Câu chuyện có thật về luân hồi: Thông linh bảo ngọc
Tác giả: Tiểu Liên
[Chanhkien.org]
‘Bảo ngọc’ mà tôi nói tới không phải là miếng ngọc bội quý giá được đeo
bởi nhân vật Giả Bảo Ngọc trong truyện Hồng Lâu Mộng. Đó là một vật vô
cùng quan trọng ở một trong những kiếp luân hồi của tôi.
Câu
chuyện bắt đầu từ phủ Bảo Định, tỉnh Hà Bắc trong một ngày mùa hè dưới
thời Chánh Đức (1505-1521 sau công nguyên) ở triều Minh. Một ngày, trong
phủ tổ chức một buổi họp chợ lớn ngoài trời náo nhiệt mà thu hút rất
nhiều người mua và người bán. Một lão nhân khoảng 60 tuổi cũng tới khu
chợ. Bà đến từ một gia đình văn nhân và là người có học thức, nhưng sau
này gia đình bà lụn bại dần. Chồng của bà chết 5 năm trước và bà đã mất
liên lạc với con cái, không biết rằng chúng còn sống hay đã chết. Do
vậy, bà phải tự chăm sóc lấy bản thân và thường tới khu phố để mua sắm
vật dụng đã 5 năm nay. Hôm đó là một ngày nắng đẹp, nhưng sau đó trời
bắt đầu đổ mưa phùn. Sau khi mua một vài vật dụng cần thiết, vị lão nhân
vội vã trở nhà bà ở Ngọc Lâm Bảo, một khu ngoại ô cách phủ Bảo Định
khoảng 65 dặm. Trên đường về nhà, cơn mưa phùn chuyển thành cơn mưa rào.
Lão nhân trông thấy một ngôi miếu đổ nát bên đường và bà nhanh chóng
chạy vào bên trong để trú mưa.
Sau
khi lão nhân bước vào trong sảnh ngôi miếu, bà nhận thấy rằng đây là
một ngôi miếu thờ Phật Di Lặc. Không có tăng nhân nào ở bên trong và mọi
thứ đều bị phủ lên một lớp bụi dày. Dường như đây là một ngôi miếu bị
bỏ hoang. Đột nhiên lão nhân nghe thấy tiếng một đứa bé đang khóc trên
chiếc bàn dùng để đựng đồ cúng dường. Bà lần theo tiếng khóc và thấy một
đứa bé trai được bọc trong một tấm chăn. Đứa bé trông thật thanh tú và
khả ái. “Không biết ai đã để quên đứa bé này ở đây nhỉ?” lão nhân tự
hỏi. Bà giở tấm chăn ra và trông thấy một bức thư cùng một đôi ngọc bội
được giấu bên trong. Trong thư viết: “Tôi là một thiếu nữ thuộc một gia
đình danh tiếng ở phủ Bảo Định. Phụ mẫu tôi đã hứa gả tôi cho một gia
đình, do đó tôi không thể cưới người đàn ông mà tôi thực sự yêu. Một năm
trước, tôi có hẹn hò với người đàn ông đó vào ban đêm và tôi đã có mang
sau đó. Tôi vô cùng xấu hổ với chính mình. Tôi không thể về đối mặt với
gia đình, nhưng tôi cũng không muốn trốn đi cùng người đàn ông kia. Tôi
đã quyết định để lại đứa bé trước tượng Phật trong dịp họp chợ lớn [Họp
chợ lớn – ‘đại tập’, trong tiếng Trung phát âm giống với ‘đại cát’ –
may mắn lớn]. Tôi xin những người hảo tâm hãy thu nhận đứa bé này. Hài
tử được sinh vào mùng 8 tháng đông năm ngoái. Tôi đã không được thấy nó
được sinh ra với miếng ngọc bội bởi vì tôi bất tỉnh khi lâm bồn. Nhưng
khi tỉnh dậy, tôi trông thấy miếng ngọc bội trên ngực nó. Đó phải là một
kho báu quý giá. Có lẽ đó là dấu hiệu chỉ ra đứa bé đến từ một nơi rất
cao. Tôi mong nó sẽ được mạnh khỏe và vượt qua mọi tai ương. Tôi đã để
lại một chút vàng bạc làm phí tổn để nuôi nó trưởng thành. Sau khi tôi
viết xong bức thư, có lẽ tôi sẽ gieo mình xuống sông tự vẫn. Chừng nào
đứa bé tìm được một gia đình tốt nhận nuôi nó, tôi sẽ vui lòng nhắm
mắt…”
Lão
nhân bày tỏ cử chỉ thể hiện sự đồng cảm với người thiếu nữ xấu số. Rồi
bà nhặt miếng ngọc bội lên và nhìn nó kỹ hơn. Đây là một miếng ngọc
trong veo và đẹp đến nỗi không có một chút tỳ vết. Nó vô cùng tròn trịa
và hơi lớn hơn đồng xu một chút. Có một cái lỗ tròn ở bên trong nó để
người ta có thể xỏ một cái dây qua và dùng làm đồ trang sức. Sau khi xem
xét kỹ càng, lão nhân nhận thấy có nhiều thứ đang chuyển động và cả các
vị Thần ở bên trong miếng ngọc. “Đây phải là một miếng thông linh bảo
ngọc [1],” lão nhân tự nói với chính mình. Bà bật khóc, bế đứa bé lên
rồi cất miếng ngọc đi. Rồi bà nhìn qua cửa sổ và thấy cơn mưa rào đã
tạnh. Bà nghĩ: “Chiếc chăn này quá mỏng. Nếu ta mang đứa bé ra ngoài
trong một chiếc chăn mỏng thế này, nó sẽ bị cảm lạnh mất. Liệu còn cái
chăn nào lớn hơn và dày hơn không nhỉ.” Và rồi một vệt sáng màu vàng kim
xuất hiện. Một chiếc chăn bay từ trên trời xuống. Nó không quá dày hay
quá mỏng. Nó không cháy khi bị quăng vào trong lửa. Nó cũng không thấm
nước khi bị ném vào trong nước. Ngoài ra, có một ký tự “duyên” bằng
tiếng Trung Quốc được thêu lên đó. Lão nhân nhanh chóng lượm tấm chăn
lên. Lúc ấy bà đã tin rằng đứa bé phải đến từ trên thiên thượng. Với đứa
bé trong tay, bà quỳ xuống rồi khấu đầu trước tượng Phật Di Lặc. Bà bảo
đảm với Phật Di Lặc rằng bà sẽ chăm sóc tốt cho đứa bé. Rồi bà ẵm đứa
bé về nhà của bà ở Ngô Linh Bảo.
Chăm
sóc một đứa trẻ nhỏ thường là một công việc mệt nhọc và đòi hỏi cao.
Nhưng đứa bé rất dễ thương và hiền lành. Nó hầu như không bao giờ khóc
hay la hét om sòm. Nó lớn lên ngày qua ngày. Lão nhân vô cùng xúc động.
Vì dường như đứa bé có một tiền duyên to lớn với Phật Di Lặc, bà đã đặt
tên đứa bé là Thuận Duyên, có nghĩa là ‘tùy theo duyên phận’ ở tiếng
Trung Quốc. Tiểu Thuận Duyên gọi vị lão nhân là ‘bà’. Lão nhân cười vui
suốt cả ngày với nó như thể bà không thể hạnh phúc hơn khi có một đứa
cháu trai. Bảy năm đã trôi qua nhanh chóng.
Một
buổi trưa vào mùa xuân, trong khi tiểu Thuận Duyên đang chơi đùa trong
sân nhà, một tăng nhân đi vào sân với một cái bát khất thực cầm trên tay
phải. Vị tăng nhân trông rất uy nghiêm và có một thần thái vô cùng ngay
chính. Tiểu Thuận Duyên nhận thấy ông rất quen thuộc và tiến đến bên
ông. Nó cầm tay ông rồi dẫn ông vào trong nhà. Nó gọi lão nhân: “Bà ơi,
chúng ta có khách! Chúng ta có khách!” Lão nhân dừng việc nấu ăn và rồi
chạy ra ngay. Khi bà trông thấy một tăng nhân đang khất thực, bà bèn mời
ông vào trong. Vị tăng nhân rất thẳng thắn và cởi mở. Ông ngồi trong
phòng khách rồi nói với bà: “Tôi tới đây để xin một bữa ăn và để nói một
chuyện quan trọng. Bà phải dưỡng dục đứa trẻ thật tốt bằng cách dạy nó
lễ nghĩa để nó trọng đức hành thiện. Bằng cách này, khi thập ác [2] đầu
độc thế gian, tiền duyên với Phật Pháp của nó sẽ khởi tác dụng và lại
dẫn nó đến với Phật Pháp, và cả hai người sẽ được đắc độ khi đức Chuyển
Luân Thánh Vương ở cõi người. Tôi hy vọng rằng bà sẽ chú ý đến những lời
tôi nói. Hãy nhớ lấy! Hãy nhớ lấy!” Lão nhân hỏi: “Đây có phải là thế
giới thập ác trong thời kỳ mạt pháp và Phật Thích Ca Mâu Ni đã đề cập
tới không?” Vị tăng nhân đáp: “Thiên cơ không thể tiết lộ. Bà sẽ biết
khi thời điểm tới. Thật bất ngờ, mẹ của đứa bé vẫn còn sống. Cô ấy đã
trở thành một ni cô và tu hành trong một nữ tu viện Phật giáo. Đừng nghĩ
đến chuyện tìm cô ấy bây giờ vì tất cả sẽ có cơ hội nghe đức Chuyển
Luân Thánh Vương giảng Phật Pháp.” Sau khi nói xong những lời này, ông
bước đi với một bát đựng đầy cơm và rồi mất hút trong tầm mắt.
Vị
lão nhân nghĩ về việc làm sao bà có thể giáo dục Thuận Duyên cho tốt
trong suốt đêm hôm đó và cuối cùng bà nhớ rằng chồng bà biết một tiên
sinh họ Triệu ở phủ Bảo Định, người đã từng là thầy dạy học. Triệu viên
ngoại là người rất hiền đức và có học vấn uyên bác. Bà nhân cơ hội buổi
họp chợ lớn để tới phủ Bảo Định và bà cũng đưa Thuận Duyên đi cùng để
gặp Triệu viên ngoại. Sau khi bà kể chi tiết cho Triệu viên ngoại nghe
câu chuyện về Thuận Duyên kể từ ngày bà nhận nuôi, Triệu viên ngoại đồng
ý dạy học cho Thuận Duyên tại nhà ông ngay lập tức. Kể từ ngày đó,
Thuận Duyên ở cùng với Triệu viên ngoại để được ông dạy dỗ tại nhà.
Triệu viên ngoại dạy cậu bé các kiến thức về kinh điển và lễ nhạc. Trong
thời gian rảnh rỗi, Thuận Duyên giúp các việc lặt vặt cho gia đình
Triệu viên ngoại như là quét tuyết và nhổ cỏ, và được cả ông cùng gia
đình ông quý mến. Khi Thuận Duyên lên 13 tuổi, một bệnh dịch lan khắp
các thôn trang quanh phủ Bảo Định. Lão nhân bị nhiễm bệnh và qua đời.
Trước khi bà qua đời, Triệu viên ngoại đưa Thuận Duyên đến thăm bà. Bà
nhân cơ hội đưa lại bức thư từ người mẹ đẻ của Thuận Duyên, miếng ngọc
bội cùng tấm chăn khác thường cho Thuận Duyên và nói cậu bé đừng bao giờ
để mất chúng. Bà cũng nói cậu bé phải trở thành một người có học thức
và là người tốt. Điều quan trọng nhất là, bà nói với Thuận Duyên rằng
cậu bé phải đắc Pháp khi đức Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế phổ truyền
Pháp và họ sẽ gặp lại nhau lúc đó. Không lâu sau khi họ gặp gỡ, lão nhân
qua đời. Khi Thuận Duyên nghe tin, cậu bé đã phải vượt qua nỗi buồn
này. Cậu bé chôn cất lão nhân trong nước mắt và vái ba vái trước mộ của
bà.
Sau
khi Thuận Duyên trở về từ mộ của bà, Triệu viên ngoại nói: “Con ơi, con
cực kỳ xuất chúng và đã vượt qua ta. Ta biết một cao nhân họ Tăng là
người có học thức cao và rất tài năng. Tiên sinh sống cách đây 100 dặm.
Ta đã quyết định đặt con dưới sự giám hộ của tiên sinh. Tăng tiên sinh
thực ra là một tu sĩ Phật gia. Ông rất tinh thông về thiên văn, lịch sử
và pháp thuật, nhưng ông không phải là một tăng nhân. Thực ra, tiên sinh
có gia đình với vợ và một đứa con gái. Con gái ông ngang tầm tuổi con.
Ông ấy có nhiều điều hơn là một ẩn sĩ sống trong một túp lều tranh. Con
sẽ thấy điều ta nói khi con đến đó. Thực ra, ‘túp lều tranh’ đó còn hơn
cả nhà của ta. Ông ấy cũng có rất nhiều bạn bè. Tại sao con không gói
ghém mọi thứ ngay ngày hôm nay? Chúng ta sẽ xuất phát vào ngày mai.”
Thuận Duyên nói: “Con sẽ không bao giờ quên ơn bác như là người từ tâm
lớn với con. Nhưng sau khi con rời đi, ai sẽ đến quét tuyết và nhổ cỏ
cho bác?” “Con ngốc ơi. Đây là lỗi của ta khi không học đủ rộng để dạy
dỗ con. Để nói với con sự thật, ta cảm thấy rất miễn cưỡng. Ta có một ý
này. Khi con đắc Pháp từ đức Chuyển Luân Thánh Vương vào thời mạt pháp,
con phải nói với ta điều đó để ta cũng có thể đắc Pháp. Con nghĩ sao?”
Thuận Duyên đáp: “Con sẽ làm vậy. Nếu bác không tin tưởng con, hãy bắt
tay để giữ lời hứa.” Thuận Duyên cuối cùng ngừng khóc và cười lên trong
hạnh phúc.
Ngày
hôm sau, tiểu Thuận Duyên và Triệu viên ngoại đi trên một chuyến xe
ngựa đến nhà Tăng tiên sinh. Sau khi họ đến nơi, khi Triệu viên ngoại
sai người ở gõ cửa thì Tăng tiên sinh bất ngờ xuất hiện trên bục cửa và
bái kiến họ. Tăng tiên sinh nói: “Tôi biết ông sẽ đến hôm nay! Thật là
một chuyến đi dài!” “Xin mời vào!” Tăng tiên sinh nói. Khi mọi người an
tọa và uống trà, Tăng tiên sinh giải thích với họ về điều đã xảy ra.
Tiên
sinh nói: “Ngày hôm qua, vợ tôi, con gái tôi và tôi mỗi người đều có
một giấc mơ về miếng ngọc quý. Ông biết rất rõ về gia đình tôi, nhưng có
một điều quan trọng mà ông chắc hẳn không biết. Vào ngày mà con gái tôi
sinh ra, một miếng ngọc bội xuất hiện trên ngực của nó. Sau khi con gái
tôi biết nói, nó nói với tôi rằng đó hẳn phải là một đôi ngọc bội mà
miếng kia thuộc về một người khác. Đêm hôm qua, con gái tôi nằm mơ thấy
một đôi ngọc quý được treo trên hành lang nhà tôi. Tôi thì nằm mơ thấy
hai đứa trẻ đang chơi đùa bên Điện Ngọc trên Thiên Đình. Rồi một giọng
nói âm vang và mạnh mẽ vang lên từ trên thiên thượng: ‘Ta sẽ đi phổ
truyền Pháp nơi cõi người. Những ai muốn nghe đức Chuyển Luân Thánh
Vương giảng Pháp nơi cõi người phải xuống thế giới con người cùng ta!’
Rồi hai đứa trẻ quỳ xuống và phát nguyện xuống thế giới con người. Để
gặp lại nhau nơi cõi người, chúng đã mang theo một đôi ngọc bội để chúng
có thể tìm thấy nhau. Khi tôi tỉnh giấc vào buổi sáng, tôi có một linh
cảm rằng những vị khách quý sẽ tới nhà tôi hôm nay. Ông thấy không? Ông
đã tới đây hôm nay!” Triệu viên ngoại ngạc nhiên đến sững cả người. Ông
khó có thể tin được một điều kỳ lạ như thế có thể xảy ra trên thế gian
này. Tăng tiên sinh hỏi: “Thuận Duyên có mang miếng ngọc theo bên mình
không? Tôi có thể xem nó không?” Thuận Duyên bèn lấy miếng ngọc từ trong
túi và kể cho Tăng tiên sinh nghe về câu chuyện từ khi cậu bé sỉnh ra.
Tăng tiên sinh xem xét miếng ngọc hết sức cẩn thận. Ông la lên: “Nó
giống hệt với miếng ngọc bội của con gái tôi!” Sau khi nghe xong câu
chuyện của Thuận Duyên, ông gọi vợ và con gái ra để gặp họ.
Ngay
khi tiểu Thuận Duyên trông thấy con gái của Tăng tiên sinh, Tiểu Như,
cậu bé hành xử như thể cậu bé cuối cùng đã tìm thấy thân nhân trong gia
đình, người mà đã xa cách trong một thời gian dài. Cậu bé bật khóc và
không thể thốt lên lời nào. Tiểu Như cũng xúc động không kém. Sau khi
quan sát phản ứng của hai đứa trẻ, Tăng tiên sinh tuyên bố: “Không phải
nói thêm câu nào nữa. Kể từ bây giờ, Thuận Duyên là con rể ta. Ta sẽ cho
Tiểu Như thành thân với cậu bé khi nó lớn lên. Khi Thuận Duyên vượt qua
được kỳ thi khoa cử, chúng ta sẽ làm đám cưới. Ta chắc chắn sẽ khiến
Thuận Duyên trở thành một đấng trượng phu có học vấn và đạo đức.” Sau
khi từ biệt Triệu viên ngoại, Tăng tiên sinh bắt đầu dạy Thuận Duyên các
kinh điển của đạo Khổng, lễ nhạc, phương pháp tu luyện của Phật gia và
thậm chí là cả pháp thuật Đạo giáo.
Khi
Thuận Duyên lên 18 tuổi, Tăng tiên sinh cho cậu tham dự kỳ thi khoa cử.
Tăng tiên sinh có hai mục đích. Ông muốn Thuận Duyên đạt được công
danh. Ngoài ra ông cũng muốn Thuận Duyên giúp Triều đình khôi phục lại
lễ nghĩa trong thiên hạ. Thuận Duyên đã vượt qua được kỳ thi hương, thi
hội rồi tới thi đình. Cậu đậu kỳ thi đình ở vị trí thứ hai (bảng nhãn).
Điều đó xảy ra khi Bộ Lễ còn khuyết một chức quan, và cậu được bổ nhiệm
làm chức Lễ Bộ Thị Lang. Trước khi cậu nhậm chức, cậu trở về phủ Bảo
Định thăm lại Triệu viên ngoại và cưới Tiểu Như. Trước khi cậu và Tiểu
Như đi nhận chức vụ, Thuận Duyên nói với Tăng tiên sinh và Tăng phu nhân
rằng: “Nhạc phụ, nhạc mẫu, tại sao hai người không đi cùng chúng con và
tận hưởng vinh hoa phú quý?” Tăng tiên sinh đáp: “Mẹ và cha các con đã
quen sống trong túp lều tranh này. Chúng ta không thích thú cuộc sống
nơi thế gian. Giờ con gái ta đã trở thành vợ của con. Ta mong con sẽ đối
xử tốt với nó. Nhưng ta nghĩ ta cần xây thêm hai túp lều tranh nữa. Có
như vậy, các con mới có chỗ để ở khi các con về. Hãy bảo trọng!” Thuận
Duyên cùng Tiểu Như quỳ xuống và khấu đầu trước Tăng tiên sinh và Tăng
phu nhân. Rồi họ lên xe ngựa và rời đi. Tăng phu nhân rất buồn và không
muốn phải xa họ. Bà lầm bầm với chính mình: “Khi nào thì chúng trở về?”
Tăng tiên sinh nói với vợ một cách lạc quan: “Chúng sẽ trở về. Chúng
chắc chắn sẽ trở về.” Trên đường tới Bắc Kinh, Thuận Duyên và Tiểu Như
đi ngang qua Ngô Linh Bảo, nơi cậu đã từng sống với lão nhân. Thuận
Duyên tu sửa lại ngôi mộ của lão nhân và xây một ngôi đền nhỏ ngay cạnh
đó. Cậu cũng cử người chăm lo cho ngôi mộ cả ngày lẫn đêm.
Tại
Triều đình, Thuận Duyên nhận chức chức Lễ Bộ Thị Lang và đã góp công
lớn trong việc khôi phục lễ nhạc của quốc gia. Không may thay, sau này
khi đạo đức xã hội suy đồi, nhân tâm biến dị, các tham quan đã giành
được quyền lực. Thuận Duyên không thể làm gì hơn. Khoảng mười năm sau,
Thuận Duyên từ quan quy ẩn. Cậu và Tiểu Như trở về ngôi nhà của Tăng
tiên sinh. Ngay khi họ về đến cửa, Tăng tiên sinh nói: “Đúng như ta đã
nói với các con, các con sẽ trở về vào một ngày nào đó. Ta đã xây hai
túp lều tranh cho các con. Tại sao hai con không chung sống với chúng ta
nốt phần đời còn lại? Trong kiếp tới và các kiếp sau, chúng ta sẽ được
gặp đức Chuyển Luân Thánh Vương và đắc Pháp.” Kể từ đó, Thuận Duyên và
Tiểu Như sống trong túp lều tranh mới xây và vui thú điền viên trong
phần đời còn lại.
Lời kết:
Tôi
đã viết bài viết này trong nước mắt. Việc biết được bao nhiêu khó nạn
mà tôi đã phải chịu đựng để đắc được Pháp đã làm tôi cảm kích hơn trước
sự khó nhọc mà Sư Phụ đã phải chịu đựng để phổ truyền Pháp. Các bạn đồng
tu, chúng ta đã không đắc được Pháp nếu Sư Phụ không trông chừng chúng
ta hay nếu chúng ta không chịu đựng rất nhiều đau khổ trong các kiếp
trước! Đây là một tiền duyên cao cả và thiêng liêng mà chỉ đến một lần
từ vạn cổ! Hãy cố gắng tiến bước cùng nhau trong tu luyện và trở về mái
nhà yêu quý của chúng ta.
Cuối
cùng, tôi sẽ nói với các bạn những nhân vật trên là ai trong kiếp này.
Thuận Duyên là tôi. Tiểu Như là một bạn đồng tu mà tôi gọi là “chị gái
thứ hai” của tôi. Vị tăng nhân đó chính là Sư Phụ trong kiếp này. Tôi
không rõ có phải Tăng tiên sinh cũng chính là Sư Phụ trong kiếp đó hay
không. Còn về Triệu viên ngoại và vị lão nhân, họ đều đã đắc Pháp. Tôi
đã gặp “lão nhân” chỉ một tháng trước đây. Ngay khi tôi gặp cô ấy, tôi
cảm thấy rất thân thuộc nhưng tôi không biết loại tiền duyên nào mà
chúng tôi có. Một đêm tôi bước vào một giấc mộng dài. Bài viết này chính
là phần tổng kết những hình ảnh trong giấc mơ của tôi. Người thiếu nữ
đã sinh ra Thuận Duyên và cố gắng tự vẫn đó đã trở thành mẹ của tôi
trong kiếp này, cho thấy không ai có thể thoát khỏi quan hệ nhân duyên.
Khi
thời gian cho phép, tôi sẽ biên soạn và xuất bản những câu chuyện về
những kiếp sống khác của tôi. Để bài viết không quá dài, tôi xin dừng
bút tại đây. Nếu các bạn không tin tôi, hãy chỉ coi nó là một câu chuyện
thần thoại.
Chú thích của người dịch:
[1] Thông linh bảo ngọc: Thứ ngọc quý giá và linh thiêng.
[2] Thập ác: Mười điều ác, điều Phật Thích Ca Mâu Ni đề cập đến thế giới con người trong thời mạt pháp.
Dịch từ:
http://www.pureinsight.org/node/3277
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét