“Gần
đây nhiều nhà kiến trúc, phong thủy và lịch sử đã lên tiếng kiến giải
sự yểu mệnh của một vài triều đại trong lịch sử Việt Nam liên quan đến
yếu tố chọn đất xây thành. Có ý kiến cho rằng thế “rồng cuộn, hổ chầu”
trong Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ bị hiểu sai hoặc vận dụng
không đúng dẫn tới chuyện cả vương triều [Mạc và Hồ] đặt trên vùng Âm
trạch (tức là đất tốt để làm việc âm), thay vì Dương trạch. Phóng viên
đã về tận Cao Bằng, Lạng Sơn và Thanh Hóa, tìm đến các di tích và vùng
đất cổ, gặp gỡ những nhân chứng và các nhà phong thủy, lịch sử để tìm
kiếm những giả thuyết khả dĩ giải mã sự yểu mệnh của nhà Hồ và nhà Mạc” –
Lời Tòa soạn báo Pháp luật TP HCM.
“Đây
là loạt bài viết về thuật phong thủy trong chọn đất xây
thành, dời đô v.v., nhân dịp Quốc hội sắp bàn về dự án xây
dựng trung tâm hành chính quốc gia ở Ba Vì. Khi viết, mặc dù
tôi cố gắng không tạo một cảm giác nào về sự dị đoan, phi
lịch sử, phi khoa học v.v. nhưng chắc chắn bài không thể tránh
được những lỗi nào đó liên quan tới các lĩnh vực sử học,
phong thủy cũng như Hán văn. Mong bạn đọc vui lòng chỉ giáo. Xin
chân thành cảm ơn” – Đoan Trang.
Cả
nước xông vào can ngăn, phân tích đủ lẽ thiệt hơn, phải trái; nghe thì
hay, thì tốt, không nghe thì nguy thì khốn đã thấy nhãn tiền. Lời của
đám thức giả đâu chỉ là lời của bọn họ, mà là lời của tổ tiên ngàn đời
dun dủi gửi về thác ra lời bọn họ. Tổ tiên linh thiêng chỉ lo đám con
cháu lục đục mà không hưng thịnh thôi chứ Đại Việt thì trường tồn! Sá
chi một nhà Hồ nhà Mạc!
TS Nguyễn Xuân Diện
Bài 1: Tây Đô thành hoài cổ
Đời
nay nhìn lại sẽ là giản đơn và thiếu khoa học nếu quy thất
bại của nhà Hồ cho việc dời đô và chọn đất sai phong thủy.
Nhưng theo các sử gia, trong số các nguyên nhân của thất bại, ít
nhất có nguyên nhân “làm mất lòng dân”, mà việc dời đô góp
một phần vào đó.
Từ
thành phố Thanh Hóa, đi về phía Tây khoảng hơn 50 km, qua ngã ba
Kim Tân thêm chừng 1 km nữa, sẽ thấy nơi cuối con đường hiện
sừng sững một cổng thành đá ba vòm uốn cong, dưới chân tường
cỏ phủ xanh. Đó là cổng chính của một tòa thành cổ, ra đời
từ cách đây đã hơn 600 năm: Tây Đô, hay như chúng ta thời nay gọi
“thành nhà Hồ”.
Vào
những ngày này, Ban Quản lý di tích và thành phố Thanh Hóa
đang trong quá trình chờ UNESCO xét duyệt hồ sơ công nhận thành
nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới, nếu không có gì thay đổi
thì năm 2011 sẽ có kết quả. Xét về phương diện kiến trúc, công
trình khá độc đáo, theo nhận định của ban quản lý thì “cả
khu vực Đông Nam Á không có ngôi thành nào thế này”. Độc đáo
bởi lẽ toàn bộ thành xây bằng đá; những tảng đá lớn nặng 2-3
tấn, có khối nặng tới 20 tấn, được xếp vào nhau cực kỳ khít
khao, bằng phẳng mà không hề dùng vữa. Tổng diện tích bề mặt
đá đo được (mặt ngoài, chưa tính phần lõi) là hơn 10 triệu m2.
Người đời nay tới thăm thành có thể kinh ngạc, không hiểu làm
cách nào mà thời Hồ (cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV), phu xây
thành lại có thể di chuyển những khối đá lớn như thế để xây
nên những bức tường có chiều cao trung bình 5-6 m, cổng mái vòm
gần 10 m. Đó là chưa kể các tảng đá đều được mài nhẵn, vuông
vức, xếp rất khít vào nhau. Nhà nghiên cứu người Pháp
L.Bezacier từng nhận xét vào đầu thế kỷ XX: “Ngôi thành này là
một mẫu mực độc nhất về việc sử dụng những khối đá vôi to lớn, được đẽo
gọt và ghép một cách rất tài tình…”. Vì lý do này, Tây Đô còn được
gọi là “thạch thành”, nghĩa là thành đá.
Địa thế thành Nhà Hồ (google)
Trải
qua sáu thế kỷ, một số bức tường đã bị sạt lở, song bốn
cổng thành vẫn còn nguyên, trong đó chỉ riêng cổng Nam (cổng
chính, mặt tiền) là có ba vòm, các cổng Bắc, Đông, Tây đều
“đơn môn” (một cửa). Chiều dài từ cổng Bắc tới cổng Nam là 880
m, Đông sang Tây 877 m, tức là tổng diện tích nội thành gần 1 km2
. Các kiến trúc khác mà sử sách có ghi lại như La Thành (vòng
thành ngoài cùng), điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ, v.v… đều không
còn nữa, chỉ để lại dấu tích.
Tây
Đô độc đáo còn vì đây là ngôi thành đã chứng kiến bảy năm
tồn tại của nhà Hồ – một triều đại yểu mệnh trong lịch sử
phong kiến Việt Nam. Ông vua nổi tiếng của triều đại này – Hồ
Quý Ly – được ghi nhận như là một nhà cải cách đầy tham vọng,
đã dời đô từ Thăng Long về Thanh Hóa, xây một ngôi “thạch thành”
kiên cố đủ cả tường cao, hào sâu, trên vùng đất mà chính ông
nhận xét là “long xà ẩm thủy”, “rồng chầu rắn cuộn”. Vậy mà
khi quân Minh kéo sang, vua quan Hồ Quý Ly thua chạy dài, thành
Hồ chưa (kịp) bị tấn công ngày nào đã thất thủ.
“Thế đất xung quanh còn non lắm”
Theo
giới nghiên cứu thì Hồ Quý Ly đã có sự tính toán, chuẩn bị
rất kỹ cho việc chọn đất xây thành, ít nhất là về mặt phong
thủy. Thời đó, khu đất xây thành được bao quanh bởi cả sông và
núi: Từ cổng Tây đi ra có dòng sông Mã. Phía Đông có dòng sông
Bưởi. Phía Bắc gối đầu vào núi Thổ Tượng, còn gọi là núi
Voi. Cổng chính mở ra hướng Nam, tiến thẳng về Đún Sơn (tức
núi Đún theo tiếng địa phương), là nơi đặt đàn tế Nam Giao –
một trong bốn đàn tế xã tắc còn lại ở Việt Nam đến ngày nay.
Hồ
Quý Ly rất tâm đắc với mảnh đất này, cho là đắc địa, có thể
xây nền đế nghiệp lâu dài, bởi sông Mã lớn như con rồng chầu
phía Tây, sông Bưởi nhỏ hơn uốn lượn như con rắn cuộn phía Đông.
Hai bên là sông, trước mặt sau lưng là núi, thế vững như vậy,
đây hẳn là “mảnh đất long xà ẩm thủy, có thể ở được lục
thập niên ký” (tức là trên dưới 60 năm).
Tiếc
thay, không được như mong đợi của Hồ Quý Ly, nhà Hồ chỉ thọ
được thất niên. Dân gian có vài giai thoại đồn rằng thảm bại
của họ Hồ xuất phát từ sai lầm trong phong thủy xây thành. Giai
thoại thứ nhất kể Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết đã dâng
thư can nhưng Quý Ly không nghe. Thư viết: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà
Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ (tức
Thăng Long) có núi Tản Viên, có sông Lô, Nhị, núi cao sông sâu,
đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa các bậc đế vương mở nền dựng
nước, không đời nào không lấy đất ấy làm nơi sâu gốc bền rễ
[…]. Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nhà nước.
An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước,
hợp với loạn mà không hợp với trị” (Theo giải thích của TS Đỗ
Quang Trọng, Trưởng ban quản lý di tích, sở dĩ gọi là “đầu
non cuối nước” vì xuôi về phía Nam thì sông Mã và sông Bưởi có
gặp nhau ở một điểm, cổng Bắc thành thì gối vào núi Thổ
Tượng).
Cổng tiền (Cổng phía Nam 3 cửa)
Cổng Phía Tây (Một cửa) Giông cổng phía Đông nhưng khác ở chỗ là xây đơn giản hơn
Một
giai thoại khác cho rằng từ cổng chính thành mở ra một con
đường lát đá dài 2,5 km chạy thẳng về đàn tế Nam Giao, con
đường này giống như mũi tên, mà núi Đún nơi đặt đàn tế thì
uốn vòng như một cánh cung giương sẵn. Hai yếu tố này phối
hợp, làm thành một thế cực độc về phong thủy: Tên bắn thẳng
vào thành. Song nói chung kể cả nếu không phạm vào cái thế
này thì thành nhà Hồ cũng khó vững, bởi như chính Hồ Hán
Thương (con trai Hồ Quý Ly) đã nói, mảnh đất này tuy là thạch
bàn long xà nhưng “thế đất xung quanh hãy còn non lắm, nên chỉ
ở được lục niên kỷ (sáu năm) mà thôi”. Nhà Hồ đã tính lầm ngay
từ khi dời đô về phủ Thanh Hóa.
“Anh hùng di hận kỷ thiên niên”
Đời
nay nhìn lại sẽ là giản đơn và thiếu khoa học nếu quy thất
bại của nhà Hồ cho việc dời đô và chọn đất sai phong thủy.
Nhưng theo các sử gia, trong số các nguyên nhân của thất bại, ít
nhất có nguyên nhân “làm mất lòng dân”, mà việc dời đô góp
một phần vào đó. Nhà Trần có 175 năm tồn tại, trải 13 đời
vua, ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Đất Thăng Long vì
thế đã gắn bó quá sâu đậm với lòng dân, với nhà Trần. Dời
đô khỏi miền đất ấy khác nào chặt một cái cây khỏi cội rễ
của nó. Còn mảnh đất định đô mới, dẫu có là nơi đắc địa với
quan niệm của Hồ Quý Ly thì như Nguyễn Nhữ Thuyết thống thiết
can: “Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: Cốt
ở đức chứ không cốt ở hiểm”.
Triều
Hồ thất bại. Có lẽ chỉ Nguyễn Trãi là giữ tấm lòng thương
cảm với Hồ Quý Ly khi ông viết: “Họa phúc hữu môi phi nhất
nhật/Anh hùng di hận kỷ thiên niên” (Họa phúc có manh mối không
phải một ngày/Anh hùng để mối hận mấy ngàn năm sau).
Nguồn: Báo Pháp Luật TP
eva air vietnam
Vé máy bay đi mỹ
korean airlines
vé máy bay đi mỹ rẻ
giá vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich