THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 21: Hùa đảng gian dâm, trước nơi cửa
huyện; Tha người hiếu nghĩa, trong chốn nhà hầm
Khi đó
chúng đem Diêm Bà cùng Đường Ngưu Nhị vào đến huyện quan. Huyện nghe nói việc
giết người, bèn vội vàng ra công đường để hỏi.
Chúng
dẫn Diêm Bà quỳ bên hữu, Đường Ngưu Nhị quỳ bên tả, rồi quan Huyện ngồi trên
hỏi rằng:
- Việc
gì? Giết người thế nào? Nói ta nghe.
Diêm Bà
bẩm:
- Lão
tôi người họ Diêm, có con gái tên là Bà Tích, dạo nọ bán cho Tống Áp Ty làm tỳ
thiếp, đến hôm qua con gái tôi cùng Tống Giang uống rượu trên gác, thì có tên
Đường Ngưu Nhị này đến sinh sự, rồi ra phố chửi rủa ầm ầm, cả phố sá ai cũng
biết. Sáng hôm nay thấy Tống Giang ở nhà ra phố một lúc, rồi trở về mà giết
chết con gái tôi, sau tôi kéo được Tống Giang đến cửa huyện, thì bị tên Đường
Ngưu Nhị này lại đánh tháo cho đi mất, vậy xin kêu để quan lớn xét cho.
Tri
Huyện hỏi đến Đường Ngưu Nhị rằng:
- Sao
thằng kia dám đánh tháo cho kẻ hành hung?
Bẩm quan
lớn:
- Con
không biết đầu đuôi ra sao cả, nguyên tối hôm qua con có đến tìm Tống Áp Ty ở
đấy, thì bị mụ này đuổi ra. Sáng hôm nay con đi bán hàng sớm, lại thấy mụ này
đương lôi kéo Tống Áp Ty, nên con chạy đến để can, rồi Tống Áp Ty bỏ đi đâu mất
thực là không biết chuyện giết người chi cả.
Quan
Huyện quát lên rằng:
- Mầy
nói láo! Tống Giang là người thành thực quân tử, có khi nào lại giết càn như
thế? Việc này chắc chính mầy làm ra, tả hữu đâu?
Tri
Huyện nói đoạn, liền gọi nha lại lên thấy khẩu cung. Bấy giờ Trương Văn Viễn
nghe nói là Tống Giang giết con Diêm Bà, là nhân tình của mình, thì trong lòng
tức giận, vội vàng ra lấy khẩu cung mọi người, rồi lại viết đơn giúp cho Diêm
Bà để kêu. Đoạn rồi đem các người kêu biên án, và cho gọi Trưởng Phố và các nhà
lân bang, đến mở cửa nhà Diêm Bà để khám nghiệm xác chết. Khi tới nơi, khám
thấy người chết bị mấy nhát dao trên đầu và ở thái dương, còn con dao hành hung
thì vất trên xác. Chúng biên khám đoạn rồi cho lấy áo quan mà bỏ xác chết vào,
mà đem ra quàn tại tự viện, rồi đem các người ấy về trình huyện.
Quan
Huyện xưa nay đối với Tống Giang rất là tử tế, có ý muốn thoát tội cho Tống
Giang, liền bắt Đường Ngưu Nhị ra mà tra hỏi ba bốn lần.
Đường
Ngưu Nhị nhất định cung rằng:
- Không
biết đầu đuôi chuyện giết người ra sao cả.
Tri
Huyện nói:
- Thằng
nầy, nửa đêm mày đến nhà người ta mà sinh sự cãi cọ, thì tất có can thiệp đến
đây.
Đường
Ngưu Nhị lại kêu:
- Bấy
giờ con chỉ tìm Tống Áp Ty có chút việc chứ thực không có ý gì cả.
Tri
Huyện quát lên rằng:
- Nói
lạ! Tả hữu đâu, đem đánh nó xem!
Quan Huyện
vừa nói dứt lời, thi hai tên lính như hùm như beo đổ ra, trói Đường Ngưu Nhị
đánh đến ba bốn mươi roi. Đường Ngưu Nhị tuy bị đau, nhưng vẫn cứ khăng khăng
nói một mực như trước.
Khi ấy
quan Huyện cũng biết rằng không phải tự Đường Ngưu Nhị, song nhất tâm định cứu
cho Tống Giang được thoát, liền lấy hạng gông lớn gông Đường Ngưu Nhị lại, rồi
giam vào nhà giam.
Trương
Văn Viễn lên công đường bẩm với quan Huyện rằng:
- Đã
đành quan xử thế, song việc này hiện còn có con dao bên cạnh người chết, là con
dao của Tống Giang, vậy thế nào cũng phải bắt Tống Giang đến hỏi, mới biết đoan
đích được.
Quan
Huyện bị Trương Văn Viễn kêu đi kêu lại, không thể nào mà im được, bất đắc dĩ
phải sai người đi bắt Tống Giang. Sau bắt không được Tống Giang, lại phải bắt
mấy người lân bang đến hỏi, thì ai cũng khai Tống Giang đi đâu mất, không thấy
đâu cả.
Trương
Văn Viễn lại bẩm với quan Huyện rằng:
- Phạm
nhân là Tống Giang đi trốn đi mất, song hiện còn bố là Tống Thái Công và em là
Tống Thanh ở trong thôn trang, vậy xin đến đó bắt bố cùng em phải đến quan, rồi
lặc hạn cho đi tìm phạm nhân để đem về nộp, thì hắn không còn trốn đi đâu được
nữa.
Quan
Huyện nghe nói, biết rằng phải lẽ, song chủ ý cốt tha cho Tống Giang, nên cứ
dùi rằng đổ tội cho Đường Ngưu Nhị để sau sẽ kiếm kế mà gỡ dần ra.
Ai ngờ
Trương Văn Viễn cố lòng thu xếp văn án, rồi lại xúi giục Bà Tích đến kêu nài
mọi lẽ, làm cho quan Huyện không còn thể nào mà bỏ im đi được, đành phải thảo
công văn, sai ba tên lính, đến Tống gia trang để bắt Tống Thái Công và Tống
Thanh.
Khi ba
yên lính đi đến Tống gia trang, Tống Thái Công ra đón tiếp mời vào thảo đường,
rồi mấy người lính đưa công văn ra cho Tống Thái Công xem.
Tống
Thái Công xem xong bảo với bọn lính rằng:
- Xin
các bác hãy ngồi chơi, để tôi thưa chuyện: Nguyên lão tôi từ thuở trước vẫn
chăm chỉ việc canh nông, quanh năm trông nom vườn ruộng ở đây, để kiếm kế sinh
nhai, không hề có điều chi trái phép. Còn như thằng con bất hiếu là Tống Giang,
thì nó vẫn ngỗ nghịch từ thuở nhỏ, không chịu theo giữ phép nhà, mà nhất định
đi làm lại. Sau tôi can gián nó cũng không nghe, nên hồi mấy năm trước tôi đã
đến quan để trình sự ngỗ nghịch của nó, và xin xuất tịch tên nó không nhận là
người ở trong trang nầy nữa. Từ đó nó vẫn ở đâu ngoài Huyện, còn tôi đây cùng con
là Tống Thanh vẫn làm ăn quanh quẩn trong chốn thôn ở gần đây, hai đằng tịnh
không có điều gì can thiệp đến nữa. Tôi lại e khi nó làm gì trái phép mà liên
lụy đến tôi, cho nên tôi có xin chữ quan trước phê cho để làm bằng chứng, hiện
còn giữ đây ở kia, để tôi lấy ra cho các bác sao lại, đem về trình quan.
Bọn lính
vốn xưa nay có lòng tử tế đãi với Tống Giang, và thấy Tống Thái Công đã có bằng
cớ, không can thiệp gì đến với Tống Giang, thì cũng không tội chi mà bới vẽ
thêm rầy, liền nói với Thái Công rằng:
- Vâng,
nếu cụ đã có giấy má như vậy, thì xin cho chúng tôi sao lại, để đem về trình
huyện cho xong.
Tống
Thái Công nhất diện sai người giết gà vịt làm cơm, để thiết đãi bọn lính, nhất
diện đem giấy ra cho bọn ấy sao, rồi lại đưa mười lạng bạc ra để tiễn. Xong đâu
vào đấy, chúng liền từ giã Thái Công trở về huyện bẩm với quan trên mọi lẽ, và
đưa bản giấy sao ra để trình.
Quan
Huyện cũng không có lòng nào muốn bắt Tống Giang, nay thấy báo về vậy, thì cũng
lấy làm vừa ý mà bảo chúng rằng:
- Ông lão
ấy có giấy quan làm bằng đây, vả chăng Tống Giang cũng không còn có thân thuộc
nào nữa, thì truy nã vào đâu được? Bây giờ chỉ có một lẽ treo thưởng một nghìn
quan tiền để yết thị đi các nơi, cho người ta bắt giúp mà thôi.
Trương
Văn Viễn lại xúi Diêm Bà làm bộ rũ rượi lăn khóc, mà kêu lên với Quan Huyện
rằng:
- Việc
ấy thực là Tống Thanh còn dấu diếm Tống Giang ở trong nhà, xin quan lớn thương
đến thân già, mà cứ cho đi bắt Tống Giang đến đây cho...
Quan
Huyện quát lên rằng:
- Ba bốn
năm trước phụ thân nó đã lên cáo tội ở quan để truất tịch đi rồi, hiện có giấy
quan phê ở đây, còn bắt thế nào nhà người ta được nữa?
Diêm Bà
lại kêu rằng:
- Bẩm
quan lớn, ở đây ai không biết anh ta là Hiếu Nghĩa Hắc Tam Lang, vậy giấy này
chắc là giả mạo, xin tướng công xét kỹ lại cho.
- Bây
nói lạ! Hiện có chữ và ấn tín của quan trước phê cho mà mày bảo giả mạo thế
nào?
Diêm Bà
thấy quan truyền vậy, thì rên rỉ khóc lóc mà rằng: - Việc mạng người là to, nếu
tướng công không xét cho, thì tôi xin lên Châu Phủ tôi kêu lên, để quan trên
xét. Con tôi chết oan khổ lắm!
Bấy giờ
Trương Văn Viễn lại ở ngoài kêu luôn với quan Huyện rằng:
- Việc
này nếu tướng công không cho người đi thì mụ này tất nó lên kêu ở thượng ty,
bấy giờ lỡ ra quan trên có đòi đến, thì khó lòng mà trả lời sao được!
Quan
Huyện nghe nói, không biết làm thế nào được, đành phải cho thảo công văn, sai
Chu Đồng, Lôi Hoành đem lính đến Tống gia trang mà vây bắt Tống Giang. Hai Đô
Đầu Lĩnh công văn đem bốn mươi tên lính đến Tống gia trang, Tống Thái Công nghe
báo, vội vàng ra để nghinh tiếp.
Lũ Chu
Đồng bảo với Thái Công rằng:
- Xin
Thái Công tha lỗi, chúng tôi vâng lệnh quan sai đến đây để bắt Tống Giang, vậy
Tống Giang ở đâu, xin Thái Công cho biết?
Tống
Thái Công đáp:
- Xin
nhị vị Đô Đầu xét cho: Thằng nghịch tử Tống Giang đối với tôi không có can
thiệp chi cả. Hiện trước tôi đã có giấy kêu quan, quan đã phê cho làm bằng...
Trong mấy năm nay nó đã lập ra sổ bộ khác, không còn ở đây với tôi, và cũng
không về đến đây bao giờ.
Chu Đồng
nói:
- Đã
đành như vậy, song chúng tôi là kẻ công nhân cứ theo giấy bắt người, vậy không
biết rằng trong trang có ai hay không? Cũng phải cho chúng tôi khám hết một
lượt, rồi mới về bẩm quan được.
Nói xong
liền cho binh bổ vây khắp bốn mặt gia trang; rồi tự đứng canh trước cửa, mà bảo
Lôi Hoành vào khám tìm một lượt.
Lôi
Hoành đi vào trong trang, tìm khắp cả đằng trước đằng sau, rồi ra bảo với Chu
Đồng rằng:
- Thực ở
trong trang không thấy.
Chu Đồng
nói:
- Tôi
chưa được vào khám, thì chưa lấy gì làm chắc, vậy bác hãy giữ ngoài cửa đây, để
tôi vào khám kỹ lại lượt nữa xem sao?
Tống
Thái Công nói:
- Lão
tôi là một người biết pháp luật, có khi nào dám dấu ở trong trang!
Chu Đồng
nói:
- Cái đó
là mệnh lệnh bề trên tất chúng tôi phải làm cho tời nơi tới chốn, xin Thái Công
đừng trách.
Vâng,
xin ngài cứ tự tiện mà làm.
Chu Đồng
lại dặn Lôi Hoành rằng:
- Lôi Đô
Đầu hãy giữ Thái Công ở đây, đừng để Thái Công trốn đi mới được.
Nói xong
đi sộc vào trang, dựng thanh đao xuống bên vách khép cửa lại, rồi đi thẳng vào
điện thờ Phật của Tống Thái Công. Tới đó Chu Đồng nhắc giường thờ để qua một
bên, mở tấm cửa dưới mặt đất lên, rồi vớ lấy cái đầu thừng ở dưới cánh cửa, đập
một cái thực mạnh, thì nghe có tiếng boong boong ở dưới, rồi thấy Tống Giang ở trong
hầm đi ra.
Tống
Giang trông thấy Chu Đồng, thì giật mình kinh sợ, Chu Đồng liền bảo Tống Giang
rằng:
- Công
Minh ca ca ơi! Ca ca đừng tưởng là tiểu đệ đến bắt đâu! Vì ngày trước có khi
đánh chén với nhau, ca ca thường nói với tôi rằng:"Trong Phật Đường nhà ca
ca có một cái hầm trên bày bàn thờ Tam Thế Phật, và có đậy cánh cửa bằng đất hễ
có việc gì khẩn cấp là chui vào ở đó". Bởi vậy nên tiểu đệ mới biết được
chỗ này. Hôm qua quan Huyện sai Lôi Hoành cùng tiểu đệ đến đây, cũng là sự bất
đắc dĩ, phải che mắt thế gian cho xong chuyện, chứ quan Huyện thực có lòng vì
nể ca ca lắm. Chỉ vì con mụ già ấy nó bị thằng Trương Văn Viễn xúi giục lên
quan, nếu quan không xét, thì nó đến tận Châu Phủ để kêu, bởi thế nên phải sai
chúng tôi đến đây để bắt. Lúc nãy Lôi Hoành vào đây, tôi chỉ sợ lỡ gặp ca ca mà
hắn lại không biết cách để chu toàn thì nguy lắm, nhân thế tôi phải chạy vào
đây, để báo cho ca ca biết. Ở đây tuy cũng được, nhưng không phải là chỗ an
thân, vì sợ khi có kẻ biết được đến đây, thì bấy giờ làm sao cho tiện?
Tống
Giang nói:
- Tôi đã
nghĩ đến quãng đó, ai ngờ lại được hiền huynh chu toàn cho, bằng không thì Tống
Giang tất bị bắt chứ không chơi.
- Thôi
bây giờ huynh trưởng phải tìm chỗ khác mà lánh mình mới được.
Tiểu đệ
nghĩ kỹ, chỉ có ba chỗ yên thân được: - Một là nhà Tiểu Đoàn Phong Sài Tiến ở
quận Hoành Hải, bên Thương Châu, hai là Tiểu Lý Quãng Hoa Vinh ở trại Thanh
Phong bên Thanh Châu, và ba là nhà Khổng Thái Công ở bên núi Bạch Hổ, Khổng
Thái Công có hai người con trai, người con trưởng là Mao Đầu Tinh Khổng Minh,
và người thứ tên là Đạc Hỏa Tinh Khổng Lượng, thỉnh thoảng vẫn đến huyện đây
chơi bời với tôi. Chỉ có ba chỗ ấy, nhưng chưa biết rằng đi chỗ nào cho tiện!
Huynh
trưởng nên nghĩ mau mau, liệu đi đâu thì đi ngay đi, chớ để chậm trể thì
khốn!...
- Còn
các việc quan tư ở đây, xin nhờ huynh giúp cho. Nếu có cần gì vàng lụa đưa đón
các nơi đâu, thì xin cứ cho đến đây mà lấy.
- Việc
ấy huynh trưởng cứ phóng tâm tôi xin cáng đáng được. Huynh trưởng nên liệu kế
mà đi đi.
Tống Giang
tạ ơn Chu Đồng rồi đi vào trong hầm, Chu Đồng liền đậy cánh cửa đất lại, rồi
nhắc giường thờ kê lại tử tế, mà lấy dao trở ra đi.
Khi ra
tới ngoài, Chu Đồng bảo với Lôi Hoành rằng:
- Tôi
tìm khắp lượt, quả nhiên không thấy đâu thực, chẳng hay ta bắt Thái Công đem đi
có được không?
Lôi
Hoành nghe Chu Đồng nói lấy làm ngạc nhiên mà nghĩ thầm rằng: "Mọi ngày
Chu Đồng đối với Tống Giang vẫn là tử tế, sao ngày nay hắn lại toan xử như thế?
Hoặc là trong bụng hắn đã đổi khác đi chăng? Nếu hắn còn nhắc đến câu ấy, thì
ta phải liệu sao mà cứu giúp Thái Công mới được!". Đoạn rồi hai người thu
gọi lính lại, mà cùng đi vào thảo đường.
Tống
Thái Công vội vàng sai làm rượu để khỏan đãi. Chu Đồng gạt đi mà rằng:
- Thái
Công đừng cho ăn uống nữa, xin mời Thái Công cùng Tứ Lang đi đến huyện một thể.
Lôi
Hoành hỏi Thái Công rằng:
- Sao
không thấy Tứ Lang ở nhà đây?
Thái
Công nói:
- Tôi
mới sai nó sang thôn gần đây, để đánh ít đồ dùng làm ruộng không có ở nhà, còn
thằng Tống Giang thì ba năm trước, tôi đã kêu quan xóa sổ, không còn ở trong
trang đây, hiện có giấy quan phê làm chứng kia.
Chu Đồng
nói:
- Cụ nói
thế không xong, chúng tôi vâng lệnh quan Huyện đến đây, bắt hai ông con nhà cụ,
vậy thế nào cũng phải đến huyện mới được.
Lôi
Hoành can Chu Đồng rằng:
- Chu Đô
Đầu, bác nghe tôi nói: - Tống Áp Ty tuy nhiên phạm tội, nhưng ở trong tất có
duyên cớ làm sao, chứ chưa chắc đã là tử tội! Huống chi Thái Công đây lại có
văn thư ấn tín làm bằng, cũng không phải là giả mạo gì, vậy chúng ta nên nghĩ
đến tình với Áp Ty khi trước mà che chở mới được. Nay ta cứ sao tờ giấy này, để
về trình quan xem sao đã.
Chu Đồng
nghe nói liền đáp rằng:
- Bác
nói thế, thì tôi cũng không nỡ nào làm ác nghiệt cho đành.
Tống
Thái Công bèn đứng dậy tạ ơn hai người, rồi sai người nhà dọn rượu lên thiết,
và đưa 20 lạng bạc lên tiễn Chu Đồng và Lôi Hoành, hai người nhất định không
nhận, sau giao cho bọn thổ binh mỗi người chia nhau một tí, đoạn rồi sao lấy
giấy má cẩn thận mà cùng nhau từ tạ Tống Thái Công để về huyện. Khi tới huyện,
hai Đô Đầu đem căn do lên trình với quan Huyện rằng:
- Chúng
tôi vâng lệnh đến đó, để vây bắt gia trang tìm trước tìm sau, tịnh không thấy
tung tích đâu cả. Tống Thái Công thì hiện đương bị cảm nằm đó, nghe chừng nguy
cấp đến nơi, còn Tống Thanh thì nghe đâu đi từ tháng trước, tới nay chưa về,
nhân vậy chúng tôi sao giấy tờ Thái Công trình quan khi trước để đem nộp.
Tri
Huyện nghe nói, biết rằng Tống Giang đã trốn thoát được rồi, thì cũng không cần
làm chi cho phiền nhiễu, liền nhất diện cho thảo giấy trình lên bản phủ, và
nhất diện thảo công văn tự đi các nơi.
Bấy giờ
các người có hàm ơn với Tống Giang khi trước, đến nói với Trương Văn Viễn để im
thôi việc ấy đi. Trương Văn Viễn phần thì nể lời chúng nói, phần thì tự mình
khi trước cũng có chịu ơn của Tống Giang, còn như Bà Tích thì cũng chết đi rồi,
cũng không làm sao được nữa, nhân đó cũng đành bỏ mặc mà không nói làm chi.
Chu Đồng
lại kiếm ít tiền, đưa cho Diêm Bà khuyên giải, không cho lên châu phủ để kêu
nài chi nữa. Còn các nơi châu phủ thì Chu Đồng đã sai người đưa tiền đến đút
lót cẩn thận, không còn đâu đòi hỏi lôi thôi. Lại được quan Huyện Vận Thành hết
lòng che chở, nên chỉ xuất một nghìn quan tiền thưởng mà bảo công văn tư đi
truy nã các nơi, còn Đường Ngưu Nhị thì kết án là cố tha người phạm bắt hai
mươi trượng đày ra ngoài năm mươi dặm, và các người liên can việc ấy đều cho về
an cư lập nghiệp.
Nói về
Tống Giang vốn là một nhà làm ruộng vì cớ sao mà có nhà hầm như vậy?
Nguyên
thời nhà Tống khi trước, làm quan dễ mà làm lại rất khó, trong triều đình vô
đạo, các gian thần xàm nịnh, đều lộng lẫy chuyên quyền, cứ kẻ thân thì dùng, kẻ
có tiền thì cất, bởi thế mà làm quan rất dễ. Còn như làm lại thí dụ một chức Áp
Ty này nếu lỡ có phạm tội trách gì, nhẹ ra thì chạm mặt đày đi sung quân, những
chốn xa khơi, mà nặng ra thì biên tịch gia tài, chém ngay lập tức, bởi vậy phải
dự bị một nơi ẩn mình từ trước. Lại còn sợ khi liên lụy đến bố mẹ, nên bố mẹ
phải làm một giấy thưa trình ở quan, để lấy chữ quan phê làm chứng như thế.
Bấy giờ
Lôi Hoành, Chu Đồng đi rồi, Tống Giang liền ở trong hầm bò ra mà nói với Tống
Thái Công rằng:
- Hôm
nay sở dĩ con được thoát tội là nhờ có Chu Đồng là người tử tế, vậy ơn ấy không
bao giờ quên được. Duy anh em con thì ngày nay tất phải tìm nơi lánh nạn xa xôi,
rồi sau này hoặc có được tha, thì bấy giờ chúng con mới có thể về nhà được. Vậy
nay thân phụ ở nhà, xin thân phụ sai người đưa tiền cho Chu Đồng, để nhờ ông ta
nói lót các nơi, và tư cấp cho mụ Diêm Bà một ít, để nó khỏi lên thượng ty kêu
khiếu lôi thôi.
Thái
Công nói:
- Hai
anh em con cứ thu xếp ra đi, phải cẩn thận rồi đến đâu thì cứ viết giấy về đây
cho ta biết, còn ở nhà mặc ta lo liệu các con không phải bận lòng.
Chiều
hôm ấy Tống Giang cùng Tống Thanh thu thập hành lý, rồi đầu trống canh tư sáng
hôm sau, dậy sớm sắp sửa ra đi. Tống Giang đầu đội nón chiên trắng, mình mặc áo
đoạn trắng, thắt dây lưng thêu, chân đi đôi giày gai, còn Tống Thanh thì đeo
khăn gói, ăn mặc ra người theo hầu, rồi cùng ra trước thảo đường để bái biệt
Thái Công.
Tống
Thái Công rơm rớm hai hàng nước mắt mà dặn rằng:
- Hai
con đi đây muôn dặm xa xôi, chớ kêu nghĩ điều chi cho phiền não.
Tống
Giang, Tống Thanh cùng vâng lời, rồi dặn dò trang khách, phải sớm khuya hầu hạ
Thái Công, chớ để có một điều gì trái đạo. Đoạn rồi hai anh em đều giắt đao
lưng, vác thanh đao lớn, mà cùng nhau từ giã gia trang.
Thanh
đao thẳng chống lên đường.
Giang hồ
một gánh tuyết sương lưng trời.
Bốn
phương non nước mù khơi.
Cánh
hồng bay bổng tuyệt vời từ đây.
Bấy giờ
đương độ thu tàn đông tới, hai anh em Tống Giang vừa đi vừa bàn với nhau, không
biết đi đâu cho tiện.
Tống
Thanh nói với Tống Giang rằng:
- Tôi
nghe thấy tiếng đồn ở quận Hoành Hải bên Thương Châu, có Sài Đại quan nhân, là
dòng dõi Đại Chu Hoàng Đế khi xưa, mà chưa được bái yết bao giờ. Thấy nói ông
ta là một người trọng nghĩa khi tài hay kết nạp bọn giang hồ, cứu giúp người
nguy bách, thực là một Mạnh Thường Quân đời nay, hay là anh em thử đến đấy xem
sao?
Tống
Giang đáp rằng:
- Trong
bụng ta cũng nghĩ như thế... Mọi khi ông ta vẫn thường thư từ đi lại với ta
luôn nhưng cũng chưa được gặp bao giờ, nay nhân tiện ta đến đó.
Hai
người bàn định xong rồi, liền lên đường đi về lối Thương Châu. Trong khi đi
đường, thôi thì lần mò lánh trốn, dãi nắng dầm mưa, ăn có khi phải bát của
người ốm, nằm phải giường của người chết, ở những hàng quán, không dám từ nan.
Được ít
lâu đi tới Thương Châu, hai anh em liền hỏi thăm đến thôn trang Sài Tiến. Khi
tới cổng trang, Tống Giang hỏi thăm trang khách rằng:
- Sài
Đại quan nhân có nhà chăng?
Trang
Khách đáp:
- Đại
quan nhân tôi sang thu thóc ở bên Đông trang.
- Đây
sang Đông trang đường đi xa hay gần?
- Đây
sang đấy có tới bốn mươi dặm đường.
- Vậy
thì đi lối nào được?
Trang
khách thấy hỏi ân cần liền hỏi rằng:
- Chúng
tôi hỏi khí không phải, quý tính cao danh của ngài là gì, cho chúng tôi được
biết.
Tống
Giang đáp:
- Tôi là
Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành tới đây.
- Có
phải ngài là Cập Thời Vũ Tống Áp Ty chăng?
- Phải
chính tôi đây.
- Nếu
vậy thì Đại quan nhân tôi thường nói luôn đến tên ngài, mà vẫn oán giận là
không được gặp. Nay ngài đến đây thì tôi xin đưa ngài sang Đông trang cho tiện.
Nói đoạn
liền dẫn Tống Giang, Tống Thanh ra đi.
Đi bộ ba
bốn giờ đã tới Đông trang, trang khách dẫn hai người vào một mái đình, mời ngồi
đó, rồi đi vào báo với Sài Tiến.
Tống
Giang cùng Tống Thanh cởi khăn gói dựng đao vào một bên, và bỏ cả đao lưng ra,
rồi ngồi đợi ở trên đình. Được một lát thấy trong trang cửa giữa mở toan ra,
rồi thấy Sài Tiến dẫn năm ba người theo hầu vội vàng ra đón. Khi ra đến tiền
đình, Sài Tiến trông thấy Tống Giang liền vái sụp xuống đất mà nói rằng:
- Thật
là khao khát tiếng ngài quá nỗi, may sao trời lại giun rủi đến đây, cho tôi
được gặp, thực lòng nầy vui vẻ biết bao.
Tống Giang
cũng lạy xuống đất mà nói rằng:
- Tôi là
thằng tiểu lại ngu dốt, hôm nay đến nương nhờ ngài ở đây.
Sài Tiến
vội vàng đỡ dậy mà nói rằng:
- Hôm
qua nhà có hoa đèn, sáng nay lại quẹt kêu trước ngõ, dè đâu chính là quý huynh
giáng lâm tới đây.
Nói xong
miệng cười tươi tỉnh như được của vậy, Tống Giang thấy Sài Tiến tiếp đãi trân
trọng thì trong lòng vui mừng, liền bảo em ra lạy chào Sài Tiến. Sài Tiến đáp
lễ xong rồi, sai người hầu đem các đồ hành lý của Tống Giang, để vào phòng bên
tây phía trong. Đoạn rồi Sài Tiến dắt tay Tống Giang đi vào nhà chính ở trong,
mời ngồi chơi nói chuyện.
Sài Tiến
hỏi Tống Giang rằng:
- Nghe
nói huynh trưởng làm việc quan bên huyện Vận Thành, sao nay lại rảnh mà đến
chơi ở chốn hoang thôn này được? này được?
- Tôi
được nghe tiếng Đại quan nhân đã lâu, khác nào như sét đánh ngang tai vậy, lại
nhiều khi tiếp được thư từ của ngài gửi đến, trong lòng thực là hâm mộ không
biết đến đâu mà kể. Nhưng ngặt vì bấy lâu nay chỉ quanh co bận việc tầm thường,
nên không sao đến hầu ngay được, ngày nay cũng vì tài hèn trí kém lỡ xẩy ra một
việc bất thần, hai anh em nghĩ đi nghĩ lại không có đâu là chỗ nương thân, song
sau chợt nghĩ đến ngài đây là bậc khinh tài trọng nghĩa, cho nên cùng kéo đến
đây để nương nhờ ít bữa.
Sài Tiến
nghe nói cười mà rằng:
- Xin
huynh trưởng cứ yên tâm, dẫu có người phạm tội đến tội Thập ác đại tội mà đã
đến đây, thì cũng không lo gì cả. Không phải là Sài Tiến tôi nói ngoa, song tha
hồ cho quan quân truy nã chưa dễ ai đã dám coi khinh một chỗ tiểu trang ở đây.
Bấy giờ
Tống Giang mới đem chuyện giết Diêm Bà Tích và sự bắt bớ thế nào kể cho Sài
Tiến nghe. Sài Tiến cười và nói rằng:
- Nếu
vậy thì xin huynh trưởng cứ vững tâm, dẫu cho giết một Đại Thần ở trong triều
hay là cướp ngay tiền ở trong kho tàng, Sài Tiến nầy cũng dám chứa ở đây.
Nói đoạn
mời hai anh em đi tắm rửa, rồi lấy ra hai bộ quần áo khăn giầy sạch sẽ, để cho
hai người thay.
Khi tắm
rửa xong rồi, trang khách mang quần áo cũ của hai người vào một phòng kín ở nhà
trong để uống rượu. Bấy giờ Tống Giang ngồi chính giữa, Sài Tiến ngồi đối diện
Tống Giang, còn Tống Thanh vì có anh ngồi ở trên, nên phải khiêm tốn mà ngồi về
một bên. Ba người ngồi xong, thì có mấy người trang khách thân mật, cùng thấy
anh chủ quán đứng hầu để lần lượt rót rượu.
Trong
khi đó Sài Tiến mời chào rất ân cần, hai anh em Tống Giang lại lấy làm khâm
phục vô cùng, rượu được vài tuần, thì ba người cùng đem lòng khát vọng của mình
xưa nay mà giải bày cùng nhau, rất là vui vẻ.
Được một
lát sắc trời đã tối, người nhà thắp đèn lên, rồi Tống Giang từ tạ xin thôi,
không uống rượu được nữa. Sài Tiến nhất định không nghe, cố ép cho Tống Giang
phải uống.
Tống
Giang bắt đắc dĩ phải vâng lời, rồi ngồi uống rượu mãi cho đến hết canh một,
bấy giờ mới xin được phép đứng dậy đi rửa. Tống Giang đứng dậy đi rửa.
Sài Tiến
liền sai trang khách, cầm đèn lồng đưa Tống Giang ra tận khỏi góc nhà bên Đông
để đi rửa. Tống Giang đứng dậy vừa đi vừa nói một mình rằng:"Ta phải trốn
mấy chén rượu mới được". Nói xong liền sồng sộc đi xuống dãy nhà ở trước
mặt. Bấy giờ Tống Giang đã chếnh choáng hơi men, chân đi không vững, nên chàng
cứ bước liều mà không biết gì hết cả.
Khi ấy
dưới nhà có một đại hán đương bị ngược tật, trong mình lạnh rét khó chịu, liền
lấy cái xẻng đựng lửa, để gần chỗ ngồi mà sưởi. Dè đâu Tống Giang đương say
rượu, chân bước lập cập dẫm lên phải cái xẻng làm cho than lửa trong xẻng bắn
tung ra cả lên mặt đại hán kia.
Đại hán
giật mình toát mồ hôi ra, rồi hăng máu nhảy choàng dậy, nắm lấy cánh tay Tống
Giang mà quát lên rằng:
- Anh là
thằng nào? ở đâu? Dám đến đây mà tiêu khiển với ta?
Tống
Giang cả kinh, lúng túng chưa biết nói làm sao. Bấy giờ tên trang khách cầm đèn
nghe thấy vậy, thì vội vàng chạy lại kêu lên rằng:
- Không
được vô lễ, ông ấy là vị khách quan rất trọng đãi của Đại quan nhân đấy.
- Khách
quan với chả khách quan, ta đây lúc mới đến, cũng là khách quan, mà cũng là
trọng đãi đấy, thế mà bây giờ sao lại khinh mạn ta? Thế mới biết là:"Mấy
người tử tế giữ gìn được lâu".
Nói xong
giơ tay toan đánh Tống Giang. Người trang khách vội vất đèn xuống, mà xông vào
để can giữ lại. Đương khi đôi bên giằng nhau, thấy hai ba cái đèn lồng ở đàng
kia chạy đến, rồi thấy Sài Tiến cũng chạy đến mà nói rằng:
- Tôi đi
theo Áp Ty không kịp, sao Áp Ty lại lôi thôi ở đây?
Tên
trang khách liền đem chuyện Tống Giang dẫm phải xẻng lửa mà thuật lại cho Sài
Tiến nghe. Sài Tiến cả cười mà nói rằng:
- Đại
hán không biết vị Áp Ty danh tiếng nầy hay sao?
Đại hán
đáp rằng:
- Lừng
lẫy có bằng Tống Áp Ty ở huyện Vận Thành ta chăng?
Sài Tiến
lại cười mà rằng:
- Bác
biết Tống Áp Ty không?
- Tôi
chưa gặp mặt bao giờ, nhưng vẫn nghe tiếng Cập Thời Vũ Tống Công Minh là tay
hảo hán đã lâu.
- Làm
sao lại biết được ông ấy là tay hảo hán?
- Khoan,
tôi đã nói xong đâu! Ông ta là người Đại trượng phu có đầu có đuôi, có sau có
trước, tôi chỉ đợi bao giờ khỏi bệnh, là đi tìm đến ông ta đấy...
- Bác có
muốn gặp ông ấy không?
- Không
muốn gặp thì nói đến làm gì?
Sài Tiến
trỏ Tống Giang mà bảo đại hán rằng:
- Bác
ơi! Xa nghìn dặm đường, mà gần thì chỉ trước mắt đó thôi. Chính ông nầy là Cập
Thời Vũ Tống Công Minh đó.
Đại hán
ngạc nhiên nhìn Tống Giang mà nói rằng:
- Không
lẽ là ông ta đây?
Tống
Giang đáp:
- Chính
tôi Tống Giang thực.
Đại hán
kia nhìn lại một lượt, rồi cúi đầu xuống lạy mà nói rằng:
- Không
ngờ hôm nay được gặp huynh trưởng ở đây...
Tống
Giang thấy vậy liền hỏi:
- Vì cớ
sao mà đại hán lại quá yêu tôi thế.
Đại hán
đáp:
- Vừa
rồi tôi thực vô lễ, xin ngài tha lỗi cho. Thực có mắt mà không trông thấy Thái
Sơn.
Nói đoạn
quỳ ngay xuống đất, mà không đứng nữa.
Mới hay
là:
Những
cơn thất ý xưa nay,
Thường
là cơ hội cho tay anh tài.
Ví không
trừ bỏ chông gai,
Tấm thân
sao thoát ra ngoài cơ mi,
Ở đây
càng trải gian nguy càng hung!
Mở gương
kim cổ mà trông,
Anh hào
mấy kẻ cam lòng thân an.
Sống
không biết mặt giang sơn,
Thì oan
nghiệt ấy ai bàn làm chi?
Lời Bàn
Của Thánh Thán:
Xưa kia
Bá Nha có khúc đàn lưu thủy cao sơn, sau khi Tử Kỳ đã chết, thì không dạo đàn
nữa, khiến đời sau thuật chuyện, nghĩ đến đau lòng, ai không vì đó mà than: Sao
ta không được đồng thời, để gặp Bá Nha, kết bạn tri ân! Hỡi ơi! Sao mà nói nghe
dễ dàng thế nhỉ? Vì ta xét đến nghĩa thanh âm rất là vi diệu, xét tới rất khó,
xin đừng nói dễ mà biết thẩm âm, so đến văn chương thấy dễ hơn nhiều, vì trong
văn chương đời nay còn dễ xem hơn nữa một tầng, như các Sử quan này, thử mở con
mắt minh nguyệt, và giở trái tim châu ngọc, uốn ngọn lưỡi sán hoa, mà giải
truyện Thủy Hử của Thi Nại Am tiên sinh, thì lựa là phải nghe đàn Bá Nha, mới
phải là nghe tiếng đàn mà biết ý nhã? ? ?
Đây xen
đến án mạng Tống Giang giết Bà Tích, tác giả phải dùng đến nhiều bút mực, trăm
nghìn khúc chiết, đưa lại cho Tống Giang một sự giết người, do lòng văn của tác
giả, muốn làm cho Tống Giang phải bỏ Vận Thành đi đến Thương Châu, khi đó
Trương Tam thì muốn tróc nã, mà Huyện Quan lại muốn dong tha, nếu khi ấy không
có Trương Tam làm thầy dùi cho sọm già, để Huyện Quan đổ tội cho Đường Ngưu
Nhị, há rằng đem những văn tự hồi trên, để nói về Đường Ngưu Nhị tất cả hay
sao?
Phải tả
Trương Tam để thầy dùi sọm già, chủ bắt Tống Giang, để làm cốt truyện, mà tả
Huyện Quan với mọi người trong thành, để hết sức bênh vực Tống Giang, mà sợ
rằng phải đến tróc nã, để làm thêm văn, cho đủ câu chuyện. Nếu Trương Tam không
thầy dùi, thì sọm già không thưa kiện, mà sọm già không thưa kiện, thì Huyện
Quan chẳng bắt nữa, Huyện Quan không bắt nữa thì Tống Giang không phải trốn,
Tống Giang không phải trốn, thì không đưa ra chuyện Võ Tòng, câu chuyện phải
dính lýu nhau như thế, sao người đời xem đến chuyện này, còn cứ chê trách Quan
Huyện, bực tức Trương Tam, mà còn tự cho mình hiểu nổi Bá Nha, thì than ôi! Còn
biết Bá Nha là bậc người nào?
Tả hai
người Chu Đồng, Lôi Hoành đều có tâm sự, đều có pháp văn, lại đều chẳng như
nhau, mà đều hết sức, từng câu đều thoáy ý, cùng với khi tha Tiều Thiên Vương,
chính là một dạng kỳ bút, lại là hai dạng kỳ bút, cho nên cái tài của kẻ tài,
ta không biết đến đâu mà hạn lượng nổi.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 22: Quận Hoành Hải, Sài Tiến tiếp tân,
Núi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ
Bấy giờ
Tống Giang thấy đại hán kia quỳ xuống đất, liền giơ tay đỡ dậy mà hỏi rằng:
- Chẳng
hay quý tánh cao danh túc hạ là gì, xin cho tôi được biết?
Sài Tiến
trỏ vào đại hán ấy mà bảo với Tống Giang rằng.
- Bác
nầy người ở huyện Thanh Hà, họ Võ tên Tòng, ở vai thứ hai, đến chơi đây đã một
năm nay đó.
Tống
Giang cả mừng mà rằng:
- Xưa
nay vẫn thường nghe tiếng Võ Nhị Lang, mà ai ngờ lại vơ vẩn gặp đây, cái cơ hội
ấy rất là hiếm có, vậy xin đón lên nhà để nói chuyện một thể.
Tống
Giang lấy làm vui mừng liền dắt tay Võ Tòng cùng đi lên trên nhà, rồi bảo anh
em là Tống Thanh ra chào. Sài Tiến mời Võ Tòng vào ngồi dự tiệc. Tống Giang có
ý mời Võ Tòng cùng ngồi ngang hàng, song Võ Tòng nhất định không nghe mà ngồi
vào ghế thứ ba.
Sài Tiến
sai người nhà dọn lại bàn tiệc rồi hết sức khuyên mời ba người sơi rượu... Bấy
giờ dưới bóng đèn sáng Tống Giang nom rõ mặt Võ Tòng là một người hiên ngang
khác chúng, thì trong lòng càng vui vẻ bội phần. Nhân lại hỏi Võ Tòng rằng:
- Nhị
Lang làm sao cũng quanh quẩn đến đây?
Võ Tòng
đáp rằng:
- Nguyên
tiểu đệ khi ở Thanh Hà có cãi nhau với một anh làm việc quan, rồi nóng người
tiết lên đánh anh ta một đấm nằm vật ra đấy, tiểu đệ chắc rằng thế nào anh ta
cũng chết mà liên lụy đến thân nên phải chạy sang Sài Đại quan nhân đây để mà
lánh mặt, tới nay đã hơn một năm rồi. Sau tiểu đệ hỏi thăm thấy nói là anh ta
không việc gì cả, liền muốn trở về qua làng rồi đi sang tìm đến ca ca dè đâu
lại bị sốt rét ngồi sưởi thì gặp ca ca dẫm phải cái xẻng lửa, làm cho tiểu đệ
giật mình toát cả mồ hôi, có lẽ lại khỏi cả bệnh sốt.
Tống
Giang nghe nói cả mừng cùng ngồi uống rượu với nhau đến canh ba mới tan. Đoạn
rồi Tống Giang dắt Võ Tòng xuống tây hiên để cùng ngủ...
Sáng hôm
sau Sài Tiến sai giết dê mổ lợn để khỏan đãi Tống Giang mà lưu giữ ở đây. Cách
mấy hôm sau Tống Giang lấy tiền nhờ người may quần áo cho Võ Tòng mặc. Sài Tiến
thấy vậy liền lấy ra một hòm vải đoạn sai thợ ở trong nhà may áo, may xiêm cho
tất cả ba người mà không dám để cho thiệt hại đến tiền của Tống Giang.
Nguyên
Võ Tòng từ khi mới đến ở đấy, Sài Tiến cũng khoản đãi tử tế không có chút gì
trễ nải. Duy tính khí Võ Tòng là người chướng trực mỗi khi đánh chén say vào
thì lại hay sinh sự với người nhà, người cửa, lỡ ra anh nào có điều gì sơ xuất,
thượng cẳng tay hạ cẳng chân liền, đánh đá luôn ngày mà không nể anh nào cả.
Bởi thế bọn người nhà là không ai bằng lòng với Võ Tòng cả, mà thường khi lại
đem chuyện lên để nói cho Sài Tiến biết. Sài Tiến thấy vậy thì cũng không có
lòng nào khinh bỉ đuổi đi, song từ đó cách tiếp đãi cũng dần dần không được chu
tất như là khi trước nữa.
Ngày nay
may được có Tống Giang đến đây, hàng ngày lại bạn bè tiếp đãi với Võ Tòng, làm
cho Võ Tòng cũng hả vui trong dạ mà khỏi cả bệnh xưa... Ở đó được mười lăm hôm,
thì Võ Tòng có ý muốn trở về làng để thăm anh cả, song Sài Tiến cùng Tống Giang
cố giữ lại mà không cho đi.
Võ Tòng
nói với hai người rằng:
- Tôi
còn có anh cả ở nhà, mà lâu nay không thấy có tin tức gì đến đây, vậy thế nào
cũng xin về qua mới được.
Tống
Giang nói:
- Nếu
quả là Nhị Lang, có lòng muốn về, thì cũng không nên cưỡng là lưu lại, xong có
lúc nào rảnh rỗi thì lại xin mời đến đây để xem cơ hội ra sao? ...
Võ Tòng
vâng lời mà cảm tạ Tống Giang, Sài Tiến lại lấy một ít tiền bạc đưa tiễn Võ
Tòng.
Võ Tòng
tạ ơn mà rằng:
- Chúng
tôi ở đây đã lâu thực là phiền nhiễu Đại quan nhân lắm lắm.
Nói đoạn
thu xếp khăn gói hành lý để sắp sửa ra đi.
Sài Tiến
lại đặt tiệc tiễn hành, mấy người chè chén trò chuyện với nhau đến khi quá vui
rồi Võ Tòng mới xin bái biệt để đi.
Bấy giờ
Võ Tòng mình mặc áo trừu đỏ mới, đầu đội nón chiên trắng, lưng đeo khăn gói;
tay xách gậy mà từ biệt mọi người để lên đường.
Trong
khi sắp sửa ra đi, Tống Giang còn cầm lại rồi chạy về phòng lấy mấy lạng bạc
giắt vào lưng mà bảo với Võ Tòng rằng:
- Tôi
xin đưa chân hiền đệ đi một quãng cho vui.
Nói đoạn
Võ Tòng từ biệt Sài Tiến, ra đi, hai anh em Tống Giang cũng xin phép để đi tiễn
chân một thể.
Ba người
ra khỏi Đông Trang được độ dăm bảy dặm đường, Võ Tòng liền quay lại vái Tống
Giang mà rằng:
- Tới
đây đã xa rồi xin huynh trưởng trở về kẻo Sài Đại quan nhân mong đợi.
Tống
Giang đáp rằng:
- Để tôi
đưa chân hiền đệ một quãng nữa có hại gì.
Nói đoạn
ba người lại cùng đi cùng nói chuyện với nhau.
Vào
khoảng hai ba dặm đường nữa, Võ Tòng lại cầm tay Tống Giang mà rằng:
- Tôi
xin đưa chân đến chỗ tửu điếm ở bên đường cái kia, để ta cùng uống với nhau mấy
chén rượu nữa rồi ta sẽ trở về.
Đoạn rồi
ba người, cùng dấn bước đến chỗ tửu điếm bên đường... Khi tới nơi, Tống Giang
ngồi đầu bàn dưới, còn Tống Thanh thì ngồi một bên, rồi tửu bảo dọn rượu lên ba
người cùng uống.
Bấy giờ
mặt trời đã xế non Tây, Võ Tòng liền nói với Tống Giang rằng:
- Ca ca
đã có lòng hạ cố mà không bỏ Nhị Lang này thì xin ca ca nhận cho bốn lạy để bái
nghĩa làm huynh.
Tống
Giang rất lấy làm vui mừng liền nhận bốn lạy của Võ Tòng rồi lấy ra một đĩnh
mười lạng bạc đưa tiễn Võ Tòng.
Võ Tòng
từ chối không lấy mà rằng:
- Cái đó
xin để ca ca chi dụng.
Tống
Giang nói:
- Hiền
đệ bất tất phải từ chối, nếu hiền đệ không lấy thì ta không dám nhận làm anh
em...
Võ Tòng
bất đắc dĩ phải nhận lấy mà bọc vào khăn gói tử tế, Tống Giang lại lấy ít tiền
lẻ ra để tính trả tiền rượu, đoạn rồi Võ Tòng cầm lấy gậy mà cùng nhau đứng dậy
đi ra ngoài tửu điếm... Khi ra tới cửa Võ Tòng lại gạt lệ bái biệt mà đi. Còn
hai người anh em Tống Giang thì đứng trước cửa hàng trông theo mãi đến khi
người xa xa khuất mới cùng nhau lui gót trở về.
Trông
chừng trời đổ non tây
Anh hùng
này lúc chia tay cũng sầu!
Rồi đây
một bước xa nhau
Kinh
trời động đất biết đâu có người
Bây giờ
Tống Giang cùng Tống Thanh trở về đến nửa đường thì gặp Sài Tiến cưỡi ngựa và
sau lưng dắt hai con ngựa đi không để ra đón, Tống Giang trông thấy cả mừng
liền cùng nhau lên ngựa dóng cương cùng về trang viện. Đoạn rồi Sài Tiến lưu
hai anh em Tống Giang cùng ở đó mà cung phụng rất là tử tế...
Võ Tòng
từ khi bái biệt Tống Giang đi được mấy thôi đường thì trời đã tối, liền tìm vào
một tửu điếm để nghỉ. Sáng hôm sau cơm nước xong rồi lại một mình ra đi thực
sớm. Chàng vừa đi vừa nghĩ thầm trong bụng rằng:"Xưa nay chỉ nghe tiếng
bọn giang hồ nói là Cập Thời Vũ Tống Công Minh mà không được gặp. Ngày nay mới
biết là quả nhiên danh bất hư truyền, kết giao được một người như thế, để làm
anh em, thực cũng khỏi phí một đời hảo hán".
Võ Tòng
nghĩ như vậy, thì trong lòng cũng lấy làm vui vẻ, và hâm mộ vô cùng. Cách vài
hôm sau, một hôm vào khoảng quá trưa, chàng đi tới gần địa hạt huyện Dương Cốc,
nghe trong bụng cũng có đôi phần đói khát, muốn tìm vào tửu điếm để ăn. Chợt
trông thấy trước mặt có một ngôi hàng rượu, trước cửa cắm lá cờ chiêu bài, viết
mấy chữ rằng: "Ba chén không qua được núi".
Chàng ta
thấy vậy liền xăm xăm đi vào hàng, kiếm ghế ngồi và dựa gậy vào một chỗ, rồi
gọi nhà hàng lấy rượu. Bấy giờ thấy chủ hàng mang ra ba cái chén, một đôi đũa
và một đĩa rau chín, đặt lên trên bàn, rồi bảo với chủ hàng rằng:
- Cái
rượu này tốt, uống vào dễ chịu lắm, chủ nhân có thức gì nhắm đem lại đây.
Chủ hàng
đáp:
- Hàng
tôi chỉ có thịt bò chín thôi.
- Được,
thái vài ba cân thịt, đem đây nhắm rượu.
Chủ hàng
vâng lời ra thái hai cân thịt, để vào một cái đĩa lớn đem lên rồi lại rót ra
thêm một chén rượu nữa là ba. Khi uống xong chủ hàng cất rượu đi mà không rót
nữa. Võ Tòng liền vỗ bàn mà kêu lên rằng:
- Nhà
hàng sao không rót rượu nữa ra đây?
Nhà hàng
đáp:
- Ngài
xơi thịt nữa thì tôi đem lên thôi.
- Ta
uống rượu nữa và thái thịt lên đây một thể.
- Ngài
cần thịt thì tôi xin thái thêm, chứ rượu thì tôi không bán nữa.
- Quái
lạ? Sao không bán rượu cho ta nữa?
- Ngài
có trông thấy trên cửa tôi yết rằng:"Ba chén không qua được núi"
chăng?
- Rượu
của tôi đây đâu phải là rượu của quê nhà, nhưng cũng không kém gì các thứ rượu
tăm, phàm ai đến hàng này uống vào ba chén, là say ngay không thể nào qua được
núi. Bởi vậy nên bao nhiêu người tới đây cũng chỉ uống ba chén, mà không ai gọi
lấy thêm bao giờ.
Võ Tòng
cười mà rằng:
- Thế
sao ta uống hết ba chén cũng không thấy say?
- Thứ
rượu của tôi đó, gọi là rượu Thấu bình hương là thơm thấu ra ngoài bình, lại
gọi là rượu Xuất môn tảo, nghĩa là mới uống vào thì ngọt như rượu nếp, rồi một
lúc ngã say người ra.
- Thôi
đừng nói khoác, không rót ba chén nữa đây, thì không trả tiền nữa.
Chủ hàng
thấy Võ Tòng quả nhiên chưa có gì là say, liền lấy rượu rót thêm ba chén cho Võ
Tòng nuống. Võ Tòng uống lại khen rằng:
- Rượu
tốt thực! Chủ hàng ôi! Ta uống chén nào trả tiền chén ấy, cứ rót đây cho ta.
- Chết
rồi, ngài chớ uống liều thế, rượu nầy say chết người, không ai mà chữa được
đâu?
- Thôi
anh đừng nói láo, sanh có bỏ thuốc mê vào đó, thì ta đây cũng có mũi chứ...
Chủ hàng
không biết làm thế nào được, lại phải rót ra ba chén nữa, Võ Tòng lại gọi lấy
thêm hai cân thịt nữa lên, rồi uống luôn mấy chén rượu, ra dáng khoái hoạt vô
cùng.
Khi uống
hết mấy chén rồi, Võ Tòng bỏ ra ít tiền lẻ để bàn, rồi gọi chủ hàng đến mà bảo
rằng:
- Anh
thử xem tiền tôi có đủ trả tiền rượu không.
Chú hàng
đếm thấy nhiều tiền liền đáp rằng:
- Đây
còn thừa của ngài, để trả lại ngài.
- Không
cần trả lại, cứ rót rượu ra đây là được rồi.
- Ngài
muốn uống nữa, đây cũng còn đến dăm sáu chén, nhưng chỉ sợ ngài không uống được
thôi.
- Có dăm
sáu chén, thì cứ mang tất cả ra đây.
Chủ hàng
nghe nói liền đáp rằng:
- Ông to
lớn thế này, mà ngã lăn ra thì ai nâng dậy được?
Võ Tòng
cười mà rằng:
- Ta lại
cần đến anh nâng đỡ dậy, thì đã không phải là tay hảo hán.
Chủ hàng
nghe nói mặc lòng, nhất định không đem rượu ra bán nữa.
Võ Tòng
nổi giận lên mắng rằng:
- Ta
không thèm uống quịt của các ngươi, các ngươi đừng trêu tức lão gia, mà lại tan
cả nhà bây giờ!
Chủ hàng
nghĩ thầm trong bụng:"Anh này đã chếng choáng rồi, mặc thây hắn ta, chẳng
dây vào làm gì nữa!". Nghĩ đoạn liền đem rượu ra rót luôn năm sáu chén cho
Võ Tòng uống. Võ Tòng uống xong, tính tất cả trước sau có tới mười tám chén
rượu liền vớ lấy gậy đứng phắt dậy mà nói rằng:
- Nào ta
có say gì đâu?
Nói đoạn
đi ra đến cửa lại cười ha hả lên rằng:
- Nào ta
có say gì đâu? Thế mà chả nói rằng ba chén không qua được núi!
Đoạn rồi
vác gậy chạy xông đi. Bấy giờ chủ hàng chạy ra gọi lên mà bảo rằng:
- Này
ông khách đi đâu đấy?
Võ Tòng
nghe nói đứng dừng lại mà rằng:
- Gọi ta
làm cái gì? Ta có thiếu tiền của anh đâu mà gọi?
- Tôi
gọi vì có lòng tử tế đó thôi, ông hãy vào nhà tôi mà xem giấy của quan yết thị
đã.
- Yết
thị gì?
- Hiện
nay ở trên núi Cảnh Dương có một con cọp rất lớn, cứ đến chiều là ra đón ở
đường, để hại người qua lại, xưa nay giết hại đã có tới hai ba mươi tên hảo
hán, mà chưa ai làm sao trị nổi. Bởi vậy quan trên đã nghiêm sức cho bọn săn
bắn đi lùng bắt, và yết giấy cho các hành khách, tất phải đợi nhau kết thành
một tụi trong khoảng giờ tị, giờ ngọ, giờ mùi (tức khoảng trưa) thì mới được đi
qua núi, còn buổi sớm chiều hôm và khách đi một mình, thì cấm không cho đi qua
đấy. Nhân thế rồi sợ ông đi có một mình, mà lại gần tối rồi, lỡ ra thiệt đến
tính mạng thì nguy, vậy bất nhược, ông hãy tạm nghỉ ở nhà hàng tôi, để đợi sáng
mai có đông người rồi sẽ đi mới được.
Võ Tòng
nghe nói cười mà đáp rằng:
- Ta đây
người ở huyện Thanh Hà, xưa nay đi qua núi Cảnh Dương này, ít ra cũng có vài
mươi lần, nào có thấy ai nói đến chuyện beo cọp gì đâu? Anh đừng giở đến chuyện
ấy mà lòe ta mới được. Mà cho hẳn có cọp nữa, thì ta đây nào có sợ gì!
Nhà hàng
nói:
- Đấy là
lòng tốt của tôi, tôi muốn cứu ông, nếu không tin, thì lại xem bảng yết ở đây
thì biết.
Võ Tòng
gạt phắt đi mà rằng:
- Thôi
đừng nói nữa... Dù có có cọp thực nữa, lão gia đây cũng không sợ.. Anh định giữ
ta ở lại đêm nay cướp tiền hại ta, rồi lại đem cọp ra lòe ta hay sao?
Chủ hàng
lấy làm bực mình liền đáp lại rằng:
- Ông
không biết lòng cho tôi, được, thôi tùy ý, không tin thì cứ đi đi.
Nói xong
lắc đầu, ra vẻ tức mình mà mà trở vào nhà.
Võ Tòng
lại điềm nhiên vác gậy lên vai, bước khoát đạt lên núi Cảnh Dương. Đi được bốn
năm dặm đường, đến chỗ chân núi, thấy bên đường có một cây lớn gọt trắng một
quãng vỏ, có viết mấy hàng chữ lên trên. Võ Tòng đứng dừng lại ngửa mặt lên
xem, thì thấy chữ yết rằng:
"Trên
núi Cảnh Dương có con cọp lớn hại người, vậy phàm có khách thương qua lại, tất
phải đợi đến giờ Tị, giờ Ngọ, Giờ Mùi, mà tụ họp đông người, sẽ đi qua núi. Xin
chớ có liều mà chết".
Võ Tòng
xem xong cười mà nói rằng:
- Cái
này là mưu mẹo của thằng hàng cơm, nhưng ta đây có sợ gì, định lừa người ta
phải trọ lại ở hàng nó đây... nhưng ta đây có sợ gì? ... Nói đoạn lại vung
ngang cây gậy mà đi lên núi. Bấy giờ vào khoảng giờ Thân, mặt trời đã sắp tà tà
lặn, Võ Tòng thừa lúc hơi men cao hứng, cứ vùn vụt bước tràn lên núi.
Đi độ
nửa dặm đường, đến một tòa miếu cổ, chợt trông thấy trước cửa miếu dán một tờ
bảng yết, chàng liền đứng dừng lại ngẩng lên để xem. Trong bảng yết rằng:
"Huyện
Dương Cốc yết thị cho các hành khách bộ hành cùng biết. Hiện nay trên núi Cảnh
Dương có con cọp lớn giết hại nhiều người. Bản huyện đã sắc cho các nhà đi săn
lùng bắt chưa được. Vậy phàm khách thương đi đến đây, tất phải đợi có đông
người, mà chờ đúng giờ Thìn, giờ Tỵ, giờ Ngọ, giờ Mùi thì mới qua núi được. Còn
các giờ khác và khách đi một mình, đều cấm không cho đi qua núi, e khi thiệt
hại tính mạng không chơi".
Nay yết
thị. Ngày... tháng... năm niên hiệu Chính Hòa.
Võ Tòng
nom đến đấy, đã có ấn tín quan tư cẩn thận, bấy giờ mới tin trên núi có hổ,
liền toan quay lại xuống núi để nghỉ. Đoạn rồi lại nghĩ thầm trong bụng rằng:
"Nếu
bây giờ ta về đấy, tất nhiên bị chủ điếm chê cười, như thế là không phải tay
hảo hớn... làm thế nào cho tiện? ".
Chàng
nghĩ vơ vẩn một lát, rồi lại nói một mình rằng: Sợ cái gì? Ta thử đi xem đã làm
sao? ... Nói xong lại vác gậy mà sồng sộc đi lên.
Rượu này
sức ấy tài kia,
Trời còn
coi bé huống chi vật thường?
Ví không
thiết thạch can trường
Gánh sao
cho nổi tang thương với đời?
Khi Võ
Tòng đi được mấy bước, nghe chừng hơi rượu đã bốc lên hừng hực, liền lật cái
nón khoác về sau lưng, rồi cắp gậy vào một bên sườn, mà hăm hở bước đi. Hồi đó
đương dạo tháng 10, đêm dài ngày ngắn, nên đi chữa được mấy chút đường thì thấy
mặt trời đã lặn, chàng liền nói lẩm bẩm một mình rằng:
- Ở đây
làm gì có hổ, chẳng qua họ chỉ sợ không dám đi lên đó thôi.
Nói đoạn
lại dấn bước đi lên, bấy giờ hơi rượu càng ngày càng ngấm, lại càng nóng bức
khó chịu, chàng liền một tay cầm gậy, một tay cởi phanh áo ngực mà đi thốc vào
lối rừng cây. Chợt trông thấy viên đá xanh lớn để ở một bên đường, Võ Tòng liền
dừng lại, dựng thanh gậy vào mạn rồi nằm lăn lên viên đá toan ngủ.
Đương
khi nghiêng ngả thích tình, thì bỗng có một trận cuồng phong đưa đến, rồi nghe
thấy ở đằng sau bụi cây có tiếng gầm lên dậy đất, đoạn rồi một con cọp rất lớn
ở đâu xuất hiện ra.
Võ Tòng
trông thấy, kêu lên một tiếng"Ái chà", rồi nhẩy bổ dậy vớ thanh gậy
nấp vào bên cạnh viên đá. Con cọp kia đương khi đói, miệng khát, trông thấy có
mồi ăn, liền gầm lên một tiếng, cong vót đuôi lên, giơ hai vuốt chân trước cào
xuống đất mấy cái, rồi nhún mình nhằm nơi Võ Tòng nấp mà nhẩy vọt xuống đánh
sầm một cái, khác nào như đất lở trời long vậy.
Võ Tòng
thấy vậy giật mình đổ toát mồ hôi, thành ra hơi rượu đương nồng, mà bỗng dưng
mát lạnh, rồi vất mình đến vút một cái, mà tránh hẳn về sau lưng cọp.
Hổ ta
trông về phía sau không được, liền đập hai hàng vuốt trước xuống đất, rồi ném
mình mà quay ngoắt để vồ. Võ Tòng lại lùi sang một bước mà tránh hẳn về một
bên. Hổ ta thấy vồ không trúng, thì gầm thét lên một tiếng như sấm đánh lưng
trời, cơ hồ đất núi Cảnh Dương cũng phải ầm ầm chuyển động, rồi dựng thẳng đuôi
lên cứng như gậy sắt và vật sang để đánh. Võ Tòng lại lánh về một bên, thành ra
anh hổ lại đánh cái trẫng.
Nguyên
giống hổ bắt người, thường dùng ba cách: Một là tát, hai là vồ, ba là đánh; Nay
thấy dùng hết ba cách ấy, mà không ăn thua gì, trong lòng dạ đã chột đi một nửa
phần, liền gầm lên một tiếng nữa, mà quay chồm trở lại.
Võ Tòng
thấy hổ ta quay chồm lại, liền hai tay múa cây gậy, ráng hết sức bình sinh, giơ
thực thẳng cánh, vụt một cái nghe rắc một tiếng, rồi có một cây to đổ ngay
trước mặt.
Chàng
định tình lại để nom thì té ra ngọn gậy đánh gấp quá, không trúng vào con cọp,
mà lại trúng ngay vào cây khô ở bên, làm cho cây cũng gãy xuống mà gậy thì mất
phăng đi một nửa, chỉ còn một nửa ở tay.
Bấy giờ
con cọp nóng tiết, lại gầm thét ầm ĩ mà quay lại vồ luôn cái nữa.
Võ Tòng
vội giật lùi lại vào khoảng hai mươi thước, vừa hay khi ấy hai chân trước của
cọp ta vồ soài xuống chỗ đất ở trước mặt Võ Tòng, chàng liền vứt văng gậy ra
một bên, rồi vung hai tay ra nắm lấy bờm con hổ mà ấn xuống đất.
Hổ ta
hết sức cựa dậy, song bị Võ Tòng cũng hết đè xuống, mà giơ gót cẳng nhè giữa
mặt con hổ mà rọi lấy rọi để một hồi. Hổ tức mình kêu gầm rít lên, rồi hai chân
sau cào đập cào xuống mặt đất, làm cho đống đất đằng sau lõm xuống hẳn như vũng
sâu vậy. Mãi sau hổ ta mệt nhoài mệt lử không còn hơi sức nào cự lại được, Võ
Tòng liền tay trái giữ chặt lấy bờm ấn xuống đất, rồi rút tay phải ra mà giơ
những nắm đấm tay như sắt, hết sức bình sinh, đánh luôn cho năm bảy mươi quả
đấm nữa.
Hổ ta bị
đấm một lúc, vọt máu tươi ra khắp cả mồm mũi và hai mắt, rồi chỉ thở lên hồng
hộc, mà lử đi không cựa được.
Bấy giờ
Võ Tòng buông tay ra, rồi chạy đến bên gốc cây tìm lấy đoạn cây gãy, mà đem đến
đánh luôn mấy chục cái nữa, cho hổ chết hẳn mới thôi.
Đoạn rồi
chàng sấn vào vũng máu, định xách con hổ đem xuống dưới núi, song vì lúc trước
dùng sức quá mạnh, thành thử bấy giờ chân tay đều rời rả cả ra, mà không sao
nhắc nổi lên được.
Võ Tòng
thấy vậy, liền bỏ con hổ ở đấy, rồi lại lên trên viên đá ngồi nghỉ. Một lúc
chàng nghĩ thầm rằng:"Bây giờ trời đương tối tăm thế này, nếu ta ngồi đây
mà lỡ có con hổ nào nữa bò ra, thì cự địch làm sao được? Bất nhược ta hãy xuống
núi tìm chỗ ngủ, rồi sáng mai sẽ liệu".
Nghĩ
đoạn liền lấy nón, lại khoác lên vai rồi quanh quất theo lối rừng cây mà đi lần
xuống núi... Vừa đi được nửa dặm đường thì quả nhiên lại thấy hai con cọp nữa
đương ở trong đám bụi cỏ hiện ra, chàng bèn kêu một tiếng"Trời ơi" mà
rằng:
- Phen
này thì ta nguy mất!.
Nói đoạn
thì thấy hai con cọp ấy bỗng dưng đứng dựng ngay lên mà đi. Võ Tòng địng tình
lại để xem thì té ra là hai người đầu đội lốt hổ, mà mỗi người tay cầm một cái
đinh năm đi đến.
Hai
người ấy trông thấy Võ Tòng thì lấy làm kinh ngạc mà hỏi rằng:
- Anh...
anh nầy có dễ... ruột beo, gan sư tử, mật lớn bọc cả lấy thân hay sao mà đêm
hôm không có khí giới gì ở trong tay lại dám đi qua đây như vậy? Anh... anh là
người hay ma?
Võ Tòng
lại hỏi rằng:
- Hai
các anh là người thế nào?
Hai
người kia đáp rằng:
- Chúng
tôi là đám đi săn ở bản xứ đây.
- Các
anh định lên núi làm gì?
Hai anh
kia lại chếnh choáng người lên mà rằng:
- Chết
nỗi anh không biết à? Ở đây có một con cọp rất to, đêm đến vẫn ra ăn thịt
người, đám đi săn chúng tôi hiện đã thiệt mất bảy tám mạng, còn đám thương
khách qua lại cũng chết hại không biết đến đâu mà kể. Bây giờ quan huyện sức
giấy cho lý trưởng làng tôi phải loan cho bọn đi săn để lùng bắt, nhưng giống
gớm ghê ấy nào đã ai dám đến gần được nó ở đâu? Bởi thế mà chúng tôi bị đòn vọt
mấy lần cũng chưa sao bắt được. Hôm nay anh em kéo đến mười mấy tên dân phu
trong làng, anh nào anh nấy đều phải mang gậy cung tên thuốc mà nấp ở các nơi
để rình. Vừa rồi trông thấy anh ở trên núi đi xuống chúng tôi lấy làm kinh sợ
tưởng hắn đã ra, ai ngờ lại là người, mà sao dám đi bây giờ? Thế anh có trông
thấy con cọp ấy không?
Võ Tòng
cười mà đáp rằng:
- Ta đây
là Võ Nhị Lang người ở huyện Thanh Hà, vừa rồi đi qua đám rừng cây ở trên, bỗng
có con cọp ra đó bị ta đánh cho mấy cẳng tay chết rồi.
Hai anh
đi săn nghe nói ngây hẳn người ra một lúc rồi mới nói rằng:
- Không
có lẽ thế?
- Các
anh không tin, thử nom xem trên mình ta có máu me be bét ra đây không?
- Làm
thế nào mà đánh được nó?
Võ Tòng
liền đem chuyện lúc đánh nhau với hổ thuật cho hai người nghe.
Hai
người nghe xong thì hoảng hốt mơ hồ vừa mừng vừa sợ, rồi gọi đám phu cùng đến
đó mà nói chuyện cho chúng nghe.
Võ Tòng
bảo với tụi đi săn rằng:
- Các
anh thử theo ta lên núi nầy mà xem.
Chúng
nghe nói vẫn còn nửa tin nửa ngờ chưa dám quả quyết đi lên. Sau các người đều
có dao gang đá lửa liền bàn nhau thắp đèn đến dăm bảy bó đuốc mà liều theo Võ
Tòng đi lên núi.
Khi tới
giữa núi, quả nhiên có con hổ nằm chết lăn queo ở đó chúng thấy mừng rũ người
ra, rồi bảo nhau về báo cho Lý Trưởng biết. Còn mấy tên dân phu thì lấy thừng
chão ra trói chặt con hổ lại mà khiêng xuống núi. Vừa đến chân núi thì đã thấy
một tụi bảy tám người ầm ầm kéo đến, rồi khiêng một cỗ kiệu để đón Võ Tòng về
nhà huynh dịch ở làng để ngủ. Khi tới nơi, Lý Trưởng trong làng đã đến đấy đón
tiếp Võ Tòng vào, rồi chúng khiêng con hổ về ở thảo sảnh. Bấy giờ các đàn anh
trong làng, cùng hai ba mươi tên tay săn đều kéo đến chào Võ Tòng mà hỏi thăm
tên họ và việc say rượu đánh hổ, kể suốt đầu đuôi cho chùng nghe một lượt.
Chúng
liền cả mừng mà rằng:
- Ngài
thực là anh hùng hảo hán, hiếm có xưa nay.
- Nói
đoạn các tay săn liền đem mấy món dã vị, để tạm mời Võ Tòng uống rượu. Nhân khi
đánh hổ xong, nghe trong mình mệt nhọc liền nói với mọi người để tìm nơi yên
nghỉ. Các đàn anh thấy vậy, sai trang khách dọn một phòng, để mời Võ Tòng vào
nghỉ.
Đến sáng
hôm sau cho mấy người lên huyện báo trước, rồi nhất diện xếp đặt chõng thừng dự
bị để đem hổ lên trình huyện. Khi Võ Tòng trở dậy rửa mặt mũi xong, thì đám
huynh dịch trong làng đã giết xong một con dê và đem một gánh rượu đến để tiếp
đãi. Võ Tòng mặc khăn áo chỉnh tề, rồi ra tiếp kiến mọi người.
Bấy giờ
các đàn anh đều cất chén mời Võ Tòng mà nói rằng:
- Dân
chúng tôi đây bị con cọp già ấy quấy nhiễu làm hại bao nhiêu người mà các tay
săn cũng bị mấy phen đánh phạt. Nay nhờ có ngài ra tay trừ được nó đi, một là
hạnh phúc cho nhân dân chúng tôi, mà hai là bọn hành khách được bình an vô sự,
thật là ơn nặng nghĩa dầy, không biết đâu mà kể, vậy chúng tôi xin nâng chén
rượu này để mừng ngài vạn phúc!
Võ Tòng
từ tạ mà nói lại rằng:
- Đó là
nhờ phúc ấm của các ngài đây, chứ như tôi có gì mà tài giỏi?
Nói xong
mọi người đều đến chào mừng và mời Võ Tòng uống bữa rượu hôm ấy rất là vui vẻ.
Khi uống
rượu xong, chúng liền khênh hổ ra đặt vào chõng và đem tấm đoạn hoa hồng ra
khoác lên cho Võ Tòng, còn hành lý của Võ Tòng thì gửi ở đó, mà nhất diện cùng
nhau lên huyện. Ra tới cổng trang đã thấy quan Huyện Dương Cốc sai người đến
đón Võ Tòng cùng lên kiệu cùng chúng cùng đi. Chúng khênh chõng hổ đi trước mà
cũng phủ tấm đoạn hoa hồng lên trên.
Bấy giờ
nhân dân huyện Dương Cốc nghe đồn đánh chết hổ trên núi Cảnh Dương, thì đâu đấy
đi đón xem chật ních cả đường, Võ Tòng ngồi trong kiệu nom ra đã thấy chen vài
thích cánh hết vòng trong đến lớp ngoài rộn rịp, ầm ầm, những người túm vào xem
hổ, không biết cơ man nào mà kể!
Khi tới
huyện đường, quan Huyện Dương Cốc trông thấy Võ Tòng, quả nhiên là một tay anh
hùng dũng, lại trông thấy con cọp lông gấm to lớn như thế, thì trong bụng nghĩ
thầm:"Nếu không phải một tay đại hán như thế kia, thì làm sao đánh được
con hổ ấy!".
Nói đoạn
liền cho mời Võ Tòng lên công đường, rồi hỏi thăm đầu đuôi chuyện đánh hổ ra
sao? Võ Tòng lại đem chuyện thuật lại một lượt cho mọi người nghe, các người
đứng quanh đấy, nghe rõ đầu đuôi, thì ai nấy cũng đều choáng người kinh lạ, mà
nhìn chòng chọc vào cả Võ Tòng.
Quan
Huyện lại sai rót rượu mừng Võ Tòng trước nơi công chúng, đoạn rồi sai lấy món
tiền một nghìn quan của các huynh dịch gom lại để đem thưởng cho Võ Tòng. Võ
Tòng không nhận tiền thưởng từ tạ với mọi người rằng:
- Đó chả
qua là phúc ấm của dân dự miền nầy nên trong khi bất ý ngẫu nhiên mà trừ ngay
đi được, chứ chúng tôi đây công lao gì mấy, mà dám nhận tiền thưởng của các
ngài. Tôi nghe nói những tay săn ở đây chỉ vì con cọp già ấy, mà phải bị trách
phạt bao nhiêu phen, vậy thiết thưởng nên đem một nghìn quan tiền đó, mà chia
cho các người ấy thì phải hơn.
Quan
Huyện cùng mọi người ấy đều đáp rằng:
- Cái đó
xin tùy ý tráng sĩ.
Võ Tòng
cả mừng, liền đứng trước mặt công chúng mà lấy món tiền một nghìn quan ấy ra,
chia thưởng cho các tay đi săn hết cả.
Mới hay:
Giữa
đường gai góc ra tay,
Anh hùng
phận sự xưa nay thường tình.
Vì đâu
dẹp nỗi bất bình,
Há rằng
trục lợi tham danh như người.
Quan
Huyện Dương Cốc thấy Võ Tòng vừa phần lực lưỡng khác người, mà lại có lòng
trung hậu hào hiệp như thế, thì lấy làm hâm mộ, mà có ý muốn đài cử lên, liền
hỏi rằng:
- Hảo
Hán vốn là người huyện Thanh Hà, cùng với huyện Dương Cốc không xa mấy, vậy bản
chức muốn lưu hảo hán ở lại đây, làm một chức Đô Đầu trong bản huyện, hảo hán
nghĩ sao?
Võ Tòng
có ý ngần ngừ một lát, rồi đáp rằng:
- Tướng
công đã có lòng hạ cố chúng tôi cũng xin vâng.
Quan
Huyện nghe nói cả mừng, bèn sai gọi Áp Ty đến lập tức thảo giấy cấp cho Võ Tòng
làm chức Đô Đầu ở đó. Đám huynh dịch thấy vậy, đều đến cất chén mừng Võ Tòng,
có tới ba bốn ngày mới dứt.
Võ Tòng
ở huyện Dương Cốc nhận chức Đô Đầu, được quan trên có lòng yêu nể, dân dưới
cũng nghe tiếng mà phục tòng, không còn điều chi e ngại. Duy có một điều là
chàng định về thăm anh, mà chưa đi được, thì thỉnh thoảng cũng không khỏi áy
náy trong lòng đôi chút.
Một hôm
chàng đi chơi mát ở ngoài phố huyện, chợt đằng sau có tiếng gọi lên rằng:
- Võ Đô
Đầu ơi! Nay Đô Đầu đã phát đạt rồi, không còn biết nhìn đến anh em nữa nhỉ?
Võ Tòng
nghe nói, thì giật mình quay nhìn rồi kêu lên một tiếng:
- Ối
trời ơi! Kìa!...
Cho hay
là:
Đã sinh
ra kiếp đa tài,
Đem thân
đảm lấy việc đời mới cam.
Những
khi thú độc sơn lâm,
Ở đời hổ
dữ lang tham còn nhiều...
Bể Đông
đã quyết tay chèo,
Dẫu cho
máu nổi ngọn triều cũng chơi!
Ví không
tâm huyết hơn người,
Thi tài
kia với vô tài khác đâu.
Lời Bàn
Của Thánh Thán:
Trong
thiên hạ người ta nói chuyện ma qủy thì dễ, mà nói ra hùm beo thì khó, tại sao?
Vì ma qủy âm thầm, mà hùm beo, dữ dội, nói ma qủy thì đâu đích xác, chỉ theo ý
nghĩ nói ra, còn nói hùm beo thì phải có thực, nói ra nó phải thế nào, cho nên
bộ truyện Thủy Hử không tả chuyện quỷ quái, mà tả hổ cũng nhiều, đến hai ba
lần, với ý tả ra việc dễ không cần, chỉ tả việc khó, mà thấy vui như nom trước
mắt.
Tả hổ
như là hổ sống, đã tả hổ ra như sống, phải tả đến người vồ bắt hổ, tả người vồ
bắt hổ, lại hai ba lần vồ mới trúng, cho rõ ra sức hổ thế nào, mới đọc thấy như
là con hổ sống, đấy là bút lực hơn đời.
Ta
thường nói, tài tử với bất tài cách xa nhau, nào phải chỉ mươi mười lăm dặm,
như tả hổ này phải làm cho sống lại, tả hổ sống lại cần tả lúc vồ người, nay
đem họp hàng nghìn người lại, vận ra ngàn lòng, duỗi ra ngàn tay, cầm lấy ngàn
bút, chép ra không rõ con hổ, thì không thấy được rõ là tả hổ, chỉ có Thi Nại
Am, chỉ một người, một lòng, một tay, một bút, đối với giấy tờ, không phí bút
nhiều, như vẽ ra một hổ một người, thấy như sống động, lại tả phụ thêm nào gió
bay cát bụi, cây đá núi rừng... người như người thần, hổ như hổ dữ, gió bụi đá
cây, chính nơi rừng hổ, khiến cho người đọc, choáng mắt rối lòng, như thế mấy
ai tả nổi?
Đọc một
thiên tả hổ, mà khen người ấy người thần, hổ kia hổ dữ, phải đâu tả dễ dàng ra,
mà lại còn khéo nữa, sau khi xem xong bảng văn cửa miếu mới tin rằng có, muốn
quay trở lại, đã thấy sợ oai hùm, tới lúc gió reo hùm lại, càng ghê khiếp nữa,
lại phải nấp vào sau tảng đá, tới khi hổ to lớn lại gầm lên, khiến người phải
kinh, mà mồ hôi toát ra tỉnh cả hơi rượu, nghĩ phải đánh hổ cho bằng được, dùng
hết khí lực, chân tay rời rã, sau lại ngồi nghỉ trên tảng đá xanh, sắc trời đã
tối nhá nhem, còn sợ lại gặp hổ nữa, phải lần xuống núi, xuống núi chẳng bao
xa, thấy trong đám bụi cây nhảy ra đôi hổ, lại kinh khiếp chùn tay, vì đả hổ
mệt rồi, sợ không còn sức nữa... tả ra những đoạn văn như đứng trong nguy hiểm
đó, cùng với hồi sau này giết hổ ở Nghi Lĩnh, không một nét bút giống nhau, mới
thấy tài tình.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 23: Gặp anh em thỏa lòng hòa thuận; Lừa
Trai gái ghét giống gian dâm
Khi đó
Võ Tòng nghe có người gọi, bèn quay lại nom, thì chính người ấy là Võ Đại Lang.
Anh ruột của mình, liền thụp ngay xuống đất lạy mà rằng:
- Ca ca
cũng ở đây hay sao? Hơn một năm nay tiểu đệ không được gặp ca ca, trong bụng
lấy làm áy náy vô cùng.
Võ Đại
Lang đáp lại rằng:
- Nhị đệ
đi trong bấy nhiều lần, làm sao mà không gửi thơ về cho ta, khiến cho ta vừa
oán giận, mà lại nhớ mong hoài.
- Sao ca
ca lại nói vừa oán giận vừa nhớ mong hoài?
- Ta oán
giận là khi chú còn ở huyện Thanh hà chỉ uống rượu say, rồi lại đánh nhau với
người khác để cho ta bị quan tư đòi hỏi quấy rầy, đến mấy tháng trời mới gỡ
được xong... Ta mong là mong vì ta mới lấy được người vợ ở Thanh Hà, rồi bao
quân khốn nạn nó cứ làm rắc rối cả ngày; nếu có chú ở nhà, thì còn đứa nào dám
đến mà xấc láo. Bây giờ ta ở đây cũng được yên thân, lại phải dọn đến phố đây
thuê nhà mà ở bởi thế càng mong nhớ lắm.
Nguyên
Võ Tòng cùng Võ Đại Lang, là hai anh em ruột, cùng cha mẹ sinh ra, song Võ Tòng
thì mình cao tám thước, tướng mạo đường đường, sức lực kể có trăm ngàn cân
nặng, bởi thế mới đánh được hổ trên núi Cảnh Dương, mà lẫy lừng danh tiếng. Còn
Võ Đại thì người ngắn không đầy năm thước, hình dung xấu xí, đầu tóc mặt mũi
trông rất buồn cười, người huyện Thanh Hà thấy anh ta tủn hoẳn như thế, nên
thường gọi anh ta là Tam Thốn Đinh Xác Thụ Bì.
Trong
hạt huyện Thanh Hà có một nhà phú hộ, nuôi một đứa hầu con tên là Kim Liên, hơn
hai mươi tuổi, nhan sắc cũng có vẻ ưa nhìn. Phú hộ có ý muốn gạ gẫm, song Kim
Liên nhất định không nghe, toan đi mách với bà chủ là vợ phú hộ. Nhân thế lão
phú hộ tức giận, bèn đem con Kim Liên gả cho Võ Đại Lang mà không lấy một đồng
một chữ nào cả. Từ khi Võ Đại Lang lấy được Kim Liên về, thì bọn nhàn đãng chơi
bời ở quanh đấy, cứ hàng ngày đến nhà để chế diễu, làm cho Võ Đại Lang tức bực
muôn phần.
Còn Kim
Liên thấy hình dạng Võ Đại tủn hoẳn, tùn hoằn, nhân vật không ra nhân vật, mà
không có chút gì ra vẻ phong lưu, thì cũng đem lòng khinh dễ, mà ngày ngày
phóng túng tự do.
Thỉnh
thoảng mấy đứa tụi du đãng lại vơ vẩn đến cửa mà nói rằng:"Miếng thịt dê
rơi vào miệng chó", làm cho Võ Đại Lang càng tức bực, nên trong lòng phải
thu xếp cửa nhà mà dọn đi nơi khác.
Khi tới
huyện Dương Cốc, thuê một gian nhà, hai vợ chồng cùng ở, rồi mỗi ngày Võ Đại
Lang làm bánh chưng ra phố bán để kiếm ăn. Hôm ấy nhân gánh hàng đi bán, chợt
gặp Võ Tòng, thì hai nhưng em chuyện trò với nhau rất là vui vẻ. Bấy giờ Võ Đại
bảo với Võ Tòng rằng:
- Này em
này, hôm nọ ta thấy phố sá đồn ầm lên rằng có người họ Võ đánh chết con hổ trên
núi Cảnh Dương, rồi quan huyện cho làm chức Đô Đầu ở đây. Ta vẫn đoán chắc là
em, nhưng chưa làm sao mà biết đích xác, nay được gặp ở đây, thực là may lắm.
Thôi, ta hãy nghỉ sự buôn bán, để cùng về nhà chơi đã.
- Ca ca
thuê nhà ở đâu?
Võ Đại
Lang trỏ ra trước mặt mà bảo rằng:
- Nhà ở
ngõ Tử Thạch kia.
Võ Tòng
bèn gánh đỡ hàng cho anh, rồi theo Võ Tòng về ngõ Tử Thạch. Khi tới cửa, Võ Đại
gõ cửa gọi người ra mở. Đoạn rồi thấy một người đàn bà trẻ trung là vợ Võ Đại ở
trong nhà, chạy ra mà hỏi rằng:
- Sao
mình về sớm thế?
Võ Đại
trỏ vào Võ Tòng mà bảo rằng:
- Chị
mầy không biết, chú nó đã về đây, đi ra mà chào đi.
Nói đoạn
nhắc lấy gánh hàng cất vào trong nhà, rồi chạy ra bảo em rằng:
- Nhị đệ
vào trong nhà này chào chị đi.
Võ Tòng
vâng lời, vén màn vào chào chị dâu.
Võ Đại
có dáng vui mừng bảo với vợ rằng.
- Đại
tẩu ơi! Người họ Võ đánh hổ trên núi Cảnh Dương, mới rồi nhận chức Đô Đầu, tức
là em ta đây.
Người
đàn bà nghe nói, liền chấp tay vái chào lại Võ Tòng.
Võ Tòng
vội mời chị dâu ngồi trên, rồi cúi xuống lạy.
Người
đàn bà chạy đến nâng Võ Tòng dậy mà nói rằng:
- Thúc
thúc chớ làm như vậy không tiện.
- Xin
tẩu tẩu cứ ngồi lên nhận lễ.
- Lẽ đâu
dám thế? Mọi hôm tôi nghe thấy mụ Vương Bà bên cạnh vách đây nói chuyện có
người đánh chết hổ, đã toan rủ nhau đi xem, nhưng mà bận việc nên không đi
được, ai ngờ lại chính là thúc thúc đây. Xin mời thúc thúc lên gác ngồi chơi
nói chuyện.
Nói đoạn
ba người cùng lên gác ngồi, rồi vợ Võ Đại bảo với chồng rằng:
- Để tôi
ngồi tiếp thúc thúc đây đại ca đi kiếm thức gì, về mời thúc thúc xơi rượu.
Võ Đại
nói:
- Phải
lắm, nhị đệ hãy ngồi chơi đấy, rồi tôi lên ngay bây giờ.
Nói xong
liền ba chân bốn cẳng chạy đi xuống gác.
Bấy giờ
người đàn bà thấy tướng mạo Võ Tòng như vậy, thì nghĩ thầm trong bụng rằng:
"Hai anh em nhà nầy, cùng cùng một cha mẹ sinh ra, sao mà Võ Tòng lại lực
lưỡng thế kia, ví phỏng ta lấy được người chồng như thế, thì cũng đáng một
đời... như ông chồng mình thì khổ quá, người chẳng ra người, ma chẳng ra ma,
không còn thể nào mà chịu được! Ừ! Như vậy anh Võ Tòng kia, hổ anh ta còn đánh
được, trách nào mà khí độ chẳng hơn người? Nghe nói anh ta chưa vợ, hay tiện
đây ta bảo đến cùng ở chung một nhà, thì cái đoạn nhân duyên sau nầy há chẳng
thú lắm sao? "
Nghĩ
đoạn tủm tỉm cười mà hỏi Võ Tòng rằng:
- Thúc
thúc ở đây được bao lâu?
Võ Tòng
đáp:
- Mới
đến đây được mười lăm hôm nay.
- Thúc
thúc ở đâu?
- Tôi
hiện ở tạm trong huyện.
- Nếu
thế thì không tiện lắm nhỉ?
- Tôi có
một mình cũng dễ xử, vả chăng sớm khuya đã có đám thổ binh hầu hạ.
- Bọn ấy
nó hầu hạ làm sao được chu tất? Chi cho bằng thúc thúc dọn về ở cả đây, để tôi
trông nom cơm nước một thể, thỉnh thoảng thúc thúc có muốn ăn uống gì, cũng đỡ
phải phiền lòng nghĩ đến, như thế chẳng tiện hơn sao?
- Vâng
xin cám ơn tẩu tẩu.
- Chẳng
hay là có thiếm ấy ở đâu? Thì đem về cũng tiện.
Võ nhị
nói:
- Tôi
chưa có vợ con chi cả.
- Năm
nay thúc thúc bao nhiêu tuổi.
- Võ nhị
tôi hai mươi lăm tuổi.
Người
đàn bà mỉm cười mà rằng:
- Vậy
thì thúc thúc hơn tôi ba tuổi, dạo trước thúc thúc ở đâu đến đây?
- Tôi ở
Thương Châu hơn một năm, vẫn tưởng ca ca còn
ở huyện
Thanh Hà, ai ngờ cũng dọn đến đây rồi.
- Thúc
thúc không biết, nói ra dài lắm, từ khi tôi lấy ca ca rồi, bị người ta nói
khinh rẻ khó chịu, bất đắc dĩ mới phải dọn đến đây ở, giá được hùng tráng như
thúc thúc, thì đứa nào dám ho he đến nữa.
- Vì ca
ca tôi xưa nay vốn tính không liều lĩnh như tôi.
Chị
chàng ta lại cười mà rằng:
-
"Người không xương cứng, sao vững được thần" Tính tôi xưa nay thích
nhanh nhẹn, chứ những người lì lì gọi ba lần chẳng thưa, bốn lần chẳng chuyển
như thế, thì chịu làm sao được?
Võ Tòng
nói:
- Tuy
thế gia huynh tôi không sinh sự, không phiền đến tẩu tẩu phải lo.
Đương
khi nói chuyện, thì Võ Đại đã mua rượu thịt và cùng các thứ hoa quả đem về bếp,
rồi chạy lên gọi vợ mà bảo rằng:
- Mình
xuống dọn rượu mang lên đây.
Chị
chàng nghe nói liền bảo Võ Tòng rằng:
- Chú
tính người thế, thì còn biết gì nữa, chú đương ngồi ở đây mà gọi tôi đứng dậy
thì sao cho tiện?
Võ Tòng
nói:
- Xin
tẩu tẩu cứ tự tiện cho.
Người
đàn bà lại lên tiếng bảo Võ Đại rằng:
- Sao
không nhờ Vương Bà ở bên kia sang dọn giúp cho? Có thế cũng không biết làm sao
được.
Võ Đại
liền gọi Vương Bà ở nhà liền vách sang dọn tử tế, rồi bày lên bàn trên gác.
Đoạn rồi bảo vợ ngồi vào bàn chủ vị ở giữa, để Võ Tòng ngồi đối diện, còn mình
ngồi ra một bên. Bây giờ Võ Đại nâng bầu rượu rót ra ba chén, rồi người vợ nâng
chén rượu lên mà nói với Võ Tòng rằng:
- Thúc
thúc chớ cười, ở đây không có gì thết đãi, xin thúc thúc xơi chén rượu suông.
Võ Tòng
nói:
- Cám ơn
tẩu tẩu, sao tẩu tẩu dạy quá lời thế?
Bên kia
Võ Đại thì lúi húi vừa hâm rượu vừa rót rượu, mặc cho hai người thù tạc với
nhau, mà không nói câu gì cả.
Người
đàn bà cười nụ mà nói rằng:
- Cá
thịt đây sao thúc thúc không chịu ăn một miếng nào cả, để tôi xin gắp cho thúc
thúc xơi.
Võ Tòng
thấy vậy, cho là tình ruột thịt chị em trong nhà, nên cứ điềm nhiên ăn uống
không lý hội gì đến tình kia ý khác.
Còn Võ
Đại vốn tính vụng về, xưa nay có biết tiếp đãi đến ai, vì thế nên khi chị chàng
kia phóng ý tự nhiên, uống dăm ba chén rượu, rồi giương hai con mắt nhìn chòng
chọc vào Võ Tòng mà không chớp, Võ Tòng thấy vậy thì có ý ngượng, cúi đầu xuống
mà không dám trông lên.
Uống
rượu được một lúc, rồi Võ Tòng xin phép trở về huyện, vợ chồng Võ Đại cố lưu
lại không được, liền cùng nhau đưa Võ Tòng xuống dưới gác.
Khi
xuống đến dưới nhà, chị chàng ta lại nói với Võ Tòng rằng:
- Thúc
thúc tất phải dọn đến đây mà ở, nếu không thì hai vợ tôi mang tiếng người ta
chê cười, là anh em không bằng người ngoài. Mình nên thu xếp một gian phòng. Để
mời thúc thúc về đây cho vui, chứ ở phố xá người ta mai mỉa.
Võ Đại
nói:
- Đại
tẩu nói phải đấy, nhị đệ nên dọn về đây ở cho tôi đỡ buồn.
Người
đàn bà lại dặn khan dặn vãn rằng:
- Thúc
thúc phải nhớ mới được, tôi ở đây mong đợi thúc thúc đó.
Võ Tòng
vâng lời, chào anh chị mà đi về huyện.
Về tới
huyện. Võ Tòng liền đem chuyện kêu với quan Huyện và xin phép dọn ra ngõ Tử
Thạch cùng ở với anh, và hằng ngày xin đúng giờ vào hầu việc. Quan Huyện nghe
nói khen Võ Tòng là người hiếu để liền y lời cho phép ngay. Võ Tòng tạ ơn Quan
Huyện, rồi thu thập hành lý cùng các đồ vật, và gọi một tên thổ binh để gánh ra
nhà Võ Đại.
Võ Đại
thấy em đến, thì trong lòng vui mừng khôn xiết, liền tìm thợ mộc về ngăn một
gian phòng rồi kê giường ghế, bàn và lò sưởi để cho Võ Tòng ở đó.
Nước non
nghĩa nặng,
Cốt nhục
tình sâu,
Tài cao
chí cả đến đâu,
Anh em
cốt nhục dễ hầu dám khinh.
Thế gian
lắm kẻ bạc tình,
Bỏ nhà
làm bộ tung hoành nước non.
Biết đâu
hiếu để tan hồn,
Thì lòng
chủng loại phổng còn được chăng.
Võ Tòng
từ khi đến ở nhà cùng anh thì người chị dâu hết sức chiù chuộng, sáng dậy nước
sôi hầu hạ, trưa đến cơm cháo trông nom, không hề chút gì trễ nãi. Võ Tòng thấy
chị dâu khó nhọc như vậy, toan bắt một tên thổ binh ra để hầu hạ thổi nấu, song
vợ Võ Đại nhất định không nghe mà tự xin đảm nhiệm hết cả.
Mấy hôm
sau Võ Tòng lại đưa tiền cho Võ Đại mua các thức trà bánh, để mời phố xá xóm
giềng đến chơi nói chuyện. Các nhà hàng phố cũng đem trà bánh đến biếu đãi anh
em Võ Tòng, đi lại rất là tử tế.
Võ Tòng
lại lấy một tấm đoạn hoa đưa tặng người chị dâu để may áo xiêm. Vợ Võ Đại thấy
vậy, thì hớn hở mừng thầm mà rằng:
- Thúc
thúc có lòng yêu như vậy, tôi xin vâng lĩnh ngay, không dám từ chối.
Từ đó Võ
Tòng cứ ngày hai buổi đi vào hầu trong huyện, rồi lại trở về ăn ngủ ở nhà Võ
Đại, còn Võ Đại thì vẫn giữ nghề bán bánh để kiếm ăn như trước. Mỗi khi Võ Tòng
ở huyện về bất cứ sớm khuya, người đàn bà đều chỉnh đốn cơm canh, mà thờ phụng
Võ Tòng một cách vui vẻ thân mật, làm cho Võ Tòng phải e ngượng không đành tâm.
Thỉnh thoảng chị ta lại kiếm chuyện khơi đùa, song Võ Tòng là một người ngay
thẳng vẫn cứ điềm nhiên, có chuyện thì nói, không chuyện thì thôi, cũng không
lấy gì làm nghi ngại.
Thấm
thoát hơn một tháng trời, bấy giờ vào khoảng tháng chạp mùa đông, ngày nào cũng
gió bấc đìu hiu, mây đen kín mít, mà tuyết phủ sương che rất chiều lạnh lẽo.
Một buổi sáng hôm kia, Võ Tòng vào hầu huyện, mãi quá trưa không về ăn cơm. Vợ
Võ Đại ở nhà, cơm nước trưa xong, liền giục chồng đi bán hàng chiều, rồi nhờ
Vương Bà ở bên cạnh vách, mua các thứ rượu nhắm mang về, và quạt một lò lửa để
sẵn vào đó. Đoạn rồi trong bụng nghĩ thầm rằng:"Hôm nay ta phải tìm cách
để khiêu ghẹo anh này, không có lẽ anh ta là đá gỗ mà không động tình được!
" Nàng nghĩ vậy, thì trong bụng hớn hở mừng thầm, liền ra trước rèm để đợi
ngóng Võ Tòng.
Được một
lát thấy Võ Tòng lặn lội trên đá, tuyết đi về, chị chàng ta vội mở cánh cửa rèm
ra đón mà nói rằng:
- Thúc
thúc hôm nay rét lắm nhỉ?
Võ Tòng
cảm ơn đáp lại, rồi bước vào vào trong cửa mà bỏ nón xuống, chị chàng kia liền
hai tay đỡ nón xuống cho Võ Tòng. Võ Tòng thực bụng thấy vậy nói rằng:
- Có đâu
dám phiền tẫu tẩu như vậy?
Nói đoạn
treo nón lên vách, rồi cởi đai nịt và áo dài ra, mà đem treo vào phòng. Người
đàn bà bảo với Võ Tòng rằng:
- Sáng
hôm nay tôi đợi suốt buổi, sao không thấy thúc thúc về ăn cơm?
- Tôi có
anh em bạn ở trong huyện mời ăn sáng, nên không về được. Vừa rồi lại có người
mời uống rượu, nhưng tôi không muốn ở lại, đành phải tháo để về đây.
Người
đàn bà cười mà rằng:
- Nếu
vậy thúc thúc vào lò sưởi cho ấm.
Võ Tòng
vâng lời rồi tháo giày ướt, đi sang đôi giầy khác,
mà ngồi
vào ghế bên cạnh lò lửa ở phòng khách để sưởi.
Chị
chàng kia đóng cửa trước cài cửa sau cẩn thận, rồi đem các thức nhắm bày vào
bàn trong phòng Võ Tòng.
Võ Tòng
thấy vậy liền hỏi:
- Ca ca
đi đâu chưa về?
- Ca ca
còn đi bán hàng đã về đâu, tôi xin hầu thúc thúc mấy chén rượu cho vui.
- Xin để
đợi ca ca về sẽ uống.
- Đợi
thế nào được, biết bao giờ mà đợi?
Người
đàn bà nói xong liền đem rượu ra hâm.
Võ Tòng
nói.
- Xin
tẩu tẩu ngồi đây, để tôi dọn đỡ.
Chị
chàng cười mà rằng.
- Thúc
thúc cứ ngồi, để tôi làm cũng được.
Nói đoạn
cũng kéo chiếc ghế, để bên cạnh lò lửa để ngồi, rồi rót rượu ra cầm ở tay mà
bảo với Võ Tòng rằng:
- Trời
đương rét lạnh thế này, xin thúc thúc uống một chén rượu thành đôi nữa.
Võ Tòng
lại tiếp lấy uống hết, rồi cũng rót một chén đưa
mời chị
dâu. Người đàn bà uống xong lại rót luôn chén nữa, để lên bàn trước mặt Võ
Tòng, hơi lộ da bụng, bỏ rũ tóc mây, miệng cười chúm chím như bông hoa, mà bảo
Võ Tòng rằng:
- Tôi
thấy người ta nói rằng: Thúc thúc có nuôi một người con hát, ở phố bên kia
trước cửa huyện, không biết rằng có thực chăng?
Võ Tòng
đáp rằng:
- Tẩu
tẩu đừng nhge người ta nói càn làm gì, tôi đâu có phải một người như thế đâu?
Người
đàn bà lại nói:
- Chẳng
chắc đâu! Miệng thế nhưng lòng lại khác thì sao?
- Tẩu
tẩu không tin, cứ hỏi ca ca thì biết.
- Người
ấy thì còn biết gì, nếu biết được những việc ấy, thì chả phải đi bán bánh, xin
mời thúc thúc xơi chén rượu nữa.
Nói xong
lại rót rượu mà uống luôn ba bốn chén nữa. Bấy giờ người đàn bà đã hơi men
chếnh choáng, lại càng khiêu động lòng xuân không ai giữ được, liền kiếm chuyện
để khiêu ghẹo Võ Tòng.
Võ Tòng
đã hơi biết ý, chỉ cúi đầu mà không nói câu gì nữa. Đoạn rồi người đàn bà đứng
dậy đi hâm rượu, thì Võ Tòng lấy cái que cời ra để gảy lò than mà nghĩ ngợi một
mình. Khi người đàn bà hâm rượu xong đem vào buồng, thì một tay cầm vò rượu,
một tay vỗ ngay vào vai Võ Tòng mà nói rằng:
- Thúc
thúc chỉ mặc thế nầy mà không lạnh à?
Võ Tòng
thấy vậy, đã có sáu bảy phần khó chịu trong lòng bèn im mà không nói gì cả.
Người
đàn bà giơ tay giật lấy cái que cời mà rằng:
- Thúc
thúc không quen cời lửa để tôi làm cho. Làm sao cũng được như lò lửa thường
nóng luôn mới được.
Võ Tòng
lại thấy khó chịu lên đến tám chín phần, đành phải ngôi im thin thít. Bấy giờ
dục tâm của người đàn bà chừng đã bốc lên như lửa cháy, không còn hiểu đâu đến
Võ Tòng có đồng ý hay không liền vứt cái que cời xuống, rồi rót ra chén rượu
uống hết một nửa, còn một nửa đưa cho Võ Tòng mà bảo rằng:
- Nếu có
phải là người hữu tình, thì uống hết nửa chén nầy.
Võ Tòng
giật lấy chén rượu hất xuống đất mà nói rằng:
- Tẩu
tẩu không nên dơ dáy như thế?
Nói đoạn
đẩy người đàn bà một cái, rồi trợn mắt lên mà rằng:
- Võ nhị
nầy là thằng con trai đội trời đạp đất, không phải giống chó mà làm bại hoại
phong hóa, bỏ mất luân lý kia! Tẩu tẩu chớ nên giở lối vô liêm sĩ như vậy, lỡ
khi có đến thế nào thì mặt Võ Nhị nầy còn nhận thấy tẩu tẩu, chứ cái nắm tay
kia không biết tẩu tẩu đâu... Từ nay xin đừng thế mới được.
Chị
chàng kia nghe như vậy, thì chết nửa phần ruột, vừa tức vừa thẹn, rồi đẩy cái
ghế ra mà nói rằng.
- Người
ta đùa cho vui, thế mà cho là thực hay sao? Người đâu không biết lòng kính
trọng của người ta?
Nói đoạn
dọn bát chén đi thẳng xuống bếp. Còn Võ Tòng thì buồn bực uất ức mà ngồi ở trên
buồng một mình.
Được một
lát Võ Đại đi bán hàng về, vừa bước chân vào đến cửa đã thấy người đàn bà khóc
sướt mướt, hai mắt đỏ hoe, chàng ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Đánh
nhau với ai đó?
Chị
chàng vừa khóc vừa nói:
- Anh tệ
bạc quá, nỡ lòng nào dắt người ngoài đến, để khinh bỉ tôi!
- Ai dám
đến đây mà khinh bỉ?
- Ông Võ
Nhị nhà anh chứ ai! Tôi thấy hắn đi về rét mướt, vội vàng đem rượu cho uống. Ai
ngờ hắn thừa cơ vắng vẻ, mà toan trêu ghẹo lả lơi, không còn ra thể thống gì
nữa?
Võ Đại
nghe nói vậy liền gạt đi rằng:
- Em tôi
xưa nay là người trung trực, không khi nào như thế, thôi đừng nói to nữa mà
hàng xóm người ta cười cho đấy.
Nói đoạn
bỏ mặc vợ đó mà lên buồng Võ Tòng.
Vẽ chi
một chữ ái tình,
Để cho
xương thịt tan tành sao đang!
Thế gian
vạn kẻ khôn ngoan,
Hỏi lòng
hữu ái được thường thế chăng?
Võ Đại
lên buồng liền gọi em mà hỏi rằng:
- Em đã ăn
cơm chưa! Ta cùng đi ăn một thể cho vui.
Võ Tòng
thấy anh hỏi, thì ngồi yên không nói nửa lời, trong bụng nghĩ vơ vẩn một lúc,
rồi đứng dậy thay giầy khoác áo, thắt lưng đội nón mà ra đi.
Võ Đại
thấy vậy, liền gọi lên rằng:
- Nhị đệ
đi đâu đấy?
Võ Tòng
lẳng lặng đi ra không đáp.
Võ Đại
thấy Võ Tòng đi rồi, liền xuống bếp hỏi vợ rằng:
- Tại
làm sao ta gọi hắn cũng không thưa, cứ cắm đầu đi thẳng không biết rằng đi đâu
thế.
Người
đàn bà làm bộ mắng chồng rằng:
- Sao mà
ngu thế, nó thẹn, không còn mặt mũi nào trông thấy mình, thì phải cút đi chứ
làm sao? Từ đây trở đi, tôi cấm không lưu người ấy ở nhà nầy nữa.
- Nếu để
cho hắn dọn đi, thì phố xá người ta nói mình còn ra gì nữa.
- Nói
lạ, nó đùa bỡn tôi thì thiên hạ không cười! ... Thôi anh ở với hắn, tôi đây
không mặt chó thế được, anh cho tôi một tờ ly hôn, rồi anh rước hắn đến đây mà
ở.
Võ Đại
nghe như vậy, thì cứng lưỡi ra, không làm sao mà nói được. Đương khi ấy thì Võ
Tòng dẫn một tên thổ binh đem đôi quang gánh đến, đi thẳng vào buồng thu thập
các đồ đạc, rồi lại gánh ra mà đi ngay, Võ Đại chạy theo ra cửa hỏi rằng:
- Nhị đệ
làm sao lại dọn đi đâu thế?
Võ Tòng
quay lại đáp rằng:
- Ca ca
không cần phải hỏi, cứ để mặc tôi đi là được rồi.
Nói xong
liền đi thẳng, mà không hề quay lại.
Võ Đại
lấy làm lạ, không hiểu ra sao, mà cũng không dám hỏi một câu nào nữa. Bấy giờ
người đàn bà đứng ở trong vẫn lẩm bẩm mắng luôn miệng rằng:
- Được
lắm! Ai bảo rằng có em làm Đô Đầu, thì tất nuôi được cả chị lẫn anh, ngờ đâu
lại đến đây mà khoét hại! Rõ là giống Hoa Mộc Qua chỉ tốt mã bề ngoài... Thôi,
đi đi cũng là phúc, ta cảm ơn trời đất, bớt được cái nợ oan gia ở trước mặt...
Võ Đại
thấy vợ nói vậy, thì lại càng áy náy trong lòng không biết đầu đuôi ra sao. Rồi
đó hằng ngày Võ Đại lại đi buôn bán như thường mấy phen toan vào huyện, để tìm
em về ở nhưng lại bị người vợ xỉa xói ngăn đón mà không cho đi, cũng đành lòng
mà chịu vậy.
Nói về
quan Huyện Dương Cốc, từ khi về để nhiệm ở huyện đó tới nay, thấm thoát đã được
hơn hai năm trời, tuy không độc ác là mấy, song khoét của dân gian cũng không
biết cơ man nào mà kể. Bấy giờ định bụng muốn chuyển của về, gửi một nhà thân
quyến ở Đông Kinh, để lo liệu kiếm đường thăng quan tiến chức, nhưng lại e
đường sá xa xôi, nhiều tay trộm cướp, mà chưa có ai, là người đảm đang tâm
phúc, nên chưa dám sai đi.
Một hôm
chợt nghĩ Võ Tòng là tay anh hùng đảm lược, liền cho gọi đến mà bảo rằng:
- Ta có
người bà con thân ở Đông Kinh, nay muốn đưa một ít lễ vật, và một phong thư vào
để hỏi thăm gia sự, nhưng chỉ vì đường sá xa xôi, nhiều đều không tiện vậy
ngươi có thể vì ta mà đảm đang đi được, thì sau này ta sẽ trọng thưởng cho.
Võ Tòng
vâng lời mà rằng:
- Chúng
tôi nhờ được ơn ngài đài cử lên cho dẫu có việc gì sai khiến, chúng tôi cũng
không dám từ nan, và đất Đông Kinh là nơi đô hội, chúng tôi cũng muốn qua trải
một phen, vậy xin ngài cứ sắp sửa đi cho, chúng tôi cũng hết lòng tuân lệnh?
Nói đoạn
quay về nhà trọ, lấy ra một ít tiền, gọi một tên thổ binh ra phố mua một bình
rượu và các thức nhắm, rồi đi tới phố Tử Thạch, tìm vào nhà Võ Đại. Khi tới
nơi, Võ Tòng ngồi đợi ngoài cửa rồi sai tên thổ binh đem các thứ đồ ăn vào bếp
để dọn.
Vợ Võ
Đại trông thấy Võ Tòng đến, thì tơ lòng lại vấn vương không dứt, trong bụng
nghĩ thầm, tưởng là Võ Tòng lại hồi tâm đến mình, nên vội vàng lên gác sửa sang
phấn sáp, chỉnh đốn khăn áo rồi chạy xuống cửa đón Võ Tòng mà nói rằng:
- Thúc
thúc! Sao lâu nay không thấy về đến đây? Tôi lấy làm phiền lòng quá! Mấy hôm
giục ca ca vào huyện tìm thúc thúc để nói lại, nhưng nào có thấy ở đâu? Hôm nay
thúc thúc về chơi đây, sao lại còn mua sắm cho phí tiền như thế?
Võ Tòng
đáp rằng:
- Võ nhị
có một câu chuyện muốn nói với ca ca cùng tẩu tẩu nên mới về đây.
Người
đàn bà nói:
- Vậy
xin mời thúc thúc lên gác chơi.
Bấy giờ
Võ Đại cũng đi bán hàng mới về, ba người liền cùng nhau lên gác rồi kéo ba cái
ghế ngồi quây quần vào bàn. Được một lát thì tên thổ binh dọn rượu lên. Võ Tòng
liền rót rượu mời hai anh chị uống.
Người
đàn bà đưa mắt trông liếc Võ Tòng luôn luôn. Võ Tòng không hề nhìn đến, chỉ rót
rượu mời, rồi lại cúi xuống mà uống rượu.
Rượu
được vài tuần, Võ Tòng liền rót một chén đầy, cầm lên tay nói với Võ Đại rằng:
- Dám
thưa ca ca, nay Võ Nhị tôi vâng lệnh quan Huyện sáng mai phải đi Đông Kinh có
việc, lâu ra thì vài tháng, mà chóng ra thì độ bốn năm mươi ngày, mới về đây
được, vậy tôi có mấy câu này xin để ca ca biết: Ca ca vốn xưa nay là một người
nhu nhược, mà tôi lại đi vắng không ở nhà, chỉ sợ phố phường lắm quân vô đạo,
bất miễn nó lại đến đây sinh sự lôi thôi. Vậy từ đây trở đi đáng lẽ mỗi ngày
bán mươi chiếc bánh, thì rút lại chỉ bán năm chiếc, mà phải nên đi muộn về sớm,
không nên rượu chè la cà ở đâu cả, khi về tới nhà thì phải buông rèm đóng cửa
cho cẩn thận, để khỏi mang tiếng người ta chê cười. Nếu ai có điều gì xấc láo,
ca ca không nên cãi cọ làm chi, cứ đợi tôi về đây, rồi tôi sẽ liệu. Nếu ca ca
theo lời tôi, thì xin uống hết chén rượu này.
Võ Đại
cất chén rượu mà rằng:
- Em nói
phải lắm, tôi xin nghe lời hết cả.
Nói xong
uống một hơi hết. Võ Tòng lại rót chén rượu thứ hai cất lên mà nói với người
đàn bà rằng:
- Tẩu
tẩu là người sắc sảo tinh ngoan, không cần phải nói lắm. Duy ca ca tôi là người
phác trực, phàm việc gì cũng nhờ tẩu tẩu trông nom giúp cho. Người ta thường
nói:"Lệnh ông không bằng cồng bà". Nếu tẩu tẩu thu xếp được yên ổn
cửa nhà thì ca ca tôi còn chi phiền muộn. Tẩu tẩu há lại không nhớ
câu:"Giậu kín thì chó hết vào" hay sao?
Người
đàn bà bị Võ Tòng nói đúng mấy câu tâm lý như vậy, thì đỏ hồng mặt lên, rồi trỏ
vào Võ Tòng mà mắng luôn rằng:
- Đồ
thối thây việc gì mà đem chuyện đâu đâu đến nói xấc với lão nương? Phải biết
rằng ta đây chỉ kém thằng đàn ông một nước không đội mũ lên đầu mà thôi. Ta đây
đứng trên nắm tay cũng được, chứ không phải là một con ươn hèn khốn nạn gì đâu?
Từ khi ta lấy Võ Đại đến nay thực con kiến cũng không lọt vào đến nhà, còn có
điều chi mà bảo rằng: Giậu ngăn không kín để chó chạy vào nữa! Đừng đem những
câu ấy mà nói xấc láo ở đây mới được!...
Võ Tòng
cười mà rằng:
- Nếu
được tẩu tẩu hết lòng như thế, thì còn gì hơn nữa? Chỉ e bụng ở không được như
miệng nói mà thôi. Vậy nay Võ Nhị nầy xin nhớ hết mọi lời, và xin uống hết chén
nầy cho.
Chị
chàng kia tức giận đẩy chén rượu ra, rồi sồng sộc bước xuống dưới gác. Đi đến
nữa chừng thang lại quay mặt lên mà nói rằng:
- Người
đã là một tay thông minh lanh lợi, sao không nhớ đến câu: Chị dâu cũng như
mẹ... ? Khi ta lấy Võ Đại, nào có thấy anh nào em nào, thế mà bỗng dưng ở đâu
đến, rồi thì thân với chẳng thân, lại toan làm bố người ta nữa. Lão nương cũng
là xúi vận, cho nên mới gặp những chuyện không ra gì như thế!...
Nói đoạn
vừa khóc vừa đi xuống, vừa nói lảm nhảm hết câu nọ đến câu kia không dứt miệng.
Trên nầy hai anh em Võ Đại ngồi uống rượu với nhau một lúc nữa, rồi Võ Tòng
đứng dậy xin về.
Võ Đại
nắm lấy tay mà bảo Võ Tòng rằng:
- Em nên
đi mau về sớm, cho anh em lại được gặp nhau ở đây nhé?
Nói đoạn
nhìn Võ Tòng mà lã chã tuôn rơi hàng lụy, Võ Tòng thấy vậy liền bảo anh rằng:
- Nếu ca
ca không muốn buôn bán gì thì cứ ở nhà, rồi tiền nong tôi sẽ đưa đến cho.
Võ Đại
nghe nói, lại càng ra dáng cảm động trong lòng, mà đưa em xuống gác. Khi tới
cửa, Võ Tòng lại dặn rằng:
- Đại
ca, những lời tôi dặn, chớ nên quên mới được.
Nói xong
bái biệt Võ Đại, mà cùng tên thổ binh trở về huyện.
Bâng
khuâng đất khách quê người,
Cảm tình
cốt nhục nặng lời chia ly,
Thói đời
trông thấy mà ghê!
Người
dưng nước lã chắc gì ai đâu?
Sáng hôm
sau, Võ Tòng sửa soạn khăn gói hành lý rồi lên trình với quan Huyện để đi. Quan
Huyện lấy một cỗ xe để các hòm đồ vật vào đó, rồi bắt hai tên binh sĩ khoẻ mạnh
và hai người nhà tâm phúc cho đi theo kèm với Võ Tòng. Đoạn rồi Võ Tòng từ tạ
quan huyện Dương Cốc mà vác đao khoác gói, coi áp tải xe cùng bốn người kia
thẳng trỏ Đông Kinh.
Võ Đại
từ khi Võ Tòng đi rồi, bị người vợ đay rứt nhiếc móc đến ba bốn ngày trời, chỉ
cắn răng chịu vậy, mà không thèm nói lại nửa lời nào cả. Duy các công việc
trong nhà thì từ đó nhất nhất theo lời Võ Tòng đã dặn, làm bánh rút đi một nửa,
rồi sáng ngày nửa buổi mới đi, mà chiều đến quá trưa đã về nhà, cất rèm đóng
cửa không hề xao nhãng đi đâu. Người đàn bà thấy vậy, trong lòng rất lấy làm
khó chịu, liền trỏ vào mặt Võ Đại mà mắng nhiếc rằng:
- Suốt
ngày ta không được trông thấy mặt trời, lại phải đóng cửa làm chi? Thiên hạ
người ta tưởng nhà này cấm ma quỷ gì mới phải bưng bít cả ngày như thế! Nghe
những đồ anh em khốn nạn ấy, không sợ người ta nhổ vào mặt hay sao?
Võ Đại
điềm nhiên đáp lại rằng:
- Mặc
xác thiên hạ, ta cứ nghe lời của em ta, khỏi sinh sự lôi thôi khó chịu.
Người vợ
lại nói:
- Ôi
cha! Một thằng đàn ông, không biết tự chủ lấy mình hay sao? Lại phải nghe người
ta sai khiến!
Võ Đại
cả quyết đáp rằng:
- Những
lời nói của em ta là vàng là ngọc, ta phải theo mới được, không cần dùng đến
ai!
Từ đó
mỗi ngày đi về thì người đàn bà lại sinh sự nói nầy nói nọ, Võ Đại cũng cứ điềm
nhiên mặc kệ, chỉ cốt giữ sao cho đúng lời em dặn thì thôi.
Dần dần
chị chàng kia nói lắm mỏi mồm, cũng không ăn thua gì cả, liền phải theo ý Võ
Đại, cứ mỗi khi Võ Đại sắp về, thì lại đóng cửa buông rèm như trước. Võ Đại
thấy vậy thì lòng cũng hơi mừng, đỡ phải lo nghĩ băn khoăn như trước.
Cách dăm
ba hôm, đến một ngày kia, bấy giờ đông đã gần tàn, khí trời cũng hơi ấm áp, vào
lúc buổi chiều, Võ Đại đi bán hàng sắp về, người vợ liền chăm chăm cầm cái nạng
ra để nhắc rèm xuống, dè đâu vừa giơ lên toan đỡ đầu rèm, thì tay cầm không
vững, bị tuột một cái đổ cả đầu gậy ra ngoài, đập ngay vào khăn anh chàng đi
qua ngoài phố.
Anh
chàng kia đương đi, đứng dừng lại toan cự mắng mấy câu, hay đâu khi quay mặt
lại trông thấy người đàn bà có vẻ mỹ miều phong lịch, thì ngây hẳn người ra,
tan hết nộ khí ngay lập tức, mà tủm tỉm cười không nói năng chi cả. Chị đàn bà
thấy thế, thì chắp tay vái mà nói rằng: - Chúng tôi lỡ tay, xin ngài tha lỗi
cho.
Người
kia giơ tay sửa lại khăn trên đầu, rồi cũng đáp lễ lại mà rằng:
- Không
hề chi, xin quý nương cứ tự tiện.
Bấy giờ
mụ Vương Bà đương ngồi dưới rèm ở ngoài hàng, trông thấy như vậy, liền cười mà
hỏi người đàn ông rằng:
- Ai bảo
Đại quan nhân đi qua thềm nhà người ta mà đi khéo thế?
Người
đàn ông cũng cười mà nói rằng:
- Cái đó
thì tôi không phải, xin nương tử tha lỗi cho.
Vợ Võ
Đại lại cười mà đáp rằng:
- Có đâu
dám thế, quan nhân tha lỗi cho tôi là tốt lắm rồi.
Anh
chàng kia liếc mắt nhìn vợ Võ Đại rồi nói to lên một tiếng mà rằng:
- Dạ!
Tôi không dám...
Nói
xong, lững thững đi ra, song vẫn còn quay lại nom theo, mãi đến khi người đàn
bà đã cất rèm trở vào rồi mới đi hẳn.
Người ấy
nguyên là một tay tài chủ, khi trước cũng lọc lừa gian dối du đãng võ viền,
không còn thiếu một ngón gì là không có, ít lâu nay mới phát tích lên, mới mở
một ngôi hàng bán thuốc bắc ở trước cửa huyện, rồi lại chuyên nghề luồn lọt với
đám quan lại cùng các người làm việc trong huyện, để đưa đón việc quan, mà xoay
sở kiếm tiền kiếm lễ. Nhân thế mà khắp trong hàng huyện, ai trông thấy anh ta
cũng vị nể hơn người.
Anh ta
người họ Tây Môn, tên là Khánh, bày vai hàng thứ nhất, trước đây vẫn gọi là Tây
Môn Khánh Đại Lang. Mới đây nhân vì phú quý phong lưu hơn trước, nên người ta
lại gọi là Tây Môn Đại quan nhân.
Bấy giờ
chàng ta đi một lúc, rồi lại quay về chỗ hàng Vương Bà, ngồi chơi nói chuyện.
Vương Bà cười mà bảo rằng:
- Vừa
rồi Đại quan nhân dạ một tiếng nghe oai thế? ...
Tây Môn
Khánh cũng cười mà hỏi rằng:
- Bà ơi!
Tôi hỏi thực, người đàn bà bấy giờ là vợ con ai thế?
Vương Bà
đáp rằng:
- Người
ấy là em vua Diêm La Đại Vương, con ông Ngũ Đạo tướng quân đấy, hỏi làm gì?
- Tôi
hỏi tử tế, bà đừng nói đùa thế?
- Sao
quan nhân lại không biết? Người ta là vợ anh hàng quà ở trước cửa huyện đó mà.
- Có
phải vợ anh Tam Tứ bán kẹo táo đó chăng?
Vương Bà
lắc đầu đáp rằng:
- Nếu
thế thì đã hay lắm. Đại quan nhân thử đoán xem ai?
- Hay là
vợ anh hàng bạc Lý Nhị đấy?
Vương Bà
lại lắc đầu mà rằng:
- Không
phải, nếu vậy thì xứng đáng lắm rồi.
- Thôi
có lẽ vợ anh Tiểu Ất hẳn.
Vương Bà
cả cười mà đáp rằng:
- Nào có
phải, thế thì còn nói gì nữa? Đại quan nhân cứ thử đoán xem?
Tây Môn
Khánh lắc đầu làm thinh. Vương Bà cả cười nói tiếp:
- Tôi
nói để quan nhân cười vỡ bụng ra nhé? Bà ấy là vợ ông Võ Đại, vẫn bán bánh
chưng ở phố đấy.
Tây Môn
Khánh nghe nói dậm chân cười sằng sặc mà rằng:
- Có
phải là anh Võ Đại Lang, mà người ta vẫn gọi là Tam Thốn Đinh Xác Thụ Bì đó
chăng?
- Chính
hắn đấy.
- Khổ
chưa! Rõ là một miếng thịt dê lạc vào miệng chó... - Ấy người ta thường
nói:"Thằng hèn lại cưỡi ngựa hay, vợ tài đảm lắm, phải tay chồng
đần!" Ông tơ xe chỉ thế có thú không?
Tây Môn
Khánh lại hỏi Vương Bà rằng:
- Vương
Bà ơi! Tôi còn thiếu bao nhiêu tiền nước của bà nhỉ?
- Chưa
có là bao, quan nhân để bao giờ trả cũng được.
- À!
Thằng con trai bà nó đi đâu với ai?
- Ngài
hỏi đến chuyện ấy thì tôi lại sốt ruột lắm, cháu nó đi theo một người khách đi
sang Hoài Thương, đến nay chưa về, không biết rằng còn sống hay là chết rồi
đấy?
- Sao
không cho nó theo tôi có tiện không?
- Nếu
được Đại quan nhân có lòng thương, thì còn nói gì hơn nữa?
- Được
cứ để nó về đây, rồi sẽ liệu có khó gì?
Nói đoạn
lại tán dăm ba câu chuyện láo, thế rồi đứng dậy ra về.
Ít lâu
sau Tây Môn Khánh lại đến một cái ghế ở trước cửa hàng Vương Bà, mà ngồi quay
mặt sang nhà Võ Đại Lang. Được một lát, Vương Bà chạy ra hỏi rằng:
- Đại
quan nhân có xơi dấm mơ chăng?
Tây Môn
Khánh đáp:
- Tốt
lắm; bà cho tôi một bát, cho nhiều mơ vào.
Vương Bà
quay vào làm một bát dấm mơ, đưa cho Tây Môn Khánh ăn.
Tây Môn
Khánh ăn xong, bỏ bát lên chõng hàng rồi bảo Vương Bà rằng:
- Bà làm
thứ dấm mơ này tốt lắm, trong nhà có nhiều không?
Vương Bà
nói rằng:
- Lão
tôi một đời làm mối, có để ai ở nhà đâu?
- Lạ
chưa? Tôi hỏi dấm mơ, mà bà lại nói chuyện làm mối, là ý nghĩa gì?
- Tôi
tưởng Đại quan nhân bảo tôi làm mối tốt?
- Ừ! Thì
bà làm mối cho tôi một món này, rồi tôi sẽ trọng tạ bà về sau.
- Đại
quan nhân nói làm gì thế? Bà ấy ở nhà biết, thì phổng có chết không?
- Không;
đàn bà nhà tôi tốt lắm, rất có bụng thương người xưa nay. Hiện bây giờ cũng
đương dung mấy người ở nhà đấy, nhưng không có một người nào là hợp ý tôi cả.
Nếu bà có bụng giúp, thì xin bà cứ giúp tôi, không ngại gì, cốt sao cho hiệp ý
tôi là được rồi.
- Hôm nọ
có món tốt lắm, chỉ sợ quan nhân không thích thôi?
- Nếu
vậy thì cứ làm mối cho tôi, tôi xin hậu tạ.
- Người
ấy thì dư cái đẹp đi rồi, chỉ có một điều là khí cao tuổi một chút.
- Hơn
một vài tuổi, cũng không can gì.
- Người
ấy tuổi Mậu Dần, cầm tinh hổ, năm nay mới có chín mươi ba tuổi thôi.
Tây Môn
Khánh cười ầm lên rằng:
- Bà này
điên hay sao, chỉ nói chuyện buồn cười mãi.
Nói xong
vừa cười vừa đứng dậy đi. Bấy giờ đã nhá nhem tối, Vương Bà liền chạy vào thắp
đèn, rồi định quay ra để đóng cửa. Dè đâu vừa bước ra đã thấy Tây Môn Khánh,
lại đến ngồi ở đầu ghế mà chầu sang nhà Võ Đại rồi.
Vương Bà
thấy vậy liền hỏi rằng:
- Quan
nhân xơi một bát thang Hòa hợp có được chăng?
Tây Môn
Khánh đáp rằng:
- Tốt
lắm, bà đem ra đây.
Vương Bà
múc một bát thang Hòa hợp ra cho Tây Môn Khánh.
Tây Môn
Khánh ăn xong đứng dậy bảo Vương Bà rằng:
- Tiền
để đến mai tính một thể nhé?
Nói xong
cười mà về.
Sáng hôm
sau Vương Bà vừa mới mở cửa toan dọn hàng, thì lại thấy Tây Môn Khánh quanh
quẩn đương đi đi lại lại ở trước cửa rồi.
Vương Bà
thấy vậy nghĩ thầm rằng:"Thằng cha này chăm đến đây thế? Xưa nay chỉ quen
xoay người ta mãi, phen này bà bôi cho một tí mỡ vào mũi, gọi là còn thèm
thuồng, còn thờ phụng bà mới được!" Nghĩ đoạn liền mở cửa ra rồi, quay
quạt hỏa lò và bày các thứ bán hàng.
Bấy giờ
Tây Môn Khánh chạy tót vào hàng ngồi vào một cái ghế bên cạnh rèm mà trông sang
nhà Võ Đại. Vương Bà cứ lúi húi cầm quạt quạt hỏa lò, mà giả vờ ra dáng không
biết.
Tây Môn
Khánh liền gọi Vương Bà mà bảo rằng:
- Bà cho
tôi mấy chén trà ra đây?
Vương Bà
nghe nói, vội ngẩng đầu lên nhìn, rồi cười mà nói rằng:
- Kìa
Đại quan nhân đã đến đấy à? Lâu nay ít khi được gặp quan nhân, xin mời ngài
ngồi chơi.
Nói đoạn
rót hai chén Khương trà bưng ra. Tây Môn Khánh bảo Vương Bà rằng:
- Bà
ngồi chơi đây, uống với tôi một chén nước.
Vương Bà
đáp:
- Tôi có
phải là người theo dõi đuôi đâu?
Tây Môn
Khánh cười khanh khách mà rằng:
- Bà ơi!
Ở bên nầy họ bán gì thế?
- Họ bán
thứ canh Hà lậu tử, rất nóng và rất nhiều vị cay vào đó.
- Cái bà
này chỉ nói đùa thế thôi...
Vương Bà
nói rằng:
- Nào có
phải tôi nói đùa, người ta đã có chồng rồi đấy... - Tôi nói thực câu nầy, anh
ta làm bánh ngon, tôi muốn thử dăm chục cái có được không?
- Nếu
muốn mua thì đợi lát nữa, người ta về rồi mua, chứ có việc gì đến đây?
- Bà nói
phải lắm, để đợi lát nữa vậy.
Nói xong
ngồi uống nước một lúc, rồi lại đứng lên mà bảo Vương Bà rằng:
- Bà nhớ
biên vào sổ hàng cho tôi.
- Vâng,
tôi xin biên cẩn thận ạ.
Tây Môn
Khánh lại cười nhạt rồi quay đi.
Bấy giờ
Vương Bà ở trong hàng, liếc mắt nom Tây Môn Khánh, thì thấy chàng cứ đi sang
bên Đông, rồi lại quay về bên tây, quay về tây rồi lại sang đông, quanh quanh
quẩn quẩn ghé ghé nom nom, có tới năm lần bảy lượt, rồi lại chạy vào hàng Vương
Bà. Vương Bà thấy vậy bảo Tây Môn Khánh rằng:
- Sao
quan nhân ít đi thế? Lâu nay mới lại được gặp...
Tây Môn
Khánh cười phá lên, móc túi ra lấy một lạng bạc đưa cho Vương Bà mà nói rằng:
- Tôi
hãy đưa bằng nầy, để trả tiền trước, xin bà nhận lấy cho.
Vương Bà
cười nói rằng:
- Sao
quan nhân đưa nhiều thế?
- Bà cứ
cầm lấy đã.
Vương Bà
trong bụng đã mừng thầm, liền giơ tay cất lấy món tiền rồi nói rằng:
- Tôi
xem chừng Đại quan nhân có dáng khát, vậy xin ngài xơi bát nước chè non nhé!
- Sao bà
khéo đoán thế?
Vương Bà
cười đáp rằng:
- Có khó
gì mà không đoán được! Người ta bảo rằng:"Cần gì hỏi trước han sau, Cứ
trông nhan sắc biết nhau rành rành... " Tôi đây dẫu kẻ nghiêu khê dị dạng
đến đâu, cũng có thể đoán được cả.
- Vậy
hiện nay tôi có chút tâm sự, nếu bà đoán được tôi xin đãi bà năm lạng bạc.
- Tôi
đây không cứ gì ngũ trí thần thông, cũng có thể đoán được mười phần thế sự. Đại
quan nhân ghé tai lại lại đây tôi bảo. "Mấy hôm nay nhà thầy chỉ quanh
quẩn dòm nom cái đám bên cạnh vách kia chứ gì!" tôi đoán thế có phải
không?
Tây Môn
Khánh ra dáng bẽn lẽn rồi cười mà đáp rằng:
- Bà lão
này thực khôn hơn Tùy Hòa mẹo hơn Lục Giả tôi không dám dấu bà; không biết vì
cớ sao mà tự hôm tôi trông thấy mặt chị chàng ta, đến nay thì ba hồn bảy vía
đều biến theo đi đâu mất cả. Hiện nay tôi vơ vẩn, không biết ai là người dắt
lối đưa đường, không biết rằng bà có cách gì giúp được tôi không?
Vương Bà
cười khanh khách mà đáp rằng:
- Lão
tôi chả dấu gì Đại quan nhân; nhà tôi đây bán nước như qủy cầm canh vậy; Từ hôm
mồng ba tháng sáu cách ba năm nay, trời mưa tuyết lớn, không có bán gì nữa đâu!
Quanh quẩn chỉ nhờ nghề bắt thóp xằng để kiếm ăn mà thôi.
- Thế nào
là nghề bắt thóp xằng?
Vương Bà
lại cười mà nói rằng:
- Tôi
đây nhất là làm mối, rồi thì làm mụ dầu, làm bà đỡ, đi dỗ mấy người làm, anh
mồi chài rồi đi buôn người, ngón nào cũng thạo.
- Nếu bà
tác thành giúp tôi, tôi xin hậu tạ ơn bà mười lạng bạc.
- Ngài
phải biết rằng: Việc bợm bãi xưa nay, rất là việc khó, phải sao có đủ năm cái
tư cách này mới được: Một là phải đẹp như Phan An, hai là phải có sức khỏe
mạnh, ba là phải có tiền như Đặng Thông, bốn là phải rất nhẫn nại, năm là phải
tốn công phu; Năm điều ấy nếu thiếu một điều, thì không thể được.
Tây Môn
Khánh có vẻ mừng rỡ rằng:
- Chẳng
dấu gì bà già, năm điều ấy tôi có đủ cả rồi; Điều thứ nhất mặt tôi tuy không
không được như Phan An, nhưng cũng có thể thương thực; Điều thứ hai khi tôi cỏn
nhỏ cũng giữ được thân thể mạnh khỏe; Điều thứ ba trong nhà tôi dẫu không lấy
của đâu được bằng Đặng Thông, song tiền của cũng dư dật; Điều thứ tư tôi đây
rất có tính nhẫn nại, dẫu ai đánh đến bốn trăm cái, tôi cũng không đánh trả bao
giờ; Điều thứ năm tôi thực chịu khổ công phu, bằng không thì sao có lần mò thế
này? Bà ơi! Bà cố sức tác thành cho tôi, tôi xin hậu tạ.
- Đành
rằng năm điều ấy ngài có đủ rồi, song còn có một việc này khó lắm, có lẽ ngài
không theo được!
- Bà cứ
nói thử xem, xem có điều gì làkhó?
- Ngài
chớ nên giận tôi nói thẳng mới được! Phàm sự bợm đãi đã đủ mười phần tư cách
rồi, song còn một thứ tiền, nếu chỉ tiêu đến chín phần ly, mà còn thiếu một ly
nữa là vất đi cả. Thế mà nhà thầy thì vốn là người hà tiện, xưa nay không chịu
tiêu phí đồng tiền, như thế thì có lẽ khó lòng làm nổi.
- Tưởng
gì, chứ bệnh ấy thì dễ chữa, bây giờ tôi cứ theo ý bà là được chứ sao?
- Nếu
vậy thì tôi có một cách này, làm cho Đại quan nhân có thể được giáp mặt người
ấy, nhưng chả biết rằng:
- Ngài
có bằng lòng không?
- Bà
muốn bảo thế nào, thì tôi cũng xin bằng lòng cả, ba có kế gì là diệu?
Vương Bà
cười nói rằng:
- Hôm
nay trời đã muộn rồi, Đại quan nhân hãy cứ đi về, rồi trong nửa năm nay hay là
ba tháng nữa, sẽ đến đây bàn định...
Tây Môn
Khánh nghe vậy, thì quỳ xuống mà nói rằng:
- Bà ơi!
Bà ơi! Bà không nên độc ác như thế?
- Tôi có
một kế sách này, dẫu chưa đến bậc vào miếu Võ Thành Vương, song cũng hơn cách
Tôn Vũ Tử dạy nữ binh bắn mươi người, thì trúng được chín kia đấy. Bây giờ tôi
nói cho Đại quan nhân nghe nhé! Người ấy con nuôi nhà phú hộ ở huyện Thanh Hà,
thì nghề kim chỉ tất là khéo lắm, vậy ngài mua cho tôi một tấm lụa trắng, một
tấm vóc lam, một tấm vải trắng và mươi lạng chỉ tơ, cốt để mang đến đây. Đoạn
rồi tôi đến nói dối người ấy là, có một ông tài chủ đem đến cho tôi bộ áo tống
chung, và sang đó mượn lịch xem ngày để tìm thợ về cắt. Như thế mà người ấy
nghe nói cứ điềm nhiên, không hỏi đến chuyện ấy nữa, thì việc ấy tất hỏng mất.
Nhưng nếu người ấy lại hứa lời cắt giúp tôi, thì tất có một phần bợm đó rồi.
Khi tôi mời nàng sang nhà để cắt, nếu nàng không chịu sang thì cũng là hỏng
mất. Nếu nàng lại vui lòng mà nhận lời sang nhà để giúp, thì lại có hai phần
bợm rồi đó. Khi nàng sang nhà tôi, thì phải dọn các thức rượu nhắm để đó thiết
đãi, nhưng ngày thứ nhất, thì cậu không được đến đây; Còn đến ngày thứ hai, nếu
nàng nhận lại từ chối, mà đem về nhà khâu, thì cũng lại là hỏng mất. Bằng như
nàng ở đấy mà khâu cho, thì việc ấy có ba phần bợm đó. Ngày hôm ấy cũng không
đến được, phải đợi đến ngày thứ ba, cậu sẽ ăn mặc cho chững chạc, rồi đến cửa
đằng hắng một cái mà nói lên rằng: ""Sao lâu nay không thấy Vương bà
đâu? "" Bấy giờ tôi nghe tiếng, rồi tôi ra mời vào ngồi chơi, nếu
nàng ta thấy thế mà đứng dậy ra về là hỏng mất. Bằng nàng thấy vậy mà cứ ngồi
im khâu, thì việc ấy có bốn phần hên đó.
Khi ngồi
chơi tôi sẽ khoe với nàng rằng: "Cậu là người tài chủ mà làm phúc cho tôi,
mà nhà cậu rất là sang trọng tử tế, rồi cậu lại phải tán tỉnh thêm vào, nếu thế
mà nàng không bắt chuyện, thì việc cũng vất đi mất! Nhưng nếu nàng cũng hé răng
ra ứng đáp, thì có được năm phần bợm, rồi đó. Bấy giờ tôi lại tán là hai tay
tài chủ, kẻ xuất công người xuất của, nếu không phải là may mắn cho tôi, thì
sao có gặp được nương tử ở đây, vậy xin quan nhân tạm làm chủ thiết đãi nương
tử giúp tôi, đoạn rồi cậu đưa tiền cho tôi đi mưa rượu. Nhưng nếu nàng đứng dậy
ra về, lại là hỏng mất. Nhược bằng nàng điềm nhiên ngồi lại, thế là có được sáu
phần bợm rồi đó.
Khi cầm
tiền rồi, thì tôi lại nói nhờ nàng ngồi tiếp Đại quan nhân giúp để tôi đi mua
các thức nhắm, nếu nàng từ chồi đứng dậy ra về, là việc cũng hỏng. Bằng nàng
ưng ý mà ngồi lại, là việc ấy có bảy phần bợm đó. Đến lúc mua được thức nhắm
về, tôi lại nhờ nàng xếp đồ khâu lại, để cùng ngồi uống rượu cho vui, thế mà
nàng không chịu ngồi là việc hư hỏng. Nếu nàng bằng lòng ngồi cho, thì việc ấy
có tới tám phần bợm rồi đó. Uống dăm ba chén rượu, tôi giả vờ là hết rượu,bảo
cậu phải mua thêm. Bấy giờ cậu sẽ nhờ tôi đi mua hộ, đoạn rồi tôi đi khép cửa,
để mặc hai người ở đó, thế mà nàng hoảng hốt đòi về là hỏng việc. Bằng nàng cứ
ngồi yên không nói chi, là việc có chín phần bợm rồi đó.
Đến đó
chỉ còn thiếu có một phần nữa là xong, nhưng phần này thì rất là khó; Bấy giờ
cậu ngồi ở đấy, phải lựa lời đem những câu chuyện ngon ngọt mà khơi gợi dần
dần, chớ có bạo động mà lỡ việc, thì tôi không biết đâu đến được nữa! Trước hết
phải giơ tay áo lên bàn, giả cách đánh rơi chiếc đũa, rồi lại vội vàng cúi
xuống nhặt, và rờ tay vào chân nàng mà nắm một cái, nếu nàng gắt giận cự mắng,
thì tôi sẽ chạy vào cứu, song như thế cũng là hỏng việc, không còn làm thế nào
được nữa! Nhược bằng nàng lẳng lặng không nói gì, thì bấy giờ có đủ mười phần
bợm rồi đó. Kế sách ấy thế nào?
Tây Môn
Khánh nghe xong cả cười mà rằng:
- Được
lắm, dầu chưa lên được đến gác Lăng Yên, song ấy thế thực là diệu kế.
- Nhưng
cốt nhất là phải nhớ đưa mười lạng bạc mới được.
- Cái đó
chắc lắm, có khi nào được ba miếng quất bì, mà lại quên hồ Động Đình được?
Nhưng kế sách ấy, bao giờ bà bắt đầu làm cho?
- Chỉ
chiều hôm nay là có tin rồi, bây giờ nhân lúc Võ Đại chưa về, tôi phải sang nói
qua trước xem sao, cậu về cho người mang vóc lụa đến ngay cho tôi mới được.
Tây Môn
Khánh hớn hở mừng ra mặt mà nói rằng:
- Nếu
được bà tác thành cho, thì khi nào tôi dám sai lời.
Nói xong
từ tạ Vương bà quay ra phố mua các vật liệu đùng như Vương bà đã dặn, rồi bọc
gói cẩn thận, và đem thêm năm lạng bạc lẻ đưa đến cho Vương bà, Vương bà nhận
các đồ bảo vật, bảo Tây Môn Khánh hãy về, rồi một mình xăm xăm theo lối cửa sau
mà sang nhà Võ Đại. Vợ Võ Đại thấy Vương bà đến, liền mời lên gác ngồi nói
chuyện.
Vương bà
hỏi:
- Sao
mấy hôm nay nương tử lại không sang chơi nhà tôi xơi nước?
Chị
chàng kia đáp rằng:
- Mấy
hôm nay tôi không được khỏe trong mình, nên không muốn đi đâu cả.
- Chẳng
hay nhà nương tử có cuốn lịch không? Nhờ nương tử xem giúp già tôi xem ngày nào
có thế may áo được?
- Bà may
áo gì thế?
- Ối
chào! Chả giấu gì nương tử; Tôi bây giờ cũng đau yếu luôn, chẳng chắc rằng trời
đất ra thế nào, bởi thế muốn may một áo tống chung, để phòng bị cho đỡ lo về
sau. May lại có một tài chủ ở gần đây có lòng tốt thương đến già tôi, đem cho
mấy tấm vóc lụa, vẫn cứ để ở nhà mãi mà không sao may được? Ngày nay nhân thấy
trong mình đã già yếu, nên muốn may đi cho xong, nhưng mấy hôm trước thì anh
thợ may đằng kia cứ kêu là bận việc không may được, thành ra nấn ná mãi đến
nay, nương tử nghĩ có khổ không?
Chị
chàng nghe nói cười mà rằng:
- Tôi
đây khâu vá vụng về lắm, nhưng nếu bà có bằng lòng dùng tạm, thì tôi xin may
giúp cho.
Vương bà
cũng cười hớn hở mà đáp lại rằng:
- Nếu
được nương tử giúp cho, thì tôi chết cũng thỏa lòng, nương tử vốn là tay khéo,
xưa nay tôi đã biết, nhưng có khi nào dám phiền đến nương tử như thế?
- Có can
chi việc ấy! Tôi đã hứa giúp bà thì tất nhiên tôi hết lòng giúp, để tôi đem
lịch ra chọn ngày nào là ngày Hoàng đạo, rồi ta may cũng được chứ sao?
- Nương
tử có lòng giúp tôi như thế, thực là một vị Phúc tinh tới nơi, còn cần chi phải
chọn ngày nữa? .. Hôm trước tôi cũng nhờ người xem, họ nói đến ngày mai là ngày
Hoàng đạo nhưng tôi tưởng mai áo thì không cần ngày Hoàng đạo nên cũng không
nhớ làm gì.
- May áo
Thọ chính phải cần ngày Hoàng đạo, nếu vậy thì không cần phải xem nữa.
- Vâng,
nương tử đã có lòng tốt như thế, thì đến mai tôi xin sang đây dọn dẹp để nhờ
nương tử khâu giúp cho... nhưng có điều không ai coi nhà cho tôi bên ấy.
- Được,
để sáng mai tôi ăn cơm nước xong rồi sẽ sang đấy khâu giúp bà, bất tất phải
mang sang đây cũng được.
Vương bà
nghe nói thì lấy làm mừng rỡ cảm ơn, rồi tạ từ trờ về báo cho Tây Môn Khánh
biết rồi để dự bị việc ngày mai.
Sáng hôm
sau Vương bà dậy sớm dọn dẹp buồng the sạch sẽ, đem các đồ hoa quả và sắp sẵn
nước non bày ra bàn để đợi. Bên kia vợ Võ Đại đợi khi chồng cất gánh hàng ra
đi, rồi mới treo rèm ra cửa, quay vào lối cửa sau mà đi sang nhà Vương bà.
Vương bà vội vàng đón vào, mời xơi nước nôi và hoa quả, rồi đem các thứ vải vóc
ra cho vợ Võ Đại đo cắt. Vương bà đứng xem lối cắt áo và may, thì tán tụng thêm
lên: Thật là khéo léo, lão già đã bảy tám mươi rồi chưa từng thấy ai may áo
khéo thế! Khi người đàn bà may đến trưa, Vương bà bày dọn cơm canh mời ăn uống
tử tế, xong rồi lại khâu vá cho đến chiều tối mới về.
Khi về
nhà vừa gặp Võ Đại bán hàng về, nàng liền cuốn rèm mở cửa cùng vào, Võ Đại thấy
vợ má hồng lên, liền hỏi:
- Hôm
nay nàng uống rượu ở đâu mới về?
Người vợ
đáp:
- Vương
bà ở cạnh vách đây, có sang nói may giúp chiếc áo tống chung, rồi tôi sang may
giúp, đến trưa, có mời ăn uống, chứ có uống rượu ở nơi nào.
Võ Đại
nói:
- Ối
chào! Thôi đừng uống rượu nữa, mình cũng có nhiều khi phải cậy đến Vương bà,
nếu ngày mai còn phải sang giúp bà ta, thì đừng uống rượu nữa, mà mang sẵn tiền
sang mua rượu uống với bà ta cho phải lối với nhau, vì rằng: Bán anh em xa mua
láng giềng gần, phải xử như thế mới được, nếu không muốn mời lại, thì đem vải
vóc về nhà khâu vá cho xong, rồi đem sang trả cũng được.
Người vợ
nghe xong, không nói năng gì.
Hôm sau
Võ Đại đi chợ, Vương bà lại sang khuyên dỗ đón mời sang làm giúp, nàng lại đi
sang, Vương bà đem trà nước rồi, ngồi vào làm việc, đến gần trưa, nàng đưa ra
một ít tiền nói với Vương bà rằng:
- Hôm
nay tôi mang tiền sang đây, bà mua rượu về rồi bà con mình cùng chén.
Vương bà
nói:
- Ồ! Thế
ra nghĩa lý gì, tôi mời nàng sang đây làm giúp, thì tôi phải mời rượu sao lại
để cho nàng mang tiền sang đây mua rượu nhắm ăn uống, thì ra làm sao?
Người
đàn bà nói:
- Hôm
qua tôi có nói chuyện với chồng tôi, thì chồng tôi bảo rằng đã giúp bà thì giúp
cho hết sức, vì chỗ xóm giềng còn nhờ vả nhau nhiều, nên tôi mới xử như vậy.
Vương bà
nói:
- Đại
Lang là người tốt qúa, vậy tôi xin nhận tấm lòng tốt, mua thêm nhiều rượu thức
ăn, để cùng ăn uống cho vui.
Vương bà
nhận tiền, mua những thứ ngon lành, ân cần mời khuyên, sau khi ăn uống xong,
rồi nàng lại làm giúp cho đến chiều mới về, Vương bà khéo léo tạ ơn, làm cho
nàng vui vẻ.
Ngày thứ
ba, Vương bà dòm biết Võ Đại đi bán hàng rồi, lại chạy sang ân cần đón rước làm
giúp cho xong. Người đàn bà được lòng mà nói:
- Tôi
vốn định sang ngay, chả cần bà phải sang đón.
Liền vào
trong buồng Vương bà làm giúp, theo thường lệ Vương bà lại đem quà nước mời
khuyên. Tây Môn Khánh đúng ngày hẹn ấy, ăn mặc chải chuốt kịch sự, đến thăm
Vương bà, đem thêm một món tiền nữa, tới nơi liền nói to lên rằng:
- Sao
Vương bà lâu nay không thấy đến tôi?
Vương bà
chợt thấy tiếng hỏi, thì hỏi lại:
- Ai
đấy?
Tây Môn
Khánh nói:
- Tôi
đây!
Vương bà
chạy ra cười nói:
- Ô! Tôi
tưởng là ai ngờ đâu Thí chủ Đại Quan nhân đã tới, quý hóa lắm! Vậy xin mời ngài
vào chơi, tôi đương may chiếc áo thọ.
Rồi kéo
tay áo Tây Môn Khánh vào buồng nói với người đàn bà kia rằng:
- Đây là
Thí chủ quan nhân đã giúp vải vóc cho tôi may áo.
Tây Môn
Khánh thấy người đàn bà ấy liền chào. Người đàn bà cũng vội vàng ngừng tay, mà
bái chào lại. Vương bà liền trỏ vào người đàn bà mà nói với Tây Môn Khánh rằng:
- Lão
già đã may mà được quan nhân cho vải vóc, hơn một năm chưa may được, đến nay
lại may mà gặp được mong nương tử đây ra sức làm cho, thật là vừa khéo vừa hỹ,
Đại quan nhân hãy xem thử, coi có thực tay thợ giỏi không.
Tây Môn
Khánh nghe lời, liền cầm xem rồi khen rằng:
- Ừ khéo
thật! Chả biết rằng nương tử học được ở đâu, mà may cắt khéo như thần tiên thế
vậy?
Người
đàn bà cười nói:
- Xin
Đại quan nhân đừng cười, chúng tôi còn vụng lắm!
Tây Môn
Khánh hỏi lại Vương bà:
- Dám
hỏi khí không phải, chẳng hay nương tử này ở đâu đến?
- Đại
quan nhân quên à?
- Tôi
quên làm sao?
Vương bà
cười nói:
- Nương
tử đây là vợ Võ Đại Lang ở khít vách đây hôm nọ đã làm đụng cái nạng vào đầu
quan nhân có lẽ không đau chăng, mà vội quên ngay được?
Người
đàn bà thẹn đỏ ửng mặt lên mà nói:
- Ngày
nọ tôi trót lỡ tay, mong rằng Đại quan nhân tha thứ.
Tây Môn
Khánh đáp:
- Thôi
nhắc làm chi việc nhỏ ấy.
Vương bà
nói tiếp:
- Đại
quan nhân đây là người hòa nhã, không nhớ lâu đâu, thực là người tốt.
Tây Môn
Khánh nói:
- Trước
kia tôi không biết ra, nàng là vợ của Đại Lang vốn là người làm ăn, bán hàng
ngoài phố, đối với mọi người lớn nhỏ đều hòa thuận tốt nết, thực là khó lấy
được một người chồng như thế.
Vương bà
đón lời ngay:
- Vương
tử lấy được Đại Lang, khi cần đến việc gì, Đại Lang cũng chiều chuộng thân yêu
lắm.
Người
đàn bà ra chiều chán ngán nói luôn:
- Ối
chà! Làm gì đồ vô dụng ấy! Xin Đại quan nhân chớ chê cười!
Tây Môn
Khánh nói lại:
- Nương
tử lầm rồi, người xưa đã dạy: Mềm nhũn là cái gốc lập thân, cương ngạnh chỉ gây
mầm tai vạ, Đại Lang của nương tử lành hiền như thế, là để phúc đức về sau, chả
là hay lắm ư?
Vương bà
đón luôn:
- Phải,
phải, quan nhân dạy đúng.
Tây Môn
Khánh tán tụng láo một hồi, rồi ngồi xuống ghế, đối diện với nàng.
Vương bà
nói chuyện:
- Nương
tử! Có biết đến vị quan nhân này chăng?
Người
đàn bà nói:
- Có
được đi đến đâu mà biết!
Vương bà
khoe:
- Đại
quan nhân đây là một tay tài chủ huyện ta, thường đi lại với Quan Lớn Tri
Huyện, nên gọi là Tây Môn Đại quan nhân, mở hiệu thuốc ở trước cửa, nhà giàu
có, nào tiền nhiều hơn sao Bắc đẩu, thóc lắm hơn lúa Trần Thương, nào ngọc,
vàng, châu báu, không thiếu thứ gì, thực là triệu phú.
Người
đàn bà cúi đầu xuống khâu may. Tây Môn Khánh thấy Phan Kim Liên con người tình
tứ, bụng đã mừng thầm. Vương bà đi rót hai chén trà, dâng một chén mời Tây Môn
Khánh, và dâng một chén mời Kim Liên mà nói:
- Nương
tử hãy cùng Đại quan nhân đây uống trà cho vui.
Rồi thấy
người đàn bà không e thẹn gì, Vương bà lấy bàn tay ra hiệu bảo ngầm với Tây Môn
Khánh biết, việc đã thắng năm phần. Rồi Vương bà lại nói:
- Nếu
Đại quan nhân không tới, thì già nầy không dám đến mời thực một là Trời đã xếp
lại, hai là đến được vừa lúc, người ta thường nói rằng: Một khách chả nên phiền
hai chủ, đã Đại quan nhân xuất tiền lại quý nương tử xuất lực, may mắn cho thân
già, nay quan nhân làm chủ cho, để xin mởi nương tử cùng uống rượu mừng cho tôi
thì quý lắm.
Tây Môn
Khánh đáp:
- Vâng,
đây là chút tiền bà mua rượu về đây cho tôi.
Người
đàn bà nói:
- Thế
thì phiền Đại quan nhân quá.
Miệng
tuy nói, nhưng vẫn ngồi làm, Vương bà lấy tiền mua rượu người đàn bà không đứng
dậy đi. Vương bà ra cửa lại nói:
- Xin
phiền nương tử ở nhà ngồi tiếp chuyện Đại quan nhân, để tôi đi một lúc.
Người
đàn bà nói:
- Được
bà cứ đi.
Không
đứng dậy về, đều tỏ ra tình ý với nhau lúc ấy.
Bấy giờ
Tây Môn Khánh đối mặt nhìn người đàn bà, cũng thấy liếc trộm lại mình, đã biết
ưng ý bảy tám phần rồi vậy, mới lựa lời nói chuyện gần xa... Chẳng bao lâu
Vương bà mua thịt rượu ngon lành về mới sửa soạn bày ra để ăn uống, và bảo
người đàn bà nghỉ tay, để bồi tiếp Đại quan nhân. Người đàn bà nói:
- Lão bà
hãy tiếp Đại quan nhân tôi đâu dám thế.
Nhưng
vẫn không ngừng tay đứng dậy về, Vương bà nói:
- Chính
bữa rượu này để thù lao nương tử, sao lại chối từ.
Vương bà
bày biện xong, rồi ba người cùng ngồi uống rượu. Tây Môn Khánh đưa chén rượu
lên nói:
- Xin
nương tử uống cạn chén này.
Người
đàn bà nói:
- Đa tạ
hậu ý của Đại quan nhân.
Vương bà
nói:
- Lão
đây biết nương tử uống rượu được hãy xin uống cạn cho mấy chén này.
Tây Môn
Khánh lại nói:
- Lão bà
thay tôi mời nương tử giúp.
Vương bà
lại mời khuyên, người đàn bà uống một lúc luôn ba tuần rượu. Vương bà chạy đi
hâm rượu nóng lại.
Tây Môn
Khánh nói:
- Dám
hỏi khí không phải, chẳng hay nương tử năm nay chừng mấy thanh xuân?
Người
đàn bà nói:
- Tôi
vừa 23 tuổi.
- Như
vậy tôi hơn 5 tuổi.
- Dạ,
quan nhân đem trời đọ đất làm chi!
Vương bà
chạy lại nói:
- Nương
tử đây là người giỏi lắm, nào phải may khâu mà thôi, còn thuộc làu chữ nghĩa.
Tây Môn
Khánh nói:
- Kể ra
thì buồn lắm, chỉ tiếc cho tôi, phận mỏng không tìm được người nào như nương tử
đây.
Vương bà
nói:
- Người
vợ cả của Đại quan nhân chắc là hay lắm?
- Khỏi
phải nói, người vợ trước của tôi còn sống, thì đâu đến nỗi cửa nhà bê bối như
ngày nay, đến nay trong nhà sáu bảy miệng ăn, mà chả làm được nên việc gì cả.
Người
đàn bà hỏi:
- Chẳng
hay vợ trước của Đại quan nhân đã mất bao lâu?
- Giấu
gì nương tử, vợ trước của tôi, vốn con nhà nghèo, cho nên việc gì làm cũng
thạo, giúp nên cơ nghiệp cho tôi, chẳng may mất đi đã được ba năm, khiến tôi
bấy lâu công việc bê trễ, thất điên bát đảo cả người, cho nên có đi đâu được,
chỉ ở nhà lo liệu không xong.
Vương bà
nói:
- Nói
cho đúng ra thì xin Đại quan nhân đừng giận, vợ trước của ngài đâu bằng Võ Đại
nương đây, khéo từ việc may vá.
Tây Môn
Khánh nói:
- Vợ
trước của tôi thì kém phần lịch sự như nương tử thực.
Vương bà
lại hỏi:
- Đại
quan nhân có nuôi cô nào ở phố đông kia mà không cho già nầy ăn uống với.
Tây Môn
Khánh đáp:
- À cô
Trương Tích, vốn con hát tầm thường, nên tôi đâu có thiết, đó là y muốn theo
tôi.
Vương bà
lại nói:
- Vậy
quan nhân với Lý Kiều ở với nhau đã bao lâu?
- Cô ấy
hiện ở nhà, giả thử được như nương tử đây, thì cũng cho làm vợ cái con cột rồi.
Vương bà
lại nói:
- Nếu có
một người nào như là nương tử, tôi đến mách cho, liệu có lấy làm vợ cả được
không?
- Cha mẹ
tôi đã mất, thì tôi tự chủ, có ai ngăn cản vào đấy.
Vương bà
nói:
- Rồi
tôi sẽ kiếm quan nhân một người vừa ý muốn.
- Cám ơn
Vương bà, tôi chỉ ngại vợ chồng không tốt số mà thôi.
Bấy giờ
Tây Môn Khánh chuyện với Vương bà kẻ tung người hứng với nhau một hồi.
Vương bà
nói:
- Đương
thích uống rượu, mà bầu đã cạn rồi, để tôi đi mua một bầu rượu nữa nhá?
Tây Môn
Khánh nói:
- Trong
khăn gói tôi còn 5 lạng bạc đấy, xin dưa cho Vương bà mua rượu về đây.
Vương bà
nhận lấy, tạ lại mấy lời, rồi thấy hai người ý tứ đã ăn nhau có rượu ngon.
Người
đàn bà đáp:
- Thôi
mua nữa làm chi, xin cho thế là đủ.
Nhưng
nói thế thôi, chứ không chối hẳn.
Vương bà
ra khỏi cửa, lấy dây buộc cửa lại, ra ngoài đường xa ngồi chơi. Bấy giờ Tây Môn
Khánh ở trong phòng với Kim Liên, liền rót rượu khuyên mời, rồi lựa tay áo làm
rơi chiếc đũa xuống đất, lại xuống ngay ở chỗ dưới chân nàng, chàng mới vội cúi
mình xuống nhặt, thấy hai gót chân nàng trắng nhỏ, chiếc đũa ngay đấy, chàng
không nhặt đũa, lại thò tay nắm gót chân nàng một cái.
Người
đàn bà cười nói:
- Quan
nhân sao lại như vậy?
Tây Môn
Khánh bèn quỳ xuống nói:
- Mong
nương tử thương đến tôi đây!
Người
đàn bà liền nâng Tây Môn Khánh lên, tỏ ý bằng lòng. Thế rồi hai người vào phòng
Vương bà cởi xiêm lột áo, vấy cuộc mây mưa...
Sau khi
tan cuộc sửa soạn áo xiêm, thì Vương bà đẩy cửa bước vào, giận nói:
- Hai
người giở trò gì thế?
Tây Môn
Khánh và người đàn bà nom thấy cả kinh!
Vương bà
nói:
- Chao
ôi! Chao ôi! Tôi mời chị đến đây may áo mà chị lại vụng trộm tình yêu, Võ Đại
biết đến, thì ta liên lụy, bất nhược ta đi bảo trước bây giờ.
Nói xong
chạy ra. Người đàn bà mặc quần xong rồi nói:
- Xin bà
bớt giận.
Tây Môn
Khánh cũng rằng:
- Xin bà
nói khẽ cho.
Vương bà
cười nói:
- Nếu
muốn ta tha các người, thì phải theo một điều kiện.
Người
đàn bà nói:
- Chả cứ
một điều kiện, mười điều tôi cũng vâng theo.
Vương bà
nói:
- Bắt
đầu từ nay trở đi, nàng phải dấu trộm Võ Đại mà sang đây với Đại quan nhân,
không được phụ lời, thì ta mới thôi, nếu một ngày không sang, thì ta bảo với Võ
Đại.
Người
đàn bà ấy y lời.
Vương bà
lại nói:
- Tây
Môn Khánh quan nhân, ngài chớ để lão già nói lắm. Công việc mười phần đã xong
hứa cho những cái gì, không được thất tín, nếu người phụ ta, thì ta mách Võ
Đại.
Tây Môn
Khánh nói:
- Vương
bà yên tâm, tôi không bao giờ thất tín.
Rồi ba
người lại ngồi uống rượu với nhau vài chén nữa, thì đã xế chiều. Người đàn bà
nói:
- Võ Đại
sắp về rồi, tôi xin về đây.
Rồi ra đằng
cửa sau, cuốn mành lên, thì Võ Đại vừa về.
Bấy giờ
Vương bà bảo Tây Môn Khánh rằng:
- Thủ
đoạn giỏi không?
- Xin
bái phục Vương bà rồi. Tôi về nhà đem vàng đến cho bà đây, và đem những thứ gì
đã hứa.
- Tôi
xin trong bóng cờ tinh, tấu khúc khải hoàn đây.
Tây Môn
Khánh cười rồi đi.
Từ đó vợ
Võ Đại cứ hằng ngày, vắng chồng, liền đi lẻn lối sau, sang nhà cùng với Tây Môn
Khánh ở trong phòng ân ái, tình ý với nhau gắn chặt keo sơn. Thế rồi tiếng lành
đồn xa, tiếng dữ đồn xa, chỉ chừng nửa tháng xóm giềng hàng phố đều biết chuyện
này, chỉ có Võ Đại là không biết.
Bấy giờ
hàng huyện có một cậu bé, chừng mười lăm mười sáu tuổi, vốn họ Kiều, nhân vì
theo hầu binh lính từ Vận Châu đến ở, nên gọi Vận Kha, trong nhà còn bố già,
cậu bé ấy tinh ranh, chỉ đem những hoa quả bán cho các quán rượu ở trước huyện
để sinh sống, thường bán chịu hàng cho Tây Môn Khánh. Ngày kia có một dành quả
tuyết lê, đem đến phố tìm Tây Môn Khánh, không gặp sau có lẻ mau miệng bảo
rằng:
- Vận
Kha! Mầy muốn tìm hắn, thì ta chỉ cho một chỗ mà tìm.
Vận Kha
nói:
- Chú
ơi! Làm ơn bảo cho tôi biết hắn ở đâu để tôi bán lấy vài chục tiền về nuôi sống
cha già thì tôi cảm ơn lắm!
Người
nhanh miệng ấy nói:
- Tây
Môn Khánh bây giờ đã ôm ấp vợ Võ Đại bán bánh chưng hằng ngày ở trong buồng
Vương bà ở phố Tử Thạch, hắn ở trong ấy, chú mầy trẻ con, cứ vào đấy chẳng ngại
gì.
Vận Kha
nghe nói tạ ơn người ấy, rồi ranh con đem cái rành quả đi đến phố Tử Thạch, vào
thẳng trong phòng trà, thì gặp ngay Vương bà ngồi ở chõng ngoài, Vận Kha bỏ
dành quả xuống chào hỏi.
Vương bà
nói:
- Vận
Kha! Mày đến đây có việc gì?
- Tôi
muốn tìm Đại quan nhân để xin tiền tiêu!
- Đại
quan nhân nào?
- Bà còn
lạ gì ông ấy, tôi chỉ hỏi ông ấy,chứ còn hỏi ông nào nữa?
- Đành
rằng ông ấy nhưng cũng phải có họ tên mới được chứ?
- Phải,
họ có hai chữ ấy mà.
- Hai
chữ gì?
- Bà còn
hỏi đùa mãi, tôi muốn tìm Tây Môn Khánh quan nhân chứ còn ai nữa?
Nói xong
chạy thộc vào trong nhà, Vương bà nắm lại mà mắng rằng:
- Ranh
con đi đâu thế, nhà người tà có buồng trong nhà ngoài, lại có chủ mà dám tự
tiện vào được.
- Tôi
tìm ông Tây Môn Khánh ra đây, bà còn giấu mãi.
- Ranh
con, làm gì có Tây Môn Khánh ở đây?
- Không
nên ăn cả một mình như thế, phải để phần cho tôi một chút mới được. Người ta
lại không biết rồi hay sao?
Vương bà
quát ầm lên mắng rằng:
- Khỉ
con, biết cái gì mà biết... ?
- Ối
chao ôi! Lại còn giấu voi ruộng mạ mãi, tôi nói bây giờ, chỉ sợ anh hàng bánh
biết thì khốn đấy.
Vương bà
lại càng nổi giận đùng đùng quát mắng lên rằng:
- Ranh
con mày ở đâu đến đây mà nói láo thế?
Vận Kha
cười nhạt mà rằng:
- Tôi
đây là ranh con, thì bà cũng là bợm già chứ gì?
Vương bà
càng tức giận, nắm lấy Vận Kha toan đánh cho mấy cái tát. Vận Kha kêu lên rằng:
- Sao bà
lại được đánh tôi.
Vương bà
nói:
- Mày
kêu to bà đánh bây giờ.
Nói rồi
đánh cho mấy cái tát tai.
- Á, con
sọm già dám đánh ta.
Vương bà
liền tát luôn mấy cái nữa, lại hắt cả dành quả của Vận Kha ra phố, và cố đuổi
ra ngoài.
Vận Kha
vừa khóc, vừa chửi, vừa chạy vừa lúi húi nhặt hoa qủa bỏ vào dành, rồi chửi mà
nói rằng:
- Được
rồi, tao bảo cho mày, mày giấu được tao, thì tao đã có người khác trị lại cho
mày biết.
Nói xong
liền xách dành giỏ mà đi thẳng.
Lời bàn
của Thánh Thán:
Tả Võ
Nhị coi anh như cha, vốn là đặc tính của hào kiệt có chỗ hơn người, song ta coi
chẳng khó về việc Võ Đại coi em như con vậy. Chao ôi! Trong tình anh em đến như
ngày nay sao dễ xử vậy thay! Một lần vì Võ Nhị đánh người, bị lây đến anh,phải
tìm nơi xa bán bánh, một lần nữa Võ Nhị đã hiển đạt, như quên cả tình anh, như
thế một lần khiến tan nát vì nỗi tiểu nhân và một lần khiến tan nát về lối quân
tử vậy.
Hỡi ơi!
Tan nát về thói tiểu nhân, lỗi vì thô bỉ, còn có thể cứu lại! Tan nát về lối
quân tử, lỗi vì giả dối, không thể cứu lại, lỗi vì Tiểu nhân do trong lòng thô
bỉ, mà ngoài không đến nỗi giả dối, còn có thể đem giáo hóa của thánh vương mà
dạy lại. Lỗi vì Quân tử, do sự giả dối bên trong lòng cũng thô bỉ mà thôi, thì
không còn đem giáo hóa thánh vương mà dạy nổi? Cho nên Võ Nhị coi anh như cha,
vốn đạo của người học vấn, Võ Đại coi em như con, vốn là của người sẵn tính
trời, do sự học vấn mà thờ anh như cha được như Võ Nhị người ta còn có thể bắt
chước. Do tính trời mà coi em như con được như Võ Đại, khó mà bắt chước được
như thế? Cho nên tác giả tả Võ Nhị, để cứu lại cái thô bỉ của tiểu nhân, tả Võ
Đại, để cứu lại cái giả dối của quân tử. Hỡi ơi! Trong tình anh em, một gốc
sinh ra tất phải yêu nhau vốn sẵn tính trời, học vấn cũng đến như thế vậy bất
đắc dĩ phải bỏ học vấn như tiểu nhân kia, theo sẵn tính trời mà xử, dù cho quân
tử cũng không khỏi tính trời.
Hồi trên
tả Võ Nhị đả hổ, chuyển rừng động núi, khiến người khiếp sợ. Hồi này tả Võ Nhị
gặp chị dâu, đào non liễu yếu, khiến người mê say, ta từng thấy sau khi múa đao
rồi thổi sáo ngâm thơ. Sau khi chém giết, uống rượu vui vầy, sao mà Thi Âm khéo
tiếp tay tả ra như vậy?
Tả Tây
Môn Khánh mấy phen xoay chuyển, khéo về cứu thế, khéo về đổi thay, khéo về cần
gấp, khéo về lạnh lùng, khéo về thong thả, khéo về muốn ngay, khéo về phá đi,
khéo về mượn lại, khéo về đón lấy, khéo về đẩy ra... Thực là một thiên gấm bật
mầu hoa, rõ ra văn tự!
Tả Vương
bà định kế, chỉ mấy câu là đủ, xem hắn từng một dư một kiệt, một nuốt một nhả,
tùy tâm gỡ ý, bày ra năm phần Quang, trước khi bày mười phần Quang, còn đặt ra
năm điều kiện, thực tác giả tài nhiều bằng bể thế bút mực như sóng lên trào
xuống, diễn xuất không cùng!
Suốt hồi
tả Tây Môn Khánh muốn gian dâm, chỗ chỗ đều vào trong tay bợm Già thao túng,
miêu tả ra một lũ tiểu nhân, chỉ cùng một việc, lại đều theo sở thích riêng
nhau, kẻ tiền tài người sắc đẹp, thực là đáng ghét và đáng cười, ta thường dậy
sớm mở cửa nom ra đường, thiết nghĩ biết bao kẻ ruổi rong xe ngựa chẳng ai vì
một nếp sống riêng, nay đọc đến hồi này mà cười cho sự thế.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 24: Bày mưu gian, bợm già dỗ khách; Ham
tình dục, gái đĩ giết chồng
Khi đó
Vận Kha tức giận xách giỏ đi thẳng tới chỗ Võ Đại bán hàng. Vừa đi tới nơi thấy
Võ Đại gánh hàng ở phố kia, mới lại gần kiếm chuyện hỏi đùa rằng:
- Lâu
nay không gặp Đại Lang, sao dạo này béo thế?
Võ Đại
nói:
- Xưa
nay ta vẫn bình dạng như thế này có gì làm béo?
- Hôm nọ
ta vẫn tìm lúa ngô mà không đâu có, người ta nói nhà Đại Lang có.
- Nhà ta
không nuôi ngan vịt, làm gì có thứ ấy?
- Nhà
ông không có nuôi ngan vịt, thì ông được vợ để cho ăn được béo thế kia?
Võ Đại
mắng rằng:
- Đồ khỉ
này, vợ tao không đi chim chuột với ai, sao mày dám bảo tao là vịt?
- Phải,
vợ ông không chim trai, nhưng có trai chim vợ ông đấy.
Võ Đại
lại hỏi rằng:
- Ai
đấy! Chú nói anh nghe, anh có biết gì đâu?
Vận Kha
nói:
- Tôi
nói đùa thế thôi, nhưng có nói ra thực thì cũng ngại, chả lẽ vợ ông như thế mà
ông lại không biết hay sao?
Võ Đại
nói:
- Chú
bảo thực cho anh, tôi xin biếu chú mươi cái bánh.
- Thôi,
không cần đến bánh chưng, có muốn hỏi đến ai, thì mời tôi vào quán uống vài
chén rượu, tôi nói khẽ mà nghe.
- Được,
chú muốn uống rượu, thì theo tôi vào hàng.
Võ Đại
quảy gánh cùng Vận Kha vào một quán hàng. Khi đặt gánh xuống vào hàng hai người
cùng ngồi, Võ Đại lấy rượu thịt, và bóc một vài chiếc bánh chưng, rồi mời Vận
Kha.
Vận Kha
nói:
- Rượu
uống ít thôi, lấy thêm thịt ăn thì tốt.
Võ Đại
bảo Vận Kha:
- Chú
nói cho tôi biết đi?
- Việc
này không thể vội, đợi tôi ăn uống xong đã.
Sau khi
ăn xong, Võ Đại hỏi, thì Vận Kha nói cho hay rằng:
- Vừa
rồi, tôi đem một giỏ quả tuyết lê, tìm Tây Môn Khánh để đòi tiền, mà tìm y
không thấy, có người bảo ở trong buồng Vương bà, cùng với vợ Võ Đại dan díu bấy
lâu, tôi mới đến đấy cốt để kiếm y mà hỏi tiền nợ, không may bị mụ Vương bà chó
má ấy, không cho vào buồng tìm, rồi sinh sự lôi thôi mụ tát tôi mấy cái, mới
tức bực mà tìm đến Đại Lang, nếu lúc nãy không kiếm một vài câu nói khích thì
ông đâu có chịu hỏi tôi.
- Có
thực thế ư?
- Tôi
bảo ông là vịt, để cho hai đứa nói vui sướng với nhau mà! Tôi nói thực, ông cứ
đến buồng Vương bà, xem thực hay giả?
- Tôi có
biết đâu, vợ tôi vẫn nói là sang Vương bà khâu vá, khi về thấy má ửng hồng, tôi
đã hơi nghi, ai ngờ lại thế, bây giờ tôi gửi hàng đây, để đi bắt gian phu dâm
phụ có nên chăng?
- Ông
già cả mà không hiểu biết, con mụ chó Vương bà nó ghê gớm lắm, làm sao ông dám
ra tay, nó ba người ám hiệu cho nhau, như ông đến nó nom thấy, thì họ lẩn ngay
thoát được, mà Tây Môn Khánh lại thằng côn đồ, nó đánh cho ông mươi cái, thì
nguy nếu có kiện thưa, nó có tiền có thế, mà ông một mình ở đây, thì làm sao,
có thể nó giết ông cho khỏi mang tiếng.
Võ Đại
nghe nói, liền bảo rằng:
- Phải,
chú nói đúng, vậy làm thế nào?
- Tôi bị
con mụ Vương bà chó má ấy đánh còn tức giận đây, hôm nay có lẽ chúng tan rồi,
phải rình ngày mai mới được. Vậy chiều nay ông có về nhà, thì cứ như mọi ngày,
đừng nói năng gì và lộ ra nghi hoặc tức tối, rồi ngày mai làm ít hàng thôi,
quảy ra chợ bán, tôi ở ngõ hẻm đợi ông, ông đặt gánh hàng ở đó, tôi tới, tôi
đến khiêu khích mụ già, cho nó đánh tôi, tôi làm cho giỏ quả rơi ra, ông chạy
giả vờ can rồi nhặt hộ, khi ấy, tôi nắm lấy mụ già sinh sự, thì ông chạy thộc
vào buồng mà bắt lấy gian dâm phụ, kế ấy thế nào?
- Hay
quá! Thế mới thực là anh em, tôi có ít tiền đãi chú mang về mua gạo, sáng mai
cơm nước xong, đến phổ Tử Thạch đợi tôi để làm việc ấy.
Vận Kha
nhận tiền và mấy cái bánh rồi về, Võ Đại trả tiền rượu, đi bán bánh một lúc nữa
về nhà. Nói đến vợ Võ Đại bấy lâu nay khinh miệt chồng, thì cũng biết rằng
không phải, nay đã khá hơn trước ít nhiều, khi thấy Võ Đại về, cũng vui vẻ như
mọi ngày, thấy chồng có dáng uống rượu thì hỏi rằng:
- Đại
Lang hôm nay uống rượu ở đâu hẳn?
- Có,
gặp mấy người quen uống ở hàng mấy chén với nhau thôi.
Người vợ
lại bày rượu cơm cùng chồng ăn uống, đêm hôm ấy Võ Đại không giở đến việc nghi
ngờ.
Sáng ra
Võ Đại chỉ làm ít bánh, rồi gánh đi bán, người vợ bấy lâu chỉ mải mê với trai,
có biết đâu làm ít hay nhiều, đợi chồng đi khỏi, lại lẻn cửa sau sang buồng bợm
già để đợi tình nhân.
Võ Đại
quảy gánh ra ngõ hẻm, đón Vận Kha rồi hỏi:
- Thế
nào, chú thấy nó đến chưa?
- Nó
chưa đến, ông hãy đi bán hàng một lát đã. Rồi ông đến bên tả ngõ hẻm này đợi
tôi.
Võ Đại
quảy hàng đi bán một lúc, rồi trở lại; Vận Kha bảo Võ Đại:
- Bây
giờ chúng nói với nhau rồi, để tôi mang giỏ quả đến khiêu chiến Vương bà, rồi
thi hành kế.
Võ Đại y
lời gánh hàng gửi một chỗ, rồi ra rình ở một nơi.
Vận Kha
đem giỏ đến hàng Vương bà rồi mắng rằng:
- Con mụ
già chó má kia! Sao hôm qua mày đánh tao.
Vương bà
chợt thấy Vận Kha lại đến mắng chửi, liền uất khí xông lên, chạy ra nắm lấy Vận
Kha mà đánh, mắng luôn:
- Ranh
con! Tao với mày không có chuyện gì, sao lại cứ đến đây chửi bởi?
- Tao
chửi mày là đồ sọm già với tính chó má đấy!
Vương bà
tức quá nắm lấy mà đánh, làm Vận Kha tung cái giỏ ra, rồi Vận Kha kêu to lên.
Hai bên ẩu đả nhau ấm ỹ, thì chợt thấy Võ Đại sắn quần áo ở đâu chạy thẳng vào
buồng. Vương bà định bỏ ranh con ra, để chạy lại ngăn Võ Đại, nhưng ranh con
nắm chặt lấy không buông, Vương bà chỉ còn cách kêu lên "Võ Đại đến
", làm cho người vợ nghe thấy vội vàng chạy ra đóng chặt cửa lại. Tây Môn
Khánh chui xuống gầm giường để trốn.
Võ Đại
đấm phá cửa buồng không nổi, miệng kêu gào lên "Gian phu dâm phụ".
..Người vợ nói ra:
- Bấy
lâu múa mỏ khoe tài, bây giờ mới biết là đồ hổ giấy, ai sợ chi ngươi!
Người vợ
nói câu này, có ý bảo Tây Môn Khánh ra đánh Võ Đại, cướp đường mà chạy. Tây Môn
Khánh nằm ở gầm giường nghe chị chàng nói, thì hiểu ý ngay, liền đâm choàng
chạy ra mở tung cánh cửa mà nói rằng:
- Đứa
nào dám đánh ta?
Võ Đại
thấy vậy, vừa toan nắm lấy Tây Môn Khánh, thì bị Tây Môn Khánh giơ chân trái đá
cho một cái vào bụng, ngã lật ra đằng sau, rồi rảo bước chạy cút thẳng một mạch
về nhà.
Vận Kha
thấy Võ Đại bị ngã, Tây Môn Khánh chạy mất, bèn bỏ Vương bà mà chạy nốt. Bấy
giờ phố sá đổ ra xem, thì thấy Tây Môn Khánh đã trốn rồi, nên không ai nói năng
gì đến nữa. Vương bà thấy Vận Kha buông tha ra, liền chạy vào trong buồng, thấy
Võ Đại mồm mép chảy máu ra lênh láng, mà nét mặt xám hẳn lại, liền gọi chị
chàng kia ra lấy nước lạnh rửa sạch, rồi vực theo ngõ hẻm về nhà, đưa lên gác
nằm đó.
Ngày hôm
sau Tây Môn Khánh dò là tin tức, thấy không động chạm gì thưa kiện, thì lại
điềm nhiên đi lại như cũ. Còn Võ Đại thì một mình ốm đau nằm ở trên giường, tới
bốn năm ngày vẫn chưa dậy được, nước uống không có nước, mà vợ không thèm đếm
xỉa đến, chỉ sáng nào cũng phấn sáp chỉnh đốn quần áo đi mãi đến chiều, khi về
thì lại hai má đỏ hồng, rõ ra một tuồng dâm đãng. Võ Đại thấy vậy thì cay đắng
trong lòng, mà không biết làm sao được.
Một hôm
chàng gọi vợ đến mà bảo rằng:
- Công
chuyện của các ngươi làm ta biết cả rồi, ta định bắt đứa gian tặc kia, ai ngờ
ngươi lại hùa với nó mà đánh ta sống giở chết giở thế này, mà ngươi cứ hú hí
vui đùa với nhau. Ta ngày nay dẫu chết cũng không làm gì, song còn em ta là Võ
Nhị, thì các ngươi đã biết, nó không phải tay vừa, nếu nay mai nó về đây, tất
sinh sự lôi thôi, không thể nào im được. Vậy các ngươi tử tế trông nom cho ta,
thì khi hắn về ta sẽ ngơ cho, bằng không thì bấy giờ ta sẽ liệu.
Chị
chàng nghe vậy không nói năng chi cả, cứ lẳng lặng đi sang bên cạnh mà thuật
lại cho Vương bà, Tây Môn Khánh biết.
Tây Môn
Khánh nghe vậy thì dậm chân xuống đất mà kêu lên rằng:
- Trời
ơi, nếu vậy thì biết làm thế nào? Ta phải biết rằng Võ Đô Đầu đánh hổ núi Cảnh
Dương là một tay đệ nhất hảo hán ở Huyện Thanh Hà, nếu mình chạm vía với lão ấy
thì còn sống thế nào được? Cái ân ái của đôi ta đến quãng này thực là khó nghĩ,
không lẽ nào cho đành. Vậy còn biết làm sao cho được?
Vương bà
nghe nói thì cười nhạt mà rằng:
- Tôi
chưa từng thấy một người đẩy thuyền như tôi đây còn chưa sợ, mà một người cầm
lái như cậu đã cuống chân tay như thế bao giờ... !
Tôi thực
là làm một thằng con trai, nhưng đến những lúc này thì thực không có cách gì gỡ
cho ra được, chẳng hay bà có kế gì không?
- Các
người định làm vợ chồng lâu hay làm vợ chồng ngắn?
- Thế
nào là vợ chồng lâu, thế nào là vợ chồng ngắn?
- Nếu
làm vợ chồng ngắn thì bắt đầu từ hôm nay hãy rẽ duyên đi đôi ngả, đợi khi Võ
Đại yếu dậy sẽ nói lại với hắn, thì Võ Nhị về đây tất cũng im chuyện rồi sau
này nếu khi Võ Nhị có đi việc quan đâu thì bấy giờ lại xum họp cùng nhau, thế
là gọn nhất. Bằng muốn làm vợ chồng lâu mà cùng nhau sống mãi mãi không còn sợ
đến điều chi, thì tôi có một kế sách này, nhưng cũng khó lòng bảo cho các người
được.
- Vâng,
xin bà hết sức che chở mà bảo cho chúng tôi lấy cách lâu dài với nhau.
- Cái kế
sách này cần dùng đến một vật, giá mọi nhà thì không có, nhưng giời xui khiến
vậy nhà cậu lại sẵn rồi.
- Cần có
vật gì, hay là bà bảo tôi khoét mắt đưa cho bà chăng?
- Hiện
bây giờ lão ấy đương đau yếu ta nên thừa cơ mà
hạ thủ
ngay mới được. Cậu về lấy một miếng tì sương đem đến đây cho nương tử mua một
liều thuốc đau bụng về cho lão uống, đến khi chết rồi thì ta đem đốt đi thế là
hết tích. Sau này Võ Nhị có về đến đây thì chị dâu với em chồng có phép nào mà
tra hỏi được, bấy giờ cũng đành chịu thôi chứ gì? Đoạn rồi ta cứ đi lại kín đáo
với nhau, đợi khi hết tang thì sẽ cưới về, như thế há không phải một kế trăm
năm bền vững hay sao?
- Bà ôi!
Nếu vậy thì tội nghiệp lắm! Nhưng mà không làm thế nào cũng được.
- Cậu
phải biết rằng: Giẫy cỏ phải trừ gốc, nếu không cẩn thận thì tất là khổ về sau,
cậu phải về mau lấy đem đến đây, để tôi bảo nương tử hạ thủ, rồi khi thành công
phải đền ơn tôi mới được.
Độc thay
tâm địa đàn bà,
Mưu kia
thế nọ chẳng qua vì tiền.
Xét xoi
chăng hỡi Hoàng Thiên?
Sinh chi
những giống đảo điên khổ đời.
Bấy giờ
ma ngũ sắc đương ám ảnh mê hồn làm cho Tây Môn Khánh mất cả tâm thần trí tuệ,
không còn trông trước trông sau chi nữa, bèn lập tức đi mau về nhà mà lấy ngay
thuốc độc đem đến đưa cho Vương bà.
Vương bà
cầm lấy thuốc độc rồi bảo chị chàng kia rằng:
- Vừa
rồi Võ Đại bảo nàng nên trông nom tử tế thì sau này không nói với Võ Nhị nữa,
vậy bây giờ nàng nên nhân câu ấy mà làm ra mặt thương yêu hối hận để phục dịch
anh ta. Nếu anh ta có đòi uống thuốc thì nàng pha một chút tỳ sương này vào
thuốc đau bụng mà đổ cho anh ta uống; rồi chạy lánh đi một chỗ. Đến khi nào
thuốc ngấm làm cho đứt ruột đứt gan mà anh ta kêu lên, thì nàng sẽ đem chăn vào
đắp kín cho hắn, mà phải cẩn thận vững vàng chớ cho ai nghe tiếng mới được.
Đoạn rồi đun sẵn một nồi nước nóng và lấy một khăn lau để đó, hễ khi anh ta
chết rồi thì thất khiến phải chảy máu tươi, bấy giờ nàng sẽ bỏ chăn ra, mà lấy
giẻ sấp nước nóng, lau kỹ đi một lượt, rồi sau sẽ khâm liệm bỏ vào áo quan mà
khiêng đi thiêu hóa là xong...
Chị
chàng kia ung dung đáp rằng:
- Làm
thế thì tốt lắm nhưng tay chân tôi mềm yếu, không biết rằng có thi hành nổi hay
không?
Vương bà
nói:
- Cái đó
thì khó gì? Bấy giờ nàng sẽ gọi cửa đây, rồi tôi sang giúp cho.
Tây Môn
Khánh lấy làm đắc sách, bảo hai người rằng:
- Các bà
phải làm ăn cho cẩn thận, rồi sáng mai tôi sẽ đến đây xem sao?
Nói xong
từ biệt mà về. Bấy giờ Vương bà mài tỳ sương nhỏ biến ra rồi bọc lại cẩn thận
cho chị chàng kia. Chị chàng ta giắt thuốc vào mình, rồi trở về nhà, bèn đến
chỗ Võ Đại nằm, thấy Võ Đại đã mê mệt lờ đờ như người sắp chết, nàng liền giả
cách ra chiều thương xót mà khóc òa lên. Võ Đại thấy vậy, hỏi rằng:
- Làm
sao mà nàng khóc?
Chị
chàng lau nước mắt đáp rằng:
- Tôi
trót dại bị người ta lừa dối để đến nỗi chàng phải chịu thiệt thòi như thế,
thực trong lòng hối hận vô cùng. Nay tôi tìm được một nơi thuốc hay, nhưng chỉ
sợ chàng còn nghi ngại, nên không dám đem về đưa chàng uống.
Võ Đại
rên rỉ mà rằng:
- Nếu
nàng cứu được cho ta khỏi, thì ta không còn chấp chi những chuyện trước, mà
cũng không khi nào nói với Võ Nhị. Nàng cứ lấy thuốc về đây cho ta uống.
Chị
chàng nghe nói vội vàng lấy ít tiền chạy sang nhà Vương bà ngồi, bảo Vương bà
mua cho một liều thuốc đau bụng, rồi xăm xăm đưa về cho Võ Đại xem mà nói rằng:
- Đây
thứ thuốc đau ruột, thầy thuốc dặn đến nửa đêm uống, rồi lấy chăn đắp kín mít
cho toát mồ hôi ra, là sáng ngày khỏi
Võ Đại
gật đầu khen rằng:
- Nếu
vậy thì tốt lắm, đêm nay nàng phải tỉnh ngủ mà cho tôi uống mới được.
Bấy giờ
trời đã tối mịt, chị chàng kia thắp ngọn đèn lên để đó, rồi bắc nồi nước lã lên
lò, rồi bỏ một cái khăn lay vào đó đun sẵn cho nóng. Đến đầu trống canh ba, chị
chàng bỏ thuốc độc vào chén, rồi múc một chén nước lã lên hỏi Võ Đại lấy thuốc
đau bụng mà hòa lẫn vào đó, rồi đổ cho Võ Đại uống.
Võ Đại
uống được một hớp, rồi bảo với vợ rằng:
- Sao
thuốc này khó uống quá?
Chị
chàng kia đáp rằng:
- Sao
cho khỏi bệnh là hơn, cần gì khó uống.
Nói xong
lại nâng chén thuốc đổ cho Võ Đại, Võ Đại vừa há mồm ra, thì chị chàng cầm cả
thuốc đổ dốc vào cuống họng, rồi để nằm vật xuống đó mà vội vàng đứng dậy chạy
ra. Được một lát thì Võ Đại kêu lên một tiếng "Oái trời ôi!" rồi nói
lên rằng:
- Nàng
ơi sao uống thuốc vào, lại đau ruột quá lên thế?
Chị
chàng thấy kêu như vậy, liền chạy đến kéo chăn lên mà đắp trùm cả đầu đuôi cho
rõ kín.
Võ Đại
lại kêu lên rằng:
- Hơi
tức lắm không sao chịu được.
Chị
chàng đứng bên cạnh đáp rằng:
- Thầy
thuốc dặn phải thế mới ra được mồ hôi. Nói đoạn lại sợ Võ Đại cựa dậy, liền
nhảy lên trên mình Võ Đại, mà giữ chặt lấy bốn đầu chăn, làm cho anh kia không
sao mà cựa được. Võ Đại nằm trong chăn kêu lên một tiếng, thở hộc lên mấy hơi
nữa, rồi ruột xé gan bào, phút chốc đã hồn về chín suối.
Thương
ôi!
Vì đâu
đạo nghĩa tan tành,
Càng
trông thế thái nhân tình càng cay!
Mênh mang
trời rộng đất dầy,
Nộc tình
giết hại xưa nay bao người?
Căm gan
muốn đập kêu trời,
Bày chi
tai mắt cho đời oái oăm?
Khi ấy
chị chàng đốn mạt kia mở chăn ra, thấy Võ Đại đã nằm chết ra thẳng đuỗn, nghiến
hai hàm răng làm một, mà trong thất khiếu đều chảy máu tươi ra, nàng liền nhảy
xuống giường, rồi chạy xuống gác đi ra cửa sau lên tiếng đằng hắng cho Vương bà
biết.
Vương bà
nghe tiếng, liền chạy ra hỏi rằng:
- Đã
xong chưa?
- Xong
rồi, nhưng chân tay mềm yếu, không làm sao thi thố được.
- Có khó
gì, để tôi sang giúp cho.
Nói đoạn
liến xắn áo đi sang, bưng nồi nước nóng lên gác, cuốn chăn lại mà lau sạch máu
me cho Võ Đại rồi khiêng xuống dưới gác, lấy áo xiêm khăn giấy mặc cho Võ Đại
tử tế, đặt lên giương nằm, lấy mảnh giấy phủ trên mặt, và lấy cái khăn sạch sẽ
đắp lên cho chàng. Đoạn rồi hai người lại lên trên gác dọn dẹp gọn gàng đâu
đấy, rồi Vương bà trở về nhà yên nghỉ, chị chàng kia vờ vĩnh khóc cho đến sáng.
Vào khoảng đầu trống canh năm, Tây Môn Khánh đã bò đến nhà Vương bà để dò hỏi
tin tức, Vương bà liền đem đầu đuôi mọi chuyện thuật lại cho chàng nghe, rồi
chàng đưa tiền cho Vương bà, để mua sắm quan khách cùng các đồ tống táng.
Bấy giờ
Vương bà gọi chị chàng độc ác kia sang để bày chuyện. Chị chàng kia nói với Tây
Môn Khánh rằng:
- Bây
giờ Võ Đại đã chết rồi, còn thân tôi đây hoàn toàn trông cậy vào cậu cả đấy.
Tây Môn
Khánh nói:
- Cái đó
tất nhiên, nàng không cần phải nói:
Vương bà
nói rằng:
- Bây
giờ có một việc rất cần, là tên Đoàn Cầu Hà Cửu Thúc, vốn là người sắc sảo xưa
nay, nếu lỡ ra nó biết mà nó không chịu khâm liệm cho, thì bấy giỡ sẽ làm ra
sao?
Tây Môn
Khánh nói:
- Việc
đó để tôi bảo hắn, tất là phải nghe lời.
Vương bà
nói:
- Nếu
vậy thì cậu phải đi ngay mới được.
Tây Môn
Khánh nhận lời rồi đi ngay. Bấy giờ trời đã sáng tỏ, Vương bà đi mua quan quách
cùng các thức vàng hương đem về cho chị chàng kia. Đoạn rồi phố sá đôi bên đổ
đến thăm viếng, thì chị chàng ta lại giả vờ khóc lóc, làm ra bộ thương xót vô
cùng.
Phố sá
có hỏi đến bệnh tật gì, vì sao mà chết thì chị chàng đáp rằng:
- Chỉ vì
chứng đau bụng chữa mãi không khỏi, rồi sau càng ngày càng nặng, mà không sao
cứu được nữa.
Chị
chàng nói xong, lại làm bộ khóc váng cả nhà lên. Đám phố sá thấy vậy, ai cũng
biết là Võ Đại chết oan, song không có việc gì can thiệp đến ai, nên cũng làm
ngơ mặc đó mà khuyên giải mấy câu cho xong chuyện, rồi ai về nhà nấy. Vương bà
cho đi mời Hà Cửu Thúc về để khâm liệm, và đón hai vị sư về để làm độ vong.
Bấy giờ
Hà Cửu Thúc được tin mời, liền sai bọn đầy tớ đi trước đến để sắp sửa đồ đạc,
rồi mình lững thững đi sau. Khi tới đầu phố Tử Thạch bỗng gặp Tây Môn Khánh gọi
mà bảo rằng:
- Hà Cửu
Thúc đi đâu bây giờ đấy.
Hà Cửu
Thúc đáp:
- Tôi
đến khâm liệm cho Võ Đại Lang ở trong phố đây.
- Hãy
đến đây tôi nói câu chuyện này đã.
Tây Môn
Khánh nói xong, bèn dắt Cửu Thúc vào một hàng rượu ở gần góc phố đó, rồi mời
vào nói chuyện.
Hà Cửu
Thúc chối từ rằng:
- Chúng
tôi đâu dám ngồi với ngài như thế.
Tây Môn
Khánh nói:
- Cần
chi Cửu Thúc phải khiêm tốn như thế, hãy cứ ngồi đây tôi nói chuyện.
Nói đoạn
hai người cùng ngồi xuống, rồi gọi nhà hàng đem rượu cùng hoa quả thức ăn lên
mời Cửu Thúc cùng uống.
Cửu Thúc
nghĩ thầm trong bụng: "Anh chàng này có ăn uống với mình bao giờ, cái này
tất lại có chuyện rắc rối gì đây?" Nghĩ đoạn hai người cùng uống rượu với
nhau.
Một lát
Tây Môn Khánh lấy 10 lạng bạc ra để bàn, bảo Hà Cửu Thúc rằng:
- Cái
này Cửu Thúc hãy nhận lấy cho, rồi sau đây tôi xin đưa tạ ơn nữa.
Hà Cửu
Thúc chấp tay đáp rằng:
- Chúng
tôi không có công lao gì, lẽ đâu nhận tiền của ngài, vả chăng ngài có sai bảo
gì, chúng tôi cũng không dám thế.
- Không,
Cửu Thúc cứ cầm lấy, rồi tôi nói chuyện.
- Vâng,
xin ngài hãy cứ nói, thế nào chúng tôi cũng xin vâng.
- Tôi
chỉ có một việc là lát nữa Cửu Thúc khâm liệm cho Võ Đại, thì Cửu Thúc che đậy
mà kín đáo giúp cho, thì tôi cảm ơn lắm.
- Việc
ấy tầm thường lắm, có chi tôi dám nhận tiền.
- Nếu
không nhận tiền là Cửu Thúc không chịu giúp tôi rồi, xin cứ lấy cho.
Hà Cửu
Thúc vốn xưa nay sợ Tây Môn Khánh là tay gian hoạt, hay đi lị đám quan tư mà
bắt nạt đám dân gian, nên bất đắc dĩ phải nhận lấy rồi cáo từ mà ra đi.
Khi bước
chân ra khỏi cửa, Tây Môn Khánh lại dặn với rằng:
- Cửu
Thúc nhớ chớ để tiết lộ mới được, rồi sau sẽ tạ ơn. - Cửu Thúc vâng lời rồi
chia tay mỗi người mỗi ngả. Hà Cửu Thúc vừa đi vừa nghĩ lẩm nhẩm: "Quái
lạ, ta liệm cho Võ Đại, thì việc gì đến anh chàng này, mà lại cho nhiều tiền
như thế? Chẳng hay ở trong lại có điều chi rắc rối đó chăng? "Chàng nghĩ
vậy, thì trong bụng lấy làm nghi hoặc vô cùng, khi tới trước cửa nhà Võ Đại, đã
thấy những đầy tớ đứng đợi ở đó. Cửu Thúc hỏi rằng:
- Võ Đại
chết về bệnh gì thế?
Lũ đầy
tớ nói rằng:
- Chúng
tôi thấy người nhà nói là bị đau bụng mà chết.
Hà Cửu
Thúc nghe đoạn, vén bức rèm bước vào thấy Vương bà đón mà nói rằng:
- Sao Hà
Cửu Thúc đến chậm thế?
Hà Cửu
Thúc đáp:
- Tôi
bận có tí việc, nên chậm một chút.
Bấy giờ
vợ Võ Đại cũng giả vờ mặc áo xiêm trắng, khóc từ trong nhà mà đi ra.Hà Cửu Thúc
liền nói rằng:
- Thôi,
nương tử khóc làm gì nữa? Tội nghiệp! Đại Lang mất thế mà tôi không biết gì cả.
Chị
chàng lại bưng vờ lên mặt mà nói rằng:
- Khốn
nạn Đại Lang nhà tôi chỉ đau bụng có năm ba hôm mà thiệt mạng, thực là cay đắng
cho tôi lắm.
Cửu Thúc
nhìn kỹ chị chàng một lượt, rồi tự nói một mình rằng: "Xưa nay chỉ nghe
tiếng Võ Đại nương tử là đẹp, nay mới biêt được rõ người như thế, cái mười lạng
bạc của anh chàng Tây Môn Khánh nầy, tất là có duyên cớ chi đây!" Nghĩ
đoạn chạy vào chỗ xác Võ Đại nằm, cất cành phan lên, mở tờ giấy phủ mặt ra, rồi
dùng hai con mắt thần trong suốt như bảo ngọc, mà định tình nhìn kỹ vào mặt Võ
Đại. Đoạn rồi bỗng dưng kêu lên một tiếng ngã vật ra đằng sau, miệng hộc máu
ra; năm đầu ngón tay tím lại, nét mặt tái nhợt đi, mà hai con mắt lờ đờ như
người sắp chết vậy. Cả nhà thấy vậy, ai nấy đều kinh ngạc, không hiểu ra ý làm
sao. Than ơi!
Máu tình
pha lẫn tỏi tanh,
Lấy ai
cứu vớt phù sinh cho đời?
Bắc
thang lên hỏi ông trời,
Thuốc
đâu chữa được con người táng tâm?
Đường
nhân lối nghĩa âm thầm,
Nghe như
nước réo non gầm đâu đây?
Giấc
tình một tỉnh mười say,
Tiền
nhân hậu quả sau này xem sao?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi này
kết lại hồi trên tả Tây Môn Phan Thị gian dâm, để này ra hồi sau Võ Nhị báo
thù, cũng là văn tự tả qua, song từng chỗ đều tả ra tinh tế, chứ không tả sơ
sài, dù không phải là văn chính truyện.
Đoạn thứ
nhất tả Vận Kha định kế, đoạn thứ hai tả Võ Đại bắt gian, đoạn thứ ba tả Vương
bà giúp sức, đoạn thứ tư tả dâm phụ giết chồng, đến đoạn cuối tả Cửu Thúc suy
nghĩ, tinh thần từng đoạn, xuất sắc từng việc, đừng cho là hồi nhỏ coi thường.
Tả tâm
độc của gái đĩ, mấy lần toan gấp sách không xem, muốn chóng đến hồi sau xem báo
thù cho khoái, như đánh trống mà tẩy uế đi.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 25: Cửu Thúc giấu xương chờ khách hiệp;
Võ Tòng giết chị tế hồn anh
Lúc đó
Hà Cửu Thúc nằm vật xuống, thì người nhà người cửa đều xúm đen cả vào, kẻ thì
phun nước, người thì kêu gọi, hồi lâu mới dần dần tỉnh dậy, rồi Vương bà sai
người vực về nhà để chữa.
Khi lũ
đầy tớ vực Cửu Thúc về tới nhà, đặt nằm ở trên giường,người vợ thấy vậy bèn đến
bên cạnh khóc lóc mà nói rằng:
- Lúc
bước chân ra đi thì hớn hở vui cười, sao bây giờ trở về thì lại như thế? Xưa
nay nào có thế bao giờ?
Bấy giờ
Cửu Thúc trông ra không có ai ở đó, bèn bảo sẽ với người vợ rằng:
- Nàng
không phải lo nghĩ, tôi đây có việc gì đâu? Cái này chỉ vì sáng hôm nay khi tôi
ra đi, gặp Tây Môn Khánh là anh chàng bán thuốc trước cửa huyện, mời đi đánh
chén, mà lại đưa mười lạng bạc, mà dặn việc khâm liệm Võ Đại nên cẩn thận kín
đáo giúp cho. Sau đến nhà Võ Đại trông thấy chị chàng ấy không phải là người
lương thiện, thì trong bụng đã hơi có ý nghi ngờ. Kịp đến lúc trông vào mặt Võ
Đại, thì quả nhiên thấy nét mặt tím bầm, trong thất khiếu đều có vết máu, mà trên
môi đều có lộ vết răng cắn vào, chắc là chết vì trúng độc. Bấy giờ đã toan hô
hoán lên, song ngặt vì hiện đấy không có ai là người chủ trương, mà dây với
thằng Tây Môn Khánh không phải tay vừa tất là lỡ chuyện. Sau cũng toan im đi
khâm liệm cho xong, nhưng lại sợ Võ Đại có người em là Võ Đô Đầu đánh hổ trên
núi Cảnh Dương khi trước, vốn là một tay giết người mà không nháy mắt, nay mai
sắp về tới đây, thì việc này phải lôi thôi không tài nào tránh khỏi...
Người vợ
nghe đến đó thì nói luôn rằng:
- Phải,
mấy hôm nọ tôi đã nghe rằng, con ông Kiều Lão ở phố sau là Vận Kha, đến phố Tử
Thạch giúp Võ Đại bắt gian phu ầm cả phố lên, có lẽ là việc ấy hẳn, để tôi hỏi
hắn xem sao? Còn đằng kia cứ để đám đầy tớ khâm liệm cho người ta, nếu người ta
còn quàn đấy, để đợi Võ Đô Đầu về mới chôn, hoặc đem chôn ngay thì cũng chẳng
việc gì mà ngại. Duy họ đem siêu hóa đi, thì tất là có sự rắc rối, bây giờ ta
sẽ đến đấy đánh lộn sòng mà thủ lấy mấy miếng trối xương rồi bọc với mười lạng
bạc kia để làm tang chứng, sau này Võ Đô đầu về đây mà không hỏi đến thì ta
cũng mặc đó, để lưu chút nhân tình với nhà Tây Môn Khánh, mà thỉnh thoảng kiếm
gạo của hắn cũng được chứ sao?
Hà Cửu
Thúc nghe nói khen phải, liền gọi đám đầy tớ đến mà bảo rằng:
-
"Hôm nay ta bị trúng cảm, không thể nào đến đấy được, vậy ta cho các ngươi
cứ đến đấy khâm liệm cho người ta, rồi hỏi xem bao giờ đem táng, thì về báo cho
ta biết. Các ngươi làm cho cẩn thận, tiền nong ở đấy ta cho tất cả mà chia
nhau, đây không cần lấy đến".
Tụi đầy
tớ vâng lời đến nhà Võ Đại để khâm liệm, rồi một lúc trở về bảo rằng:
- Ba
ngày nữa cất đám ra ngoài thành để siêu hóa.
Hà Cửu
Thúc nghe nói xong cho tiền chúng đem về chia nhau, rồi bàn với vợ đến ngày thứ
ba để thi hành kế sách.
Bên kia
Vương bà hết sức giúp đỡ việc tang cho vợ Võ Đại, ngày thứ hai đón bốn vị sư về
tụng kinh, rồi đến ngày thứ ba thì đưa ra Hoà Nhân Trường ở ngoài thành để siêu
hóa. Hôm ấy cùng mấy người phố xá gần đấy đi đưa đám. Còn chị chàng kia thì
cũng ăn mặc tang phục mà khóc vờ khóc vĩnh, đi theo linh cữu Võ Đại ra đến Hóa
Trường.
Khi mới
tới nơi vừa mới bắt đầu phát hỏa, thì thấy Hà Cửu Thúc tay cầm một nắm giấy
tiền ở đâu chạy đến. Vương bà cùng chị chàng kia vội đến mà hỏi rằng:
- May
quá Cửu Thúc hôm nay đã được mạnh khỏe rồi...
Cửu Thúc
nói:
- Dạo
trước tôi có mua của Đại Lang một cái bánh bao lớn mà chưa kịp trả tiền; nay
đem ít tiền giấy ra đây mà đốt trả Đại Lang vậy.
Nói xong
cầm giấy tiền vào đốt, rồi lại túm vào để giúp việc siêu hóa. Vương bà cùng chị
chàng kia đến cảm ơn mà rằng:
- Cửu
Thúc lại có lòng tốt như thế, thì thực là hiếm có, về nhà chúng tôi xin tạ ơn.
Hà Cửu
Thúc đáp:
- Được,
cái này là bổn phận của chúng tôi, tôi xin bà với nương tử cứ đến trai đường
tiếp khách, để tôi xin trông nom ở đây.
Nói đoạn
Vương bà cùng chị chàng kia đều quay ra trai đường. Bấy giờ Hà Cửu Thúc sấn vào
đống lửa vớ lấy hai mảnh xương trối rồi tắt lửa đi để xem, thì thấy đầu xương
đều mềm đen hết cả, chàng bèn giấu vào bọc, rồi cùng đi vào trai đường nói
chuyện.
Được một
lát việc siêu hóa đã xong, bọn đầy tớ đem xương tàn lấp bỏ xuống ao, rồi mỗi
người kéo đi về một ngả. Hà Cửu Thúc mang hai mảnh xương về nhà, rồi lấy giấy
viết rõ ràng ngày tháng tên tuổi các người đi tống táng, rồi bọc với mười lạng
bạc kia vào một cái túi, mà cất ở trong buồng cẩn thận. Bên kia từ khi vợ Võ
Đại đưa ma trở về, cũng bày dặt linh sàng cùng các đồ vàng mã để thờ chồng ở
nhà dưới mà che mắt thế gian, còn tự mình, thì cùng đi lại với Tây Môn Khánh
ngày ngày trò chuyện vui đùa ở trên gác, mưa sớm, mây hôm, mây chiều trăng tối
tha hồ phỉ chí tự do, không còn ngại ai ngăn cấm. Cái cảnh tượng hai gã gian
dâm vụng trộm ở nhà mụ Vương bà trước nay bỗng biến thành đôi nhân duyên như
đúc như sơn như keo như rựa, khiến cho phố xá gần xa, không ai là không biết chuyện.
Duy Tây Môn Khánh vốn là tay gian hoạt, đã từng có tiếng xưa nay, bởi thế ai
cũng bỉm đi, mà mặc cho thỏa lòng sở dục.
Nhưng
than ôi! Cái sự vui sướng chính đáng trên đời, xưa nay ông Hóa công không đãi
người được trọn, huống chi là một kẻ tàn bạo đê hèn bỏ hết thiên lý nhân tâm để
cầu lấy sự khoái lạc bên ngoài bì tướng thì lẽ nào mà hưởng thụ được lâu! Bởi
thế cho nên thắm thoắt mới được hơn tháng trời, mà cái nông nổi cực lạc sinh bi
đã từ đâu đưa đến vậy.
Võ Tòng
khi tuân lệnh quan huyện áp tải các đồ châu báu vào kinh, giao cho thân nhân
của quan huyện cẩn thận, rồi một mình quay ra dạo chơi phong cảnh Đông Kinh
trong mấy bữa mới nhận giấy trở về Dương Cốc. Khi đi trời còn tàn đông nên lạnh
lẽo, đến khi trở vế đã bắt đầu sang tiết tháng ba, khí trời rất là ôn hoà dễ
chịu duy trong lòng thì hoảng hốt không yên, mà mong sao về ngay tới huyện, để
thăm anh cả ở nhà.
Một hôm
Võ Tòng về tới huyện Dương Cốc, quan huyện xem giấy má, thấy công việc đến nơi
đến chốn cẩn thận, thì vui mừng trong dạ, liền thưởng cho một đĩnh bạc lớn, và
thiết cơm rượu rất là chu đáo, Võ Tòng nhận các đồ thưởng rồi vội vàng trở về
phòng, thay đổi khăn áo, khóa cửa phòng lại, đi ra phố Tử Thạch thăm anh. Bấy
giờ hai bên hàng phố trông thấy Võ Tòng đã về, thì ai nấy đều lấy làm kinh sợ,
mà sắp sinh sự tới nơi. Khi Võ Tòng đến nhà Võ Đại, vén bức rèm lên bước chân
vào cửa, chợt trông thấy phía trong có kê bàn thờ, trên bài vị đề mấy chữ
" linh vị vong phu Võ Đại Lang ", thì giật mình kinh ngạc, đứng dừng
lại mà mở mắt to ra nhìn, rồi nói một mình rằng:
- Có lẽ
ta hoa mắt hay sao?
Than ơi:
Cách
nhau trăng chửa thêm ba,
Mà sao
phong cảnh nay đà khác xưa!
Đoái
trông mây khói mịt mờ,
Đào phai
lý nhạt bây giờ hỏi ai?
Đoạn rồi
lên tiếng gọi rằng:
- Tẩu
tẩu ơi! Võ Nhị đã về đây...
Khi đó
Tây Môn Khánh đương cùng chị kia hú hí nô đùa ở trên gác, bỗng nghe tiếng Võ
Nhị gọi, thì kinh sợ mất vía mà chạy tót lối sau cửa, sang nhà Vương bà để trốn
mất. Còn chị chàng khốn nạn kia hoảng hốt bất thần, miệng thì nói rằng:
- Thúc
thúc ngồi chơi, tôi xuống bây giờ!
Tay thì
vội vàng rửa hết son phấn, tháo hết trâm thoa, trút bỏ các đồ trang sức, với
các đồ dùng vô loại xưa nay, rồi mặc quần áo tang chế vào, mà giả vờ khóc hờ hờ
để đi xuống gác.
Võ Tòng
thấy chị dâu bước xuống, liền hỏi ngay rằng:
- Tẩu
tẩu hãy im đừng khóc nữa! Ca Ca tôi mất từ bao giờ? Bệnh tật gì, uống thuốc ai?
Chị
chàng khốn nạn kia vừa khóc vừa trả lời rằng:
- Sau
khi chú đi được mười lăm hôm, thì bỗng dưng Ca Ca bị đau ruột đến tám chín
ngày, tôi đã đi xem bói, tìm thầy thuốc, phí tổn không biết bao nhiêu, nhưng
cũng không thế nào cứu được.
Võ Tòng
lại nói:
- Quái
lạ, xưa nay Ca Ca tôi chưa hề có chứng đau bụng bao giờ, sao ngày nay như thế
mà thiệt mạng được.
Bấy giờ
Vương bà ở bên cạnh vách nghe tiếng Võ Tòng đã về, thì sợ khi lỡ chuyện gian
dâm, nên cũng chạy sang đấy để liệu chiều che chở, liền bảo Võ Tòng rằng:
- Đô Đầu
không nên nghĩ thế, trời còn có lúc mưa gió bất thần, huống chi người ta lại
giữ được suốt đời không việc gì hay sao?
Chị
chàng kia lại nói đế thêm rằng:
- Mấy
hôm nọ các công việc ở nhà, đều nhờ ở tay bà này giúp cả, nếu không có bà ấy
thì quanh đây không ai giúp đỡ đến tôi.
Võ Tòng
hỏi:
- Vậy
thì bấy giờ mai táng ở đâu?
Chị
chàng đáp:
- Cả nhà
có một mình tôi, không thể nào tìm được đất mà mai táng, sau để đến ba bốn
ngày, rồi đành phải đem ra siêu hóa vậy.
- Ca Ca
tôi mất đã mấy ngày hôm nay rồi?
- Hai
hôm nữa là đoạn thất rồi.
Võ Tòng
nghe nói ngần ngừ một lúc nghĩ ngợi, rồi quay ra về huyện.
Ngậm ngùi
một bước một đau,
Vì ai
non nước vương sầu với xuân.
Võ Tòng
trở về tới huyện, liền thay mặc quần áo trắng, và thắt lưng đay ra ngoài để
tang anh, rồi dắt con dao chân dài chuôi ngắn, lưỡi mỏng, sống dày, lấy mấy
lạng bạc giắt lưng, và gọi một tên thổ binh đi theo, để ra phố mua sắm các đồ
lễ vật.
Tối hôm
ấy Võ Tòng sai tên thổ binh mang cơm canh vàng hương, đến bày ở giường thờ Võ
Đại, rồi chàng thắp đèn hương quỳ xuống trước linh sàng cúi lạy mà khấn rằng:
- Trăm
lạy Ca Ca, lúc sinh thời Ca Ca vẫn là người nhu nhược, song ngày nay linh hồn
cũng chẳng xa đâu, vậy nếu có điều chi oan khuất, xin Ca Ca báo mộng cho hay,
để em sẽ vì Ca Ca trả thù trắng nợ.
Khóc
xong thì cất tiếng khóc to, rất chiều thảm thiết, khiến cho phố xá ai nghe cũng
phải cảm động, bồi hồi mà mang lòng thương xót:
Hồn oan
vơ vẫn non sông,
Hạt châu
tầm tả anh hùng ngẩn ngơ
Võ Tòng
lăn khóc hồi lâu rồi trở dậy, sai thổ binh dọn cơm canh xuống hai người cùng
ăn. Đoạn rồi lấy hai cái chiếu, cho tên thổ binh một cái để trãi bên cạnh cửa
trong mà nằm, còn Võ Nhị thì trãi nằm ở dưới linh sàng Võ Đại. Bấy giờ chị
chàng kia trông thấy Võ Tòng nằm đó thì cũng lên gác mà đi nghỉ một mình.
Võ Tòng
nằm vật mãi đến khi gần hết canh ba, mà chưa sao ngủ được, quay vào nom tên thổ
binh thì đã ngủ ngáy khè khè như chết. Chàng liền ngồi dậy ngẩng nom lên trước
linh sàng, thì thấy ngọn đèn pha lê như mờ như tỏ, rất chiều ảm đạm đê mê. Lắng
tai nghe tiếng trống đã thấy ba canh ba khắc, bèn thở dài mà nói một mình rằng:
- Ca Ca
ta lúc sinh thời vốn là người nhu nhược, thì khi chết rồi còn biết làm sao được
phân minh?
Chàng
vừa nói dứt lời, thấy một trận lãnh khí từ dưới linh sàn bốc lên quanh quẩn ở
trên, làm cho đèn hương đều mờ mịt tối tăm mà giấy má trên vách đều bay phấp
phới. Bấy giờ Võ Tòng mơ hồ kinh hãi đứng dựng hai hàng tóc gáy, bèn yên định
tinh thần để nom, thì thấy có người ở trong linh sàng đi ra mà nói lên rằng:
- Em ơi!
Ta chết rất là oan khổ!
Chàng
nghe lơ mơ thấy vậy, toan chạy đến để xem, thì bỗng dưng người cũng không còn,
mà trận lãnh khí bỗng tan đâu mất.
Đèn hiu
gió lạnh từng cơn,
Trời oan
bể nghiệt hỡi hồn đâu đây!
Suối
vàng ai hỡi có hay,
Trời còn
để có thân này có thân này có khi...
Lúc đó
Võ Tòng ngã nghiêng ngơ ngẩn hồi lâu, rồi lại trông đến tên thổ binh thì vẫn
ngủ yên như trước, lại nghĩ lại những điều trông thấy thì tựa hồ như giấc chiêm
bao, mà té ra không phải, chàng liền nghĩ thầm trong bụng rằng: " Cái này
tất Ca Ca có bị điều oan ức, vừa rồi toan báo mộng cho ta, song lại bị thần khí
của ta đánh bạt đi, cho nên không thể nào mà hiện lên rõ rệt ra được."
Chàng
nghĩ vậy thì trong lòng áy náy không yên, ngồi đợi mãi cho đến khi trời sáng.
Khi ấy tên thổ binh trở dậy pha nước cho Võ Tòng súc miệng rửa mặt tử tế, rồi
chị chàng kia cũng từ trên gác chạy xuống mà hỏi rằng:
- Đêm
qua chừng thúc thúc phiền muộn quá lắm chăng?
Võ Tòng
lại hỏi:
- Tẩu
Tẩu nói thực cho biết, Ca Ca tôi chết vì bệnh gì?
- Sao
Thúc thúc vội quên thế? Hôm qua tôi đã nói là đau ruột mà...
- Vậy
thì uống thuốc của ai?
- Vẫn
hãy còn đơn thuốc ở kia.
- Ai đi
mua áo quan?
- Cái đó
nhờ Vương bà mua hộ.
- Ai đem
đi tống táng?
- Việc
tống táng thì nhờ anh Đoàn Đầu Hà Cửu Thúc ở đằng phố kia.
Võ Tòng
nghe rõ đầu đuôi đứng dậy nói rằng:
- Bây
giờ tôi hãy xin vào buổi hầu trong huyện đã.
Nói xong
dắt tên thổ binh ra ngoài đầu phố mà hỏi rằng:
- Ngươi
có biết nhà Hà Cửu Thúc ở đâu không?
Tên thổ
binh đáp:
- Dạo
trước anh ta có đến mừng Đô Đầu, ngài đã quên rồi hay sao? Nhà anh ta ở trong
ngõ phố Sư Tử kia...
- Được
nếu vậy ngươi đưa ta đến đấy.
Nói đoạn
cùng đi đến trước cửa nhà Hà Cửu Thúc, rồi cho tên thổ binh về trước, bấy giờ
Võ Tòng gõ cửa nhà Hà Cửu Thúc mà hỏi rằng:
- Hà Cửu
Thúc có nhà không?
Hà Cửu
Thúc mới ngủ dậy phảng phất nghe thấy tiếng Võ Tòng thì đã rụng rời luống
cuống, vội vàng lấy túi tiền và lấy gói xương thu vào trong mình, rồi chạy ra
đón tiếp mà rằng:
- Đô Đầu
về từ bao giờ, chúng tôi không được biết?
Võ Tòng
nói:
- Tôi
mới về hôm qua, nay nhân có chút việc, nên muốn tìm bác để nói chuyện, bác đi
với tôi một lát.
- Vâng,
chúng tôi xin đi theo, xin hãy đón Đô Đầu vào nhà xơi nước đã.
- Thôi,
bất tất, xin tha phép cho.
Nói xong
liền dẫn Cửu Thúc đến một tửu điếm kín đáo, rồi gọi nhà hàng dọn rượu lên.
Cửu Thúc
thấy vậy cung kính mà nói rằng:
- Ngài
đi xa về chúng tôi chưa được đến mừng, có lẽ đâu mà lại dám phiền như thế?
Võ Tòng
nói:
- Hãy
xin cứ ngồi.
Bây giờ
trong bụng Hà Cửu Thúc đã có tám chín phần đoán biết, song cũng không dám nói
ra trước. Khi nhà hàng đem rượu ra, Võ Tòng ngồi lặng yên uống rượu mà không
nói câu gì cả. Hà Cửu Thúc lại càng kinh sợ đổ toát mồ hôi mà không dám mở
miệng hỏi. Võ Tòng cứ lẳng lặng uống rượu hồi lâu, rồi mới vén áo lấy thanh đao
nhọn ra để lên trên bàn, làm cho tên nhà hàng trông thấy cũng kinh sợ không dám
đến gần, mà Hà Cửu Thúc thì mặt xám lại như gà cắt tiết.
Võ Tòng
vừa sắn hai tay áo lên, vừa vớ lấy thanh đao nhọn, rồi trỏ vào Hà Cửu Thúc mà
nói rằng:
- Tiều
tử đây tính người thô mãng, song cũng biết là nợ có chủ, oan có đầu, bác không
việc gì mà kinh sợ, cứ nói thực cho tôi biết rõ căn do về sự Ca Ca tôi chết...
là không can thiệp gì đến bác nữa. Tôi nếu có lòng hại bác, thì không phải là
tay hảo hán, song nếu có một câu gì sai dối, thì con dao của tôi tất phải tặng
bác, và bốn năm cai suốt sát. Bây giờ không cần nói xa xôi gì cả, hãy cứ thuật
ngay cái tình trạng Ca Ca tôi lúc chết thế nào xin cho tôi biết?
Võ Tòng
nói xong, khoanh tay chống ra hai bên sườn, rồi trợn ngược hai con mắt tròn xoe
mà nhìn vào Hà Cửu Thúc.
Hà Cửu
Thúc móc trong bọc lấy cái túi kia ra, đặt lên bàn mà nói rằng:
- Dám
thưa Đô Đầu, một cái túi này là cái tang chứng rất lớn đây.
Võ Tòng
cất lấy cái túi mở ra xem, thì thấy có hai mảnh xương đen, và một đĩnh bạc mười
lạng, liền hỏi rằng:
- Sao
cái này lại gọi là tang chứng lớn được?
Hà Cửu
Thúc liền đem đầu đuôi câu chuyện Tây Môn Khánh mời đi uống rượu, cho đến lúc
làm lễ siêu hóa Võ Đại như thế nào nhất nhất thuật lại cho Võ Tòng nghe, và lại
nói rằng:
- Hai
mảnh xương đen mềm đó, đích thực là một tang chứng chết vì thuốc độc, còn mãnh
giấy chép ngày tháng, tên họ các người đưa đám đây, tức là tờ khẩu cung của
tôi, xin Đô Đầu xét cho.
- Vậy
thì gian phu là ai?
- Cái đó
tôi không được biết đích, song trước đây nghe nói có tên Vận Kha ở đằng kia, đã
một phen cùng với Đại Lang tróc nã gian phu không được. Việc đó ầm ĩ cả phố, ai
ai cũng biết, xin Đô Đầu cứ hỏi Vận Kha khắc rõ.
Võ Tòng
gật đầu nói:
- Nếu
vậy xin phiền bác đi với tôi một lúc.
Nói xong
lại giắt dao vào lưng, bọc gói xương và tiền vào túi, mà tính trả tiền hàng, mà
cùng Hà Cửu Thúc ra đi.
Khi tới
cửa nhà Vận Kha, thấy anh chàng đương cắp cái thúng khảo, đi đong gạo về, Hà
Cửu Thúc liền gọi:
- Vận
Kha có biết vị Đô Đầu này không?
Vận Kha
đứng dừng lại nhìn Võ Tòng rồi đáp rằng:
- Có,
tôi biết từ khi giải hổ về huyện trước... Nhưng hai ông tìm tôi có việc gì?
Nói đoạn
lại tiếp luôn rằng:
- Tôi
bây giờ còn bố già ngoại sáu mươi tuổi, không thể nào bỏ đấy mà đi theo đuổi
hầu kiện với các ông được. Võ Tòng.
Võ Tòng
nghe nói có ý cảm động mà khen rằng:
- Thằng
em giỏi...
Nói đoạn
liền móc túi lấy 5 lạng bạc ra mà tiếp luôn rằng:
- Tiền
đây em đem về nuôi Lão phụ, rồi theo ta đến đằng này ta hỏi chuyện?
Vận Kha
mừng thầm trong bụng " Được 5 lạng bạc này để nuôi bố, thì đi với họ đến
bốn năm tháng vẫn không lo ngại gì!", liền nhận lấy tiền đem cả vào cho
bố, rồi quay ra đi với hai người. Khi tới một hàng cơm kia, Võ Tòng dặn nhà
hàng làm cơm ba người ăn, rồi bảo với Vận Kha rằng:
- Em còn
bé tuổi, mà có lòng hiếu thuận như thế, thực là hiếm có. Lúc nãy ta đưa cho 5
lạng bạc đó là để em tạm tiêu, rồi sau đây ta còn có việc nhờ đến em, đến khi
xong việc ta sẽ đãi em mười lăm lạng bạc nữa làm vốn. Bây giờ em hãy nói rõ
ràng cho ta biết đầu đuôi câu chuyện em cùng Ca Ca ta đi bắt gian thế nào đã?
Vận Kha
nghe nói lấy làm hả dạ, liền nói rõ đầu đuôi khi tìm Tây Môn Khánh, cùng là mưu
mẹo lúc thi hành kế bắt gian, cho đến lúc Võ Đại bị đánh ngã, rồi sau bị chết
thế nào, cho Võ Tòng nghe rất kỹ càng một lượt, Võ Tòng hỏi:
- Những
lời nói có đích xác hay không?
- Đích
xác lắm, dẫu đến cửa quan tôi cũng nói thế thôi.
Võ Tòng
liền gọi nhà hàng đem cơm rượu lên ba người cùng ăn đoạn rồi trả tiền mà ra đi.
Hà Cửu Thúc nói rõ với Võ Tòng rằng:
- Bây
giờ xong việc rồi tôi xin phép Đô Đầu để về nhà.
Võ Tòng
nói:
- Không
được, bác hãy đi với tôi, đương lúc cần có hai người làm chứng cho mới được.
Nói đoạn
liền đem hai người đến huyện để kêu tỏ mọi lẽ oan khuất, và xin để báo thù cho
anh. Quan huyện nghe nói, bèn truyền lấy khẩu cung hai người chứng tá, rồi bàn
với đám nha lại để định kế thi hành, nguyên đám quan nha ở đây đối với Tây Môn
Khánh rất là có tình thân mật xưa nay, nghe thấy chuyện vậy, thì ai nấy cũng
bàn định với nhau, muốn gạt xếp im đi cho rảnh.
Bấy giờ
quan Huyện bảo Võ Tòng rằng:
- Võ
Tòng ngươi đã làm đến chức Đô Đầu, sao mà không biết pháp luật? Xưa nay thường
nói: "Gian dâm phải có đôi, trộm cướp phải có tang, giết người phải có
thương tích" nay anh người đã chết rồi, xác không còn lại, chính người lại
không bắt sự gian, vậy mà chỉ bằng cứ ở miệng hai đứa làm chứng này, mà cho
ngay là việc giết người, thì có lẽ không thể nào làm được, người nên nghĩ kỹ
xem nên làm thì hãy làm.
Võ Tòng
bèn đem gói xương, và mười lạng bạc ra trình quan huyện mà rằng:
- Cái
này có tang chứng hẳn hoi, há phải rằng chúng tôi đặt để nên chuyện đâu? Xin
quan lớn xét kỹ cho mới được.
Tri
huyện xem xong đáp rằng:
- Nếu
vậy ngươi để đây, ta xét kỹ xem sao nếu việc có thể làm được, thì ta sẽ bắt hỏi
cho ngươi.
Võ Tòng
tạ ơn lui ra, rồi giữ Hà Cửu Thúc và Vận Kha ở lưu trong nhà, để đợi khi đòi
hỏi. Bên kia Tây Môn Khánh nghe biết chuyện đó, liền đem tiền đút lót đám quan
lại cho đâu đấy đều được thỏa thiếp hết cả. Đến sang hôm sau Võ Tòng lại lên
thúc giục quan huyện xin cho tra xét, thì quan Huyện đưa trả lại gói xương và
mười lạng bạc, mà bảo với Võ Tòng rằng:
- Việc
này ngươi chớ nên nghe càn người ta, mà thưa kiện Tây Môn Khánh, vì không có
một chút gì là đúng lẽ cả, thánh nhân đã dạy rằng: " những việc trước mắt,
chưa hẳn đã tin; Lời nói sau lưng, lấy đâu làm chắc!"Ngươi không nên nóng
nảy làm liều mà lỡ việc!
Bấy giờ
tụi nha lại đứng hai bên cũng giở ngọn lưỡi không xương ra mà tán với Võ Tòng
rằng:
- Đô Đầu
ơi! Những việc án mạng xưa nay, phải đủ có năm thứ là: Xác người, đấu thương,
chứng bệnh, đồ hành hung, cùng là tung tích, thì mới có thể tra xét được. Nay
Quan đã dạy như thế thì hãy để thong thả xem sao đã.
Võ Tòng
nghe vậy lặng ngắt không nói, và bèn thu lấy gói xương và tiền, giao cho Hà Cửu
Thúc giữ, rồi lại đem hai người trở về phòng, ở trong bụng vừa phần buồn bực,
vừa phần căm tức, mà phàn nàn một mình rằng: " Đáng tiếc cho lộc nước
lương dân, phí tổn kể hết bao nhiêu để cung phụng cho Quan lại! Nhưng than ôi!
Đem tiền mà vứt xuống sông còn được thấy tăm thấy bóng, chớ đem tiền mà cung
phụng cho đám ấy, thì thực là vô ích cho đời. Nay có một việc rõ ràng như thế,
mà không thể nào xét đoán cho ra, huống chi những việc u minh khó hiểu thì bấy
giờ xử trí làm sao? Thực là mất tiền mất của mà phó tính mạng biết bao xích tử
lương dân cho đám mèo mù này, còn bao giờ cai trị được yên? Những hạng người ấy
ngoài hai chữ kim tiền, còn có biết chi là luân thường pháp luật! Thôi anh hùng
sự nghiệp mong ở tay mình, oán trả ân đền, tự mình uy phúc can chi mà cậy những
con người vô ích thêm phiền? "
Cũng tai
cũng mắt trên đời,
Ân đền
oán trả quyền trời riêng cho...
Đường
đường một đấng trượng phu,
Xông pha
xương núi máu hồ có khi,
Thân
mình làm phúc làm uy,
Những
loài máu lạnh nói chi thêm buồn.
Võ Tòng
nghĩ vậy, liền gọi một tên thổ binh bắt làm cơm cho Hà Cửu Thúc và Vận Kha ăn
cơm ở nhà, rồi đem mấy thổ binh đi ra phố mua gà vịt, sỏ lợn cùng các thức rượu
chè hoa quả, và mua thêm mấy tờ giấy trắng cùng là bút mực, để đem đến nhà Võ
Đại.
Bấy giờ
chị chàng khốn nạn kia nghe nói việc Võ Tòng thưa kiện Tây Môn Khánh, đã bị
quan trên xóa bỏ đi rồi, thì trong lòng lấy làm hả hê, không còn sợ điều chi
nữa. Đương khi đắc ý một mình, thì chợt thấy Võ Tòng cùng mấy tên thổ binh mang
các lễ vật đến nhà mà nói rằng:
- Ngày
nay là tuần Tứ Tửu Vong Huynh, dạo trước ở đây cũng có quấy quả mấy người bà
con phố sá, vậy tôi muốn gọi là kiếm chút lễ mọn, trước là cúng anh, sau nữa là
vì Tẩu Tẩu mà tạ ơn xóm giềng cho phải đạo.
Chị
chàng hỏi rằng:
- Việc
gì mà phải tạ ơn họ?
- Đó là
lễ phép phải thế, ta không nên bỏ thiếu mới được.
Nói đoạn
sai thổ binh đem các lễ vật bày lên linh sàng, thắp đèn hương khấn lễ hồi lâu,
rồi sai kê bàn ghế bày các hoa quả cùng rượu thịt ra. Lại sai hai tên thổ binh
canh giữ cửa trước cửa sau cho cẩn thận, rồi gọi chị chàng kia mà bảo rằng:
- Bây
giờ Tẩu Tẩu phải ở đây mà tiếp khách, để tôi đi mời khách đến đây.
Nói xong
bắt đầu sang mời Vương bà ở bên cạnh vách. Vương bà nhất định từ chối không đi.
Võ Tòng không nghe cố tình mời cho bằng được. Sau Vương bà không chối được,
phải nhận thiếp mời mà theo Võ Tòng sang. Võ Tòng lại bảo chị chàng kia ngồi
chủ toạ, mà mời Vương bà ngồi đối diện. Vương bà cũng biết việc Tây Môn Khánh
là vô sự rồi, nên cũng phóng tâm ngồi đánh chén, xem Võ Tòng xử trí ra sao?
Võ Tòng
dàn xếp xong rồi, bèn đi ra đi mời anh hàng bạc ở phía dưới phố là Diêu Văn
Khanh. Văn Khanh cáo từ không dám nhận. Võ Tòng kéo đi mà nói rằng:
- Bác
sang chơi xơi chén rượu nhạt, một lát lại về ngay có chi mà từ chối.
Văn
Khanh phải vâng lời, theo đến, ngồi vào ghế dưới Vương bà. Chàng lại đến mời
mấy người bên kia phố nữa, là anh Triệu Trọng Minh bán hàng mã, và bác Hồ Chánh
Khanh bán rượu, nguyên là một tay thư lại xuất thân khi trước. Hai người dẫu có
chối từ, song Võ Tòng cầu cạnh lôi mời, thì anh nào cũng kinh khiếp hồn mà phải
theo lời hết cả.
Khi tới
nơi Võ Tòng mời Hồ Chánh Khanh ngồi trên Triệu Trọng Minh ngồi dưới, rồi lại
đến nhà Trương Công ở bên cạnh Triệu Trọng Minh để mời. Bấy giờ Trương Công
đương ngồi nhà, thấy Võ Tòng đến thì giật mình kinh sợ, mà rằng:
- Đô Đầu
đến chơi chẳng hay có việc gì?
Võ Tòng
nói:
- Nhà
anh tôi khi trước đến phiền lụy phố sá cũng nhiều, nay muốn mời các ông đến
chơi xơi chén rượu suông đó thôi.
- Chết
nỗi chúng tôi không có lễ nghi gì đến, sao Đô Đầu còn cho ăn uống như vậy?
- Có gì
đâu, gọi là chút lòng thành, xin ông đi cho.
Nói đoạn
kéo phăng Trương Công đến, mà ngồi dưới cánh Diêu Văn Khanh.
Khi đó
cửa trước cửa sau bắt cài then cẩn thận, rồi Võ Tòng mời bốn người hàng phố,
cùng Vương bà và chị chàng kia ngồi tử tế đây đấy, còn mình thì xách một cái
ghế ngồi vào đầu bàn, rồi sai thổ binh rót rượu để mời. Võ Tòng cất tiếng lên
nói rằng:
- Xin
các vị cao lân tha lỗi cho tôi, là kẻ thô mãng mà chứng giám cho.
Mọi
người nghe nói đều cung kính đáp rằng:
- Đô Đầu
mới đi xa về, chúng tôi chưa có gì đến mừng, nay lại còn quấy quả thế này, thực
là không phải.
Võ Tòng
lại cất chén mời mà rằng:
- Thực
là sơ sài không có gì, xin các ngài đừng cười...
Chúng
vâng lời uống rượu, song anh nào cũng gờm gờm không hiểu ra sao. Khi uống rượu
được vài tuần Hồ Chánh Khanh đứng dậy cáo từ có việc bận xin về.
Võ Tòng
gạt lại mà rằng:
- Không
về được, đã đến đây dẫu bận cũng xin ngồi một lát đã.
Chánh
Khanh nghe nói, thì trong bụng sôi nổi như ngọn trào khi lên khi xuống, không
hiểu tình ý ra làm sao, đã mời ăn uống mà còn đãi như thế, thì phải đành ngồi
xuống vậy. Võ Tòng gọi thổ binh rót rượu mời khách uống. Khi mỗi người uống
được độ bảy chén rồi, thì Võ Tòng lại quát thổ binh hãy dọn bàn sạch đi, để lát
nữa sẽ uống. Đoạn rồi Võ Tòng đứng lên lau bàn cho sạch.
Chúng
thấy vậy toan đứng vậy cản, Võ Tòng lại giơ hai tay giữ lại mà nói rằng:
- Tôi
đương sắp nói chuyện, xin các ngài hãy ngồi đó. Trong đám các ngài có ai là
người biết viết?
Diêu Văn
Khanh trỏ vào Hồ Chách Khanh mà đáp rằng:
- Ông Hồ
Chánh Khanh đây viết giỏi lắm.
Võ Tòng
nói rằng:
- Vâng,
xin ngài viết hộ cho.
Nói đoạn
xắn tay áo lên, thò vào trong áo rút một con dao nhọn ra, đến phắt một cái, rồi
đưa bốn ngón tay con bên phải, lồng vào quai dao, còn ngón tay cái thì để
khoanh chống bụng, trừng hai con mắt nghiêm nghị dữ dội mà nói rằng:
- Xin
các vị biết cho rằng:nợ có chủ, oán có đầu chúng tôi chỉ cần các ngài làm chứng
đó thôi.
Nói đoạn
Võ Tòng đứng lên nắm chặt lấy đầu chị dâu, mà tay trỏ vào Vương Bà bắt phải
ngồi im. Bọn hàng phố anh nào anh nấy trông thấy đều khiếp kinh hồn vía, đều
nơm nớp nhìn mà không dám thở.
Võ Tòng
lại nói rằng:
- Các vị
cao lân không việc chi mà sợ, tôi tuy là một anh lỗ mãng chết cũng không cần,
song có oán thì báo oán, có thù thì báo thù, không can gì để các ngài cả. Chỉ
phiền các ông làm chứng cho thôi. Nếu ngài nào đứng dậy chạy trước, thì đừng có
trách, hãy xin mời dăm bảy nhác dao, rồi Võ Tòng sẽ đền mạng.
Chúng
nghe nói đều ngây mặt đờ lưỡi không còn anh nào dám cựa.
Võ Tòng
nhìn vào Vương Bà mà quát lên rằng:
- Con mụ
già chó má nầy, nghe tao nói: Tính mạng Ca Ca ta toàn thị trong tay mầy làm
hại, để rồi tao hỏi tội mầy? ...
Đoạn rồi
quay lại thết chị chàng kia rằng:
- Đồ dâm
phụ này, nghe ta nói: Tính mạng Ca Ca ta, mầy mưu sát thế nào, muốn sống nói
thực, ta sẽ tha cho.
Chị
chàng kia nói rằng:
- Thúc
Thúc rõ vô lý quá, Ca Ca bị đau bụng rồi chết, có liên can gì đến tôi.
Vừa nói
dứt lời, thi Võ Tòng đặt phịch con dao trên bàn, giơ tay nắm lấy tóc chị chàng
kia, giơ chân đạp cái bàn lăn ra, rồi với qua cái bàn xách chị chàng vật nằm
lăn xuống trước mặt linh sàn.
Đoạn rồi
giơ chân đạp xuống giữ lấy chị kia, mà tay phải cầm con dao trỏ vào mặt Vương
bà mà bảo rằng:
- Con
sọm già nầy, muốn sống phải nói thực ra...
Mụ già
đê mạt ấy không còn lối nào thoát thân đi được, liền nói lên rằng:
- Xin Đô
Đầu bớt giận, để tôi nói thực mọi điều.
Võ Tòng
gọi thổ binh ra đem giấy mực nghiêng bút để lên bàn, rồi cầm dao trỏ Hồ Chánh
Khanh bảo rằng:
- Phiền
bác, cứ nghe câu gì là biên vào câu đó cho tôi.
Hồ Chánh
Khanh đánh trống ngực thình thình, đáp lại rằng:
-
Vâng... vâng...Chúng tôi xin viết ạ!
Nói đoạn
giơ tay lên mài mực, rồi cầm bút, vuốt giấy mà bảo Vương bà rằng:
- Bà lão
nói thực đi.
Vương bà
lại giở giọng nói rằng:
- Không
việc gì đến tôi, thì bảo tôi nói thế nào?
Võ Tòng
quát lên rằng:
- Con
cáo già công việc ta biết cả rồi, con toan chối thế nào? Nếu không thì ta phải
xả con dâm phụ nầy ra rồi sẽ giết con cáo già...
Nói đoạn
liền giơ dao trước mặt chị chàng kia mà liếc đi liếc lại. Chị chàng vội kêu lên
rằng:
- Thúc
thúc tha tôi, tôi xin nói...
Võ Tòng
lại xách dậy, đặt trước linh sàn quát lên rằng:
- Dâm
phụ nói mau! Chị chàng kia, lúc đó kinh khiếp, bạt cả hồn vía phải đem sự thực
từ khi đánh rơi cái nạn vào đầu Tây Môn Khánh, cho đến khi mụ Vương bà mời sang
may áo, rồi thế nào... kể ra hết một lượt. Võ Tòng bảo Hồ Chánh Khanh rằng:
- Nói
câu gì thì viết vào giấy cho tôi.
Vương bà
thấy chị chàng kia thú thực cả rồi, thì cũng không thể nào mà chối được, liền
phải theo lời mà cung nhận hết thảy. Võ Tòng lại bảo Hồ Chánh Khanh viết giấy
cẩn thận, bắt hai người điềm chỉ viết tên ở dưới, rồi bốn người hàng phố ký tên
sau. Đoạn rồi lấy cái đai nịt của tên thổ binh, trói con sọm già lại, rồi cuộn
tờ giấy khẩu cung đút vào túi áo, mà gọi tên thổ binh rót rượu bưng lên cúng ở
trước mặt linh sàn. Bấy giờ bắt cả hai mụ đàn bà quỳ xuống trước linh sàn, rồi
Võ Tòng gạt lệ khấn rằng:
- Linh
hồn Ca Ca chắc còn phảng phất đâu đây, ngày nay tiểu đệ xin báo thù rửa hận,
xin Ca Ca chứng dám cho.
Khấn
xong bèn gọi thổ binh đem giấy tiền ra. Khi đó con dâm phụ kia thấy sự thể nguy
cấp đến nơi để toan cất tiếng để kêu. Bắt đầu Võ Tòng nắm tóc giằn xuống, hai
chân dặm lên hai vai, mà cởi phăng áo bụng ra, mà đưa mũi dao nhọn vào rạch một
cái thật mạnh, phăng hẳn ruột ra. Đoạn rồi mồm ngậm lấy dao, hai tay móc vào
lấy bộ ruột ra, để lên trước bàn thờ. Lại cúi xuống cắt đầu con dâm phụ, máu me
chảy đầm đìa lai láng ra nhà, anh nào trông thấy cũng xanh mặt tái người, chỉ
bưng mặt ngồi nhìn, mà không hề dám khuyên can chi cả.
Võ Tòng
lại sai thổ binh lên gác lấy một cái chăn xuống, bọc đầu chị chàng kia vào, và
lau sạch dao sạch sẽ, đút vào trong bao, rồi rửa sạch hai tay, mà quay ra bảo
với mọi người rằng:
- Thế
nầy khí phiền đến các vị cao lân, xin các ngài thứ lỗi cho. Mời các ngài lên
gác ngồi chơi một lát, rồi tôi sẽ về ngay đây.
Đám kia len
lén nhìn nhau không hiểu tình ý ra sao, đành phải theo lời mà kéo nhau lên gác.
Võ Tòng lại sai thổ binh kéo cổ Vương bà lên gác rồi đóng cửa lại, mà bắt thổ
binh canh giữ ở dưới.
Bấy giờ
chàng ta xách cái đầu người ra đi, thẳng đến hàng thuốc nhà Tây Môn Khánh, mà
hỏi tên chủ quán rằng:
- Đại
quan nhân có nhà không?
Chủ quán
đáp:
- Bẩm
vừa mới đi rồi.
Võ Tòng
lại nói:
- Bác
làm ơn ra đây tôi hỏi câu chuyện này.
Chủ quán
vốn biết Võ Tòng xưa nay, nên không dám cưỡng lời, bèn theo Võ Tòng ra phố, Võ
Tòng dẫn vào một cái ngõ vắng, làm bộ giở mặt hỏi anh kia rằng:
- Anh
muốn sống hay muốn chết?
Chủ quán
run lên bần bật mà đáp rằng:
- Bẩm Đô
Đầu!chúng tôi có dám xâm phạm việc gì đâu?
- Ừ!
Nhưng mà anh muốn chết thì thôi, bằng muốn sống phải nói rõ cho ta biết rằng,
Tây Môn Khánh hiện giờ ở đâu?
- Bẩm
ngài, vừa rồi ông ta đi với một người bạn, đến uống rượu ở Đại tửu lâu bên cầu
Sư Tử đó.
Võ Tòng
nghe dứt lời thì quay ngoắt mình mà chạy thẳng, làm cho tên chủ quán ngây hẳn
người ra, hồi lâu mới trở về được hàng.
Võ Tòng
chạy vội đến Tửu lâu bên cầu Sư Tử, hỏi tửu bảo rằng:
- Tây
Môn Khánh đại lang uống rượu với ai đó?
Tửu bảo
đáp:
- Uống
rượu với một tay tài chủ ở phòng gác về mé cạnh đường phố.
Võ Tòng
lặng ngắt, đi thốc lên gác, đến gần phòng đó, nom vào chắn song cửa sổ, thấy
Tây Môn Khánh đương ngồi chủ vị, một người nữa ngồi khách vị và hai đứa con hát
ngồi ở hai bên. Chàng liền mở bọc chăn ra, tay xách đầu dâm phụ máu chảy long
tong xuống, tay phải rút thanh đao ra, rồi vén rèm nhảy vào, mà cầm đầu dâm phụ
ném vào mặt Tây Môn Khánh.
Tây Môn
Khánh ngẩng đầu trông lên thấy Võ Tòng đến, thì giật mình kinh sợ, kêu lên một
tiếng, bắc cẳng lên cửa sổ toan tìm đường tháo chạy. Dè đâu trông ra cửa sổ,
lại chính đường phố đấy, liền nhụt cẳng lại không dám chạy, mà trong bụng thì
hoảng hốt, không biết làm thế nào? Đương khi bồi hồi kinh sợ, thì Võ Tòng đã vỗ
tay nhảy lên bàn, làm cho bát đĩa trên bàn đều đổ nhào cả xuống.
Hai đứa
con hát trông thấy, kinh sợ mất vía, không đứa nào chạy được nữa, anh tài chủ
kia cũng rụng rời chân tay mà ngã lăn ra gác. Tây Môn Khánh thấy Võ Tòng hung
tợn như vậy, thì vội vàng giơ tay trỏ vờ một cái, rồi cất chân bên hữu mà đá
luôn.
Võ Tòng
cứ xông vào, rồi né mình tránh qua một bên, bất đồ bị Tây Môn Khánh đá ngay vào
tay phải, làm cho con dao bắn hản ra cửa, mà rơi xuống phố, Tây Môn Khánh thấy
Võ Tòng rơi mất dao, thì phóng tâm không sợ, liền giơ tay phải lên dứ đánh, rồi
tay trái nhằm vào giữa mỏ ác Võ Tòng mà đấm, Võ Tòng né mình tránh thoát, rồi
thừa thế xông vào ngay cạnh sườn Tây Môn Khánh, tay tả vòng ra ôm lấy cả đầu và
vai, còn tay hữu thì nắm lấy chân trái Tây Môn Khánh mà quát lên rằng:
-
Xuống...
Tây Môn
Khánh lúc đó một là bị oan hồn ám ảnh, hai là bị lương tâm quở phạt, ba là tuy
hơi sức có khoẻ, song không khi nào địch nổi Võ Tòng kia được, nên vừa bị Võ
Tòng gạt một cái thì đầu nặng bồng, chân nhẹ tếch, mà ngã lăn xuống dưới mặt
phố, nằm lặng hẳn người, phát hôn đến chương thứ mười một, hai bên phố sá thấy
vậy, ai nấy đều kinh sợ bất thần. Đoạn rồi Võ Tòng cúi xuống chân ghế, nhặt lấy
cái đầu đứa dâm phụ xách vào tay, nhún mình vót qua cửa sổ mà nhảy thẳng xuống
mặt phố, rồi nhặt lấy con dao cầm lăm lăm ở tay. Bấy giờ thấy Tây Môn Khánh nằm
chết dở ở dưới mặt đất, hai con mắt chỉ lừ đừ dấp dính mà không sao cựa được;
Võ Tòng liền cầm đao xông đến, cắt phăng lấy đầu Tây Môn Khánh rồi túm lấy hai
cái đầu làm một, mà xách về phố Tử Thạch.
Khi tới
nhà bày hai cái đầu lên linh sàn để cúng, rồi lại gạt nước mắt mà khấn rằng:
- Ngày
nay em đã giết hai đứa gian phu dâm phụ để báo thù cho Ca Ca, vậy linh hồn Ca
Ca có thiên, thì về chốn Thiên Đường mà nương tựa, còn đây em xin siêu hóa cả
đi.
Chàng
khấn xong liền bảo thổ binh mở cửa gác, lên gọi các người ở trên gác xuống, rồi
một tay lại xách hai cái đầu người, và một tay cầm con dao lăm lăm mà nói với
mọi người rằng:
- Tôi có
một điều này, cần phải nói với các vị cao lân, xin các ngài hãy ở đây, không đi
đâu được bây giờ!...
Mấy
người hàng phố đều kinh sợ một phép, chắp tay mà đáp rằng:
- Có
việc chi xin Đô Đầu cứ chỉ giáo cho, chúng tôi đâu dám trái lời ngài dạy!...
Oai hùm
tung động giang sơn,
Dưới đao
nghĩa hiệp chứa chan máu tình,
Bể trầm
muôn trượng mông mênh,
Dẹp tan
ngọn sóng khuynh thành từ đây.
Xót
Riềng con tạo chua cay
Đem gươm
oan nghiệt trêu tay anh hào.
Một cơn
bình địa ba đào
Nặng
lòng cốt nhục kiếp nào đã khuây!
Vời
trông trời rộng đất dầy,
Anh hùng
khi cũng vơi đầy giọt châu!
Lời bàn
của Thánh Thán:
Ta
thường nói rằng: Chẳng lên Thái Sơn, chẳng biết chỗ cao thiên hạ, lên Thái Sơn
chẳng lên tới mặt trời, thì chẳng biết Thái Sơn đã cao vậy, chẳng xem Hoàng Hà,
chẳng biết nơi sâu thiên hạ, xem Hoàng Hà mà chẳng xem tới Long Môn, thì chẳng
biết Hoàng Hà đã sâu vậy! Chẳng gặp Thánh nhân, chẳng biết thiên hạ đại tài,
gặp Thánh nhân mà chẳng gặp Trọng Nghe nói (Đức Khổng) thì chẳng biết Thánh
nhân là đại tài vậy. Nay xem đến sách cũng vậy, chẳng đọc Thủy Hử, thì không
biết cái hay lạ của Thiên hạ, mà đọc đến Thủy Hử mà không đọc đến thiên Võ Tòng
này, thì chẳng biết truyện Thủy Hử đã hay lạ đến thế, ôi! Cái tài tác giả há
đem đấu mà đong kể được ư!
Cuốn
trên tả Lỗ Đạt, đã là rất bậc trượng phu, không ngờ lại có Lâm Xung cũng rất
bậc trượng phu, tả Lỗ Đạt rồi tả Lâm Xung đã hai người kỳ vậy, ví như hai người
vẽ đấu tài nhau, nào vẽ ra Bích Điện, Tinh cung thủy phủ, muôn ý tứ thần tình
sẵn cả, vẽ ra hiền thì thật hiền, mà dữ lại thật dữ, cũng như đẹp thì rất đẹp.
Mà xấu thì lại rất xấu, kỹ thuật đến thế thì thôi, xem được đến thế mà thôi!
Thấy rằng trong lòng hai tay thợ vẽ đều chứa những tuyệt bút, như những vẻ ly
kỳ của Rồng của Mây, của Nhật của Nguyệt... nào phải như thế gian, trong lòng
nghĩ ra, trong tay nặn ra, trong bút khua ra... Nay xem Thủy Hử của Thi Nại Am
thấy như hai tay họa sĩ vẽ khác nét nhau kỳ ảo!
Tả ra ba
tay rất bậc trượng phu như Lỗ, Lâm, Dương tưởng rằng nghệ thuật đến đấy mà
thôi, mà được xem đến đấy mà thôi, ai ngờ lại nảy ra một truyện Võ Đô Đầu,
khiến ta đọc đến văn, lại nghĩ đến người, thấy trong lòng dạ chẳng phải như lòng
dạ ba người Lỗ, Lâm, dương tâm sự cũng chẳng phải tâm sự như ba người Lỗ, Lâm,
Dương cho đến hình trạng kết thúc, lại chẳng như hình trạng kết thúc của ba
người Lỗ, Lâm, Dương hàng động của những bậc trượng phu khác nhau xa quá! Ta
được nghĩ đến người mà xem lại văn, nên đọc nhanh đi, lại đọc chậm đi, giở đi
giở lại đọc hô lên tiếng hùm, tiếng beo, đọc đi cho khoái! Hỡi ôi! Xem ra một
hồi, một đoạn, một câu, một chữ đâu phải loại người thế gian, trong lòng nghĩ
ra, trong tay nặn ra, trong bút khua ra, thực là tuyệt bút như những vẻ ly kỳ
của Rồng của Mây, của Nhật của Nguyệt... Thế mà lại muốn đo cái tài của tài tử
bằng đấu bằng thưng. Thì than ôi! Nhiều kẻ không lường ra năng lực giỏi!
Hoặc có
kẻ hỏi đến Thánh Thán rằng: Lỗ Đạt là người thế nào? Rằng: Là người rộng rãi;
Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người hẹp hòi; Lâm xung là người thế nào?
Rằng: Là người độc ác; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người ngon ngọt;
Dương Chí là người thế nào? Rằng: Là người chính đáng; Tống Giang là người thế
nào? Rằng: Là người cong quẹo; Sài Tiến là người thế nào? Rằng: Là người lành;
Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người tệ; Ngô Dụng là người thế nào?
Rằng: Là người nhanh; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người ngốc; Hoa
Vinh là người thế nào? Rằng: Là người thanh nhã; Tống Giang là người thế nào?
Rằng: Là người thô tục; Lư Tuấn Nghĩa là người thế nào? Rằng: Là người lớn;
Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người tiểu nhân; Thạch Tú là người thế
nào? Rằng: Là người hay; Tống Giang là người thế nào? Rằng: Là người dở; Thế
thì một trăm linh sáu người trong bộ Thủy Hử, lại không ai hơn Tống Giang, đó
là 106 người vậy chưa ai bằng Võ Tòng là một tay tuyệt luân siêu quần đó. Vậy
Võ Tòng là người thế nào? Rằng: Là người trời vậy, mà có những con người khoát
như Lỗ Đạt, độc như Lâm Xung, chính như Dương Chí, khoái như anh em họ Nguyễn,
thực như Lý Quỳ, nhanh như Ngô Dụng, nhã như Hoa Vinh, đại như Lư Tuấn Nghĩa,
hay như Thạch Tú... mà đoán quyết Tống Giang là người thứ nhất, cũng chẳng phải
ư? ? ?
Tả Võ Tòng
trước giết hổ, chợt về sau giết một đàn bà, hỡi ôi! Không còn giống gì gầm thết
như hổ, không còn giống gì ngọt nhạt như đàn bà với hai giống ấy, đến nguy hiểm
như vậy, thế mà giết hổ rồi chợt giết đàn bà, chẳng khó nhọc đến đâu, thì ít có
vậy! Nay tả Võ Tòng giết hổ chẳng đầy một hồi sau tả Võ Tòng giết đàn bà, cũng
chẳng đầy một hồi. Chà chà! Lạ thay! Nhớ lại họ Đại Hùng có nói: Sư tử vồ voi
phải dùng toàn lực, nay xem Võ Tòng giết hổ giết đàn bà há phải dùng đến toàn
lực ấy đâu! Xem đến văn mà hơi thở mắt trừng, mặt không còn sắc, càng hãi hơn
khi đọc một hồi đá hổ... Hỡi ôi! Tác giả đem Sư tử ví với Võ Tòng, xem ở tên
phố ấy là Sư Tử, thì đủ biết rồi!
Tay
không mà muốn bắt hổ, thì không còn nhờ đâu mà trợ lực, nên người ta phải dùng
đến binh khí, giáo, mác... mới dám giết hổ, đó là sự thường thế mà Võ Tòng bốn
phen làm đánh nhoàng né tránh, rồi ra oai lấy sức, cầm gậy đánh mạnh, một tiếng
gầm trời, gậy gãy cây đỗ, hóa ra tay không, càng làm hổ giận, đem tay không
đánh với hổ giận, rồi cũng thành công, , trở nên oai thần rõ rệt, hồi trước nói
rồi; Đến nay lại tả Tây Môn Khánh, cũng theo phép ấy tả ra, hẳn trong lòng tác
giả nghĩ rằng: Đánh hổ còn chả dùng gậy, huống chi đánh con chuột, lại phải
dùng dao, mới tả giắt dao đi đến, vừa gặp loài chuột ấy, dao lại rơi đi, cho rõ
oai thần của Võ Tòng, vì giống chuột kia còn kém xa sức hổ, thấy rằng giết hổ
không dùng đến gậy, giết chuột không dùng đến dao, biểu hiện ra ý nghĩa ở bốn
chữ " Dưới cầu Sư Tử"
Tây Môn
Khánh làm sao mà gian nổi; Vương bà làm sao mà chủ mưu; họ Phan làm sao mà hạ
độc, đã diễn từ hồi trước rõ ràng, độc giả đã thấy, độc giả đọc mà biết, lúc
đọc kia chính lúc Võ Tòng đi Đông Kinh, mọi người lại muốn nghe lời Hà Cửu
thuật chuyện, cho Võ Tòng biết kẻ gian phu, và lại muốn nghe lời Vận Kha thuật
chuyện, cho Võ Tòng biết khi hạ độc, tuy lược tả Võ Tòng nghe chuyện, thấy Võ
Tòng được rõ đầu đuôi, xem trong ý tứ văn chương, mới nhận thấy cái hay thần
hóa.
Tả bốn
người hàng xóm đến chứng kiến, nào anh hàng thợ bạc, hàng mã, hàng rượu, hàng...
thành ra tài, sắc, tửu, khí, chứng cho lũ gian dâm, rõ là kỳ tuyệt!
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 26: Đường Mạnh Châu, Mẫu Dạ Thoa bán
thịt người; Bờ Thập Tự, Võ Đô Đầu gặp hảo hán
Bấy giờ
Võ Tòng nói với bốn người hàng phố rằng:
- Tôi
đây vì việc báo thù mà phải giết người phạm tội, thân này dẫu chết cũng cam,
duy từ đây trở đi tính mệnh của tôi, phỏng còn sống nữa hay không, cũng chưa
biết được. Vậy nhân đây tôi muốn siêu hóa các đồ thờ tự Ca Ca tôi, còn các vật
liệu trong nhà, thì xin nhờ các ngài đem bán giúp cho, để lấy tiền theo đòi
việc kiện. Bây giờ ta sẽ vào huyện thú nhận các lễ, sau đó tội tình thế nào đã
có Quan trên xét đoán, duy các ngài thì cứ lấy sự thực làm chứng giúp cho.
Nói đoạn
liền đem các đồ thờ tự, bài cúng vàng mã mà siêu hóa hết cả, rồi lên gác lấy
hai cái hòm xuống mở ra, đưa các đồ vật cho bốn người hàng phố thu nhận để bán
giúp. Đoạn rồi xách hai cái đầu người, và lôi cổ Vương bà và dẫn bốn người đi
thẳng vào huyện.
Hôm đó
cả huyện Dương Cốc đều kéo nhau đi xem đông lắm không biết đâu mà kể. Võ Tòng
đến công đường bắt Vương bà quỳ xuống trước giữa thềm, rồi chàng đặt hai cái
đầu gian phu dâm phụ, cùng đặt con dao mà quỳ xuống thềm bên tả; còn bốn người
hàng phố quỳ sang bên hữu dưới thềm. Võ Tòng lấy tờ giấy của Hồ Chánh Khanh viết
lúc trước đem ra trình, rồi kêu rõ đầu đuôi cho quan huyện nghe.
Quan
huyện cũng kinh ngạc, rồi sai nha lấy khẩu cung Vương bà, và lấy chứng cớ các
người hàng phố, rồi sai bắt Hà Cửu Thúc và Vận Kha lên, để lấy giấy chứng cớ rõ
ràng một lượt. Đoạn rồi áp giải mấy người đó, cùng ra phố Tử Thạch khám nghiệm
xác đứa dâm phụ, và đến trước nhà tửu lâu ở dưới cầu Sư Tử để khám nghiệm xác
đứa gian phu, rồi đem về lập án.
Tri
huyện sai lấy gông, gông Võ Tòng và Vương bà lại, giam cả xuống ngục, còn các
người kia, thì tạm giữ tại phòng ngoài để chờ tra hỏi.
Nguyên
Tri huyện đó vốn có lòng biệt đãi Võ Tòng, là người nghĩa khí đảm đang, và lại
nhớ đến công việc khi xưa mang các châu báu về kinh, thì lại định tâm muốn tìm
kế chu toàn cứu giúp, bèn gọi đám nha lại lên mà định bàn rằng:
- Võ
Tòng là người nghĩa trực, xưa nay ai ai cũng biết. Duy hắn thiện tiện giết
người, thì không thể nào mà tha ngay được, vậy nay ta nên đem các lời cung của
lân bang mà chữa đổi đi.
Chúng
vâng lời, chữa các khẩu cung như sau này:
-
"Võ Tòng về lễ anh người chị dâu đanh ác không cho lễ, đến nỗi đôi bên cãi
nhau, rồi chị dâu đạp đổ cả giường thờ giường tự, vì thế Võ Tòng đến cướp lấy
bài vị của anh, mà lỡ tay đánh chết. Về sau Tây Môn Khánh vốn là đứa thông dâm
cùng mụ đàn bà kia chạy vào đánh hội, rồi giằng co với Võ Tòng, khi đến cầu Sư
Tử thì bị Võ Tòng đánh chết".
Khi chữa
xong đem đọc lại cho Võ Tòng nghe, rồi thảo công văn để giải phạm nhân lên phủ
Đông Bình. Bấy giờ có mấy nhà nghĩa khí ở huyện Dương Cốc, nghe thấy vậy, liền
đem tiền nong gạo nước để tiến tặng Võ Tòng. Võ Tòng liền xin phép quan về
phòng để thu nhận các đồ hành lý, và đưa mười lăm lạng bạc cho bố Vận Kha rồi
sắp sửa để đi. Các thổ binh theo hầu Võ Tòng khi trước, đều đem rượu thịt đến
thiết đãi luôn canh.
Sau đó
quan huyện phái người đem các đồ gói tiền gói xương, dao trượng, cùng mấy người
phạm án, giải lên phủ Đông Bình. Khi tới phủ các dân sự chung quanh đổ ra xem
rất đông đúc.
Quan phủ
Đông Bình là Trần Văn Chiêu vốn là tay rất thông minh lanh lợi, nghe biết câu
chuyện Võ Tòng đã lâu, nay thấy huyện Dương Cốc giải đến, liền đem các giấy má
ra xem, gọi các người vào tra hỏi một lượt, cho đem các đồ hành hung cùng tang
vật thu vào trong kho, rồi sai đóng gông rất nặng cho mụ Vương bà giam vào ngục
tử tù, còn Võ Tòng thì đóng gông nhẹ, mà giam vào nhà giam thường. Đoạn rồi
giao cho huyện lại lĩnh Hà Cửu Thúc, Vận Kha cùng bốn người lân bang cho về
huyện Dương Cốc. Còn vợ con Tây Môn Khánh thì giữ lại ở phủ để đợi chờ giấy Bộ
tư ra rồi sẽ xét đoán. Các lính tráng ở phủ Đông Bình, thấy Võ Tòng là một
người hào hiệp nghĩa khí, trên quan phủ cũng có lòng thương, nên chúng thường
đem tâm vì nể, không những không dám hạch sách tiền nong, mà thần thường lại
khoãn đãi tử tế. Quan phủ Đông Bình đem các giấy má mà chữa đổi cho nhẹ tội Võ
Tòng, rồi tự đem lên trình quan tỉnh, và cắt một người tâm phúc đem mật thư vào
kinh sư, để lo cứu cho Võ Tòng. Bấy giờ các quan Hình Bộ cũng nhiều người thân
mật với Trần Văn Chiêu, nên khi nhận được giấy thì lập tức cho các quan Tỉnh
viện kết án nhẹ đi.
Trong án
đại khái nói:
- Cứ như
mụ Vương bà dụng tình cố ý manh mối gian dâm, xui giục đàn bà đánh thuốc độc
cho chồng chết, lại khiến dâm phụ không cho Võ Tòng vào viếng thân huynh, cho
đến nổi sát thương nhân mạng, tội ác nham hiểm làm cho bại hoại luân thường,
tội ấy phải khép vào án lăng trì mới đáng. Võ Tòng tuy vì việc báo thù giết
chết gian phu là Tây Môn Khánh, song tự mình thú tội, thì giảm nhẹ tội nguyên,
bắt đánh bốn mươi trượng, đày ra ngoài hai ngàn dặm. Hai đứa gian phu dâm phụ
đã chết không bàn, còn các người can phạm đều tha về hết thảy."
Quan phủ
Đông Bình tiếp được văn án, liền sức giấy cho Hà Cửu Thúc, Vận Kha, và bốn
người hàng xóm, cùng vợ con Tây Môn Khánh, đến để nghe tuyên án. Khi các người
đã tề tựu cả rồi; Quan phủ sai tuyên án cho mọi người nghe, rồi đâu đấy cho về
an nghiệp. Đoạn rồi bắt Vương bà ra chợ Đông Bình để hành tội, còn Võ Tòng đánh
bốn mươi trượng, thích chữ vào mặt, đem đày sang đất Mạnh Châu.
Bấy giờ
Diêu Văn Khanh là người hàng xóm khi trước, mới đem tiền bán các đồ đạc ở nhà
mà đưa cho Võ Tòng ra trước chợ Đông Bình xem hành hình Vương bà, rồi trở về
thu thập hành lý, theo hai tên công sai sang đất Mạnh Châu. Hai tên công sai
vốn biết Võ Tòng là tay hảo hán, nên trong khi giải đi cũng hết lòng tử tế,
không dám chút khinh nhờn. Võ Tòng thấy vậy cũng được thư lòng đôi chút, lại
nhân trong túi sẵn tiền, nên mỗi khi qua hàng qua điếm, lại chè chén ăn chơi,
cho hai người cùng hưởng. Từ khi Võ Tòng giết người ở huyện Dương Cốc, bấy giờ đương
dạo tháng ba, sau phải theo đòi việc kiện bị giam giữ trong hai tháng trời, tới
nay đày đi sang đất Mạnh Châu, thấm thoát đã tới giữa trung tuần tháng sáu. Hồi
đó trời khác chi một lò lửa Tạo nung nấu đàn người, Võ Tòng cùng hai tên công
sai đi ước chừng hơn hai mươi ngày, một hôm tới quãng núi kia, ba người cùng
ngồi để nghỉ một lúc, rồi lại đứng dậy đi xuống dưới núi, định tìm một hàng
rượu để uống.
Khi qua
núi chợt trông thấy đằng xa có mấy gian nhà lá, ở vào giữa khóm liễu đôi khe,
thấp thoáng ngọn cờ bán rượu, Võ Tòng liền trỏ bảo hai tên công sai rằng:
- Có
hàng rượu ở trước mặt kia, chúng ta mau tới đó.
Nói xong
cùng kéo nhau đi được mấy bước, thì gặp một anh tiều phu gánh củi đi qua, Võ
Tòng đứng dừng lại hỏi rằng:
- Ở đây
là xứ nào; nhờ bác bảo cho?
Tiều phu
đáp:
- Con
đường lên núi đây, gọi là đường Mạnh Châu cách trước mặt núi có khu rừng cây
kia, gọi là Thập Tự Phi.
Võ Tòng
cám ơn, rồi cùng nhau kéo thẳng đến Thập Tự Phi. Khi gần tới nơi thấy cây cối
um tùm, trong đó có một cây rất lớn ước chừng bốn năm vòng tay người ôm không
tới, bên trên toàn thị là giây dơ leo cuốn kín mít như rừng. Đi qua gốc cây một
hàng rượu, trong có một người đàn bà ngồi, mặc áo lót mình bằng sa lục, trên
đầu cài cành thoa vàng lóng lánh, hai bên mái tóc giắt hai bông hoa.
Người
đàn bà ấy thấy Võ Tòng cùng hai tên công sai đến cửa, thì vội vàng đứng dậy,
mình mặc cái quần lụa màu hồng phơn phớt, mặt bôi đầy những phấn hồng, bỏ trễ
áo trước ngực lộ màu da hồng, rồi chạy ra cửa nói rằng:
- Trong
hàng có rượu ngon thịt béo, bánh bao tốt, xin mời các ngài ngồi nghỉ chân xơi
rượu.
Ba người
nghe nói bảo nhau vào ghế ngồi, dựa côn trượng vào một bên, cởi khăn gói hành
lý để lên trên bàn, rồi cởi cả đai nịt ra cho mát. Hai tên công sai bảo với Võ
Tòng rằng:
- Ở đây
không có ai biết đến, tôi xin cởi tháo gông ra, cho Đô Đầu đánh chén cho sướng.
Nói đoạn
liền tháo gông ra cho Võ Tòng, mà để cả lên trên bàn đó. Đoạn rồi cùng cởi cả
áo xiêm ngoài, mà giắt vào bên dóng cửa sổ.
Bấy giờ
mụ hàng miệng cười chúm chím mà bảo rằng:
- Khách
quan xơi bao nhiêu rượu?
Võ Tòng
đáp:
- Không
cần hỏi bao nhiêu, cứ mang rượu ra đây thái ba cân thịt bò một thể rồi tôi tính
trả tiền.
- Thưa
ngài có bánh bao tốt...
- Mang
vài mươi cái ra đây ta ăn điểm tâm.
Mụ hàng nghe
nói vừa cười vừa quay vào bưng một thùng rượu lớn, và lấy ba cái chén lớn, ba
đôi đũa, thái hai đĩa thịt khệ nệ mang ra, rồi rót bốn năm lượt rượu đưa mời
khách uống. Đoạn rồi quay vào bếp bưng một quả bánh ra, để bày trên bàn. Hai
tên công sai vớ được, liền nghiến ngấu ăn ngay không hỏi han gì cả.
Võ Tòng
cầm lấy bánh bẻ ra xem, rồi gọi mụ hàng đến mà bảo rằng:
- Bánh
này làm bằng thịt người hay thịt chó?
Mụ hàng
cười khanh khách đáp rằng:
- Ngài
nói đùa làm gì thế? Đời này làm gì có bánh làm bằng thịt người hay thịt chó?
Bánh của nhà tôi mấy đời nay đều làm bằng thịt bò cả.
- Xưa
nay tôi thường đi lại đám giang hồ, từng nghe nói chỗ Thập Tự Phi này, không ai
dám đến bao giờ... anh nào béo là đem giết lấy thịt làm bánh bao, mà anh nào
gầy là đem lấp sông ngay...
- Chết
nỗi! Các ngài nghe nói ở đâu thế? Chắc rằng chỉ ngài nói đặt ra thôi.
- Đây,
vì tôi thấy miếng thịt ở trong cái bánh này có mấy cái lông hơi giống như lông
gì... Nên tôi càng ngờ lắm.
Nói xong
lại hỏi luôn rằng:
- Nương tử
ơi! Phu quân nàng sao không thấy ở đây?
- Thưa
ngài đàn ông nhà tôi đi xa vắng chưa về.
- Nếu
vậy nàng ở đây một mình có lẽ buồn lắm...
Mụ hàng
mỉm cười trong bụng rồi nghĩ thầm:"Thằng tù này muốn chết chăng? Đến đây
lại toan đùa bỡn với bà, thực là thí thân vào lửa, chả còn trách lỗi tại ai, để
ta liệu cho... "Mụ nghĩ vậy liền bảo Võ Tòng rằng:
- Thôi,
đừng nói đùa nữa, hãy uống mấy cốc rượu, rồi ra đằng sau mà nghỉ mát. Hôm nay
muốn ngủ ở đây... nhà tôi cũng rộng không can gì...
Võ Tòng
nghe nói đoán chắc là chị chàng này nham hiểm không vừa, liền đáp rằng:
- Nương
tử ơi! Rượu này nhạt lắm, trong nhà có rượu nào tốt cho tôi mấy chén khác.
- Vâng,
có rượu tốt ngon thơm hơn, nhưng chỉ vì khí đục một chút.
- Được,
càng đục càng hay...
Mụ hàng
cười thầm trong bụng, rồi lấy một bình rượu rất đục đem ra.
Võ Tòng
xem xong khen rằng:
- Ừ!
Hạng rượu này mới là rượu ngon, nhưng phải hâm nóng uống mới tốt.
- Vâng,
thế thì ngài sành lắm, để tôi xin đem hâm.
Nói xong
cầm bình rượu quay ra, cười thầm trong bụng mà rằng: "Thằng tù này phải
chết, uống thuốc mê lại đòi uống nóng, thế thì càng chóng lắm... Hôm nay may
mình được món hàng tốt".
Khi hâm
rượu nóng xong rót vào ba chén mang ra, rồi cười mà nói rằng:
- Ngài
thử nếm rượu này xem?
Hai công
sai vớ được rượu, thì nhắm mắt vào uống ngay. Võ Tòng lại bảo mụ hàng rằng:
- Nàng
ôi! Thịt hết rồi tôi không quen uống rượu suông được, nàng thái ít thịt nữa ra
đây, cho tôi nhắm rượu.
Mụ kia
vâng lời quay vào. Võ Tòng liền cầm chén hắt vào tường, rồi giả vờ tắc lưỡi
khen rằng:
-
Ngon... rượu ngon, nhưng mà bốc lắm thì phải?
Mụ hàng
thấy Võ Tòng khen vậy, chắc rằng đã uống rồi, bèn không thái thịt thà gì nữa
liền quay ra kêu lên rằng:
- Ngã
ngã mau...
Quả
nhiên mụ vừa nói xong thì hai anh công sai đờ mồm nhắm mắt, rồi ngã lăn xuống
đất, Võ Tòng cũng lờ đờ hai mắt, rồi sau nhắm mắt chặt lại mà ngã ra bên cạnh
ghế.
Bấy giờ
thấy mụ hành cười ha hả mà rằng:
- Được
lắm, cho bây tinh bằng ma qủy, cũng phải uống thuốc rửa chân của bà...
Nói đoạn
liền gọi Tiểu Nhị, Tiểu Tam mau ra đây. Chợt thấy thằng xuẩn hán ở đâu huỳnh
huỵch chạy đến, khênh hai anh công sai đi trước. Mụ hàng kia chạy đến chỗ hàng
rờ vào bao phục của mọi người, thấy sẵn có tiền nong ở đó, thì phá lên cười
rằng:
- Hôm nay
vớ được ba món hàng hoá, đủ làm bánh bao trong hai ngày nữa.. Rồi lại có được
tiền nong đây.
Nói xong
xách cả khăn gói bao phục vào lối trong. Một lát thấy hai thằng xuẩn hán chạy
ra khiêng Võ Tòng, nhưng sức yếu không khiêng nổi, nằm đườn đườn ở dưới đất,
nghe chừng nặng tới trăm cân.
Lại thấy
mụ hàng kia quát lên rằng:
- Đồ
chết dẫm này, chỉ biết ăn thôi, không được việc gì cả, có thế cũng phải đến bà
ra tay. Thằng béo này lúc nãy lại dám đùa bỡn với bà đây.Được, nó béo thế này
để làm thịt bò, còn thằng gầy kia thì làm thịt trâu cũng được... Hãy vác vào
làm thịt thằng này đã.
Nói
đoạn, cởi cả quần ngoài và áo ra để trần trùng trục, rồi cúi xuống cắp bổng Võ
Tòng lên như không vậy.
Võ Tòng
thừa thế ôm lấy bụng người đàn bà, rồi cho hai chân xuống đánh vào khủy chân mụ
kia một cái ngã ngửa hẳn ra, rồi ngồi tót lên trên. Bấy giờ chị chàng ta kêu
lên như cháy đồi, rồi hai thằng xuẩn hán đổ xô ra, bị Võ Tòng quát cho một
tiếng, anh nào anh nấy tái xanh cả mặt lại, mà không dám xông vào đấy nữa.
Chị
chàng kia bị Võ Tòng nén chặt xuống mặt đất, không sao mà cựa được, bèn kêu van
rằng:
- Xin
hảo hán tha cho tôi.
Vừa hay
khi đó có một chàng gánh một gánh củi, đến đâu ở cửa, rồi bước vào trông thấy
như thế, thì kêu lên rằng:
- Xin
hảo hán bớt giận, hãy tha thứ cho... tôi sẽ thưa chuyện hầu ngài.
Võ Tòng
đứng phắt dậy giơ chân trái lên đạp giữ lấy người đàn bà ấy, rồi nắm lấy hai
tay quyền mà quay ra nom người kia. Anh chàng kia đầu chít khăn đầu rìu, mình
mặc áo vải trắng, chân quấn lá đáp, đi đôi giày gai, lưng thắt dây bao, mặt dài
như ba đầu ngón tay chéo, hơi lúng phún mấy cái ria, vào trạc hăm nhăm hăm sáu
tuổi.
Chàng ta
trông thấy Võ Tòng thì khoanh tay đứng lễ phép mà nói rằng:
- Xin
hảo hán cho tôi biết đại danh?
- Ta đây
là Võ Đô Đầu, tên Tòng không cần chi phải dấu diếm.
- Chẳng
hay ngài đánh hổ ở núi Cảnh Dương đó chăng?
- Phải.
Anh
chàng kia vội thụp xuống mà đáp rằng:
- Chúng
tôi nghe tiếng ngài đã lâu...
Võ Tòng
hỏi:
- Có
phải anh là chồng người đàn bà này không?
- Bẩm
vâng... Nó ngu dại không biết gì, xin Đô Đầu tha cho.
Võ Tòng
nghe nói, tha cho mụ kia dậy, rồi hỏi rằng:
- Ta
trông vợ chồng nhà anh cũng không phải người vừa, tên họ là chi, xin cho được
biết?
Chàng
chưa kịp trả lời, vội bắt vợ ăn mặc tử tế, để ra bái tạ Đô Đầu trước.
Chị
Chàng kia bái tạ, Võ Tòng liền xin lỗi rằng:
- Vừa
rồi trót lỡ không biết, xin Tẩu Tẩu tha lỗi cho.
Chị
chàng kia cũng khiêm tốn mà rằng:
- Đó là
lỗi tại tôi không được biết ngài, xin bá bá bỏ qua đi cho, xin mời bá bá hãy
ngồi vào chơi đã.
Võ Tòng
lại hỏi:
- Hai
bác tên họ là chi, sao lại biết tên tôi?
Chàng
kia đáp:
- Tôi họ
Trương tên Thanh, trước coi chùa Minh Quang ở gần đây, sau vì tranh cãi một
việc nhỏ, tôi nóng tiết giết sư ở chùa ấy, rồi cho, một nắm lửa mà thiêu hóa cả
chùa. Dần dần không thấy quan tư động đến, bèn đến lẩn lút ở gốc cây đây, để
bóc lột kiếm ăn. Chợt một hôm có một lão già gánh một gánh qua đây, tôi khinh
ông ta già yếu, nhảy ra đánh nhau tới hai mươi hiệp, rồi bị ông ta đánh ngã.
Nguyên ông cụ ấy khi còn trẻ vẫn chuyên về một mặt ăn sương, nhân thấy tôi là
một người nhanh nhẹn, bèn mang tôi về cùng ở trong thành dạy các ngón võ nghệ,
rồi đem con gái gả cho, tức là vợ tôi bây giờ ở đây. Tôi ở đó được ít lâu không
tiện, lại phải quay về đây làm mấy gian nhà lá bán hàng kiếm ăn. Thỉnh thoảng
khách thương qua lại, có món nào khá thì đánh thuốc mê cho chết, rồi lấy thịt
mà làm thịt bò, và làm bánh mà gánh đi các nơi mà bán. Chúng tôi cũng kết nạp
được nhiều hảo hán giang hồ, thường gọi tôi là Thái Viên Tử Trương Thanh, còn
đàn bà nhà tôi vốn người họ Tôn, thuở nhỏ cũng học được ít nhưng võ nghệ của
phụ thân, người ta thường gọi là Mẫu Dược Thoa Tôn Nhị Nương. Trước đây tôi vẫn
dặn đàn bà ở nhà rằng: Có ba hạng người không nên hại đến: Thứ nhất là các tăng
đồ đạo nhân, vốn không can thiệp gì đến việc đời, thì không hại đến; dè đâu một
hôm xuýt hại một người kinh thiên động địa, là Lỗ Đạt, Trước làm Đề Hạt dinh
Kinh Lược phủ Diên An, sau vì đánh chết anh Trấn Quan Tây, phải trốn lên Ngũ
Đài Sơn để đầu phật. Nhân ông ta có thích hoa lên cánh vai, nên vẫn gọi là Hoa
Hòa Thượng, nặng tới sáu mươi cân. Một hôm qua đây đàn bà nhà tôi thấy to béo,
liền cho thuốc mê để thịt. May sao sắp hạ thủ, thì tôi về nhà, trông thấy cây
thuyền trượng, biết ngay bèn đem thuốc cứu tỉnh lại rồi bái làm anh em. Mới đây
nghe nói ông ta chiếm chùa Bảo Chân ở núi Nhị Long, cùng một ông là Thanh Diện
Thú Dương Chí là Đầu Lĩnh ở đó, đã mấy lần ông ta gửi thư đến đây, bảo tôi cùng
đi, nhưng không thể nào mà đi được.
Võ Tòng
nói:
- Phải,
hai người ấy, tôi cũng thường nghe tiếng xưa nay.
Trương
Thanh tiếp luôn rằng:
- Tôi
rất tiếc một ông đầu đà, người cao lớn tới bảy tám thước, cũng đánh thuốc mê mà
chết mất. Khi tôi về thì đã xả chân tay ra rồi, chỉ còn để lại một cái mũ nhà
sư bằng sắt; một bức áo sóng tràng đen, và một tờ hộ điệp ở đây. Những cái ấy
không can hệ, duy có hai thứ rất hiếm có trên đời, đây là một chuỗi hạt làm
bằng một trăm linh tám cái xương đỉnh đầu của người, và hai thanh giới đao làm
bằng một thứ sắt tuyết hoa rất tốt. Tay đàn đà ấy nghe chừng giết người cũng
nhiều, nên bây giờ khẩu giới đao ấy, vẫn cứ đêm đêm kêu lên thành tiếng. Tôi
tiếc không cứu được nên trong lòng vẫn cứ áy náy đến giờ. Thứ hai là những kỹ
nữ giang hồ thì không nên làm hại, vì bọn họ lưu lạc khắp các nơi thành thị
thôn dã, gặp đám ra trò, phí tổn biết bao tâm cơ mới kiếm được đồng tiền, nếu
giết họ, thì họ đồn đại đi khắp mọi nơi, mà kiếm lời lên chốn hý đài để chế
giễu giang hồ hảo hán là không ra gì, còn hạng thứ ba là các người tù tội đi
đày. Trong đám ấy phần nhiều là các tay hảo hán, không nên giết hại làm chi! Ba
điều đó tôi thường dặn dò kỹ lưỡng xưa nay, dè đâu đàn bà nhà tôi lại không
chịu y lời như vậy... Hôm nay nếu tôi chậm về, thì làm sao được gặp Đô Đầu nữa?
Người
đàn bà đáp rằng:
- Bản
tâm tôi cũng không định hạ thủ, nhưng một là thấy đồ hành lý của bá bá, nghe
chừng hơi nặng, hai là quái lạ cho bá bá lại đem lời đùa giỡn, nên mới sinh
lòng như vậy.
Võ Tòng
nói:
- Tôi
đây là một người chỉ chém đầu đẫm huyết, còn khi nào nói đùa bỡn với đàn bà!
Nhân thấy Tẩu tẩu có ý muốn dòm dỏ đồ hành lý của tôi, nên tôi phải bày kế như
thế để thử xem. Sau tẩu tẩu rót ra ba chén rượu thuốc thì tôi đổ đi ngay, rồi
giả vờ làm trúng độc dè đâu tẩu tẩu làm hại tôi thực.
Trương
Thanh nghe nói cả cười, liền mời Võ Tòng vào phòng khách phía trong ngồi chơi.
Võ Tòng nói với Trương Thanh xin cứu hai người công sai ấy dậy. Trương Thanh
lại dẫn Võ Tòng vào nhà làm thịt, thấy trên vách căng mấy cái da người, trên sà
nhà treo dăm bảy cái đùi người, còn hai tên công sai thì nằm vật ở trên ghế mổ.
Bấy giờ
Trương Thanh hỏi Võ Tòng, vì việc gì mà phải đi đày qua đó? Võ Tòng liền đem
nguyên ủy chuyện mình nói cho hai vợ chồng Trương Thanh biết. Hai người nghe
nói đều vui mừng kinh sợ mà rằng:
- Chúng
tôi muốn thưa câu chuyện này, chẳng hay Đô Đầu nghĩ sao?
Võ Tòng
đáp:
- Chẳng
hay chuyện gì, đại ca cứ nói, tôi xin sẵn lòng để nghe.
Thực là:
Dây đâu
treo nổi địa cầu?
Đất đâu
lấp bể, màn đâu che trời?
Đã mang
tiếng ở trên đời,
Anh tài
phải biết anh tài mới hay,
Cuộc đời
còn lắm tỉnh say,
Còn cơn
sóng cả còn tay vững chèo!
Kiền
khôn là thứ tiêu dao,
Càng
nhưng lưu lạc càng nhưng kiến văn,
Trăm năm
trong cõi hồng trần,
Những
tay khan tế kinh luân thế nào?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Tả xong
câu chuyện Võ Tòng giết chị dâu, tiếp tả Trương Thanh bán thịt người, toàn là
những chuyện kinh thiên động địa, khấp qủy kinh thần, tác giả khéo diễn ra
những tình tiết ly kỳ, không phải ngọn bút thường mà tả nổi, không phải lòng
văn thường mà tưởng tượng nên!
Trương
Thanh thuật chuyện Lỗ Đạt ngộ độc, lại thuật luôn chuyện đầu đà, theo phép hư
tả, song lẽ Lỗ Đạt là thực, vì còn người, Đầu đà là hư vì đã mất, trong khi
thuật chuyện Đầu đà lại có di vật làm thực, mà Lỗ Đạt ở đâu đâu thì lại ra hư,
trong thực có hư, trong hư có thực, đều theo bút pháp diễn tả, cho rõ từng ý
nghĩa của đoạn văn.
Sách này
mỗi khi tả gặp kẻ kỳ tài, lại mất một tay kỳ tài khác cho rõ ngoài vòng vơ vét
về sơn bạc, lại có con người dị dạng, đầu tiên đã mất một Vương Tiến, hồi này
mất một Đầu đà, sau đả Chúc Gia Trang, lại mất một Loan Đình Ngọc. Hỡi ôi danh
lưu sách sử, cũng có người may với kẻ không may, kẻ thành danh muôn thuở, đừng
vội bảo rằng: Ngoài đám trai kia không có ngọc châu!
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 27: Cự mặt Quản Doanh, anh tù cứng cổ;
Mộ danh hảo hán, cậu trẻ ra ân
Khi đó
Trương Thanh nói với Võ Tòng rằng:
- Việc
này không phải là chúng tôi có bụng gì ngăn trở, song chỉ e khi Đô Đầu đến đất
Mạnh Châu tất nhiên bị nhiều điều khổ nhục, vậy bất nhược đem hai tên công sai
này giết đi, rồi Đô Đầu ở tạm đây ít bữa. Nếu sau Đô Đầu có chịu đi lạc thảo,
thì tôi xin thân hành đưa ngài sang Nhị Long Sơn, ở với Lỗ Trí Thâm cũng được,
ngài nghĩ sao?
Võ Tòng
đáp rằng:
- Huynh
trưởng có lòng tốt nghĩ đến tôi như vậy, thực là cảm tạ vô cùng. Duy tính tôi
xưa nay chỉ quen đánh giết những kẻ chướng ác ở đời, còn như hai tên công sai
này, thì họ đối với tôi rất là tử tế, tôi xem ý không phải là đứa xằng, không
lẽ nào mà mình lại nỡ hại đi được. Nếu huynh trưởng có lòng yêu tôi, thì xin
cứu hai tên ấy vậy, không nên giết hại người ta.
- Đô Đầu
đã là bậc trọng nghĩa như vậy, chúng tôi cũng không lẽ nào dám làm trái lương
tâm của ngài.
Trương
Thanh nói đoạn, liền gọi người nhà, dựng hai tên công sai dậy, rồi Tôn Nhị
Nương pha thuốc giải độc đổ vào cho hai người uống.
Được một
lúc hai anh kia như người mơ màng trong giấc chiêm bao, rồi bầng mắt ngồi dậy,
nhìn Võ Tòng mà nói rằng:
- Chết
nỗi! Sao tôi nằm say ở đây? Ta nhớ lấy nhà này, để lần sau về, lại đến đây uống
rượu.
Mọi
người nghe nói, ai cũng ôm bụng cười mà không nhịn được.
Bấy giờ
Trương Thanh sai người nhà đi giết gà vịt làm cơm, dọn ra dưới giàn nho, để
thiết VõTòng cùng hai người công sai. Võ Tòng nhường hai tên công sai ngồi
trên, mà mình thì ngồi đầu dưới với Trương Thanh còn Tôn Nhị Nương thì ngồi một
bên mạn bàn, uống rượu với nhau rất là vui vẻ. Trương Thanh sai lấy đôi khẩu
giới đao đưa cho Võ Tòng xem, quả nhiên là một thứ sắt tốt, có tuyết hoa rực
rỡ, thực là hiếm thấy xưa nay. Đoạn rồi cùng nhau kể chuyện giang hồ, đôi bên
đều lấy làm thú vị. Võ Tòng lại đem chuyện Tống Công Minh là người hào hiệp thế
nào, mà hiện nay đương ở nhà Sài Đại quan nhân, kể cho Trương Thanh nghe một
lượt. Hai tên công sai nghe thấy chuyện, thì chỉ ngây người lặng tiếng, rồi bái
lạy không thôi. Võ Tòng liền bảo với hai người rằng:
- Các
bác có lòng tử tế, trông nom cho tôi, trong khi đi đường, nay không lẽ nào đem
lòng giết hại. Chúng tôi kể chuyện bọn giang hồ hảo hán với nhau, các bác cứ
việc uống rượu, không có điều chi mà sợ.
Sáng hôm
sau Võ Tòng từ tạ xin đi. Trương Thanh nhất định không nghe lưu lại ở đó luôn
ba bốn hôm để khỏan đãi. Võ Tòng nhân cảm thấy lòng hậu đãi của vợ chồng Trương
Thanh, liền xin kết làm anh em, Trương Thanh hơn Võ Tòng chín tuổi, nên bái
nhận Võ Tòng làm em.
Khi Võ
Tòng sắp sửa ra đi, vợ chồng Trương Thanh lại làm tiệc tiễn hành, rồi đưa ra
mươi lạng bạc để tặng Võ Tòng, và lấy ít tiền tiễn hai tên công sai nhân thể.
Võ Tòng cảm tạ lòng thành, rồi cùng nhau bái biệt vợ chồng Trương Thanh mà đi
sang Mạnh Châu.
Trưa hôm
ấy đi đến Mạnh Châu, hai tên công sai giải Võ Tòng vào trong phủ. Quan phủ phê
nhận công văn, giao cho hai tên công sai trở về phủ Đông Bình, còn Võ Tòng tống
cho xuống trại. Tên lính dong Võ Tòng xuống trại, thấy trước cửa có cái bảng đề
ba chữ". Bình an trại"rất lớn. Khi vào đến phòng trại con con, thì
thấy mấy người cùng tụi tù đồ, đến mà bảo với Võ Tòng rằng:
- Đại
hán mới đến đây, nếu có tiền nong thư tín gì, thì cầm ra tay để một lát nữa đưa
cho Sai Bát, kẻo một trăm trượng ra oai, không phải là vừa đâu. Chúng tôi thấy
Đại hán cũng một tình cảnh như chúng tôi nên nghĩ lòng thỏ tử hồ bi mà bảo cho
hảo hán biết trước, liệu kiếm chi mà đút lót ngay đi, thì mới khỏi trăm trượng
ra uy kia được.
Võ Tòng
nói:
- Vâng,
các ông bảo thế tôi xin cảm ơn, tôi đây cũng có ít tiền hễ họ tử tế thì tôi đưa
ngay, bằng họ lại ậm oẹ bướng bỉnh thì một đồng tôi cũng không mất làm gì.
Chúng
lại nói:
- Hảo
hán ơi! Không nói thế được!quan xa bản nha gần, mình đã có tội đến đây, không
lụy người ta không được...
Vừa nói
đến đó, thì đã có người nói rằng:
- Sai
Bát quan nhân đã đến.
Chúng
nghe nói đều lảng vảng chạy mất hết. Võ Tòng bèn cởi khăn gói rồi ngồi xuống
đó. Bấy giờ một người chạy vào hỏi tên rằng:
- Anh
nào là tù đồ mới đến đây?
Võ Tòng
đáp lên rằng:
- Chúng
tôi đây.
Người
kia nói:
- Thằng
nầy người như thế, mà lại đợi ta phải nói à? Mày là một hảo hán đánh hổ ở núi
Cảnh Dương, đã làm qua chức Đô Đầu, tưởng là hiểu việc thì phải. Mày đã đến
đây, lại không biết ta là Sai Bát à?
Võ Tòng
cười nhạt mà đáp rằng:
- A?
Thằng nầy lại đến đây mà lôi thôi chực để lão gia biếu tiền hay sao? Gọi là một
chữ đây cũng không mất...Đây chỉ có một ít quả đấm thanh tịnh, có thì ta đãi
một đôi. Còn tiền ta để đánh chén, xem mày định làm gì? Chỉ có một lẽ là mày
lại đem tao về huyện Dương Cốc là cùng.
Sai Bát
nghe nói cả giận quay ngoắt đi ra. Bấy giờ bọn tù đồ kia lại chạy vào bảo với
Võ Tòng rằng:
- Chết
nỗi? Hảo hán cự với lão ta, thế thì chốc nữa sẽ khổ. Bây giờ lão ta đến nói với
Quản Doanh, tất lại định hại tính mạng chứ không chơi.
Võ Tòng
điềm nhiên mà rằng:
- Không
sợ! Mặc xác họ muốn gì thì làm văn giở văn, võ giở võ chứ sao?
Đương
khi xao xác chuyện trò, thì thấy ba bốn tên lính chạy đến gọi lên rằng:
- Tù mới
là Võ Tòng đâu?
Võ Tòng
đáp:
- Lão
gia ngồi đây, có chạy đâu mất mà làm ầm lên thế?
Bọn lính
xông vào lôi thốc Võ Tòng lên nhà điểm tù. Khi tới nơi thấy Quản Doanh ngồi tên
sập, rồi có năm sáu tên giải Võ Tòng lên. Quản Doanh sai tháo gông ra, rồi
truyền rằng:
- Tên tù
kia, ngươi đã biết cựu chế vua Thái Tổ Vũ Đức Hoàng Đế khi xưa, phàm các đứa
phạm tội tù đồ, trước hết phải đánh trăm trượng ra oai đã... Lính đâu đem đánh
mau...
Nói dứt
lời, thì tụi lính nhâu nhâu túm đến, toan lôi trói để đánh.
Võ Tòng
nghiễm nhiên bảo chúng rằng:
- Không
cần gì chúng bay phải mó tay vào ta, đánh thì cứ đánh, cũng không cần phải trói
giữ, nếu ta có tránh một roi nào, không kể là tay hảo hán đánh hổ, mà xóa cả
mấy roi trước, lại đánh bắt đầu từ một trở đi. Nếu ta có kêu một tiếng cũng
không phải là thằng con trai giỏi, làm việc ở đất Dương Cốc.
Mọi
người đứng đó nghe thấy vậy đều cười rằng:
- Thằng
xuẩn hán muốn chết, để xem nó làm ra sao?
Võ Tòng
tiếp luôn rằng:
- Muốn
đánh thì cứ đánh cho hết sức, đừng nể nang một roi nào, đây không thích thế.
Những
người đứng xem chung quanh đều cười ầm cả lên. Đoạn rồi một tên lính vác côn
vào xin phép ra roi.
Chợt đâu
có một người đứng ở đằng sau Quản Doanh, mình cao sáu thước tuổi ngoài đôi
mươi, trên nét mặt trắng, ba nhánh râu thưa, đội khăn tay trắng, mặc áo sa
xanh, tay quấn dải lụa trắng, ghé vào tai Quản Doanh nói thì thầm mấy câu. Đoạn
rồi thấy Quản Doanh truyền rằng:
- Tên tù
mới kia? Ngươi đi đường bị bệnh gì đó?
Võ Tòng
đáp rằng:
- Không
có bệnh gì cả, uống rượu tốt, thịt nuốt được, cơm ăn được, đi đường cũng được.
Quản
Doanh lại nói:
- Tên
này chắc là bệnh mới khỏi, ta nom mặt chưa được khoẻ thì phải, thôi hãy gửi cho
một trăm trượng đó...
Bấy giờ
tụi lính đứng hai bên đều bảo Võ Tòng rằng:
- Tướng
công đã có lòng thương thế, anh cứ nói là đương yếu có được không?
Võ Tòng
nói:
- Ta
không đau yếu gì, cứ đánh luôn cho xong đi, chịu đựng lôi thôi thêm bận ruột,
bao giờ cho trả được xong?
Các
người kia đều cười không nhịn được. Quản Doanh cũng cười mà nói rằng:
- Chắc
anh này bị bệnh nhiệt mà không ra được mồ hôi, nên mới nói lảm nhảm như thế?
Thôi không cần nghe hắn nói, hãy cứ đưa xuống dưới phòng trại giữ ở đó.
Mấy tên
lính dạ ran, rồi mang Võ Tòng xuống phòng trại, bấy giờ bọn tù đồ đều đến hỏi
Võ Tòng rằng:
- Bác có
thư tín của ai đưa đến, để nói với Quản Doanh che chở cho không?
Võ Tòng
đáp:
- Không
có gì cả.
- Nếu
vậy họ không đánh bây giờ, tất là nguy với họ. Chắc là họ toan sát hại chứ
không chơi.
- Họ sát
hại bằng cách nào?
Chiều
hôm nay tất họ đưa mấy bát cơm gạo trong kho đến, để bác ăn cho rõ no, rồi họ
đem xuống hầm đất trói tròn lại, lấy chăn bó cuộn vào mà đút nút chặt lỗ mũi lỗ
mồm, mà dựng lên vách chỉ một lúc là chết.
- Còn có
phép gì nữa không?
- Còn
một cách nữa là họ đem trói lại, rồi đem một cái túi rất lớn để đè lên người,
cũng chỉ một lúc là chết.
Võ Tòng
lại hỏi:
- Vậy
còn cách gì nặng hơn nữa không?
Chúng
đáp rằng:
- Chỉ có
hai cách ấy là ghê nhất, còn các lối khác, thì không lấy gì làm nguy hiểm cả.
Chúng
vừa nói xong, thì bỗng thấy một tên lính mang cái quả tròn đến mà hỏi rằng:
- Ai là
Võ Đô Đầu mới đến ở đây?
Võ Tòng
đáp rằng:
- Ta
đây, hỏi làm gì?
Người
lính nói:
- Quản
Doanh sai tôi đưa đồ đến đây cho điểm tâm.
Nói xong
đem quả tròn đến để trước mặt Võ Tòng, Võ Tòng trông thấy có một bình rượu lớn,
một đĩa thịt, một đĩa bánh, và một bát nước dùng lớn liền nghĩ thầm trong bụng
rằng:"Cái này nó mang cho ta ăn, rồi mang trị đây! Ừ thôi, hãy ăn rồi sẽ
liệu"
Nghĩ vậy,
liền vớ lấy bình rượu uống một hơi vừa hết, rồi ăn uống các thứ, không còn một
tý gì. Đoạn rồi tên lính bưng quả mang đi. Võ Tòng ngồi một mình trong phòng
vừa nghĩ vừa cười nhạt một mình mà nói lẩm bẩm: " Để xem nó đối với ta là
người thế nào?"
Chiều hôm
ấy lại thấy tên lính kia đội một quả đến. Võ Tòng hỏi:
- Sao
anh lại đến đây làm gì?
Tên lính
đáp:
- Tôi
đưa cơm chiều đến đây.
Nói đoạn
tay đặt cái quả xuống, trong bày một đĩa thịt, một bát canh cá, một thùng cơm,
và hai nai rượu rất lớn.
Võ Tòng
ngất ngưỡng vừa ăn vừa thầm nghĩ một mình: "Ăn xong bữa này, tất là họ kết
quả mình, nhưng vậy mặc lòng, ta có chết cũng làm con ma no mới thích" Ăn
uống xong rồi, tên lính thu dọn bát đĩa mà trở đi không nói năng chi cả.
Hồi lâu
lại thấy tên lính ấy, cùng một tên nữa, kẻ xách thùng tắm kẻ thì xách thùng
nước nóng, đem vào bảo với Võ Tòng rằng:
- Nước
đây mời Đô Đầu đi tắm rửa.
Võ Tòng
lấy làm lạ; Có lẽ họ cho mình tắm, rồi mới hạ thủ hay sao? Thế nào cũng không
cần, ta hãy tắm cái đã..."
Nghĩ
đoạn cởi quần áo, nhảy vào thùng nước tắm rửa một lúc, hai tên lính lại đưa
khăn tắm vào để lau. Võ Tòng lau ráo mình mẩy mặc quần áo vào rồi, hai tên kia
đổ nước, đem thùng vác về.
Đoạn rồi
một anh đem màn chiếu đến, để mắc màn trải chiếu, và đưa gối cho Võ Tòng nằm.
Võ Tòng đóng cửa nằm một mình không hiểu ý tứ ra làm sao? Hồi lâu bất giác
người mệt ngủ thiu đi lúc nào không biết.
Cuộc đời
trải chán bể dâu,
Tử sinh
kinh cụ hơi đâu bận lòng?
Giang
sơn phó một giấc nồng,
Xem trời
xoay với anh hùng ra sao?
Sáng hôm
sau chàng trở dậy, vừa mới mở cửa ra, đã thấy tên lính bưng nước nóng cho Võ
Tòng súc miệng rồi lại đem lược vào chải đầu búi tóc cho Võ Tòng. Lại có một
người nữa bưng cơm sáng vào mời Võ Tòng ăn. Võ Tòng vừa ăn vừa nghĩ lẩm nhẩm
buồn cười, không hiểu tình ý ra sao cả.
Khi cơm
nước xong, có một người vào nói với Võ Tòng rằng:
- Ở đây
không được sạch sẽ, xin mời Đô Đầu sang phòng kia để nghỉ.
Nói xong
liền dọn dẹp hành lý và dẫn Võ Tòng đi. Võ Tòng càng lấy làm ngờ vực lạ lùng, xong
cũng liều bước đi theo, để xem trò đời hay, dở? Đi tới một nơi, đẩy cửa bước
vào thấy ở trong màn giường sạch sẽ, hai bên bàn ghế, toàn là mới kê bày cả.
Võ Tòng
bước chân vào, trong lòng ám tưởng; "chắc phen này họ đút mình vào hầm đất
thì phải... sao mà lại dắt đến đây?"
Chàng
vẩn vơ nghĩ ngợi, ngồi mãi đến gần trưa, lại thấy tên lính bưng một mâm lớn
tướng, tay xách một nậm rượu đưa vào, trong mâm bày đủ các thức hoa quả, thịt
cá rất là sang trọng, rồi tên lính rót rượu mời Võ Tòng uống. Võ Tòng ăn uống
no say, rồi nghĩ thầm rằng:"Đám tù vừa nói với ta như vậy, ta cũng chắc
rằng như vậy, ngờ đâu họ lại xử ngay một cách khác hẳn, khiến mình không biết
xét đoán ra sao mà xử trí!".
Đoạn rồi
chàng thủng thẳng đi ra chơi mát trong trại.
Bấy giờ
đương dạo tháng sáu, trời nắng chang chang, bọn tù đồ kẻ thì gánh nước, kẻ thì
bổ củi, nhất luật đều phải phơi trãi ngoài sân mà làm các việc. Võ Tòng thấy
vậy, liền hỏi chúng rằng:
- Trời
nắng nôi thế này, các người vội gì mà phơi mãi ra đấy cho khổ?
Chúng
nghe nói cười mà đáp rằng:
- Bác
không biết, chúng tôi được làm việc ở đây, còn là phúc bằng cái đình ấy... Bây
giờ còn có những hạng kém tiền đút lót, thì nhốt cả vào trong Đại lao kia, rồi
khóa kìm cùng kẹp, sống cũng dở chết cũng dở, lấy đâu đã được thế này...
Chàng
nghe vậy, lặng ngắt mà quay đi, khi tới phía sau Thấy đôn đá rất to, bên cạnh
có lỗ thủng, chắc là một chỗ để trói buộc người ta. Chàng liền ngồi trên đó để
ngủ. Hồi lâu lại một mình lững thửng về phòng.
Từ đó
trở đi, luôn ba bốn hôm, bữa nào cũng có người đưa cơm rượu đến, mà hầu hạ cung
phụng rất là tử tế, Võ Tòng không hiểu ra sao.
Một hôm
vào giữa buổi trưa, nhân khi có người mang cơm đến, Võ Tòng liền hỏi rằng:
- Anh là
người nhà ai? Sao lại mang cơm rượu đến mời tôi vậy?
Người
kia nói:
- Thưa
ngài, hôm nọ tôi đã nói với ngài rằng:
- Tôi là
người nhà Quản Doanh tướng công đó.
- Tôi
hãy hỏi anh, ai sai anh đem cơm rượu cho tôi như vậy?
- Thưa
ngài, đây là tiểu Quản Doanh tướng công, sai tôi đưa đến để mời ngài.
- Tôi là
một người phạm tội, xưa nay chưa từng quen biết Quản Doanh bao giờ, vậy cớ sao
lại đã tôi tử tế như vậy?
- Cái đó
chúng tôi cũng không được biết. Chỉ thấy Quản Doanh dặn tôi rằng:"Cứ đưa
cơm nước phụng sự Đô Đầu trong ba tháng, hay là nửa năm rồi hãy nói
chuyện".
Võ Tòng
ngạc nhiên mà rằng:
- Quái
lạ! Có dễ họ nuôi ta cho béo, để họ thịt chăng? Thế này thì ta không thể nào mà
ăn uống cho yên lòng được. Ngươi hãy nói cho ta biết, Tiểu Quản Doanh là người
thế nào, thì ta sẽ ăn uống bữa cơm hôm nay.
Người
kia đáp:
- Thưa
ngài, Tiểu Quản Doanh là người cao lớn quấn lụa trắng ở tay, mà đứng bên cạnh
Quản Doanh tướng công hôm trước đó.
- Có
phải chính là người mặc áo xanh hôm ấy không?
- Bẩm,
chính phải.
- Vậy
thì hôm ấy ai nói cho tôi khỏi bị đánh?
- Bẩm,
chính ông ta đấy.
- Nếu
vậy thì quái lạ lắm! Tôi đây là người huyện Thanh Hà, ông ta là người ở Mạnh
Châu, xưa nay không quen biết bao giờ, mà lại xử đãi như thế? Ông ta tên họ là
gì?
- Bẩm,
ông ta họ Thi tên Ân, tài giỏi võ nghệ, người ta thường gọi là Kim Nhỡn Bưu.
Võ Tòng
nghe nói, liền bảo người kia rằng:
- Có lẽ
người ấy cũng là một tay hảo hán nam tử ở trên đời... Vậy anh hãy mời ông ta
đến đây, rồi sẽ ăn cơm, bằng không thì cơm nước từ đây tôi không dám nhận.
- Bẩm
ngài, chuyện đó Tiểu Quản Doanh tôi đã dặn dò cẩn thận không cho nói trước, lẽ
đâu tôi dám mời đến đây bây giờ?
- Không,
anh cứ mời ông ấy đến đây, tôi sẽ nói cho.
Người
kia do dự đã toan nhất định không đi, sau bị Võ Tòng thúc bách mãi, liền bất
đắc dĩ phải theo lời mà đi mời Tiểu Quản Doanh ra đó.
Khi Thi
Ân ra tới Phòng, trông thấy Võ Tòng, thì xụp xuống vái chào, Võ Tòng cũng đáp
lễ lại mà hỏi rằng:
- Tôi là
kẻ tù tội đến đây, xưa nay không được biết ngài, mà cũng không có công lao gì
đối với ngài, vậy mà ngài lại cứu cho thoát khỏi sự đánh đập, rồi lại thiết đãi
cơm rượu như thế, thực trong lòng lấy làm áy náy không hiểu tình ý ra sao, xin
ngài cho tôi được biết rõ?
Thi Ân
đáp:
- Tiểu
đệ nghe danh ngài đã lâu, chỉ vì đường xá xa xôi, mà chưa sao được gặp, nay đã
vì sự không may của ngài, phải dời gót đến đây, tôi muốn nhân cơ hội để bái
kiến ý tôn nhân, song chưa biết lấy gì làm lễ tương kiến, nên chưa dám hầu ngài
được.
- Vừa
rồi thấy tên người nhà nói là, ngài dặn đợi trong ba tháng nữa sẽ nói chuyện
cho tôi biết, chẳng hay Tiểu Quản Doanh có chuyện gì, xin cho Võ Tòng được biết
rõ.
- Dám
thưa Huynh trưởng: đó là thằng đầy tớ nó ngu si không biết nên mới đường đột
nói với huynh trưởng như vậy, chứ tôi đây có khi nào mà tháo thứ nói ngay ra
bây giờ?
- Nếu
Tiểu Quản Doanh xử như vậy, thì tôi lấy làm phiền lòng, mà không thể nào yên
được. Vậy có việc gì xin ngài nói cho nghe?
Thi Ân
ngần ngừ hồi lâu rồi nói với Võ Tòng rằng:
- Tên
người nhà đã trót nói lỡ mồm với ngài như thế, tôi đây không lẽ nào lại giấu
huynh trưởng được, vậy xin huynh trưởng bỏ quá mà nhận lời cho. Nguyên tôi nghe
tiếng huynh trưởng là một bậc Đại trượng phu lừng lẫy xưa nay, nên ý muốn phiền
ngài một việc, mà việc ấy chỉ có một mình ngài là đảm đang mới được. Song huynh
trưởng vừa mới đi đường xa tới đây, chắc là trong mình hãy còn mệt nhọc, vậy
xin để đợi năm ba tháng nữa, huynh trưởng khoẻ rồi sẽ nói rõ thì hơn.
Võ Tòng
cười vang lên mà rằng:
- Tiểu
Quản Doanh ơi! Ngài chưa được rõ tôi đây dạo năm ngoái bị bệnh sốt rét tới ba
tháng trời mà cũng chỉ dùng cẳng chân nắm tay đánh chết được hổ trên núi Cảnh
Dương nữa là ngày này... Đành vậy, nhưng hiện nay nói ra cũng là vô ích, vậy
xin khi nào huynh trưởng khoẻ mạnh ung dung rồi sẽ hay.
- Tiểu
Quản Doanh cho tôi là không khoẻ, vậy hôm trước tôi trông thấy ở Thiên Vương
Đường có cái đôn đá không biết rằng nặng bao nhiêu cân...
- Có lẽ
nặng tới bốn năm trăm cân thì phải.
- Nếu
vậy tôi với ngài thử đi qua đó xem tôi nhắc nổi được không?
- Vâng,
ngài dạy thế cũng xin vâng, song hãy xin uống mấy chén rượu rồi sẽ xin đi.
Võ Tòng
quyết định nói rằng:
- Hãy
xin đi một lúc đã.
Thi Ân
từ chối không được, liền cùng với Võ Tòng dắt tay nhau mà đi ra Thiên Vương
Đường. Bấy giờ các tù đồ trông thấy Võ Tòng cùng Tiểu Lý Quảng đi ra đó, thì ai
nấy đều cúi rạp người xuống để chào mà ngạc nhiên không biết ra sao?
Võ Tòng
đi đến chỗ đôn đá, giơ tay sẽ lay qua một cái rồi cười mà nói rằng:
- Có lẽ
tôi yếu đuối thực không thể nào vần lên được...
Thi Ân
nói:
- Một
hòn đá nặng có tới bốn năm trăm cân, nói chơi...
Võ Tòng
lại cười ha hả mà rằng:
- Tiểu
Quản Doanh chắc rằng tôi không nhắc nổi phải chăng? Ngài hãy thử coi xem thế
nào?
Nói đoạn
liền cởi áo ngoài ra, hai tay ôm đôn đá nhắc bổng lên rồi vứt xuống đất đến
thình một cái; lõm hẳn xuống đất tới một thước sâu. Bọn tù đồ đứng quanh đấy
trông thấy đều lấy làm kinh sợ lạ lùng.
Võ Tòng
lại giơ tay phải nâng hòn đá tung lên hơn một trượng rồi ngửa tay lên hứng lấy,
rồi đặt nguyên vào chỗ cũ. Đoạn rồi quay ra nhìn mọi người, nét mặt vẫn tự
nhiên như thường, không có chút gì ra vẻ khó nhọc. Thí Ân thấy vậy bèn chạy đến
vái Võ Tòng mà nói rằng:
- Huynh
trưởng thật là thiên thần chứ không phải người thường ví được?
Các tù
đồ cũng sụp xuống lại mà nói rằng:
- Ngài
thực là người thần vậy.
Đoạn rồi
Thi Ân mời Võ Tòng về nhà riêng chơi. Võ Tòng nói với Thi Ân rằng:
- Bây
giờ xin Tiểu Quản Doanh cho tôi biết công việc của Tiểu Quản Doanh?
Thi Ân
nói:
- Xin
ngài hãy ngồi chơi đợi lát nữa gia nghiêm tôi ra chào, rồi xin nói chuyện.
- Nếu
ngài dạy có việc gì, thì xin cứ nói ngay, đừng theo lối đàn bà trẻ con như
vậy... không phải là lối làm việc. Tôi đây dẫu có việc gì nguy hiểm đến đâu.
Cũng xin hết sức giúp ngài ngay được, ngài cứ nói ngay cho.
Cho hay
là:
Tấm thân
đạp đất đội trời,
Nước non
đâu chẳng là nơi hữu tình?
Đã lòng
cốt nhục tử sinh,
Dẫu rằng
dâu bể, tung hoành sá chi.
Xưa nay
phận sự nam nhi,
Chẳng
qua gánh vác nặng vì non sông,
Liều
thân dấn với bụi hồng,
Mà xem
chim các vẫy vùng ra sao?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi trên
tả Võ Tòng giết người coi nhẹ như cỏ rác, mực giây nét máu bút vướng hơi tanh;
thế mà đến hồi này đối với hai tên công sai, lại cứu sống ra, thấy rằng con
người Đại nhân từ trong thiên hạ, chưa nhân từ hơn Võ Tòng việc ấy, thế thì bao
nhiêu vết máu thây tanh ở một hồi trên, đến đây như rửa sạch. Ý tác giả tả Võ
Tòng lúc đó, muốn cho ra một bậc người trời; Mới có cử chỉ khi mừng thì gió êm
mưa dịu; khi giận thì sấm mắng sét oai, không cái gì nên, không cái gì là chẳng
nên, nào phải như loại Tống Giang thấy người thì muốn khóc; hay Nguyễn Tiểu
Thất thấy người thì muốn đâm, không thể nào đem ví ra cho được?
Đọc hồi
này thấy Võ Tòng chợt đâu đem lời nói cảm kích vợ chồng Trương Thanh. Than ôi!
Há chẳng đau lòng! Việc vợ chồng trong đời vốn hai người với nhau hết mọi nhân
sự, tại sao anh ruột chị dâu Võ Tòng, cũng đôi vợ chồng, lại không được như
thế? Tại Trời ư? Tại Người ư? Xét cha mẹ ngươi Tòng sinh ngươi Tòng, chẳng khỏi
sinh ra anh ngươi Tòng đó là Trời, chẳng phải ở người vậy, nhưng nếu anh ngươi
Võ Tòng chẳng lấy họ Phan, Tây Môn Khánh không có chuyện gì, mà chính ngươi
Tòng chẳng muốn xa anh. Quan huyện cũng không nhờ đến, thì cũng do trời, đâu
phải tự người, thì rõ ràng lắm vậy, khiến Võ Tòng không dám tin ai, khắp trong
thiên hạ, nào ai chồng thuận vợ hòa. Thế mà mới ra khỏi phủ đình, vào vòng tiếp
vật, lại gặp một đôi vợ chồng Trương Thanh như thế đáng yêu, kết bạn với chàng,
thì chàng há chẳng quay mặt vào vách, gạt thầm giọt lệ đau thương!!! Tác giả
mới tả rằng: Võ Tòng chợt đâu đem lời cảm kích vợ chồng Trương Thanh, thì hỡi
ôi! Thực cây bút tuyệt.
Tả luôn
Tiểu Quản Doanh khỏan đãi Võ Tòng, nào tự nhiên thấy một người đem quả đến, nào
thịt, nào rượu, nào bánh, nào cơm, đến chiều lại thế cũng tả rõ ra nào bình
rượu, đĩa thịt, liễn cơm... rồi sau lại một người đem thùng tắm, một người đem
nước tắm, sau lại thay phòng ngủ hầu hạ đủ từ lấy nước cho súc miệng rửa mặt,
lấy lược chải đầu, ba bốn ngày hầu hạ ăn uống, sau lại dạo chơi quanh, thế rồi
về phòng lại cơm sẵn rượu kề ta thấy chép rõ ràng ra, mà chính Võ Tòng lại hoài
nghi thắc mắc, một đoạn tả rõ như vậy, cho thấy biểu lộ con người hậu đãi ấy
Thi Ân.
Sắp tả
Võ Tòng uy trấn trại Bình An, đã dự trước một ngày, dạo chơi trước Thiên Vương
Đường, bèn nhắc hòn đá xanh làm lò thiêu hương nặng sức, lạ thay! Rất lạ là tới
sáng ngày chính lúc Võ Tòng giở thần oai ra diễn võ, lại không trực tả, chỉ tả
một nữa phần thôi, như chép thấy hòn đá mà xin nhắc thử, rồi nhẹ nhàng nhấc lên
cao lại ra tay quật mạnh xuống, làm đất lõm sâu một thước, thế rồi lại lần nữa
nhắc lên, để lại chỗ cũ, mới thấy thần lực Võ Tòng, tận tình trổ ra, lại tả nốt
nửa phần nữa thần oai như mặt không hồng, mồm không thở, tay không núng. Đoạn
một không ngờ có đoạn hai, đọc đoạn hai không ngờ còn đoạn ba, văn thế ly kỳ,
chẳng phải mở mắt ra mà xem hết.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 28: Trại Bình An, lạy cầu có nghĩa sĩ;
Rừng Khoái Hoạt say đánh Tưởng Môn Thần
Khi đó
Thi Ân bảo với Võ Tòng rằng:
- Xin
huynh trưởng hãy ngồi chơi, việc này để tiểu đệ kể rõ ràng đầu đuôi thì mới rõ
được.
Võ Tòng
có ý nóng nảy mà rằng:
- Tiểu
Quản Doanh bất tất phải lôi thôi dài dòng văn tự...có thế nào xin cứ nói thực
ngay cho tôi được biết.
- Tiểu
đệ từ thuở nhỏ theo đòi võ nghệ, cũng biết được qua loa dăm ngón còn quyền, nhận
thế đất Mạnh Châu thường gọi là Kim Nhỡn Bưu... Ở gần cửa bên đông trại này có
một nơi phố xá, tên là Khoái Hoạt Lâm, xưa nay các thương khách ở Sơn Đông Hà
Bắc đến đó buôn bán rất đông. Trong phố có hơn trăm nhà khách sạn lớn, và hai
ba mươi sòng đánh bạc lớn. Trước đây tiểu đệ nhờ có đôi chút võ nghệ, bèn bắt
tám chín mươi tên tên tù đồ khỏe mạnh ở trong trại, đem ra đó mở một ngôi tửu
điếm; rồi bắt các khách sạn cùng các sòng bạc quanh đó, nếu khi có đám kỹ nữ
nào qua lại, là phải đem đến tửu điếm của tiểu đệ trước, rồi mới được chia đi
các nơi. Nhân thế mà tính mỗi tháng tất cả tiền vặt vãnh có thể kiếm tới hai ba
trăm lạng bạc. Dè đâu có ông Trương Đoàn Huyện, người ở Đông Lộ Châu mới đến,
lại dắt thêm anh chàng to lớn, tên là Tưởng Trung cũng đến ở đây...Anh chàng
này mình dài chín thước, tay gậy tay quyền ít người đo kịp, bọn giang hồ vẫn
gọi là Tưởng Môn Thần (thần giữ cửa họ Tưởng) xưa nay. Anh ta thường nói khoác
là: Trong ba năm trời ở Thái Nhạc đánh nhau không hề có ai đối thủ, khắp trong
thiên hạ chỉ một người như hắn mà thôi, nhân vậy hắn cướp lối kiếm ăn của tiểu
đệ. Tiểu đệ đã khẳng khái không chịu nhường, sau bị hắn đánh một trận, có tới
hơn hai tháng giời mới dậy được. Hôm nọ huynh trưởng mới đến đây, chính tiểu đệ
vẫn còn đau tay phải buộc đó. Tiểu đệ nghĩ đến chuyện ấy, thực là căm tức vô
cùng toan đem người đến đánh báo thù một mẻ, song lại e hắn ta với Trương Hoành
Huyện rất thân, lỡ có thế nào thì ở trong trại đây làm lắm điều không tiện, bởi
thế mà chưa sao báo trả được xong. Nay nghe tiếng huynh trưởng có lòng hạ cố
giúp đỡ một tay, để tiểu đệ được sạch tan gánh giận vô cùng ấy, thì dẫu chết
cũng được hả lòng. Duy huynh trưởng mới đến đây, e khi đường xá xa xôi, trong
mình chưa khỏe, nên muốn đợi dăm ba tháng cho huynh trưởng khỏe mạnh, rồi sẽ
nói ra, ai ngờ bây giờ...
Võ Tòng
nghe đến đó, cười ha hả mà rằng:
- Anh
Tưởng Môn Thần ấy, có mấy đầu mấy tay?
Thi Ân
đáp:
- Hắn
cũng một đầu hai tay thôi, chứ làm gì mà có nhiều hơn ai!
Võ Tòng
cười mà rằng:
- Tôi
tưởng hắn ta ba đầu sáu tay tài giỏi như Na Tra ngày trước, thì tôi cũng sợ
thực, nhưng nếu có một đầu hai tay, không được tài giỏi như Na Tra, thì có làm
chi mà sợ.
- Đành
vậy, song tiểu đệ sức lực yếu kém, nên chỉ sợ không tài nào địch nổi hắn.
- Tôi
đây không phải nói khoác, nhưng cứ võ nghệ của tôi thì bao nhiêu những thằng
ngang ngạnh, không biết điều trong thiên hạ, đều không coi vào đâu cả. Bây giờ
các bác cứ đem rượu đi đường để uống rồi tôi với bác cùng đến xem nó ở đâu, để
tôi đánh cho một mẻ như con hổ hôm trước, nếu có chết, tôi xin đền mạng.
Thi Ân
nói:
- Xin
huynh trưởng cứ ngồi chơi, lát nữa gia nghiêm tôi về đây, sẽ xin nói chuyện.
Việc này không vội được, hãy để sáng mai tôi cho người đi dò xem, nếu nó còn ở
nhà, thì hôm sau ta đến đó, bằng không thì hãy thư thả rút giây sợ động rừng,
lỡ bị nói đánh lại thì không phải chuyện chơi.
Võ Tòng
ra dáng xấn xổ mà rằng:
- Tiểu
Quản Doanh phải biết rằng, nếu để nó đánh được, thì ta không phải là thằng con
trai. Đi thì đi ngay, cần gì phải đợi hôm nay hôm khác, Tiểu Quản Doanh cho mau
mau mới được.
Đương
khi hăm hở nói cười, thì bỗng thấy Lão Quản Doanh ở sau bình phong chạy ra nói
rằng:
- Nghĩa
sĩ ơi, lão há nghe chuyện nghĩa sĩ đã lâu rồi...Nay thằng cháu được gặp ngài
thật là vén mây trông thấy mặt trời... Xin mời ngài hãy vào trong nhà, ta nói
chuyện.
Võ Tòng
đứng dậy, theo Lão Quản Doanh vào nhà trong. Lão Quản Doanh mời Võ Tòng ngồi,
Võ Tòng khiêm tốn mà rằng:
- Tôi là
một người phạm tội đến đây, đâu dám xấc xược như vậy.
Lão Quản
Doanh cười rằng:
- Nghĩa
sĩ không nên câu nệ như thế, cháu được gặp nghĩa sĩ là may rồi.
Võ Tòng
nghe nói, liền xin phép ngồi đối diện với Lão Quản Doanh, còn Thi Ân thì đứng ở
một bên. Võ Tòng lại nói với Lão Quản Doanh xin phép cho Thi Ân cùng ngồi để
nói chuyện. Được một lát người nhà dọn rượu lên, Lão Quản Doanh cất chén mời Võ
Tòng mà rằng:
- Nghĩa
sĩ là một bậc anh hùng như vậy, thiên hạ ai không đem lòng kính phục... ? Thằng
cháu ở đây có mở ngôi hàng ở Khoái Hoạt Lâm, chủ ý cũng không phải bán buôn cầu
lợi, đó chẳng qua là muốn nuôi thêm hào khí cho đất Mạnh Châu, để cùng non sông
đóng góp. Ngờ đâu bị tên Tưởng Môn Thần ỷ thế hào cường mà công nhiên chiếm
mất, nay nếu không gặp nghĩa sĩ thì có lẽ khó lòng mà báo thù được. Vậy nếu
nghĩa sĩ có lòng thương đến thì cháu xin bốn lạy làm huynh trưởng, để gọi tỏ
tấm lòng thành cùng nghĩa sĩ.
Võ Tòng
cung kính đáp rằng:
- Chúng
tôi có tài học gì mà dám nhận lời như thế!
Nói xong
cất chén rượu uống một hơi cạn hết. Thi Ân đứng dậy lạy Võ Tòng bốn lạy bái làm
huynh trưởng, kết nghĩa anh em, Võ Tòng vội đứng dậy đáp lễ, rồi cùng ngồi uống
rượu với nhau, đến khi Võ Tòng rất say, rồi mới vực về phòng, để nghỉ.
Sáng hôm
sau, cha con Thi Ân bàn với nhau rằng:
- Hôm
qua Võ Đô Đầu uống rượu say quá, chắc hôm nay còn trúng tửu, chưa có thể làm
việc được, vậy ta hãy nói dối là sai người đi dò xem, thấy hắn không có ở nhà,
đành để hoãn đến mai sẽ liệu.
Khi bàn
định xong, rồi Thi Ân liền đến bảo với Võ Tòng rằng:
- Tiểu
đệ sai người đến dò xét hẳn hòi, song hắn còn đi vắng vậy để sáng mai xin mời
huynh trưởng đi cho.
Võ Tòng
nghe nói, lại có ý sốt sắng mà rằng:
- Hôm
nay lại nghỉ một ngày thì thực phiền cho tôi quá.
Khi cơm
nước xong, Võ Tòng cùng Thi Ân đi ra trước trong dinh chơi mát một hồi, rồi lại
trở về phòng khách nói chuyện võ nghệ với nhau. Trưa hôm ấy, Thi Ân mời Võ Tòng
ăn cơm ở trong nhà. Trong khi thiết rượu, chỉ mời dăm ba chén, rồi cất đi mà
đem cơm lên ngay. Võ Tòng đương cao hứng uống rượu, nhưng thấy vậy cũng không
hiểu đầu đuôi tình ý ra làm sao? Khi cơm nước xong. Võ Tòng trở về phòng nghỉ,
có hai tên đầy tớ đem nước tắm rửa đến. Võ Tòng liền hỏi rằng:
- Sáng
hôm nay Tiểu Quản Doanh thiết cơm, lại không để cho uống rượu là tình ý làm
sao?
Tên đầy
tớ đáp rằng:
- Chẳng
giấu gì Đô Đầu; Lão Quản Doanh cùng Tiểu Quản Doanh tôi đã định hôm nay là mời
Đô Đầu hành sự, song lại e hôm qua Đô Đầu uống nhiều rượu, thì hôm nay chắc
trúng tửu mà lỡ mất việc to bởi vậy nên không dám đem rượu ra mời Đô Đầu, mà
cốt dưỡng sức khỏe để mai nhờ Đô Đầu giúp việc cho.
Võ Tòng
nghe nói bật cười mà rằng:
- Như
thế mà sợ ta say rượu, lỡ mất việc to, thì cũng lạ thực!
Đêm hôm
ấy Võ Tòng nóng lòng sốt ruột mong sao cho chóng sáng để dậy mà đi. Sáng hôm
sau chàng trở dậy sớm rửa mặt súc miệng, đội khăn mỏ xéo, mặc áo vải mùi thâm,
thắt lưng đỏ, chân quấn lá đáp đi đôi giày gia, rồi lấy miếng lá cao dán đè chỗ
kim ấn trên mặt. Vừa khi chỉnh đốn xong, thì Thi Ân đã đến mời Võ Tòng vào
trong nhà ăn cơm.
Khi cơm
nước xong, Thi Ân liền sai đầy tớ đóng ngựa để đi, Võ Tòng gạt đi mà rằng:
- Chân
tôi có việc gì mà phải đi ngựa, cái đó không cần. Duy có một điều này, Tiểu
Quản Doanh phải nghe tôi mới được..
Thi Ân
nói:
- Có
điều gì xin huynh trưởng cứ cho biết, nào tiểu đệ dám không theo.
- Bây
giờ tôi với Tiểu Quản Doanh cùng đi, cần phải nhớ một câu là "Không ba
chẳng qua vọng".
- Thế
nào là "Không ba chẳng qua vọng", tiểu đệ không hiểu ý ra sao cả?
Võ Tòng
cười mà rằng:
- Tôi
nói cho chú nghe; Nếu chú có cần cho tôi đánh Tưởng Môn Thần, thì cứ bước chân
ra khỏi thành, hễ gặp hàng rượu nào là phải mời tôi uống ba chén rượu; nếu
không có ba chén rượu, thì tôi không đi qua vọng tử nữa, thế là không ba chẳng
qua vọng.
Thi Ân
nghe nói, nghĩ một lát mà đáp rằng:
- Khoái
Hoạt Lâm cách đông môn mười bốn mười lăm dặm đường, trong quãng đó có tới mười
hai mười ba hàng rượu, nếu qua mỗi hàng mà uống ba chén, thì tất cả, phải đến
ba nhăm ba sáu chén rượu, như thế e khi huynh trưởng quá say, thì còn làm việc
thế nào được?
Võ Tòng
cả cười mà rằng:
- Tiểu
Quản Doanh sợ tôi say rồi kém sức hay sao? Phải biết rằng, tôi uống một phần
rượu thì tài giỏi một phần chứ uống đến mười phần rượu, thì tài sức lại ở đâu
đâu kéo đến, không biết thế nào mà kể? Nếu không phải là say rượu to gan, thì
nào có đánh được con đại trùng ở trên núi Cảnh Dương. Lúc đó cứ để cho tôi say
mê say mệt, thì sức mới mạnh được.
Thi Ân
nói:
- Nếu
vậy thì càng hay lắm. Hôm qua chỉ sợ huynh trưởng quá say lỡ việc, nên không
dám đem rượu ra mời. Nay huynh trưởng đã nói như vậy, thì nhà tôi sẵn có rượu
ngon, xin cho người cứ gánh sắn cả hoa quả rượu chè đi, rồi đến đó sẽ dùng.
- Thế
thì vừa ý tôi lắm! Có dăm ba chén rượu mới có khí lực, chứ đánh suông thì khó
lòng đánh được. Hôm nay tôi đánh thằng ấy, gọi là để cho họ buồn cười một mẻ vỡ
bụng mà chơi.
Bấy giờ
Thi Ân sai hai tên người nhà gánh rượu nhắm đi trước, rồi Lão Quản Doanh lại
chọn vài ba mươi tên khỏe để ứng tiếp theo sau, đoạn rồi Thi Ân cùng Võ Tòng ra
đi. Ra khỏi trại Bình An tới cửa Đông Môn đi được bốn năm mươi bước, thì thấy
bên cạnh đường có một ngôi hàng rượu phất tử phỏ phất ở trên, hai tên người nhà
đã gánh rượu đến trực đó. Thi Ân liền mời Võ Tòng vào ngồi, rồi đem bày các
thức rượu nhắm ra.
Võ Tòng
bảo với Thi Ân rằng:
- Cái
này tất phải dùng ba chén lớn, chứ chén nhỏ thì không ăn thua.
Người
nhà nghe nói, liền lấy ra ba cái chén thực lớn, rồi Thi Ân rót rượu ra mời. Võ
Tòng không cần khiêm nhượng mời chào, cất chén uống ba hơi hết cả, rồi đứng
phắt dậy ngay. Người nhà lại thu xếp đồ đạc mà gánh mau đi trước.
Võ Tòng
cười bảo Thi Ân rằng:
- Ba
chén rượu thực là nở ruột gan dễ chịu lắm, thôi ta đi đi!
Nói đoạn
hai người cùng ra đi. Bấy giờ đương dạo tháng bảy, trời còn nắng bức gió tây,
hai người liền cởi phanh cả áo ra mà đi cho mát. Đi được độ một dặm đường nữa,
lại đến một nơi tửu điếm thấp thoáng, lá cờ bay ở trong giữa rừng cây. Thi Ân
đứng dừng lại hỏi Võ Tòng rằng:
- Chỗ
này là một hàng rượu nhà quê, huynh trưởng cũng tính là một vọng chăng?
Võ Tòng
đáp:
- Phải
lắm, uống ba chén rồi sẽ đi.
Nói đoạn
hai người lại vào hàng ngồi, rồi người nhà đem rượu vào rót ba chén để Võ Tòng
uống. Uống xong lại đứng dậy cùng đi.
Từ đó cứ
mỗi khi gặp hàng rượu, lại vào uống ba chén rồi đi. Dần dần đi qua có tới mươi
chốn hàng rượu, Thi Ân thấy Võ Tòng vẫn chưa có dáng say, thì lại càng lấy làm
vui trong dạ.
Bấy giờ
Võ Tòng hỏi Thi Ân rằng:
- Từ đây
đến Khoái Hoạt Lâm, ước chừng còn bao nhiêu nữa.
Thi Ân
đáp:
- Không
còn bao lâu nữa, ở ngay khu rừng trước mặt kia rồi.
- Nếu
vậy thì Tiểu Quản Doanh nên tránh một nơi khác, mà đợi tôi, để một mình tôi tìm
đến hắn cũng được.
- Vâng,
huynh trưởng dạy thế thì phải lắm, song cần nên cẩn thận dụng tâm, chớ có khinh
địch mới được.
Võ Tòng
cười rằng:
- Cái đó
không cần phải dặn, cứ cho bọn người nhà nó đưa tôi đi, còn gặp hàng rượu nào
thì tôi phải uống nữa.
Thi Ân
liền dặn người nhà đi theo Võ Tòng, còn tự mình thì đi lánh một nơi.
Võ Tòng
đi qua ba bốn dặm đường lại uống thêm mười chén rượu nữa. Lúc đó vào khoảng sắp
trưa, khi trời nóng bức, thỉnh thoảng mới hây hây hơi có chút gió. Võ Tòng nghe
chừng hơi rượu bốc lên, cũng có dăm bảy phần chếch choáng. Chàng liền cởi phăng
áo vải làm bộ say mười phần rồi ngả bên đông vẹo bên tây, mà khệnh khạng đi vào
trong rừng.
Lũ người
nhà trỏ vào đằng trước mặt mà nói rằng:
- Đến
con đường chữ Thập kia, tức tửu điếm của Tưởng Môn Thần rồi đó.
Võ Tòng
nói:
- Gần
đến đây rồi, thì các ngươi nên lánh cho xa, để khi nào ta đánh ngã hắn rồi sẽ
đến.
Nói đoạn
đi thốc vào trong rừng, thấy một anh đại hán như tượng Kim Cương, khoác cái áo
vải trắng, tay cầm cái phất xua ruồi, bắc ghế ngồi ở gốc cây hòe hóng mát. Võ
Tòng càng giả mặt say, liếc mắt nhìn qua một lượt rồi trong bụng nghĩ thấm:
"Anh chàng này tất là Tưởng Môn Thần hẳn? " Chàng nghĩ vậy lại sồng
sọc đi vào.
Đi được dăm
ba mươi bước đã đến quãng đường chữ Thập, có một tửu điếm rất lớn, trước cửa
treo là cờ viết bốn chữ "Hà Dương phong nguyệt" rất to. Khi đến tận
cửa thấy một dãy chắn song sơn đầu, hai bên treo hai cái biển vàng viết hai
câu: "Rượu Thánh vung Trời đất; Bầu Tiên tít tháng ngày". Trong đó
một bên kê đặt giường thịt dao thớt và các thức đồ dùng, còn một bên thì lò bếp
và các đồ làm bánh. Phía trong có ba cái chum đựng rượu rất lớn, chôn ngập một
nửa xuống đất. Khoảng giữa mặt một cái quầy, cười ó một người đàn bà trẻ tuổi
ngồi trong. Người ấy là vợ lẽ Tưởng Môn Thần mới lấy, nguyên là một tay con hát
khi xưa.
Bấy giờ
Võ Tòng chạy thẳng vào hàng, đến bên quầy ngồi đối diện với người đàn bà, rồi
đăït hai bàn tay lên quầy mà nhìn chị chàng kia không chớp mắt. Người đàn bà
thấy vậy, thỉnh thoảng mặt nom đi chỗ khác.
Võ Tòng
lại nom vào trong, thấy có năm bảy tên tửu bảo ở đó, chàng bèn gõ bàn gọi lên
rằng:
- Nào
chủ hàng rượu ở đâu?
Vừa gọi
xong thì có một tên tửu bảo chạy đến, nhìn Võ Tòng rồi hỏi rằng:
- Ngài
muốn lấy bao nhiêu rượu?
Võ Tòng
nói:
- Lấy
hai vò, nhưng hãy đem đây ta nếm xem đã.
Tên tửu
bảo chạy đến bên quầy bảo người đàn bà, lấy hai vò rượu đổ vào thùng rồi đem
lên một chén đưa cho Võ Tòng uống mà bảo rằng:
- Rượu
đây xin ngài nếm cho.
Võ Tòng
cất lấy chén rượu xem qua một lượt, lắc đầu mà nói rằng:
- Không
tốt, không tốt, lấy thứ khác đây.
Tên tửu
bảo biết ý Võ Tòng, đã ra dáng say, bèn cầm đến quầy bảo người đàn bà rằng:
- Nương
tử đổi cho hắn thứ khác vậy.
Người
đàn bà liền cất rượu ấy đi, rồi đổi lấy thứ rượu thực tốt đưa ra, tửu bảo lại
hâm nóng một chén đưa ra cho Võ Tòng nếm.
Võ Tòng
sẽ nhấp một tý rồi lại kêu lên rằng:
- Rượu
này cũng không ngon? Muốn sống thì đổi thứ khác đây.
Tên tửu
bảo cố nín hơi không nói, rồi đem đến cho người đàn bà mà nói rằng:
- Nương
tử dầu lòng đổi thứ khác vậy, lão này nghe chừng say rồi, chỉ muốn sinh sự
thôi, ta đừng chấp họ mới được.
Người
đàn bà nghe nói đổi lấy một thứ rượu thượng hạng đưa cho tửu bảo. Tên tửu bảo
hâm nóng tử tế, rồi rót một chén đưa cho Võ Tòng. Võ Tòng cất lên rồi nói rằng:
- Ừ! Cái
rượu này còn hơi có mùi mẽ một chút...Này thằng kia, chủ nhân nhà mầy họ gì?
Tên tửu
bảo đáp rằng:
- Chủ
nhân tôi họ Tưởng.
Võ Tòng
liền nói:
- Sao
lại họ Lý?
Chị đàn
bà nghe vậy lấy làm khó chịu, liền nói với tên tửu bảo rằng:
- Thằng
chó nầy lại muốn chết chăng?
Tên tửu
bảo nói:
- Nghe
chừng anh ta ở đâu mới đến đất này, chưa biết thế nào, nên mới liều lĩnh như
thế!
Võ Tòng
liền hỏi rằng:
- Các
người nói chuyện gì đấy?
Tên tửu
bảo đáp rằng:
- Chúng
tôi nói chuyện riêng đằng này ngài cứ xơi rượu đi.
Võ Tòng
tiếp luôn rằng:
- Ngươi
bảo người đàn bà ấy ra đây uống rượu với ta một lúc.
Tên tửu
bảo gạt đi rằng:
- Chết
nỗi! Sao nói càn thế? Bà ấy là vợ ông chủ nhà tôi đấy.
- Vợ ông
nữa thì làm sao? Uống rượu với ta phỏng đã việc gì?
Chị
chàng kia nghe nói cả giận mắng lên rằng:
- Đồ
chết toi này hỗn thực. Nói xong toan đẩy cái quầy để chạy ra. Võ Tòng vội cởi
phăng cái áo bên trên ra thắt ngang xuống bụng, cầm thùng rượu hắt một cái đổ
tóe ra đất rồi nhảy vào trong quầy. Vừa khi chị chàng kia mới đứng dậy toan đi
ra, bỗng bị Võ Tòng sấn đến một tay nắm đầu tóc, một tay cầm chặt lấy thắt lưng
rồi xách qua mặt quầy mà ném ngay vào trong chum rượu. Khi đó có một tên tửu
bảo nhanh chân chạy đến toan đánh Võ Tòng, bất đồ bị Võ Tòng nắm xách cổ lên mà
bỏ ngay vào chum rượu; rồi lại có một tên tửu bảo nữa chạy đến, cũng bị tóm lấy
ném ngay vào chum rượu nốt. Ba người đều giãy lục đục ở trong chum rượu, mà
không anh nào nhảy ra được. Sau có hai tên tửu bảo nữa ở trong nhà chạy xông
ra, cũng bị Võ Tòng đánh cho mỗi tên một cái đá ngã ệp xuống mà không dậy được.
Đoạn rồi Võ Tòng xông vào đánh tất cả mọi người nhà bếp anh nào anh ấy, đều
thục thân mà chạy cho mau để báo với Tưởng Môn Thần.
Tưởng
Môn Thần nghe báo tin thì ngạc nhiên cả kinh, liền đẩy ngã ghế ra, phất một cái
đuôi ruồi xuống đất, rồi vội vàng chạy đến hàng xem. Vừa đến khoảng đường rộng
ở trước cửa, thì gặp Võ Tòng cũng ra đến đó. Tưởng Môn Thần tuy có sức lớn hơn
người, song ít lâu nay tửu sắc ham mê, sức lực cũng có phần hao kém, bởi thế mà
thoạt khi trông thấy Võ Tòng thì trong bụng đã hơi hơi núng, Tuy vậy song chàng
vẫn khinh thị Võ Tòng còn đương say rượu, nên cứ thị hùng mà sấn vào để đánh.
Khi xông
vào tới nơi, thì Võ Tòng giơ tay quyền lên, nhằm giữa mặt Tưởng Môn Thần đánh
dứ một cái rồi quay ngoắt mà chạy ngay. Tưởng Môn Thần cả giận, xông vào đến
đuổi, bất đồ bị Võ Tòng mau chân đá phi một cái trúng ngay vào giữa bụng.
Tưởng Môn
Thần giơ tay lên đỡ, rồi phi quyền để đánh lại, Võ Tòng né mình tránh tay quyền
của Tưởng Môn Thần, rồi lại giơ chân bên hữu đá phi một cái nữa, trúng ngay vào
thái dương Tưởng Môn Thần.
Tưởng
Môn Thần bị cái đá ngã lộn về đằng sau, Võ Tòng liền xông vào đạp chân lên
bụng, giở quả đấm ra đánh luôn. Nguyên trước Võ Tòng đánh nhử một cái, rồi quay
ngoắt mình đi, mà phi chân trái đá trúng một bên, rồi lại phi chân phải đá luôn
bên nữa. Phép đánh đó gọi là "Ngọc Hoàn Bộ Uyên ương cước" là một ngón
võ nghệ biệt tài của Võ Tòng thao luyện xưa nay, không phải những tay tầm
thường ví được. Bấy giờ Võ Tòng đánh luôn năm bảy cái đấm, Tưởng Môn Thần không
sao bò ngóc dậy được, chịu nằm ép dưới đất mà kêu van xin tha.
Võ Tòng
nghe vậy dừng tay đánh mà bảo với Tưởng Môn Thần rằng:
- Nếu
ngươi muốn ta tha, thì phải nghe ba việc này mới được.
Tưởng
Môn Thần kêu lên rằng:
- Hảo
hán tha cho tôi, dẫu đến trăm việc tôi cũng xin theo, huống chi là ba việc.
Võ Tòng
bèn lấy chân dậm lên trên bụng Tưởng Môn Thần, mà nói ra ba việc cho nghe.
Mới hay
là:
Giang hồ
say tỉnh tỉnh say,
Ngang
trời dọc đất thân này xem không,
Bấy lâu
xuôi ngược bềnh bồng,
Biết
nhau chăng có non sông với mình,
Tuồng gì
là giống hôi tanh,
Thế gian
thêm để bất bình riêng ai,
Trăm năm
cõi tục còn dài,
Nam nhi
xin chớ phụ lời bồng tang!
Lời bàn
của Thánh Thán:
Xét đến
viết Sử, việc của quốc gia, mà người cầm bút, việc của văn sĩ, chép việc quốc
gia, phải đâu chỉ theo lối tự sự có sao nói thế mà thôi, còn ngòi bút phả vẫy
vùng ngang dọc, làm sao cho tỏ những ý nghĩa uống ẩm của từng chuyện người
trong Sử, như thế mới gọi là kỳ văn! Như Sử Ký Tư Mã Thiên đã soạn, Tư Mã Thiên
chép chuyện Bá Di, thì đâu phải chỉ ở Bá Di mà chép chuyện du thủ du thực, thì
phải đâu ở du thủ thực; Đến như chép chuyện của Hán Võ, chỉ là chuyện của Hán
Võ mà chẳng phải chí như chí của Hán Võ...Có ghét gì những chí ấy, như kiểu
tuyên truyền hay chê bai chỉ là văn chương mà thôi vậy. Mã Thiên chép ra, là
văn của Mã Thiên, Mã Thiên trong bút chép ra để mà tự sự, thì có tài liệu của
văn Mã Thiên, vì chép ra những việc lớn của đời, như triều nghị nghiêm trang,
lễ nhạc long trọng, chiến trận ngu cấp, tế lễ thận trọng, mưu kế phiền toái,
hình ngục khiếp thươn.. Phải cung tài liệu cho kỳ văn tuyệt thế, mà quân tướng
chẳng đến hỏi đến, vì rằng làm ra mọi, là quyền quân tướng, chẳng phải thư sinh
được dự bàn, mà chép ra sử sách,là quyền văn sĩ, dù quân tướng ngôi cao mà đâu
có thể cấm đoán! Có gì đâu quân tướng có thể làm ra những việc dở thay, nhưng
không thể làm ra những việc ấy còn mãi với đời, có thể làm cho việc của quân
tướng được mãi với đời, cho đến trăm ngàn muôn đời, hãy còn ca ngợi kính yêu,
thì phải nhờ đến công của kỳ văn tuyệt bát mà việc của quân tướng, khác nào
vuốt theo đuôi ngựa mà thấy rõ ra.
Thế cho
nên Mã Thiên làm văn, ta thấy rằng việc to thô quá, thì thu vén lại thấy rằng
việc nhỏ nhen quá, thì phô phang ra. Hoặc thấy rằng việc còn thiếu sót, thì phụ
thêm vào, trái lại việc đầy đủ thừa ra, thì bỏ bớt đi, đó là kế vì vãn, đâu
phải kế vì việc, nếu khiến văn của ta trở nên một kỳ văn tuyệt thế, thì ta phải
truyền cho việc, nên muốn chỉ truyền lại công việc, lại khiến cho đầy đủ không
mất đi, thì ta làm văn phải được hế nào, đã trở nên kỳ văn tuyệt thế, nếu không
đem văn chương của chúng ta ra truyền, thì làm sao mà truyền nổi chuyện hãy còn
mãi mãi? ? ? Đức Khổng Tử chả nói rằng: Câu chuyện thì của Tề Hoàn, Tấn Văn,
còn về văn chương thì của Sử Ký, câu chuyện là của Tề Hoàn, Tấn văn, thành ra
chỉ là chép việc chứ không là văn, còn văn chương thì của Sử Ký, lại hóa ra chỉ
có văn mà không phải việc, còn văn là của văn chương thì câu chuyện cũng khỏi
chép đến Tề, Tấn, nên thuyết về Văn Liệu, Khổng Tử cũng nói qua đến vậy.
Hỡi ôi!
Bậc quân tử từ xưa, nhận mạng vua cầm bút, vì chép chuyện một đời, moi móc gấm
thêu châu ngọc tự trong lòng, trở nên tuyệt thế kỳ văn, há có một nhà văn nào,
mà không chép hết ra mọi chuyện, chẳng qua muốn thành tuyệt thế kỳ văn, để tự
vui sướng, mà phải Trương đúng là Trương, Lý đúng là Lý, không một chút cong
ngay ngang dọc tô điểm tô mầu, với cái chí kinh doanh thảm đạm vậy! Thì đọc Sử
Tỳ Quan, mà lại quái đến Tống Tử Kinh, cho rằng đặt để nên lời, chẳng đọc sách
Tàn Đường hay sao?
Hồi này
tả Võ Tòng, vì Thi Ân đánh Tưởng Môn Thần chép việc đấy, Võ Tòng uống rượu, lại
thêm văn đấy, đánh Tưởng Môn Thần, là liệu vậy, uống rượu, là moi gấm thêu châu
ngọc ở trong lòng, vì có rượu phải có người đại hán đánh hổ trên núi Cảnh
Dương, là tay uống rượu đệ nhất của muôn thủa;Có rượu phải có chỗ, ra khỏi cửa
đông Mạch Châu, đến rừng Khoái Hoạt phải mười bốn mười lăm dặm đường, lại là
nơi uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu lại có lúc, trời hè nóng bức,
hiu hắt gió Tây, cởi áo ngoài ra đón gió, lại là lúc đáng uống rượu vào đệ nhất
của muôn thủa; Uống rượu phải ra lệnh uống; Không ba chẳng qua Vọng, lại là
lệnh uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu còn có Giám Sát, uống luôn là
ba chén phải đi ngay, lại là giám sát uống rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống
rượu phải có đếm, cứ mười hai mười ba nhà là một vọng tử, lại là tửu trù đệ
nhất của muôn thủa; Uống rượu lại có người kèm theo, gần đến chỗ Vọng, đã sửa
soạn ra ba chép trước, uống xong gấp gấp chạy đi, lại là người kèm rượu đệ nhất
của muôn thủa; Uống rượu lại có món đưa cay, chợt nghĩ đến vong huynh, mà phóng
thanh khóc rống, chợt đâu căm lũ gian dâm, mà vỗ bàn kêu lên, lại là món đưa
cay rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu phải nhớ, nhớ đến Tống Công Minh ở
trang Sài Tiến Vương Tôn, lại là uống rượu nhớ đệ nhất của muôn đời; Uống rượu
có thói say, chờ cho Tưởng Môn Thần không được ở đường đất Mạnh Châu lại là
thói uống say đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu có thán thưởng, bốn chữ Hà Dương
Phong Nguyệt, hai câu Rượu Thánh vung trời đất; Bầu Tiên tít tháng ngày, lại là
thưởng rượu đệ nhất của muôn thủa; Uống rượu có đề tài, là Khoái Hoạt Lâm (Rừng
sống thú), lại là tửu đề đệ nhất của muôn thủa...Bao nhiêu thứ đó, đều do văn
của hồi này, đâu phải việc của hồi này, nếu là việc của hồi này mà thôi ấy, thì
Thi Ân đem Võ Tòng đi đánh Tưởng Môn Thần, một đường uống hết ba mươi nhăm, sáu
chén rượu chỉ y theo lệ Tống Tử Kinh, chép qua một lượt là đủ, việc gì phải
phiền đến Thi Lại An soạn ra văn một hồi này. Ngán thay! Đời không kẻ đọc nổi
chuyện, thì ta còn biết làm sao? ? ?
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 29: Thi Ân ba phen vào lao ngục, Võ Tòng
một phen náo phi vân
Khi đó
Võ Tòng trỏ vào mặt Tưởng Môn Thần mà bảo rằng:
- Điều
thứ nhất ngươi phải đi khỏi rừng Khoái Hoạt; bao nhiêu đồ đạc để lại đây trao
trả cho chủ củ là Kim Nhỡn Bưu Thi Ân ...Ai cho ngươi được chiếm nhậm chốn này?
Tưởng
Môn Thần vội vàng kêu van rằng:
- Xin
vâng...Xin vâng...
- Điều
thứ hai: Bây giờ ta tha ngươi, ngươi hãy đi mời tay anh hùng đầu chóp ở chốn
này, để đến đây tiếp chuyện với Thi Ân.
- Vâng,
chúng tôi xin theo được..
- Điều
thứ ba: Từ đây phải lập tức trở về làng nước, không cho ở đất Mạnh Châu đây.
Nếu còn vất vưởng loanh quanh, ta gặp một lần là đánh một lần, bắt gặp mười lần
là đánh mười lần, nhẹ ra thì đánh cho kỳ ốm, mà nặng ra thì đánh chết cũng nên,
ngươi nghĩ sao?
Tưởng
Môn Thần kêu luôn lên rằng:
- Được,
tôi xin vâng lời hết thảy.
Võ Tòng
nghe vậy, bèn kéo Tưởng Môn Thần đứng dậy, thấy mặt mũi tái nhợt, máu chảy đầm
đìa, chàng liền trỏ vào mặt mà mắng rằng:
- Ngươi
phải biết con hổ trên núi Cảnh Dương, ta chỉ đánh ba cẳng tay cũng đủ chết,
...nhà ngươi đây phổng sức lực được là bao nhiêu... ? Muốn sống phải trao trả
ngay, chậm một tý là ta đánh chết.
Tưởng
Môn Thần nghe đến đó mới hiểu ra Võ Tòng, bèn vâng dạ luôn mồm mà xin giao trả.
Đương
lúc ấy Thi Ân dẫn hai ba mươi tên lính đến, định để đánh giúp, khi thấy Võ Tòng
đã đánh được Tưởng Môn Thần rồi, thì lấy làm vui mừng vô hạn.
Võ Tòng
trỏ vào Tưởng Môn Thần mà nói rằng:
- Hiện
chủ cũ ở đây rồi, ngươi phải mau mau trả ngay, và cho người đến nói lại, mau
đi.
Tưởng
Môn Thần đáp rằng:
- Xin
mời hảo hán hãy vào trong hàng đã.
Nói đoạn
liền dẫn Võ Tòng cùng mọi người vào trong tửu điếm. Khi vào tới nơi, thấy rượu
chè be bét cả ra nhà cửa, mấy đứa trong chum ngoi ngóp bò lên ướt như chuột
lột, còn đám người nhà thì chạy mất tăm, không còn ai dám lảng vảng ở đấy. Bấy
giờ Võ Tòng ngồi vào trong ghế, quát bảo Tưởng Môn Thần phải mau mau thu thập
hành lý, tống chị đàn bà đi trước, rồi nhất diện sai bắt mấy đứa tửu bảo không
bị thương, cho đi tìm mươi người đầu sỏ ở quanh đấy, đến để bàn giao. Khi mọi
người đã đến đông đủ. Võ Tòng liền sai lấy các thứ rượu ngon ra dọn bàn, mời
mọi người cùng uống. Được một lát Võ Tòng nói với chúng rằng:
- Dám
thưa các vị cao lân tôi từ khi ở huyện Dương Cốc sang đây, nghe nói Khoái Hoạt
Lâm vốn là một cái cơ nghiệp của Tiểu Quản Doanh Thi Ân ngày trước, sau bị
Tưởng Môn Thần đến đó ỷ thế mà lấn hiếp cướp mồi. Tôi đây tuy không có can
thiệp gì vào đó, song tính tôi bình sinh hay đánh những kẻ tham mê vô lý giữa
đường thấy sự bất bình, tất phải ra tay trừ khử, dẫu chết cũng cam tâm. Ngày
này bản ý tôi muốn đánh chết Tưởng Môn Thần, để trừ cái hại cho thiên hạ, song
tôi còn vị nể các vị cao lân đây, nên đã giữ mạng anh ta ở đó. Hiện bây giờ anh
ta phải lập tức đi xứ khác, bằng tôi còn gặp mặt ở đây thì xin theo như con hổ
trên núi Cảnh Dương mà trị.
Bấy giờ
chúng nghe nói, mới hiểu Võ Tòng chính là anh hùng đánh hổ trên núi Cảnh Dương,
liền tề thanh đứng dậy nói đỡ Tưởng Môn Thần rằng:
- Xin
hảo hán thư tâm, tức khắc Tưởng Môn Thần sẽ trả lại chủ cũ.
Tưởng
Môn Thần kinh sợ vô cùng, liền đem tất cả các đồ đạc trao cho Thi Ân, rồi thuê
một cỗ xe, xếp một ít hành lý, và bẽn lẽn từ tạ mọi người mà đi thẳng. Đoạn rồi
Võ Tòng cùng Thi Ân mời mọi người ở đó uống rượu, mãi đến chiều hôm mới tan.
Lão Quản Doanh nghe tin Thi Ân lại chiếm được Khoái Hoạt Lâm, liền cưỡi ngựa đi
đến tửu điếm tạ ơn Võ Tòng, rồi ăn mừng luôn mấy hôm rất vui vẻ. Khi đó ở Khoái
Hoạt Lâm mọi người nhận biết Võ Tòng, thì ai nấy đều lấy làm kính trọng, mà đến
chào mừng suốt lượt. Thi Ân liều lưu Võ Tòng lại ở đó, rồi sửa sang hàng quán
buôn bán rất là sầm uất gấp năm gấp bảy khi xưa...Từ khi Thi Ân nhờ được Võ
Tòng báo thù trả oán, lại chiếm được lợi quyền đối với các hàng rượu sòng bạc
hơn trước, thì trong lòng rất khâm phục Võ Tòng không khác gì cha mẹ sinh ra.
Thấm
thoát hơn một tháng trời, bây giờ nắng hè đã nhạt, ngọn gió thu đã rải rác hơi
sương trên mặt đất. Một hôm Thi Ân đương ngồi trong tửu điếm, cùng Võ Tòng nói
chuyện côn quyền. Chợt đâu có ba tên lính dắt một con ngựa đến trước cửa điếm
mà nói rằng:
- Chúng
tôi vâng lệnh Đô Giám tướng công, nghe nói Võ Đô Đầu ở đây.
Thi Ân
nhận biết mấy tên đó là người nhà Đô Giám binh mà Trương Mông Phương ở đất Mạnh
Châu, liền chạy ra mà hỏi rằng:
- Các
bác hỏi Đô Đầu làm chi?
Đám kia
trả lời:
- Chúng
tôi vâng lệnh Đô Giám tướng quân nghe nói Võ Đô Đầu là bậc hảo hán, nên sai
chúng tôi đến đây để mời, hiện có thiếp của tướng công ở đây.
Thi Ân
cầm lấy cái thiệp xem xong nghĩ thầm trong bụng: "Trương Đô Giám là Thượng
Ty của phụ thân ta, thì sai khiến điều gì không được! Huống chi Võ Tòng lại là
một người bị tội đến đây, cũng thuộc quyền người ta cai trị, có lẽ nào mình dám
giữ lại mà không cho đi? Nghĩ đoạn rồi quay vào nói với Võ Tòng rằng:
- Nay có
quan Trương Đô Giám sai người mang ngựa đến đây, để đón huynh trưởng, vậy huynh
trưởng nghĩ sao?
Võ Tòng
vốn là người cương trực xưa nay, không cần chi hỏi đến điều ủy khúc, bèn đáp
ngay rằng:
- Người
ta đã đến tìm mình, thì cứ đi một chuyến xem sao?
Nói đoạn
liền thay khăn áo, đem một tên nhỏ theo hầu, rồi lên ngựa theo vào Mạnh Châu.
Khi tới
trước cửa dinh Đô Giám, Võ Tòng liền xuống ngựa, theo bọn lính đi vào trong
dinh. Bấy giờ Trương Đô Giám đương ngồi ở tiền sảnh, thấy nói Võ Tòng bước vào
sảnh cúi đầu lễ chào, rồi khoanh tay đứng ở một bên.
Trương
Đô Giám hỏi Võ Tòng rằng:
- Ta
nghe nói anh là một tay Đại trượng phu hảo nam tử anh hùng vô địch, dám vì
người sống cũng liều, vậy nay trong quân ta còn thiếu một người như thế, chẳng
hay anh có chịu giúp ta làm một tay thân mật ở trong nhà hay không?
Võ Tòng
cúi đầu tạ ơn rằng:
- Chúng
tôi là một kẻ tù tội ở bên dưới, nếu nay tướng công lại có lòng đề cử lên cho,
thì chúng tôi xin vâng lệnh theo hầu dưới trướng.
Đô Giám
cúi đầu tạ ơn rằng:
- Chúng
tôi là một kẻ tù tội ở bên dưới, nếu nay tướng công lại có lòng đề cử lên cho,
thì chúng tôi xin vâng lệnh theo hầu dưới trướng.
Đô Giám
nghe nói cả mừng, bèn sai lấy hoa quả rượu ngon lên, và từ rót mời Võ Tòng uống
thực say, rồi sai dọn một gian phòng ở nhà dưới để Võ Tòng nghỉ. Sáng hôm sau
lại sai người đến nhà Thi Ân, lấy các đồ hành lý cho Võ Tòng, rồi lưu luôn ở
trong dinh Đô Giám.Từ đó Đô Giám đối với Võ Tòng rất là thân mật, không lúc nào
là không gọi đến luôn luôn. Dần dần để cho Võ Tòng đi lại khắp chốn nhà trong
nhà ngoài, chẳng khác chi họ hàng thân thích vậy. Đô Giám lại cho gọi thợ, may
áo mùa thu cho Võ Tòng mặt rất là tử tế.
Võ Tòng
cũng lấy làm vui lòng, gặp một người ân đức như vậy, nên hết sức trông nom, mà
không chút gì trễ. Bởi vậy chàng cũng không có lúc nào trở về Khoái Hoạt Lâm mà
nói chuyện với Thi Ân được nữa. Thỉnh thoảng Thi Ân có cho người thăm hỏi Võ
Tòng, song nhiều khi bị người ngăn trở ở ngoài, mà không được gặp. Được ít lâu
nhiều người nhờ đến Võ Tòng nói giúp việc quan, Trương Đô Giám đều thuận tình
cho cả. Nhân thế mà không bao lâu các đồ kim ngân tài bạch của dân gian tặng
đãi rất nhiều, Võ Tòng liền mua một cái hòm mà chứa cả vào đó.
Một hôm
giữa độ Trung Thu tháng tám, Trương Đô Đầu bày tiệc trông trăng ở dưới lầu Uyên
Ương trong một khu nhà sâu kín, rồi cho Võ Tòng vào dự tiệc. Võ Tòng có quyền
thuộc Đô Giám đều ngồi ăn tiệc ở đó, thì có ý rụt rè, uống một chén rượu, rồi
đứng lên mà cất lẻn đi.
Trương
Đô Giám thấy vậy, thì hỏi rằng:
- Đương
uống rượu, sao lại đi đâu thế?
Võ Tòng
khép nép thưa rằng:
- Ân
tướng có lòng yêu, ban cho ăn uống, song trên có ân tướng lại có Phu Nhân cùng
quý quyến ở đây, chúng tôi đâu dám mạn phép như thế!
Trương
Đô Giám cười mà bảo rằng:
- Anh
lầm rồi, ta kính anh là một người nghĩa sĩ, nên mới đặc cách mời vào đây uống
rượu cũng như người nhà thân vậy. Sao lại chối từ như thế?
Võ Tòng
bẩm rằng:
- Chúng
tôi là một kẻ phạm tội, không khi nào dám thế xin ân tướng tha cho.
Trương
Đô Giám lại than vãn rằng:
- Nghĩa
sĩ không nên nghĩ tỉ mỉ làm gì, ở đây có ai là người ngoài đâu! Nghĩa sĩ cứ
ngồi uống rượu cho vui.
Võ Tòng
hai ba lầm từ chối.Trương Đô Giám nhất định không nghe, bắt Võ Tòng phải cùng
ngồi uống rượu. Võ Tòng không thể nào từ chối được, đành phải xin phép, rồi bắc
cái ghế xa xa phía dưới mà nghiêng mình ngồi đó.
Trương
Đô Giám liền sai con hầu lên rót rượu mời Võ Tòng uống.
Uống
được dăm ba chén, rồi Trương Đô Giám lại bảo với Võ Tòng rằng:
- Đại
trượng phu uống rượu, cần gì phải dùng đến thứ chén nhỏ nhen này?
Nói đoạn
sai lấy chén lớn rót luôn mấy chén để mời Võ Tòng.
Bấy giờ
bóng Nga vằng vặc, soi cửa bên đông. Võ Tòng uống rượu chừng đã hơi hơi chếnh
choáng, dần dần quên cả lễ độ giữ gìn, mà uống tràn một lúc. Trương Đô Giám lại
gọi con tì nữ đáng yêu duyên dáng, là Ngọc Lan ra để ca mừng tiệc rượu. Đoạn
rồi lại trỏ bảo Ngọc Lan rằng:
- Ở đây
không có ai xa lạ, duy có Võ Đô Đầu thì là một người tâm phúc của ta, vậy nhân
tết Trung Thu nầy, người nên hát khúc "Trung Thu bối Nguyệt" để cho
chúng ta nghe.
Ngọc Lan
vâng lời cầm phách gõ, rồi cất lên tiếng hát bài ca Trung Thu thủy điêu của ông
Tô Đông Pha rằng:
Cái bóng
trăng kia có tự bao giờ!
Tay nâng
chén rượu hỏi khật khờ dăm câu:
Chốn
cung Trời muôn trượng cao cao,
Đêm nay
là cái đêm nao hỡi trời?
Anh cũng
toan cưỡi gió về chơi,
E khi
lầu ngọc xa khơi thêm lạnh lùng:
Xênh
xang múa giỡn bóng trăng trong,
Khác nào
vơ vẫn trong vòng trần ai?
Buông
rèm châu thấp thoáng xa xôi,
Can chi
hờn giận lựa thời em mới trốn khuôn?
Khách
trên đời tan hợp với vui buồn,
Bóng
trăng kia khi mờ tỏ với khuyết tròn kể cũng bao phen?
Trải
ngàn xưa ai đã vững chu tuyền!
Lòng
riêng chỉ nguyện với bóng thuyền cho được dài lâu.
Ngọc Lan
hát xong đặt phách xuống đứng ra một bên. Trương Đô Giám lại sai Ngọc Lan đi
rót rượu khuyên mời. Ngọc Lan vội vàng vâng lời rót một chén rượu đưa mời Đô
Giám, một chén rượu đưa mời phu nhân rồi đến chén thứ ba đưa mời Võ Tòng.
Võ Tòng
cúi đầu xa xa đứng dậy, nâng tiếp chén rượu mời; xin phép Đô Giám cùng phu nhân
rồi mới dám uống. Trương Đô Giám lại trỏ Ngọc Lan mà bảo Võ Tòng rằng:
- Con bé
nây thông minh lắm, không những là thuộc biết âm luật ca hát, mà lại giỏi nghề
thêu vá nữa. Nếu nghĩa sĩ không chê là tầm thường, thì trong mấy bữa nữa ta sẽ
chọn ngày lành tháng tốt, mà cho cùng nhau kết lứa nhân duyên, nghĩa sĩ nghĩ
sao?
Võ Tòng
đứng dậy vái mà rằng:
- Chúng
tôi có khi nào dám mạn phép quá thế?
Trương
Đô Giám cười rằng:
- Ta đã
nói vậy tất là phải làm, anh chớ nên từ chối, không khi nào phụ lời ta mới
được!
Nói đoạn
lại bắt Võ Tòng uống luôn ba chén rượu nữa.
Bây giờ
đêm đã hơi tĩnh, Võ Tòng nghe chừng hơi rượu đã hăng, chàng sợ lỡ ra có điều
thất lễ, bèn đứng dậy xin phép cáo lui. Khi về tới phòng chàng thấy trong bụng
còn no đầy chưa có thể ngủ được, liền cởi áo bỏ khăn lấy cái gậy ra giữa sân,
đứng dưới bóng trăng trong mà múa chơi một lúc. Hồi lâu ngửa mặt nom trời, ước
đã vào khoảng canh ba, chàng liền cất gậy vào phòng để nghỉ.
Chợt đâu
ở nhà trong có tiếng kêu cướp ầm ĩ cả lên. Võ Tòng nghe thấy vậy trong lòng tự
nghĩ: " Trương Đô Giám có lòng yêu ta như vậy, hiện bây giờ trong nhà có
cướp, tất nhiên ta phải vào cứu mới xong" chàng nghĩ đoạn, vội vớ lấy
thanh gậy mà chạy thốc vào nhà trong.
Khi ấy
gặp nữ Ngọc Lan, lật đật ở trong nhà chạy ra, trỏ bảo Võ Tòng rằng:
- Một
thằng cướp chạy vào lối vườn hoa ở đằng sau kia.
Võ Tòng
nghe nói liền gậy chạy rảo vào vườn hoa, tìm khắp lượt không thấy gì, lại quay
trở ra. Đương khi lật đật chạy dưới bóng cây nhấp nhoáng, chàng ta vô ý vấp
ngay phải quãng thừng chăng ngang lối đi mà ngã đâm nhào xuống đất. Bỗng đâu
thấy bẩy tám tên lính đổ xô ra reo ầm lên rằng:
- Cướp
đây rồi, bắt lấy.
Đoạn rồi
chúng co giây, trói ngay Võ Tòng lại. Võ Tòng kêu vội lên rằng:
- Tôi
đây, không phải cướp đâu?
Chúng
nghe nói, mặc kệ cứ trói ghi lại mà không phân phải trái chi cả. Một lát thấy ở
trên nhà sảnh có đèn đóm sáng trưng rồi thấy Trương Đô Giám quát lên rằng:
- Trói
cổ nó đem đến đây.
Chúng
nghe nói, đều túm vào lôi kéo Võ Tòng vừa đi vừa đánh, mà dong lên trước sảnh.
Võ Tòng
liền kêu lên rằng:
- Tôi là
Võ Tòng đây có phải cướp đâu?
Trương
Đô Giám nom thấy cả giận, biến hẳn nét mặt mà quát lên rằng:
- Quân
tù tội khốn nạn kia, mày thực là một thằng mắt giặc, ruột giặc, gan giặc...ta
đây cất nhắc cho mày được nên người có điều chi phụ bạc với mày không? Vừa rồi
ta còn cho ngồi chung uống rượu, chỉ mong cất nhắc cho mày được nên danh giá
con người ai ngờ mày lại xử tệ với ta như thế?
Võ Tòng
kêu lên rằng:
- Việc
nầy có can hệ gì đến chúng tôi? Tôi đương đuổi bắt cướp. Tôi đây đầu đội trời,
chân đạp đất, không khi nào chịu làm việc như thế bào giờ?
Trương
Đô Giám lại quát lên rằng:
- Quân
quái này, thôi đừng xoen xoét cái mồm nữa; Bây hãy ra khám ở phòng nó xem có
tang vật gì không.
Bọn lính
vâng dạ, rồi lôi Võ Tòng ra phòng để khám. Khi mở hòm ra thấy ở trên có ít quần
áo, còn ở dưới thì toàn thị là các đồ dùng bằng vàng bạc cả. Võ Tòng thấy vậy
ngẩn người, không biết kêu nói làm sao cho được. Chúng lại giải Võ Tòng, và
khiêng hòm lên trước cửa sảnh.
Trương
Đô Giám thấy vậy quát mắng ầm ĩ lên rằng:
- Quân
này vô lễ đến thế thì thôi! Tang vật rành rành ở trước hôm kia còn cãi được
không! Người ta thường nõi: "Chúng sinh còn độ được, đến người thì khó
lòng mà độ được!" Té ra mày chỉ có ngoài mặt là người, còn trong lòng ruột
cũng không khác gì cầm thú... !
Nói
đoạn, liền sai phong tang vật lại, rồi cho đem Võ Tòng vào cơ mật hãy giam ở
đó. Nhất diện sai người sang nói với Tri Phủ, và đem đút lót các chốn Áp Ty,
Khổng Mục để lên án Võ Tòng.Sáng hôm sau đám hộ tập quan sát bắt Võ Tòng giải
sang bên phủ, và đem các tang vật đến trình. Trương Đô Giám cũng sai người nhà
đem giấy trình sự mất cướp ở trước mặt phủ quan.
Tri Phủ
xem xong quát tả hữu trói chặt Võ Tòng lại, rồi gọi lấy các hình phạt đem ra. Võ
Tòng vừa toan cất mồm lên kêu, thì quan phủ lại quát lên mà rằng:
- Thằng
này nguyên là một thằng phát vãng đến đây, nay lại trông thấy các đồ vàng bạc
thế kia, lẽ nào mà không sinh lòng cướp bóc? Chúng đâu không cần hỏi nó làm gì,
cứ đem ra mà đánh hết sức đi...Lính nghe nói dạ dăm dắp một lượt rồi đem roi ra
tra đánh Võ Tòng đen đét như mưa rào trên mặt đất vậy.
Võ Tòng
không biết thế nào mà chống cự nổi, bèn liều má xưng nhận là:
- Tối
hôm Rằm tháng Tám có thừa cơ vào nhà trong, mà lấy trộm các đồ kim ngân mọi
lẽ...
Quan Phủ
sai lấy cung rồi lại lấy gông, gông cổ Võ Tòng mà giam xuống nhà lao. Võ Tòng
bị giam xuống nhà lao, bấy giờ trong bụng mới tỉnh ngộ mà nghĩ thầm rằng:
"Cái này chắc là thằng Trương Đô Giám bày mẹo, để hãm hại mình như vậy!
Nếu sau này có phen thoát tội được ra, thì quyết nhiên phải liệu cho nói một
phen mới được".
Chàng
nghĩ vậy thì trong lòng căm tức vô cùng. Còn mấy tên coi ngục đều nhận được
tiền của Trương Đô Giám, nên đem Võ Tòng bỏ vào nhà đại lao, rồi cùm chân khóa
tay, gông cổ, trói lại nghiêm ngặt.
Hùm
thiêng khi đã sa cơ,
Rừng cây
gai góc giờ có ai?
Bên kia
Thi Ân nghe tin Võ Tòng bị bắt, bèn vội vàng về thành bàn với Lão Quản Doanh.
Lão Quản Doanh nói rằng:
- Việc
này chắc là Trương Đoàn Luyện muốn báo thù cho Tưởng Môn Thần, nên mới nói với
Trương Đô Giám mà mưu sự như thế, chắc rằng các chốn cùng môn trên dưới đều có
đút lót tiền nong, mà giết hại Võ Tòng chứ không chơi. Cứ như bụng ta, ta tưởng
Võ Tòng cũng không đến nỗi nào tử tội, vậy nên ta cho người đến nói lót với hai
người Ấp Lao và Tiết Cấp để duy trì tính mạng cho Võ Tòng, rồi ta ở ngoài mà
liệu cách xoay sau:
Thi Ân
nói:
- Hiện
người Tiết Cấp coi tù bây giờ là người họ Khang, vốn thân mật với con xưa nay,
hay đến đó mà nói...
- Phải
lắm, người ta vì con mà đến nỗi bị quan tư bắt bớ, nay con không cứu người ta,
thì đợi đến bao giờ nữa!
Thi Ân
liền lấy mấy trăm lạng bạc, đem đến nhà Khang Tiết Cấp để đút lót. Khi tới nơi
Thi Ân đem đầu đuôi chuyện Võ Tòng nói cho Tiết Cấp nghe. Khang Tiết Cấp nghe
nói liền bảo Thi Ân rằng:
- Chẳng
dấu gì huynh trưởng, việc này toàn mưu mẹo của Trương Đô Giám, cùng Trương Đoàn
Luyện là hai anh em kết nghĩa với nhau đó. Hiện nay Tưởng Môn Thần vẫn ở nhà
Trương Đoàn Luyện, sai người đem tiền đi đút lót khắp cả các nơi, trên có quan
Phủ làm chủ, rồi đến chúng tôi đây, ai ai cũng được tiền cả, chỉ tính sao kết
quả Võ Tòng nữa là xong. Duy ở đây có một người Khổng Mục họ Diệp, coi là có
trung trực nghĩa khí, không chịu hãm hại lương dân, bởi thế mà Võ Tòng cũng đỡ
được nhiều điều nguy hiểm. Nay nếu ngô huynh đến cứu giúp Võ Tòng, thì bao
nhiêu những việc trong ngục phó để mặc tôi, tôi sẽ liệu đường mà khoan dung tử
tế, còn ngô huynh phải nhờ người đến nói với Khổng Mục họ Diệp, để liệu sớm kết
đoán cho ra! Thì mới có thể cứu tính mệnh được.
Thi Ân
nghe nói, bèn đưa ra một lạng bạc để tạ ơn Khang Tiếp Cấp, Tiết Cấp hai ba lần
từ chối, nhưng Thi Ân nhất định không nghe, bất đắc dĩ về sau phải nhận. Đoạn
rồi Thi Ân bái biệt Tiết Cấp mà trở về dinh, tìm biết một người quen biết Diệp
Khổng Mục, mà nhờ đưa một trăm lạng bạc để nói giúp.
Nguyên
Diệp Khổng Mục vốn biết tiếng Võ Tòng là hảo hán, nên vẫn có lòng thương nể, mà
đem các văn án định lòng lựa đổi giản dị. Duy Tri Phủ thì ăn nặng, song chẳng
qua là một tội cướp trộm đồ vật, chưa lấy gì mà kết tử tội cho được. Nhân thế
Tri Phủ vẫn cứ dùi dắng rảnh chuyện. Nay Diệp Khổng Mục, thấy có người đem tiền
đến nói cứu mạng cho Võ Tòng, thì trong lòng càng mừng rỡ, bèn hết sức đem cái
văn án giảm nhẹ bớt đi, rồi đến khi mãn hạn sẽ thi hàn kết đoán. Ngày hôm sau
Thi Ân sửa soạn rượu nhắn chững chạc, nhờ Khang Tiết Cấp dẫn vào đại lao, để
thiết đãi Võ Tòng. Bấy giờ Võ Tòng nhờ có Khang Tiết Cấp tử tế trông nom, khoan
thứ các đồ hình nặng nên chàng cũng được ung dung không đến nỗi nguy nan như
trước. Thi Ân lại đưa tiền cho các người canh gác mà dặn dò trông nom cẩn thận
cho Võ Tòng. Khi cơm nước xong, Thi Ân ghé vào tai Võ Tòng bảo thầm các câu
chuyện, và dặn dò cứ yên tâm, rồi sau sẽ có ngày thoát khỏi.
Võ Tòng
từ ngày được Khang Tiết Cấp khoan túng dễ dàng, thì chàng đã định ý toan vượt
ngục, nay thấy Thi Ân nói vậy;thì rầu lòng nấn ná xem sao? Cách hai hôm sau,
Thi Ân lại mang cơm rượu tiền nong, nhờ Khang Tiết Cấp dẫn vào lao để đưa cho
Võ Tòng, và các người canh gác ở đó.Đoạn rồi Thi Ân lại nhờ người nói lót các
nơi, để mau mau sửa soạn văn thư cho chóng xong mọi việc.
Cách mấy
hôm nữa, Thi Ân lại sắp rượu thịt cùng quần áo, để đưa vào cho Võ Tòng ăn uống
và thay giặt. Trong mấy hôm đó, Thi Ân vào trong nhà lao thăm hỏi Võ Tòng được
ba buổi, bất đồ bị người nhà Trương Đoàn Luyện dò biết tình hình, liền đem
chuyện về báo với Trương Đoàn Luyện ngay lập tức. Trương Đoàn Luyện nghe nói,
bèn đem sự thực sang nói với Trương Đô Giám. Trương Đô Giám lại sai người đem
vàng lụa đến đút lót Tri Phủ, và nói hết mọi lẽ cho Tri Phủ nghe.
Tri Phủ
vốn một tay tham nhũng xưa nay, khi nhận vàng lụa rồi, liền sai người lảng vảng
trông nom trên dưới nhà lao, và tra xét các người qua lại. Thi Ân nghe biết
chuyện ấy đành phải chịu phép ở nhà, không dám ra vào trông nom chi nữa. Tư đó
Võ Tòng nhờ được Khang Tiết Cấp cùng mấy tên canh gác trông nom tử tế, còn Thi
Ân thỉnh thoảng đến nhà Tiết Cấp để dò la tin tức mà thôi.
Thấm
thoát trong hai tháng trời, Diệp Khổng Mục hết sức đem các việc oan khuất của
Võ Tòng, để giải bày cùng Tri Phủ, và hết sức bênh vực mọi điều. Bấy giờ Tri
Phủ biết rõ việc đó là Trương Đô Giám ăn lễ của Tưởng Môn Thần, mà thêu đặt nên
chuyện, để hãm hại Võ Tòng, thì trong bụng cũng lấy làm nản mà tự nghĩ rằng:
"Té ra họ được ăn tiền, mà để tiếng giết người cho ta, thì làm sao cho
tiện? " Nhân thế Tri Phủ cũng để mặc đó, mà không lý hội gì đến nữa.
Dần dần
đến hạn sáu mươi ngày, Tri Phủ bắt Võ Tòng ở trong ngục ra, thay bỏ gông trói,
rồi Diệp Khổng Mục đem án ra tuyên cáo, định tội Võ Tòng phạt hai mươi trượng
đày sang Ân Châu, còn tang vật ăn trộm, thì giao trả chủ cũ. Trương Đô Giám đến
nhận các đồ tang vật. Đoạn rồi Tri Phủ gọi thợ, khắc kim ấn vào mặt Võ Tòng,
đánh hai mươi trượng, gông thứ gông nặng, và thảo công văn sai hai tên công sai
đi áp tải Võ Tòng. Nguyên khi Võ Tòng bị đánh, đã nhờ được Lão Quản Doanh xuất
tiền nói lót các nơi, lại được Diệp Khổng Mục có lòng trông nom giúp đỡ, và Tri
Phủ cũng thương là oan khuất không may, nên mấy chục trượng đòn cũng không lấy
gì đau đớn. Hôm đó Võ Tòng nhịn tức theo giữ phép công, đeo gông vào cổ mà theo
hai tên công sai đi thẳng ra thành. Đi được hơm một dặm đường, chợt thấy Thi Ân
ở bên cạnh đường, chạy ra đón rước mà rằng:
- Tiểu
đệ đợi quan anh đã lâu rồi...
Võ Tòng
trông thấy Thi Ân lại có quấn lụa trên tay, chàng liền hỏi rằng:
- Mới ít
lâu nay không được gặp Tiểu Quản Doanh, sao đã lại đau tay như thế?
Thi Ân
đáp rằng:
- Chẳng
dấu gì Ca Ca, từ hôm tiểu đệ vào thăm Ca Ca được ba lần rồi, sau quan Phủ sai
người cấm đoán, nên không dám vào đấy nữa. Bất đồ được nửa tháng trời, một hôm
tiểu đệ đương ở Khoái Hoạt Lâm, bỗng thấy Tưởng Môn Thần lại đem bọn người đến
để đánh nhau. Tiểu đệ lại bị hắn đánh một trận rất đau rồi lại chiếm giữ Khoái
Hoạt Lâm và bắt tiểu đệ phải tìm các người ở quanh đó để nói lại. Nhân thế
trong mấy hôm trời, tiểu đệ phải nằm nghỉ ở nhà mà không đi đâu được. Nay nghe
tin huynh trưởng phải đi đày ở Ân Châu, đệ đem hai tấm áo bông đến để Ca Ca
thay mặc đi đường, và có hầm hai con vịt chín để trong hàng kia, xin mời Ca Ca
vào uống mấy chén rượu rồi sẽ đi.
Nói đoạn
quay ra mời hai người công sai vào hàng một thể.
Hai tên
công sai nhất định từ chối mà rằng:
- Khi
nào chúng tôi lại ăn uống với thằng giặc tù này, lỡ ra quan tư biết đến thì sao?
Lại quay
lại bảo với Võ Tòng rằng:
- Nếu
anh không muốn đánh đòn, thì phải đi ngay mới được.
Thi Ân
biết nói thế không ăn thua gì, liền đem mười lạng bạc đến tặng đám công sai,
đám kia nhất định không lấy rồi ra uy sừng sộ bắt Võ Tòng phải đi.
Thi Ân
liền rót hai chén rượu đưa Võ Tòng uống rồi buộc khăn gói áo vào lưng rồi, treo
hai con vịt lên đầu gông cho Võ Tòng, mà ghé vào tai dặn rằng:
- Trong
gói đó có hai áo bông, một bọc tiền và mấy đôi giầy gai ở đó...Song đường xá xa
xôi, phải nên để phòng cẩn thận, mấy thằng công sai này, nghe chừng không có
bụng tốt đâu?
Võ Tòng
gật đầu nói rằng:
- Bất
tất phải dặn, tôi đã hiểu rồi...cho nó thêm hai thằng nữa đến đây, cũng không
sợ gì chúng nó. Chú cứ về tôi khắc có xử trí.
Nói đoạn
Thi Ân liền bái biệt Võ Tòng, rồi sùi sụt gạt lệ trở ra về.
Một phen
tri kỷ cùng nhau,
Vì ai
nên nỗi bể dâu hỡi trời?
Rồi đây
non nước xa vời,
Anh hùng
mang giận muôn đời bao tan!
Võ Tòng,
từ khi theo hai người công sai lên đường, đi được khoảng vài dặm, hai tên công
sai bàn vụng với nhau rằng:
- Sao
chưa thấy hai thằng ấy đến đây... ?
Võ Tòng
nghe biết ý chúng, liền cười thầm mà tự nghĩ rằng "Quân khốn nạn này, lại
muốn trêu lão gia đây!" Chàng nghĩ vậy, thì tay phải sẽ rút đanh một bên
gông để tháo tay trái ra, rồi để con vịt quay vào cho tay phải cẩm, còn tay
trái thì xé thịt để ăn. Đi được năm dặm đường, thì chàng đã ăn hết hai con vịt
chín. Bấy giờ chừng đi khỏi thành độ tám chín dặm đường, chợt thấy phía trước
có hai người vác đao giáo đứng đợi ở đó. Khi hai người trông thấy tụi công nhân
dong Võ Tòng đến, thì cùng đổ ra mà đi một thể.
Võ Tòng
liếc mắt hai anh kia, cùng hai công sai đưa mắt cho nhau, ra ám hiêïu bảo nhau,
thì trong lòng cũng đã hiểu ngầm ý tứ, song vẫn vờ làm ra mặt không biết. Đi được
vài dặm đường nữa, thì bỗng đến một nơi bến nước mênh mông, bốn mặt toàn là bãi
sâu sông rộng.Năm người cùng nhau tiến bước, tới một cái cầu to rộng, bên cạnh
có một cái lầu để bia, trong bia khắc ba chữ "Phi Vân Phố" rất to.
Võ Tòng
thấy vậy, bèn giả vờ nói rằng:
- Chỗ
này là chỗ nào đây?
Hai tên
công sai đáp rằng:
- Mắt
anh mù đâu! Không trông mấy chữ Phi Vân Phố để ở bên kia à?
Võ Tòng
đứng lại mà nói rằng:
- Tôi
muốn đi cầu một cái đã.
Vừa nói
dứt lời, thì hai anh đứng đón lúc nãy bỗng vác dao sấn gần vào, Võ Tòng liền
quát lên một tiếng, đá thốc luôn cho một cái ngã lăn xuống nước. Còn một anh
nữa vừa toan quay mình, thì đã bị chàng đá luôn cho một cái nữa, ngã quay đơ
ra, mà lặn tùm xuống nước. Hai tên công sai thấy vậy vội trông lối dưới cầu mà
toan chạy xuống. Võ Tòng thét lên rằng:
- Chúng
bây chạy đi đâu?
Nói xong
cầm gông bẻ một cái, gãy tan ra làm đôi, rồi sấn xuống dưới cầu để đuổi. Một
tên công sai thấy Võ Tòng đuổi đến, thì kinh sợ rụng rời, mà tự ngã lăn ra đất,
còn tên kia thục thân cố chạy, cũng bị chàng đuổi tới, mà đánh cho một cẳng tay
vào sau lưng ngã lăn xuống đó.
Đoạn rồi
Võ Tòng vớ lấy thanh đao quăng rơi ở bến nước, quay lại đâm cho mỗi thằng một
nhát, kết quả tính mạng hai tên công sai. Bấy giờ hai anh ngã lăn xuống nước
vừa mới lóp ngóp bò lên, toan cất cẳng để chạy, bất đồ bị Võ Tòng đuổi đến, đâm
chết một anh, còn một anh nữa, thì chàng ta nắm đầu giữ lại, rồi quát lên rằng:
- Muốn
sống thì phải thực ta tha cho, ai xui mày đến đây như thế!
Anh kia
run sợ mà kêu rằng:
- Chúng
tôi là đồ đệ Tưởng Môn Thần, sư phụ tôi cùng Trương Đoàn Luyện bàn nhau, sai
chúng tôi đến đây, để giúp hai tên công sai mà hại hảo hán đó.
- Sư phụ
mầy là Tưởng Môn Thần, hiện bây giờ ở đâu?
- Khi
chúng tôi ra đi, thì hiện đương cùng Trương Đoàn Luyện uống rượu ở lầu Uyên
Ương tại nhà Trương Đô Giám, để đợi tin chúng tôi về báo.
Võ Tòng
nghe nói liền bảo tên kia rằng:
- Nếu
vậy thì ta không thể nào tha cho mầy được.
Nói đoạn
giơ dao lên một nhát, ngã chết còng queo ra đó.
Đao nầy
mình định giết ai?
Vì đâu
bỗng hóa ra ai giết mình!
Nực cười
trời khéo xoay nhanh,
Thanh
đao kia để vô tình với ai... ?
Bấy giờ
Võ Tòng lần các con dao lưng, chọn lấy một con rất tốt giắt vào mình. Lại e hai
tên kia chưa chết hăn, liền đâm thêm cho mỗi anh mấy nhát, vất cả xuống bến
nước, rồi lên cầu đứng vẫn vơ một mình mà nghĩ. Chàng nghĩ thầm rằng: Bầy giờ
ta đã giết xong bốn đứa này rồi, song còn đám Trương Đô Giám, Trương Đoàn
Luyện, Tưởng Môn Thần, vẫn còn ở đó thì bao giờ cho thỏa lòng tức giận bấy
nay!" Chàng nghĩ vậy, thì vác đao quanh quẩn hồi lâu, rồi thốt nhiên định
bụng, mà xăm xăm về lối Mạnh Châu, mới hay:
Trông
giang sơn luống ngại ngùng!
Giết
người mang tiếng để lòng mang oan,
Hay chi
đồng loại tương tàn,
Mà đem
giọt máu tưới tan khối thù,
Giận
trời còn lắm phàm ngu,
Trăm năm
để khách giang hồ bận tay,
Phi Vân
còn bến nước đây.
Còn về
còn nhớ đến ngày rửa oan...
Lời bàn
của Thánh Thán:
Tác giả
tả Khoái Hoạt Lâm, sớm Tưởng tối Thi, nay Thi mai Tưởng, bèn khiến người chẳng
còn trở lại khoái ý, Sử quan có ích cho đời, xét ra không ít, vì không muốn cho
bọn cường hào tranh chiếm của thiên hạ với nhau.
Trương
Đô Đầu cho Võ Tòng đi lại trong nhà, để lừa cho chết, nào ngờ lại bị chết, cái
cơ họa phúc không lường, độc giả đến lạnh lùng khiếp sợ.
Sau khi
Võ Tòng giết chết chị dâu, lại tả ra rất nhiều thú phong lưu khinh bạc, như
loại Thập Tự Phi, Khoái Hoạt Lâm, lại chợt đâu tả ra ở dưới lầu Uyên Ương nhà
Trương Đô Giám, giữa tết Trung Thu yến ẩm, toàn những chuyện tình, hoặc đưa
đến, hoặc gợi ra vui đùa... đến đem Ngọc Lan hứa gả, khiến anh em Võ Đại, Võ
Nhị, có Kim Liên với Ngọc Lan, bỗng thấy nên đôi, lòng vàng gấm vóc moi ra,
thực là tuyệt thế.
Tả Võ
Tòng sau khi đã giết bốn người, chợt dùng bốn chữ "Vác dao dùng
dằng", thực khéo dùng như Trang Tử, khiến độc giả sau này, chẳng rõ là
Thủy Hử dùng theo Trang Tử, hay là Trang Tử dùng theo Thủy Hử.
Hồi sau
tả máu ngập lầu Uyên Ương, một chuyện lộn trời đảo đất, mà trước đã tả câu bốn
chữ này, chợt khiến người đọc suy xét, ngọn bút thần diệu là thế, đâu phải
người đời dễ biết ra ngay!
THỦY HỬ
TRUYỆN
Chương 30: Trăng sáng mài dao, báo oán giết
nhà Đô Giám; Trời đêm lánh nạn, giả sư qua núi Ngô Công
Võ Tòng
vác đao trở về Mạnh Châu, vừa đi đường vừa nghĩ quanh co, lại càng căm giận cho
bọn nhà họ Trương, không thể nào mà buông tha không giết được. Khi về tới trong
thành, thì vừa hay đã tối, chàng liền tìm đến một chỗ tàu ngựa ở sau vườn hoa
nhà Trương Đô Giám để nấp. Được một lát nghe có tiếng cửa mạch ở góc mở cót
két, chàng ngó cổ vào xem, thì thấy tên bồi hầu ngựa, cầm cái đèn lồng ở trên
nhà đi xuống tàu ngựa, rồi quay mà cài cửa lại. Đoạn rồi tên bồi bỏ cỏ cho ngựa
ăn, treo đèn lên một chỗ, mà trải chăn chiếu cởi áo xống lên giường nằm ngủ. Võ
Tòng nghe tiếng trống vừa điểm một canh bốn khắc, chàng bèn lén gót đến trước
cửa ở chỗ tàu ngựa mà khua rung làm bộ như người cậy cửa. Tên bồi ngựa nằm
trong quát lên rằng:
- Lão
gia vừa ngủ mà mầy toan đến ăn cắp quần áo à? Còn sớm lắm... !
Võ Tòng
lặng ngắt, dựng thanh đao vào một bên, rút dao ra cẩm ở tay, rồi lại cạy cửa
lạch cạch luôn một lúc.Tên bồi ngựa nằm trong nóng tiết nhảy bổ dậy, không kịp
mặc áo xống, vội vớ lấy cái đòn gánh, rút then cửa toan mở ra để đánh. Dè đâu
vừa mới rút được then cửa ra, thì bị Võ Tòng đẩy sấn cánh cửa bước vào mà nắm
chặt lấy cánh tay. Cậu bồi ta toan cất tếng kêu lên, lại trông thấy thanh đao
sáng nhoáng ở dưới bóng đèn, thì kinh hồn khiếp vía, rời rụng chân tay, mà sẽ
xin kêu van để tha mạng.
Võ Tòng
nói:
- Có
nhận ra ta là ai không?
Tên bồi
ngựa nghe thấy tiếng, mới biết Võ Tòng liền kêu rằng:
- Ca Ca
ơi! Có việc gì đến tôi xin Ca Ca tha cho tôi!
Võ Tòng
lại hỏi:
- Mầy
phải nói thực, hiện giờ Trương Đô Giám ở đâu?
- Hôm
nay Trương Đô Giám cùng Trương Đoàn Luyện và Tưởng Môn Thần uống rượu suốt
ngày, hiện còn ở lầu Uyên Ương đó.
- Mầy
nói có thực không?
- Tôi
nói dối thì lên đinh ở mồm.
Võ Tòng
nói:
- Ừ, nếu
vậy thì ta cũng không thể tha cho mầy được!
Nói đoạn
đâm chết thằng bồi ngựa ra đó. Đoạn rồi lau đao bỏ vào bao, đến trước bóng đèn
cởi khăn gói lấy hai tấm áo bông của Thi Ân đưa cho, mà thay mặc cẩn thận rồi
vớ lấy cái chăn đơn của tên bồi ngựa bọc lấy tiền nong vặt vãnh treo vào một
bên cửa. Bấy giờ chàng dựng cánh cửa chéo lên tường thổi tắt ngọn đèn, đi ra
cửa cầm lấy thanh đao, rồi nhờ bóng trăng suông mà nhảy qua tường vào phía
trong. Khi vào tới trong tường, chàng mở then cửa mạch, đi vào rồi khép luôn
hai cánh cửa lại. Đoạn rồi theo ánh đèn sáng mà đi thẳng lên bếp.
Võ Tòng
nấp bên cạnh bếp, nghe tiếng hai đứa thị nữ, đương đứng ở trong bếp, phàn nàn
với nhau rằng:
"Hầu
hạ suốt ngày hôm nay, bây giờ chưa ngủ ...lại còn nước nước với nôi nôi... !
Hai anh khách ấy rõ không biết dơ, chén đã say khướt ra, thế mà còn chưa chịu
xuống lầu đi ngủ, không hiểu rằng chuyện trò đến bao giờ? "
Hai ả
đương oán hận với nhau ở trong bếp, thì Võ Tòng ngoài này dựng thanh đao một
chỗ, rồi rút con dao còn vấy máu ở trong túi ra, đẩy cửa mở bếp mà nhảy tót
vào, vớ lấy chị ả đứng ngoài đâm cho một nhát. Còn chị kia toan té cẳng chạy,
thì gân cốt rủn ra mà không sao chạy được, toan há mồm để kêu thì mồm lưỡi lýu
lại, mà không kêu lên, đành cứ tái người sạm mặt đứng im đấy chịu chết. Võ Tòng
sấn đến đâm một nhát dao ngã lăn xuống đất rồi tắt đèn trong bếp, quay ra theo
bóng trăng mà lên nhà trên.
Nguyên
Võ Tòng trước đã ở đó ít lâu, nên đường ngang lối tắt đều thuộc cả, chàng liền
theo lối tắt đi thẳng đến lầu Uyên Ương. Khi tới chân thang, chàng ta sẽ rón
chân tay, sờ bò lần lên thang gác.
Bấy giờ
bọn đầy tớ hầu hạ đã mỏi mệt, không còn anh nào đứng lảng vảng ở gần đấy, chỉ
nghe tiếng ba người là Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện và Tưởng Môn Thần vẫn
còn nói chuyện với nhau.
Võ Tòng
lắng tai nghe thấy Tưởng Môn Thần tán tụng luôn mồm mà rằng:
- Việc
này nhờ ở Tướng Công, nên mới bào thù được thế...Chúng tôi sẽ hết lòng bào đáp
Tướng Công.
Trương
Đô Giám nói rằng:
- Cái đó
nếu tôi không nể Trương Đoàn Luyện đây, thì có khi nào làm thế được. Cũng may
ông tuy tốn mất ít tiền, song được như thế là tốt lắm!...Bây giờ thằng ấy chết
rồi thì phải. Tôi bảo nó đưa đến Phi Vân Phố là hạ thủ, không biết đã xong
chưa? Để sáng mai bốn đứa ấy về đây sem sao?
Rồi thấy
Trương Đoàn Luyện nói rằng:
- Bốn
thằng giết một thằng, thì làm gì chẳng xong?
Lại đến
Tưởng Môn Thần nói rằng:
- Chúng
tôi cũng dặn mấy tên đồ đệ như vậy, chắc là sáng mai thế nào cũng có tin về
báo.
Võ Tòng
nghe ngần ấy câu chuyện, thì lửa giận trong lòng dần dật bốc lên cao mấy nghìn
trượng, như xung đột tới trời, liền tay phải cầm đao, tay trái xòe năm ngón
tay, rồi nhảy sấn vào trong lầu. Khi đó dăm ba ngọn nến thắp linh tinh, một vài
chỗ bóng trăng soi chếch mếch. Trong lầu sáng như gương, các đồ cốc chén cốc
rượu chè đều chưa thu dọn sạch. Tưởng Môn Thần ngồi ở trên ghế, chợt trông thấy
Võ Tòng nhảy vào, thì giật mình hết vía, bao nhiêu đảm lượng can tâm, đều theo
lên mây trời mất cả. Chàng ta hất hải vội đứng mau dậy, dè đâu thấy đến vút một
cái, thì con dao Võ Tòng đã ném luôn một nhát cả người lẫn ghế đều đổ lăn ra.
Võ Tòng chém xong vừa quay người lại, thì thấy Trương Đô Giám đương té cẳng
toan chạy, chàng liền chém cho một nhát vào đầu, xẻ hẳn từ tai đến cổ mà ngã
vật ra sàn gác. Còn Trương Đoàn Luyện nguyên là một tay quan võ sĩ xuất thân,
bây giờ tuy có chếch choáng hơi men, song sức lực cũng còn hăng hái, nhân trông
thấy hai người bị đâm chết, một mình khó chạy cho xong, liền vớ lấy một cái ghế
múa lên để đánh Võ Tòng.
Võ Tòng
hăng máu bắt lấy ghế, đẩy cho một cái thực mạnh, Trương Đoàn Luyện bị ngã lăn
chiêng ra đằng sau, rồi Võ Tòng sấn vào mà cắt hẳn lấy đầu. Đằng kia Tưởng Môn
Thần tuy bị một nhát thương, song vẫn còn khí lực, liền cố mà lóp ngóp bò dậy,
Võ Tòng lại quay lại, phi chân trái đá lăn ngã xuống, rồi chân phải đè lên bụng
mà chém đứt lấy đầu. Đoạn rồi quay lại mà cắt lấy đầu Trương Đô Giám.
Bấy giờ
trên bàn còn bày rượu thịt ở đó, Võ Tòng liền rót rượu uống luôn mấy cốc, rồi
xé lấy một miếng áo của bọn chết kia, mà thấm máu, viết mấy chữ to lên vách
vôi: "Kẻ giết người chính là Võ Tòng đánh Hổ".
Chàng
giết xong quay ra chọn cốc chén ở trên bàn lấy một vài thứ quý báu giắt vào
mình, còn thì vất bừa ở đó, rồi trở ra toan xuống gác. Vừa khi ấy nghe tiếng
Phu nhân ở dưới nói lên rằng:
- Bọn
các quan ở trên gác say rượu lắm hẳn? Bây đâu lên gác đỡ các ngài đi nghỉ đi!
Phu nhân
nói chưa dứt lời thì đã có hai người ở dưới đi lên thang gác.
Võ Tòng
nấp vào đầu thanh gác nom ra, thì chính là hai đứa thân hầu Trương Đô Giám, vừa
mới trói mình dạo trước, chàng liền đứng nấp vào xó tối, để nhường cho hai anh
đi vào gác, rồi đứng ra mà chặn đường xuống. Hai anh kia vào đến sàn gác, thấy
ba cái xác chết nằm sóng sượt ở trên vũng máu, thì kinh sợ hết hồn, cứng lưỡi
không thể nào kêu lên thành tiếng, vừa toan tháo chạy ra, thì Võ Tòng đã tiến
vào giết phăng một anh, còn anh nữa thì quỳ xuống kêu xin tha mạng. Võ Tòng
miệng nói: - Không tha được!
Tay thì
nắm chặt lấy thằng kia, rồi cũng cho một nhát dao kết quả nốt.
Đoạn rồi
chàng nghĩ thầm: "Đánh rắn phải đánh dập đầu, dẫu cho chết đến trăm đứa,
cũng chỉ một chết mà thôi". Liền lăm lăm vác đao đi xuống gác. Phu nhân ở
dưới nhà hỏi lên rằng:
- Trên
gác làm gì mà ầm ĩ gớm lên thế?
Vừa hỏi
xong, thì Võ Tòng đã đi vào đến trước cửa phòng. Phu nhân thấy người to lớn
bước vào trong bụng lấy làm quái lạ, cất mồm vừa hỏi một tiếng.
- Ai?
Thì Võ
Tòng đã đưa dao vào chém ngay một nhát; ngã lăn xuống đất, Võ Tòng lấy chân đè
lên mà cắt lấy đầu. Dè đâu cưa mãi không thấy đứt. Võ Tòng giơ dao lên hé bóng
trăng soi cửa để xem, thì thấy lưỡi dao đã quăn mẻ ra, như người bằm hỏng vậy.
Chàng thấy thế, vội vàng quay xuống bếp, vớ lấy thanh đao, rồi lại sồng sộc đi
lên trên nhà. Khi đó dưới bóng đèn sáng trông thấy đứa bé đương cầm đèn soi xác
của Phu nhân trên mặt đất mà kêu lên rằng:
- Trời
ơi! Khổ!
Võ Tòng
thấy vậy, vác dao vào chém chết Ngọc Lan, còn hai đứa bé con cũng cho mỗi đứa
một nhát. Đoạn rồi chạy ra nhà giữa, trước hết cài kín cửa ngoài, rồi quay vào
lùng quanh trong nhà, thấy có ba người đàn bà ở đó, liền chém cho mỗi người một
nhát nằm chết đứ đừ ra đất. Lúc đó máu uất ở trong mình, cùng với ngọn máu giết
người đã tiêu tan đi hết, Võ Tòng liền nói một mình rằng:
- Bây
giờ ta mới được vừa lòng, thôi đi ngay mới được...
Nói đoạn
bỏ hết bao dao, cầm một thanh đao lớn đi ra ngoài cửa mạch, đến tầu ngựa vớ lấy
khăn gói, bỏ thêm mấy thứ cốc chén vào trong đó, rồi gói bọc cẩn thận, buộc kỹ
vào lưng, mà quay ra vườn sau để đi.
Canh
khuya gió oán tung trời,
Gươm pha
máu đỏ trăng soi dạ vàng.
Trăm năm
qua gác Uyên Ương
Thử xem
hàng máu trên tường bao phai
Võ Tòng
đi tới thành tự nghĩ:
- Nếu
dùng dằng đợi khi mở cổng thành mới ra, thì tất là bị bắt bất nhược thừa lúc
ban đêm mà chạy lấy thoát cho rảnh. Nghĩ đoạn liền nhảy lên mặt thành đứng nom
ra ngoài thấy địa thế cũng không cao là mấy, chàng liền ném thanh đao xuống trước,
rồi co cẳng mà nhảy theo xuống sau. Khi nhảy xuống bên cạnh hào thấy bóng trăng
soi sáng, hào nước không sâu, chàng lại xắn quần cởi lá đáp, rồi xắn quần xắn
áo lội qua hào mà sang bên kia.
Sang đến
bờ hào bên kia, chàng sực nhớ đến trong gói có mấy đôi giầy của Thi Ân mang
cho, liền cởi gói ra lấy một đôi để đi. Bấy giờ nghe tiếng trống trong thành đã
điểm bốn canh ba khắc, chàng lại nói thầm một một mình rằng: "Trời ơi! Cái
lòng phẫn uất của ta bây giờ mới được thỏa, nhưng quanh đây không còn chỗ nào
khả dĩ lưu luyến được lâu, âu là ta đợi tìm nơi khác mà xa lánh thì hơn."
Chàng
nghĩ vậy, vác dao theo đường nhỏ mà đi sang bên hông. Đi được một quãng xa ước
chừng gần hết trống canh năm, trời còn tối mờ mịt chưa sáng. Võ Tòng xông pha
hăng hái suốt đêm, đến đó nghe trong mình mệt nhọc, các đầu roi bị đánh, lại
phát lên rất là đau đớn. Chợt đâu thấy một tòa nhà cổ miếu ở trong đám rừng cây
gần đó, Võ Tòng liền đi rảo bước chạy vào, đựng đao vào một chỗ, rồi cởi khăn
gói làm gối, mà nằm vật xuống để ngủ.
Võ Tòng
vừa toan nhắm mắt ngủ, thì bỗng có hai người đem dây móc vào móc chặt lấy cổ Võ
Tòng rồi hai người nữa chạy xổ ra, mà trói chặt lại. Bốn người bàn với nhau
rằng:
- Thằng
này to béo lắm, ta đem mau về cho Đại ca mới được.
Nói xong
cướp lấy đao và khăn gói Võ Tòng, rồi túm nhau vào kéo như kéo dê, không cho
đặt chân xuống đất, mà dong thẳng đi.
Lũ kia
vừa đi vừa nói với nhau rằng:
- Thằng
cha nầy trên mình có vệt máu, không biết rằng ở đâu đến đây? Có lẽ nó đi trộm
cướp ở đâu hẳn.
Võ Tòng
nghe vậy, lặng ngắt không mở mồm nói một câu gì cả.
Đi được
độ bốn năm dặm đường, đến một nơi nhà cỏ, liền kéo Võ Tòng mà lôi vào đó. Khi
tới nơi, chúng thắp đèn lên, rồi lột xống áo Võ Tòng ra mà trói vào cột. Võ
Tòng liếc mắt nom thấy trên sà nhà bên bếp treo toàn thị thịt đùi người, thì
nghĩ thầm trong bụng rằng: "Mình đen quá, lại vớ phải thần chết rồi, còn
sống thế nào được nữa. Nếu biết rằng cơ hội thế nầy, thì thà rằng ra thũ ngay ở
Tri Phủ Mạnh Châu, để cho nó chém cho một nhát, lại còn để tiếng được với
đời."
Bấy giờ
bốn người kia trói xong rồi, cầm lấy khăn gói của Võ Tòng mà gọi lên rằng:
- Đại
ca, Đại tẩu dậy mau mau, chúng tôi đã tìm được một món hàng hóa ở đây.
Nói đoạn
thì thấy có tiếng ở nhà trước ứng lên rằng:
- Ta đến
đây, chúng bây chớ hạ thủ vội.
Được một
lát có hai người ở nhà ngoài đi vào, Võ Tòng ngửa cổ lên nom, thấy một người
đàn bà đi sau anh chàng to lớn mà sồng sộc bước vào.
Hai
người nhìn kỹ Võ Tòng, rồi người đàn bà nói lên rằng:
- Chết
nỗi! Có phải là Thúc thúc đó không?
Anh
chàng đàn ông cũng kêu lên rằng:
- Thôi
phải rồi, chính phải là anh em ta đây rồi. Hai người ấy là ai? Nguyên vợ chồng
Thái viên tử Trương Thanh, kết nghĩa anh em với Võ Tòng khi trước.
Bấy giờ
hai người thấy vậy, liền cởi trói cho võ Tòng; rồi mời ra nhà ngoài nói chuyện.
Võ Tòng đem hết mọi chuyện, từ khi bái biệt vợ chồng Trương Thanh, cho đến khi
bị bắt ở đây, kể hét cho hai người nghe.
Khi ấy
bốn tên bắt Võ Tòng lúc nãy, nghe chuyện liền quỳ xuống mà nói rằng:
- Chúng
tôi là người trong nhà Trương Thanh đại ca đây, nhân vì mấy hôm nay đánh bạc
thua luôn phải vào rừng kiếm cách xoay xở, bất đồ thấy ngài ra dáng mệt nhọc
vào miếu để nằm, nên chúng tôi mới dám hạ thủ trói bắt. Song cũng may Đại ca
tôi dặn, chỉ cho bắt sống, đem về không được hại, nếu không thế, thì có lẽ hại
đến tính mệnh ngài. Điều đó thực chúng tôi lầm lỡ xin ngài tha tội cho.
Vợ chồng
Trương Thanh cười rằng:
- Chúng
tôi cũng vì hơi ngại trong lòng, nên bấy lâu bao nhiêu hàng hóa phải để nguyên
sống mang về mà không cho hạ trước, nhưng nào có ai hiểu đâu được tâm sự của
mình...Nay nếu anh em ta đây mà không nhọc mệt, thì không nói gì đến bốn các
người, dẫu đến bốn mươi kẻ cũng khó lòng mà tới gần được.
Bốn anh
kia nghe nói chỉ cúi đầu lạy tạ Võ Tòng không thôi. Võ Tòng bảo chúng đứng dậy
mà nói rằng:
- Thôi
được, bây giờ các anh không có tiền đánh bạc, để đây ta thưởng cho.
Nói đoạn
bắt lấy khăn gói mở ra. Lấy mười lượng bạc vụn cho bốn người chia nhau. Trương
Thanh thấy vậy cũng lấy ra ba lạng bạc nữa mà thưởng thêm cho chúng. Chúng được
tiền lạy tạ Võ Tòng và Trương Thanh mà đem ra chia nhau.
Trương
Thanh bảo với Võ Tòng rằng:
- Nguyên
hiền đệ không biết: Từ khi hiền đệ đi rồi, chỉ e hoặc có khi lỡ xẩy việc chi mà
lại trở về đây, nên tôi phải phòng bị dặn chúng từ trước hoặc khi chúng gặp mà
lỡ ra e cự không nổi, thì chúng tất hành hung, bởi thế lại phải cấm không cho
đem dao mác gì đi theo cả. Vừa rồi tôi chợt nghe nói, đã có bụng ngờ, quả nhiên
là hiền đệ...
Tôn Nhị
Nương nói rằng:
- Mấy
hôm trước tôi chỉ nghe tin thúc thúc say rượu đánh được Tưởng Môn Thần, ai ai
cũng lấy làm kinh sợ; đến nỗi bao nhiêu đám khách thương ỏ Khoái Hoạt Lâm qua
lại đây, không ai là không tán tụng luôn luôn. Ai ngờ về sau lại xẩy ra những
việc kinh thiên động địa, thế mà vợ chồng tôi không biết chi cả. Bây giờ thúc
thúc đương mệt nhọc xin vào trong phòng nghỉ một lúc rồi sẽ nói chuyện...
Trương
Thanh bèn dẫn Võ Tòng vào buồng khách nghỉ, rồi hai vợ chồng sai làm cơm rượu
để sắp sửa thết đãi Võ Tòng.
Nói về
bọn người nhà Trương Đô Giám ở Mạnh Châu, có kẻ lẩn nấp trốn được mãi đến khi
trời sáng mới dám thò ra, hô gọi các quân lính cùng người nhà người cửa túm vào
xem xét, rồi bảo nhau sang trình quan phủ. Quan phủ nghe nói cả kinh, hỏa tốc
sai người đến kiểm soát số người bị chết, và dò xem lối quân hung phạm ra sao.
Hôm sau
chúng về báo Tri Phủ rằng:
- Thoạt
tiên quân cướp vào tầu ngựa, trút bỏ hai tấm áo cũ ở đó. Sau vào đến bếp giết
chết hai đứa thị nữ và bỏ một con dao hành hung đã quằn mẻ tại bên cửa bếp. Đoạn
rồi lên lầu Uyên Ương Trương Đô Giám cùng hai tên người nhà và người khách là
Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần rồi lấy máu viết mấy chữ: "Kẻ giết người
chính là Võ Tòng đánh hổ" lên tường vôi. Dưới nhà gác lại giết một Phu
nhân, một thị nữ tên là Ngọc Lan, hai người con bé và ba người đàn bà, cộng tất
cả là giết chết mười lăm mạng, và mất một bộ sáu cái chén uống rượu bằng vàng
bạc.
Tri Phủ
nghe rõ đầu đuôi liền sai người canh giữ bốn mặt cổng phủ, rồi kiểm soát quân
mã cùng các viễn bộ tập, các thầy Trưởng Phố đến khắp các nơi để khám bắt Võ
Tòng.
Sáng hôm
sau lại thấy Lý Trưởng sở tại Phi Vân Phố đến trình bốn người bị giết chết,
hiện còn vệt máu tươi dưới chân cầu, và xác chết ở vũng nước. Tri Phủ tiếp được
giấy trình, liền gọi Huyện Uùy lên, nhất diện sai người đến Phi Vân Phố khiêng
bốn xác chết lên để khám, hai người là lính phủ còn hai người nữa, đều có người
nhà đến nhận xác đem chôn, và làm giấy kêu quan bắt hung thủ đền mạng. Trong
thành bắt đóng cửa luôn ba ngày để đến từng nhà khám xét.
Tri Phủ
lại sức giấy cho các viên cai quản các thuộc địa hạt trong phủ, phải đến từng
xã, từng thôn, từng xóm mà tìm bắt hung thủ. Lại viết tên tuổi và hình dung Võ
Tòng xuất tiền ba nghìn quan treo giải thưởng cho người nào bắt được tên phạm.
Đoạn rồi thảo công văn Tân Ước sức các nơi, ai biết chỗ Võ Tòng trốn tránh, đem
lên trình quan được thưởng; bằng ai chứa chấp nếu bắt được, thì bị tội cùng với
phạm nhân.
Cách ba
hôm sau, tiếng tăm ầm ĩ khắp nơi, đám thám tử cùng đám tập bộ không đâu là
không lai vãng dò xét. Trương Thanh nghe tin ấy, liền báo với Võ Tòng rằng:
- Ngày
nay nếu quan quân nhân truy nã riết như vậy, thì hiền đệ ở đây rất là không
tiện. Việc này không phải là tôi sợ chi, song nếu lỡ ra quan quân dò xét đến
nơi, thì bây giờ làm sao cho được? Vậy nay tôi nghĩ chỉ chốn này, trước đây
cũng đã nói qua cho hiền đêï biết rồi nhưng chẳng hay hiền đệ có thuận đi cho
không?
- Trong
mấy hôm nay, tôi đã nghĩ ở đây không sao mà yên được. Song như tôi có một người
anh đã bị chị dâu bất nhân giết chết đi, đến đất này lại bị người ta hãm hại,
thân thế gian truân họ hàng không còn có ai, để mà nương tựa! Nay ca ca có lòng
tốt mà tìm chốn cho tiểu đệ nương thân, thì còn có điều chi mà không thuận? Ca
Ca cứ nói cho tôi biết là ở đâu?
- Chính
là chùa Bảo Châu trên núi Nhị Long ở Thanh Châu là nơi ca ca Lỗ Trí Thâm tôi,
cùng Dương Chí đương làm bá một phương đó. Nay hiền đệ nếu muốn an thân thì tất
phải đến đấy mới xong, còn có đi đâu được hơn nữa? Vả chăng ở đấy đã nhiều phen
viết giấy bảo tôi nhập bọn song ý tôi còn lưu luyến chỗ này chưa có thể đi
được. Vậy nay tôi xin viết thư nói rõ đầu đuôi, và tiến dẫn hiền đệ lên đó, thì
chắc là họ phải vui lòng mà nhận, hiền đệ nghĩ sao?
- Đại ca
nói phải lắm! Tôi cũng định bụng đã lâu, song chưa phải thời, nên chưa làm
được.
Trương
Thanh liền viết một phong thư kỹ lưỡng, đưa cho Võ Tòng rồi bày tiệc để
tiễn.Bấy giờ Tôn Nhị Nương chợt bảo với Trương Thanh rằng:
- Làm
thế không được! Nếu thúc thúc cứ thế mà đi, ngộ lỡ ra bị người ta bắt được thì
sao?
Võ Tòng
nói:
- Tẩu
tẩu thử nói xem, làm sao mà tôi đi không được? Làm sao mà họ bắt được tôi?
Tôn Nhị
Nương nói:
- Hiện
nay quan tư sức giấy đi các nơi, vẽ hình vẽ ảnh, thưởng ba nghìn quan tiền để
bắt; Vả chăng trên trán thúc thúc có kim ấn rõ ràng, còn ai không biết?
Như thế
mà đi đường thì giấu thế nào nổi được người ta? Trương Thanh nói:
- Kim ấn
trên mặt thì dán miếng thuốc cao che đi cũng được chứ sao?
Tôn Nhị
Nương cười rằng:
- Thiên
hạ chỉ có một mình khôn, con người ta dễ thường ngu ngốc cả. Bọn công nhân bây
giờ phỏng làm như thế mà bịt mắt họ được chăng? Tôi có một cách này chỉ sợ thúc
thúc không chịu nghe thôi.
Võ Tòng
nói:
- Tôi đã
là thằng tù lánh nạn, thì còn việc gì mà không theo được nữa?
Tôn Nhị
Nương cả cười mà rằng:
- Tôi
nói ra đây, thúc thúc đừng giận nhé.
- Xin
tẩu tẩu cứ nói, thế nào tôi cũng vâng.
- Hai
năm trước có một người đi qua đây, bị tôi giết chết, câu chuyện ấy thúc thúc đã
nghe rồi. Hiện nay còn một cái mũ nhà sư bằng sắt, một cái áo xống tràng đen,
một cái thắt lưng thưa sắc tạp, một bản hộ điệp, một chuỗi tràng hạt, bằng một
trăm linh tám cái trối xương người, một đôi giầy bằng da cá nhà táng, và hai
khẩu giới đao bằng xác hoa. Hai khẩu đao ấy đêm đêm thỉnh thoảng lại kêu, ngày
trước thúc thúc đã xem rồi thì phải. Ngày nay đã định trốn nạn, thì trừ phi cắt
tóc giả làm một người hành giả đội mũ che kim ấn đi, rồi cầm lấy tờ hộ điệp ấy
để hộ thân, thì mới có thể được. Thúc thúc mặt mũi cũng giống, tuổi tác cũng
vừa, thực là nhân duyên tiền kiếp, cứ nhận ngay tên họ người ấy mà đi, không
còn ai hỏi đến nữa. Thế có được không?
Trương
Thanh vỗ tay khen rằng:
- Được
lắm, thế mà không nghĩ tới, thúc thúc định sao?
Võ Tòng
nói:
- Cái đó
thì tôi bằng lòng rồi, song chỉ sợ không giống được mà thôi.
Trương
Thanh nói:
- Để tôi
thử mặc vào cho thúc thúc xem sao.
Tôn Nhị
Nương liền vào buồng đem các thứ mũ áo ra cho Võ Tòng mặc.
Võ Tòng
liền mặc áo thắt lưng, bỏ xõa tóc xuống rồi đội mũ đen đeo tràng hạt không khác
gì một nhà sư vậy.
Trương
Thanh cùng Tôn Nhị Nương cả cười mà rằng:
- Thực
là kiếp trước đã định, cho nên mới được như thế.
Võ Tòng
liền cầm gương soi mặt cũng phải phì cười, mà không nhận được.
Trương
Thanh hỏi:
- Thúc
thúc cười chi như thế?
Võ Tòng
nói:
- Tôi
trông tôi, tôi cũng bật cười... không biết làm sao, tự nhiên lại hóa ra một nhà
sư. Bây giờ đại ca đem cắt tóc cho tôi vậy.
Trương
Thanh liền lấy kéo ra cắt tóc cho Võ Tòng rồi sắp sửa đồ đạc cho Võ Tòng đi.
Trương Thanh lại bảo Võ Tòng để các đồ chén bạc của Trương Đô Giám lại đây, rồi
bọc thêm một ít tiền nữa vào cho Võ Tòng và sai thợ khâu một cái túi gấm, đựng
tờ hộ điệp để cho Võ Tòng buộc sát vào trước bụng. Chiều hôm ấy Võ Tòng cơm
rượu xong rồi, thu thập các đồ hành lý, giắt hai khẩu giới đao, vào lưng, rồi
từ tạ vợ chồng Trương Thanh mà đi lánh nạn.
Trương
Thanh cầm tay than vãn dặn rằng:
- Hiền
đệ đi đường phải nên cần để tâm cẩn thận., rượu không nên uống lắm, không nên
tranh khí với ai, phàm các công việc chớ có làm liều làm bạo, thế mới giữ được
thái độ kẻ tu hành, mà khỏi bị người ta dò biết. Khi nào đến Nhị Long Sơn, thì
viết thư về ngay cho tôi biết, vợ chồng tôi ở đây cũng không phải là kế cửu, có
lẽ nay mai sẽ xếp dọn mà theo lên đó cũng nên. Hiền đệ cần phải bảo trọng lấy
thân và nói với Lỗ, Dương, hai Đầu lĩnh rằng vợ chồng tôi xin gửi lời bái chúc.
Võ Tòng
vâng lời rồi từ tạ ra đi. Hai vợ chồng đứng trông theo một lúc, rồi vỗ tay mà
khen rằng:
- Quả
nhiên rõ là một ông hành giả, không còn ai dám ngờ nữa?
Bấy giờ
đương dạo thàng mười, ngày ngắn không đầy gang tấc, Võ Tòng giã từ Thập Tự Phi
đi vội vàng được một lúc thì trời đã sắp tối, được vào khoảng năm mươi dặm
đường, chợt trông thấy một tòa núi cao đứng sừng sững ở trước mặt. Võ Hành Giả
liền mau bước mà đi lên núi. Khi lên tới gần đỉnh núi, chàng đứng dừng lại,
quay trông sang phía bên đông, đã thấy vừng trăng mới mọc sáng rọi cây cỏ trên
non, rất là thích mắt.
Đương
khi trông ngắm ngẩn ngơ thì chợt thấy có tiếng người cười ở khu rừng trước mặt.
Võ Hành Giả liền nói một mình rằng: "Quái lạ ở đây núi non tịch mịch thế
này, còn làm chi mà có tiếng người cười nói? " Chàng nghĩ đoạn rảo bước đi
sang bên rừng để xem. Chợt thấy trong rừng thông bên cạnh núi có một tòa am,
ướt có mười mấy gian nhà lá, nhà mở hai cánh cửa sổ có một tiên sinh cùng mấy
người con gái cùng ngồi, đương đùa rỡn xem trăng ở đó. Võ Hành Giả thấy vậy,
thì ngạc nhiên nghĩ thầm rằng: " Anh này trông ra mặt tu hành xuất gia, mà
sao dám làm những việc thế kia!"
Chàng
vừa nghĩ vừa rút hai khẩu giới đao sáng nhoáng, giơ ra bóng trăng để xem, rồi
lại nói một mình rằng: "Mấy khẩu đao này tốt thực, vào tay ta, ta chưa thử
một lần nào... ? Âu là ta đem tiên sinh khốn nạn này mà thí nghiệm một cái xem
sao?
Chàng
nói vậy, liền để một khẩu ở ngoài, còn một khẩu lại đút vào trong bao, xắn hai tay
áo lên đến vai, rồi lượn ra lối trước am mà gõ cửa...Tiên sinh ngồi trong nghe
tiếng gõ cửa liền khép hai cánh cửa sổ đằng sau lại. Võ Hành Giả lại tìm một
tảng đá mà gõ ầm lên. Chợt có tiếng ken két, cánh cửa bên cạnh mở tung ra, rồi
có một tên đạo đồng chạy ra quát rằng:
- Anh là
người nào? Nửa đêm gà gáy dám đến đây gõ cửa làm ấm ĩ đến thế?
Võ Hành
Giả trợn ngược hai con mắt ghê gớm, rồi quát lên rằng:
- Hãy
đem thằng đạo đồng này mà tế đao đã.
Nói xong
giơ đao lên đánh beng một cái, tên đạo đồng mất hẳn đầu ra một bên, mà ngã vật
ngay xuống đất. Bấy giờ tiên sinh kia ngồi trong am mà kêu to lên rằng:
- Đứa
nào dám giết thằng đạo đồng của ta?
Nói xong
nhảy tót xuống múa hai thanh bảo kiếm xông ra để đánh Võ Tòng.
Võ Hành
Giả cười mà rằng:
- À!
Thằng nầy lại gãi chính vào chỗ ngứa...Được đến đây để ta thử đao.
Nói đoạn
rút khẩu giới đao nữa ở trong bao ra rồi hai tay múa hai khẩu đao đón đánh tiên
sinh kia. Đôi bên đấu nhau ở dưới bóng trăng thanh, kẻ đi người lại, kẻ đỡ
người đâm, lên xuống quanh quẩn như bốn đạo hào quang, kết thành một đoàn lãnh
khí vậy.
Hai bên
cự địch đương hăng, thì bỗng dưng có tiếng đao vang động, rồi có một người ngã
lăn ra đất.
Mới hay:
Mấy hàng
mưa tuyết đầu người rụng,
Tiếng
bóng trăng hàn tiếng kiếm reo,
Làm trai
thứ nhất ba điều,
Một là
thân thế riêng chiều tự do.
Hai là
giết sạch quân thù,
Moi gan
tàn ác đền bù núi sông.
Ba là
ngang dọc vẫy vùng.
Làm cho
tỏ mặt anh hùng ngàn thu.
Ví chăng
sống chẳng ra trò,
Thì tu
mi với liễu bồ khác chi?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Đọc hết
một hồi máu chảy lầu Uyên Ương, mà than cho người thiên hạ mài dao giết người,
sao thấy lạ thay! Thầy Mạnh nói: Giết cha người ta ắt người ta phải giết lại
cha mình; Giết anh người ta, ắt là người ta phải giết lại anh mình, trong lúc
ta mài dao, với kẻ kia mài dao, nào khác gì đâu! Thế thì chẳng phải tự sát,
chẳng qua gián tiếp, đổi tay dao mã để giết cha anh...Hỡi ôi! Há chỉ thế đâu,
đổi tay dao mà giết, còn lấy dao ta để giết người, để cho dao người giết lại ta,
cũng đều là tự sát, như thế ta chỉ thấy dao giết người của ta, mà không thấy
dao giết ta của người, đến khi họa cơ đưa lại, mới giật nảy mình, như lũ ba
người Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện, và Tưởng Môn Thần ngộ hại, còn đau mà
chẳng đau lòng!!! Đương khi trao ý kiến cho công sai, mà còn khiến thêm hai đồ
đệ đi theo giúp sức, há chẳng từng ân cần hỏi đến: Ngươi có mang dao không? Hai
người trả lời có dao! Thì lại hỏi đến: Dao có sắc không? Hai người nói: Tốt!
Thì lại hỏi đến: Dao đã mài chưa? Hai người nói: Mới mài! Thì lại hỏi đến: Dao
ấy có giết nổi một Võ Tòng không? Hai người lại nói: Đến mươi lăm thằng như Võ
Tòng cũng giết nổi; há một Võ Tòng?
Đương
khi ấy há chẳng khoe dao tốt mà đi, cầm mà múa bay mà tới để chém cho đứt, thế
rồi, đầu Võ Tòng phải rơi, máu Võ Tòng phải đổ, oan Võ Tòng phải báo, mệnh Võ
Tòng phải hết...Bấy giờ thử mà xem, chém mà xách, đem về cho mọi người thấy, để
ngợi khen uống rượu vui mừng?
Lũ ba
người Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần, coi ở trong thiên hạ to
lớn kia, với quần chúng muôn nhà, không còn ai được vui sướng cho bằng cuộc yến
ẩm trên lầu Uyên Ương giết được kẻ thù! Có ngờ ngoài bến Phi Vân tay sai bị
giết, trong Tàu ngựa tắt đèn? ? ? Hỡi ơi! Dao sắc đã mang đi cửa trước, nào ngờ
dao sắc khác đưa đến cửa sau, lại theo họ Võ bấy giờ nghĩ lại lúc mài dao, chỉ
sợ rằng đầu thử trước! Nào ngờ đêm ấy mười chín mạng người, đã đem đầu thử
trước! Hởi ơi! Há nói chơi đâu! Xét ra thì lúc mua dao, để lại đeo dao, đeo dao
lâu ngày chưa giết một ai, chẳng thà đừng mua dao nữa mà lại càng không nên
đeo, dù là sẵn có, tự khi mua dao, để lại đeo dao, đeo dao lâu ngày, đêm nay
giết thử một ngày, muốn giết chưa xong, lại lật lại tự mình chịu giết, mà bị
đến mười chín mạng người, thế mua dao để tự sát mới mua dao; Đeo dao cũng để tự
sát mới đeo dao, chả còn lạ nữa! Hới ôi! Tai vạ nấp sẵn, bí ẩn khôn hay, đến
lúc đưa lại, nhanh không thể trốn, từ xưa tới nay, thường thường như thế cả,
sao người đời còn say chưa tỉnh, không đọc đến đoạn văn này của Thủy Hử chăng?
? ?
Đoạn văn
này rất khéo, chẳng tả Võ Tòng lòng thô tay bạo gặp người là muốn giết ngay,
hãy nên coi tác giả tả từng chi tiết trong ngòi bút tả, nào ngòi bút nhọn, nào
phép bút nghiệm, nào sức bút cứng, nào đường bút tới nơi...Như câu tả người bồi
ngựa nghe quen tiếng, nhận biết Võ Tòng và câu Liễu hoàn mắng thầm khách nọ
chưa dọn tiệc xong...Phi nhân chợt tự hỏi "Ai". Đó là nhàn bút, mới
tả ra hết đủ đầy; Khi giết bồi ngựa, thổi tắt đèn đi, mở cửa mạch lách vào, kéo
cánh cửa lại, giết chết Liễu Hoàn, tắt đèn trong bếp, chạy ra trước cửa...Tả
những câu đến thế, do ngòi bút sắc; Mới đầu tả người canh bốn điểm, sau rồi tả
bốn canh ba điểm, trước giơ bọc lấy áo của Thi Ân và tiền sau lại lấy ra dùng
giày gai, đó là bút pháp được nghiêm; Lẻn vào cửa sau. Giết kẻ bồi ngựa, rồi
đánh nhoàng ra cửa sau, giở đến bọc dao, mở cánh cửa mạch, mấy lần lãnh ra lãnh
vào khép cánh, sấn vào trên lầu, giết chết ba tên, rồi lại xuống thang lầu,
nhường cho hai người đi lên, giết chết ba tên, rồi lại xuống thang lầu, nhường
cho hai người kia đi lên, rồi trở lên lầu giết nốt, rồi trở xuống lầu giết nốt
Phu Nhân, trở lại dưới bếp lau dao, chạy tới trung đường, đi ra khỏi cửa, bao
nhiêu lần chuyển thân hành động, đó là sức bút cáp lớn lao, một mạch tả gồm
mười một chỗ tả đèn bốn chỗ tả trăng, đó là lối bút chia ra cách biệt.
Trên lầu
Uyên Ương, ta xét biết ra, với nghĩa rằng, việc đắc ý và thất ý khéo đi đôi
không rời khỏi nhau, như đôi chim sống mái liền nhau vậy.
Một đoạn
văn Võ Tòng qua núi Ngô Công, ý tứ đối ngầm với việc Lỗ Đạt qua chùa Ngõa Quan,
hai đoạn văn cũng vừa mới được giới đao, chém bọn giả tu hành, giới đao ấy vốn
con dao cảnh cáo.
Phụ Lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét