XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2016

Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia (Chương I-Chương VIII)- Ian Lari

Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karik và Valia

Ian Lari

Phiêu Lưu, Mạo Hiểm
Dịch giả: Văn Trọng
Chương 1
CUỘC NÓI CHUYỆN KHÓ CHỊU VỚI BÀ – MẸ LO LẮNG – DZHEK ĐI THEO SÁT GÓT – VẬT KỲ LẠ TÌM THẤY TRONG PHÓNG LÀM VIỆC CỦA GIÁO SƯ ENOTOV – SỰ BIẾN MẤT BÍ ẨN CỦA CỦA IVAN GORMOGENOVICH
Mẹ phủ lên bàn chiếc khăn trải bàn to và trắng. Bà đặt lên đó các đĩa ăn, dao, thìa nĩa.
Bà lầm bầm nói:
- Đến bữa ăn trưa rồi mà bọn trẻ chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Chúng ở đâu – không làm sao hiểu nổi... Trước kia ấy à! Thời tôi còn nhỏ...
- Trời ơi! – Mẹ nói – Bọn chúng thậm chí còn chưa ăn sáng nữa.
Mẹ bước lại gần cửa sổ bỏ ngỏ, xoãi người trên bậu cửa và gọi to lên:
- Karik! Valia!
Bà lại bắt đầu lầm bầm:
- Thế đấy, cứ là vội vàng cuống quýt lên! Chạy thục mạng! Đứng đó mà la trong khi đó chắc chúng đang chơi trò nhảy dù. Ngồi đó mà đợi chúng về ăn trức trong khu biết đâu chúng đang cần gọi xe cấp cứu.
- Nhảy gì hà mẹ? Rồi cấp cứu nào nữa? – Mẹ sợ hãi hỏi.
- Cấp cứu nào ấy à! – Bà nói và lấy từ túi áo tạp dề ra cuộn len, kim đan và cái bít tất đang đan dở. Kim đan lấp lánh trên tay bà lôi sợi len trong cuộn ra. – Cái cấp cứu mà người ta gọi cho thằng Valarik hôm qua ấy. – Bà nói và thở dài.
- Còn thằng Valarik nào nữa hả mẹ?
- Còn thằng nào nữa, đó là một thằng nghịch ngợm trong sân nhà chúng ta. Con của ông quản trị! Nó nghĩ ra cái trò mới ghê chứ! Lấy được ở đâu cái dù cũ làm thành cái dù nhảy rồi nhảy từ ban công xuống theo kiểu nhảy dù.
- Thế rồi sao hả mẹ?
- Chả sao cả! Bị móc quần vào cái ống nước và treo lơ lửng đầu xuống dưới! Treo như vậy cho đến khi xe cấp cứu đến. Ông bác sĩ giận dữ bào đáng lẽ trường hợp này phải gọi xe cứu hỏa thay vì xe cấp cứu! Tuy vậy người ta cũng gỡ thằng Valarik ấy ra khỏi cái ống... Vậy mà con có tưởng tượng được không? Nó chỉ cười khì rồi còn bào là lập được kỷ lục về nhảy dù lâu nhất. Đấy, bọn trẻ bây giờ nghịch ngợm thế đấy!... Hồi tôi còn nhỏ...
- Trời ơi, - Mẹ nói – Nhưng thực ra bây giời chúng ở đâu cơ chứ?...
- Còn cái thằng Antia cũng ở trong sân nhà ta nữa! Lúc đầu xây đường xe điện ngầm với bọn trẻ, rồi lại chế tạo tàu ngầm. Thế là rõ rồi... Đường xe điện ngầm bị sụp, cả lũ bị lấp dưới đất. May mà bác quét sân kịp thời nhìn thấy, đào chúng lên không thì chết hết. Con tưởng là sau chuyện đó chúng chừa ư? Đời nào! Một chút xíu cũng không! Lấy những thùng phuy và hòm gỗ làm tàu ngầm. Cố nhiên là chúng đã chết đuối rồi nếu không có anh công an may mắn đi qua. Lạy Chúa, chật vật lắm rồi cũng với đước chúng. Chỉ có điều... Phù! – Bà giận dữ nhổ nước miếng – Con có tưởng tượng được cái lũ ấy nghịch ngợm đến thế nào không? Chưa kịp khô người đã nghĩ ra trò bay vào vũ trụ, uống con cây bạch dương xuống đất rồi hai đứa thì giữ, bọn còn lại...
- Thôi, thôi mà...- Mẹ khoát tay – Mẹ đừng kể nữa! Con không muốn nghe chuyện đó đâu.
Mẹ lại bước đến bên bậu cửa sổ và kêu lên:
- Karik! Valia!
- Hồi tôi còn nhỏ... - Bà lại nói.
Mẹ khoát tay không nghe bà nói, nằm xoài ra bậu cửa:
- Ka-a-rik! Va-a-lia! Ăn–trưa!
Một con mèo kêu meo meo ngoài sân.
- Tôi biết mà! – Bà nói – Tôi biết mà!
- Karik! Valia! – Mẹ lại gọi nữa, rồi quay phía bà hỏi – Chúng không nói với mẹ là đi đâu ư?
Bà cắn môi giận dữ:
- Hồi tôi còn nhỏ... - Bà nói – Bao giờ tôi cũng nói cho biết là tôi đi đâu, còn bọn trẻ bây giờ ấy à, muốn gì là làm cái ấy. Muốn... là đi Bắc cực, có khi cả Nam cực nữa... Hoặc là như bữa trước rađiô nói...
- Rađiô nói gì hả mẹ? – Mẹ vội vã hỏi.
- Có gì đâu! Một thằng bé nào đó bị chết đuối! Phát thanh viên nói như vậy.
Mẹ rùng mình.
- Không!... – Mẹ nói – Cái đó... cái đó thì không có đâu! Karik và Valia không đi tắm đâu.
- Tôi chả biết! Tôi chả biết nữa! – Bà lắn đầu – Chúng nó có đi tắm hay không tôi không dám chắc... Chỉ có điều từ lâu đã đến lúc phải ăn trưa rồi mà chúng thì vẫn chưa thấy tăm hơi đâu cả. Biết chúng ở đâu? Từ sáng đã chạy đi rồi, không kịp cả ăn sáng nữa.
Mẹ đưa tay vuốt mặt, không nói một lời bước ra khỏi phòng ăn.
- Hồi tôi còn nhỏ... - Bà thở dài.
Nhưng hồi nhỏ bà làm gì thì mẹ vẫn chưa kịp biết: mẹ đứng giữa sân, nheo mắt vì chói mặt trời, ngó nhìn khắp nơi.
Giữa sân, trên đống cát vàng, cái xẻng con màu xanh của Valia đang nằm cạnh đó, lăn lóc cái mũ chỏm bạc màu của Karik. Ở ngay cạnh là con mèo mập ú màu hung Anjuta đang chổng bốn chân lên sưởi nắng. Nó lười nhác nheo mắt và đưa chân ra tựa như muốn tặng mẹ bốn cẳng của mình.
- Bọn trẻ ở đâu hả Anjuta?
Chú mèo khoan khoái ngáp, nhìn mẹ bằng một con mắt rồi lười nhác quay lưng lại.
- Nhưng chúng nó biến đi đâu cơ chứ? – Mẹ lẩm bẩm nói. Bà đi suốt dọc sân nhà, ngó vào tiệm giặt quần áo, và thậm chí nhìn vào cả các cửa sổ tối đen của nhà hầm trệt nơi người ta chứa củi.
Không ở đâu thấy bóng dáng bọn trẻ.
- Ka-a-rik! – Mẹ gọi to một lần nữa.
Không ai đáp lại cả.
- Va-a-lia! – Mẹ kêu lên.
“Ẳng, ẳng, gâu, gâu!” – tiếng sủa lên ở đâu đó rất gần.
Ở cầu thang bên, cánh cửa sập vào rất mạnh. Một con chó bécgiê rất to mõm nhọn nhảy ra sân, lôi theo sau cái xích kêu loảng xoảng.
Chú mèo mập Anjuta nhảy vọt một cái lên đống củi xếp cao.
“Suỵt!” – nó giơ chân rít lên – “Xin... đừng có làm ồn!”
Con chó giận dữ sủa chú mèo Anjuta. Đang đà chạy nó lao lên mô đất, lăn trên cát, bốc đám bụi dày đặt, rồi nhỏm dậy, rũ lông, sủa ầm ĩ lao vào mẹ.
Mẹ nhảy tránh sang một bên.
- Lui ra! Không được thế! Cút đi chỗ khác! - Mẹ hoa tay lên.
- Dzhek! Tubo! Lại đây! – Tiếng ai vang lên từ phía cầu thang.
Một người đàn ông mập mạp bước ra sân, chân đi xăng đan, tay cầm điếu thuốc đang cháy dở. Đó là bác thợ chụp ảnh Smit sống ở tầng bốn.
- Mày làm sao thế, Dzhek? Hả? – Bác mập giơ ngón tay mủm mĩm dọa nạt, nghiêm khắc hỏi. Dzhek lại gần chủ, ngồi xuống làm cái xích kêu loảng xoảng, chăm chỉ dùng chân sau gãi cổ.
Bác mập mỉm cười niềm nở với mẹ.
- Hôm nay đẹp trời quá. Bà có định đi nhà nghỉ mát ngoại ô không? Bây giờ đúng lúc đi hái nấm và câu cá đây.
Mẹ ngước nhìn bác mập, con chó rồi bực bội nói:
- Đồng chí Smit ạ, đồng chí lại thả chó ra không có rọ mõm. Thế mà chó của đồng chí cứ như một con lang. Nhìn người ta cứ như muốn cắn.
Bác mập ngạc nhiên:
- Bà nói về con Dzhek đấy ư? Sao bà lại nghĩ thế? Chú Dzhek của tôi không dám đụng tới cả trẻ nít. Nó hiền như một chú bồ câu! Bà có muốn vuốt ve nó không?
Mẹ khoát tay:
- Tôi đâu có rảnh mà vuốt ve chó! Ở nhà bữa ăn thì nguội, trong phòng chưa quét dọn, lại thêm không sao gọi được bọn trẻ... Chúng biến đi đâu tôi không hiểu. Ka-a-rik! Va-a-lia – Bà lại cất tiếng gọi.
- Bà cứ vuốt ve Dzhek đi, rồi đề nghị nó tha thiết. Bà cứ bảo: “Nào Dzhek! Mau tìm Karik và Valia cho bác đi”. Nó sẽ tìm thấy ngay đó.
Bác Smit cúi xuống con chó và vỗ vào cổ nó:
- Dzhek? Sẽ tìm thấy chứ?
Dzhek khẽ rên ư ử rồi đột nhiên nhảy lên liếm vào môi bác chụp ảnh. Bác mập nhảy lùi trở lại ghê tởm nhổ nước miếng, rồi lau môi bằng cùi tay.
Mẹ phì cười.
- Bà đừng vội chế nhạo. – Bác Smit nghiêm trang nói – Đây chính là loài chó trinh sát. Nó đánh hơi đi theo dấu vết người ta như đầu tàu hỏa đi trên đường sắt. Bà có muốn tôi chứng minh không?
- Tôi tin bác! – Mẹ nói – Tin bác mà không cần phải chứng minh gì hết.
Bác mập xúc động nói:
- Không, không! Xin bà cho phép. Tôi đã nói thế nào thì sự thật thế ấy. Nào, bà cứ đưa cho tôi vật gì đó của Karik và Valia đi... đồ chơi... áo sơ mi... cái mũ chỏm... Cái gì cũng được.
Mẹ nhún vai, nhưng cũng cúi xuống nhặt cái mũ chỏm và đưa cho bác Smit.
- Tốt lắm! Tuyệt diệu! Rất tốt! - Bác mập nói và đút cái mũ chỏm cả Karik dưới mũi con chó.
- Nào, Dzhek! - Ông ta cao giọng nói – Hãy trổ tài đi! Hãy đi tìm, đi tìm chú chó ạ.
Dzhek rên ư ử, cúi sát đầu xuống đất rồi duỗi đuôi ra và bắt đầu chạy theo những vòng lớn quanh sân.
Bác thợ hào hứng lao theo nó.
Chạy đến đống củi xếp, Dzhek thình lình dừng lại, nhảy lên đứng bằng hai chân sau, còn chân trước tì lên đống củi xếp. Mũi của Dzhek đặt ngay trước mõm chú mèo Anjuta.
“Tao xé mày ra!” – Dzhek hét lên.
Chú mèo nhảy lên theo vòng cung, quắc cặp mắt xanh lè, rít lên như con rắn: “Tao ấy à? Không ăn thua đâu!”
Dzhek định tóm lấy đuôi mèo. Nhưng chú mèo nhe răng ra, giáng cho nó một cú tát mạnh đến nỗi con chó tội nghiệp thét lên vì đâu và tức giận. Nhưng lập tức nó định thần lại được, sủa to và lại lao vào con Anjuta. Chú mèo rít lên lớn hơn, giơ chân và quát lên bằng tiếng mèo: “Cút ngay không tao đánh dập mật bây giờ!”
- Thôi, thôi, đủ rồi, Dzhek! – Bác thợ ảnh bực bội nói – Đừng có đi lạc đề! - Bác kéo mạnh cái dây đến nỗi con chó phải ngồi phệt xuống hai chân sau.
- Bây giờ thì tìm đi!
Sau khi giận dữ sủa theo con mèo, Dzhek chạy tiếp. Nó chạy hết sân, đứng lại gần ống máng, đánh hơi không khí ầm ĩ rồi nhìn chủ.
- Hiểu rồi! Hiểu cả rồi! – Bác thợ ảnh gật đầu – Mày muốn nói là bọn trẻ đã ngồi ở đây và có lẽ đã chơi với chú mèo Anjuta phải không? Tốt lắm! Nhưng sau đó chúng đi đâu? Phải tìm đi, Dzhek! Nào, tìm đi, tìm đi chó ơi!
Dzhek nhảy vọt quay tròn như một con quay, cào chân vào đất dưới ống máng, rồi sủa to lao về phía cầu thang chính.
- Đúng rồi, bà thấy chưa? – Bác Smit kêu lên – Nó đã lần ra dấu vết rồi.
Lệt xệt đôi xăng đan, bác thợ ảnh nhảy từng bước chạy theo con chó.
- Nếu bác tìm thấy bọn trẻ, bác bắt chúng về nhà ngay hộ tôi nhé! – Mẹ gọi với theo rồi đi ra sân tới cổng khu nhà.
“Chắc là chúng chơi ở sân nhà bên” – mẹ nghĩ thế và không để ý đến Dzhek cùng chủ của nó nữa, bước ra khỏi cổng khu nhà.
*
Kéo căng cái xích, Dzhek lôi bác mập lên cầu thang.
- Từ từ chứ! – Bác mập thở phì phò, cố cho kịp theo con chó.
Lên đến tầng năm Dzhek dừng lại giây lát, ngước nhìn chủ nó rồi sủa lên từng hồi, lao vào cái cửa bọc vải sơn. Trên cửa có treo tấm biển trắng tráng men với hàng chữ:
Giáo sư
IVAN GERMOGENOVICH ENOTOV
Phía dưới có gắn một mẩu giấy ghi:
“Chuông không kêu. Xin cứ gõ cửa!”
Dzhek vừa rít vừa nhảy lên cào móng vào lớp vải sơn bọc cửa.
- Tubo! Dzhek! – Bác mập gọi! - Ở đây người ta đề nghị gõ cửa chứ không rít lên như vậy.
Bác thợ chụp ảnh lấy tay vuốt tóc, lau kỹ bằng khăn tay khuôn mặt đẫm mồ hôi, rồi cong ngón tay thận trọng gõ vào cửa.
Phía sau cửa có tiếng chân lệt xệt.
Tiếng mở khóa của lách cách.
Cánh cửa mở ra. Bên khe hở cửa xuất hiện khuôn mặt với cặp lông mày rậm rạp bạc trắng và chòm râu vàng – trắng.
- Ông muốn gặp tôi ư?
- Xin lỗi! Thưa ông giáo sư!... – Bác thợ chụp ảnh lúng túng nói – Tôi chỉ muốn hỏi ông...
Nhưng bác mập chưa kịp nói hết câu thì Dzhek đã giựt sợi dây xích ra khỏi tay bác, lao vào trong nhà suýt làm té giáo sư.
- Lại đây, Dzhek! Tubo! – Bác Smit kêu lên.
Nhưng Dzhek đã khua ầm ĩ dây xích ở đâu tận cuối hành lang.
- Xin lỗi! Thưa giáo sư, Dzhek còn quá trẻ... Xin cho phép tôi vào. Tôi sẽ dẫn nó ra ngay ạ.
- Vâng, được... Cố nhiên rồi... - Giáo sư lơ đãng đáp và nhường lối cho bác Smit vào nhà – Xin mời vào! Tôi hy vọng là chó của bác không cắn chứ?
- Rất ít khi! – Bác Smit trấn an giáo sư.
Bác thợ chụp ảnh bước qua ngưỡng cửa. Sau khi đóng cửa lại, bác khẽ nói:
- Ngàn lần xin lỗi giáo sư! Tôi chỉ xin một phút thôi... Thưa đồng chí giáo sư, ở chỗ ông hẳn phải có bọn trẻ... Karik và Valia. Ở tầng hai...
- Xem nào, xem nào... Karik và Valia ư? Phải rồi! Cố nhiên! Tôi biết chúng rất rõ. Các cháu rất dễ thương... lễ phép và ham hiểu biết...
- Chúng đang ở chỗ ông phải không?
- Không, hôm nay chúng không đến tôi!
- Thế thì lạ thật! – Bác mập lẩm bẩm – Dzhek đánh hơi theo dấu vết rất chính xác.
- Có thể là dấu vết ngày hôm qua chăng? – Giáo sư lịch sự hỏi.
Nhưng Smit chưa kịp đáp lại. Ở trong phòng phía xa, Dzhek sủa vang rồi lập tức có tiếng đổ vỡ loảng xoảng tựa như cái tủ hay cái bàn có chén bát đổ xuống sàn.
Giáo sư rùng mình:
- Trời ơi, nó đập vỡ ở trong ấy hết mất! – Ông kêu lên giọng như muốn khóc, nắm tay bác Smit lôi theo vào hành lang tối đen.
- Lại đây! Lại đây! – Ông nói lúng búng và đẩy cửa vào. Giáo sư và bác chụp ảnh vừa mới bước vào phòng thì Dzhek nhảy ngay lên ngực chủ, sủa rít lên rồi lại quay bước lao ngược lại.
Nó chạy khắp phòng, lôi theo sau cái xích, đánh hơi tủ sách, nhảy lên cái ghế da, loay hoay dưới gầm bàn, lại đi lung tung hết phía này qua phía khác.
Những bình, nồi cổ cong trên bàn nẩy lên kêu lanh canh. Những ly cao cổ trong suốt nghiêng ngả, các ống thủy tinh mỏng manh rung lên.
Bị va mạnh, kính hiển vi đổ nghiêng lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Giáo sư suýt nữa không đỡ kịp. Nhưng trong lúc cứu cái kính hiển, ống tay áo của ông lại vướng vào cái đĩa mạ kền sáng loáng của cái cân gì đó rất phức tạp. Cái đĩa rơi xuống, nẩy lên, kêu vang và lăn trên sàn ván ghép màu vàng.
- Cái gì thế Dzhek? – Bác thợ chụp ảnh cau có nói – Làm chuyện bậy bạ hử? Sủa ầm lên mà chẳng được gì. Nào, thế bọn trẻ đâu?
Dzhek nghiêng đầu, vểnh tai lắng nghe. Nó chăm chú nhìn chủ cố hiểu xem vì sao nó lại bị mắng.
- Thật xấu hổ, Dzhek ạ! - Bác thợ chụp ảnh lắc đầu tỏ ý không bằng lòng – Thế mà cũng gọi là chó trinh sát!? Lại có bằng hẳn hoi nữa chứ! Mày chỉ đáng cho đuổi mèo thôi chứ không thể tìm dấu vết được! Thôi, đi về nhà đi! Thưa đồng chí giáo sư, xin ông rộng lòng thứ lỗi cho tôi đã quấy rầy.
Bác thợ chụp ảnh ngượng ngùng cúi chào và định bước đi về phía cửa. Nhưng đến đây Dzhek tựa như phát khùng lên. Nó dùng răng cắn vào quần của chủ nó rồi tỳ chân vào sàn ván ghép trơn bóng, lôi lại cái bàn.
Bác mập kinh ngạc:
- Mày làm sao thế này!
Dzhek sủa rít lên rồi lại bắt đầu chạy quanh bàn, sau đó nhảy lên cái đi văng đặt trước cửa sổ bỏ ngỏ. Đặt chân trước lên bậu cửa, nó sủa lên từng hồi ngắn.
Bác Smit nổi nóng:
- Tubo! Lại đây! – Bác quát lên, nắm lấy dây buộc chó. Nhưng Dzhek bướng bỉnh lắc đầu và lại lao đến cái đi văng.
- Tôi chẳng hiểu gì cả! - Bác thợ chụp ảnh giang tay ra nói.
- Có thể có chuột dưới đi văng chăng? – Giáo sư cố thử đoán – Hay có mẩu bánh mì hoặc cục xương? Tôi cũng hay ăn trưa ở đây lắm!
Ông bước lại đi văng và đẩy nó ra khỏi tường. Sau lưng đi văng có cái gì đó sột soạt rồi rơi “bộp” xuống sàn.
- Mẩu bánh mì! – Giáo sư nói.
Dzhek lao về phía trước. Nó chui vào giữa bức tường và cái đi văng đã được kéo dịch ra, ngoe nguẩy đuôi dường như đã ngoạm được cái gì đó vào mõm.
- Nào, nhặt được cái gì thế? Cho xem nào! – Bác thợ chụp ảnh kêu lên.
Dzhek bước lùi lại, lúc lắc đầu, quay ngoắt lại phía chủ đặt vào chân ông chiếc xăng đan trẻ con đã mòn vẹt gót.
Bác thợ ảnh bối rối xoay xoay vật tìm được trong tay.
- Hình như là chiếc giày trẻ con...
- Hừ... lạ thật! – Giáo sư nói, ngắm nghía chiếc dép.
- Lạ quá chừng!
Trong khi họ loay hoay với chiếc dép trong tay, Dzhek lôi ở phía đi văng ra thêm ba chiếc dép nữa: một chiếc cũng như vậy và hai chiếc nhỏ hơn.
Không hiểu sao cả, giáo sư và bác mập hết nhìn nhau lại ngó những chiếc xăng đan. Bác Smit gõ tay vào đế dép cứng của một chiếc dép, không hiểu sao lại nói:
- Chắc thật! Dép tốt quá!
Trong khi đó Dzhek lôi tiếp từ sau đi văng chiếc quần cụt xanh dương rồi lại thêm một chiếc quần cụt nữa. Lấy chân đè xuống sàn, nó khẽ sủa lên.
- Lại còn cái gì nữa thế này? – Giáo sư hoàn toàn bối rối.
Ông cúi xuống định thò tay với chiếc quần, nhưng Dzhek nhe răng gầm gừ làm cho giáo sư vội rụt tay lại.
- Sao nó khó tính thế! – Giáo sư ngượng ngùng nói.
- Vâng, con chó của tôi không được lịch sự lắm! – Bác thợ chụp ảnh đồng ý.
Bác cầm lấy những cái quần cụt, rủ chúng rồi gấp lại, cẩn thận trao cho giáo sư.
- Xin mời ông xem!
Giáo sư liếc nhìn Dzhek.
- Không, không cần! – Ông nói – Thế này tôi cũng thấy được rồi... Ơ phải rồi... Phải rồi... Có dấu đây!... “V” và “K”. Valia và Karik! – Ông lấy tay sờ những chữ màu trắng trên thắt lưng quần cụt.
Bác mập vuốt mồ hôi trên mặt.
- Trong nhà có phòng tắm không ạ? – Bác hỏi.
- Không, - Giáo sư nói – Không có phòng tắm! Nhưng nếu ông cần rửa tay thì...
- Không ạ! – Bác mập đỏ mặt – Rửa tay thì tôi về nhà rửa cũng được. Nhưng tôi nghĩ rằng các cháu cởi quần áo và đang tắm trong phòng tắm. Bác hiểu không ạ?
- Vâng, tôi hiểu ý bác rồi. – Giáo sư gật đầu.
- Nhưng chúng biến đi đâu được? Trần trụi... Không mặc cả quần cụt... Không đi cả xăng đan? Tôi chẳng hiểu gì cả! – Bác Smit giang tay ra nói.
Bác xoạc rộng hai chân, chắp tay sau lưng, cúi đầu xuống ngắm nghía thật lâu các ô vuông màu vàng của sàn gác gỗ, sau đó bác đứng thẳng dậy và nói đầy tự tin.
- Không sao, chúng ta sẽ tìm thấy chúng bây giờ. Chúng ở đây thôi giáo sư ạ. Dẫu cho chúng trốn, nấp ở đâu đó! Ông cứ tin chắc, chú Dzhek của tôi không bao giờ nhầm cả.
Giáo sư và bác thợ ảnh đi khắp các căn phòng, ngó vào bếp, thậm chí xem xét cả phòng xếp làm kho tối om. Dzhek uể oải đi theo họ.
Ở phòng ăn, bác mập mở tủ búp phê, chui đầu xuống cả gầm bàn, còn ở phòng ngủ bác quơ tay xuồng gầm giường. Nhưng bọn trẻ không thấy có trong nhà.
- Chúng trốn ở đâu được nhỉ? – Bác thợ ảnh làu bàu.
- Theo tôi, – Giáo sư nói – Hôm nay chúng chưa đến đây.
- Ông nghĩ vậy ư? – Bác Smit trầm ngâm hỏi lại – Ông nghĩ rằng chúng đã không có ở đây? Còn mày thì sao hả Dzhek? Chúng ở đây hay không?
Dzhek sủa lên.
- Ở đây ư?
Dzhek sủa lên lần nữa.
- Nào, thế thì tìm đi! Tìm đi chú chó ạ!
Dzhek lập tức trở nên vui vẻ. Nó lao trở lại và dẫn giáo sư và bác Smit vào phòng làm việc.Ở đây nó nhảy lên bậu cửa bắt đầu sủa ầm ĩ và rít lên tự như muốn làm chủ nó tin rằng bọn trẻ đã qua cửa sổ đi khỏi căn nhà.
Bác Smit bực mình.
- Ôi chao đồ ngu, chó ơi là chó! Chẳng lẽ mày nghĩ rằng bọn trẻ nhảy xuống sân từ gác năm? Hay là chúng đã bay đi như ruồi hoặc chuồn chuồn?
- Cái gì? – Giáo sư bỗng run lên – Bay đi ư? Con chuồn chuồn nào cơ chứ?
Bác thợ ảnh mỉm cười.
- Đấy là chú Dzhek của tôi nghĩ vậy.
Giáo sư hai tay ôm lấy đầu.
- Kinh khủng quá! – Ông thì thầm.
Bác thợ ảnh kinh ngạc nhìn ông và hỏi:
- Ông làm sao thế? Ông hãy uống đi một ngụm nước! Trông ông tái xanh ra kìa.
Bác định bước lại bàn trên có bình nước. Nhưng giáo sư bỗng la lên như đi chân trần dẫm phải thanh sắt nung.
- Khoan đã, khoan đã!
Bác thợ ảnh hoảng sợ đứng chết lặng tại chỗ.
Giáo sư nhanh nhẹn với tay lên bàn chụp lấy cái ly có chất lỏng không màu, vội vàng giơ nó lên trước mắt soi lên ánh sáng. Sau đó ông nhanh nhẹn cho tay vào túi áo lấy ra một cái kính lúp có cán bằng xương và gọi bác Smit:
- Bác đừng có động đậy! Xin bác đừng động đậy! Và bác hãy giữ con chó cho chặt hơn nữa. Tốt nhất là ôm nó trên tay! Xin bác hãy nghe lời tôi.
Bác mập hoảng sợ ngơ ngác nhìn giáo sư, không hỏi thêm ông điều gì, bồng con chó lên áp mặt nó vào bụng.
“Có lẽ ông già phát điên rồi!” – bác nghĩ.
- Bác cứ như vậy nhé! - Giáo sư kêu lên.
Tay cầm kính lúp và bò sát mặt đất, ông bắt đầu chăm chú xem xét từng ô vuông trên sàn nhà.
- Thưa giáo sư! Tôi phải đứng như thế này trong bao lâu nữa? – Bác thợ ảnh rụt rè hỏi, lo lắng theo dõi những cử động khác thường của giáo sư.
- Bác hãy để chân lên đây! – Giáo sư kêu lên vừa chỉ tay vào những ô vuông gần nhất trên sàn gỗ.
Bác Smit vụng về đặt chân lên và giữ chặt con chó trong lòng đến nỗi nó nghẹt thở khẽ rít lên.
- Im đi! – Bác Smit thì thầm, sợ hãi theo dõi giáo sư
- Bây giờ thì đến chân kia! Bác hãy đặt lên đây!
Bác mập ngoan ngoãn tuân theo.
Cứ như vậy, từng bước một giáo sư dẫn bác thợ ảnh ngạc-nhiên-không-thốt-nên-lời ra tới cửa.
- Còn bây giờ, - Giáo sư nói, mở rộng cánh cửa ra – Còn bây giờ tôi xin bác hãy về đi.
Cánh cửa sập lại ngay trước mũi bác Smit.
Ổ khóa Pháp kêu lách cách. Bác mập thả chú Dzhek ra lao xuống cầu thang bỏ rơi cả dép, vừa thở hổn hển chốc chốc lại ngoái lại. Dzhek chạy theo sau và sủa vang.
Họ chạy như vậy tới đồn công an.
Buổi chiều, một chiếc xe ô tô có vạch đỏ ở bên sườn đi vào sân nhà. Vài chú công an nhảy ra khỏi xe, gọi người quét sân, rồi leo lên tầng năm nơi giáo sư Enotov sống.
Nhưng giáo sư không có nhà.
Trên cửa của ông có treo mẩu giấy gắn bằng đinh ghim sáng loáng.
“Đừng tìm kiếm tôi, vô ích! Giáo sư I.G. Enotov”
Chương 2
CHẤT LỎNG KỲ DIỆU – HÀNH VI ĐẦY BÍ ẨN CỦA NHỮNG CHIẾC QUẦN CỤT VÀ NHỮNG CHIẾC XĂNG ĐAN – SỰ BIẾN ĐỔI PHI THƯỜNG TRONG CĂN PHÒNG BÌNH THƯỜNG – CUỘC PHIÊU LƯU TRÊN BẬU CỬA – KARIK VÀ VALIA KHỞI HÀNH CHUYẾN DU LỊCH KỲ LẠ.
Sự việc xảy ra như thế này.
Hôm trước cái ngày bọn trẻ biến mất Karik ngồi ở phòng làm việc của giáo sư Enotov vào buổi chiều. Vào những giờ như vậy, cậu rất thích trò chuỵên với giáo sư Ivan Gergermogenovich.
Toàn bộ phòng làm việc như trong ánh sáng lờ mờ. Những bóng đèn dài ngoằng từ những góc tối vươn cao lên trần nhà. Tưởng chừng như ai đó đang giấu mình bí mật theo dõi khoảng ánh sáng trên chiếc bàn lớn.
Ngọn lửa xanh từ những bếp cồn lắc lư rung rinh vươn tới đáy ám khói của những nồi cổ cong bằng thủy tinh. Trong nồi chất gì đó đang sôi ùng ục. Qua hệ thống lọc, những giọt chất lỏng trong suốt nhỏ tí tách xuống một cái chai.
Karik co chân lên ngồi thu lu trên ghế bành bọc da lớn nhất.
Tỳ cằm lên bàn, cậu chăm chú theo dõi bàn tay khéo léo nhanh nhẹn của giáo sư, cố gắng nín thở không động đậy.
Giáo sư làm việc, huýt sáo, kể cho Karik nghe những mẩu chuyện ngộ nghĩnh về thời thơ ấu của ông, nhưng phần nhiều ông nói về những gì ông đã nhìn thấy ở châu Phi, châu Mỹ, ở Úc, tất cả những cái đó đều thú vị.
Như bây giờ đây, xắn tay áo choàng trắng, giáo sư cúi mình trên bàn đổ từng giọt chất lỏng đặc sánh vào những cái ly hẹp miệng.
Đôi khi ông bỏ vào trong cốc ấy những tinh thể lấp lánh, khi đó trong chất lỏng xuất hiện những đám xòe bông quay cuồng rồi hạ xuống đáy.
Sau đó Ivan Germogenovich đổ từ một ống có chia độ một chất gì màu xanh dương. Không biết vì sao chất lỏng bỗng chuyển sang màu hồng.
Tất cả những cái đó cố nhiên là rất thú vị và Karik sẵn sàng ngồi trên bàn cho đến sáng.
Nhưng một đêm Ivan Germogenovich vội vã chùi tay vào chiếc khăn, cầm lấy cổ cái nồi cổ cong lớn rồi nhanh nhẹn gói nó vào trong một tấm giấy màu xanh dương.
Ông nói:
- Thế là cuối cùng bác có thể tự chúc mừng mình đạt được.
- Xong rồi hả bác? – Karik sung sướng hỏi.
- Xong rồi, bây giờ chỉ còn việc tẩy màu nó và...
Giáo sư búng tay và cất tiếng hát vang:
“Ôi chất lỏng, vật kỳ diệu đẹp tươi!
Ta sẽ tạo nên bao nhiêu chuyện lạ trên đời!”
Karik bất giác nhăn mặt lại. Giáo sư hát tuy là rất to thật đấy, nhưng ông không có tài âm nhạc nên ông hát bài nào cũng theo cùng một điệu giống như tiếng gió rít trong ống.
- Thế nếu thỏ không chịu uống thì sao hả bác? – Karik hỏi.
- Sao lại không chịu uống? – Giáo sư thậm chí còn nhún vai – Chúng ta sẽ bắt chúng phải uống... Nhưng đó là chuyện ngày mai... Còn bây giờ...
Ivan Germogenovich nhìn đồng hồ rồi bỗng hối hả:
- Ôi chao, Karik! Chúng ta ngồi quên đi lâu quá! Mười một giờ rồi... Đúng rồi... 11 giờ 2 phút.
Karik hiểu rằng đã đến lúc phải về nhà. Cậu thở dài, miễn cưỡng, tụt xuống khỏi ghế và hỏi.
- Thế mai bác sẽ bắt đầu không đợi cháu hay sao?
- Không đời nào! – Giáo sư lắc đầu – Bác đã hứa với cháu rồi mà.
- Thế có thể dẫn Valia đến không bác?
Giáo sư suy nghĩ:
- Thôi được rồi... Cháu cứ đến cùng Valia...
- Thế ngộ nhỡ không thành công thì sao bác?
- Nhất định sẽ thành công chứ! - Giáo sư tin tưởng nói và tắt cái bếp cồn.
- Và con thỏ sẽ biến thành con bọ chét ư bác?
- Không đâu! – Giáo sư bật cười – Con thỏ sẽ vẫn là con thỏ thôi.
- Thế người có bé đi được không bác?
- Tại sao lại không?
- Sao lại thế được? – Karik ngập ngừng nói – Con người dù sao cũng là chúa tể của thiên nhiên... Thế mà bỗng nhiên...
- Bỗng nhiên làm sao?
- Bỗng nhiên người bé hơn con ruồi... điều đó...
- Thì sao?
- Điều đó hơi bất nhã!
- Tại sao?
- Cháu không biết nữa! Bà cháu thường nói: Bất nhã! Hôm trước cháu với Valia đọc một quyền sách Guylivé và nhưng người Liliput, bà liền cầm lấy xé đi. Bà nói: mô tả con người bé tí xíu là bất nhã. Thậm chí bà còn giận nữa. Bà nói rằng người lớn hơn mọi súc vật, vì vậy mọi con vật phải phục tùng con người.
- Thế tại sao người bé hơn voi lại không bất nhã.
- Nhưng đấy là voi cơ mà.
- Chuyển lẩm cẩm chú bé của tôi ạ. Con người vĩ đại không phải vì vóc dáng mà vì trí tuệ của mình. Con người thông minh không bao giờ lại suy nghĩ xem bất nhã hay không bất nhã việc uống chất lỏng làm bé người lại đi vào thế giới kỳ lạ của những côn trùng, đặng khám phá ra nhiều điều cần thiết và có ích cho con người. Ngoài ra lại còn... Nhưng mà anh bạn ạ đến lúc phải đi về nhà thôi.
- Bác Ivan Germogenovich, bác nói cho cháu biết...
- Không, không, bác sẽ không nói thêm gì nữa. Đủ rồi, gác câu chuyện lại đến ngày mai! Đi về nhà đi, chú bạn nhỏ! Bác mệt rồi, và cháu cũng đến lúc phải đi ngủ.
*
Suốt đêm Karik trằn trọc. Trong mơ cậu nhìn thấy con voi màu hồng, bé tí xíu đến nỗi có thể bỏ vào trong cái đê khâu. Con voi uống nước hoa quả, chạy trên bàn xung quang cái đĩa và nghịch ngợm, đến nỗi làm đổ hết muối, còn chính nó thì suýt nữa chết đuối trong nước tương hạt cải. Karik vớt nó ra từ cái lọ đựng tương và rửa nó trong cái đĩa lót chén. Nhưng con voi vùng ra, đập vòi vào Karik. Sau đó nó nhảy lên đầu cậu bé và nói bằng giọng nói của một cô bé quen thuộc nào đó.
- Karik! Anh làm sao thế? Anh la cái gì vậy?
Karik mở mắt ra. Valia quấn mình trong cái chăn đang đứng cạnh giường.
- À, em đã dậy rồi! – Karik nói – Rất tốt! Em mặc quần áo nhanh lên.
- Để làm gì cơ?
- Phải đi ngay. Chúng ta đến bác Ivan Germogenovich. Ôi chao, hôm nay ở đó sẽ có nhiều chuyện... Những chuyện thật kỳ diệu!
- Chuyện gì thế?
- Mặc quần áo nhanh lên!
- Em sẽ mặc quần cụt và đi xăng đan nhé! – Valia nói, vội vã thu dọn giường chiếu.
- Mặc gì tùy ý, nhưng phải mau mau lên!
Trong khi tìm xăng đan dưới gầm giường Karik thì thầm kể:
- Em có hiểu không, bác ấy chế ra thật tuyệt!...
- Chế ra ư?
- Đúng rồi! Bác Ivan Germogenovich chế ra... một thứ chất lỏng... màu hồng... Em hiểu không?
- Ngon lắm à! – Valia hỏi, vừa cài khóa dép.
- Rất ngon... Nhưng mà cũng chưa biết nữa... Chất lỏng dành cho thỏ... Hôm nay bác sẽ cho chúng uống chất lỏng đó. Khi chúng vừa uống xong, thì lúc đó... Úi chà chà!
- Ồ, thú vị thật! – Valia vỗ tay kêu lên.
- Thế em có biết chúng sẽ làm sao không?
Valia mở tròn đôi mắt.
- Chúng sẽ làm sao hở anh? – Cô bé hỏi, không biết vì sao giọng thì thầm.
- Bọn chúng ấy à?
Karik ngẫm nghĩ một lát rồi nói thành thật:
- Tạm thời cũng chưa biết, sẽ xảy ra chuyện với bọn chúng hay không, nhưng... chúng ta sẽ thấy bây giờ... Cái đó hiện giờ mới chỉ là thí nghiệm. Chúng ta đi mau lên nào.
Karik theo sau là Valia, khép cửa lại rồi nhẹ nhàng chạy vút qua phòng của mẹ.
Mẹ gọi với theo cái gì đó, nhưng Karik nắm tay Valia lôi theo mình, giơ ngón tay lên dọa.
- Im lặng! – Karik thì thầm – Không có bây giờ lại sắp sửa “đánh răng đi, rửa mặt đi, mặc quần áo đi, ăn sáng đi, đừng lúc lắc chân dưới bàn thế...” rồi thế nào cũng sẽ bị muộn!
Chạy qua sân nhà, chúng lẩn vào cầu thang chính một mạch lên tầng năm. Karik là người đầu tiên nắm lấy quả nắm cửa trên treo mảnh giấy ghi hàng chữ:
“Chuông không kêu. Xin cứ gõ cửa”
Karik gõ cửa nhưng không có ai đáp lại. Khi đó cậu kéo quả nắm cửa về phía mình và bỗng nhiên cửa mở ra.
Bọn trẻ bước vào phòng ngoài sáng lờ mờ. Ở đây hơi lạnh. Trong góc, một cái gương to đang lấp lánh. Ở trên cao, từ trên cái tủ lớn, những cái đầu bằng đồng và bằng đá cẩm thạch ngó xuống bọn trẻ. Trên giá treo áo của giáo sư có áo khoác ngoài, áo lông và một cái áo mưa màu thẫm, giống như cái bàn cờ.
Trong căn nhà hoàn toàn im ắng. Ở đâu đó rất xa, chắc là ở trong bếp tiếng giọt nước chảy tí tách từ vòi nước. Trong phòng ăn, đồng hồ tích tắc đều đều.
- Có lẽ bác Ivan Germogenovich đang ở trong phòng làm việc! – Karik – Chúng ta đi mau lên!
Nhưng cả ở trong phòng làm việc cũng không có giáo sư. Bọn trẻ quyết định đợi ông.
Cửa sổ phòng làm việc của giáo sư mở toang. Mặt trời mùa hè chói chang soi sáng chiếc bàn to màu trắng. Trên bàn đầy những chai lọ có bụng phình, những nồi cổ cong. Giữa nhưng chai lọ là những chùm ống nghiệm thủy tinh dài ngoằng đặt trong cái cốc. Những cái chén mạ kền bóng loáng lấp lánh đến chói mắt. Nhưng chiếc cối giã bằng sứ tỏa sáng đục. Các bộ phận bằng đồng của kính hiển vi chiếu sáng rực rỡ. Những vệt nắng nhanh nhẹn lướt trên trần, trượt qua bờ tường, nhảy nhót trên những nồi và bình cổ cong.
Những tủ kính to tướng, trang nghiêm đứng dọc theo bức vách, ở trong đầy những cuốn sách dày mỏng khác nhau.
Có thể đọc được đầu đề những cuốn sách. Nhưng để hiểu được những chữ vừa đọc thì chắc còn phải học rất lâu nữa. Trên gáy sách có viết những đầu đề bằng chữ vàng như là: “Sinh thái học các động vật”, “Thủy sinh vật học”, “Loài muỗi lắc”, “Giun sán đũa”...
Tốt hơn là không nên động vào những sách ấy.
Bọn trẻ lặng lẽ đi khắp phòng làm việc. Lấy tay vặn cái kính hiển vi một chút, lần lượt thay nhau ngồi trên ghế bành bọc da, trên lưng ghế có quàng cái áo choàng trắng của giáo sư, lủng lẳng hai ống tay áo rỗng. Sau đó chúng bắt đầu xem xét những chai lọ, nồi và bình cổ cong.
- Thế cái bình nào đựng cái chất lỏng ngon ngon ấy? – Valia hỏi – Anh bảo là bác Ivan Germogenovich chế ra cái chất lỏng ngon mà.
- Ôi chao, em Valia! – Karik nghiêm khắc nói. - Tốt nhất là em đứng xa cái bàn ra và đừng đụng vào bất cứ vật gì.
- Thì em có đụng đâu! – Valia thở dài và xán lại gần sát cái ly cao và đẹp đựng đầy chất lỏng màu bạc sáng. Từ đáy ly nổi lên những bọt nước nhỏ lấp lánh, rồi lặng lẽ vỡ tan trên bề mặt. Chất lỏng này giống như nước có hơi ga và chắc cũng mát lạnh như thế. Valia thận trọng cầm lấy cái ly cao. Nó lạnh như nước đá. Cô bé đưa ly lại gần mặt và ngửi nó. Nước thơm mùi trái đào và mùi gì nữa rất lạ nhưng rất ngon.
- Úi chà, thơm quá! – Valia kêu lên.
- Đặt ngay nó vào chỗ cũ! – Karik giận dữ nói – Đừng có đụng vào bất cứ cái gì. Ngộ lỡ chất độc thì sao! Đứng xa bàn ra, nghe không!
Valia đặt cái ly vào chỗ cũ, nhưng không lui ra xa bàn. Cái chất lỏng thật là thơm đến nỗi chỉ muốn ngửi thêm lần nữa.
- Valia, đứng xa ra! – Karik nói – Không có anh mách mẹ cho. Lời nói danh dự của thiếu niên tiền phong đấy.
Valia đi vòng quanh bàn, ngồi vào ghế nhưng chẳng bao lâu lại quay lại chỗ cũ, như vô tình lại đứng vào trước cái ly.
- Karik này, anh biết không, đó là nước ga đấy thôi! – Valia nói và bỗng nhiên cảm thấy khát cháy họng, tựa như suốt ngày cô đã ăn món cá hun khói.
- Đừng có đụng vào! - Karik kêu lên.
- Thế nếu em khát thì sao? – Valia hỏi.
- Đi về nhà mà uống nước trà!
Valia không đáp lại. Cô bước lại gần cửa sổ, ngó xuống phía dưới, nhưng khi Karik vừa quay đi, cô nhảy thật nhanh tới bên bàn, chộp lấy cái ly và nhấp một chút.
- Đúng là ngon thật! – Valia thì thầm.
- Valia, em điên rồi hay sao? – Karik la lên.
- Ôi, anh Karik, ngon lắm thật mà! Anh cứ thử xem! – Và cô bé đưa cái ly cho anh – Lạnh và rất ngon... Chưa bao giờ em được uống thứ gì ngon vậy.
- Thế lỡ, biết đâu là chất độc thì sao? – Karik nói ngắm nghía chất lỏng màu bạc một cách nghi ngờ.
- Chất độc thì phải đắng chứ! – Valia phá lên cười – Còn cái này thì rất ngon.
Karik đổi chân đứng.
- Chắc là một thứ đồ bỏ nào đó! – Cậu nói và ngập ngừng chìa tay ra phía cái ly.
- Hoàn toàn không phải đồ bỏ! Anh cứ thử xem. Có mùi trái đào, còn vị như trái bưởi. Chỉ có điều là ngon hơn thôi.
Karik nhìn khắp xung quanh. Giá như lúc đó giáo sư bước vào thì chắc sẽ có cuộc nói chuyện khó chịu giữa ông và Karik. Nhưng trong phòng làm việc chỉ có mỗi Valia, vì vậy Karik vội vã nhấp vài ngụm rồi đặt ly vào chỗ cũ.
- Đúng là ngon thật! – Cậu nói – Nhưng không được uống thêm nữa kẻo bác Ivan Germogenovich sẽ nhận thấy mất. Tốt hơn chúng mình ra ngồi trên cửa sổ đi. Bác Ivan Germogenovich chắc sắp về rồi và chúng ta sẽ bắt đầu thí nghiệm.
- Được rồi! - Valia thở dài tiếc rẻ nhìn cái ly có chất lỏng ngon đến thế.
Bọn trẻ leo lên đi văng đặt cạnh bàn, rồi từ đi văng trèo lên bậu cửa sổ.
Chúng nằm nghếch đầu nhìn xuống dưới, chân đung đưa. Từ trên cao chúng ngắm nhìn cái sân ở phía xa.
Con mèo Anjuta đang lang thang ở phía dưới. Trông nó nhỏ như một thứ đồ chơi.
- Úi chà, cao quá! – Valia nói và nhỏ nước miếng xuống dưới – Anh có dám nhảy xuống không?
- Dám chứ! - Karik đáp – Có dù anh nhảy ngay.
- Thế không có dù thì sao?
- Không có dù ư? Chịu thôi, có ai nhảy không dù từ trên cao thế này bao giờ.
Những con én lướt qua cửa sổ bắt những con ruồi nhỏ đang bay. Những con bồ câu xám đậu xuống ban công và bậu cửa sổ.
- Chuồn chuồn! – Đột nhiên Valia kêu lên – Xem kìa, xem kìa!
Một con chuồn chuồn màu xanh lơ lao thẳng về phía bòn trẻ có lẽ đang chạy trốn những con én. Trông thấy bọn trẻ, nó lặng đi giây lát trên không rồi lao vào phía bên, đập mạnh vào kính cửa sổ mở, rơi xuống bậu cửa nằm chết giấc.
- Của anh đấy nhé! – Kark kêu lên.
- Không, của em chứ! – Valia la – Em nhìn thấy nó đầu tiên mà!
Con chuồn chuồn nằm trên bậu cửa giữa Karik và Valia, động đậy yếu ớt những cái chân nhỏ xíu.
Karik định với tay bắt con chuồn chuồn. Bỗng cậu cảm thấy cái quần cụt tụt xuống. Cậu vội vã xúi xuống nhưng chưa kịp nắm lấy thì cái quần đã trượt xuống. Tiếp theo là dép cũng tụt ra khỏi chân.
Karik định nhảy xuống đi văng bên cạnh cửa sổ nhưng cái đi văng bỗng lao nhanh xuống phía dưới tựa như thang máy trượt xuống từ trên tầng cao.
Không hiểu ra sao, Karik bối rối nhìn xung qanh. Ngay đó cậu thấy cả căn phòng bỗng giãn ra cả phía trên lẫn phía dưới một cách kỳ lạ.
- Cái gì thế này? – Karik kinh hãi kêu lên.
Tường nhà, sàn và trần giãn ra như cái đàn Accordéon khổng lồ.
Mới chừng một phút mà căn phòng thay đổi không nhận ra được nữa.
Một quả khí cầu khổng lồ bằng thủy tinh đung đưa trên đầu, xung quanh có nhưng cột băng lấp lánh ánh mặt trời.
Đó là cái đèn chùm.
Ở sâu phía dưới là cánh đồng rộng mênh mông màu vàng có điểm những ô vuông đen đều đặn. Trên những ô vuông lăn lóc những thanh củi cạnh hình vuông một đầu đã cháy. Cạnh chúng là cái ống dài màu trắng, trên có đề chữ thật là lớn “Thuốc lá kênh Bạch Hải”. Một đầu đã cháy xém bao phủ bởi một cái mũ tro xám dày đặc.
Phía bên, những cái ghế đen giống như những ngọn núi bọc da, còn cái áo choàng trắng của giáo sư giống như tuyết vĩnh cửu phủ trên núi cao.
Ở chỗ trước kia có tủ sách bây giờ mọc lên những ngôi nhà chọc trời bằng kính với những trần nhà màu nâu. Qua các tấm kính, có thể nhìn thấy những quyển sách to như những ngôi nhà năm tầng.
- Anh Karik, cái gì thế? – Valia thản nhiên hỏi vưa tò mò ngắm nghía sự biến đổi kỳ diệu của căn phòng.
Bây giờ Karik mới nhận thấy Valia. Cô đứng cạnh cậu, không có dép cũng chẳng có quần cụt.
- Anh Karik, xem kìa, buồn cười thật! – Cô bé cười ầm lên. Đó là thí nghiệm bắt đầu rồi phải không?
Karik chưa kịp đáp thì bỗng ở bên cạnh một cái gì vang động ầm ầm. Bụi bốc lên như những đám mây dày đặt bốc cao trên bậu cửa sổ. Valia níu chặt lấy vai Karik. Vào lúc đó gió bỗng nổi lên. Bụi bốc lên rồi tan dần.
- Ái chà! – Valia kêu lên.
Ở chỗ trước kia con chuồn chuồn bé xíu nằm thì bây giờ là cả một hình đồ sộ như khúc gỗ có nhiều đốt với cái móc câu khổng lồ phía đuôi.
Tấm thân màu nâu lấm chấm các vệt màu xanh lam co giật từng hồi. Các đốt chuyển động lúc thì xếp lên nhau lúc lại duỗi ra về một phía. Bốn cái cánh khổng lồ trong suốt phủ đầy những đường gân lấp lánh dầy như mạng nhện rung lên trong không khí. Cái đầu quái đản đập vào bậu cửa.
- Anh Karik! – Valia thì thầm – Con gì thế?
- Suỵt!
Thận trọng từng bước một, Karik bước lên bậu cửa, bây giờ giống như con đường ô tô chạy. Nhưng mới được mấy bước cậu đã sững lại.
Cậu đang đứng trên bờ vực thẳm.
Cậu có cảm giác như đang đứng trên nóc nhà thờ Isak Kievski (1).
Và lúc đó Karik chợt hiểu chuyện gì đã xảy ra. Cậu quay lại phía Valia, cầm lấy tay cô, lắp bắp và sợ hãi, nói:
- Cái đó... cái đó chắc là nước dành cho thỏ... Em hiểu không?... Thí nghiệm của giáo sư đã thành công... có điều không phải những con thỏ bé lại mà là anh với em.
Valia không hiểu gì hết.
- Thế đây là cái gì hở anh? – cô hỏi và chỉ vào con quái vật đang nằm bất động trên bậu cửa.
- Đây ư?... Đây là con chuồn chuồn!
- To thế này ư?
- Hoàn toàn không to, - Karik, chán ngán trả lời – Nó vẫn như trước kia thôi. Nhưng anh và em thì trở nên bé tí xíu... tự như con bọ chét.
- Hay thật! – Valia vui mừng nói.
- Đồ ngốc! – Karik phát cáu – Hay ho cái gì!... Người ta sẽ cho chúng ta vào chai lọ và ngắm nhìn qua kính hiển vi.
- Còn theo em nghĩ, - Valia nói đầy tự tin – Thì người ta sẽ không ngắm nhìn chúng ta đâu. Bác Ivan Germogenovich sẽ về và biến chúng ta trở lại như trước.
- Vâng!... To lớn như trước! Bác ấy thậm chí cũng sẽ chẳng nhận thấy chúng ta!
- Chúng ta sẽ kêu lên!
- Bác ấy sẽ không nghe thấy!
- Không nghe thấy ư? Tại sao lại thế? Bác ấy có bị điếc đâu?
- Bác ấy thì không điếc nhưng, tiếng nói của chúng mình bây giờ chắc chỉ nhỏ bằng tiếng muỗi.
- Thế ư? – Valia mỉm cười hoài nghi và lấy hết hơi sức gào lên: - Ê... hê! Chúng cháu đang ở đây!
Cô ngước nhìn Karik rồi hỏi:
- Thế nào? Nghe không rõ ư?
- Đối với chúng ta thì rõ, còn đối với Ivan Germogenovich thì không.
- Thế bây giờ chúng ta bị làm sao không?
- Chả có gì đặc biệt cả! Người ta sẽ dùng giẻ lau chùi chúng ta khỏi bậu cửa rồi dẫm chân lên thế là xong...
- Ai sẽ chùi chúng ta?
- Chắc là bác Ivan Germogenovich chứ ai!
- Chùi bằng giẻ lau?
- Đúng rồi! Bác ấy sẽ chùi bụi rồi chùi luôn cả chúng mình cùng với bụi.
- Thế chúng mình... chúng mình... chúng mình... Anh Karik này, em nghĩ ra rồi... Anh biết không chúng mình sẽ leo lên con chuồn chuồn. Ivan Germogenovich thấy con chuồn chuồn chết nhất định sẽ nhặt lên để trên bàn, lúc đó chúng mình sẽ chui dưới kính hiển vi và bác ấy sẽ nhìn thấy chúng mình... Nhất định bác ấy sẽ thấy mà! Rồi biến chúng mình to trở lại... Leo lên chuồn chuồn mau lên!
Valia nắm tay Karik:
- Leo lên đi anh!
Bọn trẻ giúp đỡ nhau nhanh nhẹn leo lên con chuồn chuồn. Nhưng vừa lên thì con chuồn chuồn bỗng động đậy, đập cánh ầm ầm như sấm, trở mình thở phì phì như cái ô tô.
Bọn trẻ cảm thấy tấm thân con chuồn chuồn rắn chắc và khỏe mạnh bắt đầu uốn cong lên ở dưới chúng.
- Ôi chao, nó còn sống. Trèo xuống ngay đi anh! - Valia thét lên.
- Không sao, không sao, giữ cho chắc!
Bọn trẻ dùng cả chân tay ôm chặt lấy thân con chuồn chuồn nhưng nó vẫn uốn cong cả thân mình định giải thoát khỏi gánh nặng khó chịu. Karik và Valia lắc lư, bật nẩy lên như ngồi trên lò xo.
- Ôi! Nó hất chúng ta xuống mất! – Valia thét lên.
- Khoan đã nào! - Karik kêu lên – Anh sẽ... Nào, đứng yên!
Cậu bò lên đầu con chuồn chuồn, cúi xuống dùng hết sức đấm tay vào mắt nó mấy cái.
Còn chuồn chuồn rùng mình, uống cong người lại rồi chết lặng đi.
- Hình như nó lại chết rồi! Valia nói.
- Để xem đã.
Karik leo xuống, đi vòng quanh con chuồn chuồn rồi dùng hai tay nắm lấy cái cánh trong suốt như tấm mica cố sức nâng nó lên. Con chuồn chuồn không động đậy.
- Nó chết rồi. – Karik tin tưởng nói và leo lên con chuồn chuồn.
Một hồi lâu bọn trẻ ngồi lặng lẽ, đôi khi ngắm nhìn cánh cửa, nhưng chẳng bao lâu chúng thấy buồn tẻ và bắt đầu xem xét con chuồn chuồn. Karik leo lên cánh định dứt nó ra khỏi thân. Nhưng cánh rất chắc. Khi đó Karik nhảy lên đầu chuồn chuồn, đập gót chân vào mắt nó.
- Úi chà, mắt nó ghê thật! Em thấy không?
- Ừ!
Valia rụt rè thò tay thận trọng sờ vào cặp mắt lạnh lẽo như pha lê.
- Kinh thật!
Con chuồn chuồn quả có cặp mắt kỳ lạ - to và lồi như cái đèn pin, bao phủ bởi hàng ngàn cạnh đều nhau chúng tỏa sáng xanh biếc từ bên trong.
Cặp mắt kỳ lạ ấy cùng một lúc nhìn vào cả Karik, Valia, sân nhà, bầu trời, trần nhà lẫn sàn nhà.
Dường như trong mỗi con mắt chiếu sáng hàng ngàn mắt xanh biếc và tất cả chúng đều nhìn tinh tường chăm chú.
Ở phía trước những con mắt to ấy, ngay sát đầu còn có ba con mắt nâu nhỏ nữa và chúng cũng tỉnh táo theo dõi bọn trẻ.
- Anh biết không, – Valia nói – Tuy vậy nó vẫn sống. Nó đang nhìn đấy, anh thấy không?
- Thế thì sao nào?
- Phải giết nó thêm một lần nữa. Lỡ nó sống lại thì sao?... Anh có biết chuồn chuồn ăn gì không?
- Hình như nó ăn cỏ hay mật hoa thì phải. – Karik nói lơ mơ – Anh cũng không nhớ rõ nữa. Nhưng mà sao?
- Em sợ nó sống lại sẽ ăn thịt chúng ta. Ai biết được chuồn chuồn hay ăn gì? Tốt nhất là cứ giết nó thêm một lần nữa.
Valia đã thò chân xuống sàn định trèo xuống, nhưng vừa lúc ấy một tiếng nổ rền như sấm trong căn nhà. Sau đó vang lên tiếng thình thịch nặng nề đều đều.
- Cái gì thế? – Valia chết lặng đi.
- Đó là... Hoan hô! Đó là bác Ivan Germogenovich đang đi! – Karik vui mừng reo lên.
Valia vội vàng trở lại vị trí cũ.
Cánh cửa sập vào. Một làn sóng không khí dội vào cửa sổ. Một người cao như núi, râu như một đụm bông trắng bước vào phòng làm việc.
Đến đây Karik và Valia dùng hết sức mình kêu lên.
- Bác Ivan Germogenovich!
- Bác Ivan Germogenovich!
Con người cao như núi mở to mắt. Bàn tay to bằng cái bàn ăn bay lên cao, dừng lại ở vành tai có những chòm lông bạc trắng dày như những cái bút chì. Ông ngó quanh, lắng nghe, rồi nhúng vài tỏ ý không hiểu.
- Ivan Germogenovich! I-i-van Germogenovich! – Karik và Valia cùng gào lên.
Con người cao như núi thở dài ầm ĩ. Trong phòng khắp chỗ đều rền vang. Suýt nữa bọn trẻ cùng con chuồn chuồn bay nhào xuống sân đá.
- Lại đây! Chúng cháu ở đây!
Con người cao như núi bước lại gần cửa sổ.
- Hoan hô! – Karik kêu lên – Bác ấy nghe thấy rồi.
- Chúng cháu ở đây, ở đây! - Valia gào lên.
Người cao như núi dừng lại.
- Đến với chúng cháu! Ở đây! Chúng cháu đang ở đây! – Bọn trẻ hò la.
Người cao như núi bước lại gần cửa sổ.
Nhưng đột nhiên con chuồn chuồn động đậy, chuyển động đôi cánh như mica kêu răng rắc làm bốc lên đám mây bụi dầy đặc trên bậu cửa sổ rồi cùng với Karik và Valia lao xuống dưới, chìm vào đại dương không khí xanh lơ.
- Anh ngồi cho vững! – Valia kêu lên, ôm lấy Karik.
---
(1) Một nhà thờ lớn ở Lêningrad (N.D)
Chương 3
Con chuồn chuồn bay, vỗ ầm ĩ những cái cánh cứng và trong suốt, chúng kêu rền vang như tấm sắt.
Gió mạnh thổi ngược lại, giật tóc, rít ầm ĩ đinh tai.
Nó đập vào mặt làm mắt không nhìn thấy gì. Thở khó khăn. Bấu chặt lấy con chuồn chuồn, ôm nó bằng cả tay lẫn chân, bọn trẻ ngồi dở chết dở sống.
- Anh Karik? – Valia kêu lên trong tiếng rít của gió – Em biết giữ làm sao đây? Gió cứ lôi em... lôi em xuống dưới đấy!
- Im đi không có ngã cả hai bây giờ! - Karik kêu lên, suýt nữa tắt thở vì gió.
Gió thổi mạnh đến nổi tưởng chừng như sắp giựt Valia và Karik ra khỏi con chuồn chuồn và ném chúng xuống dưới. Bọn trẻ cố khom mình xuống sát lưng con chuồn chuồn, nhưng cũng không đỡ hơn.
- Nằm xuống, Valia! – Karik kêu lên, cố nằm dài thân mình ra.
Valia bắt chước anh.
- Thế nào? – Karik kêu lên – Có đỡ không?
- Có đỡ hơn đôi chút!
Thực vậy, sức ép của gió bây giờ không đến nỗi mạnh như trước. Bây giờ có thể mở mắt ra nhìn xung quanh được rồi.
Không ngẩng đầu lên, Valia kêu:
- Thế này thì cũng không sợ lắm!
Trong tiếng ầm ĩ của gió Karik chỉ nghe thấy hai chữ “sợ lắm”.
Cậu quay đầu lại một chút, cố gắng nói to và bình tĩnh:
- Không sao đâu, hãy giữ cho chắc!
Chuồn chuồn lướt đi, nhịp nhàng bay lên cao rồi lao nhanh xuống dưới.
- Ôi chao, anh Karik! – Valia rền rĩ – Nó muốn ném chúng ta xuống đất đấy.
Nhưng Karik không nghe thấy tiếng Valia.
Cậu chăm chú theo dõi hoạt động của cánh chuồn chuồn.
Hai cánh trước đặt lên không khí hầu như bất động. Nó chuyển động rất ít hầu như không thấy được. Thình thoảng nó nghiêng về phía trước hay về phía sau. Lúc đó con chuồn chuồn hạ thấp xuống hoặc bay lên cao.
Như vậy những cái cánh đó dùng để lái và cũng để giữ thăng bằng trong khi bay.
Nhưng còn hai cánh sau lấp loáng như cánh chong chóng. Nó gầm rít quạt không khí về phía sau, đẩy chuồn chuồn đi về phía trước.
Bây giờ thì những cánh sau bắt đầu vểnh lên cao đột nhiên dựng đứng lên như cánh buồm. Gió thổi đều đều sau lưng. Con chuồn chuồn lướt đi êm như cánh buồm trong không khí.
- Úi cha, thật thú vị! – Valia thì thầm – Giá như người ta làm cái máy bay như vậy nhỉ.
Karik lườm em, hấm hứ, không bằng lòng. Cái tính nhẹ dạ của cô bắt đầu làm cậu bực mình.
- Ngồi im đi! – Cậu cau mày nói.
Nhưng Valia không sao ngồi im được, mà ngồi yên sao được cơ chứ?
Những con vật có cánh khổng lồ bay qua lại, nhanh như những đoàn tàu hỏa chạy ngược chiều, quạt gió vào bọn trẻ. Chúng bay nhanh đến nỗi không kịp hiểu xem chúng là nhưng con gì. Chim ư? Ong ư? Hay chuồn chuồn?
Valia chốc chốc lại kêu lên.
- Con gì đấy? Anh thấy không hả anh Karik?
Suýt nữa thì chúng đâm vào một con cánh cam to như cái xe tăng. Nó phơi bộ cánh vàng tím sặc sỡ chói chang dưới ánh nắng mặt trời nhìn đến lóa mắt.
Con cánh cam bay thẳng vào con chuồn chuồn. Cuộc đụng độ tưởng như không tránh khỏi. Đột nhiên chẳng cần quay lại nó bay ngược lại phía sau cũng nhanh như vậy.
- Bay giật lùi! – Valia kêu lên – Nó có thể bay giật lùi. Anh thấy không?
Đột nhiên dưới cánh có cái gì kêu vù vù. Một con vật tròn lông lá không hiểu từ đâu hiện ra ở phía dưới. Nó quặp chân xù xì dưới bụng, vù vù bay lại theo đường ngoằng ngoèo. Cặp cánh phớt xanh của nó lấp lánh dưới mặt trời, lúc thì lóe sáng xanh lúc lại tắt đi.
- Con gì thế? – Valia hỏi.
- Con ruồi! Có điều nó rất to! Như nhìn dưới kính hiển vi ấy.
Khoảng cách giữa con ruồi và chuồn chuồn ngày càng rút ngắn lại. Bây giờ thì Valia đã nhận ra con ruồi. Nó to như vẽ trong cổ động: “Hãy đề phòng ruồi – chúng truyền bệnh lây...”.
Valia chưa kịp nghĩ xem ruồi mang bệnh lây gì, thì con ruồi bỗng bay ngoắt ngoéo lao về phía dưới.
Con chuồn chuồn lúc lắc cái đầu khổng lồ, lấp lánh cặp mắt to tướng trông như pha lê, đuổi theo con ruồi.
- Úi chà! – Valia kêu lên nắm chặt lấy chân Karik.
- Giữ cho chắc! – Karik đáp.
Bắt đầu những cái ngoặt kinh hồn, những cái vọt lên cao rồi lao xuống dốc đến chóng mặt.
Đuổi theo con ruồi, chuồn chuồn lúc thì rơi thẳng xuống như viên đá, lúc đan thành những vòng ngoằn ngoèo, lúc lượn nghiêng bay nhào vào con ruồi, giơ nhưng gọng kìm khổng lồ đầy gai nhọn ra.
Còn ruồi quay ngửa lên bay bằng lưng, chân chống lên trên. Chân nó đạp dữ dội cố đẩy gọng kìm của chuồn chuồn ra nhưng tất cả đều vô ích.
Con chuồn chuồn chộp được còn ruồi. Những gọng kìm khép lại.
Cánh ruồi kêu răng rắc.
Gọng kìm sập vào như hai lưỡi kéo.
Rộp!
Rộp! Chân cẳng và cánh của con ruồi bất hạnh quay tròn trong không trung từ từ rơi xuống đất.
Những gọng kìm khỏe mạnh lại sập vào một lần nữa. Nó nghiền nát con ruồi bẹp dí như miếng bánh tráng rồi cho vào cái miệng đen ngòm.
Karik và Valia lặng lẽ nhìn nhau.
Hóa ra chuồn chuồn ăn uống như vậy. Valia thì thầm:
- Thế mà anh cứ bảo nó ăn mật hoa!
Cô bé hoảng sợ. Nếu chuồn chuồn ăn những con ruồi đó như thế thì nó có thể nuốt trôi Karik và Valia như bỡn thậm chí còn không nhận biết nữa.
Bọn trẻ lặng thinh.
Từ xa thấp thoáng những cái cánh khổng lồ sặc sỡ. Đầu cánh có điểm những chấm nhung đen. Ở bờ cánh kéo dài ra những sẹo đen tựa như đường viền khăn tang. Đôi cánh nhảy múa trong không trung nâng đỡ tấm thân uốn cong giống như quả khí cầu rằn ri. Những cái râu dài có mấu ở đầu rung rinh đưa lên đưa xuống.
Lúc bay lại gần, bọn trẻ nhìn thấy ở trên cánh có cái vẩy phủ một lớp phấn sặc sỡ mềm mại.
Đôi cánh ngờ nghệch quay tròn trong không trung, phập phồng như cánh buồm trước gió.
Bây giờ con vật sặc sỡ ấy đã nhìn thấy con chuồn chuồn. Nó cuốn quýt vẫy đôi cánh rồi khép cánh lại bắt đầu rơi thẳng xuống dưới, nơi thấp thoáng những cánh rừng, đồng cỏ và hồ nước.
Nhưng nó không thoát được còn chuồn chuồn.
Con chuồn chuồn lao theo nó, dùng ngực đập vào làm nó bắn sang một bên. Khi còn vật màu sặc sỡ bị lật ngửa lên không trung, con chuồn chuồn chộp lấy nó, vặn cổ, bứt cánh và nuốt chửng trong chớp mắt. Rồi nó lại lao đi như cái máy bay, đôi cánh hùng mạnh của nó kêu rền vang và trên đầu gió lại cất tiếng hát rì rầm.
- Nó ăn con gì thế?
- Con bướm! – Karik kêu lên cố át tiếng ầm ầm của gió – Hình như con bướm thì phải.
Con chuồn chuồn có vẻ rất đói.
Chẳng mấy chốc nó lại nuốt thêm một con ruồi rồi lại một con bướm nữa – lần này là con bướm trắng điểm chấm xanh, và một con muỗi.
- Thật là đồ phàm ăn! – Karik kêu lên.
Valia chỉ co ro thu mình lại.
Những đám mây trôi trên bầu trời.
Từng lúc che khuất mặt trời và khi đó bóng mát màu xanh lạnh lẽo trùm lên mặt đất.
Bây giờ bọn trẻ kinh ngạc nhận thấy cử chỉ khác thường của con chuồn chuồn mỗi khi những đám mây lướt tới mặt trời.
Mặt trời vừa bị che khuất là con chuồn chuồn trở nên uể oải chậm chạp, liệng xuống thấp như một cái tàu lượn.
Nhưng mặt trời vừa ló ra khỏi đám mây nó trở nên linh hoạt. Nó vỗ cánh nhẹ nhàng và nhanh nhẹn leo lên trên cao săn mồi như trước.
- Anh Karik, – Valia kêu lên - Anh có nhận thấy con chuồn chuồn làm sao ấy không?
- Có, có! – Karik gật đầu.
Cậu còn nhận thấy đôi điều khác nữa.
Khi rơi vào trong đám tia mặt trời, thân mình con chuồn chuồn căn phồng lên, còn khi chuồn chuồn rơi vào khoảng tối lạnh của bóng mát thì thân hình nó co lại, nhũn ra như quả bóng bị xì hơi. Sự thực đúng là như vậy, nhưng bọn trẻ chưa biết hết điều đó nên chúng không sao hiểu được cử chỉ khác thường của con chuồn chuồn.
Cuộc săn mồi vẫn tiếp tục.
Con chuồn chuồn ăn ruồi, bướm và muỗi không biết mệt.
Giả sử nếu bọn trẻ muốn đặt cho cái máy bay sống của mình một cái tên nào đó, thì không thể nghĩ được cái gì hơn là danh hiệu: “Thần chết của ruồi muỗi”.
Trong lúc đuổi bắt một con bướm trắng, con chuồn chuồn ngoặt một cái thật mạnh. Valia tuột ra khỏi lưng con vật phàm ăn có cánh. Đáng lẽ cô rơi xuống đất rồi, nếu như không kịp túm lây chân Karik. Nhưng chính Karik cũng ngồi chưa vững trên lưng chuồn chuồn.
- Giúp em với! – Valia kêu lên.
- Anh... chịu thôi! – Karik phều phào nói.
Valia lôi cậu xuống phía dưới như một quả tạ buộc vào chân. Cậu cố bám tay vào cạnh sườn chắc nịch và trơn bóng của con chuồn chuồn. Nhưng vô ích! Tay cậu tê dại. Ngón tay trượt đi. Với sự tuyệt vọng của kẻ sắp chết, cậu tỳ cằm vào cánh chuồn chuồn, còn một tay ôm lấy thân của nó.
Nhưng cậu không đủ sức leo lên trở lại nữa.
- Không, anh hết sức rồi! – Karik kêu lên.
Ở sâu phía dưới tựa như đáy vực thẳm mặt hồ trong xanh mênh mông trôi lướt qua.
Những đám lau sậy xanh nổi trên mặt nước chen chúc nhau chạy dọc bên bờ. Những đám hoa súng trắng dày đặt tựa như gắn chặt vào mặt hồ xanh biết phẳng lặng.
Còn chuồn chuồn ngoặt một cái thật mạnh.
Một luồn gió mạnh quật vào ngực Karik. Tay cậu trượt trên lưng chuồn chuồn một lần cuối cùng.
Karik nhắm mắt, trái tim thắt lại, câu chết lặng đi: dưới chân cậu mọi vật đều sụt nhào, bên tai gió gào rít liên hồi.
Bọn trẻ bay xuống dưới.
- Y... y! – Valia thét lên.
- A... a! – Karik gào to.
Bọn trẻ rơi nhào lộn trong không trung.
Nhiều lần đất, trời đổi chỗ cho nhau.
Trời.
Đất
Trời.
Đất.
Ùm!
Ùm!
Bọn trẻ đâm nhào xuống mặt hồ phẳng lặng như gương làm tung bọt nước tựa giếng phun. Chúng rẽ làn nước lạnh, rơi xuống đáy như hòn đá.
Chúng đập chân vào đáy và lại bắn vọt trở lại mặt hồ như hai cái nút chai. Choáng người vì bị rơi mạnh, chúng quay tròn một chỗ không hiểu đầu đuôi ra sao.
Karik hồi tỉnh lại trước nhất. Cậu khạc nhổ nước ra khỏi miệng và kêu lên.
- Phải bơi vào bờ cho nhanh!
Valia bị sặc nước, lên tiếng hỏi.
- Bờ ở đâu?
Karik hất đầu vè phía xa, nơi rừng cây rậm rạp như bức tường thành.
- Úi cha! Liệu có bơi được đến đó không? - Valia thút thích khóc.
- Tất nhiên là sẽ bơi đến nơi! – Karik tin tưởng nói – Có điều không nên vội, khi nào mệt thì bám anh. Chúng ta sẽ nghỉ bằng cách bơi ngửa. Nào, bơi theo anh đi.
Chúng bơi về phía bờ thở phì phì bắn tung bọt nước.
Bỗng Valia thét lên:
- Xem kìa, con gì thế kia? Nó đang chạy lại phía chúng ta đó!
Một con vật kỳ lạ đang lướt trên mặt nước bằng những cái chân dài và hơi cong gập lại.
- Con gì thế?
- Anh không biết! – Karik thì thầm, thụt đầu vào vai.
- Liệu nó có cắn không?
- Anh không biết!
Con vật lướt đi như người trượt băng, mỗi lúc một gần hơn.
- Cái con này... chắc không giống chuồn chuồn chứ? – Valia thì thầm hỏi.
- Anh không biết nữa... Nhưng em cứ chuẩn bị phòng xa... Nếu nó tấn công thì lặn xuống thật sâu nhé.
Con vật giang rộng những cái chân dài lướt đi trên mặt nước. Theo đà chạy, nó khéo léo nhảy qua những cây cỏ mọc dưới nước.
Những cái phao – giày trượt băng để lại trên mặt nước một vệt sóng lăn tăn rất khó nhận ra.
- Đây là con đo nước đấy mà! – Karik kêu lên – Đúng rồi! Một con đo nước bình thường. Có điều rất to thôi.
Con đo nước khổng lồ lại gần nhanh kinh khủng. Tấm thân màu nâu phủ đầy lông phớt trắng khẽ lắc lư theo bước đi. Hai mắt to hình quả cầu trố ra nhìn bọn trẻ. Những lúc rẽ ngoặt con đó nước hất những chân sau về phía sau và sang hai bên, kéo lê chúng theo, khẽ quay mình lúc sang phải, lúc sang trái. Có lẽ nó sử dụng chân sau như bánh lái. Con đo nước lao thẳng vào bọn trẻ.
- Úi cha! – Valia kêu lên.
Con đo nước lúc lắc cái đầu, giơ lên cai cái vòi dài như ngọn giáo, nhọn như mũi kim. Đầu vòi rung rung như cái lò xo thép bị vuốt thẳng ra.
- Nó chém giết bằng cái đó đấy! – Valia kêu lên.
Con đo nước lại gần hơn nữa. Nhắc những chân trước lên khỏi mặt nước nó nhắm về phía Valia. Ngay lập tức Karik nắm tay em kéo xuống dưới nước. Bọn trẻ lặng xuống, chỗ bọn trẻ lúc trước vừa bơi chỉ còn lại những vòng tròn và bọt nước lăn tăn.
Con đo nước bối rối đưa cặp mắt tròn nhìn quanh. Nó không hiểu gì cả. Con mồi vừa ở ngay trước mũi – thế mà đột nhiên...
Thế là thế nào nhỉ?
Con đo nước nhìn xung quanh một lần nữa khép cái vòi vào cái bụng trắng, trượt trên mặt nước đi tiếp ra xa.
Thở phì phì và khạc nhổ nước ra, bọn trẻ nổi lên từ dưới nước.
- Nó đâu rồi? – Valia hỏi, thở hổn hển.
- Phù! Anh không biết! – Karik khẽ đáp lại – Có lẽ nó đi mất rồi.
- Nó đi đâu hả anh?
Karik bực mình nói:
- Vào bờ đi nào, bơi đi và đừng nói chuyện nữa!
Bọn trẻ lặng lẽ bơi hồi lâu, e sợ nhìn xung quanh.
- Ôi chao! Cái gì thế này? - Valia bỗng khóc thút thít, cảm thấy chân mình ở dưới nước bị mắc vào mạng lưới rối tinh nào đấy.
Cô giựt chân ra một lần nữa – vẫn còn mắc! Giựt mạnh hơn – nhưng những cái lưới mắc vào ngón chân và quấn khắp chân trái đến tận đầu gối. Valia định dùng chân phải gỡ ra, nhưng hàng trăm sợi chỉ nhỏ và chắc chắn quấn nốt cả cái chân ấy.
- Nào, em ở đó làm sao thế? – Karik ngoái lại hỏi em.
- Lưới! – Valia kêu lên – Con gì đang giữ em lại đây này! Những cái lưới gì đó ở dưới nước...
Karik thở phì phì, quay lại chìa tay cho Valia.
- Nào, nắm lấy tay anh đi!
Nhưng cậu chưa kịp với tay tới Valia thì đã cảm thấy chân mình cũng bị mắc vào lưới.
Bọn trẻ ra sức đập tay trên mặt nước.
Nước réo ùng ục như trong nồi xúp-de.
- Ôi! Ôi! - Valia khóc thút thít – Em chịu thôi... Không làm sao được nữa...
- Mạnh lên! Mạnh nữa lên! Đừng chịu thua!
Nhưng tất cả đều vô ích. Bọn trẻ không cựa quậy được nữa. Những tấm lưới chắc chắn và nhớp nháp không chỉ quấn ở chân mà khắp cả thân mình, kéo chúng xuống dưới nước.
Một phút, hai phút – mặt nước khẽ vỗ nhẹ khép kin trên đầu chúng.
Bị sặc nước và thổi ra bong bóng, bọn trẻ chìm sâu mãi.
Bỗng những cái xúc tu khỏe mạnh của con vật nào đó sờ soạn tay chân bọn trẻ, giựt chúng ra khỏi cái lưới, tóm chặt lấy và lôi xuống một cái đáy tối đen. Bọn trẻ bị sặc một thứ nước âm ấm và tanh tưởi.
Trước mắt chúng bồng bềnh những vòng tròn màu vàng, tai ù lên tiếng rít: “ti-i-ti-i”!
Chỉ một giây nữa thì bọn trẻ đã chết ngạt rồi. Nhưng ngay lúc đó Karik và Valia bị ném mạnh lên trên và phổi của chúng lập tức tràn đầy không khí.
Thở sâu một vài cái, Karik mở mắt ra. Cậu nhìn thấy khuôn mặt ướt đẫm, đầy sợ hãi của Valia. Cô há to miệng cố nói điều gì đó, nhưng từ trong miệng chỉ có nước chảy ra.
Bọn trẻ lửng lơ trong không trung. Một cái chân xù xì khổng lồ giữ chúng cao trên mặt nước.
Bây giờ thì có thể thở được rồi. Nhưng ở trên đầu, thay vì bầu trời xanh và mặt trời tươi tắn, là một cái vòm tối đen phủ đầy rêu mốc. Những bức vách u ám và ẩm ướt nhô lên từ dưới nước.
Valia òa khóc.
- Biết làm sao được! – Karik buồn rầu nói – Mọi người rồi ai cũng đến lúc phải chết. Đừng khóc, em Valia.
Mặt nước đen sủi dựng lên như một cái bướu – rồi bỗng cái bướu vỡ ra. Karik và Valia trông thấy một con vật to béo từ từ nổi lên. Bên cạnh thân của nó xuất hiện những cái chân xù xì, những cái chân khác rồi lại những cái chân khác nữa. Cuối cùng, qua làn nước mắt, bọn trẻ nhìn thấy toàn bộ mặt con nhện khổng lồ. Nó lắc lư trên mặt nước, nhìn Karik và Valia bằng cặp mắt lạnh lùng dữ tợn.
Tám con mắt nhỏ, không chớp như mắt rắn nhìn trừng trừng vào bọn trẻ, canh chừng mỗi cử động của chúng. Karik và Valia giẫy dụa vùng ra, nhưng con nhện bóp chặt chân lại đến nỗi bọn trẻ không kêu lên được nữa.
Con quái vật tám mắt quay ngược bọn trẻ đầu chúc xuống đất rồi gói cuộn chúng lại thật nhanh... Bọn trẻ tối mắt ù tai.
Karik và Valia ngất đi.
Chương 4
GIÁO SƯ ENNOTOV RA ĐI VÀO THẾ GIỚI KỲ LẠ - ĐIỀU BÍ ẨN CỦA CÁI MẠNG NHỆN GIẢN ĐƠN - CUỘC ĐI SĂN ĐẦU TIÊN – ÁO GIÁP VÀ NGỌN GIÁO – CÁI BẪY – IVAN GERMOGNOVICH LÂM NGUY
Giáo sư Enotov đứng trên đỉnh ngọn đồi xanh rờn.
Quần dài trắng của ông lấm đầy nhựa đường và đất sét. Cà vạt lệch sang một bên. Cái mũ nhàu nát hất ra sau gáy để lộ vầng trán ửng đỏ, đẫm mồ hôi. Những mẩu cành khô vướng cả vào bộ râu rậm của ông.
Một tay Ivan Germogennovich xách chiếc hòm gỗ. Tay kia cầm một con sào dài. Đầu con sào buộc một cái khăn tay màu đỏ. Nó bay trong gió như một lá cờ.
- Phù! - Giáo sư thở phì phò, ngó nhìn xung quanh – Có lẽ đúng là ở đây...
Phía dưới chân đồi hồ nước phẳng lặng như đang ngủ yên, phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh. Trên mặt nước biếc xanh im ắng những bông súng rung rinh. Trong đám sậy rậm rạp có tiếng cá quẫy.
Giáo sư đặt cái hòm xuống đất rồi cắm cây sào ở bên cạnh:
- Nào, bắt đầu thôi... - Ivan Germogennovich thở dài, ném cái mũ xuống đất, bắt đầu bứt cỏ bằng cả hai tay.
Sau khi bứt được một ôm to, ông phủ cỏ lên lên cái hòm thật cẩn thận, rồi lại gần cây sào cắm sâu nó thêm, thử lúc lắc nó sang phải sang trái. Cây sào cắm chắc.
- Rất tốt! - Ivan Germogennovich nói.
Ông thò tay vào túi lấy ra một cái lọ có bụng phình. Những giọt màu bạc nổi lên từ dưới đáy lọ đập vào nhau vỡ tan ra
Ivan Germogennovich cởi quần áo ném lên cỏ rồi cầm trong tay cái lọ có chất lỏng màu bạc.
- Từng này chắc là đủ! – Ông nói.
Sau khi đã nhìn xung quanh, ông thở dài buồn bã và ngửa cổ uống cạn một hơi những gì có trong lọ.
- Thế là tốt rồi! – Giáo sư lẩm bẩm nói rồi giang tay ném cái lọ không xuống hồ nước.
Hồi lâu Ivan Germogennovich đứng yên một chỗ, tư lự ngắm nhìn những vòng tròn đuổi nhau tan rộng ra trên mặt nước, ngắm nhìn đôi tay của mình, sau đó bước xuống phía hồ nước và... bỗng như tan biến mất.
Chỗ trước kia có một người to lớn đứng, bây giờ chỉ có một cây sào dài nhô lên đơn độc cùng với lá cờ đỏ, còn ở phía dưới cạnh con sào lăn lóc bộ quần áo nhàu nát, đôi giày có cổ và những chiếc bít tất kẻ sọc.
*
Chuuyện gì đã xảy ra với giáo sư.
Sau khi ông uống hết chỗ chất lỏng, ông đứng yên, nhúc nhích đôi chân trần.
Bỗng nhiên mọi vật xung quanh bắt đầu biến đổi kỳ diệu.
Những cây cỏ cao vút lên trong chớp mắt. Mỗi lá cỏ lớn và phình to ra, mỗi lúc một cao hơn dày hơn mãi.
Chưa đầy môt phút, xung quanh Ivan Germogennovich hiện lên cả một rừng cây rậm rạp đang rì rào.
Nhưng thân cây xanh sáng bóng vây quanh giáo sư từ mọi phía. Mỗi cái cây giống như cây tre khổng lồ.
Cao trên đỉnh ngọn cây, những khóm hoa khổng ồ đủ màu đỏ, vàng, xanh, rung rinh lắc lư, rắc lên khu rừng đám phấn vàng tỏa mùi thơm ngây ngất.
- Đấy mà, đấy mà! - Ivan Germogennovich xoa tay nói – Tôi đã biết mà! Cố nhiên, khu rừng cỏ này gợi nhớ tới khu rừng nhiệt đới.
Trong khu rừng kỳ lạ này không có bóng tối và sự yên tĩnh như rừng thông già. Khu rừng này không giống cánh rừng bạch dương với những lá cây rì rào không ngớt.
Không, đó là khu rừng đặc biệt.
Toàn bộ khu rừng tỏa ánh áng, xanh tươi và chói chang. Những thân cây trần trụi bóng loáng mọc cả trên đồi cao lẫn dưới khe lạch thấp. Trong rừng có những hồ nước xanh và những suối con êm ả róc rách.
Thỉnh thoảng những tiếng xào xạc kỳ lạ phá tan sự tĩnh mịch. Tưởng chừng như ở đâu đây rất gần, những con thú nào đó đang thận trọng rón rén theo sau giáo sư.
Bước đi rất khó khăn, những mũi nhọn của lá làm xây xát thân thể, Ivan Germogennovich chốc chốc lại ngã xuống hố. Mặt trời nung nóng và giáo sư cảm thấy như mình đang dạo chơi trong bếp lò. Nền đất trong rừng giống như bãi chiến trường bị đạn pháo cây nát.
Trong những bụi cây rậm rạp, đây đó có treo những cái lưới nhớp nháp và cần phải rất thận trọng tránh khỏi những cái bẫy đó.
- Công trình của lũ nhện đây! - Ivan Germogennovich lẩm bẩm, lách qua những bụi cây.
Thỉnh thoảng Ivan Germogennovich dừng lại và đứng rất lâu, ngắm nghía với sự hiếu kỳ công trình tinh xảo của người thợ dệt chốn rừng xanh.
Nhưng giáo sư đặc biệt chú ý đến vô số những cái nút, phủ dầy đặc trên mạng nhện.
Cố nhiên Ivan Germogennovich biết rằng không phải cái lưới bắt được côn trùng mà chính là những cái nút, nhỏ xíu nhớp nháp này. Cánh và chân cẳng côn trùng dính chặt vào những cái nút đó tựa như dính vào keo dán gỗ. Lúc đó, côn trùng trở thành miếng mồi ngon của lũ nhện.
Điều này giáo sư biết từ lâu. Nhưng biết là một chuyện nhìn thấy tận mắt là chuyện khác.
Gần một giờ đồng hồ trôi qua mà Ivan Germogennovich hoàn toàn quên mất mình đang ở đâu và thậm chí mình đến đây làm gì. Ông tưởng như đang ngồi trong phòng làm việc, khom mình trên kính hiển vi và trước mắt ông những người quen cũ đang lần lượt đi qua.
Nhưng kính hiển vi thì có nghĩa gì? Lẽ nào qua kính hiển vi thấy được toàn bộ con nhện một lúc?
Cố nhiên là không.
Kính hiển vi cho phép nhìn thấy một cái mắt con nhện hay là bàn chân của nó, những móng vuốt giống như cái lược, hoặc một cái nút của mạng nhện. Còn bây giờ, trước mặt giáo sư nguyên cả một con nhện đang ngồi, to như con bò mộng và có thể đồng thời ngắm nghía cả tám con mắt của nó, hai cặp hàm, tám cái chân cùng những móng vuốt và cái bụng phình to mềm mại.
Nhưng Ivan Germogennovich thích thú hơn cả là con nhện đang sống và đang săn mồi.
Qua kính hiển vi – dù là kính hiển vi hoàn mỹ nhất – cũng không thể trông thấy con nhện bắt mồi như thế nào. Còn bây giờ giáo sư có thể quan sát điều đó từ khoảng cách bằng cái với tay.
Con nhện đang săn mồi. Con ác thú hung dữ khổng lồ ngồi cạnh cái lưới đang giăng ra. Sợi tơ cảnh giới kéo thẳng tới chỗ nó ngồi. Con nhện chờ đợi như một người câu cá ngồi trên bờ.
Nếu sợi chỉ động đậy, nó sẽ nhảy xổ vào con mồi, cắm móng vuốt có chất độc vào nó, giết chết và hút hết máu.
Giáo sư nhìn cái lưới giăng ra quên hết mọi chuyện trên đời.
Đột nhiên trên đầu ông, trong không trung, một con gì vo ve rít lên lao thẳng vào lưới như một viên đạn.
Cái lưới rung lên, nhảy nhót.
- Bị rồi! - Ivan Germogennovich kêu lên – Một con bị rồi.
Một con vật có cánh khổng lồ đang dẫy dụa vùng vẫy trong lưới.
Nó to hơn con nhện một chút, hay ít ra cũng dài hơn con nhện. Những cái cánh trong suốt phủ đầy sợi gân, uốn cong như cánh cung, cố dứt ra khỏi những cái nút mạng nhện nhớp nháp. Nhưng thoát ra khỏi cái lưới đâu có phải dễ. “Con ông vẽ! Đúng rồi. Chính là nó!” - Ivan Germogennovich quả quyết.
Ông bước lại gần cái lưới hơn, húng hắn ho, yên lặng quan sát cuộc chiến đấu của con nhện và con ong vẽ.
Con nhện tì lên những móng vuốt hình răng lược, trượt nhanh trên cái mạng của mình. Nó chạy vòng quanh con ong một lần, hai lần, rồi thận trọng rón rén lại gần từ phía sau.
Con ong vẽ vo ve cái vòi nhọn.
Con nhện nhảy lùi lại, rồi lại bắt đầu quay tròn, chạy vòng quanh con ong. Nhưng chỉ cần nó lại gần con ong là con này cong cái bụng rằn ri chĩa cái vòi nhọn độc ra phía trước.
Con nhện thử tấn công con ong từ phía sau từ bên cạnh sườn, nhưng lần nào cũng gặp phải cái vòi chĩa ra như mũi kiếm.
- Thú vị thật, rất thú vị! – Giáo sư lẩm bẩm vừa theo dõi cuộc chiến đấu của con ong vẽ và con nhện. Cuối cùng sau những mưu toan vô ích, con nhện buộc phải bỏ cuộc chiến đấu với con mồi nguy hiểm. Nó tê tái chạy trên mạng nhện theo những vòng cung lớn. Đồng thời nó rung tấm mạng nhện bắt con ong nhảy lên như trong cái nôi.
Con ong bị quấn vào lưới nhiều hơn nữa, con nhện chạy quanh nó, lần lượt giật đứt những sợi chỉ. Cuối cùng con ong rơi xuống bên bờ một cái lạch sau lôi theo trên mình cả tấm lưới.
Con ong dẫy dụa một cách bất lực, càng bị cuộn rối nhiều hơn. Nó lăn xuống dưới theo sườn dốc làm đất đá rơi theo.
Ivan Germogennovich vui mừng:
- A ha! Tuyệt thật! Vừa khéo có lợi cho ta.
Ông chạy lại gần cái lạch và nhìn xuống phía dưới.
Ở đáy lạch con ong khổng lồ bị trùm trong tấm lưới đang dãy dụa. Nó cong cái thân rằn ri trượt trên mặt đất cố gỡ ra khỏi mạng nhện. Nhưng mạng nhện càng quấn chặt cánh, chân, đầu nó hơn nữa.
Giáo sư chạy theo bờ lạch, lo lắng nhìn xuống chân.
Cuối cùng ông tìm được cái ông muốn – một tảng đá to có góc nhọn.
Giáo sư chắc không dám nhấc tảng đá lên vì nó to hơn ông gấp bội. Nhưng may thay tảng đá treo ngay trên bờ lạch. Chỉ cần lắc mạnh, xô đẩy thì nó rơi thẳng xuống đấy.
Giáo sư tì chắc chân vào đất, bắt đầu lúc lắc tảng đá.
Công việc không phải dễ dàng.
Tảng đá động đậy, lúc lắc như một cái răng sâu. Tuy nhiên vẫn còn rất chắc. Giáo sư thở phì phò như một đầu máy hơi nước.
- Đừng có xạo! Đừng có xạo! – Ông lẩm bẩm dùng vai xô đẩy tảng đá – Mày lúc lắc – tức là mày sẽ rơi.
Chỉ chừng năm phút trước đó thôi, Ivan Germogennovich có thể đẩy tảng đá xuống hố bằng một cái búng tay, nhưng bây giờ chuyện đó không đơn giản thế nữa.
Giáo sư mặt đỏ bừng, thở hồng hộc. Mặt ông ướt đẫm mồ hôi.
- Nghỉ một lát đã! - Ivan Germogennovich thờ phì phò nói, vừa lấy tay vuốt mồ hôi trên mặt.
Ông ngồi xuống tảng đá. Hầu như ngay trên đầu con nhện đang kiến thiết một cái lưới mới. Trên bụng con nhện Ivan Germogennovich nhìn thấy bốn cái mấu phồng lên như những bao da đen đựng đầy rượu.
- Những cái mụn cơm của con nhện! – Giáo sư chợt nhớ ra.
Tuy nhiên bay giờ thật hài hước khi gọi những cái túi ấy là mụn cơm. Mỗi cái mụn cơm đó to hơn đầu giáo sư gấp bội. Ivan Germogennovich không cần kính hiển vi cũng nhìn thấy trên mụn cơm của con nhện hàng trăm những lỗ nhỏ đang nhễu ra những giọt đặt quánh. Chúng giãn dài ra như sợi chỉ, kéo theo sau con nhện rồi xoắn lại ngày thành sợi dây thừng có những nút keo lấp lánh.
Trong một vài phút con nhện đã sửa chữa cái tấm lưới bị rách và lập tức quàng lên nó sợi tơ cảnh giới và cùng với đầu sợi tơ ấy chui vào một nơi hẻo lánh.
Ivan Germogennovich bực mình nói:
- Còn mình, chẳng lẽ không được việc gì sao?
Ông nhỏm dậy, tập trung hết sức lực xô vai vào tảng đá.
- Dô ta nào!
Một cái nẩy.
Lại thêm một cái nẩy nữa.
- Dô ta nào! Dô ta!
Tảng đá đu đưa, treo trên bờ lạch như đang suy nghĩ, rồi đột nhiên rền lên như tiếng sấm, lao thẳng xuống phía dưới làm bốc lên những cột bụi. Khi đám bụi đã tan, Ivan Germogennovich kêu lên sung sướng.
- Hoan hô!
Tảng đá nằm dưới đáy lạch.
Con ong bị đè dưới tảng đá, đang giãy dụa.
Cái bụng rằn ri của nó co ép như cái thân đàn Accordéon.
- Tốt lắm! Rất tốt! - Ivan Germogennovich xoa tay nói.
Không nghĩ ngợi lâu, từ trên bờ vực ông thả chân xuống, bám tay vào rễ cây và các mô đá, bắt đầu thận trọng tụt xuống đáy. Khi Ivan Germogennovich đến được chỗ con ong thì nó đã không còn động đậy nữa. Giáo sư sờ tay, đạp vào nó – con ong vẫn nằm im.
- Thế là được rồi! - Ivan Germogennovich nói, lấy tay sờ thử cây giáo.
Có cây giáo này không phải sợ hãi khi lang thang trong rừng cỏ rậm rạp tìm kiếm Karik và Valia. Trong trường hợp bị tấn công, giáo sư không những có thể tự vệ mà còn có thể phản công lại những con vật nào định ăn thịt ông.
Bây giờ phải lo đến chuyện quần áo. Dù sao ông cũng không định cứ trần truồng thế này đi du lịch trong rừng. Sử dụng mũi giáo một cách khéo léo, Ivan Germogennovich cắt lưới mạng nhện trên mình con ong, bỏ hết những nút nhớp nháp đi, rồi quấn lên mình. Những sợi tơ mềm mại bó chặt lấy thân ông.
Bộ quần áo dĩ nhiên không được đẹp lắm, nhưng được cái rất bền.
“Mình mặc nó khác chi một cái áo giáp” - Ivan Germogennovich nghĩ như vậy, vừa tự ngắm nghía mình từ đầu đến chân.
Giáo vác trên vai, ông phần khởi lên đường, đi vòng tránh những hố sâu, nhảy qua các rãnh nhỏ và các ổ gà.
Từng lúc ông dừng lại chọn đường đi, đứng im một chỗ hồi lâu. Lắng nghe tiếng động của rừng. Đôi khi ông nấp vào sau những thân cây to màu xanh lo ngại nhìn khắp xung quanh.
Những đề phòng ấy không phải là thừa. Trong rừng cỏ rậm đầy nhung nhúc những con quái vật. Những con chuồn chuồn bay trên đầu Ivan Germogennovich gây tiếng động ầm ầm như tiếng gõ vào các tấm sắt. Bây giờ chúng nom giống như những máy bay khổng lồ hơn là giống các côn trùng thông thường.
Những chú cào cào màu anh, to hơn xe ô tô bay qua đỉnh ngọn cây của rừng cỏ.
Những con sâu rằn ri dùng tấm thân đồ sộ của mình rẽ các lùm cây rậm rạp bò đi. Chúng to lớn và gây nên tiếng động ầm ầm đến nỗi giáo sư tưởng như cả một đoàn tàu hỏa chở đầy hàng đang chạy qua.
Thỉnh thoảng những con rết chạy lướt qua, dậm chân thình thịch, bò sát thân mình trên mặt đất. Bất kỳ cái chân nào của nó bây giờ cũng có thể dễ dàng nghiền nát, đè bẹp giáo sư xuống đất.
Thật là xuẩn ngốc nếu quyết định đánh nhau với tất cả sinh vật trong rừng cỏ. Vả lại Ivan Germogennovich không có thì giờ và cũng chẳng thích thú gì chuyện đó.
Ông đi về phía hồ nước đang phản chiếu ánh sáng xanh qua các khe trống của rặng cây. Ông đi từ cây này qua cây khác, thỉnh thoảng lại dừng bước để ngắm cây cỏ hay những bông hoa to như những cái chuông nhà thờ. Ông biết rất rõ tên của các loài hoa. Vào những ngày, lúc giáo sư còn là một người to lớn bình thường, ông có thể dễ dàng gọi tên bất cứ bông hoa nào. Nhưng bây giờ thì chả có bông hoa nào ông dám nói chắc tên gọi của nó.
Bông hoa nào cũng to lớn đến nỗi nhiều bông ông không nhận ra nó nữa. Điều đó làm ông rất thú vị.
- Đây này, thí dụ như bông hoa này chẳng hạn, - Ivan Germogennovich thở dài, ngắm nghĩa một bông hoa hình cầu màu xanh lơ giống như cái tổ cò – Làm sao biết được tên gọi của nó ở thế giới của chúng ta?
Nhưng bây giờ thì ai có thể giải đáp cho giáo sư các câu hỏi của ông?
Trên những đỉnh cao của khu rừng khẽ đung đưa những cái chum màu hồng, những ngôi sao vàng khổng lồ, những quả cầu đỏ, những cái giỏ màu hoa tử đinh hương. Từ trong quả cầu những cái ống màu đỏ tía chĩa ra mọi phía như lông nhím.
Cạnh những bông hoa cỏ ba lá là những cái chuông hoa huệ đang nhảy múa rung rinh trước gió. Chúng tỏa sáng dưới danh mặt trời làm cho mặt đất dưới chân chúng cũng có màu hoa huệ.
- Còn các bạn thì tôi rõ rồi! – Giáo sư vui vẻ nói – Người ta làm cả thơ ca ngợi các bạn nữa mà.
Rồi ông cao giọng ngâm nga:
“Ơi chuông nhỏ của tôi,
Những bông hoa đồng nội...
Sao cứ nhìn tôi mãi,
Màu rực rỡ anh tươi?”
- Nhìn tôi thì xin các bạn cứ việc nhìn - Ivan Germogennovich cười vang – Nhưng nếu một bông rụng rơi xuống đầu tôi thì tôi khó mà sống nổi.
Vừa ngắm nghía một cách hiếu kỳ thế giới mới lạ, Ivan Germogennovich vừa đi lách qua những đám cây của khu rừng cỏ rậm.
Chẳng mấy chốc trước mặt ông hiện ra một hồ nước phẳng lặng mênh mông.
Mặt nước phản chiếu ánh mặt trời như một chiếc gương khổng lồ.
Ivan Germogennovich vừa tư lự vừa nói:
- Chắc chỉ ở đây thôi!
Ông bước ra tới bìa rừng.
Một cái rãnh nước hẹp và dài, đầy ắp một thứ nước màu nâu, cắt ngang con đường ông đi.
Ivan Germogennovich lấy đà chạy và nhảy qua cái rãnh dễ dàng, nhưng ngay lúc đó ông cảm thấy đất dưới chân ông trượt đi và lún xuống.
Giáo sư thét lên, quờ quạng đôi chân trên không trung, bay lộn xuống dưới, chui tụt vào một cái hang gì đó tối om.
Rơi xuống tới đáy, Ivan Germogennovich nhanh nhẹn đứng lên nhìn khắp xung quanh.
Trên đầu ông là bầu trời xanh xa tắp.
Ánh sáng yếu ớt soi lên bức vách màu đen, chằng chịt rễ cây. Ngay trước mặt Ivan Germogennovich là lối vào của một con đường hầm ngầm.
Giáo sư khom mình xuống.
Từ trong đường hầm ngầm phả vào mặt ông hơi lạnh ẩm ướt.
- Thế đấy! - Ivan Germogennovich nói.
Ông rời đường hầm ngầm và leo lên bức vách dựng đứng của hang, dùng cả tay lẫn chân bám vào các rễ cây.
Ông đã leo lên được gần tới bờ. Chỉ còn một cái với tay nữa thì mặt trời đã lại rực chiếu trên đầu ông. Nhưng đúng lúc ấy, khi đầu của giáo sư nhô lên miệng hang, ông nhìn thấy ngay sát trước mặt mình cái mõm xấu xí của con quái vật nào đó.
- Xin lỗi! – Giáo sư lịch sự nói và ngay lập tức thụt đầu vào trong vai, lùi trở lại vào hang.
Con quái vật động đậy những cái chân khổng lồ, quay mặt về phía giáo sư và đôi mắt họ giao nhau.
“Bọ hung!” - Ivan Germogennovich suýt nữa kêu lên – “Bọ hung!”
Con bọ hung vần đến hang một quả lê màu xam không lồ, có để vào trong một phòng lớn cũng không lọt, ấy là nếu giả sử cả thế giới chúng ta nhỏ đi như Ivan Germogennovich. Con bọ hung đẩy quả lê, vần nó đến sát bờ hang. Giáo sư chưa kịp nhớ ra tên gọi của bọ hung bằng tiếng latin, thì quả lê khổng lồ đã nút kín miệng hang, che khuất bầu trời.
Trong hang trở nên tối mò.
Giáo sư không sợ vội vàng bò lên theo bức vách, cố hết sức dùng cả vai lẫn đầu đẩy quả lê. Ông cố mở lối thoát ra, nhưng không được kết quả gì.
Quả lê không nhúc nhích.
Ông xô mạnh hơn nữa, nhưng đúng vào lúc đó con bọ hung đè lên quả lê từ phía bên mạnh đến nỗi quả lê nút chặt cái hang lại như cái nút chai.
Giáo sư xô mạnh nhưng chỉ làm cho người ông dội ngược lại xuống phía dưới.
Đất rơi phủ lên đầu ông, một viên đá nhọn đập trúng ngực ông rất đau.
- Chà...! – Giáo sư xuýt xoa.
Ông xoa tay vào chỗ ngực đau định đứng dậy, chợt bỗng cảm thấy không phải chỉ có một mình ông đang ở trong hang tối này.
Giáo sư vội ngoái trông lại.
Phía sau ông một con gì động dậy thận trọng bò lại gần ông.
Ivan Germogennovich sờ tay quanh mình. Ngón tay ông chạm vào cây giáo. Ông cầm chặt lấy nó, nhỏm dậy, dựa lưng vào tường.
“Rô...ộp!” – tiếng lêu răng rắc ở ngay cạnh.
Giáo sư nghe tiếng thở gấp.
Ông hoa cây giáo lên và thét lạc cả giọng:
- Ai, ai đó?
Chương 5
BỊ CHỌN CẦM TÙ – TRẬN ĐÁNH TRONG NHÀ NGỤC DƯỚI NƯỚC – CÂY LANG THANG – TÌNH CẢNH KHỐN ĐỐN – KARIK TÌM ĐƯỢC LỐI THOÁT
Karik mở mắt ra và chợt nhớ lại tất cả. Cậu nhớ ra rằng đã cùng Valia bay trên con chuồn chuồn thế nào. Nhớ lại cái vòi khủng khiếp của con đo nước, cái chân xù xì khỏe mạnh của con nhện
Xung quanh tối đen và tỏa ra hơi ẩm ướt. Ở đâu phía dưới có tiếng nước róc rách. Cạnh Karik có ai đó đang thở rất nhẹ.
Karik nằm thẳng người ra, nhưng không sao hiểu nổi mình đang nằm trên cái gì. Đầu nhức, tay chân tê dại. Cậu rên rỉ và ngay lập tức nghe thấy giọng nói sợ sệt của Valia.
- Im đi! Nó đang ở đây!
Karik quay đầu lại và đập ngay trán vào thái dương Valia.
Valia khẽ kêu lên.
Karik định nhích ra xa cô một chút nhưng không sao làm được: con gì đã quấn cậu và Valia từ đầu đến chân bằng những sợi giây lớn, buộc hai người dính chặt vào nhau.
Karik vùng vẫy mạnh hơn. Do quẫy mạnh, cậu và Valia bỗng thấy mình bị đung đưa như trên cái võng.
- Khẽ chứ! – Valia thì thầm – Anh nhẹ nhàng hơn một chút, nó ở ngay dưới đây mà.
- Con nhện ấy à?
- Sợ lắm! Còn anh?
- Cũng sợ lắm, nhưng em đừng khóc. Trước hết thử tìm cách nào thoát ra đã.
Karik dùng đầu gối cố nới sợi dây trong tấm lưới và nhìn xung quanh; ở dưới là mặt nước đen ngòm. Từ đó những bức tường trơn, màu thẫm nhô lên, còn trên đầu là cái trần thoai thoải.
Bọn trẻ bị treo lơ lửng trong không trung giữa một cái hang.
- Em có hiểu không, - Karik thì thầm – Nó treo chúng mình móc trên trần.
- Đúng rồi, - Valia gật đầu – Nó treo móc lên, em đã hiểu ra điều đó từ lâu.
- Nó treo thế để làm gì nhỉ?
- Em cũng băn khoăn không biết để làm gì?
- Em không nghĩ ra à?
- Không.
Khó khăn lắm Karik mới rút được tay ra khỏi sợi dây tơ nhện, đầu tiên là một cánh tay, rồi sau nốt là cả tay kia.
- An làm gì thế, anh Karik?
- Khẽ chứ! Im đi!
Cố gắng nín thở, Karik gỡ được hẳn cái đầu ra khỏi và ngó xuống phía dưới. Ngay phía dưới bọn trẻ, con nhện đang chạy lăng xăng. Nó chạy cuống quýt trên mặt nước dọc theo bức vách căn nhà của nó. Từng lúc một nó dừng lại nghe ngóng cái gì đó.
Từ trên trần những giọt nước to như quả cầu nhiễu xuống mặt nước kêu vang động. Bụi nước bắn vọt lên trần như giếng phun.
Tiếng vọng câm đặc vọng đến tai Karik. Ở đâu đó rất gần hình như ở bên kia tường, có ai lục đục – không hẳn là gõ, không hẳn là cào. Giống như ai đó đang đi dạo ở ngoài, lần tay trên tường tìm cửa vào.
Tiếng động đó rõ ràng làm cho con nhện lo lắng. Lúc thì nó nhảy đến bên tường chờ đợi cái gì đó, lúc sau lại ve vẫy những cái chân dài bước sang một bên.
- Anh có nghe thấy không? – Valia khẽ nói – Có con gì đang làm ồn bên kia tường.
- Có, có, - Karik thì thầm – Anh có nghe thấy.
Tiếng động mỗi lúc một mạnh hơn.
Hình như có nắm đấm rất êm nhưng rất mạnh vào tường.
- Có con gì đang chui vào đây! – Valia thì thầm.
Đúng lúc đó bức tường của căn nhà dưới nước rung mạnh đến nỗi bọn trẻ ngồi trong cái nôi mạng nhện bị văng lên cao, cái nôi đập vào vách, đu đưa như quả lắc đồng hồ.
- Nhìn xem con nhện kìa! – Valia thì thầm.
Con nhện nhảy ra giữa hang, nhúc nhích những cái chân vẻ lo lắng và nhìn chăm chú vào bức vách.
Bỗng bức vách nứt ra. Những mảnh vụn giống như vữa rơi lả tả xuống nước. Ở kẽ nứt của bức vách hiện ra những cái chân xù xì rất lớn. Chúng giật mạnh bức vách. Căn nhà dưới nước rung chuyển dữ dội. Cái nôi ném bọn trẻ từ vách này sang vách bên kia.
Bức vách đổ sụp.
Một con nhện to béo ầm ầm xông vào. Nó cũng giống hệt con nhện chủ nhà. Nó có những cái chân gấp khúc lại giống như đang chuẩn bị nhảy, rồi rón rén bò lên phía trước.
Chủ căn nhà dưới nước vểnh những cái râu lên.
Hai con nhện nhìn nhau chờ đợi.
Sau đó con nhện chủ nhà vểnh cao những cái râu lên quá đầu và nhảy xổ vào vị khách không mời.
Trong bóng tối bắt đầu một trận đánh dữ dội.
Những cái râu rít trong không khí, đập trên mặt nước. Bụi nước bắn vọt lên trần và chẳng bao lâu vách phủ đầy những giọt nước đang rung rinh.
Trận đánh nhau giữa hai con nhện làm rung chuyển cả căn nhà. Tường nhà run lên bần bật, vòm trần lắc lư, nước ở phía dưới sôi lên như trong nồi súp-de.
Bị rung mạnh, cái nôi trên có bọn trẻ lại bắt đầu đung đưa mỗi lúc một cao hơn, liên tiếp đập vào vách bên này rồi lại vách bên kia.
Trước mặt Karik và Valia tựa như trên màn ảnh, thấp thoáng các bức vách, vòm trần, những con nhện, mặt nước rồi lại bức vách, vòm trần, nước.
Những con nhện lặng lẽ đánh nhau.
Chúng ôm chặt lấy nhau bằng những cái chân khỏe mạnh, lắc lư nhau như các nhà đô vật trong rạp xiếc rồi đột nhiên rời nhau ra, e dè nhìn nhau bằng những con mắt hung dữ. Sau đó, tựa như theo hiệu lệnh, chúng lại lao vào đánh nhau và lúc đó nước ở dưới lại bắn lên tung tóe, tường nhà lại rung chuyển vì những cái xô đẩy mạnh tựa hồ như xảy ra động đất.
Bọn trẻ theo dõi trấn đánh nhau của những con nhện khủng khiếp, sợ hãi không dám thở mạnh nữa.
- Ôi chao, anh Karik ơi! – Valia bỗng khóc thút thít – Chúng ta rơi vào đâu thế này? Bây giờ thì chả ai biết đến nữa... Không một ai... Kể cả mẹ...
- Khẽ chứ! – Karik nói giọng khàn khàn – Nói lăng nhăng ở đó trong khi cần phải chạy trốn... thoát ra bằng cách nào đó. Im đi cho anh nhờ! Hình như anh sắp rút được chân ra rồi.
Do nhưng cái xô đẩy mạnh và những cái đung đưa, sợi dây tơ nhện bị nới lỏng ra. Bọn trẻ mất rất nhiều công sức giúp nhau gỡ dây ra. Cuối cùng chúng cũng thoát khỏi cái nôi tơ nhện.
Chân tay Karik và Valia đã được tự do, nhưng chúng nó có thể làm gì được nếu bị nhện tấn công.
Đánh nhau với những con quái vật như thế này thì Karik và Valia không đủ sức. Không biết chạy đi đâu mà cũng không biết trốn vào đâu.
- Không sao, không sao! Valia, em đừng sợ! – Karik thì thầm bằng cặp môi run rẩy – Rồi chúng ta sẽ ra khỏi đây thôi. Chỉ có điều, xin em đừng khóc!
- Em có khóc chút nào đâu! – Valia khẽ thút thít và vội vã chùi nước mắt không cho Karik thấy.
Ngó chừng những con nhện, Karik thận trọng bò ra khỏi cái nôi mạng nhện, với tay nắm lấy sợi dây cáp buông từ trên trần xuống cái nôi và đứng thẳng lên.
Ở phía dưới trở nên im lặng. Karik nghển cổ nhìn những con nhện và lẩm bẩm điều gì đó. Vào lúc đó cậu trông giống như trọng tài trên võ đài đứng bên võ sĩ bị đánh gục dưới đất mà đếm.
- Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám chín...
Nếu võ sĩ bị đánh ngã xuống đất không thể đứng dậy được, thì trọng tài sẽ nói to: mười – tức là võ sĩ ấy coi như bị thua.
Còn Karik thì vấn đếm càng ngày càng to:
- Một trăm lẻ một, một trăm lẻ hai, một trăm lẻ ba, một trăm lẻ bốn... Hoan hô! – Cậu bỗng reo lên. - Cả hai xong đời!. Xem kìa, Valia! Chúng không động đậy nữa rồi. Đứng dậy đi em! Anh đã bảo mà – đừng có khóc. Bây giờ chúng ta còn việc chạy khỏi đây mau thôi.
Valia đứng dậy, ở sát bên anh cô.
- Vâng – Cô thở dài, nói, rồi nhìn xung quanh – Nhưng chúng ta chạy ra khỏi đây bằng cách nào? Anh có biết không?
- Chuyện vặt! - Karik nói đầy tin tưởng – Phải có lối ra nào đó đấy chứ!
- Nhưng cũng có thể không có thì sao?
- Chỉ vớ vẩn! – Karik cười nhạt – Thế theo em thì con nhện lôi chúng ta vào đây bằng cách nào? Phải tìm lối ra vào. Nó phải ở đâu đây! Em cứ nhìn cho thật kỹ!
Bọn trẻ cúi đầu, nhưng Valia chẳng nhìn thấy gì ngoài những con nhện. Điều đó cũng chẳng có gì lạ, vì cô chỉ ngó vào chúng, hãy còn chưa tin rằng chúng đã chết trong cuộc vật lộn dữ dội.
Xác hai con nhện đu đưa trên mặt nước đen, mõm chúi xuống nước.
Sóng nước dồn những con nhện vào chỗ nứt ở bức vách, chúng nằm trên mặt nước sát bên nhau nhưng chẳng còn để ý đến nhau nữa.
Trong căn nhà dưới nước yên tĩnh đến nỗi nghe rõ cả tiếng sóng nước và tiếng những giọt nước rơi xuống từ trên vòm trần và các bức vách hồi nãy bị nước bắn tung tóe.
- Chết thật rồi! - Karik sung sướng reo lên. Cậu khom mình, nhổ nước miếng lên con này rồi con khác.
Những con nhện vẫn không động đậy.
Bọn trẻ nhìn nhau: liệu chúng có chết thật không?
Karik kêu to lên:
- Ê... hê... hê!
Những con nhện trôi lềnh bềnh như những cai gối bằng da bơm đầy không khí.
- Chết thật rồi! – Karik hoàn toàn tin tưởng, rồi cậu ước lượng bằng mắt khoảng cách đến mặt nước và buông tay tra khỏi sợi dây. Chân tay cậu thấp thoáng trong không trung rồi Karik rơi xuống nước như một viên đá.
- Karik! Anh điên rồi ư? – Valia kêu lên, lo lắng nhìn bọt nước bắng tung lên cao.
Đầu Karik hiện ra trên mặt nước. Sau nổi lên, cậu nhìn xung quanh, rồi bơi sải về phía những con nhện.
- Anh Karik! – Valia thét lên – Quay lại đi! Chúng hãy còn thở đấy.
Nhưng Karik không để ý đến tiếng kêu của cô em, bơi lại gần một con nhện, giơ tay khỏi mặt nước đập mạnh vào bụng nó.
Cái bụng kêu vang như tiếng trống. Karik vội bơi ra xa. Nhưng sau khi ngoái lại nhìn con nhện, cậu quay lại đạp gót chân vào đầu nó. Con nhện không động đậy. Khi đó Karik leo lên cái xác như lên một cái bè rồi đứng thẳng lên.
- Em nhảy xuống đi! – Karik vẫy tay gọi Valia.
- Không! – Valia lắc đầu – Chỗ này cao quá!
- Thế em định ngồi đó mãi hay sao? Đằng nào chả phải nhảy xuống. Thôi, nhảy đi!
Valia thở dài.
- Nhảy nhanh xuống đi, kẻo không lại có những con nhện khác tới nữa – lúc đó còn tệ hơn đấy.
Valia nhắm mặt lại, bỏ tay ra, kêu rú lên, rơi nhào xuống dưới. Nước bắn tung lên như mưa vào Karik. Sóng nước làm đung đưa những con nhện.
Thở phì phì khạc nhổ nước trong miệng ra, Valia nổi lên mặt nước.
- Em leo lên đây! – Karik vừa gọi vừa đập chân như đánh trống vào bụng con nhện – Đừng sợ! Đưa tay đây cho anh.
Valia run rẩy và tái xanh bơi lại gần cái xác đáng sợ, lấy tay sờ cái thân hình xù xì béo núc của con nhện. Bỗng cô rụt tay lại, sợ hãi kêu lên.
- Nó... còn động đậy!
- Đừng có nói bậy! Chẳng có con nào động đậy cả! – Kairk bực mình – Nào, nhanh lên.
Cuối cùng, sau khi dỗ dành rất lâu, Valia cầm lấy bàn tay chìa ra của Karik và cậu kéo cô lên hòn đảo nổi khủng khiếp.
Con nhện không động đậy. Chẳng có gì phải sợ nữa. Valia ngồi xổm, lấy tay vắt nước ở tóc ra, con Karik đứng thằng người lên chăm chú xem xét cái hang nhện.
- Phải ra khỏi đây thôi. – Valia thở dài – Phải tìm được cửa ra.
- Cửa đây thôi chứ đâu! – Karik dơ tay về phía chỗ nứt ở bức vách.
Valia lo âu theo dõi Karik và khi cậu biến vào trong bóng tối, cô gọi to:
- Thế nào, anh thấy gì ở đó?
Karik lặng thinh.
Valia nhìn xuống dưới chân và tái mặt đi. Cô có cảm giác con nhện bắt đầu động đậy.
- Ka-a-rik! – Valia gọi to.
Tiếng cô vang lên dưới mái vòm rồi tắt đi.
- Ka-a-rik! – Valia kêu lớn hơn.
Cô chuẩn bị nhảy xuống nước bơi theo anh. Nhung đúng lúc đó Karik hiện ra trong chỗ nứt.
- Kêu la cái gì thế! – Cậu ta cáu kỉnh nói.
Nhìn thấy Karik nguyên vẹn, Valia yên tâm. Cô chìa tay ra giúp cậu leo lên con nhện rồi hỏi:
- Thế nào, anh thấy những gì? Có cái cửa nào ở đó không?
- Không. Ở đó cũng có cái hang như cái hang này. – Karik đáp và nhún vai.
- Thế có con gì ở đó không?
- Chẳng có gì cả.
Karik ngồi xuống, ôm lấy đầu gối, kéo lên tận cằm và suy nghĩ.
- Thế không có cửa ư?
- Không!
- Thế nếu chúng ta lặn xuống dưới tường thì sao?
- Dưới tường ư?
Karik khom người chăm chú nhìn vào mặt nước tối đen.
Qua làn nước, nhìn thấy được cả đáy đầy bùn của cái hồ.
Những sợi tơ nhện màu bạc, kéo từ dưới bùn vươn cao lên đến đỉnh cái chuông dưới nước giữ không cho nó trôi đi.
- Phải lặn xuống dưới tường! – Valia nhắc lại.
- Thế em có nhìn thấy cái gì kia không?
Karik chỉ tay vào những tấm lưới giăng ngầm dưới nước ngăn lối ra vào nhà ngục.
Không, lặn xuống thì cũng sợ lắm.
- Phải có cái cửa nào chứ! – Karik nói – bởi vì chúng ta đã vào được đây cơ mà.
Valia nói lúng búng trong miệng điều gì đó.
Karik ngước nhìn cô em và vội và nắm lấy tay cô:
- Valia, em làm sao thế?
Cô ngồi đó, mặt tái nhợt, miệng há rộng, tay ôm lấy cổ họng.
- Ngạt thở quá! – Cô nói giọng khàn khàn – Em... em không đủ không khí...
- Được rồi, để anh xem ! – Karik bối rối lẩm bẩm nói.
Nhưng cậu không biết phải giúp em làm sao. Rồi chính cậu cũng thấy có cái gì đó phồng to trong ngực, kéo xương sườn đau điếng.
Đầu nhức, tim đập mạnh tựa như Karik leo lên đỉnh núi cao dốc đứng. Không khí nặng nề và ẩm ướt đi vào trong phổi như hơi nước nóng chỉ làm khó thở thêm.
Phải có biện pháp gì đó mới được.
- Em đừng sợ! – Karik nói, chạm vào tay Valia – Chúng ta rồi sẽ thoát ra thôi.
Rồi cậu chăm chú ngắm nghía nhà ngục dưới nước có đến trăm lần. Đầu Karik choáng váng.
Cậu cuối xuống vục tay vào nước vỗ lên mặt. Bỗng cậu ngừng tay lại. Cậu nhìn thấy dưới nước bùn những cái trứng màu xanh không lồ nứt ra từ một phía. Một quả trứng động đậy tách ra khỏi bùn, đập vào bờ cạnh tường của căn nhà dưới nước, rồi nổi lên và biến mất như vậy.
Karik chìa tay cho Valia.
- Cây bèo nước! Em thấy không! – Cậu nói giọng run run.
Karik không nhầm đó là loài bèo mọc dưới nước. Ở thế giới rộng lớn cậu thường nhìn thấy mầm bèo nước bên bây giờ nhận ra chúng không mấy khó khăn. Cùng với các bạn trong nhóm sinh vật cậu đã đi nhặt các mầm bèo về cho triển lãm sinh vật của trường và thậm chí còn viết một hai bài cho báo “Sự thật thiếu niên” về loài cây kỳ diệu đó.
Cây bèo nước là một loại cây sống phù du. Suốt mùa hè nó du lịch trên các ao đầm và hồ nước, bị gió đưa đi từ bờ này sang bờ khác. Rễ của nó, giống như lông tơ trên quả dâu tây, mang thức ăn cho cây trực tiếp từ nước. Cuối mùa hè ở các rễ xuất hiện mầm non. Chúng nổi lên mặt nước và mở ra thành hình trái tim.
Đến mùa đông cây chết cóng trong băng. Nhưng trước đó nó đã kịp rắc xuống đáy hồ những mầm của mìh. Suốt mùa đông, mầm cây – trông giống như những quả trứng màu xanh – nằm ở dưới đáy hồ. Chỉ khi thời tiết đã bắt đầu ấm áp chúng mới chứa đầy hơi và nổi lên trên mặt nước thành những cây sống lềnh bềnh trên mặt nước.
Chính Karik đã trong thấy những cái mầm đó.
Chụp lấy tay Valia, cậu vội vàng nói:
- Em nghe đây! Những cái mầm này nổi vọt lên như những cái nút chai... Phải lặn xuống và bám vào một cái mầm. Chúng sẽ tự đem chúng ta lên mặt nước...
- Thế còn mạng nhện thì sao? Anh xem kìa, bao nhiều là dây tơ dưới nước.
- Đằng nào cũng phải thử xem.. Lặn xuống mau lên.
- Lặn đi! – Karik kêu lên.
Valia lấy hết sức, hít một hơi dài đạp chân vào con nhện rồi biến xuống nước. Karik nhìn thấy, sau khi lặn xuống dưới tường, Valia dùng cả hai tay bám lấy cai mầm to tướng rồi cùng nó bay vọt lên trên:
Karik lặn theo em.
Mở mắt dưới nước, cậu lặn đến “quả thủy lôi xanh”. Nó động đậy, Karik quặp chặt cả chân lẫn tay bám lấy cạnh dày và trơn của mầm cây và lập tức bị quay tròn như con quay. Mầm cây quay lộn vài lần rồi đột nhiên lao vút lên trên xuyên qua làn nước.
Chắc nó chui qua làn nước cũng khá lâu vì Karik cảm thấy nghẹt thở. Thêm một chút nữa là cậu vỡ tim ra vì thiếu không khí. May thay đúng lúc đó cái mầm vọt lên mặt nước như cái nút chai. Những tia mặt trời nóng hổi soi vào mặt cậu. Lóa mắt vì sáng chói, cậu vùng vẫy trong nước và thở.
Cậu thở dễ dàng, căng lồng ngực.
Valia ở cạnh bên, hớp lấy không khí tươi mát một cách ngon lành.
- Valia ơi! – Karik cười vang – Em còn sống chứ? Em đang thở đấy hả?
- Em đang thở đây.
- Cái chính là không được sợ gì cả! - Karik sung sướng nói – Không được mất tinh thần và khóc lóc rên rỉ. Nếu chúng ta đã thoát được cả con nhện khủng khiếp đó thì tức là chúng ta sẽ đủ sức về được đến nhà.
Bọn trẻ đáng thương đâu có ngờ rằng chúng sẽ còn gặp biết bao nỗi gian lao nguy hiểm trong cái thế giới kỳ lạ này trên con đường trở về nhà.
Chương 6
NHỮNG THỦY THỦ DŨNG CẢM – CÁC HÀNH KHÁCH KỲ QUẶC – KARIK VÀ VALIA VƯỢT QUA RỪNG RẬM DƯỚI NƯỚC – TÌM KIẾM THỨC ĂN – BỌN TRẺ TÌM THẤY QUẢ CÂY KỲ LẠ - MẤP MÉ BÊN CÁI CHẾT
Nhô đầu lên khỏi mặt nước, bọn trẻ nhìn xung quanh. Khắp nơi đều là mặt nước xanh rờn. Chỉ có ở phía tây nới mặt trời lặn là thấy nhấp nhô rừng cây.
Những đám mây lơ lửng trên cánh rừng.
- Phải làm sao cho đến được bờ, - Karik nói – Rồi sau đó tìm đường về nhà.
- Anh nghĩ là chúng ta bơi đến bờ được ư? – Valia hỏi đưa mắt nhìn bờ xa tít.
- Bơi đến bờ chứ sao! - Karik nói đầy tự tin – Dùng những cái mầm này nhất định chúng ta sẽ bơi đến bờ. Leo lên tàu đi.
Bọn trẻ cưỡi trên những quả thủy lôi xanh.
Karik kêu lên:
- Lấy chân chèo đi.
Bọn trẻ dùng chân gạt nước cố chuyển động đi. Những cái mầm to tướng chỉ tròng trành mà không nhúc nhích đi được đi được.
Karik kêu lên:
- Khoan đã! Leo sang đây với anh! Chúng ta hợp sức cùng chèo.
Valia chuyển sang cùng với anh. Các mầm cây chìm xuống nước hơn phân nửa.
Karik nói:
- Chèo đi nào!
Bọn trẻ nhịp nhàng khỏa tay xuống nước như những mái chèo. Cái mầm cây rung rinh rồi chậm chạp trôi đi.
- Đi rồi! – Valia reo lên.
- Mở hết tốc lực! – Karik hét lên.
Lúc đầu cái mầm cây còn xoay quanh, lúc sang trái lúc sang phải, nhưng sau đó nó đi thẳng.
Mũi nhọn quả thủy lôi rẽ nước lướt đi hướng tới bờ.
Bọn trẻ chăm chỉ dùng tay chèo đưa nó đi về phía trước.
Từ phía bờ vọng lại tiếng động gì rất lạ. Tựa hồ như có ai đó đập tấm ván hoặc mái chèo xuống nước. Càng lại gần bờ bọn trẻ càng nghe thấy tiếng động đó rõ hơn.
Rồi bỗng ngay bên cạnh, một con quái vật màu xanh rống lên, vang ầm mặt nược.
“Ộp... Ộp”.
Valia rùng mình, suýt nữa thì lặn xuống nước. Cô ngừng tay chèo, thì thầm hỏi:
- Con gì thế anh?
- Con nhái!... Chắc là con nhái thôi... Một con nhái bình thường, chỉ to hơn cái nhà năm tầng một chút thôi. Em đừng sợ.
Valia than vãn:
- Vâng! Bình thường... Bây giờ thì con ruồi cũng ăn thịt được chúng ta chứ đừng nói đến con nhái to bằng cái nhà năm tầng.
Karik an ủi em:
- Không sao đâu, con nhái này không nhận thấy chúng ta đâu.
Valia im lặng.
Bây giờ bọn trẻ đi vòng theo bờ màu xanh nhấp nhô như những cái vịnh nhỏ.
Ở dưới nước nhô lên những hòn đảo xanh tưới. Chúng lắc lư như những chiếc bè đã buộc neo. Để khỏi lao vào chúng, cần phải nhìn tinh tường cả hai bên.
Valia chỉ vào một hòn đảo và hỏi:
- Anh có biết đó là cái gì không?
- Anh không biết! – Karik ngập ngừng đáp – Chắc là những cái lá gì đó... Có lẽ một loại cây mọc dưới nước.
Từ dưới nước có những con vật hình tròn nhảy lên, lúc ở bên phải, lúc ở bên trái. Lưng của chúng nhẵn bóng như cái hòm xe hơi du lịch mà thực ra thì chúng cũng không nhỏ hơn những cái xe ô tô.
Chúng vươn cánh bay lên rồi lại nhào xuống nước làm nước bắn tung tóe.
Ở trên dải nước rộng giữa các hòn đảo bọn trẻ nhìn thấy một con quái vật lông lá màu nâu với những cái chân cong rất dài. Nó chạy tới chạy lui kéo lết cái bụng tròn trên mặt nước.
Ở trên lưng con vật bụng béo đó có năm con vật cũng hệt như vậy chỉ khác là rất nhỏ mà thôi.
Những con nhỏ ngoan ngoãn ngồi yên.
Chốc chốc con vật lông lá bắt cho chúng những cái mồi gì đó từ dưới nước. Khi đó những con nhỏ bò xuống nước, rồi lại nhanh nhẹn trèo lên. Chân của chúng đã nắm chặt những thức ăn gì đó rồi chúng vội vàng ăn ngấu nghiến.
- Lại con nhện nào đó thôi! – Valia thì thầm và ngưng tay chèo.
Cái mầm cây dừng lại, lắc lư một cách lười nhác trên sóng nước.
- Trên lưng của nó chắc là những con nhện con. – Valia nói – Tốt nhất là chờ một chút cho chúng đi xa đã.
Ngay lúc đó một con nhện khác nhảy ra từ sau một hòn đảo. Con này cũng lông lá màu nâu và trên lưng cũng có những con nhỏ ngọ nguậy.
Những con nhện nhảy xổ vào nhau.
Đó là những con nhện nước – những con ác thú trên mặt nước.
Chúng xô xát nhau thật hung dữ. Lũ nhện con ngã lộn nhào xuống nước.
Trong khi những con nhện lớn đánh nhau, lũ nhện con chạy loăng quăng trên mặt nước, nhanh chóng tụ lại một đống rồi lại tản ra mọi nơi.
Trận chiến đã kết thúc.
Một con nhện bắt đầu chìm dần xuống nước. Những vòng tròn gợn nước làm những chú nhện con bị nhồi lên nhồi xuống.
Chúng nhảy nhót trên sóng nước như những chú vịt con chưa đủ lông cánh.
Valia khẽ nói:
- Bọn nhện con sắp đánh nhau đây!
Nhưng lũ nhện con chưa chắc đủ sức đánh nhau. Chúng chạy lăng xăng trên mặt nước, con nọ nhảy lên con kia, nhào lên lộn xuống, rồi cả bọn chạy đến bên con nhện lớn chiến thắng, chen chúc nhau leo lên lưng nó.
Karik và Valia đưa mắt nhìn nhau. Valia hỏi.
- Anh nghĩ sao? Liệu nó có ném những con nhện lạ xuống nước không?
Nhưng con nhện nước thậm chí không thấy rằng số hành khách trên lưng nó đã tăng gần như gấp đôi.
Nó bình thản đứng trên mặt nước, dạng những cái cẳng dài nghêu ra, chờ cho lũ nhện con leo hết lên. Khi tất cả lũ nhện con đã ngồi yên, nó lao vút đi tựa như không có chuyện gì xảy ra, rồi mất hút sau những hòn đảo chi chít.
Bọn trẻ bơi tiếp.
Valia tư lự nói:
- Hay thật đấy...
- Hay cái gì cơ?
- Không biết lũ nhện con đó ăn cái gì vậy?
Karik nhún vai:
- Chắc một thứ gì kinh tởm.
Valia thở dài. Cô nhớ ra rằng, từ hôm qua tới giờ chưa ăn gì cả, rồi khẽ nói:
- Biết đâu không phải là một thứ kinh tởm. Biết đâu chỉ lúc đầu không ngon một chút, rồi quen sẽ thấy không sao cả. Cuối cùng sẽ thấy là ngon.
Lúc này chính là giờ ăn trưa.
Bọn trẻ trầm ngâm suy nghĩ.
Mọi người ở nhà đang làm gì vào lúc này? Bà chắc đang dọn đồ ăn lên bàn. Hôm qua mẹ có bảo: “Cơm trưa sẽ rất ngon, liệu mà về sớm sớm”.
Valia hỏi:
- Anh nghĩ sao, bữa ăn trưa hôm nay ở nhà mình có những món gì?
- Có lẽ có món canh thập cẩm, bánh nướng với hành và trứng.
Valia nuốt nước miếng.
- Cũng có thể món canh củ cải để nấu với thịt heo, với giăm bông hay xúc xích. Món thứ hai là thịt bít tết với khoai tây rán. Em bây giờ thích ăn gì nhất?
- Em ấy à? – Valia ngẫm nghĩ một chút rồi nói – Giá mà có cùi bánh mì... với một chút phó mát ăn thì thích.
- Còn anh ấy à! – Karik nói – Anh ước gì được ăn bít tết. Nhưng phải thật to... to bằng cái đĩa ấy... rồi rất nhiều, rất nhiều khoai tây với rau xà lách. Sau đó anh sẽ ăn nguyên cả cái bánh nướng và bánh kem trộn đậu, rồi sau đó...
Valia ngừng tay chèo. Cô quay lại phía Karik và hỏi:
- Thế bây giờ chúng ta sẽ ăn gì vào bữa trưa?
- Hôm nay sẽ không có bữa trưa.
- Thế còn ăn chiều?
- Ăn chiều cũng không có.
- Còn ăn sáng?
- Ăn sáng cũng không?
- Thế có cái gì?
- Chẳng có gì cả! - Karik cau có đáp – Không được nghĩ đến chuyện đó nữa.
Valia thở dài.
- Nào chèo đi thôi! Đến bờ cho nhanh! – Karik la lên – Lên bờ rồi sẽ kiếm cái gì đó ăn.
- Giá kiếm được quả dâu tây. Bây giờ nó sẽ to gấp mười chúng ta. Chắc phải to bằng một đống cỏ khô. Anh biết không, có thể khoét một cái hang trong quả cây rồi sống ở đó. Đói có thể ăn tường và trần.
Karik cau mày:
- Đừng có ba hoa. Chèo lẹ lên, rồi sau sẽ hay.
Valia lặng thinh.
Bọn trẻ vung tay, đạp chân nhẹ nhàng và cái mầm cây lao vào bờ. Bọt nước tung tóe, nước rẽ ra hai bên.
Bờ mỗi lúc một gần hơn.
Rừng cây nhô lên từ dưới nước mỗi lúc một cao hơn, tưởng chừng như tự nó bơi lại phía bọn trẻ.
- Đạp mạnh vào nào! – Karik hét lên.
- Mở hết tốc lực! – Valia hổn hển nói.
Cái mầm cây lao như tên bắn.
Không đầy một giờ, một khu rừng lau sậy cao vút đã hiện ra trước mặt các khách du lịch trẻ tuổi, che khuất cả mặt trời... Bóng mát lạnh của nó ngả trên nước và nước ở đây cũng mát lạnh chứ không ẩm như ở chỗ có ánh nắng.
Cái mầm cây trôi lướt giữa những thân cây có đốt rất lớn. Chúng mọc ngay từ dưới nước mọc lên. Ngọn của chúng vươn lên tận trời cao.
- Chèo nhẹ tay hơn! – Karik ra lệnh.
- Có chuyện gì đấy?
- Ở đây có con gì đó! Em có nghe thấy không?
Bọn trẻ ngưng tay chèo.
Karik đưa ngón tay lên miệng ra dấu phải im lặng.
Đưa mắt lo lắng nhìn nhau, hai anh em lặng lẽ nghe tiếng ầm ầm đứt quãng vang đến từ trong rừng.
Những thân cây cong nghiêng ngả cọ xát và nhau kêu cót két ầm ĩ. Từ phái rừng rậm phả tới hơi lạnh và ẩm ướt. Ở đó có những con gì đang vỗ nước ì ọp, kêu vo ve, ken két đinh tai nhức óc.
Khu rừng đứng im như ngập trong cơn nước lũ.
Xuyên qua khoảng trống của rừng cây, lấp lánh xanh biếc cơn nước lũ mùa xuân. Xa hơn nữa là những rừng cây rậm rạp.
Giữa những cây sậy có những con vật kỳ lạ chạy rất nhanh trên mặt nước. Những con vật khác to lớn và dễ sợ hơn đuổi theo sau. Chúng đuổi kịp con mồi và ăn ngấu nghiến.
Karik khẽ huýt sáo rồi nói:
- Thế đấy!
Valia hiểu ý cậu không cần giải thích thêm.
Sợ hãi ngước nhìn anh, cô thì thầm hỏi:
- Bơi ngược trở lại nhé?
- Ngược lại đâu mới được? – Karik nói, sau một phút im lặng – Phải cập bờ chỗ nào không có những con quái vật đáng sợ ấy. Nào, tìm chỗ bờ khác đi.
Chúng chèo ra khỏi những lùm cây, đến khoảng nước thoáng đãng rồi đi dọc theo khu rừng sậy. Vừa đi chúng vừa ngó chừng, không dám lại gần.
Valia nói:
- Anh biết không, em đề nghị gọi bờ đất này là “Rừng ác mộng”.
- Chuyện vớ vẩn? – Karik nói.
- Tại sao lại vớ vẩn? – Valia ngạc nhiên hỏi – Các nhà du lịch đều đặt tên gọi cả. Chính em đọc Jules Verne (1) viết thế mà.
Karik lặng thinh. Vừa ngó nhìn khu rừng sậy đang di qua, cậu vừa huýt sáo một điệu hát buồn bã.
Valia nói:
- Hãy cũng có thể gọi là “Rừng của những bí mật đẫm máu”.
Karik càu nhàu:
- Thôi mà, chèo đi!
Khu rừng sậy thưa dần rồi hết hẳn. Ở bến bờ hoang vắng đầy những viên đá màu vàng lấp lánh dưới mặt trời. Bọn trẻ bây giờ không gặp thấy một sinh vật nào cả.
Đường đi hoàn toàn tự do.
Karik trở nên vui vẻ. Cậu chỉ tay vào đống đá rồi nói.
- Như cái gờ này thì anh gọi là “Mũi Hảo Vọng”.
- Tại sao lại “Mũi”. Em có thấy mũi đất nào đâu!
Karik hướng cái dầm cây vào phía bờ rồi đáp:
- Điều đó không quan trọng. Biết đâu trong lúc chúng ta đang du lịch như thế này, có một mũi đất nào đó nỗi lên thì sao.
- Còn em...
- Còn anh thì cập bến đây! – Karik kêu lên làm bắn nước vào mặt Valia – Đến rồi!
Bọn trẻ vung tay lần cuối và quả thủy lôi màu xanh đâm vào bờ đá.
Bị va mạnh, cái mầm cây bị lật úp. Karik và Valia bắn xuống nước nhưng chúng nhanh nhẹn nhổm dậy, bám tay và những tảng đá và leo lên bờ.
Những viên đá bị ánh nắng nung nóng bỏng. Valia ngồi trên một viên đã bỗng đứng phắc dậy.
Karik cười vang:
- Thế nào? Bị con gì cắn à? Thế em định đặt tên gì cho tảng đá này?
Cậu giơ tay che mắt cho khỏi chói, nhìn về phái chân trời rồi nói:
- Này, em có biết không?...
Valia rụt rè hỏi:
- Cái gì hả anh?
- Những hòn đá ấy chính là cát đấy mà. Khi chúng ta to lớn bình thường thì thấy nó nhỏ thế. Còn bây giờ mỗi hạt cát đối với chúng ta trở thành tảng đá.
- Nhưng thế thì sao?
Karik thở dài rồi nói:
- Nghe nói ở châu Phi người ta vùi những quả trứng xuống cát để nướng. Anh sợ là không khéo chúng mình cũng bị nướng vàng trên những tảng đá này.
Cậu lấy tay sờ viên đá rồi lắc đầu:
- Không, chúng mình không nên ngồi đây lâu! Phải đi xa nữa!
Bọn trẻ quay trở lại quả thủy lôi xanh của mình và cái mầm cây lại lên đường.
Valia nói:
- Em đề nghị gọi cái bờ này...
- Là “Bí mật của những viên đá khủng khiếp”. – Karik cướp lời và cười ầm lên.
Valia giận dỗi im lặng.
Cô cau mày ngồi yên, chăm chỉ chèo quả thủy lôi xanh bằng cả chân và tay.
Karik cũng im lặng.
Bọn trẻ không biết đã đi bao lâu, dọc theo bờ cát vàng nhưng tay chân chúng bắt đầu mỏi.
Valia cất tiếng nói phá tan sự im lặng:
- Giá như anh biết em muốn ăn đến chừng nào!
Karik đáp:
- Anh biết chứ, chính anh chân tay cũng rã rời đây.
Valia nói:
- Giá bắt được con gì đem nướng trên những viên đá náy thì hay quá...
- Thí dụ như con gì?
- Con gì cũng được... bướm...chuồn chồn...
- Em nghĩ là thịt chúng ngon sao?
- Nếu nướng lên nhất định sẽ ngon.
Karik thú thật:
- Còn anh thì có lẽ dám ăn sống luôn... cả bướm. Có điều mình đâu đủ sức bắt nó.
Vừa nói chuyện, vừa chèo, chúng đến được bờ có những đám cỏ rậm.
Khu rừng tỏa hơi nước oi bức của một ngày hè. Rải rác khắp nơi có những cây thân có mấu giống như cây bao bạp mà Karik và Valia đã từng nhìn thấy trong tranh.
Valia kêu lên:
- Nhất định ở đây phải có trái cây. Em biết mà. Trong rừng bao giờ cũng có trái cây. Cập bờ mau lên anh!
Mầm cây dừng lại ở một bờ thoai thoải. Bọn trẻ nhảy xuống đất, chạy ngay vào rừng thỉnh thoảng lại vấp ngã.
Trong rừng ngột ngạt khó thở.
Các cây cối đều có mùi cỏ đầm lầy. Thân cây màu xanh lấp lánh, không có lớp vỏ bọc.
Những tia nắng xuyên qua các lùm cây rậm rạp chiếu những vệt sáng vàng hiếm hoi lên mặt đất.
Đất dưới chân ẩm ướt nhớp nháp.
Valia chạy sâu vào rừng vừa kêu lên:
- Nào, xem ai là người tìm thấy thức ăn đầu tiên.
Karik nói:
- Được rồi, cứ tìm đi. Nhưng không được đi ra quá xa kẻo lạc nhau mất.
Bọn trẻ đi trong rừng vừa hú gọi nhau vừa chăm chú nhìn xung quanh.
Dọc đường chúng luôn dừng bước, dùng cả hai tay rê những cái lá rất nặng ra xem có quả ở dưới lá không. Chúng trèo lên những cây cỏ tìm trái. Nhưng chẳng có trái nào cả.
Cái rừng gì mà lạ thật! Không lẽ phải chết đói ư?
Bỗng bọn trẻ nghe thấy tiếng động ở phía trước.
Chúng dừng lại.
Karik dơ tay lên.
- Em có nghe thấy không?
- Có! – Valia gật đầu – Đó là tiếng nước chảy! Hình như có con sông nhỏ nào. Chúng ta đến đó đi! Cạnh con sông bao giờ cũng có trái cây. Em biết mà.
Valia chạy đi.
Karik lao theo sau.
Cậu kêu lên:
- Từ từ chứ em! Ngộ lỡ không phải sông mà là con ếch nhái nào đó đang thở thì sao.
Cậu cầm lấy tay Valia.
Bọn trẻ đi về phía có tiếng động, lắng nghe từng tiếng sột soạt khả nghi.
Những đống thân cây đổ phủ lớp bùn khô cản đường chúng. Những lá khô dựng đứng như bức tường, nhưng khi bọn trẻ định đi vòng qua một chiếc lá thì nó rơi ngay vào chúng. Bọn trẻ loay hoay mãi mới chui ra được.
Cuối cùng Karik và Valia đến được một đồi cao. Chúng chạy lên đỉnh và cảm thấy hơi lạnh tạt vào mặt.
Một dòng nước chảy rì rầm ở phía trước.
Lách qua lùm cây, chừng nhìn thấy trước mặt một con sông nhỏ.
Con sông không rộng. Nước chảy sôi réo, sủi bọt, nhảy qua các tảng đá, uốn lượn lúc sang phải lúc sang trái, đổ xuống ầm ầm như thác.
Valia reo lên.
- Em thấy rồi.
Cô giựt tay ra khỏi tay anh, xô cậu và chạy vọt lên phía trước.
- Valia! Đứng lại đã!
Nhưng Valia đã chạy khuất sau nhưng thân cây.
Karik nghe thấy tiếng của cô:
- Lại đây! Lại đây! Mau lên! Ở đây có quả cây! To lắm! Mau lên anh Karik!
Karik chạy theo tiếng của cô em.
- Valia!
- Em ở đây! Ở đây!
Valia đứng dưới một cây cao, ngẩng đầu chỉ lên cao.
Karik chạy lại gần cô:
- Trái cây? Đúng chư?
- Đúng rồi! Ở đây này! To lắm!
Valia vỗ vỗ vào thân cây màu xanh mọc uốn cong.
Karik nhìn lên cao.
Tít trên cao, những quả màu đỏ thẫm, to như những thùng rượu bia, nép sát vào thân cây. Chúng nấp sau bóng mát những chiếc lá dài và hẹp, chính mọng đầy nước.
Valia mắt sáng lên hỏi:
- Thế nào?
- Còn thế nào nữa! Tiến lên thôi! – Karik reo lên, nhảy bổ lại cái cây.
Bọn trẻ ôm thân cây, dùng cả chân và tay leo lên cao, không rời mắt khỏi những quả cây đen thẫm. Karik leo trước, Valia theo sau.
Thân cây khẽ đung đưa, lá cây rung rinh. Ở phía dưới là con sông chảy róc rách đầy bọt.
Valia nhìn xuống dưới.
- Úi chà! Nếu chúng ta rơi xuống thì nguy mất! Cô nói.
- Cứ leo lên! – Karik kêu lên ở phía trên – Chúng mình không ngã đâu.
Sử dụng khéo léo cả chân tay cuối cùng chúng cũng leo tới những trái cây đầy khêu gợi.
Karik với tay ra. Bỗng cậu thấy tối tăm mặt mũi. Tay buông rời ra.
- Anh làm sao thế? – Valia vội vã hỏi và ngay lúc đó cô cảm thấy tai ù lên dữ dội, đầu choáng váng.
Tay chân quờ quạng, người quay lộn trong không trung, bọn trẻ rơi nhanh xuống con sông đang chảy xiết.
Dòng nước mạng cuốn Karik và Valia đi, quật vào các tảng đá, đưa về phía trước tới chỗ thác đang réo ầm ầm.
---
(1) Nhà văn Pháp chuyên viết truyện phiêu lưu viễn tưởng.
Chương 7
TRẬN GIAO CHIẾN Ở DƯỚI ĐẤT – CON VẬT CÓ TAI Ở CHÂN – KHU RỪNG KỲ LẠ - IVAN GERMOGENOVICH TRỞ THÀNH PHI CÔNG – CUỘC GẶP GỠ BẤT NGỜ
Ivan Germogenovich ngồi ở trong hang, khi cặp mắt của ông đã quen dần với bóng tối, ông nhìn thấy ở sâu trong hang động tối đen một cái đầu khổng lồ với những sợi râu dài.
- Đúng là một anh long kỵ binh! Không biết là con gì đây? - Ivan Germogenovich bối rối lẩm bẩm.
Đầu nó và phần trên của lưng phủ một tấm lá chắn rộng, cong lồi ra. Từ dưới tấm lá chắn thò ra những cái chân ngắn nhưng rộng bè ra, có răng tua tủa. Giáo sư lập tức hiểu rằng ông không đủ sức đánh nhau với con vật dưới đất này. Chỉ cần một cái đạp của nó cũng đủ giết chết ông. Tuy nhiên Ivan Germogenovich quyết tâm tự bảo vệ.
Ông tựa sát lưng vào bức vách lạnh lẽo và ẩm ướt của đường hầm ngầm và chĩa cái vòi con ong vẽ ra phía trước.
Con vật động đậy thân hình to lớn và cứng cáp của nó tựa như xếp lại bằng những cái vòng xương chuyển động. Đất từ trên tường rơi xuống ầm ầm.
Ivan Germogenovich tự nghĩ:
- Nếu ta tấn công nó từ phía sau thì sao?
Nhưng ở phía sau con vật cũng được bảo vệ vững chắc. Hai cái cánh có màng, xếp lại với nhau che kín lưng như một lớp vỏ bọc chắc chắn.
- Nhưng đây là con gì nhỉ?
Giáo sư kiễng chân lên, nghển cổ nhìn và bỗng hoảng sợ trông thấy hai ngọn giáo có những gai nhọn đang lê dưới đất như hai cái đuôi.
Ivan Germogenovich thì thào:
- Một con dế trũi.
Con dế cựa mình ầm ầm dưới đường hầm, dùng chân bới đất tiến lên mỗi lúc một gần giáo sư hơn.
Giáo sư chợt nhớ:
- Ăn ấu trùng của các loài sâu bọ, ăn giun đất, có nghĩa là ăn cả mình nữa.
Nhìn ngó xung quanh một cách bất lực, Ivan Germogenovich thận trọng lùi vào một trong góc tối đen của hang, cố đứng xa con dế trũi càng nhiều càng tốt.
“Phải đi vòng tránh nó thôi!” – Giáo sư nghĩ vậy và đi men theo tường tới hậu phương của quân địch.
Con dế trũi quay phắt lại. Nó sờ soạng bằng những cái râu giống như đánh hơi hoặc lắng nghe.
Giáo sư nín thở.
Con dễ trũi hạ những cái râu xuống, vụng về cào chân như những cái xẻng rồi nhảy thẳng vào giáo sư.
Ivan Germogenovich lùi nhanh trở lại và đứng vào chỗ cũ.
Không được! Không dễ gì lừa được con dế trũi ở dưới đất. Ở đây nó thoải mái quen thuộc như cá ở dưới nước.
- Không! Không chạy được! Phải đánh nhau thôi!
Ivan Germogenovich dừng lại và cương quyết chĩa cây giáo ra, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Ồng bước lùi lại. Khuỷu tay ông chạm vào tường và lập tức ông cảm thấy có khoảng trống dưới khuỷu tay. Ông nhanh nhẹn quay lại. Ngay trước mặt ông hiện ra lối vào một cái hang rộng và tối đen.
Giáo sư lặng người đi.
Cái hầm ngầm này dẫn đến đâu? Ai đã đào nó? Liệu có chứa chấp ở đây một mối nguy hiểm mới nào không? Nhưng lúc này đâu có thì giờ mà suy nghĩ...
Một quyết định thoáng hiện trong đầu giáo sư: “Chạy trốn ẩn nấp, rút sâu vào trong đất!”. Không nghĩ ngợi gì nữa, ông lần vào trong hang. Ivan Germogenovich vấp rất đau vào những tảng đá, cố lần đi trong bóng tối đen, dùng tay mò mẫm lối đi.
Đường hầm ngầm rất dài, chỗ dốc xuống, chỗ dốc lên, ngoằn ngoèo, lúc sang phải, lúc sang trái và càng ngày càng hẹp dần.
Phải cúi khom mình thật thấp, đôi chỗ thậm chí phải bò kéo lê cây giáo theo sau.
Nhưng tất cả những cái đó chỉ là chuyện vặt. Giáo sư sẵn sàng chấp nhận tất cả những cái bất tiện đó. Ông bằng lòng bò suốt ngày chỉ cần thoát khỏi con dế trũi chết tiệt! Chỉ cần trốn được vào đâu an toàn!
Nhưng hình như không thể thoát được con dế trũi.
Nó theo sát gót giáo sư và ông nghe thấy rõ ràng tiếng ầm ĩ của cuộc đuổi bắt mỗi lúc một tăng thêm ở phía sau.
Ivan Germogenovich chui vào con đường hầm, con dế trũi dừng lại, dùng râu sờ soạng bức vách rồi đứng lặng đi tựa như suy nghĩ: cái con sâu kỳ quặc và nhanh nhẹn ấy lẫn đi đâu mất? Những cái râu của con dế trũi quờ quạng bối rối, chúng mò mẫm dưới sàn, trên trần, các bức vách và chẳng bao lâu phát hiện ra lối vào hang.
Con dế trũi đút đầu vào đó, thở hổn hển.
Nó ở đây chăng?
Nó đứng dậm chân tại chỗ một lúc, rồi cương quyết rúc thân hình đồ sộ vào trong hang, nhanh nhẹn cào đất bò theo đường hầm ngầm.
Con dế trũi tiến lên giống như cái đinh nóng bỏng chọc vào cục bơ. Nó đi, dũi thân hình của mình vào trong lớp đất xốp, khoan đất với tốc độ rất nhanh.
Giáo sư nghe thấy tiếng thở đứt quãng sát sau lưng mình, rồi bỗng những cái râu cứng của con dế trũi đặt lên vai ông.
Chúng sờ soạng ông, trượt trên mặt và tay.
Ivan Germogenovich thét lên. Ông quay ngoắt người lại đâm ngọn giáo vào những cái râu rồi tiếp tục bò đi. Bức vách mấp mô của đường hầm ngầm quá hẹp làm xây xát hai bên sườn, vai và khuỷu tay.
Đường hầm ngầm trở nên hẹp đến nỗi Ivan Germogenovich phải khó khăn lắm mới di chuyển được về phía trước.
Hơi ẩm và mốc làm cho ông rất khó thở.
Giáo sư ướt đẫm mồ hôi. Tim đập thình thịch. Tay chân run rẩy.
Càng đi xa, chuyển động trong hành lang chật hẹp càng khó khăn. Nhưng giáo sư nghe thấy con dế trũi bị rớt lại phía sau. Điều đó làm ông hy vọng sẽ chạy thoát.
Tiếng động của cuộc đuổi bắt mỗi lúc một nhỏ dần.
Con dế trũi bị rớt lại ở đâu đó phía sau rất xa.
“Thoát rồi! Chạy thoát được rồi!” – Ivan Germogenovich thở hồi hộp.
Tỳ khuỷu tay và đầu gối xuống đất, ông rán sức bò. Đang theo đà chạy, đầu ông bỗng đập vào đất. Không còn lối đi tiếp nữa. Đường hầm ngầm bị cụt.
Ivan Germogenovich rùng mình.
“Không lẽ lại chết ở đây. Rồi thì ai sẽ cứu Karik và Valia?”.
Mình đẫm mồ hôi, ông hấp tấp sờ soạng trong bóng tối. Nhưng chỗ nào tay ông cũng đụng phải vách đất dày đặc.
Biết làm sao đây?
Ông ngồi trong hang như trong một cái bẫy. Phía sau, con dế trũi đang đuổi tới, phía trước là vách dày đặc.
Phải làm gì đây trong tình cảnh không lối thoát này?
Ivan Germogenovich cảm thấy nổi gai ốc khắp thân mình, chân tay lạnh toát, miệng khô đắng.
Giáo sư cương quyết tự bảo:
- Không thể thế được! Để rồi xem ai sẽ thắng ai! Mày là một con vật to khỏe. Nhưng tao là một con người. Tao sẽ chiến đấu với mày và sẽ chiến thắng.
Một giờ đồng hồ trước đây Ivan Germogenovich có thể dí chết con dế bằng một ngón tay, còn bây giờ thì phải thu thập hết sức lực mà cũng không dám nói chắc kết quả cuộc chiến ra sao.
Ivan Germogenovich quay người lại, nép sát mình vào bức vách đất dày đặc cuối hang, chĩa cây giáo ra phía trước.
Giáo sư nói to:
- Tao sẽ đâm thẳng vào đầu não ở dưới mắt mày.
Nhưng một ý nghĩ hiện trong đầu làm ông rùng mình.
“Nếu giết chết con dế rồi thì làm sao ta thoát khỏi nơi đây? Nó sẽ đút nút đường hầm ngầm bằng cái xác khổng lồ. Làm sao dẹp được con quái vật ấy ra khỏi đường đi?”.
Tuy nhiên chẳng có thời gian để suy nghĩ kỹ.
Tiếng động dưới đất mỗi lúc mỗi to hơn. Còn dế đã lại rất gần.
Một hai phút trôi qua.
Ivan Germogenovich vung cây giáo, thét lên, cố dùng tiếng thét làm con dế mất tinh thần.
- Cút đi, cút đi.
Đất đổ ầm ầm. Tiếng sột soạt dội theo bức vách. Những cái râu rậm rạp của con dế vươn tới giáo sư sờ soạng đầu ông và vai ông trong bóng tối. Ivan Germogenovich nhảy lùi lại, dùng cây giáo đánh liên hồi vào đầu con quái vật.
- Này! Này! Này – Giáo sư thét lên giọng khản đặc.
Con dế không ngờ gặp phải đòn tấn công như vậy. Nó bò lui trở lại.
- Có thế chứ! - Ivan Germogenovich reo lên, dũng cảm xông vào quân địch.
Con dế giơ những cái râu ra. Giáo sư thẳng tay đập vào nó, vừa quát tháo om sòm, vừa đuổi theo con vật trong đường hầm.
Ông đập cây giáo liên hồi vào đầu con dế, cố đâm trúng mũi nhọn vào đầu nó. Đột nhiên con dế thụt đầu vào tấm lá chắn và cây giáo đập vào cái mái bằng sừng chẳng làm suy suyễn gì cả. Con quái vật dừng lại. Rõ ràng cây giáo không làm cho nó e ngại nữa. Giáo sư hiểu rằng ông đã thua trận.
Con dế vung vẩy những cái chân, chuyển sang tấn công. Bây giờ giáo sư lại buộc phải rút lui.
Hoa cây giáo lên, ông chậm chạp lui về phía cuối đường hầm, cho đến lúc chạm phải bức tường rắn chắc phía sau.
“Thế là hết!” – Ivan Germogenovich nghĩ.
Mệt mỏi nhắm mắt lại, ông gục đầu xuống và co tròn mình lại.
Chợt ông nghe thấy tiếng động ầm ầm ở trên đầu, trần của cái hang kêu răng rắc tựa như bị khoan từ phía trên. Đất đá rơi xuống đầu Ivan Germogenovich.
Cái trần vỡ ra. Trong hang thoáng hiện ra ánh sáng mờ và giáo sư nhìn thấy mảnh trời xanh ở phía xa. Nhưng ngay lập tức một cái gì đó ở phía trên giống như vỏ trái đậu khổng lồ tụt xuống đường hầm che khuất khe hở.
- Cái gì thế này? – Giáo sư kêu lên, ôm vỏ trái đậu bằng hai tay.
Vỏ đậu rung rinh và nhanh chóng nhô lên phía trên. Giáo sư chỉ hiểu được một điều: Vỏ đậu này đến từ chỗ có ánh nắng mặt trời và ông phải ra khỏi lòng đất cùng với nó, tới nơi có ánh sáng.
Ông quặp chặt chân tay vào vỏ đậu và ngay lúc đó bay vụt từ lòng đất lên như một cái nút chai.
Mặt trời làm ông chói mắt. Giáo sư nheo mắt lại, ông sung sướng reo lên:
- Thoát rồi! Thoát rồi!
Nhưng ông chưa kịp buông tay ra thì một sức mạnh nào đó không hiểu nổi ném ông lên cao rồi quật xuống dưới, rồi lại lên cao, lại xuống dưới.
Giáo sư bị bắn lên như một quả bóng rồi lại rơi xuống đất.
Cần phải nhanh chóng thoát khỏi cái vỏ đậu hay nhảy nhót này. Giáo sư buông tay ra. Quay tròn trên không trung, ông rơi xuống đất lăn lông lốc trên những hòn đá. Bị rơi quá mạnh, giáo sư ngất đi trong giây lát.
Khi Ivan Germogenovich tỉnh dậy, cái đầu tiên ông trông thấy là một con vật khổng lồ màu xanh.
Nó đứng gần ông, dang những cái chân dài phủ đầy gai giống như những chiếc đinh thúc ngựa.
Những cái ống chân khỏe mạnh, vươn cao quá thân mình và gấp khúc lại thành những tam giác đều, cái đuôi dày và cong của nó giống như vỏ trái đậu nằm trên mặt đất. Cái đuôi còn dài hơn cả chính con vật.
Ivan Germogenovich chống khuỷu tay ngồi dậy:
- À, ta hiểu rồi. Chính là ta đã túm vào cái đuôi này. Thật là cái đuôi tuyệt diệu!
Nghe thấy tiếng giáo sư, con vật quay cái đầu có miệng rộng hoác về phía ông và rung rinh bộ râu dài ngoẵng.
Ivan Germogenovich lịch sự hỏi:
- Ông thuộc họ nào thế, thưa vị cứu tinh của tôi?
Con vật màu xanh bóng tựa như phủ một lớp sơn mài động đậy những cái chân.
Giáo sư reo lên:
- A! Ta biết ông là ai rồi! Ông nghe tôi bằng cái chân phải không? Thế thì tôi hiểu. Ông chính là con cào cào xanh. Xin cảm ơn ông bạn thân mến! Cảm ơn đã cứu tôi thoát nạn.
Con cào cào lại động đậy những cái chân. Những cái khe dùng để nghe nằm dọc theo những chân trước quay về phía giáo sư. Rõ ràng con cào cào đang lắng nghe.
Bây giờ thì giáo sư hiểu được hết những gì đã xảy ra.
Vào thời gian này trong năm, những con cào cào cái khoan đất để dấu trứng của mình thật sâu. Vào mùa xuân, những ấu trùng cào cào nở ra. Chúng bò lên mặt đất, ăn sâu, bướm vào ruồi.
May cho giáo sư, con cào cào cái khoan đất đúng vào chỗ con dế đã dồn ông vào.
Nhưng con cào cào chưa kịp đặt trứng vào đó.
Ivan Germogenovich chạm phải chỗ đẻ trứng làm con cào cào sợ hãi. Vì thế nó vội vã rút khỏi lòng đất cái đuôi đẻ trứng của mình.
Ivan Germogenovich vui vẻ nói:
- Xin hãy tha lỗi cho tôi đã quấy rầy bạn.
Con cào cào nhảy lên. Xòe những cánh lấp lánh dưới ánh mặt trời, bay biến vào rừng cỏ xanh.
- Vĩnh biệt! Chúc lên đường may mắn! – Ivan Germogenovich gọi với theo vừa vẫy tay từ giã.
Giáo sư còn lại một mình. Ông đứng, nhìn khắp xung quanh, tay vuốt chòm râu bạc.
Ivan Germogenovich lẩm bẩm:
- Tuy vậy không biết chú ngựa xanh này đã lôi ta đến đâu vậy? Cái hồ nước bây giờ ở đâu? Làm sao đến đó được? Cần phải đi về phái tay phải hay tay trái?
Xung quanh rừng cây rì rào. Nhưng chỉ bây giờ giáo sư mới nhận ra rằng cánh rừng này khác hẳn với rừng cỏ rậm.
Cây cỏ ở đây không có thân cong giống như cây tre. Loại thân dài vươn mãi lên cao như những cây nến khổng lồ.
Giáo sư nhìn lên những tán cây, chớp mắt ngạc nhiên. Những cái mũ màu trắng khổng lồ lắc lư tít trên cao. Mỗi cái cây giống như một cây sào dài có một cái mũ lông khổng lồ màu trắng chụp lên trên.
Ivan Germogenovich nheo mắt:
- Những cây gì thế này?
Ông bước lại gần những thân cây rồi bỗng đứng sững lại như trời trồng. Ngay trước mắt ông một đám lông trắng, tựa như đám mây dứt khỏi ngọn cây rồi đột nhiên biến mất tựa như tan biến trong không khí.
Giáo sư nhún vai. Ông không hiểu gì hết.
Một ngọn gió thổi vào lưng ông và ngay lúc đó những cái đỉnh trắng tách khỏi thân cây từ từ trôi trong không trung.
Bất ngờ từ đâu đó ở trên cao một hạt nặng hình bầu dục rơi xuống chân Ivan Germogenovich.
Giáo sư cúi xuống.
Từ đỉnh chóp của hạt nhô ra một cái roi mỏng manh. Trên roi này phất phơ cái dù lông trắng.
Giáo sư reo lên:
- À, hiểu rồi! Đây chính là... Thế mà mình không đoán ra ngay.
Ông nhanh nhẹn chạy lại một cây cao nhất, ngẩng đầu lên ngắm nghía nó từ ngọn đến rễ.
- À, ra thế! Tuyệt thật. Hôm này mình may mắn quá.
Giáo sư xốc lại bộ quần áo mạng nhện trên người cho chặt hơn, nhảy lên bám vào thân cây.
Thân cây khá to. Giáo sư ôm không hết. Nhưng ông vừa đụng vào nó thì cảm thấy lòng bàn tay và đầu gối dính vào thân cây.
Ivan Germogenovich lẩm bẩm:
- Không sao cả, cốt sao lên được khoảng giữa cây, lúc đó mọi việc sẽ dễ dàng hơn.
Phải khó khăn mới nhấc được chân tay lên, mình đẫm mồ hôi, miệng thở phì phò, giáo sư leo lên giống như con ruồi bò trên băng giấy có keo.
Thoạt đầu leo lên rất khó khăn, nhưng càng lên cao, thân cây càng nhỏ hơn, chuyển động cũng dễ dàng hơn. Gió đung đưa thân cây. Ivan Germogenovich mắt không dám nhìn xuống đất, cũng bị đung đưa theo. Đã tới đỉnh thân cây – cái mũ lông màu trắng.
Giáo sư với tay chuẩn bị chuyển từ thân cây sang tán cây thì bỗng có vật gì mềm mại trước qua tay ông.
Ivan Germogenovich ôm chặt lấy thân cây. Xung quanh ông đột nhiên vang tiếng cánh vỗ, không khí rền vang tiếng động. Trước mắt giáo sư, những con vật có cánh chập chớn lướt qua.
Giáo sư sợ quá rụt cổ lại. Ông buồn rầu tự nghĩ:
“Quân ăn cướp! Chắc chúng sẽ ăn thịt mình thôi!”
Tuy nhiên sau khi nhìn kỹ con vật có cánh, ông yên tâm ngay.
- Úi chà! Sao hôm nay mình nhát gan quá thế! – Ivan Germogenovich thở phào nhẹ nhõm.
Những con vật quay trong xung quanh cái cây, dang những cái chân dài và mỏng manh trong không trung, rung rinh đôi cánh cứng và trong suốt.
Những cái đuôi dài của chúng chạm vào mặt giáo sư, trượt khắp thân mình ông.
- Con thiêu thân! Đây chỉ là những con thiêu thân thôi mà! - Ivan Germogenovich lẩm bẩm, bám chặt những cái lá trên tán cây, bình tĩnh leo lên ngọn cây kỳ lạ.
Những con thiêu thân mới thoạt trông tưởng như to lắm. Nhưng thực ra chúng chỉ lớn hơn giáo sư một chút. Nó trông có vẻ to lớn chỉ vì ở phía sau chúng có những sợi chỉ đuôi đang phấp phới. Những cái đuôi này có cái giống như cái đĩa, có cái giống như cái compa, cái nào cũng dài gấp đôi thân hình con thiêu thân.
Giáo sư nghĩ:
- Úi chà, chúng nhảy múa ghê chứ! Chẳng lẽ trời sắp tối rồi hay?
Ivan Germogenovich leo lên tán cây, không để ý đến những con vật đang nhảy múa đó nữa.
Ông chẳng việc gì phải sợ những con thiêu thân này.
Loài côn trùng này thậm chí không có cả miệng. Đời sống của chúng ngắn đến nỗi chẳng cần lo lắng chuyện ăn uống. Chúng sinh ra chỉ để nhảy múa trong không khí ấm áp một điệu nhảy duy nhất trong đời.
Suốt ngày những con thiêu thân vui vẻ nhảy múa, vỗ cánh liên hồi. Nhưng khi hoàng hôn đến, chúng đậu xuống nước đẻ trứng rồi không bao giờ còn bay lên nữa. Vào những ngày hè ấy, xác của thiêu thân phủ kín các sông ngòi như những tấm thảm màu nâu.
Dòng nước cuốn đi hàng triệu sinh vật vô hại ấy dọc theo bờ dốc, nhưng không một xác thiêu thân nào đến được cửa sông. Suốt dọc đường chúng bị cá và chim ăn sạch.
Số phận của thiêu thân thật đáng buồn: Chúng sinh ra đời chỉ để nhảy múa rồi bị ăn thịt.
Vây xung quanh bởi những con thiêu thân đang nhảy múa, Ivan Germogenovich đứng lên đỉnh ngọn cây giống tựa cái mái vòm. Ở mặt trong của đáy vòm đầy những hạt màu thẫm lóng lánh. Mỗi hạt có những cái cuống mềm mại mọc nhô lên cao, ở đầu có những cái dù. Chúng kêu rì rào trên đầu giáo sư nhưng một vườn cây mùa xuân.
Thỉnh thoảng có nhưng hạt lắc lư rung rinh rồi tách ra khỏi mái vòm, lơ lửng trên tán cây một lúc. Một làn gió cuốn những cái dù đi. Lúc đó hạt cây trôi đi trong không trung cùng với cái cuống và dù.
Giáo sư lấy tay sờ cái cuống rồi bắt tay vào việc.
Ông chọn khoảng chừng chục cái dù lớn nhất, tách chúng ta khỏi hạt cây. Trong tay ông có cả một bó những cái dù. Chúng kéo Ivan Germogenovich lên cao và ông phải ráng hết sức để đứng vững tại chỗ.
Sau đó ông ngắt thêm một cặp dù nữa, nhanh nhẹn nhảy lên cao, treo lơ lửng trên không trung. Lúc đầu ông còn bị treo lơ lửng một chỗ nhưng khi có gió, những cái dù cuốn ông đi, vui vẻ rì rào trên đầu ông.
Luồng không khí cuốn giáo sư lên trên cánh rừng.
- Tuyệt thật! Thế này thì tuyệt thật! - Ivan Germogenovich cười vang, người đong đưa trong không trung như một con lắc – Có bao giờ mình lại ngờ rằng có lúc được bay bằng những cánh hoa bồ công anh.
Từ trên cao những cái cây kỳ lạ có mũ trắng bây giờ chỉ còn là cây bồ công anh bình thường.
Cánh rừng giống như đám cỏ bình thường.
Giáo sư nhìn khắp xung quanh.
Khắp nơi chỉ thấy rừng cỏ rậm rạp và những bãi cát.
Ở phía xa trên một ngọn núi cao, Ivan Germogenovich nhìn thấy một cái cột trên đầu có mảnh vải đỏ bay phấp phới.
- À, cây sào của ta đấy! - Giáo sư mỉm cười hài lòng.
Ở đằng xa chếch về phía tay phải là mặt nước xanh mênh mông.
- À, hồ nước đây rồi! Tốt lắm! Bây giờ thì ta biết phương hướng rồi.
Gió vẫn đẩy cái dù đi. Ngụp lặn trong không khí, Ivan Germogenovich bay trên những cánh rừng và đồng cỏ, chăm chú nhìn xuống dưới. Bỗng một làn gió cuốn ông đi về phía hồ nước.
Giáo sư cau mày.
- Úi chà, thế này thì không khéo mình đến chết đuối mất.
Phải hạ xuống ngay kẻo rồi bị cuốn ra biển khơi luôn.
Lúc đó Ivan Germogenovich bay trên một khoảng rừng thưa. Thật là một chỗ thuận tiện để hạ xuống. Ông quyết định xuống đất.
Lần lượt buông từng cái dù ra, bay là là mặt đất. Ông từ từ hạ xuống. Và bây giờ những đám cỏ lại biến thành rừng rậm, còn suối lạch nhỏ - thành dòng sông chảy xiết.
- Ô là là! – Giáo sư kêu lên, buông một lúc cả hai cái dù ra.
Ông lướt đi trên dòng sông. Giáo sư cúi đầu, đưa mắt tìm một chỗ thuận tiện để hạ xuống. Bỗng nhiên ông nhìn thấy Karik và Valia đang bị nước cuốn theo dòng sông.
- Hãy giữ vững! – Giáo sư kêu lên từ trên cao.
Buông cái dù cuối cùng ra khỏi tay, ông lao thẳng như một hòn đá xuống dòng nước sủi bọt.
Chương 8
CỨU NHỮNG NGƯỜI CHẾT ĐUỐI – ĐƯỜNG ĐẾN CHỖ CÁI HÒM GỖ DÁN – CÁC KHÁCH DU LỊCH GẶP LẠI ĐÀN BÒ CỎ - NHỮNG HỒI TƯỞNG ĐAU BUỒN – CUỘC TẤN CÔNG CỦA CON RÙA BAY
Dòng nước chảy mạnh quật ngã giáo sư.
Ông ngã đập đầu gối lúc bên này lúc bên kia. Nước xô vào ông, trùm kín từ đầu. Nhưng ông vẫn đứng dậy bước thận trọng từ tảng đá này sang tảng đá khác, tiếp tục đi.
Karik và Valia nằm trong tay ông như những xác chết. Mắt chúng nhằm nghiền, tay buông thõng yếu ớt, chân lết trên mặt nước.
Giáo sư thở hổn hển thì thầm nói:
- Không sao, không sao! Mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.
Ông ôm chặt chúng hơn nữa vào lòng.
Cuối cùng đã đến được bờ.
Giáo sư đặt Karik và Valia xuống đất, ngồi xổm xuống bên cạnh, bắt đầu dùng tay chà xát bọn trẻ.
Ivan Germogenovich lẩm bẩm:
- Thôi đi mà! Các cháu làm sao thế?
Ông nắm tay chân chúng, co vào kéo ra, lật sấp chúng lại. Nhưng tất cả đều vô ích. Bọn trẻ nằm bất động, mắt nhắm nghiền, môi tím ngắt mím chặt lại.
Ivan Germogenovich cau mày:
- Biết chữa chạy cho các cháu thế nào đây?
Ông xoa tay vào trán rồi bỗng mặt ông rạng rỡ vui mừng.
Giáo sư chợt nhớ ra phương pháp cũ xưa nay đã bị lãng quên, để cứu người chết đuối. Ông nhanh nhẹn nhỏm dậy, tóm lấy chân Valia dốc ngược người lên rồi lắc mạnh.
Nước chảy ra từ miệng và mũi Valia.
Valia rên lên.
Ivan Germogenovich sung sướng.
- Rên được rồi! Tốt lắm! Vậy là cháu sẽ sống!
Đặt cô bé xuống đất, ông bắt tay vào chữa cho Karik.
- Một! Hai, nào!
Miệng Karik ứa ra một thứ nước đục.
- Bây giờ thì xin cậu cũng nằm xuống đây.
Bọn trẻ ho sặc sụa rồi mở mắt ra. Chúng nó nhìn không hiểu gì cả.
Trước mắt chúng là Ivan Germogenovich. Bác Ivan Germogenovich thực sự sống hẳn hoi. To lớn, râu ria, đúng như chúng vẫn quen thấy ông hàng ngày.
Sung sướng quá, bọn trẻ không nhận ra rằng giáo sư ăn mặc khá lạ lùng. Chúng nhìn vào mặt ông, cặp mắt đôn hậu tươi cười của ông, chòm râu bạc bù xù của ông.
- Bác Ivan Germogenovich! – Valia kêu lên.
Cô nhảy xổ vào lòng ông, khóc nức lên vì sung sướng.
- Thôi nào, thôi nào! – Giáo sư vuốt tóc cô, bối rối húng hắng ho – Bây giờ thì việc gì mà khóc?
Valia quệt nắm tay vào khuôn mặt đầy nước mắt và mỉm cười.
- Đó là... đó là... nước đấy bác ạ... Bao nhiêu là nước!
- Ừ, nhiều thật đấy! – Ivan Germogenovich đồng ý – Thôi, còn bây giờ hãy nói cho bác nghe ai cho phép các cô cậu tự tiện làm bậy trong phòng làm việc của bác?
Bọn trẻ cúi đầu.
- A, bây giờ thì các cô cậu im lặng! Quên cả nói năng rồi ư?
Bọn trẻ thở dài.
Chúng đứng trước mặt giáo sư, sũng ướt, khổ sở không dám ngẩng đầu lên. Karik cúi đầu thấp đến nỗi cằm đụng cả vào ngực còn đang dính bùn ướt. Valia quay mặt đi.
- Thế nào, sao cô cậu im lặng thế?
Karik khịt mũi, thở nặng nhọc, còn Valia thì thở dài não nuột. Giáo sư động lòng thương bọn trẻ.
Ông ôm chúng vào lòng, cười nói:
- Bọn kẻ cướp! Có ai ngờ làm bậy đến thế... Ngốc ơi là ngốc... Vậy mà bác suýt phát điên lên.
- Bọn cháu vô tình lỡ phải... - Valia nói, vừa cuốn những sợi tóc ướt vào ngón tay.
Karik kinh ngạc nhìn em: nói dối rồi – nhưng cậu không nói gì cả.
- Thôi, thôi. Bao giờ về đến nhà, mẹ sẽ cho cô cậu biết thế nào là “vô tình lỡ phải”. Bác chỉ sợ mẹ cháu sẽ “vô tình lỡ” đánh đòn cho một trận.
Karik ngẩng đầu lên nói:
- Mẹ cháu không bao giờ đánh chúng cháu đâu.
Giáo sư vuốt sợi ria bạc buồn rầu nói:
- Hồi bác còn bé thì bác bị đánh ghê lắm. Cả bằng roi lẫn bằng gậy. Nước Nga lúc đó còn man rợ lắm... Thôi, được rồi! Bây giờ thì ta đi về với bà mẹ không bao giờ đánh các cháu. Bác nghĩ thật hạnh phúc được nhìn bà mẹ như thế mỗi ngày mấy lượt. Có đúng thế không nào?
- Thế đi đâu hả bác?
- Sao lại còn đi đâu nữa? Cố nhiên là đi về nhà chứ sao!
Valia nhảy nhót vỗ tay:
- Về nhà thôi! Về nhà thôi!
Karik hỏi:
- Bác Ivan Germogenovich ơi, về nhà đi có xa lắm không? Liệu một giờ đồng hồ có đến nơi không?
- Một giờ ư? Không được đâu.
Giáo sư lắc đầu:
- Bây giờ thì mười tiếng đồng hồ ta cũng không đi đến nơi được... Vì chúng ta đang ở cách xa nhà gần cả chục kilômét.
Valia nhảy lên:
- Ô! Thế thì tốt quá! Chúng ta sẽ chạy. Chạy khoảng một tiếng đồng hồ là tới nơi mà.
- Hừ... - Ivan Germogenovich hắng giọng bối rối – Trước kia... đúng hơn là mới sáng nay thôi, chúng ta còn có thể đi mười kilômét trong 2 giờ. Nhưng bây giờ thì phải mất vài tháng.
- Thế hả bác? – Karik kinh ngạc.
- Sao vậy bác? –Valia trố mắt.
- Bởi vì rằng bây giờ trong một giờ nhiều nhất ta đi được một mét hay mét rưỡi. Các cháu nên nhớ là mỗi bước chân trước kia của chúng ta chừng nửa mét, còn bây giờ chỉ bằng một phần mười của xăngtimét thôi.
- Ủa! Chẳng lẽ chúng ta vẫn còn bé xíu hay sao?
Karik đưa mắt nhìn quanh.
Xung quanh là những cây cối kỳ lạ thân có đốt xanh. Trên bờ sông có một con vật có cánh đi lang thang. Nó nhỏ hơn con bê nhưng to hơn con cừu nhiều. Trên không có một con vật khổng lồ, to như xe ô tô chở khách, mình đầy lông lá.
Bọn trẻ kinh ngạc nhìn nhau.
Thế nghĩa là thế nào? Giáo sư thì đúng là thật, vậy mà xung quanh tất cả vẫn kỳ lạ như trước, không giống như thật...
Karik bối rối chớp mắt:
- Sao... sao lại thế hả bác? Bác đúng là thật mà, to lớn... Thế bác đúng là thật hay không phải thật?...
Giáo sư mỉm cười:
- Vừa thật mà vừa không thật. – Ông nói – Các cháu nghĩ mà xem: trước kia bác cao lớn hơn các cháu, vậy thì ở thế giới nhỏ bé này bác cũng phải như vậy chứ. Rõ không nào?
Karik ngập ngừng đáp:
- Rõ rồi ạ!
Nhưng qua cặp mắt của cậu, giáo sư biết là cậu chẳng rõ gì cả.
- Cháu cứ tưởng tượng mà xem. – Ông nói. - Nếu như bác, cháu, con voi, con ngựa, chuột và chó cùng uống chất lỏng do bác chế ra thì tất cả đều nhỏ lại hàng trăm lần. Nhưng đối với con người chúng ta thì voi vẫn to như ta quen nhìn thấy trong vườn thú, còn chuột hẳn nhỏ tí, có điều nó đã nhỏ lại hàng trăm hàng ngàn lần so với con chuột bình thường. Còn tất cả chúng ta cùng với voi, ngựa, chó chuột có thể nằm gọn trong lòng bàn tay của của con người bình thường.
Karik gật đầu:
- Cháu hiểu rồi.
Valia nói:
- Còn cháu vẫn chưa hiểu...
- Cháu chưa hiểu cái gì nào?
- Cháu chưa hiểu làm sao bác biết được chúng cháu đang ở đây.
Giáo sư vỗ vai Valia nói:
- Rồi sau bác sẽ kể chuyện đó cho nghe. Đường còn dài, phải đi rất lâu, chúng ta còn kịp nói đủ chuyện trên đường trở về nhà. Các cháu sẽ kể cho bác nghe đã thấy và biết được những gì, còn bác sẽ kể cho các cháu nghe đã tìm thấy bọn cháu ra sao... Bây giờ có điều này phải nói ngay cho các cháu... Dọc đường chúng ta có thể lạc nhau. Bởi vậy mỗi người phải biết tự tìm đường về... Các cháu hãy theo bác lại đây... Trước khi lên đường bác phải nói cho các cháu biết đôi điều.
Valia níu lấy Ivan Germogenovich nói:
- Chúng cháu không muốn lạc đâu!
- Được rồi, tốt lắm. Nhưng dù sao... để phòng xa... Ai biết được chuyện gì còn xảy ra.
Giáo sư nắm lấy tay bọn trẻ bước nhanh lên một ngọn đồi.
Bọn trẻ chạy lóc cóc theo sau.
Giáo sư chỉ tay ra phia xa hỏi:
- Các cháu có nhìn thấy gì kia không?
Đằng xa trên những khu rừng cỏ rậm rạp một cái cột vươn cao tít lên trời. Ở phía trên có một mảnh vải đỏ rất to bay phất phới.
Cây cột đứng ở giữa rừng, nhưng có thể nhìn nó rõ ràng như cây thông đơn độc giữa đồng cỏ.
Ivan Germogenovich nói:
- Đây là trụ cột của bác. Bác cắm nó thay cho ngọn hải đăng.
- Để làm gì hả bác?
- Thế này nhé... Dù bác cháu mình ở chỗ nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy ngọn hải đăng. Chỉ cần leo lên một ngọn cỏ là...
Bọn trẻ reo lên:
- Chúng cháu hiểu rồi ạ!
- Mọi chuyện khác thì đơn giản thôi... Ở phía dưới cạnh cây cột, bác đặt một cái hòm gỗ dán nhỏ. Hòm này mọi phía đều đóng đặt kín không sợ gì mưa nắng. Để có thể chui vào trong bác khoét một cái lỗ nhỏ ở mặt bên của cái hòm.
- Thế chui vào để làm gì ạ?
- Khi nào tới được bên cái hòm, chúng ta sẽ chui vào trong và tìm thấy ở đó cái hộp có chất bột trắng... Đấy là thứ bột làm to người trở lại... Mỗi người chúng ta chỉ cần nuốt một nắm bột đó là sẽ trở lại thành người bình thường. Các cháu hiểu chưa?
Valia buộc miệng nói:
- Trời ơi! Thế ngộ nhỡ ai đó lấy cái hòm đi mất thì sao?
Giáo sư bối rối. Chính ông cũng đã nghĩ đến điều này.
Nhưng nói cho bọn trẻ biết nỗi lo ngại của mình thì không cần thiết.
Giáo sư vuốt râu, cả quyết nói:
- Chỉ nói nhảm! Ai cần cái hòm gỗ dán cũ kỹ làm gì? Theo như bác biết thì ở vùng này rất ít khi có bóng người. Nhưng thôi... nói chuyện thế đủ rồi. Chúng ta không nên mất thì giờ vô ích. Lên đường thôi, các bạn ơi! Tiến lên! Ngẩng cao đầu lên! Đưa tay đây, Karik! Nào, Valia!
- Chúng ta đi đâu bây giờ hả bác?
Giáo sư vung tay nói:
- Lại chỗ đó! Nhắm thẳng phía hòm gỗ mà đi.
Ngẩng cao đầu, Ivan Germogenovich bước về phía rừng cây. Bọn trẻ đi theo sau ông, thì thầm trao đổi điều gì đó rất sôi nổi. Giáo sư nghe thấy chúng nói:
- Anh nói đi!
- Sao lại anh? Em tự nói đi!
Ivan Germogenovich dừng bước hỏi:
- Có chuyện gì thế các cháu?
Valia hỏi:
- Thế bây giờ chúng ta sẽ ngủ nghê, ăn uống ra sao ạ?
Ivan Germogenovich nhún vai:
- Chuyện vặt vãnh! Chúng ta sẽ ngủ như tổ tiên xa xưa của chúng ta: ở trên cây, trong lều cỏ, trong các hang động. Thực ra như thế còn thú vị hơn nhiều so với ngủ trong phòng ngột ngạt. Các cháu hãy coi như mình ra ngoại thành, về nông thôn. Được chưa nào?
- Thế còn chúng ta ăn gì ạ?
- Ồ, thức ăn ở đây thì nhiều vô kể. Có thể ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều hàng chục lần trong một ngày.
Valia nói:
- Vậy mà hôm nay, khi các cháu định ăn một quả cây lại bị ai đó đánh rồi ném xuống sông.
- Đánh? –Giáo sư kinh ngạc hỏi:
- Đúng thế ạ!
Rồi Valia kể lại, chúng định hái quả trên cây nhưng không trèo được tới nơi và bị rơi ngã xuống dòng sông chảy xiết như thế nào.
Ivan Germogenovich lo lắng hỏi:
- Thế các cháu đã ăn những quả ấy chưa?
- Chưa ạ, chúng cháu chưa kịp ăn.
Giáo sư thở phào nhẹ nhõm:
- Rất may là các cháu chưa ăn. Đó là một thứ quả độc gọi là ô dược.
- Nhưng chúng cháu chưa ăn nó mà.
- Không quan trọng. Các cháu đã hít phải hơi độc của nó nên bị ngất đi.
Karik quả quyết nói:
- Bác Ivan Germogenovich ạ, chúng cháu sẵn sàng ngủ trên cành cây hay ở đâu cũng được, có điều...
- Có điều làm sao?
Karik nuốt nước miếng rồi nói:
- Có điều từ hôm qua tới giờ chúng cháu chưa ăn gì cả. Cho nên... Chúng cháu không đi nổi được nữa... Giá có cái gì...
Giáo sư cuống quýt:
- Chao ôi, thế mà sao bác không đoán được ngay?... Tất nhiên rồi, các bạn ạ. Trước khi lên đường chúng ta phải ăn cho no cái đã... Các cháu có thích sữa không?
- Sữa thật hả bác?
- Hừm... cũng không hoàn toàn thật. Nhưng dù sao cũng là sữa.
Karik chìa tay ra:
- Cho cháu nào!
Valia nói:
- Nhiều nhiều vào bác nhé!
Giáo sư nói:
- Chúng ta đi thôi.
Ivan Germogenovich đi thẳng, ngẩng đầu lên cao ngắm nghía những cây cỏ, đưa mắt tìm kiếm cái gì đó. Cuối cùng ông dừng bước dưới bóng mát của một cây cỏ bao bạp.
Cây này có lá rất to, đến nỗi mỗi lá có thể đặt cả sân bóng đá lẫn khán đài.
Giáo sư chỉ tay lên cao:
- Đây này! Ở đây có cả một đàn bò đang chăn thả.
- Bò ở trên cây ư bác?
- Chính thế... đây thì cũng tựa như những bãi chăn trên núi Alpes (1)... Nào, cháu nào trèo lên trước đây?
- Thế... thế... thế... những con bò này có cắn không?
- Không cắn không húc gì hết. Chúng không có răng, cũng chẳng có sừng đâu các bạn ạ.
Karik và Valia nhật loạt nhảy lên cây. Ivan Germogenovich trèo theo sau.
Họ bám lấy những cành cây xanh mềm mại, giúp nhau leo lên và chẳng mấy chốc đã lên đến đỉnh cái cây to.
Những cái lá to, nhẵn bóng rung rinh trong sáng lóa mắt dưới mặt trời. Chúng cũng giống như những đồng cỏ xanh phẳng phiu. Các khách du lịch leo lên một trong những cái lá khổng lồ ấy, bước những bàn chân trần trên mặt lá đầy đặn êm ái.
Nhưng bước được vài bước bọn trẻ do dự dừng lại.
- Có chuyện gì vậy? – Giáo sư hỏi và cũng dừng lại.
Valia giơ ngón tay run rẩy chỉ vào mặt lá:
- Cái gì kia thế bác?
Karik cũng lùi lại hỏi:
- Phải rồi! Cái gì vậy bác?
Cái lá hoàn toàn sống động.
Cái mặt nhẵn bóng của nó động đậy, co lại, giãn ra. Trên mặt có hàng ngàn cái miệng như đang nhai nhai, lại như muốn níu gót chân trần của Karik và Valia.
Giáo sư ngạc nhiên hỏi:
- Sao nào? Cái gì làm bọn cháu sợ?
Valia nói:
- Bác ơi, chẳng lẽ đây là cái lá hay sao? Bác nhìn mà xem, nó làm như là muốn cắn chân vậy. Cháu sợ những cái lá thế này lắm.
- Ngốc ơi là ngốc! Đáng xấu hổ thật! Đây là những lỗ thở thông thường của lá.
- Lỗ thở ư bác?
- Cố nhiên rồi, đó là cửa sổ để thông hơi cho cây cối. Đó cũng là phổi để thở.
- Thế... chúng có thể tóm chân bọn cháu lại không ạ?
- Dĩ nhiên là không rồi. Các cháu đừng sợ! Cứ mạnh dạn đi theo bác.
Giáo sư bước dọc theo những gân lá chắc nịch gắn đầy trên đồng cỏ xanh dẫn đi mọi phía.
Bọn trẻ theo sau giáo sư.
*
Valia trông thấy lũ bò trước nhất.
Cô reo lên:
- Ô, xem kìa! Bò mà thế kia ư? Chẳng giống chút nào, mà lại xanh nữa!
Men theo bờ cạnh của chiếc lá – đồng cỏ, có những con vật màu xanh chân dài mảnh khảnh đi lang thang, chúng giống như những quả lê khổng lồ. Một vài con ngồi yên, để những cái râu lên mặt lá, cắm cái vòi cong vào lá.
Giáo sư nói:
- Đó, các cháu hãy làm quen với những con bò cỏ đi. Các cháu đừng buồn vì nó không giống bò thật. Bù lại, sữa của nó rất ngon, không kém hơn sữa bò thật.
Valia hỏi:
- Thế chúng là những con gì hả bác?
- Chẳng lẽ cháu chưa đoán được hay sao? Con bọ rệp đấy mà. Một loài côn trùng thông thường nhất. Nếu có khi nào cháu đọc về kiến, cháu hẳn phải biết về bọ rệp.
- À, cháu nhớ ra rồi! – Karik nói – Những con kiến chăn nuôi bọ rệp.
- Đúng đó, Karik nói đúng đó. – Ivan Germogenovich đáp – Thường những con kiến mang bọ rệp về tổ chăm sóc nuôi nấng chúng.
- Giống như ở một nông trang nữa!
- Phải rồi, gần như vậy... Những con kiến quí bọ rệp lắm. Chúng giống như người quí sữa bò vậy. Những con kiến vắt sữa bọ rệp, uống sữa của chúng và... Các cháu hãy cẩn thận một chút. Đừng giẫm chân lên sữa.
Giáo sư dừng lại trước một vũng chất lỏng đậm đặc. Ông nói:
- Bác nghĩ rằng chẳng cần phải vắt sữa bò. Cứ thế này sữa cũng chảy thành sông rồi. Nào, xin mời các bạn.
Ông nằm sấp bụng xuống, kề môi vào vũng sữa bọ rệp xanh, uống vài ngụm làm sữa ướt cả bộ râu.
- Rất ngon! Xin mời!
Bọn trẻ bắt chước Ivan Germogenovich nhào vào vũng sữa uống ngon lành.
- Thế nào? – Giáo sư hỏi – Ngon chứ? Có thích không?
- Ngon hơn cả sữa thật! – Karik nói, đưa tay chùi miệng có vẻ hài lòng.
Valia húp sữa xoàm xoạp, không ngẩng đầu lên, nói lùng búng điều gì nghe không rõ.
Cuối cùng tất cả mọi người đều uống no.
Bọn trẻ bò ra khỏi vũng sữa, nằm dài trên chiếc lá tựa như nằm trên bãi tắm.
Valia nằm, lấy tay vuốt bụng. Karik dang rộng cả chân tay ra. Cậu nói:
- Tuyệt thật!
- Nếu các cháu đã no rồi, thì chúng ta đi thôi. Không nên mất thì giờ vô ích.
Valia vội vã nói:
- Khoan đã bác ơi! Trước hết chúng ta phải nghỉ một chút.
- Chừng nửa giờ thôi bác ạ. - Karik ủng hộ cô em.
Những cái chân mỏi rã rời tựa như chân của người khác. Tay duỗi trên chiếc lá, nặng như đeo đá. Không muốn cử động chút nào cả. Ivan Germogenovich đồng ý.
- Thôi được! Muốn nghỉ thì nghỉ.
Ông cũng nằm xuống cạnh bọn trẻ.
Sau những cuộc phiêu lưu ngày hôm nay, chính ông cũng muốn nằm nghỉ một lát. Ivan Germogenovich ngáp dài, đặt tay xuống dưới đầu, nhắm đôi mắt đã díp lại.
Các khách du lịch nằm im lặng hồi lâu, nheo mắt vì chói nắng, luôn trở mình bên này qua bên kia.
Trên đầu gió thổi rì rào. Lá cây đung đưa tựa như chiếc nôi. Giáo sư lẩm bẩm:
- Nằm thế này cũng sướng thật.
Ông nói lẩm bẩm cái gì đó, ngả đầu trên chiếc lá và bắt đầu ngáy khe khẽ.
- Bác ấy ngủ rồi – Valia nói.
- Để bác ấy ngủ. Chúng ta cũng nghĩ đi.
Valia im lặng một lát:
- Lúc này chắc mẹ đang khóc! - Cô bé thở dài.
- Rõ là khóc rồi. – Karik cau mày nói.
Valia thở dài não nuột hơn, tựa như sắp khóc. Nhưng đúng lúc ấy trong không trung có tiếng động gì đó rền vang. Rồi một con vật gì đập vào lá cây.
Chiếc lá rung lên.
- Ai thế? - Valia thét lên!
Giáo sư hé mở cặp mắt ngái ngủ.
Một con rùa khổng lồ, nhỏ hơn chiếc xe tăng đôi chút đang bò trên lá cây. Lưng con rùa sáng loáng như phủ lớp sơn màu đỏ. Những chấm đen trên lưng lấp lánh tựa những cái đĩa sơn mài Nhật Bản.
Giáo sư ngáp, nhắm mắt lại rồi thản nhiên tiếp tục ngáy.
Bọn trẻ lo lắng nhìn con quái vật màu đỏ đang nhanh nhẹn chạy thẳng lại chỗ chúng.
Bọn trẻ nép vào nhau.
Con rùa đỏ chạy lại gần, ngắm nhìn chúng từ trên cao tựa như từ trên mái nhà rồi rung rinh những cái ria vẻ dọa nạt...
Karik và Valia hét lên bỏ chạy.
Chúng lao qua đàn bò xanh đang bình thản “ăn cỏ” trên chiếc lá–đồng–cỏ, chạy sát đến bờ lá.
Chạy nữa thì hết lối.
---

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét