Gốc tích họ Hồ của vua Quang Trung
Manh
mối xuất hiện của dòng họ Hồ (Tây Sơn) trên đất Quy Nhơn - Bình Định
xưa kia liên quan đến cuộc nội chiến khốc liệt trong lịch sử nước ta
thời Trịnh - Nguyễn phân tranh thế kỷ 17. Bấy giờ quân Trịnh chiếm Đàng
Ngoài, quân Nguyễn ở Đàng Trong. Hai bên giành đất, tranh dân, đánh nhau
7 lần trong khoảng 45 năm, tính từ trận đầu tiên năm 1627 đến trận cuối
vào 1672. Khoảng thời gian này, họ Hồ đã có mặt trên đất Nghệ An (thuộc
chúa Trịnh) từ 700 năm trước, mà ông tổ khai sáng là Trạng nguyên Hồ
Hưng Dật.
Chúng
tôi đã tiếp xúc với một số bà con họ Hồ ở miền Trung, miền Bắc, cũng
như tại TP.HCM, và được cho xem nhiều tài liệu về gia phả, một số sử
liệu và các tác phẩm liên quan. Trong số đó có cuốn Họ Hồ trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam do Hồ Sĩ Giàng biên soạn đã tái bản đến lần thứ 7
bởi NXB Văn hóa thông tin và NXB Tổng hợp TP.HCM, được Ban liên lạc họ
Hồ toàn quốc xem là “tiếng nói chính thức” phổ biến trong mỗi kỳ họp
mặt. Trong cuốn sách có viết rõ: “Họ
Hồ là họ lâu đời ở xứ Nghệ. Kể từ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật lập nghiệp ở
hương Bào Đột (thuộc xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) đến
nay đã trên 1.000 năm (…). Hồ Hưng Dật người Triết Giang. Triết Giang
xưa (Ngô Việt) nằm trong dải đất Bách Việt, bị Hán tộc tràn xuống Hán
hóa (là tộc Việt cuối cùng bị Hán hóa). Dân tộc Việt Nam là Lạc Việt (và
là dân tộc) duy nhất không bị Hán hóa. Các nhà khảo cổ học, sử học đều
xác nhận tổ tiên xa xưa của người Bách Việt và Lạc Việt có quan hệ mật
thiết với nhau. Vậy Hồ Hưng Dật nguồn gốc là người tộc Việt thuộc phương
Nam Trung Quốc (…) đã đặt chân đến Bào Đột (khoảng năm 947-951) xây
dựng nền móng đầu tiên của dòng họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam”.
Ông là “một trí thức lớn của thời đại ấy, đã đậu trạng nguyên, đã làm
quan, nhưng đã lui về trở thành một nhân sĩ ẩn dật, gắn bó với nhân dân,
không tranh bá đồ vương. Con cháu ông phát triển ở hai châu Hoan và
Diễn (Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay - NV) và nhiều nơi trên đất nước”.
Theo
Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Hưng Dật được cử sang làm thái thú ở châu
Diễn, song: “cũng có thuyết cho rằng ông sang Giao Châu (Việt Nam) lánh
nạn và được cử làm quan. Quốc sử triều Nguyễn viết ông trôi dạt và được
làm quan ở châu Diễn. Thuyết này xét ra có phần hợp lý hơn”. Ông vốn
đồng liêu với Đinh Công Trứ (thân sinh Đinh Bộ Lĩnh), vì thế Đinh Bộ
Lĩnh có biết ông. Khi Đinh Bộ Lĩnh muốn dấy binh dẹp các sứ quân đã đến
gặp Hồ Hưng Dật thăm dò xem ông có ý dấy quân hay không. Ông đã thổ lộ
với Đinh Bộ Lĩnh chỉ mong làm tròn phận sự của người dân, “để cho Đinh
Bộ Lĩnh yên lòng, ông giơ kiếm lên thề “Vạn đại vi dân”, nghĩa là vạn
đời làm dân, hay vạn đời vì dân. Ông lo việc cày ruộng, chiêu mộ dân
phiêu tán, lập ấp trại”.
Chính
khoảng thời gian khói lửa tương tàn Trịnh - Nguyễn đang bốc cao ấy
(1655 - 1657), hạt giống họ Hồ đã theo ngọn gió ly loạn bay tản về phía
Nam. Trong số người bị quân Nguyễn đưa đi khai khẩn ruộng đất tại ấp Tây
Sơn có Hồ Phi Khanh, là ông tổ 4 đời của anh em nhà Tây Sơn. Một tài
liệu lịch sử ghi: “Lúc bấy giờ ở huyện Phù Ly, đất Quy Nhơn có người
tên là Nguyễn Nhạc khởi binh (…). Nguyên ông tổ 4 đời của Nguyễn Nhạc
là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quý Ly ngày trước, người ở huyện Hưng
Nguyên, đất Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt
đem vào ở ấp Tây Sơn thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi
Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn,
sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ”.
Trần Đình Kỳ trong bài Quê mẹ nhà Tây Sơn viết rõ: “Các tài liệu đã công
bố cũng đều cho rằng tổ tiên của các thủ lĩnh Tây Sơn vốn họ Hồ ở Nghệ
An. Đến giữa thế kỷ 17, ông tổ 4 đời của Nguyễn Huệ bị chúa Nguyễn bắt
vào Đàng Trong cùng với nhiều tù binh khác đưa đi khai hoang lập ấp ở
vùng Tây Sơn thượng đạo (phủ Quy Nhơn). Đến đời ông Hồ Phi Phúc lấy vợ
là Nguyễn Thị Đồng (sinh các anh em Hồ Thơm), chuyển về ở quê vợ tại
làng Phú Lạc thuộc Tây Sơn hạ đạo, ký ngụ tại quê vợ, quê mẹ (nay thuộc
Bình Định). Theo Đại Nam nhất thống chí, đây là tục lệ phổ biến của
người Bình Định xưa (…). Phú Lạc trở thành quê hương thứ hai của dòng họ
Hồ ở Đàng Trong”.
Gốc
của họ Hồ là ở đất Bào Đột (Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) với hai tông
phái. Một tông phái ở châu Diễn (trưởng) và một ở Thanh Hóa (thứ). Và
cháu 15 đời của tổ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật có: Hồ Quý Ly, Trạng nguyên
Hồ Tông Thốc, Quản lĩnh hầu Hồ Hân, Hoan quận công Hồ Nhân và cháu 27
đời có hoàng giáp Hồ Sĩ Đống, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Tư nhân hầu Hồ Phi Tử
và anh hùng dân tộc: vua Quang Trung (tức Hồ Thơm - Nguyễn Huệ). Theo
Tạ Chí Đại Trường: “Có một điều chắc chắn là tổ tiên Tây Sơn gốc ở Nghệ
An. Đại Nam nhất thống chí cho biết Nghệ An có những chi nhánh họ Hồ, đỗ
đại khoa làm quan lớn. Chiến tranh 1945-1954 còn may mắn giữ được Hồ
tôn thế phả để biết thêm được một Hồ Xuân Hương trong dòng dõi danh gia
ấy (...): “Vậy thì khoảng 100 năm sau khi vào Nam, họ Hồ Nhân Sơn có thể
đã được an sáp tại làng Tây Sơn thuộc huyện Phù Ly, qua các đời thì
sinh ra Nhạc và hai người em là Bình (tức Hồ Thơm - Nguyễn Huệ) và Lữ”.
Rất
nhiều tác giả khác như Hoa Bằng, nhà gia phả học Nguyễn Đức Dụ, nhà sử
học Nguyễn Phương, nhà văn Văn Tân, nhà thơ Lê Minh Quốc (qua bộ sách Kể
chuyện danh nhân Việt Nam), nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, Phạm Văn Sơn
(với các bài khảo về Tây Sơn) đều nhắc đến lai lịch họ Hồ (gốc Nghệ An)
của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ. Vậy tại sao anh em họ Hồ lại đổi sang
họ Nguyễn (là họ mẹ)
Để
trả lời, một số sự kiện lịch sử và bối cảnh thời trước đã được người họ
Hồ thời nay dẫn chứng. Như chúa Nguyễn, hẳn nhiên phải để mắt chú ý đến
các lưu dân đưa từ đất chúa Trịnh vào khai khẩn phía Nam. Quân Nguyễn
không khỏi đề phòng tâm lý thù nghịch của các lưu dân bị đày xa xứ, bị
đưa đi khai hoang ở chốn núi rừng xa lạ, vắng vẻ kia. Để tránh cặp mắt
tập trung dò xét, nên khi khởi nghĩa, anh em Tây Sơn phải lấy họ mẹ
(Nguyễn) thay vì họ gốc “mang sẵn” từ Nghệ An vào (Hồ). Việc thay tên
đổi họ xét ra cũng chẳng lấy gì làm lạ, như Hồ Sĩ Giàng giải thích: “Có
nơi, có lúc vì bị o ép, một số người phải đổi sang họ khác. Tuy vậy,
chỉ có một số người thay tên đổi họ ở từng nơi, từng lúc, họ Hồ về cơ
bản vẫn đứng vững. Có người đổi họ, gặp buổi hanh thông đã trở lại họ Hồ
như Hồ Quý Ly (trước lấy họ Lê: Lê Quý Ly). Có người biết là dòng dõi
họ Hồ nhưng vì nhiều lý do nên vẫn giữ họ mới đổi như trường hợp vua
Quang Trung. Ngay cả gần đây, có một số người vì lý do chính trị phải
đổi sang họ khác; nay đã trở lại họ Hồ như trường hợp ông Hồ Văn Phúc -
con ông Hồ Văn An (ông An tham gia phong trào yêu nước của Nguyễn Thái
Học, để trốn tránh sự truy lùng của thực dân Pháp đã đổi sang họ Nguyễn,
nay hơn 50 năm, con ông đã lấy lại họ Hồ). Ngược lại, cũng có một số
trường hợp vốn là họ Nguyễn, họ Hoàng… làm nghĩa tử cho họ Hồ (cháu
ngoại) vì ơn sâu nghĩa nặng nên qua bao nhiêu đời vẫn giữ nguyên họ mẹ
(Hồ). Một số người gốc họ Hồ, hoặc làm nghĩa tử, hoặc vì một lý do nào
đó, đổi sang họ Nguyễn, họ Hà, họ Bùi, họ Mai, họ Vũ, họ Lê… nay vẫn giữ
nguyên họ ấy”.
Riêng
Nguyễn Huệ (Hồ Thơm) đổi họ đổi tên để tránh sự dò xét của quân Nguyễn
vì đã từng là học trò cưng của một nhân sĩ có tư tưởng phản kháng đương
thời là giáo Hiến. Giáo Hiến có người bạn rất thân, thuộc hàng “tứ trụ đại thần”
(Nội hữu) dưới triều Võ Vương là Trương Văn Hạnh. Trương Văn Hạnh lúc
bấy giờ chống lại sự lộng quyền của Trương Phúc Loan (cậu vua). Sau
Trương Phúc Loan giết Trương Văn Hạnh, giáo Hiến thương tiếc người bạn
tri kỷ, lại ngại sẽ có ngày đến lượt mình bị hại, nên đã bỏ Phú Xuân
(Huế) vào sống ở ấp Yên Thái (Quy Nhơn), mở lớp dạy học. Trong số học
trò có 3 anh em nhà Tây Sơn. Để tránh sự dòm ngó của quân Nguyễn lúc ban
đầu khi thanh thế chưa lớn, có thể bất lợi, anh em Tây Sơn đổi từ họ Hồ
sang họ Nguyễn. Điều này Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược nhận xét
anh em ông Nhạc lúc đầu chiêu quân “mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, vì rằng đất trong Nam thời ấy vẫn là đất của chúa Nguyễn!”. Theo TNOTheo
Bảo tàng Tây Sơn, tỉnh Bình Định, nguồn gốc gia tộc anh em Nhạc - Huệ -
Lữ vốn dòng dõi họ Hồ ở Quỳnh Đôi, con cháu Hồ Thế Anh (còn gọi là Hồ
Sĩ Anh, sinh 1618) trúng hội thi tam trường (tương đương phó bảng triều
Nguyễn). Năm Vĩnh Thịnh thứ nhất đời Lê Thần Tông (1658) làm quan đến Hộ
bộ Tả Thị Lang tước Diễn trạch hầu. Hồ Thế Anh sinh được 5 người con
trai là Hồ Thế Viêm (sinh đồ), Hồ Phi Cơ (hội thi tam trường), Hồ Danh
Lưu, Hồ Phi Tích (hoàng giáp) và Hồ Phi Đoan. Hồ Thế Viêm sinh Phi
Khang.
Phi
Khang sinh được 5 người con trai là Hồ Phi Trù, Hồ Phi Phú, Hồ Phi Thọ,
Hồ Phi Phúc, Hồ Phi Huống. Từ Quỳnh Đôi, Hồ Thế Viêm dời nhà lên Nhân
Lý (tức Nhân Sơn thuộc Quỳnh Hồng - Quỳnh Lưu Nghệ An), rồi lại đôn vào
thôn Thái Lão, phủ Hưng Nguyên, Nghệ An. Từ Thái Lão, Hồ Phi Khang
(nhiều sách chép là Hồ Phi Khanh), Hồ Phi Phúc di cư vào Đàng trong.
Bước đầu làm ăn ở huyện Tuy Viễn (nay là huyện An Nhơn). Sau đó Hồ Phi
Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng ở Tây Sơn hạ sinh ra Nhạc, Huệ, Lữ và một
gái út. Mộ của ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng còn di tích ở núi
Long Cương thuộc làng Kiên Mỹ, Bình Khê, Bình Định.
. Trích tài liệu của Hồ Sĩ Giàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét