GS Cao Ngọc Lân
1. Bức tranh toàn cảnh nhà Tây Sơn
Vào thời điểm vinh quang nhất của phong
trào Tây Sơn trong công cuộc thống nhất đất nước 1786 – 1787 mà Nguyễn
Huệ là người tiêu biểu nhất thì phong trào Tây Sơn đã bị Nguyễn Nhạc
phong kiến hóa, phân phong làm ba khu vực cai quản đất nước. Đây là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự mâu thuẫn giữa anh em vua Thái Đức, khiến
kẻ địch lợi dụng ngay lập tức. Ở phía Bắc, họ Trịnh ngóc đầu dậy rồi
Nguyễn Hữu Chỉnh ra sức hoành hành. Ở phía Nam, Nguyễn Ánh cũng nhân cơ
hội lực lượng Tây Sơn bị chia sẻ để quay trở về đánh lại Gia Định (tháng
7 năm 1787).
Người em Đông Định Vương Nguyễn Lữ hèn
yếu, chưa đánh nhau với địch đã bỏ chạy về Biên Hòa, bỏ Gia định cho
Phạm Văn Tham giữ. Sau đó, Nguyễn Lữ lại chạy luôn một mạch về Quy Nhơn
rồi ốm và qua đời khiến vua Thái Đức mất một chỗ dựa về tinh thần. Mặc
dù tháng 10 năm 1787, ông đã điều Nguyễn Văn Hưng vào tiếp viện cho Phạm
Văn Tham, nhưng sau khi hai người vây đánh Nguyễn Ánh ở Mỹ Lung không
hạ được nên Nguyễn Văn Hưng tự ý rút quân về Quy Nhơn. Mặc dù Nguyễn Văn
Hưng tự ý rút nhưng Thái Đức hoàng đế không trừng phạt tướng này cho
thấy Thái Đức không còn quyết tâm và đủ nhuệ khí với chiến trường Nam bộ
nữa, hoàn toàn phó thác cho Phạm Văn Tham. Những diễn biến sau này từ
chiến trường Nam bộ cho thấy đây là sai lầm lớn của ông.
Không có người hợp sức, Phạm Văn Tham bị
đơn độc và dần dần trở nên yếu thế trước lực lượng ngày càng lớn mạnh
của Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh chuyển từ phòng ngự sang tấn công. Tới tháng 8
năm 1788, thành Gia Định mất, Phạm Văn Tham phải bỏ thành mà chạy. Phạm
Văn Tham chiến đấu bền bỉ đến tận đầu năm 1789 nhưng vì bị Nguyễn Ánh
vây ngặt và chặn đường biển về Quy Nhơn nên buộc lòng phải đầu hàng.
Trong khi đó, vua em Bắc Bình Vương đang
quyết chí theo đuổi ý tưởng chinh phục phía Bắc để xây dựng sự nghiệp
riêng. Không phải vua em không quan tâm tới chiến trường Nam bộ nhưng
nguy cơ ở Bắc Hà liên tiếp xảy ra không yên, từ họ Trịnh rồi Nguyễn Hữu
Chỉnh và sau đó là Vũ Văn Nhậm và chính Lê Chiêu Thống dẫn quân Thanh về
không phải nhỏ. Do đó Nguyễn Huệ không thể dồn hết lực lượng vào chiến
trường Nam bộ lúc đó. Lực lượng của vua Thái Đức đã hao mòn, lại mất hết
nhuệ khí và ông cũng không có phương pháp nào vực dậy.
Giữa anh em vua Thái Đức dù giảng hòa nhưng
chưa hoàn toàn xóa bỏ hiềm nghi. Hành động chống đối vua em của người
con rể vua Thái Đức là Vũ Văn Nhậm chứng tỏ lo lắng của vua em là có sơ
sở. Do đó, dù vua anh đã bất lực nhìn Nam bộ từng ngày mất về tay Nguyễn
Ánh thì việc vua em cầm quân qua địa phận vua anh để Nam tiến cũng
không phải là dễ dàng.
Chính sau cái chết của Vũ Văn Nhậm và
diễn biến chiến trường Nam bộ, vua Thái Đức đã nhận ra tuổi già, sự bất
lực của mình với đại cuộc. Ông thấy ngoài việc không thể kìm chế người
em hùng lược, ông cũng không nên ngăn cản em mình lo việc chung của nhà
Tây Sơn nữa. Chính vì vậy, cuối năm 1788, vì cơ nghiệp chung, ông từ bỏ
đế hiệu và niên hiệu Thái Đức, tự xưng là Tây Sơn vương. Ông nhiều lần
viết thư cho Nguyễn Huệ, chỉ xin giữ Quy Nhơn và nhường toàn bộ binh
quyền, đất đai trong cả nước cho vua em; đồng thời ông cầu khẩn vua em
mang gấp đại binh vào cứu Nam bộ (chiếu lên ngôi của Quang Trung nói rõ
vấn đề này).
Tuy nhiên lức đó Bắc Bình vương dù biết
lời cầu khẩn của ông nhưng không thể vào Nam tham chiến vì 20 vạn quân
Thanh do Lê Chiêu Thống rước về đã vượt qua biên giới. Nguy cơ phía Bắc
rõ ràng gặp nguy lớn hơn nên vua em buộc phải hoãn việc Nam tiến thêm
một thời gian nữa. Mặc dù vua em Quang Trung đã đại thắng quân Thanh
(1789) nhưng sau đó vẫn phải lo ổn định tình hình Bắc Hà do tàn dư của
nhà Lê còn sót lại và sức ép ngoại giao từ phía nhà Thanh. Vì vậy,
Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ kéo ra đánh Bình Thuận, Bình Khang,
Diên Khánh, quân của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc liên tiếp bại trận và mất
mấy thành này. Cho tới năm 1791, ông chỉ còn cai quản Quy Nhơn, Phú Yên
và Quảng Ngãi.
2. Mâu thuẫn anh em nhà Tây Sơn
2. Mâu thuẫn anh em nhà Tây Sơn
Khi Nguyễn Nhạc là Trung Ương hoàng đế
đóng ở Bình Định, giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nảy sinh mâu thuẫn. Hai
kẻ thù là Nguyễn Ánh và nhà Thanh muốn nhà Tây Sơn sớm bị diệt nên tìm
cách phá long mạch. Theo dân gian kể lại, trước nhà tổ của Nguyễn Nhạc
có một cánh rừng lớn như một con rồng chầu vào cửa nên một vài thầy
phong thủy nói với Nguyễn Nhạc, muốn phát huy sự thịnh vượng thì phải
chặt cánh rừng này đi. Nguyễn Nhạc theo lời đó mà cho chặt cánh rừng đi,
thế là long mạch bị phá. Năm 1792, Nguyễn Huệ đột ngột từ trần trong
lúc đang chuẩn bị kế hoạch chi tiết để diệt Nguyễn Ánh ở Gia Định. Khi
Nguyễn Huệ chết thì truyền ngôi lại cho con là Quang Toản.
Năm Quý Sửu (1793) Quang
Toản chính thức lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh, sai Ngô Thì
Nhậm sang nhà Thanh báo tang và xin sắc phong. Vua Thanh vốn đã sắc
phong cho Quang Toản làm Thái tử khi vua Quang Trung còn sống nên lập
tức xuống chỉ phong Toản làm An Nam Quốc vương. Án sát Quảng Tây được
lệnh làm sứ thần đến Bắc Thành, Quang Toản cũng sai người đóng giả nhận
thay. Sứ thần nhà Thanh có biết việc ấy song không có phản ứng gì.
Quang Toản lên ngôi lúc tuổi
còn nhỏ nên không đủ năng lực và uy tín để điều hành công việc quốc
gia. Mọi việc đều được quyết định bởi Bùi Đắc Tuyên. Từ đó Đắc Tuyên
ngày càng chuyên quyền, trong ngoài đều oán hận. Đại thần trong triều
ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau, Quang Toản không ngăn được đành chỉ khóc
lóc mà thôi. Giữa lúc đó lại có cận thần gièm pha rằng, oai quyền của
Trần Quang Diệu quá lớn, mưu đồ cướp ngôi. Quang Toản tin là thật, liều
rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu gửi mật thư vào
Quy Nhơn hẹn với Lê Văn Trung đem quân ra phế hạ Quang Toản, lập Quang
Thiệu lên ngôi. Việc không thành, Quang Thiệu bị giết còn Lê Văn Trung
bị chém. Con rể Lê Văn Trung là Lê Chất sợ hãi, bỏ Tây Sơn sang đầu hàng
Nguyễn Ánh.
Năm 1793, khi Nguyễn Nhạc đang
ốm thì Nguyễn Ánh đem quân vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc sai con là
Bảo đem quân chống lại nhưng tình hình rất nguy kịch. Nguyễn Nhạc viết
thư cầu cứu Quang Toản. Quang Toản sai các tướng Phạm Công Hưng, Nguyễn
Văn Huấn, Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi, 30 chiến thuyền
chia đường vào cứu viện Quy Nhơn. Quân Nguyễn Ánh phải rút lui. Các
tướng của Quang Toản vào thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc sai đem vàng, bạc
mỗi thứ một mâm khao quân. Thái úy của Quang Toản là Phạm Công Hưng kê
khai kho tàng, thu lấy giáp đinh và chiếm luôn thành Quy Nhơn. Quá uất
ức trước việc làm đó, Nguyễn Nhạc thổ ra máu mà chết. Sau khi Nguyễn
Nhạc mất, Quang Toản phong cho con của Nguyễn Nhạc là Bảo làm Hiếu Công,
cắt cho Bảo huyện Phù Ly làm ấp ăn lộc gọi là Tiểu Triều. Mẹ Bảo uất
hận nói với con rằng:
– Khai thác cõi đất này đều
là công của cha mày, nay chỉ ăn lộc có một huyện, nếu sống mà chịu nhục
thì chẳng thà chết còn hơn.
Từ đó, Bảo có chí hàng
Nguyễn Ánh. Bảo cho người đi đưa tin thì bị quân Quang Toản bắt được.
Quang Toản cho Bảo uống thuốc độc chết. Do long mạch bị triệt phá nên
anh em nhà Tây Sơn lại đánh giết lẫn nhau. Nhà Tây Sơn suy vong dần.
3. Quang Trung qua đời
3. Quang Trung qua đời
Năm 1792, quân Tây Sơn đóng thủy quân ở
cửa Thi Nại để Nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm, chỉ thuận cho quân
Nam ra, phải đợi đến mùa đông mới thuận gió cho quân Tây Sơn vào.
Nguyễn Ánh thừa dịp cùng quân Pháp, Bồ Đào Nha đánh úp cửa Thi Nại, đốt
cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Quân Tây Sơn không phòng bị, lại
phải thu quân về Quy Nhơn.
Để báo thù trận đó, vua Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20 vạn quân thủy bộ, chia làm ba đường:
* Vua Thái Đức cùng với quân “Tàu ô” theo đường bộ từ Phú Yên vào đánh Gia Định.
* Quân bộ của Quang Trung từ Phú Xuân đi
thẳng qua lãnh thổ Vạn Tượng tới Nam Vang (Chân Lạp), từ đó cùng quân
Chân Lạp kéo về Gia Định, bao bọc đường chạy của Nguyễn Ánh không cho
sang Xiêm.
* Quân thủy của Quang Trung sẽ tiến vào đón lỏng tận Hà Tiên đổ bộ lên đất liền để ngăn Nguyễn Ánh chạy ra biển.
Chính các giáo sĩ Pháp giúp Nguyễn Ánh
lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Ánh khó lòng chống lại được
Tây Sơn trận này. Tuy nhiên, cái chết đột ngột của vua Quang Trung khiến
kế hoạch Nam tiến này không bao giờ trở thành hiện thực.
Tháng 9 năm 1792, vua Quang Trung đang
ngồi bỗng thấy hoa mắt, sầm tối mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi
đó là chứng “huyễn vận” (ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não).
Khi tỉnh dậy được, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về
triều bàn việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh
của nhà vua ngày càng nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua dặn Trần Quang
Diệu và các quần thần:
– Ta mở mang bờ cõi, khai thác cả cõi
Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử Nguyễn Quang Toản tư
chất thông minh nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn
Ánh) là quốc thù, trong khi Thái Đức Nguyễn Nhạc tuổi già, ham phú quý,
cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội
trong một tháng phải chôn cất, việc tang cần đơn giản thôi. Các ngươi
nên hợp sức giúp Thái tử sớm Thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh ngày nay) để
khống chế thiên hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến thì các ngươi
không có chỗ chôn đâu!
Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý
(1792) vào khoảng 11 giờ khuya, Quang Trung từ trần. Quang Trung ở ngôi
được 5 năm, thọ 40 tuổi. Miếu hiệu là Thái tổ Vũ hoàng đế. Thi hài của
ông được táng ngay trong thành, tại phủ Dương Xuân. Nguyễn Quang Toản
lên nối ngôi, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong. Vua Càn
Long thương tiếc tặng tên hiệu là Trung Thuần, lại thần làm một bài thơ
viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà
Thanh đến tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để
viếng.
4. Trận chiến cuối cùng
4. Trận chiến cuối cùng
Ở phía Nam Nguyễn Ánh nhờ người Pháp
giúp đỡ nên đem quân đánh ra Quy Nhơn. Năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm được
Quy Nhơn và đổi tên thành Bình Định. Từ đó Nguyễn Ánh bắt đầu dành được
thế áp đảo. Nguyễn Quang Toản non yếu, nội bộ lục đục không chống nổi
nên bị Nguyễn Ánh tiêu diệt. Tháng 6 năm 1801, Nguyễn Ánh chiếm được Phú
Xuân. Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn
Ánh đang cố thủ, từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp. Rồi
Bùi Thị Xuân còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi. Lúc bấy giờ
Nguyễn Ánh cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang
đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân. Nào ngờ vua Cảnh Thịnh nhát
gan thấy quân Nguyễn Ánh tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui
binh. Khi thấy Quang Toản quay ngựa bỏ chạy thì Bùi Thị Xuân nắm lấy
cương ngựa rồi nói: “sắp chiến thắng rồi, bệ hạ đi đâu vậy?”. Quang Toản
gạt tay Bùi Thị Xuân ra và nói:“để Trẫm về lấy thêm quân, sau đó sẽ
tiếp tục đánh Nguyễn Ánh”.
Ngay lúc đó, Bùi Thị Xuân cũng nhận được
tin Nguyễn Văn Trương phá tan thủy binh của Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ
(Quảng Bình) cướp được hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn
Kiên cũng đã đầu hàng. Biết được tin này, quân Nguyễn Ánh cố đánh để
thắng nên làm quân Tây Sơn chồn chân. Trước tình thế đang thắng thành
bại này đội quân Tây Sơn bỏ cả vũ khí, đạn dược để tháo chạy. Đây có thể
nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của Bùi Thị Xuân nhằm cứu vãn
tình thế. Nhưng ngờ đâu nhà Tây Sơn, sau trận này thêm trượt dài trên
đà suy vong, không sao gượng lại được nữa. Quang Toản thua trận, chạy ra
Bắc Hà. Tháng 6 năm 1802, Nguyễn Ánh huy động toàn bộ quân thủy bộ đồng
loạt tiến ra Bắc. Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc Giang rồi bị bắt. Triều
đại nhà Tây Sơn chấm dứt từ đấy. Triều đại Tây Sơn chỉ tồn tại 25 năm
với ba đời vua là Thái Đức (1778 – 1793), Quang Trung (1789 – 1792) và
Cảnh Thịnh (1793 – 1802).
5. Sấm Trạng Trình về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn
5. Sấm Trạng Trình về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn
Hai câu thơ
Chấn cung xuất nhất
Ðoài cung vẫn tinh
Nghĩa là:
Mặt trời xuất hiện ở phương Ðông
Sao sa ở phương Tây
Theo bát quái, có tám cung là: Càn,
Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Ðoài. Chấn thuộc về phương Ðông. Theo
kinh Dịch, cung Chấn thuộc về người trên (anh cả). Ý muốn nói người anh
cả của họ Nguyễn Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sẽ dấy nghiệp. Sao sa ở phương
tây: ý nói nhà Tây Sơn xuất hiện.
Hai câu:
Hà thời biện lại vi vương
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn
Nghĩa là:
Làm thế nào thời ấy tên biên lại làm vua,
Lúc ấy Bắc phải hết, Nam cũng chạy.
Hai câu trên đây ám chỉ Nguyễn Nhạc, làm
chức biện lại ở huyện Vân Ðồn, tỉnh Quy Nhơn khởi nghĩa dấy binh tự
xưng là Tây Sơn Vương. Nhà Tây Sơn nổi lên diệt chúa Trịnh ở phương Bắc,
đuổi chúa Nguyễn ở phương Nam lập nên đế nghiệp.
Sáu câu:
Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
Ðoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Ðầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
Ðoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Ðầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Câu 1+ câu 2:
Những câu này ứng nghiệm việc Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước
Nam. Khi đến Thăng Long Thành, Tôn Sĩ Nghị cho quân bắc một chiếc cầu
nổi bằng tre ngang sông Hồng Hà. Trước khi đánh dẹp giặc Thanh, Nguyễn
Huệ xưng là Quang Trung Hoàng đế (hai câu 1-2). Nhờ tài ngoại giao của
Ngô Thời Nhiệm, Quang Trung được vua Nhà Thanh là Càn Long phong chức An
Nam Quốc Vương, một vương hiệu chính thức được Trung Hoa thừa nhận.
Câu 3+câu 4:
Sau hai năm lên ngôi vua, Hoàng đế Quang Trung mất (Ðoài cung) ở câu 3
có nghĩa là phương tây. Theo kinh Dịch, cung Ðoài là phần đuôi, ý nói
người em của nhà Tây Sơn là Nguyễn Huệ mất. Sau khi vua Quang Trung mất,
năm sau Nguyễn Nhạc vì tức vua Cảnh Thịnh, tức Nguyễn Quang Toản (con
vua Quang Trung) chiếm thành Quy Nhơn và biên tịch tài sản nên thổ huyết
mà chết. (Chấn cung ở câu 4 ám chỉ Nguyễn Nhạc. Theo kinh Dịch cung
Chấn là người trên, người anh của Tây Sơn).
Câu 5 ám chỉ tên của vua Quang Trung và vua Cảnh Thịnh.Theo
phép chiết tự, chữ “Quang” (光) của vua Quang Trung có chữ “Tiểu” ở trên
mà chữ “Cảnh” (景) của vua Cảnh Thịnh lại có chữ “Tiểu” ở dưới. Cho nên
mới gọi là: Ðầu cha lộn xuống chân con.
Câu 6 ám chỉ nhà Nguyễn Tây Sơn chỉ làm vua được 14 năm là dứt.
Chú thích:
[1]
Trước khi cất đại quân bắc tiến đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ đã sai một
cận thần là Diệm cầm thư vào Nam cho Phạm Văn Tham, dặn rằng cố gắng
phòng thủ rồi đại quân quân Tây Sơn sẽ ứng cứu. Nhưng đầu năm 1789, khi
Diệm vào tới nơi thì Phạm Văn Tham đã đầu hàng Nguyễn Ánh. Diệm bí mật
tìm gặp Phạm Văn Tham và đưa thư của Nguyễn Huệ cho Phạm Văn Tham. Phạm
Văn Tham đọc thư ân hận, bèn lưu Diệm trong quân của mình để chờ thời
cơ. Việc bị tiết lộ, Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh giết chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét