Thành nhà Hồ tại huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. (2011) - Vĩnh Liêm
Hồ Quý Ly là nhân vật lịch sử được bàn luận nhiều trong giới học thuật, người khen kẻ chê với những ý kiến trái chiều. Sử học truyền thống thì chê Hồ Quý Ly bất trung, bất nghĩa, ác với dân, hèn với giặc; kẻ theo quan điểm Mác xít lại khen ông thức thời, có nhiều cải cách táo bạo hữu ích cho đất nước. Chúng ta hãy ngược dòng lịch sử để tìm hiểu gốc gác và bối cảnh lịch sử đã dẫn đến sự xuất hiện của Hồ Quý Ly trên chính trường Đại Việt vào nửa cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XV. Cần đánh giá như thế nào về vai trò của Hồ Quý Ly trong lịch sử?
Hồ Quý Ly là nhân vật lịch sử được bàn luận nhiều trong giới học thuật, người khen kẻ chê với những ý kiến trái chiều. Sử học truyền thống thì chê Hồ Quý Ly bất trung, bất nghĩa, ác với dân, hèn với giặc; kẻ theo quan điểm Mác xít lại khen ông thức thời, có nhiều cải cách táo bạo hữu ích cho đất nước. Chúng ta hãy ngược dòng lịch sử để tìm hiểu gốc gác và bối cảnh lịch sử đã dẫn đến sự xuất hiện của Hồ Quý Ly trên chính trường Đại Việt vào nửa cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XV. Cần đánh giá như thế nào về vai trò của Hồ Quý Ly trong lịch sử?
I/ BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA HỒ QUÝ LY TRÊN CHÍNH TRƯỜNG ĐẠI VIỆT:
Nhà Lý chuyển giao quyền lực cho nhà
Trần bằng cuộc đảo chính nhẹ nhàng do sự sắp đặt của Trần Thủ Độ và Trần
Thị với cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh lúc cả hai mới
lên bảy. Sau đó Trần Cảnh được Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi để trở thành
vị vua đầu triều Trần, tức Trần Thái Tông.
Triều đại nhà Trần (1226-1400) có tục
cha nhường ngôi cho con khi còn sống để làm thái thượng hoàng. Ưu điểm của nó là giúp vị vua trẻ có dịp thực tập vai trò của mình dưới sự dìu
dắt của vua cha để khi thực sự lãnh đạo đất nước sẽ không bị quyền thần
lấn át. Nhưng mặt khác, nếu đã nhường ngôi mà thái thượng hoàng vẫn tham
quyền cố vị thì rất dễ bị nịnh thần khuynh loát. Nhà Trần còn có tục
“nội hôn” (hôn nhân diễn ra trong dòng tộc) nhằm mục đích bảo vệ vững
chắc triều đại. Ngoài Trần Thái Tông kết hôn với Lý Chiêu Hoàng sau đó
với Thuận Thiên công chúa (chị của Chiêu Hoàng và vợ của Trần Liễu) là
anh em cô cậu, thì từ thời Thánh Tông trở đi các ngôi vị hoàng hậu đều
thuộc dòng dõi nhà Trần: Thánh Tông lấy Thiên Cảm hoàng hậu (con của An
Sinh vương Trần Liễu, chị em chú bác ruột), Nhân Tông lấy Khâm Từ hoàng
hậu (con của Tĩnh Quốc vương Quốc Khang, chị em chú bác họ), Anh Tông
lấy Thuận Thánh hoàng hậu (con của Hưng Nhượng vương Quốc Tảng, chị em
chú bác họ), Minh Tông lấy Lệ Thánh hoàng hậu (con của Huệ Võ vương Quốc
Chân, anh em chú bác ruột)… Kết quả đã làm luân thường đạo lý đảo lộn,
cuộc sống vương triều dâm loạn, dòng giống bị thoái hoá.
Do vậy nhà Trần chỉ hưng thịnh với bốn
vị vua đầu là Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông. Kể từ khi
Minh Tông lên cầm quyền (1314) nhà Trần bước vào thời kỳ rối ren suy
yếu vì các vị vua cuối đời đều tầm thường: Minh Tông quá tin dùng Trần
Khắc Chung, gây nên cái chết oan nghiệt cho Trần Quốc Chân (vừa chú
ruột vừa quốc phụ) nội bộ nhà Trần phân hoá; Hiến Tông (1329-1341) không
có gì nổi bật; Dụ Tông (1341-1369) ham mê tửu sắc ăn chơi sa đoạ, loạn
lạc nổi lên khắp nơi, Chiêm Thành dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng Nga
(1360-1390) thừa dịp sang quấy phá nước ta suốt gần 30 năm (1361-1390)
nhằm tái chiếm những phần đất đã mất vào tay Đại Việt thời Lý, Trần.
Sau biến cố Dương Nhật Lễ (1369-1370)3,
ngày 21 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) Cung Tĩnh Vương tên huý là Phủ,
con thứ ba của Minh Tông lúc bấy giờ đã 49 tuổi được đưa lên ngôi tức
Trần Nghệ Tông (ở ngôi 2 năm – 1370-1372, làm thái thượng hoàng 22 năm –
1372-1394). Nghệ Tông tuy nhân từ nhưng nhu nhược, thiếu dũng khí,
thiếu sáng suốt, thích nịnh hót, không phải một minh quân. Đây là cơ hội
ngàn vàng để Quý Ly tham dự và thao túng triều chính rồi cướp ngôi nhà
Trần.
Toàn Thư cho biết: Quý Ly tên tự là Lý
Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Triết Giang, đời Hậu Hán
thời Ngũ Quý (947-950) sang làm thái thú Diễn Châu. Sau đó làm nhà ở
hương Bào Đột châu này, rồi là trại chủ. Đến đời Lý (có người) lấy công
chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đến đời cháu thứ 12 là
Hồ Liêm dời đến hương Đại Lại, Thanh Hoá, làm con nuôi tuyên uý Lê Huấn,
từ đấy lấy Lê làm họ mình. Quý Ly là cháu bốn đời…(TT trang 293 bản
điện tử). Nói tóm lại Hồ Quý Ly là cháu 16 đời của Hồ Hưng Dật, gốc
người Triết Giang Trung Quốc.
Ông có hai người cô đều được vua Minh
Tông lấy vào hậu cung, một người là bà Sinh Từ sinh ra vua Nghệ Tông,
một người là bà Đôn Từ sinh ra vua Duệ Tông. Quý Ly với Nghệ Tông, Duệ
Tông là anh em họ ngoại. Quý Ly rất được Nghệ Tông tin dùng.
II/ TẠO THẾ LỰC VÂY CÁNH, TRIỆT HẠ ĐỐI THỦ, KHUYNH LOÁT TRIỀU ĐÌNH:
Theo Việt Sử Tiêu Án thì “Quý Ly lúc
trước đỗ thi Hương, lại thi trúng khoa Hoành từ, cho nên mới dám xính
thông minh…” (trang 109 bản điện tử). Các sách sử khác như Cương Mục,
Toàn Thư cho biết lúc nhỏ Quý Ly học võ với Nguyễn Sư Tề. Như vậy văn võ
Quý Ly đều am tường nhưng không thuộc loại xuất chúng. Thế nhưng do
quan hệ gần gũi với nhà vua và có lẽ Quý Ly biết cách lấy lòng Nghệ Tông
nên đã có vị trí lớn trong triều đình.
Tháng 3 nhuận năm Tân Hợi (1371) nhân mẹ của Dương Nhật Lễ chạy sang cầu cứu, quân Chiêm Thành vào cướp kinh đô
Thăng Long, vua phải chạy sang huyện Đông Ngàn (tức là huyện Từ Sơn, nay
là huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh) lánh nạn, dân tình thống khổ. Nhà Trần
suy yếu, Nghệ Tông trông cậy vào Quý Ly:
Tháng 5 Tân Hợi (1371) Quý Ly được thăng
từ chức Chi hậu tử cục chánh chưởng lên khu mật đại sứ, vua lại đem em
gái mới goá chồng là công chúa Huy Ninh gả cho ông ta (Huy Ninh trước
là vợ của tôn thất Nhân Vinh bị Nhật Lễ giết hại).
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Vinh chết
vì thù nước, Huy Ninh để tang chồng mới được 6 tháng mà vua đã đem gả
cho Quý Ly. Thế là làm hỏng nhân luân bắt đầu từ vua, mà kẻ làm chồng,
người làm vợ cũng không có nhân tâm. Phá bỏ lẽ chồng vợ, đảo loạn đạo
tam cương, thì làm sao mà chẳng sinh loạn? (TT trang 265 bản điện tử).
Tháng 9 Lê Quý Ly được gia phong làm
Trung tuyên quốc thượng hầu. Chỉ trong thời gian bốn tháng Lê Quý Ly đã
thăng tiến rất nhanh về hoạn lộ và quan tước. Sự thăng tiến này không
dựa trên tài năng và sự trung thành tận tuỵ của Quý Ly mà do Nghệ Tông
quá mù quáng đối với người ngoại thích này.
Nghệ Tông chỉ làm vua 2 năm (cuối 1370
đến cuối 1372) thì nhường ngôi cho em là hoàng thái tử Kính4 (tức Duệ
Tông) để làm thái thượng hoàng nhưng vẫn nắm quyền bính. Theo sử sách sở
dĩ Nghệ Tông nhường ngôi cho em dù các con vua như Húc hay Ngạc tuổi
cũng đã lớn vì nhờ công sức của Kính đã chiêu nạp quân lính nổi dậy mà
lấy được nước trong tay Dương Nhật Lễ. Duệ Tông tuy có dũng khí hơn Nghệ
Tông, nhưng theo Toàn Thư “vua ương gàn cố chấp, không nghe lời can,
khinh thường quân giặc nên mang họa vào thân…” (trang 266 bản điện tử)
Duệ Tông là con thứ 11 của vua Minh
Tông, do bà Đôn Từ sinh ra. Bà phi họ Lê, em họ nhà chú (tụng muội) của
Quý Ly được lập làm hoàng hậu. Địa vị của Quý Ly càng được củng cố.
Tháng giêng Ất Mão – 1375 Duệ Tông gấp
rút chuẩn bị lực lượng để đối phó Chiêm Thành. Quý Ly làm tham mưu quân
sự, binh quyền nhà Trần nằm trong tay của Quý Ly, giúp Quý Ly từng bước
tạo vây cánh. Nhưng Quý Ly không phải vị tướng tài hết lòng phò vua
giúp nước mà là kẻ tham sống sợ chết, bỏ trốn khi tình thế lâm nguy:
Tháng 5 Bính Thìn (1376) quân Chế Bồng
Nga vào cướp Hoá Châu. Tháng 6 Duệ Tông xuống chiếu cho quân sắm sửa khí
giới chuẩn bị chiến tranh. Ngự sử trung tán Lê Tích dâng sớ can ngăn
nhưng vua không nghe. Tháng 12 vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành, kết
quả sa vào ổ phục kích của giặc, Đỗ Tử Bình cầm hậu quân không đến cứu
viện, vua chết tại trận tiền, Quý Ly nghe tin bỏ trốn về nước. Thượng
hoàng chỉ phạt Tử Bình (bắt đi làm lính, sau được phục chức và thăng
tiến), còn Quý Ly vẫn được trọng dụng.
Thấy vua chết vì nạn nước, Thượng hoàng
lập con trưởng của vua là Kiến Đức đại vương Hiện lên làm vua xưng là
Giản Hoàng tức Đế Hiện (tháng 5 Đinh Tỵ-1377). Con gái Thượng hoàng là
Thiên Huy công chúa được lập làm hoàng hậu (chị em chú bác ruột).
Nghệ Tông vẫn nắm quyền hành. Theo TT
vua (Đế Hiện) u mê nhu nhược, không làm nổi việc gì, uy quyền ngày càng
về tay kẻ dưới (Quý Ly) (trang 272).
Sau khi Duệ Tông mất, Chiêm Thành càng
trở nên lộng hành, hầu như năm nào cũng vào cướp phá Đại Việt, thậm chí
vào tận kinh đô Thăng Long, bắt người cướp của. Tình hình nguy cấp, ngân
khố trống rỗng, triều đình gia tăng thuế má khiến đời sống nhân dân
thêm cơ cực. Ngoài việc lựa chọn những người khoẻ mạnh, am tường võ nghệ
bổ sung làm vệ sĩ (tháng 10 Mậu Ngọ 1378), Nghệ Tông còn sai quân dân
chở tiền đồng giấu vào núi Thiên Kiện (còn có tên là núi Địa Cận, ở xã
Thiên Kiện, nay thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) tháng 8 Kỷ Mùi
(1379); Tháng 10 giấu tiền ở khám Khả Lãng, Lạng Sơn vì sợ người Chiêm
đốt cung điện. (Ngô Sĩ Liên phê:…sợ nạn Chiêm Thành đốt cướp, đem chở
tiền của giấu tận hang cùng núi thẳm làm kế tránh giặc, thực là nhử giặc
đến, chuốc lấy tiếng chê cười của đời sau..TT trang 273 bản điện tử ).
Thậm chí triều đình còn huy động các tăng nhân trong nước và các tăng
nhân không có độ điệp (giấy chứng nhận đã được miễn thuế má và sưu dịch)
ở miền rừng núi tạm làm binh lính đi đánh giặc (tháng 3 Tân Dậu 1381).
Điều này chứng tỏ nhà Trần đã quá suy yếu và Chiêm Thành trở thành mối
đe dọa thường trực cho đất nước. Thế nhưng những người trung nghĩa với
đất nước như An phủ sứ Lê Giốc thì dần mai một, trong khi kẻ thâm độc
nham hiểm như Quý Ly lại được trọng dụng. Quý Ly tìm mọi cách tạo vây
cánh, củng cố thế lực để chờ dịp cướp ngôi nhà Trần:
Tháng 2 Kỷ Mùi (1379) Đế Hiện dùng Quý
Ly làm Tiểu tư không kiêm Hành khu mật đại sứ. Quý Ly tiến cử con Nguyễn
Sư Tề (thầy dạy võ của Quý Ly) là Nguyễn Đa Phương làm tướng quân, Phạm
Cự Luận thường hay vẽ mưu bày kế cho Quý Ly cũng được Quý Ly tiến cử
làm quyền đô sự. Bấy giờ người ta thường bảo Quý Ly có “Phương viên tá
lự” ám chỉ Đa Phương và Cự Luận là hai cánh tay đắc lực của Quý Ly..
Nhờ sự giúp sức của hai người này mà tháng 3 Canh Thân (1380) khi quân
Chiêm vào cướp Thanh Hoá, Quý Ly chỉ huy quân thuỷ đối phó đã đẩy lui
quân địch. Từ đó Quý Ly chuyên lãnh chức Nguyên nhung hành Hải Tây đô
thống sứ (Hải Tây là vùng đất từ Thanh Hoá trở vào đến Thuận Hoá), uy
quyền rất lớn. Đến nỗi tư đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Nguyên Đán là
tông thất nhà Trần cũng tìm cách kết thân với Quý Ly, đem con trai là
Mộng Dữ gửi gắm cho Quý Ly.
Sự mù quáng của Thượng hoàng đối với Quý
Ly ngày một tăng, tháng 3 Đinh Mão (1387) Nghệ Tông lấy Lê Quý Ly làm
Đồng bình chương sự (tức tể tướng), ban cho một thanh gươm, một lá cờ đề
8 chữ “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức”, Quý Ly làm bài thơ quốc
ngữ tạ ơn. Sự tin yêu của Nghệ Tông đã giúp Quý Ly đưa tay chân thân tín của mình vào những địa vị thích ứng: Tháng 5 Mậu Thìn (1388) lấy Trần
Đỗ làm cung lệnh (đứng đầu một cung). Tháng 6 lấy Lê Quý Tỳ (em của
Quý Ly) làm phán thủ Tri tả hữu ban sự (một chức hầu cận, ở gần vua).
Trước tình hình trên, vua (Đế Hiện) bàn
mưu với Thái uý Ngạc (Trang Định Vương Ngạc là con của Nghệ Tông) rằng:
“Thượng hoàng tin yêu ngoại thích là Quý Ly, cho hắn mặc sức làm gì thì
làm, nếu không lo trước đi thì sau sẽ khó chế ngự”. Nhưng vua không ngờ
tai mắt của Quý Ly ở khắp nơi, con của Vương Nhữ Chu là Nhữ Mai hầu vua
học, đã tiết lộ cho Quý Ly biết. Đa Phương khuyên Quý Ly lánh ra núi Đại
Lại (ở Thanh Hoá), nhưng Phạm Cự Luận là người đa mưu túc kế khuyên Quý
Ly nên tâu với Thượng hoàng câu ngạn ngữ “Chưa ai bán con nuôi cháu,
chỉ thấy bán cháu nuôi con” (trước đây Đế Hiện giết Quan Phục đại vương,
con cuả Nghệ Tông, Nghệ Tông rất căm giận), xui Thượng hoàng bỏ Đế Hiện
lập Chiêu Định vương Ngung lên làm vua. Quả nhiên Nghệ Tông nghe theo.
Tháng 12 ngày mồng 6 Mậu Thìn (1388)
Thượng hoàng vời vua vào cung rồi sai người đem giam vua ở chùa Tư Phúc,
giáng làm Linh Đức đại vương (phế đế). Các tướng chỉ huy các quân cũ
như Nguyễn Khoái, Nguyễn Văn Nhị, Nguyễn Kha, Lê Lặc. v.v…định đem quân
vào cứu vua, nhưng vua viết hai chữ “Giải giáp” (giải tán quân lính) đưa
cho các tướng bảo họ đừng trái ý Thượng hoàng. Sau đó Thượng hoàng sai
đưa vua xuống phủ Thái Dương thắt cổ chết. Các tướng liên lụy đều bị
giết hoặc bị đày đi xa. Thẩm hình viện Lê Á Phu bí mật tâu vua giết Quý
Ly, cơ mưu tiết lộ cũng bị giết. Lúc chết Đế Hiện 28 tuổi.
Toàn Thư cho biết …Trước đây bà lê Thị,
hoàng hậu của Duệ Tông, là mẹ của Linh Đức vương, em họ của Quý Ly. Duệ
Tông đi đánh phương nam không trở về, bà cắt tóc làm ni cô. Khi Nghệ
Tông lập Linh Đức lên ngôi, hậu từ chối không được, bèn khóc lóc với
những người thân tín: “Con tôi phúc bạc khó lòng gánh vác nổi trách
nhiệm lớn, nó phải tai họa vì việc đó thôi. Tiên hoàng xa lìa cõi thế,
kẻ chưa chết này chỉ muốn chết theo, không muốn trông thấy việc đời,
huống chi lại phải nhìn thấy con mình sắp bị nguy hiểm nữa. Bà mất được
hai năm thì Linh Đức bị hại.
Điều này chứng tỏ ngay người trong dòng
họ còn sợ tính thủ đoạn nham hiểm của Quý Ly huống hồ người ngoài, thế
nhưng Nghệ Tông vẫn lầm lạc tin dùng.
Ngày 27 tháng 10 Mậu Thìn (1388) Thượng
hoàng lập con út là Chiêm Định vương Ngung, 12 tuổi làm Hoàng đế, tức
Thuận Tông. Thánh Ngâu, con gái lớn của Quý Ly (với Huy Ninh công chúa)
được lập làm hoàng hậu (anh em cô cậu ruột). Thuận Tông chỉ làm vì, Nghệ
Tông thì già yếu, Quý Ly mặc sức khuynh loát triều đình.
Trong nước loạn lạc nổi lên khắp nơi,
mạnh nhất là Phạm Sư Ôn ở Quốc Oai, bên ngoài quân Chiêm tiếp tục xâm
phạm. Tháng 10 Kỷ tỵ (1389) quân Chiêm vào cướp Thanh Hoá, Thượng hoàng
sai Quý Ly đem quân đi chống giữ. Thế giặc mạnh, quân ta tan vỡ, tướng
chỉ huy bị giặc bắt sống, 70 tướng còn lại đều tử trận, Quý Ly bỏ trốn
để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương ở lại chống giặc. Quý Ly
về kinh đô xin thêm thuyền chiến nhưng Thượng hoàng không cho, nhân đấy
Quý Ly xin thôi giữ binh quyền. Nguyễn Đa Phương tạm chỉ huy quân Thánh
Dực, đánh thắng giặc ở Ngu Giang.
Từ sau trận Ngu Giang, Đa Phương tự cho mình có công, thường chê bai Quý Ly bất tài.
Vì thế Quý Ly gièm pha với Thượng hoàng
rằng việc đánh Chiêm Thành thất bại là do Đa Phương, Nghệ Tông bảo cần
trị tội nhẹ để răn bảo. Quý Ly nói “thả cọp ra sẽ dễ họa về sau, chi
bằng giết đi là xong”. Bèn hạ lệnh bắt Đa Phương phải tự tử (tháng 11 Kỷ
Tỵ 1389). Ngay tâm phúc bè đảng mà Quý Ly còn xử sự độc ác như thế
huống hồ người không ăn cánh.
Đô tướng Trần Khát Chân phụng mệnh
đem quân đi chống giặc. Nhờ có hàng thần Ba Lậu Kê chỉ điểm, quân ta tập
trung hoả pháo bắn vào thuyền chỉ huy giết chết Chế Bồng Nga ở sông Hải
Triều (thuộc tỉnh Hưng Yên). Quân Chiêm Thành thua to phải trốn chạy về
nước (23 tháng giêng Canh Ngọ -1390). Trần Khát Chân được phong tước Vũ
Tiết Quan nội hầu. Tuy việc giết được Chế Bồng Nga là do may mắn nhưng
đã làm uy tín Trần Khát Chân lên cao, mâu thuẫn giữa Quý Ly và Khát
Chân càng sâu sắc.
Giữa Quý Ly và Trang Định Vương Ngạc có
hiềm khích (Ngạc cùng phe với Đế Hiện). Sau khi loại trừ Đế Hiện, Quý Ly
tìm cách khống chế Ngạc, nhiều lần Ngạc bị Quý Ly gièm pha sinh lòng lo
sợ nên trốn ra Vạn Ninh. Thượng hoàng sai Nhân Liệt đuổi theo bắt về,
Quý Ly ngầm ra lệnh Nhân Liệt đánh chết Ngạc, nói dối với Thượng hoàng
là Ngạc bạo ngược với người Vạn Ninh nên bị họ giết, Nghệ Tông giận
truất Ngạc làm Mẫn vương (tháng 5 Tân Mùi (1391). Sau biết ra, ăn năn
hối hận thì đã muộn.
Tháng 8 Tân Mùi (1391) Quý Ly giết hai
tướng quản lĩnh quân Hoá Châu là Phan Mãnh và Chu Bình Khuê vì hai vị
tướng này có những câu ngụ ý Quý Ly lộng quyền, tâm phúc cuả Quý Ly là
Đặng Tất và Hoàng Hối Khanh ngầm gửi thư báo. (Phan Mãnh nói “Trời
không bao giờ có hai mặt trời, dân không bao giờ có hai vua”, Chu Bình
Khuê nói “Dương Liễu lắm điều, mọi người đều khoá miệng”)
Tháng 2 Nhâm Thân (1392) giết tôn thất Trần Nhật Chương vì Nhật Chương mưu giết Quý Ly.
Tháng 4 Nhâm Thân (1392) Bùi Mộng Hoa
dâng sớ lên Thượng hoàng về câu đồng dao “Thâm tai Lê sư” (thâm hiểm
thay thái sư họ Lê) ám chỉ Quý Ly có ý dòm ngó ngôi báu. Thượng hoàng
xem tờ tâu lại đưa cho Quý Ly. Mộng Hoa phải ẩn lánh không làm quan nữa.
Tháng giêng Quý Dậu (1393) Quý Ly ngầm
tìm được dòng dõi họ Hồ là Hồ Cương (người Diễn Châu) lấy làm tâm phúc,
cho coi quân Tả Thánh Dực để thêm vây cánh.
Mãi đến khi gần mất Nghệ Tông mới tỉnh
ngộ, lo sợ sự tiếm quyền cuả Quý Ly, vì vậy tháng 2 Giáp Tuất (1394)
Thượng hoàng sai thợ vẽ hình Chu Công giúp Thành vương, Hoắc Quang giúp
Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Hậu Chúa, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông
làm bức Tứ phụ đồ (4 vị giúp vua) ban cho Quý Ly căn dặn rằng khanh
giúp quan gia (vua Thuận Tông) cũng nên như thế.
Theo sử sách một hôm Thượng hoàng nằm mộng thấy Duệ Tông đọc một bài thơ:
“Trung gian duy hữu xích truỷ hầu
Ân cần tiếm thượng bạch kê lầu
Khẩu vương dĩ định hưng vong sự
Bất tại tiền đầu tại hậu đầu”
(Ở giữa chỉ có loài mỏ đỏ
Lăm le lấn lên lầu gà trắng
Khẩu vương đã định việc hưng vong
Không ở trước mà ở về sau”).
Khi tỉnh giấc Thượng hoàng chiết tự thì
biết chắc chắn Quý Ly sẽ cướp ngôi nhà Trần. Do vậy tháng 4 sau hội
thề Thượng hoàng triệu Quý Ly vào cung đại ý bảo rằng thế nước đã yếu,
nếu có thể giúp quan gia được thì giúp, bằng không khanh cứ nhận lấy
ngôi vua. Quý Ly khóc lóc thề sẽ không bao giờ có mưu đồ gì khác.
Thế nhưng sau khi Nghệ Tông băng (tháng
12 Giáp Tuất – 1394) Quý Ly tiếp tục tàn sát những kẻ chống đối: tháng 2
Ất Hợi (1395) cho giết Nguyên Uyên và Nguyên Dận (đều là tông thất nhà
Trần) và sĩ nhân Nguyễn Phù vì trong khi để tang Nghệ Tông họ thường bàn
tán chuyện Nhật Chương (bị giết năm 1392).
Lấy danh nghĩa vua Thuận Tông, Quý Ly tự
bổ dụng giữ chức Nhập nội phụ chính thái sư bình chương quân quốc trọng
sự, Tuyên trung vệ quốc đại vương, đồng thời tự xưng là phụ chính cai
giáo hoàng đế (có nghĩa giúp vua giữ chính quyền trong nước kiêm cả việc
dạy bảo vua – chú thích của CM trang 317). Với một vị vua không chút
quyền hành như Thuận Tông, việc cướp ngôi nhà Trần chỉ là vấn đề thời
gian.
III/ CHUẨN BỊ CƯỚP NGÔI
Sau khi nắm toàn quyền Quý Ly cho tiến
hành một loạt cải cách mà giới sử học Mác xít đã ca ngợi là tiến bộ hữu
ích cho đất nước, nhưng thực chất hoặc là để giải quyết những khó khăn
trước mắt sau chiến tranh (với Chiêm Thành), hoặc để thâu tóm cuả cải,
tài nguyên quốc gia trước đây nằm trong tay nhà Trần, đồng thời chuẩn bị
mọi mặt cho việc cướp ngôi:
1/ PHÁT HÀNH TIỀN GIẤY:
Tháng tư Bính Tý (1396) bắt đầu phát
hành tiền giấy Thông bảo hội sao, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2
tiền giấy (Thể thức: tờ 10 đồng vẽ rong, 30 đồng vẽ sóng, 1 tiền vẽ mây,
2 tiền vẽ rùa, 3 tiền vẽ lân, 5 tiền vẽ phượng, 1 quan vẽ rồng). Kẻ nào
làm giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản bị tịch thu. Cấm chỉ dân gian
không được dùng tiền đồng, bao nhiêu tiền đồng đều thu về kho Ngao Trì ở
kinh thành và trị sở các xứ, nếu người nào tàng trữ hoặc tiêu dùng
riêng cũng phải tội như người làm giả tiền giấy.
Trên thực tế giá trị tiền giấy thấp hơn
tiền đồng rất nhiều. Nhưng tại sao có sự thay đổi tiền tệ? Chúng ta biết
trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt với Chiêm Thành, Nghệ Tông đã sai
đem giấu tiền ở núi Thiên Kiện (Hà Nam) và khám Khả Lãng (Lạng Sơn) vào
tháng 8 và tháng 10 Kỷ Mùi –1379 (đã nói ở trên). Khi Chế Bồng Nga tử
trận (đầu năm Canh Ngọ – 1390), Chiêm Thành không còn là mối đe dọa đến
an nguy của Đại Việt, tháng 10 cùng năm triều đình sai thợ đá đào mở
hang núi Thiên Kiện và hang núi Khuẩn Mai để lấy tiền của chôn ở đây
nhưng cả hai núi đều bị lở, cửa hang bị lấp kín, đào mãi không được,
đành phải bỏ (TT trang 283 bản điện tử). Như vậy việc phát hành tiền
giấy chẳng qua chỉ là giải pháp tình thế, mục đích để giải quyết tình
trạng ngân khố trống rỗng đồng thời chiếm dụng tiền của nhân dân. Chính
sách này là đề nghị của Vương Nhữ Chu chứ không phải sáng kiến của Quý
Ly. Một số người khen ngợi rằng tiện dụng, táo bạo, đi trước thời đại.
Thực tế loại tiền giấy này không có giá trị vì kỹ thuật in ấn còn thủ
công, không được bảo chứng bằng quý kim, dễ rách nát, dễ làm giả vì
thế vấp phải sự chống đối của dân chúng, họ thường dùng hàng hoá để trao
đổi thay vì dùng tiến giấy, đến nỗi sau khi lên ngôi, Hán Thương phải
lập điều luật để xử tội người không tiêu tiền giấy (1403). Chính sách
tiền giấy của Quý Ly đã thất bại và các triều đại sau trở lại dùng tiền
đồng.
2/ DỜI KINH ĐÔ:
Thanh Hoá là quê quán của Quý Ly vì vậy
Quý Ly muốn dời kinh đô vào đây để chuẩn bị cho việc cướp ngôi.(có ý
kiến cho rằng để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Minh, xem ra không
được thuyết phục cho lắm).
Tháng giêng Đinh Sửu (1397) Quý Ly sai
Lại bộ thượng thư Đỗ Tĩnh đi Thanh Hoá dựng kinh đô mới, nhiều quần thần
dâng sớ can ngăn nhưng không được. Thậm chí Nguyễn Nhữ Thuyết có nhắc
đến cổ ngữ có câu “cần ở đức, không cần nơi hiểm trở”, đến kỳ xét công
trạng các quan, thấy tên Thuyết, Quý Ly bảo “Anh này là người nói ‘cần ở
đức, không cần nơi hiểm trở’ đây”, rồi bỏ không dùng.(CM trang 319, TT
trang 290 bản Điện tử). Đến tháng 3 thì công việc hoàn tất. Tháng 11
cùng năm (CM ghi tháng 10) Quý Ly bức Thuận Tông dời kinh đô đến phủ
Thanh Hoá. Cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm nói mật với vua dời
kinh đô thế nào cũng có chuyện cướp ngôi. Quý Ly nghe được cho rằng Lê
Hợp, Lương Ông cũng đồng mưu, đem giết hết.
Vì việc xây dựng quá gấp rút (chỉ trong
vòng từ 2 đến 3 tháng) nên sau một thời gian ngắn đã có dấu hiệu hư
hỏng, buộc phải sửa chữa. TT cho biết năm Tân Tỵ (1401) “Hán Thương hạ
lệnh cho các lộ nung gạch để dùng vào việc xây thành. Trước đây xây
thành Tây Đô, tải nhiều đá tới xây, ít lâu sau lại bị sụp đổ, đến đây
mới xây trên bằng gạch, dưới bằng đá.” (TT trang 298 bản điện tử). Từ
đấy ta có thể suy đoán việc xây Tây Đô ở Thanh Hoá (rất xa Thăng Long)
mục đích chỉ để dễ bề cướp ngôi mà không sợ phản ứng bất lợi của người
dân Bắc Hà.
(Hiện nay Tây Đô tức thành nhà Hồ ở
Thanh Hoá còn sót lại một vài di tích, được Unesco công nhận là di sản
văn hoá thế giới).
3/ BAN HÀNH CHÍNH SÁCH HẠN ĐIỀN:
Tháng 6 Đinh Sửu (1397) xuống chiếu hạn
chế danh điền (ruộng tư): đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng
không hạn chế, thứ dân hạn chế là 10 mẫu, số ruộng thừa phải hiến cho
nhà nước. Người phạm tội được phép đem ruộng chuộc tội.
Năm sau hạ lệnh cho dân, người nào có
ruộng phải khai báo số mẫu ruộng, trên mặt ruộng phải cắm thẻ ghi rõ họ
tên của mình, các quan ở lộ, phủ, châu và huyện phải kiểm xét đo đạc 5
năm mới xong. Ruộng nào không có người khai báo thì sung làm ruộng công.
Lúc ấy hành khiển Hà Đức Lân nói kín với người nhà “Đặt ra phép này chỉ
để ăn cướp ruộng của dân đấy thôi”. Quý Ly nghe biết liền giáng chức
Đức Lân làm Hộ bộ thượng thư. (TT trang 293 bản điện tử). Thật đáng sợ
khi tai mắt của Quý Ly ở khắp nơi, bầu không khí nguy kỵ lo lắng bao
trùm Đại Việt, mọi người đều không dám hở môi.
4/ ÉP THUẬN TÔNG NHƯỜNG NGÔI CHO HOÀNG THÁI TỬ AN VÀ BỨC TỬ VUA:
Vì trót thề với Nghệ Tông không có mưu
đồ cướp ngôi, Quý Ly ngầm sai đạo sĩ Nguyễn Khánh ra vào cung thuyết
phục Thuận Tông bỏ ngai vàng đi tu tiên. Vua bèn nhường ngôi cho hoàng
thái tử An (có sách ghi là Án) mới 3 tuổi (tức Thiếu Đế), ra ở cung Bảo
Thanh (CM ghi là quán Ngọc Thanh) phía tây nam núi Đại Lại (tháng 3 Mậu
Dần 1398). Sau đó Quý Ly sai người bức tử Thuận Tông: ban đầu sai Nguyễn
Cẩn đầu độc vua bằng nhiều cách nhưng vua không chết, cuối cùng sai Xa
kỵ thượng tướng quân Phạm Khả Vĩnh đem thắt cổ cho chết (tháng tư Kỷ Mão
– 1399), khi bị bức tử Thuận Tông 22 tuổi.
5/ THƯỢNG TƯỚNG TRẦN KHÁT CHÂN VÀ THÁI BẢO TRẦN NGUYÊN HÃNG MƯU GIẾT QUÝ LY BẤT THÀNH: (tháng 4 Kỷ Mão -1399)
Trước sự lộng quyền và tàn ác của Quý
Ly, thái bảo Trần Nguyên Hãng và thượng tướng Trần Khát Chân bàn mưu
giết Quý Ly ở hội thề Đốn Sơn (ngọn núi ở xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc,
Thanh Hoá) tháng 4 Kỷ Mão (1399) nhưng bất thành vì sự do dự của Trần
Khát Chân: khi Quý Ly ngồi trên lầu nhà Khát Chân để xem, cháu Khả Vĩnh
là Phạm Tố Thu và thích khách Phạm Ngưu Tất cầm gươm định lên, Trần Khát
Chân trừng mắt ngăn lại, Quý Ly chột dạ đứng dậy, vệ sĩ hộ vệ xuống
lầu. Ngưu Tất vất gươm xuống đất nói “chết uổng cả lũ thôi”. Kết quả
Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hãng, thích khách Phạm Ngưu Tất, Phạm Khả
Vĩnh…đều bị giết, hơn 370 người liên can đều bị hại, gia sản bị tịch
thu, không khí khủng bố bao trùm khắp nơi, ra đường không ai dám chuyện
trò với ai. Hội thề từ đó cũng bãi bỏ.
IV/ VIỆC CƯỚP NGÔI VÀ TRIỀU ĐẠI NHÀ HỒ (1400-1407)
1/ CƯỚP NGÔI NHÀ TRẦN: Sau khi
loại bỏ được phe nhóm của Trần Khát Chân và trấn áp được dư luận chống
đối, tháng 6 Kỷ Mão (1399) Quý Ly tự xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, mặc
áo màu bồ hoàng (màu vàng như nhụy hoa xương bồ), ở cung Nhân Thọ, ra
vào theo lệ thiên tử, dùng 12 chiếc lọng vàng. Con là Hán Thương xưng là
Nhiếp thái phó, ở bên hữu điện Hoàng Nguyên, Nguyên Trừng (con trưởng)
làm tư đồ.
Năm Canh Thìn (1400) Tháng 2 ngày 28,
Quý Ly, lúc này 65 tuổi, bức Thiếu Đế (5 tuổi) nhường ngôi, buộc tôn
thất nhà Trần và các quan ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi, giả vờ cố
tình từ chối nói “ta sắp xuống lỗ đến nơi rồi còn mặt mũi nào trông thấy
tiên đế ở dưới đất nữa?”. Nhưng rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu là
Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu (Quý Ly tự nhận mình là dòng dõi họ
Hồ, con cháu Ngu Thuấn).
Phan Phù Tiên nói “…Là vì họ hàng xa
xôi, các đời biến đổi, khó mà tin chắc được. Quý Ly lại nhận là dòng dõi
xa của Hồ Công Mãn, tế Ngu Thuấn làm thuỷ tổ, thì cái tội dối đời để
tiếm ngôi thực không gì to bằng” (TT trang 296 bản điện tử).
Đế An bị phế làm Bảo Ninh Đại Vương, vì là cháu ngoại nên không giết.
Nhà Trần kể từ vị vua đầu là Trần Thái
Tông (1226-1258) đến vị vua cuối cùng là Trần Đế An (1398-1400) trị vì
được 174 năm truyền được 12 đời. Nếu trước đây nhà Trần đã cướp ngôi và
tiêu diệt nhà Lý bằng những thủ đoạn vô cùng nham hiểm mà kẻ chủ mưu là
Trần Thủ Độ, thì 174 năm sau nhà Trần lại mất nước vào tay nhà Hồ bởi
những thủ đoạn thâm độc của Hồ Quý Ly. Âu cũng là luân hồi nhân quả.
Quý Ly chỉ làm vua đến tháng 12 cùng
năm, rồi bắt chước nhà Trần nhường ngôi cho con là Hán Thương (Hán
Thương là con của Quý Ly và Huy Ninh công chúa), tự xưng là thượng
hoàng, cùng coi chính sự (thực tế Hán Thương chỉ làm vì), sai sứ sang
báo nhà Minh (thay thế nhà Nguyên từ năm 1368) nói rằng họ Trần đã
tuyệt tự, Hán Thương là cháu ngoại, tạm trông coi việc nước. Đến tháng 2
Quý mùi (1403) khi Minh Thành Tổ lên ngôi, Hán Thương sai sứ sang mừng
và xin phong tước, đệ nộp tờ cam đoan của bồi thần và phụ lão những lời
tâu trước đây của Hán Thương, vua Minh tin là thực, phong Hán Thương làm
An Nam quốc vương. Từ đấy Sứ thần nhà Minh qua lại như mắc cửi, yêu
sách đủ điều khiến Hán Thương phải khổ sở vì sự thù tiếp.
2/ CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI:
Ngoài chính sách hạn điền và phát hành
tiền giấy đã thực hiện vào cuối thời Trần, nhà Hồ còn có những chính
sách cải cách quan trọng như:
-Làm sổ hộ tịch (tháng 4 Tân Tỵ (1401):
biết nhà Minh dòm ngó Đại Việt, Quý Ly từng nói “Làm thế nào có trăm
vạn quân để địch với giặc Tàu”, Hoàng Hối Khanh dâng kế sách này, biên
nhân khẩu từ 2 tuổi trở lên, dân đinh ngụ những nơi khác thì đuổi về
nguyên quán, làm 2 nơi Diễn Châu và Thanh Hoá tính số người từ 15 tuổi
trở lên, 60 tuổi trở xuống gấp bội so với trước.
-Chính sách hạn nô (tháng 4 Tân Tỵ
-1401): quy định tuỳ theo phẩm cấp mà có số lượng khác nhau, nhằm hạn
chế số gia nô của quý tộc và quan chức, số thừa phải dâng lên sung vào
quân ngũ. Các gia nô đều thích vào trán các hình khác nhau để đánh dấu.
Bọn đại sĩ phu mong được lòng Quý Ly, dâng thư khuyên giết hại con cháu
nhà Trần, giảm bớt số ruộng và nô để nén bớt thế lực của họ.
-Định lại các lệ thuế và tô ruộng (tháng
8 Nhâm Ngọ 1402) có phần giảm nhẹ cho các đối tượng khó khăn như gia
đình nghèo, phụ nữ goá bụa….
-Cải cách thi cử: có nhiều tiến bộ,
phỏng theo lối văn tự ba trường của nhà Nguyên, lại có kỳ thi viết chữ
và toán pháp, do đó đã tuyển chọn được nhiều nhân tài: Nguyễn Trãi đỗ kỳ
thi thái học sinh năm Canh Thìn (1400). Tháng 12 năm Tân Tỵ (1401) lấy
Nguyễn Phi Khanh (tức Nguyễn Ứng Long) cha của Nguyễn Trãi làm Hàn lâm
học sĩ…
Ngoài ra nhà Hồ còn sửa sang đường sá,
khai thông sông ngòi, mở mang hải cảng, đóng chiến thuyền, chỉnh đốn
quân ngũ, đắp thành .v.v… để chuẩn bị chiến tranh với Chiêm Thành và đối
phó với nhà Minh.
Tuy vậy nhà Hồ không được lòng dân vì sự độc đoán tàn bạo cuả Quý Ly.
3/ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI:
Chiến tranh với Chiêm Thành:
Khi Thượng hoàng Nghệ Tông còn sống
thường đến nhà riêng của Nguyên Đán hỏi việc nước, ông thưa “Xin bệ hạ
kính nước Minh như cha, yêu Chiêm Thành như con, thì nước nhà vô sự, tôi
dầu chết cũng được bất hủ” (TT trang 284). Đó là chính sách ngoại giao
hoà bình khôn khéo, liên minh với các nước nhỏ láng giềng, nhún nhường
thần phục nước lớn của các triều đại trước để tránh tổn hại cho đất
nước, cho nhân dân, để khỏi đối đầu cùng một lúc với nhiều kẻ thù mà
đáng sợ nhất là Trung Quốc. Nhưng Quý Ly thì ngược lại, với bản chất
tham lam độc ác, thiếu tầm nhìn xa trông rộng, sau khi cướp ngôi nhà
Trần, Quý Ly đã gây chiến với Chiêm Thành để mở rộng bờ cõi:
Năm Tân Tỵ (1401), Quý Ly sai Trần Tùng (TT ghi Hồ Tùng) đi đánh Chiêm Thành nhưng không thành công phải rút về.
Tháng 7 Nhâm Ngọ (1402) sai tướng Đỗ Mãn
đem đại quân đi chinh phạt. Vua Chiêm Thành là Ba Đích sai cậu là Bố
Điền sang dâng đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, Quảng Nam) để xin bãi
binh. Quý Ly bắt phải dâng thêm đất Cổ Luỹ (Quảng Ngãi) rồi phân thành 4
châu Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa. Qua năm Quý Mùi (1403) đưa dân ở các nơi
chưa có ruộng mà có của dời vào đây, biên chế thành quân ngũ. Người ở
châu nào thì thích chữ tên châu ấy vào cánh tay để làm dấu hiệu. Đến năm
sau đưa vợ con đi theo, giữa đường, bị bão chết đuối, dân phần nhiều ta
thán.
Năm Quý Mùi (1403) nhà Hồ lại sai Phạm
Nguyên Khôi đem 20 vạn quân thuỷ bộ vây thành Chà Bàn, quân đi đã 9
tháng, hết lương ăn, không thắng được đành phải rút về. Chiêm Thành cầu
cứu nhà Minh, Minh đem 9 chiến thuyền sang cứu, gặp quân Hồ ở biển.
Người Minh bảo Nguyên Khôi phải mau rút về không được ở lại lâu. Khi
Nguyên Khôi trở về đã bị Quý Ly quở trách vì không giết hết quân Minh.
Mặc dù chiếm thêm một số đất đai của
Chiêm Thành, nhà Hồ phải đối đầu với hai thế lực quân sự: phía bắc
(Trung Quốc) và phía nam (Chiêm Thành) trong tình hình không mấy thuận
lợi.
Chiến tranh với Nhà Minh:
Trước đây Trần Khang là bè đảng của Trần
Tôn (giữ chức thiếu bảo triều nhà Trần) thông đồng với Chiêm Thành, bị
Thuận Tông hạ chiếu bắt trị tội, Tôn nhảy xuống nước tự tử, còn Khang
thì chạy sang Lão Qua. Sau đó Khang chạy qua Yên Kinh, đổi tên là Thiêm
Bình nói dối là con của Nghệ Tông, kể rõ sự tình Quý Ly tiếm nghịch. Vua
nhà Minh sai ngự sử Lý Kỳ sang nước ta tra hỏi thì quả đúng như vậy.
Nhà Minh nhân cơ hội muốn gây chuyện binh đao, tháng 2 Ất Dậu (1405) sai
sứ sang đòi cắt đất Lộc Châu. Quý Ly sai Hoàng Hối Khanh làm cát địa
sứ, Hối Khanh đem 59 thôn trả cho nhà Minh, bị Quý Ly trách mắng là cắt
đất quá nhiều, rồi ngầm sai đánh thuốc độc giết chết những thổ quan do
nhà Minh đặt ra để giữ đất mới nhượng ấy.
Tháng 9 Ất Dậu (1405) Hán Thương một mặt
sai sứ sang nhà Minh tạ tội, nói rằng xin đón Thiêm Bình về tôn lên làm
chúa, một mặt gấp rút chuẩn bị việc chống giặc, sai đắp thành Đa Bang
(ở xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc huyện Ba Vì, Hà
Tây); xuống chiếu họp các quan An phủ sứ các lộ cùng các quan kinh đô
bàn kế sách chiến hay hoà. Người thì bảo nên đánh, kẻ lại bàn nên hoà,
riêng Tả tướng quốc Trừng nói: “Thần không sợ đánh nhau, chỉ sợ lòng dân
không theo thôi”. Quý Ly đem cái hộp trầu bằng vàng ban cho Trừng (CM
trang 333, TT trang 305 bản điện tử). Câu nói của Hồ Nguyên Trừng đã trở
thành bất hủ, khái quát một chân lý “mất lòng dân là mất tất cả”. Thế
nhưng có lẽ Quý Ly thưởng cho Trừng vì vế đầu “thần không sợ đánh nhau”
chứng tỏ quyết tâm đánh giặc của Trừng phù hợp với chủ trương của Quý
Ly, mà không lưu ý vế thứ hai “chỉ sợ lòng dân không theo”. Quý Ly chủ
quan cho rằng dân ta vốn có truyền thống chống ngoại xâm, nên sẽ dốc
lòng ủng hộ cuộc kháng chiến của nhà Hồ? Thật sự câu nói của Nguyên
Trừng hàm ý ông không hy vọng cuộc chiến đấu sẽ được dân ủng hộ. Quả
nhiên cuộc chiến đấu của nhà Hồ đã thất bại vì thiếu yếu tố “lòng dân”,
bởi dân đã quá chán ghét sự tàn bạo của Hồ Quý Ly.
Tháng 4 Bính Tuất (1406) nhà Minh cho
người đưa Trần Thiêm Bình về nước, Quý Ly sai tướng lên đón ở Chi Lăng
đánh quân Minh, bắt được Thiêm Bình giết đi, rồi một mặt sai sứ sang
biện bạch việc Thiêm Bình nói dối, xin theo lệ tiến cống như cũ, một mặt
chuẩn bị khắp nơi cho cuộc kháng chiến.
Nhà Minh đã có dã tâm đánh lấy nước ta
từ lâu, nên nhân cơ hội này sai Chu Năng làm đại tướng, Trương Phụ, Mộc
Thạnh làm tả, hữu phó tướng cùng các viên tướng khác chia ra hai đạo
sang đánh: đạo quân của Trương Phụ đi đường Quảng Tây, đạo của Mộc
Thạnh ở Vân Nam theo đường Mông Tự tiến xuống. Bọn chúng biết dân ta
không phục nhà Hồ bèn làm hịch kể tội họ Hồ, tuyên truyền quân Minh sang
để cứu dân Việt, lập lại nhà Trần. Khi đến Long Châu Chu Năng chết,
Trương Phụ thay, sai viết hịch vào những mảnh ván nhỏ thả xuống sông,
quân ta bắt được ai nấy đều bỏ quân Hồ về hàng quân Minh. Quân Hồ thua
phải lui về giữ thành Đa Bang, cuộc chiến ở đây diễn ra khốc liệt, nhưng
cuối cùng thành cũng thất thủ, quân Hồ bỏ chạy về Hoàng Giang. Quân
Minh vào Đông Đô (Thăng Long) cướp bóc, bắt đàn bà con gái, thiến hoạn
nhiều con trai nhỏ tuổi, thu lấy tiền đồng ở các xứ cho chở về Kim Lăng
(tháng 12 Bính Tuất – 1406).
Nhà Hồ bị quân Minh đánh cho tan tác, đi
đến đâu cũng không được ai giúp. Quân lính phần thì hàng giặc, phần thì
bị chết trận hoặc chết đuối, lực lượng ngày một hao mòn:
Tháng 2 Đinh Hợi (1407) quân Hồ thua to ở
sông Mộc Hoàn (Hà Nam), phải rút lui giữ cửa biển Đại An (thuộc phủ
Nghĩa Hưng bây giờ). Hồ Nguyên Trừng đón Quý Ly và Hán Thương từ Tây Đô
đến, lại tiến quân đóng ở Hoàng Giang cầm cự với quân Minh.
Tháng 3 Hồ Nguyên Trừng tiến quân đến
cửa Hàm Tử (Hưng Yên), quân Minh đón đánh, quân Hồ thua, chết rất nhiều.
An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hi Chu bị bắt đã không tiếc lời mắng chửi
Trương Phụ, Phụ sai đem giết.
Bị thua ở Hàm Tử, Quý Ly và Hán Thương
đem liêu thuộc theo đường biển chạy lui vào Thanh Hoá. Ngày 29 tháng 4
quân Minh tiến đánh Lỗi Giang (một nhánh của sông Mã ở Vĩnh Lộc-Thanh
Hoá), quân Hán Thương tự tan vỡ. Ngụy Thức xin hai cha con Hồ tự
thiêu, ông nói “Nước sắp mất, bậc vương giả không chết bởi tay người
khác”. Quý Ly giận chém chết Ngụy Thức rồi chạy vào Nghệ An.
Lúc hai cha con nhà Hồ chạy đến Kỳ La,
có phụ lão ra bái yết, nói “Chỗ này tên là “Ky Lê”, ở trên kia có núi
“Thiên Cầm”, đấy đều là điềm không tốt, xin đừng lưu ở đây” Họ Hồ nổi
giận chém chết người phụ lão ấy. (Quả nhiên sau bị bắt trói ở đây).
Trương Phụ biết Hán Thương trốn chạy vào
Nghệ An, bèn cùng phó tướng Thạnh theo đường bộ tiến quân, phái Liễu
Thăng đi đường thuỷ đuổi theo, đến cửa biển Kỳ La đánh quân Hồ thua to,
bắt được Quý Ly, hôm sau bắt được Hán Thương cùng con là thái tử Nhuế ở
núi Cao Vọng (thuộc Kỳ La). Các tướng tá như Hữu tướng quốc Quý Tỳ (em
Quý Ly) và con là Phán trung đô Vô Cữu, Tả tướng quốc Nguyên Trừng,
tướng quân Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngạn Quang và Đoàn Bồng đều bị
bắt. Những người khác như Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn
và Đỗ Mẫn thì đã hàng quân Minh từ trước. Duy chỉ có Hành khiển hữu
tham tri chính sự Ngô Miễn và viên trực trưởng Kiều Biểu nhảy xuống
nước tự tử, vợ Ngô Miễn là Nguyễn Thị cũng chết theo. (CM trang 337 bản
điện tử).
Nếu cái chết anh hùng của những người
nghĩa khí như Nguyễn Hi Chu, Ngô Miễn, Kiều Biểu, đặc biệt là của Nguyễn
Thị, vợ của Ngô Miễn khiến chúng ta cúi đầu nể phục thì ngược lại thái
độ hèn hạ, tham sống sợ chết của Hồ Quý Ly, một thời từng đứng trên đầu
thiên hạ, tàn ác, coi mạng sống của dân như cỏ rác mà đến khi lâm vào
thế đường cùng lại không dám tự xử, thật dáng khinh bỉ.
Cuộc kháng chiến chống Minh của nhà Hồ
hoàn toàn thất bại. Nhà Minh thống kê các thứ đã thu được: 48 phủ, châu,
168 huyện, 3.129.500 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35.750 trâu bò,
8.865 chiếc thuyền. Tháng 6 nhà Minh đổi An Nam làm Giao Chỉ, lập phủ,
huyện, đặt quan lại, miễn tô thuế trong 3 năm. Đất nước ta rơi vào thảm
cảnh đô hộ của nhà Minh trong hai mươi mốt năm (1407-1428).
V/ KẾT CỤC CỦA HỒ QUÝ LY VÀ NHÀ HỒ – MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ
Theo “Lộ bố Hiến phù”(Bố cáo thắng trận
cùng dâng hiến tù binh) được dâng lên vua Minh lúc bấy giờ thì danh
sách tù binh gồm 22 nhân vật chủ chốt của triều đình nhà Hồ và con cháu
thân thích của Hồ Quý Ly bị giải về Kim Lăng gồm có: Quý Ly và các con
là Hán Thương, Trừng, Triết, Uông; các cháu là Nhuế, Lô, Phạm, cháu nhỏ
là Ngũ Lang; em là Quý Tỳ; cháu gọi bằng bác là Nguyên Cữu, Tử Tuynh,
Thúc Hoa, Bá Tuấn, Đình Việp, Đình Hoàng; Các tướng thần là Đông Sơn
hương hầu Hồ Đỗ, Hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ; các tướng
quân là huyện bá Đoàn Bồng, đình bá Trần Thang Mộng, trung lang tướng
Phạm Lục Tài.
Minh thực lục quyển 71 trang 988 ghi như sau:
“…Thiên tử ngự tại cửa Phụng Thiên, các
quan văn võ quần thần hầu xung quanh, khi nghe viên Binh bộ thị lang
Phương Tân đọc bản văn đến đoạn “Giết vua lấy nước, tranh ngôi với họ
Trần; thay đổi kỷ nguyên”; Thiên tử bèn sai người hỏi Lê Quý Ly rằng “Đó
có phải là đạo của bề tôi không?” cha con Hồ Quý Ly không đáp được. Sau
khi Tân đọc xong, xuống chiếu giam bọn Quý Ly, con là Thương, ngụy
tướng Hồ Đỗ vào ngục, và xá bọn con cháu là Trừng, Nhuế; mệnh ty sở quan
cấp đồ ăn mặc…”. Như vậy theo văn bản này, trừ Hồ Nguyên Trừng và Hồ
Nhuế (con của Hán Thương, nguyên thái tử nhà Hồ) được tha ra, còn lại
đều bị giam vào ngục.
Cương Mục trang 339 bản điện tử có một
số chi tiết: bổ sung “…Sau, Quý Ly ở trong ngục được tha ra, bắt đi thú
thủ ở Quảng Tây; Trừng vì lành nghề chế binh khí, dâng phép chế súng lên
vua Minh, nên được tha ra để dùng”.
Việt Sử Tiêu Án trang 115 bản điện tử
cho biết thêm:”…. Xét trong sử Minh và Toàn Việt thì chép rằng: Quý Ly
bị giam ở nhà ngục, con y là Trừng dâng phương pháp làm súng thần
(công), được chức Thượng thư, Trừng xin ân xá, Quý Ly được tha, rồi sau
mới chết, cùng với lời sử của nước ta hơi khác, vậy lục ra đây để sau
khảo cứu.”
Như vậy có sự khác nhau giữa VSTA và Cương Mục::
-Theo VSTA, do Nguyên Trừng chế được
súng thần công, vua Minh ân sũng ban quan tước làm đến chức thượng thư
(Hồ Bạch Thảo cho rằng chỉ đến Hữu thị lang bộ Công thời Tuyên Tông năm
Tuyên Đức thứ ba – 1428), Trừng xin ân xá cho cha nên Hồ Quý Ly đã
được tha ra.
-Theo Cương Mục thì sau một thời gian bị giam trong ngục, Quý Ly bị bắt đi thú thủ (đi làm lính thú) ở Quảng Tây.
Chi tiết cho rằng Quý Ly bị bắt đi thú
thủ ở Quảng Tây e không đúng vì lúc này tuổi của Quý Ly đã cao (khi bị
bắt đã 72, thì lúc này phải trên 75). Hơn nữa con là Hồ Nguyên Trừng
làm quan trong triều đình nhà Minh, vua Minh tỏ ra ưu ái đối với Trừng
thì việc Trừng xin ân xá cho cha xem ra hợp lý hơn. Có lẽ người bị bắt
đi thú thủ ở Quảng Tây là Hồ Hán Thương cùng đám họ hàng thân thuộc và
quan lại nhà Hồ.
Nhưng dù sao Hồ Quý Ly cũng mang một nỗi
nhục lớn thác xuống tuyền đài vẫn chưa tan, đó là từ tột đỉnh vinh hoa
phú quý, quyền uy tối thượng -chỉ sau 7 năm ngắn ngủi – đã trở thành
tên tội đồ cuả ngoại bang, bị đọa đày trong ngục tù tối tăm lúc tuổi đã
cao, sức đã yếu.
***
Trong tiểu thuyết lịch sử “Hồ Quý Ly”
(xuất bản năm 2006), nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng Hồ Quý Ly như
nhân vật đứng đầu phe cải cách trong triều đình nhà Trần để vực dậy
đất nước đã quá mục ruỗng bởi sự tham nhũng thối nát của bọn quan lại
thủ cựu mà thượng hoàng Nghệ Tông đã bất lực dung túng. Tác giả miêu tả
Hồ Quý Ly với những tính cách đầy mâu thuẫn, đầy phức tạp: vừa là người
giàu tham vọng, độc đoán, kiêu ngạo lại cũng là người biết lắng nghe
những lời khuyên của các bậc hiền triết; vừa là người hết lòng thương
yêu gia đình vợ con, hiếu thuận với các bậc trưởng thượng, mến chuộng
người có tài đức, lại cũng là người độc ác, tàn sát không gớm tay những
kẻ chống đối cản trở con đường đi của mình, kể cả đó là con rể (vua
Thuận Tông). Phải chăng tác giả muốn dùng nhân vật Hồ Quý Ly để minh
chứng chủ thuyết “cứu cánh biện minh phương tiện”? Kết quả tham vọng đã
đạt được của Hồ Quý Ly là gì? Không phải chỉ là cảnh máu đổ đầu rơi
khủng khiếp của phe thủ cựu thất thế mà còn là bi kịch ngay chính trong
gia đình Hồ Quý Ly: Thánh Ngâu, con gái của Quý Ly với Huy Ninh công
chúa, hoàng hậu của Thuận Tông, phải khóc chồng khi tuổi còn quá trẻ; Hồ
Nguyên Trừng, con trai trưởng của Quý Ly, suy sụp tinh thần khi người
yêu của mình, nàng Thanh Mai, con gái nuôi của Trần Khát Chân bị liên
lụy trong vụ mưu sát Hồ Quý Ly bất thành. Tiểu thuyết đã dừng lại ở cảnh
chia tay vĩnh viễn giữa Hồ Nguyên Trừng và Thanh Mai trên bến đò sông
Mã mà không cho độc giả biết thêm kết cục về sau của Hồ Quý Ly và triều
đại nhà Hồ như thế nào. Đây là thiếu sót đáng tiếc hay là chủ ý của tác
giả?
Thực tế qua lịch sử chúng ta thấy Quý Ly
đã lợi dụng sự tin yêu của Nghệ Tông để leo dần lên bậc thang danh
vọng, dùng mánh lới quỹ quyệt để hãm hại người vô tội, hiếu sát tàn bạo,
giết vua, cướp nước, nhưng lại tham sống sợ chết, không có sĩ khí của
đấng anh hùng. Quý Ly còn một tội lớn đối với dân tộc khi để mất nước
vào tay nhà Minh – một vết nhơ lịch sử khó gột rửa – mà phải đợi đến hai
mươi năm sau đất nước ta mới được giải phóng hoàn toàn nhờ tay người
anh hùng áo vải Lê Lợi với cuộc kháng chiến Lam Sơn mười năm trời gian
khổ (1418-1427).
Hồ Quý Ly gieo gió tất phải gặt bão.
Vĩnh Liêm Dalat
Chú thích:
- Làm vua 15 năm (1314-1329) làm thái thượng hoàng 28 năm (1329-1357)
- Năm 1336 vua Chế A Năng từ trần, con rể là Trà Hoa Bồ Đề và con ruột là Chế Mỗ tranh ngôi vua trong 6 năm, đến 1342 Chế Mỗ bị đuổi sang Đại Việt, Trà Hoa Bồ Đề chính thức lên ngôi. 1360 Trà Hoa Bồ Đề qua đời, em của vua Chế A Năng là Po Binasor được triều thần tôn làm vua hiệu Chế Bồng Nga (Che Bonguar) –Theo Nguyễn Văn Huy, “Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam” (nguồn: “Lần theo dấu vết một thời ngang dọc của Chế Bồng Nga “ – Hồ Bạch Thảo) .Từ 1361 đến 1390 Chế Bồng Nga liên tục đem quân tấn công Đại Việt, có khi vào tận Thăng Long, đẩy Đại Việt vào tình thế bị động đối phó, dân tình hết sức thống khổ.
- Nhật Lễ là con của người làm trò tên là Dương Khương. Mẹ Nhật Lễ khi đóng trò vào vai Vương Mẫu trong tuồng “Vương Mẫu hiến bàn đào, đương có thai, Cung Túc vương Dục thấy nàng xinh đẹp nên lấy làm vợ và khi đẻ ra Dục nhận Nhật Lễ làm con. Khi Dụ Tông băng, bà thái hậu đón Lễ lập làm vua. Nhật Lễ tiếm vị chỉ ăn chơi rượu chè dâm dật, lại đang tâm giết bà thái hậu là người đã đưa Nhật Lễ lên ngôi.. Thiên Ninh công chúa cùng một số tông thất nhà Trần lập mưu giết được Nhật Lễ rồi đón Cung Tĩnh Vương Phủ, con thứ ba của Minh Tông đưa lên ngôi, tức Nghệ Tông.
- CM ghi là Cảnh
- Trước đây vua sai hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hóa Châu. Chế Bồng Nga dâng 10 mâm vàng lên vua nhưng Đỗ Tử Bình ỉm đi, cướp làm của riêng, nói dối Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, xui vua đánh, vua giận lắm, quyết chí thân chinh.
- VSTA ghi là Nghiễn
- Lê Giốc bị Chiêm Thành bắt ở trận Đại Hoàng, giặc bắt lạy, Lê Giốc trả lời “Ta là quan của nước lớn, sao phải lạy chúng mày” và luôn miệng chửi chúng. Giặc nổi giận giết ông (1378). Việc tâu lên Giốc được truy phong là Mạ tặc Trung Vũ Hầu
- “Phương” là “Đa Phương”, cũng có nghĩa là vuông, “viên” là tròn, ám chỉ “Cự Luận” (chữ “luận” có chữ “luân” bên cạnh nghĩa là tròn. “Phương Viên Tá Lự” có nghĩa có người phò tá nghĩ giúp mưu kế cả mặt vuông lẫn mặt tròn (theo CM và TT).
- Trần Nguyên Đán dòng dõi của Trần Quang Khải, ông ngoại cuả Nguyễn Trãi
- Đỗ là con Thượng vị hầu Tông, mẹ Đỗ cải giá lấy Quý Ly, Sau Đỗ đổi sang họ Hồ
- Năm 1382 Đa Phương thắng quân Chiêm ở Thanh Hoá được thăng chức Kim ngô vệ Đại tướng quân
- Trần Khát Chân là dòng dõi danh tướng Trần Bình Trọng.
- Hội thề có từ thời nhà Lý tổ chức hàng năm vào ngày mồng 4 tháng tư, vua quan đến đền thờ thần núi Đồng Cổ- Thanh Hoá, họp nhau uống máu ăn thề, đọc lời thề “Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái lời thề này, thần minh giết chết”
- tháng 8 Kỷ Mão – 1399 có tên cướp Nguyễn Nhữ Cái trốn vào núi Thiết Sơn làm giả tiền giấy tiêu dùng. Khi Thuận Tông bị giết, Khát Chân bị chém, tên này mới dụ dân lành được hơn vạn người làm loạn, hoạt động, cướp bóc ở nhiều nơi mãi đến tháng 12 mới dẹp yên được. (CM trang 323,TT trang 295 bản điện tử)
- Ngụy Thức giữ chức ngự sử trung tán triều Hồ Hán Thương
- Chữ “ky Lê” có nghĩa là “trói họ Lê”, “Thiên Cầm” là “đàn trời” nhưng cũng có nghĩa “trời bắt”, ý dân làng không muốn họ Hồ lưu lại đây nên nói trại như thế. Kỳ La thuộc huyện Kỳ Anh, tĩnh Hà Tĩnh;
- Theo Hồ Bạch Thảo “Tìm hiểu thêm một vài chi tiết về tiểu sử Hồ Nguyên Trừng, tác giả “Nam Ông mộng lục”
- Theo Hồ Bạch Thảo, tài liệu đã dẫn.
- Theo Hồ Bạch Thảo, tài liệu đã dẫn.
- CM trang 333 và TT trang 304 bản điện tử cho biết: tháng 9 năm Ất Dậu (1405) Quý Ly thấy mình đã 70, nên ban cho phụ lão các lộ từ 70 tuổi trở lên mỗi người hưởng tước 1 tư, đaà bà thì ban tiền ở kinh thành thì ban tước và ban tiệc rượu. Vậy khi bị bắt (1407) Quý Ly đã 72.
- Theo Hồ Bạch Thảo, tài liệu đã dẫn
Tài Liệu Tham Khảo:
–Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, viết tắt Toàn Thư (TT)
–Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, viết tắt Cương Mục (CM)
–Việt Sử Tiêu Án, viết tắt VSTA
–Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim
–Lần theo dấu vết một thời ngang dọc của Chế Bồng Nga- Hồ Bạch Thảo
–Tìm hiểu thêm một vài chi tiết về tiểu sử Hồ Nguyên Trừng, tác giả “Nam Ông mộng lục”- Hồ Bạch Thảo
-Tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly (bản điện tử) – Nguyễn Xuân Khánh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét