Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Ngô Thì Nhậm là một nhân vất lịch sử gây
nhiều tranh luận, một người có “vấn đề”. Gây tranh luận chẳng những do
tài học của ông (bao gồm cả thi phú, biên khảo địa phương chí, Nho học,
Phật học), do cuộc đời hoạt động chính trị quá nhiều thăng trầm của ông,
mà còn do những điều ông nói ông làm đặt nhiều người trước những vấn
nạn khó xử. Ngô Thì Nhậm là người không chịu chấp nhận dễ dàng những
điều nhiều người chấp nhận, không đi theo lối mòn. Cũng giống như Quang
Trung, Ngô Thì Nhậm bị thời thế đưa đẩy để phải quyết định những bước
sinh tử ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng ngược lại, có đủ bản lãnh để
khắc phục tình thế và lái lịch sử đi theo con đường mình cho là đúng.
Trong lịch sử Việt nam, ít có người trí thức nào đạt được mức tự tín và
tài ba như ông. Trước ông, Chu Văn An là một huyền thoại về kẻ sĩ, một
thứ huyền thoại cần thiết cho đạo học, nhưng chưa chắc đã cần thiết cho
các hoạt động thưc tế. Nguyễn Trãi cũng có kiến thức uyên bác và khả
năng hành động như Ngô Thì Nhậm, nhưng những khó khăn Nguyễn Trãi phải
đối phó, so với Ngô Thì Nhậm, không nhiều. Làm quân sư cho một phong
trào dân tộc kháng chiến chống ách đô hộ của ngoại bang để giành độc
lập, Nguyễn Trãi cứ thuận theo chính nghĩa có sẵn để thi thố tài năng.
Tổ quốc với vương triều ông tận tụy phục vụ là một. Về cuối đời, Nguyễn
Trãi có gặp tai họa, nhưng nạn giết hại công thần không phải là hy hữu
trong lịch sử, Nguyễn Trãi là nạn nhân của một guồng máy cai trị muốn ổn
định quyền lực (nhà Hậu Lê) cũng giống như Lê Văn Duyệt là nạn nhân của
nhà Nguyễn sau này.
Ngô Thì Nhậm không được may mắn như Nguyễn Trãi. Xã hội ông sống bị hỗn
loạn tận gốc rễ, nhất là sự hỗn loạn về ý hệ. Tổ quốc và vương triều
không phải là một như thời Nguyễn Trãi, trung với vua không nhất thiết
là trung với nước. Mãi cho tới ngày nay, hơn hai trăm năm sau, chúng ta
còn khó đồng ý với nhau về việc vua Lê Chiêu Thống qua cầu viện nhà
Thanh để diệt Tây Sơn hoặc Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm, thì hồi đó,
lòng Ngô Thì Nhậm và giới trí thức nho sĩ đương thời còn bối rối đến mức
nào trước các thế lực chính trị phức tạp, mà thế lực nào cũng tự xem
mình là có chính nghĩa, là chính thống. Ở Ðàng trong là Nguyễn Gia miêu
và Tây sơn. Ở Bắc là vua Lê chúa Trịnh. Riêng triều thần phục vụ chúa
Trịnh lại thêm phe Trịnh Tông, phe Trịnh Cán. Ngô Thì Nhậm mắc kẹt trong
cái thế phân tranh rối rắm đó ngay từ đầu, mang tai tiếng ngay trên quê
hương mình, tạo nghi kỵ chia rẽ ngay trong dòng họ mình. Ông may mắn
gặp được một lãnh tụ chính trị biết dùng người nên ra sức phục vụ đắc
lực trong nhiều phạm vi khác nhau, quân sự có, văn hóa có, kinh tế có,
ngoại giao có, để rồi sau khi Quang Trung mất, đau đớn chứng kiến vương
triều mình góp công xây dựng suy sụp và lãnh sự trừng phạt nhục nhã vào
cuối đời.
Mẫu đời đó quá đặc biệt, dù xét từ quan điểm nào. Thời loạn tạo vóc
dáng cho nhà nho Ngô Thì Nhậm, và ngược lại, Ngô Thì Nhậm cũng để lại
dấu vết sâu đậm của con người mình lên thời loạn. Không có Ngô Thì Nhậm,
xã hội Việt nam sẽ ra sao nếu không có một người uyển chuyển và khôn
khéo về ngoại giao như ông để đối phó với nhà Thanh? Không có Ngô Thì
Nhậm, đám nhân sĩ Bắc hà sẽ phản ứng thế nào trước một đám võ biền quá
tự tín về sức mạnh võ bị lại được giao phó trọn vẹn quyền uy để cai trị
một vùng đất ngàn năm văn vật? Những dự phóng của Ngô Thì Nhậm cho một
nền kinh tế hậu chiến (như trong bài Chiếu khuyến nông) đã đưa tới kết
quả gì?
Tìm hiểu cuộc đời Ngô Thì Nhậm tuy khó nhưng còn làm được, phán xét
về ông thì khó hơn, vì đòi hỏi một cái nhìn đã thoát khỏi các ý hệ. Ngô
Thì Nhậm là một nhân vật lịch sử danh tiếng và tai tiếng.
Ngô Thì Nhậm, tự là Hi Doãn, hiệu là Ðạt Hiên, viết về Phật học lại
có đạo hiệu là Hải lượng, sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần (25-10-1746)
tại làng Tả Thanh oai, huyện Thanh trì, thuộc một dòng họ nổi tiếng về
cử nghiệp và khoa hoạn. Cha ông là Ngô Thì Sĩ (1726-1780), đỗ Hội nguyên
hoàng giáp, từng làm quan lớn cho nhà Trịnh, khi là Tham chính Nghệ an,
khi làm Ðốc trấn Lạng sơn (đúng vào lúc con trai ông, Ngô Thì Nhậm làm
Ðốc đồng Kinh bắc kiêm Ðốc đồng Thái nguyên, hai cha con trấn nhậm tại
ba trong bốn trấn quan trọng nhất quanh kinh đô Thăng long). Về văn
nghiệp, Ngô Thì Sĩ là tác giả “Việt Sử Tiêu Án” và một số tập thơ Hán
văn giá trị như “Anh Ngôn Thi Tập”, Quan Lan Thi Tập”, “Nhi Thanh Ðộng
Tập”, “Khuê Ai Lục”. Ông mất năm Canh Tý (1780) sau vụ án Canh Tý (Trịnh
Sâm dẹp tan âm mưu đảo chính của phe cánh Trịnh Tông muốn diệt trừ phe
cánh Ðặng Thị Huệ và Quận Huy), do bạo bệnh sau một chuyến đi Nam quan
cho việc quan, nhưng dư luận Bắc hà có ác cảm với Ngô Thì Nhậm cứ phao
truyền rằng ông buồn vì con trai mà chết.
Có lẽ thật sự Ngô Thì Sĩ không hề buồn phiền vì đứa con trai đầu của
mình. Ngược lại là khác, Ngô Thì Nhậm là một niềm hãnh diện cho ông. Nhờ
truyền thống gia đình văn học và nhờ tư chất thông minh, Ngô Thì Nhậm
thành công rất sớm. Mười sáu tuổi đã viết cuốn “Nhị thập tứ sử toát
yếu”. Mười chín tuổi đỗ đầu kỳ thi hương. Hai mươi tuổi, viết “Tứ gia
thuyết phả”. Hai mươi ba tuổi, đỗ khoa sĩ vọng, được bổ Hiến sát phó sứ
Hải dương. Hai mươi sáu tuổi, dự khảo thí ở Quốc tử giám, đỗ ưu hạng
đồng thời hoàn thành “Hải đông chí lược”, một tập địa phương chí của Hải
dương. Hai mươi chín tuổi, đỗ thứ năm hàng tiến sĩ tam giáp, cùng khoa
với Phan Huy Ích. Ðạt được học vị cao nhất của thang giá trị học vấn
thời đó, Ngô Thì Nhậm liên tiếp được giao cho những chức vụ quan trọng:
Năm 1775: Hộ khoa cấp sự trung ở bộ Hộ.
Năm 1776: Giám sát Ngự sử đài đạo Sơn nam, sau đó thăng Ðốc đồng trấn Kinh bắc.
Năm 1778: Vẫn giữ Ðốc đồng Kinh bắc nhưng kiêm thêm chức Ðốc đồng Thái nguyên.
Từ thời niên thiếu cho đến 1780 nổ ra vụ án Canh Tý, cuộc đời 35 năm
của Ngô thì Nhậm gồm một chuỗi những thành công bình thường ở vào một
thời bình thường. Thành công về cử nghiệp và hoạn lộ đi kèm với những
thành công về văn chương. Thơ phú Ngô Thì Nhậm sáng tác thời kỳ này
vượt hẳn những bạn đồng thời. Phan Huy Ích trong bài tựa tập “Ngô gia
văn phái” hết lời ca tụng ông bạn tiến sĩ đồng khoa và cũng là anh vợ
mình: “Văn ông có ý tứ diễm lệ, vừa hàm súc, vừa phóng khoáng, càng ra
nhiều lại càng hay, bao quát được bách gia, khu khiển được cửu lưu, tài
uyên bác thông đạt trở thành ngọn cờ chót vót giữa rừng Nho chúng ta.”
Gác một bên những lời thậm xưng thường thấy trong phả ký của các thế gia
vọng tộc, gác qua một bên lòng ngưỡng mộ riêng tư của Phan Huy Ích đối
với một ông anh vợ xuất chúng, đọc lại văn thơ Ngô Thì Nhậm trong thời
kỳ này, chúng ta thấy tư tưởng của ông, nghệ thuật của ông tuy có tài
hoa phóng dật đấy, nhưng vẫn là cái tài hoa phóng dật trong vòng trật tự
khuôn thước. Khuôn thước do niềm kiêu hãnh dòng dõi. Khuôn thước của
một ý hệ chưa bị thời loạn thử thách. Trong bài Cô Châu, ông viết:
Nhân nghĩa vị cao, trung tín đà
Niên niên phiếm tác Ðẩu quang xa (Nhân nghĩa làm con sào, trung tín làm bánh lái
Ðóng thành một chiếc bè, hàng năm giong lên vùng sao Ðẩu)...
Tái đạo khứ lai, nhàn áp lãng,
Bình tâm hành chỉ, đẳng doanh khoa.
Niên niên phiếm tác Ðẩu quang xa (Nhân nghĩa làm con sào, trung tín làm bánh lái
Ðóng thành một chiếc bè, hàng năm giong lên vùng sao Ðẩu)...
Tái đạo khứ lai, nhàn áp lãng,
Bình tâm hành chỉ, đẳng doanh khoa.
(Chở đạo thánh hiền, ung dung đè làn sóng mà qua lại, Khi bơi khi
nghỉ, vững lòng đợi nước đầy vũng mà tiến lên) (1) Loại thơ phú nói lên
chí khí kẻ sĩ lúc chưa gặp thời, an bần lạc đạo như thế này, có thể nói
là thời thượng chung chung của tất cả thi gia thời xưa, chỉ khác nhau về
cách diễn tả, về nghệ thuật diễn tả chứ không khác mấy về nội dung.
Trước Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Trãi cũng viết chừng ấy. Sau ông, Cao Bá
Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ... cũng viết chừng ấy.
Vụ án năm Canh Tý là thử thách đầu tiên cho Ngô Thì Nhậm, vụ tai
tiếng đầu tiên thử thách sức mạnh nhân sinh quan và sức phấn đấu của
ông. Nội vụ như sau:
Khoảng tháng 7 năm 1780 (Canh Tý) Trịnh Tông con trai trưởng của Tĩnh
vương Trịnh Sâm biết cha có ý định phế trưởng lập Trịnh Cán con trai
Ðặng Thị Huệ, nên âm mưu đảo chính diệt trừ phe Ðặng Thị Huệ và Quận
Huy, nhất là lúc ấy Trịnh Sâm bị bệnh nặng. Trịnh Tông liên kết với
Nguyễn Khản trấn thủ Sơn tây, Nguyễn Khắc Tuân trấn thủ Kinh bắc, và một
số quan lại khác tại triều như Nguyễn Phương Ðĩnh, Chu Xuân Hán... xuất
tiền mua vũ khí, chiêu mộ binh mã, chờ Trịnh Sâm chết là khởi sự. Bất
ngờ Trịnh Sâm khỏi bệnh và âm mưu bị bại lộ. Sâm đích thân đàn áp những
người tham dự vào âm mưu đảo chính. Nguyễn Khắc Tuân, Nguyễn Phương
Ðĩnh, Chu Xuân Hán bị khép án tử, Nguyễn Khản (anh Nguyễn Du) cũng bị
khép trọng tội. Sau vụ đàn áp đẫm máu, Ngô Thì Nhậm được thăng làm Công
bộ Hữu thị lang. Vụ này khiến cho giới sĩ phu Bắc hà xem Ngô Thì Nhậm
như một loại chiên ghẻ. Sử sách ghi lại vụ này theo nhãn quan chính trị
của mình.”Việt sử thông giám cương mục” của triều Nguyễn cho rằng Ngô
Thì Nhậm cùng Nguyễn Huy Bá tố cáo âm mưu đảo chính cho Trịnh Sâm biết,
nhờ thế sau khi đàn áp, Sâm thưởng công cho Ngô Thì Nhậm bằng chức tước
cao trọng. Ngô Thì Sĩ bị nhục nhã vì đứa con bất hiếu, uống thuốc độc tự
tử. Do đó Nhậm mới bị cái tiếng “sát tứ phụ nhi thị lang” ( giết bốn
cha để được chức Thị lang. Bốn cha ý chỉ Ngô Thì Sĩ và ba người bạn vong
niên của cha là Nguyễn Khản, Nguyễn Phương Ðĩnh và Nguyễn Khắc Tuân).
“Hoàng Lê Nhất Thống Chí” và “Ngô gia thế phả” dĩ nhiên bênh vực cho Ngô
Thì Nhậm, cho rằng ông không liên can vào vụ này, và sở dĩ được Trịnh
Sâm thăng chức chỉ vì Ngô Thì Nhậm bị Quận Huy ganh ghét, muốn ông phải
mắc tai tiếng với đời. Những tài liệu lịch sử khác, độc lập hơn, như
“Hậu Lê Thời Sự Kỷ Lược”, “Lịch Triều Tạp Kỷ” tuy ghi nhận dư luận đương
thời nhưng không hề nói Ngô Thì Nhậm tố cáo vụ đảo chính. Có hay không,
cho đến ngày nay vẫn còn là một nghi vấn, việc xét công tội của Ngô Thì
Nhậm cũng không còn là vấn đề quan trọng nữa. Ngô Thì Nhậm tham dự vào
trò chơi chính trị thì phải gánh lấy những hậu quả của các âm mưu tranh
giành quyền bính. Oan hay ưng, không thành vấn đề. Sau loạn kiêu binh,
ông đã phải trả giá cho trò chơi quyền bính này, phải trốn nấp suốt sáu
năm trong nhục nhã, khổ cực.
Ðiều quan trọng là Ngô Thì Nhậm đã đối phó như thế nào trước tai họa
ấy. Thơ phú ông làm trong sáu năm sống ẩn nấp (từ 1782-1788) phản ánh
rất rõ tâm trạng Ngô Thì Nhậm thời gian này, nhất là các bài phú.Ba bài
phú tiêu biểu nhất của thời kỳ này là “Mộng Thiên thai phú”, “Lâm trì
phú”, Tiêu dao du phú”. Tai tiếng ông gánh chịu sau vụ án Canh Tý chỉ
ảnh hưởng chút ít đến tâm hồn Ngô Thì Nhậm, không hề làm cho ý hệ Nho
giáo - kim chỉ nam của đời ông - bị lung lay. Những bài phú tài hoa
phóng dật ấy, mới đọc chúng ta tưởng ông đã thoát ra khỏi cương giới của
Nho giáo, bay bổng lên trên những ràng buộc, nhưng đọc kỹ thì thấy
không phải thế. Ngô Thì Chí, em ruột Ngô Thì Nhậm thật đã hiểu rõ lòng
anh khi nhận xét rằng trong bài phú của anh (Mộng Thiên thai phú) “núi
sông, phong cảnh, vua chúa, Tiên Phật, thảy đều định rõ ranh giới, rút
cả vào hai chữ ‘danh giáo’ của nhà Nho”.Trong “Mộng Thiên thai phú”, Ngô
Thì Nhậm mượn lời “khách” đặt câu hỏi cho chính mình:
Tử tương hà cư? Tiên dư? Thích dư?
Ức hiệu chiêm hoàng ốc chi hậu trần dư?
Dĩ ngô quan tử:
Khứ quốc, hoài hương, ưu sàm, úy ky (cơ)
Nan vi Lưu, Nguyễn chi cao đạo
Khả học Tam tổ chi từ bi
Tĩnh phương thốn ư dục động,
Liễm vạn sự ư vô vi
(Nay ông định sao nhỉ? Theo Tiên ư? Theo Phật ư?
Hay theo ngắm bụi đường của xe hoàng ốc ru?
Ta xem ông, rõ kẻ:
Bỏ nước, nhớ mong quê
Ðã ngại lời dèm báng
Lại sợ tiếng cười chê
Khôn theo Lưu, Nguyễn đường cao ẩn
Nên học Tam tổ đạo từ bi
Gửi lòng mình vào tĩnh lặng
Gác mọi việc vào vô vi.)
để sau đó tự trả lời:
Dư văn khách ngôn, phú chướng đại tiếu:
Ngô hà năng Tiên, Thích diệc bất đáo
Liêu tòng sự ư kinh tịch
Cầu vô khiếm hồ danh giáo
Túng Hợp Phố chi hữu niên
Giác cô tùng chi tương lão:
Kỳ hoặc:
Thiên địa vô ải, giang sơn tương yêu
Quải nhất biểu hề, du ngao.
Biến vũ trụ dĩ vi lư
Phù hà hệ hồ hồng mao?
Ngô tử điểm kiểm tư sơn, đãi ngô tiêu dao.
Nhân sinh giải cấu giai tiền định
Khởi trực Ðào Nguyên năng thụ đào?
(Nghe lời khách nói xong, ta vỗ tay, cười bảo:
Tôi sao thể thành Tiên? Phật, cũng không đắc đạo!
Chỉ theo hướng Thi Thư
Khỏi trái đường “danh giáo”
Hợp Phố kia về, hoặc có phen,
Gốc thông lẻ xem chừng sắp lão!
Thảng hoặc:
Ðất trời chẳng hẹp,
Núi sông yêu cầu,
Quẳng một bầu chừ, chơi thỏa thích
Phất tay áo chừ, đi ngao du
Khắp vòng vũ trụ, nhà ta đó
Ðôi cánh chim hồng buộc được nao?
Núi này xin dành lại
Ðợi ta về tiêu dao
Ðời người gặp gỡ do tiền định
Há chỉ Ðào Nguyên mới gặp đào. (2)
Ức hiệu chiêm hoàng ốc chi hậu trần dư?
Dĩ ngô quan tử:
Khứ quốc, hoài hương, ưu sàm, úy ky (cơ)
Nan vi Lưu, Nguyễn chi cao đạo
Khả học Tam tổ chi từ bi
Tĩnh phương thốn ư dục động,
Liễm vạn sự ư vô vi
(Nay ông định sao nhỉ? Theo Tiên ư? Theo Phật ư?
Hay theo ngắm bụi đường của xe hoàng ốc ru?
Ta xem ông, rõ kẻ:
Bỏ nước, nhớ mong quê
Ðã ngại lời dèm báng
Lại sợ tiếng cười chê
Khôn theo Lưu, Nguyễn đường cao ẩn
Nên học Tam tổ đạo từ bi
Gửi lòng mình vào tĩnh lặng
Gác mọi việc vào vô vi.)
để sau đó tự trả lời:
Dư văn khách ngôn, phú chướng đại tiếu:
Ngô hà năng Tiên, Thích diệc bất đáo
Liêu tòng sự ư kinh tịch
Cầu vô khiếm hồ danh giáo
Túng Hợp Phố chi hữu niên
Giác cô tùng chi tương lão:
Kỳ hoặc:
Thiên địa vô ải, giang sơn tương yêu
Quải nhất biểu hề, du ngao.
Biến vũ trụ dĩ vi lư
Phù hà hệ hồ hồng mao?
Ngô tử điểm kiểm tư sơn, đãi ngô tiêu dao.
Nhân sinh giải cấu giai tiền định
Khởi trực Ðào Nguyên năng thụ đào?
(Nghe lời khách nói xong, ta vỗ tay, cười bảo:
Tôi sao thể thành Tiên? Phật, cũng không đắc đạo!
Chỉ theo hướng Thi Thư
Khỏi trái đường “danh giáo”
Hợp Phố kia về, hoặc có phen,
Gốc thông lẻ xem chừng sắp lão!
Thảng hoặc:
Ðất trời chẳng hẹp,
Núi sông yêu cầu,
Quẳng một bầu chừ, chơi thỏa thích
Phất tay áo chừ, đi ngao du
Khắp vòng vũ trụ, nhà ta đó
Ðôi cánh chim hồng buộc được nao?
Núi này xin dành lại
Ðợi ta về tiêu dao
Ðời người gặp gỡ do tiền định
Há chỉ Ðào Nguyên mới gặp đào. (2)
Ngô thì Nhậm vững tin ở thiên mệnh; hệ thống tư tưởng Nho giáo giúp ông an nhiên chờ thời và chịu đựng nghèo túng lẫn dư luận.
Cái “thời” ông chờ đã đến vào năm 1778, lúc Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ
hai giết Vũ Văn Nhậm và xuống chiếu tìm quan lại cũ của cựu triều để
giao cho trọng trách cai trị Bắc hà. Tài liệu sử còn lại cho đến ngày
nay bảo rằng Ngô Thì Nhậm là người đầu tiên trong đám nhân sĩ Bắc hà tới
trình diện ở bộ Lễ , và vì một sự hiểu lầm, suýt bị lễ quan Võ Văn Ước
làm nhục. Văn thơ của ông không lưu dấu tích tâm trạng ông trước khi
quyết định phục vụ cho triều Tây Sơn. Chúng ta có thể đoán đây không
phải là một quyết định vội vã, dễ dàng. Thử ở vào hoàn cảnh Ngô Thì
Nhậm lúc đó. Cả dòng họ ông là bề tôi phủ chúa, chính ông nhận được
nhiều ân huệ của Tĩnh vương Trịnh Sâm. Ông từng hãnh diện cho rằng mình
là người lái thuyền lấy “nhân nghĩa” làm con sào, “trung tín” làm bánh
lái, thì bây giờ phải ăn làm sao nói làm sao với mọi người khi ra cộng
tác với Nguyễn Huệ người xô ngã họ Trịnh. Ông đã nếm đủ vị cay đắng của
dư luận suốt sáu năm qua. Ông biết trước là lần này dư luận sẽ khắc
nghiệt hơn, độc địa hơn. Những nhà viết sử ở Hà nội ca tụng hết lời
quyết định hợp tác với Tây Sơn của Ngô Thì Nhậm, xem như một “giác ngộ
cách mạng”, “trở về với nhân dân”... Việc xưng tụng theo nhãn quan đấu
tranh giai cấp của sử gia cộng sản Việt nam đã làm, vừa gượng ép, vừa
không hợp lý. Ở vào thời kỳ việc thông tin còn khó khăn, tài liệu tuyên
truyền của chính quyền vừa sơ sài vừa khó phổ cập (do trở ngại Hán tự
trong các chiếu biểu và văn thư hành chánh), khó lòng Ngô Thì Nhậm biết
được thực chất của Tây sơn là gì. Mai Quốc Liên viết tiểu sử Ngô Thì
Nhậm trong “Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm” bảo rằng: “Chính sách cầu
hiền chân thành và sáng suốt của Nguyễn Huệ, uy tín lớn lao của người
anh hùng nông dân áo vải này, đã gặp sự chờ đợi của Ngô Thì Nhậm sau bao
năm ẩn náu”. Lối nhận định ấy giản lược quá đáng thực tại lịch sử. Thật
ra, sau lần đầu kéo quân ra Bắc diệt Trịnh, đặt một ông vua trẻ họ Lê
lên cái ngai khập khểnh, cưới một nàng công chúa mươì sáu tuổi và vơ vét
kho tàng của cải của phủ chúa chở về Nam, Nguyễn Huệ chỉ mới khiến cho
dân Bắc hà bàng hoàng kinh sợ (lớp quý tộc vương tôn lâu đời) hoặc tò mò
thích thú (lớp dân chúng nghèo khổ), chứ chưa gây được một uy tín lớn
lao.
Ngô Thì Nhậm từng viết:
Ngô hoài ký liêu khuếch
Tư sơn trường thôi ngôi
Vọng tri kỷ hề, thiên nhất nhai
Hà nhân thức hề, ngô linh đài?
(Lòng ta gửi man mác
Núi này mãi cao vời
Mong Người-Tri-Kỷ chừ, một phương trời
Lòng ta chừ, tri âm ai người? (3)
(Mộng Thiên thai phú)
Ngô hoài ký liêu khuếch
Tư sơn trường thôi ngôi
Vọng tri kỷ hề, thiên nhất nhai
Hà nhân thức hề, ngô linh đài?
(Lòng ta gửi man mác
Núi này mãi cao vời
Mong Người-Tri-Kỷ chừ, một phương trời
Lòng ta chừ, tri âm ai người? (3)
(Mộng Thiên thai phú)
Người-Tri-Kỷ ông chờ đợi, vào thời điểm 1778, không phải, chưa phải
là Nguyễn Huệ. Xuất xứ của Nguyễn Huệ, vóc dáng của Nguyễn Huệ, hành
động của Nguyễn Huệ thật khó mà phù họp với dự tưởng của ông Nghè Nhậm
về Người-Tri-Kỷ. Ðó là một sức mạnh hoang dã bất trắc, hứa hẹn bão táp
chứ không hứa hẹn một trất tự ổn cố như mong ước của nhà nho. Nếu muốn
tìm một mẫu thực cho hình ảnh Người-Tri-Kỷ, có lẽ Ngô Thì Nhậm nghĩ tới
Tĩnh vương Trịnh Sâm, lúc vị chúa này chưa bị cái nạn Tuyên phi.
Là người đầu tiên trong số cựu thần phủ chúa đến trình diện ở bộ Lễ,
Ngô Thì Nhậm chưa chắc đã quyết định dứt khoát và sớm sủa hơn các bạn
đồng liêu. Có thể chỉ vì không thể chịu đựng hơn nữa cuộc sống ẩn nấp ru
rú, ông đánh một ván cờ liều. May cho ông, ông gặp Trần Văn Kỷ, một trí
thức cùng trình độ và cùng một khả năng hành động như ông. Sau đó, ông
nhận được lòng tín nhiệm tuyệt đối của Nguyễn Huệ.
Thử thách lớn lao nhất của Ngô Thì Nhậm, vì thế, không phải là quyết
định ra hợp tác với nhà Tây sơn, mà là những gì ông phải đương đầu sau
đó. Ông được Nguyễn Huệ phong ngay cho chức Tả Thị lang bộ Lại, tước
Tĩnh phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả quan văn võ của triều Lê.
Như vậy là sau khi Nguyễn Huệ về Nam, Ngô Thì Nhậm đột ngột trở thành
nhân vật cao cấp nhất trong guồng máy cai trị của Bắc hà, song song với
Ngô Văn Sở người của Tây Sơn trông coi về quân sự và an ninh. Ông không
còn cái an toàn của người thừa hành trong guồng máy. Trước hết, ông phải
đương đầu với chính cái ý hệ đã giúp ông an nhiên tự tín bao lâu nay, ý
hệ Nho giáo. Hệ thống triết lý (bao gồm đầy đủ luận lý học, đạo đức
học, tâm lý học, siêu hình học, chính trị xã hội học) này trong quá
trình phát triển đã dần dần biến cải, giản lược, càng về sau càng trở
thành một lý thuyết hữu hiệu để duy trì trật tự phong kiến. Với đa số
dân chúng, ý hệ nho giáo đơn giản hóa thành những tiêu chuẩn đạo đức như
trung, hiếu, tiết, nghĩa. Người cầm quyền đặc biệt đưa vào chương trình
giáo dục và đào tạo người thừa hành ý niệm tuyệt đối của chữ “Trung”,
của “Lẽ Chính Thống”.
Chắc chắn trước khi quyết định ra hợp tác với Tây Sơn, Ngô thì Nhậm
đã trằn trọc nhiều đêm vì chữ “Trung”. Ông phải tự hỏi triều Tây Sơn có
“thiên mệnh” hay không? Nguyễn Trãi không hề thắc mắc như thế. Những
người theo phò Nguyễn Ánh lấy lại cơ nghiệp nhà Nguyễn và những cựu thần
Lê Trịnh chống Tây Sơn cũng không hề thắc mắc gì. Họ đầy tự tin, vì
việc họ làm, vương triều họ bảo vệ đã có cái nền chính thống dày những
hai trăm năm. Núi sông, đồng bằng, cây cỏ, chim muông, tấc đất ngọn rau
đều là của “chúa”, Trịnh ở Ðàng Ngoài, Nguyễn ở Ðàng Trong. Tổ tiên
Trịnh Nguyễn có công gầy dựng thì con cháu hai trăm năm sau (dù là hạng
con cháu ốm yếu bệnh hoạn như Trịnh Cán) có quyền được hưởng, anh em Tây
Sơn lấy cái “mệnh” gì mà từ một chỗ heo hút vô danh dám nổi lên diệt
Nguyễn, diệt Trịnh. Phải công nhận họ đang có sức mạnh, nhưng sức mạnh
không qua được lẽ phải. Lẽ phải nằm ở đâu? Ngô Thì Nhậm phải trả lời
những câu hỏi hóc búa đó, trước là cho ông, sau đó cho những người thân
trong gia đình, cho các bạn học, cho các bạn đồng liêu nay trở thành kẻ
dưới quyền ông.
Ngô Tưởng Ðạo chú ruột, Ngô Thì Chí em ruột đã chọn phía đối nghịch
với ông. Những lá thư trao đổi giữa Ngô Thì Nhậm với Ngô Tưởng Ðạo,
Trần Danh Án còn lưu lại, chứng tỏ phản ứng của giới nho sĩ bảo thủ Bắc
hà đối với Ngô Thì Nhậm gay gắt, khốc liệt đến mức nào. Là nho sĩ Bắc
hà, lại nhận nhiệm vụ quan trọng nhất Tây Sơn giao cho để đối phó với
tình trạng rối ren phức tạp ngay trên quê hương mình, Ngô Thì Nhậm chịu
tất cả mọi chỉ trích, phỉ báng, chửi rủa. Ông có quyền, nhưng hoàn toàn
bị cô lập, hoàn toàn cô đơn.
Ðã thế, ông còn phải hàng ngày đối phó với một đám tướng lãnh Tây Sơn
ít học và hãnh tiến, tự cao tự đắc với thứ quyền uy mới mẻ của mình. Vũ
Văn Nhậm đã bị giết nhưng chắc chắn cung cách kiêu lộng của Nhậm taị
Thăng long vẫn là chuyện đầu môi của dân Bắc hà. Ngô Văn Sở có khá hơn
không?
Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí:
“Một hôm, mọi người cùng họp nhau ăn uống ở nhà hiệp nghị, Sở bảo Lân (nội hầu) và Tuyết (đô đốc) rằng:
· · Chúa công đem cả thành lớn giao phó cho ta, cũng ví như sai
người cắt áo gấm mà chưa thể tin là có biết cách cầm kéo hay không. Các
ông thấy việc đó ra sao? Giả thử có Tề thiên Ðại thánh từ trên trời rơi
xuống hay Diêm vương từ dưới đất lên, ta cũng chỉ quét một lưới là hết.
Huống chi cái lũ tẹp nhẹp, chẳng qua chỉ để người ta thử xem gươm có
sắc hay không, chứ làm được trò trống gì.
Rồi Sở ngoảnh lại ảo Ngô Thì Nhậm rằng:
· · Quan Thị lang thật giỏi về văn học, còn việc cung kiếm có thạo gì không?
Nhậm nói:
· · Có văn tất phải có võ, văn võ không phải chia làm hai đường.
Nhưng người xưa dùng binh, gặp việc thì lo, sao ngài lại lấy việc binh
làm trò chơi mà coi thường như thế? Tôi trộm nghe bọn người nước ta chạy
sang bên Trung hoa, trong đó có nhiều người định xúi họ mở mang bờ cõi,
gây ra binh biến. Ngài chịu sự ký thác ở cõi ngoài, e rằng không khỏi
một phen bạc đầu vì lo lắng, đến lúc ấy ngài nên nhớ đến lời nói của
tôi.
Sở cười và nói:
· · Lúc ấy sẽ phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc. Nếu
không làm được như thế, thì túi dao bao kiếm chính là phận sự của kẻ võ
thần, can gì phải quá lo? “ (4)
“Hoàng Lê Nhất Thống Chí” là một cuốn tiểu thuyết lịch sử do người
trong gia đình Ngô-thì viết, nên người đọc có quyền nghi ngờ các tác giả
đã tô điểm thêm cho phong thái tự tại tự tín của Ngô Thì Nhậm trước các
tướng tá Nam hà. Nhưng cứ suy luận theo lẽ thường tình, thì thái độ
hống hách khinh thị của Ngô Văn Sở đối với người Bắc hà là có thật. Còn
thái độ ung dung tự tín của Ngô Thì Nhậm trước đám võ biền kiêu ngạo,
tôi cũng nghĩ là có thật. Nếu ông tỏ ra qụy lụy hèn nhát, hoặc cầu an
vâng dạ cho xong, thì về sau, Ngô Thì Nhậm không đủ uy và dũng để thuyết
phục Ngô Văn Sở tạm rút quân về Tam điệp trước sức tấn công vũ bão của
quân Thanh. Phải có một nghị lực phi thường, một niềm tin mạnh mẽ vào
sức mạnh của trí tuệ, Ngô Thì Nhậm mới đối phó nổi, một bên là dư luận
ác cảm của sĩ phu Bắc hà, một bên là bản tính thô bạo kiêu căng của đám
tướng lãnh Tây Sơn.Tôi nghĩ Ngô Thì Nhậm phải đợi tới lúc Nguyễn Huệ
xưng đế và đại phá quân Thanh, ông mới hoàn toàn yên ổn về tinh thần.
Chữ “trung” không còn quấy rầy ông nữa. Ông không còn mặc cảm bất trung
với chúa Trịnh, mà dư luận cũng hết xem ông như một kẻ xu thời, phản
bội. Ðến lúc ấy, Ngô Thì Nhậm mới có được ưu thế thuận lợi của Nguyễn
Trãi. Ông dốc toàn tài năng cho nhà Tây Sơn. Chính sách ngoại giao khôn
khéo đối với nhà Thanh, không nghi ngờ gì nữa, là tác phẩm của Ngô Thì
Nhậm, không phải là công trạng của Quang Trung. Từ lúc khởi dấy dưới sự
chỉ bảo của anh cho tới lúc cưỡi voi dày lên xác quân Thanh ở Thăng
long, Nguyễn Huệ chưa hề thất bại. Sau khi thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ
sẽ phạm những lỗi lầm thường thấy ở kẻ thành công, nếu không có những
lời cố vấn sáng suốt của Ngô Thì Nhậm.
Sau khi ổn định an ninh một dải đất dài từ ải Nam quan vào tới Bến
Ván, Quang Trung đã nghe theo lời cố vấn của hai văn thần quan trọng là
Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm để tổ chức lại guồng máy hành chánh, thuế
khóa. Chúng ta không biết sự phân công phân nhiệm giữa hai văn thần này
ra sao, có điều rõ ràng là cả hai quý trọng nhau, không hề có những xích
mích hay đố kỵ do mới cũ, nam bắc. Có lẽ phần đối nội như quản trị hành
chánh, tài chánh, nhân sự do quan Trung-thư-lệnh Trần Văn Kỷ đảm trách
vì ông đồ Vân Trình là người cũ, giao thiệp quen biết với các quan lại
công thần từ Quý nhơn ra hơn Ngô Thì Nhậm. Phần Ngô Thì Nhậm, có lẽ đảm
trách phần đối ngoại và những vấn đề có tính cách chiến lược dài hạn.
Trong bài thơ “Tảo triều Trung Hòa điện tứ nhập nội thị độc chiến thủ
tấu nghị cung ký”:
Xâm thần vị tán ngũ canh sương
Y ốc kê thanh triệt Thượng Dương
Phủ tọa dĩ bài kim kiếm vệ
Các thần phương chỉnh tú y hàng
Thần mô miếu toán truyền thiên ngữ
Quốc kế biên trù diễn các chương
Thùy thị bình Hoài Bùi tướng quốc
Ưu cầu cơ lược tán ngô hoàng?
( Tảng sáng chưa tan sương canh năm
Tiếng gà eo óc, thấu cung Thượng Dương
Nơi ngự tọa, thị vệ gươm vàng đã sắp đặt
Chỗ đình thần, hàng ban áo gấm đã chỉnh tề
Truyền đạt lời vua, mưu mô chiến lược
Y ốc kê thanh triệt Thượng Dương
Phủ tọa dĩ bài kim kiếm vệ
Các thần phương chỉnh tú y hàng
Thần mô miếu toán truyền thiên ngữ
Quốc kế biên trù diễn các chương
Thùy thị bình Hoài Bùi tướng quốc
Ưu cầu cơ lược tán ngô hoàng?
( Tảng sáng chưa tan sương canh năm
Tiếng gà eo óc, thấu cung Thượng Dương
Nơi ngự tọa, thị vệ gươm vàng đã sắp đặt
Chỗ đình thần, hàng ban áo gấm đã chỉnh tề
Truyền đạt lời vua, mưu mô chiến lược
Kế hoạch trong nước, ngoài biên giới đều ban chỉ dụ Ai là người có
tài dẹp giặc đất Hoài như tướng quốc họ Bùi xưa Biết lo nghĩ, chuyên
cần, bày mọi mưu cơ để giúp vua ta ) (5) Chúng ta thấy Ngô Thì Nhậm đóng
góp rất nhiều cho việc soạn thảo, nghiên cứu các kế hoạch quốc phòng
cũng như đối nội. Sau một thời gian chiến tranh liên miên, đồng ruộng
hoang hóa, xóm làng điêu tàn đổ nát, dân cư xiêu tán, kinh tế kiệt quệ,
Quang Trung phải đối phó với những khó khăn chồng chất của thời bình. Mà
thật ra, cũng chưa phải là thời bình, vì Qui nhơn vẫn còn đó, ngăn chận
con đường thống nhất trọn vẹn, và Nguyễn Ánh vẫn còn khống chế vùng đất
màu mỡ Gia định. Trong các kế hoạch bình định, chắc chắn Ngô Thì Nhậm
soạn thảo cho Quang Trung kế hoạch tái phối trí dân số và phát triển
nông nghiệp, vì văn bản chính thức của kế hoạch này, “Tờ Chiếu Khuyến
nông”, được dòng họ Ngô-thì lưu giữ và ghi vào tập “Hàn các anh hoa” của
Ngô Thì Nhậm. Phần chính của tờ chiếu như sau (bản dịch):
Trẫm chịu mệnh trời, giữ nghiệp lớn, bốn bể trong lặng. Nay buổi đầu
đại định, chính sách khuyến khích sản xuất làm cho dân giàu phải tiến
hành lần lượt. Phàm kẻ du đãng, người giấu giàu là thói thường. Cái đạo
che chở dân, chẳng gì bằng dắt dân lưu tán trở về, khai khẩn ruộng
hoang, khiến dân du thủ du thực trở về làm ruộng. Còn những dân nào kiều
ngụ nơi khác từ trước, trốn tránh sưu dịch, hoặc ở quê vợ quê mẹ, hoặc
đã lập nghiệp bán buôn, trừ ra những người đã nhập tịch từ ba đời trở
lên, còn thì nhất thiết bắt về bản quán, xã khác không được dung túng
cho trú ngụ. Những ruộng công ruộng tư, trót đã bỏ hoang, phải trở về
nhận lấy để cày cấy, không được để hoang, khiến cho những người thục cày
cấy ruộng khác phải chịu thuế khống.
Các sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng phải xét sổ đinh hiện có bao
nhiêu xuất, số điền hiện có bao nhiêu mẫu, ruộng hoang mới khai khẩn bao
nhiêu mẫu, hạn trong tuần tháng chín phải làm sổ xép loại, đem nộp cho
các quan Phân xuất, Phân tri huyện mình, các viên này chuyển đệ lên, đợi
quan Khâm sai xét thực, sẽ châm chước mà đánh thuế cho công bằng.
Xã nào dung túng cho khách hộ trú ngụ mà không đuổi về bản quán và
những người trốn tránh lần lữa không về, nếu có người biết tố giác, điều
tra ra sự thật, thì sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng xã ấy cùng người
trốn tránh đều bị xử tội. Xã nào có ruộng bỏ hoang đã lâu mà không ai
nhận, nếu là ruộng công, thì trách cứ vào các viên chức sắc, các chủ hộ
xã ấy, phải chiếu nguyên ngạch thuế ruộng mà nộp gấp đôi. Nếu là ruộng
tư thì sung công, ngạch thuế cũng như ruộng công.” (6)
Ngày nay chúng ta không có tài liệu sử nào để biết chính sách di dân
và khai hoang do Ngô Thì Nhậm khởi xướng đã được thi hành tới đâu, đã
gây ra những phản ứng gì trong dân chúng, đã đạt được kết quả gì. Tuy
nhiên, lấy lý thường mà xét, chính sách ấy không thực tế và chắc chắn đã
gây ra những xáo trộn khủng khiếp thay vì ổn định xã hội.
Từ thời Nguyễn, chế độ phân định “chính hộ” (dân thường trú chính
thức) và “khách hộ” (dân tạm cư từ nơi khác tới) đã có nhiều bất công.
Theo Lê Quý Đôn ghi lại trong “Phủ Biên Tạp Lục”, “khách hộ” chịu đủ mọi
thiệt thòi về nghĩa vụ quân sự, nộp thuế, làm sưu dịch. Sau một thời
gian dài chinh chiến liên miên, nhất định số dân lưu tán xiêu dạt càng
cao. “Chiếu khuyến nông” đã không giải quyết kỳ thị bất công có từ thời
chúa Nguyễn, mà còn làm cho bất công trầm trọng thêm. Ai không lưu cư từ
ba đời trở lên đều bị buộc phải trở về “bản quán”, trong khi các khách
hộ ở “bản quán” lại bị buộc hồi hương. Sự xáo trộn không cần thiết,
chẳng những không gia tăng sản xuất nông nghiệp mà còn làm trì trệ sản
xuất, chưa kể “Chiếu khuyến nông” tạo điều kiện cho bọn chức sắc tham
nhũng, áp bức dân đen.
Trước khi mất, Quang Trung đã ra hịch truyền quan lại, quân dân hai
phủ Quảng ngãi, Quy nhơn (phần đất do Nguyễn Nhạc kiểm soát) sửa sang
cầu cống chuẩn bị quân lương để Quang Trung dẫn quân theo đường bộ qua
hai phủ tiến vào Gia định diệt lực lượng Nguyễn Ánh. Ðây là một quyết
định táo bạo, vì kế hoạch hành quân đó đương nhiên phủ nhận vương quyền
của Nguyễn Nhạc. Kế hoạch đó cũng cho chúng ta thấy rõ Quang Trung ý
thức chính xác tầm hiểm họa của Gia định. Ngô Thì Nhậm có công lao gì
trong việc soạn thảo kế hoạch hành quân lớn lao này? Thiếu tài liệu,
chúng ta không trả lời được. Cho dù Quang Trung còn sống để thực hiện kế
hoạch quân sự này, chưa chắc ông đã đạt các mục tiêu chính. Ông dễ dàng
ngang nhiên kéo quân qua địa phận của Nguyễn Nhạc mà ông vua anh già cả
bệnh hoạn không dám phản ứng gì. Ông cũng có thể dễ dàng đánh bại quân
Nguyễn Ánh ở Gia định như các lần trước. Nhưng quân Tây Sơn không thể
đóng lâu ở Gia định. Họ đã không được dân Gia định xem trọng. Từ trước
tới sau, giới di dân người Hoa nắm giữ guồng máy kinh tế của đất Gia
định trù phú, và cả dân làm ruộng xem Tây Sơn như một bọn cướp hàng năm
thuận mùa gió vào Gia định cướp lúa rồi về. Tôi cho rằng trước khi mất,
Quang Trung vẫn chưa thấy hết giá trị kinh tế lớn lao của Gia định. Ông
chỉ quan tâm tới Gia định theo cái nhìn một tướng lãnh. Ngô Thì Nhậm có
lẽ cũng không nhìn được xa hơn Quang Trung. Ông có thể quyền biến để giữ
được niềm tin vào ý hệ nho giáo trong thời kỳ hưng phế điên đảo, nhưng
cũng chính thứ nho giáo bảo thủ ông hấp thụ thu hẹp tầm nhìn của ông,
không cho phép ông thấy sức mạnh của giới doanh thương và tiềm năng kinh
tế lớn lao của miền Nam.
Vương triều Tây Sơn suy vi nhanh chóng sau khi Quang Trung mất. Ngô
Thì Nhậm vừa mất Người-Tri-Kỷ vừa mất niềm tin tuyệt đối vào đạo nho.
Phải chờ tới lúc đó ông mới hiểu đạo Phật. Ông lập thiền viện, soạn công
án, trở thành Hải Lượng thiền sư. Từ một nhà nho nhiệt tín, một nhà
chính trị nhiệt tín, ông trở thành đệ tứ tổ của Thiền tông Việt nam.
Chưa có một người trí thức Việt nam nào, từ xưa tới nay, có một đời sống
tâm linh và đời sống trần thế phong phú đa diện cho bằng Ngô Thì Nhậm.
Nguyễn Mộng Giác
Giai phẩm TÂY SƠN Xuân Ất Hợi 1995
Giai phẩm TÂY SƠN Xuân Ất Hợi 1995
CHÚ THÍCH
1. Thơ Ngô Thi Nhậm, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1986, trang 32-33, bản dịch của Nguyễn Sỹ Lâm
2. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 2, nhà xuất bản Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 1978, trang 36, 41-42, bản dịch của Ngô Linh Ngọc.
3. Sách đã dẫn, trang 45, bản dịch của Ngô Linh Ngọc.
4. Hoàng Lê Nhất Thống Chí, quyển 2, Ngô gia văn phái, Nguyễn
Ðức Vân, Kiều Thu Hoạch dịch, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1987, trang
155-156.
5. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 1, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, trang 213, bản dịch của Ngô Linh Ngọc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét