cũng chẳng còn bao lâu. Đại ca có biết vì sao tiểu đệ không muốn ra làm quan không? Chẳng qua vì tình đời đen bạc. Đến ngày thái bình, bất cứ kẻ nào cũng có thể làm hại được tính mệnh đại cạ Người xưa có cảu:

- "Thái bình vốn do tướng quân định, tướng quân không được hưởng thái bình".

Lời nói ấy thật đúng. Bốn anh em tiểu đệ đã kết nghĩa với nhau, thiết nghĩ ba anh em đại ca cũng nên nhân lúc số mệnh chưa hết, góp nhặt tiền nong mua chiếc thuyền lớn, tụ tập dăm anh em thủy thủ tìm nơi yên ổn sinh sống cho đến trọn đời chẳng phải tốt đẹp hay sao?

Lý Tuấn nghe xong sụp lạy, nói:

- Cám ơn lời chỉ giáo sáng suốt của nhân huynh, tiểu đệ đã thấy rõ điều mê muội. Có điều là chưa dẹp xong Phương Lạp, còn nặng ơn nghĩa với Tống Công Minh, chưa nỡ bỏ đi.

Ngày hôm nay Tống Công Minh tiễn anh em nghĩa sĩ ra về, Lý Tuấn tôi thấy không còn nghĩa khí anh em cùng nhau tu.

hội như trước nữa. Nếu các anh em ở đây có lòng với Lý Tuấn tôi thì xin chờ khi dẹp xong Phương Lạp, Lý Tuấn tôi sẽ cùng hai hiền đệ Đồng Uy, Đồng Mãnh đến đây rồi anh em chúng ta sẽ cùng tính chuyện. Các anh em ở đây lo liệu trước. Nếu Lý Tuấn tôi phụ lời ước hẹn hôm nay thì trời ghét bỏ, chẳng xứng là đấng nam nhi.

Bọn Phí Bảo nói:

- Anh em đệ chuẩn bị trước thuyền bè chờ đợi, đại ca không được quên lời hứa đẩy.

Nói đoạn Lý Tuấn và Phí Bảo nâng chén kết nghĩa anh em, cùng nhau hẹn ước, quyết không phụ lời thề.

Ngày hôm sau Lý Tuấn từ biệt bốn anh em bọn Phí Bảo rồi cùng Đồng Uy, Đồng Mãnh trở về quân doanh yết kiến Tống tiên phong. Lý Tuấn kể lại cho Tống Giang nghe chuyện anh em Phí Bảo chỉ muốn thanh thản làm nghề đánh cá không muốn ra làm quan. Tống Giang buồn rầu truyền lệnh chỉnh đốn các quân thủy bộ để chuẩn bị lên đường. Khắp huyện Ngô Giang không còn bóng quân giặc, Tống tiên phong đưa quân tiến đến lấy trấn Bình Vọng, rồi thừa thắng ruổi dài về phía Tú Châu. Tướng trấn thủ Tú Châu là Đoàn Khải nghe tin Đệ tam đại vương Phương Mạo ở TÔ Châu đã chết, chỉ nghĩ cách thu vén của cải rút chạy. Quân do thám về báo tin đại quân của Tống Giang đã đến cách thành không xa, các ngả đường thủy bộ cờ xí rợp trời, ngựa thuyền nối nhau. Đoàn Khải sợ hãi rụng rời. Lúc ấy bên quân Tống chỉ huy tiền đội là hai đại tướng Quan Thắng, Tần Minh đã dẫn quân đến dưới thành. Quân thủy cũng được lệnh đưa thuyền tiến đến vây chặt cửa phía tây, Đoàn Khải đứng trên mặt thành nói lớn:

- Xin các vị tướng quân ngừng đánh, quân trong thành chúng tôi xin ra hàng.

Nói đoạn, Đoàn Khải ra lệnh mở cửa thành rồi theo đoàn người khiêng hương án, dắt dê, gánh rượu đích thân ra ngoài thành nghênh tiếp, mời Tống tiên phong vào phủ đường nghi?

ngơi. Đoàn Khải dẫn đầu các ngụy quan vào chào Tống tiên phong. Tống Giang an ủi Đoàn Khải cho phép được trở lại làm lương dân, sau đó treo bảng chiêu an ở các nơi trong thành. Đoàn Khải cảm tạ nói:

- Khải tôi nguyên là người ở Mục Châu, bị Phương Lạp bức bách phải làm quan nên chưa có dịp quy thuận. Nay thiên binh đến, Đoàn Khải tôi đâu dám không đầu hàng.

Tống Giang hỏi:

- Thành quân Ninh Hải ở Hàng Châu do người nào trấn thủ? Tướng sĩ người ngựa có bao nhiêu?

Đoàn Khải thưa:

- Thành Hàng Châu vừa dài vừa rộng, dân c~ đông đúc, phía đông bắc là miền đất cao, còn phía nam là sông lớn, phía tây là vùng đầm hồ, do thái tử của Phương Lạp là Nam An vương Phương Thiên Định đóng giữ. Bộ hạ của Phương Thiên Định có hơn bẩy vạn quân mã do bốn viên nguyên súy và hai mươi tư viên chiến tướng chỉ huỵ Hai viên tướng cầm đầu, một người là Đặng Nguyên Giác, tăng nhân ở Hấp Châu, biệt hiệu "Bảo quang Như Lai", quen dùng cây thiền trượng sắt nặng hơn năm mươi cân, thường được gọi là "quốc sứ; một người là Thạch Bảo quê ở Phúc Châu quen dùng cây chùy lưu tinh đánh trăm đòn trăm trúng, cũng giỏi đánh "Bích phong đao" cắt sắt chặt đồng đâm xuyên ba lần giáp sắt. Hại mươi sáu chiến tướng đều được lựa chọn qua các kỳ thi tuyển, đều là những người dũng cảm, hung tợn, xin tiên phong chớ coi thường.

Tống Giang nghe xong bèn sai lấy tặng vật ban thưởng rồi cho người đưa Đoàn Khải đến quân doanh của Trương chiêu thảo kể rõ sự việc. Sau đó Đoàn Khải được phép ở lại giúp Trương chiêu thảo đóng giữ TÔ Châu. Một mặt Trương chiêu thảo ủy cho phó đô đốc Lưu Quang Thế đến đóng giữ Tú Châu, còn Tống tiên phong thì rời quân đến đóng trại ở vùng đình uy Lý.

Bấy giờ Tống Giang mở tiệc khao thưởng cáe tướng rồi cùng bàn việc điều binh đi đánh Hàng Châu. Tiểu toàn phong Sài Tiến đứng dậy nói:

- Sài Tiến tôi từ lúc đội ơn nhân huynh cứu mạng ở Đường Châu đến nay thường được nhân huynh quý mến, được hưởng vinh dự mà chưa có dịp báo đáp. Nay Sài Tiến tôi xin thâm nhập vào sào huyệt của Phương Lạp làm do thám, mong lập công trạng để báo đáp triều đình và làm sáng rõ uy danh của huynh trưởng. Chưa biết huynh trưởng có cho phép hay không?

Tống Giang cả mừng nói:

- Nếu Sài đại quan nhân tự nguyện lọt vào sào huyệt giặc điều tra làm rõ địa hình núi sông để đại quân đánh vào bắt sống đầu sỏ Phương Lạp giải về kinh sư thì hay biết chừng nào! Anh em ta cùng lập công lớn, chung hưởng phú quý. Chỉ e đường sá xa xôi, hiền đệ phải chịu vất vả.

Sài Tiến nói:

- Có chết đệ cũng vui lòng, chỉ xin huynh trưởng cho phép Yến Thanh cùng đi. Yến Thanh là người am hiểu đường sá, thổ ngữ, lại rất biết tùy cơ ứng biến.

Tống Giang nói:

- Ta ưng thuận như lời hiền đệ, có điều là Yến Thanh hiện giờ còn đang ở trong quân của Lư Tuấn Nghĩa, phải chờ gửi văn thư điều về.

Mọi người đang bàn bạc chưa xong thì có tin Lư Tuấn Nghĩa đặc cách sai Yến Thanh đến báo tin tháng trận. Tống Giang cả mừng nói với Sài Tiến:

- Hiền đệ đi chuyến này tất sẽ lập được công lớn. Đang nhắc Yến Thanh thì Yến Thanh vừa đến, đó cũng là điềm tốt.

Sài Tiến rất vui mừng. Yến Thanh đến quân doanh, vào dưới trướng yết kiến Tống Giang. Tống tiên phong sai bưng cơm rượu ra mời rồi hỏi:

- Khi Đái Tôn về đây nói Lư tiên phong đã tiến đánh Hồ Châu, sự việc thế nào?

Yến Thanh đáp:

- Sau khi rời Tuyên Châu, Lư tiên phong chia quân hai đường. Lư tiên phong đem nửa số quân mã tiến đánh Hồ Châu, giết tướng trấn thủ là Cung ôn và thủ hạ năm viên phó tướng, đánh tan quân giặc, thu phục Hồ Châu, vỗ yên trăm họ. Một mặt gửi văn thư trình lên Trương chiêu thảo xin chọn thống chế đến trấn thủ, một mặt sai Yến Thanh tôi về đây báo tin thắng trận với huynh trưởng. Quân mã còn lại giao cho Lâm Xung chỉ huy tiến đánh cửa ải Độc Tùng, sau đó sẽ về hội quân ở Hàng Châu. Khi tiểu đệ trên đường đến đây nghe nói quân Lâm Xung liên tiếp đánh vào cửa ải Độc Tùng nhưng chưa lấy được. Lư tiên phong phải cùng với phó quân sư Chu Vũ đến tận nơi xem xét. Trước khi đi Lư tiên phong đã ủy cho tướng quân HÔ Diên Chước thống lĩnh quân mã đóng giữ Hồ Châu, đợi khi có thống chế do Trương chiêu thảo gửi đến thì giao quyền lại, tiếp tục đem quân tiến đánh huyện Đức Thanh rồi về hội quân ở Hàng Châu.

Tống Giang lại hỏi:

- Hiền đệ hãy cho ta biết các tướng đóng giữ Hồ Châu, sau đó sang đánh huyện Đức Thanh? Những ai đi đánh ải Độc Tùng? Số còn lại cùng HÔ Diên Chước giữ thành Hồ Châu là những ai?

Yến Thanh đáp:

- Hiện có bản kê ở đây:

- Hai mươi ba viên chánh phó tướng đem quân đi đánh cửa ải Độc Tùng là:

- Tiên phong Lư Tuấn Nghĩa, Chu Vũ, Lâm Xung, Đổng Bình, Trương Thanh, Giải Trân, Giải Bảo, Lã Phương, Quách Thịnh, âu Bằng, Đặng Phi, Lý Trung, Chu Thông, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Lý Lập, Bạch Thắng, Thang Long, Chu Quý, Chu Phú, Thời Thiên.

Mười chín chánh phó tướng đóng giữ Hồ Châu, sau đó tiến quân đánh huyện Đức Thanh là:

- HÔ Diên Chước, Sách Siêu, Mục Hoẵng, Lôi Hoành, Dương Hùng, Lưu Đường, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Trần Đạt, Dương Xuân, Tiết Vĩnh, Đỗ Thiên, Mục Xuân, Lý Vân, Thạch Dũng, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương.

Tướng tá ở hai cánh quân nói trên tất cả là bốn mươi hai người, khi tiểu đệ ra đi mọi người đã bàn bạc xong, tất sẽ tiến quân theo kế đã định.

Tống Giang nói:

- Tiến quân theo hai đường ấy là đúng. Vừa rồi các anh em ở đây bàn bạc, Sài đại quân nhân muốn cùng hiền đệ lọt vào sào huyệt Phương Lạp để do thám, không biết hiền đệ có muốn đi không?

Yến Thanh đáp:

- Chủ soái sai cùng đi với Sài đại quan quân, tiểu đệ đâu dám từ chối.

Sài Tiến rất mừng nói:

- Sài Tiến tôi sẽ đóng giả làm một kẻ nho sinh, hiền đệ đóng làm người hầu. Một thầy một tớ cứ đeo gươm đàn sách vở mà đi đường thì không ai nghi ngờ gì. Ta sẽ men theo đường biển, tìm thuyền đi sang Việt Châu rồi từ đó theo đường nhỏ xuyên núi vào Mục Châu chẳng còn bao xa.

Hai người bàn định xong, chọn ngày lên đường. Sài Tiến và Yến Thanh vào chào Tống tiên phong rồi thu xếp hành lý đi về phía vùng ven biển tìm thuyền sang Việt Châu, chuyện không có gì phải nói.

Lại nói quân sư Ngô Dụng ngồi trong quân doanh bàn với Tống tiên phong:

- Phía nam Hàng Châu có sông Tiền Đường chảy thông ra biển. Nếu cho mấy người chèo thuyền nhỏ từ phía ngoài biển tiến vào cửa Chừ Sơn rồi từ đó theo sông vào đến sát cửa nam thành, bắn pháo treo cờ làm hiệu thì trong thành tất phải hoảng hốt. Nếu tiên phong đồng ý thì xin cử vài đầu lĩnh thủy quân làm theo kế ấy.

Ngô Dụng chưa dứt lời, Trương Hoành và ba anh em ho.

Nguyễn đều lên tiếng:

- Anh em tiểu đệ xin đi.

Tống Giang nói:

- Phía tây Hàng Châu là vùng ao hồ rất cần đến các đầu lĩnh thủy quân, các hiền đệ không nên đi cả chuyến này.

Ngô Dụng nói:

- Chỉ Trương Hoành và Nguyễn Tiểu Thất dẫn Hầu Kiện, Đoàn Cảnh Trụ đi theo là đủ.

Bấy giờ Tống tiên phong bèn sai bọn Trương Hoành bốn đầu lĩnh cùng hai ba mươi thủy thủ và hơn mười pháo thu?

tự đến miền ven biển tìm thuyền mà vượt sóng sông Tiền Đường.

Xin các vị độc giả hiểu cho, đoạn kể trên đây có phần vụn vặt, sách vở người xưa kể lại cũng đều có những tình tiết ấy cả, có điều là khó kể ra một lúc.

Qúy vị cứ thư thả, các đầu mối sẽ dần dần tự sáng tỏ ra, xin các vị nhớ kỹ từng đầu mối thì sẽ thấy rõ sự sâu sắc của câu chuyện.

Lại nói Tống Giang cắt cử quan tướng đâu đó đã xong bèn trở về Tú Châu bàn định kế sách tiến đánh Hàng Châu. Mọi người đang sửa soạn công việc, bỗng có tin sứ giả từ Đông Kinh đem ngự tửu và tặng vật ban thưởng đã đến ngoài phủ thành. Tống Giang liền dẫn các đầu lĩnh lớn nhỏ ra nghênh đón, mời sứ giả vào thành. Anh em Tống Giang làm lễ tạ Ơn rồi mở tiệc rượu khoản đãi. Trong bữa tiệc sứ giả nhân tiện cho biết theo lời tâu của thái y viện, thiên tử đã có lệnh triệu thần y An Đạo Toàn về kinh để túc trực hầu hạ Ở ngự tiền.

Tống Giang nghe lệnh không dám ngăn trở.

Ngày hôm sau, khoản đãi sứ giả xong, anh em Tống Giang theo đưa chân đi mười dặm trường đình mới mở rượu tiễn sứ giả và An Đạo Toàn về kinh. Có thơ làm chứng như sau:

- Yên Tử thanh nang nghệ tối tinh.

Sơn Đông hành tán hữu thanh danh.

Nhân khoa mạch đắc Thương Công điệu,.

Tự phu đan như Kế Tử thành.

Quát cốt lập khan kim thốc xuất,.

Giải cơ thời kiến nhận ngân bằng.

Lương Sơn kết nghĩa kiên như thạch,.

Thử biệt nan vong thủ túc tình.

Yên Tử bao xanh dược nghệ tinh.

Sơn Đông thang thuốc nổi thanh danh.

Thương Công mạch pháp tài chưa sánh.

Kế Tử cao đan thuộc kém nhanh.

Xương nát đứng xem liền một mối.

Thịt tan chốc thấy vết thương lành.

Lương Sơn kết nghĩa bền như đá.

Viễn biệt khôn nguôi nặng nghĩa tình.

Lại nói sau khi phân chia tặng vật ban thưởng cho các tướng, Tống Giang chọn ngày làm lễ tế cờ xuất quân. Tống Giang từ biệt Lưu đô đốc và Cảnh tham mưu, khoác giáp lên ngựa, truyền lệnh cho các quân thủy bộ xuất phát, thuyền ngựa cùng tiến. Đại quân tiến đến huyện Sùng Đức, tướng trấn thủ huyện thành nghe tin hoảng hốt cuốn gói chạy về Hàng Châu.

Lại nói thái tử của Phương Lạp là Phương Thiên Định triệu hội các tướng đến hành cung bàn định mưu kế. Nền cũ cung Song Tường ngày nay chính là hành cung lúc bấy giờ. Thu?

hạ của Phương Thiên Định có bốn viên đại tướng. Đó là:

- Bảo Quang Như Lai quốc sứ Đặng Nguyên Giác, Nam ly đại tướng quân nguyên súy Thạch Bảo, trấn quốc đại tướng quân Lệ Thiên Nhuận, Hộ quốc đại tướng quân Tư Hành Phương. Cả bốn tướng đều xưng "Nguyên súy đại tướng quân", là tước hiệu do Phương Lạp phong chọ Các phó tướng có hai mươi bốn viên, đó là:

- Lệ Thiên Hựu Ngô Trị, Triệu Nghi, Hoàng ái, Tiền Trung, Thang Phùng Sĩ, Vương Tích, Tiết Đẩu Nam, Lãnh Cung, Trương Kiệm, Nguyên Hưng, Điêu Nghĩa, ôn Khắc Nhượng, Mao Địch, Vương Nhân, Thôi Vức, Liêm Minh, Từ Bạch, Trương Đạo Nguyên, Phong Nghi, Trương Thao, TÔ Kinh, Mễ Tuyền, Bốc ứng Quỳ.

Hai mươi bốn viên ấy đều được phong tước hiệu "tướng quân". Các chánh phó tướng tất cả là hai mươi tám người bấy giờ đều có mặt cả ở hành cung của Phương Thiên Định để nghị bàn việc quân. Phương Thiên Định nói:

- Quân thủy bộ của Tống Giang đã qua Giang Nam, quân ta đã mất ba trận lớn, chỉ có Hàng Châu làm tấm bình phong cho triều đình. Nếu Hàng Châu thất thủ thì Mục Châu không lấy gì chống giữ. Trước đây tư thiên giám Phố Vân Anh tâu rằng:

- "Sao Thiên càng xâm nhập địa phận nước Ngộ Theo lý mà suy thì tai họa không nhỏ. Đúng là ứng với quân tướng của bọn Tống Giang. Nay bọn chúng đã phạm đến địa phận nước Ngô, các ngươi được hưởng quan cao tước trọng của triều đình, phải đem hết lòng báo đáp không được nhụt chí.

Bọn tướng tá đều tâu với Phương Thiên Định:

- Xin chủ tướng cứ yên lòng. Bên ta bao nhiêu tinh binh dũng tướng mà không địch nổi với Tống Giang, nay lại mất thêm mấy châu quận nữa, đó là vì chưa chọn được tướng giỏi cầm quân mới đến nông nỗi ấy. Nay bọn Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa chia quân ba đường tiến đánh Hàng Châu, xin điện hạ cùng quốc sư đóng giữ các thành trì miền duyên hải để giữ vững cơ nghiệp muôn đời. Bọn thần và các tướng xin cầm quân đi chặn địch.

Phương Thiên Định cả mừng truyền lệnh chia quân mã làm ba đường, chỉ Lưu quốc sư Đặng Nguyên Giác ở lại cùng lo giữ thành. Ba viên nguyên súy chỉ huy ba cánh quân là:

- Hộ quốc nguyên súy Tư Hành Phương dẫn bốn viên chánh tướng Tiết Đẩu Nam, Hoàng ái, Từ Bạch, Mễ Tuyền đi cứu viện cho huyện Đức Thanh.

Trấn quốc nguyên súy Lệ Thiên Nhuận dẫn bốn viên chánh tướng Lệ Thiên Hựu, Trương Kiểm, Trương Thao, Diêu Nghĩa đi cứu viện ải Độc Tùng.

Nam ly nguyên súy Thạch Bảo dẫn tám viên chánh tướng ôn Khắc Nhượng, Triệu Nghị, Lãnh Cung, Vương Nhân, Trương Đạo Nguyên, Ngô Trị, Khiêm Minh, Phương Nghi đưa quân ra ngoài thành chặn đánh quân chính của Tống Giang.

Ba viên nguyên súy mỗi người chỉ huy một cánh quân gồm ba vạn người ngựa. Mọi việc cắt cử xong xuôi, Phương Thiên Định đem vàng lụa ban thưởng cho các tướng và đốc thúc đưa quân lên đường. Nguyên súy Tư Hành Phương đưa quân mã lên đường đi cứu ứng huyện Đức Thanh.

Hãy tạm chưa nói đến hai cánh quân đi cứu ứng ra sao.

Kể tiếp chuyện đại quân của Tống tiên phong vòng vèo tiến đến núi Lâm Bình. Từ xa đã nhìn thấy trên đỉnh núi có lá cờ đỏ lớn phần phật bay trước gió. Tống Giang liền sai hai chánh tướng Hoa Vinh và Tần Minh tiến lên trước. Một mặt đốc thúc chiến thuyền xe cộ vượt quá lên phía trên đê quai Trường An. Hai tướng Hoa Vinh, Tần Minh mỗi người dẫn một nghìn quân mã vòng qua đầu núi chưa kịp tiến lèn phía trước thì gặp ngay i(.rơ lg Thạch Bảo của quân Phương Lạp.

Hai tướng dưới quyền Thạch Bảo là Vương Nhâm. Phượng Nghi cắp giáo dài, thúc ngựa đến đánh Hoa Vinh và Tần Minh.

Hoa Vinh, Tần Minh vội dàn quân mã chặn đánh. Tần Minh vung cây lang nha côn xông đến đánh Phượng Nghị Hoa Vinh nâng thương thúc ngựa lên đánh Vương Nhân. Bốn viên chiến tướng ngồi trên lưng ngựa quần thảo đến hơn mười hiệp không phân thắng bại. Tần Minh, Hoa Vinh thấy phía sau quân nam có viện binh đang kéo đến, bèn nói lớn:

- "Tạm nghỉ". Nói đoạn quay ngựa chạy về trận nhà.

Hoa Vinh nói:

- Chớ nên ham đánh mau về báo cho huynh trưởng để bàn cách đối địch.

Nói đoạn liền sai ngườĩvề phi báo cho trung quân, Tống Giang vội dẫn bốn tướng Chu Đồng, Từ Ninh, Hoàng Tín, Tôn Lập tiến lên trước trận. Bên quân nam, Vương Nhân Phượng Nghi thúc ngựa ra giao chiến, quát lớn:

- Bọn bại tướng kia mau ra đánh tiếp.

Tần Minh cả giận múa cây lang nha côn thúc ngựa đến đánh Phượng Nghị Vương Nhân lại xông lên khiêu chiến với Hoa Vinh nhưng lại thấy một tướng khác cưỡi ngựa xông đến, đó là Từ Ninh. Hoa Vinh và Từ Ninh, một người cầm ngọn giáo vàng, một người cầm ngọn giáo bạc xông ra. Hoa Vinh thúc ngựa bám sát Từ Ninh. Không chờ Từ Ninh và Vương Nhân giao chiến, Hoa Vinh nhanh như cắt đã nâng cung tha?

một mũi tên bắn trúng Vương Nhân, hất Vương Nhân lăn nhào xuống ngựa. Quân nam trông thấy đều kinh sợ. Phượng Nghi giật mình thấy Vương Nhân bị bắn ngã ngựa chưa kịp trở tay đã bị Tần Minh vung lang nha côn đâm trúng. Quân của Phương Thiên Định hoảng hốt tan rã bỏ chạy. Đại binh quân Tống ào lên hỗn chiến. Nguyên súy Thạch Bảo chống cự không nổi, phải quay ngựa chạy về phía núi Cáo Đỉnh, hạ trại ở phía đông Tân Kiều. Hôm ấy trời đã tối không đối phó kịp, quân nam đành phải lui quân vào thành.

Ngày hôm sau quân mã của Tống tiên phong vượt qua núi Cáo Đỉnh tiến thẳng đến đóng trại ở phía đông Tân Kiều.

Tống Giang truyền lệnh cho các tướng chia quân ba đường tiến đánh Hàng Châu. Các tướng chỉ huy ba cánh quân ấy là:

- Cánh quân bộ theo đường trấn Thang Long đánh vào cửa đông đặt dưới quyền các tướng Chu Đồng, Sử Tiến, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Vương Anh, Hỗ Tam Nương.

Cánh quân thủy từ phía bắc Tân Kiều tiến đánh lấy Cổ Đường cắt ngang đường phía tây, theo đường hồ áp sát vào cửa thành đặt dưới quyền các tướng Lý Tuấn, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Mạnh Khang.

Cánh quân giữa gồm đủ quân mã. quân bộ, quân thủy, chia làm ba đội đánh vào cửa Bắc Quan và cửa Cấn Sơn. Tiền đội là các chánh phó tướng:

- Quan Thắng, Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hách Tư Văn, Lăng Chấn. Đội thứ hai do chủ tướng Tống tiên phong và quân sư Ngô Dụng chỉ huy, dưới quyền có các chánh phó tướng là:

- Đái Tôn Lý Quỳ, Thạch Tú, Hoàng Tín, Tôn Lập, Phàn Thuỵ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Mã Lân, Tuyên Tán, Tưởng Kính, Yến Thuận, Tống Thanh, SAI Phúc, Sái Khánh, ục Bảo Tứ.

Đội thứ ba theo đường thủy đi sau tiếp ứng, có các chánh phó tướng là:

- Lý ứng, Khổng Minh, Đỗ Hưng, Dương Lâm.

Đồng Uy, Đồng Mãnh.

Các cánh quân thủy bộ cắt cử đã xong, đều theo mệnh lệnh tiến phát.

Trước hết hãy nói đội tiền quân của cánh quân giữa do Quan Thắng chỉ huy tiến đến phía đông Tân Kiều, khi đến nơi không thấy giặc. Quan Thắng có ý nghi ngờ, lại cho quân lui ra một mặt sai người báo cho Tống tiên phong biết. Tống Giang liền sai Đái Tôn đến truyền lệnh:

- Mỗi ngày chỉ cho hai đầu lĩnh đưa quân đi dò xét, chớ khinh suất tiến đánh.

Ngày đầu tiên Hoa Vinh và Tần Minh đem quân đi thám thính. Ngày thứ hai là Từ Ninh và Hách Tư Văn, luôn mấy ngày liền không thấy quân nam ra giao chiến. Hôm ấy đến lượt Từ Ninh và Hách Tư Văn dẫn mấy chục quân kỵ tiến thẳng đến cửa Bắc Quan. Bọn Từ Ninh thấy cổng thành mở toang bèn đi về phía cầu treo xem xét. Bỗng nghe một tiếng trống vang lên trên mặt thành, rồi một đội quân mã từ trong thành phóng ra. Từ Ninh và Hách Tư Văn định quay ngựa chạy thì từ phía con đường tắt đi sang cửa tây có tiếng quân lính reo hò, rồi hơn một trăm quân kỵ phi ngựa lao đến phía bọn Từ Ninh. Từ Ninh ra sức chống cự, đánh thoát khỏi vòng vây, khi ngoái lại không thấy Hách Tư Văn đâu cả. Từ Ninh quay lại thấy Hách Tư Văn bị quân giặc bắt trói sắp đưa vào thành. Từ Ninh chưa kịp quay lại thì đã bị trúng tên vào đầu, đành phải để cả mũi tên mà chạy về. Sáu viên tướng của Phương Thiên Định liền thúc ngựa đuổi theo. Từ Ninh may gặp Quan Thắng nên mới thoát được. Khi đến doanh trại thì ngã ngất. Sáu tướng của Phương Thiên Định bị Quan Thắng đánh lui phải chạy về thành. Quan Thắng vội sai người cấp báo với Tống tiên phong. Khi Tống Giang đến thăm thì Từ Ninh đã bị ứa máu khắp tai, mắt, miệng, mũi. Tống Giang rơi nước mắt gọi thầy thuốc đến chạy chữa. Sau đó Tống Giang sai đưa Từ Ninh xuống chiến thuyền nghỉ ngơi, đích thân đến thăm viếng. Vào khoảng canh ba đêm ấy thì Từ Ninh hôn mê, bấy giờ mới biết mũi tên có thuốc độc. Tống Giang ngửa mặt lên trời than rằng:

- "Thần y An Đạo Toàn đã bị gọi về kinh, không ai đủ tài chữa cho Từ Ninh. Từ nay anh em ta bị thương đành phải chịu thiệt mạng". Nói đoạn xót xa thương cảm hồi lâu. Bấy giờ quân sư Ngô Dụng đến mời Tống Giang về trại bàn công việc. Từ Ninh được đưa về Tú Châu điều trị nhưng vì thuốc độc đã ngấm sâu nên không chữa khỏi.

Lại nói Tống Giang sai người đi nghe ngóng tin tức của Hách Tư Văn, hôm sau quân thám mã trở về báo:

- "Bọn Phương Thiên Định đã chém Hách Tư Văn bêu đầu lên cửa Bắc Quan".

Tống Giang nghe tin vô cùng đau xót. Từ Ninh không chữa khỏi, nửa tháng sau cũng qua đời. Tống Giang mất liền hai tướng, bèn truyền lệnh án binh bất động, chỉ chặn giữ các con đường lớn.

Lại nói Lý Tuấn dẫn thủy quân đến đóng ở phía bắc Tân Kiều, sai quân vào sâu trong núi Cổ Đường thám thính tình hình quân giặc. Nghe thám mã trở về báo tin Hách Tư Văn bị giết, Từ Ninh trúng tên độc đã qua đời, Lý Tuấn bàn với Trương Thuận:

- Ở hướng tiến quân của ta trọng yếu nhất là cửa ải Độc Tùng và đoạn đường từ Hồ Châu đến huyện Đức Thanh thường có quân giặc mai phục. Nếu ta chặn con đường yết hầu của chúng thì chúng sẽ từ hai phía đánh khép vào, bọn ta ít quân khó lòng địch nổi. Chi bằng ta tiến thẳng một mạch đến núi Tây Sơn, dừng lại đóng giữ ở đó. Mặt nước Tây Hồ sẽ là bãi chiến trường, phía sau núi Tây Sơn thông với suối Tây Khê, có thể làm đường rút lui rất tốt.

Nói đoạn Lý Tuấn sai một tên tiểu hiệu về trung quân xin lệnh của Tống tiên phong, rồi dẫn quân vượt đèo Đào Nguyên tiến sâu vào núi Tây Sơn, dừng quân đóng trại ở chỗ ngày nay là chùa Linh ẩn. Xế về phía bắc, ở cửa núi Tây Khê nay là núi Cổ Đường cũng có một trại nhỏ. Đội tiền quân của Lý Tuấn đã đến do thám ở Đường Gia Trang. Hôm ấy Trương Thuận nói với Lý Tuấn:

- Quân giặc đã tháo chạy về Hàng Châu. Chúng ta đóng quân ở đây đã nửa tháng chỉ quanh quẩn trong núi chứ chưa được giao chiến thì biết đến bao giờ mới lập được công? Nay tiểu đệ muốn theo đường hồ lặn qua cửa sông mà vào thành.

Vào đẹn nơi tiểu đệ sẽ bắn pháo hiệu báo tin, đại ca ở ngoài cho quân đánh ngay vào chiếm lấy cửa sông, một mặt phi báo để Tống tiên phong truyền lệnh cho ba quân tiến đánh vào thành.

Lý Tuấn nói:

- Kế ấy rất hay? Chỉ sợ một mình hiền đệ không làm nổi.

Trương Thuận đáp:

- Dù phải xả thân cũng chưa đủ đáp ân tình sâu nặng của huynh trưởng Tống Công Minh.

Lý Tuấn nói:

- Hiền đệ hãy nán chờ để ta báo cho huynh trưởng đưa binh mã đi tiếp ứng.

Trương Thuận nói:

- Cứ để tiểu đệ làm ngay, một mặt đại ca cho người trình với huynh trưởng, như thế đến khi tiểu đệ vào thành thì Tống tiên phong cũng vừa biết việc.

Tối hôm ấy, Trương Thuận ăn uống no say, dắt dao nhọn ra đi. Đến bên bờ Tây Hồ, Trương Thuận thấy phía trước là ba ngọn núi xanh, một vùng nước biếc, xa xa là thành Hàng Châu, bốn tòa cổng thành cao ngất. Bốn cổng ấy là:

- Trấn Đường môn, Dũng Kim môn, Thanh Ba môn, Tiền Hồ môn. Các vi.

độc giả hãy nhớ cho nguyên thành Hàng Châu này, từ trước đời Tống gọi là trấn Thanh Hà, dưới thời tiên vương đổi làm quận Minh Hải, mở mười cửa thành:

- Phía đông có Thái Thi.

môn, Tiến Kiều môn, phía nam có Hầu Triều môn, Gia Hội môn; phía tây có Tiền Hồ môn, Thanh Ba môn, Dũng Kim môn, Tiền Đường môn phía bắc có Bắc Quan môn, Cấn Sơn môn. Sau ngày Cao Tông rời xuống phía nam đóng đô ở đây gọi là " Hoa Hoa Lâm an phử, lại mở thêm ba cửa thành khác. Đến khi Phương Lạp tiếm giữ thì ở đây vẫn còn đô cũ của tiền vương. Chu vi thành tám mươi dặm, tuy không được như dưới thời Cao Tông nhưng vẫn còn khá thịnh vượng, non sông tươi đẹp, nhân vật hào hoa, cho nên người đời truyền rằng:

- "Trên trời có thiên đường, dưới đất có Tô, Hàng. Học sĩ TÔ Đông Pha có thơ khen:

- Hồ quang liễm diễm tình thiên bảo,.

Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ.

Nhược bả Tây Hồ tỉ Tây Tử,.

Đạm trang nùng mạt dã tương nghi.

Trời xanh sóng gợn hồ thu đẹp,.

Mưa xám phơ bay bóng núi mờ.

Nếu ví Tây Hồ với Tây Tư?

Nét mây tô nhạt thật nên thơ.

Nói gọn lại, dưới thời Tống, Tây Hồ là nơi cảnh đẹp nổi tiếng không đâu sánh bằng, không bút nào tả xiết. Trương Thuận bước lên cầu Tây Lăng ngắm cảnh hồi lâu. Bấy giờ thời tiết mùa xuân ấm áp, nước Tây Hồ một màu xanh trong, xung quanh ánh núi tỏa biếc. Trương Thuận thầm nghĩ:

- "Ta sinh trưởng nơi đầu sóng ngọn gió trên sông Tầm Dương, đã bao năm nay chưa từng thấy cảnh hồ nào tươi đẹp như hồ này, dù có chết ở đây cũng thỏa thích". Nghĩ đoạn bèn cởi áo đi xuống dưới cầu. Trương Thuận chít khăn lụa điều, mặc quần cộc bằng tơ đũi, giắt dao nhọn bên đai lưng, chân đất bước xuống nước, rồi lặn một hơi dưới mặt hồ. IJúC ấy đã vào khoảng đầu canh một, trăng sáng mờ mờ Trương Thuận lặn đến trước cửa Dũng Kim mới ngoi lên. Đúng lúc ấy tiếng trống vừa điểm một canh bốn khắc. Ngoài thành im ắng không một bóng người. Thấy trên mặt thành ở chỗ ụ tường thấp có bốn năm người đang vươn đầu nhìn ngó, Trương Thuận lại lặn xuống nước, một lúc sau ngoi lên, mấy bóng người thập thò đã bỏ đi nơi khác. Trương Thuận lặn đến xem xét, mới biết ở cửa hồ có hàng rào sắt chắn ngang. Trương Thuận định lặn vào thấy bên trong rào sắt lại có một lớp lưới có dây buộc chặt, trên mặt lưới dính nhiều đạc đồng. Thấy hàng rào sắt rất chắc chắn không thể chui qua được, Trương Thuận thử thò tay giật nhẹ tấm lưới, đạc đồng liền rung lên, cùng lúc ấy nghe trên mặt thành có tiếng bọn lính canh quát gọi nhau ầm ĩ, Trương Thuận lại lặn ra xạ Trương Thuận lắng nghe trên mặt thành có tiếng chân ngựa phi đến, rồi mấy người xúm lại trên ụ tường nhìn xuống miệng cống. Không thấy gì lạ, bọn người ấy bảo nhau:

- "Đạc kêu loạn lên như thế, chắc là con cá to nào vướng vào lưới". Bọn lính canh ngó nghiêng hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh gì bèn bảo nhau đi ngủ.

Trương Thuận lắng tai nghe trên lầu thành tiếng trống điểm canh bạ Đoán chừng lính canh đã ngủ say, Trương Thuận lại bơi vào chân thành. Biết không thể lặn qua cửa hồ được, Trương Thuận bèn trèo lên bờ. Không thấy bóng lính canh, Trương Thuận định trèo lên mặt thành, nhưng lại nghĩ bụng:

- "Nế~l trên mặt thành có người thì mất mạng như chơi". Nghĩ đoạn bèn nhặt cục đất ném lên thành. lúc ấy có một tên lính canh chưa ngủ, thấy vậy bèn kêu toáng lên. Nhìn xuống cửa hồ không thấy động tĩnh, hắn lại trèo lên chòi canh nhìn ra xa, cũng không thấy bóng dáng con thuyền nào. Nguyên là thuyền bè trên Tây Hồ theo lệnh của Phương Thiên Định, chỉ được ra vào phía ngoài cửa Thanh Ba và cửa sông ĩ nh Từ.

ở các cửa khác đều không được phép buộc thuyền. Bọn lính canh ngơ ngác bảo nhau:

- "Thế có phải là ma quỷ không?". IJạI có người lẩm bẩm:

- "Đúng là ma quỷ. Bọn ta cứ việc tìm nơi ngủ ngon để khỏi phải nhìn thấy rõ". Tuy nói thế nhưng bọn chúng cũng không dám ngủ, cả bọn đều rình nấp ở sau u.

tường. Nghe ngóng hồi lâu không thấy động tĩnh gì, Trương Thuận lại bò lên bờ. Xung quanh vắng ngắt, trên chòi cũng không nghe tiếng trống cầm canh. Trương Thuận vẫn chưa dám trèo lên, lại nhặt một viên đất nữa ném lên mặt thành.

Không nghe động tĩnh gì, Trương Thuận nghĩ bụng:

- "Bây giờ đã canh tư, sắp sáng rồi, không vào thành được thì biết đến bao giờ". Nghĩ đoạn Trương Thuận liền bám tường thành trèo lên. Trèo đến nửa chừng bỗng nghe một tiếng mõ khô khốc vang lên, bọn lính canh nấp sẵn bèn vùng dậy. Trương Thuận vội quay người từ giữa lưng chừng thành nhẩy ào xuống nước.

Bọn lính canh đứng trên mặt thành nhất loạt bắn tên nỏ, ném đá xuống tới tấp. Thương thay Trương Thuận anh hùng, đến đây phải chịu chết bên bờ nước ngoài thành trước cửa Dũng Kim thành Hàng Châu. Có thơ rằng:

- Tòng văn thiện chiến tử binh nhung,.

Thiện nịch chung nhiên táng thủy trung.

Ngõa quán bất ly tỉnh thương phá,.

Khuyến quan mạc đán sính anh hùng.

Từng nghe thiện chiên chết binh nhung,.

Giỏi lặn thân chìm đáy nước trong.

Gánh nước vỡ vò dốc giếng cạn,.

Khuyên ai chớ vội tỏ anh hùng.

Chuyện đến đây chia làm hai mối, kể tiếp:

- Cùng ngày hôm ấy Tống Giang nhận được tin do ~ý Tuấn phi báo, cho biết Trương Thuận đã lặn qua hồ vào thành, vào đến nơi sẽ đốt lửa làm hiệu. Tống Giang báo ngay cho cánh quân chuẩn bị đánh vào cửa Đông biết. Đêm ấy Tống Giang ngồi trong trướng cùng bàn việc quân với Ngô Dụng, đến canh tư cảm thấy tinh thần mỏi mệt, bèn cho tả hữu lui ra, rồi nghiêng lưng xuống ghế chợp mắt. Vừa thiu thiu bỗng có cơn gió lạnh ào vào, Tống Giang gượng dậy nhìn thì thấy một hình thù giống người mà không phải người, tựa quỷ mà chẳng phải quỷ đang đứng sừng sững trong luồng khí lạnh. Tống Giang nhìn người ấy thấy khắp người máu me đầm đìa. Người ấy khẽ cất tiếng nói:

- "Bấy lâu tiểu đệ theo huynh trưởng, được hưởng ơn ưu ái đã nhiều. Nay tiểu đệ liều thân báo đáp, đã chết trong làn tên đạn trước cửa Dũng Kim. Tiểu đệ về đây vĩnh biệt huynh trưởng". Tống Giang nói:

- "Có phải hiền đệ Trương Thuận đó chăng?". Tống Giang quay nhìn sang phía khác lại nhìn thấy ba bốn người nữa máu me đầm đìa nhưng không nhận ra là ai. Tống Giang bật khóc lớn, kinh hoàng tỉnh dậy mới biết là chiêm bao. Quân hầu nghe tiếng khóc vội chạy vào, Tống Giang buột miệng kêu lên:

- Quái thật?

Nói đoạn bèn sai mời quân sư Ngô Dụng vào đoán mộng.

Ngô Dụng hỏi:

- Huynh trưởng mệt mỏi mới nằm nghỉ một lúc, chiêm bao thì có gì lạ!

Tống Giang nói:

- Nhân cơn gió lạnh ta nhìn thấy rõ ràng Trương Thuận máu me đầy người đứng trước mặt ta mà nói "Bao năm nay tiểu đệ đi theo huynh trưởng, được hưởng ơn ưu ái đã nhiều.

Nay tiểu đệ liều thân báo đáp, đã chết trong làn tên đạn trước cửa Dũng Kim. Tiểu đệ về đây xin vĩnh biệt". Ta quay lại nhìn thấy ba bốn người nữa cũng đẫm máu nhưng không rõ mặt ai, lúc ấy ta bật khóc thành tiếng.

Ngô Dụng nói:

- Ban sáng Lý Tuấn báo tin "Trương Thuận định lặn qua hồ vào thành đốt lửa làm hiệu. Có lẽ huynh trưởng ghi nhớ trong lòng nên mới sinh ra mộng mị như thế.

Tống Giang nói:

- Ta cứ nghĩ Trương Thuận tinh anh như thế, thiệt mạng thì thật oan uổng.

Ngô Dụng nói:

- Gần sát chân thành Tây Hồ nước rất sâu dốc bờ hiểm trở. Có thể Trương Thuận đã chết, hồn hiện về báo mộng cho huynh trưởng biết.

Tống Giang nói:

- Nếu vậy thì ba bốn người kia là ai?

Ngô Dụng băn khoăn suy nghĩ mãi vẫn không đoán được.

Mọi người cùng ngồi đợi đến lúc trời sáng cũng không thấy trong thành có động tĩnh gì, ai nấy lại càng lo lắng hơn. Đến quá trưa có người của IJý Tuấn sai đến báo:

- "Trương Thuận vượt thành ở cửa Dũng Kim bị lính canh bắn chết rơi xuống hồ, hiện giờ quân giặc đã chặt đầu cắm vào đầu sào bêu trên mặt thành". Tống Giang nghe xong đau xót khóc ngất đi. Ngô Dụng và các tướng thảy đều đau buồn thương tiếc. ấy là vì Trương Thuận hiền lành trung hậu, được mọi người yêu mến.

Tống Giang nói:

- Trương Thuận chết đi chẳng khác nào cha mẹ đẻ của ta qua đời, thật đau xót đến tận tâm can?

Ngô Dụng và các tướng đều khuyên:

- Huynh trưởng phải lo nghĩ việc quốc gia đại sự, chớ nên quá đau buồn vì tình cảm anh em mà hao tổn sức khỏe.

Tống Giang nói:

- Ta phải đích thân đến bên bờ hồ để điếu tang Trương Thuận Ngô Dụng can rằng:

- Huynh trưởng không nên dấn thân vào nơi nguy hiểm, nếu quân giặc dò biết tất sẽ cho quân vây đánh.

Tống Giang nói:

- Ta đã có cách!

Nói đoạn Tống Giang giao cho IJý Quỳ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cơn dẫn năm trăm quân bộ đi trước dò đường, tư.

mình cùng bọn Thạch Tú, Đái Tôn, Phàn Thuy, Mã Lân dẫn năm trăm quân lặng lẽ theo con đường nhỏ ở núi Tây Sơn đi đến doanh trại thủy quân của Lý Tuấn. Tại đây, bọn Lý Tuấn đã đón sẵn, mời Tống Giang vào nghỉ ngơi trong ngôi nhà phương trượng ở chùa Lình ân. Tống Giang lại vật vã thương khóc hồi lâu, sau đó mời sư trụ trì bản chùa làm lễ cầu siêu cho Trương Thuận.

Ngày hôm sau, vào lúc chập tối, Tống Giang sai một tên quân đem một lá phướn trắng ra cắm bên bờ hồ, trên lá phướn có đề dòng chữ:

- "Hồn thiêng của vong đệ chánh tướng Trương Thuận", lại sai người đem nhiều lễ vật cúng tế đến bầy trên cầu Tây Lăng, dặn Lý Quỳ:

- "Cứ làm như thế, như thế..... ". Một mặt sai Phàn Thuy, Mã Lân, Thạch Tú đem quân mai phục hai bên cửa núi Bắc Sơn. Tống Giang chỉ giữ lại một mình Đái Tôn theo giúp mình.

Vào khoảng đầu canh một, Tống Giang mặc chiến bào trắng trên mũ trụ buộc khăn tang lụa trắng, cùng Đái Tôn và sáu bẩy nhà sư theo con đường nhỏ qua núi đi đến cầu Tây Lăng.

Lúc ấy quân linh của Tống Giang đã bầy đồ lễ lợn đen, dê trắng, vàng hương và thắp đèn đốt nến sáng trưng trên cầu.

Tống Giang tự tay thắp hương, hướng vào phía cửa Dũng Kim khóc vang mấy tiếng làm lễ tế. Đái Tôn đứng bên cạnh giúp lễ cho chủ tế. Các nhà sư rung chuông niệm chú cầu siêu gọi hồn cho Trương Thuận. Tiếp đó Đái Tôn đọc văn tế. Tống Giang tự tay róc rượu rưới xuống đất rồi quay về phía đông, ngửa mặt lên trời gào khóc đau xót. Đúng vào lúc ấy ở mé dưới chân cầu từ cả hai phía núi nam và núi bắc, tiếng hò reo vang dậy, trống thúc liên hồi, rồi thấy rõ hai đội quân mã đang phi nhanh đến đánh bắt Tống Giang. Đúng là:

- Chỉ vì ơn nghĩa như trời cả,.

Chuộc lấy gươm đao cuộn đất mờ.

Chưa biết Tống Giang, Đái Tôn đối phó với quân giặc ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 115 - Hồn Trương Thuận Đuổi Giết Phương Thiên Định

Đang nói chuyện khi Tống Giang và Đái Tôn làm lễ tế Trương Thuận ở trên cầu Tây Lăng thì có kẻ mật báo cho Phương Thiên Định biết. Phương Thiên Định bèn sai mười viên chánh tướng đem quân ra ngoài thành chia làm hai đường chận bắ Tống Giang. Năm tướng đưa quân tiến qua mũi Nam Sơn là: Ngô Trị, Triệu Nghị, Tiều Trung, Nguyên Hưng và Tô Kinh. Năm tướng đưa quân tiến từ mũi Bắc Sơn đến là: Ôn Khắc Nhượng, Thôi Vức, Liên Minh, Mâu Địch, Thang Phùng Sĩ. Cả hai cánh quân nam, bắc tất cả là mười viên chánh tướng, mỗi tướng dẫn ba ngàn quân ãm, vào khoảngnửa đêm mở cổng thành cho quân xuất trận. Bây giờ Tống Giang và Đái Tôn đang hoá vàng rưới rượu, bỗng nghe tiếng hò reo vang dậy. Phàn Thuỵ, Mã Lân ở phía bên trái, Thạch Tú ở phía bên phải, mỗi người dẫn năm nghìn quân đến mai phục từ trước, chợt thấy hiệu lửa ở phía trước, nhất loạt đốt lửa đáp ứng, rồi dẫn quân ra hai phía đuổi tới chận đánh. Quân giặc từ hai cánh nam, bắc đang tiến đến. Quân của Phương Thiên Định biết có quân Tống Giang mai phục vội chạy về đường cũ. Các tướng của Tống Giang dẫn quân đuổi theo. Bọn Ôn Khắc Nhượng không ngờ từ sau núi tháp Bảo Thúc, bọn Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Mạnh Khang, dẫn năm nghìn quân xông ra chặn đường về. Mậu Địch bị bắt sống. Thang Phùng Sĩ bị loạn quân đâm chết, cánh quân ở núi nam do Ngô Trị chỉ huy cũng bị chận đánh, quay về đến cầu Định Hương thì gặp bọn Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng sung, Lý Cổn dẫn năm trăm quân bộ xông ra chận đường. Hạng Sung, Lý Cổn vung đao múa thuẫn áp vào giữa đâm gục Nguyên Hưng; Bao Húc chém chết Tô Kinh; Lý Quỳ vung búa đánh chết Triệu Nghị. Quân giặc đến quá nửa rơi xuống hồ chết đuối. Quân giặc sai người về thành cầu cứu, viện binh chưa đến thì quân Tống Giang người ngựa đều đã rút vào núi theo đường cũ trở về chùa Linh Ẩn. Tướng Sĩ có công đánh giặc đều đến trước trướng của Tống tiên phong báo công lĩnh thưởng. Cả hai cánh quân đoạt được ngựa tốt hơn năm trăm con. Tống Giang cắt cử Thạch Tú, Phàn Thuỵ, Mã Lân ở lại giúp Lý Tuấn đóng giữ trại Tây Hồ, chuẩn bị đánh vào thành Hàng Châu. Căn dặn mọi việc đã xong, Tống Giang cùng bọn Đái Tôn, Lý Quỳ trở về doanh trại ở núi Cảo Đình. Bọn Ngô Dụng ra đón, cùng theo Tống Giang về trong trướng trung quân.

Tống Giang nói với quân sư Ngô Dụng:

- Ta thi thố chút kế mọn cũng lấy được đầu bốn tướng giặc và bắt sống tên Mậu Địch. Sẽ cho giải hắn đến quân doanh của Trương chiêu thảo để chém đầu.

Tống Giang chờ đợi vẫn chưa có tin tức cánh quân đi đánh cửa ải Độc Tùng và huyện Đức Thanh, bèn sai Đái Tôn đi xem xét gấp. Mấy ngày sau Đái Tôn trở về báo Lư tiên phong đã tiến quân qua cửa ải Độc Tùng, không bao lâu nữa sẽ đem quân đến hội. Tống Giang nghe xong nửa mừng nửa lo, bèn hỏi Đái Tôn tình hình binh tướng của Lư tiên phong thế nào.

Đái Tôn đáp:

- Chi tiết các chiến trận Đái Tôn tôi chỉ biết được đại khái. Có văn thư của Lư tiên phong gửi về trình, xin chủ tướng chớ quá buồn phiền lo nghĩ.

Tống Giang nói:

- Phải chăng ta lại mất mấy anh em nữa rồi? Hiền đệ đừng nên giấu diếm, hãy nói thật cho ta hay biết.

Đái Tôn đáp:
- Lư tiên phong đã đem quân tiến đánh cửa ải Độc Tùng. Ở đây, hai bên đều là núi cao, chỉ có một con đường đi qua trong núi. Cửa ải dựng trên đỉnh núi, bên cạnh có một cây cổ thụ, gốc cây to đến vài chục trượng, trèo lên cây có thể nhìn khắp mọi phía. Dưới núi có nhiều rặng thông um tùm. Quân giặc đóng giữ ở đây dưới quyền ba viên tướng. Tên cầm đầu là Ngô Thắng, tên thứ hai là Tưởng Ấn, tên thứ ba là Vệ Hanh. Mới đầu bọn Ngô Thắng người nào cũng đem quân xuống núi đánh với quân Lâm Xung. Lâm Xung đã dùng xà mâu đâm chết Tưởng Ấn, Ngô Thắng thấy vậy không dám đem quân xuống núi, chỉ lo ở lại giữ vững quan ải. Sau đó Lệ Thiên Nhuận cùng bọn bốn tướng Lệ Thiên Hựu, Trương Kiệm, Trương Thao, Diệu Nghĩa đem quân đến cứu ứng. Ngày hôm sau Lệ Thiên Hựu đưa quân xuống núi. Lã Phương xuất trận chặn đánh Lệ Thiên Hựu. Hai tướng giao chiến được chừng năm sáu mươi hiệp thì Lệ Thiên Hựu bị Lã Phương phóng kích đâm chết. Quân giặc sợ hãi rút chạy lên đèo, không dám xuống đánh nữa. Sau mấy ngày đóng quân dưới núi chờ đợi, Lư tiên phong thấy vùng này đèo núi hiểm trở bèn sai Âu Bằng, Đặng Phi, Lý Trung và Chu Thông đem quân lên núi dò đường. Không ngờ Lệ Thiên Nhuận muốn báo thù cho anh, thấy bọn Âu Bằng đem quân lên leì6n tung quân xuống đánh. Giao chiến chưa được bao lâu, Lệ Thiên Nhuận đưa một đạo chém chết Chu Thông, Lý Trung cũng bị thương phải chạy về. May có viện quân đến kịp nên ba tướng mới sống thoát trở về doanh trại. Ngày hôm sau, Song tiên tướng Đổng Bình sốt ruột muốn báo thù liền thúc ngựa đến trước cửa ải lớn tiếng quát mắng tướng giặc. Quân giặc từ trong cửa ải bắn hoả pháo xuống, đạn lửa rơi sát người làm cho Đổng Bình bỏng cháy cánh tay trái, phải quay về doanh trại. Vì thế Đổng Bình phải buộc thuốc bó nẹp gỗ ở tay không cầm thương được. Dù vậy, ngay ngày hôm sau Đổng Bình lại định lên núi đánh báo thù, Lư tiên phong phải khuyên can mãi mới chịu nghe. Hôm sau nữa, thấy vết thương đã đỡ đau, Đổng Bình không báo cho Lư tiên phong biết, bàn riêng với Trương Thanh rồi hai người đi bộ lên trước cửa ải thách đánh. Lệ Thiên Nhuận và Trương Thao liền mở cửa ải ra giao chiến. Đổng Bình muốn bắt sống Lệ Thiên Nhuận liền nâng thương xông đến chặn đánh. Lệ Thiên Nhuận cũng dùng thương dài xông đến đánh Đổng Bình. Hai người giao chiến hơn mười hiệp. Đổng Bình sốt ruột muốn báo thù, không ngờ tay trái còn đau không cầm thương được đành phải lui xuống núi. Lệ Thiên Nhuận đuổi theo xuống quá cửa ải, Trương Thanh dồn sức đâm tới, nhưng Lệ Thiên Nhuận kịp né người ra sau cây thông tránh được. Ngọn giáo trong tay Trương Thanh cắm phập vào gốc thông. Trương Thanh dùng hết sức nhưng không nhổ giáo ra được, bị Lệ Thiên Nhuận phóng thương đâm trúng ngực ngã gục tại chỗ. Đổng Bình thấy Trương Thanh bị giết vội múa song thương đến đánh, không ngờ lúc ấy Trương Thao từ phía sau lia ngang một đao chém Đổng Bình đứt đôi làm hai đoạn.

Lư tiên phong nghe tin báo vội đưa quân lên cứu ứng, nhưng đến nơi thì quân địch đã lui vào trong cửa ải. Quân của Lư tiên phong đứng dưới cửa ải chưa biết đánh lên bằng cách gì. Bấy giờ Đinh Đắc Tôn và vợ chồng Cố Đại Tẩu đóng giả làm thường dân chạy loạn. Ba người đi sâu vào trong núi tìm được một con đường tắt bèn dẫn bọn Lý Lập, Thang Long, Thời Thiên, Bạch Thắng theo đường ấy đến nửa đêm vượt sang bên kia cửa ải nổi lửa đốt sáng rực. Quân giặc thấy lửa cháy rực trời biết quân Tống đã qua đèo, thảy đều sợ hãi bỏ cửa ải tìm đường chạy trốn. Khi Lư tiên phong lên cửa ải kiểm điểm binh tướng thì Tôn Tân, Cố Đại Tẩu đã bắt sống được tướng giữ ải là Ngô Thắng; Lý Lập, Thang Long bắt sống được cựu tướng giữ ải là Tưởng Ấn; Thời Thiên, Bạch Thắng bắt sống Vệ Hanh. Lư tiên phong cho áp giải cả ba tên ấy đến trước quân doanh của Trương chiêu thảo, một mặt thu nhặt thi hài Đổng Bình, Trương Thanh, Chu Thông đem mai táng ở phía trên cửa ải. Lư tiên phong dẫn quân đuổi theo bốn năm mươi dặm thì đuổi kịp, giao chiến hơn ba mươi hiệp thì giết được Lệ Thiên Nhuận. Bọn Trương Kiệm, Trương Thao, Diêu Nghĩa dẫn tàn quân liễu chết chống cự mới chạy thoát được. Bấy giờ Lư tiên phong đang trên đường đem quân tiến về đây. Chủ soái muốn biết rõ hơn, xin xem văn thư của Lư tiên phong do đệ mang về.

Tống Giang xem xong thư lòng càng nặng trĩu buồn.

Quân sư Ngô Dụng nói:

- Lư tiên phong đã đánh thắng có thể điều quân đánh ốp vào, giặc ở Hàng Châu tất phải đại bại. Bây giờ xin huynh trưởng sai người đem quân đi tiếp ứng cho cánh quân của Hồ Diên Chước.

Tống Giang đáp:

- Quân sư nói rất phải!

Nói đoạn bèn sai Lý Quỳ, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn dẫn ba ngàn quân bộ theo đường núi đi tiếp ứng cho Hồ Diên Chước. Hắc toàn phong Lý Quỳ tuân lệnh, lòng vui như mở hội đem quân đi ngay.

Lại nói chuyện cánh quân do chánh tướng Chu Đồng chỉ huy gồm năm nghìn người ngựa theo đường từ thôn Trung ở Thang trấn tiến đánh vào cửa Thái Thị. Bấy giờ dân chúng bên đường sợ hãi bỏ cả thôn xóm hàng quán chạy về thành. Chu Đồng đưa quân đến bên thành dân thành thế trận. Lỗ Trí Thâm xách thiền trượng đi thẳng đến trước thành cả tiếng quát mắng: “Bọn giặc man rợ kia mau mở cửa ra đánh với quân ta!” Quân giữ thành thấy một vị hoà thượng khiêu chiến, vội chạy về báo tin vào cung Thái tử, Bảo Quang quốc sư Đặng Nguyên Giác nghe xong tâu rằng:

- Bần tăng nghe nói quân Lương Sơn Bạc có một hoà thượng tên là Lỗ Trí Thâm quen dùng cây thiền trượng sắt. Xin điện hạ lên lầu thành cửa đông chứng kiến, bần tăng xin ra trận giao chiến với hắn!

Phương Thiên Định cả mừng bèn dẫn theo tám viên mãnh tướng cùng với nguyên suý Thạch Bảo lên ngồi trên lầu thành, tám viên mãnh tướng hộ vệ hai bên, cùng xem Bảo Quang quốc sư giao chiến với Hoa hoà thượng Lỗ Trí Thâm. Phương Thiên Định cho mở cổng thành, thả cầu treo. Bảo Quang quốc sư Đặng Nguyên Giác dẫn năm trăm quân đao thủ đi nhanh ra qua cửa thành. Lỗ Trí Thâm trông thấy, nghĩ bụng: “thì ra trong quân nam cũng có tên giặc trọc đầu!”. Lão gia phải cho hắn nếm đủ một trăm thiền trượng!” Nghĩ đoạn chẳng nói chẳng rằng vung thiền trượng xông đến đánh. Đặng Nguyên Giác cũng múa thiền trượng nghênh chiến. Hai người giao đấu hơn năm mươi hiệp không phân thắng bại. Phương Thiên Định ngồi trên lầu thành nói với Thạch Bảo:

- Ta có nghe tiếng Hoa hoà thượng Lỗ Trí Thâm ở Lương Sơn Bạc, nhưng không ngờ hắn ta xuất sắc đến thế. Qủa thực là danh bất hư truyền. Đánh bao nhiêu hiệp như thế mà không sơ hở một đường trượng nào cho Bảo Quang lợi dụng.

Thạch Bảo nói:

- Thạch Bảo tôi chưa bao giờ được thấy một đôi địch thủ đánh hay như thế.

Hai người đang nói chuyện thì quân thám mã đến báo: “Quân Tống đang kéo đến đánh cửa Bắc Quan.” Thạch Bảo vội đứng dậy, lại nghe báo Hành giả Võ Tòng thấy Lỗ Trí Thâm đánh lâu không hạ được, sợ xẩy ra sơ xuất, bèn vung giới đao xông đến tiếp ứng. Bảo Quang lượng sức không địch nổi hai người, vội xách thiền trượng quay chạy về thành. Võ Tòng liền đuổi theo, bỗng từ trong cửa thành xông ra một viên mãnh tướng. Đó là Bối Ứng Quỳ, thủ hạ của Phương Thiên Định. Bối Ứng Quỳ cắp thương thúc ngựa chặn đánh Võ Tòng. Hai tướng gặp nhau trên cầu treo. Võ Tòng lia giới đao rồi nhẩy tới nắm chặt cán thương của Bối Ứng Quỳ giật mạnh. Ứng Quỳcả người lẫn thương lăn nhào xuống ngựa. Võ Tòng bồi thêm một nhát nữa, đầu Ứng Quỳ lìa khỏi cổ. Bấy giờ Lỗ Trí Thâm đã kịp quay lại tiếp ứng. Phương Thiên Định thấy vậy vội ra lệnh thu quân vào thành, rồi kéo cầu treo. Bên quân Tống, Chu Đồng truyền lệnh cho quân sĩ lui ra mười dặm đóng trại nghỉ ngơi, một mặt sai người báo tin đánh thắng cho Tống tiên phong biết.

Ngày hôm ấy Tống Giang dẫn quân đến trước cửa Bắc Quan khiêu chiến. Thạch Bảo đeo chuỳ lưu tinh nhẩy lên ngựa, tay cầm đại đao, mở cửa thành xông ra. Bên quân Tống, Đại đao Quan Thắng thúc ngựa ra trận giao chiến với Thạch Bảo. Hai tướng đánh hơn hai mươi hiệp, Thạch Bảo quay ngựa bỏ chạy. Quan Thắng dừng ngựa quay về bản trận. Tống Giang hỏi:

- Sao hiền đệ không đuổi theo?

Quan Thắng đáp:

- Tài nghệ đao pháp của Thạch Bảo không kém gì Quan Thắng tôi. Thấy hắn bỏ chạy tất phải hiểu là có mưu kế từ trước.

Ngô Dụng nói:

- Đoàn Khải từng nói người này quen dùng cây chuỳ lưu tinh, thường giả thua quay ngựa chạy để dụ cho đối phương lọt sâu vào chỗ hiểm.

Tống Giang nói:

- Nếu Quan Thắng đuổi theo tất sẽ mắc mưu hắn.

Nói đoạn truyền lệnh thu quân về trại, một mặt phái người đến ban thưởng cho Võ Tòng.

Lại nói Lý Quỳ dẫn quân bộ theo đường núi đi tiếp ứng cho Lư tiên phong, đến giữa đường thì gặp tàn quân của Trương Kiệm. Lý Quỳ dẫn đầu ra sức đánh giết Diêu Nghĩa bị giết trong đám loạn quân. Bọn Trương Kiệm, Trương Thao dẫn quân quay về hướng cửa ải Độc Tùng, không ngờ gặp ngay quân của Lư tiên phong đang tiến đến. Bọn Trương Kiệm liều chết mà đánh rồi cắm đầu chạy miết về phía con đường nhỏ dẫn vào núi sâu. Vì bị quân Tống đuổi theo rất gấp, bọn chúng đành bỏ ngựa chạy bộ lên núi tìm đường trốn. Không ngờ, từ trong bụi tre có hai người xách chĩa sắt xông ra. Trương Kiệm, Trương Thao trở tay không kịp, liền bị hai người kia giơ chĩa chặn ngã rồi ập đến trói dẫn xuống núi. Hai người cầm chĩa ấy không phải ai xa lạ mà chính là Giải Trân và Giải Bảo. Lư tiên phong cả mừng thấy Giải Trân, Giải Bảo, bắt sống được hai tướng giặc, bèn hội binh với bọn Lý Quỳ, gọi họp các tướng cùng đưa quân về đại trại, ở núi Cảo Đình, yết kiến Tống tiên phong. Lư Tuấn Nghĩa kể lại việc bọn Đổng Bình, Trương Thanh, Chu Thông tử trận ở cửa ải Độc Tùng. Các tướng nghe nói đều đau buồn rơi lệ, rồi đó mọi người đều tới yết kiến Tống tiên phong, cùng đem quân vào đại trại. Ngày hôm sau Tống Giang sai áp giải Trương Kiệm về doanh trại của Trương chiêu thảo ở Tô Châu chém đầu thị chúng. Lại sai đem Trương Thao ra trước cửa trại mổ bụng moi tim làm lễ tế ba tướng Đổng Bình, Trương Thanh và Chu Thông.

Tống tiên phong bàn với quân sư Ngô Dụng:

- Ta nên mời Lư tiên phong đem quân mã bản bộ đi tiếp ứng cho cánh quân của Hồ Diên Chước đang trên đường tiến đánh qua huyện Đức Thanh rồi cùng hội quân ở đây để chuẩn bị đánh thành.

Lư Tuấn Nghĩa nhận lệnh bèn dẫn quân mã lên đường, nhắm trấn Phụng Khẩu mà tiến. Quân mã vừa tới nơi thì gặp tàn quân của Tư Hành Phương chạy về. Lư Tuấn Nghĩa dàn quân đánh một trận lớn. Tư Hành Phương rơi xuống suối chết, bọn còn lại tán loạn chạy trốn. Hồ Diên Chước đến yết kiến Lư tiên phong rồi hội quân trở về đại trại ở núi Cảo Đình yết kiến Tống tiên phong. Tống Giang cùng các tướng hội họp bàn định kế sách. Đến lúc này cả hai cánh quân lớn đều đã tới Hàng Châu, còn các nơi như Tuyên Châu, Hồ Châu, cửa ải Độc Tùng đều do Trương chiêu thảo và Tùng tham mưu cai quản, vỗ yên trong cõi, chuyện không có gì đáng nói.

Tống Giang thấy trong quân Hồ Diên Chước mất hai tướng Lôi Hoành và Cung Vượng. Hồ Diên Chước kể lại việc Lôi Hoành đưa quân đến cửa nam thành huyện Đức Thanh giao chiến vùng Tư Hành Phương. Hai tướng đánh hơn ba mươi hiệp thì Lôi Hoành bị Tư Hành Phương chém lăn xuống ngựa. Cung Vượng đuổi theo Hoàng Ái, cả người ngựa ngã xuống khe, bị quân giặc xông tới đâm chết. Tướng giặc là Mễ Tuyền bị Sách Siêu vung búa đánh chết. Bọn Hoàng Ái, Từ Bạch bị bắt sống hiện đã áp giải về đây. Tư Hành Phương dẫn quân đuổi theo quân ta, ngã xuống khe chết đuối. Tiết Đẩu Nam chạy thoát trong đám loạn quân, sau không biết trốn đi đàng nào. Tống Giang nghe tin hai tướng Lôi Hoành, Cung Vượng tử trận, lại một phen đau thương rơi lệ, nói với các tướng rằng:

- Hôm trước Trương Thuận hiện hồn về báo mộng cho ta, lúc ấy ta thấy bên cạnh có ba bốn người khác cũng máu me đầm đìa. Bây giờ mới biết đó là âm hồn của các hiền đệ Đổng Bình, Trương Thanh, Chu Thông, Lôi Hoành. Khi nào chiếm được quận Ninh Hải ở Hàng Châu, ta sẽ mời các nhà sư dựng đàn làm lễ cầu siêu cho năm người anh em đó.

Nói đoạn, bèn sai người đem bọn Hoàng Ái, Từ Bạch đến trước trại quân của Trương chiêu thảo chém đầu thị chúng, việc không có gì đáng nói.

Ngày hôm ấy Tống Giang sai giết dê mổ ngựa khao đãi ba quân. Ngày hôm sau bàn định với quân sư Ngô Dụng xong, Tống Giang cắt cử các chánh phó tướng chỉ huy các cánh quân tiến đánh thành Hàng Châu.

Phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa dẫn mười hai chánh phó tướng đánh vào cửa Hầu Triều: Lâm Xung, Hồ Diên Chước, Lưu Đường, Gỉai Trân, Giải Bảo, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc, Trần Đạt, Dương Xuân, Đỗ Thiên, Lý Văn, Thạch Dũng. Hoa Vinh dẫn mười bốn chánh phó tướng đánh vào cửa Cấn Sơn: Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Lý Trung, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Lý Lập, Bạch Thắng, Thang Long, Mục Xuân, Chu Quý, Chu Phú.

Mục Hoằng dẫn mười một chánh phó tướng đến trại Tây Sơn giúp đầu lĩnh thuỷ quân Lý Tuấn đánh vào cửa Khao Hồ: Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị, Mạnh Khang, Nguyễn Tiểu Ngũ, Thạch Tú, Phàn Thuỵ, Mã Lân, Mục Hoằng, Dương Xuân, Tiết Vĩnh, Đinh Đắc Tôn.

Tôn Tân dẫn tám chánh phó tướng đến trại cửa đông giúp Chu Đồng đánh vào các cửa Thái Thị, Tiến Kiều: Chu Đồng, Sử Tiến, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương.

Tám viên phó tướng ở trại cửa đông cùng bọn Lý Ứng đảm nhận việc tuần tra dọ thám ở các trại và sẵn sàng tiếp ứng cho các nơi: Lý Ứng, Khổng Minh, Dương Lâm, Đỗ Hưng, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Vương Anh, Hổ Tam Nương.

Chánh tiên phong Tống Giang dẫn hai mươi mốt viên chánh phó tướng đánh vào đường lớn ở cửa Bắc Quan: Ngô Dụng, Quan Thắng, Sách Siêu, Đái Tôn, Lý Quỳ, Lã Phương, Qúach Thịnh, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Lăng Chấn, Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Tống Thanh, Bùi Tuyên, Tưởng Kính, Sái Phúc, Sái Khánh, Thời Thiên, Úc Bảo Tứ.

Bấy giờ Tống Giang cắt cử tướng tá chỉ huy các cánh quân đã xong bèn truyền lệnh tiến đánh khắp bốn mặt thành.

Tống Giang dẫn đại quân người ngựa tiến thẳng đến chân thành trước cửa Bắc Quan. Quân Phương Thiên Định ở trên mặt thành gióng trống, khua phèng vang trời. Rồi cửa thành bật mở, cầu treo hạ xuống. Nguyên suý giặc là Thạch Bảo cưỡi ngựa tiến ra trước. Bên trận quân Tống, Cấp tiên phong Sách Siêu vốn nóng nẩy vội vung búa lớn, chẳng nói nửa câu, phóng ngựa chận đánh Thạch Bảo. Hai tướng ngồi trên ngựa quần nhau chưa đầy mười hiệp, Thạch Bảo đâm dứ một đưòong rồi quay ngựa bỏ chạy. Sách Siêu liền tế ngựa đuổi theo. Quan Thắng thấy vậy liền lớn tiếng gọi lại, nhưng ngay lúc ấy Sách Siêu đã bị Thạch Bảo đánh một chuỳ lưu tinh trúng mặt lăn nhào xuống ngựa. Đặng Phi vội đến cứu thì Thạch Bảo cũng vừa phóng ngựa tới. Đặng Phi trở tay không kịp bị Thạch Bảo phạt một đao đứt làm hai đoạn. Cùng lúc ấy trong thành, Bảo Quang quốc sư dẫn mấy viên mãnh tướng tung quân ra đánh. Quân Tống thua phải rút chạy về phía bắc. May có Hoa Vinh, Tần Minh tứ phía ngoài dẫn quân đánh xiết tới rồi xông vào đánh lui quân nam, cứu được Tống Giang đưa về bản trại. Thạch Bảo đắc thắng, vui mừng đem quân về thành. Tống Giang và các tướng đem quân về đại trại ở núi Cảo Đình nghỉ ngơi. Tống Giang buồn rầu vào ngồi trong trướng, vì trong trận vừa rồi lại mất thêm hai tướng Sách Siêu và Đặng Phi. Ngô Dụng khuyên can:

- Quân giặc trong thành có tướng tài như vậy, chúng ta chỉ nên đánh bằng mưu, không nên đương đầu đối địch.

Tống Giang nói:

- Liên tiếp bị tổn hại thế này, chúng ta còn biết dùng cách nào mà hạ thành?

Ngô Dụng đáp:

- Xin chủ tướng báo cho các cánh quân biết mưu kế của ta, sau đó đem quân đánh vào cửa Bắc Quan. Quân giặc trong thành tất nhiên sẽ mở cửa thành giao cihến. Ta giả thua cho giặc đuổi theo ra xa thành. Bấy giờ sẽ bắn pháo hiệu, các cánh quân nhất tề đánh ập vào tất cả các cửa thành, hễ quân ta lọt qua được cửa nào trước thì đốt lửa làm hiệu, quân giặc không cứu ứng được cho nhau, ta nhất định lập công lớn.

Tống Giang nghe xong liền sai Đái Tôn đi truyền lệnh cho tướng chỉ huy các cánh quân đều biết. Ngày hôm sau lệnh cho Quan Thắng đưa một ít quân mã đến ngoài cửa Bắc Quan khiêu chiến. Quân giữ thành nổi trống hổ trợ cho nguyên suý Thạch Bảo đem quân ra giao chiến với Quan Thắng. Hai tướng đánh chưa đầy mười hiệp. Quan Thắng vội thua chạy, Thạch Bảo xua quân đuổi theo. Bấy giờ Lăng Chấn bèn châm mồi bắn pháo hiệu. Nghe tiếng pháo nổ vang, các cánh quân áp sát các cửa liền hò reo nhất tề xông vào đánh.

Kể tiếp chuyện phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa dẫn bọn Lâm Xung đem quân đánh vào cửa Hầu Triều, người ngựa đến gần thành thì thấy cửa không đóng, cầu treo không rút. Lưu Đường muốn lập công đầu, vội vác đao thúc ngựa xông thẳng vào thành. Quân giữ thành thấy Lưu Đưòong phi ngựa vào, liền chặt đứt dây treo cánh cửa ngoài. Thương thay Lưu Đường dũng cảm, cả người lẫn ngựa cùng rơi chết dưới cửa hào. Nguyên thành Hàng Châu này do Tiền vương xây dựng, cửa thành đều xây theo kiểu ba lớp: lớp cửa ngoài có cánh cửa treo, lớp cửa giữa có hai cánh lớn bằng sắt, trong cùng lại một lớp cửa rào nữa. Lưu Đường vừa lọt vào lơp cửa ngoài, quân giữ thành ở trên bèn chặt đứt dây treo, cánh cửa ngoài sập xuống, hai bên có quân giặc mai phục sẵn, Lưu Đường làm sao thoát chết! Lâm Xung, Hồ Diên Chước thấy Lưu Đường bị hại liền dẫn quân quay về trại báo cho Lư Tuấn Nghĩa biết. Các cửa khác cũng không đánh vào được, đành cho quân lui về. Một mặt sai người về đại trại báo tin cho Tống tiên phong. Tống Giang nghe tin Lưu Đường thiệt mạng, đau xót thương khóc nói:

- Thương thay hiền đệ Lưu Đường. Từ ngày ta dấy nghĩa ở huyện Vận Thành, theo Tiểu thiên vương lên Lương Sơn Bạc, đã từng bao năm gian khổ chưa một ngày yên vui, lớn nhỏ hơn trăm trận giao phong, trăm chết một sống, nhưng chưa từng một lần chùn nhụt nhuệ khí. Ai ngờ hôm nay Lưu Đường đành phải chịu chết ở đây!

Quân sư Ngô Dụng nói:

- Mưu kế vừa rồi chưa tốt, đánh thành không xong đến nỗi Lưu Đường thiệt mạng. Xin chủ tướng hãy cho lui quân để trù liệu kế khác.

Tống Giang nóng lòng muốn báo thù, đau buồn than tiếc mãi không thôi. Hắc toàn phong Lý Quỳ nói:

- Xin đại huynh yên lòng, ngày mai đệ sẽ cùng bọn Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn bắt sống tên giặc Thạch Bảo đem về đây!

Tống Giang nói:

- Viên tướng Thạch Bảo ấy là kẻ anh hùng xuất chúng ngươi làm sao đến gần hắn được?

Lý Quỳ đáp:

- Huynh trưởng không tin thì cứ đợi xem, ngày mai bọn đệ không bắt sống được hắn thì không trở về gặp huynh trưởng nữa!

Tống Giang nói:

- Ngươi phải hết sức cẩn thận chớ có coi thường.

Hắc toàn phong nghe xong vội trở về trại, dọn sẵn rượu thịt rồi đi mòi bọn Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn đến nhắm rượu, Lý Quỳ nói:

- Bốn người bọn ta vẫn cùng nhau ra trận. Hôm nay trước mặt Tống Huynh trưởng, ta đã quả quyết ngày mai sẽ bắt sống bằng được tên giặc Thạch Bảo, vậy bọn ngươi không được nhát gan thoái thác!

Bao Húc nói:

- Ngày mai chắc huynh trưởng cũng sẽ cho quân mã tiến trước như hôm nay. Nhưng bọn ta phải xông lên, quyết bắt cho được tên giặc Thạch Bảo!

Sáng sớm hôm sau, bọn Lý Quỳ bốn người ăn uống no say, ai nấy xách vũ khí tìm gặp Tống tiên phong xin đi bắt Thạch Bảo. Tống Giang thấy bốn người chếnh choáng hơi men, bèn nói:

- Các hiền đệ chớ nên đùa giỡn với tính mệnh.

Lý Quỳ đáp:

- Xin huynh trưởng chóo coi thường bọn tiểu đệ!

Tống Giang nói:

- Chỉ cần các ngươi biết nghe lời ta là được.

Nói đoạn lên ngựa cùng bọn Quan Thắng, Âu Bằng, Lã Phương, Qúach Thịnh phi đến trước cửa Bắc Quan, sai quân sĩ gióng trống phất cờ khiêu chiến. Lý Quỳ lòng dạ cồn cào như lửa đốt, tay cầm đôi búa đứng trước ngựa. Bao Húc nâng thanh đại đao, măt nhìn trừng trừng chỉ muốn xông ra đánh ngay. Hạng Sung, Lý Cổn tay cầm lá thuẫn, mỗi người đều giắt theo hai mươi bốn lưỡi phi đao, tay cầm giáo ngắn đứng hai bên. Bỗng nghe trên thành phèng khua trống nổi,Thạch Bảo cưỡi trên lưng ngựa vàng, tay xách đại dao dẫn hai viên chánh tướng ra ngoài thành nghênh chiến: người đi trước là Ngô Trị, người đi sau là Liêm Minh. Ba viên tướng ấy vừa ra khỏi thành thì Lý Quỳ vốn xưa nay chưa biết sợ là gì bèn gầm lên một tiếng, rồi cả bọn bốn người nhất tề xông thẳng đến trước ngựa Thạch Bảo. Thạch Bảo vung đao đón đánh, nhưng bọn Lý Quỳ đã ập đến. Lý Quỳ phạt nhanh một búa vào chân ngựa, Thạch Bảo vội nhảy xuống chạy về phía quân nhà. Bao Húc nhanh tay chém rơi đầu Liêm Minh. Hạng Sung, Lý Cổn tung phi đao ném theo, phi đao lấp loáng giữa không trung nhu lá ngọc lá vàng bay lượn. Tống Giang ra lệnh cho mã quân xông vào thành. Quân giặc trên thành liền tới tấp lao gỗ đá xuống. Tống Giang sợ có sơ hở vội cho lui quân, không ngờ Bao Húc nhân lúc lộn xộn đã lọt vào trong thành. Tống Giang chỉ biết kêu khổ. Bấy giờ Thạch Bảo đã nấp sẵn trong cửa thành, thấy Bao Húc xông vào liền đưa xiết một đao chém Bao Húc làm hai đoạn. Hạng Sung, Lý Cổn vội hộ vệ Lý Quỳ chạy về trận nhà. Tống Giang cũng cho lui quân về trại. Điểm lại binh tướng lại thấy mất thêm Bao Húc. Tống Giang lòng càng thêm buồn. Lý Quỳ khóc thương thảm thiết chạy về bản trại. Ngô Dụng nói:

- Hôm nay cũng chưa tìm được mưu kế tốt, tuy chém đầu được một tướng giặc nhưng bên ta cũng mất một phó thủ của Lý Quỳ.

Đang lúc mọi người buồn phiền đau xót thì Giải Trân, Giải Bảo đến báo việc khẩn cấp. Tống Giang hỏi han tỉ mỉ, Giải Trân nói:

- Tiểu đệ cùng Giải Bảo đi thám thính, đến cách ngoài thành cửa nam hơn hai mươi dặm, có một nơi gọi là Phạm thôn, thấy bên bờ sông đậu liền một dãy vài chục chiếc thuyền. Anh em tiểu đệ xuống tận nơi tìm hỏi, mới hay đó là thuyền chở lương của Viên bình sự (tên chức quan coi việc xử kiện ở một huyện) ở huyện Phú Dương, tiểu đệ định giết hắn thì Viên bình sự khóc nói: “Bọn chúng tôi đều là lương dân của nhà Đại Tống, nhiều lần bị Phương Lạp bắt nộp tô thuế nặng nề, ai không tuân theo thì cả nhà bị giết sạch. Nay quân thiên triều đến đây tiểu trừ quân giặc, chúng tôi cầu mong cho thiên hạ sớm được thấy ngày thái bình. Ngờ đâu hôm nay lại phải chịu chết ở đây.” Tiểu đệ nghe người ấy kể lể sự tình thảm thiết không nỡ giết hại. Lại hỏi vì duyên cớ gì mà đến đây thì viên bình sự đáp: “Gần đây Phương Thiên Định đã truyền lệnh cho các châu huyện phải vơ vét khắp các thôn phường cho đủ số thuế năm vạn thạch gạo trắng. Già này là người đầu tiên thu được năm nghìn thạch chở đến nộp trước. Hôm nay đến đây gặp lúc đại quân vây thành nên phải đậu lại, không dám tiến.” Tiểu đệ tra hỏi tỉ mỉ như thế, xin báo để chủ tướng biết rõ.

Ngô Dụng nghe xong cả mừng nói:

- Đây là cơ hội trời cho. Đoàn thuyền lương này sẽ giúp ta lập công lớn! Xin tiên phong truyền lệnh giao cho anh em Gỉai Trân, Giải Bảo dẫn đầu đem theo cả pháo thủ Lăng Chấn, Trâu Nhuận, Lý Lập, Bạch Thắng, Mục Xuân, Thang Long, Vương Anh, Hổ Tam Nương, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương đóng giả làm dân chèo thuyền, lặng lẽ nấp sau khoang lái, khi lọt được vào thành thì bắn pháo liên châu làm hiệu, chúng ta ở đây sẽ điều quân tiếp ứng.

Giải Trân, Giải Bảo gọi Viên bình sự lên bờ truyền đạt mệnh lệnh của Tống tiên phong, rồi dặn rằng:

- Ông là lương dân của nhà Tống thì phải làm đúng theo mưu kế này. Sau khi thành công, tất có trọng thưởng.

Sau đó các tướng tá của Tống Giang theo kế định trước đều nhảy xuống thuyền, mỗi thuyền chỉ để lại một người cầm lái, còn những người káhc thì cho hết lên bờ, nhưng phải cởi quần áo giao lại cho các tướng Vương Anh, Tôn Tayn, Trương Thanh mặc. Ba nữ tướng Hổ Tam Nương, Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương đóng giả là bà lái thuyền, bọn các viên tiểu hiệu thì làm thuỷ thủ chèo thuyền. Các tướng khác đem theo vũ khí nấp trong các khoang thuyền. Đoàn thuyền chở lương nhất loạt chèo vào đậu bên bờ sông. Lúc này các cánh quân bên quân Tống đã tiến sát các cửa thành, cách đoàn thuyền lương không xa. Viên bình sự lên bờ, Giải Trân, Giải Bảo và mấy người đóng giả làm lái thuyền đi theo đến dưới cổng thành, gọi lính canh mở cửa. Quân giữ thành nghe tiếng gọi, hỏi tỉ mỉ rồi trở vào báo tin cho thái tử Phương Thiên Định biết. Phương Thiên Định bèn sai Ngô Trị mở cửa thành, ra tận bờ sông kiểm điểm các thuyền lương rồi trở về tâu báo. Một mặt Phương Thiên Định sai sáu tướng bộ hạ dẫn một vạn quân ra ngoài thành ngăn nốt góc ở phía đông bắc để cho Viên bình sự chuyển lương vào giao nộp. Bấy giờ các tướng của Tống Giang trà trộn trong đám lái thuyền, thuỷ thủ cũng chen nhau vác gạo vào thành. Bọn Cố Đại Tẩu ba nữ tướng cũng đã đi theo lọt được vào thành. Năm nghìn thạch gạo chỉ trong khoảnh khắc đã chuyển hết. Sáu viên tướng của Phương Thiên Định ra xem xét việc chuyển lương đã dẫn quân vào thành. Bấy giờ Tống Giang cho quân tiến vào vây thành, dàn thành thế trận cách thành hai, ba dặm. Đêm hôm ấy, vào lúc canh hai, pháo thủ Lăng Chấn lấy chín quả pháo “đạn mẹ đẻ đạn con” lên đỉnh núi Ngô Sơn châm mồi bắn. Các tướng đã lọt vào thành nghe hiệu lệnh, ai nấy đều cầm đuốc châm lửa đốt khắp nơi. Trong thành bỗng chốc nhốn nháo, nhưng không ai biết rõ quân Tống đã lọt vào nhiều ít ra sao. Phương Thiên Định ở trong cung nghe tin vô cùng hoảng sợ, vội khoác áo giáp lên ngựa, lúc bấy giờ quân canh ở các cửa thành đã bỏ trốn. Quân Tống khí thế ồ ạt xông vào lập công chiếm thành.

Lại kể chuyện Lý Tuấn ở doanh trại tại núi Tây Sơn, sau khi được lệnh bèn dẫn quân đánh tới cửa sông Tinh Từ, đoạt lấy thuyền bè, bắt chủ thuyền phải chở quân sĩ lên bớ trước cửa Dũng Kim. Các tướng chia nhau đi chiếm giữ các cửa hồ. Lý Văn, Thạch Tú là hai người đầu tiên trèo lên thành. Đêm hôm ấy quân hai bên hỗn chiến trong thành, chỉ trừ cửa nam không bị vây, bọn tàn quân của Phương Thiên Định đều theo cửa ấy chạy thoát ra ngoài.

Lại nói Phương Thiên Định lên ngựa, ngoái nhìn xung quanh không thấy một tướng tá thân cận nào, chỉ có mấy tên quân bộ theo ra cửa phía nam chạy trốn. Phương Thiên Định cắm đầu thúc ngựa chạy đến chân núi Ngũ Vân thì thấy một người mình trần trùng trục, miệng ngậm ngang dao nhọn từ dưới sông bước lên bờ. Phương Thiên Định ngồi trên ngựa thấy khí thế người ấy dữ tợn, vội gia roi thúc ngựa chạy. Nhưng lạ quá, con ngựa cũng như bị quỷ ám, đánh cả trăm roi vẫn đứng im không nhúc nhích, tựa như có ai giữ chặt dây cương. Người dưới sông đã đuổi sát đến trước ngựa, với tay túm ngực giật Phương Thiên Định xuống rồi lia dao nhọn chém rụng đầu. Người ấy đoạt lấy ngựa một tay xách thủ cấp Phương Thiên Định, một tay cầm dao phi ngựa quay lại thành Hàng Châu. Lâm Xung, Hồ Diên Chước dẫn quân đuổi theo Phương Thiên Định, khi đến tháp Lục Hoà thì gặp người cưỡi ngựa xách đầu lâu trở về. Nhận ra người ấy là Thuyền hoả nhi Trương Hoành, hai tướng Lâm Xung và Hồ Diên Chước cả kinh. Hồ Diên Chước bèn gọi hỏi:

- Hiền đệ từ đâu tới đây?

Không thấy Trương Hoành trả lời, vẫn một mạch tề ngựa vào thành. Bấy giờ đại quân người ngựa của Tống tiên phong đã vào trong thành, lấy cung điện của PhươngThiên Định làm nơi đóng suý phủ. Các tướng tá chia đi đóng giữ các hành cung. Thấy Trương Hoành cưỡi ngựa trở về, ai nấy đều kinh sợ. Trương Hoành phi ngựa đến trước mặt Tống Giang thì lăn nhào xuống đất, vứt dao nhọn và thủ cấp Phương Thiên Định xuống, cúi đầu lạy Tống Giang hai lạy rồi bật khóc nức nở. Tống Giang vội ôm chầm lấy Trương Hoành hỏi:

- Hiền đệ từ đâu đến đây? Nguyễn Tiểu Thất hiện giờ ở đâu?

Trương Hoành đáp:

- Tiểu đệ không phải là Trương Hoành!

Tống Giang hỏi:

- Ngươi không phải là Trương Hoành thì là ai?

Trương Hoành đáp:

- Tiểu đệ là Trương Thuận, bị quân canh thành bắn chết ở ngoài cửa Dũng Kim, còn một chút u hồn bồng bềnh không rời sông nước, may được Chấn Trạch Long quân ở Tây Hồ thu dùng, cho làm Kim Hoa thái bảo, giữ lại làm thần Long cung ở thuỷ phủ. Hôm nay huynh trưởng cho quân đánh thành Hàng Châu, âm hồn của tiểu đệ bám sát Phương Thiên Định, vào khoảng nửa đêm theo hắn ra khỏi thành. Bấy giờ tiểu đệ thấy đại ca Trương Hoành đang một mình bơi trên sông lớn liền mượn lấy thân xác mà chạy gấp lên bờ, đuổi theo Phương Thiên Định, đến chân núi Ngũ Vân thì đuổi kịp. Tiểu đệ bèn giết tên giặc ấy đem thủ cấp nộp huynh trưởng.

Nói xong, ngã vật xuống đất. Tống Giang vội đến dìu đứng dậy. Trương Hoành mở mắt nhìn thấy Tống Giang và các tướng đao kiếm, tua tủa như rừng, quân sĩ đứng chật đất.

Trương Hoành hỏi:

- Có phải anh em ta gặp nhau dưới suối vàng là ở đây không?

Tống Giang khóc đáp:

- Vừa đây linh hồn Trương Thuận nhập vào xác hiền đệ đuổi giết tên giặc Phương Thiên Định. Không phải hiền đệ đã chết, chúng ta ở đây đều là người sống cả. Hiền đệ cứ nhìn kỹ xem!

Trương Hoành nói:

- Nếu thế thì đúng là em ta đã chết rồi!

Tống Giang nói:

- Trương Thuận định theo cửa hồ vào thành đốt lửa báo hiệu, không ngờ khi vượt thành ở cửa Dũng Kim, bị lính canh phát giác, trúng tên mà chết.

Trương Hoành nghe xong khóc nấc một tiếng “Em ơi!”, rồi ngã vật ra đất. Khi các tướng chạy đến thì Trương Hoành đã nằm sõng soài, rũ rượi. Đúng là:

Chưa theo thần chết về âm phủ

Cũng bị ma vương hiện hồn trêu

Chưa biết Trương Hoành ngã ngất, tính mệnh ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 116 - Đường Hấp Châu, Lư Tuấn Nghĩa Tiến Quân

Đang nói chuyện bấy giờ Trương Hoành nghe nói Trương Thuận đã chết thì đau xót ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại. Tống Giang nói:

- Hãy dìu Trương Hoành vào sau trướng chăm sóc cho khoẻ, rồi sẽ hỏi tình hình anh em đi đường biển thế nào.

Nói đoạn, Tống Giang sai Bùi Tuyên, Tưởng Kính ghi chép công lao của các tướng, hẹn mọi người đến tụ họp vào đầu giớ Tỵ. Lý Tuấn, Thạch Tú bắt sống được Ngô Trị; ba nữ tướng bắt sống Trương Đạo Nguyên; Lâm Xung dùng xà mâu đâm chết Lãnh Cung; Giải Trân, Giải Bảo giết Thôi Vức. Tướng giặc sống sót chạy thoát năm tên, đó là Thạch Bảo, Đặng Nguyên Giác, Vương Tích, Tiểu Trung và Ôn Khắc Nhượng. Tống Giang sai yết bảng vỗ yên trăm họ, khao thưởng ba quân, áp giải bọn Ngô Trị, Trương Đạo Nguyên đến trước quân doanh của Trương chiêu thảo chém đầu thị chúng. Viên bình sự có công hiến thuyền lương được Tống Giang viết văn thư đề cử làm huyện lệnh Phú Dương, Trương chiêu thảo lấy quan bằng khống chỉ đề họ tên cấp ngay cho Viên bình sự, chuyện ấy không cần phải nói. Các tướng đều về trong thành nghỉ ngơi. Quân hầu vào báo: “Nguyễn Tiểu Thất đi đường sông đã đến.” Tống Giang liền cho mời vào trong trướng.

Nguyễn Tiểu Thất nói:

- Tiểu đệ cùng với Trương Hoành, Hầu Kiện và Đoàn Cảnh Trụ đem các thuỷ thủ ra biển tìm được thuyền chèo đến huyện Hải Diệm để tìm cách cho thuyền vào sông Tiền Đường. Không ngờ sóng to gió lớn thuyền trôi ra biển cả. Cố sức chèo vào bờ thì sóng gió làm hỏng thuyền, các anh em đều rơi xuống biển. Hầu Kiện, Đoàn Cảnh Trụ không biết bơi đều bị chết đuối. Các thuỷ thủ cố bơi vào bờ, tản lạc mỗi người một nơi. Tiểu đệ bơi trước vào bờ ở cửa Chữ Sơn, bị sóng giật trôi dạt đến chân núi Báu Phan, rồi từ đó bơi về đây. Tiểu đệ thấy Trương Hoành bơi trên sông Trường Giang đang lội lên bờ ở gần núi Ngũ Vân nhưng một lúc sau không thấy đâu nữa. Đêm qua tiểu đệ thấy lửa cháy trong thành, lại nghe tiếng súng liên châu nổ vang, biết là huynh trưởng đang đánh vào thành Hàng Châu, vì vậy tiểu đệ mới bơi vào bờ. Chẳng hay Trương Hoành đã về đến nơi chưa?

Tống Giang kể lại cho Nguyễn Tiểu Thất nghe chuyện của Trương Hoành, rồi sai gọi Trương Hoành đến cho anh em gặp nhau, lại tiếp tục giao cho hai người làm đầu lĩnh thuỷ quân chỉ huy chiến thuyền như trước. Tống Giang truyền lệnh cho các đầu lĩnh thuỷ quân thu thập thuyền bè trên sông để chuẩn bị tiến đánh Mục Châu. Tống Giang lại nghĩ đến Trương Thuận anh linh hiển hiện như thế, bèn cho dựng đền thờ bên bờ Tây Hồ, treo biển ngạch “Kim Hoa thái bảo”. Tống Giang đích thân đến làm lễ tế. Sau ngày dẹp yên loạn Phương Lạp, lập công lớn với triều đình, Tống Giang về kinh đem sự việc Trương Thuận tâu lên được thiên tử sắc phong là “Kim Hoa tướng quân”, giao cho quân dân Hàng Châu đèn hương thờ phụng.

Lại nói Tống Giang đóng suý phủ trong hành cung của Phương Lạp ở Hàng Châu, buồn nghĩ từ lúc qua sông Dương Tử đến nay tổn thất biết bao tướng sĩ, càng nghĩ lại càng thêm sầu muộn. Tống Giang bèn đến chùa Tĩnh Từ xin nhà chùa dựng đàn tràng làm lễ bẩy ngày đêm để siêu độ cho vong hồn anh em các tướng tử trận, mỗi người đều có bài vị đặt riêng một bàn thờ. Xong lễ cầu siêu, Tống Giang ra lệnh phá huỷ các đồ dùng riêng trong cung của Phương Thiên Định, còn vàng bạc châu báu vải vóc thu lấy để chia thưởng cho ba quân tướng sĩ. Dân chúng Hàng Châu đều được bình yên vô sự. Tống Giang cho mở tiệc chúc mừng. Rồi đó Tống Giang cùng quân sư Ngô Dụng bàn tính kế sách tiến đánh Mục Châu. Bấy giờ đã gần cuối tháng tư, bỗng có tin bào: “Phó đô đốc Lưu Quang Thế cùng sứ giả triều đình từ Đông Kinh đang trên đường đi tới Hàng Châu.” Tống Giang cùng các tướng ra ngoài cửa Bắc Quan đón tiếp, mời sứ giả và đô đốc vào thành. Sứ giả đến hành cung tuyên đọc thánh chỉ: “Sắc cho tiên phong sứ Tống Giang cùng các tướng sĩ bộ hạ có công đánh giặc Phương Lạp nhiều lần lập chiến công, nay ban cho ngự tửu có dấu niêm phong của hoàng đế ba mươi lăm bình, áo gấm ba mươi lăm chiếc để thưởng cho các viên chánh tướng. Còn các viên phó tướng chiếu theo danh sách đều được cấp thưởng vải lụa.” Nguyên là triều đình chỉ mới biết một mình Công Tôn Thắng không qua sông đi đánh Phương Lạp, chứ chưa biết rõ nhiều đầu lĩnh đã tử trận trong các trận đánh vừa rồi. Tống Giang nhìn đống đồ thưởng ba mươi lăm bình ngự tửu và ba mươi lăm chiếc áo gấm, lòng quặn đau như thắt, nước mắt trào ra ướt đầm vạt áo. Sứ giả hỏi thăm đầu đuôi sự việc, Tống Giang nói với sứ giả là nhiều đầu lĩnh thiệt mạng trong các trận đánh gần đây. Sứ giả nói:

- Các tướng trận vong nhiều như vậy, sao triều đình không hề biết? Hạ quan bề kinh sẽ xin tâu lên thiên tử.

Tống Giang sai mở tiệc khoản đãi sứ giả. Đô đốc Lưu Quang Thế ngồi ghế chủ tiệc. Các đầu lĩnh lớn nhỏ theo thứ bậc cùng ngồi, ai nấy đều được hưởng ban ngự tửu, thấm ơn mưa móc của triều đình. Các tặng vật ban thưởng cho các chánh phó tướng trận vong đều được giữ lại để ngày hôm su lập bàn thờ tế vọng. Tống Giang lấy một bình ngự tửu và một chiếc áo gấm đem đến miếu thờ Trương Thuận, đích thân gọi hồn Trương Thuận về hưởng tế. Tế xong đem áo gấm mặc cho pho tượng thần bằng đất, còn các đồ vật khác thì thiêu hoá. Sứ giả nghỉ ngơi vài hôm rồi lên đường trở về kinh sư.

Ngày tháng thấm thoát chẳng bao lâu đã hơn một tháng kể từ khi lấy được Hàng Châu. Trương chiêu thảo sai người đem văn thư đến thúc giục Tống tiên phong xuất quân, Tống Giang, Ngô Dụng mời Lư Tuấn Nghĩa đến bàn bạc:

- Từ đây theo đường sông tiến thẳng đến sào huyệt giặc ở Mục Châu. Đi Hấp Châu thì phải theo đường nhỏ qua cửa ải Dục Linh. Anh em ta thì phải chia quân tại đây, chẳng hay hiền đệ muốn chọn đường nào.

Lư Tuấn Nghĩa nói:

- Điều binh khiển tướng thảy đều tuân theo nghiêm lệnh của huynh trưởng, đệ đâu dám lựa chọn.

Tống Giang nói:

- Đã đành như thế, nhưng thử xem mệnh trời ra sao?

Nói đoạn phân chia số người làm hai đội viết vào hai lá thăm. Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa thắp hương cầu khấn rồi mỗi người bốc một thâm. Tống Giang bốc được thâm đánh Mục Châu, Lư Tuấn Nghĩa bốc được thâm đi đánh Hấp Châu.

Tống Giang nói:

- Sào huyệt của Phương Lạp ở trong động Bang Nguyên, huyện Thanh Khê. Hiền đệ đánh lấy Hấp Châu, chia quân mà đóng giữ rồi biên thư về báo tin để cùng ta hẹn ngày tiến đánh sào huyệt Phương Lạp.

Lư Tuấn Nghĩa mời Tống tiên phong chuẩn bị việc cắt cử các tướng tá chỉ huy các cánh quân.

Chánh tiên phong Tống Giang dẫn ba mươi sáu viên chánh phó tướng đến đánh Mục Châu và đèo Ô Long: Quân sư Ngô Dụng, Tần Minh, Lý Ứng, Đái Tôn, Chu Đồng, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Giải Trân, Gỉai Bảo, Lã Phương, Qúach Thịnh, Phàn Thuỵ, Mã Lân, Yến Thuận, Tống Thanh, Hạng Sung, Lý Cổn, Vương Anh, Hổ Tam Nương, Lăng Chấn, Đỗ Hưng, Sái Phúc, Sái Khánh, Bùi Tuyên, Tưởng Kính, Úc Bảo Tứ.

Các chánh phó tướng đầu lĩnh thuỷ quân, bẩy viên chỉ huy chiến thuyền theo quân bộ đánh Mục Châu: Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Thất, Nguyễn Tiểu Ngũ, Đồng Mãnh, Đồng Uy, Mạnh Khang.

Phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa dẫn hai mươi tám viên chánh phó tướng tiến đánh Hấp Châu và cửa ải Dục Linh: Quân sư Chu Vũ, Lâm xung, Hồ Diên Chước, Dương Hùng, Thạch Tú, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc, Tôn Lập, Hoàng Tín, Âu Bằng, Đặng Phi, Đỗ Thiên, Trần Đạt, Dương Xuân, Lý Trung, Tiết Vĩnh, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Lý Lập, Lý Văn, Thang Long, Thạch Dũng, Thời Thiên, Đinh Đắc Tôn, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương.

Cánh quân của Lư Tiên Phong, kể cả chủ suý, tất cả là hai mươi chín viên chánh phó tướng, chỉ huy ba vạn người ngựa chọn ngày tiến phát. Lư Tuấn Nghĩa đến từ biệt Lưu đô đốc và Tống tiên phong rồi xuất quân theo đường núi từ Hàng Châu tiến qua huyện Lâm An.

Lại nói Tống Giang cho chỉnh đốn thuyền bè người ngựa, cắt cử các chánh phó tướng chỉ huy các đội quân, chọn ngày làm lễ tế cờ xuất quân, thuyền ngựa trông nhau, thuỷ lục cùng tiến. Bấy giờ trong thành Hàng Châu bệnh dịch lan tràn, bộ hạ của Tống Giang đã có sáu tướng mắc bệnh: Trương Hoành, Mục Hoằng, Khổng Minh, Chu Quý, Dương Lâm, Bạch Thắng. Cả sáu viên ấy đều chưa khỏi ốm nên không theo đại quân đi đánh được. Mục Xuân và chánh phó tướng ở lại thành Hàng Châu, còn các tướng tá khác theo Tống Giang đi đánh Mục Châu, tất cả là ba mươi bảy viên theo đường ven sông nhắm huyện Phú Dương tiến phát.

Hãy tạm chưa nói chuyện hai cánh quân người ngựa lên đường như thế nào, kể tiếp chuyện Sài Tiến và Yến Thanh sau khi từ biệt Tống tiên phong tại đình Truy Lý ở Tú Châu, đi qua huyện Hải Diêm ra biển đáp thuyền qua Việt Châu, đi vòng vèo đến huyện Chư Kỳ, qua đò ở bến Cá, sang địa giới Mục Châu. Tướng giữ ải ngăn lại xét hỏi. Sài Tiến đáp:

- Tiểu nhân là nho sinh ở trung nguyên, biết xem thiên văn địa lý, hiểu vận hội âm dương, thạo phong vân khí tượng, kinh sách, ba giáo chín dòng không điều gì không biết, xa trông đất Giang Nam có khí tượng thiên tử nên tìm đến, sao các vị lại rào lấp đường tiến vào người hiền?

Tướng giữ ải nghe lời nói biết Sài Tiến chẳng phải người tầm thường, bèn hỏi rõ họ tên. Sài Tiến đáp:

- Tiểu nhân họ Kha tên Dẫn, một thầy một tớ tìm đường đến thượng quốc, không vì duyên cớ nào khác.

Tướng giữ ải lưu Sài Tiến nghỉ lại, rồi sai người về Mục Châu báo tin cho thừa tướng Tố Sĩ Viễn, tham chính Thẩm Thọ, thiên tử Hoàn Dật và nguyên suý Đàm Cao biết. Hữu thừa tướng Tổ Sĩ Viễn sai người đưa Sài Tiến về Mục Châu tương kiến. Hai bên gặp nhau chào hỏi xong, Sài Tiến nói qua lý do tìm đến, cả bốn đại thần của Phương Lạp đều xúc động. Lại thêm phong thái, lời lẽ của Sài Tiến lịch thiệp hơn người nên bọn họ không chút nghi ngờ. Tổ Sĩ Viễn cả mừng cho thiêm thư Hoàn Dật dẫn Sài Tiến đến đại nội ở huyện Thanh Khê yết kiến Phương Lạp. Nguyên là ở Mục Châu và Hấp Châu, Phương Lạp đều có cung điện, triều đình có năm phủ sáu bộ đều đóng cả trong động Bang Nguyên thuộc huyện Thanh Khê.

Sài Tiến và Yến Thanh theo Hoàn Dật đến kinh đô của Phương Lạp ở huyện Thanh Khê. Trước hết vào yết kiến tả thừa tướng Lưu Mẫn Trung, Sài Tiến bàn luận chính sự cổ kim, lời lẽ hùng hồn, thông thái. Lâu Mẫn Trung cả mừng mời Sài Tiến nghỉ lại trong trướng phủ khoản đãi trọng hậu. Thấy thầy trò Sái Tiến, Yến Thanh thông minh lịch thiệp. Lưu Mẫn Trung đã vừa ý đến tám chín phần. Lưu Mẫn Trung nguyên là thầy dạy học ở huyện Thanh Khê, tuy có ít văn chương chữ nghĩa, nhưng không lấy gì làm giỏi giang cho lắm, nghe Sài Tiến kể chuyện thì rất khâm phục, định ngày hôm sau vào triều sẽ tâu lên quốc vương Phương Lạp. Sáng hôm sau, Phương Lạp ngự ở chính điện, các thị thần, cung nữ đứng hầu ở phía sau, bên ngoài là các đại thần khanh tướng chia làm văn võ hai bên, cùng các võ sĩ thị tùng đứng hầu trước viện. Hữu thừa tướng Lưu Mẫn Trung bước ra khỏi hàng tâu rằng:

- Tâu bệ hạ, đất trung nguyên vốn là quê hương của đức Khổng Tử. Nay có một hiền sĩ, họ tên là Kha Dẫn có tài năng kiêm thông văn võ, trí dũng đều đủ, am hiểu thiên văn địa lý, tam giáo cửu lưu, bách gia chư tử không điều gì không biết. Người ấy vì lòng hoài vọng thiên tử đã tìm đường đến đây, hiện đang chờ xin vào bệ kiến.

Phương Lạp nói:

- Có hiền sĩ tìm đến, mau truyền cho vào bệ kiến.

Quan thủ môn đại sứ liền dẫn Sài Tiến đến dưới điện. Sài Tiến theo đúng nghi thức lạy chào, tung hô vạn tuế đã xong, quan tuyên lễ cho phép bước vào trước rèm. Phương Lạp thấy Sài Tiến là người quý phái khác thường, có tướng dòng dõi đế vương thì lấy làm mừng. Phương Lạp hỏi:

- Hiền sĩ có nói nhắm theo khí tượng thiên tử mà đến, là có ý chỉ nơi nào đây?

Sài Tiến tâu:

- Kha Dẫn tôi nghèo hèn, sinh trưởng ở trung nguyên, cha mẹ đều mất sớm, bản thân chỉ theo đòi học vấn để truyền nối bí quyết của tiên hiền, lĩnh thị những áng vãn huyền diệu của tổ sư. Gần đây ban đêm xem thiên tượng thấy sao đế tinh ngời sáng chiếu dọi vào đất Đông Ngô. Vì thế thần không quản xa xôi nghìn dặm nhắm theo tú khí mà đi. Khi đến Giang Nam lại thấy một vầng khí tượng thiên tử năm sắc khởi lên từ đất Mục Châu. Nay thần được chiêm ngưỡng long nhan thiên tử, uy nghi tư thế phượng rồng, thần thái như mặt trời ngời sáng, ấy là ứng vào khí tượng thiên tử vậy. Thần thật muôn phần may mắn, vui mừng khôn xiết.

Sài Tiến nói xong lại sụp lạy hai lạy. Phương Lạp nói:

- Quả nhân tuy có đất đai một giải ở vùng đông nam, gần đây bị bọn Tống Giang xâm lấn chiếm đoạt thành trì. Nay nghe nói bọn chúng đã tiến gần đến kinh đô, chẳng hay quả nhân phải đối phó thế nào?

Sài Tiến tâu rằng:

- Thần nghe người xưa có câu: “Dễ được thì dễ mất, khó được thì khó mất”, nay bệ hạ lập riêng bờ cõi ở vùng đông nam, từ khi khai cơ lập nghiệp đến nay ruỗi dài thẳng tiến, thu đoạt được biết bao châu quận. Nay tuy bị Tống Giang xâm chiếm một vài nơi, không bao lâu vận số lại quay về, thánh thượng không chỉ lấy lại một cõi Giang Nam, ngày sau cả xã tắc trung nguyên này ắt sẽ thuộc về bệ hạ.

Phương Lạp cả mừng, sai bưng chiếc đôn bọc gấm đến cho Sài Tiến ngồi và sai bày ngự yến khoản đãi, phong cho Sài Tiến làm trung thư thị lang. Từ đó Sài Tiến hàng ngày được chầu hầu bên cạnh Phương Lạp, chẳng phải là không biết dùng những lời lẽ ngon ngọt a dua siểm nịnh nhằm đạt mục đích của mình. Trong khoảng chưa đầy nửa tháng, từ Phương Lạp cho đến các quan trong ngoài không một ai không yêu mến Sài Tiến. Sau đó Phương Lạp thấy Sài Tiến xử lý mọi việc đều được công bằng nên hết lòng yêu quý, bèn bảo riêng tả thừa tướng Lưu Mẫn Trung làm mối, muốn gã công chúa Kim Chi cho Sài Tiến, phong cho chức chủ tước đô uý. Yến Thanh đổi tên là Văn Bích, người ta đều gọi là Văn phụng uý. Từ sau ngày thành hôn với công chúa, Sài Tiến được tự do ra vào trong cung điện, hiểu biết cặn kẻ mọi việc trong ngoài. Mỗi khi có việc quan trọng, Phương Lạp đều cho mời Sài Tiến vào cung bàn bạc. Sài Tiến thường tâu:

- Bệ hạ có khí sắc chân chính, chỉ vì sao thiên cang xung phạm nên có phần bất an trong khoảng nửa năm. Đợi đến khi thủ hạ của Tống Giang bị diệt hết không còn một viên chiến tướng, sao thiên cang lu mờ, bệ hạ lại phục hưng cơ nghiệp: ruỗi dài thẳng tiến chiếm gọn cả đất trung nguyên.

Phương Lạp nói:

- Thủ hạ của quả nhân có mấy viên sủng tướng đều đã bị Tống Giang làm thiệt mạng, không biết nên tính thế nào?

Sài Tiến lại tâu rằng:

- Thần xem thiên tướng thấy vận số của bệ hạ tướng tinh tuy có mấy chục nhưng đều không phải là chính khí, chẳng bao lâu nữa tất sẽ mất cả, duy có hai mươi tám vì tinh tú sẽ phò tá bệ hạ phục hưng cơ nghiệp. Trong bọn Tống Giang rồi sẽ có mười mấy viên tướng về hàng bệ hạ, trong đó có đến mấy người thuộc số hai mươi tám vì tinh tú kia, đó đều là những kẻ bề tôi giúp bệ hạ mở rộng đất đai bờ cõi.

Phương Lạp nghe nói cả mừng. Có thơ làm chứng như sau:

Tâm thất đương thời trừng Thái sử

Hà nhân bất tôi Lý Lăng hằng

Thuỷ tri quý sủng Kha phò mã

Nhất niệm nguyên lại vị Tống Giang

Phòng tối bao năm giam Thái sử (1)

Nào người bắt tội Lý Lăng hàng

Ai hay Kha Dẫn làm phò mã

Chỉ cốt dò la giúp Tống Giang

--------------------------

1. Thái sử: chỉ Tư Mã Thiên giữ chức thái sử lệnh đời Hán Vũ Đế. Bấy giờ Lý Lăng (là cháu danh tướng Lý Quảng) đem quân đi đánh Hung Nô, thế cô phải đầu hàng. Tư Mã Thiên xét tình thế không quy kết tội đầu hàng cho Lý Quảng. Hán Vũ Đế tức giận giam Tư Mã Thiên vào tâm thất (phòng tắm).

----------------------------------

Tạm chưa kể chuyện Sài Tiến làm phò mã, kể tiếp chuyện Tống Giang dẫn đại quân người ngựa rời Hàng Châu tiến phát về phía huyện Phú Dương. Bây giờ Bảo Quang quốc sư Đặng Nguyên Giác, nguyên suý Thạch Bảo và bọn Vương Tích, Tiểu Trung, Ôn Khắc Nhượng đã hội tụ tàn quân người ngựa về đóng giữ cửa ải ở huyện Phú Dương, một mặt sai người về Mục Châu xin chi viện. Hữu thừa tướng Tổ Sĩ Viễn sai hai viên chỉ huy sứ thuộc đội thân quân dẫn một vạn quân mã đến ứng cứu cho bọn Đặng Nguyên Giác. Chánh chỉ huy là Bạch Khâm, phó chỉ huy là Cảnh Đức đều có sức khoẻ địch nổi vạn người, nay đem quân đến huyện Phú Dương cùng hội quân với Bảo Quang quốc sư đóng giữ ở đầu núi.

Đại quân người ngựa của Tống Giang đã tiến đến eo biên Thất Lý, thuỷ quân đã chờ sẵn để chở người ngựa đi qua. Thạch Bảo trông thấy liền khoác chuỳ lưu tinh, tay cầm phong đao nhẩy lên ngựa, rời vùng núi huyện Phú Dương đón đánh Tống Giang.

Bên quân Tống, Đại đao Quan Thắng định thúc ngựa ra trận thì nghe tiếng Lã Phương kêu lớn:

- Xin đại ca tạm dừng để xem Lã Phương tôi giao đấu với tên giặc kia vài hiệp.

Tống Giang đứng dưới cờ tướng ngước nhìn, thấy Lã Phương một mình một ngựa, tay nâng ngọn kích xông thẳng vào Thạch Bảo, Thạch Bảo vội múa phong đao đón đánh. Hai tướng ngồi trên lưng ngựa quần thảo đến hơn năm mươi hiệp, đao pháp của Lã Phương đã có phần sút kém. Qúach Thịnh thấy vậy bèn nâng kích tề ngựa đến trợ chiến. Hai tướng hết sức đánh giáp vào. Thạch Bảo chỉ một thanh đao chống chọi với hai ngọn kích nhưng không hề một sơ suất nhỏ. Quang quốc sư vội cho khua chiêng thu quân. Nguyên là Bảo Quang thấy chiến thuyền trên sông Dương Tử nhân lúc thuận gió đã cập vào bờ cát. Bảo Quang sợ bị lọt vào thế gọng kìm nên cho thu quân. Lã Phương, Quách Thịnh đâu chịu buông tha, lại giao đấu với Thạch Bảo bốn năm chục hiệp nữa. Bên trận quân Tống, lại thêm Chu Đồng thúc ngựa, cắp thương xông đến. Thạch Bảo biết thế không địch nổi ba tướng, vội vã gạt mở đường chạy thoát. Tống Giang vẫy roi ngựa thúc quân ồ ạt tiến lên chiếm đèo Phú Dương. Quân mã của Thạch Bảo trên đường rút chạy không dừng lại được, phải chạy thẳng sang huyện Đồng Lư. Tống Giang luôn đêm cho quân đuổi theo, qua khỏi đèo Bạch Phong mới dừng quân đóng trại.

Đêm ấy Tống Giang sai bọn Giải Trân, Giải Bảo, Yến Thuận, Vương Nuỵ Hổ, Nhất Trượng Thanh theo đường phía đông; Lý Quỳ, Hạng Sung, Lý Cổn, Phàn Thuỵ, Mã Lân theo đường phía tây, mỗi người dẫn một nghìn quân bộ tiến đến cướp trại của Thạch Bào ở huyện Đồng Lư. Lại sai bọn Lý Tuấn, ba anh em họ Nguyễn, hai anh em họ Đồng và Mạnh Khang theo đường sông đưa chiến thuyền tiến lên.

Kể tiếp chuyện bọn Gỉai Trân dẫn quân bộ tiến đến huyện Đồng Lư, bấy giờ đã vào khoảng canh ba, Bảo Quang quốc sư đang cùng Thạch Bảo bàn bạc việc quân, bỗng nghe tiếng hoả pháo nổ vang, ai nấy hoảng hốt lên ngựa. Nhìn ra xung quanh thấy khắp ba phía, lửa cháy ngùn ngụt, bọn tướng tá của Thạch Bảo chỉ biết cắm đầu theo chủ tướng tìm đường chạy trốn. Cả ba cánh quân người ngựa ào tới chém giết. Ôn Khắc Nhượng chậm chân không kịp lên ngựa phải theo đường tắt chạy trốn. Không dè lại gặp Vương Nuỵ Hổ và Nhất Trượng Thanh chặn đánh rồi bị bắt sống. Bọn Lý Quỳ, Hạng Sung, Lý Cổn, Phàn Thuỵ, Mã Lân kéo đi đốt phá đánh giết khắp nơi trong huyện. Tống Giang được tin vội truyền lệnh cho đại quân nhổ trại, tiến đến đồn trú ở huyện Đồng Lư. Vương Nuỵ Hổ và Nhất Trượng Thanh áp giải Ôn Khắc Nhượng đến báo công, Tống Giang sai đưa đến quân doanh của Trương chiêu thảo ở Hàng Châu chém đầu thị chúng, chuyện không cần nói đến.

Ngày hôm sau, Tống Giang truyền lệnh cho quân thuỷ quân bộ cùng tiến đến chân đèo Ô Long. Bên kia đèo là phần đất Mục Châu. Lúc này Bảo Quang quốc sư và các tướng khác đã đem quân mã lên trên đèo đóng giữ ở các cửa ải. Cửa ải Ô Long này dựa vào sông Trường Giang, núi cao nước xiết, trên đèo là ải quan phòng, chiến thuyền dàn đậu dưới sông. Tống Giang cho quân mã dừng lại đóng trại sát dưới chân đèo. Ở cánh quân bộ, Tống Giang sai Lý Quỳ, Hạng Sung, Lý Cổn dẫn năm trăm quân đao thủ đi trước dò đường. Khi bọn Lý Quỳ đến dưới chân đèo Ô Long thì quân giữ ải từ trên núi lăn gỗ đá xuống ào ào. Quân đao thủ của Lý Quỳ không sao tiến lên được. Lý Quỳ phải đem quân trở về báo tin với Tống tiên phong. Trước đó Tống Giang đã sai Nguyễn Tiểu Nhị, Mạnh Khang, Đồng Mãnh, Đồng Uy đưa một nửa số chiến tướng cùng dẫn một nghìn quân thuỷ đi trên một trăm chiến thuyền cho quân sĩ phất cờ gióng trống hát vang những bài ca sơn dã, từ từ đem chiến thuyền tiến sát đến dưới chân đèo Ô Long. Nguyên dưới chân đèo Ô Long này bên phía dựa núi là thuỷ trại của quân Phương Long, trong trại có khoảng năm trăm chiến thuyền. Số thuỷ quân khoảng trên dưới năm nghìn người, đứng đầu là bốn viên thuỷ quân tổng quản đều có biệt hiệu “con rồng”, người ta thường gọi là “Chiết Giang tứ long” (bốn con rồng Chiết Giang), đó là: Ngọc Trảo long đô tổng quản Thành Quý, Cẩm Lân long phó tổng quản Dịch Nguyên, Xung ba long tả phó quản Kiều Chính, Hý châu long hữu phó quản Tạ Phúc.

Bốn viên tổng quản ấy là lái thuyền trên sông Tiền Đường theo về với Phương Lạp, được phong chức quan tam phẩm.

Hôm ấy, bọn Nguyễn Tiểu Nhị đưa thuyền tiến đến rồi lựa chỗ cuối dòng nước xiết cho thuyền ghé vào bờ. Trong thuỷ trại của quân Phương Lạp, bốn viên thuỷ quân tổng quản đã chuẩn bị trước năm mươi ống lửa. Loại ống lửa này dùng cả cây gỗ thông đục rỗng ruột, trong nhét chặt nhùi rơm, trong nhùi rơm nhồi các chất dẫn lửa lưu hoàng, diêm tiêu, bên ngoài dùng lạt tre buộc chặt dựng sẵn ở đầu bãi cát. Khi bọn Nguyễn Tiểu Nhị ghé vào bãi, bọn bốn viên tổng quản mỗi người giương một lá cờ đỏ đi trên bốn chiếc thuyền nhẹ xuôi dòng lướt nhanh xuống, bị Nguyễn Tiểu Nhị trông thấy đều phải quay lại. Nguyễn Tiểu Nhị thừa thế đuổi theo. Bốn thuyền nhẹ ghếch đầu lên bãi rồi bốn tên tổng quản nhảy cả lên bờ, các thuỷ thủ cũng bỏ thuyền chạy theo. Nguyễn Tiểu Nhị trông thấy thuỷ trại có xưởng thuyền, có ý chần chừ chưa dám đánh tới. Đúng lúc ấy, có cờ lệnh vẫy trên đèo Ô Long, hiệu chiêng trống nổi lên, các ống khói lửa nhất loạt bốc cháy rồi theo chiều gió bùng bùng lăn xuống bờ cát. Quân sĩ trên các thuyền lớn ở phía sau nhất tề hò reo vang dậy, ai nấy đều giơ giáo dài, câu liêm, nhảy xuống chạy tiến theo các ống lửa. Bọn Đồng Uy, Đồng Mãnh thấy tình thế bất lợi vội bỏ thuyền tìm đường chạy qua núi về trại. Nguyễn Tiểu Nhị và Mạnh Khang vẫn ở lại trên thuyền chống đỡ với quân giặc. Bấy giờ các ống lữa đã cháy lan gần tới nơi. Nguyễn Tiểu Nhị vội nhảy xuống nước, liền bị thuyền giặc từ phía sau đuổi tới dùng câu liêm móc chặt. Nguyễn Tiểu Nhị hoảng hốt sợ bị bắt sống phải chịu nhục, bèn rút dao nhọn đâm cổ chết. Mạnh Khang thấy vậy cũng vội nhẩy xuống sông. Lúc ấy hoả pháo nhồi trong các ống lửa nhất loạt phát nổ rơi trúng đầu làm Mạnh Khang chết cháy ngay tại chỗ. Bốn viên thuỷ quân tổng quản nhảy lên hoả thuyền lướt xuống rất gấp. Lúc ấy Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Ngũ và Nguyễn Tiểu Thất đều đang ở phía sau, thấy tình thế bất lợi vội quay thuyền xuôi dòng chèo gấp về thuỷ trại ở huyện Đồng Lư.

Lại nói lúc bấy giờ trên đèo Ô Long, Bảo Quang quốc sư và nguyên suý Thạch Bảo thấy các tổng quản thuỷ quân đắc thắng, bèn thừa thế dẫn quân đánh xuống đèo. Nước sâu khó theo, đường xa khó đuổi, quân Tống Giang phải lui về doanh trại ở huyện Đồng Lư. Quân Phương Lạp lui về cố thủ trên đèo Ô Long. Vì mất hai tướng Nguyễn Tiểu Nhị và Mạnh Khang, Tống Giang lại một phen đau buồn quên ăn mất ngủ. Quân sư Ngô Dụng và các tướng khuyên can mãi không được. Nguyễn Tiểu Thất, Nguyễn Tiểu Ngũ lo liệu xong việc tang, cũng đến khuyên can Tống Giang:

- Anh cả bọn tiểu đệ hôm nay phải từ bỏ mạng sống vì đại sự của quốc gia, còn hơn phải chết ở Lương Sơn Bạc, tên tuổi bị chôn vùi. Huynh trưởng nắm giữ binh quyền chớ nên buồn phiền quá mức, tổn hại đến việc lớn. Hai anh em tiểu đệ xin được tự mình đi báo thù.

Tống Giang nghe vậy có phần khuây khoả. Ngày hôm sau Tống Giang lại cho chỉnh điểm người ngựa để xuất quân tiến đánh. Quân sư Ngô Dụng can rằng:

- Xin huynh trưởng chớ nên nóng vội, để nghĩ thêm mưu kế rồi hãy cho quân vượt đèo cũng chưa muộn.

Lúc ấy, Giải Trân, Giải Bảo bước vào nói:

- Anh em tiểu đệ vốn xuất thân làm thợ săn, đã quen vượt đèo băng núi. Xin huynh trưởng cho anh em tiểu đệ đóng giả làm người đi săn ở vùng này, trèo lên núi cao đốt lửa khiến cho giặc hoảng sợ, tất phải bỏ cửa ải mà chạy.

Ngô Dụng nói:

- Kế ấy cũng tốt, chỉ sợ ở đây đèo núi hiểm trở, nguy đến tính mạng các hiền đệ.

Giải Trân, Gỉai Bảo nói:

- Anh em tiểu đệ từ khi vượt ngục ở Đăng Châu lên Lương Sơn Bạc sống cuộc đời hảo hán trong bấy nhiêu năm đều là nhờ phúc ấm của huynh trưởng. Anh em đệ lại được nhận quan bằng của quốc gia, mặc áo ấm do thiên tử ban tặng, nay vì việc lớn của triều đình, dù phải tan xương nát thịt cũng chưa đủ đền đáp ân nghĩa của nhân huynh.

Tống Giang nói:

- Hai hiền đệ chớ lo nói lời gở, chỉ mong sao anh em ta lập được công lớn, khi về kinh triều đình hẳn không nỡ phụ chúng ta. Vì việc lớn của quốc gia, anh em hiền đều nên dốc sức dốc lòng.

Giải Trân, Giải Bảo vội đi thu xếp bao gói, mặc áo da hổ, giắt dao nhọn ngang lưng, tay xách đinh ba vào trướng từ biệt Tống Giang rồi theo đường nhỏ tìm lối trèo qua đèo Ô Long. Bấy giờ trời mới vừa xẩm tối, anh em Giải Trân, Giải Bảo gặp hai tên quân Phương Lạp mai phục bên đường. Giải Trân, Giải Bảo nhảy tới hạ thủ ngay hai tên ấy rồi đi nhanh đến dưới chân đèo. Bấy giờ vào khoảng đầu canh hai, Giải Trân nghe trên trại giặc có tiếng trống cầm canh đều đều, hai người không dám đi theo đường chính, đành phải vén gai, rẽ dây leo từng bước, từng bước bò lên. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc, hai người đã leo được hai phần ba đoạn đèo, từ xa trông thấy ánh lửa thấp thoáng trên núi. Hai người người nấp bên cửa đèo, nghe trên chòi canh trống đã điểm canh tư. Giải Trân khẽ nói với Giải Bảo: “sắp sáng đến nơi rồi, anh em ta phải vượt lên thôi”. Hai ngườilại vén gai góc trèo lên. Gặp chỗ vách đá dựng đứng, hai người chỉ còn cách bám chặt mà trèo lên. Tay bíu, chân đạp, khăn gói, đinh ba bên người lủng lẳng và vào vách đá và cây cối, phát ra tiếng động làm cho lính canh trên đèo nghe tiếng. Khi Giải Trân vừa bò vào một hốc đá bỗng nghe trên có tiếng quát vang:

- Đứng im!

Rồi một ngọn câu liêm đâm tới móc vào búi tóc Gỉai Trân. Gỉai Trân chưa kịp với tay rút dao thì ngọn câu liêm đã kéo bổng người lên. Giải Trân vội vàng rút dao phạt đứt cán câu liêm, người Giải Trân cũng rơi luôn xuống vực. Thương thay cho Giải Trân, sống nửa đời hảo hán từ trên vách đá cao hơn trăm trượng rơi xuống phải chịu chết ngoài số mệnh. Phía dưới vách núi lởm chởm đá tai mèo, Giải Trân rơi xuống đó liền xương tan thịt nát. Giải Bảo thấy anh mình rơi ngã vội xoài người lui xuống nhưng lúc ấy từ trên cao đá lớn đá nhỏ lăn xuống ào ào, tiếp đó cung nỏ từ trong bụi rậm bắn ra tới tấp. Thương thay Gỉai Bảo một đời làm thợ săn, nay cùng anh ruột chịu chết trong bụi rậm bên đèo Ô Long.

Đến lúc trời sáng, bọn Thạch Bảo ở trên cửa ải sai quân xuống chặt thủ cấp Giải Bảo đem bêu nắng gió trên đèo Ô Long. Quân thám thính đi nghe ngóng biết rõ sự việc liền về báo cho Tống tiên phong biết tin. Tống Giang đau đớn khóc ngất mấy lần, bèn gọi Quan Thắng, Hoa Vinh điểm ngay quân sĩ để đi đánh đèo Ô Long báo thù cho bốn anh em đầu lĩnh.

Ngô Dụng can:

- Nhân huynh chớ nên nóng vội. Sống chết đều có số trời, còn như việc đánh chiếm cửa ải thì không thể vội vàng được. Xin chủ tướng hãy trù nghĩ kế sách thần diệu để dùng mưu đánh lấy cửa ải, rồi hãy xuống lệnh điều binh khiển tướng.

Tống Giang tức giận nói:

- Không ngờ bọn giặc này làm anh em thủ túc của ta ba phần mất một! Ta không thể nhẫn tâm để quân giặc bêu thây anh em ta giữa nắng gió trên đèo Ô Long. Đêm nay tất phải đem quân đi đánh, đoạt thi hài của anh em đem về đây đóng quan tài mai táng trọng thể.

Ngô Dụng can rằng:

- Quân giặc đem bêu thủ cấp anh em tất là có mưu kế, xin huynh trưởng không nên nóng vội.

Tống Giang không nghe lời khuyên của quân sư Ngô Dụng, ngay trong đêm ấy đem theo các tướng Quan Thắng, Hoa Vinh, Lã Phương, Quách Thịnh dẫn ba nghìn tinh binh đi đánh đèo Ô Long. Vào khoảng canh hai quân tiến đến chân đèo. Có viên tiểu hiệu đến báo: “Hai đầu người bêu trên đèo đúng là thủ cấp Giải Trân, Gỉai Bảo”. Tống Giang đích thân phóng ngựa lên xem xet, thấy hai sào tre cắm đầu Gỉai Trân, Giải Bảo buộc trên hai ngọn cây cao. Thân cây bị tước một mảnh vỏ đề chữ lớn nhưng vì đêm tối trăng không đọc rõ.

Tống Giang sai lấy mồi lửa châm đuốc soi lên đọc rõ hai hàng chữ: “Tống Giang sớm muộn cũng bị chém đầu làm hiệu lệnh ở đây.”

Tống Giang xem xong cả giận, sai quân trèo lên cây lấy thủ cấp hai tướng đem về. Bỗng lúc ấy đuốc lửa nhất loạt cháy sáng khắp nơi, chiêng khua trống thúc liên hồi, rồi quân mai phục bốn phía nổi dậy chặn đường. Cũng lúc ấy quân cung nỏ trên đèo bắn tên xuống như mưa, chiến thuyền giặc từ ngoài sông cũng vừa ghé bến, quân thuỷ ào ạt nhẩy lên bờ. Tống Giang biết tình thế nguy cấp không ngớt kêu khổ, vội cho lui quân. Đúng lúc ấy quân giặc do Thạch Bảo dẫn đầu tiến đến chận đường, Tống Giang rẽ sang phía khác lại gặp quân của Đặng Nguyên Giác đang tiến lên. Đúng là:

Quy mô tựa có đường chen ngựa

Quang cảnh nào thua gió cuốn bờ

Chưa biết quân mã của Tống Giang thoát thân ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 117 - Thành Mục Châu Tên Xuyên Đặng Nguyên Giác

Đang nói chuyện khi Tống Giang vì muốn cướp xác Giải Trân, Giải Bảo ở đèo Ô Long nên trúng mưu Thạch Bảo. Bấy giờ quân mai phục bốn bề nổi dậy: phía trước có quân mã của Thạch Bảo, phía sau là Đặng Nguyên Giác chặn đường. Thạch Bảo cất giọng quát to:

- Tống Giang không xuống ngựa đầu hàng còn đợi đến bao giờ?

Quan Thắng cả giận vỗ ngựa múa đao xông vào đánh Thạch Bảo. Hai tướng giao chiến chưa phân thắng bại thì phía sau tiếng hò reo vang dậy, đó là bốn viên tướng tổng quản thuỷ quân của Phương Lạp cùng lúc lên bờ, hội với bọn Vương Tích, Tiểu Trung từ trên đèo đánh xuống. Hoa Vinh vội ra chặn đánh phía sau. Giao chiến với VươngTích chưa được vài hiệp, Hoa Vinh quay ngựa bỏ chạy. Vương Tích, Tiểu Trung thừa thắng đuổi theo. Hoa Vinh nâng tay thả hai mũi tên liên châu trúng đích, hất nhào hai tướng xuống ngựa. Quân sĩ hoảng sợ la hét chạy dạt về phía sau. Bốn viên tổng quản thuỷ quân thấy một lúc cả Vương Tích, và Tiểu Trung đều chết thì không dám tiến, vì thế một mình Hoa Vinh có thể địch nổi bọn chúng. Một lúc sau, thêm hai toán quân tiếp tới. Một toán là quân của chỉ huy Bạch Khâm, một toán là của chỉ huy Cảnh Đức.

Bên trận Tống Giang hai tướng cùng lúc xông ra: Lã Phương đón đánh Bạch Khâm, Qúach Thịnh giao chiến với Cảnh Đức. Bốn tướng ngồi trên lưng ngựa quần thảo bất chấp sống chết. Bấy giờ Tống Giang bồn chồn lo lắng bỗng nghe phía sau quân Thạch Bảo la hét bỏ chạy. Đó là Lý Quỳ cùng hai tay thuẫn Hạng Sung, Lý Cổn dẫn một nghìn quân bộ đánh tới. Đặng Nguyên Gíac đem quân tiếp ứng thì gặp đội quân bộ của Lỗ Trí Thâm và Võ Tòng. Lỗ Trí Thâm múa thiền trượng sắt, Võ Tòng vugn đôi giáo đao cùng xông vào chém giết. Theo sau là Tần Minh, Lý Ứng, Chu Đồng, Yến Thuận, Mã Lân, Phàn Thuỵ, Nhất Trượng Thanh, Vương Nuỵ Hổ, đốc suất quân mã liều chết xông tới đánh tan quân mã của bọn Thạch Bảo, Đặng Nguyên Giác. Tống Giang được giải vây đem quân về huyện Đồng Lư. Thạch Bảo cũng thu quân lên trên đèo. Tống Giang về đến doanh trại khen ngợi các tướng:

- Không có các anh em đến cứu thì Tống Giang này đã theo Giải Trân, Giải Bảo chầu trời.

Ngô Dụng nói:

- Ngô Dụng tôi sợ huynh trưởng đi chuyến này bất lợi, nên đã đề phòng, sai các tướng đi cứu viện.

Tống Giang nghe xong khen ngợi mãi không thôi.

Lại nói hai nguyên soái bên quân Phương Lạp là Thạch Bảo và Đặng Nguyên Giác ngồi trong trại quân trên đèo Ô Long bàn nhau:

- Hiện giờ binh mã của Tống Giang lui về đóng ở huyện Đồng Lư, nhưng nếu bất ngờ bọn họ theo đường tắt vượt qua đèo thì thành Mục Châu chỉ cách tấc gang sẽ bị nguy. Quốc sư nên về đại nội ở huyện Thanh Khê xin thiên tử điều thêm quân mã giữ đèo mới là kê phòng bị vững chắc.

Đặng Nguyên Gíac nói:

- Nguyên suý nói rất đúng, bần tăng xin đi.

Nói đoạn, Đặng Nguyên Gíac liền lên ngựa về Mục Châu. Tới nơi Đặng Nguyên Gíac vào yết kiến thừa tướng Tổ Sĩ Viễn, nói:

- Quân Tống Giang hùng mạnh, thế khó ngăn nổi. Hiện giờ quân mã của chúng đang tiến như cuốn chiếu, bần tăng lo xẩy sự chẳng lành, nên về đây tâu xin vương thượng điều thêm binh tướng đến giữ cửa ải.

Tổ Sĩ Viễn nghe đoạn bèn lên ngựa cùng với Đặng Nguyên Giác rời Mục Châu đến động Bang Nguyên ở huyện Thanh Khê. Trước hết hai người vào yết kiến tả thừa tướng Lưu Mẫn Trung, nhờ tả thừa tướng tâu xin triều đình cho quân viện. Ngày hôm sau trong buổi chầu sớm, Phương Lạp lên ngự ở chính điện, hai vị tả, hữu thừa tướng cùng với Đặng Nguyên Giác vào chầu, nghi lễ bái yết đã xong, Đặng Nguyên Giác bước lên chúc thánh thượng vô cương, rồi tâu:

- Thần tăng Đặng Nguyên Giác vâng lĩnh thánh chỉ cùng với thái tử đóng giữ Hàng Châu. Không ngờ quân mã của Tống Giang hùng mạnh tiến như cuốn chiếu, thế khó địch nổi, lại bị viên binh sự làm phản đưa giặc vào thành nên Hàng Châu thất thủ, thái tử vì ham đánh mà thiệt mạng. Lần này Nguyên Giác tôi cùng nguyên suý Thạch Bảo cho lui quân về giữ cửa ải ở đèo Ô Long, trước sau đã lấy đầu bốn tướng của Tống Giang, thanh thế hơi chấn phát. Hiện nay Tống Giang đã chiếm đóng huyện Đồng Lư, bọn thần sợ sớm muốn quân giặc sẽ theo đường tắt vượt qua cửa ải, dù hiểm trở cũng khó giữ nổi. Xin bệ hạ sớm cho tướng giỏi điều thêm quân mã tinh nhuệ đến chung sức cùng giữ ải để trù mưu đánh giặc, thu phục thành trì.

Phương Lạp nói:

- Quân các nơi đã điều đi cả. Mấy ngày trước cửa ải Dục Nhĩ ở Hấp Châu nguy cấp, trẫm đã phải cho điều đến mấy vạn quân đến đóng. Hiện chỉ còn quân mã ở doanh ngự lâm, quả nhân muốn dùng để giữ đại nội, không thể điều đi nơi khác được.

Đặng Nguyên Gíac lại tâu:

- Không có quân cứu viện, thần tăng không biết tính sao. Nếu quân Tống vượt đèo, thành Mục Châu biết lấy gì mà chống giữ?

Tả thừa tướng Lưu Mẫn Trung bước ra khỏi hàng tâu:

- Xin bệ hạ xét kỹ cho. Cửa ải Ô Long là nơi hiểm yếu, cứ như ngụ ý của thần thì quân ngự lâm tất cả có ba vạn, có thể chia một vạn giao cho quốc sư đem đến giữ ải Ô Long, xin vương thượng soi xét.

Phương Lạp không theo lời tâu của Lưu Mẫn Trung, vẫn không chịu cho đưa quân ngự lâm đến giữ ải Ô Long. Tan buổi chầu hôm ấy, các quan ai nấy ra về. Lưu thừa tướng bàn bạc với các quan, chỉ còn cách đê Tổ thừa tướng giao cho một tướng ở Mục Châu đem năm nghìn quân theo quốc sư đến giữ đèo Ô Long. Vì thế, Đặng Nguyên Gíac cùng với Tổ Sĩ Viễn về đến Mục Châu liền chọn ngay năm nghìn quân tinh nhuệ, đặt dưới quyền của Hạ Hầu Thành. Hạ Hầu Thành đem quân đến doanh trại ở đèo Ô Long, thuật lại sự việc cho Thạch Bảo biết. Thạch Bảo nói:

- Triều đình đã không điều quân ngự lâm đến đây thì bọn ta chỉ biết giữ ải chứ không cho quân ra giao chiến. Cứ để cho bốn thuỷ quân tổng quản giữ đầu bãi sông, hễ có thuyền đến là bọn ta cho quân rút.

Hãy tạm gác chuyện Bảo Quang quốc sư cùng bọn Thạch Bảo, Bạch Khâm, Cảnh Đức, Hạ Hầu Thành đóng giữ cửa ải Ô Long. Kể tiếp chuyện Tống Giang bị hao quân tướng phải lui về đóng giữ ở huyện Đồng Lư. Hơn hai chục ngày quân sĩ nghỉ ngơi không giao chiến. Bỗng có quân thám mã về báo “Triều đình sai Đồng khu mật đem vật phẩm đến ban thưởng, hiện đã tới Hàng Châu. Nghe nói Đồng khu mật sai đại tướng Vương Lẫm đem đồ thưởng đến chỗ Lư tiên phong ở ải Dục Linh, Đồng khu mật đích thân đến ban thưởng tại đây.” Tống Giang nghe tin bèn cùng với Đồng khu mật vào huyện đường tuyên đọc sắc chỉ rồi chia đồ thưởng ban cho các tướng. Anh em Tống Giang vái tạ Đồng khu mật rồi mở tiệc khoản đãi. Đồng khu mật nói:

- Hạ quan nghe nói anh em quý tướng đi chinh thảo chuyến này bị nhiều tổn thất.

Tống Giang ứa nước mắt đáp:

- Năm trước anh em Tống Giang tôi theo Triệu khu mật đi đánh giặc Liêu, giành thắng lợi vẹn toàn, tướng hiệu không mất một ai. Từ khi vâng sắc đi đánh Phương Lạp, chưa rời khỏi kinh sư thì Công Tôn Thắng đã cáo từ lui về, triều đình lại lưu lại mấy người phục dịch xa giá. Từ khi đem quân vượt Trường Giang đến đâu cũng đều bị tổn vong. Mới đây lại thêm tám chín đầu lĩnh bị ốm phải nằm lại ở Hàng Châu, sống chết ra sao chưa biết. Vừa rồi hai lần đánh trận ở đèo Ô Long lại mất thêm mấy tướng, thực cũng là do núi non hiểm trở, khó dàn quân đối trận nên chưa dám cho quân đánh qua cửa ải. Nay đúng lúc anh em chúng tôi đang nóng lòng mong đợi, may được ân tướng đến đây.

Đồng khu mật nói:

- Thiên tử nghe tin tiên phong lập nhiều công lớn, sau lại nghe anh em tướng hiệu nhiều người tử trận nên đặc sai hạ quan đưa hai đại tướng Vương Lẫm, Triệu Đàm đến đây trợ chiến. Hạ quan đã cử đại tướng Vương Lẫm đem đồ thưởng đến chỗ Lư tiên phong.

Đồng khu mật nói đoạn bèn gọi đại tướng Triệu Đàm đến chào Tống Giang rồi cho quân cùng đóng lại ở huyện Đồng Lư mở tiệc khoản đãi. Ngày hôm sau Đồng khu mật cho điểm ngay quân mã định đi đánh ải đèo Ô Long. Ngô Dụng can rằng:

- Xin ân tướng chớ vội. Trước hết ta nên sai Yến Thuận, Mã Lân theo đường ven khe tìm dân địa phương nhờ tìm đường tắt đi qua ải. Hai mặt đánh giáp vào khiến bọn giặc trước sau không tiếp ứng được, như thế chỉ cần xoa tay là lấy được cửa ải ấy.

Tống Giang nói:

- Quân sư nói rất phải.

Nói đoạn, liền sai Mã Lân, Yến Thuận dẫn mấy chục tên quân rời doanh trại đi tìm người dẫn đường. Chập tối ngày hôm sau bọn Yến Thuận dẫn một cụ già đến chào Tống Giang. Tống Giang hỏi:

- Lão phụ đây là ai?

Mã Lân thưa:

- Lão phụ là người vùng này, biết rõ mọi đường đi lối lại.

Tống Giang nói:

- Lão phụ làm ơn chỉ giúp cho chúng tôi một lối đi tắt qua đèo Ô Long, Tống Giang tôi sẽ xin hậu thưởng.

Cụ già đáp:

- Gìa này vốn là dân ở đây, nhiều phen bị Phương Lạp tàn hại, dân chúng không đường trốn tránh, may triều đình cho quân tới, muôn dân có phúc lại được thấy cảnh thái bình. Già biết một con đường nhỏ đến vùng Đông Quản, đến cách Mục Châu không xa thì vòng lên phía bắc, lại chuyển sang cửa tây bắc là đến đèo Ô Long.

Tống Giang nghe xong cả mừng bèn gọi lấy bạc, lụa ban thưởng rồi mời cụ già nghỉ lại trong doanh trại, sai dọn rượu khoản đãi. Ngày hôm sau, Tống Giang mời Đồng khu mật ở lại giữ huyện Đồng Lư, tự mình dẫn mười hai chánh phó tướng theo con đường nhỏ tiến vào núi. Đó là bọn Hoa Vinh, Tần Minh, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Đái Tôn, Lý Quỳ, Phàn Thuỵ, Vương Anh, Hổ Tam Nương, Hạng Sung, Lý Cổn, Lăng Chấn dẫn một vạn quân mã bộ, người ngậm tăm, ngựa rọ mõm lặng lẽ tiến nhanh theo cụ già dẫn đường. Đến đèo Tiểu Ngưu, thoáng thấy quân giặc, Tống Giang bèn gọi Lý Quỳ, Hạng Sung, Lý Cổn lên đánh. Bốn năm trăm tên quân chặn đường đều bị bọn Lý Quỳ giết sạch. Vào khoảng canh tư, quân Tống đã tiến đến Đông Quản, tướng trấn thủ là Ngũ Ứng Tinh nghe tin quân Tống đến, lượng sức chỉ còn hai nghìn người ngựa không địch nổi, bèn bỏ thành rút chạy. Về đến Mục Châu, Ngũ Ứng tìm gặp Tổ thừa tướng báo tin: “Quân của Tống Giang đi đường tắt vượt đèo Ô Long, hiện đã đến Đông Qủan.”

Tổ Sỹ Viễn nghe nói cả sợ, vội gọi các tướng đến bàn bạc. Bấy giờ Tống Giang đã ra lệnh cho pháo thủ Lăng Chấn phát hoả bắn súng liên châu. Thạch Bảo ở trại quân trên đèo Ô Long hoảng hốt, nghe tiếng súng nổ vội sai chỉ huy Bạch Khâm đem quân đi thám thính. Bạch Khâm thấy cờ hiệu bên quân Tống Giang mọc khắp các dốc núi, vội trở về báo tin. Thạch Bảo nói:

- Triều đình đã không phái quân cứu viện, bọn ta chỉ việc giữ chặt cửa ải, không phải cứu viện ở đâu hết!

Đặng Nguyên Giác nói:

- Nguyên suý nhầm rồi! Có đưa quân đi cứu viện cho Mục Châu hay không là tuỳ quyền của nguyên suý. Nhưng nếu đại nội thất thủ thì bọn ta ở đây cũng không giữ được. Nguyên suý không đi thì tôi sẽ đi cứu Mục Châu!

Thạch Bảo khuyên can mãi không được. Đặng Nguyên Giác vẫn điểm lấy năm nghìn người ngựa, xách cây thiền trượng cùng Hạ Hầu Thành đem quân xuống núi.

Lại nói quân Tống Giang tiến đến Đông Qủan nhưng không đánh ngay vào thành Mục Châu mà chiếm ải đèo Ô Long trước, vừa vặn gặp ngay Đặng Nguyên Giác. Người ngựa tiến dẫn đến, quân đôi bên sẵn sàng nghênh chiến. Hoa Vinh trông thấy vội ghé tai Tống Giang nói nhỏ:

- Tên giặc này thì cứ làm như thế là bắt sống được.

Tống Giang gật đầu khen phải rồi gọi Tần Minh đến căn dặn. Tần Minh giật cương ngựa tiến ra đánh Đặng Nguyên Giác. Hai tướng giao chiến chừng năm sáu hiệp, Tần Minh vờ thua quay ngựa chạy, quân lính tán loạn bỏ chạy. Đặng Nguyên Gíac thấy Tần Minh chịu thua bèn bỏ Tần Minh định xông vào bắt sống Tống Giang. Nguyên là Hoa Vinh đã sẵn sàng bảo vệ Tống Giang, chỉ đợi Đặng Nguyên Giác đến gần là giương cung nhắm bắn. Cung trương thật căng, một mũi tên như sao lướt bay đến cắm phập vào giữa trán Đặng Nguyên Gíac. Nguyên Giác liền lăn xuống ngựa và bị đại quân của Tống Giang ào lên xéo nát. Quân Phương Lạp đại bại. Hạ Hầu Thành chống đỡ không nổi bèn quay ngựa chạy về Mục Châu. Quân Tống Giang trèo lên đèo Ô Long rồi từ đó lao gỗ, bắn đạn đá xuống tới tấp. Sau đó Tống Giang cho quân quay lại đánh lấy Mục Châu.

Lại nói Tổ thừa tướng thấy Hạ Hầu Thành thua trận, chạy về báo tin quân Tống Giang vượt qua Đồng Quản giết Đặng quốc sư, sau đó chạy lại đánh Mục Châu.

Tổ Sỹ Viễn nghe xong liền sai người về Đại nội ở huyện Thanh Khê xin Lưu thừa tướng cho vào triều tâu rằng:

- Hiện nay quân Tống theo đường tắt đã lọt vào Đông Qủan, đang tiến đánh Mục Châu rất gấp. Xin bệ hạ sớm cho quân đi cứu ứng, để muộn thì Mục Châu tất vị vây hãm.

Phương Lạp nghe nói cả sợ vội sai điện tiền thái uý Trịnh Bưu điểm một vạn năm ngàn quân kỵ mã ngự lâm ngày đêm đi gấp đến cứu thành Mục Châu. Trịnh Bưu tâu rằng:

- Thần kính vâng thánh chỉ, xin bệ hạ cho thiền sư cùng đi hỗ trợ tất sẽ đánh bại Tống Giang.

Phương Lạp chuẩn tâu bèn cho mời Linh Ứng thiền sư Bao Đạo Ất. Thiền sư đến dưới điện rập đầu lạy chào. Phương Lạp nói:

- Binh mã Tống Giang nhiều lần vây hãm thành trì, làm hao binh tổn tướng, nay xem chừng sắp xâm phạm đô thành của trẫm. Hiện bọn chúng đã đánh đến Mục Châu, trẫm mong thiền sư ra tay pháp thuật giữ nước cứu dân, bảo toàn giang sơn xã tắc.

Bao thiền sư tâu:

- Bệ hạ rộng lòng quá khen, bần đạo là kẻ bất tài, nguyện xin đem học thức bình sinh nương nhờ hồng phúc của bệ hạ, một phen ra tay quét sạch binh mã của Tống Giang.

Phương Lạp cả mừng sai dọn yến khoản đãi thiền sư. Bao Đạo Ất ăn uống xong cáo từ ra về, rồi cùng Trịnh Bưu, Hạ Hầu Thành bàn định việc xuất quân.

Bao Đạo Ất nguyên là người ở vùng núi Kim Hoa, xuất gia tu hành từ lúc còn nhỏ, học phép thuật phù thuỷ. Sau đó, thường dùng yêu phép hại người. Hắn có một thanh bảo kiếm gọi là Huyền nguyên hỗn thiên có thể ném xa lấy đầu người ngoài trăm bước. Vì Bao Đạo Ất là mưu sĩ tiếp tay cho Phương Lạp làm sự bất nhân nên được Phương Lạp tôn gọi là Linh ứng thiền sư. Trịnh Bưu xuất thân là một viên đô đầu ở huyện Lan Khê thuộc Vụ Châu, từ nhỏ quen dùng thương bổng, sau gặp Phương Lạp được tin dùng thăng đến chức điền suý thái uý. Trịnh Bưu rất mê đạo pháp phù thuỷ, tôn lạy Bao Đạo Ất làm thầy, học được nhiều môn phép thuật, mỗi khi lâm trận thường hoá phép làm mây mù, vì thế người ta thường gọi là Trịnh ma quân. Hạ Hầu Thành cũng là người ở miền núi Vụ Châu, xuất thân làm nghề săn bắn, quen sử dụng cây đinh ba, làm kẻ dưới quyền theo Tổ thừa tướng đóng giữ thành Mục Châu. Ngày hôm ấy ba người đang ngồi trong phủ điện suý bàn việc cất quân đánh Tống Giang thì viên tiểu lại canh cửa vào báo, “Có quan tư thiên thái giám Phố Văn Anh đến.” Bao thiền sư hỏi quan thái giám đến có việc gì? Phố Văn Anh đáp:

- Hạ quan nghe tin Bao đại nhân sắp cất quân đi đánh quân Tống, Văn Anh tôi ban đêm xem thiên tượng thấy tướng lĩnh ở phương nam đều mất ánh sáng. Bên Tống Giang thì các ngôi tướng tinh còn sáng đến một nửa. Cứ theo ngu ý thì thiền sư đi chuyến này thì có thể có điều thất lợi. Sao Bao đại nhân không trở về triều tâu lên chúa thượng xếp quy thuận Tống triều để cứu nguy cho nước?

Bao thiền sư nghe nói cả giận, tuốt kiếm Huyền nguyên hỗn thiên chém Phố Văn Anh làm hai đoạn rồi sau đó viết biểu văn tâu lên Phương Lạp. Chuyện không có gì đáng nói.

Người chép sử có thơ làm chứng rằng:

Vượng khí đông nam dĩ tiệm tiêu

Vạn bằng tả đạo dụng nhân yêu

Văn Anh trí thức chân thiên mệnh

Hà sự quyên sinh tại nguỵ triều?

Khí vượng đông nam đã tiêu điều

Còn theo tặc đảng dấy tinh yêu

Văn Anh đã biết chân thiên mệnh

Sao vẫn liều thân giúp nguỵ triều?

Bấy giờ Trịnh Bưu làm tiên phong đưa quân mã tiến ra khỏi thành. Bao thiền sư giữ trung quân, Hạ Hầu Thành dẫn hậu quân tiếp ứng. Quân mã lên đường tiến gấp đến cứu Mục Châu.

Lại nói quân tướng Tống Giang tiến đánh Mục Châu chưa phân thắng bại, bỗng có quân thám mã về báo tin quân Phương Lạp từ huyện Thanh Khê đến cứu viện. Tống Giang nghe xong bèn sai hai tướng Vương Nuỵ Hổ, Nhất Trượng Thanh đem quân tiền bộ đi nghênh địch. Vợ chồng Vương Nuỵ Hổ đem ba nghìn quân mã tiến về Thanh Khê, gặp quân Trịnh Bưu trên đường đi. Trịnh Bưu thúc ngựa lên đánh Vương Nuỵ Hổ. Hai tướng chẳng cần hỏi đáp liền dàn ngay thế trận rồi tung ngựa vào giao chiến. Hai tướng đánh chừng tám chín hiệp. Trịnh Bưu lẩm nhẩm niệm chú rồi quát: “Nhanh!”. Lập tức trên chóp mũ trụ của Trịnh Bưu bay ra một làn khí đen, rồi trong đám khói hiện lên một thiên thần mặc giáp vàng, tay cầm chuỳ phép, từ trên không lao vụt xuống. Vương Nuỵ Hổ thấy vậy kinh sợ, chân tay bủn rủn, các đường giáo loạc choạc, lập tức bị Trịnh ma quân đâm nhào xuống ngựa. Nhất Trượng Thanh thấy chồng bị đâm ngã ngựa vội múa đôi song đao lao vào cứu. Trịnh Bưu liền quay lại đánh Nhất Trượng Thanh. Đánh lướt qua một hiệp, Trịnh Bưu quay ngựa chạy, Nhất Trượng Thanh muốn báo thù cho chồng vội thúc ngựa đuổi theo. Trịnh ma quân kẹp giáo vào nách, thò tay vào túi vải đeo bên sườn, móc một quả cầu sắt, nghiêng người nhắm ném giữa trán Nhất Trượng Thanh. Nhất Trượng Thanh gục ngã chết ngay dưới chân ngựa. Thương thay nữ tướng trải thân trăm trận, nào ngờ giờ đây thành giấc mộng xuân. Trịnh ma quân vẫy gọi quân mã quay lại đuổi theo quân Tống. Quân Tống đại bại trở về báo cho Tống tiên phong biết Vương Nuỵ Hổ và Nhất Trượng Thanh đều bị Trịnh ma quân giết chết, người ngựa tổn thất quá nửa. Tống Giang thấy lại mất thêm Vương Nuỵ Hổ và Nhất Trượng Thanh, bèn nổi giận điểm ngay quân mã cùng bọn Lý Quỳ, Hạng Sung, Lý Cổn dẫn năm nghìn người ngựa tiến đánh báo thù. Không bao lâu quân của Trịnh ma quân kéo đến. Tống Giang bừng bừng căm giận thúc ngựa xông lên quát:

- Tên giặc kia sao cả gan giết hai tướng của ta?

Trịnh Bưu nâng thương thúc ngựa ra định đánh Tống Giang. Lý Quỳ thấy vậy bèn vung đôi búa chạy như bay tới. Hạng Sung, Lý Cổn múa thuẫn che đỡ cho Lý Quỳ. Ba người xông thẳng vào Trịnh Bưu. Trịnh ma quân phải quay ngựa chạy. Bọn Lý Quỳ ba người bám sát theo sau, xông vào giữa trận quân nam. Tống Giang sợ Lý Quỳ thiệt mạng vội vẫy quân mã ồ ạt xáp chiến. Quân nam tan rã, tán loạn bỏ chạy. Tống Giang liền cho khua chiêng thu quân về. Khi Hạng Sung, Lý Cổn kèm được Lý Quỳ quay về bỗng thấy mây đen trùm kín, khí độc mù trời, bốn bề tối đen như mực. Người ngựa của Tống Giang đã lọt vào trận đồ yêu quái của Trịnh ma quân. Quân sĩ nháo nhác hoảng loạn, phải dò dẫm từng bước mà đi, xung quanh tối đen như mực, ngửa tay không thấy. Tống Giang ngửa mặt lên trời than rằng:

- Có phải Tống Giang này đành bó tay chịu chết ở đây?

Trong khoảng từ giờ Tị đến giờ Mùi mây mù tan dần, bắt đầu lờ mờ có ánh sáng, rồi thấy xuất hiện nhiều người cao lớn lực lưỡng mặc áo giáp sắt vây kín xung quanh. Tống Giang sợ hãi ngã lăn ra đất, miệng lẩm nhẩm: “Xin cho Tống Giang này được chết”. Tống Giang không dám ngước lên, bên tai chỉ nghe tiếng mưa gió ào ào, ba quân tướng sĩ của Tống Giang cũng nằm rạp chờ chết. Một lúc sau mưa gió ngớt dần, Tống Giang thấy mình vẫn còn sống lại có một người đi tới kéo tay và nói: “Tướng quân hãy đứng dậy!”. Tống Giang ngước nhìn thấy một thư sinh đang giơ tay kéo mình lên. Tống Giang giật mình kinh sợ vội đứng dậy lạy chào, rồi hỏi họ tên. Người ấy đáp:

- Tiểu sinh họ Thiệu, tên Tuấn, vốn ở vùng này, đến đây báo cho nghĩa sĩ biết; vận số cua Phương Lạp sắp hết, chỉ trong vòng một năm nữa nghĩa sĩ sẽ phá tan được quân hắn. Tiểu sinh xin ra tay giúp nghĩa sĩ. Nay tuy gặp nguy khốn nhưng quân cứu viện đã đến, chẳng hay nghĩa sĩ đã biết chưa?

Tống Giang hỏi:

- Thưa tiên sinh, cứ như vận số của Phương Lạp thì đến bao giờ bắt được hắn.

Thiệu tú tài giơ tay đẩy ra, Tống Giang kinh sợ giật mình tỉnh dậy, mới hay đó là giấc chiêm bao. Nhìn kỹ thì hoá ra những người cao lớn mặc áo giáp ấy chỉ là những cây thông. Tống Giang lên tiếng gọi quân sĩ đứng dậy tìm đường tiến. Bấy giờ mây tan mù tạnh trời lại, trong sáng chỉ nghe phía ngoài rặng thông reo hò vẳng đến. Tống Giang liền hạ lệnh cho quân sĩ từ phía trong tiến ra. Chẳng bao lâu đã thấy Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng dẫn quân tiến đến, hiện đang giao chiến với Trịnh Bưu. Bao thiền sư ngồi trên ngựa thấy Võ Tòng vung đôi giới đao, chạy bộ xông vào đánh Trịnh Bưu, liền rút thanh kiếm Huyền nguyên hỗn thiên từ trên không sà xuống chém trúng vai Võ Tòng. Võ Tòng máu me lênh láng, ngã ngất. Lỗ Trí Thâm vung thiền trượng ra sức đánh cứu, thấy Võ Tòng đã giật được thanh kiếm của Bao Đạo Ất, nhưng tay trái bị chém gần đứt hẳn. Võ Tòng hồi tỉnh, thấy cánh tay lủng lẳng bèn đưa giới đao cắt cho đứt hẳn. Tống Giang gọi một tên quân hiệu dìu Võ Tòng về trại nghỉ ngơi. Lỗ Trí Thâm một mình xông xáo đánh vào giữa trận, gặp ngay Hạ Hầu Thành. Hai tướng giao chiến chừng vài hiệp, Hạ Hầu Thành thua chạy. Lỗ Trí Thâm vác thiền trượng xồng xộc đuổi theo, quân nam tán loạn bỏ chạy. Hạ Hầu Thành cắm đầu chạy vào rừng sâu. Lỗ Trí Thâm đuổi theo đến cùng.

Nói tiếp chuyện Trịnh ma quân đuổi theo đến trước trận quân Tống thì bị ba tướng Lý Quỳ, Hạng Sung, Lý Cổn vung đao ào đến đánh. Trịnh ma quân không địch nổi phải quay lại chạy trốn. Bọn Lý Quỳ không thuộc đường núi, nhưng muốn lập công nên liều mạng trèo đèo, vượt suối đuổi theo, không ngờ bờ khe bên kia bọn Trịnh Bưu đã đặt sẵn ba nghìn quân mai phục. Hạng Sung vội quay lại nhưng bị hai tướng quân nam ra chận đánh. Hạng Sung liền gọi Lý Quỳ và Lý Cổn nhưng lúc ấy bọn Lý Quỳ đang vượt khe đuổi theo Trịnh Bưu rồi. Nước ở đoạn khe đó rất sâu, Lý Cổn vừa sẩy chân ngã xuống liền bị quân cung nỏ trên bờ bắn tới tấp xuống như mưa mà chết. Hạng Sung lặn xuống nước nhưng bị mắc vào lưới do quân mai phục đã giăng sẵn. Hạng Sung cố sức giẫy dụa nhưng bị quân Trịnh Bưu ào xuống đâm chém làm trăm mảnh. Thương thay Lý Cổn, Hạng Sung đến đây chịu chết, kẻ anh hùng cũng đành bó tay.” Chỉ còn một mình Lý Quỳ đuổi Trịnh Bưu vào sâu trong núi. Quân nam chạy dọc bờ khe đuổi đánh, cách chừng nửa dặm lại nghe phía nam tiếng reo hò vang dậy. Đó là bọn Hoa Vinh, Tần Minh, Phàn Thuỵ đem quân đến cứu. Quân Trịnh Bưu tan rã bỏ chạy. Bọn Hoa Vinh cứu được Lý Quỳ đem về, nhưng Lỗ Trí Thâm thì tìm mãi không thấy. Các tướng đến gặp Tống Giang kể lại chuyện đuổi đánh Trịnh ma quân, khi vượt khe không may Lý Cổn, Hạng Sung bị giết, chỉ cứu được Lý Quỳ đem về. Tống Giang đau xót khóc hồi lâu. Khi điểm lại binh mã, ngoài số chết tại trận lại thêm Lỗ Trí Thâm mất tích và Võ Tòng bị chém mất tay. Đang lúc Tống Giang đau buồn, quân thám mã về báo: “Quân sư Ngô Dụng cùng các tướng Quan Thắng, Lý Ứng, Chu Đồng, Yến Thuận, Mã Lân đem một vạn quân theo đường sông đã đến tiếp viện”. Tống Giang ra ngoài trại nghênh tiếp bọn Ngô Dụng, hỏi thăm mọi việc xảy ra. Ngô Dụng trả lời:

- Đồng khu mật đem theo quân mã cùng với quân của đại tướng Vương Lẫm, Triệu Đàm và đô đốc Lưu Quang Thế đã tới dưới đèo Ô Long. Các tướng là Lã Phương, Qúach Thịnh, Bùi Tuyên, Tưởng Kính, Sái Phúc, Đỗ Hưng, Úc Bảo Tứ và các đầu lĩnh thuỷ quân Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Uy, Đồng Mãnh ở lại giữ trại còn các tướng khác đều theo Ngô Dụng tôi đến tiếp ứng.

Tống Giang nói:

- Lại một phen hao binh tổn tướng. Võ Tòng thành người tàn tật, Lỗ Trí Thâm hiện không biết ở đâu, ta cầm lòng không được.

Ngô Dụng khuyên can:

- Xin huynh trưởng hãy tạm nén buồn, bây giờ chính là lúc phải cố sức đánh Phương Lạp, chủ tướng chớ quá đau xót mà tổn hại sức khoẻ.

Tống Giang giơ tay chỉ về phía rặng thông, kể lại cho quân sư Ngô Dụng nghe giấc mộng lạ hôm trước.

Ngô Dụng nói:

- Nếu có điềm báo mộng như thế, thì chắc nơi đây phải có đền miếu thờ vị thần thiêng đã hiển linh phù hộ chủ tướng.

Tống Giang nói:

- Quân sư nói rất phải, ta nên vào núi tìm xem.

Nói đoạn Tống Giang, Ngô Dụng thong thả đi bộ vào trong núi. Cách một quãng không xa, hai người thấ một ngôi miếu thấp thoáng trong rừng thông. Đến gần thấy trước miếu có tấm biển thếp vàng bốn chữ: “Ô Long thần miếu”. Tống Giang đi vào thượng điện, bỗng giật mình nhìn thấy trên điện thờ tượng Long quân hình dáng chẳng khác người thư sinh đã gặp trong giấc mộng. Tống Giang cúi lạy khấn rằng: “Anh em Tống Giang chúng tôi đội ơn cứu giúp của Long quân tôn thần, chưa biết lấy gì báo đáp, muôn trông thôn thần phù hộ dẹp yên Phương Lạp, anh em chúng tôi sẽ xin triều đình cho sửa sang đền miếu, gia phong tôn hiệu.”

Tống Giang, Ngô Dụng lạy xong bước xuống thềm, đọc chữ trên tấm bia mới hay thần họ Thiệu tên Tuấn, người đời Đường, thi tiến sĩ không đỗ, nên nhảy xuống sông tự vẫn. Ngọc Hoàng thượng đế thương là người trung thực nên cho làm thần sông. Dân trong vùng dựng miếu thờ, bốn mùa cúng tế, cầu đảo rất linh ứng. Tống Giang thấy vậy liền sai người giết lợn đen, dê trắng đem đến tế. Làm lễ xong, Tống Giang ra ngoài miếu xem xét thấy xung quanh là rặng thông kỳ lạ đã hiện lên trong giấc mộng. Đến ngày nay ngoài cửa bắc thành Nghiêm Châu vẫn còn di tích cũ của miếu Ô Long đại vương, trên núi Vạn Tùng Lâm. Có thơ làm chứng như sau:

Trung tâm nhất điểm quỷ thần tri

Ám lý duy trì tín hữu chi

Dục thú long quân chân tính tự

Vạn Tùng lâm hạ độc tồn bi.

Lòng trung một tấc thấu thần linh

Gặp lúc nguy nan dữ chuyển lành

Muốn biết Long quân tên họ thật

Vạn Tùng bia đá vẫn lưu danh.

Nói tiếp chuyện Tống Giang làm lễ tạ ơn thần Long quân rồi ra khỏi miếu, lên ngựa trở về trại cùng với quân sư Ngô Dụng bàn việc tiến quân đánh Mục Châu. Đến chừng nửa đêm hôm ấy, Tống Giang cảm thấy tâm thần mỏi mệt bèn ngả lưng nằm xuống ghế, bỗng nghe báo “Có Thiệu tú tài đến thăm.” Tống Giang chưa kịp ra đón tiếp thì Thiệu Long quân đã đến trước mặt, chắp tay vái chào rồi nói: “Nếu tiểu sinh không kịp đến cứu thì nghĩa sĩ đã bị Bao Đạo Ất dùng tà pháp biến gốc thông thành người, bắt sống nghĩa sĩ rồi. Tiểu sinh được nhận lễ vật hiến tế nên đến đây cảm tạ nghĩa sĩ. Nhân tiện báo để nghĩa sĩ biết cũng chỉ ngày một, ngày hai sẽ hạ được thành Mục Châu, còn Phương Lạp cùng lắm trốn tránh được một tuần rồi sẽ bắt sống được.”

Tống Giang đang định mời Thiệu tiên sinh vào trong trướng hỏi chuyện, bỗng nghe tiếng gió rít, giật mình tỉnh dậy mới biết là giấc mộng.

Tống Giang vội nhờ quân sư Ngô Dụng đoán mộng xem sao. Ngô Dụng nói:

- Long quân tôn thần đã báo mộng như thế thì ngày mai ta có thể cất quân đánh lấy Mục Châu.

Tống Giang nói:

- Quân sư nói rất đúng.

Tảng sáng Tống Giang hạ lệnh chỉnh điểm quân mã đi đánh Mục Châu. Sai Yến Thuận, Mã Lân ở lại đóng giữ con đường lớn chạy qua đèo Ô Long. Các tướng Quan Thắng, Hoa Vinh, Tần Minh dẫn quân mã đánh thẳng vào phía cửa bắc. Pháo thủ Lăng Chấn bắn đạn lửa cửu sương (Nguyên văn là “cửu sương mẫu hoả pháo”- loại đạn lửa bắn một phát ra chín viên lớn, mỗi viên lớn lại nổ ra nhiều viên nhỏ.) vào thành, tiếng nổ long trời lở đất người ngựa hoảng hốt kinh sợ.

Lại nói quân mã của Bao thiền sư và hậu quân Trịnh Bưu đã bị bọn Lỗ Trí Thâm đánh tan. Lỗ Trí Thâm thừa thắng đuổi theo Hạ Hầu Thành rồi mất tích không biết đi đâu. Bấy giờ bọn Trịnh Bưu đã đem quân mã lui về đóng trại trong thành rồi cùng với hữu thừa tướng Tổ Sỹ Viễn, tham chính Thẩm Thọ, thiên thư Hoàng Dật nguyên suý Đàm Cao và tướng trấn thủ là Ngũ Ứng Tinh bàn định. Tổ Sỹ Viễn nói:

- Nay quân địch đã đến dưới thành, không một phen tử chiến thì không còn cơ sống thoát!

Trịnh ma quân dẫn Đàm Cao, Ngũ Ứng Tinh và mười viên nha tướng đem một vạn tinh binh mở cửa thành xông ra giao chiến với quân Tống Giang. Tống Giang lệnh cho quân mã lùi về phía sau một tầm tên bắn để quân bọn Trịnh Bưu tiến ra dàn trận. Bao thiền sư sai khiêng ghế chéo đặt trên mặt thành, ngồi điều khiển trận đánh. Tổ thừa tướng, Thẩm tham chính, và Hoàn thiên thư cùng ngồi trên chòi canh quan sát. Trịnh ma quân xách thương nhảy lên ngựa xông ra trước trận. Bên trận quân Tống, Đại đao Quan Thắng múa đao thúc ngựa đến đánh Trịnh Bưu. Hai tướng ngồi trên ngựa quần nhau chưa đầy vài hiệp đã thấy rõ Trịnh Bưu không địch nổi, chỉ đủ sức đỡ gạt, né tránh những đường đao của Quan Thắng mà thôi. Bao Đạo Ất ngồi trên thành múa tay làm phù phép yêu quái, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú, quát: “Nhanh!” rồi hà hơi thổi. Lập tức trên đầu Trịnh ma quân hiện ra một luồng khí đen rồi xuất hiện một vị thần mặc áo giáp sắt tay cầm gậy trừ tà từ trên không lao xuống. Khắp trận quân nam, mây đen đùn lên trùm kín. Tống Giang liền cho gọi Hỗn thế ma vương Phàn Thuỵ đến. Một mặt Tống Giang tự mình niệm mật chú “gọi gió trừ mây mù” theo bài bí quyết trong thiên thư. Lập tức trên mũ trụ của Quan Thắng toả ra một đám mây trắng, trong mây cũng hiện ra một vị thần tóc đỏ, mặt xanh, mắt biếc, răng nanh. Vị thần tướng cưỡi trên lưng con rồng đen, tay cầm chuỳ sắt lao đến vị thần mắc giáp sắt của Trịnh ma quân. Dưới đất quân hai bên reo hò trợ chiến. Hai thần tướng đánh nhau đưa đầy vài hiệp, thần tướng cưỡi rồng đen đã đánh bại vị thần mặc giáp sắt. Dưới đất Quan Thắng đưa một đao, đầu Trịnh ma quân lăn xuống ngựa. Bao Đạo Ất thấy bên quân Tống gió thổi sấm vang, định đứng dậy liền bị đạn lửa oanh thiên của Lăng Chấn bắn tan xác. Quân Phương Lạp đại bại, quân Tống Giang thừa thế đuổi thẳng vào thành Mục Châu. Chu Đồng hất thương đâm nguyên suý Đàm Cao lăn xuống ngựa. Lý Ứng múa phi đao giết tướng trấn thủ Ngũ Ứng Tinh. Thấy Bao thiền sư bị giết vì đạn lửa, quân nam trên thành xô nhau chạy xuống. Quân mã của Tống Giang nhất loạt đánh vào thành, bắt sống Tổ thừa tướng Thẩm tham chính. Hoàn thiên thư bọn phó tướng thì không cần biết họ tên, đều bị giết hết.

Tống Giang cùng các tướng vào thành, trước hết hạ lệnh thiêu huỷ hành cung của Phương Lạp, tất cả vàng lụa thu được đều đem thưởng cho ba quân tướng sĩ. Rồi Tống Giang cho treo biển vỗ yên trăm họ. Các tướng chưa điểm xong quân mã thì thám mã trở về phi báo: “Mã Lân bị tướng Phương Lạp là Bạch Khâm đâm chết ở đèo Ô Long hất xuống ngựa. Thạch Bảo đuổi tới bồi thêm một đao xả Mã Lân làm hai đoạn. Yến Thuận thấy vậy xông lên đánh bị Thạch Bảo vung ngọn chuỳ “ Nhất lưu tinh” đánh chết. Hiện giờ Thạch Bảo đắc thắng, đang thừa thế đánh vào thành. Tống Giang nghe tin Yến Thuận, Mã Lân tử trận lại một lần nữa thương xót than khóc khôn nguôi. Rồi Tống Giang sai bốn tướng Quan Thắng, Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng đón đánh bọn Thạch Bảo, Bạch Khâm quyết chiến để giữ cửa ải đèo Ô Long. Chưa biết bốn tướng đánh Ô Long ra sao, chỉ biết:

Huyện Thanh Khê dẹp tan quân giặc mạnh

Động Bang Nguyên bắt sống thiên tử rơm

Rồi đây anh em Tống Giang:

Danh thơm sử sách nghìn năm toả

Công lớn thanh bình vạn cổ truyền

Chưa biết bọn Tống Giang đón đánh quân địch ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 118 - Lư Tuấn Nghĩa Đánh Lớn Dục Linh Quan

Đang nói chuyện lúc ấy bọn Quan Thắng phi ngựa đem quân đánh lên đèo Ô Long thì gặp ngay quân mã của Thạch Bảo. Quan Thắng ngồi trên ngựa quát to:

- Tướng giặc kia, sao dám giết hại anh em ta!

Thạch Bảo trông thấy Quan Thắng thì mất hết nhuệ khí, vội cho quân lui lại đỉnh đèo, ra lệnh cho Bạch Khâm ra đánh Quan Thắng. Hai ngựa quần nhau, binh khí cùng vung vun vút. Quan Thắng và Bạch Khâm giao chiến chưa đầy mười hiệp thì nghe trên đèo Ô Long có tiếng chiêng thu quân. Quan Thắng thấy quân Thạch Bảo hỗn loạn trên đèo, nhưng không đuổi theo. Nguyên là Thach Bảo chỉ chú ý đánh sang phía đông, còn phía tây không đề phòng. Đồng khu mật nhân cơ hội đó đem quân đánh tới, rồi ồ ạt xông lên đỉnh đèo. Đại tướng bên quân Tống là Vương Lẫm chận đánh chỉ huy Cảnh Đức của quân Phương Lạp. Hai tướng giao chiến hơn mười hiệp, Vương Lẫm chém Cảnh Đức lăn xuống ngựa. Tiếp đó Lã Phương, Quách Thịnh dẫn quân xông lên chiếm đỉnh đèo, nhưng chưa lên tới nơi thì Qúach Thịnh bị một tảng đá rơi trúng. Quách Thịnh cả người lẫn ngựa lăn xuống chết ngay dưới chân núi.

Quan Thắng đứng ở phía đông thấy trên đèo rối loạn biết quân mình từ phía tây đang tiến lên, vội vẫy các tướng xông lên đánh. Bị quân Tống từ hai phía ép vào, quân Phương Lạp ở đỉnh đèo lại càng rối loạn. Lã Phương đón đánh Bạch Khâm, chỉ mới vài hiệp Bạch Khâm đã đưa một đường giáo hiểm, Lã Phương né mình tránh được, ngọn giáo chỉ xuyên qua nách, đánh bật chiếc xích rơi xuống đất. Hai tướng thấy khó đánh, bèn vứt binh khí ngồi trên lưng ngựa đánh bằng tay không. Nguyên ở đoạn này thế núi hiểm trở, ngựa khó đứng vững. Hai tướng đều hăng đánh, không ngờ cả người lẫn ngựa lăn xuống dốc đèo, cùng chết một chỗ. Quan Thắng và các tướng liền dẫn quân bộ ào ạt xông lên.

Quân Tống từ hai phía xông lên chiếm đỉnh đèo. Thạch Bảo thấy cả hai phía đều không có lối thoát, sợ bị bắt sống, bèn rút đoản đao đâm cổ tự sát. Thế là quân Tống chiếm được cửa ải đèo Ô Long. Quan Thắng liền sai người báo cho Tống tiên phong biết tin. Bốn viên thuỷ quân tổng quản của Phương Lạp trấn giữ thuỷ trại nghe tin đèo Ô Long thất thủ, thành Mục Châu bị vây, vội bỏ thuyền lên bờ chạy trốn. Dân chúng đón đường chận đánh, bắt sống Thành Quý và Tạ Phúc giải về Mục Châu. Bọn Địch Nguyên, Kiều Chính trốn thoát. Quân Tống kéo đại quân người ngựa về Mục Châu. Tống Giang đã nhận được tin liền ra ngoài thành tiếp đón. Đồng khu mật và Lưu đô đốc đem quân vào thành đồn trú.

Trong thành đã tạm yên, Đồng khu mật yết bảng chiêu an quân dân, khuyên ai nấy trở lại làm ăn như cũ. Quân Phương Lạp đầu hàng nhiều không kể xiết. Tống Giang sai lấy thóc gạo trong kho phân phát, cho phép dân chúng trở về quê quán làm lương dân. Mặt khác sai đem bọn thuỷ quân tổng quản Thành Quý, Tạ Phúc chém ngang lưng, moi tim làm lễ tế Nguyễn Tiểu Nhị, Mạnh Khang cùng các tướng tá chết trận ở đèo Ô Long. Linh hồn kẻ trước người sau đều được hưởng tế. Lại giao cho Lý Tuấn và các tướng đầu lĩnh thuỷ quân cai quản những thuyền bè thu được, cho chở thủ cấp của bọn nguỵ quân đến giao nộp trước cửa quân của Trương chiêu thảo. Tống Giang mất thêm hai tướng là Lã Phương, Qúach Thịnh trong lòng buồn rầu đau xót, bèn cho án binh bất động, đợi binh mã của Lư tiên phong để cùng tiến đánh động Thanh Khê.

Tạm không nói chuyện Tống Giang đóng quân ở Mục Châu. Lại nói việc phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa từ khi chia quân hai ngả ở Hàng Châu, dưới cờ có ba vạn người ngựa, các chánh phó tướng tất cả hai mươi tám người. Lư tiên phong dẫn quân theo đường núi, đi qua trấn Lâm An, kinh đô cũ của Tiên vương ở sát cửa ải Dục Linh tiến về phía Hàng Châu. Đồng giữ cửa ải này là viên đại tướng Bàng Vạn Xuân, hiệu Tiểu Dưỡng Do Cơ, thủ hạ của Phương Lạp, có tiếng là tay thiện xạ bậc nhất ở Giang Nam. Dưới quyền Bàng Vạn Xuân là hai viên phó tướng, Lôi Quýnh và Kế Tắc. Hai viên phó tướng ấy vừa giỏi dùng nỏ cứng nặng bẩy tám trăm cân, lại quen dùng ngọn kích móc sắt, thủ hạ có năm nghìn người ngựa. Ba viên tướng đóng giữ cửa ải Dục Linh nghe tin quân Tống do phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa đem quân đến đánh đều đã sẵn sàng khí giới để nghênh địch.

Lại nói quân mã của Lư tiên phong tiến gần đến cửa ải Dục Linh, Lư Tuấn Nghĩa sai sáu tướng là Sử Tiến, Thạch Tú, Trần Đạt, Dương Xuân, Lý Trung, Tiết Vĩnh đem ba nghìn quân bộ đi trước dọn đường.

Bấy giờ bọn Sử Tiến cưỡi ngựa chiến, còn lại đều là quân bộ dàn hàng tiến đến dưới cửa ải. Không thấy bóng một tên quân nào của Phương Lạp. Sử Tiến đã có ý ngờ, vội cùng các tướng bàn bạc. Mưu kế chưa định xong, quân đã đến trước cửa ải. Nhìn lên thấy trên ải dựng cây cờ trắng thêu tua màu. Đứng dưới cờ là đại tướng Tiểu Dưỡng Do Cơ Bàng Vạn Xuân. Thấy bọn Sử Tiến dẫn quân lên. Bàng Vạn Xuân cả cười mắng rằng:

- Giặc cỏ Lương Sơn Bạc mắc phải bả chiêu an của nhà Tống, còn dám làm hảo hán đến đây xâm phạm bờ cõi của bọn ta? Ta là Tiểu Dưỡng Do Cơ, chắc bọn người đã biết? Nghe nói trong bọn các người có kẻ tên là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, hãy gọi người ấy ra đây đọ tài cung nỏ. Trước hết phải cho các người biết mũi tên thần của ta.

Bàng Vạn Xuân nói chưa dứt, bỗng một mũi tên bay vèo ra, Sử Tiến lăn xuống ngựa. Bọn Thạch Tú, Trần Đạt cùng xông lên cướp được Sử Tiến đưa lên ngựa chạy về. Lại nghe trên đỉnh núi vang lên tiếng thanh la, rồi từ hai phía rừng thông, tên bắn ra tới tấp. Bọn Thạch Tú, Trần Đạt đành bỏ Sử Tiến lại, tìm đường thoát thân. Đến đầu núi lại bị bọn Lôi Quýnh và Kế Tắc từ hai bên sườn núi bắn tên ra như mưa, dẫu là kẻ anh hùng lỗi lạc cũng không tránh nỗi. Bọn Sử Tiến, Thạch Tú sáu người bị bắn chết, thây chồng dưới cửa ải. Thương thay sáu viên tướng tài của trại Thuỷ Hử, từ nay khí thiêng đã về trời.

Ba nghìn quân bộ chỉ sống sót hơn trăm người chạy về gặp Lư tiên phong báo tin thua trận. Lư Tuấn Nghĩa nghe xong thẫn thờ kinh sợ. Thần cơ quân sư chu Vũ rơi lệ thươngkhóc, rồi cũng phải khuyên can phó tiên phong rằng:

- Xin tiên phong chớ quá phiền muộn, không lợi cho việc lớn Anh em chúng ta sẽ bàn định kế hoạch để chém tướng, cướp ải, trả mối thù này.

Lư Tuấn Nghĩa nói:

- Huynh trưởng Tống Công Minh giao cho ta biết bao nhiêu là tướng tá, chưa thắng trận nào mà đã mất sáu tướng, ba nghìn quân chỉ còn hơn một trăm! Ta còn mặt mũi nào trở về Hấp Châu gặp lại Tống Công Minh!

Chu Vũ đáp:

- Cổ nhân có câu « Thiên thời chẳng bằng địa lợi, địa lợi chẳng bằng nhân hoà ». Bọn chúng ta là dân Trung nguyên, Sơn Đông, Hà Bắc không quen thuỷ chiến, thế là mất địa lợi. Vậy phải bắt cho được mấy người dân địa phương đi chỉ đường thì mới biết rõ những nơi đường núi hiểm trở.

Lư tiên phong nói:

- Quân sư nói rất phải, ai có thể đi trước dò đường?

Chu Vũ đáp:

- Cứ theo ngu ý thì nên sai Thời Thiên làm việc này. Tay này vốn quen trèo tường nhảy mái, giỏi tìm đường đi trong núi. Lư Tuấn Nghĩa liền sai gọi Thời Thiên đến căn dặn. Thời Thiên vâng mệnh mang theo lương khô, giắt đoản đao rời doanh trại lên đường.

Thời Thiên cứ nhắm hướng núi sâu, vừa đi vừa tìm đường, đến chập tối mới thấy từ đằng xa có ánh đèn. Thời Thiên nghĩ bụng: « Có đèn sáng tât phải có nhà dân », rồi lần trong bóng tối đi về hướng có ánh đèn. Đến đây mới biết ánh đèn từ trong ngôi am nhỏ lọt ra. Thời Thiên nhấc cổng chui vào, thấy một hoà thượng già đang ngồi tụng kinh. Nghe tiếng gõ cửa, lão hoà thưọong sai một thầy tăng trẻ ra mở cửa. Thời Thiên bước vào vái chào. Lão hoà thượng nói:

- Xin quý khách miễn lễ. Đây là nơi muôn ngựa nghìn quân giao chiến, quý khách làm sao đến được?

Thời Thiên đáp:

- Thật không dám nói dối sư phụ, tiểu nhân là Thời Thiên, phó tướng bộ hạ của Tống Giang ở Lương Sơn Bạc. Nay anh em tiểu nhân vâng mệnh triều đình đi dẹp giặc Phương Lạp. Không ngờ đêm qua bọn tướng giữ ải Dục Linh sai quân bắn tên như mưa, giết của chúng tôi sáu viên chánh tướng, nên không vượt ải được. Lư tiên phong sai Thời Thiên tôi đến đây tìm đường vượt ải. Vượt núi sâu bãi rộng đến đây, muôn trông sư phụ chỉ giáo cho, chủ tướng chúng tôi xin báo đáp trọng hậu.

Lão hoà thượng đáp:

- Trăm họ vùng này bị Phương Lạp tàn hại, ai ai cũng oán ghét. Bần tăng sống nhờ vào thí chủ trong vùng, nay dân các làng đều phải trốn tránh. Bần tăng không biết đi đâu, đánh liều ở lại. Nay quân thiên triều đến diệt giặc trừ hại, thật muôn dân được cậy nhờ nhiều. Bần tăng ngày thường sợ bị liên luỵ, bây giờ có các tướng quân đến đây, chẳng có điều gì phải lo sợ, giấu diếm nữa. Vùng chúng tôi đây không có đường qua cửa ải, phải tới chân đèo Tây Sơn mới có một đường nhỏ có thể đi qua. Chỉ sợ gần đây đường ấy đã bị giặc lấp mất không đi qua được.

Thời Thiên nói:

- Thưa sư phụ, chẳng hay đi theo đường đó có thể đến trại giặc được không?

Lão hoà thượng đáp:

- Đường ấy có thể đi tắt đến phía sau doanh trại của Bàng Vạn Xuân, xuống dưới đèo sẽ gặp đường cái đi qua cửa ải, chỉ sợ quân giặc đã lăn đá lấp mất cửa núi.

Thời Thiên nói:

- Không lo, nếu có đường đi thì dẫu bị chận lấp, anh em tiểu nhân cũng sẽ có cách qua được. Tiểu nhân xin về báo tin cho chủ tướng biết, rồi xin trở lại hậu tạ sư phụ.

Lão hoà thượng nói:

- Ra ngoài có ai hỏi, xin tướng quân đừng bảo bần tăng nói.

Thời Thiên đáp:

- xin sư phụ đừng lo, tiểu nhân không bao giờ sơ xuất như vậy.

Rồi Thời Thiên cáo từ hoà thượng, đi đường tắt trở về trại báo tin với Lư tiên phong. Lư Tuấn Nghĩa nghe xong cả mừng, sai mời quân sư Chu Vũ đến để cùng bàn mưu đánh cửa ải.

Chu Vũ nói:

- Tìm được đường tắt qua núi thì chẳng lo gì không lấy được ải Dục Linh. Xin chủ tướng cho thêm một người nữa cùng đi với Thời Thiên để khởi sự ngay.

Thời Thiên hỏi:

- Quân sư định khởi sự thế nào đây?

Chu Vũ nói:

- Việc cần thiết giao cho hiền đệ là đốt lửa và bắn pháo hiệu. Nhớ mang theo ống đạn và dao đá đánh lửa. Khi lọt vào phía sau trại giặc thì hiền đệ đốt lửa và bắn pháo hiệu, công việc của hiền đệ chỉ có thế.

Thời Thiên nói:

- Nếu chỉ việc đốt lửa và bắn pháo hiệu thì một mình tiểu đệ cũng đủ. Vả lại có ai đi nữa thì người ấy cũng không thể trèo tường nhẩy mái như tiểu đệ, chỉ thêm chậm trễ mà thôi. Nhưng đệ đi việc ấy thì ở đây các đại huynh làm sao mà vượt ải?

Chu Vũ đáp:

- Việc đó không khó: chỗ cửa ải tất giặc cho quân mai phục. Ta chỉ cần trở tay là xong. Khi tiến quân, thấy hai bên đường chỗ nào cây cối rậm rạp ta sẽ cho châm lửa đốt, khiến cho bọn chúng không còn chỗ nào đặt quân mai phục được.

Thời Thiên nói:

- Quân sư thật là cao kiến.

Rồi đó Thời Thiên sửa soạn dao, đá và ống đựng mồi lửa, khoác tay nải lớn lên vai, đến cáo từ Lư tiên phong rồi ra đi. Lư Tuấn Nghĩa giao cho Thời Thiên đem hai mươi lạng bạc, một thưng gạo, sai một tên quân hầu gánh đi để thưởng cho lão hoà thượng ở thảo am.

Quá trưa hôm ấy, Thời Thiên cùng tên lính quảy hành lý theo đường cũ trở lại thảo am. Gặp lão hoà thượng. Thời Thiên nói:

- Chủ tướng chúng tôi xin đa tạ hoà thượng, có chút lễ mọn đem đến biếu.

Nói đoạn Thời Thiên lấy bạc và gạo đem biếu hoà thượng, rồi cho tên quân hầu trở về. Thời Thiên nói với hoà thượng:

- Xin phiền sư phụ chỉ đường cho. Sư phụ có thể giả cách làm như lão tăng đi hành cước để dẫn tiểu nhân đi.

- Xin tướng quân chờ đến đêm, đi ban ngày sợ lộ.

Nói đoạn hoà thượng đi nấu bữa tối để khoản đãi Thời Thiên.

Đêm hôm ấy hoà thượng gọi một sư bác đến giao việc chỉ đường, dặn xong việc phải về ngay, không để người ngoài biết. Nhà sư trẻ dẫn Thời Thiên ra khỏi thảo am tìm đường đi sâu vào trong núi. Hai người cứ cắm cúi xuyên đèo vượt núi, vén gai bám rễ mà đi. Dưới ánh trăng xuông hai người đi được vài dặm, thì đến một nơi đèo cao vách đá dựng đứng, từ xa thấp thoáng một lối đi nhỏ dẫn lên đèo. Lối đi qua đỉnh đã bị lấp kín bằng những tảng đá lớn chồng cao như bức tường. Nhà sư trẻ nói:

- Tướng quân hãy nhìn, bên kia bức tường đá là cửa ải. Qua được đó là đến đường lớn.

Thời Thiên nói:

- Tiểu nhân tự đi được, sư phụ trở về được rồi.

Nhà sư trẻ đi rồi. Thời Thiên bắt đầu trổ tài leo trèo, chụm tay bám bờ đá leo lên, thấy phía đông toàn rừng núi, lửa cháy rừng rực bốc cao lưng trời. Đó là lúc Lư tiên phong và quân sư Chu Vũ đã cho quân nhổ trại tiến về cửa ải. Lư tiên phong sai bốn năm trăm quân men đường núi tới chân đèo, vừa đi vừa phóng hoả mở đường. Khiến phục binh giặc mất chỗ ẩn nấp. Đứng trên cửa ải Dục Linh, Tiểu Dưõong Do Cơ Bàng Vạn Xuân biết là quân Tống Giang đốt lửa dọn đường, liền nói:

- Đây là cách điều quân vừa đi vừa đốt làm cho ta không đặt được phục binh. Ta cứ giữ cửa ải để xem bọn chúg thi thố cách gì?

Thấy quân Tống đã đến gần, Bàng Vạn Xuân bèn cùng Lôi Quýnh, Kế Tắc đều giương cung đặt tên phục sẵn sau ải, còn bên quân nhà thì một vệt lửa sáng chạy dài theo đường tiến quân. Tiếp đó hai tướng Lâm Xung, Hồ Diên Chước dừng ngựa trước cửa ải, lớn tiếng quát rằng:

- Bọn giặc cỏ, sao dám chống cự quân triều đình?

Bọn Bàng Vạn Xuân chưa kịp ra lệnh cho quân sĩ bắn xuống thì Thời Thiên lúc ấy đã nhẹ nhàng từ trên ngọn cây tụt xuống mặt thành. Thấy hai đống cỏ khô, Thời Thiên liền rút dao và đá đánh mồi châm lửa, đặt ống hoả pháo lên đống cỏ, trước hết đổ lưu huỳnh và diêm tiêu đốt một đống, sau đó châm lửa đốt đống thứ hai để dẫn mồi cho hoả pháo. Xong việc Thời Thiên lại mang mồi lửa kéo lên châm đốt mái lầu canh. Hai đống cỏ bắt lửa bốc cháy đùng đùng, tiếng hoả pháo nổ vang trời. Quân giữ ải hoảng hốt, tán loạn tìm đường tẩu thoát. Khi Bàng Vạn Xuân và hai tên phó tướng ra phía sau dập đám cháy thì Thời Thiên đã châm lửa đốt hoả pháo ngay trên mái lầu canh. Hoả pháo nổ rung cửa ải, quân lính của Bàng Vạn Xuân khiếp sợ, vứt cả gươm giáo cung tên mà chạy. Thời Thiên đứng lên lầu canh quát to:

- Hơn vạn quân triều đình đã vượt ải, các ngươi mau đầu hàng để giữ mạng sống!

Bàng Vạn Xuân kinh sợ ngã khuỵ, hồn vía bay tận mây xanh. Bọn Lôi Quýnh, Kế Tắc hết hồn, đứng như trời trồng. Các tướng Lâm Xung, Hồ Diên Chước xông lên chiếm cửa ải, các tướng khác xông lên đuổi quân nam ngoài ba mươi dặm. Tôn Lập bắt sống Lôi Quýnh. Nguỵ Định Quốc bắt được Kế Tắc, chỉ một mình Bàng Vạn Xuân chạy thoát. Quân của Bàng Vạn Xuân bị bắt làm tù binh đến quá nửa.

Chiếm xong cửa ải, Lư tiên phong liền chia người ngựa đi đóng giữ các nơi. Một mặt Lư tiên phong xuống lệnh trọng thưởng cho Thời Thiên, sai đem Lôi Quýnh, Kế Tắc ra trước cửa ải mổ bụng moi tim làm lễ tế các tướng Sử Tiến, Thạch Tú. Thi hài sáu tướng thì mai táng trước cửa ải, còn quân sĩ tử trận thì dồn lại để hoả táng.

Ngày hôm sau Lư Tuấn Nghĩa lại cùng các tướng khoác giáp lên ngựa, một mặt sai người đưa văn thư phi báo cho Trương chiêu thảo biết tin lấy được cửa ải Dục Linh, một mặt cho quân qua cửa ải, tiến về Hấp Châu. Đến nơi, Lư tiên phong ra lệnh cho quân sĩ đóng trại dưới chân thành.

Nguyên tướng giữ thành Hấp Châu, hoàng thúc đại vương Phương Hậu là chú ruột của Phương Hạp, và hai đại tướng khác có hàm văn chức là thượng thư Vương Dần và thị lang Cao Ngọc, cùng giữ thành. Dưới quyền hai người còn có hơn mười viên chiến tướng và hai vạn quân đóng giữ cả trong và ngoài thành Hấp Châu. Thượng Thư Vương Dần vốn làm nghề thợ đá ở miền núi bản châu, quen sử dụng giáo sắt, cưỡi tuấn mã, có biệt hiệu là “chuyển sơn phi” có thể trèo núi vượt sông như đi trên đất bằng. Thị lang Cao Ngọc cũng người Hấp Châu, vốn là con nhà dòng dõi quen dùng ngọn roi sắt. Vì cả hai người đều có học nên Phương Lạp gia phong chức văn quan, giao cho nắm giữ binh quyền. Tiểu Dưỡng Do Cơ Bàng Vạn Xuân sau khi thua trận chạy về Hấp Châu liền vào hành cung tâu với hoàng thúc Phương Hậu:

- Dân địa phương làm phản, có kẻ dẫn quân Tống vượt ải theo đường tắt, vì vậy quân ta tan rã không chống cự nỗi.

Hoàng thúc Phương Hậu nghe xong cả giận, quát mắng Bàng Vạn Xuân:

- Ải Dục Linh là bức tường chắn hiểm yếu của Hấp Châu, nay để cho quân Tống vượt ải, sớm muộn chúng sẽ kéo đến chiếm thành, chúng ta biết chống giữ thế nào?

Vương thượng thư tâu:

- Xin chúa công bớt giận, người xưa có câu: “Thắng bại là lẽ thường của binh gia”. Nay xin điện hạ tạm tha cho để Bàng tướng quân lập công chuộc tội. Nếu thua lần nữa thì sẽ trị tội theo quân pháp.

Phương Hậu cho là phải, giao cho Bàng Vạn Xuân lĩnh năm nghìn quân ra ngoài nghênh chiến, phải giành toàn thắng mới được trở về.

Lại nói Lư Tuấn Nghĩa sau khi vượt ải Dục Linh liền dốc quân thẳng tiến đến thành Hấp Châu ngay ngày hôm ấy, cùng các tướng dẫn quân đánh thành. Cửa thành vừa mở đã thấy Bàng Vạn Xuân đem quân ra khiêu chiến. Quân hai bên dàn thành thế trận. Bàng Vạn Xuân nghênh ngang tiến ra thách thức. Bên quân Tống, Âu Bằng tay nâng giáo sắt thúc ngựa tiến ra giao chiến với Bàng Vạn Xuân. Hai tướng đánh nhau chưa đầy năm hiệp. Bàng Vạn Xuân bỏ chạy. Âu Bằng muốn lập công đầu liền phóng ngựa đuổi theo. Bàng Vạn Xuân bất ngờ quay lại thả một mũi tên Âu Bằng vốn có tài nghệ cao cường liền giơ tay bắt gọn mũi tên của Bàng Vạn Xuân. Nhưng Âu Bằng không ngờ Bàng Vạn Xuân còn quen dùng chiếc cung liên châu một lúc bắn ra nhiều mũi. Âu Bằng đã bắt được mũi tên, yên chí đuổi theo. Bỗng nghe tiếng dây cung rung “phật”, mũi tên thứ hai phóng ra trúng đích, hất Âu Bằng ngã ngựa. Bọn Vương Dần, Cao Ngọc đứng trên mặt thành thấy Âu Bằng ngã ngựa liền đốc suất quân mã trong thành xông ra giao chiến. Quân Lư Tuấn Nghĩa thua to phải lui xa ngoài ba mươi dặm mới dừng lại hạ trại. Điểm lại binh tướng mới biết trong lúc lộn xộn, quân của Phương Hậu đã giết Thái viên tử Trương Thanh. Tôn Nhị nương gào khóc thương xót rồi sai thủ hạ tìm thi hài chồng đem thiêu hoá. Tiên phong Lư Tuấn Nghĩa động lòng thương tiếc, không nghĩ ra cách gì hay bèn nói với quân sư Chu Vũ:

- Trận đánh hôm nay lại thiệt hại mất hai tướng của ta, như thế biết làm thế nào?

Chu Vũ nói:

- Thua được là lẽ thường của binh gia. Nay giặc thấy ta lui quân ắt sinh lòng kiêu ngạo. Đêm nay bọn chúng sẽ thừa thế đem quân cướp trại của ta. Xin chủ tướng cho quân mai phục bốn phía, buộc mấy con dê ở trại trung quân, rồi cứ làm như thế… như thế… Chủ tướng lại cho Hồ Diên Chước đem quân mai phục phía bên trái. Lâm Xung đem quân mai phục phía sau, các tướng khác chia nhau mai phục dọc con đường nhỏ. Ban đêm khi giặc kéo đến trung quân sẽ đốt lửa báo hiệu, quân ta từ bốn phía sẽ xông ra bắt gọn chúng.

Lư tiên phong cắt đặt người ngựa đâu đó đã xong, các tướng ai vào việc nấy.

Nói tiếp bên quân Phương Lạp, bọn Vương thượng thư, thi lang Cao Ngọc cũng đáng kể là có mưu lược, cùng bàn với Bàng Vạn Xuân rồi tâu lên hoàng thúc Phương Hậu:

- Hôm nay quân Tống thua trận phải lui xa ngoài ba mươi dặm, người ngựa mệt mỏi, canh giữ sơ sài, chi bằng quân ta thừa thắng đuổi theo cướp trại tất sẽ toàn thắng.

Phương Hậu nói:

- Các khanh cứ bàn kỹ mà làm.

Cao thị lang nói:

- Hạ quân sẽ cùng Bàng tướng quân đem quân đi cướp trại, điện hạ cùng Vương thượng thư ở lại giữ thành.

Đêm hôm ấy hai tướng khoác giáp lên ngựa dẫn quân lặng lẽ tiến đến doanh trại quân Tống. Bàng Vạn Xuân thấy cửa trại đóng kín, không dám cho quân xông vào. Lúc đầu còn nghe rõ tiếng điểm danh, sau đó tiếng trống rời rạc hỗn loạn. Thị lang Cao Ngọc ghìm ngựa nói:

- Dừng lại!

Bàng Vạn Xuân hỏi:

- Sao tướng quân không cho tiến?

Cao Ngọc đáp:

- Nghe tiếng trống hiệu lộn xộn, sợ quân Tống có mưu kế gì.

Bàng Vạn Xuân nói:

- Tướng quân nhầm rồi, hôm nay bọn chúng thua trận, quân tướng đều mệt mỏi sợ hãi, ngủ gật mà đánh trống thì hiệu lệnh không rõ ràng. Tướng quân hà tất phải nghĩ ngợi, cứ cho quân đánh vào!

Cao Ngọc đáp:

- Ngài nói cũng có lý.

Nói đoạn hai tướng xua quân múa đao, vung búa, ào vào cướp trại. Bàng Vạn Xuân và Cao Ngọc cưỡi ngựa xông thẳng vào trại trung quân, nhưng không thấy bóng dáng một tên quân Tống, nhìn quanh chỉ thấy mấy con dê bị trói treo trên cây liễu đang giẫy chân loạn xạ lên mặt trống, nghe xa tưởng như tiếng trống hiệu. Bàng Vạn Xuân và Cao Ngọc chỉ cướp được trại không, nên hết sức lo sợ, chỉ kịp kêu “Mắc mưu! Mắc mưu!”, rồi quay lưng bỏ chạy.

Bấy giờ bỗng có hiệu lửa nổi lên ở trại trung quân. Tiếp đó tiếng hoả pháo nổ vang đầu núi, lại một hiệu lửa nữa nổi lên, quân mai phục bốn phía ào ạt xông ra đánh giết. Bàng Vạn Xuân và Cao Ngọc vượt qua cửa trại bỏ chạy, gặp ngay Hồ Diên Chước từ xa xộc tới chận đường. Hồ Diên Chước quát lớn:

- Tướng giặc kia, mau xuống ngựa đầu hàng thì được tha chết!

Cao Ngọc hoảng hốt tìm đường tẩu thoát nhưng bị Hồ Diên Chước đuổi kịp. Hai chiếc roi sắt trong tay Hồ Diên Chước vụt xuống, đầu Cao Ngọc liền vỡ đôi, Bàng Vạn Xuân liều chết vượt vòng vây tìm cách thoát thân, không ngờ bị Thang Long phục sẵn bên đường, dùng câu liêm kéo lăn nhào xuống ngựa rồi xông đến bắt trói. Các tướng mai phục hai bên đường núi cùng lúc nổi dậy đuổi theo quân nam cho đến khi trời sáng mới quay về trại. Tiên phong Lư Tuấn Nghĩa vào ngồi trong trướng ở trung quân, truyền lệnh kiểm điểm các tướng hiệu, bấy giờ mới biết Đinh Đắc Tôn nấp trong bụi cỏ rậm bị rắn độc cắn chết. Lư tiên phong bèn sai mổ bụng Bàng Vạn Xuân moi lấy tim để tế bọn Âu Bằng, Sử Tiến, rồi sai chặt thủ cấp đem đến nạp trước cửa quân doanh của Trương chiêu thảo.

Ngày hôm sau Lư tiên phong cùng các tướng lại tiến quân đến dưới thành Hấp Châu. Cổng thành không đóng, không thấy cờ quạt, không một bóng người. Bọn Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc muốn lập công đầu liền dẫn quân vào thành. Lư Tuấn Nghĩa ở trung quân đến sau, chỉ kịp kêu lên một tiếng thì hai người đã vào qua cổng thành rồi.

Nguyên là Vương Dần thấy bọn Bàng Vạn Xuân thua trận, bèn giả cách bỏ thành rút chạy nhưng đã cho đào hầm sập sát sau cổng thành. Hai tướng Đan Đình Khuê và Nguỵ Định Quốc chỉ quen vũ dũng, không biết đề phòng, nên cả người lẫn ngựa lăn nhào xuống hố. Quân lính của Vương Dần mai phục sẵn hai bên cầm giáo dài và cung tên cùng nhất loạt đâm, bắn. Hai tướng chết ngay tại chỗ. Thương thay Thánh Thuỷ, Thần hoả tướng quân đến đây đành bó tay chịu chết trong hầm.

Lư tiên phong thấy mất hai tướng, tức giận sai quân đắp đập trèo lên thành. Một mặt sai quân lấp hố, mặt khác đốc quân lao vào hỗn chiến, đánh giết quân nam, xô dồn xuống hố. Tiên phong Lư Tuấn Nghĩa thúc ngựa vào thành gặp ngay hoàng thúc Phương Hậu. Hai tướng ngồi trên ngựa giao chiến. Mới hiệp đầu Lư Tuấn Nghĩa bốc lửa giận, trổ hết sức bình sinh đưa ngang mã tấu phạt một nhát, đầu Phương Hậu liền rơi xuống ngựa. Quân của Phương Hậu vội mở cổng thành phía tây xô nhau chạy trốn. Các tướng của Lư Tuấn Nghĩa ai nấy xông lên phía trước đuổi giết quân nam.

Lại nói thượng thư Vương Dần trên đường chạy trốn bị Lý Vân đón đường chận đánh. Vương Dần ngồi trên ngựa đâm thương, còn Lý Vân cứ chân đất lao đánh, liền bị ngựa của Vương Dần xéo ngã. Thạch Dũng thấy Lý Vân sắp nguy liền xông đến tiếp cứu. Vương Dần có tiếng là tay thương xuất quỷ nhập thần. Thạch Dũng làm sao chống cự nỗi. Vương Dần chỉ đánh mấy hiệp đã hất mũi thương đâm Thạch Dũng ngã gục. Bấy giờ từ trong thành bọn Tôn Lập, Hoàng Tín, Trâu Uyên, Trâu Nhuận ào đến vây đánh Vương Dần. Một mình Vương Dần tả xung hữu đột, đánh lại bốn tướng, không chút nao núng. Không ngờ lúc đó Lâm Xung vừa kịp xông đến. Vương Dần dẫu có ba đầu sáu tay cũng không địch nổi. Năm tướng hợp sức đánh xáp. Đáng đời cho Vương thượng thư, đến hôm nay mới biết là chưa thoả chí!

Bọn Lâm Xung bèn chặt đầu Vương Dần, quay ngựa trở lại nộp cho Lư tiên phong. Lư Tuấn Nghĩa vào hành cung trong thành Hấp Châu nghỉ ngơi, vỗ yên trăm họ, yết bảng chiêu an, cho quân sĩ hạ trại đóng giữ trong thành. Một mặt sai người đem thư tới Trương chiêu thảo báo tin thắng trận, lại sai người ruỗi ngựa báo cho Tống tiên phong biết để hội quân cùng tiến.

Lại nói Tống Giang và các tướng đóng quân ở Mục Châu chờ Lư Tuấn Nghĩa đến để tiến đánh hang ổ giặc. Nhận được thư của Lư Tuấn Nghĩa báo tin lấy được Hấp Châu đã đem quân vào đóng trong thành, không may mất thêm các tướng, Sử Tiến, Thạch Tú, Trần Đạt, Dương Xuân, Lý Trung, Tiết Vĩnh, Âu Bằng, Trương Thanh, Đinh Đắc Tôn, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc, Lý Vân, Thạch Dũng, tất cả mười ba người. Tống Giang đau xót rống khóc hồi lâu. Quân sư Ngô dụng khuyên rằng:

- Sống chết đều có số, xin chủ tướng chóo quá buồn thương mà tổn hại sức khoẻ. Bây giờ xin chủ tướng hãy cho bàn tính đại sự quốc gia.

Tống Giang nói:
- Đã đành như vậy nhưng làm sao ta khỏi đau buồn thương xót. Trước đây sách trời khắc trên cột đá ghi tên một trăm linh tám người, ai ngờ đến nay ngày một rơi rụng, anh em tan tác chia lìa!

Ngô Dụng khuyên Tống Giang đừng quá phiền não, rồi viết thư gửi Lư tiên phong, hẹn ngày cất quân đánh chiếm huyện Thanh Khê.

Chưa vội nói chuyện Tống Giang gửi thư cho Lư Tuấn Nghĩa hẹn ngày tiến quân. Hãy kể chuyện Phương Lạp thiết triều ở động Bang Nguyên, huyện Thanh Khê, cùng các quan văn võ bàn cách đánh lại Tống Giang. Vừa lúc ấy nghe tin tàn quân thua trận ở Tây Châu trở về báo tin Hấp Châu đã mất, hoàng thúc Phương Hậu, thượng thư Vương Dần, thị lang Cao Ngọc đều chết trận, nay quân Tống chia hai đường tiến đánh để lấy Thanh Khê.

Phương Lạp nghe nói cả kinh, bèn gọi các quan văn võ đến bàn bạc. Phương Lạp nói:

- Bọn các ngươi đều đã được ban quan cao tước trọng, chia trị thành trì các châu quận, cùng quả nhân chung hưởng giàu sang. Quân Tống Giang tiến đến, thế lực như cuốn chiếu, các châu thành đều mất, hiện chỉ còn giữ được một động Thanh Khê này. Nay quân Tống chia đánh hai đường, chúng ta biết lấy gì chận địch?

Tả thừa tướng Lâu Mẫn Trung bước lên quỳ tâu:

- Người ngựa của quân Tống đã tiến gần Thần Châu (ở đây chỉ nơi Phương Lạp đóng đô, động Bang Nguyên, huyện Thanh Khê Mục Châu.) Vườn tược, cung đình cũng khó giữ nổi. Bên ta tướng ít quân thưa, thần nghĩ nếu bệ hạ không ngự giá thân chinh thì sợ rằng quân tướng sẽ không tận tâm đánh giữ.

Phương Lạp nói:

- Lời khanh chí phải!

Nói đoạn Phương Lạp bèn truyền lệnh cho các quan ở ba sảnh sáu bộ, ngự sử đài, khu mật viện, đô đốc các doanh Kim Ngô, Long Hổ: “Tất cả các khanh đều phải theo ta quyết một phen sống chết”.

Lâu thừa tướng nói:

- Bệ hạ định chọn ai làm nguyên soái cầm quân đi tiên phong?

Phương Lạp đáp:

- Ta định lấy cháu ta là Phương Kiệt, hiện giữ chức điện tiền kim ngô thượng tướng quân nội ngoại chư quân đô chiêu thảo làm chánh tiên phong, lấy Mã bộ thân quân đô thái uý phiêu kỵ thượng tướng quân Đỗ Vi làm phó tiên phong thống lĩnh hơn ba mươi chiến tướng và một vạn ba nghìn quân ngự lâm hộ giá hiện đang giữ động Bang Nguyên tiến đánh.

Hoàng điệt Phương Kiệt là cháu đích tôn của hoàng thúc Phương Hậu trấn thủ Hấp Châu. Nghe tin quân của Lư tiên phong đã giết ông nội, Phương Kiệt muốn báo thù, tự nguyện làm tướng tiên phong. Phương Kiệt quen dùng một cây phương thiên hoạ kích có sức khoẻ địch nổi muôn người. Còn Đỗ Vi nguyên là thợ rèn ở chợ Hấp châu có tiếng giỏi rèn binh khí được Phương Lạp tin cậy như kẻ tâm phúc. Đỗ Vi quen dùng cây phi đao sáu lưỡi và chuyên đánh bộ. Phương Lạp lại sai ngự lâm hộ giá đô giáo sư Hà Tùng Long đốc suất một vạn quân ngự lâm tiến đến Hấp Châu đánh quân Lư Tuấn Nghĩa. Tạm gác chuyện Phương Lạp chia binh mã hai đường chận đánh quân Tống, hãy nói chuyện Tống Giang cho đại quân người ngựa lên đường, thuỷ bộ cùng tiến. Rời thành Mục Châu, quân mã thẳng hướng tiến về huyện Thanh Khê. Bọn thuỷ quân đầu lĩnh Lý Tuấn đem chiến thuyền theo đường sông suối cùng tiến về huyện ấy.

Lại nói Ngô Dụng và Tống Giang sánh ngựa vừa đi vừa nói chuyện:

- Chuyến này bọn ta lấy động Bàng Nguyên ở Thanh Khê, chỉ lo đầu sỏ Phương Lạp trốn thoát vào rừng sâu núi hiểm. Muốn bắt sống hắn giải về kinh đô dâng thiên tử thì tất phải trong ứng ngoài hợp, nhận diện cho đúng mới bắt được. Lại phải biết hắn có thể tẩu thoát bằng những đường nào thì mới khỏi để sổng. Tống Giang nói:

- Nếu thế phải tương kế tựu kế dùng mưu trá hàng mới có thể trong hô ngoài ứng. Trước đây ta từng sai Sài Tiến và Yến Thanh đi làm nội ứng, chưa biết tin tức ra sao, nay chưa biết phải sai ai làm việc này. Ta đành phải dùng cách trá hàng.

Ngô Dụng nói:

- Cứ theo ngu ý thì tốt nhất nên sai bọn thuỷ quân đầu lĩnh Lý Tuấn đem theo cả thuyền lương đến nộp lương xin hàng thì bọn chúng mới khỏi nghi. Phương Lạp là đứa tiểu nhân quê mùa, thấy lợi nhiều thì làm gì chẳng thu dùng.

Tống Giang nói:

- Quân sư thật cao kiến!

Nói đoạn bèn sai Đái Tôn theo đường sông đi truyền lệnh cho Lý Tuấn cứ làm như thế…như thế…

Bọn Lý Tuấn vâng lĩnh mưu kế, Đái Tôn trở về hồi báo với Tống tiên phong.

Lý Tuấn liền giao cho Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất cắt cử những người làm lái thuyền, bọn Đồng Uy, Đồng Mãnh cắt cử các thuỷ thủ đem sáu mươi chiếc thuyền lương trên mũi cấm cờ hiệu để chữ “Hiến lương”, ngược suối lớn mà đi. Chưa đến huyện Thanh Khê đã thấy chiến thuyền của quân Phương Lạp từ phía đầu nguồn bơi xuống đón đánh, tên bắn tới rào rào. Lý Tuấn đứng đầu mũi thuyền nói to:

- Xin đừng bắn! Tiểu nhân muốn được nói chuyện với quý quan. Bọn chúng tôi đến đây muốn được quy hàng, đại quốc, xin hiến tất cả lương thực trên thuyền để tiếp tế quân sĩ. Muôn trông quý quan thu nhận cho.

Tên đội trưởng thấy thuyền bọn Lý Tuấn không có vũ khí bèn ra hiệu thôi bắn, rồi cho người nhẩy sang xét hỏi cặn kẽ. Bọn thuỷ quân thấy các thuyền chở đầy lương thực bèn báo cho Lâu thừa tướng việc bọn Lý Tuấn nộp lương xin hàng. Lâu Mẫn Trung nghe xong cho gọi những người đầu hàng lên bờ. Lý Tuấn đến yết kiến Lâu thừa tướng. Chào hỏi xong Lâu Mẫn Trung hỏi:

- Ngươi là thủ hạ của Tống Giang giữ chức vụ gì? Nay vì sao đến đây hiến lương xin hàng?

Lý Tuấn đáp:

- Tiểu nhân họ Lý tên Tuấn, nguyên là hảo hán trên sông Tầm Dương, từng đến Giang Châu cướp pháp trường cứu Tống Giang thoát chết. Nay ông ta nhận chiếu chiêu an của triều đình, được giao chức tiên phong, quên hết ân nghĩa cũ, nhiều lần làm nhục tiểu nhân. Quân Tống Giang tuy đã chiếm được các châu quận của đại vương, nhưng anh em thủ hạ dần mòn rơi rụng. Hắn ta vẫn không tự biết thế nào là đủ, bắt ép bọn anh em thuỷ quân của tiểu nhân tiến trước mở đường. Vì không chịu nhục được nữa, anh em tiểu nhân tự đem thuyền lương đến đây xin hàng quý quốc.

Lâu thừa tướng tin Lý Tuấn nói đúng sự thực, bèn dẫn Lý Tuấn vào yết kiến Phương Lạp, kể lại đầu đuôi chuyện Lý Tuấn đem thuyền lương đến hàng.

Lại nói Tống Giang và Ngô Dụng cắt đặt binh mã đi đánh Phương Lạp: sai bốn viên chánh tướng là Quan Thắng, Hoa Vĩnh, Tần Minh, Chu Đồng dẫn quân đi trước. Các tướng đem quân đến địa giới huyện Thanh Khê thì gặp quân của Phương Kiệt. Quân hai bên dàng thành trận thế. Bên trận quân nam, Phương Kiệt nâng ngang ngọn kích thúc ngựa tiến ra. Đỗ Vi chạy bộ theo sau. Đỗ Vi mình khoác áo giáp, lưng giắt năm lưỡi phi đao, tay cầm thất tinh bảo kiếm.

Bên trận của Tống Giang, Tần Minh cưỡi ngựa vung côn lang nha ra trước trận đón đánh Phương Kiệt. Phương Kiệt còn trẻ tuổi tinh nhanh, sử dụng thành thạo cây phương thiên hoạ kích, giao chiến với Tần Minh hơn ba mươi hiệp không phân thắng bại. Phương Kiệt thấy Tần Minh võ nghệ cao cường cũng phải trổ hết võ nghệ không để phí một mũi kích. Hai tướng quần nhau sắp đến lúc ngã ngũ, Tần Minh cũng hết sức giao chiến không để cho Phương Kiệt rảnh tay. Không ngờ Đỗ Vi ở phía sau thấy Phương Kiệt không hạ nổi Tần Minh bèn thúc ngựa xông tới tung phi đao vào mặt Tần Minh. Tần Minh vội cúi mình né tránh, không may bị Phương Kiệt đưa cây phương thiên hoạ kích hất nhào xuống ngựa. Thương thay Tia chớp loé (Tích lịch hoả) im lặng vụt tắt giữa không trung! Phương Kiệt đã giết được Tần Minh nhưng không dám xua quân sang chiếm trận. Các tướng bên quân Tống dùng câu liêm kéo được thi thể Tần Minh về, mọi người nghe tin đều kinh hoàng. Tống Giang một mặt sai sửa soạn quan tài để khâm liệm, mặt khác lo điều quân ra giao chiến.
Lại nói Phương Kiệt đắc thắng tự kiêu, đứng trước trận quát lớn:

- Quân Tống còn hảo hán nào, mau ra đây đọ sức với ta?

Tống Giang ở trung quân nghe tin báo vội ra trước trận, thấy sau lưng Phương Kiệt là Phương Lạp đang dẫn quân tiến đến. Chỉ thấy:

Quan quân san sát, giáo sắt dàn hàng. Phương thiên hoạ kích rập rờn, rồng phượng cờ thêu bẩy sắc. Cờ mao lệnh tiết, xanh bay đỏ múa đủ màu. Khải ngọc yên hoa, lớp lớp vòng xanh tầng biếc. Lọng rồng bay che rợp mây xanh mù tía, cờ phi hổ uốn lượn khói nhẹ ráng lành. Hầu bên trái là một dãy văn quan, hầu bên phải là mấy hàng võ tướng. Tuy là tiếm ngôi thiên tử, cũng dàn đủ tướng võ tướng văn.

Bên trận quân Nam, Phương Lạp ung dung ghìm cương dừng ngựa đứng dưới lọng vàng. Chỉ thấy:

Đầu chít khăn xung thiên, lụa vàng buông hai vạt; mình mặc cẩm bào nhật nguyệt vai bồng, ngực cuộn hình thêu rồng chầu chín khúc. Lưng đeo đai ngọc lung linh khảm bạc, chân đi hài mây kim tuyến ánh vàng.

Phương Lạp cưỡi ngựa trắng đứng giám chiến trước trận. Thấy Tống Giang đích thân ra trận, Phương Lạp bèn sai Phương Kiệt ra đánh quyết bắt sống bằng được Tống Giang. Các tướng bên quân Tống cũng đã sẵn sàng đón đánh để bắt sống Phương Lạp. Bên quân nam khi Phương Kiệt sắp xuất trận thì có tên thâm mã phi ngựa đến báo:

- Ngự lâm đô giáo sư Hạ Tùng Long đem quân mã đến cứu Hấp Châu đã bị Lư tiên phong bên quân Tống bắt sống, người ngựa phải chạy rạt ra sau núi.

Phương Lạp nghe nói cả sợ, vội truyền lệnh thu quân về giữ động Bang Nguyên. Phương Kiệt giao cho Đỗ Vi giữ trận để Phương Lạp đem quân ngự lâm lui về. Phương Kiệt và Đỗ Vi rút theo sau Phương Lạp vừa trở về đến địa giới huyện Thanh Khê đã nghe tiếng hò hét dội vang khắp trời. Trong động lửa cháy sáng rực, người ngựa nhốn nháo. Đó là bọn thuỷ quân đầu lĩnh Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Uy, Đồng Mãnh lọt vào thành Thanh Khê đốt lửa làm nội ứng. Phương Lạp vội xua quân ngự lâm vào thành hỗn chiến. Quân Tống Giang đuổi theo quân Nam đến huyện Thanh Khê thấy lửa sáng, biết là bọn Lý Tuấn đã lọt vào trong thành. Tống Giang vội truyền lệnh cho các tướng chia quân mấy ngả đánh vào. Bấy giờ quân của Lư tiên phong đã vượt qua núi kịp đến tiếp ứng. Từ bốn phía, quân Tống đánh xáp vào sào huyệt của Phương Lạp. Tống Giang và các tướng đuổi bắt quân nam, triệt phá thành luỹ, Phương Lạp được Phương Kiệt hộ vệ chạy vào động Bang Nguyên.

Tống Giang đem đại quân người ngựa vào thành huyện Thanh Khê. Các tướng vào cung của Phương Lạp thu nhặt binh khí, vàng bạc châu báu, kiểm kê kho tàng rồi phóng hoả thiêu các cung điện trong ngoài của Phương Lạp. Tiền bạc, lương thực thảy đều thu đoạt hết. Tống Giang hội quân với Lư Tuấn Nghĩa đóng giữ huyện Thanh Khê, triệu họp các tướng xét công ban thưởng. Kiểm lại tướng hiệu của cả hai cánh quân mới biết Hiểm đạo thần Úc Bảo Tứ và nữ tướng Tôn Nhị Nương thiệt mạng bởi cây phi đạo của Đỗ Vi; Trâu Uyên, Đỗ Thiên bị loạn quân xéo chết; Lý Lập, Thang Long, Sái Phúc bị thương nặng chạy chữa không khỏi cũng đã chết. Nguyễn Tiểu Ngũ đến trá hàng ở huyện Thanh Khê bị Lâu thừa tướng và Đỗ Vi hạ thủ. Rồi đó Tống Giang cho yết bảng chiêu an vỗ về trăm họ, truyền áp giải bọn nguỵ quan bị bắt sống đến quân doanh của Trương chiêu thảo giao nộp rồi chém đầu thị chúng. Về sau nghe dân chúng nói Lâu Mẫn Trung vì việc giết Nguyễn Tiểu Ngũ, nên khi quân Tống đánh huyện Thanh Khê đã thắt cổ tự tử ở rừng thông. Đỗ Vi trốn ở nhà người kỹ nữ Vương Kiều Kiêu được hắn bao nuôi bị mụ chủ bắt nộp cho quân Tống. Tống Giang thưởng cho mụ chủ hàng rồi sai chặt thủ cấp của Lâu Mẫn Trung, lại sai Sái Khánh mổ bụng moi tim Đỗ Vi để hiến tế các tướng Tần Minh, Nguyễn Tiểu Ngũ, Úc Bảo Tứ, Tôn Nhị Nương và các quân sĩ tử trận khi đánh huyện Thanh Khê. Tống Giang tự tay đốt hương khấn cáo với vong hồn các tướng. Ngay ngày hôm sau, Tống Giang cùng hội quân với Lư Tuấn Nghĩa, thẳng tiến đến vây động Bang Nguyên.

Lại nói Phương Lạp được Phương Kiệt hộ vệ chạy vào cấm điện trong động Bang Nguyên, cho dừng quân đóng ngựa để giữ vững cửa động, không ra giao chiến. Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa cho người ngựa vây chặt xung quanh động nhưng chưa có cách nào lọt vào được. Phương Lạp ở trong động lo sợ như ngồi trên đống lửa. Mấy ngày sau khi quân Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa vây động, Phương Lạp đang lúc lo lắng bồn chồn, bỗng thấy một đại thần mặc áo gấm đến quỳ dưới thềm điện tâu rằng:

- Thưa bệ hạ, thần đội ơn sâu của bệ hạ chưa biết lấy gì báo đáp. Nay thần tuy bất tài nguyện đem chút kiến thức binh pháp, dốc tằi nghệ sở trường, xin bệ hạ giao cho một đội quân, thần nguyện ra sức đánh lui quân Tống, khôi phục vương triều.

Phương Lạp nghe nói cả mừng liền ban sắc chỉ giao cho viên tướng ấy chỉ huy binh mã ra ngoài động giao chiến với quân Tống Giang. Chưa hay thắng bại ra sao, chỉ biết viên tướng ấy thật oai phong, lẫm liệt; phải chăng ngẫu nhiên trong vương triều của Phương Lạp mới xuất hiện một viên tướng tài cầm quân đi chận địch? Chỉ biết:

Sân rồng bệ ngọc đầu người rụng,

Cửa khuyết thêm vàng máu nóng tuôn.

Biết trước rằng:

Dẹp tan sào huyệt bắt Phương Lạp,

Dựng lập công huân rạng Tống Giang.

Chưa biết viên tướng đó là ai, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 119 - Lỗ Trí Thâm Bên Sông Quy Tịch,

Đang nói bấy giờ viên đại thần đến dưới điện của Phương Lạp xin cầm quân đi giao chiến với quân Tống không ai khác mà là chính phò mã đô uý Kha Dẫn. Phương Lạp vui mừng khôn xiết, liền chuẩn cho Kha phò mã đem quân đi chặn địch, Kha phò mã khoác giáp lên ngựa, cùng với Vân Bích phụng uý đưa quân ra đi. Phương Lạp tự tay cởi áo gấm giáp sắt, lại chọn một con ngựa nòi ban cho Kha Dẫn.

Kha phò mã cùng Phương Kiệt dẫn hai mươi viên thượng tướng, một vạn quân ngự lâm và quân bảo vệ ra ngoài động Bang Nguyên dàn thành trận thế.

Lại nói người ngựa của Tống Giang vây chặt cửa động, các lối ra vào đều có các tướng đốc suất canh giữ. Tống Giang đứng ở trung quân bồn chồn lo lắng, thấy quân mình đã áp sát cửa động, mà chưa bắt được Phương Lạp, cũng chưa thấy quân nam ra đánh. Đang lúc ấy có tên lính ở tiền quân đến báo tin quân mã trong động đang kéo ra. Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa vội lên ngựa cho quân tiến. Dàn xong trận thế thì vừa lúc phò mã Kha Dẫn đem quân đến. Bên quân Tống Giang ai là người chẳng nhận ra Sài Tiến? Tống Giang bèn lệnh cho Hoa Vinh phi ngựa lên nghênh chiến. Hoa Vinh đượdc lệnh liền cắp thương nhẩy lên ngựa xông lên trước trận, cất giọng quát to:

- Ngươi là kẻ nào mà dám giúp sức cho giặc chống lại đại quân ta? Phải bắt sống ngươi, băm thây làm muôn mảnh! Hãy mau xuống ngựa đầu hàng, sẽ tha cho ngươi tội chết!

Phò mã Kha Dẫn đáp:

- Khắp đất Sơn Đông ai còn lạ gì đại danh ta là Kha Dẫn? Các ngươi là giặc cỏ Lương Sơn Bạc không đáng để ta đếm xỉa tới! Phải chăng ngươi cho ta không tài giỏi bằng ngươi? Ta phải giết bọn ngươi, thu phục các thành trì đã mất!

Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa ngồi trên ngựa, nghe Sài Tiến nói thì hiểu ý Sài Tiến đã đổi họ tên là Kha Dẫn. Sài cũng tức là Kha (nghĩa là cành củi), Tiến cũng là Dẫn. Ngô Dụng nói:

- Để xem Sài Tiến đón đánh Hoa Vinh như thế nào?

Bấy giờ Hoa Vinh cắp thương nhẩy lên ngựa xông đến đánh Kha Dẫn, hai người trổ tài giao chiến, đao kích cùng vung lên. Hai người đánh đến lúc hăng, lăn xả vào níu nhau. Sài Tiến khẻ nói: « Đại huynh hãy giả vờ thua, ngày mai đệ sẽ nói tiếp ». Hoa Vinh nghe xong đánh lướt thêm vài hiệp, rồi quay ngựa chạy. Kha Dẫn quát to:

- Tướng giặc kia! Ta không thèm đuổi. Có tướng nào giỏi hơn cứ ra đây đọ tài với ta.

Hoa vinh phi ngựa chạy về thuật lại với Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa. Ngô Dụng nói:

- Cho Quan Thắng ra đánh tiếp.

Quan Thắng liền vung cây đao thanh long yển nguyệt, thúc ngựa ra trước trận, quát lớn:

- Tướng nhép Sơn Đông có dám đối địch với ta?

Phò mã Kha Dẫn nâng thương xông ngựa đón đánh. Hai tướng đua tài không chút khiếp sợ. Đánh chưa đầy năm hiệp, Quan Thắng vờ thua quay về trận nhà. Kha Dẫn không đuổi, chỉ dừng trước trận quát lớn:

- Các ngươi còn tướng nào dám đọ sức với ta?

Tống Giang lại sai Chu Đồng ra trận. Hai người lao vào đánh, chỉ cốt để che mắt mọi người, được dăm sáu hiệp, Chu Đồng đã vờ thua bỏ chạy. Sài Tiến đuổi theo, giơ thương đâm hờ một mũi, Chu Đồng vội nhảy xuống, bỏ ngựa chạy về phía quân mình. Quân nam ùa tới cướp ngựa. Phò mã Kha Dẫn quân ào lên đuổi đánh. Tống Giang vội truyền lệnh cho các tướng đem quân lui xa hơn mười dặm đóng trại nghỉ ngơi. Kha Dẫn cho đuổi theo một quãng, rồi thu quân về động. Trước đó đã có người về báo cho Phương Lạp biết: « Phò mã Kha Dẫn thật anh hùng, liên tiếp đánh thắng ba tướng, đuổi lui quân Tống. Bọn Tống Giang thua trận đã phải lui mười dặm ». Phương Lạp cả mừng, sai bày ngự yến để khoản đãi. Phương Lạp mời phò mã Kha Dẫn cởi giáp treo áo để vào hậu cung dự tiệc. Phương Lạp tự tay nâng chén vàng mời Kha Dẫn:

- Không ngờ phò mã văn võ kiêm toàn! Quả nhân nghĩ hiền tế chỉ có tài văn chương chữ nghĩa, nếu sớm biết hiền tế hào kiệt anh hùng thì đâu đến nỗi để mất nhiều châu quận! Mong phò mã đem tài cao giết hết tướng giặc, khôi phục cơ nghiệp, triều đình. Phò mã sẽ cùng ta chung hưởng vinh hoa phú quý.

Kha Dẫn tâu đáp:

- Xin chúa thượng yên lòng. Đạo làm tôi phải hết lòng báo đền ơn chúa, chung sức khôi phục vương gia. Ngày mai kính xin thánh thượng quá bộ lên núi xem Kha Dẫn này chém đầu Tống Giang.

Phương Lạp nghe tâu cả mừng. Yến tiệc kéo dài suốt đêm, rồi đó ai nấy về nghỉ ngơi.

Ngày hôm sau, Phương Lạp ngự triều, sai mổ bò giết ngựa nấu cơm cho quân sĩ ăn uống no say. Sau đó, các tướng quân nam mặc giáp lên ngựa, đem quân ra khỏi động, phất cờ gióng trống hò reo khiêu chiến. Phương Lạp dẫn các cận thần lên đỉnh núi trên động Bang Nguyên xem Kha phò mã đánh lui quân Tống.

Lại nói hôm ấy Tống Giang truyền lệnh cho các tướng:

- Trong trận đánh quyết liệt hôm nay, các tướng đều phải cố sức bắt sống tên đầu sỏ Phương Lạp. Hễ thấy Sài Tiến ở bên trận quân nam quay ngựa bỏ chạy thì đuổi theo vào động, bắt cho được Phương Lạp, không được để lỡ.

Ba quân tướng sĩ nghe lệnh đều xoa tay tuốt kiếm những muốn xông ngay vào động cướp vàng bạc, bắt sống Phương Lạp để lĩnh thưởng. Bấy giờ các tướng của Tống Giang đã đến trước động cho quân mã dàn thành trận thế.

Bên trận quân nam, phò mã Kha Dẫn đứng dưới cờ. Kha Dẫn sắp xuất trận thì Phương Kiệt nâng ngang ngọn kích, dừng ngựa nói:

- Xin đô uý hãy buông cương xem Phương Kiệt tôi lấy đầu một tên tướng Tống trước đã, sau đó đô uý hãy cho quân ra đối địch.

Từ xa trông thấy Yến Thanh theo sau Sài Tiến, các tướng bên quân Tống reo mừng:

- Hôm nay thế nào cũng thắng!

Nói đoạn ai nấy đều chia đi chuẩn bị trận đánh.

Nói tiếp chuyện Phương Kiệt tranh phóng ngựa ra khiêu chiến. Bên quân Tống Giang, Quan Thắng thúc ngựa múa đao thanh long tiến ra đón đầu. Hai tướng cho ngựa lao vào giao chiến, qua lại quần lộn với nhau chưa được mười hiệp thì Tống Giang sai tiếp Hoa Vinh ra trận. Phương Kiệt một mình bị hai tướng xáp đánh, nhưng không chút sợ hãi, ra sức chống đỡ cả hai. Lại đánh thêm vài hiệp nữa, tuy thắng bại chưa hẳn đã nghiêng về bên nào, nhưng xem chừng Phương Kiệt cũng chỉ đủ sức tránh đỡ. Tống Giang liền sai bọn Lý Ứng, Chu Đồng phóng ngựa đến trợ chiến. Phương Kiệt bị bốn tướng vây đánh, đành quay ngựa chạy về. Kha phò mã đang đứng dưới cờ tướng, chận Phương Kiệt lại, rồi vẫy tay ra hiệu. Bọn bốn tướng Quan Thắng, Hoa Vinh, Chu Đồng, Lý Ứng liền đuổi sát tới. Đúng lúc đó, Kha phò mã chĩa mũi giáo xông thẳng vào Phương Kiệt, Phương Kiệt thấy tình thế nguy ngập, vội xuống ngựa chạy trốn, nhưng chưa kịp trở tay đã bị Sài Tiến đâm trúng một mũi thương. Từ phía sau Văn phụng uý Yến Thanh đuổi tới xả một nhát đao kết liễu đời hắn. Quân nam thấy vậy kinh sợ, xô nhau chạy trốn. Kha phò mã nói:

- Ta chẳng phải Kha Dẫn nào hết! Chính ta là Tiểu toàn phong Sài Tiến, thuộc hạ của Tống tiên phong. Văn phụng uý đi theo ta đây chính là lãng tử Yến Thanh. Nay chúng ta đã biết hết tình thế của giặc cả trong lẫn ngoài động, quân sĩ các ngươi ai bắt sống được Phương Lạp sẽ được thưởng chức quan cao, xe đưa ngựa đón. Các ngươi đầu hàng sẽ được tha chết. Ai chống cự xử trảm toàn gia!

Sài Tiến nói đoạn quay lại cùng bốn tướng dẫn đại quân tiến vào trong động. Phương Lạp cùng bọn cận thần đứng đầu núi trên động Bang Nguyên thấy quân Tống đã giết Phương Kiệt, ba quân rối loạn, biết tình thế nguy cấp, vội đạp đổ chiếc ghế kim giao, nhắm hướng núi sâu mà chạy.

Tống Giang chia quân người ngựa thành năm ngã tiến vào động. Quân sĩ, tranh nhau tiến trước để bắt Phương Lạp, chẳng ngờ Phương Lạp đã trốn mất, chỉ bắt được mấy tên hầu cận. Yến Thanh chen vào trong động, đem theo mấy người tâm phúc, đến chỗ kho báu thu được hai tay nải đồ vàng bạc châu báu, rồi châm lửa đốt cung cấm, vườn tược. Khi Sài Tiến đến thì Kim Chi công chúa đã thắt cổ tự tử. Sài Tiến thấy vậy liền châm lửa đốt cung, còn bọn thị nữ, người hầu thì cho tự tìm đường kiếm sống. Quân sĩ tràn vào nội cung giết hết phi tần thế nữ, hoàng thân quốc thích cùng bọn ngự lâm thị vệ, đoạt lấy vàng bạc trong cung riêng của Phương Lạp. Tống Giang tung hết quân tướng sục sạo khắp nơi tìm bắt Phương Lạp.

Lại nói Nguyễn Tiểu Thất vào thâm cung trong vườn cấm tìm thấy một chiếc rương, chính là chiếc rương của Phương Lạp đựng mũ bình thiên, áo long cổn, đai bích ngọc, ngọc bạch khuê, giày vô vưu, đều là những thứ do Phương Lạp nguỵ tạo. Nguyễn Tiểu Thất thấy mũ áo đính đầy vàng bạc châu ngọc, thêu hình rồng phượng, nghĩ bụng: « Những thứ này là áo mũ của Phương Lạp, ta cứ thử mặc, thử đội mũ cũng chẳng can gì ». Nói đoạn mặc áo long cổn, đeo đai ngọc, chân xỏ giày vô vưu, đầu đội mũ bình thiên, cài ngọc bạch khuê vào ngực áo rồi nhẩy lên ngựa, gia roi cho ngựa chạy ra đằng trước. Quân Tống Giang trông thấy đều tưởng đó là Phương Lạp, khắp nơi xôn xao náo động. Nhưng khi đám đông chen nhau đến xem mới biết đó là Nguyễn Tiểu Thất. Mọi người được một phen cười rộ. Nguyễn Tiểu Thất chỉ muốn làm trò đùa cho vui, cứ phi ngựa khắp nơi xem quân sĩ tranh cướp của cải. Đang lúc huyên náo thì hai viên đại tướng là Vương Lẫm và Triệu Đàm được Đồng khu mật phái tới trợ chiến vừa vào trong động.

Nghe ba quân đồn đại là đã bắt được Phương Lạp, Vương Lẫm và Triệu Đàm muốn nhanh chân cướp công, hoá ra lại là Nguyễn Tiểu Thất mặc áo đội mũ của Phương Lạp đang đứng cười khoái trá. Vương Lẫm, Triệu Đàm thấy vậy mắng rằng:

- Ngươi muốn bắt chước Phương Lạp làm giặc chăng?

Nguyễn Tiểu Thất cả giận, chỉ vào Vương Lẫm và Triệu Đàm mà mắng:

- Bọn bay là thá gì? Nếu không có huynh trưởng Tống Công Minh của chúng ta thì hai cái đầu lừa của bọn bay cũng đã bị Phương lạp cho đứt từ lâu rồi. Hôm nay anh em các tướng bọn ta lập được công lớn, bọn bay từ đâu đến đây mà dám nói láo? Triều đình chẳng biết lại cho là nhờ có bọn bay đến giúp sức mới nên công.

Vương Lẫm, Triệu Đàm cả giận xông vào gây sự với Nguyễn Tiểu Thất. Tiểu Thất liền giằng lấy ngọn giáo trong tay một viên tiểu hiệu chạy đến đâm Vương Lẫm. Hồ Diên Chước trông thấy vội phóng ngựa đến can ngăn, rồi sai quân hầu đi báo cho Tống Giang biết. Tống Giang, Ngô Dụng phóng ngựa tới nơi thấy Nguyễn Tiểu Thất đang mặc ngự bào của Phương Lạp, hai người xuống ngựa, bắt Nguyễn Tiểu Thất cởi áo mũ, rồi chuyện trò khuyên giải với hai tướng triều đình. Vương Lẫm, Triệu Đàm tuy nghe lời Tống Giang, nhưng trong lòng vẫn căm tức.

Ngày hôm sau trong động Bang Nguyên, thây chất thành đống, máu chảy thành sông. Theo sử Cương Giám của nhà Tống thì quân Phương Lạp bị chém hơn hai vạn đầu. Bấy giờ Tống Giang hạ lệnh cho bốn phía đều nổi lửa đốt trụi lâu đài cung điện của Phương Lạp. Những lầu rồng gác phượng, cung kín vườn sâu, hiên son cửa ngọc, thảy đều thành tro bụi. Có thơ làm chứng như sau:

Hoàng óc chu hiện bán nhập vân

Đô cao bạn huyết tự hân hân

Nhược hoàn thiên ý dung xa xỉ

Quỳnh thất A Phòng khả bất phân.

Dịch:

Gác tía lầu vàng vút tận mây

Đầu rơi máu chảy vẫn vui say

Ví bằng trời đất dung xa xỉ

Cung ngọc A Phòng chẳng cháy lây

(A Phòng - tên cung điện đời Tần Thuỷ Hoàng, quy mô to lớn tráng lệ, mỗi chiều đến hơn năm mươi trượng, có thể ngồi được cả vạn người, sau bị cháy.)

Bấy giờ Tống Giang cùng các tướng chứng kiến việc thiêu huỷ cung điện, sau đó dẫn quân ra đóng trại ở chung quanh cửa động. Kiểm số giặc bị bắt, chỉ thiếu một mình đầu sỏ Phương Lạp. Tống Giang bèn truyền lệnh sai quân theo núi truy tìm. Cáo thị cho dân chúng biết ai bắt được Phương Lạp triều đình sẽ trọng thưởng, ban chức quan to, ai biết đến báo được cấp ngay tiền thưởng.

Lại nói Phương Lạp ra khỏi động Bang Nguyên nhắm phía rừng sâu, xuyên đèo vượt núi mà chạy, vứt hết hoàng bải, khăn chít kim hoa, giầy thiết triều, chỉ kịp đi giầy cỏ trốn lên núi. Suốt đêm Phương Lạp trèo qua được năm quả núi, khi đến gần thì thấy một ngôi thảo am trong hẻm núi. Phương Lạp thấy đói cồn cào, định vào am lục tìm thức ăn. Bỗng phía sau gốc thông xuất hiện một vị hoà thượng to béo. Nhanh như cắt vị hoà thượng ấy phang một gậy làm Phương Lạp ngã lăn, rồi xông đến trói gô lại. Vị hoà thượng ấy không phải ai xa lạ mà chính là hoà thượng Lỗ Trí Thâm. Lỗ Trí Thâm liền điệu Phương Lạp vào trong am, rồi lục lạo tìm cơm ăn. Một lúc sau Lỗ Trí Thâm gặp một tên quân nhà đang được lệnh đi lùng bắt Phương Lạp, hai người cùng giải Phương Lạp đến nộp cho Tống tiên phong.

Tống Giang cả mừng nói:

- Sao hiền đệ biết hắn chạy đến đó mà đón bắt?

Lỗ Trí Thâm đáp:

- Đệ từ rừng thông ở đèo Ô Long đánh xuống, đuổi sâu vào trong núi để bắt Hạ Hầu Thành. Bọn này chống cự rất hăng, đệ đuổi sâu vào trong núi nên bị lạc. Đệ lần mò tìm đường đến núi Lâm Lang. Một thầy tăng già dẫn đệ vào trong am rồi dặn rằng: « Củi, gạo, rau, dưa đều sẵn cả, tướng quân cứ ở đây mà chờ. Hễ thấy kẻ cao lớn từ trong rừng thông tìm đến thì trói bắt ngay. » Đêm ấy thấy trên núi phía trước có ánh lửa, đệ rình đợi suốt đêm, muốn lên đó nhưng không biết đường. Sáng nay vừa văn thấy tên giặc này mò lên núi, đệ chỉ phang một gậy là bắt sống được. Thật không ngờ hắn lại chính là tên Phương Lạp!

Tống Giang lại hỏi:

- Vị sư già ấy hiện giờ ở đâu?

Lỗ Trí Thâm đáp:

- Lão tăng dẫn đệ vào am, chỉ chỗ để gạo, củi rồi đi ngay, không biết đi đâu?

Tống Giang nói:

- Lão tăng ấy hẳn là vị La Hán hiển linh giúp hiền đệ lập công lớn đấy! Khi về kinh ta sẽ tâu lên triều đình xin thiên tử cho người hoàn tục làm quan để vợ con được nhờ phúc ấm, báo đáp cha mẹ, rạng rỡ tổ tiên.

Lỗ Trí Thâm đáp:

- Thưa huynh trưởng, lão gia lòng trần đã nguội, chẳng còn ham muốn làm quan, chỉ muốn tìm một nơi thanh vắng yên thân đến trọn đời.

Tống Giang nói:

- Hiền đệ không muốn hoàn tục thì cũng nên về kinh sư trụ trì ở nơi danh lam thắng cảnh, đứng đầu các sư. Như thế cũng là hiển vinh cho tông tổ, báo đáp mẹ cha.

Lỗ Trí Thâm nghe xong lắc đầu từ chối:

- Không cần, không cần, mọi thứ đều vô nghĩa. Tiểu đệ chỉ ước sao thân thể được nguyên vẹn mà quy hoá là đủ lắm rồi.
Tống Giang nghe xong buồn rầu nghĩ ngợi, cả Lý Quỳ cũng cảm thấy không vui. Tống Giang cho điểm lại quân tướng, rồi truyền lệnh đóng cũi giải Phương Lạp về kinh. Sau đó Tống Giang cùng các tướng dẫn ba quân người ngựa rời động Bang Nguyên trở về Mục Châu.
Lại nói Trương chiêu thảo đã truyền lệnh gọi Lưu đô đốc, Đồng khu mật, hai tham mưu họ Tùng, họ Cảnh đem quân mã đến hội cả ở Mục Châu. Được tin Tống Giang lập công lớn bắt được Phương Lạp áp giải về Mục Châu, các quan ai nấy đều đến chúc mừng. Tống Giang và các tướng vào chào quan giám chiến. Trương chiêu thảo nói:
- Hạ quan biết tướng quân vất vả nơi biên ải, anh em bị tổn thất nhiều. Nay cuộc chinh thảo đã toàn thắng, thật là may mắn lớn. Tống Giang lạy tạ hai lạy, nghẹn ngào rơi lệ đáp:

- Lúc đầu bọn anh em tiểu tướng có một trăm linh tám người, đánh tan giặc Liêu trở về kinh đô không tổn thất người nào. Sau đó không ngờ Công Tôn Thắng chia tay để tiếp tục đời tu hành, lại thêm mấy người được triều đình giữ lại ở kinh đô. Sau khi lấy Dương Châu, vượt sông Trường, ngờ đâu anh em các đầu lĩnh mười phần mất bẩy! Đến nay Tống Giang tôi còn mặt mũi nào trở lại trông thấy các bậc phụ lão cùng bà con thân thích ở Sơn Đông?

Trương chiêu thảo nói:

- Tiên phong đừng nghĩ thế. Người xưa có câu « Gìau, nghèo, sang, hèn, định từ kiếp trước; sống lâu chết yểu, định bởi đời nay ». Người ta lại thường nói, « Kẻ có phúc đưa người bạc mệnh ». Đi đánh trận mà tổn thất tướng tá thì có gì đáng xấu hổ. Ngày nay anh em tướng quân đã công thành danh toại, triều đình biết tin tất sẽ trọng dụng phong quan ban tước, vẻ vang áo gấm về làng, ai là người không khen ngợi? Ngoài ra những chuyện không đâu thì tướng quân chẳng đáng bận lòng. Bây giờ tướng quân chỉ nên lưu tâm chỉnh đốn quân sĩ để về kinh.

Tống Giang vái tạ Trương chiêu thảo và các quan triều đình, rồi trở về truyền lệnh cho các tướng. Trương chiêu thảo cũng đã ra lệnh dem bọn nguỵ quan và quân lính giặc - trừ Phương Lạp cho giải về kinh – còn lại thảy đều đem đến chợ Mục Châu chém đầu thị chúng. Những nơi chưa thu phục được như huyện Cù, huyện Vụ, thì bọn nguỵ quan sau khi nghe tin Phương Lạp bị bắt sống đã bỏ trốn hoặc ra đầu thú. Trương chiêu thảo đều thu nhận, cho được trở lại làm lương dân, một mặt sai yết bảng khắp nơi để vỗ về chiêu an trăm họ. Những người theo giặc nhưng chưa từng giết hại dân chúng thì chuẩn cho tự thú để làm được các châu huyện. Trương chiêu thảo sai quan quân đến giữ đất, vỗ yên dân chúng, việc không có gì phải nói.

Lại nói Trương chiêu thảo và các quan ở Mục Châu mở tiệc thái bình chúc mừng các quan tướng, khao thưởng ba quân, rồi truyền lệnh cho Tống tiên phong và các đầu lĩnh sửa soạn đưa quân về kinh. Quân lệnh truyền xuống, tướng sĩ ai nấy chuẩn bị hành trang, lục tục lên đường.

Nói tiếp Tống tiên phong bùi ngùi rơi lệ, buồn nhớ các anh em đầu lĩnh tử trận. Không ngờ bọn sáu người Trương Hoành, Mục Hoằng bị ốm nằm lại ở Hàng Châu, Chu Phú, Mục Xuân phải ở lại coi sóc, tất cả là tám người, sau vì bệnh nặng mà chết chỉ còn Dương Lâm và Mục Xuân tìm về được với đại quân.

Tống Giang nghĩ nhờ công lao vất vả của anh em các tướng mới có cảnh thái bình hôm nay, muốn lập đàn siêu độ cho các đầu lĩnh tử trận. Tống Giang bèn sai các chùa quán ở Mục Châu căng màn treo phướn, dựng đàn cửu u làm ba trăm sáu mươi tuần tế Thiên la đại thánh cầu cho anh em các chánh phó tướng chết trận được siêu linh tịnh độ. Sửa soạn đã xong, ngày hôm sau Tống tiên phong cho mổ trâu giết ngựa, đem theo rượu tế, rồi cùng quân sư Ngô Dụng và các tướng tới miếu Ô Long đốt vàng hương dâng lễ, tạ ơn thần Ô Long đại vương. Các chánh phó tướng trận vong còn nhắt được thi hài đều được làm lễ an táng chu đáo. Xong việc, Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa thu thập quân mã theo Trương chiêu thảo về Hàng Châu chờ thánh chỉ cho đem quân hồi kinh. Các tướng hiệu ai có công lao đều được kê khai vào biểu văn để dâng lên thiên tử. Rồi đó ba quân theo thứ tự lên đường về kinh.

Tống Giang điểm lại các chánh phó tướng có mặt lúc trở về chỉ còn ba mươi sáu người. Đó là: Hô bảo nghĩa Tống Giang, Ngọc kỳ lân Lư Tuấn Nghĩa, Trí đa tinh Ngô Dụng, Đại đao Quan Thắng, Báo tử đầu Lâm Xung, Song tiên Hồ Diên Chước, Tiểu lý quảng Hoa Vinh, Tiểu toàn phong Sài Tiến, Phốc thiên điêu Lý Ứng, Mỹ nhiêm công Chu Đồng, Hoa hoà thượng Lỗ Trí Thâm, Hành giả Võ Tòng, Thần hành thái bảo Đái Tôn, Hắc toàn phong Lý Quỳ, Bệnh quan sách Dương Hùng, Hỗn long giang Lý Tuấn, Hoạt diêm la Nguyễn Tiểu Thất, Lãng tử Yến Thanh, Thần cơ quân sư Chu Vũ, Trấn tam sơn Hoàng Tín, Bệnh uý Tri Tôn Lập, Hỗn thế ma vương Phàn Thuỵ, Oanh thiên lôi Lãng Chấn, Thiết diện khổng mục Bùi Tuyên, Thần toán tử Tưởng Kính, Quỷ kiếm nhi Đỗ Hưng, Thiết phiến tử Trương Thanh, Độc giác long Trâu Nhuận, Nhất chi hoa Sái Khánh, Cẩm báo tử Dương Lâm, Tiểu già lan Mục Xuân, Xuất động giao Đồng Uy, Phan giang thần Đồng Mãnh, Cổ thượng sắt Thời Thiên, Tiểu uý trì Tôn Tân, Mẫu đại trùng Cố Đại Tẩu.

Bấy giờ Tống Giang và các tướng dẫn quân mã rời Mục Châu nhằm phía Hàng Châu tiến phát.

Đúng là:
Thu quân chiêng rộn nghìn đầu núi
Thắng trận cờ tung chục dặm hồng

Chuyện trên đường đi không có gì đáng nói. Chẳng mấy chốc đại quân đã về đến Hàng Châu. Trương chiêu thảo đem quân mã vào thành. Tống tiên phong tạm đóng quân ở tháp Lục Hoà, các tướng đều vào chùa Lục Hoà nghỉ ngơi. Tiên phong sứ Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa hàng ngày hai buổi sáng tối đều vào thành nghe lệnh.

Lại nói Lỗ Trí Thâm và Võ Tòng cùng nghỉ ngơi một nơi trong chùa Lục Hoà. Thấy ngoài thành phong cảnh núi sông tươi đẹp. Lỗ Trí Thâm trong lòng rất vui thích. Đêm ấy trăng thanh gió mát, trời nước một màu, hai người ngủ yên trong căn phòng. Đến nửa đêm, chợt nghe trên sông tiếng sóng cuộn ầm ầm. Lỗ Trí Thâm vốn người đất Quan Tây (chỉ phía tây của Hàm Cốc) không quen tiếng sóng triền miên Triết Giang ngỡ là trống trận, giặc giã nổi lên đâu đây. Lỗ Trí Thâm bèn chồm dậy cầm cây thiền trượng quát lên một tiếng rồi chạy lao ra ngoài. Các sư sãi chùa Lục Hoà sợ hãi xúm đến hỏi:

- Sư phụ làm sao thế? Định chạy đuổi ai?

Lỗ Trí Thâm đáp:

- Lão gia nghe tiếng trống trận vội lao ra đánh!

Chúng tăng cười rộ lên bảo Lỗ Trí Thâm:

- Sư phụ nhầm rồi, không phải trống trận đâu! Đó là tiếng sóng (Triều tín) trên sông Tiền Đường đấy!

Lỗ Trí Thâm nghe nói giật mình hỏi lại:

-Thưa sư phụ, « Triều tín » là cái gì?

Các nhà sư chùa Lục Hoà đẩy cửa sổ chỉ cho Lỗ Trí Thâm sóng triều trên sông nói:

- Đây là sóng triều ngày đêm hai lần lên xuống không sai một khắc. Hôm nay là ngày rằm tháng tám, triều lên vào lúc canh ba. Vì thuỷ triều lên xuống rất đúng giờ khắc, không thất tín nên gọi là « triều tín ».

Lỗ Trí Thâm đứng nhìn hồi lâu đột nhiên tỉnh ngộ, vỗ tay cười vang:

- Ngày trước sư phụ ta là Trí Chân trưởng lão đã cho ta bốn câu kệ, « Phùng Hạ nhi cầm » (Gặp Hạ thì bắt) thì vừa rồi đuổi giặc trong rừng thông ta đã bắt được tướng giặc Hạ Hầu Thành. « Ngộ Lạp nhi chấp » (Gặp Lạp thì trói), đúng là ta đã bắt trói Phương Lạp. Hôm nay ứng vào hai câu « Thính triều nhi viên, kiến tín nhi tịch ». Nay đã nghe tiếng « triều tín » đúng là đến lúc ta « viên tịch ». Nhưng xin chư vị hoà thượng giải thích cho lão gia thế nào là « viên tịch »?

Các sư nói:
- Hoà thượng là kẻ xuất gia, lẽ nào lại không hiểu từ nhà Phật. « Viên tịch » có nghĩa là chết đấy.

Lỗ Trí Thâm cười đáp:

- Dù « viên tịch » nghĩa là chết chăng nữa thì hôm nay lão gia cũng tất phải « viên tịch » thôi. Cảm phiền chư vị cho một thùng nước nóng để lão gia tắm rửa.

Các nhà sư tưởng Lỗ Trí Thâm nói đùa, lại thấy tính nết của hoà thượng ấy như thế, chẳng ai dám không theo, đành cho người đun nước bưng đến.

Lỗ Trí Thâm tắm gội xong, bèn khoác áo cà sa vua ban, rồi bảo viên quân hiệu tuỳ tòng:

- Ngươi hãy đi báo để huynh trưởng Tống Công Minh đến thăm lão gia.

Rồi Lỗ Trí Thâm hỏi nhà chùa cho mượn bút giấy viết một bài tụng. Viết xong, Lỗ Trí Thâm lên nhà giảng lấy ghế toạ thiền, đốt một lò hương thơm, đặt bài tụng trên giường rồi ngồi kiết già mà hoá.

Tống Công Minh được tin báo vội dẫn các đầu lĩnh đến nơi thì Lỗ Trí Thâm đã bất động trên chiếu toạ thiền. Bài tụng của Lỗ Trí Thâm để lại như sau:

Bình sinh bất tu thiện quả

Chỉ ái sát nhân phóng hoả

Hốt địa đốn khai kim thằng

Gía lý xả đoạn ngọc toả.

Di:

Tiền Đường giang thượng triều tín lai

Kim nhật phương trị ngã thị ngã.

Dịch:

Bình sinh chẳng tu thiện quả

Chỉ thích sát nhân phóng hoả

Chợt tỉnh tháo tung giày vàng

Tới đây giật phăng khoá ngọc

Ôi!

Tiền Đường nghe sóng triều vang dội

Mới tỉnh ra rằng ta là ta.

Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa xem xong lời kệ của Lỗ Trí Thâm, bùi ngùi than tiếc hồi lâu. Các đầu lĩnh đều đến thắp hương lạy viếng Lỗ Trí Thâm. Trương chiêu thảo, Đồng khu mật và các quan ở trong thành Hàng Châu cũng đến viếng Tống Giang, lấy vàng lụa của riêng biếu các sư chùa Lục Hoà, nhờ nhà chùa lập đàn cầu siêu ba ngày ba đêm, cho đóng quan tài hình tháp sơn đỏ, lên núi Kinh Sơn mời Đại Huệ thiền sư xuống chủ trì lễ thiêu hoá cho Lỗ Trí Thâm. Sư sãi các chùa quanh vùng biết tin cũng đều đến tụng kinh, cùng rước quan tài ra sau tháp Lục Hoà hoả thiêu. Đại Huệ thiền sư cầm bó đuốc chỉ vào quan tài Lỗ Trí Thâm nói mấy lời pháp ngữ:

Lỗ Trí Thâm! Lỗ Trí Thâm!

Khởi thân tự lục lâm

Lưỡng chỉ phóng hoả nhãn

Nhất phiến sát nhân tâm

Hốt địa tuỳ triều quy khứ

Qủa nhiên vô xứ căn tầm

Đốt!

Giải sử mãn không phi bạch ngọc

Nâng linh đại địa tác hoàng câm

Dịch:

Này Lỗ Trí Thâm! Trí Thâm!

Xuất thân chốn lục lâm

Hai con mắt phóng hoả

Một ác tâm sát nhân

Bỗng chốc theo sóng triều quy tịch

Quả nhiên không xứ sở truy tầm

Này!

Nếu không trên trời bay ngọc trắng

Thì đầy mặt đất rải hoàng kim!

Đại Huệ thiền sư châm lửa xong, các nhà sư tụng kinh sám hối, hoả thiêu quan tài sau tháp Lục Hoà, rồi thu nhặt xá lợi đặt thờ trong tháp. Các di vật của Lỗ Trí Thâm như áo cà sa, bát ăn cơm cùng vàng bạc được triều đình và các quan ban thưởng đều nộp vào chùa Lục Hoà để các sư sử dụng. Cả cây thiền trượng sắt và chiếc áo thụng đen không tay cũng để lại cả cho nhà chùa.

Tống Giang đến thăm Võ Tòng nay đã trở thành người tàn phế. Võ Tòng nói:

- Tiểu đệ này đã trở thành người tàn phế, không muốn về kinh triều cận nữa. Có ít vàng bạc được ban thưởng, đệ xin cũng vào chùa Lục Hoà để dùng vào Phật sự. Đệ chỉ mong được thanh thản làm một người tu hành là tốt lắm rồi. Huynh trưởng làm khai sách gửi về triều xin đừng ghi tên đệ nữa.

Tống Giang nói:

- Việc đó tuỳ hiền đệ!

Từ đó Võ Tòng ở lại tu hành tại chùa Lục Hoà, đến tám mươi tuổi không bệnh mà mất, nhưng đó còn là câu chuyện về sau.

Lại nói tiên phong Tống Giang hàng ngày đều vào trong thành chờ lệnh, đợi khi quân mã của Trương chiêu thảo lên đường thì đem quân vào đóng trong thành để thay thế. Sau chừng nửa tháng có sứ giả của triều đình mang sắc chỉ đến truyền lệnh cho Tống tiên phong đem quân về kinh. Trương chiêu thảo, Đồng khu mật, đô đốc Lưu Quang Thế, hai tham mưu họ Tùng, họ Cảnh, đại tướng Vương Lẫm, Triệu Đàm dẫn người ngựa đi tiếp sau về kinh. Đến lúc khởi hành, không ngờ Lâm Xung bị trúng gió cảm bệnh, Dương Hùng chết vì nhọt độc ở sau lưng. Thời Thiên cũng bị bệnh trĩ mà chết. Tống Giang buồn rầu thương tiếc vô hạn. Quan huyện Đan Đồ lại gửi văn thư đến báo tin Dương Chí đã chết, thi hài mai táng ở vùng núi trong huyện. Lâm Xung bị trúng gió chạy chữa mãi không khỏi, phải nghỉ lại ở chùa Lục Hoà, giao cho Võ Tòng chăm sóc, nửa năm sau thì qua đời.

Lại nói Tống Giang và các tướng rời Hàng Châu lên đường về kinh. Dọc đường, một hôm Lãng tử Yến Thanh đến gặp riêng Lư Tuấn Nghĩa, nói:

- Tiểu nhân từ nhỏ theo hầu ân chủ, được nhờ ơn đức đã nhiều, một lời không nói hết. Nay việc lớn đã xong, tiểu đệ muốn được cùng ân chủ nộp trả lại quan bằng rồi tìm nơi yên tĩnh mà sống cho đến trọn đời. Chẳng hay tôn ý ân chủ thế nào?

Lư Tuấn Nghĩa đáp:

- Từ khi ở Lương Sơn Bạc về quy thuận triều đình, anh em ta xông pha trăm trận, vất vả ở chốn biên cương, anh em bị tổn thất nặng nề, mà một nhà ta với ngươi được sống sót, thật là may mắn lắm. Chính ta đang muốn áo gấm về làng để được phong thê ấm tử, sao hiền đệ lại muốn chuốc một kết quả như thế?

Yến Thanh cười đáp:

- Ân chủ sai rồi! Tiểu đệ đi chuyến này tất phải có kết quả. Chỉ lo ân chủ không được hưởng kết quả mà thôi.

Như Yến Thanh, đáng gọi là biết cơ tiến thoái mất còn vậy! Có thơ làm chứng như sau:

Lược địa công thành chí dĩ thù

Trần từ dục bạn Xích Tùng du

Thời nhân khổ bả công danh luyến

Chỉ phạ công danh bất đáo đầu

Dịch:

Lấy đất xông thành lập chiến công

Lui thân những muốn bạn Xích Tùng

Công danh khổ sở bao người tục

Chỉ sợ công danh chẳng bén cùng.

Lư Tuấn Nghĩa nói:

- Này Yến Thanh, ta không chút dị tâm với triều đình, lẽ nào triều đình lại nỡ phụ ta?

Yến Thanh đáp:

- Ân chủ há lại không biết công lao Hàn Tín to lớn nhường nào, rốt cuộc bị chém đầu ở cung Vị Ương; Bành Việt bị muối xác làm mắm; Anh Bố bỏ mạng vì tên độc đó sao? Ân chủ nên sớm liệu, chớ để tai hoạ giáng xuống không kịp hối!

Lư Tuấn Nghĩa nói:

- Ta nghe nói Hàn Tín được phong ở Tam Tề rồi tự tiện xưng vương, xui Trần Hy làm loạn; Bành Việt tự giữ đất Lương không về chầu Cao Tổ, nên nhà tan thân nát; Anh Bố nhậm chức ở Cửu Giang còn mưu toan thâu tóm non sông nhà Hán, vì thế Hán Cao Tổ mới giả vờ đi chơi đầm Vân Mộng, ngầm để Lữ hậu ở nhà giết đi. Ta tuy chưa từng được ban quan to tước lớn, nhưng cũng chưa từng phạm tội lớn như thế.

Yến Thanh đáp:

- Ân chủ không nghe lời đệ, chỉ sợ về sau hối không kịp. Tiểu đệ định đến từ biệt Tống tiên phong, nhưng huynh trưởng là người trọng nghĩa, tất sẽ không cho tiểu đệ đi. Vì vậy tiểu đệ chỉ xin ân chủ cho từ biệt.

Lư Tuấn Nghĩa nói:

- Hiền đệ sẽ về đâu?

Yến Thanh đáp:

- Cũng chỉ quanh quẩn không xa ân chủ lắm.

Lư Tuấn Nghĩa cười nói:

- Ta đành phải chìu ngươi vậy. Còn để xem hiền đệ sẽ đi đâu?

Yến Thanh cúi đầu vái tám vái, rồi ngay đêm ấy thu xếp một ít vàng bạc châu báu, khoác tay nải ra đi, không ai hay biết. Sáng hôm sau quân sĩ nhặt được tờ giấy, đem về trình với Tống giên phong. Đó là bức thư của Yến Thanh gửi cho Tống Giang. Thư viết:

« Ngu đệ Yến Thanh trăm lạy khẩn thiết kính báo dưới cờ của chủ tướng Tống tiên phong –

Từ khi tiểu đệ được thu dùng, đội ơn dầy nghĩa nặng, cũng đã từng liều chết lập công, nhưng khó báo đền muôn mặt. Nay xét mình mệnh bạc thân hèn, không kham đặng sự trọng dụng của triều đình. Tiểu đệ xin được lui về làm kẻ dân thường, an cư nơi sơn dã. Tiểu đệ vẫn muốn đến lạy chào cáo biệt chủ tướng, nhưng nghĩ rằng chủ tướng coi trọng nghĩa khí, không để cho tiểu đệ ra đi, chỉ còn cách phải lẻn đi trong đêm vắng. Nay xin để lại bốn câu làm lời từ biệt, cúi mong chủ tướng thứ tội cho:

Nhạn tự phân phi tự khả kinh

Nạp hoàn quan cáo bất cầu vinh

Thân biên tự hữu quân vương xá

Sái thoát phong trần quá thử sinh

Dịch:

Nhạn mỏi chia bay thật lạnh mình

Quan bằng xin trả chẳng cầu vinh

Bên mình đã có thư ân xá (nhắc lại việc Yến Thanh được Tống Huy Tông tự tay viết lệnh ân xá)

Thoát khỏi phong trần hết kiếp sinh.

Tống Giang xem xong thư và bốn câu thơ từ biệt của Yến Thanh, lòng buồn rầu vô hạn. Sau đó Tống Giang cho thu lại quan bằng và thẻ bài của các tướng hiệu đã chết đem về kinh nộp trả triều đình.

Đoàn quân người ngựa của Tống Giang vòng vèo tiến đến dưới thành Tô Châu. Bấy giờ Hỗn giang long Lý Tuấn vờ bị trúng gió nằm ốm liệt giường, sai thuộc hạ đến báo với Tống tiên phong. Tống Giang liền dẫn thầy thuốc đến tận nơi chạy chữa. Lý Tuấn nói:

- Xin huynh trưởng đừng lỡ thời hạn đem quân về kinh để khỏi bị triều đình quở trách. Có lẽ quân của của Trương chiêu thảo đã về kinh lâu rồi. Huynh trưởng có lòng thương Lý Tuấn tôi, xin cho bọn Đồng Uy, Đồng Mãnh ở lại giúp thuốc men chăm sóc, khi nào khỏi bệnh sẽ theo về kinh triều cận xin huynh trưởng cứ yên lòng đem quân về kinh.

Lại nói bọn Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng mãnh trở lại Du Liễu trang tìm bọn bốn anh em Phí Bảo. Theo ước hẹn từ trước, bẩy người bàn bạc,rồi góp chung tài sản, đóng một chiếc thuyền rời cảng Thái Thương, vượt biển ra sinh sống ở ngoại quốc. Về sau Lý Tuấn làm bá chủ một phương hải tần, rồi trở thành quốc vương nước Xiêm La. Bọn Đồng Uy, Phí Bảo cũng được bổ làm quan, sống cuộc đời sung sướng. Đó là chuyện về sau của bọn Lý Tuấn. Có thơ rằng:

Tri kỷ quân tử sự

Minh triết mại di luân

Trọng kết nghĩa trung nghĩa

Cánh tàn thân ngoại thân

Tám Thuỷ chu vu hệ

Du Trang liễu hựu tân

Thuỷ tri thiên hải khoát

Biệt hữu nhất gia nhân

Dịch:

Quân tử tự biết mình

Sáng suốt vượt thường tình

Giữ gìn nghĩa trọng nghĩa

Vẹn toàn mình ngoài mình

Tầm Dương thuyền chẳng buộc

Du Trang liễu vừa xanh

Ai hay trời biển rộng

Riêng có một gia đình

Lại nói Tống Giang và các tướng dẫn người ngựa về kinh, chuyện trên đường đi không có gì đáng nói. Lại đi qua Thường Châu, Nhuận Châu - những nơi các đầu lĩnh đã cầm quân đánh dẹp. Tống Giang bùi ngùi khôn xiết. Chuyến này người ngựa qua sông trở về, mười phần chỉ còn được hai, ba phần. Qua Dương Châu đến Hoài An, đường về kinh sư không còn bao xa nữa. Tống Giang truyền lệnh cho các tướng sửa soạn để vào triều cận. Ngày hai mươi tháng chín, ba quân người ngựa về đến Đông Kinh. Trương chiêu thảo dẫn quân mã ở dinh trung quân vào thành trước. Người ngựa của Tống Giang dừng lại đóng trại tại trạm Trần Kiều ở ngoài thành để chờ thánh chỉ. Có viên tiểu hiệu ở lại hầu hạ Lý Tuấn, từ Tô Châu trở về báo với Tống tiên phong, biết Lý Tuấn vì không muốn về kinh làm quan, nên thác cớ đau ốm, nay đã cùng bọn Đồng Uy, Đồng Mãnh đi xa. Tống Giang lại một lần buồn rầu nhớ tiếc. Rồi đó Tống Giang sai Bùi Tuyên kê tên các đầu lĩnh chánh phó tướng hiện có mặt ở kinh đô, tất cả còn hai mươi bảy người. Lại ghi cả họ tên những người đã chết vì việc nước vào biểu tạ ơn dâng lên triều đình. Một mặt lệnh cho các chánh phó tướng sửa soạn khăn áo đợi lệnh vào chầu thiên tử. Ba ngày sau, Huy Tông hoàng đế ngự triều, các cận thần tâu xin cho bọn Tống Giang vào triều kiến.

Ngày hôm ấy, vừng đông vừa rạng, Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa và các đầu lĩnh, tất cả hai mươi bảy chánh phó tướng tiếp được thánh chỉ liền lên ngựa vào thành. Dân chúng Đông kinh đổ ra đường đứng xem, ai cũng biết đó là lần thứ ba anh em Tống Giang vào triều kiến. Nghĩ lại lần đầu tiên khi mới nhận chiêu an, anh em Tống Giang được ban áo gấm màu hồng, màu lục, đeo thẻ vàng, thẻ bạc vào thành triều kiến. Khi đánh lui quân Liêu trở về kinh, thiên tử cho phép mặc nhung y, khoác giáp trụ vào chầu. Lần này dẹp yên Phương Lạp trở về kinh sư, lệnh riêng của thiên tử chỉ cho phép Tống Giang và các đầu lĩnh mặc áo dài khăn chít vào triều cận. Dân chúng Đông Kinh thấy anh em Tống Giang chỉ còn bấy nhiêu người trở về, ai cũng mũi lòng thương xót. Đến dưới cửa Chính Dương, anh em Tống Giang đều xuống ngựa đi bộ vào Hoàng thành. Quan thị ngự sử dẫn các tướng đến trước bệ ngọc ở Đan Trì. Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa đứng trước hàng, bước lên quỳ lạy tám lạy, lùi xuống lại quỳ lạy tám lạy, rồi bước đến khoảng giữa lạy tám lạy nữa, tất cả là hai mươi tư lạy, - bụi bốc mờ sân, tiếng hô dậy đất. Nghi lễ bái yết đã xong, thấy anh em Tống Giang nay chỉ còn lại bấy nhiêu người, Huy Tống hoàng đế động lòng thương xót. Thiên tử truyền cho các tướng được lên trên điện, Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa dẫn các đầu lĩnh bước lên thềm vàng, quỳ dưới bức rèm đỏ. Thiên tử cho anh em Tống Giang đứng dậy, các quan hầu cận cũng vừa cuốn bức rèm châu. Thiên tử nói:

- Trẫm biết các khanh đi dẹp ở Giang Nam, chịu nhiều vất vả, anh em các khanh tổn thất sinh mạng đến quá nửa, trẫm rất đau lòng thương xót!

Tống Giang nước mắt ràn rụa, sụp lạy hai lạy, tâu:

- Bọn thần tài hèn sức mọn, dẫu gan óc bết đất nơi chiến địa cũng chưa đủ báo đền ơn lớn của triều đình. Nghĩ ngày trước khi mới tụ nghĩa, anh em Tống Giang thần, tất cả một trăm linh tám người, cùng lên núi Ngũ Đài thề nguyện sống chết có nhau. Ngờ đâu ngày nay mười phần đã mất đến bảy tám! Bọn thần có tờ khai ghi rõ số người, nhưng chưa dám tự tiện dâng lên. Cúi trông bệ hạ xét tỏ.

Hoàng đế nói:

- Các tướng bộ hạ của khanh chết vì vương sự, trẫm sẽ truyền cho xây đắp phần mộ để công lao không mai một.

Tống Giang hai lạy bước lên dâng tờ biểu. Biểu văn viết:

« Thần là Tống Giang được ban chức Bình Nam đô tổng quản, chánh tiên phong sứ, kính cẩn dâng biểu:

Cúi nghĩ bọn Tống Giang thần là kẻ ngu vụng kém tài, làm chức lại nhỏ ở nơi quê mùa cô quạnh, ngày trước trót phạm tội lớn vô bờ, may được đội nhờ ơn lớn. Trời cao đất dầy, khôn báo đáp, thân nát xương tan khó báo đền. Họp sức tay chân rời bến nước, dẹp gian tà; chung lòng huynh đệ lên Ngũ Đài thề nguyện ước. Lòng trung đại nghĩa, giữ nước yên dân. Thành U Châu hỗn chiến diệt quân Liêu, động Thanh Khê trổ tài bắt Phương Lạp. Công mọn gọi chút dâng lên, nào ngờ tướng tài rơi rụng. Thần, Tống Giang đêm ngày khắc khoải, sớm tối âu sầu. Cúi trông thánh ý rủ lòng soi xét, khiến kẻ chết được nhuần ơn trạch, mà người sống cũng dự phúc ấm dài lâu. Thần, Tống Giang xin được trở về vườn ruộng vui cảnh nông phu, ấy thực bệ hạ ban lòng nhân dưỡng dục. Bọn Tống Giang vô vàn sợ hãi, kính cẩn ghi số người còn sống và số người đã chết dâng kèm theo kiểu này.

Các viên chánh phó tướng đã chết khi đi đánh trận: 59 người.

Chánh tướng 14 người, đó là:

Tần Minh, Từ Ninh, Đổng Bình, Trương Thanh, Lưu Đường, Sử Tiến, Sách Siêu, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Lôi Hoành, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo.

Phó tướng 45 người, đó là:

Tống Vạn, Tiêu Đĩnh, Đào Tông Vượng, Hàn Thao, Bành Kỷ, Trịnh Thiên Thọ, Tào Chính, Vương Định Lục, Tuyên Tần, Khổng Lượng, Thi Ân, Hách Tư Văn, Đặng Phi, Chu Thông, Cung Vượng, Bao Húc, Đoàn Cảnh Trụ, Hầu Kiện, Mạnh Khang, Vương Anh, Hồ Tam Nương, Hạng Sung, Lý Cổn, Yến Thuận, Mã Lân, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc, Lã Phương, Quách Thịnh, Âu Bằng, Trần Đạt, Dương Xuân, Úc Bảo Tứ, Lý Trung, Tiết Vĩnh, Lý Văn, Thạch Dũng, Đỗ Thiên, Đinh Đắc Tôn, Trâu Uyên, Lý Lập, Thang Long, Sái Phúc, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương.

Các chánh phó tướng ốm chết dọc đường, 10 người.

Chánh tướng, 5 người:

Lâm Xung, Dương Chí, Trương Hoành, Mục Hoằng, Dương Hùng.

Phó tướng, 5 người:

Khổng Minh, Chu Quý, Chu Phú, Thời Thiên, Bạch Thắng.

Quy tịch tại chùa Lục Hoà ở Hàng Châu: 1 người.

Chánh tướng: Lỗ Trí Thâm.

Bị gãy tay không muốn ra làm quan ở lại tu hành tại chùa Lục Hoà: 1 người

Chánh tướng: Võ Tòng

Trước ở kinh, sau xin về tu hành ở Kế Châu: 1 người

Chánh tướng: Công Tôn Thắng.

Các chánh phó tướng không muốn ra làm quan đã bỏ đi trên đường về kinh, 4 người:

Chánh tướng, 2 người:

Yến Thanh, Lý Tuấn.

Phó tướng, 2 người:

Đồng Uy, Đồng Mãnh.

Các phó tướng đã ở kinh từ lần trước và các viên thầy thuốc được lệnh gọi về kinh, 5 người:

An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan, Kim Đại Kiên, Tiêu Nhượng, Nhạc Hoà.

Các chánh phó tướng hiện ở kinh đô chờ vào triều cận, 27 người.

Chánh tướng, 12 người:

Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng, Quan Thắng, Hồ Diên Chước, Hoa Vinh, Sài Tiến, Lý Ứng, Chu Đồng, Đái Tôn, Lý Quỳ, Nguyễn Tiểu Thất.

Phó tướng, 15 người:

Chu Vũ, Hoàng Tính, Tôn Lập, Phàn Thuỵ, Lăng Chấn, Bùi Tuyên, Tưởng Kinh, Đỗ Hưng, Tống Thanh, Trâu Nhuận, Sài Khánh, Dương Lâm, Dương Xuân, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu.

Niên hiệu Tuyên Hoà, thứ năm (1113), tháng 9 ngày…

Tiên phong sứ

Thần: Tống Giang

Phó tiên phong

Thần: Lư Tuấn Nghĩa

Kính cẩn dâng biểu. »

Hoàng đế xem xong biểu than tiếc hồi lâu rồi nói:

- Bọn các khanh một trăm linh tám người, ứng với các ngôi sao trên trời, nay chỉ còn hai mươi bảy người trở về, lại hai người bỏ đi không muốn làm quan, thật đúng là mười phần mất tám!

Sau đó thiên tử truyền thảo sắc chỉ ban tước cho các viên chánh phó tướng đã chết vì vương sự. Chánh tướng được bạn tước Trung vũ lang, phó tướng được ban tước Nghĩa tiết lang. Nếu bọn họ có con cháu thì cho phép được về kinh thừa hưởng tập ấm. Nếu không có con cháu thì cho lập miếu thờ cúng. Riêng Trương Thuận hiển linh có công, sắc phong là Kim Hoa tướng quân. Nhà sư Lỗ Trí Thâm có công bắt sống đầu sỏ giặc, viên tịch ở chùa Lục Hoà, gia tặng tước Nghĩa liệt chiếu ký thiền sư. Võ Tòng có công đánh giặc, vì bị thương tật, ở lại tu hành tại chùa Lục Hoà, gia phong Thanh Trung tổ sư, ban cho mười vạn quan tiền để sinh sống trọn đời. Hai nữ tướng tử trận: Hồ Tam Nương tặng thêm tước Hoa Dương quận phu nhân, Tôn Nhị Nương gia tước Tĩnh Đức quận quân. Các tướng về triều cận, trừ chức tiên phong có tước phong riêng, còn lại mười viên chánh tướng đều được trao chức Vũ tiết tướng quân, bổ nhậm làm thống chế ở các châu. Phó tướng mười lăm người được trao chức Vũ dịch lang, được bổ nhậm làm đô thống lĩnh, chịu quyền điều hành của các bộ chủ quản quân dân và các sảnh viện. Nữ tướng Cố Đại Tẩu được trao chức Đông Nguyên huyện quân.

Tiên phong sứ Tống Giang được thăng hàm Vũ đức đại phu, bổ chức An phủ sứ kiêm binh mã đô tổng quản Sở Châu.

Phó tiên phong Lư Tuấn Nghĩa được thăng hàm Vũ công đại phu, bổ chức An phủ sứ kiêm bình mã phó tổng quản Lư Châu.

Quân sư Ngô Dụng được trao chức Thừa tuyên sứ quận Vũ Thắng.

Quan Thắng được trao chức Chánh binh mã tổng quân phủ Đại Danh.

Hồ Diên Chước được trao chức binh mã chỉ huy sứ Ngự doanh.

Hoa Vinh được trao chức Đô thống chế phủ Thương Châu quận Hoành Hải.

Lý Ứng được trao chức Đô thống chế quận Huy Châu phủ Trung Sơn.

Chu Đồng được trao chức Đô thống chế phủ Bảo Định.

Đái Tôn được trao chức Đô thống chế phủ Duyên Châu.

Lý Quỳ được trao chức Đô thống chế quận Trấn Giang phủ Nhuận Châu.

Nguyễn Tiểu Thất được trao chức Đô thống chế quận Cái Thiên.

Các chánh phó tướng vâng sắc mệnh hoàng đế phong quan trao chức, làm lễ tạ ơn chờ mệnh lệnh, được ban thưởng; phó tướng mười lăm người, mỗi người ba trăm lạng vàng bạc, lụa màu năm tấm; chánh tướng mười người, mỗi người năm trăm lạng vàng bạc, lụa màu tám tấm. Tiên phong sứ Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa mỗi người đều được ban một nghìn lạng vàng bạc, gấm vóc mười tấm, áo gấm hoa một chiếc, ngựa tốt một con.

Bọn Tống Giang làm lễ tạ ơn xong, lại tâu lên thiên tử về việc thần Ô Long đại vương ở Mục Châu hai lần hiển linh giữ nước yên dân, giúp tướng sĩ giành toàn thắng. Thiên tử chuẩn tâu, gia phong là Trung tinh linh đức phổ hựu phu huệ Long Vương. Thiên tử đích thân phê đổi tên Mục Châu là Nghiêm Châu. Hấp Châu đổi là Huy Châu, vì đó là những nơi Phương Lạp làm phản cho nên chọn chữ trái nghĩa để đặt tên mới. Huyện Thanh Khê đổi là huyện Thuần An, xứ Tạc Tỉnh ở động Bang Nguyên đổi là Sơn Đảo. Thiên tử ban sắc chỉ truyền cho quan bản châu xuất tiền kho xây miếu Ô Long đại vương, tự tay ban chữ để biển hiện, đến nay di tích ấy vẫn còn. Vùng Giang Nam bị quân Phương Lạp tàn phá, dân chúng bị thiệt hại nhiều, cho miễn sai dịch ba năm.

Ngày hôm ấy anh em Tống Giang làm lễ tạ ơn xong, thiên tử truyền mở tiệc lớn chúc cuộc thái bình, mừng các bề tôi có công. Các quan văn võ tại triều đều đến dự yến đông đủ. Yến tiệc chúc mừng đã xong, các tướng lại tạ ơn lần nữa. Tống Giang tâu:

- Anh em chúng thần từ khi ở Lương Sơn Bạc nhận chiếu chiêu an trở về, đến nay quân sĩ thiệt mạng quá nửa. Nhiều người sống sót, hiện còn trong quân ngũ có nguyện vọng muốn trở về quê nhà, cúi xin bệ hạ rộng lòng thương xót.

Thiên tử chuẩn tâu, xuống sắc truyền rằng: « Các quân sĩ đi đánh về ai tự nguyện ở lại trong quân thì ban cho một trăm quan tiền, mười tấm lụa, giao về hai doanh Long Mãnh và Hổ Uy thu nhận luyện tập, hàng tháng được hưởng lương bổng, ai không muốn ở lại trong quân thì cấp hai trăm quan tiền và mười tấm lụa, cho phép về làng làm dân, chịu sai dịch ».

Tống Giang lại tâu rằng:

- Thần vốn sinh trưởng ở huyện Vận Thành, từ ngày mắc tội đến nay không dám về thăm. Nay cúi xin thánh thượng rộng ơn, cho ngày nghỉ để về làng bái yết từ đường, quét dọn phần mộ, thăm hỏi tộc thuộc thân thích, sau đó sẽ đi nhận chức tại Sở Châu. Thần chưa dám tự tiện, cúi chờ xin thánh chỉ.

Thiên tử vui vẻ chuẩn tâu, ban cho Tống Giang mười vạn quan tiền để về thăm quê quán. Tống Giang tạ ơn thiên tử rồi cáo từ lui về.

Ngày hôm sau, trung thư sảnh lại mở tiệc thái bình khoản đãi các tướng. Hôm sau nữa khu mật viện tiếp tục mở tiệc chúc mừng. Trương chiêu thảo, Lưu đô đốc, Đồng khu mật, hai tham mưu họ Tùng, họ Cảnh, hai đại tướng họ Vương, họ Triều đã được triều đình thăng chức gia tước, không nói đến ở đây nữa. Thái Ất viện làm tờ tấu xin thiên tử cho đem Phương Lạp ra giữa chợ Đông Kinh xử lăng trì (cực hình chặt chân tay, cắt thịt tội nhân cho đến chết), bêu thây ba ngày cho dân chúng biết. Có thơ làm chứng.

Tống Giang trọng thưởng thăng quan nhật

Phương Lạp đương hình thụ quả thì

Thiện ác đáo đầu chung hữu báo

Chỉ tranh lại tảo dữ lại trì.

Dịch:

Tống Giang trọng thưởng thăng quan chức

Phương Lạp lăng trì chịu cực hình

Thiện ác cuối cùng đều quả báo

Khác nhau chỉ ở chậm hay nhanh.

Lại nói Tống Giang tâu xin thánh chỉ cho phép về thăm quê nhà, còn tướng sĩ dưới quyền ai tự nguyện ở lại trong quân thì ghi tên rồi đưa đến hai doanh Long Mãnh và Hổ Uy để tập luyện, cấp cho quân mã để đóng giữ; ai muốn làm dân thì cho tiền bạc để về quê làm dân, chịu sai dịch. Các viên phó tướng ai nấy đều nhận phẩm ban thưởng, lĩnh quan bằng để đi nhậm chức cai quản quân dân, giữ gìn cương giới.

Tống Giang cắt đặt mọi việc đã xong bèn từ biệt mọi người, rồi cùng em là Tống Thanh đem theo hai trăm quân hầu, gồng gánh báu vật, đồ thưởng, hành lý áo quân rời Đông Kinh cắt đường đi về phía Sơn Đông. Hai anh em Tống Giang, Tống Thanh ngồi trên ngựa rời kinh đô, vẻ vang áo gấm về làng, chuyện trên đường đi không có gì đáng nói.

Về đến Tống Gia thôn ở huyện Vận Thành tỉnh Sơn Đông, người giả cả thân thích trong làng đều ra đón tiếp. Tống Giang về đến trang trại, không ngờ Tống thái công đã mất, linh cữu hiện quàn chưa táng. Tống Giang, Tống Thanh gào khóc thảm thương, buồn rầu khôn xiết. Người nhà và các trang khách đều đến lạy chào anh em chủ nhân. Gia tư điền sản trong trang viện Tống thái công đều đã cho kẻ biên, sắp xếp mọi thứ như cũ. Tống Giang dựng đàn chay mời tăng nhân, đạo sĩ đến làm lễ cầu siêu, bố thí công đức cầu xin xá tội cho vong linh cha mẹ và những người thân đã khuất. Các quan viên chức sắc châu huyện đến viếng thăm không ngớt. Tống Giang chọn ngày lành giờ tốt làm lễ rước linh cữu Tống thái công lên an táng trên khu đồi cao. Ngày hôm ấy quan viên phụ lão thân bằng cố hữu trong bản châu đến đưa tang, công việc xong xuôi, tưởng chuyện không có gì đáng nói.

Nhớ đến nguyện vọng của Huyền Nữ chưa được báo đáp, Tống Giang bèn xuất trăm vạn quan tiền thuê thợ xây miếu Cửu Thiên Huyền Nữ. Hai bên hành lang cửa miếu có tượng Huyền Nữ và các bức tranh màu, mọi việc đều đã xong xuôi chu đáo. Thấm thoát ngày tháng ở thăm quê đã hết. Tống Giang sợ thiên tử quở trách, bèn chọn ngày lằm lễ bỏ áo tang, lại mở đạo tràng cúng lễ suốt mấy ngày. Sau cùng Tống Giang mở tiệc lớn mời các bậc phụ lão tông trưởng trong làng đến thiết đãi, từ tạ để về kinh. Ngày hôm sau bà con thân thích bày tiệc, tiễn đưa Tống Giang lên đường, việc không có gì đáng nói. Tống Giang cắt một phần đất đai của trang viện giao cho Tống Thanh, tuy có nhận quan tước, nhưng chỉ ở quê nhà làm nghề nông - để làm đất hương hoả thờ phụng tổ tiên, tiền bạc vải lụa còn lại đều chia phát hết cho dân làng.

Tống Giang ở quê mấy tháng, rồi từ biệt bà con dân làng để về kinh gặp lại các anh em đầu lĩnh. Bấy giờ có người đã đem vợ con gia quyến về kinh, cũng có người đã lên đường đi nhậm chức. Những anh em tử trận, vợ con đã được triều đình ban cấp vàng lụa và cho về quê cũ để sinh sống. Sau khi trở lại kinh đô, Tống Giang lo liệu cho họ lên đường trở về. Mọi việc thu xếp xong xuôi, Tống Giang vào triều chờ lệnh, đến từ biệt các quan ở sảnh viện, rồi thu xếp hành trang lên đường đi nhậm chức. Đúng lúc đó Thần hành thái bảo Đái Tôn đến thăm Tống Giang. Hai người cùng nhau trò chuyện, chỉ biết rằng Tống Công Minh:

Sống là anh hùng huyện Vận Thành

Chết làm thần thiêng đầm Răm Đỏ

Đúng là:

Ào ào gió buốt qua miếu vũ

Đường đường di tượng ngút hương bay

Chưa biết Đái Tôn nói với Tống Giang chuyện gì, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 120 - Tống Công Minh Hồn Tụ Đầm Lục Nhi

Đang nói chuyện Tống Giang hiển đạt về thăm quê rồi trở lại Đông Kinh gặp lại các anh em đầu lĩnh, đốc thúc mọi người sửa soạn hành trang lên đường đi nhậm chức.

Thần hành thái bảo Đái Tôn đến thăm Tống Giang, hai người ngồi bàn chuyện phiếm một lúc, Đái Tôn đứng dậy nói:

- Tiểu đệ đội ơn thiên tử được bổ đi giữ chức Đô thống chế huyện Duyên Châu, nay muốn đem tấm bằng quan trả lại, trở về miếu Ngũ Nhạc ở châu Thái An chăm lo việc đèn hương thờ cúng, mong được thảnh thơi, sống đến hết đời. Được như thế thật là may mắn lắm.
Tống Giang nói:

- Sao hiền đệ lại nẩy ra ý nghĩ ấy?

Đái Tôn đáp:

- Đệ chiêm bao thấy Thôi phủ quân cho lính đến gọi, nên mới phát nguyện dốc lòng làm việc thiện.

Tống Giang nói:

- Hiền đệ đang lúc sống đây đã có tiếng là Thần hành thái bảo, ngày sau ắt sẽ làm vị thần thiêng được thờ trong Nhạc miếu.

Sau buổi từ biệt hôm ấy, Đái Tôn trả lại quan bằng, trở về châu Thái An làm thủ từ, ở luôn trong Nhạc miếu, ngày đêm chăm chỉ việc đèn hương thờ phụng Ngọc hoàng thượng đế, tấm lòng thành kính thảnh thơi. Mấy tháng sau, một hôm đang lúc vui vẻ, không ốm đau bệnh tật, Đái Tôn mời đạo hữu đến vĩnh biệt, rồi cười vang mà mất. Sau đó Đái Tôn thường hiển linh ở Nhạc miếu. Người trong châu đến làm lễ tế rồi đắp tượng đặt thờ trong miếu. Khung sườn của pho tượng ấy chính là di thể của Đái Tôn.

Nguyễn Tiểu Thất sau khi nhậm chức quan bằng của triều đình đã đến chào từ biệt Tống Giang rồi lên đường đi nhậm chức Đô thống chế ở quận Cái Thiên. Hai tên đại tướng Vương Lẫm, Triệu Đàm chưa quên mối thù dạo trước bị Tiểu Thất mắng cho bẽ mặt ở động Bang Nguyên, trước mặt khu mật Đồng Qúan bọn chúng nhiều lần bới tội, nói Tiểu Thất dám tự tiện mặc hoàng bào, đeo đai ngọc của Phương Lạp, tuy chỉ là chuyện đùa giỡn nhất thời, nhưng cũng chứng tỏ vẫn ôm ấp ỹ nghĩ bất lương. Nay được bổ đến trấn thủ ở quận Cái Thiên là miền hẻo lánh mọi rợ, thì trước sau gì cũng làm phản. Đồng Quán trình với Sái Kinh để tâu lên thiên tử. Vì thế chỉ mấy tháng sau có lệnh của triều đình đưa xuống truy đoạt quan bằng của Nguyễn Tiểu Thất, bắt trở về làm thứ dân. Tiểu Thất lấy làm mừng, đưa mẹ già trở về thôn Thạch Kê ở Lương Sơn Bạc, lại làm nghề đánh cá để sinh sống, phụng dưỡng mẹ già, rồi qua đời, hưởng thọ sáu mươi tuổi.

Lại nói Tiểu toàn phong Sài Tiến trở lại kinh đô, thấy Đái Tôn trả lại quan bằng tìm nơi nhàn lánh, lại nghe nói Nguyễn Tiểu Thất chỉ vì chuyện lúc trước dám đội mũ triều thiên, mặc áo rồng, đeo đai ngọc của Phương Lạp nên bị triều đình truy đoạt quan tước, đuổi về làm thứ dân. Sài Tiến thầm nghĩ: “Ta cũng đã từng sắm vai phò mã của Phương Lạp, sau này bọn gian thần biết chuyện đặt điều tâu thiên tử thì ta cũng sẽ mắc tội, bị truy đoạt quan bằng, há chẳng là nhục nhã ư? Chi bằng phải liệu trước để khỏi mang nhục vào thân”. Nghĩ vậy, Sài Tiến bèn thác cớ bị chứng phong thấp, thường bất ngờ phát cơn đau, khó đảm đương công việc, xin được nộp lại quan bằng, trở về làm nghề nông. Sau đó Sài Tiến từ biệt liêu hữu, trở về an nhàn làm kẻ dân thường ở quận Hoành Hải, phủ Thương Châu, rồi bỗng một hôm không bệnh mà mất.

Lý Ứng được bổ chức Đô thống chế ở phủ Trung Sơn đến nhậm chức được nửa năm thì nghe tin Sài Tiến cáo quan về nhà. Lý Ứng nghĩ mình cũng chung một tâm sự, bèn noi theo Sài Tiến dâng sớ lên Trung Thư Sảnh thác cớ mắc bệnh phong thấp không đủ sức làm quan, xin nộp trả quan bằng trở về ở thôn Độc Long Cương. Về sau Lý Ứng cùng với Đỗ Hưng làm ăn trở nên giàu có, cả hai đều được sống lâu.

Quan Thắng giữ chức Tổng quản binh mã ở phủ Đại Danh thành Bắc Kinh, rất được lòng quân sĩ, ai nấy đều lấy làm khâm phục. Một hôm Quan Thắng đi thao luyện quân mã trở về, nhân lúc say rượu, sẩy chân ngã ngựa, lâm bệnh rồi mất.

Hồ Diên Chước giữ chức Chỉ huy sứ ở ngự doanh, hàng ngày thao luyện võ bị, hộ giá hầu vua, sau thống lĩnh đại quân đi đánh quân Kim, đuổi đánh thái tử thứ tư con vua Ngột Truật đến tận Hoài Tây thì tử trận. Chỉ có Chu Đồng giữ chức Quản quân ở phủ Bảo Định lập được chiến công, sau theo Lưu Quang Thế cả phá quân Kim, được thăng chức Tiết độ sứ ở quận Thái Bình.

Hoa Vinh đem vợ con và em gái đến nhiệm sở ở phủ Ứng Thiên. Ngô Dụng từ trước vẫn sống độc thân, chỉ đưa theo một đứa tiểu đồng đến nhậm chức ở quận Vũ Thắng. Lý Quỳ cũng chỉ một mình đưa theo hai người hầu đi nhậm chức ở Nhuận Châu. Tại sao chỉ nói ba người kia đến nhiệm sở, còn số phận kết thúc ra sao thì không nói đến? Đó là vì bẩy viên chánh tướng nói ở đoạn trênvề sau không gặp lại nữa, nên phải kể luôn chung cục của từng người. Còn năm chánh tướng Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Hoa Vinh, Ngô Dụng, Lý Quỳ thì về sau còn gặp lại. Cuộc đời kết thúc ra sao, xem tiếp đoạn sau sẽ rõ.

Nói tiếp chuyện Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa ở lại kinh đô phân phát đồ thưởng của triều đình cho anh em các tướng, đốc thúc mọi người đi nhậm chức. Còn những người đã chết vì vương sự thì gia quyến theo số người nhiều ít được cấp vàng bạc vải lụa, đưa về quê nhà, cho tuỳ ý làm ăn sinh sống.

Mười lăm phó tướng còn sống trở về kinh đô, không kể Tống Thanh là em ruột Tống Giang đã về quê làm ruộng. Đỗ Hưng cùng về quê với Lý Ứng, còn nữa thì Hoàng Tín lại trở về nhậm chức ở Thanh Châu, Tôn Lập cùng với vợ chồng em là Tôn Tân, Cố Đại Tẩu đưa gia đình về phủ Đăng Châu giữ chức việc cũ. Trần Nhuận không muốn làm quan, xin trở về núi Đăng Vân làm ăn sinh sống. Sái Khánh theo Quan Thắng về Bắc Kinh làm dân thường. Bùi Tuyên và Dương Lâm, sau khi bàn bạc với nhau, cả hai đều xin trở về vùng suối An Mã giữ chức quan nhỏ. Tưởng Kính nhớ quê, xin được trở về Đàm Châu làm dân thường. Chu Vũ đến truyền thụ đạo pháp cho Phàn Thuỵ, rồi cả hai người làm đạo sĩ đi vân du giang hồ, theo Công Tôn Thắng xuất gia tu hành đến trọn đời. Mục Xuân trở về làm lương dân ở quê nhà, tại trấn Yết Dương. Pháo thủ Lăng Chấn có biệt tài, được bổ chức ở Hoả dược cục thuộc Ngự Doanh. Năm phó tướng trước đã được giữ lại làm việc ở kinh sư thì: An Đạo Toàn được bổ chức Kim tử y quan ở Thái y viện, Hoàng Phủ Đoan làm đại sứ ở Ngự mã giám như cũ, Kim Đại Kiên vẫn làm chức việc cũ ở Ngự bảo giám thuộc Nội phủ, Tiêu Nhượng được bổ chức Môn quan tiên sinh ở phủ Sái thái sư, Nhạc Hoà trông coi việc ca nhạc ở phủ phò mã Vương đô uý, trọn đời thanh nhàn, chuyện không có gì phải nói l

Lại nói Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa sau khi chia tay mỗi người một ngả đi nhậm chức. Lư Tuấn Nghĩa gia quyến cũng chẳng còn ai, chỉ đem theo mấy tên quân tuỳ tòng lên đường đi Lư Châu. Tống Giang vào tạ ơn từ biệt triều đình, chào các quan ở sảnh viện, đem theo gia nhân đầy tớ mấy người đi nhậm chức ở Sở Châu. Từ đó hai người xa nhau, ai theo việc nấy, cũng không nói tới nữa.

Lại nói triều nhà Tống, nguyên từ khi vua Thái Tông nối ngôi vua Thái Tổ đã bị lời nguyền độc, khiến cho triều đình rối bét, gian nịnh hoành hành. Đến nay thiên tử Tống Huy Tông là bậc chí thánh chí minh, không ngờ cũng bị kẻ sàm nịnh chuyên quyền, bọn gian thần hoành hành, bực hại bậc trung thần lương tướng, thật đáng đau lòng. Chỉ vì bốn tên tặc thần Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu, Dương Tiễn phá nước hại dân mà thiên hạ đại loạn. Bấy giờ thái uý Cao Cầu, Dương Tiễn ở phủ Điện suý thấy thiên tử ban thưởng trọng hậu cho anh em Tống Giang thì tỏ ý không bằng lòng. Chúng gặp nhau bàn cách đối phó.

Cao Cầu nói:

- Bọn Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa là kẻ thù của ta, thế mà nay ta lại phải coi chúng như bậc công thần được triều đình phong quan ban tước cho cai quản quân dân. Các quan sảnh viện bọn ta sao khỏi bị người ta chê cười? Người xưa có câu: “Giận nhỏ không quân tử, không độc chẳng trượng phu!”.

Dương Tiễn nói:

- Hạ quan có một kế, trước hết đối phó với Lư Tuấn Nghĩa để chặt đứt một cánh tay của Tống Giang. Hắn ta là một kẻ anh hùng, nếu định hại hắn trước mà để cho hắn biết thì hỏng việc, gây ra nhiều chuyện bất lợi.

Cao Cầu nói:

- Xin túc hạ cứ cho nghe diệu kế.

Dương Tiễn nói:

- Tìm lấy vài tên quân ở Lư Châu, bảo bọn chúng đến sảnh viện tố cáo an phủ Lư Tuấn Nghĩa chiêu binh mãi mã, ngầm chứa lương thảo, có ý muốn làm phản. Sau đó đưa bọn chúng đến trình ở phủ thaí sư, nhưng không cho thái sư biết sự thật. Chờ thái sư tâu lên thiên tử xin thánh chỉ định đoạt, lúc đó sẽ sai người dụ hắn về kinh, rồi nhân khi thiên tử ban yến, ta sẽ ngầm trộn thuỷ ngân vào thức ăn khiến hắn phải truỵ thận, không làm được việc gì nữa. Thế là yên chuyện. Sau đó sai sứ giả đem ngự tửu đến ban cho Tống Giang, trong rượu bỏ thuốc độc chậm, chỉ trong vòng nửa tháng thì vô phương cứu chữa.

Cao Cầu nói:

- Thật là đại diệu kế?

Có thơ rằng:

Tự cổ quyền gian hại thiện lương

Bất dung trung nghĩa lập gia bang

Hoàng thiên nhược khẳng minh chiêu báo

Nam tác bài ưu, nữ tác xương.

Dịch:

Giận lũ quyền gian đạo phá đạo thường

Bịt đường rấp lối hại trung lương

Trời xanh ví biết treo gương xấu

Con đĩ, thằng hề dám nhiễu nhương.

Hai tên tặc thần ấy bàn xong mưu kế liền sai kẻ tâm phúc đi tìm hai người dân quê ở Lư Châu cho ăn mặc giả làm quân sĩ, rồi viết hộ đơn, bảo bọn chúng đưa đến khu mật viện tố cáo Lư Tuấn Nghĩa hiện đang chiêu binh mãi mã, chứa lương thảo ở Lư Châu có ý muốn làm phản, lại nói Lư Tuấn Nghĩa đã sai người sang Sở Châu liên kết với an phủ sứ Tống Giang để cùng nhau dấy loạn. Quan khu mật viện Đồng Quán vốn cũng thâm thù với Tống Giang nên khi hai tên tố cáo đem đơn đến thì Đồng Qúan nhận đơn rồi trình ngay sang phủ thái sư. Sái Kinh nhận đơn rồi trình ngay sang phủ bàn định. Cao Cầu, Dương Tiễn tất nhiên cũng ở trong số đó. Thế là bốn tên gian thần cùng nhau bàn định mưu kế, rồi dẫn cả hai tên tố cáo vào nội phủ tâu lên thiên tử.

Huy Tông hoàng đế nói:

- Trẫm nghĩ bọn Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa trong tay có hơn mười vạn quân đi dẹp giặc bốn phương mà không sinh lòng phản trắc, nay đã bỏ tà theo chính, lẽ nào còn tính chuyện làm phản? Trẫm cũng chưa từng đối xử bội bạc với bọn họ, sao có chuyện họ dám phản lại triều đình? Bên trong hẳn có điều gì gian trá, chưa xét rõ thực hư, chưa thể tin ngay được.

Lúc ấy Cao Cầu, Dương Tiễn đứng bên cạnh tâu rằng:

- Đạo lý như bệ hạ phán dạy là chí phải, nhưng lòng người khó lường. Bọn thần nghĩ Lư Tuấn Nghĩa hẳn là chê quan thấp chức nhỏ cho nên lại sinh lòng phản trắc, không may bị phát giác.

Huy Tông hoàng đế nói:

- Cứ gọi kẻ tố cáo vào đây để trẫm đích thân thẩm vấn.

Sái Kinh, Đồng Quán lại tâu rằng:

- Lư Tuấn Nghĩa là con thú dữ, vẫn chưa đổi lòng. Nếu làm kinh động lọt chuyện ra ngoài thì rất bất lợi, sau khó lòng truy bắt. Chỉ có cách lừa hắn về kinh, bệ hạ sẽ lựa lời phủ dụ, ban yến và ngự tửu cho hắn để dò xét thực hư động tĩnh ra sao. Nếu quả không có chuyện gì thì không cần phải xét hỏi, mà cũng tỏ ra bệ hạ không phụ kẻ công thần.

Thiên tử chuẩn tâu, liền truyền chỉ sai sứ giả đến Lư Châu triệu Lư Tuấn Nghĩa về triều để sai phái công việc.

Sứ giả vâng lệnh đến Lư Châu, các quan văn võ lớn nhỏ ra ngoài thành nghênh đón, mời sứ giả vào phủ đường tuyên đọc chiếu thư.

Lư Tuấn Nghĩa nghe truyền thánh chỉ, vội thu xếp công việc rồi theo sứ giả rời Lư Châu về kinh. Chuyện trên đường đi không cần nói đến. Chẳng bao lâu Lư Tuấn Nghĩa về đến Đông Kinh, vào nghỉ ở ty Hoàng Thành.

Ngày hôm sau, từ sáng sớm, Lư Tuấn Nghĩa đã đến ngoài cửa Đông Hoa chờ buổi chầu sáng. Bấy giờ thái sư Sái Kinh, khu mật viện Đồng Quán, hai thái uý Cao Cầu, Dương Tiễn cùng đến dẫn Lư Tuấn Nghĩa vào điện phụ triều kiến thiên tử. Lư Tuấn Nghĩa lạy chào xong, thiên tử nói:

- Qủa nhân có việc muốn gặp khanh.

Lại hỏi:

- Đất Lư Châu của khanh có được yên ổn không?

Lư Tuấn Nghĩa lạy hai lạy tâu rằng:

- Nhờ phúc lớn như trời biển của thánh thượng, quân dân bản châu đều được yên ổn thái bình.

Thiên tử lại hỏi tiếp, toàn những chuyện không đâu, kéo dài đến tận trưa. Quan nhà bếp bước vào tâu:

- Ngự thiên đã dọn xong, xin bệ hạ cho thánh chỉ.

Lúc ấy Cao Cầu, Dương Tiễn đã ngầm bỏ thuỷ ngân vào thức ăn, sai bưng bầy trên ngự án. Thiên tử cho phép Lư Tuấn Nghĩa dùng cơm ngự. Lư Tuấn Nghĩa vái tạ rồi kính cẩn ngồi ăn.

Thiên tử ôn tồn phủ dụ:

- Khanh đi trấn nhậm Lư Châu, cốt nhất phải tận tâm, dưỡng yên quân sĩ, chớ sinh ý nghĩ rông càn.

Lư Tuấn Nghĩa rập đầu lạy tạ, rồi ra khỏi triều trở về Lư Châu, tuyệt nhiên không biết mình đã bị bốn tên gian thần bầy cách hãm hại. Cao Cầu, Dương Tiễn hể hả bảo nhau:

- Từ nay thế là yên chuyện.

Lại nói Lư Tuấn Nghĩa đêm ấy trên đường trở về Lư Châu, cảm thấy đau thắt ngang bụng, cử động khó khăn, nên không đi ngựa được, đành xuống thuyền đi đường sông. Đến sông Hoài ở đất Tứ Châu, âu cũng là lúc số trời sắp hết, tự nhiên sẩy chuyện chẳng lành: Đêm ấy sau lúc uống rượu, Lư Tuấn Nghĩa muốn đứng đầu mũi thuyền tiêu khiển, không ngờ thuỷ ngân đã chạy vào tuỷ, vào bụng dưới, Lư Tuấn Nghĩa run chân đứng không vững, lại vì chuếnh choáng hơi men nên sẩy chân rơi xuống sông Hoài ở chỗ nước sâu mà chết đuối. Thương thay Ngọc kỳ lân ở đất Hà Bắc, rốt cuộc phải ôm hận làm quỷ oan trên sông nước. Người hầu vớt được thây, lo liệu quan quách, khâm liệm mai táng Lư Tuấn Nghĩa trên một gò cao thuộc đất Tứ Châu. Quan bản châu gửi văn thư trình lên sảnh viện, việc không có gì phải nói nữa.

Lại nói bọn gian thần Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu, Dương Tiễn thấy mưu kế đã thành, liền đem văn thư của quan Tứ Châu vào triều tâu lên thiên tử:

- Quan Tứ châu có biểu tâu việc Lư an phủ về đến Hoài Hà, vì uống rượu say ngã xuống sông chết đuối. Bọn hạ thần ở sảnh viện không dám không tâu lên. Nay Lư Tuấn Nghĩa đã chết, chỉ sợ Tống Giang có ý nghi ngờ, lại sinh chuyện khác. Xin bệ hạ soi xét, sai sứ đem ngự tửu đến Sở Châu ban cho Tống Giang để Tống Giang yên lòng.

Thiên tử im lặng hồi lâu, vì chưa biết bụng dạ bọn chúng thế nào nên chưa muốn chuẩn tâu, sợ xẩy ra chuyện xấu. Thiên tử chưa biết thế nào còn lưỡng lự thì bọn gian thần xảo trá lại lựa lời tâu gièm, làm cho thiên tử dần dần cũng phải nghe theo bọn chúng. Thiên tử bèn giáng chỉ ban hai bình ngự tửu, sai sứ đem đi Sở Châu, giao hẹn phải lên đường ngay hôm ấy. Kẻ được sai đi lại chính là thủ hạ tâm phúc của Cao Cầu, Dương Tiễn. Số phận đã định, Tống Công Minh lẽ ra được hưởng mệnh trời lâu nữa, không ngờ bị bọn gian thần bỏ thuốc độc vào ngự tửu rồi sai người mang đến Sở Châu để ban cho!

Lại nói Tống Công Minh được bổ về Sở Châu làm an phủ sứ kiêm tổng quản binh mã. Từ khi nhậm chức, Tống Giang một lòng yêu thương quân dân, được trăm họ kính trọng như cha mẹ, quân sĩ ngưỡng mộ như bậc thần minh. Án kiện xét xử nghiêm minh, các việc trong châu phủ đều đặt người trông nom đầy đủ, lòng người đều khâm phục tôn kính. Những lúc việc quân nhàn rỗi, Tống Giang thường ra ngoài vãn cảnh. Nguyên ở phía nam thành Sở Châu có một nơi gọi là đầm Lục Nhí (loài cây dại, tựa như cây rau răm mọc ở bờ nước, lá màu đỏ. Đầm này có nhiều loại răm dại nên gọi tên ấy). Nơi này bốn bề là ao đầm ngòi rạch mênh mông, ở giữa nhô lên một ngọn núi có hình thể rất đẹp, tùng bách rậm rạp xanh tươi. Tuy chỉ là một vùng đất không rộng lắm, nhưng địa thế rồng cuộn hổ ngồi, núi non nhấp nhô uốn lượn, sườn núi đá xếp như bậc thềm, thật chẳng khác gì địa thế trại Thuỷ Hử ở Lương Sơn Bạc. Tống Giang thấy vậy trong lòng rất vui, thầm nghĩ: “Nếu ta chết ở đây thì đất này đáng là nơi âm trạch. Những lúc rảnh rang ta nên đến đây dạo chơi ngắm cảnh cho đỡ buồn”.

Khỏi kể rườm rà: thấm thoát sắp được nửa năm từ khi Tống Giang về nhậm chức. Bấy giờ là thượng tuần tháng tư năm Tuyên Hoà thứ sáu (1124). Tống Giang bỗng nghe tin có sứ giả của triều đình đến ban ngự tửu bèn cùng thuộc hạ ra ngoài thành nghênh tiếp. Sứ giả vào đến phủ đường, tuyên đọc thánh chỉ. Đọc xong sứ giả bưng ngự tửu đến ban cho Tống Giang. Tống Giang uống xong, lại tự tay rót mời sứ giả, nhưng sứ giả từ chối, nói là không quen uống rượu. Lễ ban ngự tửu đã xong, sứ giả liền lên đường về kinh. Tống Giang sửa soạn lễ vật đem biếu sứ giả, nhưng sứ giả không nhận, cáo từ đi ngay.

Sau khi uống ngự tửu Tống Giang thấy đau thắt ngang bụng liền sinh nghi, đoán là rượu có pha thuốc độc. Nghĩ vậy Tống Giang vội sai người hầu đuổi theo dò xét thì thấy tên sứ giả vẫn uống rượu mỗi khi nghỉ chân ở các dịch trạm dọc đường. Biết chắc mình mắc mưu gian, uống phải thứ rượu đã bị bọn tặc thần pha thuốc độc. Tống Giang than rằng: “Ta từ nhỏ học Nho, lớn lên làm tiểu lại, không may sẩy thân mắc tội, nhưng trước sau chưa từng làm việc gì có dị tâm. Nay thiên tử khinh suất nghe lời sàm nịnh, sai đem rượu độc ban cho ta! Nào ta có tội tình gì? Ta chết cũng đành, chỉ lo Lý Quỳ hiện làm đô thống chế ở Nhuận Châu, nếu hắn biết triều đình thi hành gian kế ấy, tất lại vào rừng tụ tập chúng bạn, làm hỏng thanh danh một đời trung nghĩa của bọn ta. Đành phải làm một cách này thì mới yên chuyện được.”

Nghĩ đoạn Tống Giang sai người đi ngay sang Nhuận Châu gọi Lý Quỳ ngày đêm đi gấp về Sở Châu để bàn công việc cần thiết.

Lại nói Lý Quỳ, từ khi về Nhuận Châu giữ chức đô thống chế chỉ thấy mệt mỏi buồn bực trong lòng, suốt ngày cùng chúng bạn uống rượu không biết chán. Thấy Tống Giang sai người đến mời, Lý Quỳ nói:

- Huynh trưởng cho người sang gọi, tất có chuyện cần đây!

Nói đoạn, bèn đem theo mấy thuộc hạ xuống thuyền sang Sở Châu, đến thẳng phủ đường tìm gặp Tống Giang, Tống Giang nói:

- Từ khi chia tay mỗi người một ngả, ta ngày đêm tưởng nhớ các anh em. Quân sư Ngô dụng ở quận Vũ Thắng thì xa, tri trại Hoa Vinh về phủ Ứng Thiên cũng không có tin tức. Chỉ có hiền đệ về quận Trấn Giang là gần hơn cả, vì thế ta cho mời hiền đệ đến để cùng bàn một việc lớn.

Lý Quỳ nói:

- Thưa huynh trưởng, việc lớn gì vậy?

Tống Giang nói:

- Hiền đệ hãy uống chén rượu đã!

Nói đoạn Tống Giang mời Lý Quỳ vào hậu đường. Trên bàn đã bầy sẵn mâm chén, Tống Giang tự tay rót rượu khoản đãi Lý Quỳ. Hai người cùng nhau nói chuyện trò ăn uống hồi lâu. Rượu đã ngà say, Tống Giang nói:

- Hiền đệ hãy nghe ta nói việc này: Nghe tin triều đình sai người đem rượu pha thuốc độc đến ban cho ta. Nếu ta buộc phải chết thì tính thế nào?

Lý Quỳ bèn kêu to:

- Lại làm phản thôi, thưa huynh trưởng!

Tống Giang nói:

- Này hiền đệ, bọn ta người ngựa không có, anh em còn sống thì chia lìa, mỗi người một nơi, muốn làm phản có thành sự được hay không?

Lý Quỳ nói:

- Ở quận Trấn Giang đệ có ba nghìn quân mã, đại ca điểm lấy người ngựa và quân dân ở Sở Châu này, cùng nhau nhất tề nổi dậy, rồi chiêu binh mãi mã đánh tới! Chỉ còn cách lại lên Lương Sơn Bạc mới thật thoả chí của anh em ta! Cần gì phải chịu luồn cúi để bị bọn gian thần làm nhục.

Tống Giang nói:

- Nguyên là trong tiệc rượu tẩy trần tối hôm ấy, Tống Giang đã rót cho Lý Quỳ uống rượu có pha thuốc độc. Sáng hôm sau, Tống sai đem thuyền đến đưa Lý Quỳ về. Lý Quỳ nói:

- Bao giờ huynh trưởng dấy nghĩa binh thì đệ sẽ đưa quân bên Trấn Giang sang tiếp ứng.

Tống Giang nói:
- Mong hiền đệ đừng trách ta. Hôm trước sứ giả của triều đình đã đem rượu pha thuốc độc đến ban cho ta uống, chết đến chỉ trong sớm chiều. Cả đời ta chỉ nêu cao hai chữ trung nghĩa, không chút lòng dối trá. Nay triều đình bắt ta phải chết vô tội, ta đành chịu cho triều đình phụ ta, còn lòng trung nghĩa của ta chẳng dám phụ triều đình. Ta sợ rằng sau khi ta chết, hiền đệ sẽ lại làm phản tổn hại thanh danh trung nghĩa thay trời hành đạo của anh em Lương Sơn Bạc chúng ta. Vì thế ta mời hiền đệ đến đây gặp ta một lần cuối. Trong bữa rượu tối hôm qua, ta đã rót rượu pha thuốc độc ngấm chậm cho hiền đệ uống rồi đó. Về đến Nhuận Châu tất hiền đệ phải từ giã cõi đời! Sau khi chết, hiền đệ hãy đến đây. Ngoài cửa nam thành Sở Châu có đầm Lục Nhí phong cảnh không khác mấy với Lương Sơn Bạc, âm hồn của ta và hiền đệ sẽ cùng nhau chung tụ. Ta đã định trước là sau khi ta chết, thi hài sẽ chôn cất ở đó.

Tống Giang nói xong nước mắt giàn giụa như mưa. Lý Quỳ cũng khóc theo mà nói:

- Thôi, Thôi! Lý Quỳ này lúc sống hầu hạ huynh trưởng, chết rồi cũng xin làm quỷ hầu của huynh trưởng thôi!

Nói xong lại khóc nấc, toàn thân thấy nặng trĩu. Rồi đó Lý Quỳ gạt nước mắt lạy chào từ biệt Tống Giang, xuống thuyền trở về. Về đến Nhuận Châu thì quả nhiên thuốc độc đã ngấm. Lúc sắp tắt thở, Lý Quỳ căn dặn người hầu:

- Sau khi ta chết, bằng mọi cách phải chở quan tài của ta đến đầm Lục Nhí ở ngoài cửa nam thành Sở Châu chôn chung một chỗ với huynh trưởng Tống Công Minh!

Lý Quỳ dặn dò xong thì chết. Người hầu sửa soạn quan quách khâm liệm, rồi theo lời dặn chở quan tài người quá cố sang Sở Châu.

Lại nói Tống Giang, sau khi từ biệt Lý Quỳ, trong lòng buồn rầu nhớ đến Ngô Dụng, Hoa Vinh từ khi xa nhau chưa từng gặp lại. Đêm ấy thuốc ngấm nguy kịch, Tống Giang gọi những người hầu thân tín đến dặn rằng:

- Sau khi ta chết, các người hãy đem quan tài ta an táng ở chỗ khuất trên gò cao bên đầm Lục Nhí ở phía nam ngoài thành. Ta ắt sẽ đền đáp công đức của các người. Nhớ làm theo lời ta dặn!

Tống Giang nói xong thì qua đời. Người hầu của Tống Giang sửa soạn quan quách, làm lễ khâm liệm. Theo đúng di chúc của Tống an phủ, quan lại Sở Châu cùng những gia nhân theo hầu và đông đảo dân chúng bản châu đưa linh cữu Tống Giang đến mai táng ở đầm Lục Nhi. Mấy ngày sau, quan tài của Lý Quỳ từ Nhuận Châu chở đến cùng được chôn bên mộ Tống Giang, việc không có gì phải nói.

Lại nói Tống Thanh cáo ốm về chữa bệnh tại quê nhà ở huyện Vận Thành, nghe gia nhân về báo tin Tống Giang đã mất ở Sở Châu, nhưng lúc ấy Tống Thanh đang ốm không đến đưa tang được. Sau nghe nói mộ Tống Giang chôn ở đầm Lục Nhi ngoài thành Sở Châu, Tống Thanh sai người nhà đến làm lễ tế, sửa đắp phần mộ chu đáo rồi trở về báo lại, chuyện không phải nói đến.

Lại nói quân sư Ngô Dụng từ khi về nhậm chức thừa tuyên sứ ở quận Vũ Thắng trong lòng cảm thấy không vui, lúc nào cũng tưởng nhớ tình cảm thân ái của Tống Công Minh. Bỗng một hôm cảm thấy tâm tình hoảng hốt, ngồi nằm không yên. Đêm ấy Ngô Dụng chiêm bao thấy Tống Giang cùng đi với Lý Quỳ đến tìm mình, níu áo mà nói: “Quân sư Ngô Dụng ơi! Anh em ta thay trời hành đạo, lấy trung nghĩa làm đầu không hề có lòng phụ ơn thiên tử. Nhưng nay triều đình sai đem rượu pha thuốc độc đến ban cho ta uống, ta chết mà chẳng có tội gì! Sau khi ta chết, thi hài đã mai táng ở đầm Lục Nhi, ngoài cửa nam thành Sở Châu. Quân sư còn nhớ đến tình nghĩa ngày trước thì nên đến thăm mộ ta một chuyến.” Ngô Dụng muốn hỏi rõ, nhưng đột nhiên tỉnh dậy, mới hay là giấc chiêm bao. Ngô Dụng khóc nức hồi lâu, ngồi chờ trời sáng. Cả ngày hôm ấy Ngô Dụng bồn chồn vì giấc mộng, ăn ngủ không yên. Ngay hôm sau, Ngô Dụng bèn thu xếp hành lý, không đem theo người hầu, một mình lên đường đi Sở Châu. Tới nơi quả nhiên biết Tống Giang đã chết, dân bản châu ai nấy đều đau buồn thương tiếc. Ngô Dụng bèn sắm sửa lễ vật đồ tế rồi đi thẳng đến đầm Lục Nhi tìm nơi chôn mộ của Tống Công Minh và Lý Quỳ. Ngô Dụng sụp xuống trước mộ vục tay cào đất khóc to rằng:

- Linh hồn của nhân huynh thiêng liêng, xin soi thấu cho! Ngô Dụng tôi vốn chỉ là thầy đồ Nho nơi thôn dã, lúc đầu theo Tiểu Cái, về sau gặp gỡ nhân huynh, đã nhờ ơn cứu sống lại được hưởng giàu sang hơn mấy mươi năm nay đều nhờ ơn đức của nhân huynh cả. Nay nhân huynh vì việc nước nhà mà chết, hiển linh báo mộng cho biết, Ngô Dụng tôi không có gì báo đáp, xin theo giấc mộng lành về nơi chín suối cùng hội ngộ với nhân huynh!

Ngô Dụng nói xong rống khóc nức nở. Ngô Dụng sắp treo cổ tự sát thấy Hoa Vinh từ dưới thuyền chạy như bay đến trước mộ Tống Giang. Ngô Dụng và Hoa Vinh gặp nhau, ai nấy giật mình kinh ngạc. Ngô Dụng nói:

- Hiền đệ đang làm quan ở phủ Ứng Thiên, làm sao biết huynh trưởng chết?

Hoa Vinh đáp:

- Từ khi chia tay mỗi người một ngả. Hoa Vinh tôi chảng một ngày lòng dạ được yên, lúc nào cũng canh cánh một niềm tưởng nhớ đến anh em ta. Đêm hôm trước Hoa Vinh tôi nằm chiêm bao rất lạ, thấy huynh trưởng Tống Công Minh và Lý Quỳ đến níu áo báo cho tiểu đệ biết vì triều đình ban rượu có thuốc độc bắt uống mà chết, mộ chôn trên gò cao ở đầm Lục Nhi ngoài cửa nam thành Sở Châu. Huynh trưởng nói nếu tiểu đệ còn nhớ đến tình nghĩa anh em thì tìm đến đó mà thăm mộ. Vì vậy Hoa Vinh tôi vứt bỏ việc nhà, chẳng quản đường xa ngày đêm đi gấp về đây.

Ngô Dụng nói:

- Ta cũng chiêm bao hệt như hiền đệ nên mới đi gấp đến đây. Nay lại gặp hiền đệ nữa thật là đúng lúc! Ngô Dụng này trong lòng không thôi tưởng nhớ ơn nghĩa của Tống Công Minh, tình sâu khó đền đáp, đang định treo cổ chết tại đây để hồn phách được chung tụ một chỗ với Tống nhân huynh. Lo liệu mọi việc cho ta, cậy nhờ cả ở hiền đệ.

Hoa Vinh nói:
- Quân sư đã nghĩ như thế, Hoa Vinh tôi cũng xin đi theo để được gặp Tống nhân huynh! Những người gắn bó sống chết có nhau là như thế?

Có thơ làm chứng như sau:

Hồng lục oa trung thác mộng trường

Hoa Vinh, Ngô Dụng các bi thương

Nhất xoang nghĩa huyết nguyên đồng hữu

Khởi nhẫn Điền Hoành độc tang vong

Dịch:

Răm đỏ đầy đồng mộng thân thương

Hoa Vinh, Ngô Dụng thật đau lòng

Một dòng máu nghĩa cùng sinh tử

Há một Điền Hoành(1) khá nêu gương!
---------------------------
1. Người cuối đời Tần, từng đánh lui quân Hạng Võ, xưng là Tề vương. Sau Hán Cao Tổ lên ngôi. Điền Hoành cùng thuộc hạ chạy ra hải đảo. Hán Cao Tổ nhắn ra bảo: “Nếu bọn Hoành trở về, lớn thì cho tước vương, nhỏ thì cho tước hầu, không về thì sẽ đem quân ra diệt”. Hoành nghe lời đem hai thuộc hạ cùng thần phục, đi chưa được ba mươi dặm. Hoành nói: “Ta lúc đầu cũng xưng vương như Hàn vương, nay mặt mũi nào thần phục người ấy.” Nói xong rút kiếm tự sát. Câu thơ trên ý nói Hoa Vinh, Ngô Dụng và sự nghiệp không thành cũng tự sát theo Tống Giang chứ không phải chỉ riêng mình Điền Hoành đời xưa làm như vậy.
-----------------------
Ngô Dụng nói:

- Ta chỉ mong sau khi ta chết được hiền đệ chôn cất ở đây. Còn hiền đệ thì chẳng nên theo gương ta làm gì!

Hoa Vinh nói:

- Tiểu đệ cũng ngày đêm tưởng nhớ Tống huynh trưởng, ân tình không dứt được. Anh em chúng ta từ khi lên Lương Sơn Bạc đã đắc tội to, may mà không chết. Đội ơn thiên tử xá tội chiêu an, sai đi đánh nam dẹp bắc để lập công chuộc tội. Nay anh em ta tính danh vinh hiển được thiên hạ biết đến. Thế mà triều đình đã có ý nghi ngờ, tất sẽ bới lông tìm vết mà trị tội. Nếu bọn chúng thi thố mưu gian, khép bọn ta vào tội cực hình thì khi ấy cũng không kịp. Chi bằng theo Tống huynh trưởng cùng xuống suối vàng, thân này tuy mất mà thanh danh còn lưu lại.

Ngô Dụng nói:

- Hiền đệ hãy nghe ta: ta chỉ một thân một mình không gia quyến, có chết cũng chẳng ngại gì! Hiền đệ thì còn vợ trẻ con thơ biết nương tựa vào đâu?

Hoa Vinh đáp:

- Việc ấy chẳng ngại. Gia sản tiểu đệ cũng có ít nhiều, vợ con không đến nỗi phải đói. Phía bên ngoại cũng sẽ có người giúp lo liệu thêm cho.

Ngô Dụng và Hoa vinh khóc lớn rồi cùng treo cổ lên cây tự tử. Người hầu của Hoa vinh ở trên thuyền chờ lâu không thấy chủ quay lại, bèn vào tìm ở nơi chôn mộ Tống Giang thì thấy cả Ngô Dụng và Hoa Vinh đã thắt cổ tự tử. Bọn họ vội đi báo với quan bản châu, lo sắm quan quách khâm liệm, rồi chôn cất hai người bên mộ Tống Giang ở đầm Lục Nhi thành một khu gò mộ bốn ngôi, mỗi ngôi trông về một phương trời. Dân chúng Sở Châu cảm nhớ ơn đức của Tống Giang trung nghĩa vẹn toàn, bèn dựng đền thờ bốn mùa cúng tế, dân làng đến cầu đảo không điều gì không linh ứng.

Không nói chuyện Tống Giang nhiều lần hiển linh ở đầm Lục Nhi, người đến cúng lễ cầu gì được nấy. Lại nói Đạo quân hoàng đế ở nội cung tại Đông Kinh từ sau khi ban ngự tửu cho Tống Giang đã có ý nghi ngờ không hiểu việc Tống Giang hư thực thế nào, lại vì không biết tin tức Tống Giang ra sao nên thường vẫn băn khoăn nghĩ ngợi. Hàng ngày bọn Cao Cầu, Dương Tiễn vẫn bàn bạc xảo trá làm mê hoặc thiên tử, tìm cách rào đường rắp lối người hiền, mưu hại kẻ trung lương. Một hôm thiên tử đang dạo chơi trong nội cung, chợt nhớ đến Lý Sư Sư bèn đem theo hai chú tiểu hoàng môn đi tắt đến vườn sau nhà họ Lý, kéo dây chuông. Lý Sư Sư vội chạy ra nghênh đón, mời thiên tử vào phòng riêng. Thiên tử sai đóng hết cửa trước cửa sau. Lý Sư Sư trang điểm xong bước ra lạy chào. Thiên tử nói:

- Gần đây trẫm hơi bị mệt phải triệu thần y An Đạo Toàn vào cung điều trị, vì thế đã mấy chục ngày không đến được, trẫm rất mong nhớ. Nay lại gặp khanh, trẫm vui lòng lắm!

Lý Sư Sư tâu rằng:
- Đội ơn bệ hạ yêu mến, tiện thiếp thật hổ thẹn vô cùng. Trong phòng đã bầy xong các món ăn thịnh soạn, Lý Sư Sư mời thiên tử xơi rượu giải phiền. Rượu cạn vài tuần, thiên tử đã có vẻ mệt mỏi. Khi đèn nến vừa thắp sáng toả khắp phòng. Bỗng một cơn gió lạnh từ bên ngoài tạt vào. Đạo quân hoàng đế thấy trước mặt có một người mặc áo vàng rộng cổ.

Hoàng đế sợ hãi hỏi:

- Ngươi là ai? Sao dám vào đây?

Người mặc áo vàng tâu:

- Thần là Thần hành thái bảo Đái Tôn thuộc hạ của Tống Giang ở Lương Sơn Bạc.

Thiên tử nói:

- Ngươi đến có việc gì?

Đái Tôn đáp:

- Huynh trưởng Tống Giang của thần hiện ở gần đây, xin mời bệ hạ lên xa giá cùng đi.
Hoàng đế nói:

- Chưa rõ ngươi định đưa ta đi đâu?

Đái Tôn thưa đáp:

- Có nơi phong cảnh tươi đẹp, xin bệ hạ tới thưởng ngoạn.

Thiên tử nghe xong liền cùng Đái Tôn ra khỏi nhà Lý Sư Sư. Thấy xe ngựa đã sắp sẵn. Đái Tôn mời thiên tử lên ngựa. Chỉ thấy xung quanh mịt mù sương khói, bên tai tiếng gió thổi ù ù, chẳng mấy chốc đã tới nơi, chỉ thấy:

Mờ mờ khói nước, núi lớp mây đùn. Chẳng thấy trăng sao, nước trời một sắc. Mênh mông răm dại thẳm màu, hun hút lau xanh ngút mắt. Hồng nhạn dàn hàng, buồn thương bay qua đầu bãi cát, vịt trời đôi một, mỏi chân ngủ cạnh bờ sen. Sương nhuộm cành phong tựa chinh phu rơi lệ, gió phơ bờ liễu như oan phụ cau mày. Trăng mờ sao lạnh, đêm vắng vẻ, gió buốt sương tê cảnh thu buồn.

Bấy giờ Đạo quân hoàng đế ngồi trên ngựa nhìn không rõ, bèn hỏi Đái Tôn:

- Đây là đâu? Đưa trẫm đến làm gì?

Đái Tôn đưa tay chỉ con đường trên núi rồi nói:

- Xin bệ hạ cứ đi, đến nơi sẽ rõ.

Đạo quân hoàng đế thúc ngựa lên núi. Đi qua ba lớp cửa ngoài, đến trước toà cổng thứ ba thiên tử thấy đám đông chừng hơn một trăm viên võ tướng mặc chiến bào, khoác giáp sắt, đội mũ sắt, thắt đai da đen, đeo gươm giáo đang rập đầu vái lạy. Thiên tử cả sợ, hỏi:

- Bọn các khanh là ai?

Chỉ thấy một người đứng ở hàng đầu, đội mũ sắt hình cánh phượng, mặc chiến bào gấm, ngoài khoác giáp sắt bước lên tâu rằng:

- Thần chính là Tống Giang ở Lương Sơn Bạc.

Hoàng đế nói:

- Trẫm đã sai khanh đi Sở Châu làm An phủ sứ, sao lại ở đây?

Tống Giang nói:

- Xin mời bệ hạ đến Trung Nghĩa đường để thần được tố cáo cái chết oan khuất của thần.

Hoàng đế đi tiếp, đến trước Trung Nghĩa đường dừng ngựa lên ngồi trên chính sảnh. Nhìn xuống dưới thấy trong lớp sương núi lờ mờ có đông người đang quỳ lạy. Hoàng đế còn do dự chưa biết làm gì thì thấy Tống Giang bước lên thềm quỳ khóc mà tâu lên. Hoàng đế hỏi:

- Khanh vì sao mà khóc?

Tống Giang tâu:

- Bọn thần tuy từng chống lại quan quân triều đình, nhưng vẫn giữ lòng trung nghĩa, không một chút dị tâm. Sau khi vâng sắc mệnh chiêu an của bệ hạ, bọn thần trước hết đánh lui quân Liêu, sau đó ba lần dẹp yên phản loạn, anh em thuộc hạ của thần thiệt mạng đến bảy tám phần. Thần đội ơn bệ hạ sai đi trấn thủ Sở Châu, từ khi nhậm chức tới nay của cải của quân dân không một chút tơ hào, trời đất đều biết. Nay bệ hạ ban rượu độc cho thần uống, thần chết đành ôm hận. Nhưng thần còn sợ Lý Quỳ oán giận, lại dấy dị tâm, vì vậy, thần đã sai người đi Nhuận Châu gọi Lý Quỳ đến đây, tự tay rót rượu độc cho hắn uống. Bọn Ngô Dụng, Hoa Vinh cũng vì trung nghĩa mà đến đây rồi cùng treo cổ tự tử bên mộ thần. Bọn thần bốn người cùng được mai táng ở đầm Lục Nhi phía nam thành Sở Châu. Dân làng thương xót dựng đền thờ trước mộ. Nay âm hồn của bọn thần về tụ hội ở đây, xin tâu lên bệ hạ nỗi oan khuất của bọn thần, trước sau không có ý làm phản. Xin bệ hạ soi xét.

Thiên tử nghe xong cả sợ nói rằng:

- Trẫm đích thân sai sứ đem ngự tửu có niêm phong giấy vàng. Chẳng biết kẻ nào đã thay rượu độc đem ban cho khanh?

Tống Giang nói:

- Xin bệ hạ cứ xét hỏi sứ giả sẽ rõ đầu đuôi.

Thiên tử nhìn thấy doanh trại ba lớp cửa rào hùng tráng, buồn rầu hỏi:

- Đây là nơi nào mà các khanh về tụ hội?

Tống Giang đáp:

- Đây là Lương Sơn Bạc, nơi bọn thần tụ nghĩa trước đây.

Thiên tử lại hỏi:

- Các khanh đã chết, đáng phải đầu thai, sao lại đưa nhau tụ tập ở đây?

Tống Giang đáp:

- Ngọc hoàng thượng đế thương xót bọn thần là người trung nghĩa, đã phủ điệp sắc phong cho bọn thần giữ chức đô thổ địa cai quản vùng Lương Sơn Bạc. Các tướng tụ hội ở đây đều có oan khuất chưa được dãi bày, nên thần sai Đái Tôn mời bệ hạ quá bộ đến nơi sông nước để bọn thần bày tỏ oan khuất.

Hoàng đế nói:

- Sao các khanh không đến triều đình tâu bày rõ ràng với trẫm?

Tống Giang đáp:

- Bọn thần là âm hồn trong cõi u minh, sao có thể đến được nơi cửa phượng lầu rồng? Vì thế mới mạo muội mời bệ hạ rời cung cấm đến đây.

Hoàng đế nói:

- Trẫm có thể dạo xem phong cảnh được không?

Bọn Tống Giang sụp lạy tạ ơn. Thiên tử bước xuống bậc thềm, ngoái lại nhìn tấm biển để ba chữ lớn “Trung Nghĩa Đường” treo trước chính sảnh. Hoàng đế gật đầu đi xuống chợt thấy Lý Quỳ từ phía sau Tống Giang hai tay vung hai búa chạy đến lớn tiếng quát vang:

- Tên hoàng đế kia! Sao ngươi lại nghe lời xúi bẩy của bốn tên tặc thần mà giết hại bọn ta? Nay gặp ngươi ở đây, ta phải báo thù ngươi!

Hắc toàn phong Lý Quỳ nói xong liền vung búa xông tới đánh. Đạo quân hoàng đế cả sợ, giật mình tỉnh dậy, mới hay là giấc chiêm bao, mồ hôi vã ra ướt đầm. Hoàng đế từ từ mở mắt vẫn thấy đèn nến sáng trưng. Lý Sư sư vẫn chưa ngủ, Hoàng đế hỏi:

- Trẫm vừa từ đâu đến đây vậy?

Lý Sư Sư đáp:

- Bệ hạ chỉ vừa mới chợp mắt thôi.

Hoàng đế bèn kể lại giấc chiêm bao kỳ lạ đó cho Lý Sư Sư nghe. Lý Sư Sư nói:

- Phàm những người chính trực sau khi chết sẽ thành thần linh. Phải chăng đúng là Tống Giang đã chết, nay hiển linh báo mộng cho bệ hạ?

Hoàng đế đáp:

- Ngày mai ngự triều trẫm sẽ hỏi rõ việc ấy. Nếu quả Tống Giang đã chết thì phải sai dựng đền thờ, phong tước hầu cho ông ta.

Lý Sư Sư nói:

- Nếu đúng là thánh thượng phong tặng cho Tống Giang thì sẽ làm sáng đức thánh thượng không phụ bậc công thần.

Suốt đêm ấy, Đạo quân hoàng đế buồn rầu than tiếc mãi không thôi.

Ngày hôm sau hoàng đế ngự triều, truyền gọi các quan đến chầu ở điện phủ, bọn Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu, Dương Tiễn sợ hoàng đế truy hỏi về việc Tống Giang nên đã kiếm cớ lánh ra ngoài. Chỉ có Túc Thái uý và mấy vị đại thần khác đứng hầu. Hoàng đế bèn hỏi Thái uý Túc Nguyên Cảnh:

- Khanh có biết tin gì về an phủ Tống Giang ở Sở Châu không?

Túc thái uý tâu:

- Từ bấy đến nay thần không được biết tin tức gì của Tống an phủ, thế nhưng đêm qua thần mộng thấy một giấc chiêm bao rất kỳ lạ.

Hoàng đế nói:

- Khanh cứ kể cho trẫm nghe xem sao?

Túc thái uý đáp:

- Thần chiêm bao thấy Tống Giang mặc áo chiến, thắt đai trận, đầu đội mũ trụ sáng loáng đến nhà nói với thần là bệ hạ sai ban rượu độc cho uống mà chết. Người đất Sở cảm thương bậc trung nghĩa, đã mai táng Tống Giang ở đầm Lục Nhi ngoài cửa nam thành Sở Châu, dựng đền thờ bốn mùa cúng tế.

Nghe xong hoàng đế gật đầu nói:

- Quả đúng là sự lạ, đêm qua trẫm cũng chiêm bao thấy như thế!

Rồi hoàng đế căn dặn Túc thái uý:

- Khanh hãy sai người tâm phúc đến Sở Châu dò xét việc này xem hư thực ra sao rồi tâu gấp cho trẫm biết.

Túc thái uý vâng mệnh ra khỏi cung cấm rồi về phủ sai người tâm phúc đi Sở Châu nghe ngóng tin tức Tống Giang. Chuyện không có gì phải nói.

Ngày hôm sau Đạo quân hoàng đế ngự triều ở điện Văn Đức, thấy Cao Cầu, Dương Tiễn đứng hầu, hoàng đế bèn hỏi:

- Các khanh ở sảnh viện, gần đây có biết tin tức Tống Giang ở Sở Châu không?

Cao Cầu, Dương Tiễn cúi đầu đáp là không biết. Hoàng đế băn khoăn nghi ngại, cảm thấy mệt mỏi không vui.

Lại nói người giúp việc của Túc thái uý đi Sở Châu về, kể lại đầu đuôi việc Tống Giang uống phải ngự tửu pha thuốc độc mà chết. Sau khi mai táng, người đất Sở cảm thương lòng trung nghĩa đã mai táng Tống Giang trên gò cao ở đầm Lục Nhi ngoài thành Sở Châu. Bọn Ngô Dụng, Hoa Vinh, Lý Quỳ cũng đã chết, mộ chôn gần nhau ở đó. Trăm họ thương tiếc đã dựng đền thờ trước mộ để xuân thu hai kỳ cúng tế, thành tâm phụng thờ. Dân chúng có việc gì cầu đảo đều thấy linh nghiệm.

Túc Thái uý nghe xong vội dẫn người giúp việc vào triều tâu lên thiên tử. Thiên tử nghe nói buồn rầu thương xót khôn nguôi. Trong buổi chầu sáng hôm sau, trước mặt các quan, thiên tử cả giận quát mắng bọn Cao Cầu, Dương Tiễn:

- Các ngươi là gian thần hại nước, làm hư nát cả thiên hạ của trẫm!

Bọn Cao Cầu, Dương Tiễn sụp xuống rập đầu tạ tội. Sái Kinh, Đồng Quán bước lên tâu rằng:

- Việc sống chết đều do số mệnh. Vì các quan ở hạ sảnh viện chưa gửi văn thư trình lên nên thần không dám tâu lên bệ hạ. Đêm qua quan Sở Châu mới có tờ tâu gửi về, bọn thần cũng định sáng nay tâu lên bệ hạ.

Rốt cuộc hoàng đế bị bốn tên gian thần quanh co che giấu nên không bắt tội được chúng, chỉ quát đuổi Cao Cầu, Dương Tiễn ra ngoài, bắt chung truy tìm tên sứ gỉa trước đây đã sai mang ngự tửu. Không ngờ tên sứ giả đó sau khi rời Sở Châu trở về đã chết dọc đường.

Ngày hôm sau Túc thái uý lại vào yết kiến hoàng đế ở điện phủ, tâu việc Tống Giang trung nghĩa hiển ứng linh thiêng. Hoàng đế chuẩn tâu, phong cho em ruột Tống Giang là Tống Thanh được hưởng tập ấm nối giữ quan tước của Tống Giang. Không may Tống Thanh bị bệnh phong thấp thành tật, không ra làm quan được, nên dâng biểu từ tạ, chỉ xin được làm ruộng ở huyện Vận Thành. Hoàng đế thương xót Tống Thanh là người hiếu để, ban cho mười vạn quan tiền và ba nghìn mẫu ruộng để gia quyến được no đủ, đợi khi con trai trưởng thành sẽ được triều đình bổ dụng. Về sau Tống Thanh sinh được một trai là Tống An Bình. An Bình theo đòi khoa cử, làm quan đến chức bí thư học sĩ, nhưng đó là câu chuyện về sau.

Kể tiếp chuyện Đạo quân hoàng đế nghe lòi tâu của Túc thái uý, tự tay viết thánh chỉ sắc phong cho Tống Giang tước trung liệt nghĩa tế linh ứng hầu. Lại cấp tiền cho dựng đền thờ to lớn ở Lương Sơn Bạc, đắp tượng Tống Giang và anh em các tướng đã chết vì việc nước. Tấm biển treo trước đền thờ có ngự bút của Đạo quân hoàng đế đề bốn chữ “Tinh Trung Chi Miếu (đền thờ trung thần dẹp loạn). Quan Tế Châu vâng sắc chỉ đến Lương Sơn Bạc lập đền thờ.

Chỉ thấy:

Đinh săt gỗ đỏ, cột ngọc cửa vàng

Rường chạm keo sơn, hiên sơn ngói bạc

Lan can xanh vòng uốn cửa ngoài

Rèm thêu gấm buông che bậu kín

Năm gian điện lớn, chữ vàng biển ngạch cao treo

Hai dãy hành lang, cảnh vẽ võ quan dũng mãnh

Hoè xanh rợp bóng, lầu nội điện cao vút mây xanh

Liễu biếc che trùm, miếu Tinh Trung thẳng vươn trời thẳm

Trên điện thếp vàng, đủ bài vị Tống Công Minh và ba mươi sáu viên Thiên cang chánh tướng

Hai dãy hành lang, xếp bàn thờ từ chu Vũ cùng bẩy mươi hai vị Điạ sát tướng quân

Trước cửa quân hàu nhẩy nhót giơ nanh

Bên sân thần binh nhe răng múa vuốt

Trụ thiên đài thợ khéo điểm tô bốn mùa hương bay khói toả

Cột tre cao cờ phướn dài buông, hai xã chung lo thờ phụng

Cúng tế muôn dân khấn linh thần

Sổ bộ triều đình ghi trung liệt

Muôn năm hương hoả hưởng vô cùng

Vạn thuở công lao ghi sử sách

Lại có bài thơ tứ tuyệt:

Thiên cang tận dĩ quy thiên giới

Địa sát hoàn ưng nhập địa trung

Thiên cổ vi thần giai miêu thực

Vạn niên thanh sử bá anh hùng

Thiên cang đã khuất về thiên giới

Địa sát lại theo xuống đất cùng

Muôn thuở thần linh đều hưởng tế

Vạn năm sử sách rạng anh hùng

Về sau Tống Công Minh nhiều lần linh thiêng hiển ứng, trăm họ bốn mùa thờ cúng không dứt. Trong vùng Lương Sơn Bạc dân chúng cầu gì được nấy. Đầm Lục Nhi ở Sở Châu cũng linh thiêng ứng nghiệm. Dân sở tại sửa sang miếu điện nguy nga, sau lại dựng thêm hai dẫy hành lang, tâu xin triều đình ban biện ngạch. Lại đắp tượng ba mươi sáu viên chánh tướng, đặt thờ ở chánh điện, đắp tượng bẩy mươi hai viên phó tướng đặt thờ ở hành lang hai bên. Hàng năm đến ngày tế dân chúng gần xa đều đến dâng hương kính lễ. Người chép sử có hai bài Đường luật tỏ ý thương tiếc như sau:

Mạc bả hành tàng oán lão thiên

Hàn, Bành xích tộc di kham liên

Nhất tâm báo quốc thôi phong nhật

Bách chiến cầm Liêu phá Lạp niên

Sát diệu cang tinh kim di hỉ

Sàm thần tặc tử thượng y nhiên

Tảo tri cưu độc mai hoàng nhưỡng

Học thủ chi di Phạm Lãi thuyền

Dịch:

Chớ lấy thân danh oán trách trời

Hàn, Bành mấy họ máu đào rơi

Một lòng báo nước lừng chinh chiến

Trăm thắng Liêu lui, Lạp hết đời

Địa sát thiên cang đà hết sáng

Gian thần tặc tử chẳng im hơi

Nếu hay đầu độc vùi thân xác

Học phép rong thuyền Phạm Lãi (1) chơi

Bài thứ hai:

Sinh đang đỉnh thực tử phong hầu

Nam tử sinh bình chí dĩ thù

Thiết mã dạ tê sơn nguyệt hiểu

Huyền viên thu khiếu mộ vân trù

Bất tu xuất xứ cầu chân tích

Khước hỉ trung lương tác thoại đầu

Thiên cổ Lục oa mai ngọc địa

Lạc hoa đê điểu tổng quan sầu

Dịch:

Sinh thời đỉnh vạc (2) chết phong hầu

Hồ thỉ nam nhi nợ sạch làu

Ngựa săt hí vang trăng núi rạng

Vượn đen kêu hú bóng đêm thâu

Chẳng cần xuất xứ tìm văn bản

Chỉ khoái trung lương soạn thoại đầu

Muôn thuở Lục Nhi vùi ngọc quý

Chim kêu hoa rụng chạnh lòng sầu.

HẾT

--------------------
1. Phạm Lãi: người nước Sở thời Xuân Thu, giúp Việt Vương Câu Tiễn hơn hai mươi năm. Khi Câu Tiễn diệt được nước Ngô, phong Phạm Lãi làm thượng tướng quân. Phạm từ chối, bảo với tả hữu là Câu Tiễn “dễ chung hoạn nạn, nhưng khó cùng hưởng phú quý”, rồi lên một chiếc thuyền con chu du trong chốn Ngũ hồ.
2. Đỉnh vạc, dịch chữ “đỉnh thực” (ăn bằng vạc), chỉ quan cao lộc hậu. Theo lệ cổ, bữa ăn của vua, thiên tử được hưởng cửu đỉnh (chín vạc), vua chư hầu ngũ đỉnh (năm vạc, nấu năm món: bò, dê, lợn, cá, nai) v… v…


Phụ Lục:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét