Việt Nam
thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802
Tên sách: Việt Nam
thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802
Tác giả: Tạ Chí Đại Trường
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
Năm xuất bản: 2007
Số hoá: ptlinh, chuongxedap
Chân thành cảm tạ:
- Ông Trương Bửu Lâm, nguyên Giám đốc Viện Khảo cổ.
- Ông Bửu Cầm, Giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn.
- Bà Langlet, Giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn.
- Ông Nguyễn Khắc Kham, nguyên Giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn.
- Ông Nghiêm Thẩm, Giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn, Quản thủ Viện
Bảo tàng Quốc gia.
- Anh Nguyễn Nhã, Chủ nhiệm Tập san Sử Địa.
LỜI GIỚI THIỆU
Khởi nghĩa Tây Sơn là một đề tài luôn luôn hấp dẫn giới nghiên cứu
Việt Nam.
Đây không phải chỉ là một cuộc khởi nghĩa đã đánh đổ được hai dòng họ phong
kiến trị vì trong nhiều thế kỷ ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, mà còn hoàn thành sự
nghiệp chống ngoại xâm đánh lui hai kẻ thù hùng mạnh ở miền nam và miền bắc. Vì
vậy trong những năm đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, khi tinh thần dân tộc
được nâng cao do tác động của các phong trào đấu tranh giải phóng, thì cuộc
khởi nghĩa lại trở thành trọng tâm chú ý của nhiều nhà sử học. Tiếp đến trong
những năm sau chiến tranh chống Pháp, trong xu hướng đề cao vai trò động lực
lịch sử của nông dân, cuộc nổi dậy của những người anh hùng áo vải lại tăng
thêm sức hấp dẫn các nhà sử học Mác xít ở miền Bắc, muốn chứng minh cho một
định đề có sẵn. Thậm chí có tác giả còn đi đến nhận định đây là một cuộc cách
mạng nông dân, hoặc đi xa hơn, cho đây là cái mốc đánh dấu sự hình thành của
dân tộc Việt Nam.
Cho đến nay, trong thư mục của Thư viện Quốc gia Hà Nội, đã có không dưới 60
cuốn sách của các tác giả Việt Nam nghiên cứu về phong trào này, đấy là chưa kể
hàng trăm hàng ngàn bài báo và tạp chí cứ mỗi năm đến ngày Tết nguyên đán lại
nhắc đến chiến thắng Đống Đa lịch sử và đưa ra những đánh giá mới về cuộc khởi
nghĩa.
Nhưng rồi những suy nghĩ cảm tính dần dần cũng lắng đọng để đi đến
những phân tích lý trí. Các nhà nghiên cứu quan tâm hơn đến những tài liệu bổ
trợ ngoài lịch sử chính thống, đặc biệt là những tài liệu dân gian và những văn
bản của thời đó còn sót lại, mong dựng lại một bức tranh chính xác về bản chất
cuộc khởi nghĩa. Phải thừa nhận rằng trong mấy thập niên qua, chúngg ta đã sưu
tập được khá nhiều tài liệu mới về Tây Sơn, từ những văn bia bị bỏ quên, những
gia phả trong các dòng họ, đến những văn thư trao đổi ở các đồn biên cảnh còn
lưu giữ được, và nhất là những câu chuyện kể dân gian rất phong phú. Nhưng lúc
này chúng ta đang đứng trước một thách thức, đó là tài liệu về thời Tây Sơn còn
lại không đầy đủ, nhiều lỗ hổng chưa được chứng minh. Chẳng hạn riêng chuyện
các viên tướng Tây Sơn chỉ huy các mũi tấn công Thăng Long năm 1789, cũng đã
làm tốn bao giấy mực tranh luận mà vẫn chưa làm người đọc thỏa mãn.
Chính vì vậy mà việc tái bản cuốn Việt Nam thời Tây Sơn của Tạ Chí
Đại Trường là một đóng góp mới đối với việc nghiên cứu lịch sử cuộc khởi nghĩa.
Có lẽ đây là một trong những công trình sớm nhất đã cố gắng thu thập tối đa
những tư liệu viết về Tây Sơn của đủ các loại người, từ các sử gia chính thống,
đến những người trong cuộc đương thời, và quan trọng hơn là lời chứng của các
giáo sĩ, thương nhân và bọn phiêu lưu nước ngoài đã có mặt ở Đại Việt trong
những thời kỳ đó (sách xuất bản lần đầu năm 1970 tại Sài Gòn). Tác giả đã làm
công việc khảo cứu một cách có hệ thống, đi từ việc giám định các tư liệu được
sử dụng, xác định tính chân xác của các tư liệu đó, từ tài liệu chữ Hán Nôm,
đến các ghi chép và bút ký của người nước ngoài. Những địa danh bằng chữ Hán
Nôm được xác định lại như Bân Thiết là Mang Thít, Xuy Miệt là Xoài Mút, Thán
Lung là Thang Trông. Những tên người tên đất được người nước ngoài ghi lại
bằng, những cái tên kỳ quặc như Ou doi be, Hoe Hanh Loie, Choya, cua Heo đã
được tác giả đối chiếu, tìm quy luật chuyển âm để dựng lại chính xác hoặc đưa
ra giả định mới. Qua tham khảo một khối lượng tài liệu phong phú mà tác giả đã
dựng lại được cả một giai đoạn lịch sử kể từ khi nổ ra cuộc khởi nghĩa ở Tây
Sơn cho đến khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, kết thúc cuộc chiến tranh hơn
30 năm. Mỗi một sự kiện đều có sự so sánh giữa tài liệu ghi lại của các đại
thần nhà Lê, đến các sử quan nhà Nguyễn, và tham chiếu những ghi chép của các nhân
chứng ngoại quốc và tư liệu Trung Hoa. Tác giả không bỏ qua những tư liệu văn
học và truyền thuyết dân gian để hiểu rõ thêm tình cảm của nhân dân đối với
từng nhân vật và từng sự kiện lịch sử.
Nếu trong lần xuất bản đầu tiên tác giả lấy tên công trình là Lịch
sử nội chiến ở Việt Nam, thì trong khi trình bày, tác giả không dừng lại ở
những xung đột giữa các tập đoàn quân sự Bắc Hà, Nam Hà và quân khởi nghĩa, mà
còn đề cập đền nhiều hoạt động khác của xã hội mà nổi lên trên hết là hai cuộc
chiến chống ngoại xâm vang dội ở Rạch Gầm-Xoài Mút và ở Đống Đa. Vì vậy trong
lần tái bản này, được sự đồng ý của tác giả, chúng tôi đã đổi lại tên sách là
Việt Nam
thời Tây Sơn, mang tính bao quát hơn. Như tác giả đã nhận định trong lời kết là
“Tất cả đã tạo nên một hoàn cảnh sôi sục trong phát triển ở Nam Hà. Địa phương
và trung ương trông chừng nhau ở cả hai bên sông Gianh, nhưng sức mạnh địa
phương miền Bắc đã yếu thế nhiều vì quá khứ 10 thế kỷ kết tập chung sống. Cho
nên biến cố có tên là Tây Sơn lại nổ bùng ra ở Nam Hà và đủ sức mạnh để đảo lộn
tất cả: chiến tranh 32 năm chỉ là cái gút để tóm thâu kết quả của mấy trăm năm
gầm gừ phân tranh, mấy trăm năm biến đổi dần dà trong xã hội Đại Việt ( ...).
Cho nên phải nói rằng những thừa hưởng của quá khứ, của trận chiến kết thúc
phân tranh, đậm hay lạt, nhiều hay ít rồi sẽ hợp với những điều kiện mới nảy
sinh để bắt đầu lịch sử Việt Nam. Đất nước sẽ càng ngày càng phức tạp hơn để
theo những biến động thế giới mà bước vào thời cận đại với Gia Long”.
Việt Nam thời Tây Sơn là mộl giai đoạn bản lề trong lịch sử đất
nước ta. Đó là sự bùng nổ của những xung đột ngấm ngầm bên trong một xã hội
đang trên đà phát triển, để san bằng tất cả mọi trở ngại trên con đường thống
nhất dân tộc, phát triển quốc gia. Mong rằng việc tái bản cuốn sách này sẽ đáp
ứng được nhu cầu của bạn đọc, muốn hiểu sâu thêm về một giai đoạn đầy biến động
của dân tộc, có được cái nhìn đầy đủ hơn về những nhân vật anh hùng cũng như
những kẻ phiêu lưu của một thời kỳ lịch sử.
ĐÀO HÙNG
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
MỞ ĐẦU
Hậu bán thế kỷ XVIII là một trong những giai đoạn rối ren nhứt và
cũng là một trong những giai đoạn hiếm hoi mà người Việt sau khi chịu được cơn
chuyển mình, thấy đất nước lớn mạnh hơn, dồi dào sinh lực hơn ngày trước. Cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn, biến cố tàn Lê, mạt Trịnh, sự phục hồi của họ Nguyễn, tất
cả đầy sinh động, hấp dẫn, khiến cho người đương thời vội vã ghi chép, người
sau kiên nhẫn lục lọi làm nên những tổng hợp chuyên biệt, khoa học mà chúng ta
chú ý ở đây. Hãy kể lấy một vài trường hợp. Thời đại lịch sừ kể trên tràn một
phần khá lớn trong quyển Histoire moderne du pays d’ Annam (1529 - 1820) của
Ch. Maybon1 là “quyển sách có giá trị đặc biệt”, “một công trình có giá trị
trong học giới” như Phạm Quỳnh đã tán tụng.
Không khí phục cổ do báo Tri Tân (1940-1945) đưa tới phía người
Việt, dưới sự thúc đẩy của ảnh hưởng Trường Viễn đông Bác cổ qua các ông Ứng
Hoè Nguyễn Văn Tố, Biệt Lam Trần Huy Bá, Mãn Khánh Dương Kỵ... hợp với không
khí nghiêm trọng của Thế chiến thứ hai nuôi dưỡng ý hướng khảo sát, khiến thấy
xuất hiện giữa những tác phẩm lịch sử khác, quyển Quang Trung Nguyễn Huệ, anh
hùng dân tộc của Hoa Bằng3. Cũng được sửa soạn thành hình trong thời kỳ đó,
nhưng xuất hiện muộn màng trong thời chiến tranh (1945-1954) để nhân dịp biện
hộ cho thái độ soạn giả trước thời cuộc là quyển La Sơn Phu Tử của Hoàng Xuân
Hãn4. Hiện nay theo với sự tạo lập các chứng chỉ Sử học ở trường Đại học Huế,
giáo sư Nguyễn Phương cũng khảo sát biến động Tây Sơn đăng dần trên các tạp chí
Đại học, Bách khoa, Đại học Sư phạm Huế5. Và bắt đầu chúng tôi cũng thu nhặt
tài liệu để khảo sát giai đoạn này trong tính cách toàn thể của nó dưới nhan đề
là: “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802”.
Các thư viện: Thư viện quốc gia, Tổng thư viện và đặc biệt Thư viện
Khảo cổ đã cung cấp tài liệu cho chúng tôi. Các bài chỉ dẫn thư tịch của L.
Cadière và P. Pelliot, E. Gaspardone, Trần Văn Giáp, Huỳnh Khắc Dụng, ở các
sách tổng hợp cẩn thận theo tinh thần khoa học đã giúp chúng tôi dễ dàng trong
khi tìm tòi. Nhưng ở đây chúng tôi vẫn vấp phải một điều mà người trước đã lưu
ý tới: tài liệu khiếm khuyết.
Lê Quý Đôn ngày trước đã thống trách về tình trạng sách vở lưu lạc,
mất mát ở nước ta6. Hay nói như L. Cadière và P. Pelliot7, “không ở đâu mà cái
gia tài kiến thức của một dân tộc lại tan biến nhanh như vậy”. Thực ra, tình
trạng hiếm hoi sách vở, nhất là sử ký, cũng được người xưa công nhận là tại
người ta ít chuyên tâm chú ý sáng tác. Tham tụng đời Trịnh Khải là Bùi Huy Bích
viết: “Nước ta về môn sử ký rất là sơ lược. Chép sử có hai lối, một là kỷ
truyện, hai là biên niên. Lối kỷ truyện thời đã không có rồi, đến lối biên niên
cũng lại thiếu thốn, nhiều chỗ sai lầm... Học giả có biết nghĩ đến cũng nên sửa
sang lại sử, hay là làm lời bàn bạc, chứa vào kho vua để đợi hậu thế”8.
Thế mà khí hậu và chiến tranh tàn hại lại đua nhau phá hoại những
sách vở ít ỏi đã ra đời. Hai tác giả Cadière và Pelliot từ năm 1904 còn có
giọng bi quan huống là chúng ta bây giờ, trải qua chiến tranh tiêu thổ
1945-1954 và 1956 - ?. Bộ Thực lục chính biên đệ nhất kỷ của Viện Khảo cổ thiếu
mất từ quyển 14 tới quyển 32 là một trong những ví dụ. Có những sách không dùng
được hoặc thiếu hụt hiệu quả xác thực: quyển Hoàng Lê nhất thống chí theo bản
dịch của Ngô Tất Tố có những lỗi in thật là tai hại. Tài liệu hiếm hoi dẫn đến
sự cách biệt người và tài liệu: có thể thư viện ở Huế còn giữ những bộ Thực
lục thiếu sót trên9. Vì lẽ đó mà tài
liệu thường phải rải rác khiến chúng ta sử dụng không đều phần sách tham khảo
đã liệt kê.
Nhưng nếu bằng lòng với thực tế thì chúng ta cũng có thể sử dụng
phần hiện có được. Tài liệu gồm có hai phần xét từ nguồn gốc: những giấy tờ, sử
sách của người nước ta để lại hay của các nhân vật Tây phương có liên lạc với
công cuộc truyền giáo, buôn bán với xứ này cung cấp.
Loại thứ nhất, phần thuộc những tài liệu xác đáng nhất, có thể là
các đồng tiền Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung, Cảnh Thịnh, các bộ giáp, khí
giới của tướng binh Chà-và của Nguyễn Ánh (trưng bày ở Hội chợ Sài Gòn, khu
lịch sử 1942), bản chụp ảnh các thư Nguyễn Ánh gởi người Tây phương, chiếu
truyền La Sơn Phu Tủ của Quang Trung, sắc phong thần đời Quang Trung (trưng bày
ở Hội chợ Hà Nội, khu lịch sử, 1940-1941)10... Trong những thứ này thì chính
chúng tôi cũng chỉ thấy tận mắt, trong hình trạng thực của nó, các đồng tiền,
các thư và tờ sắc thuộc Nguyễn Huỳnh Đức về chuyến đi sứ năm 1797 thôi. Tài
liệu này cất trong nhà thờ Đức Nhuận hầu ở làng Khánh Hậu, tỉnh Long An và cảm
giác đầu tiên của chúng tôi khi nhìn thấy là xứ sở đương thời quả thực nghèo
nàn, từ đó mới hiểu rõ hơn nỗi thất vọng của bọn phiêu lưu Olivier, Barizy.
Cũng thuộc loại thứ nhất nhưng tiếp theo những tài liệu kể trước
trong thứ tự cổ điển về tính cách xác thực là các thi văn, lời thuật của các
nhân vật lịch sử (Ngô Thì Nhậm, Phan Huy
Ích, Trịnh Hoài Đức...). Phần nhiều những loại này vì tính cách tiêu khiển,
ngâm vịnh của chúng và một số những bản văn vì hình thức vần đối của chúng vẫn
được kể là tài liệu văn học.11. Nhưng nếu nói như H. I. Marrou12 “mọi thứ đều
có thể là tài liệu”, thì ta vẫn dùng được chúng bởi vì, các văn thần của chúng
ta ngày xưa làm thơ văn là để diễn tả mối xúc động của họ trước sự kiện xảy ra,
nghĩa là tính cách nhân chứng lịch sử của họ vẫn có ngay khi họ để hồn mơ mộng.
Đọc câu thơ Lê Ngọc Hân khóc Quang Trung:
“Mà nay áo vải cờ đào” trong một tiếng kêu thất vọng dài 164 câu,
triền miên nỗi niềm đau xót, ta thấy xúc động trước cảnh tử biệt sinh ly. Nhưng
nếu dừng ở lãnh vực sử học, thì hai chữ “cờ đào” là một chứng cớ hoạt động của
quân tướng Tây Sơn, chứng cớ thấy ở nơi khác, nơi các bức thư của L.M (linh
mục) D. de Jumilla và L. Barizy.
_______________________________________
1. Paris. Lib. Plon. 1919.
2. Thượng Chi văn tập, Bộ
Quốc gia Giáo dục (Việt Nam Cộng hòa) tái bản, tập V.8. Đáng lưu ý rằng
Aurousseau khi phê bình sách của Maybon lại chê rằng ông này không tìm được gì
mới hơn những điều mà L. Cadière đã nói đến hơn 10 năm trước.
3. Gồm 2 tập, tập trên 202
trang (Tri Tân xuất bản, in xong ngày 6-5-1944), tập dưới 310 trang (Trịnh Như
Luân xuất bản, in xong ngày 8-8-1944). (Theo chỉ dẫn của lời tựa lần tái bản
quyển Quang Trung Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc, sửa lại một tập. Sài Gòn, xuất
bản Bốn phương, 1958)
4. Paris, Minh Tân xuất bản.
1952
5. Đã in thành sách Việt Nam
thời bành trướng: Tây Sơn, Khai Trí. 1968.
6. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu
lục, Lê Mạnh Liêu dịch. Bộ QGGD. 1963. 8. Xem dịch văn và nguyên bản lời tựa
Nghệ văn chí, Đại Việt thông sử do E. Gaspardone dịch trong BEFEO. 1934: 7-9.
7. “Première étude sur les
sources annamites de l’histoire d’ Annam”. BEFFO. IV 1904. t. 167.
8. Lữ trung tạp thuyết. Tuyến
Trang Trần Văn Ngoạn dịch trong mục “Tồn cổ lục”. Nam Phong tạp chí, Janv.
1919, t. 52.
9. Hiện nay (1969). Viện Khảo
cổ đã có đủ với ấn bản ở Nhật.
10. Xem Foire exposition de
Saigon, La Sơn Phu Tử, Phụ lục của sách này.
11. Chúng ta thấy khuynh
hướng này rõ rệt khi Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm đem các bài “Dụ Nhị suý quốc âm”,
“Hiểu thị quân dân Qui Nhơn” vào trong quyển Quốc văn đời Tây Sơn (Sài Gòn, Vĩnh
Bảo xuất bản, 1950), Dương Quảng Hàm dùng bài “Dụ tướng sĩ ở Gia Định” để minh
chứng phong trào văn Nôm cuối thế kỷ XVIII, G. Cordier (Morceaux choisis
d’auteurs annamites, Hanoi. 1932, t. 254, 255) chép bài “Hịch dụ các người
trung nghĩa ngoài Bắc thành” của Lê Huy Dao.
12. De la connaissance
historique, Du Seuil, 1962, t. 315.
Đương thời có một quyển lịch sử ký sự là quyển Hoàng Lê nhất thống
chí. Theo giáo sư Dương Quảng Hàm, quyển “lịch sử tiểu thuyết”1 này còn có tên
An Nam nhất thống chí chia làm 7 hồi, chép công việc nhà Hậu Lê từ Trịnh Sâm
đến lúc nhà Trịnh mất ngôi Chúa (1767- 1787). Một bản tục biên (hồi 7 - 17)
chép tiếp từ lúc Chiêu Thống chạy sang Tàu đến khi di hài được đem về chôn ở
Thanh Hoá. Giáo sư thắc mắc “không biết có phải Ngô Du đã soạn 7 hồi sau không”
mà không lưu ý rằng bản tục như giáo sư dẫn có đến 10 hồi. Trong khi đó bản
dịch của Ngô Tất Tố có đến 19 hồi tất cả. Xét theo hơi văn và chủ đích lộ ra,
sách chắc phải do 3 tác giả viết. Ngô Thì Chí chắc viết 7 hay 8 hồi đầu với dụng
ý hiểu chữ nhất thống là gồm-một-về-Lê nhân dịp Tây Sơn diệt Trịnh. Các hồi sau
(đến trang 277 trong bản Ngô Tất Tố) có lẽ của Ngô Du viết trong thời kỳ họ Ngô
có Ngô Thì Nhậm là sủng thần của Quang Trung, giọng văn đầy tính cách thán phục
viên chủ tướng này. Giọng văn từ trang 277 đổi đi gọi Quang Toản là vua “Nguỵ
Tây”, quân Gia Định là “quân của Hoàng Triều” khiến Ngô Tất Tố phải chú thêm là
“dịch theo nguyên văn”. Tác giả đoạn này rõ là một kẻ bề tôi Nguyễn viết ra nối
bản văn trước để cưỡng ép ý nhất thống do Ngô Thì Chí đề ra, quay về phục vụ
cho công cuộc xây dựng sự nghiệp của Nguyễn Ánh.
Bài thơ dài Hoài nam khúc thì thuần nhất hơn. Người ta biết tác giả
là Hoàng Quang và sự việc ghi lại vào khoảng 1774-1775. Khung cảnh là xứ Huế và
đóng vai trò là đám quan liêu thất cơ lỡ vận của Chúa Nguyễn. Sử sự ghi khá rõ:
tính cách chuyên quyền của Trương Phúc Loan, ngày Kinh thành thất thủ, cảnh khổ
nhục trong khung cảnh đói rét chung ở Thuận Hoá... Nhưng đáng chú ý hơn là thái
độ biểu lộ của tác giả khiến ta hiểu được một phần khuynh hướng chung của đương
thời: người mà tác giả trông cậy không phải là Duệ Tông, càng không phải là
Nguyễn Phúc Ánh mà là Hoàng tôn Dương. Lúc nào cũng là Hoàng tôn.
Mười mấy năm sau, bài thơ lại có một tác dụng khác. Nó nung nấu
trong vùng Tây Sơn một khuynh hướng trông chờ ở Gia Định và thành một chất liệu
kích thích tinh thần binh sĩ nơi này. Đến đây ta có một ghi nhận thích thú: giá
trị minh chứng của một tài liệu không phải chỉ ở nội dung đã định rồi, lúc ban
đầu, mà còn ở trong đời sống của nó, ở cách hiểu tài liệu của những người sau
biểu lộ thái độ lịch sử của họ nữa.
Lịch sử trong thời đại này liên quan tới công nghiệp của ông vua
khai sáng triều Nguyễn nên các sử quan chăm chú trước tập khá nhiều. Theo hai
ông Cadière và Pelliot thì Quốc sử quán thiết lập năm 1821, đến năm 1841 viết
xong Liệt Thánh thực lực tiền biên, Thực lục chính biên đệ nhất kỷ gồm 60 quyển
và một quyển thủ. Năm 1852, Đại Nam liệt truyện tiền biên xong và in ngay, còn
Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (33 quyển) thì làm tiếp sau đó, nhưng mãi
đến năm 1889 mới in.
Một quyển sách mà hai tác giả trên khen là tác phẩm quan trọng nhất
về toàn thể lịch sử Việt Nam là Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Dụ sai
làm ra ngày 23-1-1856. Người coi sóc là Tổng tài Phan Thanh Giản, phụ tá có một
Phó Trọng tài, 6 Toản tu góp tài liệu, viết lên, 6 Khảo hiệu xét lại và 6 Đằng
tả viết chữ ngay ngắn. Sách soạn trong 3 năm 1856-1859, dâng lên Tự Đức coi lại
các lần 1871, 1872, 1876, 1878 và có lời phê bên trên.
Sách có lẫn phép biên niên và cương mục. Cương mục là một hình thức
ghi chép lịch sử có tính cách tổng hợp cao hơn phép biên niên. Người ta tóm
thâu ý chính của việc làm trong một tiêu đề (cương, bài cái) rồi thuật tự sự rõ
ràng tiếp theo đó (mục, bài con)2. Trong các sách người ta có những lời chú chỉ
rõ vị trí địa dư hiện tại, nhắc lại các việc liên quan nơi khác.
Lối biên niên đã khiến cho mọi người phàn nàn là làm cho độc giả
khó thấy được mối liên lạc giữa các sự kiện có liên quan mà lại xuất hiện rải
rác trong thời gian. Tuy nhiên chúng ta cũng lưu ý rằng sử quan cũng thường hay
tóm lược câu chuyện sắp kể bằng một câu ngắn. Ví dụ:
“Tháng 8 ngày Đinh Dậu, lấy Gia Định: Vương từ Tam phụ về Nghi
Giang, Phạm Văn Sâm bày dinh từ chợ Điều Khiển đến chợ Khung Dung. Sai Võ Tánh
đi vòng ra đồng tập trận..”.
Đổi lại sự bất tiện kể trên, ta giữ được các việc còn nguyên tính
cách sơ khởi của chúng, mới qua được chủ quan người ghi chép, chưa phải biến
đổi lần nữa qua người tổng hợp. Ở điểm về sự chính xác này, người ta phân biệt
dã sử và chính sử. Người ta hay chê chính sử có nhiều thiên lệch như trường hợp
sử quan nhà Nguyễn gọi Tây Sơn là nguỵ Tây, Tây tặc, gọi các cuộc chiếm đóng
của anh em họ là “nhập khấu” (vào ăn cướp)... Sử quan chỉ chép những sự việc
của Tây Sơn, Trịnh - Lê khi chúng có liên quan tới Chúa của họ thôi. Dã sử sẽ
bổ khuyết vào sự thiếu sót đó.
Nhưng ta không nên quá tách bạch hai nguồn tài liệu để chúng chống
đối nhau về quan điểm, từ đó, về giá trị sự kiện ghi chép. Điều trước nhất là
người viết dã sử cũng là những nhà nho có tài. Chính sử quan nhà Nguyễn cũng
biết bổ khuyết tài liệu mình có được bằng cách tham bác dã sử khi viết về tổ
chức quân chính triều Tây Sơn chẳng hạn4. Họ cũng đã dùng những chữ rất kêu để
khen tài Nguyễn Huệ, cũng không giấu tật xấu say sưa của Nguyễn Văn Thành, tật
ham chơi trong tình trạng chiến tranh của Thành, Duyệt, Huỳnh Đức... Cho đến cả
việc quan quân Gia Định có người đi cướp của dân, sách nhiễu dân chúng, họ cũng
ghi rõ.
Thiếu sót có chăng là do không khí hiểu biết, tình trạng bẩn chật
của kinh tế tạo sự thấp kém kỹ thuật mà các sử gia xưa phải đắm ghìm vào đó.
Thực ra, có những nhà nho như Bùi Huy Bích quá già lại ở trong mạt kiếp của một
triều đại nên làm Tể tướng bị người ta chê trách5, nhưng cũng đã tỏ ra có kiến
thức hơn người. Theo lời Kính phủ Nguyễn Ánh, năm 1740, Bùi làm Đốc đồng đem
quân đến biên giới Ai Lao giữ giặc, đã “bắc thang trèo lên núi xem bài văn bia
chữ to bằng bàn tay, khắc vào đá sâu một tấc, lấy mực in bài bia về”6. Phương
pháp khảo sát thực là mới mẻ, không phải là mới mẻ ở hành động mà là ở ý tưởng
áp dụng: người xưa in chữ ở các bài bia để lấy mẫu viết thiếp (tháp), còn ông
in chữ bia để làm tài liệu như đã chứng tỏ ở luận cứ của ông về việc khảo sử.
Chính ông đã bàn về một cách ghi chép sử sách sao cho chính xác, bao gồm nhiều
sự kiện, bày tỏ được tình trạng sinh hoạt kinh tế, văn hoá trong nước: “Các
việc sau này cũng là cần lắm: tra xét nguồn gốc sông núi, địa danh biến đổi,
nhân vật kẻ hay người dở, phép tắc lúc đổi khi theo, thói dân nơi tốt nơi xấu,
sản vật chỗ ít chỗ nhiều, hay là phép chầu, cách đón các nước láng giềng, chữ
tốt văn hay của các người đời trước, cùng là phép tắc thường dùng của các quan,
nhà dân, những điều ích lợi về việc canh cửi, người lành kẻ ác, chuyện hay
chuyện lạ mà có báo ứng từ trước đến nay, rất nhỏ cho đến tờ buồi vụn vặt, bài
thuốc kinh nghiệm, chia ra từng loại, biến ra từng pho sách để cho người sau có
chỗ mà dò. Làm những công việc ấy, so với nặn nọt các câu vô dụng chẳng ích lợi
gấp mấy mươi ru?
“Đành rằng thế, những nhà trước thuật cũng nên tra xét cho rõ ràng
chỗ nào nghi ngờ thì nên bỏ ngờ, có thể mong rằng sau này có người biết chăng.
Ví bằng ngờ mà cũng cho là tin, nhiều ít có không cũng chỉ nghe theo người ta
nói, như thế không phải là cách làm sách? Các bậc quân tử có thể khen sao
được?”.
____________________________________________
1. Việt Nam văn học sử yếu,
t. 289. Về sự xác định tính chất này, xem lời phản đối của ông Nguyễn Phương ở
tạp chí Bách khoa ngày 14-5-1963. t. 15-22: “Giá trị quyển Hoàng Lê nhất thống
chí”.
2. Dương Quảng Hàm: Việt Nam
văn học sử yếu, t. 264, 350, 351
3. Thực lục q3. 14b.
4. Liệt truyện. 930, 40b:
“kiến ư dã sử, tạp ký…
5. Hoàng Lê nhất thống chí.
t. 153. 154.
6. Chuyện Bia núi Thành Nam
trong mục “Tồn cổ lục”. Nam Phong II, Fév. 1918. t. 106. Chính chúng tôi nhấn
mạnh.
7. Lữ trung tạp thuyết, dịch
trong mục “Tồn cổ lục”, NP. IV. t. 53.
Ý tưởng chỉ dẫn đành rằng khá tiến bộ nhưng cũng cho ta thấy tính
cách vụn vặt, tản mát của phương pháp. Nhất là chủ đích luân lý trong sự biên
chép còn đè nặng ở đây: “người lành người ác, chuyện lạ chuyện hay mà có báo
ứng từ trước đến nay”. Quan điểm của sách Xuân Thu đó chi phối rất nhiều các
nhà viết sử xưa từ sử quan của triều đình tới những nhà nho sáng tác riêng tư
nhưng vẫn có ý định dùng lịch sử làm gương đạo đức cho người đời. Thế rồi đứng
trước sự thử thách của thực tế, giáo lý trung trinh của họ bị lung lay, khiến
họ phải lúng túng. Kẻ theo thì tán tụng triều mới nhưng còn nhớ triều cũ, kẻ
chống lại vì đã trót làm tôi một ông chúa nhưng cũng thấy đối phương có nhiều
khả năng...
Tuy nhiên trở ngại vẫn không hẳn là giới hạn của quan niệm đạo đức
lúng túng đó. Tài liệu đòi hỏi được giải thích. Và lịch sử là sự hiểu thấu tài
liệu của sử gia. Điều này lại còn tăng tiến và tuỳ thuộc theo với kiến thức,
khuôn mẫu tư tưởng mà người đọc sách chịu thu nhận. Chính vì lẽ đó, lịch sử
triều Tây Sơn với các sử quan phải chịu tuỳ thuộc vào hành động của Nguyễn Phúc
Thuần, Nguyễn Phúc Dương, Phúc Ánh. Vậy mà dưới ảnh hưởng của các thuyết cách
mạng Tây phương và những biến động mới đây, nó đã trở thành một triều đại với
Trần Trọng Kim, rồi bỏ chữ “triều đại” còn mang dấu tích phong kiến, nó trở
thành lịch sử một cuộc cách mạng, để nhân tiện tác giả quyển sách đặt chen vào
đó những ý tưởng chính trị giai đoạn bây giờ.
Vì lẽ đó, tuy sử quan trong Thực lục kể chuyện quan chức thuyên
chuyển lòng thòng, chép việc chính trị, quân sự nhiều, ta vẫn có thể tìm được ở
đấy những ý nghĩa kinh tế, văn hoá. Qua sự sắp đặt cai trị Ba Thắc, Trà Vinh,
ban đầu Nguyễn Ánh giết tù trưởng phản kháng Ốc-nha Ốc, cai trị bằng quân tướng
rồi rút lui đi để “phiên liêu” Gia- tri-giáp coi sóc, dẹp loạn rồi cho họ tự
trị một phần qua chính quân đội, một phần qua đám người Trung Hoa ngụ cư, chúng
ta biết được mối tăng tiến tiếp xúc của các nhóm chủng tộc, trình tự Việt hoá
của các nhóm thiểu số vùng Hậu Giang (tiết 14). Qua vụ định cư lưu dân Phú Yên,
Bình Thuận ở Gia Định, ta biết được chênh mực kinh tế giữa 2 vùng thù nghịch...
Có những giải thích phải được chứng thực thêm khi phối hợp với
những tài liệu Tây phương để có tầm ảnh hưởng quan trọng hơn. Tài liệu thuộc
loại này gồm một phần là những hình ảnh, đồ bản... của người Tây phương về
những nhân vật đương thời, ghi bằng những con số chính xác các vị trí sông biển
trong xứ. Nhờ có thói quen làm việc đúng đắn của họ, ta biết được hình ảnh
trung thực của cậu bé Hoàng tử Cảnh non trẻ mà vẫn làm dáng oai nghiêm, khuôn
mặt một Nguyễn Phúc Ánh rắn rỏi rõ ra của một vị vua từng trải phong sương,
khuôn mặt một Bá-đa-lộc đầy tự tin và đáng chú ý vì hoàn cảnh hơi khác lạ là
hình dáng một Chaigneau có vẻ Việt Nam hẳn đi với chiếc khăn quấn đầu, bộ áo
quần rộng nhiều nếp, thắt chẽn ngang lưng và chân quấn xà cạp, đi đất. Ta thấy
được các bản đồ vụng về vẽ của Thi Nại, cửa Thuận An của L. Barizy kề bên các
bản đồ khá chính xác do J.M. Dayot cung cấp tài liệu. Một sự phối hợp nhỏ bé
của các tài liệu ta và Tây xuất hiện trong đồ bản thành Diên Khánh có hình thức
một công sự Vauban mà bên góc lại ghi 4 chữ Hán “Diên Khánh đại đồn”.
Vì sự có mặt của giáo sĩ ở khắp nơi, của những nhà buôn, lính tráng
Tây phương trên đất nước này mà chúng ta có thêm một lô những tài liệu gồm
những bức thư kể cho nhau nghe về tình hình trong, ngoài nước, nhận xét của họ
về những nhà cầm quyền bản xứ, về tương quan giao tiếp giữa chính quyền, dân
chúng bản xứ và người ngoại quốc. Các giáo sĩ Phăng-xi-cô: Diego de Jumilla,
J.M. de Castuera, Ginestar..., thương nhân Chapman... đã làm nhân chứng cho
những ngày đầu Tây Sơn khởi nghĩa, những ngày lao đao của Duệ Tông, rồi những
ngày đầu phục hưng của Nguyễn Ánh. Các giáo sĩ De Gire, Serard, Ceram... ở vùng
Trịnh, Labartette, Doussain ở vùng Tây Sơn, Lelabousse, Lavoué, J. Liot - không
cần kể tới Pigneau - và các tướng Olivier, J.M. Dayot, L. Barizy... ở vùng
Nguyễn đều làm đầy đủ nhiệm vụ quan sát với thói quen đòi hỏi tính cách xác
thực và với sự tò mò được kích thích thêm vì thấy gì chung quanh cũng lạ, cũng
mới. Giá trị chứng nhân được ghi nhận ngay lúc đương thời: Nguyễn Ánh sai
Olivier viết thư cho người đại diện các phái đoàn Truyền giáo là Letondal ở
Macao đã lâu để xin dò xét về chi tiết cuộc giao thiệp hoà bình hay chiến tranh
giữa Tây Sơn và nhà Thanh vì những tài liệu do ông này cung cấp thì “chắc chắn
hơn từ những nơi khác đưa đến”.
Chuyện họ ghi lại thường nhiều chi tiết. Điều đó có một phần là do
họ có những tiếp xúc cá nhân trong những vụ liên quan đến họ. Lelabousse,
Pigneau, Lavoué... ghi rất rõ hành vi, cử chỉ của Hoàng tử Cảnh lúc mới về,
thay đổi như thế nào lúc lớn lên và sự xung đột giáo sĩ - nho sĩ trong triều
một cách tỉ mỉ, chân xác trong khi sử quan chỉ nhắc nhở bên lề vụ chống tăng
chúng rằng: “Nghe Ngô Tòng Châu bài bác tả đạo, Bá-đa-lộc cũng ghét”, hay vụ
Tống Viết Phước bị cách chức vì thường “hay nói hỗn với Bá-đa-lộc” nhưng quên
luôn ý định cải giáo của Hoàng tử.
Sự tỉ mỉ còn từ quan điểm nhận xét của nhân chứng nữa. Ta thấy sử
quan cũng đã tỉ mỉ trong việc liệt kê quan tước, thuyên chuyển chức vụ, chăm
chú trong khi ghi chép lời vàng ngọc của vua họ. Trong khi đó, L.M. Jumilla tỉ
mỉ khi kể cuộc khởi loạn, không lưu ý đến chính, nguỵ, Chapman cho thấy tình
trạng lúng túng của nền kinh tế Tây Sơn qua sự vuốt ve thương nhân này của
Nguyễn Nhạc, qua cảnh tàn phá ở Hội An kéo theo sự biến mất lớp người Hoa làm
trung gian buôn bán với bên ngoài. Các giáo sĩ vùng Trịnh khiến chúng ta lưu ý
đến một tầng lớp thương nhân các lái ở Thanh, Nghệ, xứ “cậy thế, cậy thần”,
vạch rõ sự cấu kết của một thứ thương ban không chính thức với văn, vũ, giám
ban của họ Trịnh.
Nhưng không phải những tài liệu này không có khuyết điểm. Những
khuyết điểm này chính là bề trái của điều mà ta khen là ưu điểm. Đứng ngoài một
khuôn mẫu văn hoá, người Tây phương có những nhận xét khách quan, nhưng đồng
thời, họ cũng bị bó trong những thành kiến sinh ra vì giáo dục đã hấp thụ được,
nên những thiên lệch trong phán đoán lại xảy ra. giống như bề tôi Tây Sơn khinh
bỉ gọi người Tây phương là “những xác chết trôi từ biển Bắc xuống”, các giáo sĩ
cũng chê trách những tay phù thuỷ, gọi đạo Phật là “đạo Thần tượng”, lễ Văn
Miếu, tục thờ cúng tổ tiên là “dị đoan, mê tín”. Họ không ngớt lời dài dòng ca
tụng một ông Hoàng hứa cải giáo, một ông Giám quân tỏ thiện ý với Bá-đa-lộc
trong khi họ đả kích mạnh những nho sĩ chống đối lại họ là những Sa tăng tranh
đấu vì tước vị, quyền lợi mà không thấy trong đó một chống đối vì lý tưởng, vì
ý thức hệ. Đó là chưa kể họ cũng theo thời mà gọi Tây Sơn là “bọn phản loạn”,
“bọn vô đạo”, “tên bạo chúa”...
Một khuyết điểm nữa cũng do nơi tính cách ngoại quốc của họ. Họ
quan sát, ghi trung thành sự việc - tuy qua lăng kính văn hoá của họ - kiểm
điểm được ngày tháng chính xác mà không làm sao ghi đúng được tên người, tên xứ
nên có khi bỏ luôn không thèm nói tới. May mắn là khi nhắc về một người có
thành tích, họ chỉ tên bằng cách nói vòng quanh đến công việc của những người
này nên ta cũng dễ biết: ví dụ như khi L. Barizy nói đến một ông Giám quân từng
qua Pháp (Phạm Văn Nhân), ông tướng thuỷ quân trước kia theo Tây Sơn (Nguyễn
Văn Trương). Còn ngoài ra là những tên người kỳ quái: Ou doi be, Hoe Hanh Loie,
Noe Hau Loée, Dou Doue Cane, Bahaa, les Sang leys (lính của Lý Tài), những tên
đất tức cười: Dou hau, Choya, ong Datte, cua Heo...
Để chỉ định người, vật họ đã dùng những chữ không tương đương vì
thế có nghĩa hoặc thiếu sót, hoặc dư thừa. Những người Pháp dùng chữ “oncle
maternel du roi” để chỉ một viên tướng tài ba của Tây Sơn (ta đoán là Trần
Quang Diệu) mà không lưu ý rằng với sự minh định quá tỉ mỉ trong tông tộc Việt
Nam xưa, chữ đó có thể chỉ từ Bùi Đắc Tuyên sang Phạm Văn Sâm, Phạm Văn Hưng
đến Trần Quang Diệu, ông dượng của Cảnh Thịnh (bà con qua Bùi Thị Xuân, nếu có
thể gọi là bà con vì Bùi Đắc Tuyên là anh em cùng cha khác mẹ với Phạm Hoàng
hậu, mẹ Cảnh Thịnh). Thấy những tên to lớn “Tây dương dạng thuyền”, “Đại hiệu
thuyền”, “Hải đạo thuyền”, sử quan dùng mà không tả ra, ta muốn tìm ở các tài
liệu Tây phương để rõ hơn thực lực thuỷ quân Nguyễn Ánh, thì lại không khỏi ngơ
ngẩn trước các tên: frégate, corvette, chaloupe canonière, demi-canonière...
lẫn lộn với Thao, ghequienne... trong các bức thư.
Nho sĩ và Tây nhân thường không chú ý lắm hoặc ghi sót những câu ca
dao, truyền thuyết của dân chúng. Có khi loại tài liệu này xuất hiện dưới hình
thức những sấm ký có mục đích “tuyên truyền chính trị”, nói theo lối bây giờ.
Chẳng hạn như câu:
Đầu cha lấy làm chân con,
Mười bốn năm tròn, hết kiếp thì thôi.
Hay:
Cha nhỏ đầu, con nhỏ chân,
Đến năm Nhâm Tuất (1802) thì thân chẳng còn.
[Chữ “tiểu” trên đầu chữ “quang” (trung) xuất hiện dưới chữ “cảnh”
(thịnh)].
Có khi là một ước mơ thốt nên lời, chứng tỏ được chuyển biến tâm lý
trong dân chúng:
Đục cùn thì giữ lấy tông (tên Trịnh Khải),
Đục long, cán (Trịnh Cán) gẫy còn mong nỗi gì.
Có khi là lời ghi nhận sự kiện, một sử sự ngắn, trống trơn hoặc bao
gồm cả nguyên nhân, kết quả:
- Binh Triều: Binh Quốc phó; Binh ó: Binh Hoàng tôn.
- Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần.
- Sự này chỉ tại Bà Chè (Đặng Thị Huệ),
Cho Chúa mất nước, cho nghè làng xiêu.
____________________________________________
1. Văn Tân, “Cách mạng Tây
Sơn”, Hà Nội. Văn Sử Địa xuất bản, 1957.
Nguồn tin từ dân chúng tuy mơ hồ và lẫn lộn cả pháp thuật vì tính
cách thần thánh hoá do óc tôn sùng của họ dựng lên, nhưng ta cũng không thể từ
đó mà tước bỏ, không công nhận phút sự thực nào. Về việc Nguyễn Nhạc tự ngồi
vào cũi để chiếm thành Quy Nhơn trong tay Tuần vũ Nguyễn Khắc Tuyên, có người
như ông Nguyễn Phương1 nghi ngờ và bài bác hẳn. Việc này Cương mục (144. 22b)
có chép và Chính biên liệt truyện thì ghi lại bằng chữ nhỏ. Liệt truyện viết ra
xây dựng trên các tài liệu lấy ở sách vở cũ đã đành mà còn thu nhặt ở các gia
phả, tin tức trong dân chúng nữa2. Việc Liệt truyện viết bằng chữ nhỏ không
phải là tỏ ý hoài nghi tính cách xác đáng của nguồn tin nhưng là ghi thêm một
lời nói cho dồi dào, cho xác thực hơn câu chuyện như chính sử quan đã chú về
việc “khuyết họ”, về địa điểm đích xác lúc họ viết sách. Có thể Liệt truyện
nhặt được câu chuyện Nhạc chui vào cũi ở Bình Định vì dư luận truyền thuyết còn
mạnh tới nỗi cuối thế kỷ XIX một người Pháp tới xứ này còn nghe đồn về chuyện
ấy3. Sự thực là mưu đó có thể đem ra dùng thực như những mưu cướp thành có nhan
nhản trong truyện xưa, với ai ngồi trong
cũi không biết nhưng Nguyễn Nhạc ở địa vị chủ tướng thừa hưởng sự thán phục gan
dạ đó từ dân chúng. Dân chống đối vốn có những hành động bất ngờ mà luận lý
thông thường không thể bàn tới được.
Chính từ những nguồn tài liệu khác nhau đó mà chúng tôi phối hợp
với những nhận xét riêng tư để lập nên quyển sách.
Phải nhận rằng công việc đã nhẹ bớt một phần: phần phê bình ngoại
diện tài liệu, về xuất xứ và điều kiện khả tín của nó. Điều này có nguyên nhân
là giai đoạn lịch sử tương đối gần cận, sách vở sáng tác hoặc có cơ quan chính
thức như Quốc sử quán in ra, hoặc dễ dàng xác định tác giả, thời gian sáng tác
như Hoài nam khúc. Mặt khác, thời kỳ này, như đã nói ở đầu, kích thích được óc
tìm tòi của học giả. Về phía người Pháp, thời kỳ này với sự can thiệp của
Bá-đa-lộc và bọn phiêu lưu Tây phương ở Gia Định, như là một chứng minh cho
lòng tốt của “mẫu quốc” với thuộc địa, hay đứng đắn hơn, là sự kiện đánh dấu
kéo dài sự thành lập đế quốc Đông Pháp lùi về trước trên dưới 100 năm, một giai
đoạn mà sự tiếp xúc Đông - Tây, rụt rè từ trước đó mấy trăm năm, bỗng trở nên
mạnh mẽ, mật thiết hơn. Họ gia công tìm tòi tài liệu, hình ảnh, thư tờ. Chúng
ta có hình ảnh xưa cũ trong tập Iconographie historique de l'Indochine của P. Boudet
và A. Masson. Chúng ta có các thư từ trong Correspondance générale (Paris
1906-1907, E.J.Vrill) của H. Cordier, 3 tập Histoire de la Mission de
Cochinchine của A. Launay mà ta dùng tập 3 (1925) rất nhiều... Một tài liệu đưa
ra dù ít ỏi vẫn được biện chính kỹ càng về giá trị xác tín cũng như về nội dung
sự kiện: chúng ta hãy xem việc làm đầy tính chất khoa học của L. Cadière khi
đưa ra những bức thư Nôm của Nguyễn Ánh.
Về phía người Việt, chiến thắng Đống Đa như là một chứng minh trong
thời kỳ ngoại thuộc (Pháp thuộc) về tính chất quật cường của dân tộc; cuộc khởi
nghĩa Tây Sơn có dáng một cuộc khởi nghĩa của dân chúng, quyến rũ, dễ say mê
trong thời kỳ tư tưởng cách mạng, dân chủ lôi cuốn con người. Được đào luyện
trong lò khoa học Pháp, một số học giả tiếp tục truyền thống cũ, đi về các nơi
thôn dã sưu tập tài liệu, cung cấp cho đám quần chúng ưa men say ái quốc quá
khứ oai hùng của dân tộc, dĩ vãng phức tạp, dồi dào sinh lực của quốc gia.
Nhưng phải nên nhận rằng trên bước đầu chủ quan đó, tinh thần khoa học vẫn có
để chứng minh giá trị của tác phẩm.
Việc tìm lại sự thực lịch sử căn cứ vào sự đối chiếu các loại tài
liệu tìm ra đó. Phương pháp luận giáo khoa vẫn bảo ta rằng một tài liệu được
chứng bày ở nơi các tài liệu khác xuất xứ thì được công nhận là đúng. Song một
đòi hỏi khắt khe về nguyên tắc như vậy không bao giờ áp dụng được vì những căn
cứ luận lý chung và tâm lý người chứng. Hơn nữa nguyên tắc đòi phải có sự đồng
ý của các tài liệu khiến cho sử sự trở nên nghèo nàn thực chất hơn5. Đằng khác,
như ở trường hợp tập sách này, tài liệu có khi chỉ một, hay cùng một loại của
người cùng phe. Từ đó, người ta nêu ra một phương pháp xét định như sau:
“Khi chúng ta đứng trước một tài liệu, một người chứng, điều quan
tâm lớn của chúng ta không phải là tự hỏi xem có thể đem đối chiếu với những
thứ khác không (thực ra... (...) chứng cớ hầu như luôn thuộc cùng một loại,
cùng nội dung, cùng khuynh hướng), không phải là xem thử người chứng có muốn
lừa ta không..., nhưng trước hết là phải hiểu xem hắn ta có hiểu những gì hắn
nói với chúng ta hay không (hay là nếu đó không phải là một chứng cớ cố ý mà là
một chứng tích tài liệu dính líu tới thì phải xem thử hắn ta trình bày ra được
không), đến mức nào thì hắn ta hiểu hay đã trình bày ra, đến độ chính xác nào,
nghĩa là về sự dồi dào phức tạp sâu sắc mà hắn ta phản chiếu, ghi nhận, từ đó
đã chuyển cho chúng ta sự thực tế nhị của con người mà chúng ta muốn nắm lấy”.
Bằng vào thái độ rộng rãi đó - rộng rãi sau khi thấu suốt tính cách
phức tạp của vấn đề, chứ không vì không giải quyết được mà dễ dãi, buông thả -
một tài liệu đơn độc có thể đứng tạm để người ta đào sâu ý nghĩa nội tại của
nó, hay qua khả năng của người chứng. Lúc bấy giờ mớ kiến thức tổng quát hay
chuyên môn của các khoa học bàng phụ sẽ giúp ích ta rất nhiều để cho tài liệu
thêm vững vàng giá trị. Ví dụ sử quan kể chuyện Nguyễn Ánh gặp nước ngọt giữa
biển như là một bằng cớ về đế mệnh của ông ta, Nguyễn Văn Thành cũng có nhắc
tới bằng chữ “hải lễ” (nước ngọt ở biển) trong bài “Văn tế trận vong tướng sĩ”
đọc ở Bắc thành cuối năm 1802. Nhưng tài liệu gồm lại chỉ là của một phe: bề
tôi Nguyễn Ánh. Chứng cớ đã đơn độc lại khoác thêm cái vỏ huyền hoặc như có
dụng ý bày ra để lôi kéo ông Trời về phe mình. Bỏ đi chăng? Không, sử sự vẫn có
thật duy trình độ hiểu biết của sử quan không tới, mới giải thích theo một lối
vừa dễ dãi vì có sẵn, vừa có lợi cho họ thôi. Dùng một mớ kiến thức về địa lý
thiên nhiên, nhìn vào địa điểm lênh đênh (từ cửa Ma Ly đi ra), xét lưu lượng
sông Cửu Long là ta có thể hiểu rõ sự kiện ngay.
Mở rộng nguyên tắc xét đoán tài liệu đã xong, ta phải đi sâu vào
chi tiết. Trong những khảo luận đã thành, những kê cứu của người Pháp, có khi
phải bỏ lơ những chi tiết về tên người, tên đất để chỉ chú ý tới sử sự vì người
ta cũng gặp phải những xa lạ khó giải quyết như người trước. Về phía các soạn
giả Việt, tên người tên đất lại có vẻ quen thuộc quá nên không chú ý tới vấn đề
nêu ra, nhất là khi vấn đề không hẳn dễ giải quyết.
Tuy nhiên, đặc tính của đối tượng sử học là tính cách độc nhất
trong thời gian, với những người có tên họ riêng tham gia, nơi một địa điểm có
thực. Cho nên phải giải quyết vấn đề trong chừng mực và phương tiện có được.
Tên họ các tướng Gia Định nhiều lúc còn phải tìm mới ra. Vì sử quan sau này thì
chép cả tên lẫn họ, nhưng thư từ, sắc chỉ đương thời chỉ kêu tên tước mà thôi.
Có may chút ít là khác với triều Lê và về trước, chức tước Nguyễn được hợp bằng
tên và một tính từ thành một danh xưng có ý tốt đẹp như Chấn Võ hầu Nguyễn Văn
Chấn (Vannier), Tĩnh Thành hầu Ngô Nhân Tĩnh, Đức Nhuận hầu Nguyễn Huỳnh Đức.
Thế mà điều này còn làm cho L.M. Cadière tuy biết trước, vẫn tưởng Khiêm Quang
hầu là Nguyễn Văn Liêm mà người ta đã viết lộn khi sao lại (謙 và 廉) và phân vân không biết Quý Ngọc hầu, Long Chính hầu ai là Phạm
Văn Nhân6. So với Thực lục, Liệt truyện, tìm hiểu hành động những người can dự
đến, ta biết Khiêm Quang hầu là Nguyễn Văn Khiêm, Quý Ngọc hầu là Ngô Công Quý
và Long Chính hầu là Nguyễn Long.
Thế còn tránh sao được những lầm lộn về phía Tây Sơn, nguỵ triều!
Thực Lục, Liệt truyện đầy rẫy những lời chú “khuyết tính” (thiếu họ). Nguyễn
Trấn của Trịnh Hoài Đức, Đặng Văn Chân, Đặng Văn Chấn, Nguyễn Văn Chấn của sử
quan, Ngô gia văn phái là một. Tên người cũng bất nhất trong cùng một xuất xứ
của sách: Phạm Văn Hưng, Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Hưng. Tên Chân hay Trấn sai
lạc là do giọng đọc, khó mà có thể nói tên nào là trúng. Nhưng họ Nguyễn thì
sai là chắc vì ta nhớ tới thói quen cải họ theo dòng vua ngày trước. Giữa Phạm
Văn Hưng và Phạm Công Hưng, ta lấy tên Phạm Văn Hưng vì chữ “công” có ý nghĩa
tôn trọng hơn là ý nghĩa một chữ lót trong khi những người đồng họ giữ địa vị
quan trọng (chắc xuất thân từ phía ngoại Quang Toản) đã có tên là Phạm Văn Sâm,
hay trống trơn: Phạm Ngạn. Tên của những người chưa được xác định đành phải
chịu viết theo thói quen đã thành trong khi chờ các chứng cớ khác để quyết định
rõ ràng hơn. Trường hợp Phạm Văn Sâm là một may mắn. Tên viên Thái bảo của
Nguyễn Lữ này rất ít khi được đọc là Sâm mà vẫn được gọi là Tham, không chút
phân vân nào giữa hai lối đọc cho cùng một chữ 寥. Thư của G.M (giám mục) Labartette ở vùng
Bố Chính gởi ngày 23-7-1788 khiến ta bỏ thói quen để thích nghi với chữ mới.
Trường hợp của Vũ Văn Nhậm cũng vậy Sử quan nhà Nguyễn phân vân giữa hai tên
Nhậm 任 và 仕 Sĩ của người con rể Nhạc. Không có chữ
“Chuong Nha” (Chưởng Nhậm) của các giáo sĩ thì ta còn lầm lâu. __________________________________________
1. “Những bước đầu của anh em
Tây Sơn”, Đại học, tháng 4-1962, t. 336.
2. Cadière và Pelliot cho
biết một viên quan đang (1904) thu thập tài liệu để viết quyển Liệt truyện đệ
nhị ký. Chú ý rằng Hoàng Lê, nơi mà Cương mục và Liệt truyện thường lấy tài
liệu cũng có ghi chuyện này.
3. E. Navelle. “De Thinat à
Blá”, Excursions et Reconnaissances, XIII, 1887, t. 142. Vì tinh thần địa
phương một phần lớn, xứ sở này còn giấu con chúa Nguyễn Nhạc tới đời Minh Mạng
mới bị phát giác (Liệt truyện q30, 55b). Cho đến hồi Mai Xuân Thưởng chống
Pháp, người ta còn ghép tội ông này mưu đồ phục nghiệp Tây Sơn. Thành kiến tất
đã góp phần vào việc gìn giữ sự thật ban đầu.
4. Tây Sơn có rất nhiều sáng
kiến đã đem áp dụng trên chiến trường gây bỡ ngỡ cho địch quân của họ: các trận
yếm kích, bối thuỷ, các mẹo lừa.
5. H. I. Marrou. De la
connaissance historique. 1. 128-133.
6. Chú thích bản dịch bức thư
Nôm thứ tư trong loạt tài liệu đã kể.
Địa danh mới còn gây nhiều
lôi thôi hơn nữa. Ông Aurousseau khi phê bình Ch.B. Maybon đã chỉ trích rằng
ông này không lưu ý đến khoa học địa lý lịch sử để viết lịch sử Việt Nam cho
chính xác hơn. Ông còn có nhã ý chỉ cho Maybon một số sách địa lý Việt, Hoa để
kê cứu1. Thực ra vấn đề không dễ dàng như ông tưởng. Lê Quý Đôn đi sứ Tàu bị
người ta hỏi vị trí tuỳ thuộc của một địa điểm xưa mà không trả lời được. Phạm
Đình Hổ kể lại chuyện đó để làm bằng chứng cho công trình tìm tòi của ông về sự
thay đổi duyên cách, địa lý.
Đằng khác, địa danh cũng không được ghi trong sử sách như tên gọi
thông thường: các làng Mọc, làng Tó... ở Bắc đều có tên “chữ” khác. Thế mà sử
sách lại viết bằng chữ Hán để ghi nhưng
âm Nôm, tất có sự sai lạc khó hiểu, nhất là khi sự chuyển âm lại không theo một
tiêu chuẩn nhất định theo thói quen viết chữ Nôm.
Có những địa danh được phiên âm bằng những chữ Hán đọc gần cận: Bân
Thiết ..?.. 切 là Mang Thít,
Phan Thiết, Xuy Miệt 吹 蔑 là Xoài Mút, Trà Luật 茶律 là Trà Lọt, Mỹ Thu 夷 秋 là Mỹ Tho... Có những địa danh phải được dịch ra mới hiểu. Lam
Kiều 藍 嬌 là Cầu Chàm (Bình Định), Lộ Cảnh giang 鷺 勁 江 là sông Cổ Cò
(An Xuyên), Tam Phụ 三 埠 là Ba Giồng, Giá Khê 架 溪 là Rạch Giá. Có khi sự ghi nhận địa danh thật bất ngờ: Thán Lung 炭 籠 thật vô nghĩa khi ta muốn dịch ra, mà thực không kết quả khi ta
muốn dò âm gần cận. Đó là địa điểm ấp Thang Trông do sự kết hợp của một chữ
dịch nghĩa theo giọng miền Nam và một chữ Nôm lạ (lung tín đọc là trông tin).
Khó khăn càng đi sâu càng hiện ra. Một vài chữ là một trường hợp
khác nhau. Âm Hán không có vần R nên Bà Rịa phải viết là Bà Địa, Hà Riêu là Hà
Liêu, nhưng Đồng Lam nếu không tìm được địa điểm Đồng Chàm th có phải gọi là
Đồng Ram như sông Xích Ram ở Phước Hải bây giờ mà sách viết là Xích Lam? Có
những khó khăn gây ra chính vì thói quen không quy định một chữ có nghĩa đích
xác, dùng trong những trường hợp nhất định (có lẽ bất cứ dân tộc nào cũng vấp
phải). Bởi vậy, bắt đầu bằng chữ “hòn” mà các địa điểm Hòn Đất, Hòn Chông (Hà
Tiên), Hòn Khói (Khánh Hoà) lại ở trên đất liền, trong khi hòn Tre, hòn Thổ
Châu (Nam Phần), hòn Ngang, hòn Đất (Bình Định) lại là những hòn đảo, làm sao
người ta không phân vân trước các tên Điệp Thạch Dự, Chông Dự...? Và trước một
dãy chữ “dự” để dịch chữ “hòn” (chỉ cần sát nghĩa), làm sao người ta hiểu rằng
Yên Cương là Hòn Khói nếu không tìm được lý lẽ chứng dẫn thêm? Chưa đủ rắc rối,
Phú Quý Cương (Bình Định) lại là một ngọn đèo ở giữa núi rừng trùng điệp.
Có những khó khăn vì thay đổi duyên cách, địa lý. Tên xứ ở ta luôn
luôn thay đổi vì chính quyền sau tỏ ý không phải kế tục chính quyền trước nên
đổi thay để giữ riêng biệt cho mình. Trường hợp rõ rệt khi Nguyễn Ánh chiếm lấy
Quy Nhơn (1799) bèn đổi tên là thành Bình Định rồi sau này cất thêm một thành
mới gần đó lại chuyển tên về vị trí mới. Phần nữa vì tính cách khai thác những
vùng đất đai càng ngày càng sâu rộng. Hưng Phúc ngày xưa đã phải chia thành
Phước Hưng thượng, Phước Hưng hạ...
Lịch sử thêm ý nghĩa khi địa danh được xác định vị trí của nó, như
khi thấy Phước Hưng là một tiền đôn của Nguyễn Ánh ta mới thấy thế lực của ông
còn quanh quẩn ở vùng Bà Rịa.
Việc xác định địa danh đòi hỏi nhiều tài liệu. Có khi với một bản
đồ cỡ nhỏ (1/2.000.000 của Service Géographique de Dalat in ra), chúng ta cũng
tìm được địa điểm Hòn Khói, Ba Ngòi (Khánh Hoà), Vũng Liêm (Vĩnh Bình)… Có khi
cần những bản đồ lớn hơn, những chuyên thư hàng tỉnh (loại của nhà cầm quyền
Pháp trước đây, của chính quyền VNCH và của Hội Nghiên cứu Đông Dương), nhờ đấy
chúng tôi xác định được cửa Xích Ram chứ không đọc Xích Lam, Ba Vác chứ không
là Ba Việt... Những sách địa chí xưa (Gia Định thành thông chí với các bản dịch
của Aubaret và Trần Kinh Hoà, Phương đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu, Đại
Nam nhất thống chí của Quốc sử quán) cũng góp phần xác định tuy nhiên phải được
kiểm chứng trong hiện tại: địa điểm Quang Hoá thuộc xã Cẩm Giang tỉnh Tây Ninh
thấy ở sách Phương đình cũng như ở chuyên thư về tỉnh Tây Ninh; Lương Phú Giang
là rạch ở quận lỵ Bến Tranh cũ (Lương Phú, tên chợ, tên ấp chiến lược), Nhất
thống chí còn gọi là Tranh Giang 爭 江, phân biệt với
rạch Chanh (Tranh Giang 橙 江 ) ở Đồng Tháp, Long An, Định Tường (nhưng
vẫn còn có chỗ phân vân: rạch Lương Phú được đề cập, lúc nào ở Bến Tranh, lúc
nào chỉ một phụ lưu của sông Hàm Luông?)
Có trở ngại là ngay đến những bản đồ quân sự cũng không ghi hết các
tên đất trong khi khoa địa danh học ở ta chưa phát triển mấy. Các chuyên thư
địa phương vẫn thường mang khuyết điểm chung: các tác giả vốn là nhân viên hành
chánh hay không chuyên môn nên yếu về kỹ thuật đồ bản và không biết tìm tòi sâu
trong quá khứ. Nên để ý rằng các địa điểm nổi danh ngày xưa trải qua những biến
thiên có khi đã mất tích trên bản đồ ngày nay để các tên mới thay thế vào. Ví
dụ trên các bản đồ Bình Định dù lớn đến đâu cũng không có các tên Nước Mặn, An
Thái. Chỉ có các làng Nho Lâm, Mỹ Thạnh thôi. Phải tìm hiểu đến tận nơi mới moi
ra các sự kiện tương tự. Vậy mà các chuyên thư ta đang có phần nhiều lại chỉ là
những loại vẽ ranh giới hành chánh, ngay đến những địa điểm có bàn đến trong
sách cũng không xác định đủ.
Ở đây chiến tranh cũng có đôi chút ích lợi: các trận đánh xảy ra
tận hang cùng ngõ hẻm - cũng như ngày xưa, nên cột tin tức chiến sự trên báo
cũng là một nguồn kiểm nhận quý giá. Tất nhiên không phải khi tìm ra một địa
điểm trong thực tế đúng in hay gần giống như trong sách là ta vội quyết xác
ngay.
Do những trở ngại đó, các địa danh có khi còn một khoảng trống xác
định khá lớn để chờ đợi các bằng cớ khác. Cùng trong tỉnh Định Tường có 2 con
rạch Trà Tân và Trà Lọt mà các sử quan hình như cũng không phân biệt rõ ràng.
Họ nói nhiều đến Trà Tân và chỉ một lần Trà Lọt nhưng lại đúng vào cùng một sự
kiện xảy ra. Biết rằng chữ “tân” 津 có thể lẫn với chữ “luật” 律 ta dựa vào chữ “trà luật” nơi bức thư Nôm của Nguyễn Ánh mà xác
định một chuyện ở một con rạch chảy từ Mỹ Lợi (Đồng Tháp) ra Tiền Giang qua chợ
Cái Nứa, tuy không biết rõ là sự việc xảy ra ở vào khúc nào.
Nhiều khi lý luận phải bạo một chút. Thị Dã 棉 野 của Thục lục mà Barizy gọi là Dung Thi (Đồng Thị) là nơi nào? Theo
chi tiết các trận đánh vùng này phải ở miền núi phía nam Bình Định ngày nay ăn
thông với con đường liên tỉnh Bình Phú mà Nguyễn Văn Thành kéo quân ra. Đó chỉ
có thể là đồng Cây Cầy (Gò Cầy) nằm cách đường tiến quân bằng đèo Phú Quý ở
phía nam. Tên Cây Cầy lấy từ một chút biến đổi âm đọc khi dịch chữ “thị” là
“cây cậy” cũng như vùng Mã Cảnh Sơn mà dân Phú Yên đọc không phân biệt Cổ ngựa
(dịch đúng chữ trên) hay Cỏ ngựa. Trường hợp chữ Thán lung trên cũng có thể sắp
vào đây nếu Đại Nam nhất thống chí (Lục tỉnh Nam kỳ) không ghi rõ là Vọng Thê 望 梯 (Thang Trông).
Những xác định trên không bao gồm được hết các địa danh. Tập sách
còn phải đành cam chịu ghi nguyên văn chữ dùng của sách vở xưa để chờ kết quả
những tìm tòi tiếp sau, nếu phương tiện cho phép mở rộng kiến thức và chờ công
việc của người khác phụ thêm vào. Những thành quả thu được về địa danh được tập
trung một phần lớn vào 2 bản đồ đính kèm.
_______________________________________
1. “Điểm sách: Histoire
moderne du pays d'Annam (1582 - 1820)”. BEFEO. XX 1920, t. 75 trở đi.
2. Vũ trung tùy bút: Xét về
tên các xứ đất nước ta thay mỗi đời mỗi khác: Đông Châu dịch trong NP. V. Déc.
1919. t. 335.
Tiến lên một mực nữa là việc xác định sử sự. Ta đã nói đến 2 nguồn
tin tức, tài liệu cùng tính chất và ưu khuyết điểm của chúng. Nhưng thực là may
khi ta có được 2 tài liệu khác nhau như vậy. Chúng sẽ bổ túc cho nhau để lịch
sử mà chúng ghi nhận thêm dồi dào sắc thái, chất liệu.
Sự thực, ngay những tài liệu trong nước đã có sự bổ túc đó rồi.
Lịch sử Tây Sơn chỉ là phụ vào sử nhà Nguyễn đối với sử quan của triều này,
nhưng quyển Hoàng Lê nhất thống chí lại đặt trọng tâm để các sự việc xoay quanh
là sự hưng vong của triều đình Lê, Trịnh ở Thăng Long. Chính vì phối hợp hai
nguồn tài liệu này với tài liệu của các văn võ thần Tây Sơn ở Phú Xuân mà ông
Hoa Bằng viết tỉ mỉ về Quang Trung thành 2 tập sách dày.
Ta thấy tài liệu trong nước nêu rõ những người, sự việc này một
cách tỉ mỉ nhưng lại bỏ quên sự việc khác. Ví dụ sử quan chỉ nói một cách sơ
sài về trận Bến Ván ở đó quân Nguyễn Nhạc bị đánh lui phải về Bến Đá. L.M Diego
de Jumilla lại kể một trận đánh “gần Tiên Đoả” với ngày tháng, chi tiết về tiến
lui, tỉ số thương vong, các hàng rào làm chiến luỹ chống cự. May mắn hơn nhưng
lần khác như lúc xem ai là “hai người bà con với Chúa”, lần này ta nhìn vào địa
điểm Bến Ván (Quảng Nam), thấy câu “dựa luỹ chống cự” của Thực lục, ta có toàn
bộ chi tiết trận đánh Bến Ván ngày 22-12-1773. Trong cuộc xung đột ý thức hệ ở
Gia Định năm 1795, thư các giáo sĩ nói đến đầu mối là một ông Giám quân có đi
trấn Diên Khánh, không về tới Gia Định mà chết dọc đường. Liệt truyện đoạn Tống
Phúc Đạm cùng Thực lục thời gian xảy ra chuyện vây cứu, cho ta biết đó là ông
này. Thư giáo sĩ cũng nhắc tới 2 viên quan trong số 19 người tố cáo Bá-đa-lộc
làm hư Hoàng tử Cảnh, đã bị cầm ngục vì bỏ quân bạn khi Tây Sơn tiến đánh. Thực
lục cho ta biết đó là 2 ông Tổng trấn sau này: Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn
Thành. Tuy họ không nhắc gì đến vụ Tống Phúc Đạm cả, nhưng ta thấy rõ là Nguyễn
Ánh nhân dịp hài tội, cho lệnh tống giam 2 người để làm vừa lòng Bá-đa-lộc. Như
vậy, ta chắp nối được một câu chuyện xung đột ở Gia Định, hình thức đại giá của
sức mạnh nơi này (tiết 17).
Sử quan chú trọng đến chính trị, quan chức, việc kế vị, nhưng một
thương nhân như Chapman tất nhiên phải quan sát về tài nguyên trong nước, nhận
xét về điều kiện buôn bán tương quan với thái độ của chính quyền bản xứ như thế
nào. Nhờ Chapman mà ta biết được tình hình Quy Nhơn vào khoảng 1778 khi sử quan
Nguyễn chú ý vào việc Nguyễn Ánh vội vã xây dựng quyền binh sau chuyến tàn sát
diệt tộc của Nguyễn Huệ, còn Hoàng Lê thì đang lo kể chuyện tranh giành phế
trưởng lập thứ ở Phủ Liêu, Thăng Long. Nhìn tình hình chung ta thấy Tây Sơn
trong thời gian này có đủ yên ổn để củng cố và lo bành trướng thực lực. Nhưng
qua Chapman cho biết, Tây Sơn cũng phải lúng túng. tuy đó là sự khủng hoảng lớn
lên: Lý Tài vừa đi mang cả 1/2 thuỷ quân của họ, họ hết cả tiền vì phải nhập
cảng thực phẩm, họ định quân bình lại khủng hoảng và nếu có thể, phát triển xứ
sở hơn bằng gạ Chapman đến buôn bán không lấy thuế, nhắc cho người Anh rằng họ
sẵn sàng mời giúp, đổi bằng một thương điếm trên đất họ. Qua tình trạng lúng
túng đó, ta mới hiểu vì sao họ không chiếm hẳn được Gia Định mà chỉ vào rồi ra,
ta mới thấy chữ “vào cướp bóc” (nhập khấu) của sử quan dùng, tuy có dụng ý
thiên lệch nhưng đã tả đúng được thực trạng.
Nhưng điều quan trọng hơn, chính là từ những khó khăn đó, ta thấy
rõ nhược điểm của triều Tây Sơn, nhược điểm mà họ cố gắng khắc phục để xây dựng
một chế độ quân chính mạnh mẽ từ Phú Xuân trở ra, nhược điểm làm suy yếu chính
họ và nhất là đám anh em còn để lại ở Quy Nhơn, Gia Định. Nguyễn Ánh len vào
lợi dụng nhược điểm đó để lớn mạnh. Tây Sơn không dùng được thương nhân Trung
Hoa, giáo sĩ để làm trung gian thu nhận kỹ thuật Tây phương thì Nguyễn Ánh phục
hưng được vậy. Tắt một lời, đứng nhìn từ Quy Nhơn năm 1778, với nhân chứng
Chapman, ta phăng lần ra sợi dây cộng thông lịch sử giải rõ sự lớn mạnh của Tây
Sơn để xô đổ Nguyễn, Trịnh, Lê, thắng trận Đống Đa, giúp ta hiểu sự thất bại
của Nguyễn Hữu Chỉnh cũng như chính sự thất bại của Tây Sơn có những liên quan
nào đưa đến thành công cho Nguyễn Phúc Ánh.
Bằng vào các ý tưởng hướng dẫn, ta bắt tay vào việc tổng hợp các
tài liệu để vẽ lại lịch sử hậu bán thế kỷ XVIII theo những đường nét lớn, gạt
sang bên những ân oán, hờn giận riêng tư, phe phái của người đương thời và về
sau.
Đây là giai đoạn kết thúc phân tranh, một cuộc phân tranh kéo dài
mấy trăm năm, bề ngoài là sự tranh giành địa vị của các họ phong kiến mà bề
trong là một phần do sự phân rã của xã hội Đại Việt mà dân tộc phản ứng lại
bằng con đường về Nam. Phân tranh lại cũng có nguyên cớ từ trong giải pháp xây
dựng đó mà sự tiến bộ kỹ thuật của quốc gia, sự tăng tiến ý thức của dân chúng
chưa đủ trưởng thành để nối kết nhau lại.
Tình trạng đó phải gây ra một sự đổ vỡ lớn lao. Tây Sơn tưởng như
là lực lượng đáp ứng nhu cầu của tình thế. Cho nên ta không lấy làm lạ về sức
tàn phá của họ. Khởi nghĩa ở Quy Nhơn, họ đánh tan quân chúa Nam Hà đang chia
kéo bè phái, họ nã tróc kẻ thù đến tận hang cùng ngõ hẻm, diệt Duệ Tông, Tân
Chính Vương và xô đổ cố gắng trung hưng của Nguyễn Ánh. Từ Nam họ ra Bắc bởi vì
chính trong bản thân và quân ngũ họ đã chứa mầm mống làm tan rã họ phong kiến
Bắc Hà (tiết 7). Chiếm rồi nhả, họ phải lưỡng lự vì chống đối với thành kiến
địa phương, tông tộc, vì sự phân rã ngay trong lực lượng của họ. Cho nên cuối
1786, đầu 1787, ta thất đất nước chia 5: Nguyễn Lữ ở Gia Định, Nguyễn Nhạc ở
Quy Nhơn, Nguyễn Huệ ở Phú Xuân. Hữu quân ly khai của Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh
ở Nghệ An và Trịnh Bồng gượng gạo ở Thăng Long. Chính đó là điều mà ta gọi là
“phản ứng dội ngược” trong sự bành trướng của Tây Sơn vậy. Nguyễn Huệ cố vươn
lên bằng trận thắng Đống Đa để đưa dòng họ mình lên hàng một triều đại Việt
Nam. Lại chính “phản ứng dội ngược” kia đã nuôi sống một triều cũ: Nguyễn Phúc
Ánh ở Vọng Các lần về Gia Định.
Tất nhiên không nên quên cố gắng riêng của ông ta. Hậu bán thế kỷ
XVIII có 3 họ phong kiến bị biến cố xua đuổi. Thế mà Trịnh Bồng khóc than
“chẳng may đẻ vào nhà Chúa (...) bị một lũ tiểu nhân xúi khôn, xúi dại...” Lê
Chiêu Thống không có phản ứng nào trước sự thay đổi của vua tôi nhà Thanh nên
phải ngậm ngùi chết ở đất khách. Chỉ có Nguyễn Ánh theo quân Xiêm về nước mà
vẫn có một đạo quân riêng, lưu vong vẫn có quân khai thác đồn điền, gặp dịp thì
lẻn trốn về phục nghiệp. Ta phải nghĩ rằng hoàn cảnh Chiêu Thống và Nguyễn Ánh
khác nhau. Tây Sơn ở Gia Định yếu kém không đủ làm áp lực với Xiêm vương như
Nguyễn Huệ ở Thăng Long đã gần như là yêu sách với Càn Long vậy. Tuy thế, Ánh
cũng đã phải chịu những khổ nhục vì các đối xử của bộ tướng Xiêm, chịu đựng sự
nghi ngờ của vua Xiêm, nghĩa là những yếu tố đã gây nên thất vọng cho Trịnh
Bồng, Lê Chiêu Thống.
Chính khả năng vượt khó khăn đó của Nguyễn Ánh và bề tôi khi gặp
dịp Tây Sơn không giải quyết được khó khăn của họ, đã giúp ông trở về Gia Định
tổ chức quân lính mở rộng chiến tranh phục thù đưa đến trận thắng cuối cùng.
Trong tập sách có những tiểu mục của mỗi tiết tóm thâu những vấn đề
phải xét đến. Ví dụ:
TIẾT 13: NHỮNG LỰC LƯỢNG CHIẾN ĐẤU
Tính cách chung của đôi bên * Tổ chức quân chính của Tây Sơn * Vai
trò bổ khuyết của những chiếc thuyền Tề Ngôi * Tổ chức khai thác Gia Định * Ưu
thế vũ khí, công sự phòng thủ và thuỷ quân của Nguyễn Ánh.
Trong tiết này, ta sẽ xét, như đã nói, “những lực lượng chiến đấu”
mà hai kẻ thù mạnh nhất, Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh nắm giữ. Tất nhiên những lực
lượng đó được đặt trên một căn bản tổ chức kinh tế, chính trị... dựa theo điều
kiện khả đắc của từng đối phương. Cho nên, ở Phú Xuân ta xét đến chế độ quân
chính của Tây Sơn và ở miền Nam ta nói đến công cuộc khai thác đất đai ở Gia
Định. Chế độ quân chính đó bắt nguồn từ đâu, phát triển như thế nào, kết hợp
với những điều kiện mới (tổ chức nông nghiệp, thương nghiệp ở Phú Xuân, Bắc Hà,
sự hợp tác của Lê thần...). Trong vị trí đó ta giải thích được mối bang giao
Tây Sơn - Thanh cùng ý định đánh chiếm Lưỡng Quảng, ta hiểu thấu được lực lượng
Tây Sơn cùng vai trò kỳ lạ của bọn cướp biển Tề Ngôi như là lực lượng thuỷ quân
phụ tá và một đội thương thuyền có võ trang, trong một chừng mực giống như loại
của bọn Corsaire Anh, Pháp những thế kỷ trước. Nhưng cũng từ đó, ta chớm thấy
nhược điểm của chế độ Phú Xuân mà mãi đến tiết 16 ta mới phải bàn đến.
Về phía Gia Định, ta xét tới việt quy thuận của nhóm nho sĩ Bình
Dương như là một nhắc nhở, khêu dậy ý thức tổ chức xã hội trên cơ sở Khổng
giáo, nông nghiệp “dĩ nông vi bản”, nơi một vùng mà đất, người đang chờ đón
khai thác. Phát triển nông nghiệp đi đôi với sự phát triển thương nghiệp có trợ
giúp của các tay phiêu lưu Tây phương (tiết 12) quy định tính chất và khả năng
lực lượng của Nguyễn Ánh. Cho nên ta có thể nói đến “ưu thế vũ khí, công sự
phòng thủ và thuỷ quân của Nguyễn Ánh” vậy.
Gọi đó là những “vấn đề” không phải là để chối bỏ tính cách biến
động trong thời gian nhưng là để nhấn mạnh rằng lịch sử không xảy ra quá rời
rạc, tách biệt với nhau như phép biên niên đã cho ta có cảm tưởng như vậy.
Những sự kiện về con người xã hội không nên được kết tập theo quy định của năm
tháng, quy ước để tính xoay vần của vũ trụ, mà là theo những điều kiện lịch sử,
văn hoá của tập đoàn đó.
Cho nên lịch sử “nội chiến” không phải chỉ xét về giai đoạn
1771-1802 của Nam Hà, Tây Sơn, Bắc Hà hay rõ hơn, của Đại Việt cô lập trong
thời gian, không gian. Vượt trên tính cách quy ước của sự phân chia giai đoạn
lịch sử, lịch sử nội chiến từ 1771- 1802 chỉ là nối tiếp của lịch sử phân tranh
của Đại Việt, không phải bắt đầu vào năm 1558, năm Nguyễn Hoàng trốn vào Nam mà
là manh nha từ sau triều đại huy hoàng của Lê Thánh Tông (1460 - 1497), bộc
phát khi Trần Cao nổi loạn dẫn đến việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi để Nguyễn Kim,
Trịnh Kiểm mưu đồ chống lại ở Thanh Hoá.
Bài trừ được thành kiến riêng biệt, tự tôn hay tự ty, về quốc gia
chủng tộc, ta sẽ thấy lịch sử Đại Việt trong giai đoạn này tương quan với mối
liên hệ văn hoá của dân Việt khi tiếp xúc với các dân tộc phương Nam, các dân
tộc xa tận phương Tây theo thương thuyền tràn đến. Đồng thời họ cũng vẫn đào
sâu những khả năng văn hoá từ phương Bắc đem lại đã lâu đời.
Hiện tượng này không phải là riêng rẽ độc nhất. Lịch sử các dân tộc
vẫn để chúng ta lấy ra được những ví dụ chứng dẫn về sự phối hợp văn hoá: lịch
sử văn minh Trung Hoa qua sự thành lập các triều Đường, Nguyên, Thanh chẳng
hạn, nói rõ đặc điểm phối hợp của vùng Trung Nguyên với các dân tộc phía tây,
phương bắc. Nhưng trong tính cách đặc thù của một trường hợp giao tiếp, chúng ta
cũng vẫn thấy có sự riêng biệt: vì lẽ đó, chúng tôi coi biến động Tây Sơn như
một kết quả của cuộc phối hợp văn hoá, chủng tộc ven biển Đông từ thế kỷ XV,
biến động được tiếp nối một cách oái oăm bởi một nhân vật còn sót lại của dòng
chúa phong kiến cũ.
Ta thấy trung tâm những biến động chính trị quy mô của Đại Việt cứ
dời dần về phương Nam: Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm ở Thanh Hoá, con cháu họ Nguyễn ở
Phú Xuân, Tây Sơn ở Quy Nhơn, cuối cùng Nguyễn Ánh ở Gia Định. Nhắc lại, trong
giai đoạn phá vỡ phân tranh này, lịch sử nhìn theo sự nảy nở của Tây Sơn, biến
động kết hợp sự thu nhận văn hoá phương Nam và văn hoá kỹ thuật Tây phương do
thương thuyền đưa đến. Xếp Nguyễn Nhạc, Châu Văn Tiếp, Nguyễn Hữu Chỉnh vào
cùng bọn thương nhân nội địa kết tập phần nào do phong trào giao thương Âu - Á
đem lại, không phải ta đã mắc vào lý luận quá thô thiển của Nguyễn Bách Khoa
chỉ nhìn thấy một trong hai yếu tố văn hoá gây biến động thôi. Ở đây, chúng ta
không nói đến sự thành lập một giai cấp thương nhân, phú hào, nhưng là sự chớm
phát những nhà giàu vì buôn bán, buôn với trên nguồn, buôn với dưới biển. Không
thể nào chối cãi được tính chất đại biểu của những người cầm đầu một biến động.
Duy ở đây không phải chỉ có yếu tố tư sản mà thôi. Những nhà giàu,
thương nhân xuất hiện ở Đại Việt vào thế kỷ XVIII tất nhiên mang dấu vết đặc
thù của xã hội này, không thể nào là khuôn mẫu in lại của những nhà tư sản Tây
phương đã làm Cách mạng 1789 cả. Sự nồng nhiệt, lòng hăng say của Tây Sơn có
tính chất rừng rú thật đặc biệt. Khi phát triển ra, họ sẽ đem tính chất này
truyền thụ cho những người mới kết hợp. Nhưng thảm hoạ của Tây Sơn đã bắt đầu
ngay từ bản chất của tập thể họ đại diện. Xúi được nông dân nổi loạn, họ phải
lấn át hoặc bỏ rơi nho sĩ - hay bị nho sĩ bỏ rơi. Thế mà trong khuôn khổ ý thức
hệ truyền thống, nho sĩ chính là lớp người hướng dẫn chính sách nông nghiệp
trong nước. Bỏ rơi nho sĩ, không có chính sách nông nghiệp trong buổi đầu, họ lại
gặp những biến động do họ gây ra khiến cho chính sách thương nghiệp của họ phải
thất bại. Mất hướng tiến hợp với bản chất phát sinh của họ, họ quay về phủ dụ
được nho sĩ đầu hàng thì chính sách nông nghiệp truyền thống lại tỏ ra thiếu
sinh khí vì được thi hành đi lại mãi trên đất cũ: Tây Sơn Nguyễn Huệ bỏ đất Quy
Nhơn đi về phía Bắc, có hùng mạnh hơn thực đấy nhưng phải chui vào lề lối sinh
hoạt cũ để khiến phải tự tan rã. Nguyễn Ánh thừa hưởng được tất cả những thiếu
sót Của Tây Sơn: một chính sách nông nghiệp mới trên đất Gia Định chứng tỏ hiệu
lực của nó, một chính sách thương nghiệp trông chừng cho không làm hại cơ cấu
chính thể mà vẫn có ích, tất cả đã làm dồi dào sinh lực quốc gia, điều hoà tạm
thời cho không có mâu thuẫn trong quốc gia. Công trình đó đã thêm một bước cho
sự hoàn thiện cuộc thống nhất (xem kết luận).
Cho nên, lịch sử, nhìn qua là lịch sử chiến tranh mà thực mang đầy
ý nghĩa văn hoá. Ta có dịp dừng lại để nhìn - một cách thiếu sót - sinh hoạt
của dân Đại Việt vào cuối thế kỷ XVIII (tiết 14). Ta dành một tiết (tiết 17) để
bàn về mối dao động có thể gọi là ý thức hệ ở Gia Định. Từ đó, chiến sự không
phải nổ bùng một cách lẻ loi mà hoặc là kết thúc của một chuyển biến văn hoá,
hoặc là mở ra cho một chuyển biến văn hoá mới, lúc tiến, lúc lùi, chuyển đổi
lặng lẽ hay ồ ạt: lịch sử diễn tả sẽ có đủ chiều sâu, chiều rộng, sống động,
dồi dào hơn. Chúng ta đã gắng đem lại ý nghĩa đích thực, đặt đúng giá trị của
quan niệm lịch sử về biến cố vẫn thường hoặc được quá chú trọng hoặc bị quá coi
thường vậy.
Trên đây là trình bầy tất cả lề lối làm việc cùng những ý tưởng
hướng dẫn việc xây dựng tập sách này. Không có người ghi chép con người vẫn
mang sử tính - nhưng ta không hiểu được lịch sử nếu nó không xuất hiện trên
trang giấy. Ấy thế mà có biết bao nhiêu khó khăn cho người thu xếp: giới hạn số
lượng tài liệu còn lại, khả năng phê phán, tổng hợp mớ tài liệu ấy, giới hạn
gặp phải khi diễn đạt thành lời...
Nhưng những điều đó không phải để ngăn một giai đoạn lịch sử mang
hình thức diễn tả là tập sách này. Chúng ta chỉ tạm dừng lại, chờ những tổng
hợp khác gần với sự thực của quá khứ hơn.
Lời phụ thêm:
Tập sách này được viết vào các năm 1962, 1963, 1964. Đến 1969, một
số tài liệu được phổ biến thêm nên chúng tôi có sửa chửa một ít chi tiết cho rõ
ràng hơn. Còn đại thể, dàn bài, những ý tưởng giải thích giai đoạn lịch sử vẫn
còn như cũ, không đổi.
PHẦN THỨ NHẤT
SỰ TAN RÃ Ở NAM HÀ
(1771 - 1785)
Chương 1.
CÁC LỰC LƯỢNG TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ĐẾN
KHOẢNG 1775
Tiết
1
BIẾN CHUYỂN TỚI 1775: TÂY SƠN KHỞI NGHĨA
Biến động Tây Sơn và những bạo động ở Bắc Hà * Sự suy đồi quyền
bính ở Nam Hà với khả năng phản kháng của dân chúng * Chiến tranh Tây Sơn -
Nguyễn. * Quân Trịnh vào Phú Xuân * Chúa Nguyễn vào Đồng Nai.
Sự kiện quan trọng nhất xảy ra trong lịch sử Đại Việt vào giữa hậu
bán thế kỷ XVIII là “loạn” Tây Sơn. Từ trước không phải không có những người
thường dân lên làm vua, dựng nên một triều đại mới, nhưng họ lập nghiệp bằng
cách đánh đuổi ngoại xâm (Lê Lợi), hoặc bằng cách phụ tá triều đại trước, mang
quan tước của dòng họ này rồi tìm cách soán đoạt (Trần, Mạc). Chỉ riêng có anh
em Tây Sơn truất quyền các triều đại có mặt bằng mưu mô binh lực, đem vào lịch
sử những tên mà bình thường là anh buôn trầu, chị đàn bà giữ con, ông thầy đồ ở
làng và cả những kẻ sống ngoài vòng pháp luật nữa1.
Biến động Tây Sơn có tính cách dân chúng làm ta liên tưởng những
cuộc chống đối ở Bắc Hà dưới thời Trịnh Doanh, Trịnh Giang. Những Nguyễn Cừ.
Nguyễn Tuyển, Nguyễn Danh Phương... đều dựa vào đám nông dân cùng khổ, lập
riêng triều đình có khi đến hàng 10 năm trời. Tuy nhiên, họ làm loạn sát kinh
đô, trong một xã hội quá thuần nhất về kỹ thuật, ý thức, nên phải chịu thất
bại, ngậm thở ngùi than:
Hỏi sao sao luỵ cơ trần,
Bận tài bay nhảy, xót thân tang bồng?
Nào khi vỗ cánh rỉa lông?
Hót câu thiên túng trong vòng lao lung?
(Nguyễn
Hữu Cầu)
Họ không đủ sức phá vỡ chính quyền Trịnh, nhưng ngược lại họ Trịnh
nằm trong sự đổ nát của chính mình, trong sự rạn nứt của thời đại cũng không
thể nào bóp nghẹt được sức phản kháng của dân chúng vốn lúc nào cũng hi vọng,
chờ đợi:
Mặc bay đông ngữ, tây đàm,
Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung.
(Nguyễn Hũu Cầu)
Trong khi ở Bắc Hà chính quyền và dân chúng trông chừng nhau thì ở
Nam Hà nhóm lên loạn Tây Sơn ngang ngửa, tàn bạo dứt đứt những gì tạo lập thế
phân tranh kéo dài 200 năm có hơn. Tất nhiên đã có những điều kiện chủ quan và
khách quan đem đến sự thành công cho họ, giúp họ từ một tiền đồn di dân hẻo
lánh ào xuống xô đổ ngôi vị Nguyễn, trườn ra đất Bắc chấm dứt Trịnh, Lê, cũng
như sau này có những điều kiện mới nảy sinh đưa đẩy họ tới thất bại, trao công
trình thống nhất lần đầu mà họ mở lối kiến tạo vào tay một ông hoàng còn sót
lại của Nam Hà.
Trước nhất là sự rối loạn ngay trong triều chúa Nguyễn ở Thuận Hoá.
Ở đây mọi tội lỗi đều được bề tôi họ Nguyễn trút vào đầu Trương Phúc loan. Xử
sĩ Hoàng Quang kể tội Loan với giọng hậm hực, có khi ngây ngô: quan Quốc phó
đem tinh binh giữ biệt thự Phấn Dương của mình, để binh lão nhược ra ngoài
chống giặc; quan thu thóc lúa, bạc vàng cho đầy túi bằng những mưu mô làm suy
bại nước: quan thu dụng, mua chuộc triều thần để họ phải chịu “giọng miệng xôi
chùa” …
Võ vương Nguyễn Phúc Khoát mất đi (1765), Hoàng trưởng tử Chương đã
qua đời (1763) mà Thái tử Hiệu, con thứ 9, lại còn mất trước đó nữa (1760)3.
Đáng lẽ cha Nguyễn Phúc Ánh là Chương Võ, con thứ 2 Võ vương lên cầm quyền,
nhưng bị Trương Phúc Loan giam vào ngục “ưu uất mà mất”. Việc này hại lây đến
cả 2 đại thần: Trương Văn Hạnh và Lê Cao Kỷ4. Phúc Thuần con thứ 16 của Võ
vương được lên ngôi (12 tuổi), chiếm địa vị của con Thái tử Hiệu thường được
gọi là Hoàng tôn Dương. Rối loạn trong việc thế tập này còn ảnh hưởng rất lâu,
đến mãi khi họ Nguyễn chạy vào Đồng Nai.
Đã được Duệ Tông phong làm Quốc phó, quản Tượng cơ, kiêm Tàu vụ,
Trương Phúc Loan còn đặt vây cánh bên ngoài, cho các con lấy công chúa Ngọc
Nguyện, Ngọc Chú để làm thế lực bên trong. Quyền uy có thì tiền cũng theo đó mà
dồi dào. Chúa cho ông lấy sản thuế các nguồn Thu Bồn, Trà Sơn, Trà Vân, Đồng
Hương làm bổng riêng, mỗi năm thu bạc đến 200 lượng có dư với ngà voi, sáp
vàng, mật trắng, “đồ quý chất như núi”5. Gọi là “Chúa cho”, nhưng chắc gì Chúa
đủ trí khôn và đủ quyền để biết và có thể làm gì? Gia tư của Phúc Loan lại được
tăng bội bằng nhiều hình thức ám muội khác. P. Poivre đã cho ta biết việc ông
gạt tiền của người khách thương này6.
Vai trò của Trương Phúc Loan trong việc xô đẩy triều chúa Nguyễn đi
vào chỗ suy sụp thật không thể chối cãi7. Nhưng không phải chỉ mình ông thối
nát.
______________________________________________
1. Không phải chỉ vì thân
tình mà Ngọc Hân công chúa (trong Ai tư vãn) nói về Nguyễn Huệ (Tây Sơn nói
rộng ra) là dân “áo vải cờ đào, giúp dân, dựng nước...” Trong mọi tờ thư biểu
đưa sang nhà Thanh. Quang Trung vẫn xưng là “kẻ bố y”. Người Tây phương (BSEI.
XV 1940. 66) Cũng thấy rõ tính chất xã hội của cuộc loạn này. Ngay đến kẻ thù
của Tây Sơn cũng công nhận có dân chúng ủng hộ họ. Quần thần Nguyễn Ánh khi
khuyên Chúa đừng làm mất nhân tâm, đã nói về Tây Sơn: “Kẻ kia, Nhạc Huệ, anh em
từ dân áo vải, không đất cắm dùi, vươn tay hô một tiếng, người theo có cả vạn
chẳng đầy 5, 6 năm có được đất nước. Họ không có quá tài đức của người thì vì
lẽ gì lại hưng thạnh dữ dội như vậy?” (Thực lục q1. 2ab).
2. “Hoài nam khúc”, NP XIII.
t. 157 - 180.
3. “R. Orband. Généalogie des
Nguyens”, BEFEO, 1914: Võ vương có 30 con (18 trai, 12 gái). Các con trai là:
(1) Chương hay Trà († 1763), (2) Luân, (3) Mão hay Văn (1734-1773), (4) Quới
hay Thành (1735-1775), (5) Duệ hay Bửu (1735-?), (6) Chất (1737-1777), (7) Kinh
(1737-1775), (8 ) Bảng (1739-?), (9) Hiệu (1739-1760), (10) Yến hay Chiêu
(1740-1772), (11) Tuân hay Đa (1742-1764), (12) Yến hay Viêm (1743-1776), (13)
Đãng hay Trường (1744-1786), (14) Tuyền hay Quyền (1749-?), (15) Diệu (1753-?),
(16) Thuần, Duệ Tông (1753-1777), (17) Xuân (1757-1780), (18) Thăng
(1762-1819).
4. Thực lục tiền biên, q11,
1b, 2a, sử sự tiếp theo ở tờ 4ab.
5. Ta không nên lấy làm lạ về
sự giàu có này. Chapman, người đại diện của W. Hastings trong chuyến đi thăm dò
Nam Hà năm 1778 cho biết ở vùng Huế, tỉnh Chàm (Quảng Nam) có nhiều mỏ vàng.
Trà Sơn (ĐNNTC, tỉnh Quảng Nam, q5 gọi là Trà Tế Sơn) là nơi sản xuất vàng. Hải
cảng Đà Nẵng chuyển phẩm vật nguồn này ra ngoài. Nguồn Trà Vân, theo lời tả của
ĐNNTC, tỉnh Bình Định, q9, nếu chỉ nguồn An Lão, Kim Sơn thì cũng có vàng,
ngoài mật ong sáp vàng... Nguồn Thu Bồn sản xuất quế chắc dùng cửa Hội An làm
nơi chuyển tiếp ra ngoài. Nguồn Đồng Hương ở Bình Khang (Khánh Hoà, vùng Vạn
Ninh) mà ĐNNTC tỉnh Khánh Hoà gọi Động Hương, là nơi sản xuất sáp ong vàng với
các đội Hoàng lạp hoạt động thường xuyên. Như vậy có thể nói Trương Phúc Loan
đã bao thầu hết các nguồn lợi trên rừng của Nam Hà và còn nắm quyền xuất cảng
nữa (ông coi chức Tàu vụ). Sự việc này còn chứng tỏ sinh hoạt rộn rịp của ngành
buôn nguồn, khai thác lâm, khoáng sản vào thế kỷ XVII, XVIII ở vùng này.
6. L. Cadière, “Quelques
figures sous la Cour de Võ vương”, BAVH, 1918, t. 262-264.
7. L.M Cadière (bđd, t.270,
271) không phủ nhận lầm lỗi của Trương Phúc Loan, nghĩ rất đúng rằng người
chung quanh ông cũng làm bậy như vậy, nhưng lại cho rằng sở dĩ sử quan nhà
Nguyễn ghét ông vì ông đã gạt cha Gia Long không cho lên ngôi và vì ông một
phần nào có cảm tình với người ngoại quốc. L.M không lưu ý rằng Trương Phúc
Loan đón tiếp niềm nở P. Poivre chẳng hạn là để lợi dụng đổi tiền lấy bạc và
khi thấy Poivre đòi ông thoả mãn việc đổi bạc riết quá, ông bèn tìm cách tống
khứ đi ngay. Thêm nữa có nhiều chứng cớ cho biết mọi người đã kết tội Loan từ
lúc Nguyễn Ánh chưa ló diện trên chính trường (Trịnh đưa hịch kể tội Loan để
làm cớ tiến quân, Tây Sơn tôn phù Hoàng tôn Dương).
Không đợi đến Duệ
Tông mới có trò hư hỏng vì Loan dạy cho cách ăn chơi. Võ vương lúc sanh tiền
cũng chỉ nghĩ tới lạc thú riêng, P. Poivre được một ông Cai bộ cho biết như
thế. Người khách thương đại diện cho Dupleix này được cho biết rằng các quan
dưới quyền Võ vương có đủ cách dối gạt Chúa để cản trở Poivre. Đến nỗi ông phải
kêu lên một cách tức giận: “Phải cho họ hiểu rằng chúng ta từ hơn 6.000 dặm lại
đây không phải chịu mất cơ nghiệp làm giàu cho cả bầy háu đói này”1. Chúa có
nhiều con bèn nghĩ ra cách gây dựng bằng cách bắt các quan nuôi các hoàng tử và
phải chia của cho họ. “Nhưng họ không thiệt thòi vì nhờ sự che chở của Chúa họ
sẽ được những gì họ muốn... Họ cướp bóc mà không bị trừng phạt và khi có của,
họ sẽ đem giấu đút cho các con riêng của họ, bù ngay lúc bọn này còn sống phần
gia tài mất đi kia”2 (phần chia cho các hoàng tử). Binh lính, tướng lãnh bấy
giờ thì lão nhược, nhút nhát, nghe đến phải đi đánh giặc vội vàng đem vàng bạc
đút lót quan Quốc phó để cắt đặt người khác thay.
Tất nhiên tiền đó trong lúc trên không tuân cương kỷ này thì dưới,
người ta không nề hà gì mà không vơ vét của dân đen.
An ninh không được chính quyền lưu tâm, trộm cướp tha hồ hoành
hành. Rồi đói khổ, mất mùa càng làm cho dân chúng cùng quẫn. Chưa phải những
trận đói kinh hồn của Cương mục, Thục lục tả vắn tắt, của các giáo sĩ ở Huế,
Quảng Nam kể tỉ mỉ vào cuối năm 1774, đầu 1775. Đó là hậu quả của chiến tranh
hơn là nguyên nhân của chiến tranh. Đói kém bắt đầu từ năm 1768 vì một sự sai
lầm về chính sách tiền tệ: tiền kẽm được tha hồ đúc từ vua chí dân gây nên một
tình trạng lạm phát khiến dân chúng mất tin tưởng, đua nhau với đám đúc tiền
lậu mua lúa tích trữ, trong khi nhà giàu không dám tung gạo ra. Tệ trạng ấy kéo
dài từ Phú Xuân đến Ba Thắc trong cả những năm không mất mùa4. Lại thêm tham
vọng của Mạc Thiên Tứ, vùng Hà Tiên phải lâm vào cảnh chiến tranh với Xiêm, ảnh
hưởng đến tình trạng sản xuất của một vùng vốn được coi là “vựa lúa của quốc
gia”.
Rốt cục trong triều Chúa phân rẽ, năm phe ba phía. Chất men lý
tưởng trung trinh không có đối tượng để nối kết lòng người. Dân chúng không nhờ
cậy được ở chính quyền, phải quay về những người nào hứa hẹn và thực hiện được
một phần nào hứa hẹn đem lại ấm no cho họ.
Nhưng không phải sự rối loạn triều chính, sự oán ghét của dân chúng
đủ đem lại sự sụp đổ cho họ Nguyễn. Quan lại nhũng nhiễu hầu như là một chứng
bệnh kinh niên của xã hội xưa, trước đó và mãi sau này nữa (cả dưới thời Tây
Sơn). Ta đã thấy Nguyễn Hữu Cầu dõng mãnh, Nguyễn Danh Phương bền dai với dân
chúng Bắc Hà phụ hoạ cũng không phá được họ Trịnh. Trái lại tình thế Nam Hà lúc
này thuận tiện cho một cuộc nổi dậy thành công cho những người chống đối có
mộng tưởng, có khả năng làm việc lớn.
Những điều kiện đó, anh em Tây Sơn đã có đủ, và nếu thiếu, đã biết
tạo ra. Bởi vì đồng thời phản đối Trương Phúc Loan không phải chỉ có họ. Mùa hạ
1770, vùng Quảng Nam có loạn6. Nhưng cuộc loạn không có ngày mai. Chỉ còn anh
em Tây Sơn.
Họ là 3 người: Nguyễn Văn Nhạc, Nguyên Văn Lữ, Nguyễn Văn Huệ. Sử
quan nhà Nguyễn không cho biết rõ hơn. Nhưng trong một bức thư, giáo sĩ
Labartette thêm một ít chi tiết: Nhạc là anh lớn, người thứ hai là “Đức ông
bảy”, người thứ ba là “Đức ông tám”7. Nhiều tài liệu cho ta biết “Đức ông tám”
là Nguyễn Huệ8. Lúc mới khởi nghĩa, Huệ mới 18 tuổi đầu. Cách biệt thứ bực với
người em nhỏ cho ta thấy Nhạc là người chủ xướng cuộc chống đối.
Anh em Tây Sơn là dòng dõi Hồ Quý Ly. nguyên quán ở đất Hưng Nguyên
(Nghệ An). Ông bà họ bị quân Nguyễn bắt vào Nam nhân lúc Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn
Hữu Dật đem quân ra lấy 7 huyện phía nam sông Cả, thời Thịnh Đức nhà Lê
(1653-1657, nhưng trận chiến kéo dài từ 1655-1661). Một nhân vật chính trong họ
bị bắt có thể là Hồ Phi Phúc. Họ được đưa về làng Tây Sơn thuộc huyện Phù Ly,
phủ Quy Nhơn9 Đến đời cha Nhạc mà Liệt truyện gọi tên là Phúc, mới dời xuống ấp
Kiên Thành sinh ra 3 anh em, lấy mẫu tính để gọi Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn
Lữ, Nguyễn Văn Huệ.
Cứ theo sử sách thì nguyên nhân khởi loạn của Nhạc rất tầm thường:
ông làm biện lại ở đất Vân Đồn (?) gá bạc, tiêu lạm tiền thuế, bị Đốc trưng
Đằng đòi hỏi gắt gao “mới trốn vào rừng tụ đảng ăn cướp”. Chi tiết đòi tiền
thuế phù hợp với bằng chứng của Chapman cho biết một nguyên nhân bùng ra rối
loạn: Trương Phúc Loan đã đánh thuế vào khoảng một dollar espagnol cho tất cả
mọi người, không phân biệt già trẻ, giàu nghèo gì hết11. L.M Jumilla kể chuyện
vào khoảng tháng 5-1773, một viên quan đi thâu thuế ở Quy Nhơn có mang lính hộ
tống, bị quân Tây Sơn chặn lại đòi giấy tờ, tiền bạc, đâm cho một nhát ở vai trái
phải cùng lính hầu bỏ chạy.
Nhạc thua bạc, quỵt thuế, túng cùng làm loạn hay đứng về phía dân
chúng chống đối chế độ thuế má khắt khe rồi bị chính quyền vu cáo? Chúng ta đã
có đủ tài liệu để trả lời dứt khoát. Việc viên quan thu thuế bị đâm tháng 5-1773
và việc Đốc trưng Đằng thúc thuế ở Nguyễn Nhạc rõ là một. Nhưng Tây Sơn đã khởi
loạn từ năm 1771 và kéo nhau xuống đồng bằng cả lúc ban ngày từ tháng 4-1773
thì vụ gọi là quỵt thuế đâu phải là nguyên nhân của cuộc nổi dậy? Vả lại, địa
vị của Nhạc không phải của một anh cờ bạc tầm thường: một người đứng đầu công
cuộc làm ăn buôn bán của cả một vùng mới được chính quyền trung ương cho coi
việc thu thuế rồi lại nhờ vào chức phận này mà tăng uy tín với dân địa
phương13, thì chống đối với chính quyền - tất nhiên là sống ngoài vòng pháp
luật - đâu có phải đợi đến cái thế cùng mới bạo gan làm việc?
_______________________________________
1. Trích Du ký của P. Poivre
nơi Cadière, bđd, trang 273.
2. Bđd t.289.
3. Thực lục tiền biên. Q11,
18a.
4. Thực lục tiền biên, q11
12ab. tờ sớ của Ngô Thế Lân (1170).
5. J.Komer, “Description
historique de la Cochinchine”, RI, XV, Mai-Juin 1911 t.10: Xét thêm thư của
giáo sĩ Halbout. tháng 7-1775 (A. Launay. III, t 460): “Mỗi năm từ Đồng Nai,
vùng phì nhiêu, có hàng ngàn chiếc ghe đến vùng này mang lại sự đầy đủ và nỗi
vui mừng cho dân chúng”.
6. Thực lục tiền biên, q11,
11ab.
7. Thư ngày 12-5-1787 (RI,
XIV, Juil-Déc. 1910, t. 44)
8. Hoàng Lê, t.53, ghi:
“...sinh ra Nhạc và 2 người em là Bình và Lữ”. Bình là Nguyễn Huệ (Liệt truyện,
q30, 37b). Cương mục q44, 22a cho biết thứ tự Nhạc. Huệ, Lữ. Sách ta chỉ có
Liệt truyện (q30, 1a) là cho biết Huệ là em út, phù hợp với nhiều tài liệu của
các giáo sĩ đương thời để lại. Một ví dụ: thư của Đức ông Veren (Labartette)
ngày 8-6-1788 có câu: “chiến tranh bùng nổ (…) giữa 2 anh em Nhạc và ông Tám
(Đặng Phương Nghi, vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ”,
Sử Địa số 9-10 t. 237).
9. Tây Sơn là một địa danh
chỉ cả vùng núi phía Tây đồng bằng của phủ Qui Nhơn xưa. Danh từ hàm ý nghĩa
phong thuỷ hơn là địa lý. Còn địa điểm Tây Sơn, nơi phát xuất của triều đại họ
Nguyễn mới này là địa phận 2 làng Cửu An, An Khê ngày nay (khu vực xác định vẫn
còn rộng quá), trước 1945 thuộc Kontum, sau 1955 được sáp nhập vào tỉnh Bình
Định trong một quận mới lập: quận An Túc. Tên phủ Qui Nhơn cũng trải qua nhiều
thay đổi: ban đầu là phủ Hoài Nhơn (1470), năm 1602 lần đầu có tên Qui Nhơn,
1651 tên phủ Qui Ninh, 1742 trở về tên cũ, 1831 lại gọi phủ Hoài Nhơn, 1832
thành tỉnh Bình Phú (ĐNNTC, tỉnh Bình Định, q9, Kiến trí duyên cách). Với người
ngoại quốc buôn bán thì Qui Nhơn là vùng Thi Nại mà họ gọi là Quinion,
Chincton, Choya (Chợ Giã, tức là thành phố Qui Nhơn bây giờ).
10. Hoàng Lê nêu lên tên Hồ
Phi Phúc là một ông tổ trong dòng. Hoặc Liệt truyện sai lầm, hoặc hai tên Phúc
phải là hai người khác nhau. Không nên nói như ông Văn Tân (Tập san Văn Sử Địa
số 19, “Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục” trình bày do
ông Phạm Văn Diêu trong Văn hoá Nguyệt san, tháng 7-8/1962) rằng đó là một
người. Nguyễn Huệ chết năm 1792 thọ 40 tuổi, vậy sinh vào khoảng 1753. Hồ tôn
thế phả cho biết Hồ Phi Phúc đã có mặt ở Nghệ An năm 1655, dù là còn ẵm ngửa,
nếu là cha Nguyễn Huệ tất phải sinh ông này vào lúc 100 tuổi. Huống nữa, giọng
điệu của tác giả Hoàng Lê, người sống sau câu chuyện tù binh Hưng Nguyên cả
hàng 100 năm, rõ ra là Hồ Phi Phúc lúc còn ở Nghệ An đã là người có danh vọng
rồi.
Nếu nghĩ rằng tục lệ ta hay
kỵ huý ông bà để không thể có 2 ông Phúc ở nhà họ Hồ Tây Sơn thì càng chỉ nên
giữ tên Phúc của xứ Nghệ thôi mà bỏ tên Phúc của Liệt truyện đi.
11. Chapman, “Narative of a
voyage to Cochinchina in 1788”, bản dịch Pháp văn của H. Berland. BSEI, XXIII,
1948, t. 22.
12. L.M. thuộc dòng
Phăng-xi-cô, tiết thư ở Tiên Đỏa ngày 15-2-1774 kể chuyện mắt thấy tai nghe về
cuộc khởi nghĩa trong chuyến ông vào Qui Nhơn, tá túc tại nhà thờ Gia Hữu (phía
bắc Bồng Sơn) (BSEI, XV. 1940. t. 74).
13. Muốn biết chức tước của
Nguyễn Nhạc to như thế nào đối với dân chúng, hãy xem lại một chi tiết trong
tiến triển của cuộc khởi nghĩa. Loạn quân tụ tập từ 1771, kéo xuống chợ tháng
5-1773, tháng 9-1773 cướp tỉnh thành mà trước đó chỉ có một trận đụng độ để cho
sử quan cùng người ngoại cuộc không hẹn mà cùng ghi như nhau: xung đột với một
viên Đốc trưng, một người trông coi việc thu thuế. Xung đột nhỏ mà đầy ý nghĩa
giá trị chứng cứ xã hội, đối với dân chúng, chính quyền trung ương là viên quan
thu thuế. Nguyễn Nhạc, trước khi làm loạn, là một viên quan thu thuế như vậy.
Cho nên, đánh bạc, Nhạc nào có dễ gì để cho người ta lột!
Quan sát vùng đất và cư dân, ta thấy rõ sự thực hơn. Làng Tây Sơn
có thể coi như một tiền đồn di dân Việt ở về phía Tây, sâu vào trong xứ người
Thượng. Là một tiền đồn di dân, thực vậy, vì tuy sử sách không nói rõ hơn, nhưng
việc bắt người Hưng Nguyên đem lên vùng này có thể coi là họ Nguyễn đã áp dụng
chính sách khai phá cổ truyền trên đất mới với tính cách cưỡng bách mà thôi. Có
lẽ đợi đến 2 đời sau, thành người địa phương, thoát tính cách tù binh cưỡng
bách kia, họ Hồ mới dời xuống Kiên Thành, sửa soạn cho con dựng nghiệp lớn.
Vị tri cư trú mới lại đắc thế cho công cuộc làm ăn của họ này. Kiên
Thành cũng ở trên bờ sông Côn như các sông nhỏ miền Trung khác, nối liền đồng
biển và núi rừng, đóng vai trò rất quan trọng về nhân văn, kinh tế. Những sông
này tạo nên những vùng đất nhỏ hẹp nhưng rất phì nhiêu. Chúng là con đường giao
thông trao đổi phẩm vật trên rừng, dưới biển. Trên rừng có mật ong, trầm hương,
măng le, vàng... chuyển xuống đồng đổi lấy gạo, chế phẩm (vải lụa, đồ sắt...).
Lâm sản, lúa gạo lại đưa xuống các vùng biển để chuyên chở ngược về nguồn những
loại cá, mắm, muối, đồng sắt1. Vùng ba huyện có địa điểm Kiên Thành như một
giao điểm tụ hội của phẩm vật các nguồn Kim Sơn Đồng Hươu, An Tượng... chuyển
xuống Nước Mặn, Thi Nại để ra biển và cũng là chỗ phân phối ngược lên các tài
nguyên ngoài biển cả đưa vào.
Trong khung cảnh hàng hoá lưu chuyển như vậy, tay buôn Nguyễn Nhạc
chọn lấy một phẩm vật quan trọng, cần thiết vì là nhu cầu của phong tục: trầu
nguồn. Loại trầu này đắc dụng hơn thứ trầu trồng ở các vườn dưới đồng lá nhỏ
mầu xanh vàng, gân lá nổi nhiều khiến miếng trầu hay dòn, dễ gãy. Có nhìn thấy
từng giỏ trầu nguồn, lá to bằng bàn tay sè - têm được nhiều miếng - màu xanh
lặc lìa, mềm mại xếp nằm sát lên nhau làm nổi những đầu cuống lá nổi thành hàng
dài mầu xanh non, có nhìn thấy từng giỏ trầu chất vun lên, tươi mát chờ đón bạn
hàng ở các phiên chợ sớm như thế mới thấy sự đắc dụng của một món hàng được
khắp mọi giới ưa chuộng.
Căn cứ vào chút phong tục còn rơi rớt lại làm dấu vết cho trào lưu
cuối mùa của dòng thương mại, căn cứ vào địa điểm Trường Trầu còn lại, ta có
thể vẽ ra khung cảnh hoạt động trong vùng người hào phú đất Kiên Thành.
Len lỏi vào trong các nguồn - càng vào sâu lá trầu càng tốt, có những
người Thượng hái trầu chứa trong gùi mang thẳng xuống Trường Trầu, hay qua
những trung gian khác chủng tộc. Ở đây, người ta tỉa lá vàng úa, vứt lá sâu
quăn, xén bớt phần cuống héo mặt - cho tỏ ra trầu còn mới - rửa sạch sắp xếp
gọn ghẽ rồi chất cho các bạn hàng đem về phân phối các chợ miền xuôi. Nguyễn
Nhạc hình như đã đóng vai trò đầu nậu2 của công việc buôn bán này và chính nhờ
sự giao thiệp khi gom góp, chuyển giao hàng hoá, điều khiển việc tính toán lời
lỗ, trích thu phần lời của người mua, kẻ bán mà ông đã tập cho mình thói quen
tổ chức, óc chỉ huy và sự quảng giao rất cần thiết cho về sau vậy.
Nghề buôn nguồn thịnh hành và nhiều lợi, nên đồng thời với Nhạc
cũng có người nổi danh: Châu Văn Tiếp. Tiếp buôn gì? Không biết, nhưng có thể
nói chính vì tính cách không chuyên riêng một món hàng nào mà Tiếp yếu thế đối
với Nhạc. Ông không nắm được một tổ chức lớn mà chỉ có những bạn buôn như
Nguyễn Long (dân Đồng Xuân, Phú Yên), Phạm Văn Sĩ (dân Phù Mỹ, Bình Định, đồng
xứ với Tiếp), nên lúc đầu khởi loạn phải phục tùng theo Nhạc, và khi phản kháng
thì chỉ tụ tập được đám người Thượng trên một vùng núi thôi.
Gọi là Nguyễn Nhạc có lực lượng phối hợp lớn lao là chúng ta căn cứ
vào tính chất cư dân trong vùng. Những nhóm người Thượng chắc trước khi Việt hoá
đã sống lan xuống các vùng nguồn về phía đông hơn bây giờ nhiều. Họ là lực
lượng kết hợp quý báu cho Nhạc lúc ban đầu. (Truyền thuyết ghi rằng Nhạc có một
người vợ nhỏ thuộc bộ lạc Thượng hẳn không quá xa sự thực). Những người Thượng
này còn có mối liên hệ chủng tộc gần với nhóm người Chàm ở Thạch Thành vùng Phú
Yên3. Nữ chúa Thị Hoả của họ đã hưởng ứng Nguyễn Nhạc ngay từ lúc đầu.
Vùng này còn khối di dân Trung Hoa sinh sống như một tập thể tự
trị, nhưng vẫn chịu dưới quyền nhà Nguyễn. Chính quyền tập họp họ thành từng
“thuộc”: có 6 thuộc như vậy ở Quy Nhơn vào năm 1799 và 3 thuộc trước đó, hồi
đầu thế kỷ XVIII, cuối thế kỷ XVII4. Họ sống bên lề một ít trong đất nước thu
nhận họ. Phần lớn họ là Minh dân lưu vong, nằm trong các tổ chức hội kín (Thiên
Địa hội) ít chịu dung hợp với chính quyền.
Nhưng ngay cả đám người Việt cũng có một phần lớn thoát ra ngoài kỷ
cương của Triều đình: những người lên rừng, xuống biển trao đổi phẩm vật, những
người làm thuê, gặt hái theo vụ mùa khác nhau của lúa núi lúa đồng, những kẻ
trốn xâu lậu thuế... Vào những lúc rảnh rỗi, tất cả có thể gặp nhau quanh chiếu
bạc, nơi đám hát. Triều đình không thể nào kiểm soát được đám dân “vong mạng,
vô lại” này.
Cho nên không nên lấy làm lạ rằng dưới quyền Nguyễn Nhạc có bọn
cướp Nhưng Huy, Tứ Linh ở nguồn An Tượng. Không ngạc nhiên với đám quân của Tập
Đình, Lý Tài “người cao lớn, gọt đầu kết tóc, giả làm người Thanh, khi đánh
giặc, uống rượu say, ở trần, đeo giấy vàng bạc xung trận liều mình”5. Tập thể
hỗn tạp, cuồng say bạo động đó thật xứng mang tên “quân ó”, “hàm hồ tương
ứng”.
Những khối người sẵn sàng bạo động được Nguyễn Nhạc nối kết thành
một lực lượng vững chắc. Nhưng để hướng dẫn vào những mục tiêu to lớn phải nhờ
ở tay một người từ xa đến, đem tầm mắt của ông Biện lại đất Vân Đồn vượt khỏi
sự hạn chế của những dãy núi chập chùng bao quanh vùng đất ông. Đó là Giáo
Hiến, môn khách của Trương Văn Hạnh, viên quan Nội hữu rủi ro trong cuộc tranh
chấp ở Triều đình. Trong trường dạy văn võ của Giáo Hiến ở An Thái có anh em
Lữ, Huệ.
Hoàn cảnh đổi mới đã đem thay đổi đến cho con người Giáo Hiến. Nếu
ở Phú Xuân ông phải lo sợ cho tính mạng mình thì ở phần đất cùng tịch này, ông
có đủ thư thả để nuôi chí căm hờn Trương Phúc Loan. Rời bỏ địa vị bên cạnh quan
Nội hữu, ông đã tách rời đám quan lại sang cả để đến gần với dân chúng hơn. Giá
ngày trước kia có động lòng trước cảnh trăm họ lầm than ông cũng đến làm như
Ngô Thế Lân, Nguyễn Cư Trinh dâng lên một bản “thái bình sách” là cùng. Trở
thành một tên trí thức “vô lại”, con đường giữa ông chọn là lật đổ Trương Phúc
Loan và Duệ Tông để tôn phò Hoàng tôn Dương. Giữa cái không khí thần quyền bàng
bạc khắp địa phương8 tạo bởi sự hỗn hợp tạp nhạp của tin tưởng nơi ông Dàng,
nơi Bà chúa xứ, nơi Thần núi..., ông đem cái lý trí của Nho giáo tạo ra phụ hoạ
vào việc giải thích lời sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” để xúi Nhạc làm loạn.
_______________________________________________
1.“Tout le pays est
entrecoupé de rivières sinon assez grandes pour recevoir des vaisseaux de fort
tonnage, du moins très disposées pour faciliter le commerce intérieur... Avant
les troubles, les primitifs habitants des montagnes, apportaient de grandes
quantités de poudre d’or qu’ils troquaient contre le riz, des étoffes et du
fer. Ce sont eux également qui procurent le bois d’aigle et le calambac de même
que certaines quantités de cire, de miel et d’ivoire...” (Chapman, bđd, t. 59).
Ai về nhắn với nậu nguồn,
Măng le gởi xuống, cá chuồn
gởi lên (ca dao).
2.Nghề đầu nậu cha truyền con
nối (vì sự kế tục tài sản và nghề nghiệp), nhưng ta không biết sáng kiến tổ hợp
nghề buôn trầu nguồn là của cha Nhạc hay chính của Nhạc thực hiện. Chỉ biết chữ
“nậu” được sử dụng nhiều ở nơi khác (hoàng lạp nậu: tổ hợp lấy sáp vàng; đồn
điền nậu: tổ hợp làm ruộng), nhưng không có nơi nào danh từ vượt khỏi lãnh vực
chuyên môn. Chỉ ở Bình Định (nhất là ở miền Nam) chữ “nậu” trở thành một danh
từ phổ thông, dùng chỉ một tập hợp (“nậu nguồn” ở câu ca dao trước) và đã tổng
quát hoá để thành đại danh từ chỉ “họ”, “người ta”, (“nầu”). Có phải đó là bằng
cớ chứng tỏ sinh hoạt tổ hợp nghề nghiệp ở đây được nâng cao hơn hết trong vùng
Nam Hà thời bấy giờ không? Đi xa hơn, có thể thắc mắc là lề lối sinh hoạt tổ
chức tập thể này có ảnh hưởng nào trong sự thành công của Tây Sơn không?
3.ĐNNTC, tỉnh Phú Yên, chỉ rõ
Thạch Thành ở đây chớ không phải Thạch Thành vẽ trong Hồng Đức bản đồ, thuộc về
Bình Thuận.
4.Thực lục, q11, 5b có các
tên: An Ngãi, Nhơn Ân, Nghĩa Hoà, Sơn Điền, Hà Bạc, Võng Nhi. Hồng Đức bản đồ,
t. 154, ghi 3 thuộc ở 3 huyện. Thì Đôn ở Bồng Sơn, Thì Lượng ở Phù Ly, Thì Ngạn
ở Tuy Viễn. Đáng chú ý là trong suốt tập bản đồ không có nơi nào ghi tên các
thuộc như vậy. Chữ “thuộc” cũng thấy được dùng cho một tổ hợp tìm kỳ nam (Tầm
hương thuộc ở Bình Khang. Thực lục q5. 37a).
5.Thực lục tiền biên, q 11,
18ab: Phủ biên tạp lục q1, 50a
6.Liệt truyện q30, 1b.
7.Giáo Hiến đến xứ An Thái
sớm nhất là vào năm 1765 (năm Võ vương mất). Vậy chỉ có Lữ, Huệ ở tuổi 13, 14
đi học thôi. Nhạc ở vào khoảng tuổi “nhi lập”, lại phải trông coi cơ sở làm ăn
hẳn không có tương quan thầy trò với Giáo Hiến. Sự kiện này giải thích tính
cách độc lập trong hành động của Nhạc và vai trò lu mờ của Giáo Hiến về sau
trong quân đội Tây Sơn.
8.Đọc Nước non Bình Định của
Quách Tấn, người ta thấy khuynh hướng thần bí đó, tuy sau bao năm đổi thay vẫn
còn lưu truyền trong truyện tích, trong quan niệm phong thuỷ về núi sông. Tên
Tứ Linh, một đám cướp ở An Tượng, có vẻ như không phải của một người cầm đầu mà
như của một tập thể tín ngưỡng, dấu vết một giáo phái hoạt động căn cứ trên tư
tưởng Cổ Trung Hoa chịu một ít biến đổi trên vùng đất còn đầy tính chất bộ lạc
này.
9. Liệt truyện q30, 1b. Không
có chi tiết nào rõ hơn về xuất xứ câu sấm để biết đó là của Nhạc hay của Hiến
bịa ra, hay có từ trước với một ý nghĩa nào khác.
Ảnh hưởng chắc
không phải chỉ xuyên qua Nguyễn Nhạc mà thôi. Một ông đồ nơi làng quê là cái
đích ngưỡng mộ của dân chúng. Đàng này lại là một ông quan ở Kinh về. Chính
kiến của ông chắc ăn sâu vào tâm trí mọi người một cách đáng kể. Ông đã đem vào
đầu óc mọi người một lý tưởng. Chính trong lúc những người trong triều Chúa
hoang mang, phân tán, hoang mang đến thành phản bội như sẽ thấy thì đám bần
cùng nổi loạn tưởng đã tìm được một ý nghĩa cao cả cho hành động của họ. “Họ
tuyên bố trong các làng mạc rằng họ không phải là những tên trộm cướp, nhưng họ
gây chiến tranh là để tuân mệnh Trời và tuân lệnh Đức Thượng sư”1. Họ nói và
làm, nên đã được dân chúng gọi là “những tên trộm cướp nhân đức”. Tất nhiên
không tránh được những hành vi vô kỷ luật riêng rẽ. Nhưng trong phần lớn, đội
quân Tây Sơn từng chứng tỏ một tinh thần chịu đựng kỷ luật rất cao được nâng đỡ
bằng một lý tưởng và họ đã giữ được tinh thần này trong gần suốt thời gian theo
chân anh em Nguyễn Nhạc.
Trong ý nghĩ của Giáo Hiến, chắc ông cũng chỉ mong Nguyễn Nhạc trừ
được Trương Phúc Loan để trả hận cho bạn và mong Nhạc trở thành bề tôi lương
đống của Triều đình. Đi theo đường lối này có Châu Văn Tiếp đóng ở núi Chà Rang
(Phú Yên). Nhưng quyền hành động vào một tay cơ trí có tham vọng như Nguyễn
Nhạc thì sự việc đâu có xảy ra như Giáo Hiến toan liệu được. Không phải là một
sự phản bội, nhưng chính là vì Nguyễn Nhạc đã không xuất thân như Giáo Hiến, ở
vào hoàn cảnh như ông.
Tuy nhiên trong buổi đầu, Nhạc không quên dùng chiêu bài tôn phù
Hoàng tôn Dương, khen ông này “nhân hậu thông minh”2. Ý nghĩa tôn phù đến với
Nhạc chỉ còn là một phương tiện không hơn, không kém. Tung chiêu bài tôn phù,
ông đã làm một công đôi việc. Một mặt nó sẽ làm cho công cuộc chiến đấu của ông
có chính nghĩa buổi đầu để cho cuộc thay đổi khỏi đột ngột, lôi người theo dưới
cờ của mình càng nhiều càng hay: Châu Văn Tiếp đã liên kết với ông suốt mấy năm
trời, cùng theo quân đi Quảng Nam rước Hoàng tôn về Quy Nhơn3. Như thế hàng ngũ
đối phương yếu đi. Lợi thế khác lại về ông: triều Chúa một khi còn giữ Hoàng
tôn trong phe họ thì cứ còn nghi ngờ mà không có cớ trừ bỏ rồi cứ lục đục mãi.
Triều Chúa thật ở vào thế suy yếu nhất trong khi Tây Sơn càng ngày
càng lớn mạnh.
Tháng giêng năm Nhâm Thìn (1772), Vua sai Chưởng cơ Tôn Thất Văn đi
tuyển xét ở Quy Nhơn4. Báo cáo về việc Tây Sơn lập 6 đồn trên vùng Thượng đạo
từ năm trước (1771)5 có đến tai Triều đình rồi không? Tự ông quan kiểm tra này
đã có thấy ở đây những dấu hiệu gì tỏ rõ một cuộc nổi loạn sẽ khuynh đảo được
dòng họ ông hay không?
Tình hình nghiêm trọng hơn khi vào đầu tháng 4-1773, Tây Sơn đã kéo
nhau từng toán xuống các chợ ngay lúc ban ngày, lấy của nhà giàu chia cho nhà
nghèo, đe dọa đốt nhà cửa để bắt người tuân theo. Họ họp từng nhóm khoảng 300
người, riêng vùng Dou hau (Đồng Hươu, Đồng Hào?) có đến 600 người và họ quấy
nhiễu suốt 7 tháng ròng ở Phú Yên, Quy Nhơn. Tổ chức của họ cứ theo thắng lợi
mà trở thành lớn lao, có quy củ hơn. Lúc đầu họ võ trang giáo mác, cung tên và
cả súng tay nữa. Họ đi bộ, nhưng sau đó, khoảng tháng 8, họ đi ngựa, cáng và
võng. Để bày tỏ vị trí phương nam và tính cách bạo động của quân khởi nghĩa, họ
mang mỗi đội một lá cờ đỏ dài độ 9 aunes (khoảng 1m)6. Thanh thế lớn lên, Nguyễn
Nhạc dời quân xuống Kiên Thành tự xưng làm đệ nhất trại chủ coi 2 huyện Phù Ly
và Bồng Sơn, cho Nguyễn Thung làm đệ nhị trại chủ coi Tuy Viễn, Huyền Khê làm
đệ tam trại chủ coi quân lương7. Có thể là đạo quân của Châu Văn Tiếp và quân
Nữ chúa Thị Hoả đã chia nhau khống chế Phú Yên. Quân thế thực phức tạp mà cũng
thực nguy hiểm.
Triều Chúa còn thờ ơ với biến cố quan trọng nơi tỉnh nhỏ này thì
quan Tuần vũ Nguyễn Khắc Tuyên làm gì mà chống cự lại được? Khoảng trung tuần
tháng 9-1773, vào một buổi sáng sớm, có 2 đội quân với nội công đến vây biệt
thự quan Trấn thủ, chiếm thành trì khiến ông phải bỏ lại ấn tín, vợ con, mặc
quần áo sơ sài chạy ra Tân Quan. Lời thuật của Jumilla chứng tỏ phản ứng về phe
Chúa ở địa phương hầu như không có. Về việc đánh phủ Quy Nhơn8, tuy ta không
nhận thuyết Nguyễn Nhạc chui vào cũi giả bị bắt vì địa vị chủ tướng không cho
phép chính ông làm như vậy, nhưng ta không thể bài bác hẳn câu chuyện9. Có thể
đó là một mưu để làm kế nội công, ngoại kích và kẻ ngồi trong cũi tuy không là Nhạc
vẫn có thể xưng là Nhạc để được lọt vào vòng thành gần dinh Trấn thủ hơn. Dân
bạo động vẫn có nhiều kế hoạch liều lĩnh ta không thể ngờ được.
Chiếm được hai kho lương ở Càn Dương và Nước Ngọt xong, đến tháng
10-1773, họ ra Quảng Ngãi thắng thêm một trận. Nhưng lần này họ gặp phản ứng
của triều Chúa. “Chúa sai các Phò mã Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Cửu Sách, Cai đội
Phan Tấn, Nguyễn Vệ, Tổng nhung Tống Sùng, Tán lý Đỗ Văn Hoảng đánh chẳng lại.
Sùng, Hoảng phải chết trận”10. Linh mục Jumilla cho biết rõ chi tiết hơn. Quân
hai bên gặp nhau ở Bến Đá sau lễ Các thánh (1-11). “Bọn phản loạn có 3 đạo
quân, hai bên là cánh quân Trung Hoa và người Thượng, giữa là người Việt...
Buổi chiều ngày thứ ba, quân Trung Hoa ở cánh phải giết được viên quan dũng
mãnh nhất của binh triều là Ou doi be”11. Họ toàn thắng và tiến vào Quảng Ngãi.
Linh mục còn cho biết có một đạo thuỷ binh của quân triều đi đường bể bị bão
đắm, chỉ còn thoát có một thuyền do một quan Công giáo điều khiển.
Trận thất bại này gây ra một sự rối loạn ở triều Chúa. Các quan đổ
tội lẫn cho nhau thông đồng với Tây Sơn. Cuối cùng, Trương Phúc Loan thắng thế
và Chưởng cơ Tôn Thất Văn phải dìm nước chết ở biển Tam Giang.
Hạ tuần tháng 12-1773 quân hai bên gặp nhau ở Bến Ván, “gần Tiên
Đoả”13. Đội quân hùng mạnh của Chúa từ Hội An14 gồm độ 5.000 người và cầm đầu
là một viên quan dũng mãnh nhất trong tỉnh. Có thể đó là Nguyễn Cửu Dật mà Thực
lục tiền biênthường ghi nhận chiến công. Jumilla đã kể một cách tỉ mỉ với ngày
tháng xác thực trận đánh này. Hai bên giáp trận ngày 22-12. Binh triều qua 2
ngày chiếm hai luỹ. Cánh quân Thượng của Tây Sơn ghi một thắng lợi nhỏ, đuổi
viên tướng triều chạy cùng với voi trận nhưng họ không tiến được hơn. Quân Tây
Sơn cố thủ trong chiến luỹ độc nhất vững nhất còn lại. Mười tám viên tướng Tây
Sơn và quân họ chống với 3 cánh quán triều 3 mặt: dọc theo chân núi , dọc theo
quan lộ và từ các thuyền chiến dưới biển bắn lên. Thuỷ quân bắn chết được một
viên tướng dũng mãnh của Tây Sơn với 2 tên quân. Sáng 27 quân triều toàn thắng
tiến vào luỹ với một lính chết và hai bị thương.
Lời thuật chuyện cho ta thấy một điều quan trọng: quân triều uy
hiếp được Tây Sơn nhờ có súng lớn. Lúc bấy giờ không có những cỗ đại bác lưu
động trên đất (Nguyễn Ánh sẽ du nhập kỹ thuật này làm rối Tây Sơn). Các súng
lớn gắn trên thuyền chiến và di động nhờ các thuyền đổi chỗ. Nhờ ưu thế đó,
quân triều có thể tấn công từ xa, lưu động, khiến địch quân hoảng hốt, tan rã
mau.
_____________________________________________
1.Thư Linh mục Jumilla kể
trước, bđd, t. 74.
2.Liệt truyện. q30, 2b.
3.Liệt truyện, q6. 21ab,
truyện Châu Văn Tiếp.
4.Thực lục tiền biên, q11,
15b.
5.Liệt truyện, q30, 2b.
6.Thư Jumilla đã dẫn. Chú ý
đến chữ “cờ đào” trong “Ai tư vãn” của Ngọc Hân. Ý nghĩa cờ trắng là cờ hàng,
cờ đỏ là cờ quyết chiến thấy trong cuộc bàn cãi đánh hay đầu ở Phú Xuân, năm
1786, dưới quyền Phạm Ngô Cầu.
7.Liệt truyện, q30, 2b, 3a.
8.Không phải thành Chà Bàn,
ĐNNTC, tỉnh Bình Định, q9, 14b chỉ rõ thành Càn Dương. Chúng tôi không có
phương tiện để tìm ra vị trí Càn Dương: nhưng ông Nguyễn Phương cho biết phủ
trị ở làng Châu Thành (Phù Cát). Chứng tích danh xưng đó có thể là một bằng cớ
đích xác, tuy nhiên bản đồ trang 6 của Đồng Khánh Ngự lãm địa dư chí đồ, quyển
thượng, lại viết là 珠 成 chớ không phải là 州 城.
9.Chúng ta lưu ý rằng Nguyễn
Nhạc trông coi vùng Phù Ly vẫn bao gồm được làng Châu Thành.
10.Thực lục tiền biên. q11,
18a.
11.Ou doi be: ông (Cou Chinh:
Cống Chỉnh, Dounai: Đồng Nai) Đội Be, Be là tên riêng, có thể chỉ Cai đội
Nguyễn Vệ (bua: vua) tuy không thấy Thực lục nói tử trận.
12.Thực lục tiền biên, q11,
18b nói rõ tên người và âm mưu lật đổ Trương Phúc Loan bị Loan vu cáo lại. Đối
chiếu với Jumilla, ta thấy ông viết: “Ở triều, các quan bắt giam hai người tôn
thất vì phải chịu trách nhiệm trận bại quân này”.
13.Liệt truyện, q30, 3b:
“Nhạc đến Bản Tân (本 津) bằng luỹ dĩ cự”. So với thư Jumilla, bđd,
t. 77, L.M viết: “Thiên đoạ”, cũng như nơi khác: “Tha đao”.
14.Bản dịch bức thư viết
Faifo. Không biết nguyên văn có như vậy không. J. Koffler ghi là Phai pho và
chú là “marché de vieilleries”. Ông Nguyễn Phương viết “Hải phố”. Có lẽ phải
gọi như tên gọi thường dùng cho địa điểm hiện tại giống như ở sách Quốc sử quán:
Hội An. Ông Nguyễn Bội Liên cho biết rằng Hải Phố, Chợ Chiều, Hội An là 3 địa
điểm riêng biệt (Sử Địa số 7-8, t.249-252). Chợ Chiều đúng là tên Marché de
vieilleries của J. Koffler. Vậy thì thương cảng nổi tiếng này cũng có lúc dời
đổi trọng tâm nhưng rốt lại địa điểm Hội An có vẻ được sử dụng lâu dài hơn hết
vì trên tấm bản đồ của Thiên nam tứ chí lộ đồ thư q1 (chụp ảnh, phiên âm giảng
giải trong Hồng Đức bản đồ, Viện Khảo cổ, trang 94, 95 mà ông Trương Bửu Lâm
cho là thực hiện vào giữa các năm 1630-1653, có các tên Hội An phố, Hội An
kiều, Hội An đàm và ở Bình nam đồ (sách trên, trang 148, 149. Ông Trương Bửu
Lâm cho rằng đã thực hiện khoảng các năm 1653-1690) cũng vẫn có Hội An phố, Hội
An đàm.
Tây Sơn thua phải
rút về Quy Nhơn. Nhưng trong chuyến vươn ra Quảng Nam này họ đã ghi nhận một
thắng lợi thu phục nhân tâm nữa. Người ta thuật cho L.M. Jumilla nghe rằng
trong lúc đi đường gặp một người Thiên Chúa giáo phải mang vòng sắt nơi cổ1, họ
rứt ra ném xuống đất. Dù mấy năm sau (1778), J. Liot có gặp một người cô (dì)
của chúa Tây Sơn mộ đạo đi nữa, ta cũng không thể cho đó là một hành động sùng
kính. Cử chỉ của tên quân rõ ra là của một kẻ chống đối muốn xoá bỏ những quy
chế đang lưu hành, thế thôi. Tuy rằng lần sau ra đóng ở nhà thờ Tiên Đoả, tướng
Tây Sơn (Nguyễn Nhạc ?) đã tỏ thái độ thân thiện với đạo giáo, đó cũng vẫn
không phải là thái độ của một con chiên mà là của một tay chính trị. Họ lại
thăm L.M, xin thuốc men và cho phép giảng đạo công khai, xây nhà thờ, cho 13
người lính gác bảo vệ. Họ lại đòi L.M tới Dinh nói rõ nguyên cớ nổi dậy của họ
và cho biết mục đích của họ là thay đổi chúa Nguyễn và chính quyền. Tuy L.M đã
dè dặt trả lời rằng ông không muốn “can dự vào việc chính trị” nhưng há rằng
trước đó (thư 15-2-1774), ông đã không nhận xét rằng chính quyền “xấu xa” và
cho rằng “giờ phán xét của Thượng đế đã điểm đối với chúa Nguyễn và bầy tôi” đó
ư? Tất đã có những phản ứng của giáo dân hùa theo Tây Sơn khiến chúa Nguyễn
phải cho ra một sắc luật ân xá ngày 12 tháng 3 Giáp Ngọ (22-4-1774).
Tuy nhiên sau trận Bến Ván, Tây Sơn phải lúng túng. Tháng giêng
Giáp Ngọ (1774), quân triều mặt bắc đánh thốc vào Quy Nhơn. Ngay trong sào
huyệt của mình, Tây Sơn có thể để phản công dữ dội. Tập Đình, Lý Tài phục kích
quân triều ở núi Bích Kê vào lúc khoảng 9 giờ tối, làm rối loạn 40 voi địch và
đến sáng hôm sau thì đuổi kịp Tiết chế Tôn Thất Hương đâm chết. Cậu bé Tôn Thất
Thăng (12 tuổi) trên đường tiếp chiến, hoảng sợ bỏ quân chạy suốt đêm. Chỉ trong
7 ngày, quân Tây Sơn chiếm lại Quảng Nam và cả tỉnh thành.
Họ ở đấy trong 2 tháng chống với Tôn Thất Nghiêm. Nghiêm bị đòi về
chống Trịnh để Nguyễn Cửu Dật ở lại làm Tả quân Đại đô đốc đánh Tây Sơn 10 trận
lui về Bến Ván. Họ có đủ thì giờ vơ vét của cải, mang đi 45 con voi, khí giới
trong đó có 82 khẩu đại bác mà người Anh và người Hoà cho (?) chúa Nguyễn để
giữ thành.
Việc rút lui này có thể còn do sự hiện diện của 2 chiếc tàu Ma cao
vừa đến ở đấy. Cho nên, với sự trực tiếp can thiệp của chiếc tàu Diligent bênh
chúa Nguyễn, họ đã không ngần ngại phá Hội An, vừa để cướp tiền bạc, vừa để trả
thù. Bốn năm sau, Chapman ghé đến còn trông thấy cảnh điêu tàn của một nơi mà
ngày trước “hàng trăm thuyền bè từ các cửa biển Trung Hoa và Nhật Bản đến mua
đường, quế, hồ tiêu, kỳ nam...”5. Hành động phá phách trong chiến tranh này tất
không sao tránh khỏi nhưng cũng đủ làm xa lánh các khách thương mà sau này Tây
Sơn cố tìm cách vời đến vì thấy cần thiết, nhưng họ không hoàn toàn đạt được ý
muốn.
Còn đương chống nhau với Nguyễn Của Dật ở Quảng Nam thì Tây Sơn lại
gặp phản ứng của Gia Định: mùa hạ Giáp Ngọ (1774), viên Điều khiển ở đó là
Nguyễn Cửu Đàm sai Lưu thủ Long Hồ là Tống Phúc Hợp ra đánh Bình Thuận, Diên
Khánh, Bình Khang, vượt vịnh Hòn Khói lăm le chiếm Phú Yên.6. Nhưng Tây Sơn
lúng túng thì Duệ Tông cũng bối rối không kém vì quân Trịnh đã kéo vào.
Cái hận không đánh chiếm được Thuận Hoá vẫn canh cánh bên lòng các
chúa Trịnh. Từ khi Trịnh Doanh chết đi, Trịnh Sâm lên nối ngôi (1767), tiếp tục
đánh dẹp giặc giã còn lại trong nước: năm 1769 phá tan ổ giặc Hoàng Công Toản
(con Hoàng Công Chất) ở Hưng Hoá; cùng năm, cứ điểm Trấn Ninh của Lê Duy Mật
cũng bị phá vỡ. Đám quân binh đang hăng sức thì xảy ra việc Nam Hà. Chính viên
Trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Đạt vừa dự vào trận Trấn Ninh đã phi báo cho chúa
Trịnh rõ. Đồng thời nguồn tin loạn Tây Sơn và việc Trương Phúc Loan chuyên
quyền gây rối cũng được chính các nạn nhân của Loan, con Tôn Thất Duệ, Tôn Thất
Văn chạy ra Thăng Long báo cáo tỏ tường7. Hết sức dè dặt, Trịnh Sâm cũng phái
vào Nam một đạo quân lớn do Quận Việp Hoàng Ngũ phúc cầm đầu với các danh tướng
của Trịnh còn giữ những vai trò quan trọng sau này: Phó tướng Bùi Thế Đạt,
Thuộc tướng Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Hoàng Đình Bảo.
Đến Hà Trung, Phúc khôn ngoan nghe theo lời dặn của Trịnh Sâm biên
thư cho Nam Hà mượn tiếng dẹp giặc. Đi sâu vào cương giới, ông cũng áp dụng
chính sách chia rẽ đó: một bài hịch dài kể tội Trương Phúc Loan được ban bố
ra9. Thực ra, Hoàng Ngũ Phúc chỉ xô một bức tường đã hư nát rồi. Nam Hà không
còn có được ý chí đoàn kết của trăm năm về trước nữa. Mầm mống rối loạn bên
trong đã làm cho lòng người phân tán. Cho nên, phản bội cứ tiếp theo phản bội
mà làm chúa Nguyễn thua mất.
Quân mới đến bắc Bố Chính đã có một Tri phủ tên Trần Giai đầu Trịnh
xin làm hướng đạo. Ở Đăng Xương (Quảng Trị), một thư sinh làm thơ xin yết kiến
Hoàng Ngũ Phúc chỉ vẽ sở trường, sở đoản của quân Nguyễn để Trịnh quân liệu mà
chế ngự. Phản bội khoác hình thức hèn hạ hơn như ở trường hợp hàng tướng Kiêm
Long. Ông này xúi Quận Việp tiến quân bằng một câu nói ý “Đường không đi không
tới, chuông không đánh không kêu”. Lòng người đã như vậy thì thành luỹ vững
chắc mà làm gì? Còn đâu thời Trương Phúc Phấn chống giữ cho luỹ Trường Dục? Cho
nên, ở Trấn Ninh, Hoàng Đình Thể được các biên tướng giữ thành làm nội ứng mở
cửa cho quân Trịnh tràn vào.
Tinh binh lúc bấy giờ ở Quảng Nam hết đến nỗi Duệ Tông phải rút Tôn
Thất Nghiêm về. Tôn Thất Thiệp, Cai đội Thuộc nội Đặng phải đem cả quân Cấm vệ
ra chống giữ Kinh thành. Quân thế thật là yếu cho nên trước đó, Trương Phúc
Loan đã bị các đại thần họp lại bắt đưa cho Hoàng Ngũ Phúc, hy vọng quân Trịnh
giữ lời tuyên bố trong bài hịch ở Hồ Xá mà dừng tiến quân10, nhưng không ngăn
họ nại cớ khác là vào giúp đánh Tây Sơn. Thành Phú Xuân bị vây ngày 28 Tết. Ất
Mùi (30-1-1775), Duệ Tông phải dẫn quan binh, gia quyến với cả cậu bé Nguyễn
Phúc Ánh, nương đêm tối ra đi theo cửa Tư Dung vào Quảng Nam, bỏ lại cả một kho
tàng làm cho Trịnh Sâm thêm kiêu hãnh.
Mất Trương Phúc Loan, không phải họ Nguyễn được củng cố lại quân
thế. Có thể Duệ Tông không ưa gì Loan, nhưng suốt 10 năm, ngôi vị của Nguyễn
Phúc Thuần đã gắn liền với quan Quốc phó. Nay mất Loan, những khuynh hướng
chống đối có thể để ép Duệ Tông phải chịu nhượng bộ trên đường lưu vong. Cho
nên, ở Quảng Nam, Hoàng tôn Dương được tôn làm Đông cung coi giữ tỉnh này.
Nhưng Chúa phong Thế tử cho Dương thì Tây Sơn cũng đòi Dương. Thêm
nữa, họ lại ở vào thế mạnh. Để cụ thể hoá đòi hỏi, họ tiến quân theo 2 đường đánh
ép lại: Tập Đình, Lý Tài lên cửa biển Hợp Hoà, Nguyễn Nhạc đem bộ binh từ sông
Thu Bồn đổ xuống, xua Nguyễn Cửu Dật về Trà Sơn (bán đảo Sơn Trà)12. Dương chạy
về Câu Đê, Chúa chạy về Liên Chữ. Địa vị Duệ Tông càng bị đe doạ nặng. Ông phải
tìm nơi nương tựa, tránh nguy hiểm, một nơi hy vọng còn người trung thành với
danh hiệu Chúa vì ở xa địch và cách biệt với những điều tiếng không hay về sự
tranh chấp trong Hoàng gia: đất Gia Định. Ngày 12 tháng 2 Ất Mùi (1775), Chúa
xuống thuyền13. Và vẫn có cậu bé Nguyễn Phúc Ánh đi theo.
Bị Duệ Tông bỏ rơi, Đông cung Dương dễ dàng cho Tây Sơn thuận tiếng
chiếm đoạt hơn. Họ tổ chức hai đạo quân rầm rộ đi “rước” ông về được Hội An sau
khi phá tan một âm mưu phản bội trong hàng ngũ họ14. Biến chuyển này thực là
quan trọng trong tấn tuồng lịch sử đang diễn ra. Các vai trò sắp phải đối bộ
mặt, tuy người ta vẫn thấy nguyên vẹn các phe phái: Tây Sơn núp bóng sau Đông
cung, Duệ Tông đã cao bay xa chạy, và quân Trịnh lăm le tiến vào.
____________________________________________
1.Thư Jumilla, bđd, t.71: theo luật cấm đạo 1750, người Thiên Chúa
giáo phải mang một vòng sắt nơi cổ, lớn bằng ngón tay, có đính miếng sắt khắc
hai chữ “tả đạo” và phải cắt cỏ cho voi ăn.
2.A. Launay , III, t. 16, 17 . Chuyện ở Qui Nhơn.
3.Revue Indochinoise (RI) 1913. t. 535. Bản Pháp ngữ của đạo luật
đăng trong tờ Gazette d’ Amsterdams tháng 2-1776.
4.P. Jumilla, bđd, t. 18. Liệt truyện q30, 4ab. Thực lục tiền biên,
q11, 19ab, 20a.
5.Chapman, bđd. t. 37.
6.Liệt truyện, q30, 4a. 5b gọi vịnh Hòn Khói là Vân Phong. Tên này
được đặt từ năm Minh Mạng thứ 6 (1825 (ĐNNTC, q10, Phú Yên).
7.Thực lục tiền biên. q11, 20b.
8.Cương mục q44, 10b, 11a nói quân có 33 dinh, 3 vạn người, Thực
lục tiền biên, q11, 21a: 23 dinh tướng sĩ; Labartette, thư ngày 26-1-1775 (A.
Launay III, t. 102) cho biết khoảng 13, 14.000 người.
9.Thực lục tiền biên. q11, 23ab.
10.Thực lục tiền biên. q11, 23b, 24a.
11.Thực lục tiền biên, q11, 25b, 26a, P. Jumilla, t. 83.
12.ĐNNTC. tỉnh Quảng Nam, mục nói về Trà Sơn úc (vũng Đà Nẵng) chỉ
bán đảo Sơn Trà là Trà Sơn. Nhưng Hồng Đức bản đồ, t.148, 149, chỉ rõ Sơn Trà
dưới biển và Trà Sơn tận trên nguồn trong núi. Chắc Nguyễn Cửu Dật chạy về Sơn
Trà thì phải hơn vì ở đây ông mới tiện đường theo Duệ Tông được.
13.Thực lục tiền biên, q12, 2a.
14.Thực lục tiền biên, q12, 4a.
Bây giờ Trịnh đối đầu với Tây Sơn. Cũng như lần mới gặp quân
Nguyễn, Nhạc thua to một trận ở Cẩm Sa, phải rút về Bến Ván và đem Đông cung về
giấu ở Hà Riêu, An Thái rồi ở Bông Giang. Đối với quân Tống Phúc Hợp chực tiến
ra, Nhạc dùng Đông cung diễn tấn tuồng tôn phò1 để đánh lừa Hợp không phòng bị
cho Nguyễn Huệ đánh trận thắng chớp nhoáng bất ngờ đầu tiên trong đời viên
tướng tài ba chuyên yểm kích này (tháng 7 Ất Mùi 1775).
Nhưng có Đông cung để lợi dụng, Tây Sơn cũng gặp phải trở ngại
trong nội bộ họ. Đã nói trong buổi đầu dấy loạn, với chiêu bài tôn phò Dương,
họ tập trung thêm dưới trướng những người chỉ có mục đích tôn phò, điển hình là
Châu Văn Tiếp. Nhưng đâu phải Nhạc ngây ngốc dọn cỗ sẵn cho người ăn như vậy.
Cho nên ý mượn cớ tôn phò để xây dựng sự nghiệp riêng phải tỏ rõ ra một khi Tây
Sơn có Dương trong tay, nếu Nhạc không muốn đổ vỡ bao nhiêu dự tính của mình.
Trong số những người hợp tác nhân dịp này biết rõ điều đó để chống đối lại với
ông, quan trọng hơn cả tất là Châu Văn Tiếp3. Người thứ hai cũng quan trọng là
Lý Tài. Nguyên nhân phản bội tuy không cùng là một với Tiếp, nhưng cũng do ảnh
hưởng gián tiếp của việc bắt Đông cung Dương: ở Hội An, Tập Đình muốn giết Dương,
Lý Tài phải can gián mãi mới thôi. Cảm tình giữa hai người nảy sinh từ đó, và
một khi chống đối với Nguyễn Nhạc, Lý Tài sẽ gắn bó với Dương.
Các hành vi chống đối, bội phản này rất quan trọng trong việc làm
yếu sức Tây Sơn và tiếp sức cho nhà Nguyễn hấp hối dài hơi hơn. Ta biết đám
quan binh nhà Nguyễn, trừ một vài người, không có đủ gan dạ, cơ trí để đánh
giặc: đã có nhiều chứng dẫn trước rồi, hãy kể thêm một Tống Phúc Hợp già cỗi,
do dự, chẵn một năm trời mà không thống lĩnh Ngũ dinh qua được Phú Yên. Gan dạ,
liều lĩnh dứt khoát để lấp đầy thiếu sót về số đông, về kỹ thuật, những cái đó
trong buổi đầu này phải được huấn luyện từ trong lò lửa Tây Sơn. Cho nên, những
hàng tướng Tây Sơn thực là của quý cho nhà Nguyễn. Hậu quả gián tiếp cho việc
Lý Tài về với Gia Định là sự hợp tác của những người Trung Hoa ở đấy và cùng
với việc Nguyễn Nhạc đuổi Tập Đình sau trận Cẩm Sa, có lẽ đám di dân Trung Hoa
ở Quy Nhơn đã mất sáng kiến mà trở thành thụ động. Ảnh hưởng trực tiếp là việc
suy yếu nhà Tây Sơn trong khoảnh khắc: Tây Sơn mất một nửa số lượng chiến
thuyền trong khi lực lượng thuỷ quân là lực lượng làm cho họ tự tin nhất4 vì
lực lượng cốt cán đó giúp họ đổ bộ được vào Gia Định.
Nhưng dù sao thì vượt qua được những chống đối gây nên vì chuyện
Dương, Tây Sơn cũng chính thức bước vào lúc hành động như một lực lượng độc lập
với chính quyền cũ, không nhờ vả gì hết, cho dù chỉ là một chút tiếng tăm. Họ
đem Đông cung an trí ở Thập Tháp để tự lập chúa mới (tháng 3 Bính Thân 1776).
Với Trịnh, họ khôn khéo xin đầu hàng. Có những khó khăn trong tình hình quân
chính ở Thuận Hoá (đói kém, dịch tể, sức chống đối của cựu thần Nguyễn), có
những cản trở về mặt tâm lý (Trịnh vẫn coi đất mới khai phá của chúa Nguyễn như
không phải của họ, họ chỉ bận tâm trong toan tính “đồng hoá”5 vùng Thuận Quảng
cũ vừa chiếm lại được thôi), khiến Hoàng Ngũ Phúc phải chấp nhận cuộc hàng đầu.
Tây Sơn đóng vai trò “tướng Trịnh” khôn ngoan như họ đã tôn phò Dương: mỗi một
công trận họ đều báo cáo với Hoàng Ngũ Phúc. Cho nên sau trận Phú Yên, Phúc bấy
giờ ở Châu Ổ (Quảng Ngãi) bèn phong cho Nguyễn Huệ chức Tây Sơn Hiệu Tiền phong
Tướng quân.
Thế quân bình Tây Sơn - Trịnh cũng tạm thời vững nhờ tình hình kinh
tế hai vùng được nhà cầm quyền Tây Sơn khai thác mối tương quan có lợi cho phe
họ.
Trong chiến tranh, phần lớn vùng của họ chỉ chịu một vài trận rồi
tránh khỏi sự giày xéo qua lại trong các cuộc tiến quân. Cho nên không lấy làm
lạ rằng hai năm sau, Chapman đến vùng Quy Nhơn thấy “bờ biển nhiều chỗ trồng
trọt kỹ lưỡng... các vùng thấp trồng lúa và những cây tiêu trùm lên các đồi đến
tận đỉnh”. Trên đường đi cáng lên thành Chà Bàn, ông cũng thấy vào trong một
thung lũng trồng trọt kỹ lưỡng và ruộng lúa được cấy ngay trong thành7. Tiềm
lực Tây Sơn được vững vàng còn nhờ số vàng bạc, khí giới họ cướp được ở các
cuộc công phá tỉnh thành, hoặc nơi họ Nguyễn, hoặc nơi dân chúng, nhất là của
cải thuyền bè của đám thương nhân Trung Hoa8. Chính sách chia của thô sơ buổi
đầu khiến dân chúng nghèo khổ không lâm vào tình trạng đói khát. Lại quá khứ
“dân đen” của những người cầm đầu còn gần quá nên họ sống rất giản dị, ít hao
tốn. Chapman nhận xét rằng triều đình Tây Sơn thiếu cái huy hoàng, tráng lệ như
của các ông Hoàng Đông phương, nhưng có tính cách sắp đặt, cẩn thận làm người
ta có cảm giác đứng trước một vị chúa tể dũng mãnh. Đám quân hầu của một vị phò
mã Tây Sơn có dáng kỷ luật, mạnh bạo. Đám quân lính dưới quyền gặp gì mặc nấy.
Hiệu suất khả năng kinh tế do dó tăng lên. Cộng với khả năng của đám người cầm
đầu, lòng hăng hái của binh sĩ, Tây Sơn quả có đủ điều kiện chủ quan làm e dè
Hoàng Ngũ Phúc ở chính sào huyệt của họ.
Quân Trịnh ở Thuận Hoá, Nam, Ngãi có cả sự ủng hộ của Bắc Hà. Nhưng
họ cũng vấp phải những khó khăn như tổ tiên họ đã gặp. Trịnh Sâm đã cẩn thận
lập ra cả một tổ chức chuyển vận quân hướng từ Sơn Nam tới Đồng Hới9. Nhưng
ngay từ đầu năm đó (tháng 2 Giáp Ngọ) Nghệ An đã gặp đói, dân chết10. Rồi khi
tiến sâu vào Nam Hà thì quân Trịnh gặp thêm khó khăn, lần này cực kỳ nghiêm
trọng: chiến tranh lôi kéo toán quân qua lại tàn phá, Quảng Nam, Thuận Hoá đã
gặp một trận đói kinh khủng trong lịch sử.
Đói từ tháng 10 Giáp Ngọ (1774)11. Ở cửa Hàn (Tourane) không còn
một con heo, con gà, con vịt. Đường cát trước kia sản xuất thật nhiều, nay biến
mất. Tiền sụt giá: một quan còn giá trị độ một đồng tiền. Đó là tình trạng giữa
năm 177512. Đã có người đàn bà ở giáo khu Bau nghe (?) ăn. thịt con13. Tình
trạng nguy hại hơn là thêm vào với việt mất nhân công, người ta không còn hạt
giống để gieo mùa sau14. Cho nên đói khổ không chừa đến cả đám quan quyền, tôn
thất: các phu nhân phải đi ăn xin. Giáo sĩ Labartette vào một chủ nhật, ngạc
nhiên thấy một người cháu vua dắt con trai, cả hai đều rách rưới, đến ăn mày
ông15. Cả bản Hoài nam khúc thảm thương là tiếng kêu than của đám quan quyền họ
Nguyễn mất tước lộc, chịu đựng kiếp sống của kẻ chờ tiếng “ta lai” (lại đây:
tiếng gọi người ăn mày), van vỉ miếng ăn, rên siết đói lạnh.
Có thể nào mà quân Trịnh còn tinh thần chiến đấu vững chắt lúc ban
đầu ở một nơi xa lạ đầy chết chóc, gớm ghiếc như vậy? Thêm nữa, chết chóc vì
đói khổ dẫn đến chết vì bệnh tật. Đến điều này thì quân Trịnh không còn hy vọng
gì tránh khỏi. Họ chết quá nửa. Và chính Hoàng Ngũ Phúc trong chuyến kéo quân
về Phú Xuân cũng phải bỏ mạng dọc đường (tháng 10 Ất Mùi, 1775)
Thiên tai loại dùm cho Tây Sơn một kẻ địch. Họ Nguyễn ở phương Nam,
trên một vùng phì nhiêu, tiếp xúc gần hơn với trào lưu giao thương quốc tế qua
sự trung gian của đám Hoa kiều Minh dân lưu vong hay thương nhân, có tìm cách
gì loại trừ được những mâu thuẫn nội bộ đem từ Phú Xuân vào, có biết cách khai
thác những điều kiện có lợi cho mình để chống đối với Tây Sơn không?
__________________________________________
1. Liệt truyện, q30, 7b kể rõ
ràng chi tiết. Việc Tống Phúc Hợp chịu cử sứ giả ra Qui Nhơn xem xét tình hình
trong lúc hai bên còn đánh nhau chứng tỏ tình hình phe phái lúc này còn mù mờ
khiến cho Nhạc dùng được Đông cung Dương để gây chia rẽ phía triều Chúa cả năm
trời mãi đến khi ông thấy đủ lực lượng để không cần Dương nữa.
2. Thực lục tiền biên, q12.
6ab.
3. Sự kiện làm cho Tiếp dứt
khoát với Nhạc hẳn là trận đánh đuổi Tống Phúc Hợp. Việc Lý Tài, Châu Văn Tiếp
tách rời từ cuối năm 1775 khiến cho Nguyễn Nhạc thấy quân thế mình thuần nhất
hơn, ảnh hưởng đến quyết định sau này của ông.
4. Chapman, bđd, t. 30, viết:
“Vì vậy ông (Nhạc) phải chịu một vố nặng khi tôi ở đây, lúc 1/2 thuỷ quân tách
ra sau một chuyến kình cãi giữa người em ông và một trong những viên tướng
chính dưới quyền”. Chapman muốn nói ai đây? Thời gian được xác định “khi tôi ở
đây”, nghĩa là vào khoảng tháng 7- 1778. Khoảng này không có sự tan rã nào quan
trọng. Có thể Chapman nghe chuyện trước đó (nhưng đối với thời đại vẫn còn là
chuyện thời sự). Cuối năm 1775 có 3 người phản Tây Sơn: một người không quan
trọng nên bị Tống Phúc Hợp giết, còn lại Châu Văn Tiếp và Lý Tài. Châu Văn Tiếp
tụ chúng trên núi, quân bản bộ toàn là người Thượng. Chỉ có Lý Tài đã từng điều
khiển thuỷ quân ở Quảng Nam và chịu dưới quyền sai phái của Nguyễn Huệ khi ông
này tập kích Phú Yên rồi giao cho Tài giữ (để Tài trả lại cho Tống Phúc Hợp).
Cho nên. Chapman muốn nói đến việc Tài vậy.
5. Thực lục tiền biên, q12,
12a.
6. Thực lục tiền biên, q12,
6b.
7. Chapman, bđd, t. 26, 27.
Chapman đến cửa Thi Nại ngày 13-7-1778, bắt đầu lên Chà Bàn ngày 22-7.
8. Chapman, t.30. Thực lục
tiền biên, q12, 5a. Tây Sơn cướp cả thuyền lương của Mạc Thiên Tứ viện trợ cho
Duệ Tông.
9. Cương mục, q44, 11ab.
10. Cương mục, q44, 10a.
11. Thực lục tiền biên, q11,
22a.
12. Thư của Labartette từ Tho
duc ngày 21-6-1775 (A. Launay, III, t. l03).
13. Thư của Labartette từ Tho
duc ngày 21-7-1775 dẫn lời của ông Halbout ở Quảng Nam (A. Launay. III. t.
105). Hoàng Quang: “người ăn thịt người trời đất thấu chăng”.
14. Thư của ông Halbout tháng
7-1775 (A. Launay III. t. 106).
15. Thư của Labartette ở Tho
duc 21-7-1775 (A. Launay, III, t. 104).
16. Thục lục tiền biên, q12,
7a. Vấn đề đặt ra là dịch tễ có lan tràn đến vùng Tây Sơn hay không. Có lẽ tính
chất tách biệt của 2 đạo quân, 2 chủ quyền, ngăn cản sự liên lạc giữa hai vùng
khiến vô tình có một hàng rào y tế được lập nên có lợi cho Tây Sơn.
LỰC LƯỢNG NGOẠI QUỐC
Lưu ý đến lực lượng Tây phương vì tiến bộ kỹ thuật của họ * Các đế
quốc thứ hạng * Các đế quốc hàng đầu: cuộc cạnh tranh Anh, Pháp * Những kẻ
phiêu lưu.
Thật là một chuyện không cần phải bàn cãi khi ta nhận xét rằng
những biến động trong một nước tất có những tương quan ảnh hưởng với các lân
bang. Những phong trào độc lập thời Bắc thuộc phần lớn được thành công nhằm vào
những giai đoạn Trung Hoa gặp rối loạn, qua phân. Trái lại, những khi trong
nước Việt có tranh giành ngôi báu, rối loạn thì quân Trung Hoa lại có cớ để đem
đại binh sang. Cả một vùng Thuỷ Chân Lạp về tay chúa Nguyễn nhân dịp họ này
nhìn về phương nam là do những tranh giành thế tập của các triều vua Cao Miên
làm suy yếu thực lực trong nước họ. Từ cuối thế kỷ XV, với những phát kiến về
hàng hải, người Tây phương đem thuyền bè sang Á đông, mở rộng sự giao tiếp Đông
- Tây thì các nước ở Á châu một khi có biến động lại thấy ngay sự can thiệp của
người da trắng. Quần đảo Nam Dương là một thí dụ cụ thể. Nước Đại Việt trong
những thế kỷ phân tranh Nam, Bắc, có ngăn chặn được sự quấy rối của các thương
nhân Tây phương cũng nhờ nơi tổ chức chính trị chặt chẽ ở hai miền. Cuộc thử
sức giữa thuỷ quân và Thế tử Nam Hà Nguyễn Phúc Tần với hạm đội Hoà Lan vào
cuối năm Quý Mùi (1643) mà kết quả là chiến thắng về tay quân Nguyễn đã làm cho
Công ty Đông Ấn Độ Hoà Lan (VOC) - nói rộng ra, các thương nhân Tây phương -
chịu bằng lòng đến buôn bán dưới sự kiểm soát của các chính quyền hiện hữu.
Tình thế đã đổi khác khi thời gian trôi qua. Biến động Tây Sơn làm
đảo lộn các trật tự cũ. Duệ Tông dắt Nguyễn Ánh và tiếp theo sau đó, Đông cung
Dương chạy vào Đồng Nai. Họ Trịnh ở phương bắc bề ngoài có vẻ hùng mạnh nhưng
bên trong cũng bị mục nát vì sự nhu nhược của đám sĩ phu cầm quyền trước thái
độ khinh lờn của đám Kiêu binh Thanh Nghệ. Từ 1674, họ đã giết quan Tham tụng
Nguyễn Quốc Trinh, phá nhà Phạm Công Trứ. Một lần nữa vào năm 1741 họ lại phá
nhà và chực giết Tham tụng Nguyễn Quý Cảnh. Chỉ còn đợi Trịnh Sâm chết đi
(1782) với rối loạn bỏ trưởng lập thứ là Kiêu binh có thể can thiệp vào việc
vua chúa để rồi huênh hoang tuyên bố rằng “ngày nay, được có triều đình, khiến
vua tôn ngồi yên mà hưởng phú quý đều là sức của chúng mình”. Họ đã đi đến tột
đỉnh của quyền hành nhưng vì thiếu một lý tưởng, thiếu một người cầm đầu sắc
sảo, chúng ta không gặp được ở Bắc Hà một chế độ quân chính mà chỉ một tình trạng
ô hợp, hỗn loạn của Kiêu binh thôi.
Nhìn về phương bắc, bực thầy của Đại Việt, cùng thời gian cũng đang
ở trong tình trạng ruỗng nát bên trong cái vỏ hào nhoáng của triều đại Càn Long
(1736-1796) rực rỡ. Chiến thắng của quân Thanh ở Tân Cương (1755) mở rộng biên
giới phía tây ngăn chận tham vọng bá chủ của Nga hoàng đồng loã với đế quốc
Anh, nhưng tạo gánh nặng chiến phí gìn giữ quân đội thống trị. Ở nội địa, dân
số vùn vụt tăng vượt xa số lượng đất đai khai khẩn không đủ cung ứng cho nhu
cầu, tạo nên vấn đề cấp thiết và quan trọng nhất cho Trung Hoa mãi đến bây giờ.
Giai cấp địa chủ bản xứ vốn đã hợp tác với quân Thanh, bây giờ lại hưởng thụ
thêm mối lợi đất đai tăng giá nên cố sức giữ cái đà tích luỹ bằng cách ngăn
chận công thương nghiệp không cho phát triển mạnh. Mâu thuẫn xã hội gặp dịp bùng
dậy đồng loạt với mâu thuẫn mang hình thức quốc gia chủ nghĩa. Loạn nổi lên ở
Sơn Đông năm 1774, năm sau Bạch Liên giáo phất cờ phản Thanh phục Minh ở Hà
Nam, rồi An Huy. Đàn áp của chính quyền thật tàn nhẫn trên 6 tỉnh có nhiều tín
đồ và cuộc loạn hao của tốn người dữ dội nhất từ 1793 đến 1802 mới chấm dứt.
Tình hình đáng chú ý hơn là trong khi Nam Bắc Hà, Trung Hoa ở các
tình trạng rối ren, ngưng trệ kinh tế, kỹ thuật thì Tây phương bắt đà những
tiến bộ kỹ thuật từ thế kỷ XV, càng ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Xét lịch sử Âu châu, sử gia Tây phương nhận thấy từ năm 1640, trái
với tình trạng ngưng trệ trước đó, là bắt đầu cho một giai đoạn thịnh vượng về
kinh tế. Sự tiến triển của hạ tầng cơ sở cứ biến đổi dần, ngấm ngầm mà chắc chắn
suốt tiền bán thế kỷ XVIII.
Đầu tiên là sự phát triển dân số. Thuyết Malthus(1766-1834) là ý
thức của Âu châu hoảng hốt lên vì sự gia tăng đó. Các tay lãnh đạo, trí thức ưu
tú là những người trẻ tuổi. Thế kỷ XVIII là “thế kỷ của tuổi trẻ Âu châu”. Gia
tăng dân số gây nên sự nghèo đói cho đám bần cùng khiến họ phải ra tỉnh, đi ra
nước ngoài. Dòng xuất cư phiêu lưu tìm sang giàu khích động ở các thế kỷ trước
vì vàng bạc của Mỹ châu, vì các chuyện kỳ lạ của Marco Polo đưa về, đến bây giờ
vì biến đổi đã kể vẫn tồn tại với những người bỏ xứ mà đi.
Đáng kể là những người Âu châu ra ngoài nước - buôn bán, truyền
đạo, phiêu lưu - hưởng được cả những thành quả về tiến triển kỹ thuật xảy ra
trên đất nước họ. Thế kỷ XVIII ở Âu châu thấy xuất hiện những khoa học thuần
tuý đồng loạt và có tương quan với những phát triển kỹ thuật trong các ngành
dệt, máy hơi nước, chế tạo kim khí, nhất là ở Anh.
Tất nhiên, những tiến bộ này giúp ích cho sự phát triển lực lượng
quân sự mà Âu châu tăng tiến từ khi biết dùng thuốc súng của người Trung Hoa
qua dân Ả Rập. Nếu trước kia Alexandre de Rhodes ngắm chiếc thuyền Nam chinh
của chúa Trịnh mà không thấy chiếc thuyền Hoà Lan nào dài bằng, thì đến thế kỷ
này tình thế đã đảo ngược. Chưa nói đến dự trù can thiệp của Pigneau de Béhaine
dựa trên sự kiêu hãnh về ưu thế quân sự của Tây phương, Chapman trong chuyến đi
dò xét Nam Hà năm 1778 theo lệnh của Toàn quyền Anh ở Ấn Độ cũng có cảm tưởng
tương tự.
Nhận xét về thực lực Tây Sơn, ông ghi: “Các đạo quân của Nhạc ít
đáng kể, giá trị quân sự kém lắm và tôi có thể nói chắc chắn rằng độ 100 người
có kỷ luật sẽ đánh lui toàn bộ quân đội của ông ta. Thuỷ quân của ông gồm có
vài chiếc thuyền chiến và 3 hay 4 ghe chài lấy của người Trung Hoa...” Có thể
là còn một số quân rải rác các nơi, đi theo Nguyễn Huệ, nhưng riêng chính
Nguyễn Nhạc cũng nhận thấy được ưu thế kỹ thuật Tây phương. Chính ông đã hỏi
Chapman xem thử ông này có thể dùng các tàu dưới quyền để giúp ông được không?
Với các điều kiện nào? Nhạc muốn có các cố vấn Anh, muốn có các tàu chiến Anh
phụ giúp để thực hiện mộng khuất phục nước Cao Miên, toàn thể bán đảo đến tận
Xiêm và các tỉnh Nam Hà phía bắc còn ở trong tay quân Bắc Hà. Đánh đổi lấy sự
trợ giúp đó, Tây Sơn có thể nhường đất cho Anh quốc lập thương điếm.
Rồi không phải chỉ ở lãnh địa Tây Sơn Chapman mới gặp sự nài ép
giúp đỡ quân sự đó. Ông đến Phú Xuân vùng chiếm đóng của Trịnh, một viên quan
Bắc Hà đón tiếp ông cũng ló bộ mặt phản đối chính quyền và mong ông giúp một
tay1. Tất cả minh chứng rằng mọi người thời bấy giờ đều biết đến sự hùng mạnh
của Tây phương, cho dù chỉ mới biết qua các đội thương thuyền lẻ tẻ. Nhưng
tương quan lực lượng của các quốc gia Tây phương có mặt ở Á châu vào hậu bán
thế kỷ XVIII không giống như ở các thế kỷ trước. Những biến chuyển ở Âu châu đã
gây nên sự thay đổi đó.
Người Bồ Đào Nha từ thế kỷ XIV đã tranh chiếm được nền độc lập
trong tay dân Hồi giáo rồi dùng đám quân binh phong kiến thất nghiệp vào trong
công việc tìm kiếm đất mới. Họ dùng võ lực giành giựt độc quyền bán hương liệu
Á đông trong tay người Ả Rập. Đế quốc của họ là một chuỗi những thương điếm gần
bờ biển, có võ trang. Kinh đô của đế quốc đó là Goa trên bờ biển phía tây Ấn
Độ.
Nhưng từ 1580 nước họ sáp nhập vào Tây Ban Nha dưới quyền của
Philippe II. Đế quốc họ tan rã dần vì sự tranh chiếm của người Hoà Lan. Đến thế
kỷ XVII, khi họ giành được tự trị thì Ấn Độ đã mất. Chút quyền bảo trợ Gia tô
giáo mà họ đã hưởng được của các Giáo hoàng về các vùng Đông của đường ranh
giới ấn định bởi các hiệp ước Tordesillas 1499 rồi cũng sẽ bị sự cạnh tranh của
các nước, nhất là nước Pháp với hội Truyền giáo, mà yếu dần đi và mất hẳn.
Tuy vậy khi xảy ra rối loạn ở Đại Việt, họ cũng muốn can thiệp vào.
Có hai chiếc tàu Bồ ở Đà Nẵng vào dịp Tây Sơn ra Quảng Nam. Họ từ Macao tới.
Macao là một nhượng địa mà người Bồ đã đem tiền lo lót đám quan lại Trung Hoa
để lập nên thương điếm. Vào cuối thế kỷ XVIII, chính quyền ở đây dưới tay một
viên quan cai trị do Lisbonne đề cử, đại diện cho vị Phó vương thành Goa với
một Biện lý, một uỷ viên, hai thẩm phán và nhiều vị cố vấn2. Nhưng lực lượng
quân sự của Bồ ở một nơi rất gần Đại Việt này thực không đáng kể. Pigneau nói
một cách mỉa mai về việc có ý định cầu viện một nơi như Macao, không có lấy một
tên quân3. Viên biện của Phái đoàn Truyền giáo ở Macao thời đó là Letondal thì
ghi rõ hơn: “Có độ 4 - 50 tên Cipaye hay mọi da đen không được huấn luyện kỹ
càng và ăn mặc lôi thôi”.
Đế quốc Tây Ban Nha, vì hiệp ước Tordesillas, dồn toàn lực ở Mỹ
châu thu nhặt bạc vàng và truyền giáo. Nhờ chuyến viễn du của Magellan
(1519-21), họ chiếm được Phi luật tân, biến đất này thành đất của Chúa, sung
túc nhờ việc giao thương Á - Mỹ châu (qua Mễ tây cơ) bằng các thuyền galion. Họ
cũng có quyền lợi tôn giáo ở Đại Việt. Các nhà tu hành khất (Franciscains) ở
đây thường liên lạc với Manille. Họ có mặt trong vụ giúp đỡ Duệ Tông rồi Nguyễn
Phúc Ánh. Quyền lợi tôn giáo lẫn lộn với quyền lợi quốc gia thường gây nên sự
xung đột giữa người Tây Ban Nha và người Pháp.
Trong khi đó, người Hoà Lan mà tiếng tăm của họ ngày trước làm cho
người Việt gán danh từ Hoà Lan đạo cho Gia tô giáo lại không có hành động nào
đáng kể ở bán đảo này. Công ty Đông Ấn Độ của họ (VOC) thất bại ở Nam Hà, Đài
Loan bèn dồn trở về quần đảo Nam Dương lo khai thác nhân vật tài lực ở đây. Vào
hậu bán thế kỷ XVIII, họ bị người Anh cạnh tranh ráo riết: hiệp ước Breda 1763
cho họ toàn quyền ở Nam Dương, nhưng hiệp ước 1784 mở rộng vùng biển này cho
các tàu Anh vào giao thương.
Biến chuyển xảy ra bất lợi cho các đế quốc già cỗi như vậy vì trong
thế kỷ XVII, XVIII nước Anh đã phát triển mạnh về kinh tế để nắm quyền trên
biển cả. Cạnh tranh với người Anh nhờ sự hùng mạnh của thời đại Louis XIV,
người Pháp cũng phát triển ở Ấn Độ. Một tay phiêu lưu, François Martin, xây
dựng nên thành phố Pondichéry. Dupleix (1697-1763) có tham vọng muốn thành lập một
đế quốc Pháp ở Ấn Độ nên mở rộng đất chiếm được về phía nội địa rồi gặp phải
tham vọng của người Anh ngăn cản lại. Từ trận Chiến tranh Kế vị ở nước Áo
(1740-1748) đến trận Chiến tranh Bảy năm (1756-1763), Anh - Pháp xung đột nhau
ở Âu châu rồi mở rộng chiến tuyến đến tận các thuộc địa. Karikal bị chiếm
4-1760, Pondichéry đầu 1761 rồi tiếp theo, Mahé, Nelisseram trên bờ biển
Malabar lần lượt lọt vào tay quân Anh vì lỗi lầm nghiêm trọng của Lally
Tollendal. Kết quả Trận chiến Bảy năm là người Pháp còn có 5 thành phố:
Karikal, Pondichéry, Chandernagor, Mahé, Yanaon. Rồi vì Chiến tranh giành độc
lập Hoa Kỳ, xung đột Anh - Pháp tái phát. Chandernagor (7-1778), Karikal
(8-1778), Pondichéry (10-1778), Mahé (3-1779) phải bị quân Anh chiếm đóng lần
nữa và chỉ giao hoàn người Pháp sau hoà ước Versailles 1783.
___________________________________________
1. Chapman, bđd, t. 30-32,
39.
2. "Macao à la fin du
18e S.”, R. Jolez, tổng lãnh sự Pháp ở Hong hong, BSEI, 1950, t. 41-49.
3. Thư của Pigneau cho ông
Descouvrières, 12-3-1786 (A. Launay, III, sđd, t. 161
4. Nhật ký của ông Letondal
(A. Launay, III, sđd. t. 157).
5. Vụ Manuel giúp Nguyễn Ánh,
BSEI, 1940, t. 32, 33 (xem sau).
Cuộc xung đột ở thuộc địa thực ra có tính cách vì quyền lợi các
thương nhân, “chiến tranh các tay buôn”, như Voltaire đã nhận định. Kết quả là
ở thuộc địa, nói riêng ở Ấn Độ, người Pháp bị thua thiệt, mất đất, hết tiền.
Sau 1763, người Anh làm chủ nền thương mại nội địa, nắm trong tay các thợ dệt
Ấn, điều khiển các ông Hoàng Ấn (nabab), xúi họ cản trở người Pháp. Ở Bengale,
các giấy thông hành Pháp không có giá trị gì, tàu họ bị đóng thuế 2 lần, bị lục
lọi, soát xét, ngăn cấm chở vàng bạc xuôi sông Gange (chỉ thị của W. Hastings
1769). Trước tình trạng đó, Bộ trưởng Necker phải giải tán Công ty Đông Ấn Độ
và để cho các thương nhân được tự do buôn bán riêng rẽ (nghị định 13-8-1770).
Xung đột Anh - Pháp nghiêng thất lợi về phía người Pháp đã khiến
cho họ phải tìm cách hướng về nơi khác Ấn Độ để vừa trả thù, vừa tìm lại thế
làm quân bình lực lượng ở hải ngoại.
Ngày trước kia, P. Poivre đã chú ý tới vị trí địa lý thuận tiện của
đất Nam Hà đối với việc buôn bán của người Pháp. Chiến tranh càng làm tỏ rõ giá
trị ý kiến ấy ra. Trong những văn kiện bí mật, người Pháp đã nhận xét: “Hình
như chỉ có xứ Nam Hà là đã tránh khỏi sự chú ý của người Anh, nhưng làm sao
người ta có thể tin rằng họ sẽ không dòm ngó tới? Nếu họ quyết định ở đó trước
ta thì mãi mãi ta sẽ bị loại trừ ở đấy, ta sẽ mất một điểm tựa quan trọng trong
phần đất này của Á châu, phần đất làm cho chúng ta nắm quyền ngăn chặn người
Anh buôn bán với người Trung Hoa khi có chiến tranh xảy ra, che chở việc thương
mãi của ta ở khắp nơi trên Ấn Độ và làm cho họ luôn luôn lo ngại”.
Tin tức về loạn Tây Sơn ở Nam Hà được truyền đi đến các thuộc địa
Anh - Pháp ở Ấn Độ nhờ những chuyến tàu buôn Tây phương ghé Đà Nẵng. Ta đã nói
đến hai chiếc tàu Macao. Vào khoảng tháng 9-1777, chiếc tàu Diligent ghé Đà
Nẵng chở về Ấn Độ L.M Jean de Loureiro, y sĩ của chúa Nguyễn, với hai vị quan
đại thần xin đi nhờ vào Gia Định. Loureiro có vận động cầu cứu Tây phương giùm
cho chúa Nguyễn. Thế là Anh - Pháp lại có đề tài để xung đột nữa. Warren
Hastings, toàn quyền Anh, phái Chapman đi dò xét khoảng tháng 7-1778. Trước đó
và cùng năm, viên tư lệnh thành Chandernagor, Chevalier, cũng đã thúc đẩy viên
toàn quyền Pháp ở Pondichéry, De Bellecombe, nên nhân dịp này mà “hưng khởi uy
thế và tăng tiến nền thương mại quốc gia”. Ông nhấn mạnh thêm rằng nếu không
chịu làm trước người Anh, họ sẽ can thiệp vào và người Pháp “năm sau, sẽ đau
đớn được tin rằng người Anh vừa có một thuộc địa mới nữa”2.
Nhưng xung đột về Nam Hà không xảy ra giữa hai đế quốc. Chiến tranh
Độc lập Hoa Kỳ (1775-1783) giải toả vấn đề Nam Hà. Hai chính quyền không lưu ý
tới thì vấn đề bỏ lừng cho các sáng kiến cá nhân.
Từ trào lưu xuất cư vào cuối thế kỷ XV, các thương nhân Tây phương
đã chứng tỏ tinh thần mạo hiểm phiêu lưu của họ. Chúng ta hãy nhận định ưu điểm
của đám thương nhân nói chung về tinh thần mạo hiểm, sáng kiến un đúc thêm
trong khi di chuyển so với đám người ở lì một chỗ, bảo thủ, kiến thức hẹp hòi,
thiếu gan dạ. Hãy xét hành tung một Châu Văn Tiếp sau khi chống Tây Sơn, được
triệu hồi về Gia Định đã lại ra Phú Yên chống đánh sát bên nách địch. Rồi khi
Chúa chạy, quân tan, lần mò theo đường thượng đạo đi cầu viện, nhận được lời
hứa, Tiếp lại theo đường rừng về tìm Chúa. Con người trung kiên đó đã từng đi
buôn nguồn với chúa Tây Sơn là một ví dụ về tinh thần mạo hiểm của đám thương
nhân.
Nhưng thương nhân Tây phương nhờ vào một phong trào rộng lớn hơn,
đã có những hành động quyến rũ hơn. Chúng ta lưu ý đến một tác giả của hậu bán
thế kỷ XIX, cũng là một tay phiêu lưu, ca tụng đám người tiền phong: “Vì một bao
hạt tiêu, họ không ngần ngại cắt cổ nhau, từ chối sự cứu rỗi linh hồn, điều mà
ở vào những lúc khác, họ đã tỏ ra rất bận tâm. Cái lối cứng đầu cứng cổ kỳ lạ
trong khi theo đuổi ý muốn làm cho họ thách đố với chết chóc ở hàng ngàn hình
thức: những rủi ro của biển cả xa lạ, các bệnh kỳ dị và ghê tởm, thương tích,
bắt bớ, đói rét, dịch tể, tuyệt vọng. Điều đó làm cho họ trở nên to lớn, anh
hùng, bi thống ngay cả trong những ham muốn buôn bán không thoả mãn của họ,
trong khi cái chết lạnh lùng đến đem họ đi không chừa già trẻ. Hình như khó có
thể tin rằng nội một lòng tham lam lại thúc đẩy những người ấy theo đuổi ý
tưởng một cách liên tục, cố gắng và hy sinh một cách kiên trì như vậy... Với
chúng ta, những người kế tục mà những thử thách như thế đã tránh khỏi, họ có vẻ
sáng rực lên không phải vì những thành quả họ đã đạt được mà là vì chúng ta
thấy ở họ những công cụ của định mệnh đã xô đẩy họ đi vào nơi vô định, tuân
theo một tiếng nói bên trong, một khích động toàn thể để đi tìm một giấc mộng
xa vời...”
Riêng Đông Nam Á, điển hình cho đám người phiêu lưu này ở cuối thế
kỷ XVII là Constantin Phaulkon đã làm cho Louis XIV tưởng thực hiện được tham
vọng làm chủ một quốc gia: Xiêm La dưới triều Phra narai. Thế kỷ sau, thành
công ở Ấn Độ của Dupleix (Pháp), Clive (Anh) về tiền bạc, danh vọng, gây nên sự
thèm khát, ganh ghét ở các chính quốc. Vẻ huy hoàng rực rỡ của các triều đình
Đông phương vẫn còn làm ngợp những tay phiêu lưu. Công ty Đông Ấn Độ Pháp suy
sụp, Đế chính Pháp tan rã, các chức việc, võ quan thất nghiệp đua nhau đem kiến
thức phục vụ các ông hoàng Ấn chống với người Anh. Trình độ kỹ thuật thu nhận ở
quốc gia xuất phát, tinh thần gan dạ kèm với óc tổ chức khiến họ nổi bật lên
giữa đám người họ phục vụ. Cho nên, không lấy làm lạ rằng những viên lính thuỷ
đào ngũ của Pháp lại giữ những vai trò điều khiển quan trọng trong thuỷ quân
Nguyễn Ánh sau này.
Hành động song song với đám người phiêu lưu vì tư lợi này còn có
những kẻ được gọi là Lớp người Phiêu lưu của Chúa và của Lòng Bác ái, tức là
các tu sĩ Thiên Chúa giáo. Họ đi truyền giáo với mục đích đem những người
“ngoại đạo” trở về nước Chúa. Ta cũng thấy ở họ tinh thần mạo hiểm không sợ
gian nguy. L.M. Laneau can dự vào vụ Phaulkon bị bắt giam ở Ayuthia đến tháng
4-1691 mới được thả. Trong tù, ông viết thư (6-1690) cho Louis XIV: “Chúng tôi
sẽ làm lại như cũ nếu phải bắt đầu làm lại...”
Nhưng đồng thời, các tu sĩ này cũng không thể nào tách rời quyền
lợi đạo giáo với quyền lợi tổ quốc của họ. Viên Tư lệnh thành Chandernagor đã
nói rõ ràng trong một bức thư gởi cho Toàn quyền Pondichéry (12-2-1778): “Tôi
luôn luôn lấy làm lạ rằng tại sao ông Bộ trưởng không ra lệnh cho các tu sĩ ở
các nơi liên lạc thư từ với các người cầm quyền để báo cáo cho họ biết về tình
hình chánh trị những nơi họ ở, với các chi tiết về buôn bán mà ta có thể gây
được ở nơi đó. Điều đó chắc chắn có ích cho quyền lợi chung hơn là vài tên tín
đồ mà họ phải chăm sóc. Với lại làm cả hai việc không có gì là mâu thuẫn hết.
Trong khi một người là L.M, họ không nên quên rằng tình trạng tiên khởi của họ
là người của vua họ và phải chú trọng đến việc phục vụ cho vua trong mọi việc
cần đến họ”.
Không phải là chính quyền ép buộc, các tu sĩ cũng công nhận việc
phục vụ cho vua họ như một bổn phận thiêng liêng. Laneau trong thư nói trên,
không ân hận đã bị bắt, vì “điều đó có liên quan quá nhiều đến thanh danh của
Hoàng thượng.”
Chính trong cái ý thức tâm lý chung đó của thời đại mà chúng ta
thấy các giáo sĩ đều đồng loạt hành động như nhau. Không phục vụ cho vua họ ở
chính quốc thì họ phục vụ cho vương quyền nơi họ trú ngụ, nhất là khi đường lối
phục vụ này có hy vọng dẫn đến kết quả tốt đẹp cho sự phát triển Đạo. L.M
Jumilla có lần chê trách vua tôi nhà Nguyễn mà cũng phải theo phản ứng tự nhiên
cho Duệ Tông chui xuống gầm giường, thoát tay Tây Sơn Nguyễn Lữ6. Các L.M ở
Đồng Nai cũng như ở Thuận Hoá đều gọi Tây Sơn là “bọn phản loạn” (les
révoltés), gọi Nhạc, Huệ là “kẻ bạo chúa”, “kẻ thoán đoạt” (le tyran,
l’ursurpateur), bày tỏ trong các thư gởi đi tấm lòng hướng về cựu Nguyễn của
họ. Chót hết là Bá-đa-lộc đã gạt bỏ bao lời mời gọi, dẫn dụ của Tây Sơn để hành
động cương quyết trợ giúp Nguyễn Phúc Ánh. Cho nên, chính trong khung cảnh dó,
có những tham vọng để phục vụ cá nhân, quốc gia hay tôn giáo từ bên ngoài sẵn
sàng nhảy vào can thiệp mà chiến tranh chấm dứt phân chia ở Đại Việt thấy thêm
một yếu tố quyết định vậy.
______________________________________
1. G. Taboulet, La geste
française en Indochine, tome I t. 154, 155.
2. Thư đề ngày 12-2-1778 ở
Chandernagor (G. Taboulet, sđd, t.159).
3. Hutchinson và Berland.
“Aventuriers au Siam au 17e siècle”: BSEI. XXII. 1947, t. 13.
4. Aventuriers au Siam...”.
bđd, 1.148.
5. M. Gaudart. “Les archives
de Pondichéry et les entreprises de la Compagnie française des Indes en
Indochine au 18e siècle”, BAVH, Oct- Déc 1937, t. 367.
6. BSEI, XV. 1940. bđd, t.
84.
Chương 2
GIA ĐỊNH,
ĐẤT TRANH CHIẾM QUYẾT LIỆT
Tiết 3
ĐẤT GIA ĐỊNH VÀ CHÚA TÔI NHÀ NGUYỄN
*Tình trạng khai thác và tiềm lực của Gia Định * Trịnh chúa từ bỏ ý
định Nam xâm * Đông Sơn Đỗ Thanh Nhân và Tây Sơn Nguyễn Lữ (1776) * Nguyễn Huệ
tiêu diệt họ Nguyễn (1777) * Nguyễn Phúc Ánh và một giai đoạn mới của lịch sử
họ Nguyễn.
Đất Gia Định1 mà chú cháu Nguyễn Phúc Ánh dắt díu nhau vào hồi
tháng 2 (Ất Mùi 1775) là nơi lập thành do công khai thác của hai nhóm người:
đám Minh thần lưu vong nửa cướp, nửa quan và đám nông dân Việt nghèo khổ. Ở
miền Đông, Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên khai phá đất đai và đáng chú ý
hơn, họ mở mang thương cục, làm giàu bằng cách mua bán với đủ các hạng người:
Trung Hoa, Tây phương, Nhật Bản, Chà-và (Mã Lai)2. Về phía cực Tây, Cảng Khẩu3
Hà Tiên của Mạc Cửu cũng thịnh vượng bằng những sòng bạc rút tiền của đám thương
nhân và bọn lưu dân Phú Quốc, Cần Giọt (Kampot), Rạch Giá, Vũng Thơm (Kompong
Som), Trũng Kè, Cà Mâu4. Đám nông dân Việt thì phá rừng, vỡ đất, giành giựt đất
ruộng của người Miên bản xứ.
Tất nhiên với sự khai thác vội vã như vậy, bản đồ xứ Gia Định vào hậu
bán thế kỷ XVIII có những nét riêng biệt.
Việc Nguyễn Ánh tổ chức hành chánh ba năm sau (1778) cho ta thấy
một vài đặc điểm đó. Ông hoạch định bản đồ và chia ranh giới cho các dinh Trấn
Biên, Phiên Trấn, Long Hồ liên lạc nhau. Dinh Trấn Biên lãnh một huyện (Phước
Long) và 4 tổng (Tân Chánh, Bình An, Long Thành, và Phước An). Dinh Phiên Trấn
lãnh một huyện (Tân Bình) và 4 tổng (Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc, và Bình
Thuận). Dinh Long Hồ cải làm dinh Hoằng Trấn lãnh một châu (Định Viễn) và 3
tổng (Bình An, Bình Dương, Tân An). Đạo Trường Đồn (Định Tường) lãnh một huyện
(Kiến An) và 3 tổng (Kiến Đăng, Kiến Hưng, Kiến Hoà)6. Rõ ràng là dân chúng
(Việt) đã tập trung ở các thị trấn lớn và còn rải rác ở các nơi xa. Vùng Hà
Tiên vì chiến tranh với Xiêm đã bị tàn phá, dân cư thất tán mãi đến thời trung
hưng của Nguyễn Ánh (1788) cũng chưa gượng dậy được và còn chịu ảnh hưởng binh
lực của người Xiêm. Các thị trấn Việt giăng hàng từ cù lao Đại Phố (Biên Hoà),
Gia Định, Mỹ Tho, Long Hồ, Cần Thơ cắt đứt hẳn một khối đông đúc dân Miên ở khu
vực Bassac, Trà Vinh đoạn tuyệt với chính quốc của họ. Khối dân này được hưởng
sự thịnh vượng thương mãi do các cửa Cổ Chiên, Bassac, Mỹ Thanh vẫn là một ổ
rối loạn, mệt cho những ai nắm quyền xứ Gia Định. Chính uy quyền của họ Nguyễn
làm cho phần đất phức tạp này trở thành Đại Việt tách ra khỏi con mắt dòm ngó,
không phải của đám vua quan Chân Lạp suy yếu mà là của quốc gia Xiêm đang lớn
mạnh.
Đi vào Gia Định, Duệ Tông không những tránh thoát được gọng kìm
Trịnh - Tây Sơn, bỏ rơi được vào tay địch một kẻ tranh quyền với mình mà còn kỳ
vọng nơi đạo quân Tống Phúc Hợp để mưu đồ khôi phục. Kỳ vọng đó không phải là
vô căn cứ vì đất Đồng Nai “vựa lúa của quốc gia” còn là nơi của đám dân tứ
chiếng, cương cường, với đám hào phú Minh hương sống trong “lầu son gác tía”,
“ngói lợp tường xây”, đủ tiềm lực nuôi dưỡng chiến tranh.
Viên lão thần Mạc Thiên Tứ tuy không còn thành trì để cai trị nữa,
nhưng vẫn là cánh tay đắc lực của Duệ Tông. Là người Minh hương, làm quan
triều, ông có đủ uy tín cũng như liên lạc hương ấp với đám hào phú Đồng Nai để
kêu gọi họ giúp Nguyễn. Là tướng từng có tham vọng lớn lao (đã gây nên chiến
tranh Xiêm - Việt 1769-1772), ông đủ quảng giao và biết rõ khả năng kẻ ông có
thể lợi dụng được. Ông viết thư cho Bá-đa-lộc kêu ông này từ Nam Vang xuống vào
khoảng giữa 17757 để bàn bạc chính sách cầu viện.
Những điều kiện thuận lợi đó, chú cháu Nguyễn Phúc Ánh đã không
dùng được trong những năm đầu vào Gia Định, vì một mặt, Duệ Tông chưa giải
quyết được những tranh chấp nội bộ, mặt khác, kẻ thù của họ anh em Tây Sơn nhân
dịp rảnh tay phía bắc, đã theo đuổi họ đến tận cùng.
Gọi là rảnh tay phía bắc không phải chỉ vì Nguyễn Nhạc có một chính
sách khôn ngoan đối với Trịnh Sâm mà còn vì Trịnh Sâm đã bỏ mộng tưởng chiếm
đất Nguyễn. Thực vậy, đã nói đói kém, dịch tể ở Thuận Hoá, Quảng Nam ngăn bước
tiến quân Trịnh. Trong khi đó ở Thăng Long, việc chiếm Phú Xuân mang lại cho
Trịnh chúa cả một kho tàng to tát8 để giúp cho Sâm phung phí “làm ly cung ở
trên Tây Hồ” mỗi tháng ba, bốn lần dạo chơi. Các nội thần giả làm đàn bà, bày
hàng bách hoá chung quanh bờ hồ để bán cho các quan theo hầu Trịnh Sâm ghé lên
mua trong tiếng nhạc dìu dặt, réo rắt của bọn nhạc công nấp đâu đó. “Triệu bất
tường”9 rõ rệt thêm trong sự nuông chiều thứ phi Đặng Thị Huệ. Cho đến năm
1777, khi con người làm “cho Chúa mất nước” này sinh được Trịnh Cán để có kẻ
giành ngôi thế tử với Trịnh Khải, người con trưởng, thì nguy cơ nghiêng đổ ngai
vàng đã không có cơ cứu vãn được.
Cuối năm 1775, Nguyễn Nhạc dẹp xong cuộc chống đối ở hai phủ Thăng
(Bình), Điện (Bàn) (Quảng Nam) của Tôn Thất Xuân, Tôn Thất Quyền với mưu chủ
Trương Phúc Tá và viên hào phú người Hoa tên Tất. Nhạc để cho Tham tướng Nguyễn
Văn Duệ giữ Quảng Nam10 mà không gặp phản ứng nào của Phú Xuân hết. Thực là một
khuyến khích cho Nguyễn Nhạc trong việc đuổi theo họ Nguyễn.
Viên Tiết chế đi Gia Định vào tháng 2 năm Bính Thân (1776) là
Nguyễn Lữ, lần đầu mà cũng là lần cuối cầm đầu quân tướng. Duệ Tông vội chạy đi
Đồng Chàm ở Trấn Biên tị nạn, kêu Tống Phúc Hợp về cứu. Nhưng ngay ở Gia Định,
Chúa cũng còn có một lực lượng phụ tá dưới quyền Đỗ Thanh Nhân, viên tướng từ
Quảng Nam vào.
Ông này đã tụ tập được 3.000 người ở Ba Giồng12 với các tướng Huỳnh
Đức, Trần Bố, Đỗ Hoành, Võ Nhàn, Đỗ Kỳ, lấy tên Đông Sơn quân (cái tên mang
quan niệm phong thuỷ, ma thuật, ngụ ý chống đối Tây Sơn, không chỉ một hòn núi
nào hết). Binh tướng quay về với những vũ khí thô sơ, biến chế tại chỗ: dao xà
gạc, đoản đao, gậy lao, gậy vung nhựa sối.
_________________________________________
1. Gọi theo sử quan Nguyễn.
Sau 1790, Gia Định thành được xây cất làm nơi tập trung thực lực Nguyễn Ánh rồi
với Tổng trấn Lê Văn Duyệt, nó trở thành tên chỉ chung của cả Nam phần ngày
nay. Sự thực đối với dân chúng miền ngoài thời đó, tên thông dụng là Đồng Nai
(Thực lục, q10, 37b).
2. “Thành trì chí” của Trịnh
Hoài Đức, Đại học V, 1, tháng 2-1962, trang 141 và chú số 49. Thực lục, q31,
2b, 3a.
3. Can Cao của người Tây
phương, gọi từ âm Quảng Đông (Kang K’ao).
4. Liệt truyện tiền biên,
truyện Mạc Thiên Tứ q6, 1ab. Nguyên chữ Hán (Việt) là Cần Bột, Giá Khê, Hương
Úc, Lũng Kỳ, Kha Mao. Chú trong ngoặc là dẫn giải riêng. Cùng quyển tờ 6a nói
Thiên Tứ đổi Kha Mao ra Long Xuyên, do đó, ta hiểu rằng danh xưng còn chỉ cả
vùng “nước đen” phía tây hạ lưu sông Cửu Long.
5. Thực lục, q10, 11b chẳng
hạn.
6. Thực lục, q1, 8a. Muốn
hình dung mức độ khai thác cư dân trên vùng đất rộng như Gia Định quanh các năm
1778, hãy so sánh với phủ Qui Nhơn đồng thời chẳng hạn nhỏ hơn nhiều mà có tới
3 huyện (Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn).
7. Thư của Pigneau cho những
người cai quản hội Truyền giáo, đề Can Cao, 5-6-1776: “Tôi từ triều đình
Cambodge xuống Can Cao gần một năm rồi”.
8. Thư Jumilla đã dẫn. t. 83,
Hoàng Lê, sđd, t. 2.
9. Vũ trung tuy bút, Đông
Châu dịch, NP, XXI. t. 236. Chuyện xảy ra vào các năm Giáp Ngọ, Ất Mùi
(1774-1775). Chú ý rằng bản dịch của Bộ Quốc gia Giáo dục (VNCH. 1962, không có
chi tiết thời gian kể trên.
10. Thực lục tiền biên, q12,
7ab. Liệt truyện, q30, 8ab.
11. Truyện Đỗ Thanh Nhân,
Liệt truyện q27, 21b... Một số sử sự tiếp theo thấy ở đây và Thực lục tiền biên
q12, 9a, 11b, 14ab... đến hết sách.
12. Tam Phụ. Ba Giồng gồm có:
Giồng Dứa (thuộc xã Phước Thạnh, Châu Thành, Định Tường). Giồng Cát hay Giồng
Nhị Bình (xã Nhị Bình, quận Sầm Giang), Giồng Thuộc Nhiêu chạy dài từ xã Dưỡng
Điềm, Điềm Hy (quận Sầm Giang) đến xã Nhị Quí (quận Cai Lậy). Giồng Cát còn có
tên Giồng Giữa (vì nằm giũa 2 giồng kia) và Gò Luỹ (chắc là Gò Lữ, Lữ Phụ nói
đến sau này). (Chỉ dẫn của ông Trương Ngọc Tường ở Cai Lậy.
13. Bđd. BSEI, 1940. t. 84.
và bđd, Thành trì chí, Đại học, 2-1962, t. 143.
Sử quan nhà Nguyễn ghi ba trận thắng của quân Đông Sơn và quy công
khôi phục Sài Gòn cho Đỗ Thanh Nhân. Thực ra trong lúc chưa có trận đụng độ to
tát nào để ghi tên chiến trận thì Nguyễn Lữ đã vội vã vơ vét thóc lúa Gia Định
chở trên hai trăm thuyền về Quy Nhơn. Thiếu người cầm đầu có tài, gan dạ, Tây
Sơn đã bỏ mất một cơ hội tiêu diệt họ Nguyễn.
Vừa lúc ấy, binh tướng Tống Phúc Hợp cũng từ Bình Khang kéo vào với
Lý Tài. Ở địa vị một viên Ngoại hữu do chiến công khắc phục Sài Gòn mà có và là
chủ tướng Đông Sơn, Đỗ Thanh Nhân không dung một viên tướng Tây Sơn, cho dù là
tướng đã quy phục. Xung đột xảy ra. Bị gọi là “đồ chó heo” ngay tại vùng đất
đầy người Trung Hoa, Lý Tài tức giận chiêu mộ hơn 8.000 người, chia làm bốn sắc
cờ, lập đội Trung đao quân riêng cho người Minh hương, lên chiếm núi Châu Thới1
dùng giáo, tầm vông, dao, súng điểu thương, trong tháng 8 thắng quân Đông Sơn ở
suối Lồ Ồ2 rồi đe doạ chiếm thành Phiên Trấn. Tình thế trở nên phức tạp hơn khi
Đông cung Dương bỏ chùa Thập Tháp trốn xuống cửa Thi Nại đi vào Nam (5 tháng 10
âl)3. Vốn có quen Lý Tài từ lúc ở Hội An, Dương cố thuyết phục Duệ Tông chiêu
hàng Lý Tài. Tài giữ sứ giả, đem quân xuống Sài Gòn, chịu để Dương chiêu an
trong lúc quân Đông Sơn chạy về Ba Giồng khiến Duệ Tông phải chạy theo. Như
vậy, Đông cung Dương đã thắng Duệ Tông một lần nữa. Cuộc đảo chánh thành khi
Đông cung sai Trương Phúc Thận “rước” được Duệ Tông về chùa Kim Chương4 để công
nhận nhường ngôi cho. Dương thành Tân Chính vương dưới sự chuyên chính của Bảo
giá Đại tướng quân Lý Tài.
Trong khi xảy ra sự phế lập ở Sài Gòn thì Nguyễn Ánh ở Ba Giồng với
Đông Sơn. Không nên lấy làm lạ điều này. Từ khi vào Gia Định được chức Chưởng
sử cầm Tả dực quân, ở bên Duệ Tông để bàn việc binh, khắn khít với Duệ Tông lúc
chạy trốn Tây Sơn, Nguyễn Ánh luôn luôn hướng về Duệ Tông5 chống Lý Tài “kiêu hoành
nan chế”. Gia Định trong chia rẽ, Đông Sơn ở Ba Giồng chống Hoà Nghĩa quân ở
Phiên Trấn, là miếng mồi ngon cho Tây Sơn.
Họ vào tháng 3 năm Đinh Dậu (1777) như họ đã hứa6 cả thuỷ lẫn bộ,
cầm đầu là Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.
Tân Chính vương đem quân đi Trấn Biên. Tướng tiền đạo của Vương gặp
Tây Sơn đều bị giết, Vương lui về Sài Gòn. Thuỷ binh Tây Sơn cũng đang dằng co
ở đây. Hoà nghĩa quân giết được Tuần sát Tuyên ở Hốc Môn. Nhưng gặp lúc Trương
Phúc Thận kéo quân từ Cần Giuộc7 về tiếp viện, quân Hoà Nghĩa tưởng là Đông Sơn
đánh tập hậu bèn bỏ Hốc Môn chạy về Bến Nghé. Tây Sơn thừa thế đuổi theo, thuỷ
bộ ép đánh. Lý Tài hoảng hốt chạy về Ba Giồng bị giết, còn Duệ Tông được 4.000
quân Đông Sơn rước về trú ở Rạch Chanh8 rồi đi Tài Phụ.
Tháng tư, Tây Sơn tiến đến đuổi Duệ Tông về Long Hưng. Gặp lúc Đỗ
Thanh Nhân từ Rạch Giá đến, cả hai bèn đi Cần Thơ gặp Mạc Thiên Tứ. Sau khi bàn
định, Đỗ Thanh Nhân bèn đi cầu Trần Văn Thức và Châu Văn Tiếp giúp đỡ. May mắn
nhờ chuyến đi này ông tránh được nạn lớn.
Về phần Tân Chính vương ông chạy thua ở Rạch Chanh về Trà Tân9 rồi
được Tống Phúc Thiêm rước về Ba Vác10. Tháng 7, Tây Sơn đánh tan viện binh Bình
Thuận của Trần Văn Thức và tiến đến Ba Vác. Tống Phúc Hoà (em Tống Phúc Hợp)
không giữ được lâu, tự tử. Vương chết cùng 18 người theo (19-9-1777) không có
dịp để thực hiện ý định chạy ra Bình Thuận với Châu Văn Tiếp.
Số phận của Duệ Tông cũng được định đoạt sau đó. Chúa đã bỏ chạy đi
Trấn Giang (Cần Thơ) tức là nơi Mạc Thiên Tứ và các con Tứ chống giữ. Nhưng Tứ
từ trận Hà Tiên cũng không có thực lực nên bàn với Duệ Tông xin qua Kiên Giang
đón thuyền đi Quảng Đông cầu viện. Chúa chạy về Long Xuyên, nhưng Tây Sơn đuổi
kịp đến nơi. Chúa cùng Nguyễn Phúc Đổng, anh Nguyễn Phúc Ánh, và cha con Chưởng
cơ Trương Phúc Thận, Lưu thủ Lượng, Tham mưu Nguyễn Danh Khoáng đều bị giết
(18-10-1777).
Lúc bấy giờ Nguyễn Ánh ở đâu mà lại thoát khỏi cái vạ diệt tộc này?
Sử quan nhà Nguyễn không lưu ý nhiều đến việc chạy trốn không lấy gì làm vẻ
vang cho chúa của họ nên không xét đến nơi chốn lưu lạc của ông. Họ thay thế
cái nhục lẩn tránh Tây Sơn bằng câu chuyện cá sấu đưa qua sông, một bằng chứng
mạng số đế vương của ông hoàng này. Tuy nhiên, do đó ta cũng thấy những ngày
chạy trốn thật đầy kinh hoàng. Thế mà, chỉ trong một tháng sau ta thấy ông có
mặt ở Long Xuyên với Đỗ Thanh Nhân11. Điều đó chứng tỏ ông vẫn theo Duệ Tông từ
lúc rời Ba Giồng. Nhờ đó mà được Pigneau đem giấu trốn và sai Hồ Văn Nghị đem
thức ăn nuôi sống12. Nguyễn Ánh thoát nạn thật là một may mắn, trong khi Duệ Tông
và Tân Chính vương chết đi không hẳn là một bất hạnh cho họ Nguyễn. Hai người
chết đi, chấm dứt một giai đoạn trong lịch sử họ Nguyễn, giai đoạn suy vong,
tranh chấp quyền lợi riêng tư trong cái thế nghiêng ngửa của dòng họ.
Đối với Tây Sơn, con bài Đông cung Dương đã không dùng đến nữa từ
khi họ phá Tống Phúc Hợp ở Phú Yên. Nhưng thực ra nó vẫn giúp ích Tây Sơn trong
việc cùng với Duệ Tông chống đối làm phân rẽ thế lực Gia Định cho đến bấy giờ.
Thất mã, đắc mã, cái chết tỉa Duệ Tông và Tân Chính vương ở vào
trường hợp đó. Tin chắc đã xong việc Gia Định, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ kéo binh
về Quy Nhơn để lại Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy, Điều khiển Hoà cùng Cai cơ Chấn
chia binh cai trị13. Nhưng khi anh em Tây Sơn xây thành Chà Bàn14, Nguyễn Nhạc
xưng đế, hiệu là Thái Đức, phong Lữ làm Tiết chế, Huệ làm Long nhương Tướng
quân ở đất Quy Nhơn, thì họ cũng thấy ở Gia Định một trong những người cuối
cùng của dòng họ Nguyễn tập hợp tàn binh chống lại. Thực là khó chịu cho họ.
_________________________________________
1. Chiêu Thái.
2. Tân Bản Kiều.
3. Việc Nguyễn Nhạc xưng là
Tây Sơn vương, phong chức cho các em, sai Nguyễn Lữ vào Nam và đem đày Đông
cung Dương vào chùa Thập Tháp đồng thời trong mùa xuân Bính Thân (1776) chứng
tỏ ý muốn hành động độc lập của Tây Sơn, loại trừ dứt khoát uy thế của cựu
Nguyễn. Còn việc chùa Thập Tháp ở ngay chân thành Chà Bàn, tức là chỗ dễ cho
Nhạc trông chừng Dương nhất mà Dương có thể thoát xuống cửa Thi Nại gần 20 cây
số đường nước lụt lội chính là nhờ ở sơ hở của lính gác trong mùa mưa to gió
lớn ở địa phương hơn là nhờ mưu kế đặt người giả cho ngủ trên giường của anh
mưu sĩ nào đó.
4. Nay đã bị phá đi, trên nền
ấy xây cất trại nuôi ngựa trong thành Ô Ma (trụ sở Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia
- VNCH).
5. Thực lục, q1 2ab.
6. “La révolte...”, bđd.
BSEI, 1948, t. 85.
7. Chỉ dẫn của Trịnh Hoài Đức
(Aubaret, t. 201). Thực lục tiền biên lầm với Cần Bột (Kampot).
8. 橙 汀. Có 2 địa danh tương đương: Bến Tranh (như
Trúc Giang: Bến Tre) đã có tên riêng khác, và Rạch Chanh: (Tranh: chanh, tự điển
P. Gouin, Đào Duy Anh), con rạch chảy trong vùng Đồng Tháp ăn thông với Tiền
Giang qua Ba Giồng. Quân tướng Nguyễn hay chạy về phía này để núp trong tỉnh
Romdoul của Chân Lạp hay để qua sông hướng Long Hồ, đi Cần Thơ, Rạch Giá ra
biển: con đường thoát thân thiết yếu đến nỗi Lý Tài biết Đông Sơn ở Ba Giồng mà
cũng chạy về đó để bị giết.
9. Rạch Trà Tân chảy từ giồng
Thuộc Nhiêu qua các làng Long Khánh, Long Tiên, Long Trung (chợ Ba Dừa) rồi ra
Tiền Giang nơi làng Hưng Long (chỉ dẫn của ông Trương Ngọc Tường, Cai Lậy).
10. Ba Việt của Thực lục,
Liệt truyện. Địa điểm Ba Vác ở trên rạch Cái Mơn chảy trong cù lao Mỏ Cày.
11. Thực lục. q1, 3a.
12. Thư ông Faulet cho ông
Descourvières ngày 25-4-1780 (A. Launay III. tr. 69. 70).
13. Liệt truyện, q30, 9b. Thử
thách ở chiến trường là mực thước đo tài năng các tướng. Các tên Chu, Hãn, Uy
sau này biến mất trên chính trường. Hoà chắc là Nguyễn Văn Hoà. Còn Chấn có
phải là Đặng Văn Chân (Chấn) không?
14. Ông Nguyễn Phương (Đại
học số 5, tháng 10-1762, t. 762) có dựa Tây Sơn sử truyện để tả thành này. Đáng
lưu ý là những danh từ to tát dùng để chỉ những kiến trúc thường rất khiêm tốn
của ta ngày xưa khiến ta cứ tưởng sự xây cất bên trong tất là hùng vĩ, tráng lệ
lắm. Chapman (bđd, t.29) trong chuyến đi thăm Qui Nhơn đã tả rõ như sau: “Thành
chỉ là một bức tường đá nhiều chỗ hư hại, không ụ súng, không tháp núp bắn, hay
tất cả những gì gọi là một thành trì chiến đấu... Cửa chính và tường không có
một tên lính gác nào và bên trong đất cày thành ruộng”. Chapman đến giữa năm 1778
tả như trên, nhưng thành có thể xây đắp thêm vào những năm sau. Tuy nhiên chi
tiết đất cày thành ruộng bên trong vẫn đúng nếu ta nhìn lại di tích ngày nay.
Qui mô tương đối thì khá hùng vĩ với dãy bờ đất đỏ đá ong chiếm ba làng Bả
Canh, Nam An, Thuận Chánh của quận An Nhơn. Tên thành 閻 盤 城 có thể đọc là Đồ Bàn, Chà Bàn, Xà Bàn.
Người địa phương ngày xưa, trên danh thiếp của họ, thường dùng tên thành để chi
tỉnh Bình Định: Nguyễn Văn Mỗ, Xà Bàn Thành, hay Trần Văn Mỗ, Cổ Bàn Thành. Tên
Chà Bàn, gốc Chàm, có ý nghĩa tôn giáo (Çaban = autel - Aymonier và Cabaton,
Dictionnaire Cam-Français, Paris, 1906, t. 461).
Hiện nay thành còn dấu vết là
những mô đất đỏ chạy bao quanh với hai thẻ đá đứng, dựng song song, chắc là cửa
thành sót lại sau khi Gia Long (năm thứ 12) sai phá đi, lấy vật liệu xây thành
mới là thành Bình Định bây giờ, cách phía Nam vài cây số (cũng bị phá nốt năm
1945, 1955). Thành Chà Bàn nay gọi là Thành Cũ.
NGUYỄN PHÚC ÁNH VÀ QUYỀN UY Ở GIA ĐỊNH
Cuộc khởi binh ở Long Xuyên * Những nhận xét về Nguyễn Ánh * Vụ Đỗ
Thanh Nhân * Cố gắng tổ chức kinh tế ở vùng Tây Sơn và giới hạn khả năng công
phá Gia Định của họ.
Cả dòng họ Nguyễn sau biến cố Ba Vác và Long Xuyên gần như là không
còn ai hoạt động nửa ngoài Nguyễn Ánh. Thực vậy, về phía vai chú Nguyễn Ánh có
Tôn Thất Chất chết cùng năm này, Tôn Thất Đãng (1744-1786) không hoạt động, Tôn
Thất Xuân (1759- 1780) chạy sang Xiêm với Mạc Thiên Tứ và mắc nạn ở đấy, Tôn
Thất Thăng nằm lì ở Phú Xuân. Hai người anh thì Tôn Thất Cao chết trận (không
rõ năm nào), Tôn Thất Đổng cùng chết với Duệ Tông. Một người em, Tôn Thất Điển
còn sống tới 1783.
Phải nhận rằng sau biến cố 1777, nếu kẻ sống sót không phải là Ánh
thì biến chuyển ở Gia Định còn gây nhiều phiền phức cho họ Nguyễn. Bởi vì,
chúng ta lưu ý rằng ở Gia Định lúc bấy giờ Lý Tài đã mất, Mạc Thiên Tứ lưu
vong, lực lượng còn lại có người cầm đầu là quân Đông Sơn. Mà như ta đã biết,
Nguyễn Ánh đã nhân danh Duệ Tông điều khiển quân Đông Sơn thì nay Duệ Tông chết
đi, vị chúa không chối cãi của họ là chàng thanh niên 16 tuổi này.
Tháng 10 âm lịch 1777, ông trở về khởi binh ở Long Xuyên. Gặp Thánh
Nhân ở Sa Đéc1 và Cai cơ Hồ Văn Lận tiếp với quân Cần vương Tống Phúc Khuông,
Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phúc Lương, Dương Văn Trừng, ông đánh thắng ở Long Hồ.
Tháng 12 Đinh Dậu, quân Nguyễn thừa thế trở về Sài Gòn, đuổi Tổng đốc Chu, Tư
khấu Uy về Quy Nhơn.
Tháng giêng năm Mậu Tuất (1778), họ Nguyễn lập lại chính quyền dưới
bóng cờ của Đại nguyên suý Nhiếp quốc chính Nguyễn Phúc Ánh.
Như đã nói, một giai đoạn mới mở đầu, không phải chỉ riêng cho họ
Nguyễn mà còn kéo dài cho lịch sử Việt Nam nữa. Những biến cố mới sẽ tuỳ thuộc
không ít thì nhiều vào con người này mà ta muốn biết.
John Barrow dựa trên các tài liệu của L. Barizy, của một viên thư
ký Trung Hoa của chính quyền Gia Định (Trịnh Hoài Đức?) và các giáo sĩ mà vẽ rõ
một Nguyễn Ánh lúc đứng tuổi với “dáng người cao trung bình, vẻ mặt đều đặn,
nhẹ nhõm”, “màu da đỏ hồng, rám nắng vì dầu dãi..”.. Sử quan im lặng về điểm
hình dạng này vì không dám mạn thượng, vì không có thói quen tả thực. Nhưng khi
nói đến tính tình thì ta thấy họ không tiếc dịp đề cao vị hoàng đế của họ. Theo
họ, Nguyễn Ánh là người “thông duệ túc thành”. Ông rất trung thành với Duệ
Tông, không bỏ vua khi nguy hiểm. Với bầy tôi, ông biết chia ngọt xẻ bùi trong
ngày nằm gai nếm mật. Trong đời sống công cũng như tư, ta thấy ông lúc mềm
mỏng, lúc cương quyết, ứng phó khá lẹ làng với tình thế. Ông tổng hợp được nơi
mình vai trò của một chính trị gia, một võ tướng. Chúng ta có thể thấy vai trò
ông đóng phải khó khăn tới chừng nào khi nghĩ rằng trong thời kỳ cầm quyền,
dưới tay ông lố nhố một đám quan binh phức tạp vì tình thế (hôm qua cướp, nay
quan, sớm đầu tối đánh) và lại phức tạp vì cấu tạo nữa (quân Việt xen lẫn quân
Miên, Chàm, Mã Lai, Tây phương, Trung Hoa).
“Người ta tả ông gan dạ, không thô kệch, dồi dào biến trá trong mọi
tình thế. Ý tưởng đúng đắn; không khi nào khó khăn ngăn chặn được ông và chướng
ngại không làm cho ông lùi bước... Cử chỉ của ông đối với người ngoại quốc thật
dễ thương và hoà nhã. Các sĩ quan dưới quyền ông rất kính phục ông. Ông đối xử
với họ rất nhã nhặn, thân mật và tốt..”3. Sử quan còn cho ta biết ông bắn được
súng điểu thương, bơi lội giỏi.
Những hình ảnh ấy tuy có lúc được vẽ vời cho có vẻ “chơn mạng đế
vương” nhưng không hẳn quá xa sự thật. Cũng nhìn xét nhân vật quan trọng này để
đồng thời tán tụng một bề trên của mình, L.M Lelabousse viết trong bức thư đề
ngày 14-4-1800:
“Ông hoàng này có lẽ là con người nóng nảy, đoản tính nhất trong
xứ, nhưng... những lời rầy la của Giám mục d’Adran đã làm đằm tính bồng bột
đó”. Ông cương quyết nhưng không hung tàn, ông hay nghiêm trị nhưng theo lệ
luật.
“Ông có đủ đức của tâm hồn cũng như của trí tuệ. Ông có tính biết
ơn, bao dung và tế nhị về điểm danh dự. Lớn lên trong tai ương, ông chịu đựng
được nghịch cảnh một cách can đảm, xứng đáng với nhà thông thái đã huấn luyện
cho.
“Lúc trẻ ông ưa rượu, nhưng từ khi phải cầm đầu công việc, ông đã
bỏ đi đến bây giờ không nếm lấy một giọt... Vì vậy, ông mới ra những lệnh rất
nghiêm khắc chống với những ai say sưa...
“Các đức tính trí tuệ không nhường những đức tính tâm hồn. Hăng
hái, thông tuệ, thẳng thắn, ông hiểu ngay từ lúc đầu những việc phức tạp nhất.
Ông nhớ mọi chuyện rất tài và ông bắt chước rất dễ dàng...
“Ông rất cần mẫn. Ban đêm, ông đọc nhiều. Ông rất tò mò tìm hiểu
“Đó là vị Hoàng đế vĩ đại nhất từ xưa đến nay cửa xứ Cochinchine. Giám
mục d’Adran và ông hoàng này là hai con người vĩ đại mà những vẻ tráng lệ của
xở này sẽ còn giữ lại hình ảnh oai hùng. Thế kỷ của họ sẽ lưu danh...”
Ảnh hưởng của Bá-đa-lộc ở Nguyễn Ánh không phải là không quan
trọng, nhưng không phải chỉ như thế. Giáo dục mà ông hoàng này hấp thụ là một
thứ giáo dục Khổng môn được khuôn nắn trong thực tế. “Lớn lên trong tai ương…”,
Lelabousse nói có lý. Gia Long là một Nguyễn Ánh được tập thành trong biến cố.
Tuổi trẻ, gặp gia biến quá sớm, trước một kẻ thù gần như là vô địch, bị rượt
đuổi tận hang cùng ngõ hẻm, ông mang nhiều mặc cảm yếu ớt, hay than thở và bị
bắt buộc mong đợi, trông cậy ở người nhiều. Nhưng tình thế giúp ông tự chủ dần
dần. Việc khu trừ Đỗ Thanh Nhân là một ví dụ điển hình.
Nguyễn Ánh vừa yên vị ở Gia Định thì tháng hai năm Mậu Tuất (1778),
quân Tây Sơn lại kéo vào. Quy Nhơn mắc bận rộn việc xưng đế của Nguyễn Nhạc nên
phái vào Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy và Hộ giá Phạm Ngạn. Tây Sơn chiếm đánh các
vùng Trấn Biên, Phiên Trấn và ven biển. Cựu tướng Hoà Nghĩa đạo Trần Phượng
thua trận ở sông Phước Lộc. Tháng ba năm đó, để Đỗ Thanh Nhân trấn giữ Sài Gòn,
Nguyễn Ánh bỏ đi Bến Lức7 Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Hoằng chận đánh được Tây
Sơn ở Bến Lức khiến họ phải rút ra ngoài sông lớn. Mở cuộc phản công, Đỗ Thanh
Nhân chận được Tư khấu Uy ở sông Bến Nghé8 trong lúc Nguyễn Văn Hoằng tiến đánh
Đồng Nai (Biên Hoà) giết Liêm. Lăng thâu Trấn Biên. Thuỷ quân bị Lê Văn Duyệt
phá, Phạm Ngạn theo đường bộ về Bình Thuận gặp cản trở của Châu Văn Tiếp và Lê
Văn Quân phải thối lui về Quy Nhơn.
Việc Đỗ Thanh Nhân ở lại chống giữ cho thành chứng tỏ lần nữa vai
trò quan trọng của ông trong chiến tranh. Địa vị ông sẽ càng vững chắc khi Gia
Định thấy yên ổn, thoát khỏi những chuyến nhiễu lược thường xuyên của Tây Sơn.
Trong các năm 1778, 1979, 1980, Gia Định lo củng cố thực lực của
mình: Nguyễn Ánh lo tổ chức hành chánh, chia doanh trấn, đặt người coi giữ, tạo
chiến thuyền, trữ lượng phòng bị chiến tranh. Sức mạnh Gia Định cũng cần phải
được chứng minh với phiên thuộc, nhất là với Chân Lạp đang thừa thế rối ren để
tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của Đại Việt.
Từ tháng 6 âm lịch (1779), ở Chân Lạp, Nặc Vinh đã giết Nặc Thâm và
bức tử Nặc Tôn để chiếm chính quyền. Đỗ Thanh Nhân đem quân đánh dẹp, lập Nặc
Ấn là con Nặc Tôn lên làm vua, lưu Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ rồi rút quân về.
Ngay chính trên đất Gia Định cũng không yên vì thiểu số người Miên
ở vùng Trà Vinh dưới quyền của tù trưởng Ốc Nha11. Họ chiếm cứ một vùng mà sử
quan phải tả là “rừng sâu, đầm lớn, cỏ dầy, tăm tối”. Đỗ Thanh Nhân lúc bấy giờ
giữ chức Ngoại hữu Phụ chính Thượng tướng quân, nhân dịp tức vị của Nguyễn Ánh
(đầu Xuân 1780) bèn cất quân phá rừng, mở đường tiến đánh. Dương Văn Trừng lấy
móc sắt câu các thuyền lại với nhau, dựng bè chuối trên thuyền để ngăn tên giặc
và theo nước thuỷ triều, quan binh đã tiến lên phá được sức kháng cự của địch
quân.
Chiến thắng Trà Vinh xong, Đỗ Thanh Nhân trở về sửa soạn chiến
thuyền, huấn luyện thuỷ binh cùng bộ binh. Ông tiếp tục học hỏi về khoa học, kỹ
thuật Tây phương với Bá-đa-lộc.
Việc tổ chức ở Gia Định chắc có Bá-đa-lộc nhúng tay vào một ít. Ông
này đã có mặt ở đây từ 1775 mà mối liên lạc mật thiết với Nguyễn Ánh được các
nhà truyền giáo rõ từ năm 1777. Tuy nhiên, người quan trọng vẫn là Đỗ Thanh
Nhân.
Kiêu căng trong quyền tước, ỷ thị nơi lực lượng Đông Sơn trong việc
giữ gìn quyền vua, Đỗ Thanh Nhân trở thành chuyên chế. Ông mộ thêm vây cánh
riêng cho ông. Bản tính hung bạo, ông làm cho cả xứ phải sợ hãi, thù ghét. Quân
Đông Sơn cũng có những hành động tàn ác như Trung đao quân của Lý Tài thuở
trước: họ dùng hình phạt rất thảm khốc, thiêu sống người, giết cả đàn bà có
mang. Có tham vọng không cùng, Đỗ Thanh Nhân còn muốn chiếm lấy chánh quyền.
Ông cắt xén các khoản chi phí trong cung. Nguyễn Ánh tới phủ riêng ông không
thèm giữ lễ. Ông cho tay chân nắm các chức vụ, và để cho những ai thân hậu được
mang họ của ông như một vị chúa tể vương tước.
Nhưng một võ tướng thô bạo như Đỗ Thanh Nhân tự dẫn mình đến chỗ
chết mà không hay biết.
Một người chín chắn, có ý thức về địa vị của mình, có nhiều phụ tá
mưu lược như Nguyễn Ánh, tất không thể nào chịu ép một bề. Vào gần nửa đêm một
ngày nào đó, ông đi tìm Bá-đa-lộc để hỏi ý kiến. Ông này phân vân giữa Đỗ Thanh
Nhân và Nguyễn Ánh, cả hai người ông đều có ý giữ liên lạc để lợi dụng truyền
đạo, nên trả lời thối thác một cách khôn ngoan. Ánh khóc về, vẫn không bỏ ý
định giành lại quyền binh.
Tống Phúc Thiêm thấy được ý Ánh, tâu xin trừ “giặc bên cạnh vua”.
Ánh suy nghĩ rất lâu và hai người bàn bạc kỹ lưỡng. Cuối cùng mưu kế được đặt
ra. Nguyễn Ánh giả bệnh ở mãi trong cung, các quan văn võ phải vào vấn an.
Nhưng trong mấy ngày đầu, Đỗ Thanh Nhân không tới. Đến cuối ngày thứ ba, ông
tới với một số đông vệ sĩ như thường lệ. Để quân hầu ở ngoài, Nhân tiến vào
trong gặp mẹ, vợ Nguyễn Ánh trong phòng bệnh, cả hai không hay biết gì hết.
Nhân chưa kịp nói một lời thì một nhóm vệ sĩ ở phòng bên cạnh tiến ra, giết
chết ngay.
Nhưng mối lo sợ của Nguyễn Ánh khi nghĩ tới hậu quả vụ trừ Đỗ Thanh
Nhân đã xảy ra. “Tôi ngại có rối loạn lớn”. Quả vậy, quân Đông Sơn mất chủ
tướng bị phân ra làm 4 đạo. Một số quân trung thành với chủ cũ chạy về Ba
Giồng, căn cứ cũ, làm phản dưới quyền của Đỗ Bảng, Võ Nhàn - anh của Phò mã
Chưởng hậu quân Võ Tánh sau này.
_______________________________________
1. Sa Đích của Thực lục.
2. Thực lục, q1, 3b và Liệt
truyện q27, 23b, q30, 9b.
3. Trích lại của G. Taboulet,
La geste française, t. 270.
4. Thực lục q6, 19a. Chế độ
khắc khổ: q4, 9b, 15a, q8, 28b.
5. Lòng ham thích học hỏi
được truyền đến cho con. Xem lời dặn Hoàng tử Cảnh lúc cho ra trấn Diên Khánh
(Thục lục q6, 35b). Ý kiến của Dayot: “(Nguyễn Ánh) chú ý thích thú với tất cả
những gì thuộc về khoa học phát minh” (G. Taboulet, La geste française, sđd, t.
250).
6. G. Taboulet, La geste
française. sđd. t. 268.
7. Lật Giang 栗 汀 của sử quan.
8. Trịnh Hoài Đức chỉ rõ sông
Bến Nghé là sông Bình Giang, vàm Bến Nghé ở chỗ rạch Bến Nghé đổ ra sông Sài
Gòn (Aubaret. t. 137, 184). Có lẽ là khúc sông Sài Gòn (Tân Bình giang) ở
khoảng Bến Tàu bây giờ.
9. Thực lục. q1, 4b. 5ab.
10. Thực lục. q1, 7b. Liệt
truyện q21, 23b.
11. Chức quan Chân Lạp.
Các loạn tướng không được may mắn như mấy lần chống đối trước.
Trong tháng 5 nhuận, Nguyễn Đình Toàn, Tống Phúc Lương được lệnh đánh họ ở sông
Lương Phú. Tống Phúc Lương vụng về làm bại binh. Lương bị biếm, Cai cơ Nguyễn
Văn Quý, Phan Văn Tuyên thay. Đỗ Bảng, Võ Nhàn đều bị trừ.
Như vậy, Nguyễn Ánh cũng đã trải qua một cơn thử thách. Lần này, kẻ
địch không phải từ ngoài vào mà là nằm trong tâm phúc. Thử thách đó làm vững
chắc thêm kinh nghiệm cầm quyền của ông. Vụ này đã gây nên sóng gió trong chính
quyền Gia Định. Cuộc bạo loạn của các phản tướng Đông Sơn là một trong những
nguyên nhân làm ngưng cuộc tiến quân ra Phú Yên hồi giữa năm 1781.
Sử quan nhà Nguyễn vẫn cho là vụ này làm đầu mối cho việc Tây Sơn
lại tấn công vào Nam: được tin Đỗ Thanh Nhân bị giết, Nguyễn Nhạc mừng rỡ “Hữu
Phương chết rồi, các tướng khác không đáng lo” rồi chuẩn bị nam chinh. Sự thực
không giản dị như vậy. Đỗ Thanh Nhân cũng như Châu Văn Tiếp năm sau, không đủ
là một cản trở nguy hiểm cho Tây Sơn.
Chúng ta lưu ý rằng từ 1775, lúc tiến lúc lui, quân Nguyễn vẫn giữ
các vùng Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận trong khi Tây Sơn chuyên chú vào việc
tấn công Gia Định tới ba lần rồi. Tại sao vậy? Không phải tại có Châu Văn Tiếp
cản trở ở vùng ngoài như người ta vẫn tưởng. Chuyến nam chinh 1777, Tây Sơn kéo
vào bằng cả đường bộ mà không gặp cản trở quan trọng. Tổng đốc Chu, Hộ giá Phạm
Ngạn những lần rút lui tuy bị chận đánh nhưng vẫn về được Quy Nhơn. Có thể coi
bọn Châu Văn Tiếp như các đội tiền đồn lẻ tẻ, lẩn tránh trên vùng núi rừng
trong khi đại bản doanh đóng ở Gia Định với họ Nguyễn cầm đầu. Đánh vào nơi
phải đánh, đó là lý do Tây Sơn “nhập khấu” Gia Định.
Tây Sơn còn biết Gia Định ở một điểm nữa: đó là sự sung túc ở miền
này. Họ hẳn không quên việc họ cướp thuyền lương của Mạc Thiên Tứ viện trợ cho
Duệ Tông vào năm 1774, việc Nguyễn Lữ chở lúa thóc kho Gia Định về Quy Nhơn.
Ngoài ra, họ còn cướp tiền bạc của các phú thương Hoa kiều ở cù lao Đại Phố
nữa. Có thể nói tiền của, thóc lúa đó đã nuôi nấng quân Tây Sơn chật vật đánh
giặc.
Tình trạng nghèo cực ở vùng Tây Sơn không phải là một điểm lạ. Họ
nổi dậy thừa hưởng một xứ cùng khổ sẵn, càng cùng khổ hơn vì tàn phá của chiến
tranh, làm ruộng đất bỏ hoang, công nghệ lụn bại, khiến họ khó khăn khi muốn
phát triển quyền lực quá giới hạn địa phương quê hương họ.
Chiếm thêm Quảng Nam, họ chỉ thêm được một xứ tan nát của Nguyễn,
Trịnh để lại. Họ phải mua những vật dụng cần thiết nhất của các thuyền buôn
Trung Hoa nhập cảng với giá cắt cổ. Tiền bạc do đó hụt lần và họ phải phá nhà
thờ, nhất là chùa để lấy chuông tượng đúc tiền.
Nguyễn Nhạc cũng ước lượng được tài nguyên trong xứ rất dồi dào:
tiêu, đậu khấu, quế, gỗ mun, ngà voi, thiếc... mà dân chúng không biết lợi dụng
vì họ “ngu dốt”. Nhưng ông cũng biết rằng các nước khác coi các thứ này là quý
giá và chúng có thể đem lại lợi tức cho quốc gia ông. Cho nên, gặp Chapman, ông
vội vã mời buôn bán, đưa ra một thuế biểu: 10.000 quan cho một chiếc tàu 3 cột
buồm, 7.000 quan cho tàu 2 cột buồm, 4.000 quan cho những chiếc nhỏ hơn. Bị chê
mắc, ông hạ xuống còn 7.000 quan, 4.000 quan và 2.000 quan. Rồi mời mọc Chapman
về nhà riêng, ông lại ném ra một ý kiến tỏ ra hàng đầu: tha thuế. Cuộc thương
thuyết thật tức cười nhưng cũng cho ta thấy được tình cảnh đáng thương của Tây
Sơn trong việc thực hiện mơ ước lớn lao với các phương tiện eo hẹp.
Thực vậy, chính quyền Quảng Nam cho Chapman một giấy phép buôn bán,
bắt mọi người ai mua đồ của ông phải trả đủ, không được ức hiếp, ngược đãi ông
cũng như khách hàng của ông. Nếu không tuân, họ sẽ phải chịu những hình phạt
nặng nề. Nhưng điều đáng nguy cho cả Tây Sơn là Chapman không tìm được một
người nào trong tỉnh để thảo luận việc bán buôn. Ta hiểu tại sao có điều đó:
chỉ có người Trung Hoa mới làm nghề buôn bán to lớn, thế mà Faifo vừa bị tàn
phá đến tận gốc thì ai đâu mà giao dịch với ông.
Tóm lại chiến tranh không phải là không hao tốn cho Tây Sơn. Sau
này, Nguyễn Ánh có lần kéo quân ra cũng vì lương vận tải không kịp mà phải rút
về. Cho nên, những chuyến đánh vào rồi lại quay ra của Tây Sơn phải được giải
thích bằng sự giới hạn của lương tiền cung cấp chiến tranh. Giới hạn này lại
chuyển qua hình thức khác, giới hạn quy định của gió mùa. Đánh vào khi còn mùa
gió bấc, rút về khi nổi gió nam, Tây Sơn phải liệu định thời gian hành quân thu
đến mực tối thiểu: chiến thuật yểm kích, đánh mạnh rút nhanh mà người ta vẫn
khen Nguyễn Huệ, có một phần nguyên cớ từ các giới hạn này.
Chật vật như vậy nên khi anh em họ xưng Đế ở Hoàng đế thành (Chà
Bàn), khinh địch đưa vào Nam toán quân yếu kém của Tổng đốc Chu, họ đã để mất
một cơ hội diệt Nguyễn Ánh. Phải chờ tới năm sau khi Nguyễn Ánh đã thu nhận
những yếu tố mới (tiết 5) để cải thiện binh lực4. Tây Sơn sợ tàu Hoà Lan trở
nên e dè. Đỗ Thanh Nhân chết rồi, Nguyễn Ánh còn tổ chức được một cuộc tiến
quân ra Phú Yên. Tây Sơn hẳn không dám vội xét đoán hậu quả cái chết của Nhân
sẽ có lợi cho họ. Thực ra, chỉ có lúc tin Hữu Phương chết hợp với điều chứng
kiến tận mắt về khả năng của đội quân Tôn Thất Dụ tiến ra, họ mới vững lòng ồ
ạt phản công, “nhập khấu” Gia Định lần nữa để ghi trận Ngã Bảy vào sổ quân công
của họ như ta sẽ thấy.
_______________________________________
1. Tổng hợp Thực lục q1, 11b,
12a, 13b; Liệt truyện q12, 3a chuyện Nguyễn Đình Toàn, q13, 2ab, chuyện Tống
Phúc Thiêm, q27, 2ab, 25a, chuyện Đỗ Thanh Nhân; A. Launay, III, t. 312, 313,
tài liệu của Thư viện Hội Truyền giáo.
Quận lỵ Bến Tranh cũ còn có
tên là Lương Phú, vậy Lương Phú Giang là sông Bến Tranh.
Truyện Đỗ Thanh Nhân nói rõ
ông này chết vào khoảng tháng 3 âl 1781, Liệt truyện q30, 10a cho vào năm Nhâm
Dần (1782). Suy xét mối liên quan với cuộc tấn công Phú Yên, vụ các tàu Bồ
(tiết 5) chạy trốn được xác định rõ tháng 7-1781, ta thấy việc xảy ra quả vào
năm Tân Sửu (1781).
2. Liệt truyện q30, 10a.
3. Chapman, bđd, t. 30-32,
36, 37.
4. Chapman lên thành Chà Bàn
vào khoảng giữa tháng 7-1778, được Nguyễn Nhạc tiếp, ông lưu ý đến một chiếc
ghế trống bên cạnh Nhạc “dành cho người em khác đang ở Đồng Nai”. Ai đây? Như
trước đã thấy, chuyến vào tháng 2 Mậu Tuất (1778) không có người nào trong 3
anh em Tây Sơn theo chỉ huy. Trận chiến kết thúc vào khoảng tháng 3 âl. Như vậy
không thể nói rằng người em vắng mặt kia ở Đồng Nai được. Phải nghĩ rằng Tây
Sơn lúc này đang chuẩn bị đánh báo thù từ khi họ biết tin thua. Người đi sửa
soạn đó tất là Nguyễn Huệ, chắc lúc bấy giờ ở Phú Yên (ở cửa Thi Nại thì
Chapman đã biết) và vì thế mới có tin đồn ông “ở Đồng Nai” và Chapman mới thấy
thuỷ sư Tây Sơn chỉ có vài chiếc galère và ít thuyền cướp được của người Trung
Hoa thôi.
Tiết 5
KỸ THUẬT TÂY PHƯƠNG RỤT RÈ
BƯỚC VÀO CHIẾN TRANH NAM HÀ
Mới mẻ trong quân lực Nguyễn Ánh * Trận Ngã Bảy * Vụ cầu Tham Lương
và hậu quả * Châu Văn Tiếp và Nguyễn Huệ.
Khi các đối phương mở cuộc chiến tranh thanh toán nhau thì họ thử
dùng tất cả phương tiện để đạt tới mục đích. Trong cuộc tranh chấp Tây Sơn -
Nguyễn ở buổi đầu này, lòng can đảm, gan dạ của chiến sĩ Tây Sơn bị ngăn cản
rất nhiều vì hậu thuẫn kinh tế giới hạn, vì thiếu phương tiện nối liền với một
chiến trường xa nơi xuất phát. Cho nên thấy được kỹ thuật cao độ của Tây phương
Nguyễn Nhạc mới đề nghị với họ xin người luyện tập sĩ tốt, mướn tàu chở binh
lính, mở giao thương. Nhưng ông đã thất bại như ta đã thấy và sẽ thấy vì xứ sở
ông, do ảnh hưởng của chiến tranh, thiếu mất đám người trung gian quan trọng:
thương nhân Trung Hoa.
May mắn hơn Tây Sơn, Nguyễn Ánh ở Gia Định có những điều kiện để
lôi kéo thương nhân Trung Hoa, lại thêm các giáo sĩ Tây phương, một trung gian
quan trọng khác nữa. Trong khi phân trần về hành động đã can dự vào chính trị
Đại Việt, Giám mục d’Adran chứng minh cho ta thấy xác nhận trên trong bức thư
đề ngày 26-7-1779: “Hai chiếc tàu từ Macao
đến Bassac trong năm nay để buôn bán... Một người Trung Hoa đưa ý kiến với ông
lớn của xứ Cochinchine cho ông ta biết rằng tàu chứa đầy đại bác, diêm tiêu,
lưu hoàng và các thứ khí giới, đạn dược khác. Ông quan mà tôi rất quen đó đương
hết sức cần các thứ hàng hoá này, vội vã bắt tôi viết thư cho các quan coi tàu
yêu cầu họ bán cho ông hết hay một phần. Hay nếu có thể, họ đem tàu giúp xứ
Cochinchine: đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi khác nữa”.
Tuy các vị chủ tàu có phàn nàn về thái độ tham dự của Bá-đa-lộc,
cách giao thiệp này cũng đưa tới kết quả là vào khoảng tháng hè 1781 trong cuộc
duyệt binh tháng 5 Tân Sửu với không dưới 3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 đại
chiến thuyền, sử quan ghi rõ có hai chiếc tàu Tây (Tây dương thuyền). Thực ra,
Bá-đa-lộc và các L.M giòng Franciscain ghi nhận tới 3 chiếc tàu Bồ Đào Nha chở
đầy binh lính, khí giới súng đạn và lương thực. Chính Bá-đa-lộc, “bằng cách nói
chuyện chơi” cũng đã du nhập kiến thức, kỹ thuật mới vào Gia Định khi ông dạy
Đỗ Thanh Nhân lối dùng lựu đạn, làm giúp một thước đo góc đạc điền, một
rapporteur, một ống loa, một dụng cụ thiên văn và những dụng cụ toán học
khác... Hơn nữa, ông còn cho người giúp việc của ông, Mãn-noài, Emmanuel...,
một tay lính thuỷ breton, sang phụ tá Nguyễn Ánh, điều khiển một chiếc tàu Bồ.
Có được lực lượng như vậy, Nguyễn Ánh tuy vừa mới xử xong Đỗ Thanh
Nhân, vẫn tưởng rằng có thể tấn công ngay Tây Sơn. Sau kỳ duyệt binh, ông sai
Tôn Thất Dụ làm Tiết chế bộ binh Bình Thuận cùng Tống Phúc Thiêm, Nguyễn Hữu
Thuỵ, Dương Văn Trừng ra Hòn Khói2 hợp với Châu Văn Tiếp tiến đánh. Hai chiếc
tàu Bồ nhân dịp này giương buồm chạy thẳng. Chiếc thứ ba dưới quyền Mãn-noài
không trốn được. Tuy chỉ có một mình, nó cũng làm cho binh Tây Sơn nghe đồn bọn
“Olane” giúp vua, bây giờ thấy chiếc tàu do tay “Ông Cả” tạo ra, “chạy không
cần nước”, đâm ra sợ hãi bỏ trốn khỏi Bình Thuận, Bình Khang, Phú Yên3. Nhưng
cuộc tiến quân không đạt kết quả vì bộ binh Tây Sơn với nhiều voi thiện chiến
đã đánh đuổi quân Nguyễn Ánh làm Châu Văn Tiếp phải chạy về Chà Rang. Gặp lúc
dư đảng Đông Sơn nổi dậy, quân Nguyễn rút về Gia Định.
Tốn thực nhiều để trang bị tàu Bồ mà không được ích lợi gì, triều
đình Gia Định lấy làm tức giận. Nếu phải e ngại phản ứng ngoại quốc thì
Mãn-noài có đó để ra tay trả thù ngay, luôn tiện thanh toán mối hiềm Pháp, Tây
Ban Nha trên bình diện đạo cũng như đời ở xứ này. Mãn-noài đã phục cho viên chủ
tàu Antonio Rodiguez say trong một tiệc rượu, rồi giết chết cùng với 27 lính Bồ
khác và L.M Antonio làm Tuyên uý dưới tàu, chỉ để thoát có 8, 9 kẻ bơi trốn vào
bờ (tháng 9-1781).
Tất cả những việc xảy ra làm suy kém binh lực Nguyễn Ánh, tuy nhiên
họ cũng còn mạnh hơn đạo thuỷ binh Tây Sơn kéo vào đầu tháng 4-1782, như nhận
xét của Pigneau. Sử quan Nguyễn ghi đạo quân Nhạc, Huệ vào cửa Cần Giờ tháng ba
Nhâm Dần có độ vài trăm thuyền. Tống Phúc Thiêm lãnh thuỷ binh từ khi Đỗ Thanh
Nhân chết đi, được lệnh dẫn binh ra sông Ngã Bảy đợi. L.M Ginestar ghi nhận
quân Gia Định có hơn 400 thuyền chiến, 70 ghe Tàu (?) và chiếc tàu Bồ của
Mãn-noài cướp.
Nguyễn Ánh đứng ở đầu thuyền, chiến đấu rất hăng. Nhưng Tây Sơn
thừa thế gió lớn thổi thuận, xông thẳng lên, ào ạt tiến đánh. Tống Phúc Thiêm
mang phần lớn binh thuyền bỏ chạy, Nguyễn Ánh phải lui. Tây Sơn đuổi theo nhưng
bị Mãn-noài cản trở. Hai lần họ cố trèo lên tàu mà không được vì Mãn-noài dùng
lựu đạn ném họ tan tành. Lần đầu tiên chiến cụ Tây phương chứng tỏ trực tiếp
hiệu nghiệm của nó. Nhưng quân địch vẫn ào ạt xông lên lần thứ ba. Lần này họ
thành công. Mãn-noài một mình ở lại giữ thuyền, châm lửa cho thuyền nổ, mình chết.
TâySơn đã thắng trận nhờ gan dạ nhưng phải mất rất nhiều mạng.4 Thực là một mối
cám hận cho Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ.
Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, có khi lẩn trốn trong khu rừng
Romdoul của Chân Lạp.5 Tây Sơn đuổi theo vào cuối tháng tư dương lịch, bắt vua
quan Chân Lạp hàng phục và bắt tất cả những người Việt chạy loạn ở đấy phải về
nước. May mắn cho Nguyễn Ánh, một việc vừa xảy ra ở Phiên Trấn khiến Tây Sơn bị
ngăn trở phần nào trong việc săn đuổi.
Lúc bấy giờ Tiết chế Bình Thuận Tôn Thất Dụ nghe Tây Sơn vào Gia
Định vội xuất binh đem Nguyễn Văn Đàm, Trần Văn Tự, tướng Hoà nghĩa Trần Công
Chương đi vào cứu giá. Tháng 1 âm lịch, viện binh đến Vườn Trầu6 gặp bộ binh
Tây Sơn, họ bèn phục binh đánh. Tham tán Hồ Công Siêu bị đạn chết. Về phía Tây
Sơn, Hộ giá Phạm Ngạn bị Chương giết ở cầu Tham Lương. Vừa lúc ấy đại binh Tây
Sơn kéo đến, họ phải rút lui.
Cái chết của Phạm Ngạn gây ra một cuộc giết chóc Minh dân tàn bạo
không từng thấy. Nhạc, Huệ đã mất khôn ngoan rồi sao?
Chúng ta hãy lưu ý trước tiên đến cá nhân người bị giết. Tài liệu
không nói rõ gì hơn, nhưng ở chỗ khác ta thấy Nguyễn Huệ có một người vợ họ
Phạm đã sinh ra Quang Toàn. Trong xã hội cũ của chúng ta, mối liên lạc tông
tộc, địa phương là một bảo đảm cho sự vững bền của triều đình. Cho nên họ Trịnh
lựa quân Tam phủ cho làm Ưu binh, hưởng đặc quyền. Họ Nguyễn trọng người Tống
Sơn đến nỗi lấy phẩm từ “quý” thay thế cho cái tên huyện riêng kia để gọi những
người cùng xứ đã theo Nguyễn Hoàng vào Nam là dân Quý Huyện, Quý Hương, cho
hưởng rất nhiều ưu đãi đến như Tống Phúc Phượng theo Tây Sơn tới thế cùng lực
kiệt mới hàng vẫn được kể vào hàng thần từ nhà Nguyễn. Tây Sơn vươn lên trong
một xã hội rạn nứt mà vẫn trong khuôn khổ cũ cũng không thoát khỏi thông lệ đó.
Vụ Quang Toàn phong tước cho anh em, vụ Bùi Đắc Tuyên sẽ là những chứng cớ mạnh
mẽ. Ở đây, Phạm Ngạn có bà con với Nguyễn Huệ không? Ta đã nói tài liệu im
lặng. Nhưng mối thâm tình với hai ông chúa Tây Sơn thì hẳn Phạm Ngạn đã có.
Chức Hộ giá với mấy lần Nam chinh mà không có Nhạc, người cần “hộ giá”, chứng
tỏ vai trò quan trọng, địa vị thân thuộc với Tây Sơn của ông. Ông cầm quân có
nghĩa như chính Nhạc cầm quân vậy.
Đằng khác, nhìn vào hoạt động của kẻ mà Nhạc trút căm hận lên đầu,
ta cũng thấy nhiều điểm sáng tỏ. Từ những biến loạn 1776, 1777 tàn phá cù lao
Đại Phố ở Biên Hoà thì thương nhân Trung Hoa kéo về quây quần quanh thành Gia
Định. Lý Tài chết đi nhưng đám Hoà Nghĩa quân vẫn còn. Nguyễn Ánh khôn ngoan đã
thu dụng họ, tuy không đồng hoá được quân đội họ.
Ta thấy trong trận 1779 có tên Hoà Nghĩa quân của Trần Phượng, trận
Vườn Trầu có Trần Công Chương, và năm sau nữa có Hoà Nghĩa đạo của Trần Đình
với các tướng Tổng binh Trần Hưng, Lâm Húc. Như vậy, người Trung Hoa, buôn bán
cũng như binh lính từ dân ngụ cư mà ra đều ở trong một thế hợp tác chặt chẽ với
Nguyễn Ánh. Thực lực Gia Định đã làm cho Tây Sơn phải thắng mà hao quân ở Gia
Định, làm cho họ bại mất viên Hộ giá thân tín ở cầu Tham Lương, Nhạc và Huệ hẳn
không thể không hiểu chính là vì đám dân Trung Hoa ở đây. Ra lệnh tàn sát, Nhạc
đã tuân theo sự xúi giục của tình cảm, có sự góp sức của lý trí. Hờn oán làm
cho lệnh càng ghê gớm.
L.M Castuera có mặt ở Chợ Quán ghi nhận (thư ngày 7-7-1782có ) gần
4.000 người Trung Hoa bị giết. Sử quan nhà Nguyễn tăng số lên “hơn vạn”. Trịnh
Hoài Đức cũng vậy. André Tôn (thư ngày 1-7-1784) nói có từ 10.000 đến 12.000
người chết. Đáng lưu ý là con số trên vạn là nhận xét của những người Việt quen
ước lượng phóng đại. Tuy nhiên cảnh tượng diễn tả thật là kinh khiếp và hẳn
không xa sự thật bao nhiêu: “Người Trung Hoa, bất luận binh lính hay dân buôn,
mới đến hay ở lâu, đều bị bắt giết, thây chất ngổn ngang vất đầy sông ngòi, đến
nỗi nước ứ không chảy, cả tháng hơn người ta không ai dám ăn tôm cá, uống nước
sông”. Một không khí khủng bố bao trùm khắp vùng: những ai có hàng Trung Hoa
trong nhà như vải lụa, trà thuốc, hương giấy... đều vất cả ra đường mà không
người dám lượm7.
_____________________________________
1. A. Launay, III, t. 74, 75.
Ông quan lớn này là Đỗ Thanh Nhân (xem trước: vụ Đỗ Thanh Nhân). Chính chúng
tôi nhấn mạnh chữ Trung Hoa. Chúng ta cũng lưu ý đến ngày tháng bức thư để hiểu
rõ những điều nói ở tiết trước về sự e dè của Tây Sơn đối với thuỷ quân Gia
Định.
2. Yên Cương, Hòn Chông, nhà
giòng Hòn Đất của Pigneau đều ở ngay trên đất liền. Vì lẽ đó, trái với tin
tưởng thông thường, “hòn” không phải để chỉ riêng những đảo nhỏ mà còn để chỉ
những gò đất nhô ra gần biển. Cho nên, Hòn Khói thật là địa danh rất hợp để tìm
ra vị trí Yên Cương của sử quan.
3. Chi tiết kể ra trước và
sau đây lấy ở thư Pigneau kể trước, thư của L.M Castuera gởi cho L.M Trưởng
tỉnh (BEFEO, 1940, bđd, t. 88), thư Pigneau đề ngày 24-7-1782 (A. Launay, III,
t. 71, 76). Thực lục, q1, 13ab có ghi “Thuỷ binh Tây Sơn không dám đánh” phù
hợp với lời huênh hoang của Castuera.
“Olane”: Hoà Lan; Ông Cả:
Bá-đa-lộc. Những chi tiết do các nguồn sử liệu khác nhau so ra hết sức sít sao
ở đây.
4. Thư Pigneau 24-7-1782,
Langenois ở Sa Đéc, 14-11-1782, L.M Ginestar, 7-7-1782, Liệt truyện q30, 10b,
Thực lục q1, 16ab.
Về thời gian Tây Sơn vào,
Thực lục, Trịnh Hoài Đức có chỉ rõ tháng 3 âl. Thư Pigneau ở Pondichéry ghi:
“Mars 1782” gần việc xảy ra hơn, phù hợp với xác nhận của Langenois “au
commencement d’ Avril”. Không như ông Nguyễn Phương đoán “có lẽ vào hồi tháng
giêng Nhâm Dần” (Đại học, 10-1762, t. 773, chủ số 1). Cũng không như ông bảo
người mang binh thuyền bỏ trốn là Đỗ Nhàn Trập (bài dẫn trên. t. 773). Thục lục
q1, 12b nói: “Ánh sai Phúc Thiêm lãnh thuỷ binh”, 16a “Ánh sai Phúc Thiêm dàn
binh ở Thất Kỳ giang”. Vậy viên Général commandant la flotte mà Ginestar nói
đến chính là Tống Phúc Thiêm.
5. Swayrieng bây giờ.
6. Hốc Môn, Gia Định.
7. BSEI, 1940, “La révolle ét
la guerre des Tây Sơn”, bđd, t. 87; Thực lục q1, 17a; Liệt truyện q 30, 10b; A.
Launay, III, t. 84.
Thế là sau vụ Hội An, theo với sự đưa đẩy của chiến tranh, Tây Sơn
càng trở nên cô lập. Như đã thấy, thương nhân Hoa cung cấp vật dụng cho người
Việt, xuất cảng những sản vật trong nước, là một nhân tố quan trọng cho sự phát
triển kinh tế ở đây. Tuy Tây Sơn sẽ còn đủ khôn ngoan để ve vãn các giáo sĩ, cố
tìm cách lôi họ về phía mình với đạo luật tự do hành giáo (tháng 12-1783),
nhưng thương nhân Tây phương thấy gương ở các bạn Đông Á của họ và của cả chính
họ nữa, trở nên dè dặt, lo ngại: một việc chiếc tàu của Chapman bị quân Trịnh ở
Phú Xuân cướp bóc vào giữa năm 1778 mà mãi đến giữa năm 1793 còn làm cho phái
bộ Macartney lo lắng khi phải ghé vào Tourane1 đủ chứng tỏ. Phải chờ đợi để
người ta quên, nhưng thời gian lại không đứng về phía Tây Sơn.
Tuy nhiên, bận rộn ở vùng Bến Nghé đã làm cho Tây Sơn phải xao lãng
nơi khác. Nguyễn Ánh lại trở về giồng Lữ, có thêm hai người Hoa phụ tá là Thống
binh Hạp và Kính. Đô đốc Tây Sơn, Nguyễn Học, đuổi theo bị Nguyễn Kim Phẩm đánh
giết thâu hơn 80 thuyền. Mừng rỡ tưởng có thể đánh thẳng về Gia Định, Ánh sai
Nguyễn Huỳnh Đức làm tiên phong, Tôn Thất Cốc làm trung quân, Trần Xuân Đàm,
Kim Phẩm hộ giá, tiến quân kéo về Ngã Tư. Nhưng Nguyễn Huệ, không biết có biết
đến Hàn Tín không, đã dàn binh xoay lưng ra sông, đánh thật dữ. Nguyễn Ánh phải
chạy về Bến Lức được Lưu thủ Vinh Trấn doanh rước về Hậu Giang, qua Rạch Giá,
Hà Tiên, theo thuyền nhỏ trốn ra Phú Quốc.
Tưởng yên được Gia Định, Tây Sơn rút về Quy Nhơn, lưu lại hàng
tướng Đông Sơn Đỗ Nhàn Trập với Hộ bộ Bá và 3.000 quân để coi sóc (tháng 5 âm
lịch). Số quân và tên tướng thật không đủ giữ. Cho nên, chỉ tháng sau đó là Hồ
Văn Lân đã đánh đuổi Đô đốc Nguyễn Loan, chiếm Long Hồ rồi cùng với Dương Văn
Trừng, Nguyễn Văn Quý đánh Bến Lức, thắng thêm một trận nhỏ. Nhưng đáng e ngại
chính là lực lượng Châu Văn Tiếp với cây cờ thêu “Lương Sơn tá quốc” bày tỏ ý
định trung thành với nhà Nguyễn. Quân Tiếp kéo vào với những viên thuộc tướng
sau này sẽ nổi danh như: Lê Văn Quân, Nguyễn Long. Hộ bộ Bá muốn rút quân thì
Đỗ Nhàn Trập ngăn lại quyết thử sức. Ông bị tiên phong Phạm Văn Sĩ xông vào
đánh trước rồi hậu đội Tiếp cũng công kích nên phải đại bại. Nhàn Trập và Bá
chạy về Quy Nhơn.
Như vậy, nhờ Châu Văn Tiếp, Nguyễn Ánh lại làm chủ Gia Định lần
nữa. Ông lại lo tổ chức binh bị. Có một số người từ Phú Xuân trốn vào đầu,
nhưng cũng không phải là kẻ có tài. Lực lượng của ông sau mấy lần tan rã đã yếu
ớt đến nỗi ông phải lo sai sứ thông hiếu với Xiêm để đề phòng Tây Sơn “nhập
khấu”.
Tuy nhiên, những tháng cuối năm, ông cũng lo tổ chức phòng thủ.
Trên bờ nam sông Sài Gòn (sông Tân Bình), Ánh lập luỹ Vàm Cỏ (Thảo câu) cho
Dương Văn Trừng giữ, phía bờ bắc lập luỹ Cá Trê (Giác ngư) cho Tôn Thất Mân
giữ. Có cầu tre nối hai bờ. Giữa sông bày hơn 100 thuyền có Giám quân Tô giữ bè
nứa đợi Tây Sơn đến dùng hoả công đốt.
Nguyễn Ánh không phải chờ lâu vì chiến tranh vẫn mang tính cách
định kỳ của nó, quy định bởi những trận gió mùa. Lần này là với Nguyễn Lữ và
Nguyễn Huệ.
Từ đầu tháng 3-1783, Bá-đa-lộc đã phải hội bàn với Nguyễn Ánh về việc
tránh Tây Sơn. Người ta không tính việc chạy qua Chân Lạp vì chiến tranh và đói
kém đã tàn phá xứ này. Phải tính chuyện chạy ra các hải đảo ở vịnh Xiêm.
Bá-đa-lộc được uỷ thác sửa soạn tàu bè, lương thực đề phòng phải đi.
Ngày 19-3 có tin Tây Sơn đến. Cũng bằng cửa Cần Giờ. Tới nơi, Tây
Sơn chia binh làm hai đạo: Tư khấu Nguyễn Văn Kim đánh bắc ngạn và Đô đốc Lê
Văn Kế đánh nam ngạn. Lưu thủ Thăng và Tiên phong Tuý định dụ thuỷ quân Tây Sơn
mắc vào kế hoả công mà không tính đến việc nước triều đưa quân địch lên theo
với đà gió đông thổi ngược lại. Mồi lửa quay lại đốt thuyền Chúa. Lê Văn Kế
chặt đứt cầu nổi làm chết Tôn Thất Mân. Dương Văn Trừng bị bắt. Châu Văn Tiếp
may thoát được, chạy thẳng qua Xiêm cầu viện. Nguyễn Ánh về Ba Giồng với 5, 6
người tướng và hơn 100 quân. Ở đó cũng không yên, ông chạy thẳng ra Hà Tiên gặp
Bá-đa-lộc rồi hai người trốn qua Phú Quốc, ở hai nơi khác nhau.
Nhưng quân Nguyễn còn chưa chịu thua. Không biết sự việc tiến triển
ra làm sao, hai tháng sau, Nguyễn Ánh lại trở về ông tập trung quân đóng ở Đồng
Tuyên và phân phối nhiệm vụ cho các tướng sĩ: Nguyễn Kim Phẩm được làm Tiền
phong, Nguyễn Huỳnh Đức trông coi đám binh người Miên làm Hậu ứng; Trung quân
có Tôn Thất Dụ, Nguyễn Đình Toàn, Lại bộ Hồ Đồng, Binh bộ Minh, Tham nghị Trần
Đại Thể, Tham mưu Trần Đại Huề (con Thể); Chưởng cơ Hoằng giữ Tả chi, Nguyễn
Văn Quý Hữu chi. Nguyễn Huệ nghe tin đem binh tới. Trận chiến xảy ra và Toàn,
Quý, Minh, Huề bị giết, Huỳnh Đức, Hồ Đồng bị bắt về làm tay chân Nguyễn Huệ.
Mất hết thuyền, đạo quân trốn chạy trong một xứ đầy sông rạch này phải đem thân
làm mồi cho cá. Nguyễn Ánh bắt đầu từ nay một cuộc đời lưu vong thật sự.
__________________________________________
1. Van Imbert. Le séjour en
Indochine de l’ambassade de Lord Macartney (1793). Hanoi, 1942.
2. Thực lục. q1, 18ab, 19ab,
20a.
3. Thực lục q2, 1ab chỉ nói
đến việc Ánh thua, chạy về Ba Giồng trong tháng hai âl rồi tiếp đến tháng 4 âl
với trận Đồng Tuyên như là Ánh vẫn còn lẩn quẩn trong vùng này. Thực ra, hãy
nghe Bá-đa-lộc nói (thư 20-3-1785): “Ngày thánh Joseph... chúng tôi nhận được
tin giặc tới... ngày sau... chúng tôi ra biển bằng cửa Bassac và ngày thứ hai
tới một giáo khu có 400 dân Cochinchinois... Vua đã chạy trốn ra đây với độ 90
thuyền. Chúng tôi phải đi tìm một chỗ khác, chắc chắn và xa hơn. Chúng tôi dừng
lại ở một hòn đảo lớn để làm lễ Phục sinh... Người ta đem tin cho chúng tôi
biết là vua ở cách chúng tôi một ngày đường, và giặc vẫn theo” (A. Launay, III,
t. 87, 88). Thư khác (Bangkok, 6-12-1783) bổ túc cho ta biết giáo khu ông gặp
Nguyễn Ánh vào ngày 21-3 là “ở gần Cancao” và nơi Nguyễn Ánh trốn vào khoảng lễ
Phục sinh tuy ở cách Bá-đa-lộc tới “1 ngày 1/2 đường” nhưng “ở cùng một hòn
đảo” (A. Launay, III, t. 77-79). Hòn đảo lớn đó chắc không thể nào khác hơn là
hòn Phú Quốc.
Sử quan nhà Nguyễn lặng im ở chỗ Nguyễn
Ánh chạy ra Phú Quốc vài ngày sau trận Bến Nghé có dụng ý gì? Họ quên, hay
tránh nói đến việc chạy trốn của Chúa họ chừng nào hay chừng nấy, hay vì trong
khoảng thời gian này có việc nhờ cậy các Linh mục Franciscain đi xin cứu viện ở
Manille mà các sử quan thì làm sách trong thời kỳ sát tả nên tránh nói đến “công ơn” của
các giáo sĩ được chừng nào hay chừng nấy?
Tiết 6
CHIẾN THẮNG TÂY SƠN
TRƯỚC VIỆN BINH XIÊM LA
Tây Sơn săn đuổi * Giao thiệp Gia Định và Xiêm La * Viện binh Xiêm
và chiến bại * Ảnh hưởng. Sau trận Đồng Tuyên, Nguyễn Ánh lại thêm một lần khốn
đốn. Trong lúc quân lính chết đuối thì nhờ biết bơi, ông đã thoát nạn. Có những
may mắn đưa đến cho ông Chúa này để sử quan nhà Nguyễn lại có dịp tán tụng
phước mạng đế vương. Qua Rạch Chanh, ông nhờ đến một con trâu nằm trên bờ; giữa
dòng nước triều chiều chảy xiết chìm trâu thì may sao một con cá sấu (?) lại
đưa giúp ông qua bờ bên kia1. Tây Sơn đã có mặt tại Hậu Giang chận mất con
đường chạy trốn quen thuộc, ông phải chạy xuống trú ở Mỹ Tho, rồi từ đó đưa gia
quyến đi Phú Quốc.
Bị săn đuổi, binh tướng trở lòng. Đó là đám người từ lâu vẫn khó
đồng hoá: quân Hoà Nghĩa đạo. Nguyên để có người điều khiển đám tân binh, Ánh
sai Tôn Thất Cốc trông coi rồi sai tướng Hoà Nghĩa Trần Đình về cửa Cần Giờ để
do thám. Công việc thật khó khăn mà tướng sai thì không đủ uy tín, Đình không
thi hành. Ánh sai Cốc giết đi. Thuộc tướng của Đình là Trần Hưng và Lâm Húc làm
phản chiếm Hà Tiên. Rủi ro cho Nguyễn Kim Phẩm và công chúa Ngọc Chú, người về
Hà Tiên thu binh, người mua gạo mắm, đều bị bọn này giết chết.
Tuy nhiên việc quân đội Gia Định có mặt ở các đảo vịnh Xiêm gây nên
khó khăn cho các đám cướp biển ở vùng này. Vinh-ly-ma, một tướng Xiêm từ sau
loạn Phi-nhã Oan-sản (1781) tụ tập một đám người Mã Lai chiếm cứ đảo Cổ Long
trong vịnh Kompong Som, thấy lẽ khôn ngoan là đem thuộc binh ra thần phục
Nguyễn Ánh. Đội quân lưu vong lái thêm 100 chiến thuyền và 200 người nữa.
Thêm người tất thêm miệng ăn cho đám quân thiếu thốn sẵn. Nguyễn
Ánh phải dùng binh Vinh-ly-ma quen cướp giựt hai ba lần vào Hà Tiên và quanh đó
để kiếm khí giới, lương thực. Tin tức nơi trú ẩn lộ ra ngoài.
Tháng 6 âm lịch, lúc Nguyễn Ánh đang ở mũi Đá Chồng thì Tổng suất
Tây Sơn là Phan Tấn Thuận kéo binh tới vừa thuỷ vừa bộ. Cai cơ Lê Phước Điển phải
đóng vai trò Lê Lai thuở trước, Ánh mới chạy thoát về đảo Cổ Long.2 Tôn Thất
Điển, Tôn Thất Cốc, Hoảng, Vinh-ly-ma đều bị bắt và bị giết.3 Tây Sơn vẫn không
tha. Một tháng sau, phò mã Trương Văn Đa lại đem quân đến Cổ Long vây ba vòng
trùng trùng, điệp điệp, quyết không để Ánh thoát lần nữa. Rủi ro cho Tây Sơn,
một trận bão đánh đắm nhiều thuyền để Ánh nhân đó thoát ra, chạy đi Cổ Cốt.
Tây Sơn rút đi, Ánh lại mò về Phú Quốc. Tình cảnh đám quân bại thật
thảm thương: thuyền Ánh gãy nát cột buồm, quân lính hết lương phải bứt cỏ mà ăn
rồi sống nhờ một thuyền gạo của một người đàn bà Hà Tiên đem giúp. Để vợ con
lại hải đảo, Ánh táo bạo đem một chiếc thuyền vào cửa Ma Ly4 do thám tình hình.
Độ 20 thuyền Tây Sơn thấy được đến vây, ông giương buồm chạy thẳng ra biển,
lênh đênh suốt 7 ngày đêm. Gặp được dòng nước ngọt, thoát chết khát, ông quay
trở về Phú Quốc.
Không ở yên được một chỗ, Ánh phải sai Cai cơ Nguyễn Văn Chính về
Long Xuyên chiêu binh, tập mã. Thuyền đến cửa sông Ông Đốc thì bắt được tướng
Tây Sơn là Quản Nguyệt, Ánh sai chém đầu thị chúng. Oai vũ chưa thấy đâu mà chỉ
làm động đến Tây Sơn. May mắn, đạo quân tuần đêm bắt được viên Phó chiến Dạng
trong đội phục binh ở cửa sông do Lưu thủ Long Xuyên của Tây Sơn là Nguyễn Hoá
điều động. Rõ được cơ mưu, Ánh giục thuyền chạy mau cho thoát.
Lúc bấy giờ Lữ, Huệ đã về Quy Nhơn, để lại Trương Văn Đa với Chưởng
tiền Bảo. Nguyễn Ánh trôi dạt Hòn Chông, rồi Thổ Châu, Cổ Long, Cổ Cốt... sống
cuộc đời vật vờ phẫn chí của viên chúa tể trong cơn bại vong. Ông phải thay
phiên chèo chống, chia sớt cùng khổ với bọn tòng thần cùng vài trăm binh trên
độ mươi lăm chiếc thuyền. Tướng sĩ có khi vài ngày không ăn, phải đào rễ cây
nhấm nhá cầm hơi.
Vắng Nguyễn Huệ, dư đảng Ánh ở đất liền tưởng có dịp nổi lên thành
công. Hồ Văn tân đánh ở Tân Châu, Tôn Thất Hội chiếm giồng Sao, đắp luỹ cự địch
trong khi Lê Văn Quân lại giữ sông Tân Hoà. Quân Tây Sơn tiến đánh giồng Sao
rồi phá tan đồn Tân Hoà. Tháng giêng năm Nhâm Thìn (1784), kiện tướng Ánh không
còn ai ở Gia Định vì Hội, Quân đều bỏ chạy sang Xiêm, chỗ trú cuối cùng.
Châu Văn Tiếp sau trận Cá Trê đã theo đường thượng chạy một mạch
qua Xiêm kêu xin viện binh. Tiếp thực táo bạo trong lúc Ánh không dám liều
lĩnh8. Sở dĩ có sự dè dặt này vì bang giao Xiêm Việt lúc bấy giờ tuy có dấu
hiệu cải thiện nhưng chưa đủ cho Ánh thấy Xiêm tỏ ra quên những cừu thù cũ.
Nam Vang và Hà Tiên là hai địa điểm đầu mối gây chiến. Ta đã biết
âm mưu mở rộng Hà Tiên qua phía Xiêm đã gây nên trận chiến tranh giữa Mạc Thiên
Tứ và Trịnh Quốc Anh9. Khi Duệ Tông bị bắt, Tứ với Tôn Thất Xuân chạy trốn bị
thuyền Xiêm bắt về Vọng Các. Mùa xuân 1778, Ánh sai Cai cơ Lưu Phúc Trưng qua
tìm Tứ. Mùa hạ năm đó sứ bộ của Cai cơ Tham, Tịnh đi Xiêm thì gặp rủi ro: một
thuyền Xiêm đi buôn Quảng Đông về qua Hà Tiên bị Lưu thủ Thăng giết cướp. Có
người Chân Lạp lại nói dèm rằng Gia Định có mật thư cho Tứ, Xuân làm nội ứng để
chiếm Vọng Các. Muốn khỏi lo lắng, Trịnh Quốc Anh cho giết Tứ, các con lớn Tử
Diên, Tử Hoàng, Tử Thượng và Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh, 50 người tuỳ tùng, chỉ
chừa lại con nhỏ và cháu Tứ phải đi đày thôi 10. Tình hình bang giao không mấy
khả quan thì lại tiếp xảy ra việc tranh quyền bảo hộ Chân Lạp.
___________________________________________
1. Ta biết là những khúc sông
có tên là Rạch Chanh bắt đầu từ Long Định (Long An) đi vào Vàm Cỏ đông phía hạ
lưu Bến Lức, qua Vàm Cỏ tây rồi ra Tiền Giang bằng kinh Bà Bèo và rạch Ba Rài.
Vậy thì Nguyễn Ánh đã thoát nạn ở các khúc Rạch Chanh nào?
Chứng tích hiện tại so với sử sự thì hình
như không hợp. Rạch Chanh khá nhỏ (trừ phi vào thế kỷ XVIII nó có lớn hơn
không) mà sử quan kể chuyện Ánh lội qua sông, leo lên lưng trâu cỡi, nước triều
buổi chiều dâng, trâu chìm, cá sấu đưa đi... như trên một khúc sông lớn vậy.
Địa điểm chính xác chắc là vịnh Đá Hàn trên sông Vàm Cỏ tây gần chỗ một khúc
Rạch Chanh nhập vào (xã Hướng Thọ Phú, Long An). Đó là một vùng nước xoáy rất
dữ (một khuỷu sông). tục truyền Nguyễn Ánh đi qua đó không ghe thuyền, bỗng
nhiên đá dưới sông trồi lên, hàn lại (vi thế mới có tên là Đá Hàn. Người ta đồn
ở khúc sông này có bầy trâu nước, ai lấy được một sợi lông của nó mang theo qua
sông, thân mình không bao giờ bị chìm. Phảng phất trong truyện tích, ta thấy có
chuyện Nguyễn Ánh cỡi trâu qua sông. Vậy chắc khúc sông này là chỗ Nguyễn Ánh
thoát nạn. )
2. Sử quan gọi là đảo Côn
Lôn. Tìm ra địa điểm Cổ Long là công của Ch. Maybon (Histoire moderne du pays
d’Annam, t. 201, chú số 3). Tuy nhiên, tên Côn Lôn nói ở các quyển Thực lục về
sau không thể lẫn được vì đảo này, từ lúc Nguyễn Ánh chiếm hẳn Gia Định đã đóng
vai trò quan trọng trong việc tiếp xúc với Tây phương mà Tây phương thì biết rõ
nó hơn Cổ Long.
3. Chi tiết vụ này lấy ở Thực
lục q2, 3ab, Liệt truyện q28, 9b, thư Langenois gởi cho Descourvières từ Sa Đéc
14-11-1783. Sử quan gọi vị trí xảy ra cuộc vây hãm là “Điệp thạch dự”, hòn Đá
Chồng. Trịnh Hoài Đức (Aubaret, t. 52) kể chuyện Vinh-ly-ma, gọi là vũng Luỹ
Thạch ở Phú Quốc. Hai chữ “luỹ” và “điệp” có thể lẫn với nhau. Thực ra chữ “dự”
ở đây không chỉ một hòn đảo mà chỉ một mõm núi nhô ra sát biển.
Trận chiến hình như không phải chỉ xảy
ra ngoài biển, ở mũi Đá Chồng của đảo Phú Quốc mà còn có trên đất liền ở vùng
Hà Tiên nữa. Tài liệu Tây phương trên ghi: “...(Ánh) trong lúc chờ đợi viện
binh ở Xiêm đã hai ba lần lẻn vào Cancao và quanh đó với bọn Mã Lai Campot để
tìm lương thực, khí giới thì thuỷ quân Tây Sơn và đạo quân Lào, Bassac bằng
đường bộ đổ xô đến cướp của ông nhiều thuyền đi biển, bắt các tướng, hầu hết
đều phản bội. Một vài người bị giết, số còn lại đem về Sài Gòn”. (A. Launay,
III, t. 79, chú số 1).
Chúng tôi nhấn mạnh các chữ Mã Lai
Campot vì đó là đầu mối tổng hợp các tài liệu. Sử quan vẫn gọi bọn cướp biển ở
vịnh Xiêm là giặc Chà-và (từ chữ Java). Khi Nguyễn Ánh ở Xiêm đánh Pégou (Mã
Lai) giúp Rama I, sử quan cũng gọi là đánh giặc Chà-và. Vậy Chà-và ở đây là chỉ
dân Malais, và bọn “Malais du Campot” nói trên là tướng sĩ của Vinh-ly-ma. Thực
lục ghi việc Xiêm tướng Vinh-ly-ma về đầu rồi tiếp theo vụ Điệp Thạch Dự liền,
khiến ta có thể thấy ngay sự liên tục giữa hai sự kiện. Hơn nữa trong thời gian
chờ đợi viện binh Xiêm, chỉ có trận bại chiến này là lớn thôi, trận mà Pigneau
có nói tới: “... (khoảng 17, 18-7) vua đánh với bọn nổi loạn một trận mất gần
hết binh thuyền còn lại” (A. Launay, III. t. 88) rất đúng với thời điểm tháng 6
âl của Thực lục.
4. Đồng Khánh, quyển hạ, t.
209 cho biết đó là cửa biển của xã Tam Tân (nay thuộc Bình Tuy). Sông Ma Ly có
tên trên bản đồ của Nha Địa dư là sông Phan. Ta có thể hoài nghi là địa điểm
Ánh tới quá xa Phú Quốc và quá gần Tây Sơn. Tuy nhiên sự việc lại quá hợp với
chi tiết nước ngọt giữa biển kể sau. Phải ở Ma Ly chạy thẳng ra biển Đông, đi
tới 7 ngày đêm người ta mới vẫn có thể may ra gặp các dòng nước ngọt do sông
Cửu Long đổ ra vì khối lượng lớn quá nên không lẫn với nước mặn được.
5. Đốc Công hải khẩu. Thực
lục, q2, 7ab.
6. Thực lục, q2, 8b; thư của
Pigneau kể chuyện nửa sau tháng giêng 1784 (A. Launay III, t. 90.)
7. Cù lao Ông Chưởng.
8. Thư ông Descourvières (A.
Launay, III, t. 80).
9. Ch. Maitre “Documents sur
Pigneau de Béhaine, évêque d’Adran”, RI, 1913. t 176. Liệt truyện tiền biên,
q6, 5ab
10. Liệt truyện q32, 3b, 4a.
Vào cuối năm 1781, Trịnh Quốc Anh phái các tướng Chất-tri, Xô-si
qua Chân Lạp hỏi tội Nặc-ấn, trả thù vụ Nặc-vinh bị Đỗ Thanh Nhân giết. Nặc-ấn
thua rút binh về Colompé cầu cứu với Gia Định vào cuối tháng giêng 1782. Nguyễn
Hữu Thuỵ và Hồ Văn Lân tiến quân lên Loveck1. Chiến tranh còn dằng dai thì ở
Xiêm xảy ra chính biến. Giặc thành Cổ Lạc (Korat) nổi dậy, Trịnh Quốc Anh sai
Phi-nhã Oan-sản2 cầm quân dẹp mà không biết tại sao lại không lưu ý rằng người
cầm đầu cuộc loạn lại là em Sản. Sản quay giáo đem quân về Vọng Các bắt Anh cầm
tù. Ở Chân Lạp, Chất-tri cầu hoà với Thuỵ, bẻ tên thề, nhận cờ, đao, kiếm của
Thuỵ tặng rồi kéo quân về giết Quốc Anh, vu tội cho Sản rồi giết luôn. Chất-tri,
Xô-si, và cháu là Ma-lặc làm đệ nhất, đệ nhị, đệ tam Phật vương, cùng nhau cai
trị truyền dòng Rama.
Việc kết giao với Nguyễn Hữu Thuỵ, tiếp theo với việc Rama I kêu
Mạc Tử Sanh về Vọng Các nuôi, có thể coi như những dấu hiệu khuyến khích Nguyễn
Ánh tới gần Xiêm hơn. Cho nên, khi bại binh ở sông Ngã Tư, Ánh sai sứ bộ trên
100 người theo đường Chân Lạp qua Xiêm cầu viện. Dân Chân Lạp gặp dịp may trả
thù kẻ thất thế, bèn giết gần hết sứ bộ với Nguyễn Hữu Thuỵ, Trần Xuân Đàm. Chỉ
có Nguyễn Văn Nhân, Cao Phước Trí là chạy thoát4. Tuy bị trở ngại, Nguyễn Ánh
khôn ngoan vẫn cố giữ liên lạc thân thiện để hi vọng nhờ cậy. Mùa thu năm 1782,
khi trở lại Gia Định rồi, ông cũng sai sứ đi Xiêm nữa.
Đến nay, Xiêm vương nghe lời Châu Văn Tiếp ai cầu, một mặt sai Tiếp
theo thượng đạo trở về tìm chủ, một mặt sai Thát-xỉ-đa đem thuyền đi Hà Tiên
tìm rước Ánh ở Long Xuyên vào tháng 5- 17845. Nhưng có phải vì lời kêu xin khẩn
thiết của Châu Văn Tiếp ngày nay và vì nhớ mối kết giao với Nguyễn Hữu Thuỵ
trước kia mà Xiêm vương cho rước Nguyễn Ánh để rồi tính việc trợ giúp không? Có
những tài liệu khiến ta phải dè dặt.
Bá-đa-lộc đến Bangkok vào đầu tháng 11-1783 có gặp ở đây một sứ giả
của Tây Sơn6. Tài liệu thật là ít ỏi để cho ta có thể biết thêm về ngày tháng
tới lui, sứ mệnh giao phó, sự tiến hành công việc của viên sứ giả này ở
Bangkok. Tuy nhiên do đó, ta cũng thấy Xiêm phải lựa chọn Nguyễn Ánh và Tây Sơn
mà quyết định nghiêng về bên nào lại tuỳ thuộc vào tình hình Chân Lạp.
Thực vậy, trong tháng 12-1783, Trương Văn Đa dẫn quân tấn công Chân
Lạp. Trước đó, Nặc Ấn bị Chiêu-thuỳ-biện, một người Mã Lai, nổi dậy đánh đuổi
đến phải trốn qua Xiêm. Đa đến, Biện vốn được Xiêm công nhận làm phụ chính ở
đây từ trước, vội vàng chạy qua cầu viện. Và rồi Tây Sơn giáp mặt quân Xiêm. Trương
Văn Đa nghe tin điệp viên báo rằng quân Xiêm sẽ tiến theo đường Lào đánh Quy
Nhơn, nên quyết định khai chiến. Xiêm cũng đòi Tây Sơn trả những kẻ thù của
Xiêm mà Tây Sơn giữ (?) không thì chiến tranh. Và chiến tranh xẩy ra. Tây Sơn
bị Xiêm vây, hai bên đánh nhau vài lần.
Cuối cùng Trương Văn Đa rút khỏi Nam Vang (6-1-1784). Nhưng từ đó
“chiến tranh càng ngày càng nhen nhúm giữa người Xiêm và bọn giặc ở Sài Gòn”.
Để phân tán lực lượng Tây Sơn, Xiêm vương nghĩ tới Nguyễn Ánh. Và
đó là cớ quan trọng nhất để giải thích việc Nguyễn Ánh được “rước mời” vào Vọng
Các. Cuộc đón rước nếu thực tình và diễn tiến trong bình đẳng thì sao lại để
xẩy ra những điều mà khi gặp lại Bá-đa-lộc lần thứ hai, Ánh phải than phiền về
“cách thức người ta lôi ông vào Xiêm”?
Tuy vậy, Ánh cũng ở Vọng Các chờ đợi đưa về. Đây là dịp may mắn cho
Xiêm vương có thể mở rộng cương giới về phía Thuỷ Chân Lạp. Viện binh Xiêm gồm
có hai vạn quân, ba trăm chiến thuyền dưới quyền điều khiển của Chiêu Tăng,
Chiêu Sương, xuất binh ngày Nhâm thìn tháng sáu (25-7-1784).
Chiến tranh dùng Xiêm binh chiếm Gia Định được Nguyễn Ánh tóm thuật
trong một bức thư gởi cho J. Liot:
“Từ Thầy theo Ta mà trở về9 thì Ta cùng Xiêm binh tựu tại Mang
Thít10 hạnh công Tây tặc, thủ thắng tàu một chiếc, hải đạo11 5 chiếc. Nhẩn ngày
sau trực tấn xứ Lạch12. Nay thì Xiêm binh đại tứ lỗ lược, dâm nhơn phụ nữ, lược
nhơn tài vật, túng sát bất dung lão thiếu. Vậy nên Tây tặc binh thế nhựt thạnh,
Xiêm binh thế nhựt suy. Cớ ấy qua tháng chạp, mùng tám vừa thất lợi, các giai
hội tản”...
Sử quan ghi cẩn thận hơn: tháng 7 âm lịch, khi quân Nguyễn Ánh và
Xiêm chiếm Kiên Giang rồi đánh Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Hoá ở Trấn Giang (Cần
Thơ), quân Xiêm chia nhau đồn trú Ba Vác, Trà Ôn, Mang Thít, Sa Đéc. Nguyễn Ánh
lo kiến tạo lực lượng riêng. Ông sai Cai cơ Trịnh Ngọc Trí đi đến các làng kêu
cựu thần đang lẩn trốn và hào kiệt nổi lên hưởng ứng quan binh. Kết quả sơ khởi
cũng khả quan: ở Vũng Liêm13, phó Đốc chiến Lý của Tây Sơn ra hàng. Cai cơ
Nguyễn Tấn Văn hàng Tây Sơn ở trận Cá Trê năm ngoái nay cũng trở về. Sau đó là
Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm bị bắt sau trận Đồng Tuyên và dư đảng Đông Sơn
do Nguyễn Văn Thành chiêu dụ.
10 âm lịch, Nguyễn Ánh chịu một cái tang đau đớn: Châu Văn Tiếp quá
hăng hái tiến sâu vào trận địa chết đổi mạng với Chưởng tiền Bảo ở Mang Thít.
Trương Văn Đa vội rút về Long Hồ, sai người cấp báo Quy Nhơn.
Quân Xiêm hoành hành dữ. Ánh kêu với cận tướng14, rồi bỏ ra các hải
đảo, gặp Bá-đa-lộc ở Thổ Châu vào tháng 12-1784, than thở với ông này rằng:
người Xiêm lừa gạt ông, lấy cớ lập lại quyền binh cho ông chỉ để dùng danh vị
ông mà cướp bóc dân chúng và bắt sống ông thôi15. Trong khi đó, các tướng ông còn
lại ở lục địa cố gắng tìm chiến thắng. Lê Văn Quân tiếp tục công việc của Châu
Văn Tiếp, làm Khâm sai Tổng nhung, đem Chưởng cơ Đổng tiến chiếm Ba Lai, Trà
Lọt.
Nhưng không lâu, tháng chạp Giáp Thìn, Nguyễn Huệ kéo quân vào.
Chạm với một kẻ địch lạ tay, Nguyễn Huệ đánh mấy lần không thủ thắng đã có ý
rút quân về. Vừa lúc một hàng tướng của Nguyễn Ánh, Lê Xuân Giác, liền cho Huệ
kế phục binh, đánh mạnh, bất thần, hợp với sở trường viên tướng trẻ mà đầy khả
năng này.
Huệ đem lính thiện chiến mai phục ở Rạch Gầm, rạch Xoài Mút16 rồi
dụ quân Xiêm tới. Quen mùi chiến thắng, quân Xiêm tiến sâu vào nội địa bị đánh
úp tan tành, chỉ còn vài nghìn người lẩn trốn theo đường bộ Cao Miên chạy về
nước. Thực là một chiến thắng làm choáng váng địch quân. Nguyễn Ánh không trông
cậy gì ở viện binh Xiên nữa. “Họ sợ Tây Sơn như sợ cọp”.
Nguyễn Ánh chạy về Trấn Giang sai Cai cơ Châu Phúc Trung tâu sự
tình lên Nhị vương nước Xiêm. Cuộc đời lao đao bị săn đuổi lại bắt đầu qua Thổ
Châu rồi Cổ Cốt. May mắn hơn, lần này đã quen sẵn, ra Cổ Cốt, Nguyễn Ánh gặp
Cai cơ Trung đem binh Xiêm rước. Tháng ba năm Ất Tỵ (1785), với các tướng tòng
vong trên 5 thuyền và 200 binh, Nguyễn Ánh lủi thủi vào Vọng Các.
Nhưng hi vọng chưa dứt, ông còn mong chờ. Trong khi đó Tây Sơn lại
bắt đầu tính chuyện tuôn đổ sức mạnh có sẵn của họ ngược lên phía bắc, cưỡng
bách đám dân chúng ở đây nhìn nhận oai quyền, giá trị của kẻ bà con phương xa
về đã thu nhặt được trong chuyến viễn du mấy trăm năm cách biệt.
______________________________________
1. La-bích, Lô-việt của sử
quan.
2. Phi-nhã là chức tước (sử
quan cũng biết đến điều này: Liệt truyện q32, 2a). Chất-tri cũng vậy. Tên Rama
I là P’hut Yodfa (P. Schweisguth, Un siècle d’histoire dans la péninsule
indochinoise (1750-1830), Taupin, Hanoi. 1944.
3. Thực lục q1, 14ab, 15ab.
Thư J. Liot cho Ô. Descourvières, 25-7-1782, A. Launay, III, t. 74.
4. Thực lục q1, 18a, Liệt
truyện q13 truyện Nguyễn Hữu Thuỵ 6a, truyện Nguyễn Văn Nhân 15b. “La révolte
ét la guerre des Tây Sơn”, bđd, t. 87.
5. Thực lục q2, 9b, 10a ghi
tháng hai âm lịch (21/2-20/3/1784). Ghi chú của ông Descourvières (A. Launay,
III, t. 80) tuy không đề rõ ngày viết, nhưng cho biết J. Liot ở Chantaboun
(Chanthaburi), bệnh không theo Pigneau được, viết thư nói rõ Nguyễn Ánh gặp
tướng Xiêm “tháng 5 năm nay” nói rằng “vua từ Chantaboun đi Bangkok” lúc ông ta
viết thư ngày 31-5. “Năm nay” là năm 1784 vì khi nói chuyện Bá-đa-lộc xin được
giấy thông hành để ra khỏi Xiêm (1784), Descourvières cũng dùng chữ “năm nay”.
Về số quân đem vào Xiêm, Liot nói có tới 4.500 người, Thực lục ghi chỉ có tướng
hơn 30 và quân vài mươi. Ngày về nước được ghi rõ “Nhâm Thìn tháng 6” (25-7).
Vậy Ánh ở Xiêm không lâu, chứng tỏ Xiêm đã chuẩn bị sẵn sàng từ trước. Về đạo
quân đi rước, có thể đây là đạo quân mà Pigneau gặp ở Chantaboun giữa tháng
12-1783. Đó là đạo thuỷ quân, vì họ ra lệnh cho ông đợi họ rời bến rồi hãy đi
sau. Điều ông nghe thấy là đạo quân này “gởi chống bọn Cochinchinois” (A.
Launay, III, t. 89) phù hợp lời Thực lục q2. 9b: “Thát-xỉ-đa đem thuỷ quân đi
Hà Tiên... tiếng là cứu viện mà để lén mời Nguyễn Ánh”
6. A. Launay, III, t. 80.
7. Thư của André Tôn cho Ô.
Descourvières 1-7-1784, A. Lau nay, III, t. 84. A. Tôn cũng bị dẫn từ Nam Vang
về trong dịp này. Thư của L.M Ginestar, dòng Phăng-xi-cô 1784 (“La révolte...
bđd, BSEI, 1940, t. 98). L.M bị đưa lên Nam Vang với thầy giảng Emmanuel trong
tháng 12-1783 và về theo Trương Văn Đa. Thực lục q2, 8a.
8. Xem Phụ lục, bản thư Nôm
thứ ba. Liot có tên trong Liệt truyện (q28 Bá-đa-lộc) tuy Liệt truyện lẫn với
L.M Ginestar (sẽ nói sau)
9. Thư triệu hồi Long Xuyên,
thư thứ hai.
10. Một ấp ở làng Mỹ Thạnh
Trung, quận Minh Đức, Vĩnh Long.
11. Hải đạo thuyền (thuyền đi
biển) thấy ghi trong Thực lục, Liệt truyện.
12. Định Tường còn có tên xứ
Tầm Lạch. Nay còn địa danh Chợ Lách, một quận của tỉnh Vĩnh Long, phía bờ tây
Tiền Giang.
13. Liêm Úc của Thực lục.
14. Thực lục q2, 14a.
15. Pigneaụ, thư 20-3-1785 ở
Pondichéry (A. Launay, III, t. 91).
16. Sầm Giang, Xuy Miệt của
Thực lục, Liệt truyện. Rạch Gầm chảy từ xã Long Tiên (quận Cai Lây, Định Tường)
sang các làng Bàn Long, Vĩnh Kim (q. Sầm Giang) đến Kim Sơn ra Tiền Giang. Rạch
Xoài Mút chảy từ giồng Dứa ấp Thanh Long sang ấp Thạnh Hưng xã Phước Thạnh, vào
rạch Xoài Hột đến Tiền Giang. (Chỉ dẫn của ông Trương Ngọc Tường, Cai Lậy).
Binh Xiêm bại ngày 8-12 Giáp Thìn (18-1-1785) như lời thư Nguyễn Ánh kể trước.
PHẦN THỨ HAI
SỰ TAN RÃ Ở BẮC HÀ VÀ PHẢN ỨNG DỘI NGƯỢC
KHI TÂY SƠN BÀNH TRƯỚNG
(1786 – 1789)
Chương 3
CHIẾN TRANH BẮC HÀ 1
Tiết 7
CHIẾN TRANH TIÊU DIỆT HỌ TRỊNH
Vai trò Nguyễn Hữu Chỉnh trong chiến tranh phá vỡ phân tranh cũ *
Cùng đích mơ ước của Nguyễn Nhạc ở Phú Xuân * Chiêu bài “Phò Lê diệt Trịnh” cũ
kỹ khi năng lực mới đem ra sử dụng.
Trong thời gian tiến mạnh về nam, khi dân Đại Việt chậm chạp nhưng
chắc chắn biến đổi người và tự để mình biến đổi, thì cả vùng Á châu cũng thấy
được thế giới mở rộng với các thuyền buôn Âu châu mang xa lạ đến. Riêng ở Việt
Nam, người Bồ đến Hội An (Nam Hà), người Hoà đến phố Hiến (Bắc Hà) rồi sau đó
là người Anh, người Pháp. Theo với họ cũng có nhưng người Á châu (Trung Hoa,
Nhật, Mã Lai, Xiêm La...) đã hành nghề từ trước nhưng lại tăng tiến theo trào
lưu giao thương khích động.
Người ta ghi nhận rằng hoạt động thương mại hồi này ở ta không lấy
gì làm khởi sắc cho lắm vì tình trạng nghèo đói của dân chúng. Mọi cung cấp ra
cũng như vào phần lớn do đám lái buôn Trung Hoa. Nhưng trên bình diện quốc gia
và địa phương, sự giao thương đem lại hàng hoá, con người, tư tưởng khác cũng
gây những xáo trộn quan trọng.
Ngoại thương làm khích động nội thương: trầm hương, kỳ nam, tiêu,
cau, ớt... đi từ núi, từ đồng xuống biển, cá mắm, đồng sắt từ biển lên núi,
đồng. Người đi buôn vượt khỏi ràng buộc của hương ước, của “lệ làng”, tiếp xúc
với người khác xứ, khác nước trở nên tiến bộ, có sáng kiến và dám liều hơn.
Chúng ta đã thấy nhân dịp chúa Nguyễn phát triển thế lực về phía nam, phía tây,
nảy sinh ra một dòng trao đổi sản vật giữa miền núi và đồng bằng dọc biển qua
các nguồn để hợp với những nguyên nhân khác gây ra và nuôi dưỡng biến động Tây
Sơn.
Nhưng trong lúc nhóm Nam Hà ly khai yếu ớt phải sẵn sàng chờ đón
thu nhận, thích ứng với hoàn cảnh và một chừng mực phương tiện mới, thì Bắc Hà
vẫn dựa trên cơ cấu trường cửu có sẵn ở trung châu Nhĩ Hà để cố gang tồn tại.
Điều đó giải rõ tại sao biến loạn Tây Sơn xảy ra ở Nam Hà, nhưng cũng cho ta
thấy trước thời kỳ nghiêng đổ của Bắc Hà. Sớm hay muộn Tây Sơn cũng là một thế
lực đe doạ họ Trịnh như Hoàng Ngũ Phúc đã thấy. Đúng vậy, ảnh hưởng giao thương
làm đa tạp hoá xã hội cũng có ở Bắc Hà đồng thời với sự tan rã triều chính.
Lịch sử chính thống không ghi rõ có một “thương ban” bên cạnh văn,
võ và giám ban của họ Trịnh, chịu chức tước củng cố hay quấy đảo triều Chúa.
Nhưng những nhân chứng thời đại đã cho ta thấy họ Trịnh và võ quan ủng hộ đám
dân Thanh, Nghệ đi buôn bán trở nên giàu có hơn, cũng như họ đã ban đặc quyền
cho ưu binh Tam phủ để bảo vệ cơ nghiệp nhà Chúa vậy.
Lúc thái bình người ta không chú ý để ghi nhận sự có mặt của lái
buôn vì họ ở dưới bậc chót của giai tầng xã hội. Nhưng họ vẫn kiên nhẫn làm
giàu không kể câu “vi phú bất nhân” vì người ta lúc nào cũng cần tiền và chứng
tỏ, lúc bình thời, người ta mua chuộc họ bằng quan tước, khi hoạn lạc, người ta
tha hồ cướp bóc họ. Đám thương nhân “các lái” của Trịnh đã trải qua như vậy
chuyến loạn ở Thăng Long, lúc Tây Sơn ra Bắc:
“Đám các lái rất phè phỡn trong thời đói kém, vì lợi dụng được lúc
thiếu gạo để bán mắc... và để cho những người nghèo khổ chết đói dọc đường. Đám
các lái mất hết, thuyền, thóc, tiền sạch cả. Ở đây, chúng tôi thấy họ đi qua,
trần truồng để trở về xứ Thanh”.
Đám các lái đó không phải buôn bán loanh quanh xóm chợ làng quê mà
thôi. Vị trí tập trung và số lượng của họ cho biết tầm hoạt động rộng lớn của
họ: họ ở “gần cửa Bạng, nơi hòn Biện Sơn, nhân số lên tới gần 3.000 người”2.
Nguồn lợi tức của họ không tuỳ thuộc vào đất ruộng nên họ có gia
tư, sản nghiệp lớn, trong lúc đám nông dân đói kém sạt nghiệp và trong lúc đám
sĩ phu xuất thân từ đồng quê cũng hoảng hốt trước tình cảnh thảm thương xảy ra
chung quanh nên đâm ra chán đời, bi quan3. Họ sống sung túc rồi muốn danh vọng.
Nguyễn Hữu Chỉnh cũng ở trong số đó4.
Ông người làng Đông Hải, huyện Nghi Lộc, trấn Nghệ An. Không phải
tình cờ mà cha ông lái buôn, gia tư kể hàng vạn, có con đỗ Hương cống mà vẫn cứ
nương tựa Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc. Đó là vì võ quan cần tiền của lái buôn và
lái buôn cần thế lực của nhà quan để làm giàu cho dễ.
Cuộc sống sung túc tạo cho Chỉnh hơn người. Học khắp các kinh sử,
đỗ Hương cống năm 16 tuổi, hay Nôm (nghĩa là không chịu nho hoá), hào hiệp,
giao du rộng rãi, ứng biến lanh lẹ, giỏi thuỷ chiến đến có danh hiệu “con cắt
nước”, Chỉnh là một bộ mặt đặc biệt, nổi bật của Bắc Hà thời ấy. Chỉnh ý thức
được tài mình, cho nên không phải là quá huênh hoang khi ông nói với Nguyễn
Huệ: “Nhân tài Bắc Hà có một mình Chỉnh, Chỉnh đi rồi ấy là cái nước trống
không”.
Mơ ước làm chim bằng tung cánh đến xưng tước là Bằng lĩnh hầu, Bằng
quận công, Chỉnh có tầm mắt rộng rãi hơn bọn sĩ phu, võ quan đương thời. “Thiên
hạ vạn nước, lo gì không chỗ đi”, đó là lời Chỉnh trả lời thái độ rụt rè của Trấn
thủ Nghệ An, em rể Quận Việp, khi phải trốn cái vạ Quận Huy bị quân Tam phủ
giết chết. Nguyễn Nhạc, Châu Văn Tiếp rồi bây giờ Nguyễn Hữu Chỉnh, những người
khác xứ, lúc bạn lúc thù nhưng đều giống nhau ở chỗ xuất thân, đó là những bộ
mặt nổi loạn làm khuấy đảo thêm dữ dội xã hội Đại Việt của thế kỷ XVIII vậy.
Tháng 11 Nhâm Dần (1782), Chỉnh đi theo Tây Sơn, “ngày đêm vì giặc
bày mưu thiết kế”. Sử quan nhà Nguyễn thấy rõ rằng Chỉnh “rốt lại thành mối lo
cho Bắc Hà”5. Nhưng vượt trên sự lo lắng cho cơ nghiệp một dòng họ, ta cũng
thấy việc Chỉnh vào Quy Nhơn là quan trọng: đó là sự tập trung, hợp tác của
những năng lực làm gẫy đổ cơ cấu chính trị đương thời, đó là sự tiếp sức làm đổ
vỡ nốt cái thế phân tranh cũ kéo dài hơn hai trăm năm rồi.
Tây Sơn mạnh, điều đó không ai là không nhận thấy. Lê Quý Đôn đem
chuyện sấm ký, nói Tây Sơn có đất thiên tử chẳng qua cũng chỉ thay người đương
thời ý thức được cái sức mạnh đó mà thôi. Từ khi đuổi đánh quân Xiêm vào đầu
năm 1785, quân Tây Sơn bắt đầu dòm ngó phía bắc, nơi kinh đô cũ của Chúa Nam
Hà. Chiếm được Thuận Hoá mới là đạt đến cùng đích mơ ước của Nguyễn Nhạc như
khi ông thổ lộ với Chapman từ 1778.
Trong khi con hổ non Tây Sơn gầm gừ nhìn ra thì con sư tử già Trịnh
đã tàn tạ đến mức không thể cử động được. Những Linh mục thời bấy giờ ở Bắc Hà
đã ghi lại những thiên tai, thuỷ loạn mà dân chúng phải gánh chịu. Đó là những
trận hạn hán ghê gớm “làm dân xứ Nghệ không gặt được hột nào”. Trận dịch trâu
bò tiếp theo vào năm 1784 làm chết 2/3 súc vật khiến cho người phải cày bừa
thay. Nghề chài, nghề đã làm giàu cho cha Nguyễn Hữu Chỉnh ở xứ Thanh Nghệ cũng
tàn tạ vì bão tố năm 1785. Trước khi Tây Sơn tới Bắc Hà phải chịu nạn đói vì
lụt to, hạn lớn, sâu bọ nhiều, vì dịch đi tướt6.
________________________________________
1. Những chi tiết cho chương
này, trừ xuất xứ khác có ghi, đều lấy ở Hoàng Lê nhất thống chí, bản dịch của
Ngô Tất Tố.
2. Thư của Le Roy gởi cho
Blandin ở Paris từ Kẻ Vĩnh (Ninh Bình), 6-12-1786 (BEFEO, 1912, t. 7-8). Chữ
nghiêng ở trích văn trên là của nguyên văn chữ Việt trong bức thư.
3. Hãy đọc Chinh phụ ngâm
khúc chẳng hạn thì thấy rõ.
4. Quá khứ thương nhân của
Chỉnh và gia đình khác biệt với đám vua quan còn bằng chứng trong câu chuyện
một giáo sĩ kể về lúc Chỉnh nắm quyền ở Thăng Long (1787): “...một hôm nọ, một
số người có cửa hàng tại Hoàng thành đến tố cáo với tướng Chỉnh rằng một vài vị
hoàng thân, chú bác và cậu vua đến bức hiếp không cho họ buôn bán. Coũ Chỉnh
bất bình bắt vua phải trừng phạt những người này. Chiêu Thoũ lập tức phải cho bắt
mấy người đó nạp cho Coũ Chỉnh. Sau khi quở trách các vị này, ông bắt họ phải
bồi thường do họ gây ra, còn cấm họ từ rầy không được la cà trong phạm vi thành
phố nữa. Nếu không tuân lệnh thì sẽ bị trừng phạt”. (Sử Địa, số 9-10, 1969, t.
201).
Hãy nghĩ, nếu không sở cậy nơi quá khứ
buôn bán của gia đình quan Tướng quốc, thương nhân Thăng Long làm gì dám khiếu
nại những hành vi nhũng nhiễu của quan quyền, hoàng thân quốc thích?
5. Thực lục q1, 22a.
6. Thư ông Breton, gởi ngày
10-7-1787, thư G.M Ceram ở Kẻ Vĩnh (Ninh Bình) (RI. XII, 1910, t. 526, 536,
538).
Những tai hoạ do nhà cầm quyền gây ra càng làm cho dân chúng điêu
đứng hơn nữa. Những chương đầu của quyển Hoàng Lê nhất thống chí cực tả được
tình trạng rối loạn chính quyền ở Bắc Hà vào những năm này.
Chúng ta thấy được đám quần thần văn võ chuyên nịnh bợ đưa đón lời
Trịnh Sâm, chúc mừng Trịnh Cán. Có kẻ chuyên tố cáo người để làm quan như Đốc
đồng Nguyễn Huy Bá ở trấn Thái Nguyên, có kẻ như Đặng Mậu Lân cậy quyền Thứ
phi, làm nhục quan quân, bắt hiếp vợ con dân gian, thậm chí đến giết sứ giả
Trịnh Sâm sau khi hỏi một câu rất hách: “Chúa là cái gì?”
Chúa là cái gì? Thực vậy, Chúa bị khinh khi vì gia đạo không yên.
Trịnh Sâm yêu quý Thứ phi Đặng Thị Huệ, muốn cho con Huệ là Trịnh Cán lên nối
nghiệp. Con trưởng Sâm là Trịnh Tông tưởng có thể nhân lúc Sâm nổi chứng đau
bụng kinh niên nguy kịch mà mưu đồ giành quyền binh, nhưng thất bại gây ra vụ
án Canh Tý (1780) mà lời than van uất ức của một nạn nhân là lời kết án chế độ:
“Trời không có mắt, trào không có quan để cho Quốc Chấn chết oan”.
Đám ưu binh Tam phủ mà số lượng độ chừng 25 - 30.000 người1 dùng để
bảo vệ Chúa, thường ngày không có việc gì làm ngoài việc phá phách dân chúng,
đe doạ các quan, bây giờ mới chen vào việc nhà Chúa. Trịnh Sâm mất sau hàng năm
sống tránh ánh sáng mặt trời2 để Trịnh Cán lên ngôi gây nên cái hoạ tương
tranh. Kiêu binh phế Cán sau khi giết Huy Quận công Hoàng Đình Bảo, người che
chở Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi lập Trịnh Tông lên ngôi Chúa trong một cảnh mà Ngô
Thì Chí tả một cách mỉa mai.
Quyền binh từ nay ở trong tay Kiêu binh. Chúa lập được thì vua cũng
do họ lập được nốt. Họ hoành hành tàn phá phố phường dữ dội nhất vào những
tháng đầu năm Giáp Thân (1781).
Tình hình Bắc Hà như vậy, Chỉnh hay biết cặn kẽ nhờ căn vặn một
thuyết khách của Chúa Trịnh. Cuối mùa xuân Bính Ngọ (1786), Trịnh Phu Như từ
Thuận Hoá vâng mệnh trấn tướng Phạm Ngô Cầu vào Tây Sơn điều đình việc biên
giới nhưng lại thóc mách nói cho Chỉnh rõ về tình hình đói kém ở Bắc Hà, dân
với lính không ưa gì nhau. Với một viên trấn tướng đần độn, chậm chạp như Phạm
Ngô Cầu thì ba vạn quân dưới quyền điều khiển của các viên Đại tướng, Phó
tướng, Đốc thị, Phó Đốc thị cũng không thành một lực lượng gì hết, huống hồ là
cách cai trị gay gắt, cướp bóc trong một xứ vừa qua nạn đói lại khiến cho người
dân càng thù ghét lính tráng.
Cho nên, cuối tháng tư âm lịch Bính Ngọ, quân Tây Sơn trực phát
Thuận Hoá dưới quyền Nguyễn Huệ có Vũ Văn Nhậm làm Tả Đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh
làm Hữu Đô đốc với Tiết chế Nguyễn Lữ đi tiếp ứng4. Đánh trúng vào tâm lý mê
tín của Phạm Ngô Cầu, Tây Sơn mưu khiến Cầu lập đàn chạy suốt 7 ngày đêm, mệt mỏi
tướng sĩ, để hoảng hốt thấy giặc ầm ầm kéo đến không đường chống cự5. Đại diện
cho nhóm “treo cờ điều” quyết chiến6 ba cha con Hoàng Đình Thể và tướng Vũ Tá
Kiên chết ở ngoài thành Phú Xuân vì Cầu muốn hàng đã không tiếp tế thuốc đạn.
Số mệnh của ông quan Đại muốn “treo cờ bạc” này cũng không hơn gì: ông bị tống
về Quy Nhơn rồi bị giết. Tây Sơn ca khúc khải hoàn vào Huế ngày 14-6-1786.
Trong trận này, quân lính Bắc Hà ở Phú Xuân rất ít người chạy trốn
được về, lớp bị Tây Sơn giết, lớp bị dân chúng Thuận Hoá trừ.
Chiến tranh tàn sát vẫn được coi là vết nhơ cho Tây Sơn, nhưng
không phải họ không có lý do để bào chữa. Lý do đó nằm trong nguyên tắc hành
quân của họ. Đánh mau, đánh mạnh, đánh bất thần thì tất luật lệ giết chóc của
chiến tranh được thi hành triệt để.
Người ta cũng có thể coi việc Tây Sơn trong trận đánh Thuận Hoá phá
huỷ một chiếc tàu Bồ từ Macao tới, dìm nước anh em viên chủ tàu, giết hai người
thuỷ thủ7 như là một chứng cứ về lòng hiếu sát của họ. Thực ra, chúng ta lưu ý
rằng thuỷ quân của họ chỉ là một đoàn thuyền8 tuy tới hơn 400 chiếc, nhưng vẫn
ọp ẹp so với chiếc tàu đồng Tây phương ở vùng tiến quân. Họ đã có kinh nghiệm
của trận chiến mùa xuân 1782 ở sông Ngã Bảy. Phải đánh ồ ạt để lấp liếm cái yếu
kém kỹ thuật của họ. Cho nên, phải tàn sát. Chứ bình thường họ cũng biết cố tìm
cách lôi kéo các nước Tây phương theo họ.
Cuối năm 1785, một chiếc tàu Macao bị gió bạt vào Quy Nhơn. Nguyễn
Nhạc tịch thu chiếc tàu đó, cho người lái nhưng vụng về để chìm mất. Chủ tàu và
thuỷ thủ được trả về Macao có lẽ vào lúc xuất quân đánh phú Xuân (5-1786). Tây
Sơn cho người theo mang thư cho toàn quyền Manille xin giao thương và mua đại
bác để đánh giặc, mua đồng để đúc tiền và luôn thể dò xét xem Nguyễn Ánh có đi
Manille với Bá-đa-lộc không9. Nhưng dù sao chiến tranh cũng đưa họ tới chỗ cô
lập với bên ngoài cũng như sẽ cô lập với dân chúng vì tính cách tận dụng nhân
lực của họ.
Sau khi chiếm được Đồng Hới, đuổi tướng Ninh Tốn chạy về Bắc, Tây
Sơn dừng lại. Thực vậy, vì như đã nói, đó là cùng tột ước muốn của Nhạc: chiếm
để làm chủ cả giang sơn “họ ngoại” của mình. Ý định đó thể hiện trong việc xây
lại luỹ Thầy cao 19 bộ, dày 1 sào. Không ai được ở nhà, cả đàn bà, con gái,
người goá - trừ người còn cho con bú, đều phải đi đắp luỹ hoặc vào rừng đốn cây.
Dịch vụ đó lại làm hao tốn thêm một xứ sở đã ít người sẵn vì chiến tranh, dịch
tể, đói kém.
Nhưng nếu Tây Sơn của Nguyễn Nhạc bắt đầu phải dè dặt thì Tây Sơn
của Nguyễn Huệ với viên tướng chưa hề thua 33 tuổi tất không thể dừng lại bên
dưới sông Gianh mà phải làm cái gì để “phô trương lòng gan dạ của họ”. Lại thêm
vào đó là viễn tượng chiếm lại số vàng trong kho Phú Xuân mà Trịnh đã lấy về 12
năm trước, chưa kể kho vàng của chính họ Trịnh.
Nếu Nguyễn Huệ còn ngần ngừ thì có Nguyễn Hữu Chỉnh để đốc xúi thêm
vào. Đem binh pháp ra để khuyến dụ Huệ, vạch rõ đất Bắc chỉ còn cái vỏ rỗng
không “tướng trễ, binh kiêu, triều đình không kỷ cương”, dùng chiêu bài Phù Lê,
diệt Trịnh để tiến quân, dùng viễn tượng thành công lớn trong lời sấm để ngăn
cái sợ trái lệnh Vua Anh, Chỉnh thực đã hết lòng tìm cách để trở về quê cũ với
uy danh sấm sét vậy.
Nhưng đi đánh một xứ xa cũng phải cần tổ chức thêm lực lượng. Quân
của họ lúc từ Quy Nhơn cũng lẫn lộn đủ thứ hạng và giống người. Ngoài người
Việt Nam Hà, tất nhiên, họ còn có “những người Mường, Man di và các bọn mọi
khác như Cao Miên, Cambien (?), Xiêm..”.12, nghĩa là có thể nói đám người thiểu
số miền núi, đồng bằng Nam Hà, đám tù binh ở chiếc tàu Bồ, trong các trận chiến
thắng trước ở Gia Định. Bây giờ họ phải lấy thêm quân Thuận Hoá, Bố Chính. Tù
binh Bắc Hà thì không còn nữa. Dân số ở đây lại sụt xuống nhiều vì đói, dịch tể
đến nỗi người ta phải lôi đàn bà đi đắp luỹ sửa đường. Chỉ còn những người của
các tôn giáo lẩn lút đứng ngoài chiến tranh là còn đông đúc. Cho nên, từ Phú
Xuân cho tới sông Gianh, chỉ trong 5 ngày, tất cả đều bị bắt đi. Tây Sơn phá
các chùa chiền và ép các nhà sư phải mang khí giới đi đánh giặc13. Những tín đồ
Công giáo cũng không được chừa, hầu hết đều phải gia nhập vào đoàn quân viễn
chinh ra Bắc14. Ngoài ra, Tây Sơn cũng cần kim khí. Họ phá nhà thờ, chùa chiền,
một phần để bắt người, một phần để tìm các tượng và các chuông về đúc súng đại
bác15. Đáng lưu ý là đám tân binh bị bắt buộc vác súng này, một khi bị lôi cuốn
vào trận địa, vẫn trở nên những người lính can đảm, có kỷ luật.
Trước khí thế ào ạt như vậy, Thăng Long lại không nghĩ gì đến chống
đánh. Họ cho đất Thuận Hoá là đất Nam Hà, mất đi cũng là “điều may”, chỉ cần
giữ Nghệ An là được. Quân tướng sai đi trấn Nghệ An dưới quyền Trịnh Tự Quyền
thì trùng trình đến 10 ngày chưa xong việc chỉnh bị.
Trong lúc đó thì Tây Sơn đã ra. Nguyễn Hữu Chỉnh lãnh 150 thuyền16.
đi trước vào cửa Đại An nhắm vào kho lương Vị Hoàng (Nam Định) tấn phát. Trên
đường đi, trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Toại, Thanh Hoá - Tạ Danh Thuỳ nghe gió bỏ
thành chạy. Tướng giữ Vị Hoàng cũng không hơn gì. Chỉnh thu được ở đây hàng
trăm vạn hộc lương, giải quyết chắc việc tiếp tế cho quân đội rồi đốt lửa làm
hiệu cho Nguyễn Huệ hay biết chiến thắng mà đến (16-7-1786).
Trịnh phải vội vã tổ chức quân chống cự. Trịnh Tự Quyền xuống giữ
Sơn Nam đóng ở Kim Động. Bùi Thế Dận đem bộ binh yểm hộ cho Đinh Tích Nhưỡng
dẫn thuỷ binh đến cửa Luộc. Nhưng quân Tây Sơn cũng vừa đến đánh tan quân
Nhưỡng, xua Dận, Quyền chạy rồi chiếm giữ phố Hiến ngày 19-7. Hôm sau đoàn
thuyền trực chỉ Thăng Long 17.
__________________________________________
1. Thư G.M Ceram, 29-5-1784
(RI, XII, 1910, t. 522, 523).
2. Thư ông Breton kể trước.
3. Thư G.M Ceram kể trên.
4. Chi tiết Nguyễn Lữ làm
Tiết chế là của Liệt truyện, q30, 12ab.
5. Ngoài Hoàng Lê, Liệt
truyện, còn có thư ông Le Breton đã dẫn, thư Labartette gởi cho Le Blandin
23-6-1786 (BEFEO, 1912. t. 12, 13).
6. Thư ông Doussain gởi ông
Blandin 6-6-1787 (Sử Địa, số 9-10, t. 232-233).
7. Thư 10-7-1786, 1-8-1786
của Labartette gởi cho Descourvières, của Longer gởi cho Le Blandin (BEFEO,
1912, t. 14, 15, 17), thư của Labartette gởi cho Letondal ở Macao, 10-8-1786
(A. Launay, III, t. 124).
8. Thư Longer gởi cho Le
Blandin (BEFEO, 1912, t. 15 có một lối nói đáng chú ý: “chiều ngày 13 tháng này
(6). Thuỷ quân, hay nói rõ ràng hơn, các ghe thuvền Tây Sơn tiến vào cửa Huế”.
(Chúng tôi nhấn mạnh).
9. Trích từ nhật ký của ông
Letondal (A. Launay, III, t. 154, chú số l).
10. Thư Labartette, G.M
Veren, cho Boiret, 15-7-1786 (RI, XIV, 1910, t. 43); thư của Doussain, tạp chí
trên, t. 47. Cả hai đều ở Bố Chính trong chiến tranh.
11. Thư Labartette cho Le
Blandin. 23-6-1786 (BEFEO, 1912, t. 13, 14).
12. Thư Le Roy cho Le Blandin
6-12-1786 kể trước.
13. Thư Labartette, 23-6-1786
kể trước. Cũng thấy ở A. Launay, III, t. 122.
14. Thư Longer gởi cho
Juilhard (A. Launay, III, t. 122).
15. Thư Labartette gởi cho
Boiret. 15-7-1786 (A. Launay, III, t. 123).
16. Thư La Mothe, 3-12-1786
(RI, XII, 1910, t. 532.
17. BEFEO, 1912. t. 7.
Tướng tá Kinh đô lo chạy vợ con, cất giấu của cải, không một người
nào dám đánh giặc. Tham tụng Bùi Huy Bích bị công kích rồi bị Tông bãi chức,
bắt ra trận đốc chiến. Trần Công Xán hiến mưu Chúa, gọi Hoàng Phùng Cơ, bộ
tướng Hoàng Ngũ Phúc trước kia, từ Sơn Tây về góp 300 bản bộ binh với 1.000
người vội vã chiêu mộ bằng 5.000 lạng bạc quân phí, tất cả đem ra đóng ở hồ Vạn
Xuân. Thuỷ quân của Kinh kỳ cũng đến đóng ở bến Thuý Ái chờ giặc.
Nếp sống thái bình, lừ đừ đã quen thói, quân Trịnh không lường được
sức đánh hoả tốc của Tây Sơn. Giặc đến mà lính tráng không kịp lên thuyền để
viên Thiên tướng Ngô Cảnh Hoàn một mình đầu thuyền cự chiến, bị súng lớn bắn
chết lôi theo cái chết thảm thương hơn của người vợ bé Phan Thị Thuấn. Quân Tây
Sơn đã ùa lên bộ mà quân Phùng Cơ còn ăn cơm thì cái thế thua thật đã rõ rệt
nghiêng về phía nào rồi.
Tây Sơn chém giết cho chán rồi tiến quân lên bến Tây Long. Đám lính
hộ vệ kinh thành bây giờ mới cho người ta thấy xấu hổ với danh vị ưu binh. Nghe
súng hoả mai của giặc họ “sợ mất vía, bỏ cả khí giới, chạy thục mạng”. Cây cờ
“Diệt Trịnh phù Lê” phất phới trên thành Thăng Long khiến cho “chỉ có Chúa
Trịnh, bộ hạ cùng binh lính chạy trốn thôi” (21-7-1786).
“Giặc Quảng” tiến vào Trịnh phủ lấy vàng bạc, súng lớn, súng tay,
đồ đạc, voi ngựa, chỉ để lại cái xác vôi gạch. Quân tướng Tây Sơn chui rúc ở
các chùa, vứt chôn các pho tượng, không một mặc cảm nào hết2. Binh lính cũng
mang tinh thần cương cường của chủ tướng. L.M Le Roy ở Kẻ Vĩnh thấy họ đi lính
“không lương, không tiền”, mà “không lấy cái gì của người Bắc hết, hoặc ăn cơm
không muối, uống nước lạnh và ngủ ngoài trời”3. Ở cửa Bạng, La Mothe thấy họ
cướp bóc, đốt phá, nhưng giết người rất ít, vì có lệnh cấm của “bạo chúa”4. Họ
trị tội bọn trộm cướp một cách giản dị đến thành thô kệch, tàn nhẫn: có ai cáo
là không cần phải dông dài, họ chặt đầu tức khắc 5. Hình phạt cũng không miễn
trừ cho binh lính họ.
Nhưng chiến thắng không đủ, người ta còn phải hợp pháp hoá việc
tiến quân đối với dân chúng. Thực ra, ở cửa miệng người mạnh việc gì không
phải. Ở đây, như đã thấy, người ta có sẵn để lợi dụng một chiêu bài cũ kỹ: “Phò
Lê diệt Trịnh” và một lời sấm truyền tụng từ lâu trong dân gian rằng Trịnh sẽ
mất nghiệp Chúa. Lẽ Trời như vậy, Tây Sơn chỉ là kẻ đại Thiên hành đạo thôi.
Cho nên, Lý Trần Quán dù có tự phụ “đạo hiếu 3 năm đã trọn” có nhắc đến nghĩa
vua tôi, tình thầy trò cũng không ngăn được tên học trò Tuần huyện Trang bắt
Đoan Nam vương Trịnh Tông đem nạp cho Tây Sơn với cái lẽ giản dị “sợ thầy không
bằng sợ giặc, quý Chúa không bằng quý thân”.
Điều đó cho ta thấy sức phân ly của xã hội Bắc Hà đương thời. Những
biến loạn trước xưng là diệt Trịnh phò Lê nhưng không có được những lực lượng
kết tập to lớn. Đám nông dân trung châu đi theo Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển, Nguyễn
Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương... chẳng hạn, vì nghèo đói, bất mãn quan lại mà vác
bừa vác gậy làm giặc, mỗi nơi mỗi nhóm chứ thương gì Lê! Đám sĩ phu, võ tướng
thấy ngồi ở phủ Chúa cũng không khác gì Điện Vua, làm Bồi tụng cũng giữ ngôi Tể
tướng thì có gì mà thắc mắc đổi thay? Còn Nguyễn chúa ở phương Nam muốn nói đến
nghĩa tôn phù - để giữ độc quyền tôn phù, thì cũng không đủ sức đem binh qua 7
huyện Nghệ An. Những lực lượng phân tán của xã hội Đại Việt chỉ vừa đủ để giữ
ngôi vua Lê chứ không đủ để trao lại thực quyền cho dòng họ này.
Rồi theo dần với thời gian, các vua Lê không dự vào chính sự trở
nên vô tài, dung thường. Điển hình nhất là ông vua già, bệnh Lê Hiển Tông. Làm
vua mà “khoanh tay rũ áo, tìm trò mua vui”, bị Trịnh Sâm đè nén mọi cách vẫn
cười cợt mới có thể làm vua lâu dài. Nhưng lâu dần tính cầu an thành trầm trệ
đến nỗi không muốn Trịnh chúa mất nghiệp, sợ “mất kẻ gánh cái lo”, đến nỗi Kiêu
binh xin tôn phò, chính ông doạ tố cáo với Đoan Nam vương, đến nỗi được Nguyễn
Huệ trao quyền thì không mấy vui, coi đó là “một gánh nặng”, gả Ngọc Hân cho
người để họ chia sớt “lo lắng”.
Nhưng ông mai giảo hoạt Nguyễn Hữu Chỉnh chắc không ngờ mình vừa
làm một việc thay đổi lớn lao con người của viên tân Nguyên suý Uy quốc công
của triều Lê tàn tạ. Viên tướng thường thắng Nguyễn Huệ tuy cầm quân nhiều lần,
tuy làm em vua một cõi, có lúc hãnh diện là “kẻ bố y”, nhưng không thoát khỏi
mặc cảm làm kẻ mường mán trong hang hốc xa xôi. Làm rể một giòng vua có quá khứ
400 năm, có người vợ kinh sử làu thông, Nguyễn Huệ lớn lên trước chính mình sau
mười mấy năm hiên ngang trước binh tướng. Can dự vào việc lập Tự Hoàng, lo lắng
cho việc chôn cất Hiển Tông, ông đã không là khách trong nước An Nam này nữa.
Mối dè dặt, e ngại can thiệp vào đất Lê cứ dần dà xoá tan trong đầu óc ông cho
đến khi có những cuộc tiến quân sau. Nhưng hiện tại ông chưa dám bỏ ý tôn Lê.
Tây Sơn còn lo đề phòng loạn ở các trấn của các tướng mất chức biến thành cướp
như Đinh Tích Nhưỡng chiếm Cẩm Giang ở Hải Dương, của viên văn quan trở thành
tướng bất đắc dĩ, Dương Trọng Tế, chiếm huyện Gia Lâm ngay bên thành Thăng
Long. Nguyễn Huệ lo tìm cách cải thiện, tăng cường chiến cụ bằng cách tìm thợ
rèn, và chỉ chăm chú rút về. Việc Nguyễn Nhạc hối hả ra Thăng Long làm cho ý
định thêm chắc chắn.
Họ hàng Tây Sơn bàn mật ngày rút quân về mà không cho Chỉnh dự vào.
Ngô Thì Chí cho là Vũ Văn Nhậm ghét Chỉnh, xúi Huệ bỏ rơi cho người Bắc Hà
giết, tiện cho việc chiếm đất sau này. Nguyên cớ hiềm khích nhỏ mọn, lễ vật dân
chúng đưa cho Chỉnh nhiều hơn cho Nhậm - cho ta thấy một lý do là sự cô lập của
Tây Sơn giữa dân Bắc Hà. Tây Sơn chưa hẳn thù ghét Chỉnh, nhưng trước sự đắc
thế, quen thuộc, cá trong nước của Hữu quân họ, một người vốn tự nhận có tài,
dễ muốn làm việc độc lập, họ phải nghi kỵ.
Thế rồi nửa đêm 31-8-1786 Tây Sơn lén lút đi, thình lình như khi họ
tới, duy không có Chỉnh cùng về. Biết được tình hình Bắc Hà yếu ớt, họ không nề
hà gì mà không chiếm lấy một ít đất. Đóng quân ở dinh Vĩnh mươi ngày, họ cho
Nguyễn Văn Duệ giữ Nghệ An, Vũ Văn Dũng6 ở Hà Trung (Thanh Hoá) lui về châu Bố
Chính, để Vũ Văn Nhậm giữ Đồng Hới ứng tiếp nhau. Nhân dịp đó, họ vơ vét kho
tàng phủ Yên Trường chứa bảo vật của họ Trịnh ở xứ Thanh. Quân lính cũng thừa
cơ trên đường về mà “cướp đoạt hai bên sông, bắt cóc đàn bà, con nít, làm nhiều
điều nhơ uế”.
Nguyễn Hữu Chỉnh ở Kinh đô vội vã cướp thuyền chạy theo kịp. Nguyễn
Huệ khôn khéo lấy cớ ngoài Bắc còn có Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng chưa trừ
được nên cho vàng bạc, lưu Chỉnh lại Nghệ An rồi rút binh về thành Phú Xuân
trong khoảng tháng 9-17868.
Trong một chuyến phiêu lưu dài 3 tháng, quân Tây Sơn đã đem lại tan
rã cho đất Trịnh từ Thuận Hoá ra Thăng Long. Bắc Hà như một ngôi nhà ọp ẹp, bị
xô đổ không gượng dậy được, một cái “nước không” như lời Chiêu Thống nói, chỉ
còn chờ Tây Sơn ra cướp lần nữa là xong. Nhưng chuyến phiêu lưu dài này không
phải là không có kết quả dội lại trong nội bộ Tây Sơn. Phản ứng dội ngược lại
tai hại đến mực không ngờ có ảnh hưởng to lớn đến vận mệnh của họ9.
_________________________________________
1. Thư Le Roy 6-10-1786 kể
trước.
2. Thư Le Roy 6-12-1786 kể
trước.
3. Thư Le Roy 26-7-1787 (RI.
XII, 1910. t. 535
4. Thư La Mothe 3-12-1786 kể
trước.
5. Thư Le Roy, 6-12-1786 kể
trước.
6. Hoàng Lê ghi là Đô đốc
Chiêu Viễn hầu. Thư Quang Trung gởi cho ông này khi sai đi sứ Trung Hoa năm
1792 (Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, sđd, t. 329) có câu: “sắc sai Hải Dương
Chiêu Viễn Đại đô đốc”. So với Qui Nhơn, đất Hải Dương quả là xa để có một viên
tướng (Vũ Văn Dũng) về giúp Tây Sơn được phong hàm Chiêu Viễn hầu như vậy.
7. Thư Le Roy 6-10-1786,
6-12-1786 đã kể.
8. .Thư Doussain đã kể.
9. Việc Tây Sơn ra Bắc, các
chi tiết còn ở quyển 30, Liệt truyện, chuyện Nguyễn Huệ, tờ 18a trở đi, ở Cương
mục quyển 46, 22a trở đi.
Tiết 8
NỒI DA XÁO THỊT
Nguyên nhân * Chiến tranh * Kết quả: “ngư ông” Nguyễn Ánh.
Vào đầu năm 1787, trong khi người ta tưởng những lực lượng thống
nhất có cơ tập thành thì một biến chuyển lớn lao làm tan vỡ viễn tượng đó: anh
em Tây Sơn, hay nói đúng hơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đánh nhau. Tại sao có thể
xảy ra như vậy?
Sách Hoàng Lê cho chúng ta biết sự rạn nứt có từ lúc Nguyễn Huệ
nghe lời Nguyễn Hữu Chỉnh “tự chuyên” kéo quân ra Bắc. Chúa Tây Sơn vốn biết
Huệ “khôn ngoan”, “giảo quyệt” sợ Huệ lấy Bắc Hà trở về hợm hĩnh, khó mà kìm
chế. Khi tiếp được thư báo Bắc Hà lấy được rồi, Nhạc lại sợ Huệ cầm đại quân ở
xa, có tướng tài trong tay sinh biến, nên lật đật ngày đêm dẫn bộ binh ra lôi
về. Mối rắc rối quyền bính này tưởng có thể dẹp yên được khi Huệ ra tận ngoài
cửa ô Thăng Long đón tiếp Nhạc, dâng binh phù, tạ tội, dẫn về nhà giới thiệu vợ
mới cưới, anh em đối đáp “y như anh em các nhà thường dân”.
Nhưng chúng ta thấy mối nứt rạn vẫn còn: Nguyễn Nhạc nắm quyền thấy
rằng cơ ngũ đã được đổi mới dưới quyền Huệ mà vẫn phải để nguyên. Xung đột nổ
bùng khi quân Tây Sơn về đến Huế. Sách Hoàng Lê mượn lời Nguyễn Hữu Chỉnh tâu
với Chiêu Thống mà nói rõ mối biến loạn này:
“Vua Tây từ khi về Nam thì kéo về luôn quốc thành, còn Thượng công
thì ở Phú Xuân, nghỉ quân mua vui, hoặc là ban bố mệnh lệnh, sửa sang thành
lũy. Bao nhiêu quân tướng, khí giới, các vật quý báu lấy được ở Bắc đem về,
Thượng công đều chứa vào một chỗ, vua Tây cho người ra vời, Thượng công cũng
không chịu vào chầu. Rồi thì phong quan ban chức, Thượng công đều tự quyết
định, không hỏi gì đến vua Tây. Vua Tây cho người đem ấn ra phong Thượng công
là Bắc Bình vương và hỏi những thứ của báu bắt được ở phủ Chúa Trịnh, Thượng
công cũng không chịu trả lời. Vua Tây giận lắm, vì thế anh em mới gây ra cuộc
binh đao”.
Sử quan nhà Nguyễn khi bàn về chỗ này quy tội thực nhiều cho Nguyễn
Nhạc. Họ cho rằng từ lúc đánh Bắc Hà thắng, Nhạc đắc chí, ngày càng buông thả
dâm loạn, giết Nguyễn Thung, người cộng sự lúc đầu, lại hiếp vợ Huệ, “người
người đều ghê tởm”. Trong chuyến Bắc xâm, vàng bạc quý giá của Trịnh phủ Nguyễn
Huệ lấy, Nhạc đòi không cho Huệ và ông lại còn tranh chiếm đất Quảng Nam nữa1.
Do đó, chiến tranh mới nổ bùng.
Một nhân chứng đương thời tại chỗ viết thư nói về việc xảy ra sau
ngày Tây Sơn ở Bắc về, kể nhiều điểm tương tự với các người Việt: Nguyễn Huệ
“để Nhạc đi về Quy phủ và ngay sau đó bắt dân chúng tôn lên làm Đức Chúa; Nhạc
biết tin không bằng lòng nên nhiều lần đe doạ em...”.
Như vậy việc Huệ tự chuyên ở Huế, không muốn thuộc dưới quyền Nhạc
nữa được xác nhận ngay cả trong lặng yên (lạ kỳ, có vẻ thiên vị đối với Huệ)
của sử quan bởi vì Nhạc đã lôi em từ Bắc Hà về mà phải chịu để Huệ ở lại Phú
Xuân với vàng bạc cướp được chứ không kéo được về ngay Hoàng Đế thành như những
lần Nam chinh. Sở dĩ Nhạc chịu về Quy Nhơn một mình vì mối lo của Nhạc đã thành
sự thực: binh lính quen chịu sự điều khiển của Huệ phần lớn đã theo ông này.
Hoàng Lê cho ta thấy lúc Nhạc thu lại binh phù ở Bắc thấy có nhiều sự đổi thay,
sắp đặt quân ngũ khác đi nhưng giả vờ không hay biết gì hết. Ông không thể làm
khác hơn ở đất địch, nhưng về tới Phú Xuân ông cũng không lấy lại được thực
quyền: một phần rất lớn thuỷ quân đã theo Nguyễn Huệ3. Do đó, ta thấy hành động
“dâm, sát” ở Quy Nhơn của Nhạc có thể coi là vì phẫn chí, vì mối bận tâm thanh
toán nội bộ hơn là vì đắc chí như lời sử quan.
Nhưng tại sao bỗng dưng lần này Huệ trở chứng với ông anh khi đã
không có gì xảy ra hết trong những chuyến viễn chinh Gia Định? Đó chính là vì
Tây Sơn đã tiến đến một giai đoạn khác trong sự phát triển của họ. Một biến cố
có căn cớ sâu xa bắt nguồn từ những chuyển biến lịch sử bên trong cũng như bên
ngoài nước như biến cố Tây Sơn, tất có những giai đoạn phát triển khác nhau, kế
tiếp nhau mà từng cá nhân đang đóng vai tuồng lịch sử đó không thể thấy được vì
phải chịu giới hạn của cá tính, giáo dục, thành kiến thu nhận và khoảng thời
gian sống nữa. Hãy trở về Nguyễn Nhạc. Như ta đã nói, ước vọng của Nhạc thổ lộ
với Chapman là chiếm cả giang sơn Nam Hà, và chỉ chừng ấy đủ rồi. Ông vẫn tự
nhận mình là vua Tây Sơn, “vua Trời” của binh dân đất Nam Hà. Đối với đất Bắc,
ông trở lại thời kỳ thường dân xa xưa, mặc cảm tương tự xuất hiện như khi mới
gặp Chapman ông đã vội vã thanh minh việc nổi loạn khiến người khách buôn này
không khỏi ngạc nhiên. Trên đường lật đật ra Bắc, Nguyễn Nhạc gặp ở Nghệ An một
đám dân quê khúm núm dâng lễ vật, gọi “quan lớn”, ông gạt đi:
“Tôi không phải là quan lớn. Tôi là họ ngoại của Chúa Nam Hà vẫn
quen gọi là Biện Nhạc đấy... Các người hậu tình thấy tôi đi xa, lương khô ăn
nhạt mà đem những món ăn ngon lành biếu tôi, cám ơn, cám ơn...”
Vì vậy khi Nguyễn Hữu Chỉnh mang mầm mống phá hoại Bắc Hà vào miền
Nam ươm giống phát triển, ông đã không biết sử dụng để lật đổ chúa Trịnh. Ông
đã lớn tuổi rồi, từ một tên Biện lại làm loạn (cho dù có ý thức) lên được vua
Trời, thế là đủ lắm rồi.
Nguyễn Nhạc dừng lại, nhưng những động lực vô ý thức của lịch sử
vẫn thúc đẩy con người tiến tới. Ta thấy Nguyễn Hữu Chỉnh xui được Tây Sơn ra
Bắc xô nốt dấu vết của nền phân tranh cũ. Rồi trong chuyến đi đó, ta đã thấy
Nguyễn Huệ lớn lên như thế nào. Tuổi còn trẻ, ước vọng còn lớn, chuyến ra Bắc
với đất Bắc tan rã hé cho ông thấy có cả một xứ sở dưới dấu vết đổ nát vẫn
chứng tỏ tràn trề sinh lực, của cải phong phú, xứ sở đó sớm muộn gì cũng vào
tay anh em ông. Thế mà ông cứ cản lại, “sợ khó kìm chế” ông. Lời hịch lúc đánh
nhau có chữ chê Nhạc “khinh suất, can không nghe”. Khinh suất, can không chịu
nghe chính vì Nhạc tự mãn trở nên coi thường những khuyến cáo đổi thay, trong
lúc Huệ còn muốn tiến nữa.
Thế là anh em chia lìa. Quân đi Bắc đã có cơ ngũ đổi thay, khác với
lúc xuất phát, đã luyện thành nếp mới. Một phần nữa họ là dân Thuận Hoá, Bố
Chính, có thể có lính Bắc Hà, họ thích ở lại Huế hơn. Cho nên Nhạc về Nam mà
Huệ còn giữ được quân.
Khi ra Bắc, Tây Sơn chiếm được kho tàng của Trịnh như các chứng
nhân đã nói. Vàng bạc vốn không phải chỉ cần thiết cho bề ngoài một triều đình
mà còn thiết yếu cho việc binh nhung nữa. Huệ phải giữ lại, và giữ được vì Nhạc
cô thế ở Phú Xuân.
Nhưng Nhạc tất nhiên cũng cần vàng bạc. Ta đã thấy Tây Sơn cần tiền
như thế nào. Chỉ cần thêm một chứng cớ nữa. Trước khi chiếm Thuận Hoá, vùng Tây
Sơn có xẩy ra một vụ rối loạn phong tục do giáo điều Thiên Chúa gây ra, nên nảy
sinh một vụ cấm đạo. Ấy thế mà những kẻ nào, nếu nghèo, nộp 10 cân đồng, nếu
giàu, nộp từ 100-200 cân đồng thì khỏi phải chối đạo: Đến nỗi L.M Longer phải
đưa ra nhận xét: “Có thể là bạo chúa chỉ làm như vậy vì keo cú bòn mót hơn là
vì có ác cảm với đạo Thánh”6. Số chi của quốc gia vì phải trao đổi với bên
ngoài trong một tình trạng kém thế nên lại càng gia tăng gấp bội.
Tây Sơn, cả Nhạc lẫn Huệ, đều cần rất nhiều tiền. Nhạc đòi vàng đất
Bắc, Huệ cố giữ và nhân đã có mâu thuẫn cũng muốn chiếm luôn kho vàng ở Quy
Nhơn. Chiến tranh xảy ra.
Một bức thư viết ngày 12-5-1787 cho biết chiến tranh xẩy ra đã 3
tháng rồi7. Kẻ nào mạnh thì ra tay trước lấn lướt cho nên Nguyễn Huệ mới kéo
quân vào Quy Nhơn trong tuần lễ Tro (21-2-1787)8. Số lượng quân đi, kẻ ước
lượng 60.000 người9, người tính đến 100.00010. chỉ biết rằng với lối hành quân
của Nguyễn Huệ số quân không nhỏ được. “Ông bắt tất cả mọi người phải ra trận”,
tất cả nghĩa là mọi người “từ 15 đến 60 tuổi”. Cho nên vùng Thuận Hoá, nhà thờ
biến thành trại lính, tượng thần phật bị lấy ra đúc súng đại bác, đúc nồi11.
Khi quân đi rồi không còn đàn ông, ở nhà chỉ có đàn bà, kẻ mất cha, người mất
con, kẻ lại mất chồng.
Họ, những lực lượng quyết định tình thế trên giải đất này họ đánh
nhau rất dữ. Lại bộ Hồ Đồng bị bắt ở trận Đồng Tuyên trước làm cho Nguyễn Huệ
một bài hịch, chửi bằng “sài lang, chó heo” để kể tội Nhạc “làm nhơ uế cả một
triều”, “khinh suất, can không nghe” và cả quyết rằng “ngôi báu tất phải đổi
dời”.
_______________________________________
1. Liệt truyện, q30, 13b,
14a.
2. Thư ông Doussain cho Le
Blandin ngày 6-6-1787 (BEFEO, 1912, t. 19).
3. Thư ông Longer cho Boiret,
3-5-1787 (A. Launay, III, t. 143).
4. Liệt truyện, q30, 14a.
5. Trường hợp Vũ Văn Nhậm
theo phe Huệ cũng đáng chú ý. Nhậm không phải ở vào thế bất đắc dĩ vì ông có
thể làm như Nguyễn Văn Duệ. Mọi hành động về sau: đuổi Duệ. bắt Chỉnh, tung
hoành nơi đất Bắc khiến Huệ lo sợ chứng tỏ ông thuộc lớp người có chí riêng,
không đồng ý với sự tự mãn của cha vợ.
6. Thư gởi cho Dufresne.
1-5-1787 (A. Launay III. t. 126).
7. Thư Longer gởi cho Boiret
3-5-1787 (RI. XIV, 1910, t. 46).
8. Thư Labartette kể trước,
tiết 1. Cũng thư của ông, một năm sau 30-6-1788 (Sử Địa, số 9-10, t. 237) cho
biết đánh nhau từ tháng 1 âl (18/2-18/3/1787) và chấm dứt tháng 5 âl
(15/6-14/7/1787).
9. Thư Doussain, 6-6-1787
(BEFEO, 1912. t.19)
10. Thư Labartette gởi cho
Letondal, 21-5-1787 (A. Launay, III, t. 129).
11. Thư Doussain gởi cho
Descourvières 8-6-1787 (BEFEO, 1912, t. 19).
Quân Nguyễn Huệ vào
vây thành Quy Nhơn, đắp núi đất đặt đại bác bắn đổ vào. Nhạc kêu khóc ở đền thờ
cha mẹ rồi kêu Đặng Văn Chân ở Gia Định về tiếp cứu. Chân đem binh về đến Tiên
Châu (Phú Yên) thì bị đánh tan, chính mình phải đầu Huệ làm tỳ tướng1. Hai ba
lần giáp công, Huệ cũng bị mất đến nửa số quân và phải lấy thêm lính Thuận Hoá,
bắt những kẻ vừa đủ 15 tuổi.
Nhạc phải lên mặt thành, khóc kêu gọi tình anh em ruột thịt cho Huệ
giải vây. Tinh thần ăn đều chia đủ của anh em họ thật cũng đáng khen, nhưng đã
đem lại tai hại không nhỏ cho triều đại. Trần Văn Kỷ của Nguyễn Huệ bèn lấy Bến
Ván làm địa giới ngăn cách đất của Bắc Bình vương và Thái Đức Hoàng đế. Còn
“chú Bảy” thì được đất Gia Định với tước Đông Định vương.
Cuộc chiến này thực là một kinh ngạc lớn cho dân chúng thời bấy
giờ4. Uy danh của gia đình Tây Sơn bị hạ xuống, người ta trông ngóng về một ông
Chủng nào đó mà người ta chỉ biết là kẻ còn sót lại của triều đại vừa trị vì.
Theo lời đồn thì người Hồng Mao sẽ đem Nguyễn Ánh trở về ngôi vị cũ. Chứng cớ
rõ ràng là từ năm vừa qua có mấy chiếc tàu ngoại quốc đi dọc theo bờ biển Nam
Hà, lăng xăng dò đường nước nông sâu, ghé vào cửa Thi Nại, rồi khi gặp thuyền
buồm Tây Sơn cản lại thì nổ súng. Rõ ràng lắm là tiếng đại bác vọng lại từ bờ
biển. Thế lực ông Chủng mạnh như vậy nên, cũng vẫn theo lời đồn, vua Trời bị
ông em quý thúc đánh thái quá đã phái người xin với ông trả lại ngôi báu mà tên
bà con họ ngoại này đã chiếm đoạt. Tiếng đồn chỉ dựa trên một sự thực là các
tàu De Castries, La Dryade, Le Pandour lảng vảng ngoài bờ biển Nam Hà để dò xét
tình hình xem có tiện cho một cuộc can thiệp không, thế mà gặp dịp lại được dân
chúng thổi phồng lên tạo ra một dư luận mong ngóng về một vị cứu tinh nơi xa,
trong lúc vị này đang bị giam lỏng và chăm chắm thoát khỏi thành phố Vọng Các.
Trong đám binh tướng Tây Sơn có kẻ ngả theo phe này hay phe khác,
nên ngoài chiến tranh giáp công chính thức, Nhạc và Huệ còn lo thanh toán nội
bộ. Có hai trường hợp điển hình: Nguyễn Văn Duệ, tướng Nhạc ở vùng Huệ và
Nguyễn Đăng Vân, con nuôi Huệ ở vùng Nhạc.
Nguyễn Văn Duệ vốn được Huệ cho giữ Nghệ An để kìm chế Nguyễn Hữu
Chỉnh. Chỉnh ra Bắc đuổi Trịnh Bồng, được thư Duệ hẹn cùng đánh vào, bèn sắp 10
lượng 10 tấm đoạn xúi Duệ mưu chiếm Nghệ An. Việc Duệ làm loạn này cũng là do
mưu kế của Nguyễn Huỳnh Đức, người bị Huệ bắt sau trận Đồng Tuyên (1783) được
cho làm tướng cùng giữ Nghệ An với Duệ mà lòng cứ đồ mưu về chúa cũ5. Việc bị
Vũ Văn Nhậm phát giác. Đức xúi Duệ đem quân theo ngả Thượng Lào về Quy Nhơn và
lãnh quân đi trước. Nửa đường Đức bày tỏ ý thật và dụ Duệ theo mình đi tìm
Nguyễn Ánh. Nghe Duệ tức giận “thằng này định bán ta đây”, Đức tính chuyện
không êm trốn thẳng qua Xiêm. Còn Duệ xuống Quy Nhơn.
Được Duệ về giúp, Nguyễn Nhạc lên tinh thần, tưởng có thể phục thù
mối nhục kêu khóc năm ngoái. Tháng 3-1788, Duệ kéo quân ra Quảng Nam, nơi “biên
giới Chăm”. Không được may mắn như năm 1775, Duệ bị quân Phú Xuân đánh tan,
thân phải bị bắt cho voi giầy, đầu bêu ở thành Hội An6. Nhạc hoàn toàn tuyệt
vọng không còn sức gượng dậy nữa.
Câu chuyện thanh toán nội bộ cũng xảy ra ở Quy Nhơn: Nguyễn Thung
hẳn là một nạn nhân của cuộc xung đột ruột thịt bất ngờ đó. Một nạn nhân khác
may mắn hơn vì ở mãi tận Gia Định. Vẫn biết Gia Định của Nguyễn Lữ nhưng vụ
Đặng Văn Chân cho ta thấy Lữ theo phe Nhạc. Sử quan nhà Nguyễn chép rằng Nguyễn
Đăng Vân là con nuôi của Huệ vượt bể qua hàng ở Vọng Các mùa thu 1787 vì thấy
rõ Tây Sơn là “bạn nghịch”7. Nguyên cớ viện ra để được nhận hàng không đáng kể
cũng như câu chuyện về hết mệnh đế vương do Nguyễn Văn Trương bịa ra để hàng vậy.
Chúng ta phải lưu ý rằng Nguyễn Đăng Vân là con nuôi yêu quý của Huệ đang ở
trong vùng Nhạc và thời gian vượt bể sang hàng là ngay sau khi chiến tranh nồi
da xáo thịt xẩy ra ở Quy Nhơn. Đăng Vân tất đã trải qua những dao động mà
Nguyễn Văn Duệ đã gặp. Duệ không nghe lời Huỳnh Đức, nhưng Nguyễn Đăng Vân ở
một vùng đầy vết tích của Nguyễn Ánh trong lúc con đường về Bắc mịt mù tất phải
hướng về Vọng Các. Gió mùa không những chỉ chở quân đi chinh phục mà còn trỏ
đường cho tướng trốn chạy nữa vậy.
Nhưng không phải chỉ có vài chuyện đó xảy ra là thanh toán xong mối
hiềm nghi của tướng và các phụ tá giữa hai miền. Chúng ta thấy người nắm giữ Tả
quân của Huệ ở Đồng Hới là Vũ Văn Nhậm lại là con rể của Thái Đức. Mọi người
đương thời rõ ràng thấy Nhậm ở vào thế khó xử, dù muốn tỏ lòng trung thành với
Huệ cũng vẫn bị gán cho ý nghĩ “trông về bên trong” (Quy Nhơn). Nguyễn Huệ cũng
nghĩ vậy. Tuy nhiên, vốn là một tay có thủ đoạn, Huệ vẫn dùng, dùng mà nghi
ngờ. Đến khi trao quyền lớn cho Nhậm đem quân hỏi “tội” Nguyễn Hữu Chỉnh, Huệ
mới cần phải lo đề phòng biến loạn, khỏi như ông anh ông trước kia đã không lo
đề phòng ông. Cho nên, ông dặn nhỏ Ngô Văn Sở “Điều lo của ta không phải tại
Bắc Hà mà là tại Nhậm vậy”8. Cái thế quân tướng hoài nghi như vậy làm cho
Nguyễn Ánh sẽ có một viên tướng tài giỏi chờ đón ở Long Xuyên và cũng để có dịp
cho một kẻ chăn trâu leo lên chức Đại tướng quân: Nguyễn Văn Trương.
May mắn cho Nguyễn Ánh hơn nữa là việc chia ba đất nước đã giúp Ánh
ngăn cách với kẻ thù nguy hiểm nhất của ông, Nguyễn Huệ, bằng một giải đất của
ông vua già Nguyễn Nhạc “ham dật lạc, cầu tạm bợ yên ổn, không tính lo về
sau”9. Thực vậy, Nguyễn Nhạc bị em vây đánh phải khóc mới được hoà, tinh thần
suy đốn, không có một phản ứng nào khi Nguyễn Ánh về chiếm Gia Định, bỏ mặc cho
Phạm Văn Sâm là một viên tướng tài, trung thành, lo toan đến thế cùng lực kiệt,
hàng rồi mà vẫn tính chuyện mưu với Nguyễn Huệ phản Nguyễn Ánh. Nguyễn Huệ cũng
không thể làm gì hơn. Như người đồng thời nhận xét: “Ông tập họp quân lính,
hoặc để đánh anh, hoặc để đánh ông vua chính thức và có lẽ cả hai mục đích (vì
ông không thể đánh ông vua mà không bước qua đất của anh ông”10. Nhưng như ta
đã nói, hoặc tình anh em ruột thịt đã không cho phép ông làm như vậy. Phải đợi
đến con ông, tình thân đã cách xa hơn một ít và tình thế cũng bức ngặt đến nơi,
họ mới chiếm Quy Nhơn để trực tiếp đối diện với Nguyễn Ánh. Nhưng bây giờ thì
chậm mất rồi. Trở lại thời phân làm ba của Tây Sơn, “Gia Định đơn nhược yếu
ớt”11 dưới quyền Nguyễn Lữ là một cơ hội tốt cho Nguyễn Ánh và bọn bầy tôi lưu
vong. Họ lục tục trở về.
_____________________________________________
1. Ta gặp lại tên Chân ở Bắc
Hà, sớm nhất sau vụ này là lúc Tôn Sĩ Nghị sang, Ngô Văn Sở rút đi sai Đặng Văn
Chân đem thuỷ quân về trước. Các trận sau này Chân cũng chỉ huy thuỷ quân.
2. BEFEO, 1912, t. 17.
3. Cương mục q47, 3a, Liệt
truyện q30, t. 136.
4. RI, XIV, 1910. t. 46.
5. Truyện Nguyễn Huỳnh Đức
trong Liệt truyện q7, 10a-17b, Thực lục q4, 3b-5a.
6. Thư Labartette ngày
30-6-1788 kể trước. Tài liệu của Đặng Phương Nghi (Sử Địa số 9-10, t. 204), lời
chú trang 239 cho biết viên quan chỉ huy Tiền vệ bị bắt tên là Trần Đức. Ông
Nguyễn Phương (Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn, t. 211) dựa Tây Sơn sử
truyện chỉ rõ viên tướng cầm quân cho Nhạc là Nguyễn Văn Duệ. Chúng ta nghĩ
rằng chính Duệ với quân rút về tăng cường mới gây tự tin cho Nhạc. Còn tên Trần
Đức nêu ra chắc vì ông Labartette ở Quảng Bình lộn với Huỳnh Đức, người theo
Duệ về rồi nửa đường trốn theo Nguyễn Ánh được ban cho họ Nguyễn vậy.
7. Truyện Nguyễn Đăng Vân.
Liệt truyện q13, 20b-21b, Thực lục q3, 5b, 6a. Sau này Vân hăng hái chống quân
Phạm Văn Sâm tới chết hẳn không Phải vì quá trung thành với chủ mới mà vì mối
thù cũ vậy.
8. Liệt truyện q30, 27b.
Cương mục q47, 28b.
9. Liệt truyện q30, 42a.
10. Thư Letondal dựa vào thư
Labartette ở Bố Chính 7-11-1788 (RI, XIV, 1910, t. 53).
11. Thực lục q3, 1b.
Tiết 9
ĐỐNG ĐA: TỘT ĐỈNH CỦA TÂY SƠN
Bắc Hà hay chế độ cũ dưới mắt Tây Sơn * Trận Đống Đa và tác động
tâm lý của nó.
“Sáng ngày khi biết Tây Sơn kéo quân về Nam đêm trước, Lê Chiêu
Thống đòi các quan vào triều và hỏi:
- Anh em hắn cướp hết nước ta mà đi, để cái “nước không” lại đây
cho ta, nếu như có việc nguy cấp thì lấy gì mà chống chế?
Các quan ngơ ngác nhìn nhau, không biết nên nói thế nào. Tả hữu
chợt có người tâu:
- Hôm qua vâng có chỉ truyền sớm nay đặt triều. Bây giờ ngự giá đã
tới, dám xin nhắc lại.
Hoàng thượng lại hỏi các quan:
- Triều hãy thôi chăng?
Các quan đều nói:
- Hoàng thượng ra triều để giáng chỉ đổi niên hiệu, đó là việc lớn
sao lại thôi?”
Một đoạn thuật chuyện trong sách Hoàng Lê vắn tắt cho ta thấy sự
tan rã của cái thế thống-nhất-về-Lê. Cái “nước không” mà Lê Chiêu Thống đã nói
đây không phải chỉ là không bảo vật, không kho tàng. Nỗi kinh hoàng của Chiêu
Thống chính do ở cái không khí trống trơn quyền bính mà Tây Sơn để lại ở Bắc
Hà.
Đoan Nam vương chết, Tây Sơn đi người ta cứ tưởng quyền bính từ đây
tập trung về tay Lê, nhưng tình thế trái ngược lại vì thói quen lâu đời đã
không dễ gì một sớm một chiều xoá nhoà được.
Trước hết là về phía nhà vua. Vị thiên tử 21 tuổi đó có mối thù
Trịnh giết cha, có kinh nghiệm tù ngục nhưng chỉ để nuôi dưỡng oán hờn chứ
không được chuẩn bị cầm quyền nối ngôi ông nội. Ông chỉ mới muốn tự chủ trong
việc chôn cất Tiên đế thì đã bị ông dượng rể giành lấy làm đến phải tạ tội mới
được yên thân.
Triều thần nhà vua thì qua 200 năm ở nể cũng không biết việc gì làm
hết. Hãy nhìn bộ mặt ngơ ngác của họ khi Chiêu Thống hỏi mưu lược giũ nước. Có
kẻ lanh trí nghĩ ra thì chỉ được có mỗi một việc là đặt triều đã nói hôm qua.
Thế rồi các quan mừng rỡ nhờ tìm được lối thoát, đốc xúi vua ra triều để được
tung hô mừng thời mới. Ừ, việc lớn quá sao lại thôi?
Trong khi đó thì phải thấy rằng thói quen làm việc quanh Trịnh phủ
dưới quyền họ Trịnh đã tập thành, để một khi xảy ra biến cố “đám cố gia di thần
nhà Chúa” vẫn còn luyến nhớ họ. Hãy nghe Đỗ Thế Long biện hộ cho nhà Chúa mà
đàn hặc Nguyễn Hữu Chỉnh:
- “Khi ông mới xuất thân, nào cầm quân, nào phong hầu, cái gì không
phải là ơn nhà Chúa. Nay ông lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh để kéo quân ra, thật
là quá tệ. Nếu bảo nhà Chúa hiếp chế nhà Vua là việc có lỗi thì sao khôngnghĩ
cái công tôn phù hai trăm năm trời? Theo người mới mà phản người cũ tức là bất
nghĩa, bới cái lỗi để lấp cái công tức là bất nhân...”
Cho nên khi văn thần của Lê bất lực thì võ tướng làm việc ở các
trấn một khi kéo quân về chỉ là để phù Trịnh. Khuôn mặt Trịnh nổi bật nhất là
một người đã từng âm mưu giành ngôi anh, tính dựa vào Kiêu binh đoạt ngôi cháu:
đó là Trịnh Lệ, em ruột Trịnh Sâm. Được Thì Trung hầu tìm đón về Thăng Long, Lệ
nhận cho Dương Trọng Tế phản Chiêu Thống thần phục mình để lập nên triều chúa
mới. Một khuôn mặt khác của Trịnh nhu hoà hơn, nhưng nhờ kích thích của thời
thế cũng chứa nhiều tham vọng: đó là Trịnh Bồng, “ông quận Quế”. Tấn tuồng xoay
chiều, đổi chủ lại diễn ra chớp nhoáng. Nguyễn Mậu Nễ, bộ tướng của Dương Trọng
Tế, noi gương chủ đi đón Trịnh Bồng về đuổi Trịnh Lệ chạy khỏi phủ Chúa
(4-11-1786).
Trong họ Trịnh không còn ai giành quyền nữa để Chiêu Thống làm áp
lực có hiệu quả với Trịnh Bồng nên đành chịu Đinh Tích Nhưỡng mang quân về ép
ông phong chức cho Chúa. Ông cũng còn hy vọng ở Hoàng Phùng Cơ, nhưng viên
tướng này cũng liệu gió phất cờ mà sắp hàng bên phủ Liêu.
Nhưng tình trạng đó không có nghĩa là quyền binh đã được tập trung
quanh chiếc ngai “đố an” - Án Đô vương. Những người lăng xăng chạy từ cung Vua
tới phủ Chúa tranh các danh vị Tham tụng, Bình chương:.. “khư khư những thứ cũ
rích” không phải là một lực lượng đáng kể. Bên văn hãy xem một Ninh Tốn, tướng
bại trận Đồng Hới ngày trước, đem cái khôn quyệt “nhanh trí” của mình ra để dò
ý Hoàng Phùng Cơ xem thế mà đổi chiều phò tá. Đám người “sợ hãi xám mặt” trước
Bắc Bình vương, đã bị Nguyễn Hữu Chỉnh mỉa mai tài thuyết khách từng đem một
tên trấn nước để khỏi làm “mê hoặc thiên hạ”, đám người ấy quả không đủ sức
nghĩ xa hơn cách tiến thân bằng mồm mép. Còn võ tướng Đinh Tích Nhưỡng chẳng
hạn, một ông trấn thủ biến thành cướp, không dằn mặt nổi ông nghè Nguyễn Hãn,
còn nói gì đến việc đánh ai? Tình trạng phân ly từ trên đem đến một sự kết tập
binh lính, dân chúng lỏng lẻo, nay là của phe này, mai bị vào phe khác không có
dáng gì hơn bọn trước.
Nguyễn Hữu Chỉnh thừa hưởng được lề lối kết tập của Tây Sơn có
thắng được Trịnh Bồng vào cuối tháng giêng 17871 cũng là lẽ tự nhiên.
Từ khi bị Nguyễn Huệ bỏ rơi ở Nghệ An, Chỉnh phải lo kiến tạo lực
lượng riêng để bảo vệ bản thân và chờ cơ hội phát triển. Không có Tây Sơn thì
ông làm Tây Sơn vậy. Ông truyền hịch chiêu binh. Ai ngần ngừ, ngỏ ý chống báng,
ông đem tay chân đến giết ngay. Chỉ 10 ngày ông đã có hơn 1.000 quân. Tất nhiên
không phải chỉ có sự đe doạ làm nên tinh thần binh sĩ. Khả năng tổ chức quân
binh của ông từ những kinh nghiệm qua được đem ra thử thách lần nữa. Quân có
thiếu chính nghĩa thì phải tạo nó ra. Một chuyến liên lạc ngầm với Chiêu Thống
được tuyên bố khoa trương khiến dân chúng Nghệ An bỏ phe chống đối mà theo ông.
Về phần Chiêu Thống từ khi thất vọng với Hoàng Phùng Cơ, quả vua
thấy không còn ai có thể để kêu gọi về giúp ngoài Nguyễn Hữu Chỉnh. Quân Nghệ
An rầm rộ tiến ra. Một trận nhỏ phá tan quân Trịnh Bồng gởi vào hỏi tội, bắt
sống Phan Huy Ích, giết Lê Trung Nghĩa khiến uy thanh Chỉnh nổi dậy. Một lần
nữa, quân tướng quanh phủ Chúa lại lảng xa. Trịnh Bồng có mếu máo chạy trốn
cũng chỉ là thêm chút kinh nghiệm đắng cay cho con người thời loạn. Chỉ có họ
Trịnh là không hy vọng trỗi dậy nữa: Chiêu Thống tức giận sai đốt tan phủ Chúa
để tuyệt diệt dấu vết của một uy quyền đã áp bức dòng họ mình trên hai trăm năm
dài.
Phát huy chiến thắng, Nguyễn Hữu Chỉnh cho quân đánh bắt Dương
Trọng Tế ở Gia Lâm, bắt Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây đem về giết, đuổi tan quân
Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương. Uy quyền của Chỉnh lớn dần ngang với thực lực.
Chỗ ở của Chỉnh tấp nập quan chức ra vào.
Tuy nhiên muốn lập riêng một triều Chúa mà hành động của Chỉnh vẫn
có dấu vết của viên Hữu quân Tây Sơn. Thực vậy, muốn có lực lượng bình Bắc Hà,
muốn tìm cách tập trung một quyền hành từ lâu vẫn phân tán nên bị khinh khi,
Chỉnh đã áp dụng những phương pháp như của Tây Sơn đã làm. Sách Hoàng Lê với
những nhận xét chủ quan, thiển cận vẫn cho ta thấy rõ điều đó:
“Bây giờ tiền bạc trong nước phần nhiều bị nhà giàu giấu cất, nhân
dân đói khổ vì nạn khan tiền, vật giá đắt lên vùn vụt. Chỉnh bèn xin với Triều
đình ra lệnh thu hết tượng đồng các chùa đem về Kinh sư mở lò đúc tiền. Rồi
Chỉnh thả cho thủ hạ đi khắp tứ phía cướp bóc chuông, tượng của các làng xóm.
Người nào mà dám giấu diềm, tức thì bị chúng bắt đem về khảo đả nghiêm trị. Duy
có pho tượng đồng đen ở Quán Trấn Vũ phía bắc Kinh thành chúng không dám lấy mà
thôi. Thấy Chỉnh làm việc như vậy dân chúng ai cũng ta thán. Một hôm có người
dán ở cửa Đại Hưng hai câu (...), dịch ra quốc văn thời là:
Thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc ở đâu được?
Hoàng thượng đốt phủ Chúa, phủ đốt, điện cũng trơ thôi.
Tất nhiên phương pháp đưa ra không ngăn được kẻ thừa hành nhũng
nhiễu. Chỉnh lại không có đủ tay chân có tài để khống chế người và kìm chế
mình. Chỉnh “mới” quá đối với Trịnh - Lê thần. Cho nên, đến như việc đánh dẹp
Trịnh Bồng, Quận Thạc, Quận Liễn, những kẻ mà bọn thần tử cựu trào có hồi cũng
mỉa mai, thế mà vẫn bị Ngô Thì Chí gọi là “mượn Hoàng thượng để sai cả nước
(.:.), dùng quân trừ bỏ kẻ hại mình”; Đinh Nhạ Hành cũng tố cáo Chỉnh “lúc cầm
quyền ra tay tàn sát; những huân thần, túc tướng, lệnh tộc và thế gia bị giết
hại rất nhiều”.
________________________________________
1. Tài liệu của Nhật ký Hội
Truyền giáo Bắc Kỳ (Sử Địa số 9-10, t. 195). Hoàng Lê, t. 132 ghi ngày đốt phủ
Chúa là 8-10 năm Bính Ngọ (28-11-1786) so với ngày Trịnh Bồng vào Thăng Long
(4-11-1786) thật quá gần, không kịp cho quá nhiều sự việc xẩy ra trong thời kỳ
Bồng cầm quyền. Chúng ta vẫn không có tài liệu nào khác để đối chiếu nên tạm
dùng các kết quả trên vậy
2. Trích lại của Hoa Bằng,
Quang Trung Nguyễn Huệ, sđd, t. 135
Sự tồn tại của vua Lê cũng là một chứng cớ thất bại của Nguyễn Hữu
Chỉnh. Lê đế vẫn còn đó là nền nếp cũ vẫn còn, dù dở đến đâu cũng còn có cớ tồn
tại. Chỉnh sẽ bị luỵ vào cái không khí ươn hèn đó để đổi mình đi, như lời nhận
xét của Ngô Nho nói với Trần Công Xán:
“Ông Bằng từ khi đắc thế đến giờ, vàng ngọc chật đai, không giống
hồi nhai rễ rau làm việc được như ngày xưa. Tôi e ông ấy run rẩy ra chốn trận
mạc ắt bị Văn Nhậm bắt được”.
Đó không phải là lời tiên tri. Việc ra Bắc đã được Bắc Bình vương
định từ trước, nhưng phải đình lại vì chiến trận Quy Nhơn1. Nguyễn Hữu Chỉnh ở
yên lại tưởng nhân Nhạc - Huệ xung đột mà có thể thu được mối lợi ngư ông. Ông
xúi Nguyễn Văn Duệ chống Huệ không thành. Ông sai Trần Công Xán vào Phú Xuân
đòi đất Nghệ để giải toả áp lực của Lê thần. Nhưng không phải chỉ số phận sứ bộ
mà cả số phận Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đã được định rồi, ở Phú Xuân. Nơi dinh trấn
Nghệ, Vũ Văn Nhậm nói thẳng vào mặt Trần Công Xán:
“Tôi nay đã lãnh binh phù, sớm tối sẽ kéo thẳng ra Thăng Long,
trước hãy chém đầu thằng giặc Chỉnh, rồi sau mới hỏi vua Lê tại sao bội ơn dong
đứa làm phản?... Vua Lê đã không giữ được nước thì các trấn từ Thanh Hoá trở
ra, tôi không lấy người khác cũng lấy...”
“Vua Lê đã không giữ được nước”, ý kiến này không phải chỉ của
Nhậm. Đó là nhận xét gây nên ước vọng của Nguyễn Huệ, đó là đầu mối gây nên
chiến tranh nồi da xáo thịt.
Việc chuẩn bị đánh Thăng Long được Vũ Văn Nhậm sửa soạn ở Nghệ An
vào hạ tuần tháng 10-17872. Quân đội của Nhậm vét ở Bố Chính, Thanh Nghệ được
“hơn 30.000 người”, bắt đầu tiến ra Bắc khoảng trung tuần tháng chạp. Đụng độ
với Lê Duật, trấn thủ Thanh Hoá của Nguyễn Hữu Chỉnh, từ 26-12, Nhậm đánh trận
tập kích thắng lớn, giết Duật rồi tiến ra Sơn Nam. Hoàng Viết Tuyển ở đấy lại
xung đột với Chỉnh và có ý hàng Tây Sơn nên quân Nhậm tránh được một mũi nhọn.
Quân Nguyễn Như Thái bị thua trên đường đi chiếm Tam Điệp. Quân tan, Thái bị
bắt3, Nguyễn Hữu Chỉnh phải tự cầm quân. Con Chỉnh, Hữu Du, cũng không may mắn
hơn các tướng khác. Đêm 6 rạng 7 tháng 1 (1788), Chỉnh lẻn về Kinh thành khóc
với Chiêu Thống “Bloi oi la bloi, nhà Lê đã mất rồi!” rồi cùng vượt sông trốn
sang Kinh Bắc.
Vũ Văn Nhậm vào thành Thăng Long (9-1-1788), cho quân đuổi theo
Chỉnh, giết Hữu Du, bắt Chỉnh (12-1) đem về xử tử (15-1), bêu đầu cho công
chúng xem.
Việc thanh toán quyền bính Bắc Hà, cũng như trước kia đối với Nam
Hà, rõ ràng là không khó với thực lực của Tây Sơn. Nhưng theo với sự mở rộng
quyền hành, họ còn phải tìm cách biện chính hành động, thuyết phục Lê thần,
Nguyễn thần công nhận sự đổi thay rồi thu dụng những người này làm tay chân.
Nguyễn Nhạc lúc ra Bắc đã định “xin” mấy ông nghè đem về nước. Nguyễn Huệ bắt
Nguyễn Đăng Trường, thả đi rồi bắt lại ở Gia Định mới giết đi. Lúc đánh Phú
Xuân, ông thu nhận được Trần Văn Kỷ rồi nhờ người này làm trung gian mời Ngô
Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, hỏi dò Nguyễn Nghiễm (cha Nguyễn Du) để tìm
đến ông già ở ẩn Nguyễn Thiếp trấn Nghệ An.
Tất cả những việc đó chứng tỏ Tây Sơn phải mất thì giờ và hao tốn
công phu để khuôn nắn trong dòng ý thức hệ thời đại. Ta không lấy làm lạ,
Nguyễn Huệ vẫn phải giải quyết vấn đề theo những dữ kiện có sẵn. Chính ông vẫn
coi việc thu dụng Nho thần như một tiến bộ cho chính quyền ông. Tây Sơn thiếu
Nho thần, không có một chính sách ở Gia Định, chỉ mang quân tới chiếm rồi đi,
không thay đổi nổi lòng người. Ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ phải ai cầu Nguyễn Thiếp
chính là để quân bình lại cái không khí sùng chuộng võ uy trong triều ông do ở
nơi “những kẻ giúp việc trong nhất thời đều là những kẻ mạnh bạo”.
Nhưng hiện tại sức mạnh Tây Sơn vẫn là ở quân lực của họ, cụ thể ở
Bắc Bình vương Nguyễn Huệ. Tình thế chưa đến để họ gạt triều Lê ra ngoài triều
chính để thuyết phục ông già Nguyễn Thiếp, tuy rằng trong chuyến trôi dạt theo
nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống đã qua kinh Bắc rồi lênh đênh ở Hải Dương với
thổ hào Trần Quang Châu, ở Sơn Nam với trang Hoàng Viết Tuyển, ở Thanh Hoá, về
lại Kinh Bắc, trải qua đủ mùi lưu lạc của ông vua một triều đại tàn kiếp. Ấy
thế mà Lê còn làm cho Tây Sơn mất một dũng tướng nữa.
Nguyên cớ sâu xa như đã nói là mối bất hoà nội bộ tận xứ Quy Nhơn.
Nhưng nguyên nhân gần cận là thái độ khác nhau của những kẻ chiến thắng đối với
cái “nước không” của Chiêu Thống bỏ lại. Vũ Văn Nhậm cầm đầu quân tướng Bắc
phạt nên hơn ai hết, ông thấy rõ tình hình nghiêm trọng do các tướng và thổ hào
của Lê được dịp mượn tiếng Cần vương để thoả mãn khát vọng quyền uy trong một
xã hội phân rã. Về phía đồng bọn, nói theo các giáo sĩ đương thời, “Ông còn lo
sợ sự phẫn nộ của Bắc vương vì ông khăng khăng từ chối nhiều lần không chịu
tuân theo lệnh gọi ông về Phú Xuân sau khi đã giết được Hữu Chỉnh. Ông lại còn
bị tình nghi là đã có tham vọng chiếm ngai vàng Bắc kỳ đáng lẽ là của chủ ông
nhân lúc người này đang đánh nhau với Tiếm vương Nhạc...”6. Cho nên theo thói
quen làm việc có sẵn cộng thêm ý tưởng đề phòng trước biến loạn, thụ hưởng
chiến thắng, ông đã tận lực khai thác đất Bắc. “Người ta chỉ nghe đến mộ lính,
quyên gạo, quyên tiền”. Quân Nhậm bắt các chức sắc trong làng kê khai đinh điền
để tính thuế, bắt xâu, bắt cung nữ. Họ triệt hạ các mô đất trong làng sợ có thể
biến thành chiến luỹ chống họ. Loạn khắp nơi nên Nhậm phải sai đắp lại thành
Đại La. Ngô Thì Chí kể: “Dân phu đói khát mệt nhọc, có kẻ đương đội thúng đất
mà ngã sấp xuống. Bởi vậy ai cũng ta oán”.
Tình hình nghiêm trọng như vậy nên Nhậm mới nghe lời một Lê thần mà
đem Sùng Nhượng công Lê Duy Cẩn lên làm Giám quốc để giải toả bớt áp lực tôn
Lê. Ngô Văn Sở người được Bắc Bình vương sai kìm cặp dò xét Nhậm, lại thấy
trong hành động đó thêm một ý nghĩa muốn làm Nguyễn Hữu Chỉnh của viên Tiết
chế, nên mật báo về Phú Xuân.
Cuối tháng 3 (1788), vừa dẹp xong Nguyễn Văn Duệ, Bắc Bình vương
nghĩ tới chuyện ra Bắc. Quân ở đàng xa mà uy danh vương đã khiến Hoàng Viết
Tuyển phải bỏ dinh sở trốn đi. Đại binh với một đoàn hộ giá gồm 150 con voi,
100 người nằm võng, nhiều kiệu thếp vàng, Ngọc Hân, Bắc Bình vương tiến vào
thành Thăng Long với uy thế khiến Vũ Văn Nhậm không dám chống cự. Ông bị bắt
tức khắc. Hôm sau (5-5-1788), ông bị trói phơi nắng ngoài pháp trường một ngày
cho công chúng coi rồi bị xử trảm.
Tuy Ngô Văn Sở nghĩ rất đúng rằng:
“Từ khi có nước Nam tới giờ triều đại thay đổi không biết mấy lần,
thiên hạ không phải của riêng ai, liệu có thể lấy thì lấy đi, rồi thì đặt quan
chia chức để dựng phên tường cho sự trông nghe của mọi người đều đổi mới một
lượt”.
Nhưng tình thế chưa tới đó, Nguyễn Huệ cũng không thể làm hơn Vũ
Văn Nhậm được. Để hạ bệ Chiêu Thống, Bắc Bình vương ra một bá cáo công kích ông
này vô ơn bạc nghĩa, mất tư cách và vô tài bất tướng. Đồng thời với bá cáo này
có một bản văn khác khôn khéo nhắc công phù Lê diệt Trịnh của “Đức lệnh”, biện
hộ cho việc xử trảm Vũ Văn Nhậm để đưa ra một cuộc trưng cầu dân ý cho dân
chúng “không phân biệt giai cấp, phẩm tước và địa vị” bày tỏ ý kiến theo Lê hay
theo Tây Sơn (15-5-1788). Chắc là dân chúng muốn theo Lê cũng không thể bày tỏ
ở Thăng Long được. Chiến thắng của Nguyễn Phúc Ánh ở phương Nam và áp lực vọng
Lê ở đây khiến ngôi vị Giám quốc “lại mục” của Sùng Nhượng Công chưa đổ. Quyền
xứ Bắc về tay Đại tư mã Ngô Văn Sở, phụ tá là các tướng: Nội hầu Phan Văn Lân,
Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết và các hàng thần Lê: Ngô
Thì Nhậm với chức mới Lễ bộ Tả thị lang, tước Tình Phái hầu, Hình bộ Tả thị
lang Phan Huy Ích, tước Thuỵ Nham hầu, cùng Ninh Tốn, Nguyễn Bá Lân. Các trấn
do tướng Tây Sơn chia nhau nắm giữ.
Nhưng việc chống đói chứng tỏ tiềm lực đất Bắc còn nhiều. Bắc Bình
vương một khi không đếm xỉa gì đến nhà Lê nữa tất phải biết khai thác tiềm lực
ấy, không thể để cho các lực lượng phản động lợi dụng được. Các văn võ thần đều
bị kêu ra trình diện và bị giữ lại ở kinh thành. Có lệnh bắt nộp ngay lập tức
và cùng một lúc các thứ thuế trước kia vốn phải trả trong 2 kỳ tháng ba và
tháng mười (hai vụ mùa), luôn cả việc truy thu các thứ thuế trước kia chưa được
thanh toán. Một đạo quân 240.000 người, nghĩa là đông gấp đôi số quân thường
nhật của nhà Lê trước kia, được tuyển mộ với hạn định 5 ngày cho xong. Không
đóng đô được ở Thăng Long, Bắc Bình vương cho phá tất cả cung điện của nhà
Trịnh để chuyên chở vật liệu cùng lúa gạo về thành Rum xây Phượng hoàng Trung
đô. Mỗi phường ít nhất phải cung cấp 15 người thợ chuyên môn cho công cuộc kiến
tạo.
Vội vã sắp xếp xong công việc, ngày 24-6-1788, Bắc Bình vương rời
Thăng Long, ngóng tin Phạm Văn Hưng ở miền Nam, trong lúc Lê Quýnh, Nguyễn Huy
Túc, Nguyễn Quốc Đống phò gia quyến Chiêu Thống vào đất Thanh (12-6-1788), rồi
được dẫn tới Long Châu, Nam Ninh để vận động với Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ
Nghị ra quân. Tháng 9 âm lịch (29/9-28/10/1788), sứ bộ “nón rách, áo tơi tàn”
Lê Duy Đản, Trần Danh Án, được Lê Quýnh về đưa đường, mang chiếu thư cầu viện
qua cửa ải để chính thức hoá việc tiến quân của Tôn đã chuẩn bị sẵn từ tháng 6
Mậu Thân (4/7/1788-1/8/1788).
Ngày 28-11 (1788), quân Tôn Sĩ Nghị và Đề đốc Hứa Thế Hanh tràn qua
Lạng Sơn. Cánh Quảng Tây do Tổng binh Thượng Duy Thanh, Phó tướng Khánh Thành
điều động, cánh Quảng Đông do Trương Triều Long và Lý Hoá Long nắm giữ. Viên Đề
đốc Vân Nam là Ô Đại Kinh thì vượt đường Cao Bằng nhắm Tuyên Quang tiến quân.
Quân số chính quy khoảng độ 2 vạn người nhưng đám phụ lực nghĩa dũng được dịp
đi theo rất đông, gây nên thanh thế lớn, trong đó có 2.000 quân Nùng thiện
chiến của Sầm Nghi Đống. Cho nên, sử gia Nguỵ Nguyên mới nói “tiếng đại binh có
vài chục vạn” và các giáo sĩ đương thời cho rằng không dưới 30 vạn. Quân số ước
tính hơn số 20 vạn của sử Việt8.
___________________________________
1. Thư ông Daussain ngày
6-6-1787 kể trước.
2. Chi tiết về ngày tháng, sự
việc có chỗ nào không giống với Hoàng Lê, Liệt truyện, Cương mục là lấy ở tài
liệu giáo sĩ (Sử Địa số 9-10, t. 195 trở đi). Tướng tiên phong của Nhậm mà tài
liệu này gọi “Vach Quinh” là Quýnh Ngọc hầu, người thắng Nguyễn Như Thái ở Điềm
Xá. Tài liệu cũng không nói tới “ong Doc chiên” xung đột với Nguyễn Hữu Chỉnh
là ai, nhưng so với các nơi khác ta biết đó là Hoàng Viết Tuyển. Chính Tuyển
coi thuỷ quân, ở Sơn Nam, nguyên cùng với Chỉnh là bộ tướng Tây Sơn, và kết cục
cũng như Doc chiến bị tan quân vì một trận cuồng phong làm chìm hạm đội. Nhắc
lời Chỉnh ở Hoàng Lê “Tuyển ở Sơn Nam không về (cứu Thăng Long) kịp” là vô lý
vì Sơn Nam sau khi Duật bại đã trở thành tuyến đầu mà sao quân Tuyển lại bất
động không giao chiến? Phải nói như tài liệu giáo sĩ là Chỉnh còn hi vọng xoa
dịu sự thù ghét của Tuyển, hi vọng thành hình khi Tuyển được bạn bè ở Tây Sơn
bảo đừng có về mà nguy hiểm. Tuyển viết thư cho Chỉnh xin tha tội, bị Tây Sơn
bắt được nên phải chống Tây Sơn tới cùng và Chiêu Thống trong lúc cần người
cũng không kẻ vạch chuyện bỏ rơi Chỉnh nữa.
3. Theo các tài liệu ta thì
Nguyễn Như Thái bị giết tại trận. Các giáo sĩ cho ta biết Thái (mà họ gọi Lê
Thai) bị bắt giữ và mãi tới khi Nguyễn Huệ ra Bắc giết Nhậm mới đem xử tử
(10-5-1788), Hoàng Viết Tuyển bị giết ngày 1-6-1788.
4. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu
tử, sđd, t. 98, 102, 103, 109.
5. La Sơn phu tử, sđd, thư
của Nguyễn Huệ gởi Nguyễn Thiếp, t. 105, 106.
6. Tài liệu “Nhật ký Giáo hội
Bắc kỳ”... đã dẫn có nhiều chi tiết giống với sử ta như chuyện Chỉnh xuất quân
dùng dằng vì thấy điềm xấu, Chỉnh lẻn trốn về Thăng Long lúc nửa đêm, Nhậm xây
thành phòng thủ... Duy ở đây lại nói Ngô Văn Sở đến tháng 12-1788 mới ra Bắc
với 2.000 quân. Tôi theo tài liệu ta vì có nhiều sự kiện về lúc đánh Chỉnh, Ngô
Văn Sở được sử ta nói đến nhiều quá chắc không lầm lẫn được.
Còn về việc thụ hình của Chỉnh thì
hẳn tài liệu giáo sĩ cải chính lời truyền Chỉnh bị “tứ mã phân thây” như người
ta vẫn tin Chỉnh đã tiên cảm trong bài thơ “Cái pháo”.
7. Cương mục q47, 28ab, 29ab;
Thực lục q3, 10b. Sử ta nói Nhậm bị bắt giết trong lúc đang ngủ. Có lẽ vì khiếp
tài hành quân thần tốc của Huệ mà người ta đã hạ giá Nhậm quá đáng. Quân trẩy
ra rầm rộ sao Nhậm không hay biết, nhất là khi Nhậm vẫn có tâm lo đối phó
phương Nam? Tài liệu giáo sĩ có nhiều sự kiện có công chúng dự khán (Nhậm bị
trói dẫn ra pháp trường phơi nắng một ngày) và lại có chi tiết ngày tháng đích
xác nên được chúng tôi theo ở đây.
8. Ta cố lựa lấy chứng cứ
đích xác nhất từ các nguồn tài liệu khác nhau. Về danh tính quan binh Trung
Hoa, ta theo sử Thanh vì chắc họ biết rõ về người của họ hơn (tuy nhiên có lúc
họ viết Hứa Thế Hanh rồi Hứa Việt Hanh chẳng hạn). Về quân số chắc sử Thanh đã
rút bớt số quân chính qui đi hoặc vì Tôn Sĩ Nghị sợ tội đã báo cáo ít, hoặc mặc
cảm thua trận khiến người ta phải giấu bớt quân. Còn về số ước tính của giáo
sĩ, ta nghĩ rằng họ thấy thanh thế quân Thanh to quá so với cá nhân con người
thời loạn trốn chui trốn nhủi như họ và người đương thời, nên đã phóng đại ra. Tạm
thời ta dùng con số 20 vạn của sử Việt kể luôn quân chính qui và phụ lực của
Thanh, quân nghĩa dũng của nhà Lê, chắc không sai bao nhiêu.
Lực lượng đó đủ làm rung động Bắc Hà. Ở Lạng Sơn, thấy quân lính
dưới quyền trốn mất, Phan Khải Đức ra hàng còn Nguyễn Văn Diễm rút vội về Kinh
Bắc hợp với Trấn thủ Nguyễn Văn Hoà chống giữ và đưa thư cáo cấp về Thăng Long.
Một cuộc hội nghị cao cấp giữa những người giữ thành được tổ chức. Ngô Thì Nhậm
trình bày lợi hại, tính chuyện vét quân lương khỏi thành Thăng Long để tránh
mũi nhọn công kích của địch, bảo toàn thực lực mà còn nuôi lòng kiêu căng của
đối phương nữa. Kế hoạch thực là sáng suốt nhưng tự ái nhà tướng còn khiến Tây
Sơn thử một lần cho biết sức địch. Phan Văn Lân hăm hở tấn công bị hai toán
quân của Thượng Duy Thanh, Trương Triều Long đánh tan ở 2 sông Nhật Đức, Nguyệt
Đức phải bỏ lính chạy thoát thân.
Đường lối rút quân không còn ai phản kháng nữa. Thuỷ quân do Thống
lĩnh Đặng Văn Chân mang đi trước đóng ở đảo Biện Sơn. Bộ binh do Ngô Văn Sở lui
về giữ chặt núi Ba Dội chờ tiếp ứng ở phương Nam. Ngày 21 tháng 11 Mậu Thân
(18-12-1788)1, Tôn Sĩ Nghị chiếm thành Thăng Long một cách dễ dàng.
Tôn Sĩ Nghị đóng quân hai bên bờ sông, cất phù kiều để dễ qua lại.
Hứa Thế Hanh chia quân đóng ở Hạ Hồi và Ngọc Hồi để làm thế che chở phía nam.
Phụ giúp vào đám quân này có các đạo nghĩa quân của cựu thần nhà Lê. Nguyễn Đạo
Lĩnh trấn Hải Dương, Hoàng Đạo Nghĩa giữ Sơn Nam hợp với toán du binh Thanh
trông chừng phương Nam. Nhưng đó không phải là những lực lượng đáng kể. Quân
Thanh vào xứ không trông cậy mấy vào bọn thân binh bản xứ nhưng tựa vào đám
kiều dân để làm tai mắt. Trước khi vào xứ họ đã được những người Trung Hoa đào
mỏ, đúc quặng ở Thái Nguyên xin phụ giúp làm tiên phong. Những người này ở đây
đã lâu, tụ tập hơn vạn người, nhân có loạn trong nước phải võ trang để tự vệ,
đã từng có lần xung đột chiến thắng toán du binh Tây Sơn. Đám Hoa kiều thứ hai
gồm những thương nhân ngụ ở phường Hà Khẩu trong Kinh thành (phố Hàng Buồm),
phố Cơ Xá ở Kinh Bắc, phố Hiến ở Sơn Nam. Họ được thế Tôn Sĩ Nghị tụ tập hơn
vạn người thành trại, tha hồ vu hãm người lành, ức chế nhà giàu có, cướp giật
tiền bạc, bắt hiếp đàn bà con gái ngay giữa chợ, hoành hành không kiêng sợ gì
cả.
Thực ra việc bức bách này, lúc đầu ra quân Nghị cũng có bố cáo quân
lệnh ngăn cấm, nhưng một mặt thắng lợi quá dễ dàng làm quân sinh kiêu, một mặt
binh lính quá phức tạp nên không ngăn cấm được. Cũng qua 8 điều quân lệnh ta
thấy được Nghị tiên liệu lề lối hành quân chống giữ kể cũng chu đáo lắm. Mỗi
tên lính của Nghị được cấp cho một tên phu đeo thẻ riêng để sai bảo. Quân đến
xứ lạ, Nghị cũng lo đề phòng bị phục kích nên bảo phát đường cho quang đãng mà
đi, đề phòng cạm bẫy trên đường, cho tuần hành nghiêm ngặt lúc đêm hôm. Để
chống voi Tây Sơn, Nghị bảo quân dùng súng bắn lúc ở xa, dùng cung và đao lúc ở
gần, đuổi chúng quay lại xéo quân địch. Về phần súng hoả hổ của Tây Sơn, Nghị
sắp sẵn vài trăm tấm khiên bằng da trâu sống để chắn lửa mà tiến lên chém giết.
Nhưng dự tính trong kiêu căng khiến cho Nghị không nhìn thấy thực
lực của địch, không nghe được lời nhận xét của Trần Công Xán. “Họ đi lại chỉ vù
một cái... đánh không thể được, đuổi không thể kịp, xưa nay chưa từng có toán
giặc nào như toán giặc ấy”. Đám quân Tây Sơn còn có kinh nghiệm chiến trận trên
15 năm qua ở khắp chiến trường, giao tranh với đủ kẻ địch các xứ từ Trịnh,
Nguyễn trong nước tới Hoà Nghĩa quân, Xiêm binh, tàu Tây.
Cho nên, ngày 24 tháng 11 (21-12-1788) tin về đến Phú Xuân, ngày
hôm sau Nguyễn Huệ tức tốc lên ngôi tôn2, kéo quân đến Nghệ An. Ở đây ngày 29,
ông đòi Nguyễn Thiếp đến hành tại hỏi mưu rồi sai Hô Hổ hầu tuyển binh Nghệ An,
cứ 3 người lấy 1. Chỉ trong chốc lát được hơn một vạn. “Sự tra xét gay gắt đến
nỗi người ta không biết trốn vào đâu để tránh quân dịch. Các kẻ sai nha đem chó
theo để tìm người trong khu rừng bên cạnh như người ta tìm thú: người ta lấy
dao xỉa vào các đống rơm dùng để đun nấu”. Đám người mới này được dùng làm
Trung quân theo với cựu quân Thuận Quảng chia xẻ chiến trận.
Trước khi đi ba quân còn được nghe chính chủ tướng họ ban lời huấn
dụ để kích thích tinh thần chiến đấu:
“Quân Thanh sang lấn nước ta, hiện chúng đã đóng ở thành Thăng Long
các người có biết hay không? Trong khoảng trời đất phận sao đã được định rõ
phương Nam phương Bắc, nước nào cai trị nước ấy. Người Trung Hoa không phải nòi
giống nước ta, bụng họ ắt là khác hẳn. Từ đời nhà Hán đến nay họ đã mấy phen
chiếm cướp đất cát, giết hại nhân dân, vơ vét của cải. Người nước ta không thể
chịu nổi , ai cũng muốn đuổi chúng đi (...) . Ngày nay quân Thanh lại sang,
định lấy nước ta đặt làm đất quận huyện của chúng, không biết trông gương mấy
đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đuổi. Các người đều
đủ lương tri, lương năng nên phải dốc lòng hết sức với ta để dựng công lớn, chớ
quen thói cũ mang lòng nhị tâm. Nếu như phát giác, ta sẽ tức khắc giết chết,
không tha một người nào. Đừng trách ta không bảo trước”.
Giá trị lời dụ bảo đảm giá trị chủ tướng. Để xoá nhoà tâm lý vọng
Lê, chống Tây Sơn của binh lính, Quang Trung chuyển đối tượng thù hận vào người
Hán, khêu gợi lòng ái quốc, nhắc nhở dĩ vãng oai hùng của dân tộc để lấy chính
nghĩa về mình. Thế rồi không lẩn tránh, ông vạch rõ để rửa sạch tâm lý hai lòng
trong quân ngũ, đem uy chen vào ân để chấm dứt bằng một câu đanh thép: “Đừng
trách ta không bảo trước”. Với tướng quen thuộc, ông làm ngược lại. Khi Phan
Văn Lân và Ngô Văn Sở vác gươm ra chịu tội ở Ba Dội, ông đòi “chém chết một vạn
lần” rồi nói rõ cớ tha tội, bàn phương lược tiến quân, tính đường lui tới khi
thái bình trở lại. Chiến tranh nhiều lúc cũng là sự rủi may nhưng ở đây, quân
có lý tưởng, tướng có quyền hành, phương lược, tất cả chăm chú vào viễn ảnh
“năm mới vào thành Thăng Long ăn mừng”, sự thắng trận thật kề bên như ngày Tết
vậy.
Công cuộc chuẩn bị kéo dài đến một tháng trời. Màng lưới an ninh
của Tây Sơn kéo dài từ Ba Dội đến Biện Sơn đã ngăn cách với Bắc Hà những biến
chuyển bên trong khiến cho một viên cung nữ lọt lưới trốn về Thăng Long bày tỏ
mối lo lắng về hoạ Tây Sơn càng làm cho Tôn Sĩ Nghị dè dặt hơn không dám cất
quân đi.
Ngày 30 tháng chạp (25-1-1789), hơn 10 vạn quân4 chia nhau tấn
phát: Đại Tư mã Sở và Nội hầu Lân đem Tiền quân đi trước, Hô Hổ hầu xuất Hậu
quân đốc chiến, Đại Đô đốc Lộc và Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết cầm Tả quân và Thuỷ
sư vào cửa sông Lục Đầu, để Tuyết ở lại kinh lược vùng Hải Dương còn Lộc lên
Lạng Sơn, Phượng Nhỡn, Yên Thế chặn đường về của quân Thanh, Đô đốc Long đem
Hữu quân và Tượng mã quân theo huyện Chương Đức (Hà Đông) ra làng Nhân Mục
(huyện Thanh Trì, Hà Đông) đánh vào quân Điền Châu, Thái sư Bảo lại lấy quân
tượng mã theo đường Sơn Minh ra làng Đại Áng (Thanh Trì) tiếp ứng cánh hữu.
Nghe tin Tây Sơn, quân Thanh dán cáo thị thách chiến nhưng Tôn Sĩ
Nghị không ngờ Quang Trung đã nhanh hơn ông tưởng. Chiến trận xảy ra dồn dập
như người ta lo Tết. Chưa hết ngày cuối năm Mậu Thân, quân Lê ở Sơn Nam đã tan
vỡ, du binh Thanh ở sông Thanh Quyết, sông Giản chạy tán loạn đến huyện Phú
Xuyên thì bị bắt trọn không ai về báo. Nửa đêm mùng 3 Tết quân Thanh ở làng Hạ
Hồi nghe tiếng loa gọi quân dạ như vỡ trời, hoảng hốt ra hàng. Mờ mờ sáng mùng
5 (30-1-1789) trận đánh quyết định xảy ra ở làng Ngọc Hồi. Cũng đồng thời Đô
đốc Long đánh quân Điền Châu ở Khương Thượng bức viên Thái thú Sầm Nghi Đống
chết ở gò Đống Đa mà oan hồn hẳn còn hận nghe lời mai mỉa của phụ nhân: “Sự
nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!”
Nghe bại binh, Tôn Sĩ Nghị “ngựa không kịp đóng yên, người không
kịp mặc giáp” cắm đầu chạy qua cầu phao về Bắc, bỏ lại quân sĩ bộ tướng chen
chúc gãy phù kiều, “hàng vạn người lăn cả xuống nước, sông không chảy được”.
Chiêu Thống ở Kinh Bắc từ trước lật đật chạy theo để không bao giờ thấy quê cha
đất tổ nữa.
Trận chiến thắng trọn vẹn một cách bất ngờ khủng khiếp này gieo một
ảnh hưởng rất lớn, thuận lợi cho Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị ném cả ấn tín, mật chỉ,
chạy cốt thoát lấy thân thôi. Toán quân chận đường đã làm cho cả một vùng biên
giới, dân Trung Hoa dắt nhau chạy loạn đến vắng ngắt7. Tình trạng đó tạo một
không khí thuận lợi cho việc giảng hoà giữa Thanh và Tây Sơn gây sự nể vì Quang
Trung của Càn Long.
Nhưng quan trọng hơn chính là sự đảo lộn tâm lý dân chúng trong
nước. Đám di thần nhà Lê ươn ngạnh thấy tận mắt chiến bại thảm thương phải lo
lẩn tránh, nín hơi lặng tiếng. Những kẻ chần chờ, lưỡng lự trước tín điều trung
trinh (với Lê) và tuỳ thời, thấy thay đổi rõ rệt như mệnh Trời ném xuống, quả
quyết bước vào con đường mới. Nguyễn Thiếp là một9. Trước đó, khi Nguyễn Huệ
kéo quân ra bắt Vũ Văn Nhậm, Thiếp ra chầu ở hành tại đã nói rõ là vì trung với
Lê nên không thể theo triều mới được. Thế mà năm sau (1789) ông đã sẵn sàng để
làm đề điệu coi thi ở trường Nghệ, biên thư cho “Thượng Đức” bày tỏ tình hình
dân chúng, lề lối cai trị, đề nghị sủa đổi chính trị, học vấn, tuyển chọn nhân
tài... Theo với ông, ta thấy có đám danh sĩ Nghệ An cũng ra phò tá Tây Sơn:
Nguyễn Huy Tự của làng Trường Lưu, Nguyễn Công (con trai Nguyễn Khản), Nguyễn
Thiện (con Nguyễn Điều) của làng Tiên Điền, hai họ danh gia vọng tộc của Hà
Tĩnh. Kế tới Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, Tiến sĩ Phan Tố Định. Quan hệ hơn một
bực nữa là sự đổi thay tâm lý của dân chúng vốn cũng chia xẻ những lý luận của
nho sĩ, tuy là phán đoán giản dị, thêm tình cảm nhiều hơn: “Ách Tây Sơn còn
được thích hơn ách quân Trung Hoa hay nói cho đúng thì sự thống trị của họ dễ
chịu hơn dưới các triều vua trước... thành thử nếu họ bớt bắt tàn nhẫn trong
vài trường hợp có lẽ chúng tôi không mong đổi họ với vị vua nào khác...”10.
Nhưng chiến tranh còn tiếp diễn thì thuế mà khó ngừng thu, binh dịch khó ngừng
bắt. Cho nên, “thuế má quá đáng đến nỗi nhiều làng xiêu đi” và “nhà nào có mấy
người thì bắt đi lính cả, nhà có 5 người thì đi cả 5 (không kỳ già nua trẻ
yếu)”.
Oai danh Tây Sơn, trong cũng như ngoài, làm khiếp đảrn một vùng Bắc
Hà. Duy trong cái không khí say sưa chiến thắng đó có lẽ có một người là thấy
một sự kiện xảy ra ở vùng lầy lội xa tít tận Gia Định có thể đe doạ cơ nghiệp
anh em mình đã tạo nên bằng mồ hôi nước mắt. Phạm Văn Sâm ở Ba Thắc đã tự đeo
gông cùm ra hàng Nguyễn Ánh, chấm dứt quyền cai trị Tây Sơn nơi này, báo hiệu
sự thịnh vượng ở đây sẽ từ từ nhưng chắc chắn tràn ngập phía Bắc không giải
quyết được nghèo đói, mâu thuẫn.
_________________________________________
1. Về ngày tháng, chứng cớ
của Lê Quýnh (Bắc hành tùng ký) chắc đáng tin hơn miễn là với một vài xác định
nhỏ thêm. Các giáo sĩ cho ta biết ngày quân Thanh vào Thăng Long là 17-11 thật
quá cách biệt với ngày do Lê Quýnh đưa ra (18-12-1788). Ta đoán chừng họ ghi lộ
ngày âm lịch vì các giáo sĩ cũng có dùng ngày âm lịch (sau này, ta thấy L.
Barizy cũng có một lần lầm như vậy). Ngoài ra, các ngày đánh nhau Tết Kỷ Dậu so
ra đều sít sao, không có sai biệt nào giữa các tài liệu hết.
Lê Quýnh cho quân Thanh chiếm
Kinh thành ngày 22 tháng 11 âl (19-12-1788). Nguỵ Nguyên (Sử Địa, số 9-10, t.
251) ghi tụt lại 2 ngày. Khác biệt có lẽ vì sự lựa chọn sự kiện khác nhau: Lê
Quýnh đợi vua về vào đền Kính Thiên trong thành mới coi là đã chiếm được Thăng
Long; Nguỵ Nguyên phía quân Thanh tính từ lúc quân Nghị thấy Thăng Long bỏ
trống. Như sự khác biệt ngày tháng đó cũng chứng tỏ cuộc hành quân tiến triển
rất chậm.
Ta thấy sách Hoàng Lê, t.
245, 246 thuật chuyện trước đó đến bờ bắc sông Nhị, chuyện sửa đền Kính Thiên
rước Nghị, và ghi thêm: “Hôm ấy ngày 11 tháng 11 năm Mậu Thân”. Hôm sau có lễ
thụ phong cho Chiêu Thống ở điện Kính Thiên. Nếu nghĩ rằng thời điểm quân Thanh
vào thành Thăng Long là quan trọng không nhân chứng đương thời nào có thể quên
được, thì ta đoán rằng ngày của Hoàng Lê ghi chắc là ngày “21 tháng 11” Mậu
Thân mà vì sao qua chép lại đã lọt mất một chữ thôi.
2. Các giáo sĩ còn cho ta
biết Quang Trung lên ngôi từ tháng 10 âl tức là ngày 8-11-1788 chớ không phải
ngày 22-12-1788 như sử ta chép. Chắc ý định lên ngôi vốn có sẵn mà ngày làm lễ
thì phải dời lại vì tin tức can thiệp của quân Thanh đưa về khiến Huệ phải dời
tới ngày xuất quân mới làm cho long trọng một thể.
3. Thư giáo sĩ Longer gởi cho
Julliard (A. Launay, III. t. 238.
4. Liệt truyện q30, 32b.
5. Bản Hoàng Lê của Ngô Tất
Tố. Ông Hoa Bằng (Quang Trung, t. 189, chú số 4) cho là Đại Đô đốc Bảo, Đô đốc
Long làm tướng Hữu quân, ghi của An Nam nhất thống chí (tên khác của Hoàng Lê),
cho biết Long là tên khác của Liệt truyện (q30, 33b) gọi Đô đốc Mưu. Không biết
bản An Nam của ông Hoa Bằng gọi Bảo với chức gì.
6. Tài liệu giáo sĩ cho ta
biết quân địch chết 50.000 người, tù binh độ 3.000, 3.400 người. Hoàng Lê nói
bắt đến hơn một vạn. Nguỵ Nguyên: hơn vạn người chết đuối, với Hứa Thế Hanh,
Trương Triều Long, quân ngựa của Tôn Sĩ Nghị trở về không đầy một nửa. Thanh sử
cho biết thêm người chết là Tổng binh Lý Hoá Long, Thượng Duy Thanh và 13 tướng
khác. Tù binh theo lời Nguyễn Huệ nói với Thanh là hơn 700 người.
Về phía thiệt hại Tây Sơn, sử
ta im lặng. Các giáo sĩ cho biết nội trong trận Ngọc Hồi có đến 8.000 người bị
giết trong đó có một sĩ quan cao cấp. Trong khi đuổi theo quân địch ở sông
Thương, Ngô Văn Sở cũng bị thiệt.
7. Liệt truyện q30, 35a. Cả
chuyện đánh Thanh là từ 32b-35b.
8. Ngay đến Hoàng đế Trung
Hoa cũng có vẻ nể vì tân Attila này vì ngài mới phong ông làm vua Bắc kỳ qua
trung gian một vị Đại sứ, quên cả việc 50 000 binh lính Trung Hoa đã chết vì
tay Tiếm vương năm ngoái chỉ trong một cuộc giao chiến... Tiếm vương không thèm
rời Nam kỳ để nhận sắc phong tại thủ đô chúng tôi và chỉ chịu phái một vị quan
thường nhân danh ông. Ông này mặc áo Chúa ông làm vị đại sứ Trung Hoa phải kính
nể”. (Thư ông La Mothe gởi ông Blandin, 20-1-1790, Sử Địa, số 9-10, t. 227.
9. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu
tử, sđd. t. 109-147.
10. Thư ông La Mothe gởi ông
Blandin đã dẫn.
11. Thư ông Eyot gởi ông
Blandin, 5-7-1789 (Sử Địa, số 13, t. 146, 148). In nghiêng là nguyên văn chữ
quốc ngữ.
Chương 4
HỌ NGUYỄN TRUNG HƯNG
Tiết 10
NGUYỄN PHÚC ÁNH CẦU VIỆN TÂY PHƯƠNG
Nguyễn Ánh, Tây Sơn và giáo sĩ * Nguyễn Ánh và Bồ Đào Nha * Cuộc vận
động của Bá-đa-lộc.
“Tháng 7... nghe Bá-đa-lộc ở Chân Bôn, vua sai người đi triệu về,
bàn bạc việc cầu cứu nước Pháp…”. Sử quan nhà Nguyễn chăm chú ghi chép việc xảy
ra (năm 1783) theo ngày tháng, hẳn không lưu ý lắm rằng họ vừa đề cập đến một
trong những sự kiện sẽ quyết định vận mạng chiến tranh.
Thực vậy, lúc bấy giờ trong ba phe đang chia nhau phần đông bán đảo
Đông Dương, trừ Trịnh đang nghiêng đổ tuy vẫn còn chút bề ngoài huy hoàng, 2
phe còn lại, Nguyễn và Tây Sơn đều biết rằng nếu lôi kéo được về phía mình đám
người mắt xanh da trắng đi trên những chiếc tàu đồng vững vàng ngoài đại dương
kia, thì họ có cơ hội kết thúc chiến tranh mau chóng hơn. Nếu chiến tranh có
làm các tay buôn xa lánh, không chịu chở tới đồng, sắt, lưu hoàng hay súng đạn,
tàu bè thì Nguyễn, Tây Sơn cũng biết phải tìm nơi đâu: nhóm giáo sĩ Tây phương
lẩn lút hay công khai dạy đạo Hoà Lan trong vùng họ cai trị.
Tây Sơn đã từng ve vãn giáo sĩ ở Quảng Nam (1774), ở Gia Định
(1783), nhưng vì sự cần thiết của chiến tranh, chiến tranh nổi loạn từ chỗ
không có gì khiến họ không những phải lấy nhà thờ làm nơi đóng quân, bắt tín đồ
đi lính, còn phá chuông, tượng chùa để đúc binh khí tiền bạc, lôi sư sãi đi
tòng quân. Cho nên từ chỗ nghĩ rằng Tây Sơn nổi loạn để khỏi bị bắt giẫm lên thập
ác, eắt cỏ cho voi ăn, vì chúa Tây Sơn là một người đi đạo - ý nghĩ thật là
ngây thơ giản dị - một người dân đã đi đến chỗ tưởng rằng “hắn ta mất đức tin,
là kẻ thù của đạo Thiên Chúa lẫn đạo Thần tượng”.
Thực ra Tây Sơn cũng đã thu dụng được giáo sĩ: có 2 linh mục thuộc
dòng Phăng-xi-cô, một người làm thầy thuốc, một người chỉ dẫn về toán học cho
Nguyễn Nhạc đến gần giữa năm 17862. Nhưng Manille không phải là nơi đúng chiều
hướng phát triển buôn bán, họ không thể có ích hơn 2 viên sứ giả của Nguyễn Ánh
ở Gia Định năm 1783.
Trong trận chiến giành giựt giáo sĩ này, các L.M được thổi phồng
khả năng và hoạt động thái quá đến có khi đem lại tai hại cho họ. Trường hợp
của L.M Ferdinand là nhột chứng cớ. Nguyên L.M d’Arcet ở Quy Nhơn được Nhạc cấp
một giấy phép cho tự do truyền giáo ở xứ này và để đổi lại ông đã hứa cuội với
Nhạc là sẽ vận động giúp chiến cụ. Thế rồi L.M Ferdinand bị bắt ở Gia Định đưa
về Quy Nhơn, không hiểu sao Nhạc lại nhận diện là d’Arcet - chắc là da trắng
mắt xanh, râu ria xồm xoàm như nhau! Nhạc quát mắng rầm rĩ: “Kìa tên L.M phản
bội... sau khi hứa đem đồng lại cho Ta, lại đi về nước rồi mang cho ông Chung
đồng và các chiến cụ để phá xứ Ta. Hãy đóng gông nó lại cho Ta!”.
Thực là oan cho viên L.M này đã gánh chịu tức giận của Nhạc thấy
binh sĩ mình chết vì lựu đạn, súng điểu thương gây ra, vì các giáo sĩ khác đã
giúp Gia Định tích cực hơn. Sử quan ghi vắn tắt hai người: Gia-cô-vi và Ma-nộ-ê
là dân Hi-ba-nho được lệnh sai đi Lữ tống xin binh giúp vào năm Quý Mùi
(1783)4. Chỉ sai có một chi tiết: Gia-cô-vi (tên thường dùng chỉ Jacques Liot)
không có can dự vào vụ này. Hai người sứ của Nguyễn Ánh là L.M Ginestar và thầy
giảng Emmanuel thuộc dòng Phăng-xi-cô.
Việc xảy ra ở Phú Quốc vào khoảng đầu tháng 7-1783. Nguyễn Ánh đến
hỏi Bá-đa-lộc tìm cách giúp đỡ lấy lại nước. Giám mục quay lại hỏi các L.M
Phăng-xi-cô ở đó xem thử Manille có thể giúp được gì không. Họ đều trả lời
“không” vì Manille không có quân lính. Nhưng Ánh nói mãi, G.M mới quyết định
gởi một người trong bọn đi Manille với một viên sứ giả để cầu viện hay ít ra
cũng tìm được chỗ trú cho vua. Vừa lúc ấy L.M Ginestar và Thầy giảng Emmanuel
muốn thừa dịp trở về Dòng nên nhận lời. Sứ bộ đi trên một chiếc ghe bầu chở đầy
Calaim (cá lầm?) định để bán hay đổi lấy gạo.
Nhưng họ không thoát lưới Tây Sơn giăng. Họ bị bắt dẫn tới Phạm
Công Trị (12-7-1783). Câu chuyện của P. Ginestar thuật lại cuộc gặp gỡ tra xét
làm chúng ta chứng kiến được một cuộc đấu trí giữa những viên sứ giả sa cơ mà
vẫn còn đủ khôn ngoan đối đáp vừa để tránh thoát tội mình, vừa trấn an kẻ địch
khỏi hư việc vua và một bên những viên loạn tướng cũng đủ tư cách tướng soái để
nhẹ nhàng khéo léo cật vấn kẻ thù cho biết tình hình đối phương.
Sau khi biết được mục đích đi sứ bại lộ nhờ tìm ra thư của
Bá-đa-lộc giấu trong thuyền mà không bắt tội các L.M đã nói dối “chỉ trông thấy
mặt vua đàng xa”, Phạm Công Trị đem họ về Sài Gòn dùng làm đầu đề khuyến dụ
giáo dân: “Ta không đòi hỏi các người đổi lại bằng tiền bạc gì hết mà chỉ để
các người biết ơn Ta và giúp Ta lập lại bình yên trong xứ. Các người đã biết
tại ai mà xứ sở lộn xộn rồi, nếu trong các làng các người có ai làm loạn, hãy
chạy báo cho Ta biết...”.
Tuy nhiên như Phạm Công Trị đã tiếc, vụ bắt này làm thoát mất hai
người quan trọng: ông Chủng và ông Cả. Ông Chủng thì đang do dự hết tính chuyện
theo sứ bộ đi Manille lại toan chạy trở ra Phú Xuân nhưng sợ Trịnh không dung6.
Ông Cả thì đang tìm chỗ đặt để đám tuỳ thuộc trong cơn biến loạn, nhưng
Chantaboun rồi Bangkok vẫn không được lại phải lênh đênh trên các hải đảo.
Nhân vật này thực khá đặc biệt. Đức ông Pigneau (x),
Pierre-Joseph-Georges Pigneau de Béhaine trong hiệp ước 1787, trong giấy chứng
nhận là đại diện toàn quyền cho vua Pháp ở Cochinchine, Giám mục d’Adran,
Bá-đa-lộc, Bi-nhu Quận công, đó là những tên được người ta gọi một giáo sĩ của
hội Truyền giáo Ba-lê ở cái xứ xa xôi này, vị giáo sĩ muốn đóng vai một “Giám
mục trong triều” của Nguyễn Ánh, người đã cố lẩn tránh khi người ta gán cho
danh hiệu ấy và thực ra cũng không bao giờ có thể trở thành một Richelieu Đại
Việt.
Cứ theo lời ông thì khoảng giữa tháng 12-1784, ông gặp Nguyễn Ánh
trên hòn Thổ Châu và Ánh đã quyết định theo tàu Hoà Lan đi Batavia nếu không có
ông cản kịp. Và trong khi trận Rạch Gầm chưa xảy ra thì ông đã ôm Hoàng từ Cảnh
để cùng Phó Vệ uý Phạm Văn Nhân, Cai cơ Nguyễn Văn Liêm, Trần Văn Học với đám
tuỳ tùng lênh đênh trên Ấn Độ Dương hướng về Pondichéry.
Đến bây giờ ông mới tỏ bày lập trường của ông. Ông muốn việc cứu
viện Nam Hà phải về tay một cường quốc Công giáo, gạt ra ngoài bọn Thệ phản Hoà
Lan, Anh. Ông muốn huấn luyện đứa bé ba tuổi trở thành một giáo dân kiểu mẫu để
cho thần dân nó sau này sẽ bắt chước noi theo.
Tuy nhiên dù trước kia cố tình chối cãi, người ta đã đồn ầm lên từ
cuối 1778 là Nguyễn Ánh sẽ đi Tây cầu viện với L.M Hồ Văn Nghị, một người thân
tín của Giám mục9, và khi qua Pháp vận động, Bá-đa-lộc đã đưa ra một tờ giấy uỷ
nhiệm của Nội các Gia Định cho ông quyền hành vô hạn, lãnh ấn, hộ vệ Cảnh để
xin viện binh Pháp; tờ giấy này làm ngày 10-7 Cảnh Hưng thứ 4310 (18-8-1782)
tức là khi Châu Văn Tiếp chưa lấy lại Gia Định trong tay Đỗ Nhàn Trập, Hộ bộ
Bá. Ý định cầu viện Pháp quả đã định từ lâu.
Mất công trông coi một đứa bé lên ba, Bá-đa-lộc được giữ trong tay
một món hàng quý giá mà các nước Tây phương đều thèm muốn. Anh quốc sai người
đến tận Pondichéry năn nỉ ông nhường lại Hoàng tử cho họ. Tiếng tăm về việc cầu
viện cũng lan tận Goa. Sự thật từ tháng 4-1780, viên Toàn quyền Bồ ở Macao, O
Fran Savier de Castro, đã gởi thư xin Bá-đa-lộc bảo Nguyễn Ánh gởi thư cho
thành Goa chịu thông thương với điều kiện thuận lợi. Đổi lại Macao sẽ đảm đương
lấy việc cung cấp cho Nguyễn Ánh những sự trợ giúp cần thiết11. Việc không đi
tới đâu nhưng khi Bá-đa-lộc ở Pondichéry cũng thấy rõ Goa thèm muốn Hoàng từ
Cảnh nên vội viết bức thư ngày 8-7-1785 cho Nghị viện Macao để “dân Bồ khỏi làm
rối các Phái đoàn”.
___________________________________________
1. Thư Pigneau. Pondichéry.
20-3-1785 (A. Launay III: t. 85.
2. Thư Longer gởi cho
Dufresne, 1-5-1786 (A. Launay III, t. 121).
3. Thư P.Ginestar. 1784,
BSEI. XV. t. 90, 91. Thư Pigneau, Bangkok. 5-12-1783 bổ túc tên Ferdinand bằng
Olmédilla. Theo ông, P. Ferdinand chết vì một vụ mê tín đàm tàu. Người giết ông
là “Ông Doc lanh”(?) vốn tàn ác, đã từng cướp bóc các người Trung Hoa nên bị
“Ông Long nhuong” kêu về Gia Định chém đầu. Chúng tôi phối hợp theo tin của
Ginestar, tuy viết thư sau nhưng ở Sài Gòn vùng Tây Sơn, tất rõ chuyện hơn
Pigneau ở Bangkok. Ông Chung: Ông Chủng. Nguyễn Ánh.
4. Liệt truyện q28, 8b, 9a.
chuyện Bá-đa-lộc.
5. Thư Pigneau 20-3-1785 dẫn
trước; thư L.M Ginestar 1784. L.M Castuera gởi cho L.M Trưởng tỉnh 11-7-1784
(BSEI, XV, t. 92-96). Lưu ý rằng theo Pigneau thì việc đi sứ là do 2 L.M chứ
không phải ông đề xướng. Thái độ thật là dễ hiểu: Pigneau vẫn còn muốn tránh
tiếng mình đã can thiệp vào chính trị. Chúng ta theo tài liệu của người trong
cuộc để thấy phần do dự, phần chủ xướng của Pigneau. Hai người sứ còn sống chứ
không phải bị giết như tin của Liệt truyện.
6. Thư Langenois gởi cho
Descourvières 14-11-1783: Pigneau gởi cho Descourvières. Bangkok, 5-12-1783,
thư Castuera nói trên.
7. .Thư Pigneau ở Pondichéry
30-3-1785 (A. Launay, III, t. 92). Thực lục q2, 4b. Liệt truyện q15, 17a .
8. Thư Pigneau kể trên và thư
ở Pondichéry 6-7-1785 (A. Launay, III, t. 154). Liệt truyện q15, 17b.
9. Thư Mgr Le Bon cho hội
Truyền giáo 21-12-1778 (A. Launay, III. t. 94).
10. A. Launay. III, t. 158,
159, 160.
11. A. Launay, III. t. 154.
Trong lúc Bá-đa-lộc ở Pondichéry thì một viên cai tàu Macao, Albert
de Souza, đi Manille đòi tiền vua Xiêm trở lại Bangkok và gặp Nguyễn Ánh ở đấy.
Ánh trao cho người này thư gởi cho Toàn quyền Goa. Không biết nội dung thư nói
gì nhưng Bá-đa-lộc cũng gượng nói rằng nếu người Bồ giúp binh thì công việc
truyền giáo của ông vẫn thuận lợi như thường1 (vì ông tin rằng đã nắm được
Hoàng tử Cảnh).
Việc cầu Bồ không phải chỉ vắn tắt giữa chừng như Thực lục đã ghi.
Antonio Vicenti Rossa ngày 2 tháng 9 Bính Ngọ (23-10-1786) đến Vọng Các dâng
thư của Toàn quyền Goa báo cho Ánh biết đã có sẵn 56 tàu chiến (?!) chờ ở đấy.
Biết Ánh trong tay Rama I, Antonio đút lót cho vua Xiêm 28 khẩu súng điểu
thương, 100 thước vải Tây để xin rước Ánh đi Goa2. Tuy rằng Ánh có nói rõ với
Bá-đa-lộc, cũng như với De Richery rằng ông không “nỡ lòng nào theo đó bỏ đây
nên phải uyển ngôn từ tạ”, nhưng tại sao ta lại thấy Antonio đi về mang theo
hai viên quan, trong đó có một người tôn thất với 15 lính hầu?3 Nguyễn Ánh không
theo Antonio được không phải vì không nỡ lòng bỏ Bá-đa-lộc, nhưng vì “Xiêm
vương hằng ngày cho người do thám” khiến ông “khó nỗi liệu toan” vậy. Vậy tất
Ánh không đi được đã sai người đi thay.
Ở Macao, người ta cũng hay biết nhưng điều kiện của một thoả ước
giữa đại diện Ánh và Toàn quyền Goa. Bồ Đào Nha sẽ giúp Ánh khôi phục ngôi báu.
Mỗi năm Ánh sẽ trả lại “vua xứ Goa” 10.000 đồng bạc và cũng chừng ấy cho “Hoàng
thượng” (Bồ). Thiên Chúa giáo được tự do truyền bá và được nhà cầm quyền giúp
cất nhà thờ bất cứ ở đâu cần tới. Tàu thuyền, tiền bạc ở Cochinchine một mặt in
phù hiệu Nam Hà, một mặt in phù hiệu Bồ. Ánh sẽ nhường các cửa biển, cho đặt
đại sứ... Chi tiết về điều khoản “cho người Bồ lấy người Việt” và về việc phân
biệt “vua xứ Goa” và Hoàng đế Bồ làm cho thoả ước có vẻ như thực, nhưng những
đòi hỏi đền bù quá quắt như “trả lại mãi mãi”, “cất nhà thờ bất cứ ở đâu” làm
ta thấy tiếng đồn đã quá sự thực. Việc không đi đến đâu vì như Pigneau đã nói
một cách khinh bỉ: “Tôi biết Macao không có một tên quân” và các sứ giả Nguyễn
Ánh hẳn thấy tận mắt thực lực của Macao.
Ở Pondichéry, Bá-đa-lộc không nghe lời Phạm Văn Nhân vì cho rằng
“Hồng-mao nhỏ nhen, không như Bút-tu-kê nhu thuận, chẳng nên cầu”4. Quả thực
ông là người Pháp! Nhưng nước Pháp với ảnh hưởng của Voltaire, của nhóm Bách
khoa, “quốc gia lạc đường”, nước Pháp đó không làm ông tin cậy bao nhiêu5. Cuối
cùng, tuy vậy ông vẫn chọn nước Pháp, nước Pháp còn vua, và trước nhất ông vận
động ở Pondichéry.
Toàn quyền Charpentier de Cossigny thế Coutenceau des Algrains tỏ
ra muốn giúp hơn6, nên gởi chiếc tàu Marquys de Castries do Riehery điều khiển
đi Poulo Panjang (hòn Thổ Châu) để tìm thư Nguyễn Ánh, nhân tiện thả ở đây 34
người đi theo Bá-đa-lộc trước kia, trong đó các Hồ Văn Nghị và Trần Văn Học.
Nghị báo tin cho Nguyễn Ánh hay và tàu hứa chở Nguyễn Ánh đi Pondichéry vào
tháng 12-1786. Ánh rối rít viết thư cảm ơn De Richery, De Cossigny, từ tạ không
đi được vì Xiêm vương canh gác gắt gao. Nhưng chẳng may cho Ánh, tàu De
Castries có nhiệm vụ khác là dò xét bờ biển Nam Hà từ vĩ tuyến 11-18, coi dân
tình có theo Nguyễn Ánh hay không, tìm cách hoạ đồ bờ bể, vũng tàu, xem xét Ánh
có khả năng gì, tướng tá theo có đông không; nếu Ánh vô tài yếu ớt, thuộc hạ
ít, thờ ơ thì về báo cáo mà không hứa gì hết7. Sức mạnh Tây Sơn lúc này đang
nổi lên như sóng cồn ở miền Bắc trách gì khi De Richery trở lại Thổ Châu trong
tháng 2-1787 khăng khăng không chịu chở Nguyễn Ánh!
Tàu De Castries qua Đông thì Bá-đa-lộc cũng đáp tàu Malabar qua
Pháp để vận động trực tiếp với Triều đình (7-1786). Theo ông vẫn là Hoàng tử
Cảnh, Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm với 40 người hầu khác.
Thực là một dịp để cho đám thượng lưu Versailles có đề tài ăn chơi:
họ tung ra một kiểu tóc, bài thơ phổ nhạc tặng ông hoàng Đông phương bé tí xíu
mà phải sớm lao đao.
Rốt lại ngày 28-11-1787, thoả ước Versailles ký kết, một bên là hầu
tước Montmorin đại diện Louis XVI và một bên là Pigneau de Béhaine thay mặt
Nguyễn Ánh. Các điều khoản phần lớn đã được vạch rõ trong tờ tuyên bố uỷ quyền
của Nội các Gia Định ngày 18-8-1782, đại lược có những khoản như sau: Pháp hứa giúp
Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu, 1.200 bộ binh, 200 pháo binh, 250 mọi Cafres (điều 2).
Đổi lại, Nguyễn Ánh nhường luôn hòn đảo Hoi-nan đứng trấn đường vào cửa Touron
(cù lao Chàm?), nhường cửa Touron để cho Pháp vương tuỳ ý xây dựng và cuối cùng
thêm hòn Poulo Condore (điều 3, 4, 5). Pháp được quyền tự do thương mại và hơn
nữa, độc quyền thương mại ở Nam Hà. Những chiếc tàu buôn ngoại quốc nào vào Nam
Hà phải có giấy thông hành của Pháp và mang cờ Pháp (điều 6).
Đính theo thoả ước, Bá-đa-lộc còn được Louis XVI uỷ nhiệm làm đại
diện toàn quyền bên cạnh Nguyễn Ánh. Mọi việc liệu định xuất quân, viên Tổng
trưởng Bộ Hải quân, tướng De Castries, trao toàn quyền cho De Conway ở
Pondichéry lúc bấy giờ đang trông coi quân lực ở Ấn Độ.
Mọi việc thu xếp xong, Pigneau xuống tàu Dryade về nước, rời
Lorient ngày 27-12-1787. Viên chỉ huy tàu De Kersaint được lời dặn bảo Louis
XVI “gởi gấm Giám mục và cậu bé Hoàng tử”, cho họ “những phương tiện thuận lợi
và thoải mái trong quyền hạn chủ tàu”, cho những người hầu Hoàng tử ăn cùng mâm
với sĩ quan11. Cách đãi khách thật là lịch sự và chu đáo như trong hơn thế kỷ
ăn chơi vừa qua của giới thượng lưu Versailles, nhưng Bá-đa-lộc có bớt tin
tưởng không khi cố nhìn vào tình hình Pháp lúc bấy giờ, khi nhớ rằng quyền điều
động đang trong tay một người bướng bỉnh, ương ngạnh như truyền thống Ái Nhĩ
Lan của ông ấy đã chứng tỏ?
Tuy nhiên tình hình Nam Hà được thông báo cho Pigneau biết thực
đáng khuyến khích: anh em Tây Sơn bất hoà. Nhưng Pigneau tin tưởng chừng nào
thì De Conway dè dặt chừng nấy. Ông bảo đợi chiếc tàu của De Richery về báo
lại. Ông gởi thêm hai chiếc tàu La Dryade và Le Pandour để dò xét tình hình,
tìm hiểu các cửa biển, các đảo nhượng địa...
Thế rồi từ việc quốc gia đại sự, người ta đi đến những công kích
riêng tư. Bá-đa-lộc nóng nảy, ngọt ngạo khuyên nhủ De Conway “phải biết coi
thường những lời bàn tán giấu dưới cái gọi là thận trọng, kỳ thực chỉ che đậy
yếu hèn” để De Conway nổi cáu trả miếng rằng ông “lấy làm kinh ngạc thấy một
giáo sĩ đáng kính lại chê là yếu hèn những người mà ông không bổ nhiệm và ông
cần phải tìm hiểu nữa”. Bá-đa-lộc lại viết thư cho De Montmorin báo cáo về thái
độ của De Conway “yếu kém sức lực và tinh thần, không phải chỉ không sửa soạn
gì hết mà còn tìm đủ cách cho cuộc xuất quân thêm khó khăn”. Mới có một tháng
sau ngày Bá-đa-lộc đến Pondichéry mà xảy từng ấy chuyện, tình trạng đổ vỡ thấy
rõ ràng.
Việc Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định, sai Hồ Văn Nghị đem tin báo
xin viện binh cấp tốc tới cũng không làm cho De Conway thay đổi ý kiến: thoả
ước Versailles chỉ là nhột trò đùa.
Việc không thi hành thoả ước làm cho các sử gia Pháp yêu nước sau
này thấy mất một cơ hội chiếm thuộc địa Đông Dương sớm hơn gần một thế kỷ, nên
nổi nóng gọi nhà cầm quyền lúc bấy giờ là “phản bội, lừa dối, phỉnh gạt”14.
John Barrow vài năm sau cũng tìm cách giải thích sự thất bại này của Pigneau và
tìm ra nguyên nhân ở câu chuyện một người đàn bà. Viên tu sĩ Pigneau nhận quả
có ghét một người đàn bà vợ viên phụ tá của De Conway đã lang chạ với chủ
tướng, nhưng bà ta cũng mang tinh thần chống đối 1789 để nhạo báng De Conway
phải chịu quyền chỉ huy của một Giám mục trong “đạo quân của Giáo hoàng”.
Nhưng duyên cớ chính phải tìm trong tình hình lụn bại của Pháp lúc
bấy giờ. Thời gian Pigneau qua Pháp là lúc nội tình Pháp rối ren16. Một mặt
chính quyền thấy cần phải cải cách, một mặt phải chịu đựng phản ứng của những
kẻ vẫn được hưởng đặc quyền nay bị truất đi: cuộc nổi loạn của đám quý tộc dòng
dõi nổ tung ngày 20-8-1786, cuộc hội họp của Hội nghị quý tộc (tháng 3,
4-1787). Tài chính kiệt quệ tới nỗi mười ngày trước khi ký thoả ước Versailles
Triều đình trù liệu vay 420 triệu đồng livres. Thêm nữa, trước đó hơn một tháng
(tháng 9, 10-1787) một đạo quân Phổ đã tràn vào chiếm đóng Cộng hoà Batave đánh
đổ đảng thân Pháp làm cho Pháp mất đồng minh trên mặt biển là yếu tố cần để giữ
thuộc địa.
Cho nên, để Bá-đa-lộc đi rồi, viên Trưởng văn phòng bộ Thuộc địa
mới bảo “do lệnh Vua”, cho De Conway hay rằng “không tính tới chuyện viễn chinh
Đông Dương”17. Việc đó đến báo chí đồng thời ở Pondichéry cũng biết18.
Bá-đa-lộc có biết không? Không rõ điều đó, chỉ thấy lúc về ông nói lại với
Nguyễn Ánh là “Quốc vương Đại Tây có tình thực giúp đỡ trong khi trấn quan hồ
nghi chẳng quyết”.
Nhưng như nhận xét của tờ Gazette nationale “không bao giờ tình
hình dễ dàng cho việc lập lại quyền bính cho ông vua mất ngôi đã trở về chiếm
năm tỉnh phía nam như bây giờ”. Thực vậy, tuy Nguyễn Ánh còn phập phồng lo sợ,
nhưng cũng đã có thể để lấy danh nghĩa “An Nam Quốc vương” nói với Đại Tây quốc
bằng một chút kiêu hãnh ngầm về cái ý tưởng thăng trầm quen thuộc của Đông
phương: “Nghe rằng đạo trời bỉ rồi lại thái, vận nước tán rồi lại hưng, lý đã
có thực vậy, thời nào lại không...!”
_____________________________________
1. Thư từ Ariancoupam,
12-3-1786 (A. Launaỵ. III, t. 161, 162)
2. Thư Ánh viết cho
Bá-đa-lộc, cho Toàn quyền Pondichéry, cho De Richery (xem Phụ lục). Thực lục
q3, 1ab, ghi việc vào tháng giêng Đinh Mùi (1787) so với tài liệu trên rõ là
sai với ngày tháng của các tài liệu đích xác khác kể trên. Hoặc có thể sử quan
ghi ngày Antonio lui tàu chăng?
3. Nhật ký của ông Letondal ở
Macao 1786 (A. Launay, III, t. 156). Thoả ước ở Macao kế tiếp sau cũng ở sách
này, các trang 157, 158. Bức thư chữ Nôm thứ 8 có câu: “Vả việc Cô-á Quốc sai
tàu sang cùng việc Ta sai phục sứ thì đã sai Khiêm Hoà hầu, Thiệm Mẫn hầu dụ
tường để sự” (chúng tôi nhấn mạnh)
4. Liệt truyện q15, 17ab.
5. Thư Pigneau từ Pondichéry
6-7-1785 đã dẫn.
6. Correspondance générale,
vol VII, t. 571 dẫn bởi Maybon (Histoire moderne. sđd, t. 213).
7. Correspondance générale.
vol VII. t. 567, dẫn bởi Maybon, sđd, 1. 216.
8. A. Launay III, t. 174.
175.
9. A. Launay, III: t. 168.
169, 170...
10. A. Launay, III. t. 197.
198, thư của bộ Hải quân gởi cho De Conway - 12-1787.
11. A. Launay. III. t. 177-.
Sự thực Nguyễn Văn Liêm, Phạm Văn Nhân. hoàng tộc và võ tướng đâu phải là tôi
tớ thông thường!
12. A. Launay, III, t. 183.
13. A. Launay, III. t. 184,
185, 187.
14. Trích dẫn bởi bài bình
luận sách Mgr D’ Adran của L.C. Louvet trong BEFEO, 1901, t.261. Ví dụ như tiếc
rẻ của Luro de Cultru trong Histoire de la Cochinchine française des origines à
nos jours, 1910, t.22.
15. G. Taboulet, “Le traité
de Versailles et les causes de sa non-exécution”, BSEI, XIII. t. 105.
16. Histoire de France, II,
Larousse. 1954, t. 72.
17. A Launay, III, t. 198.
18. Tờ Gazette nationale ở
Pondichéry, ngày 14-6-1789 (A. Launay, III, t. 1999).
19. Bản chụp ảnh bức thư chữ
Hán của Nguyễn Ánh gởi Louis XVI chữ được chữ mất (A. Launay, III, t. 204).
Nguyên bản dịch do G. Taboulet đăng trong La geste française, I , sđd, t. 214,
215.
Tiết 11
NGUYỄN ÁNH VÀ TÂY SƠN CỦA GIA ĐỊNH
Tổ chức giữ Gia Định của Tây Sơn * Nguyễn Ánh và Phạm Văn Sâm *
Tiếp viện của Nguyễn Huệ * Gia Định thoát khỏi tay Tây Sơn * Tổ chức cai trị,
phát triển buổi đầu ở Gia Định.
Phê bình cuộc tranh chiếm ở Quy Nhơn của Nhạc và Huệ, sử quan nhà
Nguyễn rút ra một kết luận chỉ rõ sự quan trọng của sự việc này như là nguyên
nhân mở đầu cho thời trung hưng của Chúa họ: “Từ đấy giặc lo gườm nhau, thế
giặc tan rã không rảnh để dòm ngó phương Nam nữa”1. Chúng ta đã phân tích tình
thế đó rồi. Tuy nhiên chúng ta phải xét xem Tây Sơn trong hai năm rưỡi chiếm
đóng Gia Định đã làm gì để củng cố thế lực họ ở đây, để xoá nhoà dấu vết ông
chúa cũ, để lôi kéo dân chúng về phía họ.
Dấu vết công việc còn lại thật là ít ỏi, nhưng cũng cho thấy tình
trạng lúng túng, thụ động của họ. Chúng ta đã biết người giữ Gia Định sau trận
Mang Thít là Đặng Văn Chân. Ông lo đề phòng biến cố có thể xảy ra do bọn di
thần nhà Nguyễn lẩn lút trong dân gian, nên dời dinh trại lên trên vùng đất cao
ở Cầu Sơn2 cách phía bắc trấn 7 dặm để dễ bề chống giữ. Trong năm 1786, ông đắp
dinh trại trên gò cao, còn dưới thấp thì xây cất phố xá, lùa các nhà buôn Sài
Gòn vào ở đó. Nhưng công việc cưỡng ép này không đi đến kết quả nào như ta đoán
biết, một phần vì nơi mới xa chỗ buôn bán quen thuộc cũ, một phần vì đầu năm
sau (1787), Đặng Văn Chân đã phải ra cứu Nguyễn Nhạc, bỏ dở công việc.
Ở Gia Định bấy giờ còn lại Tham đốc Trần Tú coi sóc công việc. Oai
võ đã hạ, binh thế đã yếu thì loạn lạc nổi lên: Lê Công Trấn, Phạm Điền mưu
đánh úp Bến Nghé bị lộ phải chết, trong khi xa hơn, ở Biên Hoà quân khởi nghĩa
của Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Nghĩa kéo dài tới ngày Nguyễn Ánh về4. Ngoài
ra còn phải kể tới Võ Tánh ở Gò Công mà lực lượng lan đến tận Kiến Hoà nhưng
không hẳn với danh nghĩa phò Nguyễn.
Xung quanh trấn mà Tây Sơn không giữ được nói gì ở những nơi xa
trong một xứ còn đầy rừng rậm, hoang vu với kênh rạch bùn lầy. Đám người Miên
trong thời kỳ này tất được hưởng sự tự trị rộng rãi để sau này, trước sự đe doạ
của quân Nguyễn Ánh, họ sẽ quay lại giúp Phạm Văn Sâm, người phụ tá cho Đông
Định vương Nguyễn Lữ khi anh em chia đất. Nguy hơn cho Tây Sơn chính là sự trở
lòng của binh tướng dưới quyền.
Tình hình đó được Giám quân Tống Phúc Đạm, Thị giảng Nguyễn Đô, Cai
cơ Tống Phúc Ngọc, Cai bạ Nguyễn Thiệm tới Long Khâu (Vọng Các, địa điểm của
làng Gia Long) trình bày cho Nguyễn Ánh rõ và xin Ánh trở về. Việc ra đi không
dễ dàng gì vì như ta biết, Xiêm vương sai canh gác gắt gao. Ánh ở Xiêm, thuộc
hạ có một số quân tướng theo hồi đầu 1785 và 600 người của Lê Văn Quân sau đó
chia nhau lập đồn điền để tự cung cấp, đóng thuyền bè ở Giang Khảm để chờ cơ
hội. Tất cả kéo nhau đi không thể làm lặng lẽ được.
Cho nên, lén về nửa đêm, để lại một số lớn quân sĩ ở Xiêm Nguyễn
Ánh tất đã nhìn vào tình hình chín muồi ở Gia Định, được khuyến khích bằng sự
bội phản của Nguyễn Đăng Vân. Người này biết đâu không làm môi giới cho Nguyễn
Văn Trương quay về hợp tác? Nếu không có thông đồng sẵn thì sao Trương lại sai
bộ tướng Hoàng Văn Điểm đi đón từ ngoài biển rồi tự mình dem hơn 300 binh và
hơn 15 chiến thuyền ra hàng? Như vậy là với 300 khẩu súng điểu thương do Mạc Tử
Sanh đưa về đến Hòn Tre, tiếp thu bọn cướp biển Hà Hỉ Văn cùng bộ tướng Thiên
Địa hội của ông ta6, Nguyễn Ánh tiếp thu được vùng Hậu Giang chỉ tốn có trận
đánh luỹ Trà Ôn do viên Tiên phong Chưởng cơ mới là Nguyễn Văn Trương điều
khiển thôi.
Được chiến thắng dễ dàng khuyến khích, Ánh đưa binh vào cửa Cần Giờ
trong tháng 9 âm lịch (1787) gây khích động dân tâm. Nguyễn Lữ lật đật bỏ chạy
về gò Mụ Lượng (hay gò Vãi Lượng)7 xây thành đất trú ẩn để Phạm Văn Sâm chống
giữ Sài Gòn. Viên Thái bảo này kháng cự mạnh tới nỗi Nguyễn Ánh phải dụng mưu
phản gián.
Nguyên quân Nguyễn có bắt được một chiến thuyền Tây Sơn chở viên Hộ
đốc tên Lý và người thiếp tên Thị Lộc. Ánh không giết lại hậu đãi rồi giả mật
thư của Nguyễn Nhạc nói Sâm kiêu hoành, sai Lữ dùng mưu giết đi. Thị Lộc được
lệnh cầm thư đưa Sâm. Sâm tưởng thật vội kéo cờ trắng lên gò Lượng định phân
trần. Không ngờ Lữ lại tưởng Sâm đã hàng Nguyễn Ánh bèn vội vã bỏ đồn chạy về
Quy Nhơn chết ở đấy, chấm dứt cuộc đời đáng thương, lạc loài, bất đắc dĩ của
con người dung thường giữa đám anh em vượt chúng, quấy đảo thời thế.
Phạm Văn Sâm từ nay đơn độc ở Sài Gòn lo việc chống cự. Quân Nguyễn
tưởng có thể lấn bước không ngờ bị đánh mạnh phải mở vây. Sử quan nhà Nguyễn
ghi trận thua này như là tự ý phe họ rút đi nhưng rõ ràng là Phạm Văn Sâm đã
thắng thế.
Trên đường rút về phía cồn Hổ8 quân Nguyễn đã thanh toán những
chướng ngại dọc đường. Ở sông Ba Vác, Điều phát Nguyễn Kế Nhuận của Tây Sơn
phải ra hàng. Ở Ba Lai, Ngự uý Tây Sơn là Nguyễn Văn Đồn dàn thuyền trên mặt
sông cản lại, Lê Văn Quân lẻn vào bên trong đốt lửa làm hiệu cho Hồ Văn Lân,
Nguyễn Văn Trị, Trương Phúc Giáo, Nguyễn Văn Tồn phục bên ngoài biết mà ập vào
hai mặt giáp công đánh phá9. Tưởng có thể chuyển bại thành thắng, quân Ánh lại
tiến đánh Mỹ Tho, gặp phải Phạm Văn Sâm đuổi vừa đến. Hai bên đánh nhau thật dữ
dội vì đối thủ của Sâm là một kiện tướng cũ của Tây Sơn: Nguyễn Đăng Vân, con
nuôi Nguyễn Huệ. Vân bị bắt, không hàng, mắng chửi rồi chịu chết. Nguyễn Ánh
phải bỏ chạy ra cù lao Hổ, còn có 300 người và hơn 20 thuyền, còn Hà Hỉ Văn và
bộ tướng thì lanh chân chạy tuốt ra Côn Lôn ở lì đó.
Tuy nhiên mặt trận mở rộng, Phạm Văn Sâm phải đương đầu với một
tình thế nguy nan. Thuộc tướng Nguyễn bây giờ có mặt khắp nơi. Tháng 10, Hồ Văn
Lân đánh ở sông Lương Phú đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Mân về giữ Thang Trông 10 bỏ
lại Chưởng cơ Chân, Tả hiệu Huấn trở thành Tiền phong cho quân Nguyễn. Nguyễn
Văn Trương, Đỗ Văn Hựu ghi thêm một chiến công bằng cách đánh tập hậu ở sông Mỹ
Lung đuổi Chưởng cơ Từ, thu thêm bộ tốt của Từ cùng vài mươi thuyền. Phạm Văn
Sâm, Nguyễn Ánh bây giờ lại đối đầu, kẻ ở Ba Lai, người ở Mỹ Lung.
_____________________________________
1. Thực lục q2, 22a, Liệt
truyện q30, 14b.
2. Vùng Cầu Sơn còn tên ở Thị
Nghè phía đường Hàng Xanh xa lộ bây giờ. Lưu … Sài Gòn thời bấy giờ ở quanh
vùng Chợ Quán.
3. Trịnh Hoài Đức, “Thành trì
chí”, Trần Kinh Hoà dịch, Đại học số 6 tháng 12-1961, t. 52.
4. Thực lục q2, 22ab cho việc
Tây Sơn bất hoà xảy ra vào tháng 7 âl (1786) và việc loạn ở Gia Định vào tháng
9 nhuận năm đó (sao không là nhuận tháng 7?). Chiến tranh bất hoà thực sự xảy
ra vào mùa xuân 1787 (xem chương trước). Trịnh Hoài Đức cũng đồng ý như vậy.
Biến loạn ở Gia Định có thể âm thầm nhen nhúm từ năm trước.
5. H. Cordier, Correspondance
générale de la Cochinchine, t. 209.
6. Liệt truyện q6, 12b.
7. Lượng Phụ của Thực lục,
Liệt truyện.
8. Hổ Châu của Thực lục, ở
cửa sông Hàm Luông. Xét theo đường lui quân, có lẽ không phải là địa điểm ở Sa
Đéc như tin tưởng thông thường. Địa điểm Hổ Châu của Phạm Văn Sâm sau này cũng
chứng tỏ như vậy: không lẽ Sâm ở Ba Thắc muốn về Bắc lại ngược dòng Tiền Giang?
9. Ngoài Thực lục, xem truyện
Lê Văn Quân, Liệt truyện q27, 2b, 3a.
10. Thán Lung của Thực lục.
Đó là tên đất Nôm theo âm đọc miền Nam: Than(g) Trông, địa điểm ở làng Phú
Kiết, Bến Tranh, Định Tường. Gọi như thế là vì ở đó, theo truyền thuyết, quân
Nguyễn có làm một vọng gác dò chừng Tây Sơn. Cũng vì xuất xứ địa danh như vậy
nên ở Hậu Giang cũng có Thang Trông, Vọng Thê (quận Huệ Đức, An Giang). Ta dò
theo tình hình chiến sự ở đây mà nhận địa điểm ở Định Tường, loại bỏ địa điểm
An Giang.
Quân Nguyễn phát
triển lần lần. Sâm về sông Mỹ Tho rồi lại về Sài Gòn trong khi Tôn Thất Hội
chiếm Ba Giồng, Hoàng Văn Khánh, Trương Phú Ngan, Nguyễn Văn Trương, Tô Văn
Đoái đắp luỹ ở Nước Xoáy1 dùng trái cau khô làm đạn bắn qua luỹ Tây Sơn bắt họ
phải lui. Cho đến đầu năm Mậu Thân (1788), trừ việc Cai cơ Hà Văn Lục giữ giồng
Sao bị Tây Sơn giết ở giồng Gầm, quân Nguyễn chia nhau chiếm giữ vùng Trà Lọt,
giồng Triệu2, giồng Sao, thu hẹp phạm vi hoạt động của Tây Sơn trong vùng Sài
Gòn, Mỹ Tho. Dinh Trấn Biên cũng lọt vào tay Lưu thủ Khoa khiến cho Phạm Văn
Sâm chỉ còn dựa vào thuỷ quân3 bảo vệ cho một số địa điểm bám víu trong đồng.
Nguyễn Ánh có thể tự phụ để viết thư khoe với J. Liot rằng: “Từ Ta đề binh phá
Tây đồ, thì bộ binh thâu phục Gia Định phủ các xứ, còn thuỷ binh nó thì trụ tại
Mỹ Tho cùng Bến Nghé, thắng phụ vị phân, thuỷ binh Ta thì ắt còn trụ tại Trà
Lọt...”.
Tình cảnh nguy ngập cho Sâm như vậy mà tin tức Quy Nhơn vẫn im lìm.
Nguyễn Nhạc không có phản ứng gì hết từ khi Nguyễn Lữ bỏ chạy về. Các giáo sĩ
đương thời giải thích thái độ ấy, cho rằng: “Nhạc không dám đến đánh Nguyễn Ánh
là vì sợ lúc vắng mặt, em ông có thể đến chiếm lấy kho tàng mà ông giấu ở ngôi
thành độc nhất này”5. Sự thực cả hai Nhạc và Huệ đều gườm nhau, giữ thế từng tí
một, Huệ muốn đánh Nguyễn Hữu Chỉnh cũng không dám rời Phú Xuân, lại trao quyền
cho Vũ Văn Nhậm mà bụng cứ phập phồng sợ viên Tiết chế này làm phản.
Tuy nhiên cả vùng Thuận, Quảng, Bố Chính, dân chúng đã lao xao về
việc Nguyễn Ánh quay về Gia Định. Nguyễn Huệ tất phải lo ngại. Theo lời Nguyễn
Ánh thì khoảng đầu năm Mậu Thân (1788), Tây Sơn - ta biết là Nguyễn Huệ đã gởi
“Thằng Hưng” đem đại binh vào cứu “Thằng Sâm” ở Sài Gòn khoảng tháng 3 âm lịch
trước khi họ ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm. Số lượng quân đội này, Thực lục ghi 30
thuyền, Letondal tăng đến 3-400 thuyền và cho rằng mục đích chỉ đi lấy lương
Gia Định cho mau rồi về thôi. Nguyễn Ánh cũng đề quyết với quân sĩ của mình như
vậy và cho rằng Phạm Văn Hưng chỉ vào vận lương, cứ cố thủ đi vài tháng hắn ta
sẽ lui về.
Nhưng lẽ nào quân Hưng vượt biển vào chỉ độc có việc lấy lương ở
một nơi nguy nan như vậy khi Nguyễn Lữ đã chạy về từ tháng 9 năm ngoái? Có thể
Ánh chỉ nói để trấn an quân sĩ. Việc Nguyễn Huệ giết Nhậm rồi vội vã về Thuận
Hoá đợi tin Hưng chứng tỏ nhiệm vụ dò xét, giúp đỡ nếu có thể - của toán thuỷ
binh này ở Gia Định.
Dù thế nào đi nữa, quân Thái uý Phạm Văn Hưng cũng đã hợp với Phạm
Văn Sâm đánh nhau kịch liệt với quân Nguyễn dằng dai hàng nhiều tháng để ở Phú
Xuân Nguyễn Huệ phải bồn chồn lo ngại6. Nguyễn Ánh lúc đó cũng vừa thâu phục
một tướng tài: Võ Tánh từ Gò Công, làm tăng quân số Nguyễn lên hàng vạn người.
Điều đó cho Ánh tin tưởng để nói với J. Liot rằng: “Nội tháng sáu Ta cũng đánh
được Sài Gòn mà chớ!”
Thực vậy, trong tháng tư, Nguyễn Ánh từ Sa Đéc sai Tôn Thất Huy, Lê
Văn Quân đánh luỹ Trấn Định7, dụ Cai cơ Tây Sơn là Viên mở cửa đầu hàng, bắt
được Chưởng cơ Diệu. Thừa thắng họ tiến đến Thang Trông đánh bắt Đô đốc Nguyễn
Văn Mân. Như vậy Tây Sơn đã mất căn cứ Mỹ Tho. Quân sĩ của họ chạy tán loạn vào
trong dân gian gây ra một mối đe doạ an ninh cho thôn xóm, cho tất cả đất Gia
Định một khi Nguyễn Ánh lấy được. Cho nên một mặt ông lấy lòng dân chúng bằng
cách ra quân lệnh cấm binh sĩ sách nhiễu tiền bạc, vợ con dân gian, để từ đó
dùng lợi lộc dụ họ đối đãi tốt với quân sĩ Tây Sơn, lôi kéo đám binh này về phe
mình: ai mà nuôi một binh lính Tây Sơn bỏ chạy về làng thì được miễn binh dịch
một nửa, hai người thì được miễn hết, ba người trở lên thì được thưởng. Mặt
khác, ông dụ binh Thuận Hoá bằng cách kêu gọi tinh thần địa phương của họ, nhắc
nhở đến mối liên lạc xứ sở của họ với dòng cựu Nguyễn xưa kia để họ an tâm phò
tá, gợi lòng nhớ quê, xa xứ của họ để họ ra hàng tòng quân theo về đất cũ.
Tây Sơn càng bị siết chặt: ở Đồng Nai, họ bị Nguyễn Văn Nghĩa phá
tan. Ở luỹ Ngũ Kiều, Đốc chiến Tây Sơn Lê Văn Minh bị Tôn Thất Hội vây chặt rồi
lại phải thua trận hoả công do thuỷ binh Nguyễn Ánh từ Ba Giồng tiến lên. Thế
là trận vây Sài Gòn bắt đầu.
Nguyễn Ánh đóng binh ở rạch Thị Nghè8 trong khi Phạm Văn Sâm dàn
binh từ chợ Điều Khiển đến chợ Khung Dung chống cự. Ánh sai Võ Tánh đi vòng
phía nam đồng Tập Trận thẳng tới Bến Nghé để chận đường lui quân. Hai bên giáp
công, Sâm không địch nổi phải bỏ chạy. Quân Ánh ca khúc khải hoàn vào Sài Gòn
ngày Đinh Dậu tháng 8 Mậu Thân (7-9-1788).
Phạm Văn Sâm ra cửa Cần Giờ không được vì Lê Văn Quân đã chận ở đó
rồi bèn về Hàm Luông rồi về Ba Thắc binh hai bên bờ sông đắp luỹ cự chiến. Ông
còn dựa vào đám binh Miên nổi loạn ở Trà Vinh, Mang Thít để làm thế nương tựa
chống đánh. Nhưng Nguyễn Ánh đến, Miên binh hàng phục. Việc binh ở đây giao cho
Tôn Thất Hội quản lãnh Vĩnh Trấn trông chừng Sâm không cho thoát ra các cửa
biển về được Quy Nhơn. Sâm ở đây cố thủ từ tháng 9 đến tháng giêng năm sau (Kỷ
Dậu 1789) không hi vọng gì ở cứu binh cả vì Nguyễn Nhạc thì lặng yên còn Nguyễn
Huệ thì bận chiến tranh với quân Thanh. Ẩn hết mùa gió bấc, đầu năm Kỷ Hợi, Sâm
muốn đem quân ra biển chạy thì bị phá ở cù lao Hổ. Đến lúc này Ánh cũng muốn
thanh toán xong Ba Thắc, “Nhứt chiến cho tuyệt hậu ưu”. Các danh tướng của Ánh
đều có mặt nơi đây: Lê Văn Quân, Võ Tánh, Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Trương. Ở cù
lao Hổ họ giết được Đô đốc Nguyễn Hùng, nhưng đổi lại Cai cơ Nguyễn Văn Mai và
Đỗ Văn Hựu bị súng bắn chết. Ở Ba Thắc Nguyễn Ánh nhờ một viên tướng cũ tên
Thanh Hàm hàng Tây Sơn nay phản lại nên đuổi được Sâm chạy về sông Cổ Cò. Còn
một toán binh cuối cùng ở cửa Mỹ Thanh lên tiếp cứu dưới quyền Tham đốc Trần
Hiếu Liêm, Chỉ huy Nguyễn Chuẩn thì bị phá tan. Chuẩn chết, Liêm hàng, Sâm thế
cùng lực kiệt cùng với bộ tướng đem thuyền bè khí giới mang gông ra phủ phục
hàng kẻ chiến thắng.
_______________________________________
1. Hồi Oa của Thực lục. Đó là
địa điểm Vàm Nao ở Tân Châu.
2. Giồng Phú Triệu ở Cái Bè?
3. Thư chữ Nôm đánh số 9, đề
ngày 6-1 Cảnh Hưng 49 (1788).
4. Thư số 10 đề ngày 15-1
Cảnh Hưng 49 (1788).
5. Thư Lavoué gởi cho Boiret.
Descourvières ở Paris từ Tân Triệu 13-5-1795 (BEFEO, 1912, t. 32).
6. Thư số 11, 20-5 Cảnh Hưng
thứ 49 (1788). Thực lục q3, 7b đặt chuyện vào tháng 10 âm lịch Đinh Mùi (1787),
thật quá sớm. Ông Letondal (RI, XIV, 1910, t. 53) viết thư ngày 7-11-1788 bắt
đầu chuyện này bằng câu: “Vào tháng 7-1788 viên bạo chúa ấy rất lo lắng về 3
hay 400 ghe mà ông gởi vào Đồng Nai”. Ông viết theo thư Labartette cho biết, như
vậy việc Nguyễn Huệ gởi quân đi vào Nam xảy ra trước tháng 7 dương lịch nhiều
tháng đúng như xác nhận của Nguyễn Ánh trong thư gởi cho J. Liot kể trên.
Thực lục cho rằng quân cứu từ Qui Nhơn
vào, nhưng Hưng là tướng của Huệ vì ta thấy sau này (1793), ông cầm quân Phú
Xuân vào cứu Qui Nhơn. Nguyễn Ánh chỉ viết “Tây Sơn là thằng Hưng”, Letondal
không biết tên Hưng, nhưng Olivier viết cho Letondal (thư ngày 15-7-1789, BAVH,
Oct- Déc 1926. t. 362) có nói Nguyễn Ánh bắt một tướng “do loạn tướng Huệ gởi đến,
tha tội rồi nghi ngờ gì đó, ông dem chặt đầu”. Olivier lầm Hưng với Phạm Văn
Sâm, nhưng lời đó thêm chứng cớ rằng Hưng đã được Huệ gởi đến. Có lẽ thấy cứu
không được, Hưng đã bỏ về trước khi Sài Gòn bị vây (tháng 6 âl) nên mới thoát
được.
7. Vùng Tân Hiệp bây giờ.
8. Nghi Giang của Thực lụcTên
các chợ thấy ở ĐNNTC, Lục tỉnh Nam kỳ cũng như ở Thành trì chí của Trịnh Hoài
Đức.
9. Thư Nôm số 12.
10. Cảnh Lộ giang của Thực
lục.
11. Thư Castuera từ Chợ Quán
11-6-1789 (BSEI, XV, La révolte, bđd. t. 100, 101).
Thế là sau hơn một năm trời lao khổ, Nguyễn Ánh đã quét sạch Tây
Sơn để làm chủ Gia Định. Trong khi hiệp ước Versailles chỉ còn có giá trị của
một tờ giấy lộn thì Nguyễn Ánh vẫn nghĩ rằng viện binh sắp về để tăng tiến thực
lực của ông. Kinh nghiệm những ngày chiến bại cũ làm ông quá lo lắng. Nhưng bọn
tuỳ tướng của ông như Nguyễn Văn Thành thấy cái hại của việc cầu viện người
ngoại quốc nên từ độ còn ở Xiêm đã khuyên ông không nên trông chờ gì ở ngoài.
Việc Nguyễn Ánh về Gia Định thắng ở đây trong khi nước Pháp không
đủ sức gởi viện binh đã là một sự kiện quan trọng.
Như nhận xét của L.M Castuera “dù là người Pháp không tới nữa thì
cũng gần như chắc chắn là trên bộ hay dưới nước gì người Tây Sơn cũng không
thắng được Vua, vì hai anh em họ bất hoà nhau và vì cuộc chiến mà một người em
phải chống với Tàu”. Quyền đã về tay Nguyễn Ánh ông phải tổ chức Gia Định như
một người chủ, biến đám đánh mướn dưới quyền Bá-đa-lộc thành bộ hạ tay chân,
đưa kỹ thuật mới vào trong nước cần thiết cho chiến thắng mà không có địa vị uy
danh gì để làm đảo lộn trật tự trong nước. Ý thức hệ cũ vẫn làm nền tảng cho tổ
chức xã hội đương thời. Dù Nguyễn Huệ, dù Nguyễn Ánh không ai có thể làm khác
hơn được.
Từ khi về, mỗi lần lấy một nơi chắc chắn là Nguyễn Ánh lo tổ chức
cai trị. Đất Hà Tiên bị tàn phá vì vốn là một đầu mối gây bất hoà với Xiêm nên
Nguyễn Ánh phó cho Mạc Tử Sanh, người vẫn tỏ lòng trung thành với vị chúa của
cha mình nhưng lại được Phật vương nuôi dưỡng, kẻ trung gian rất tốt trong tình
giao hảo Xiêm - Việt. Sanh chết, Ánh dùng một người Xiêm là Ngô-ma cho làm Cai
cơ trông coi trấn đó (hay là chấp nhận trấn thủ của vua Xiêm đề cử?) Vĩnh Trấn
dinh yên ổn hơn nên được đặt công đường cho Phạm Văn Thận làm Ký lục giữ.
Nhưng chiến tranh tiếp diễn thì ta thấy các tướng quân lãnh trông
coi luôn việc hành chính. Cho nên vừa đánh được Mỹ Tho lập công đường dinh Trấn
Định thì giữ việc dân, binh là các tướng Tôn Thất Huy, Tống Phúc Đạm, Phạm Văn
Sĩ. Việc đó chỉ là tạm bợ. Ở Sài Gòn, Nguyễn Ánh lựa các viên Tham mưu quân đội
chuyển qua các bộ Lại, Hộ, Hình để lập một triều đình. Việc khá quan trọng là
ông đã thu phục đám nhân sĩ do Võ Trường Toàn đào tạo hay ảnh hưởng gồm cả
người Việt, người Minh Hương, để giúp việc từ lệnh buổi đầu: Lê Quang Định,
Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Chu, Hoàng Minh Khánh... Noi theo tiết tháo của thầy,
hành đạo ẩn dật trong thời loạn, nay ra giúp việc, giúp đời, họ sẽ có đủ khả
năng và cứng rắn, tự tin để bênh vực đạo Thánh. Họ sẽ họp thành một khối vững
vàng để bảo vệ ý thức hệ Khổng giáo chống mọi xâm nhập khác.
Về việc cai trị ở đây, Nguyễn Ánh cũng gặp khó khăn gây ra vì nhóm
người Miên. Thực ra Miên binh dưới quyềncủa Nguyễn Văn Tồn ở Trà Vinh1 cũng
giúp Nguyễn Ánh rất nhiều trong việc đánh Phạm Văn Sâm. Nhưng họ bất thường nay
đầu mai đánh thật khó mà liệu định. Tướng Ốc nha Ốc theo Phạm Văn Sâm bị đánh
đuổi chạy về Cần Thơ gặp Nguyễn Văn Phong bắt giết. Lê Văn Quân và Võ Tánh giữ
Ba Thắc cũng không yên. Nguyễn Ánh đành phải đặt kế hoạch cho tự trị: ông đòi
hai tướng về rồi cho viên quan Miên về đầu là Gia-tri-giáp trông coi xứ ấy, phủ
Trà Vinh thì giao cho Ốc-nha Chích cai trị.
Tính cách phức tạp về chủng tộc, về quê quán làm cho việc kiểm tra
dân số cũng thêm phần phiền nhiễu. Việc kiểm tra lại cần có để giữ an ninh, để
định binh số mà bắt lính, thu thuế. Trước nhứt người ta kiểm điểm lập danh tính
những người tòng quân: quan quân các chi, hiệu, đội, thuyền cứ bằng vào tên
tuổi, chức sắc mà đưa về quê quán làm sổ sách. Về phía các tổng xã thôn phường
đều phải ghi vào sổ những người ở ngụ, ẩn lậu cùng với lính Tây Sơn trốn về.
Đám người không tư sản thì được ghép vào hạng cùng cố, miễn nạp các thức cần
cho binh vụ nhưng vẫn phải làm xâu như mọi người. Để đẩy mạnh việc kiểm tra dân
lậu, từ tháng 5 nhuần Kỷ Dậu (1789), Nguyễn Ánh lại cho phép thưởng người tố
cáo: dân tố cáo thì được miễn một năm xâu, lính thì được thâu nơi ấp trưởng,
người chứa chấp 40 quan tiền. Về mặt xã hội, các loại phù thuỷ, đổ bác, đồng
bóng, hát xướng đều bị cấm chỉ.
Tất cả những biện pháp khắc khổ đó đều để nhằm vào việc tổ chức một
quân đội mạnh đủ để giữ vững Gia Định. Việc tuyển binh cho ta thấy rõ sự cần
kíp đó. Từ tháng 10 Mậu Thân (1788), sau khi vào Sài Gòn, Nguyễn Ánh buộc dinh
Phiên Trấn tiên khởi trong việc bắt tráng đinh, cứ hai người lấy một lập thành
phủ binh, chia đội ngũ ra chỉnh bị đánh giữ. Quân được hưởng ưu đãi nhất là
quân bảo vệ Nguyễn Ánh. Theo lệ mỗi tháng họ được cấp một vuông gạo, 1 quan
tiền, áo quần hai thứ, lại được cấp riêng cho một người dân có tên trong sổ bộ
để sử dụng. Nhưng rõ ràng là không phải ai cũng được hưởng ưu đãi đó nên lính
trốn thật nhiều đến nỗi quan phải ra lệnh cho dân, quân ai bắt được thì thưởng
tiền, miễn xâu.
Những hoạt động binh vụ phải tựa trên một nền kinh tế dồi dào mới
có cơ trường cửu được. Ánh lại có kinh nghiệm cũ về những chuyến thương thuyền
Trung Hoa đem lái thịnh vượng cho đất này nên mở mang ngay một chính sách mời
mọc và kiểm soát các thuyền buôn. Theo bảng thuế lệ liệt kê ra, ta thấy đến cập
bến có các tàu Hải Nam (chịu thuế nhẹ nhất: 600 quan, ngoài lễ lạc khá nhiều),
Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Thượng Hải (cả hai chịu thuế nặng nhất:
3.300 quan). Quan quân chú ý những vật có liên quan đến binh dụng như đồ đồng,
chì, diêm tiêu, lưu hoàng, không cho buôn bán riêng tư các loại này. Các sản vật
trong nước cũng không được trộm chở đi. Ai thông đồng mua bán riêng tư với nhau
thì bị đánh 100 roi cấp làm dịch phu 3 năm, tịch thu tài sản. Nói tóm lại đó là
một chính sách kiểm soát khắt khe làm sao quân đội được sử dụng tài lực trong
nước đến mức tối đa.
Không ngồi đó để trông chờ tàu buôn đến bán binh khí, Nguyễn Ánh
sai các người trong nội viện đi Châu Thái2 mua súng lớn, đạn dược, lưu hoàng,
diêm tiêu... Ông viết thư cho J. Liot bảo ông này mời gọi tàu Tây tới bán binh
khí khỏi chịu thuế.
Việc phòng thủ cũng được tổ chức chu đáo, nhất là về phía biển, nơi
đột nhập của địch quân: các phong hoả đài được dựng lên ở Cần Giờ, Đồng Tranh,
Vũng Tàu. Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành lo đi tuần tiễu các cửa biển.
Thành Cá Trê, Vàm Cỏ được xây lại. Lê Văn Quân được phái đi đóng giữ Bà Rịa.
Cuộc tổ chức mới ở năm đầu mà cũng có vẻ vững chắc lắm4.
______________________________________
1. Truyện Nguyễn Văn Tồn,
Liệt truyện q28, 3a-4b.
2. Không biết ở đâu. Theo
nghĩa duy danh của chữ Châu Thái 珠 揉 có phải là một nơi khai mỏ ngọc, châu báu
ở bờ biển Xiêm, Mã Lai, Miến Điện?
3. Thư số 11 ở Phụ lục.
4. Những sử sự kể trong tiết,
trừ các xuất xứ khác có ghi, đều lấy từ Thực lục q2, 18b đến hết, q3, q4,
1a-15a.
Tiết 12
TIẾP VIỆN CỦA BÁ-ĐA-LỘC
“Je ferai seul la révolution” * Các tay phiêu lưu Tây phương ở Việt
Nam: vai trò, địa vị và ảnh hưởng của họ.
Phút đâu tàu đã chạy lên,
Buồm trương gió du [?] hai bên kéo lèo.
Tới nơi Bến Nghé gieo neo,
Dưới trên buồm cuốn xả lèo răng răng.
Đùng đùng súng bắn liên thanh
Chiêng cồng mừng rỡ vang râng dầy dầy.
Hai bên tứ diện đông tây,
Dưới trên thiên hạ dầy dầy đều coi.
Mừng tàu rày đã tới nơi,
Mừng Thầy lại với Con người đã sang.
Đó là những lời thuật chuyện đón rước Bá-đa-lộc và Hoàng tử Cảnh
của một tác giả vô danh nào đó. Cả hai cùng đoàn tuỳ tùng và 4 giáo sĩ bước lên
chiếc tàu La Méduse quá giang về. Ngày 28-7-1789 họ cập bến Vũng Tàu, ở đó đã
có Tôn Thất Hội đón rước. viên thuyền trưởng, Hầu tước De Rosily Meros cho bắn
15 phát súng, cho De Béhin và vài sĩ quan đưa lên. Luôn thể ông cũng tỏ một cử
chỉ bặt thiệp: “Tôi tưởng có bổn phận phải thêrn vào cho sứ bộ nhỏ bé này 2.000
cân thuốc súng để cho cậu Hoàng tử không có dáng trở về với hai bàn tay không
và để làm vui lòng Giám mục đã tỏ vẻ ước muốn chúng lắm”.
Hai chứng nhân ở hai địa vị có hai lối nhìn riêng về cuộc đón rước.
Nhưng tất cả đều là sự thực bởi vì chúng lộ cho ta thấy nhưng khía cạnh khác
nhau của sự thực. Sự thực là một bên ở phía Gia Định, ngoài tấm lòng của một
người cha “quan sơn vạn lý hoài niệm”, nay hân hoan thấy mặt con, còn có những
người dân lính, quan vua mừng rỡ được thấy bạn bè tiếp sức, đem từ phương xa
lại sự tin tưởng thắng lợi ở ngày mai. Sự thực là đám người trở về đó có lúc
cũng đã tin tưởng như đám người đón rước họ bây giờ, mà rốt lại lúc này chỉ là
“một sứ bộ nhỏ bé”, đi không lại trở về không.
Nhưng sự việc đã ném tung ra rồi thì nó sẽ mắc nối để lôi cuốn các
sự việc khác xảy ra tiếp. Cảnh đi cầu viện, các nước Tây phương đều biết. Duy
họ không can thiệp được vì chính họ đang phải lo gỡ rối cho họ, gỡ mối bòng
bong mà chính nền văn minh họ đã tạo ra.
Chính phủ đã không giúp ích gì được thì các tư nhân phân tích tình
hình theo lối nhìn riêng của họ đã bày tỏ sự tán đồng can thiệp. “Người Pháp
không can thiệp vào Nanh Hà thì thiếu dịp khác để thành lập một cơ sở vững chắc
và quý giá trên một xứ sở sẽ đem lại cho quốc gia một nền thương mại độc quyền
hơn 20 triệu đồng và đặc biệt là việc giao thương với Trung Hoa mà khỏi cần qua
Quảng Châu”4. Chính khi những dư luận đó trở thành những đề nghị cụ thể thì
Bá-đa-lộc mới có thể giận dỗi De Conway để nói thẳng vào mặt ông này là “Một
mình tôi cũng đủ làm nên việc đảo lộn”.
Trong chuyến từ Pháp về, Bá-đa-lộc ghé Ile de France viết thư cho
De Montmorin: “Ở đảo này, tôi đã thấy các nhà cầm quyền sẵn sàng nhận lãnh quan
điểm của Triều đình. Tất cả những gì có liên quan đến cuộc viễn chinh ở
Cochinchine đều phải tiên liệu từ chỗ này và đã xong rồi”5. Thực vậy, Bá-đa-lộc
tiếp tục đường về thì trong cuộc hội nghị ở Port Louis ngày 3-9-1788, các nhà
cầm quyền ở các đảo Ile de France, Bourbon đã ra tuyên ngôn xin tự do giao
thương với Cochinchine. Thế rồi trong một tờ trình gởi cho Quốc hội Pháp ngày
2-12-1790, dân chúng (?) các đảo đã nói: “Ở đây có những tay tình nguyện, những
bọn Cafres, tàu bè khí giới cho cuộc viễn chinh đó. Nhiều nhà buôn yêu nước của
thuộc địa này đã dâng cho Giám mục d’Adran tài nguyên của họ để giúp ông thi
hành một dự tính thật có lợi cho quốc gia Pháp”.
Quần đảo Côn Lôn nằm ngoài biển là nơi thuận tiện nhất để đón chào
các tàu thuyền Tây phương. Từ năm 1779, Nguyễn Ánh đã đặt ở đây những viên quan
mang chứng minh thư của “P.J.G. Giám mục d’Adran” giới thiệu với các thuyền
trưởng Tây phương, mời họ vào bến, cho tin tức. Chủ đích của Pigneau là đón tàu
Pháp nhưng Gia Định không cần phân biệt điều đó mà chỉ cần tàu Tây để giao
thương thôi7. Chính ở Côn Lôn là nơi vào tháng 9-1788 chiếc tàu La Dryade trong
sứ mệnh dò tình hình Nam Hà đã thả lại Hồ Văn Nghị và 1.000 khẩu súng mua cho
Nguyễn Ánh8. Lính thuỷ tàu Tây trốn xuống ở đây. Cũng ở đây vào cuối năm 1790
Nguyễn Ánh dùng làm nơi nuôi ngựa cho quân đội dùng.
Nhưng khi Gia Định đã bình yên thì Vũng Tàu hay chính Bến Nghé sẽ
là nơi đón các tàu, thuyền tiếp viện. Bá-đa-lộc gom góp tiền bạc, khí giới
lương thực chất lên các tàu ông thuê ở Ile de France và cả ở Pondichéry nữa nhờ
sự giúp đỡ của các nhà buôn như đã biết. Nguyễn Ánh làm chủ Gia Định rồi sẽ có
đủ tiền bạc mà đeo đuổi chiến tranh. Qua lời thư của De Guignes, Viên Lãnh sự
Pháp ở Macao, ta thấy ông đã làm trung gian mua cho Nguyễn Ánh nhiều chiếc tàu.
Và cũng từ Macao trong những tháng cuối năm 1789, 8, 9 chiếc tàu đi buôn ở
Cochinchine đã mang theo nhiều thứ khí giới quân dụng. Một trong những chiếc
tàu đó là chiếc la Garonne đã bán cho sứ giả Nguyễn ở Xiêm hai khẩu đại bác10.
Tất cả những chuyến mua bán đó làm cho Nguyễn Ánh có dưới quyền một số tàu
chiến Tây Phương quan trọng. L.M Jean de Jesus Maria viết thư từ Chợ Quán ngày
4-3-1790 ghi nhận Ánh có “khoảng 10 chiếc tàu Bồ và 1 chiếc tàu Pháp tất cả đều
là tàu buôn nhưng võ trang với đầy đủ khí giới quân dụng”11. Nhưng quan trọng
hơn cả là việc có đám người Tây phương giúp. Ở Gia Định có đến 140 sĩ quan và
80 lính Pháp. Một bức thư của Bá-đa-lộc ngày 18-7-1794 nói đến 40 người Âu
trong bộ binh, thêm vào chừng ấy nữa trên các tàu đồng12. Và không phải chỉ có
người Pháp mà thôi. Crawfurd vào Huế tháng 10-1822 thấy ở đó một bài vị người
Irlandais13. M. Đức Chaigneau ghi nhận có cả người Anh, Irlandais14.
_________________________________________
1. Trích lại của Thanh Lãng.
Biểu nhất lãm Văn học Cận đại, Tự Do xb, 1958, bài văn “Nhựt trình Đông cung ký
vãng Tây bang, tái hồi bổn quốc”, trang 51.
2. Thực lục, q4, 15b.
3. Trích lại của G. Taboulet,
“Le traité de Versailles”, BSEI. XIII. hđd, t. 103.
4. Tờ Gazette nationale đã
dẫn.
5. Thư ngày 14-4-1788 (A.
Launay, III, t. 178).
6. Văn khố Ngoại giao Á châu,
trích bởi Ch. Maybon, Histoire moderne, sđd, t. 268.
7. L. Gaide. “Notes
historiques sur Poulo Condore”, BAVH, Avr. 1925 t. 88. Chứng minh thư ghi Sài
Gòn ngày 10-8-1779.
8. V. Imbert. Le séjour en
Indochine de l’ambassade de L. Macarney. sđd, t. 2.
9. Thực lục q5, 7b.
10. Thư ngày 16-12-1789 (A.
Launay, III, t. 158, chú số l) Ch. Maybon, Histoire moderne, sđd, t. 270. H.
Cordier, Correspondance générale, sđd, t. 209.
11. “La révolte...” bđd,
BSEI, 1940, t. 101, 102.
12. Dẫn bởi G. Taboulet. La
geste française... sđd, t. 204.
13. Chuyện. J. Crawfurd do
Ch. Maybon dẫn.
14. Souvenirs de Huế, t. 18.
Binh lính Pháp phần nhiều là thuộc các đội thuỷ quân tình nguyện,
thu nhặt ở những gia đình trung lưu đã được hưởng một nền giáo dục tự do nên
chịu sự quyến rũ của khung cảnh xa xứ lạ để lăn mình vào những chiếc tàu đi đây
đi đó1. Số đông này kẻ trước người sau, có khi kẻ tới chán bỏ đi, người mới lại
lăn vào, tựu trung có một số hoạt động hơn cả mà sử quan Nguyễn còn ghi lại là
Đa-đột (Jean Marie Dayot), Ô-li-vi hay ông Tín (Alexis Olivier de Puynamel),
Ba-nê-ô hay Nguyễn Văn Thắng (J.B.Chaigneau), Lê Văn Lăng (De Forçan), Ba-la-di
(Laurent Barizy), Nguyễn Văn Chấn (Philippe Vannier), tất cả đều được chức Cai
đội.
Dayot được phong làm Trí Lược hầu tháng 6-1790. trông coi chiếc tàu
“Đồng Nai” và có dự trận thuỷ chiến Thi Nại 1792, là “linh hồn và chủ tướng của
thuỷ quân Nguyễn” như Giáo sĩ La Bissachère đã nói. Có thể tin được điều này vì
chính ông đã từng là chủ tàu Adélaid năm 1786. Nhân dịp theo thuỷ quân Gia Định
đánh Tây Sơn, ông đã đi dò xét các hải cảng xem nông sâu, trong khi Olivier
cũng làm việc tương tự định vị trí trên đất liền.
Với chức Vệ uý Thần sách Vệ ban và sau đó, Thuộc nội Vệ uý, làm Cai
đội trong quân Thần sách, một thứ chủ lực quân, Olivier đã có mặt nhiều nhất
trong sử sách nhà Nguyễn4. Chỉ là một binh nhì trên tàu La Dryade, ông trốn ở
Poulo Condore ngày 19-9-1788 rồi theo Hồ Văn Nghị phục vụ Nguyễn Ánh khi mới 20
tuổi dư hơn tháng. Ông dùng hoạ đồ của Le Brun - Khâm sai Cai đội Thạch Oai hầu
- và cùng ông này xây thành Gia Định theo kiểu Vauban. Ông tổ chức quân đội -
có lẽ trước hết là quân dưới quyền ông - theo lối Tây phương.
Chaigneau, Thắng Toàn hầu, đến chậm nhất (1794) và lại ở Việt Nam
sau rốt, đã thay J.M. Dayot vào cuối năm 1796 trông coi tàu Phi Long, có dự vào
trận Thi Nại 1801, hoạt động ở Quảng Nam, Huế sau đó và trông coi việc tiếp tế
cho quân đội ở Phú Xuân (sắc ngày 16-3-1802)5. De Forçan coi chiếc Phi Bằng
trong chuyến tấn công Quảng Nam, Huế (1801). Barizy, con người sôi nổi, càu
nhàu bất mãn nhất trong đám, đến Gia Định năm 1793. Ông đã từng được phong
Thành Trí hầu, giữ việc tiếp tế cho quân đội bằng cách liên lạc mua bán với Ấn
Độ Manille, Malacca. Ông sẽ giữ chiếc Thoại Phụng trong chuyến chiếm cửa Thuận
An (1801). Vannier tới năm 1789 cùng với Felix Dayot - em J.M. Dayot, chỉ coi
việc tiếp tế - ông coi chiếc tàu Phi Phụng với chức Cai cơ (1801) cho đến cuối
năm 1802 thì được phong Chưởng cơ Chấn Võ hầu.
Những người khác ít được biết hơn là J.M. Despiau, thầy thuốc trong
quân đội (sắc ngày 21-4-1799), người đã săn sóc cho Pigneau lúc cuối cùng, và
Desperles, viên thầy thuốc giải phẫu của tàu Le Pandour.
Tất nhiên ta không quên vai trò của Bá-đa-lộc và những vị linh mục
khác. Đám quan binh Tây phương hoạt động cho đến khoảng 1793-1794 thì rút đi
gần hết. Có nhiều lý do, trong đó có lý do tin Cách mạng Pháp chuyển sang giai
đoạn phản đế gây xáo trộn tư tưởng của họ và gây nghi ngờ cho Nguyễn Ánh. Nhưng
chính yếu là lý do họ thất vọng khi phục vụ ở Gia Định.
Chúng ta đã phân tích tâm lý đám người phiêu lưu Tây phương mong
mỏi nối bước Dupleix, Clive tới địa vị sang giàu của Đông phương thần tiên. Họ
cũng có thể thoả mãn chút ít nếu họ chịu phục vụ tới sau khi thắng trận như
Chaigneau, Vannier, De Forçan được thăng chức, cấp lính tráng hầu hạ... Nhưng
họ đến trong thời chiến tranh và phải phục vụ trong một xứ nghèo nàn, ở đó,
chưa kể tới đâu, người lính vừa đem thân đánh giặc vừa phải nộp thuế, rút lương
riêng để cung cấp quân nhu. Họ thất vọng là phải như Olivier đã nói năm 1793:
“Chúng tôi đã phục vụ vô ích cho Chúa xứ Nam Hà”. Ông than phiền rằng làm việc
cần mẫn, chiến thắng nhiều trận mà không giàu có được chút nào.
Đằng khác, chúng ta cũng nên lưu ý đến tư cách của bọn này. Thực
lục kể đến trận đánh Quy Nhơn 1793, khi binh ra tới Bình Khang, có nói đến đám
Tây-dương-nhân chung với lính Miên, lính Tàu đều tính “dữ tợn, hay rượu, khó
cầm”. Các L.M đương thời chỉ khen có Chaigneau còn thì chỉ trích lối sống sa
đoạ của Olivier và của những người khác, sống “vô đạo như đồ đệ của Voltaire”.
Không nên lấy làm lạ, đó là đặc điểm của lính đánh giặc mướn.
Tuy nhiên, Nguyễn Ánh còn cần tới họ nên đã cho phép họ được buôn
bán riêng lấy lợi khỏi thuế má. Olivier được buôn bán dọc bờ biển vùng Nguyễn;
năm 1799 ông đi Malacca bán một thuyền cau được 3000 đồng. Despiau năm 1800 đã
mua được của ông Chưởng dinh Hữu quân (?) một chiếc ghe chiến và xin phép
Nguyễn Ánh mua muối, các vật dụng khác và 30 vuông gạo để đi Ấn buôn mang cờ
hiệu Gia Định8. Chính đó là một quyết định khôn ngoan của Ánh: làm việc cho họ
mà đám phiêu lưu này vẫn có ích cho Ánh vì chính họ đã đóng vai trung gian cung
cấp vũ khí cho Ánh, tuyên dương uy thế của Ánh ở nước ngoài, nhất là các nước
lân cận9. Cũng ở nhiệm vụ giao dịch đó, chúng ta thấy họ cùng các linh mục là
những kẻ dò la tin tức Tây Sơn rất đắc lực vì họ có mặt khắp nơi trong, ngoài
nước, hiểu rõ tình hình vì ở lâu, biết đích xác sự việc, nhờ thói quen chuyên
tâm chú ý quan sát của người Tây phương. Hãy nghe Olivier trong một bức thư,
nhờ Letondal ở Macao dò la tin tức xung đột giữa quân Thanh và Tây Sơn
(15-7-1789): “Chính vì muốn biết trong chi tiết mới nhất về trận đánh ấy mà
Hoàng thượng hôm qua đã bảo tôi viết thư cho Cha, nhờ viên thuyền trưởng
Antonio Vincenti. Ý định của Hoàng thượng là muốn biết có gì đã xảy ra trong
trận đánh ấy, ý định người Tàu ra sao, lực lượng của họ thế nào. Ngài cho rằng
nhờ nơi hiểu biết về người Trung Hoa của Cha mà Cha có thể cho biết những tin
tức chắc chắn hơn từ nơi nào khác...”10. Cũng vậy, tin từ vùng Tây Sơn có thể
vô tình tới Gia Định bằng những cánh thư của các giáo sĩ Labartette, Longer,
Doussain ở Bố Chính, Thuận Hoá gởi cho Letondal ở Macao, Le Blandin ở Paris
chẳng hạn.
Nhưng quan trọng hơn nữa là việc quân nhân, giáo sĩ Tây phương có
mặt ở Gia Định cũng tức là đã mở cửa cho văn minh Tây phương tràn vào. Những
điều nói trên đã dẫn chứng một ít rồi. Chúng ta có thể nói thêm. Giáo sĩ De
Labissachère cho biết Pigneau đã dịch từ chữ Pháp ra nhiều quyển sách nói về
chiến thuật và cách phòng thủ cho Nguyễn Ánh đọc. Năm 1819, Chaigneau và
Vannier cho một du khách Anh tới Huế biết là Bá-đa-lộc đã dịch ra tiếng Việt
nhiều đoạn có ích nhất của tập Bách khoa và nhiều quyển sách khác dùng cho việc
cai trị quốc gia. Chưa hết, Giáo sĩ Cadière còn tìm thấy một tấm bản đồ ở Nội
các ghi tất cả những phần chính của một vị trí phòng thủ với một loại súng pháo
binh, vẽ từ một quyển sách nói về Vauban, xuất bản năm 1773.
Ảnh hưởng sự du nhập kỹ thuật, tư tưởng này thật là quan trọng
trong những ngày sắp tới, khi Nguyễn Huệ còn bận bịu củng cố phía bắc, bỏ lơ
cho Nguyễn Ánh có thì giờ khai thác Gia Định để lớn mạnh lên.
______________________________________
1. L. Malleret trích lại của
A. Faure. BSEI. X. chú số 1. t. 37.
2. Liệt truyện q28, 8b, 9ab.
Thực lục q6, 35a. Liệt truyện đã lầm gọi Dayot là Nguyễn Văn Chấn. Thực lục có
ghi Chấn coi tàu Phi Phụng mà theo Barizy người coi đó là Vannier. Vậy Vannier
là Nguyễn Văn Chấn. Dayot có tước là Trí Lược hầu có tên Việt thì phải là
Nguyễn Văn Trí. Thực lục q9, 3a có 2 tên Ba-lang-hi, Ba-la-di, Cai đội. người
Hồng mao (?), chắc cũng chỉ là Barizy.
3. G. Taboulet. La geste
française..., sđd. t. 250.
4. Thực lục q6, 35a, q7, 26a,
q10, 18a.
5. BAVH, Avr-Juin, 1922, t.
139 trở đi; Janv-Mars 1923, t. 43 trở đi.
6. G. Taboulet. Le geste
française... Sđd, t. 248.
7. Thực lục q6, 19a.
8. G. Taboulet, sđd. A.
Cadière, “Les Français au service de Gia long: Despiau”. BAVH, Juil-Sept 1925,
t. 185.
9. Thực lục có nói đến việc
cổng của các xứ Tà-nê ngoài các xứ Xiêm, Miên, Vạn Tượng. Thư Olivier
10-4-1798: “Vua phải liệu có vài người Âu bên cạnh để cho các nước tin cậy”.
(BAVH Janv-Mars 1923, về Chaigneau).
10. L. Cadière, “Les Français
au service de Gia Long: leur correspondance”, BAVH, Oct-Déc 1926, t. 363, 364.
PHẦN THỨ BA
GIAI ĐOẠN THANH TOÁN NGUYỄN - TÂY SƠN
(1789-1802)
Chương 5.
SỰ CỦNG CỐ ĐÔI BÊN Ở THẾ GIẰNG CO
Tiết 13
NHỮNG LỰC LƯỢNG CHIẾN ĐẤU
Tính cách chung của đôi bên * Tổ chức quân chính của Tây Sơn * Vai
trò bổ khuyết của những chiếc thuyền cướp biển Tề Ngôi * Tổ chức khai thác Gia
Định * Ưu thế vũ khí, công sự phòng thủ và thuỷ quân Nguyễn Ánh.
Trong 10 năm sau cùng của thế kỷ XVIII, ta thấy tình thế cát cứ có
vẻ đơn giản dần. Tuy vào năm 1789 chẳng hạn, nước còn chia ba với Nguyễn Huệ ở
Phú Xuân, Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn, Nguyễn Ánh ở Gia Định, nhưng thực ra chỉ có
Tây Sơn và Nguyễn đối đầu thôi. Những lực lượng gài nên thế phân tranh cũ tàn
lụi dần: Cựu Nguyễn biến mất với cái chết của Duệ Tông, Tân Chính vương, Di
thần Trịnh Lê thì tan rã sau trận Đống Đa, tản nát sống nhờ sự cô lập địa
phương hay chạy vào Gia Định đầu quân. Quy Nhơn sống lây lất, chỉ còn Phú Xuân
và Gia Định có động lực biến thành hai đầu nam châm thu hút các tay muốn tận
dụng khả năng mình trong chiều hướng thực tế.
Các đối phương đều tìm hết thế cách để lật nhau và trong tiến trình
đó càng đi đến gần nhau về lề lối tổ chức chính trị, quân đội, nội dung kỹ
thuật tranh chiến. Điều kiện chung của ý thức hướng dẫn tổ chức xã hội đương
thời bắt buộc như vậy, nhưng ban đầu họ cũng phải theo những quy định của hoàn
cảnh địa phương, của tình thế mà phát triển khả năng, vun bồi thực lực riêng.
Phía Tây Sơn chẳng hạn. Họ đi từ vùng núi phía tây, lấy sức mạnh
cường bạo nơi đám người Thượng, Trung Hoa khách thương liều lĩnh, nông dân Việt
đi khai phá đất hoang tâm tính trở thành hung dữ rồi truyền tấm lòng hăng hái,
nhiệt thành, tính chất vong mạng đó cho dân đồng bằng hiền lành chân chất2 gây
nên một cuộc đảo lộn dữ dội nhất trong nước. Nguyễn Huệ phải thú nhận tính cách
quân phiệt đó với Nguyễn Thiếp. Ngô Văn Sở ở Thăng Long nghe Tôn Sĩ Nghị sang,
lấy đó làm một dịp để diễu cợt quan Thị lang Ngô Thì Nhậm:
“Phải phiền ông làm một bài thơ để đuổi quân giặc. Nếu không thì
túi đao bao kiếm vẫn là phận sự của kẻ võ thần”.
Không phải chỉ với đám nho thần của triều đại cũ mà thôi, võ tướng
còn coi thường một số tin tưởng cũ nửa. Nghe ở kinh Đôi Ma có hai con ma hiện
về, họ đốt quan tài, đem súng đại bác bắn nát lùm bụi bên sông. Ở miền Bắc,
viên trấn tướng Nghệ An ngạo mạn trong lễ tế thần: “Chó còn có ích hơn thần Xã
tắc”.
Họ tự phụ cũng phải vì sự nghiệp này do công lao hãn mã của họ tạo
nên. Nhưng khi trút cái lớp cường đạo để trở thành kẻ điều khiển quốc gia thì
người ta phải thấy vấn đề phức tạp hơn nhiều để chịu đựng dung hợp với truyền
thống cũ. Mặt khác việc Tây Sơn bị đưa đẩy di chuyển trọng tâm tập họp tinh hoa
từ Quy Nhơn ra Phú Xuân rồi mong ngóng ngày về Phượng Hoàng Trung đô, đi ngược
con đường ly khai về nam cũ, chứng tỏ cái thế bắt buộc và ý muốn tự khuôn nắn
của họ.
Vị trí Nghệ An với hình ảnh công cuộc hợp tác giữa Nguyễn Huệ và
Nguyễn Thiếp nói lên tất cả những đặc sắc của triều đại Tây Sơn trong thời gian
xây dựng, phát triển tột cùng của họ. Quy Nhơn mới Việt hoá chỉ mang lại sức
mạnh cường bạo, Phú Xuân, Thăng Long thì đầy dấu vết các cựu triều, lại tàn tạ
với đám nông dân mệt mỏi trong loạn lạc hàng mấy trăm năm, với đám sĩ phu điều
khiển quốc gia ngắc ngoải trong cái học từ chương thiếu sinh khí. Nghệ An,
ngoài ý nghĩa là quê hương của chúa Tây Sơn, còn là vị trí ở giữa những ảnh
hưởng đối kháng, muốn giữ vai trò dung hoà mà không muốn bị lệ thuộc.
Cho nên khi Tây Sơn thấy cần thiết phải thuần hoá triều đại, thì
đến với họ không phải là Nguyễn Đăng Trường, Lý Trần Quán, Trần Công Xán... mê
đắm với triều đại cũ mà là Ngô Thì Nhậm lẩn trốn Trịnh chúa sau vụ án Canh Tý
1780, Phan Huy Ích nhục nhã vì cái tiếng “nhà nho nói khoác” của Nguyễn Hữu
Chỉnh gán cho. Nguyễn Huệ “tái tạo” Nhậm6, đem “cơ duyên”7 độc nhất đến cho
Ích, gây dựng cho những sĩ phu ít hay nhiều đã không gặp may mắn dưới triều
trước. Cũng nên kể vào hàng bất mãn với thời đại - bất mãn mới đi ở ẩn - đó là
xử sĩ Nguyễn Thiếp, ông già “vai cày, tay câu”.
Tất cả được khuôn nắn thâm hậu trong Nho giáo rồi tuỳ phản ứng cá
nhân mà lục tục phụng sự Tây Sơn. Đặc biệt là họ đã từng đứng ngoài triều chính
cũ, có dịp để phán xét, ít nhiều cũng không bằng lòng, nên làm quan với Tây
Sơn, họ đưa ra những ý niệm tổ chức xã hội, tuy vẫn là của Nho giáo, nhưng dưới
những khía cạnh lãng quên hay không biết đến ở các triều trước. Nguyễn Thiếp,
trong một bài biểu gởi Quang Trung8 công kích mạnh mẽ lối học từ chương, xa rời
thực tế, thấy lối thoát là trở về với tinh tuý Kinh Sách: “Ban đầu giảng Đại
học, rồi Luận ngữ, đến Mạnh tử, đến Trung dung, sau lại đến Ngũ kinh, Chư sử,
tuần tự mà tiến, đọc cho kỹ mà ngẫm nghĩ cho tinh”. Đi vào thực hành, ông chịu
vâng mệnh Quang Trung giúp việc dịch Kinh Sách ra chữ Nôm trong Sùng Chính thư
viện ở Vĩnh Kinh để phổ biến đạo học sâu rộng trong dân gian.
Cùng một chiều hướng hồi cố để thích hợp đó, Ngô Thì Nhậm dâng sớ
(1788) cho Quang Trung định cách cai trị, phủ nhận thể chế tập trung của Trịnh
Lê mà tuyên dương cái thế phân phong cho con em đồng tính cai trị các nơi theo
lối giữ nước của nhà Hán, nhà Chu9. Con đường giáo huấn mà Nguyễn Thiếp đề cao
“theo Chu tử” rồi Nguyễn Huệ cũng thuận “nhất định theo phép học Chu tử”10 và
lề lối tổ chức xã hội phong kiến của Ngô Thì Nhậm thể hiện giao điểm ý thức của
đám sĩ phu cũ tự cải tạo, thức tỉnh trước tiếng dội từ miền Nam ra và đám quân
tướng Quy Nhơn bơ vơ đi tìm ý thức hệ.
Triều chính Tây Sơn là cả một tính cách dung hoà đó mà yếu tố quân
sự lúc nào cũng giữ ưu thế. Thực là dễ hiểu khi nhớ lại quá khứ của họ và tình
hình sôi sục lúc bấy giờ.
Phải bắt đầu chấn chỉnh lại thì họ nhìn vào đám nông dân điêu linh
trong loạn lạc để sắp xếp việc làm ăn, kiểm soát dân số. Tờ chiếu “khuyến nông”
mà Ngô Thì Nhậm cho biết chính sách lúc bấy giờ, ra lệnh bắt về bản quán những
người ngụ cư chưa được ba đời, nhắm vào đám lưu dân vì loạn lạc, vì trốn tránh
giao dịch, để làng cũ có đủ tay sản xuất. Các sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng
phải làm việc kiểm tra số ruộng cày cấy, số ruộng bỏ hoang, số đinh thực tại,
làm sổ bộ dâng lên triều đình11, “nếu gian lận: coi người ở nhà như đi vắng,
coi người còn sống như chết, làm sót sổ dân, làm thiếu thuế đều phải chịu trọng
tội”.
______________________________________
1. Thực lục q5, 2a, q7, 13a,
14b, q9, 16b... Đó là trường hợp của Vũ Bá Diên, Đặng Trần Thường, Nguyễn Bá
Xuyến và những người do Nguyễn Đinh Đắc chiêu mộ ở Bắc Hà.
2. V. Imbert. Le séjour...,
sđd, t. 26.
3. Hoàng Lê, t. 240.
4. Do Trịnh Hoài Đức kể
(Aubaret, t. 189). Kinh Đôi Ma chảy từ chợ Rạch Kiếng (Long An) vào sông Vàm Cỏ
Đông.
5. Việt điện u linh tập, Lê
Hữu Mục sao, dịch, Khai Trí, truyện Thiên cổ Địa chủ Xã tắc Đế quân, t. 218;
bản dịch trang 57.
6. Hoàng Lê, t. 208.
7. Chữ trong thơ cảm hoài của
Phan Huy Ích, trích nơi Hoa Bằng, Quang Trung, sđd, t. 275.
8. La Sơn phu tử, sđd, t.
144-146.
9. Sớ bằng chữ Nho, lược dẫn
bởi Hoa Bằng, sđd, t. 277.
10. Chiếu theo Sùng Chính Thư
viện, La Sơn phu tử, t. 147. Chu tử là Chu Hy, một Tống Nho có danh trong phong
trào Tân Khổng giáo. Thuyết cách vật trí tri của ông lấy trong sách Đại học,
không phải hiểu theo nghĩa thực nghiệm mà là nghĩa trong kinh sách xưa, nhưng
cũng tỏ rõ được ý thức phục cổ, ý thức đẩy mạnh sự xuất hiện của Vương học, vừa
là phản ứng vừa là tiếp nối của Chu học.
11. Dẫn lại của Hoa Bằng
(Quang Trung, sđd, t. 283-285) lấy ở “Hàn các anh hoa” của Ngô Thì Nhậm. Người
ta cũng tìm được tờ chiếu khuyến nông của Quang Trung và Cảnh Thịnh sức dân
trung châu Bắc Hà canh tác (Tự Do, 1-11-62).
12. Lời nhắc việc làm sổ đinh
trong tờ sức về việc thâu thuế làm sản của dân tổng Hữu Đạo, huyện Thượng Du,
Nghệ An. Quang Trung thứ ba, 25-3 (9-4-1790). Cũng tìm được ở Nghệ An sổ khai
ruộng đất công tư của xã Võ Liệt (Thái Đức tháng 7 năm thứ 11 (1788) và sổ nhân
số của xã Võ Liệt (1792). (Tin đặc biệt miền Bắc của nhật báo Tự do,
19-1-1963).
Có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử dân ta mới gặp một chính quyền
cố thi hành hiệu nghiệm chính sách đến mức tối đa bằng cách bắt dân mang thẻ
“tín bài”. Đó là một tấm thẻ giữa in 4 chữ triện “Thiên hạ đại tín” chung quanh
viết tên họ quê quán của người có thẻ và có đánh dấu một ngón tay bên trái làm
bằng. Thẻ phải đeo luôn trong mình phòng khi xét hỏi. Không có là dân lậu phải
sung quân và xã trưởng, tổng trưởng của họ phải phạt tội. Để coi sóc công việc,
bộ máy hành chánh trong nước phần lớn nằm trong tay các võ tướng. Tự trên triều
đình, những chức Tam không, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư mã, Đại
tư không, Đại tư cối...2 mang vết tích của tổ chức Trung Hoa thời xưa đầy hùng
khí rất thích hợp cho tính cách quân chính triều Tây Sơn. Ở các trấn, trấn thủ
là quan võ và quan văn chỉ là “hiệp” trấn. Mỗi huyện có Võ phân suất và Văn
phân tri hợp với Tả Hữu quản lý coi sóc. Cách tổ chức cho ưu thế về võ quan này
có thể coi như lấy ý của Nguyễn Thiếp, nhưng chính Thiếp cũng căn cứ trên thực
tế để khuyên Quang Trung “chọn trong các bầy tôi lấy một viên thanh, cần, nhân,
dũng để làm chánh trấn, một viên sẵn có văn học để làm hiệp tá”. Đặc điểm này
được phái đoàn Macartney (1793) ghi nhận đúng: “Giai cấp quân sự đứng đầu hết
trong xứ rồi sau đó là các quan toà”.
Vì lẽ đó ta không lấy làm lạ khi thấy chánh sách chung là nhằm vào
việc thành lập một đạo quân hùng mạnh. Tuy không nhận Lưỡng Quảng thuộc vào địa
bàn cũ của người Việt trung châu Nhị Hà, ta cũng không thể phủ nhận ý định
chiếm đất này của Quang Trung5, ý định mở mang bằng việc dâng sớ đòi lại 6 châu
ở Hưng Hoá và 3 động ở Tuyên Quang6, xúi giục các thuyền Tề Ngôi cướp phá ven
biển Trung Hoa, rồi tiếp đến việc sứ bộ cầu hôn, xin đất do Vũ Văn Dũng lãnh đạo
(1792).
Xét nguyên nhân hiếu chiến, có người7 đã thấy tính chất Napoléon
của chế độ Quang Trung: dùng chiến thắng quân sự bên ngoài để đánh bạt sức phản
động của cựu chế, để bịt miệng những phản kháng bên trong do sự thoả hiệp của
chính quyền với một phần các lực lượng cũ khiến quần chúng cách mạng không bằng
lòng. Sự so sánh đó quá thô sơ đã quên mất những thực tế sống động, dồi dào,
riêng biệt của một trường hợp cụ thể. Chúng ta có thể tìm ra những nguyên nhân
chính yếu, xác đáng hơn, tương hợp hơn với hoàn cảnh đương thời.
Chiến thắng tương đối dễ dàng với quân Thanh sau những chiến thắng
liên tiếp ở các chiến trường khác là nguyên nhân tâm lý8 khiến Tây Sơn hướng về
Lưỡng Quảng. Trận Đống Đa làm e dè bọn biên thần nhà Thanh, mở đường cho những
văn thư ngoại giao trao đổi, đưa đến việc Thanh đế nhận Quang Trung làm An Nam
Quốc vương, quên mất tham vọng thừa nước đục thả câu chiếm lĩnh phương Nam. Một
bên là Phúc Khang An và Hoà Khôn, một bên là Ngô Thì Nhậm có Nguyễn Quang Hiển,
cháu Quang Trung, đến “gõ cửa thành”, việc hoà hiếu được mau lẹ tiến hành đầy
vinh quang cho Tây Sơn. Tiếp theo việc phong vương và việc ban nhân sâm cho mẹ
Quang Trung là việc sứ bộ Giả vương sang chầu lễ thọ bát tuần của Càn Long
(tháng 8 Canh Tuất 1790). Sứ bộ gồm Nguyễn Quang Thuỳ, Ngô Văn Sở, Đặng Văn
Chân, Phạm Công Trị và các văn quan Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn... với hai thớt
voi tiến cống tượng trưng “cái đinh” của quân lực Tây Sơn. Cuối năm 1790 sứ bộ
về nước sau khi hưởng được những ưu đãi đặc biệt hơn những sứ bộ trước. Thái độ
đó làm khoái trá, khiếp phục được các văn quan như Phan Huy Ích, nhưng tất đã
làm tăng uy thế của Tây Sơn và thêm phần kiêu hãnh cho đám võ tướng.
Trong nước lại bất an do các di thần cố Lê gây ra: Lê Duy Chỉ ở Cao
Bằng, Trần Quang Châu ở Bắc Ninh, Trần Phương Bỉnh ở Nghệ An... Nguyễn Ánh lại
là mối lo lớn nhất của Quang Trung cho đến khi nhắm mắt, tuy rằng ông chưa phải
thử sức trực tiếp với Gia Định trung hưng. Tất cả buộc Tây Sơn phải lo củng cố
quân lực và theo biến chuyển tự nhiên, họ bành trướng thế lực để bảo vệ thế lực
sẵn có.
Lực lượng họ như thế nào? Sử quan ghi vào khoảng tháng 3 Nhâm Tý
(1792), Quang Trung tính đem 2-30 vạn quân đánh Gia Định (nghĩa là quân số còn
có thể hơn thế nữa). Theo lối kiểm soát dân số đã nói và việc lấy 3 suất đinh
một lính, một khách ngoại quốc thấy là “số người trong quân ngũ rất đông”.
Riêng ở Huế đã có 30.000 người luyện tập hàng ngày. Họ võ trang bằng dao găm,
giáo mác, súng điểu thương, rất nhiều súng ngắn có miệng loe ra kiểu thế kỷ XVI
của Tây phương (có lẽ mua lại) và súng bắn phải mồi lửa do họ tự chế (hoả hổ?).
Người Anh đi lạc trong thành Quảng Nam không thấy có một khẩu đại bác nào,
nhưng chúng ta biết họ cũng có súng lớn - và có nhiều là khác khi chiếm được
của Nguyễn, Trịnh, của quân Thanh - hàng 2-3.000 khẩu
Lực lượng chủ chốt của bộ binh là đám chiến tượng tập luyện hàng
ngày mà các võ tướng rất tin cậy ở khả năng chiến thắng và Tôn Sĩ Nghị phải lo
đề phòng trước. Gia Định cũng e dè số lượng 300 con voi ồ ạt dày xéo trên đường
tấn công14. Tượng quân quý báu ở tính chất đa hiệu của nó: voi là lực lượng vận
tải không những quân lương, binh sĩ mà còn là vũ khí nặng nữa; voi là lực lượng
tấn công kiến hiệu - như một thứ thiết giáp binh có đại bác hỗ trợ.
Mọi chi phí gìn giữ quân lực này rõ ra là rất lớn. Thế mà như ta đã
biết, vùng Tây Sơn trong cấp thời lại với lề lối khai thác nông nghiệp cổ điển
trên đất đai đã tận dụng, không thể nào sản xuất đủ để cung cấp như Nguyễn
Thiếp đã trần tình: “Nghệ An đất xấu, dân nghèo. Về trước chỉ chịu xuất binh
chứ không phải chịu tiền gạo, nay thì binh, lương đều phải xuất. Số lính ngày
một tăng bội. Kẻ cày cấy thì ít mà kẻ đợi ăn thì nhiều...”. Trong ý nghĩa đất
đai kiệt lực đó, ta hiểu được danh từ phong thuỷ ngày xưa chỉ về một vùng đất
“mất hết vượng khí” như chữ dùng trong văn thư ngoại giao Tây Sơn - Thanh để
chỉ đất Thăng Long15. Đòi đất Lưỡng Quảng là tìm đất mới thay đất cũ đã kiệt
lực, là tìm cách giải quyết những khó khăn gặp phải trong thời kỳ xây dựng vậy.
Cho nên, việc đánh chiếm kinh đô Vạn Tượng vào năm 1791 của bọn Trần Quang
Diệu, ngoài ý nghĩa phá mối lo bị đánh tập hậu, quân Tây Sơn còn tìm của cải
ngựa voi, nghĩa là những thứ nuôi dưỡng, tăng gia binh lực mà Ai Lao đáng lẽ
hàng kỳ hạn phải nạp với thể lệ triều cống.
______________________________________
1. Hoàng Lê, t. 270.
2. Liệt truyện q30, 40b.
3. La Sơn phu tử, sđd. t.
141, 142.
4. V. Imbert, Le séjour...
sđd, t. 28.
5. Quang Trung... sđd, t.
310-315, t. 320-329 trích thư đòi 6 châu, biểu cầu hôn, chiếu sai Vũ Văn Dũng
đi sứ. Sứ bộ Macartney cũng nói Nguyên Huệ “có nhiều mộng lớn mà một là chiếm
lấy một phần nước Trung Hoa và ông không ngần ngại tìm đủ mọi cách để thành
công” (sđd, t. 17). Hoàng Lê, t. 271.
6. Hoa Bằng nói đòi 6 châu
nhưng tờ sớ dâng Càn Long có trích trong sách Quang Trung... lại kể đến 7 châu.
Ông Lý Vân Hùng lại nói đến 16 châu (Sử Địa, số 13, t. 135-142) và cho rằng sở
dĩ nhà Thanh trả đất là vì Quang Trung chịu lập đền thờ Sầm Nghi Đống (nhưng
ông không cho biết ở đâu nói như vậy).
7. Lương Đức Thiệp, Việt Nam
tiến hóa sử, Liên hiệp, 1950. t.102-105.
8. Hoàng Lê, t. 256.
9. Việc Giả vương là ai thì
còn mù mờ. Tây Sơn thuật lược (bản dịch ở Sử Địa số 7-8, t. 161) cho là Đô đốc
Nguyễn Hữu Chẩn, một tên hết sức xa lạ. Hoàng Lê cho biết Ngô Thì Nhậm chọn
được Nguyễn Quang Trị làm quần hiệu (?), người làng Mộ Điền, huyện Nam Đàng,
Nghệ An. Liệt truyện q30, 39a chỉ đích xác Phạm Công Trị người có mặt ở Gia
Định năm 1783. Rắc rối là trong sứ bộ qua Thanh năm 1790 lại có tên Phạm Công
Trị đã đến Quảng Tây mà vì Nguyễn Quang Thuỳ bị bệnh phải theo hộ tống trở về.
Càn Long cũng được thông báo việc này (Đại Việt quốc thư, Bộ QGGD, t. 270).
10. Hoàng Lê, t. 262-265.
Liệt truyện q30, 35b-39a.
11. Liệt truyện q30, 42b.
Hoàng Lê, t. 267-271.
12. Thực lục q6, 3a.
13. V. Imbert. Le séjour de
l’ambassade... sđd, t. 23-25, t. 40. Hoàng Lê, t. 270. Trước đó, khi ra Bắc
chuyến đầu, Nguyễn Huệ đã biết tìm cách thu dụng giới tiểu công nghệ để góp sức
vào việc chế tạo vũ khí, gia tăng tiềm năng quân sự. Hoàng Lê, t. 100, nói việc
Huệ “sai tìm thợ sắt”. Xem thêm Sử Địa số 9-10, t. 225.
14. Thư Lelabousse ở Gia
Định, 13-12-1970 (A. Launay, III, t. 278).
15. Hoa Bằng, Quang Trung...
sđd, t. 222, 224, 226.
16. Liệt truyện q33, 27a,
28b. Hoàng Lê, t. 269.
Một con đường khác có thể mở ra cho họ là giao thương với bên
ngoài. Thế mà tình trạng giao thương ở miền Bắc Đại Việt lúc bấy giờ như thế
nào? Chúng ta đã thấy nơi khác những biến cố khiến thương nhân Trung Hoa và Tây
phương xa lánh Tây Sơn. Tình trạng đó vẫn chưa kịp xoá bỏ. Tuy Quang Trung đã
mở được các chợ ở ải Bình Thuỷ (Cao Bằng), Du Thôn (Lạng Sơn) và nhà hàng ở Nam
Ninh (Quảng Tây) để buôn bán với Trung Hoa “khiến hàng hoá không ngưng đọng,
lợi cho dân dùng”1, nhưng vấn đề không phải chỉ là giao thương với Trung Hoa
trong lục địa mà là sử dụng các hải cảng trong nước, gần từng địa phương một
hơn để mong thừa hưởng chút tiến bộ kỹ thuật Tây phương.
Phái đoàn Macartney tới nhận thấy ở Tourane có những ghe thuyền
Trung Hoa, những thuyền đi dọc biển của Macao theo kiểu Tây phương nhưng nhỏ bé
và không võ trang. Ở đây người Bồ nắm hết việc buôn bán còn sót lại, mà cũng
chỉ mua vét các chợ ở Quảng Châu đem bán lại thôi. Cho nên khi Macartney tới,
viên trấn thủ ở Quảng Nam nài nỉ người Anh bán khí giới và đạn dược, lộ cho họ
thấy rằng Tây Sơn cần được giúp với bất cứ giá nào!.
Quang Trung trước khi chết cũng tính gởi giáo sĩ Labartette đi
Macao mời gọi người Tây phương tới buôn bán. Giữa khi người Âu còn e ngại với
Tây Sơn thì Gia Định mở rộng cửa buôn bán, lôi cuốn các tàu tấp nập ghé bến
Đồng Nai, chỉ còn sót những chiếc tàu bất mãn với Nguyễn Ánh mới quay ra giao
thiệp với Phú Xuân thôi: cũng Labartette cho biết có một tàu Macao, một tàu
Manille đem bán cho Quang Trung 100.000 cân lưu hoàng3. Vì vậy cho nên đường
cát rất nhiều và rất rẻ ở Quảng Nam mà không trở thành một món hàng xuất cảng
như ở Biên Hoà trong khi trước nội chiến, Tourane nườm nượp những ghe trọng tải
từ 40-150 tô-nô đến chở cau, đường mà riêng thứ sau mỗi chuyến đem đi hàng 40
ngàn tô-nô.
Kết quả là hiệu năng vũ khí kém đi với những khẩu súng nhồi bằng
thuốc đạn Trung Hoa không bắn xa bằng thứ cùng loại ở Gia Định nhồi bằng thuốc
đạn Tây phương. Lực lượng quân sự phía mặt biển yếu thấy rõ. Tây Sơn phải tìm
cách bù đắp. Bọn cướp biển Tề Ngôi bổ túc vào sự thiếu sót đó.
Thực ra sau khi làm chìm chiếc tàu Macao tịch thu được của người Bồ
bị bão dạt vào Quy Nhơn, Tây Sơn cũng cố gắng phát triển thuỷ quân. Nguyễn Huệ
đã cho đóng những chiếc “đại-hiệu-thuyền” có thể chở nổi con voi5. Có lẽ đó là
những chiếc tàu mà người Anh đi lạc vào thành Quảng Nam chuyến tháp tùng phái
bộ Macartney đã nhìn thấy và ước lượng đến 150 tấn trọng tải và chắc cũng là
loại tàu Định quốc mà Vũ Văn đem án ngữ ở cửa Thi Nại trong trận thuỷ chiến
1801. Nhưng chúng ta hãy nghĩ tới những chiếc tàu bọc vỏ đồng của Nguyễn Ánh rõ
là có sức chịu đựng hơn nhiều. Cho nên các thuyền Tề Ngôi vừa giữ nhiệm vụ tiếp
tế cho nội địa vừa chính là một bộ phận của thuỷ quân Tây Sơn để quân bình yếu
kém vậy.
Tề Ngôi hải phỉ là gì? Có khi gọi là Ô Tàu hải phỉ, danh từ được
thấy ở Thực lục chỉ rõ đám cướp biển Đông gồm có hai nhóm: giặc Tàu Ô ở vùng
Lưỡng Quảng và Thiên Địa hội ở Tứ Xuyên (nên nhớ Hà Hỉ Văn thuộc Thiên Địa hội
đã hoạt động ở vịnh Xiêm). Các đầu mục được Quang Trung phong chức Tổng binh
(hay Thống binh) cho đi cướp phá khắp nơi. Thực lục và Liệt truyện cho ta biết
một số tên các người này như: Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng, Phiền Văn Tài...
Và đặc biệt là người cầm đầu xưng Đông hải vương Mạc Quần Phù.
Là quan Tây Sơn nên sào huyệt họ ở ngay trên đất liền, khi Nguyễn
Ánh tiến đánh thì họ bỏ thuyền chạy bộ để bị bắt sống. Phạm vi hoạt động của họ
lan xa đến nỗi Nguyễn Ánh lần đầu bắt được thuyền Tề Ngôi vội vã sai sứ đem cho
Xiêm để tuyên dương uy thế của mình. Kỹ thuật thuỷ chiến tinh vi nên Tây Sơn
dùng họ chống đánh thuỷ quân Nguyễn Ánh. Ngay từ trước khi Nguyễn Huệ chết, hơn
40 thuyền Tề Ngôi men theo ven biển Bình Khang, Bình Thuận vào khuấy rối. Trận
đánh cuối cùng dữ dội nhất ở Trấn Ninh (1802), thuỷ quân Tây Sơn gồm toàn các
thuyền Tề Ngôi. Đó chỉ vì chiến tranh càng kéo dài ra, thuỷ quân Tây Sơn hoặc
phải đồng hoá các đơn vị Tề Ngôi, hoặc phải tổ chức như họ. Cho nên, trong trận
Đà Nẵng, Võ Tánh bắt được hơn 20 Tàu Ô và tướng của họ không phải Tổng binh mà
là Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ.
Vai trò bổ túc của họ quan trọng như thế nên không phải chỉ vùng
Nguyễn Huệ mới có Tề Ngôi thuyền. Nguyễn Nhạc cũng phải cho phụ trách kiểm soát
vùng biển Quy Nhơn: thuyền Tề Ngôi Nguyễn Ánh bắt được đem khoe với Rama I là
ngoài khơi Thi Nại của Nguyễn Nhạc.
Giữa lúc Tây Sơn miền Bắc dựa vào trung châu Nhĩ Hà cùng vài khu
vực cằn cỗi khác để nỗ lực phát triển trong những điều kiện khó khăn thì Nguyễn
Ánh cũng vội vã lo củng cố thế lực ở vùng đất chưa được tận dụng hết khả năng:
đồng bằng miền Nam.
Trong khoảng 1789-1792, gặp lúc Tây Sơn không đủ sức nhìn về phương
Nam nữa, ông có được thời cơ để lo tổ chức Gia Định. Thêm nữa, ông còn có sẵn
sự ủng hộ bền dai của các cựu thần, sự đóng góp kỹ thuật của đám phiêu lưu
thương nhân và giáo sĩ Tây phương, cùng một lề lối ý thức tổ chức xưa cũ có thể
không thành công với những vùng thâu nhận ảnh hưởng Việt lâu đời, nhưng lại rất
có hiệu lực ở những vùng mới mẻ.
Chế độ đồn điền đã từng được áp dụng từ đầu Lê để khai thác lãnh
thổ theo tính cách tập thể, quân sự hoá, bây giờ được Nguyễn Ánh tiếp tục với
sự đóng góp của đám trí thức Gia Định mới về đầu. Là sĩ phu cố giữ tiết tháo
trong thời loạn, noi gương theo xử sĩ Võ Trường Toản, thấm nhuần Khổng giáo
trong cả những ý nghĩa tích cực nhất, một khi ra làm việc, họ là những tay hăng
hái nhiệt thành nhất. Ý thức hệ Khổng giáo gắn liền với một lề lối tổ chức kinh
tế nông nghiệp, một khuôn mẫu tổ chức binh đội lấy sức mạnh ở nông dân nên mỗi
lần bàn đến việc khai đất tuyển binh là Nguyễn Ánh viện đến “Chu Đường cố sự”,
đến quan niệm “tứ dân chi trung duy nông vi bản”.
Hành động đầu tiên là vào tháng 6 Kỷ Dậu (1789) - thángHoàng tử
Cảnh về - Nguyễn Ánh bổ nhiệm Điền tuấn quan. Mười hai người trong số có Trịnh
Hoài Đức, Ngô Tòng Châu, Lê Quang Định, Hoàng Minh Khánh, chia nhau đi 4 doanh
Phiên Trấn, Trấn Biên, Vĩnh Trấn, Trấn Định khuyến dụ dân chúng từ phủ binh tới
dân cùng cố cứ theo sổ bạ mà bắt làm ruộng, dân không có nghề nông thì bắt phủ
binh thế. Đến mùa lúa chín, đạp ra, quan khám thu mỗi người, ruộng đồng lấy 100
cơ lúa (một cơ bằng 40 bát), ruộng núi lấy 70 cơ. Phủ binh nạp trên số đó được
miễn một năm tòng chinh, dân trơn được miễn một năm lao dịch làm xâu. Nếu không
đủ số không được chuẩn miễn.
Ai mộ được dân ngoài sổ bộ lập thành các đội điền tốt, Điền tuấn
quan sẽ cấp ruộng hoang cho. Nếu trâu cày điền khí không đủ, quan cho mượn, đến
mùa nạp lúa thế10. Tiếp tục thúc đẩy chính sách, tháng 8 năm sau (1790), lại có
lời dụ khuyến nông, cũng bấy nhiêu nội dung tổ chức ấy. Việc nông trang được
chăm sóc kỹ vì một lẽ nữa là năm này lúa cao, dân đói. Ánh bắt các nha văn võ
phải đi mộ các đội đồn điền, mỗi năm mỗi người phải nộp 6 đấu lúa. Dân gian, ai
mộ được 10 người trở lên thì được làm Cai trại, rút khỏi sổ thôn.
________________________________________
1. Hoa Bằng, Quang Trung...
sđd, 308, dẫn lời Ngô Thì Nhậm ghi trong Bang giao hảo thoại của ông.
2. V. Imbert. Le séjour de
l’ambassade... sđd, i. 15, 16, 17.
3. Thư gởi cho Letondal
6-10-1797 (A. Launay. III, t. 244).
4. V. Imbert. Le séjour de
l’mbassade... sđd, t. 22, 23, 27.
5. Hoàng Lê. sđd, t. 269. Thực
lục q4, 14b.
6. Ông Hoàng Xuân Hãn (Sử
Địa, số 9-10, t. 3-8, t. 245-263) dịch Càn Long chinh vũ An Nam ký của Nguỵ
Nguyên và phụ thêm Gia Khánh Đông Nam Tĩnh Hải ký, xác nhận cho những ý kiến
chúng tôi vừa nói trên năm 1968:
“Cha con Nguyễn Quang Bình dùng binh cướp
nước. Của trong nước hư hao. Thuyền buôn không đến. Bèn sai hơn 100 chiếc Tàu
ô, 12 viên Tổng binh lấy tiếng là tìm mua quân lương, đi chiêu tập nhiều tụi
vong mạng dọc bờ biển Trung Quốc. Lấy quan tước làm mồi nhử, cấp cho thuyền và
khí giới, sai đưa đường cướp Mân, Việt, Giang, Chiết” (Càn Long...)
“Đến đầu đời Gia Khánh (1796) mới có cướp
thuyền quấy rối. Cướp thuyền này bắt đầu từ khi cha con Nguyễn Quang Bình ở An
Nam, quân mỏi, lương hết bèn vời bọn vong mạng dọc bể cấp cho binh thuyền, nhử
bằng quan tước, sai cướp các thuyền buôn ở bể gần để biện lương thực (Gia
Khánh...).
Chính chúng tôi nhấn mạnh.
7. Thực lục q6, 7b, 9a; q10,
3a, 6ab, 38b... Ô Tàu hải phỉ là tên gọi từ Liệt truyện q30, 41b. Ngoài ra ở
q7, 13b, q11, 4b... vẫn gọi là Tề Ngôi hai phỉ.
8. Nguỵ Nguyên gọi là Mạc Phù
Quan. Sách Tĩnh hải ký kể trên cũng gọi Mạc Phù Quan, còn cho biết thêm tên
Trần Thiên Bảo có sắc ấn Tổng binh An Nam và thêm Báu Ngọc hầu, Luân Quý Lợi
với 4 Tổng binh khác.
9. Lời dụ khuyến nông khai
khẩn đất: “Gia Định phì nhiêu mà lương chưa chứa đủ” (Thực lục q6, 4ab).
10. Thực lục q4, 16ab, 17b,
23a; q5, 18a: “Cho dân các doanh trưng đất ruộng hoang”.
Lính ở các nơi trấn đóng cũng không được ở không. Nơi luỹ Vàm Cỏ ở
Gia Định, các quan văn bắt lính ra làm ruộng lấy tên Đồn điền trại. Lúa giống,
trâu cày, dụng cụ làm ruộng đều được quan cấp. Lúa thu thành đem bỏ vào kho
(tên là kho Tích Trữ sau cải là kho Đồn Điền). Biện pháp này đến tháng tư Tân
Hợi (1891) thì được áp dụng lan đến vùng Bà Rịa, Đồng Môn. Lính ở đó phải tìm
đất làm đồn điền để “tự thực kỳ lực”.
Chính sách lan cả đến dân thiểu số. Dân Hoa ngụ cư - Đường nhân - ở
Long Xuyên nếu tự nguyện làm đồn điền mà thiếu dụng cụ sẽ được cho mượn. Mỗi
người mỗi năm nộp 8 hộc lúa thì được miễn giao dịch. Ai không làm ruộng sẽ phải
sung quân. Dân Miên ở Ba Thắc, Trà Vinh cũng không thoát: họ bị buộc khẩn đất,
nộp mỗi người 15 đấu lúa (sau giảm còn 5).
Nói tóm lại, chính sách đồn điền nhắm vào việc khai phá đất đai làm
ruộng bằng cách bắt mọi người không đừng được, phải tham gia với sự đôn đốc,
kiểm soát, trợ giúp của chính phủ. Đó là một chính sách nông nghiệp cưỡng ép,
tận dụng nhân công, có từ xưa nhưng bây giờ lại được áp dụng trên một quy mô
rộng lớn, khiến vùng Gia Định trở nên phồn thịnh, sản xuất dồi dào quyến rũ
được đám dân nghèo đói Bình Thuận, Phú Yên... bỏ xứ chạy vào làm tăng dân số,
uy tín nội bộ cho Nguyễn Ánh, để dư gạo giúp Xiêm đói, giúp Thanh đánh Tây Sơn4
và cuối cùng, để đủ binh lương cho quân lính dùng những khi tràn ra phía bắc
đánh đám người kiệt thiệt đã làm ông khốn đốn khi xưa.
Công cuộc khai thác ruộng lúa, đối với thương nhân Tây Phương không
quan trọng mấy cho việc buôn bán của họ. De Guignes, viên lãnh sự Pháp ở Quảng
Châu có tiếc rằng Vua đã không làm chủ được “những tỉnh giàu có hơn ở miền Bắc”
mà chỉ chiếm một vùng “không tốt” vì “sản xuất có lúa mà thôi”. Nhưng nếu ta
lưu ý đến công việc buôn bán với người Xiêm, Chà-và, Trung Hoa... và các thương
nhân Tây phương thực hiện các chuyến tải hàng trong địa phương - le commerce
d’Inde en Inde của họ - thì rõ ràng lúa gạo cũng còn là một sản phẩm trao đổi
được để từ đó làm giàu cho quốc khố6. Vả lại, tuy sử quan nói toàn chuyện cày
ruộng, thu lúa, nhưng ta vẫn thoáng thấy có những canh tác khác. Các vườn cau
mọc lên nhiều để cung cấp một sản phẩm cần thiết cho phong tục địa phương(7).
Sản phẩm quan hệ nhất là đường cát. Nguyễn Ánh đã nhắc đi nhắc lại cho dinh
Trấn Biên biết rằng đường cát cần thiết dùng để đổi binh khí Tây phương nên
phải có chính sách riêng. Một mặt nhà nước ép dân sản xuất, hạn định mỗi năm
phải nạp 100.000 cân (6.000KG), một mặt phát tiền cho dân có vốn làm ăn, đến
mùa tính theo giá chợ mà nhà nước mua lại. Chính sách có vẻ có hiệu quả vì số
lượng sản xuất tăng lên, giá thị trường hạ xuống trong mấy năm thi hành: cuối
năm 1789, nhà nước phát trước 10 quan cho mỗi 100 cân còn hẹn đến mùa theo giá
chợ phát thêm mà đến gần cuối năm 1796, nhà nước chỉ phát 9 quan cho 100 cân
thôi.
Nguyễn Ánh cũng chú ý đến việc tìm các lâm sản. Người trong các đội
Hoàng Lạp mỗi năm nếu nạp 10 cân sáp vàng thì được miễn giao dịch, thuế má,
tòng quân. Trầm hương, kỳ nam lấy ở dân Chàm Bình Thuận, đậu khấu, sa nhân cùng
với các sản phẩm Cao Miên thì theo đường nước của sông Tiền, sông Hậu chuyển
xuống. Nhưng khi chế độ sản xuất được đôn đốc kỹ lưỡng thì chế độ thương mại
cũng phải theo một sự kiểm soát gắt gao. Những thương thuyền ngoại quốc đến
buôn bán không được lén chở lúa gạo, kỳ nam, trầm hương, ngà voi, sừng tê. Ai
thông đồng buôn bán riêng tư thì phải tội 100 roi, làm phu 3 năm, tài sản bị
tịch thu. Người kiểm soát cũng không được lơ là nhiệm vụ: thất thoát, tội cũng
như vậy, ai tố cáo được thưởng 300 quan tiền!10. Sở dĩ có sự kiểm soát gắt gao
như vậy vì chính quyền muốn giữ các quý vật ấy làm món hàng trao đổi binh khí,
đạn dược cần thiết cho binh dụng. Việc mua bán với bên ngoài thực hiện do các
tư nhân hoặc chính tay chân Nguyễn Ánh.. Từ trước khi Cảnh về đã có một chính
sách mời gọi các thuyền Thanh đến buôn bán. Nếu họ chở tới sắt, gang, chì đen
(?), lưu hoàng thì phải bán cho quan để quan tuỳ theo ít nhiều cho miễn thuế
bến đổi gạo mang về nước. Cứ thuyền có các thứ ấy trên 10 vạn cân thì miễn thuế
cho chở 30 vạn cân gạo đi, thuyền có 6 vạn cân, chở 22 vạn cân gạo, 4 vạn cân
chở 15 vạn cân gạo, đều miễn thuế. Những thuyền ít hơn thì cứ mỗi 100 cân đổi
300 cân gạo về, nộp thuế y lệ định12. Sau đó vào khoảng năm 1791 (tháng hai Tân
Hợi), có người Bồ tên là Chu-di-nô-di (?) đến buôn bán, Ánh mới đưa thư cho
quốc trưởng (chắc toàn quyền Goa hay Macao) để mua một số lớn binh khí: súng
điểu thương 1 vạn cây, súng gang lớn 2.000 cỗ (mỗi cỗ 100 cân), hoả tâm đạn
2.000 viên.
Về việc người đi buôn thì tay chân Ánh phái đi tuy chắc mang tính
cách bầy tôi ăn lương chúa nhưng hẳn cũng có thể kiếm ăn riêng được. Các quan
lớn cũng có phương tiện chuyên chở riêng: năm 1800 một ông Chưởng dinh Hữu quân
(Nguyễn Huỳnh Đức?) đã bán cho Despiau một chiếc thuyền lớn để ông này đi buôn.
Despiau cũng nằm trong sự đãi ngộ chung của Nguyễn Ánh đối với người Tây phương
dưới quyền: họ vừa làm cho Ánh vừa kiếm lợi riêng. Những khu vực họ thường lui
tới nhất là ở phía Tây: để mua binh khí, Nội viện Trần Vũ Khách đã đi
Giang-lưu-ba (Batavia), Cai đội Ô-li-vi, Đội trưởng Ba-la-di đi Goa, Mã-la-kha
(Malacca). Tài liệu Tây phương cho biết L. Barizy còn trương hiệu kỳ của chúa
Nguyễn buôn bán với thương nhân Đan Mạch, Hanop và Stevenson, trung lập trong
chiến tranh Anh - Pháp, làm đại lý cho Ánh ở Tranquebar (Ấn Độ)14. Có lẽ chính
vì việc buôn bán hướng về phía Ấn Độ, Mã Lai, nơi người Anh đang phát triển thế
lực, danh tiếng vang dội trên mặt biển lúc bấy giờ, nên có việc sử quan ghi
rằng Ô-li-vi đi Hồng-mao mua binh khí, có thuyền Hồng-mao đến buôn bán và L.
Barizy là dân Hồng-mao.
Tất cả những hoạt động nông nghiệp, thương mại đó có chủ đích tạo
lập một lực lượng khả dĩ chống đối được Tây Sơn, tràn ra Bắc chiếm lại cố đô.
Ta đã kiểm xét đám người Tây phương trợ giúp Gia Định. Nhưng điều quan trọng
vẫn là việc kết hợp được một lực lượng quân sự gồm những người trong nước, điều
hoà được việc binh với sự cần thiết sản xuất.
_________________________________________
1. Thực lục q5, 6b, 7a, 21b.
Về việc cấp lúa giống, Thực lục q5, 22a ghi đã phát đến 1 vạn đấu cho nông dân.
2. Thực lục q5, 15a.
3. Thực lụcq4, 12a: “Sai 4
doanh công đường quan nhóm lưu dân gốc từ Bình Thuận trở ra, biên danh tánh,
niên quán để miễn thuế”. Cùng quyển, 17ab ở Ba Thắc: “Bọn phiên dân mới về, vận
gạo 500 vuông cho vay để canh tác”. Quyển 6, 2a: “Dân Phú Yên, Bình Khang, Bình
Thuận khổ vì giặc tàn bạo, dắt díu vợ con vào Bà Rịa. Sài Gòn, vua khiến cấp
đất làm ăn” (Xuân 1792).
4. Thực lục q4, 10b: “Xiêm
hạn hán, (Vua) cho 8.800 vuông gạo”. Xem thêm q6, 37b; q5, 2a: “Từ mùa hạ 1789,
nghe quân Thanh đánh Tây Sơn, (Vua) sai Phạm Văn Trọng đem thư đi Quảng Đông và
lấy 50 vạn cân gạo giúp. Ghe bị chìm”.
5. Thư ngày 29-12-1791. G.
Taboulet, La geste française, sđd, t. 242, 243.
6. Thực lục q4, 24b: “Nước
Tà-nê (Chà-và) sai sứ hiến phương vật”. Cùng quyển, 28b: “Nước Tam-hoạt sai sứ
thần Giáp-tất-đơn, Điền-hoà tới cho binh khí (Vua) tặng lại quốc trưởng họ một
chiếc lọng vàng và một vạn cân gạo”. Lưu ý rằng tuế cống, triều cống theo kiểu
tương tự là một hình thức buôn bán chính thức ở Đông phương (Jacques Lacour
Gayet. Histoire du commerce, t. II, phần về thương mại Trung Hoa: phát triển
thương mại và chính sách triều cống, t. 358, 359. Sách Thực lục cũng đầy rẫy
các chuyện ta cho Xiêm gạo, kỳ nam, sáp, đường, Xiêm cho lại diêm tiêu, súng
ống, voi. Ý nghĩa buôn bán thực quá rõ ràng.
7. Barrow (BSEI, 1926, t.
208) có ghi chuyện Gia Long để phát triển các vườn trầu lấy phẩm vật xuất cảng.
Đây chắc là Thập bát Phù Viên, 18 thôn Vườn Trầu ở Hốc Môn mà Trịnh Hoài Đức
cũng có nhắc tới.
8. Thực lục q4, 25b; q8, 29a.
Xin xem lại tình hình thị trường đường cát ở Quảng Nam đã nói về vùng Tây Sơn
để so sánh.
9. Thực lục q4, 18a, 19a; q5,
6a, 17b.
10. Thực lục q4, 11a.
11. “Nội viên Thuyền chủ Huấn
Đức hầu là tôi tâm trường. Vả lại gia tư ấy lai khứ tiện thông...” (Phụ lục,
thư chữ Nôm số 11).
12. Thực lục q4, 12b. Tỷ lệ
đổi chác 3/1 là ở hai đầu tối đa và tối thiểu, còn các mốc ở giữa thì tỷ lệ cao
hơn: 3, 6/1 (22/6. 3, 7/1 (15/4). Chắc người ta cũng sợ hết gạo!
13. Thực lục q5, 18a. Điểu
thương chắc là loại arquebuse, súng lớn 60kg chắc là loại đại bác di động mà L.
Barizy có nói tới trong trận Đông Cây Cầy 1801 sau này. Hoả tâm đạn chắc là đạn
nổ mảnh.
14. Suzanne Kapelès. “Un cas
de droit maritime international en 1797”. BSEI, XXIII, t 126-131.
15. Thực lục q7, 26a, q9, 3a,
8a.
16. Thực lục q4, 36a.
Những kỳ kiểm tra liên tiếp vào sổ bộ đám dân Việt gồm dân sở tại,
dân đói rách lưu vong từ ngoài vào, tăng ni, đạo đồng, lính Tây Sơn tan rã trốn
nấp vào đám người thiểu số người Tàu, Miên, Chàm, Thượng, khiến chính quyền biết
rõ được dân số để tận dụng họ.
số Gia Định bao nhiêu, sử quan không đếm được, John Barrow người đi
theo sứ bộ Macartney, lấy tài liệu của L. Barizy để ghi quân số Gia Định vào
đầu thế kỷ XIX như sau:
Bộ binh:
24 đội kỵ binh
6.000 người
16 đại đội tượng quân (200 voi) 8.000 người
30 đại đội pháo binh 15.000 người
25 liên đội (mỗi đơn vị 1.200 người)
võ trang súng tay 30.000 người
Khinh binh võ trang gươm giáo và súng mồi 42.000 người
Cận vệ tập luyện chiến thuật Tây phương 12.000 người
______________________________________________________
Cộng: 113.000 người
Thuỷ binh:
Lính làm thuốc đạn của xưởng đóng tàu 8.000 người
Thuỷ binh trên các tàu trong cửa biển 8.000 người
Thuỷ binh trên các tàu đóng kiểu Âu 1.200 người
Thuỷ binh trên các ghe bầu 1.600 người
Thuỷ binh trên các thuyền chiến có chèo 8.000 người
_______________________________________________________
Cộng:
26.800 người
Tổng số quân lực là 139.800 người2.
Danh xưng chỉ các ngành quân đội và các thuật ngữ về chiến cụ của
John Barrow dùng tuy có khác với sử quan nhưng so sánh để soát xét lại ta vẫn
thấy dấu vết của sự thực, tuy phức tạp hơn nhiều. Nên nhớ thêm rằng bảng tổng
kết này làm bằng những tài liệu có lẽ thu lượm 1, 2 năm cuối thế kỷ XVIII,
nghĩa là trong lúc binh Gia Định đã phát triển mạnh, thu thêm vào hàng ngũ của
mình đám hàng binh Tây Sơn cùng chiến cụ, chiến tượng của họ.
Xét sách Thực lục, ta thấy có các danh từ: lạc tòng quân, chiến tâm
quân, hương binh, phủ binh, tinh binh, thần sách quân, cấm vệ binh. Không có
xác nhận rõ rệt, ta chỉ căn cứ vào ý nghĩa danh xưng cùng hoạt động của các đội
đó mà giải thích tổ chức thôi. Lạc Tòng quân rõ là đám dân tình nguyện, nhưng
vì việc lập ra đạo quân này sau thời kỳ vây đánh Quy Nhơn (1793), nên phải hiểu
dè dạt chữ “tình nguyện” vì đó chính là binh tướng Tây Sơn đầu hàng vậy. Chiến
Tâm quân là các binh cảm tử. Nguyễn Ánh sai các dinh tuyển chọn, lọc lừa trong
các binh đội lấy người để lập thành đội ngũ nhập vào ước thúc của dinh Trung
quân. Xung trận, họ phải liều mình tiến trước, nếu lùi lại phải chịu quân pháp,
trốn đi cha mẹ, anh em họ phải chịu tội thay. Hương binh, Phủ binh là lính
làng, lính địa phương, trong khi Tinh binh là lính túc trực, lính chính quy: ta
thấy khi dẹp xong Phạm Văn Sâm, Nguyễn Ánh cho phủ binh về làm ruộng, chỉ giữ
lại tinh binh. Chuyện xảy ra ở Phiên Trấn nên có thể là tinh binh chỉ ở Gia
Định, còn các dinh khác (Vĩnh Trấn, Trấn Định) thì phải tuyển phủ binh để
dùng4. Cấm vệ binh, đã nói rồi, được hưởng quyền lợi rất lớn, nhưng quân số
chắc ít ỏi. Thần Sách quân - quân ở Kinh - được nhắc tới nhiều chính là đám cận
vệ 12 ngàn người tập luyện theo chiến thuật Tây phương mà Barrow đã ghi nhận vì
có Olivier là một kẻ điều khiển với chức Vệ uý. Sau này, trùng hợp với lúc
Olivier đi, danh từ Thần Sách quân ít được sử quan nói tới và thay bằng đội Ngự
Lâm quân tuyển toàn dân Quy Nhơn, giao cho các hàng tướng Tây Sơn trông coi vì
sự hăng hái, gan dạ của họ, tướng cũng như quân.
Đáng lưu ý là sự đổi thay kỹ thuật chiến đấu do người Âu đem lại
hay gián tiếp qua các sách dịch của Pigneau: J. Barrow có nói đến pháo binh,
đến các đội kỵ binh di chuyển bằng trâu. Nếu ta nhớ rằng Pigneau khi bàn bạc
việc viện trợ cho Nguyễn Ánh với các tướng lãnh Pháp có nghĩ cách dùng trâu kéo
súng lớn và ta ghép lời xưng tụng công đức Bá-đa-lộc: “chế hoả xa, bầy trái
phá...”5 thì ta thấy quân đội Nguyễn Ánh có súng nặng lưu động dễ dàng trên bộ
như chứng tỏ trong trận Đập Đá tháng 7 âm lịch (1793) với “hoả xa đại bác”.
Khí giới ngoài các thứ mua cũng được chế tạo tại chỗ. Qua lời xưng
tụng quá đáng của J. Barrow, ta cũng lược qua được sự thực. Ông nói Nguyễn Ánh
đã làm một nhà máy chế diêm tiêu ở Phiên Trấn, khai một mỏ sắt, xây các lò đúc
chế hàng ngàn súng mồi lửa, các súng đại bác đủ cỡ7. Sử quan xác nhận điều này
khi cho biết việc phân phiên làm việc của các Cục tượng: thợ đúc, thợ rèn, thợ
súng, thợ bạc8. Trịnh Hoài Đức9 cũng nói về chế tạo cục trong thành Gia Định,
ghi rõ “có 3 gian nhà ngói đối mặt nhau”, dãy trại đặt súng bên tả phía trước.
Chế tạo cục có 15 gian lợp ngói, lát ván, đặt đồ phụ tùng súng, bên trong sắp
các khẩu đại bác đồng, sắt, hoả xa, trụ súng, đều có xe chở. Bên hữu là một dãy
trại lá vừa là nơi trú ngụ cho các thợ tạo tác, vừa là nơi thu chứa thổ sản hoá
vật. Ngoài ra, còn có 12 gian mái ngói, tường gạch chứa thuốc súng dồn trong
những thùng gỗ đặt trên sàn. Bên ngoài cửa Khôn Minh 2 dặm là nơi chế tạo thuốc
súng, 4 phía rào gai, có đủ khí cụ cối chày để nghiền thuốc.
Việc tổ chức phòng thủ cũng được thực hiện đồng thời với việc huấn
luyện binh sĩ. Nguyễn Ánh đã lo củng cố công sự phòng thủ nhiều đến nỗi các
giáo sĩ phải lên tiếng công kích thái độ mà họ gọi là “lẩn tránh chiến tranh”.
Phần lớn các luỹ đắp bằng đất. Một số luỹ là để ngăn chặn đề phòng những nhóm
Miên nổi dậy như luỹ Trấn Di (cái tên tỏ rõ được công dụng) ở sông Ba Thắc, luỹ
Thanh Sơn ở Ba Lai. Cũng có những luỹ như các tiền đồn hướng về phía Tây Sơn:
luỹ Đồng Chàm ở Trấn Biên, luỹ Bà Rịa.
_______________________________________
1. Thực lục q4, 11a, 29b; q5,
4a, 18b; q8, 7b.
2. G. Taboulet, La geste
française, sđđ, t. 256.
3. Thực lục q4. 8b, 9b, 17b;
q6, 32b, 33b.
4. Phủ binh là chế độ binh vụ
có từ đời Bắc Chu sang Tuỳ, Đường, bắt dân trong sổ bộ làm lính, miễn cho các
thứ thuế tô, dung, điệu, phải chịu huấn luyện trong những khi rảnh việc nông,
phải tự lực sản xuất. Gia Định tổ chức theo chế độ Hán, Đường chắc cũng đã sử
dụng phủ binh theo ý nghĩa này.
5. BAVH, 1936. t. 111, 112.
Xem thêm Trịnh Hoài Đức tả trại súng kể sau.
6. Thực lục q6. 25a.
7. G. Taboulet trích lại
trong La geste française, sđd t. 270. “Quelques notes sur Gia Long par un
contemporain”, BSEI 1926. t. 208. Chữ dùng của Barrow: Fentan.
8. Thực lục q4, 5a.
9. Trịnh Hoài Đức, Thành trì
chí đã dẫn, Đại học, 12-1961. t. 30-40.
10. Thực lục q4, 17a chuyện
tháng 6 Kỷ Dậu (1789); 22a, chuyện tháng 9, 26a chuyện tháng 12 cùng năm; q5,
10b, chuyện tháng 12 Canh Tuất (1790).
Nhưng công sự làm cho Ánh hãnh diện nhất và công trình xây cất cũng
trải qua nhiều khốn đốn nhất là thành Gia Định. Thực lục chép rằng ngày Kỷ Sửu
tháng 3 Canh Tuất (1790) bắt đầu xây thành bằng đá Biên Hoà vì luỹ ở làng Tân
Khai không đủ dùng cho binh vụ1. Trịnh Hoài Đức ghi ngày 4 tháng 2 và tả thành
theo khuôn mẫu Á đông: thành có hình bát quái, các cửa chính theo phương vị càn
tốn, cấn đoài... Thành giống hình hoa sen nở, 8 cửa, ngang dọc có 8 đường, từ
Đông qua Tây rộng 131 trượng 2 thước, từ Nam qua Bắc cũng vậy cao 13 thước, chân
thành dày 7 trượng 5 thước day mặt ra hướng tốn (Đông Nam).
Việc xây thành này, các tài liệu Tây phương cho biết là do Le Brun
và Olivier de Puynamel theo lời yêu cầu của Nguyễn Ánh. Hoạ đồ phố xá hình như
của Le Brun gồm có 40 con đường rộng từ 15 đến 20 thước cắt nhau theo hình
thước thợ và dự án này không được thực hiện. Nhưng Le Brun còn ở đến đầu năm
1792 và rõ ràng việc thiết kế đô thị chịu ảnh hưởng hoạ đồ ông rất nhiều. Ta
hãy nghe Trịnh Hoài Đức so sánh nơi đó trước kia “nhà ở lộn xộn, đường lối cong
quẹo, để dân tuỳ tiện, chưa rảnh sắp đặt (!)” với quang cảnh sau khi xây thành
“phố xá chợ búa, hàng lối dọc ngang đều có thứ tự”... “quan lộ... gặp những
khúc quanh co đều chăng dây sửa lại cho thẳng, rộng 6 tầm... bằng phẳng như đá
mài” thì đủ công nhận xác quyết trên. Thư của giáo sĩ Boisserand (2-1792) cho biết
có pháo đài, hào, điếu kiều, đường mở ra đất trống trước thành và luỹ vòng
cung... Nguyễn Ánh muốn làm tức khắc tuy cần phải đợi thời cơ thuận tiện hơn.
Người ta phải phá nhà cửa, bắt đến 30 ngàn dân làm việc. Loạn nổi lên, dân
chúng và quan binh đổ riết cho Olivier và Le Brun gây nên tội muốn bắt giết làm
hai ông này phải chạy trốn, nhờ Bá-đa-lộc che chở. Bình yên trở lại, Nguyễn Ánh
cho lính về và dân rảnh rang cày cấy2. Chi tiết sau phù hợp với việc sử quan
ghi tới hai lần xây cất thành mà không nói lý do ngưng nghỉ: một lần vào tháng
3 Canh Tuất như đã nói và lần “sửa sang lại” vào tháng chạp năm đó.
Qua những chứng dẫn trên ta biết thành xây theo kiểu phòng thủ Tây
phương nhưng cố uốn nắn theo quan niệm phong thuỷ Đông phương (bát quái). Tuy
nhiên hiệu quả phòng thủ của nó vẫn không thay đổi. Từ đấy Tây Sơn không vào
Gia Định lần nào để nó được thử thách nhưng đứa em sinh sau nó, thành Diên
Khánh, đã chứng tỏ hiệu lực trước đám quân Trần Quang Diệu thiếu vũ khí công
phá tương xứng.
Nhưng người ta còn phải nghĩ tới việc tấn công nữa. Ta đã nói tới
nỗi lo âu của Gia Định về sức mạnh của đám tượng quân Tây Sơn, sức mạnh chứng
tỏ trong cuộc tấn công Vạn Tượng “làm rung động Miến Điện, Xiêm La và khiến cho
Đồng Nai sửa soạn chạy trốn”. Tự nhiên, với phản ứng bắt chước, Nguyễn Ánh cũng
phải lo củng cố tượng quân. Từ sau vụ phá thuỷ quân Tây Sơn ở cửa Thi Nại,
Nguyễn Ánh sai người đến các vùng Đồng Nai, Bà Rịa bắt voi về nạp3. Số voi tăng
cường nhờ trao đổi với các nước Chân Lạp, Xiêm, nhờ cống phẩm của dân thiểu số
Chàm, nhờ bắt được của Tây Sơn. Theo với tiến triển của tình thế chiến tranh và
với sự rút lui của người Tây phương, lực lượng tượng quản sẽ tăng mạnh hợp sát
với thực tế địa phương và để cố gắng quân bình với thuỷ quân.
Bởi vì Nguyễn Ánh đã có một đội thuỷ quân hùng mạnh. Bầy tôi của
Ánh và chính Ánh cũng thấy rõ điều đó. “Thuỷ chiến là sở trường của ta”, Đặng
Đức Siêu thực đã tri bỉ, tri kỷ vậy. Nhờ ưu thế đó mà Nguyễn Ánh thắng trận
thuỷ chiến Thi Nại 1792 làm ưu uất Quang Trung. Trong cuộc tiến quân ra, thuỷ
quân bao giờ cũng đi mau và đi xa vào đất địch hơn bộ binh. J.M. Dayot phục vụ
Nguyễn Ánh trong những năm 1790-1795 đã nhân dịp điều khiển các tàu Tây trong
chuyến xuất quân vào khoảng tháng 5 đến tháng 10 dương lịch để mà lập cả một chương
trình vẽ các hải cảng, đi dò đáy nông sâu. Chính đội này dắt theo sau cả hàng
ngàn thuyền mang lương thực cho binh lính - cả lính bộ - có khi phải ghé lại
một bến đến vài ngày để chờ bộ binh tới lãnh lương5. Nhận biết thuỷ binh là
quan trọng ở một xứ đầy sông rạch như Gia Định này, nên từ tháng 5 Kỷ Dậu
(1789) ta thấy giá bắt lính đào ngũ có cách biệt rõ rệt: quân bắt được lính bộ
thưởng 30 quan, còn được thuỷ binh thì được hưởng tới 40 quan!
Cấu tạo lực lượng đó như thế nào thì tài liệu để lại của sử quan
cũng còn lờ mờ. Họ cùng với Trịnh Hoài Đức có nói đến Chu Sư xưởng lập tháng 12
Canh Tuất (đầu 1791), dọc từ bờ sông Tân Bình đến sông Bình Trị, chứa những
dụng cụ thuỷ chiến và các loại ghe tàu. Lelabousse vừa tả các xưởng này vừa
tâng bốc: “Các xưởng thuỷ quân và quân cảng của ông làm người ngoại quốc ngạc
nhiên và chắc sẽ khiến cả Âu châu thán phục nếu Âu châu có thể chứng giám. Một
bên người ta thấy các thứ súng tay, súng lớn đủ mọi cỡ, dụng cụ, giá súng,
đạn... phần lớn đẹp đẽ chỉ nhường kiểu mới nhất thôi. Một bên, vô số các thuyền
chiến (galère), các chiến hạm đủ mọi cỡ, mọi hình thức, rất chắc chắn. Tất cả
những cái đó là công trình của ông hoàng ưa hoạt động cũng như chăm chỉ này,
được các sĩ quan người Pháp luôn luôn giúp đỡ vì nghệ thuật và công nghệ đó ở
xứ này còn xa mới đuổi kịp Âu châu”. Ở mục nói về Chu Sư xưởng, sử quan cũng
như Trịnh Hoài Đức có tả rõ các thứ thuyền. Theo họ, thuyền Hải đạo là tàu thuỷ
chiến hay nhất, chiến hạm là thuyền buôn không buồm mà nhỏ (chú này sử quan ghi
cho thuyền Hải đạo), ghe Ô, ghe Chu là các ghe đánh giặc thân lớn, dài, ghe Lê
có chạm vẽ ở mũi thuyền và lái. Ngoài ra, ở những chỗ khác, sử quan ghi thêm
các thuyền hiệu (5 thuyền hiệu tạo tháng giêng năm Nhâm Tý 1792: Hoàng Long,
Xích Nhạn, Thanh Tước, Bạch Yến, Huề Hạc), các Ô sai thuyền (chắc là ghe Ô),
Đại hiệu thuyền và Tây dương dạng thuyền.
Tài liệu của người Pháp giúp việc Nguyễn Ánh để lại hay nói đến các
chiến ghe rõ là các thứ ghe Ô, Chu, Lê. Có lẽ từ ngữ này cũng chỉ các thứ ghe
mà L. Barizy gọi bằng các tên galère, chaloupe canonière, demi canonière...
khác nhau từ lớn tới nhỏ. Còn Tây dương dạng thuyền hẳn là các “vaisseaux
construits à l’européenne” mà Barrow nói tới, J. Liot tả rõ, một loạt frégate
có phía sau và buồm dạng của Trung Hoa trong khi phần còn lại mang dạng Tây, có
6 đại bác mỗi bên, mỗi cái mỗi đầu8. Đó là các Thao (tàu) Thoại Phụng của
Barizy điều khiển, Loan Phi của Chaigneau, Bằng Phi của De Forçan, Phượng Phi
của Vannier...
Tuy nhiên, trước đó khi chưa lập Chu Sư xưởng, Nguyễn Ánh cũng thuê
được các tàu Bồ đi buôn (10 chiếc) võ trang thành chiến hạm. Chiếc “tàu đồng”
do Dayot chỉ huy tiến vào cửa Thi Nại (1792) là một kinh ngạc lớn cho Tây
Sơn.9. Rồi sau đó Nguyễn Ánh mới bắt chước theo các tàu Tây mà đóng tàu vỏ đồng
nhờ số kim loại dồi dào trong các cuộc trao đổi thương mại. Còn các ghe thì
đóng toàn bằng gỗ ván lấy trên các vùng nguồn Băng Bót, Quang Hoá trên đất ta,
Sơn Phụ, Sơn Bốc, Sơn Trung trên đất Miên.
Tóm lại, đặc sắc của thuỷ quân Gia Định là sự dồi dào vũ khí, hiệu
suất cao của chúng, là các tàu bọc vỏ đồng chắc chắn cùng chiến thuật mới của
các sĩ quan Tây Phương đưa vào. Lực lượng này là kết quả của công cuộc khai
thác đất Gia Định mở rộng trao đổi với bên ngoài. Nó trở thành nòng cốt của lực
lượng thống nhất một khi Tây Sơn trên bộ chưa tìm được cách phát triển hơn thì
lại phải đối phó với sự tan rã nội bộ ở trung tâm Phú Xuân nữa. Biển cả thênh
thang ở phía đông với đội hải thuyền lớn mạnh của Gia Định biết uốn nắn theo
quy luật gió mùa sẽ mang đầy đủ ý nghĩa của một yếu tố kết liền hơn là một yếu
tố ngăn cách vậy.
_____________________________________
1. L. Malleret. “Eléments
d’une monographie des anciennes fortifications et citadelles de Saigon”. BSEI,
1935, t. 5-108. Thực lục q4. 31a; q5, 10b. Bản hoạ đồ thâu hẹp thành phố Sài
Gòn xây năm 1790 do Cai đội V. Olivier, trong Iconographie historique de l’Indochine
française, fig. 40, pl. XXI.
2. G. Taboulet dẫn trong La
geste française... sđd, t. 242.
3. Thực lục q6, 9b.
4. Liệt truyện q10, 6b.
5. G. Taboulet, La geste
française, sđd, t. 250. Thư Dayot đã dẫn.
6. Thực lục q4, 12a.
7. Theo thứ tự, Thực lục q4,
21a, tháng 8 âl. 1789; q6, 1a, 6a, 12a, tháng 1 âl. 1793; q10, 2b, tháng 2 âl.
1798.
8. Thư của J.Liot ở Tân
Triệu, 18-7-1792, BEFEO. 1912, t. 28.
9. Thư của L.M.J. de Jésus
Maria cho L.M Trưởng tỉnh. Chợ Quán, 4-3-1790, BSEI, 1940, t. 101, 102.
10. Thực lục q4, 30b, tháng 3
âl. 1790; q5, 21b, tháng 3 âl. 1791.
Tiết 14
DÂN ĐẠI VIỆT Ở CUỐI THẾ KỶ XVIII
Các sắc dân trong tiến trình tiếp xúc * Đời sống vật chất thường
nhật * Đời sống với ảnh hưởng của chiến tranh * Đời sông tinh thần.
Trên con đường phát triển của đôi bên Tây Sơn và Nguyễn dần dần đưa
tới chỗ biến đổi thế quân bình có lợi cho Gia Định, chúng ta đã phân tích ảnh
hưởng bên ngoài cùng thái độ, công việc của lớp người cầm quyền. Nhưng ta cũng
không quên rằng thấp thoáng sau những sự kiện chứng dẫn vẫn có bóng quyền uy,
mồ hôi nước mắt của đám dân chúng đã đưa Quang Trung đến trận Đống Đa, mời gọi
Nguyễn Ánh về Gia Định, nghĩa là thúc đẩy lịch sử đi theo bước tiến của nó mà
chính họ, họ cũng không hay biết gì. Trước khi bước gấp tới để nhìn đôi bên
thanh toán nhau, chúng ta hãy dừng lại sống cuộc sống không tên không tuổi của
người xưa vào thời đó qua những tài liệu quá hiếm hoi, quá vắn tắt đã để lại.
Bản đồ nhân chủng Đại Việt vào hậu bán thế kỷ XVIII có khác với bây
giờ, nhất là ở miền Nam Hà. Trên con đường tràn về Nam, đám nông dân đồng bằng
tiếp xúc với những nhóm thiểu số hoặc từ đời nào vẫn có cuộc sống bộ lạc dời
đổi như các sắc dân phía Tây, hoặc đã từng là phần tử của những quốc gia hào
hùng trong quá khứ như Chiêm Thành, Chân Lạp, hoặc là những kẻ từ phương xa
tới, những con chim đi tìm đất lành như Tiêm, Trung Hoa... Chúng ta đã thấy sức
mạnh của Nam Hà dựa trên sự kết hợp này như thế nào rồi. Tuy nhiên các phần tử
không phải đã được nhất hoá - cũng như ở Bắc Hà - các nhóm sẽ hướng về trung
ương mà dần dần biến đổi.
Trước nhất là dân Chiêm Thành. Khoảng 1773-1774, chúng ta gặp họ tụ
đoàn xa nhất về hướng Bắc là Thạch Thành ở Phú Yên. Nữ chúa Thị Hoả của họ đã
hưởng ứng với Tây Sơn và bị Tống Phúc Hợp giết. Nhóm thứ hai quan trọng hơn, ở
Bình Thuận, được Nguyễn đặt riêng là Thuận Thành trấn, từ Kế-bà-tử đến Chưởng
cơ Tá vẫn thế tập kế truyền.
Từ năm 1782, Tây Sơn vào, Tá đem vàng bạc ra hàng. Năm 1788, Nguyễn
Ánh về, Tá đem quân lên núi giết quân Ánh biến thành một tiền đồn quan trọng
của Tây Sơn. Khi quân Nguyễn ra đến Phan Rí, Nguyễn Văn Hào dẫn bắt giết Tá. Từ
đó mới chấm dứt vương hiệu. Ánh phong cho Nguyễn Văn Chiêu làm Chưởng cơ,
Nguyễn Văn Hào, Nguyễn Văn Chấn làm Cai cơ coi trấn Thuận Thành. Các tên đó vốn
là Nguyễn-hoá rồi chứ thật ra Chiêu tên Môn-lai-phù-tử, Hào tên Thôn-ba-hú,
Chấn tên Bô-kha-đáo. Sau Chiêu được phong Tán lý theo quân Nguyễn Ánh đánh giặc
trở thành một viên quan triều, còn Hào lên thế coi sóc Chử Chân, Tiểu Trà
Dương, Đại Trà Dương có Chấn phụ tá.
Đầu năm 1793, lại thêm 3 sóc về hàng là Phố Châm và Ba Phủ, Nguyễn
Ánh lo tổ chức cai trị trấn Thuận Thành, đặt Lịnh-sử-ti 10 người coi xét công
việc trong trấn. Sưu dịch họ phải làm ngoài binh vụ là bắt voi nạp, vào tổ chức
An tượng cơ để dạy voi cho thuần, dùng trong chiến tranh. Thuế Gia Định đánh
vào họ là trầm hương, kỳ nam, thuế lúa nạp thay tiền. Ruộng ở đó thường bị khô
cháy, không cày cấy được miễn thuế. Ruộng Trà Nương ở xứ Long Hương3, Phan Rí,
Phố Hài là lộc ăn của vua Chàm cũng theo quy chế trên, nghĩa là chỉ chịu thuế
những khoảng nào có người cày thôi.
Các trận chiến qua lại trên trấn Thuận Thành khiến cho hơn 36 sóc
người Thượng phải bỏ xuống phía nam nơi các vùng Đồng Môn, Phước Hưng, La Bôn4
xin trú ngụ và phụ thuộc vào dinh Trấn Biên. Chiến tranh gây sách nhiễu cho lớp
người thiểu số này nên có sóc như sóc Ba Phủ đã nổi loạn suốt mấy năm 1796,
1797, 1798, 1799 đến nỗi Nguyễn Văn Thành phải kêu lên: “Ba Phủ là mối lo tâm
phúc của ta”. Chính loạn Ba Phủ lúc dừng, lúc phát, lúc ẩn náu trong rừng sâu,
lúc ồ ạt ngoài đồng nội đã làm ngăn trở ít nhiều những cuộc tiến quân ra Bắc.
Một điều đáng chú ý là sự quy phục càng ngày càng đông của những
người Thượng về phía Gia Định. Rải rác đây đó, Thực lục ghi việc tháng 4 âm
lịch 1791 dân Thượng Bình Khang đánh Tây Sơn, việc Ánh kêu gọi các tù trưởng
Phố Châm, Ba Phủ kêu gọi đồng bào họ về hàng để ngăn giặc, việc dân Thượng Đồng
Hương ở Bình Khang (1793), Thuỷ Xá ở Phú Yên (1794) ra hàng được cấp vải vóc,
tiền bạc, chiêng cồng. Các việc này cũng như việc Hà Công Thái tù trưởng Mường
ở Thanh Hoá đưa thư vào Gia Định xin đánh giặc chứng tỏ thái độ bất phục tùng
của đám dân phía Tây đối với Tây Sơn. Hành động này có thể do uy danh của
Nguyễn Ánh lan rộng ra, nhưng đằng khác cũng bắt nguồn từ việc Tây Sơn không có
đủ để trao đổi với họ gạo lúa, vải vóc, sắt đồng... nghĩa là những thứ họ cần
dùng trong khi Gia Định rộng rãi hơn.
Người trung gian quan trọng giữa Gia Định và các sắc tộc miền Cao
Nguyên là Nguyễn Long, bộ tướng của Châu Văn Tiếp từ lúc chiếm cứ núi Chà Rang
với dân Thượng Phú Yên. Chức Thượng đạo Tướng quân mà ông giữ suốt cả thời gian
từ lúc về Gia Định đến khi thống nhất, chứng tỏ Nguyễn Ánh đã biết dùng uy tín
của ông để chiêu dụ họ. Tên tuổi ông có vẻ lấp sau các chiến tướng đánh Tây
Sơn, nhưng nội một vai trò giữ yên miền Thượng cũng đủ là cả một đại công rồi.
Xa nữa về phía Nam cũng có những vấn đề phức tạp về chủng tộc phải
đặt ra. Ở đây, sử quan gọi người Việt là Hán nhân, người Hoa đến ở là Thanh
nhân, Đường nhân, người Miên là Lạp dân hay Phiên dân. Chính sách tự trị, phân
biệt được thực hiện trong một chừng mực có lợi cho quốc gia. Một người Thanh
làm Chưởng cơ tên Trần Công Dẫn được phái trông coi làm sổ bộ cho những người
Đường cũ và mới ở các tỉnh, kể cả binh lính. Có lẽ Lư Việt Quan làm Tổng phủ ở
Trà Vinh coi Đường nhân, trưng quan thuế, là một người Hoa; cũng có lẽ người
Hoa là Tường Vĩnh Quan làm Đồng khấu coi ruộng muối, Lâm Ngũ Quan Tổng phủ Ba
Thắc.
Về phía người Miên, tháng 1 âm lịch 1791, Ốc-nha La làm An phủ ở Ba
Thắc trông coi các phiên liêu, bộ lạc7. Chính sách tự trị này là kết quả của
những bước dò dẫm. Ban đầu dẹp xong Phạm Văn Sâm, giết được Ốc-nha Ốc, Ánh thấy
không cai trị trực tiếp được họ nên phải để cho một viên “phiên liêu về hàng”
là Gia-tri-giáp coi phủ Ba Thắc. Triều đình trông chừng bằng cách lập luỹ Trấn
Di kiềm chế.
Thế nhưng chính sách tự trị quá rộng rãi này lại không được hiệu
quả. Thổ dân vẫn hướng về Chân Lạp nên khi Gia-tri-giáp được rút về Nam Vang
thì viên tù trưởng mới lại đánh phá luỹ Trấn Di khiến Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn
Trương phải đến thay thế Trương Phúc Khoa mới dẹp an được. Số lượng quân chinh
phạt lên đến 8.000 người và kết quả là đồng ruộng bị đốt cháy, bọn nổi loạn
chắc bị giết hết nếu không có Bá-đa-lộc can kịp8. Nguyễn Ánh rút bớt quyền các
tù trưởng, để Ốc-nha Kê dưới quyền đạo Trấn Di đi thu mối lợi lớn là thuế hoa
chi của Đường nhân, còn các chức việc Miên (phiên liêu) thì dưới quyền một An
phủ như ta đã thấy.
______________________________________
1. Vùng Trà Dương hay Tà
Dương thuộc quận An Phước (Ninh Thuận), giáp giới Bình Thuận, vùng nội địa của
Cà Ná.
2. Phố Châm chắc là vùng gần
Tánh Linh mà Aymonier (“Notes sur l’Annam Le Binh thuận”, Excursions et
Reconnaissances, 1885, t. 210) gọi là Patjam chiếm 2, 3 xóm Chàm và 2, 3 xóm
Thượng Chrou (hay Ka-hơ). Ba Phủ chắc là dân Đê (Thượng) Ba-vô của ĐNNTC, tỉnh
Bình Thuận, mục núi Phố Châm (Bộ QGGD, t. 28) vì ở đây có nhắc đến cuộc loạn
năm 1797 của bộ lạc này. Ba Phủ hay Ba Vô cùng gần như nhau về chuyển âm cũng
như về chữ viết (nếu dùng chữ phủ = thủ + vô).
3. Vùng quận lỵ Tuy Phong,
Bình Thuận. hiện gọi là Liên Hương.
4. Lá Buông? Vùng rừng Lá bây
giờ?
5. Thực lục q5, 4b, 6a,
chuyện tháng 10 âl. 1790; q6, 10b, 19b, tháng 12 âl. đầu 1792; q7, 2ab, 12a,
tháng 2 âl. 1794; q8, 11a, tháng 11 âl. 1795; q9, 5ab, 8a, 12ab, 34ab, 35ab,
37ab chuyện tháng 11 âl. 1796, tháng 12 âl, cùng năm, tháng 2 âl. 1797, tháng
8, tháng 9, tháng 10, tháng 12 âl. cùng năm.
6. Thực lục q5, 21b; q6, 10b,
31b; nhất là q7, 2a, 12b, 13a; chuyện Hà Công Thái: Thực lục q7, 4a, Liệt
truyện q28, 4b.
7. Thực lục q4, 35a, q5, 17a
8. Thư Lelabousse cho một
người trông coi Chủng viện các Phái đoàn Truyền giáo 13-12-1790 (A. Launay,
III, t. 290).
Việc Ba Thắc lôi thôi cũng vì Chiêu-thuỳ Biện, viên phụ chính ở Nam
Vang. Ông này luôn luôn tìm cách gây hiềm khích giữa Gia Định và Vọng Các bằng
cách báo rằng Nguyễn Ánh đúc súng đạn để xâm chiếm Xiêm khiến Ánh phải sai sứ
sang phân trần. Việc Biện muốn chiếm lại Ba Thắc có lúc đã được Rama I nghe
theo nên khiến sứ qua Gia Định điều đình về việc đó nhân tiện muốn lan rộng ảnh
hưởng đến vùng Hà Tiên bằng cách xin cho Mạc Công Bính giữ Long Xuyên, Kiên
Giang. Ánh từ chối khéo: “Vì cớ Chiêu-thuỳ Biện chớ riêng người Xiêm thì đâu có
tiếc”. Cho đến tháng 9 âm lịch 1794, Biện chạy về Battambang, Gia Định nhân đó
đòi Nặc-ấn từ lâu ở Xiêm, Nguyễn Ánh mới thoát được một kẻ làm rầy rà, nhất là
khi thực lực ông đã lớn mạnh hẳn1. Người Việt tới, người Miên cũng không tránh
khỏi nạn bị giành đất. Nguyễn Ánh phải ra sắc bắt dân chúng phàm xứ nào ruộng
đất canh tác thành ruộng rồi thì cứ trông coi, ai làm chủ nấy, dư ra chia đều
mà không được tranh tụng gì cả. Về phần người Hoa ngụ cư, như có đất hoang được
quan chứng cho khai phá thì được cấp làm.
Phân định rõ ràng quyền lợi, người Miên trở thành một phần tử trong
một quốc gia. Cho nên, Nguyễn Ánh cũng không quên nguồn nhân lực này. Ta đã nói
tới đội binh Miên của Nguyễn Văn Tồn, người dịch đình nô (mõ làng) sau này vào
năm 1795 cùng với 1.500 binh và chánh, phó chi binh Miên là Ốc-nha Diệp, Ốc-nha
Oa đi trấn Bà Rịa2. Chúng ta cũng nghe đến đoàn quân Miên 5.000 người cùng 10
voi do Cao-la-hâm-sâm cầm đầu có mặt ở Quy Nhơn trong trận phá vây cho Võ Tánh.
Tất cả vừa đủ để chứng minh sự tham gia của họ vào chiến tranh. Điều đáng lưu ý
là theo với thời gian lối sinh sống của họ cũng như của những đám dân thiểu số
khác dần dần Việt hoá đi. Lịch sử Đại Việt có họ thêm dồi dào, phức tạp, thêm
yếu tố thúc đẩy năng lực tiến thủ cần thiết cho bất cứ một tập thể nào muốn
sinh tồn và lớn mạnh.
Những sự kiện trên nhìn xét trong giao tiếp của từng khối người
trên bình diện quốc gia, không làm cho chúng ta quên người dân trong sinh hoạt
hàng ngày. Chúng ta còn thấy họ khi chúng ta về thăm lại những làng, sóc miền
quê, khi nhìn lại chung quanh ta. Điều ấy xác quyết được vì sự tiến bộ bao hàm
đổi thay cũng có ý nghĩa cái gì được giữ lại. Tuy nhiên không vì lẽ đó mà chúng
ta lẫn lộn hiện tại với quá khứ, nhất là khi quá khứ có chứng tỏ đã quan sát
vào lúc đương thời của nó.
Sinh hoạt thường ngày3 khác nhau tuỳ theo cách khai thác sản vật.
Trên miền núi hay bìa rừng người ta sống với lề lối lượm hái, săn bắn có khi có
tổ chức khá cao. Ở Nghệ An dân tổng Hữu Đạo, huyện Thượng Du phải đi lấy vỏ quế
và sáp ong vàng để dâng lên Vua4. Việc lấy sáp vàng thấy có khắp nơi trên đất
Việt (hoàng lạp nậu ở Gia Định), nhưng quế là đặc biệt ở vùng Thanh, Nghệ,
Quảng cũng như trầm hương, kỳ nam thấy nhiều ở phía nam, nghề nghiệp của dân
Thượng Bình Khang, dân Chàm... Dân Thượng len lỏi hái trầu, măng le, cây trái
chuyển qua các nguồn. Ngoài ra ngà voi, sừng tê cũng là những sản phẩm có danh
ngoài xứ.
Người dân miền núi dữ dằn, đen điu thì người dân đồng vẻ mặt trông
nhẹ nhõm hơn, nước da ít sậm hơn, lễ phép, đáng yêu, lành và giản dị. Nông phu,
theo nhận xét của người ngoại quốc, có dáng lanh lẹ và thông minh. Đàn bà nhiều
hơn đàn ông và cũng làm việc đồng áng nhiều hơn. Ruộng thì có ruộng núi nhờ
nước trời mưa và ruộng đồng. Ở vùng quê Quảng Nam ruộng cắt thành từng mảnh nhỏ
hai bên những bờ đất nhỏ. Các rạch dẫn nước từ sông vào. Ruộng nào nước không
tới thì người ta tưới bằng vò. Tuy nhiên có hệ thống dẫn thuỷ nhập điền được
trông nom chu đáo bằng những công cụ khá tinh xảo như các xe nước ở bắc Bình
Định và Quảng Ngãi. Cày có hai trâu kéo. Cái cày toàn bằng gỗ. Thực lục có dẫn
việc cấp ngưu canh điền khí cho những người ở đồn điền trại, dẫn việc trâu bò của
Kiến Hoà phải chết dịch nhiều.
Người dân chài có khi sống cả năm trên các ghe mui cong. Muốn cho
những đứa bé rủi có lọt xuống sông khỏi chết trôi, người ta cột những chiếc
phao to vào cổ chúng. Chiếc ghe giản dị nhất thì bằng tre đan rồi quét vôi lên.
Nhưng cũng có những thuyền gỗ thường dùng, làm bằng 5 tấm ván ghép chung với
nhau không có sườn nâng đỡ. Chúng được uốn cong bằng lửa rồi nối bằng các then
nhỏ và lạt tre cột lại. Chính dân chài tự đóng thuyền lấy và họ sử dụng nhiều
đến các ngón chân phụ giúp các bàn tay khiến chúng cứng khều như bàn chân vậy.
Việc buôn bán những thổ sản đối với các nghề nông, chài thật đã đem
lại nhiều mối lợi lớn hơn. Chúng ta đã thấy Nguyễn Nhạc buôn trầu (hiểu theo
nghĩa buôn qua các nguồn: lâm sản đi xuống, cá, muối, kim khí đi lên) nên “nhà
khá giả”. Chúng ta cũng biết đến đám các lái ở Bắc Hà đồng bạn với thân sinh
Nguyễn Hữu Chỉnh, vận chuyển bằng ghe thuyền. Xứ Đồng Nai dưới quyền Nguyễn Ánh
việc mua bán phát đạt tới nỗi sứ bộ Cao Miên Ốc-nha Tha-la-ma, Ốc-nha Sa-thi
nhân đi cống đem theo 14 thuyền, 140 người có dư để đi buôn khiến cho dinh Vĩnh
Trấn phải náo động5. Sự giao tiếp với người ngoại quốc sinh ra một hạng đàn bà
làm áp phe, làm vợ bé, dùng việc này để được việc kia đến có khi được chồng
đồng ý cho phóng túng. Tang thương ngẫu lục6 có chép chuyện sinh một đứa con
lai, chắc là kết quả của cuộc sống chung đụng theo kiểu đó.
Kỹ thuật dựa trên kinh nghiệm cũng đến mức được người Anh khen. Họ
ngạc nhiên về việc người dân Quảng Nam biết dùng bẹ chuối đắp lên một lớp mỏng
đường đen để rút mật còn lại một thứ đường mỏng tinh khiết. Đồ gốm làm ra rất
sạch sẽ. Còn về nghề nấu quặng, họ đã lấy được sắt tốt đúc súng mồi lửa (hoả
hổ), lao phóng và các thứ khí giới khác. Điều ghi nhận này làm ta nhớ đến các
cục tượng của Nguyễn Ánh ở Gia Định. Thành Chà Bàn ngày nay có một làng dân
chuyên nghề lò rèn. Chắc đó là hậu duệ của đám dân chế võ khí cho Nguyễn Nhạc,
Quang Toàn vậy. Quan sát viên không thấy ở Quảng Nam dấu vết của hoạ phẩm, điêu
khắc phẩm. Lelabousse có nhắc tới một người ở Gia Định không học gì hết mà có thể
làm được các đồ vật bằng ngà.
Cơm ăn thường ngày lẫn với một ít gia vị, mỡ súc vật. Bữa cơm của
viên trấn thủ Tourane đãi phái đoàn Macartney khá thịnh soạn. Có những đĩa đựng
thịt heo, thịt bò xắt miếng chấm nước rất ngon (nước mắm?). Có những đĩa đựng
cá, thịt gà hấp (luộc?) và rất nhiều trái, mứt. Số đĩa dàn ra ba hàng đến hơn
100 cái. Trước mặt các thực khách bày ra các bát cơm và hai lông nhím để xiên
thịt. Cái thìa bằng sứ như bây giờ còn thấy ở các nhà sang. Sau bữa ăn người ta
mời uống giáp vòng các ly rượu đế nhỏ. Không thấy Tổng trấn mời người Anh
thưởng thức những chén trà tàu mà Phạm Đình Hổ thèm tiếc.
Khách ngoại quốc ngạc nhiên sao ta không biết dùng rượu vang tuy
dây nho mọc đầy núi. Thuộc vào hàng chất say, họ chú ý tới trầu cau. Người ta
đựng trong một túi lụa có nhiều ngăn treo nơi lưng quần. Người giàu có đầy tớ
mang ống điếu hầu. Nhưng chính họ tự mang trầu cau trong một túi nhỏ bỏ vào
ruột tượng quàng từ trên vai xuống dây lưng. Gói trầu là một trong những vật kể
vào đồ mặc chính. Ở Quảng Nam có rất nhiều bông vải. Trẻ con lột lấy múi bông
rồi đàn bà kéo sợi, dệt vải, thường đem nhuộm chàm đi. Dân chúng cả đàn ông lẫn
đàn bà đều mặc những cái áo dài thật rộng, cổ chật, trước ngực nhiều lằn xếp,
cánh dài phủ cả bàn tay. Người quý phái mặc áo trùng, cập đôi, cập ba. Áo thứ
nhất dài chấm đất, chiếc ngoài cụt hơn một chút. Cứ như vậy nếu có cập nhiều
màu thì ta thấy có hình dạng cầu vồng sặc sỡ. Đồ lót gồm có một áo cánh lụa hay
vải và không quần cụt. Quần dài cùng thứ vải với áo.
Phạm Đình Hổ cho biết9 người ở quê mặc áo vải trắng thô, học trò
hay người thường lúc việc công mặc áo xanh lam (thanh cát) hoặc sẫm, hoặc lợt,
hoặc sừng lúc có quốc tang, lúc thường mặc áo thâm. Đàn bà miền Bắc vẫn mặc váy.
Đàn bà đội nón, không đội mũ. Đàn ông hoặc lấy khăn chít đầu, hoặc
đội các thứ nón tu lờ của nhà sư (cư diện), nón sọ nhỏ (xuân lôi tiểu), nón vỏ
bứa (toan bì)11, nón mo cau của lính Tây Sơn bắt chước người dân lúc đội đi
đường12. Tất cả đều đi chân đất. Nhưng ta thấy người sang di chuyển bằng ngựa,
bằng cáng như lúc Tây Sơn khởi loạn, bằng võng mành mành cánh sáo.
_____________________________________
1. Thực lục q5, 9a, 32b; q6, 2b, 3ab; q7, 12ab.
2. Thực lục q7, 24ab.
3. Những bằng chứng về sinh hoạt kể ở đây, nếu không chú rõ xuất
xứ, thì đều lấy từ những điều mà nhân viên phái bộ Macartney quan sát ở
Tourane.
4. Tờ sức về việc thu thuế lâm sản ngày 9-4-1790 đã dẫn. Tự Do, số
1757, 19-1-1963.
5. Thực lục q5, 17b, tháng 5 âl. 1791.
6. Bộ Quốc gia Giáo dục VNCH xuất bản, 1962, t. 89.
7. Thư ngày 3-12-1790 (A. Launay III, sđd, t. 280).
8. Tuyết Trang Trần Văn Ngoạn dịch trong “Tồn cổ lục”, Nam Phong,
V, t. 137.
9. “Vũ trung tuỳ bút”, Nam Phong, XXI, t. 462, 463 hay “Tồn cổ lục,
IV, t. 206.
10. Hoàng Lê. t. 36.
11. Các số Nam Phong trên IV, t. 205, XXI, t. 461, 462, Phạm Đình
Hổ kể các thứ nón riêng cho từng hạng người: ở kinh kỳ (nón cổ chầu), trẻ (tiểu
liên diệp), lính (trạo lạp), người hầu hạ, vợ con (viên đấu sư), có tang (xuân
lôi đại) … nhưng trước đó soạn giả có nói tới việc thay đổi ăn mặc, giao tiếp
dưới đời Trịnh Sâm.
12. Thực lục, q10 37b.
13. Chuyện trộm cắp của “Vũ trung tuỳ bút”, Nam Phong, XXI, t. 561.
Trên một bức hoạ của J. Barrow để lại1 chúng ta thấy một nhóm người
ngồi chơi ngoài trời. Ở mặt tiền bên phải một người có vẻ lính vì có giáo dài,
có tấm khiên đánh giặc, đầu vấn khăn, quần cụt, ở trần lộ ra những bắp thịt rắn
chắc. Trước mặt anh ta là một bàn cờ tướng. Phía sau anh và ngồi nhìn nghiêng
mặt là một người đàn bà tóc vấn ở trần hở ngực, nét mặt thanh tú, nhẹ nhõm như
Barrow đã công nhận. Những người bên trái hoặc phía sau nữa có vẻ sang hơn: một
ông già áo quần rộng thùng thình, đội khăn phủ vai, có người đội nón lá chóp đã
tơi, che thêm cái dù và có người đội nón thượng. Tất cả đều có vẻ thư thả thung
dung trong một khung cảnh nhàn tản như túp lều với hàng cau, dãy núi làm nền
cho bức vẽ.
Đám quân lính thì có điều đặc biệt hơn. Quân Tây Sơn mang giáo rất
dài trang trí bằng một cục tua nhuộm đỏ và màu đỏ này không ai được mang ở áo quần
cũng như vật dụng và chỉ dành riêng cho quân đội thôi (họ vẫn giữ gìn được mối
quyến rũ của lá cờ đỏ những ngày mới nổi dậy!). J. Barrow tả lính Gia Định
không đồng phục về màu sắc cũng như về kiểu mẫu. Thường ra, một chiếc khăn quấn
đầu đôi khi trùm khắp, một chiếc áo cánh hay áo chẽn xuề xoà với một quần cụt
là trang phục của lính. Nhưng khi triều đình có việc thì họ mặc đặc biệt hơn,
đội mũ giấy bìa cứng treo đuôi bò màu đỏ loét. Các áo chiến choàng ngoài và các
vạt áo lấm chấm thì hoàn toàn theo kiểu cách Trung Hoa.
Đời sống thường nhật đó không phải lúc nào cũng êm đềm trôi qua.
Trong giai đoạn chiến tranh này, dân chúng đã trải qua những tai hoạ khủng
khiếp. Ta đã nói tới những thảm cảnh đói ở Thuận Hoá năm 1775, đã tưởng tượng
trận dịch tể làm hao mòn một nửa quân Trịnh ở nơi đó rồi. Hãy nghĩ thêm những
khi lính tráng đắc thế như lúc loạn Kiêu binh. Họ phá nhà Huy quận công Hoàng
Đình Bảo “không còn mảnh ngói”, phá cả nhà “những quan thị mọi ngày có tánh
khắc khổ mà họ vẫn ghét. Họ còn lùng những người đó mà giết nữa là khác”. Trịnh
Tông chém một người để thị oai thì việc phá nhà tạm dừng, nhưng việc bắt người
vẫn chưa thôi hẳn3. Dân chúng ở Quảng Nam, Thuận Hoá cũng phải chịu áp lực của
những người có chút chức vị và bọn lính tráng tàn ngược. Ở Gia Định, lính và cả
quan cũng đi trộm cướp, có người có chức khá lớn như Cai cơ Nguyễn Văn Triệu,
Ngô Công Thành, Nguyễn Văn Đại ở dinh Vĩnh Trấn. Cấm vệ binh của Nguyễn Ánh
được ưu đãi, quyền lớn nên có kẻ giả mạo để đi ăn cướp khỏi bị tội khiến Ánh phải
lập thẻ lính để kiểm soát. Lính ngang tàng đến nỗi dân Bắc Hà phải gọi là
“cha”!
Cho nên, khi tình thế đảo ngược có dịp trả thù là dân chúng không
từ nan. Quân Trịnh đóng ở Huế khi bị Nguyễn Huệ phá vỡ chạy ra ngoài thành đều
bị dân chúng giết chết. Kiêu binh ở tứ trấn khi Nguyễn Khản ủng hộ Trịnh Khải
chống họ, họ trốn đi qua các làng xóm buột miệng nói lộ ra tiếng Thanh Nghệ đều
bị dân quê bắt giết, đành phải giả người câm đi ăn xin cùng đường. Một hoạt
cảnh mà Hoàng Lê kể lại nói lên đầy đủ thái độ dân đối với quan và lính trong
thời loạn:
“Khi Tây Sơn vào Thăng Long, Kiêu binh chạy ra các làng bị dân quê
kể tội kiêu lộng ngày trước không chứa chấp và làm nhục nhã đủ đường. Có người
cởi trần trùng trục hốt hoảng ở phía trong thành chạy ra khi qua cửa ô bị dân ở
đó trông thấy và chỉ mặt nói:
“Thằng bụng phệ kia có lẽ là lính Nhưng kiện, lôi cổ nó lại mà đánh
chết đi.
“Người ấy vội đáp:
“ - Không phải, ta là quan Huyện uý huyện Thọ Xương đây.
“Mọi người cùng cười:
“ - Người ta vẫn bảo “ông huyện to bụng” thật không sai.
“Người ấy cũng cười rồi đi”.
Ở những nơi không có đánh nhau họ vẫn phải chịu ảnh hưởng nặng nề
khi các đối phương thấy rằng muốn thắng được địch quân phải tận dụng sức lực
tài năng dân chúng. Ta đã thấy điều đó ở vùng Tây Sơn. Nguyễn Ánh cũng không
thể nào làm khác hơn. Thiếu lương mễ, thuế má, dân góp. Thiếu gỗ ván làm thuyền
vận lương, dân đóng mỗi người mạnh hơn 3 quan, già yếu bệnh tật một nửa. Thiếu
áo cho lính mặc, dân phải nạp vải. Đến đi lính cũng không tránh được đóng góp.
Để dự bị đánh Tây Sơn vào giữa năm 1789, Ánh bắt thu lương riêng của quan quân.
Đánh giặc nửa chừng (tháng 4 âm lịch 1795), Ánh kêu Cảnh ở Gia Định bắt bọn phủ
binh, thuộc binh, lạc tòng quân không đi đánh giặc mỗi người nộp hai vuông gạo.
Quân đến vùng nào thì ở đó cung cấp quân nhu. Thuế năm nay không đủ chi dụng
thì bắt dân góp trước thuế năm sau! Cho nên dân phải trốn tránh. Đến dân đồn
điền càng không sung sướng gì hơn. Họ trốn nhiều đến nỗi Bộ Hộ phải ra lệnh bắt
Cai trại mộ người bổ sung, hạn 15 người là đủ số trong tháng không xong thì
phải đi lính.
Tuy nhiên qua đói kém, chiến trận, người dân lại cày cấy, cất lại
nhà thờ khiến các giáo sĩ phải ngạc nhiên về năng lực xây dựng của họ. Rồi
những lúc rảnh rỗi, họ cũng biết tìm cách giải trí.
Phái đoàn Macartney ngạc nhiên về một đám 7-8 người chuyền nhau đá
kiện không cho rớt xuống đất. Trái kiện làm bằng một miếng da thuộc khô, có dây
cuốn lại. Ba chiếc lông dài cắm vào trong miếng da, toả ra phía trên nhưng đằng
dưới túm lại, chui qua cái lỗ cách nhau nửa phân của một đồng tiền. Có hai, ba
đồng tiền như vậy để làm đằm cái kiện.
Khi rảnh rang người ta đi coi hát. Người Anh không biết họ diễn hài
kịch gì (có lẽ là bữa hát chèo, bài chòi), nhưng thấy một người già làm ra vẻ
tức giận và một thằng hề chọc cười đáng gọi là có tài. Người đi xem vây quanh
rạp, có người leo lên cây nhìn vào đám hát, vào khán giả. Macartney được mời đi
xem một vở tuồng hát bội vào bữa 4-6, có kèn trống hợp tấu, diễn từ cũng nhịp
nhàng “như sân khấu Ý”. Đám đàn ca hát rất đúng nhịp và cả tay chân thân mình
uốn éo cũng rất uyển chuyển, đều đặn như bức hình còn ghi lại cho ta thấy
thêm6. Ca nhi cũng nhiều ở Gia Định, nhưng Nguyễn Ánh lại tìm cách ngăn cấm
không cho lẫn lộn trong quan quân. Ngoài ra, ở vùng này, các trò đá gà, đá cá,
đánh bạc cũng là những món giải trí thông thường7.
Sống vui buồn lẫn lộn như vậy, dân chúng còn để ý đến những hiện
tượng siêu hình. Các lễ tiết, tin tưởng mà chúng ta còn thấy quen thuộc vừa là
dịp cho họ cầu mong thần thánh giúp đỡ họ qua cơn nguy khốn như trường hợp
người dân chài ở Tourane lên bộ cầu xin gia đình yên ổn, chuyến ra khơi đầy
lưới. Trên các cành cây to hay trên các nơi cao khác, họ dựng trang thờ, đặt
vào đó cơm, đường và các thức ăn rồi đốt trầm lên khấn khứa.
Một nhân chứng đã viết những điều mắt thấy tai nghe về một tu viện
vùng thiểu số Mường: “Tôi được đến thăm một tăng viện mà họ gọi là Cả Đễ. Có
hai “Chậu húa” hay thầy tăng với 6 hay 8 người “sơ tu”(…). Họ mặc áo đỏ, không
làm gì cả, không cưới vợ, nhưng nghe đâu họ cũng rất phóng túng. Làng của Cả Đễ
đó nuôi tất cả những người ở trong tăng viện không để ai phải mất công làm bếp.
Khi có một người đến thăm họ theo tục lệ, trước nhất phải bái tượng đặt tại một
góc phòng sau đó quỳ dưới chân “Chậu hùa” để chào ông ta và để thưởng công cho
khách, ông ta đưa tay cho hôn. Trong khi đó thì “Chậu hùa” ngồi nghiêm. Họ chỉ
ăn có hai lần một ngày. Những ai ham ăn thường viện cớ cúng để giữ lại hai phần
cơm sáng hay trưa để đến tối ăn.
Tăng viện hay Cả Đễ ở trên núi cao nhất vì theo sách dạy, họ tin
rằng họ ở nơi cao bao nhiêu, khi chết họ càng dễ lên trời bấy nhiêu vì họ cho
rằng trời chỉ cách núi cao nhất có 20 dặm...”8.
Trong dân gian đầy phù thuỷ, ông đồng, bà bóng mà Nguyễn Ánh bắt
ngăn cấm, không thì đánh roi, phạt xay lúa, giã gạo. Tục lệ bị khinh khi, nhưng
thực ra nó bắt nguồn từ tin tưởng của rất đông dân chúng nên ảnh hưởng rất to
tát. Chúng ta lưu ý rằng tin tưởng đồng bóng đã được thể chế hoá ở vùng Trịnh
bằng đạo Nội. Chuyển về Nam, màu đỏ của phái đạo đó - màu tượng trưng cho
phương Nam - đã trở nên một khích động linh hồn quân tướng Tây Sơn nơi lá cờ,
nơi sắc áo lính tráng. Tất nhiên không khí thần bí đó gặp mảnh đất tốt của sinh
hoạt bộ lạc, của tư tưởng Chiêm Thành, của các hội kín Minh dân lưu vong lại
càng nồng nàn thêm khiến kết thành một phong trào quấy đảo dữ dội, khiến Nguyễn
Ánh thù ghét các ông đồng, bà bóng cứ tưởng mình vô tội vạ.
Tuy nhiên, tục thờ cúng ông bà - lạy xác - trên khắp nước vẫn được
chính quyền bênh vực coi như là nền tảng đạo đức của dân tộc. Các giáo sĩ phần
lớn cũng công nhận ý nghĩa luân lý, không mê tín của tục này nhưng vẫn theo
lệnh Roma để gây ra xung đột khiến ý thức Tây phương đi vào với một số đông
người đã hiện diện ở Đại Việt rồi mà phải lùi bước lại đợi một cuộc can thiệp
mạnh mẽ hơn vào nửa thế kỷ sau.
_______________________________________
1. P. Boudet và A. Masson.
Iconographie historique de l’Indochine française, ang VIII, hình 11.
2. Dẫn của G. Taboulet. La
geste française... sđd, t. 257.
3. Hoàng Lê, t. 30.
4. Hoàng Lê, t. 76.
5. Thực lục q4, 1b, 14a; q6,
12b; q7, 30b; q8, 7a, 13b; q10, 14a.
6. Iconographie
historique.... sđd, bảng VII, hình 10.
7. Thực lục q8, 28b mục tháng
8 âl 1796: “Văn võ thần... ăn thua cả hàng trên ngàn”.
8. Thư ông Guérand gởi ông
Blandin, 20-7-1796 (Sử Địa số 9-10. t.159, 160).
Tiết 15
CHIẾN TRANH VỚI NGUYỄN NHẠC
Phản ứng của Quy Nhơn * Cuộc tiến quân dò dẫm của Lê Văn Quân *
Những chuẩn bị trong khó khăn và trận thuỷ chiến ở Thi Nại 1792 * Chiến tranh ở
thành Quy Nhơn.
Ta đã thấy sự sôi sục phát triển của Gia Định và Phú Xuân. Trong
khi đó Quy Nhơn vẫn im lìm. Vẫn biết có khi biến cố vẫn xảy ra mà tài liệu
không nói tới để cho sử gia phải cam bó tay nhưng cũng có khi biến cố thật
không xảy ra nhiều vì địa phương, thời đại, tập đoàn ở đó gặp phải những điều
kiện ghìm bước tiến. Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc ở vào trường hợp này.
Nơi vùng Tây Sơn, trong khi em ông cai trị trên hai cựu đô Nam, Bắc
có đủ nhân vật tài lực để làm thế trưởng thành thì Nguyễn Nhạc phải bằng lòng
với một phần lớn xứ Chiêm Thành cũ từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận. Cũng như
chúng ta choáng mắt trước bước tiến ồ ạt của Tây Sơn, lầm tưởng họ có một hậu
thuẫn kinh tế dồi dào, phái bộ Macartney nhìn thấy “bằng mắt trần” xứ Tsiompa có
dáng của một cánh đồng xinh tốt, chập chùng thành từng bực cấp từ bờ biển tới
bên trong và chen lẫn một cách kỳ diệu những nội cỏ và đồng áng. Nhưng bằng
viễn kính thì cái cảnh giàu có ấy tan biến đi, nhường cho cảnh một vùng mênh
mông những cát vàng nhạt, chen vào đó rải rác những dãy núi, đỉnh nhọn vút lên
cao1. Vì vậy ta không lấy làm lạ rằng vùng Bình Thuận, Bình Khang không là cái
đích tranh giành của Tây Sơn và Nguyễn. “Đất Bình Thuận chiếm dễ giữ khó”2.
Nguyễn Văn Thành đã nói như vậy bởi vì quân Tây Sơn không giữ được mảnh đất khô
cằn này thì đổi về tay Gia Định mới trung hưng, khó khăn nào có giảm bớt đâu.
Thất bại trong chiến tranh nồi da xáo thịt gây một xúc động tâm lý
cho viên tướng đa mưu mà tuổi đã về chiều khiến cho Nguyễn Huệ phải chê trách.
Nhưng thực ra Thái Đức Hoàng đế cũng không thể làm hơn được. Trên căn bản nông
nghiệp, ông cũng biết cố gắng khuyến khích dân chúng canh tác bằng cách công
nhận ích lợi của những cơ sở sẵn có như cho các tay thợ gìn giữ các xe nước ở
Quảng Ngãi được miễn sưu dịch, cấp bằng cho người trông coi3. Đám Tề Ngôi cũng
có lảng vảng che chở bờ biển cho ông và trước sự phát triển của Gia Định làm
dân, binh Tây Sơn phải kinh hồn, chính ông cũng cố gắng cho đóng nhiều thuyền
bè mong chận trước cuộc tấn công 1792. Nhưng kết quả thực là ít ỏi. Sự hiện
diện của ông khiến Phú Xuân cách biệt Gia Định chỉ có hiệu quả là làm cho Gia Định
qua những bước khó khăn ban đầu thôi.
Tháng 4 Canh Tuất (1790), thu thập được năng lực mới mẻ, Nguyễn Ánh
bàn chuyện đánh Bình Thuận. Nguyễn Văn Thành bác đi nhưng Ánh vừa nhận thấy
được ích lợi do giao thương đưa lại nên muốn mở rộng đất để “xuất nhập thông
thương” để “nhờ cậy cái lợi cá muối” (của Bình Thuận) cần yếu cho binh lính,
dân chúng.
Dưới quyền của Tiết chế Lê Văn Quân có 6.000 quân. Tiên phong là Võ
Tánh; Nguyễn Văn Thành được làm phó với dụng ý làm hoà giải mối bất đồng giữa
viên tướng cướp mới về làm Phò mã và viên phụ tá của Châu Văn Tiếp cục mịch,
thô lỗ nhưng vẫn rõ ra là can đảm, có tài. Bình Thuận là đất Chàm, nhờ dịp Tây
Sơn nới lỏng, viên cầm quyền ở đó tên Tá hưởng được một quyền tự trị khá rộng
rãi nên đứng về phe Quy Nhơn. Nguyễn Ánh cũng khôn ngoan cho đi theo quân một
người Chàm là Hàn lâm Nguyễn Văn Chiêu làm Khâm sai Tán lý.
Nguyễn Văn Thành tiến quân đến Hốc Trâm chận đường về khiến Đô đốc
Tây Sơn là Đào Văn Hổ phải nhờ Chưởng cơ Tá dẫn theo thượng đạo rút lui. Tá bị
bội phản chết và quân Gia Định chiếm được Phan Rí. Lê Văn Quân muốn nhân dịp
này thừa thắng tiến lấy Diên Khánh. Nhưng quân tướng Gia Định với xuất xứ lẫn
lộn chưa tín nhiệm nhau. Nguyễn Văn Thành không đồng ý việc tiến quân. Võ Tánh
không đồng ý với Quân đã đành mà Tổng nhung Cai cơ Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Văn
Dực còn ám thông với Tây Sơn nữa. Lê Văn Quân mặc thuộc tướng, để Nguyễn Văn
Thành giữ chợ Mai (Mai Thị), Võ Tánh giữ Phan Rí rồi tự dẫn binh chia giữ Nha
Phân và Mai Nương4 trên ba luỹ mới đắp. Nhưng Tây Sơn đã tiến quân đánh trước.
Tháng 6 năm đó, Đô đốc Hồ Văn Tự, Nguyễn Công Thái, Tham tá Từ Văn
Tú từ Diên Khánh đem 9.000 quân vào tấn công. Thuỷ binh họ cũng đồng thời đổ bộ
lên cửa Phan Rang. Binh Nguyễn chết nhiều, Quân lui về giữ Ỷ Na5 đưa thư cầu
cứu. Lúc bấy giờ Nguyễn Văn Thành và Võ Tánh đã được chiếu triệu về nhưng Tánh
cứ đi luôn mặc Thành một mình quay lại.
Nguyễn Ánh một mặt sai Phạm Văn Nhân tiếp, một mặt tự dẫn binh thuỷ
ra cửa Tắc Khái. Lúc bấy giờ Quân, Thành đã lui được về Phan Rí. Quân Tây Sơn
lại tới vây. Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương, Võ Văn Lượng đem binh tiếp
viện khiến Tây Sơn lui về Phan Rang. Ánh cũng nhân mùa gió bấc sắp tới, bất lợi
cho cuộc hành quân nên để Nguyễn Văn Tính giữ Phan Rí, triệu Lê Văn Quân về
đóng Phước Hưng.
Trận chiến kéo dài khoảng 4 tháng là lần thử sức đầu tiên của Gia
Định và Quy Nhơn.
__________________________________________
1. V. Imbert. Le séjour de
l’ambassade... sđd, t. 11, 12.
2. Thực lục q4, 32a, mục
tháng 4 âl 1790. Lời can lúc Nguyễn Ánh muốn đánh Bình Thuận (xem sau).
3. A. Laborde. “La province
de Quang ngai”, BAVH, Juil-Sept 1924. Trong bài có chụp phía ngoài tờ sắc của
Nguyễn Nhạc, giữa có 3 chữ thảo “Thính chấp bằng” (giấp cho giữ làm cớ), chữ
đỏ, hàng bên phải một cột chữ: “Thự Thục lang Vũ Văn Lợi, Hà Nghĩa phủ, Mộ Hoa
huyện, Tứ chính tư đô vạn”. Bên trái: “Thái Đức thập nhị niên, tam nguyệt, nhị
thập ngũ nhật (20-4-1789). Ta biết tỉnh Quảng Ngãi lấy nước vào ruộng bằng xe
nước. Theo P. Guillemet (“Une industrie annamite: les noria du Quảng Ngãi”,
BAVH, Avr- Juin 1926, phụ lục), ở nhà Lão Diệm làng Bồ Để, huyện Mộ Đức còn giữ
ngoài những tờ ghi niên hiệu Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Tự Đức có một tờ đơn (số 6
trong phụ lục) của dân 2 xã thôn Thiện Đề, An Mỹ, huyện Mộ Hoa, phủ Hoà Nghĩa
xin cho được miễn sưu dịch. Đơn đề ngày 2-12 Thái Đức thứ 12 (16-1-1790).
4. Một chợ ở Phan Rang tên
Chàm là Dac niên.
5. Cà Ná?
6. Liệt truyện q27, 4a, 5b.
Thực lục q4, 32a, 34a, 35b, 38ab; q5, 1ab. Phước Hưng, chữ của Thực lục là Hưng
Phúc vùng cửa Xích Ram.
Dù có tên Phạm Văn Nhân, người theo hầu Hoàng tử Cảnh và dù tháng
3-1790 ở Gia Định đã có độ 10 thuyền buôn Bồ và một tàu Pháp như L.M J. de
Jésus Maria cho biết, chúng ta không nghĩ rằng người Tây đã tham gia chiến
trận, vì họ phải theo Nguyễn Ánh mà Ánh thì chưa đến Phan Rí. Dù sao, rõ là lực
lượng Gia Định tuy đánh bại Phạm Văn Sâm nhưng chưa đủ sức tiến ra. Và Ánh phải
chờ đợi.
Trong khoảng thời gian đó Ánh lo chỉnh đốn nội bộ, phát triển thế
lực. Cũng chính lúc này người Tây phương dồn dập tới. Ánh mua tàu đồng của ông
Gombra, sai Dayot đi buôn ở Macao, Manille. Nhưng đồng thời Gia Định cũng gặp
nhiều khó khăn do phát triển gây ra. Ánh nuôi binh, dân đói. Ánh lo xây công sự
phỏng thủ bắt sưu dịch nhiều, dân oán, ngóng về Tây Sơn. Ánh thận trọng lo việc
mở mang, chần chờ không ra quân làm bọn phiêu lưu Tây phương, kiêu ngạo có sẵn,
ồ ạt đã quen, mong muốn có chiến tranh để kiếm lợi, đâm ra sốt ruột, chán nản.
Ngày đầu tháng 5-1791, Ánh thấy Dayot đi buôn tiêu nhiều quá, phát ghét đòi
đuổi cả bọn từ lính tới sĩ quan. Phần Bá-đa-lộc lại nghĩ rằng do thái độ thiếu
cả quyết của Ánh mà Tây Sơn bớt lo sợ và cho rằng “trong tình thế này nếu họ có
gan đến đánh thì thực là khó ngăn cản họ”1.
Thực ra Bá-đa-lộc còn có dụng ý khác khi hối thúc Ánh ra quân. Quá
tin cậy vào lực lượng một nhóm người phiêu lưu, Pigneau định chắc ông sẽ thắng
được Tây Sơn. Ông muốn ra Bắc Hà làm phép cho các L.M ở đấy mà từ lâu ông không
được gặp. Ông hỏi thúc Ánh cất binh. Ánh không chịu, ông đòi bỏ đi tới 2 lần2.
Ngón đòn doạ già này sau đó Nguyễn Ánh sẽ bắt chước để buộc ông ở lại.
Tuy nhiên việc đánh Tây Sơn cũng vẫn được tiến hành. Tháng giêng
Nhâm Tý, Nguyễn Ánh bày ra kế hoạch mà sau này người ta sẽ gọi là những trận
giặc mùa. Ông bảo đợi tiết gió nam thổi thì ra quân, gió ngược thì trở về. Khi
đánh thì tụ tập binh lính lại, khi về thì cho đi cày ruộng, binh không mệt,
không ngồi ăn không trong lúc Tây Sơn chạy ứng cứu đầu này đầu nọ không rảnh tý
nào.
Nhưng đến khoảng tháng 5-1792 thì Gia Định nhốn nháo về tin Tây Sơn
sắp tràn vào. Không phải của Nhạc mà là của Huệ mới đáng sợ. Tin nghe ngóng ở
đây thì nói Tây Sơn có độ 300.000 người tràn vào đánh tốc thẳng xuống Cao Man4.
Sử quan thì cho biết Xiêm đưa thư xin Ánh giúp binh ở đường thượng vì Tây Sơn
đánh mạnh ở Vạn Tượng. Thư trả lời của Nguyễn Ánh cho biết rõ Gia Định có thám
báo kỹ càng. Theo đó, Nguyễn Huệ tuyển binh Bắc Hà có đến 2-30 vạn muốn đem vào
tấn công. Bộ binh đánh các đạo miền thượng phá đến Nam Vang, chuyển đánh sau
lưng Sài Gòn. Thuỷ binh sẽ vào Côn Lôn, phá Hà Tiên, theo Long Xuyên, Kiên
Giang ập lên chiếm Sài Gòn mặt trước. Thắng xong họ sẽ tính tới Xiêm. Điều này
chắc là Ánh doạ Xiêm để đề nghị một cuộc hợp tác: Xiêm ở phía sau trên bộ,
Nguyễn Ánh phía trước mặt đường thuỷ cùng hai mặt đánh Nghệ An, Phú Xuân, phá
trước kế của Tây Sơn5.
Kế hoạch đánh Gia Định có vẻ thực vì toan tính to lớn, hung bạo hợp
với thói quen của Nguyễn Huệ. Và sau đó quả có 40 thuyền Tề Ngôi của Quang
Trung lần mò vào đánh phá ở Bình Thuận. Không biết vì sao kế hoạch không thành.
Sử quan không cần nhắc lại nếu sự việc không xảy ra để cho họ ghi. Lelabousse
đưa hai giả thuyết: hoặc Tây Sơn sợ những chiếc tàu Âu lúc này đến buôn bán rất
nhiều ở Gia Định, hoặc quân họ đã gặp hai đạo quân Xiêm đưa lên ngăn họ vào
Miên. Rốt cục họ đã rút lui. Sự thực, như đã nói, Nguyễn Huệ thật khó mà hi
vọng thắng khi đưa quân đi vòng tránh đất Vua Anh để đến đánh. Còn đường bộ thì
núi rừng chập chùng, quân Lào, Xiêm, Miên sẵn sàng tiêu hao, đánh tập hậu;
đường nước thì gió bấc đã dứt và gió nam đang thổi mạnh. Cuộc viễn chinh chỉ
chậm lại nếu không có bất ngờ xảy ra cho Nguyễn Huệ.
Trong lúc Nguyễn Ánh bấn loạn thì Pigneau đòi đi lần thứ hai. Người
ta nhốn nháo lên vì ông này bỏ đi tức là lôi theo cả bọn phiêu lưu đang giúp
binh. Nguyễn Ánh cũng còn non tay không biết rằng khoảng đó năm trước Bá-đa-lộc
muốn đi nhưng không dám vì sợ hại cho công cuộc truyền giáo. Ánh vội vã tới xin
Pigneau ở lại. Một người lẻn nghe trộm cuộc hội kiến thuật lại rằng Pigneau
trách Ánh không chịu nghe lời, không đi đánh Tây Sơn.
Rốt lại Bá-đa-lộc thắng. Ông không đi nhưng Nguyễn Ánh phong
Olivier làm Vệ uý Thần Sách quân và đem súng lớn, lương thực ra ngoài biển tổ
chức một cuộc tập trận lớn gồm khoảng 128 chiếc vừa đại hiệu thuyền vừa ô
thuyền. Chiến dịch bắt đầu.
Thuỷ quân tràn đến vũng Diên bắt được thuyền tuần Tây Sơn biết họ
không chuẩn bị phòng thủ, Nguyễn Ánh sai Tôn Thất Huy cắt đặt tướng sĩ, Nguyễn
Văn Thành làm Tiên phong, Phạm Văn Nhân tiếp theo sau. Nguyễn Văn Trương theo
Trung quân hộ vệ và Nguyễn Kế Nhuận đi sau rốt.
Đến Thi Nại, Nguyễn Ánh cho binh giỏi lên bộ đốt huỷ trại Tây Sơn,
Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành lấy thuyền Long, Phụng xông thẳng vào7.
Nhưng theo người Tây, kẻ mở đường lại là Dayot trên chiến “tàu đồng”. Quân Tây
Sơn giữ thành tưởng là tàu buôn định khám tàu nhưng khi thấy theo sau đó là cả
thuỷ quân của Nguyễn Ánh nên chận lại. Họ bắn 5-6 tiếng đại bác. Dayot theo thói
quen Tây phương cho kéo cờ lên, bắn trả hết loạt. Rồi chiếc tàu nghiêng lại để
bắn nốt phía bên kia. Tây Sơn tiếp tục bắn nhưng tới lần thứ hai thì cả hệ
thống phòng thủ đã bị chiếm.
Đô đốc Tây Sơn tên Thành bỏ chạy. Quân Gia Định lấy được 5 đại hiệu
thuyền, 30 ghe đi biển và 40 ghe sai rồi lại tìm bắt được 3 ghe Tề Ngôi nữa.
Hai ngày ở chợ Thi Nại, Nguyễn Ánh vỗ về, phủ dụ dân chúng. Quân lại kéo về Gia
Định, khứ hồi chỉ hơn 10 ngày.
Đó là chiến thắng đầu tiên chứng tỏ sức mạnh của đội thuỷ quân mới.
Nguyễn Ánh lại còn vui mừng hơn khi biết chắc rằng đến lúc này Nhạc, Huệ cũng
vẫn chưa hoà nhau. Nức lòng, ông cho sửa soạn ngay cuộc tấn công mùa sau: cho
quân nghỉ, cho sứ đi Xiêm báo tiệp, bắt voi làm tượng binh, tạo thêm đại hiệu
thuyền, tăng thuỷ binh.
__________________________________________
1. Các thư của Pigneau 26-5-1791, 1-8-1791, 14-9-1791, của J. Liot
17-12-1791, của Lavoué ở Lái Thiêu 16-6-1792 (A. Launay, III, t. 297).
2. Thư của Pigneau gởi cho ông Boiret 20-6-1792 (A. Launay, III, t.
297).
3. Thực lục q6, 1b, chú, sử quan ghi những lời mà ta tin chắc là
của Nguyễn Ánh, vì đối với họ lời vua là trọng nên không được sơ sót bỏ qua.
4. Thư ngày 16-6-1792 (A. Launay, III, t. 223).
5. Thực lục, q6, 2b, 3ab. Chính nhân dịp này Xiêm đòi cho Mạc Công
Bính giữ luôn Long Xuyên, Kiên Giang và cho Chiêu-thuỳ Biện đất Ba Thắc nhưng
Ánh từ chối.
6. Thư Lelabousse cho ông Letondal, 17-6-1792 (A. Launay, III, t.
297).
7. Thực lục q6, 6ab, 7ab.
8. Thư của L.M Jean de Jesus Maria kể chuyện Thi Nại tháng 8-1792.
La révolte et la guerre des Tay son..., bđd, t. 102.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét