Phan Huy Lê
Tìm về cội nguồn. T.1.- H., 1998.
Cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn là cuộc đấu tranh oanh liệt nhất của nông dân Việt Nam trong
thời kỳ phong kiến. Trong khoảng 18 năm (1771 – 1789) nông dân Việt Nam
cùng với những tầng lớp nhân dân bị áp bức khác, dưới sự lãnh đạo của
anh em Tây Sơn đã anh dũng vùng lên lần lượt quật ngã hết những chính
quyền phong kiến phản động của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, của vua Lê chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài và đánh tan cả hai đạo quân xâm lược của phong kiến
Xiêm và Thanh. Với những chiến công lừng lẫy ấy, với ý nghĩa lịch sử to
lớn của nó phong trào Tây Sơn đã chiếm một vị trí quan trọng trong lịch
sử Việt Nam và trở thành đối tượng nghiên cứu hấp dẫn của nhiều nhà
nghiên cứu sử học trong và ngoài nước. Nhiều chuyên đề, nhiều bài báo về
Tây Sơn đã liên tiếp xuất hiện trong thời gian vừa qua nhằm nghiên cứu
toàn bộ cuộc khởi nghĩa. Những công trình nghiên cứu ấy đã làm sáng tỏ
nhiều vấn đề quan trọng nhưng vì tài liệu quá ít ỏi, cho nên đến nay vẫn
còn một số nhận định về Tây Sơn vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng và
chưa được nhất trí giữa những người nghiên cứu sử học.
Gần đây trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử
số 35 và 45, có người nêu lên một số vấn đề cần thảo luận về phong trào
Tây Sơn. Trong phạm vi bài này, tôi muốn bàn thêm ba vấn đề :
– Xác định yêu cầu phát triển của xã hội ta vào cuối thế kỷ XVIII.
– Đánh giá những chính sách kinh tế của Quang Trung
– Cắt nghĩa sự thất bại của Tây Sơn
***
Trước hết tôi tán thành cách đặt vấn đề
của nhiều nhà sử học nghiên cứu về Tây Sơn là muốn đánh giá đúng những
chính sách của Quang Trung, chúng ta phải đặt nó trong hoàn cảnh lịch sử
lúc bấy giờ và xác định rõ yêu cầu phát triển khách quan của xã hội.
Yêu cầu ấy không thể xuất phát từ nguyện vọng chủ quan của một vài người
nào đó mà phải tùy thuộc vào điều kiện lịch sử của xã hội ta vào cuối
thế kỷ XVIII.
Cho đến cuối thế kỷ XVIII, chế độ phong
kiến Việt Nam đã bước vào một tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Mọi
mâu thuẫn của xã hội phong kiến đã trở nên gay gắt và làm bùng nổ thành
những cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài triền miên trong thế kỷ XVIII.
Đấu tranh giai cấp thực sự đã trở thành hiện tượng kịch liệt trong xã
hội và cũng vì thế mà trong lịch sử Việt Nam, thế kỷ XVIII đã được mệnh
danh là thế kỷ nông dân khởi nghĩa. Tuy nhiên tình hình khủng hoảng của
chế độ phong kiến và cuộc đấu tranh giai cấp ấy lại diễn ra trong điều
kiện nền kinh tế hàng hóa tuy có những bước phát triển nhất định, nhưng
chưa chuyển biến thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, sức sản xuất và
quan hệ sản xuất mới chưa ra đời. Trong điều kiện kinh tế, xã hội ấy,
yêu cầu phát triển của xã hội lúc bấy giờ tất nhiên chưa phải là thủ
tiêu chế độ phong kiến bằng một cuộc cách mạng, vì những tiền đề vật
chất cho phép làm giải thể chế độ phong kiến chưa xuất hiện. Điều đó có
thể khẳng định được và từ trước đến nay vốn được nhất trí trong giới sử
học. Vậy yêu cầu phát triển của xã hội lúc bấy giờ chỉ có thể là cải
thiện quan hệ sản xuất phong kiến để tạo điều kiện cho xã hội tiến lên
một bước.
Nhưng nội dung và mức độ của yêu cầu đó cụ thể là như thế nào ?
Trong quá trình phát triển của chế độ
phong kiến Việt Nam, từ thế kỷ XV trở đi, sau khi kinh tế điền trang,
thái ấp với chế độ nông nô, nô tỳ tan rã, thì nền sản xuất bao gồm ba bộ
phận chính là: kinh tế địa chủ, kinh tế nông dân tư hữu và kinh tế hàng
hóa.
Kinh tế địa chủ dựa trên cơ sở quyền sở
hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ và sự bóc lột địa tô đối với nông
dân. Đó là bộ phận kinh tế chiếm vị trí thống trị trong xã hội và là cơ
sở tồn tại của giai cấp địa chủ. Nhưng bản thân giai cấp địa chủ hầu như
không trực tiếp tổ chức sản xuất , chỉ dựa vào quyền sở hữu ruộng đất
để bản lĩnh địa tô và hầu hết ruộng đất của địa chủ đều giao cho nông
dân tá điền lĩnh canh rồi thu địa tô. Nông dân tá điền là người trực
tiếp đảm nhiệm việc sản xuất trong kinh tế địa chủ. Ở nước ta cũng như
nhiều nhà nước phương Đông khác, nhà nước phong kiến còn nắm trong tay
quyền sở hữu một bộ phận ruộng đất khá lớn gồm ruộng đất quốc khố, đồn
điền, ruộng đất công của làng xã… Từ thế kỷ XV trở đi hầu hết bộ phận
ruộng đất quốc hữu này. Nhà nước cũng tiến hành phát canh thu tô. Những
công dân cày ruộng đất công của Nhà nước, kể cả những người cày ruộng
đất công của làng xã, thực chất là những tá điền của Nhà nước và về
phương diện này, Nhà nước phong kiến cũng tồn tại như một địa chủ to lớn
trong cả nước. Vì vậy, chúng ta có thể ghép cả sự bóc lột địa tô của
Nhà nước phong kiến đối với ruộng đất quốc hữu vào trong bộ phận kinh tế
địa chủ.
Kinh tế nông dân tư hữu là kinh tế nhỏ
của những người lao động có ít nhiều ruộng đất tư. Những người nông dân
tư hữu này vì có ít nhiều ruộng đất tư nên tương đối có điều kiện tự do
hơn trong sự phát triển nền kinh tế gia đình của mình. Nhưng đặc điểm
của chế độ sở hữu ruộng đất của những người nông dân tư hữu là nhỏ bé và
do đó tỏ ra bấp bệnh, dễ bị phá sản trước nạn kiêm tinh ruộng đất của
giai cấp địa chủ. Trong thực tế, ranh giới giữa những người nông dân tá
điền và nông dân tư hữu không rõ ràng lắm, thường những người nông dân
tư hữu có ít ruộng đất cũng phải lĩnh canh thêm của địa chủ và nông dân
tư hữu cũng dễ rơi xuống địa vị tá điền. Kinh tế nông dân tư hữu và nông
dân tá điền tuy có khác nhau về phương diện sở hữu ruộng đất, nhưng về
mặt sản xuất thì đều có tính chất nhỏ bé, cá thể của những người nông
dân lao động. Chúng ta có thể gọi chung đó là kinh tế tiểu nông.
Từ thế kỷ XV, sau khi kinh tế điền trang
thái ấp tan rã, thì kinh tế tiểu nông được mở rộng và trở thành cơ sở
của toàn bộ nền kinh tế nông nghiệp, hay nói một cách khác, là tế bào
của sản xuất nông nghiệp. Mâu thuẫn giữa kinh tế tiểu nông với chế độ sở
hữu ruộng đất của giai cấp phong kiến là mâu thuẫn kinh tế cơ bản của
chế độ phong kiến. Và về mặt xã hội, mâu thuẫn kinh tế cơ bản ấy biểu
hiện thành mâu thuẫn xã hội cơ bản giữa giai cấp địa chủ và nông dân.
Còn bộ phận kinh tế hàng hóa thì cho đến
cuối thế kỷ XVIII vẫn căn bản trong trình độ kinh tế hàng hóa giản đơn
của chế độ phong kiến. Bộ phận kinh tế này còn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong
toàn bộ nền kinh tế, nhưng vị trí và vai trò của nó rất quan trọng. Sự
phát triển của nền kinh tế hàng hóa sẽ mở rộng những mối liên hệ kinh tế
trong nước, củng cố nền tảng thống nhất của quốc gia và tạo điều kiện
tiến tới hình thành sức sản xuất và quan hệ sản xuất mới. Đến thế kỷ
XVII – XVIII, nền kinh tế hàng hóa đã có những bước phát triển đáng kể
biểu thị ở sự phát triển của những nghề thủ công, sự mở rộng của quan hệ
trao đổi mua bán giữa các địa phương, sự hưng thịnh của một số thành
thị và tác dụng quan trọng của đồng tiền trong xã hội. Do sự phát triển
của nền kinh tế hàng hóa nên không những nhiều sản phẩm thủ công nghiệp
mà cả một phần sản phẩm nông nghiệp đã trở thành hàng hóa mua bán trên
thị trường. Lúa gạo từ vùng Gia Địnhhàng năm được chuyên chở ra vùng
Thuận Hóa bán để mua về những sản phẩm thủ công nghiệp. Ở Đàng Ngoài,
lúa gạo miền Thanh – Nghệ, Sơn Nam cũng nhiều lúc được chuyên chở ra bán
ở miền đông bắc. Đó là chưa kể sự trao đổi, buôn bán thường xuyên trong
phạm vi thị trường địa phương lấy chợ làm trung tâm. Nền kinh tế hàng
hóa đã xâm nhập vào nền kinh tế tự nhiên, làm cho nền kinh tế tiểu nông
đã ít nhiều mang tính chất của nền sản xuất hàng hóa nhỏ. Người nông dân
không phải chỉ sản xuất cho nhu cầu tự cung tự cấp của địa chủ và của
mình, mà còn sản xuất một phần đáng kể những nông phẩm cung cấp cho thị
trường. Vì vậy kinh tế tiểu nông có quan hệ mật thiết với kinh tế hàng
hóa và là một cơ sở phát triển của kinh tế hàng hóa.
Qua sự phân tích trên, chúng ta có thể
thấy rằng sự phát triển của kinh tế tiểu nông và kinh tế hàng hóa là xu
thế tiến bộ của xã hội phong kiến. Đó là hai bộ phận kinh tế đang giữ
vai trò quan trọng trong sự phát triển của sức sản xuất nói riêng và của
xã hội phong kiến nói chung. Nhưng sự phát triển đó đến thế kỷ XVIII đã
gặp nhiều trở ngại nghiêm trọng. Trong cuộc khủng hoảng của chế độ
phong kiến lúc bấy giờ, kinh tế tiểu nông đã bị đình trệ và phá hoại
kinh tế hàng hóa cũng bị kìm hãm gay gắt.
Về nông nghiệp thì nạn mất mùa, đói kém
xảy ra triền miên làm cho nhiều đồng ruộng bị bỏ hoang, nhiều làng xóm
trở nên tiêu điều và hàng loạt nông dân bị phá sản. Chúng ta có thể tìm
thấy vô số những dẫn chứng như vậy trên những quyển biên niên sử ghi
chép về thế kỷ XVIII. Ở đây tôi chỉ xin nêu lên vài hiện tượng tiêu
biểu. Riêng nạn đói năm 1741 lan tràn hầu khắp Đàng Ngoài và hoành hành
dữ dội ở thị trấn Hải Dương đã gây nên một thảm cảnh đau thương là “số
người sống sót không còn một phần mười, làng nào có tiếng là trù mật
cũng chỉ còn năm ba hộ mà thôi” (1). Sau một trận đói một thời gian khá
dài, khắp thị trấn Hải Dương “ruộng đất đã hầu thành ra rừng rậm, những
giống gấu chó, lợn lòi sinh tụ đầy cả ngoài đồng” (2). Sau những nạn đói
khủng khiếp và kéo dài lê thê ấy, những người nông dân sống sót đành
phải rời bỏ ruộng đồng, quê hương đi kiếm ăn khắp nơi tạo thành một tầng
lớp nông dân lưu vong và để lại những xóm làng tiêu điều, hoang vắng.
Năm 1730 ở Đàng Ngoài có 527 làng phiêu tán và năm 1741 con số đó tăng
lên đến 2691 làng. Theo Ngô Thời Sĩ, thì vào nửa sau thế kỷ XVIII, bốn
trấn ở đồng bằng Bắc Bộ ngày nay có 9668 làng xã thì có 1076 làng điêu
tàn, trấn Thanh Hóa có 1393 làng xã thì có 297 làng xã điêu tàn và trấn
Nghệ An có 706 làng xã thì có 115 làng xã điêu tàn (3).Tình trạng đó kéo
dài cho đến cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Năm 1789 ở Thanh Hóa “… một hạt
thóc cũng không có, nhân dân đói khổ, lại thêm sau cuộc binh hỏa dịch
khí thịnh hành, chết không biết bao nhiêu mà kể” (4). Trong một bức thư
gửi Quang Trung đề ngày 1 tháng 11 năm Quang Trung thứ hai (1789),
Nguyễn Thiếp cũng cho biết ở Nghệ An “… kẻ thì chết đói, người thì xiêu
dạt, mười phần chỉ còn lại năm, sáu mà thôi”. Và trong tờ Chiếu khuyến
nông, Quang Trung cũng tự nhận thấy: “Ít lâu nay trong nước bị binh lửa,
đinh tán điền hoang, số đinh điền so với trước kia mười phần kếm đến
bốn, năm phần” (5). Đồng ruộng bỏ hoang, nông dân chết đói, trôi giạt,
điều đó không những nói lên đời sống cùng khổ cơ cực của nhân dân lúc
bấy giờ, mà còn phản ánh tình trạng kinh tế tiểu nông bị phá hoại nghiêm
trọng làm cho toàn bộ nền kinh tế nông nghiệp bị đình đốn.
Những nguyên nhân gì đã làm cho nền kinh
tế tiểu nông bị phá hoại như vậy ? Trước hết chúng ta phải kể đến sự
chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ. Nạn kiêm tinh
ruộng đất của giai cấp địa chủ là một hiện tượng tất nhiên trong quá
trình phát triển của kinh tế địa chủ do quy luật địa tô quy định. Địa tô
là hình thái kinh tế thực hiện quyền sở hữu ruộng đất của giai cấp địa
chủ, nên muốn mở rộng nguồn bóc lột địa tô, giai cấp địa chủ trước hết l
mở rộng quyền sở hữu ruộng đất của mình. Trong những thời kỳ trước, từ
khi có kinh tế địa chủ, hiện tượng kiêm tinh ruộng đất đã diễn ra phổ
biến, nhưng đến thế kỷ XVIII thì trở nên nghiêm trọng. Bằng mọi hình
thức và thủ đoạn, từ việc mua bán cầm cố, đến những hành động xâm lấn,
cướp đoạt trắng trợn, giai cấp địa chủ không ngừng tìm cách chiếm đoạt
ruộng đất tư của nông dân và thôn tính cả ruộng đất công của làng xã.
Chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ bé của người nông dân cá thể tất nhiên là tỏ
ra yếu ớt, bất lực trước sự uy hiếp của giai cấp địa chủ, nhất là vào
những năm mất mùa, đói kém. Ruộng đất công của làng xã với chế độ quân
điền cũng bị bọn cường hào lũng đoạn. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa
càng xúc tiến sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất , kích thích sự
tăng cường bóc lột của Nhà nước phong kiến và giai cấp địa chủ, do đó
ngày càng đẩy mạnh sự phân hóa giai cấp trong xã hội. Nhà nước phong
kiến có lúc phải đề ra một số biện pháp để hạn chế bớt phần nạn nạn kiêm
tinh ruộng đất để ổn định trật tự xã hội, nhưng mặt khác, lại là đại
biểu cho quyền lợi của giai cấp địa chủ nên chính Nhà nước phong kiến
cũng công nhận và hợp pháp hóa việc chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp
địa chủ. Điều đó được phản ánh khá rõ ràng trong nhiều điều luật của bộ
Lê triều hình luật và những đạo luật khác của chúa Trịnh, chúa Nguyễn.
Tình hình nghiêm trọng đến nỗi vào giữa thế kỷ XVIII, chúa Trịnh lúc bấy
giờ là Trịnh Doanh, phải tự đề ra nhiệm vù giải quyết vấn đề ruộng đất,
nhưng đã tỏ ra hoàn toàn bất lực. Sự chiếm đoạt và tập trung ruộng đất
của giai cấp địa chủ làm cho nông dân bị tước đoạt mất tư liệu sản xuất
cơ bản là ruộng đất, do đó bị trói buộc vào vòng bóc lột địa tô nặng nề
của địa chủ. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho kinh tế tiểu nông bị phá
sản, đời sống của người nông dân lâm vào tình cảnh bần cùng, điêu đứng.
Nhưng bên cạnh nguyên nhân chủ yếu ấy
chúng ta còn phải thấy nhiều nguyên nhân phức tạp khác nữa. Sự tăng
cường bóc lột tô thuế của Nhà nước phong kiến là một nguyên nhân quan
trọng. Để cung cấp cho nhu cầu xa xỉ của vua chúa và chi phí của cả một
bộ máy phong kiến quan liêu nặng nề, chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã tăng
thêm nhiều thứ tô thuế. Đặc biệt ở Đàng Trong, chế độ thuế khóa của chúa
Nguyễn rất phiền phức nặng nề. Chỉ riêng thuế ruộng, ngoài khoản thuế
chính còn có gạo điền mẫu, phụ tiền và nhiều thứ phụ thu khác, như tiền
cung đốn, tiền nộp thóc vào kho, tiền khoán khố, tiền phên tre, tiền bao
mây, tiền dầu đèn, tiền trầu cau, các lễ trình diện… Vào cuối thế kỷ
XVIII, dưới thời chuyên chế của Trương Phúc Loan, Nhà nước còn tăng thêm
các khoản thuế mới. Theo Lê Quý Đôn thì ở Quảng Nam (bao gồm các tỉnh ở
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay) thuế khóa nặng nề nhất và đó
là lý do vì sao vùng này đã sớm trở thành trung tâm của cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn (6), Theo lời giáo sĩ Diego de Jumilla thì trong giai đoạn đầu
của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, nghĩa quân thường kéo về các làng tiêu hủy
các sổ sách thuế của họ Nguyễn. Ở Đàng Ngoài, chế độ thuế khóa của họ
Trịnh cũng rất nghiệt ngã. Thuế ruộng thì đánh vào cả những loại ruộng
đất không sản xuất được “đồng chua nước mặn”, “đất đồi rừng khô cằn”,
“bãi cát trắng”… và nhà sử học Phan Huy Chú đã nhận xét rằng: “… một tấc
đất cũng không sót, không chỗ nào là không đánh thuế, cái chính sách
vét hết lợi hình như quá cay nghiệt” (7). Thuế đinh cũng nhiều lần thay
đổi nhằm “không bỏ sót một dân đinh nào” rồi bắt bớ, tra xét phiền phức
đến nỗi làm cho “lòng người dao động”, “dân chúng bốn phương không đâu
là không xô xao” (8) à ở vùng đông nam đã có người tự xưng là “Đinh suất
đại vương”, lấy khẩu hiệu đấu tranh chống thuế nhân đinh để hiệu triệu
quần chúng. Đó là chưa kể đến chế độ phu phen tạp dịch và nạn tham nhũng
vơ vét của bọn quan lại.
Ngoài ra sự bất lực của Nhà nước trong
việc xây dựng và quản lý các công trình thủy lợi, để cho đê điều luôn
năm bị vỡ lở và hạn, lụt xảy ra liên tiếp, cũng góp phần cho sản xuất
nông nghiệp bị uy hiếp.
Vì vậy phục hồi và phát triển kinh tế
tiểu nông trước hết bằng cách hạn chế kiêm tinh ruộng đất của giai cấp
địa chủ và giảm nhẹ tô thuế cho nhân dân, là một yêu cầu cấp thiết của
xã hội lúc bấy giờ. Kinh tế tiểu nông ở đây bao gồm cả kinh tế của nông
dân tư hữu và nông dân tá điền. Trong lúc chưa có điều kiện thủ tiêu chế
độ sở hữu ruộng đất phong kiến và kinh tế địa chủ thì tất nhiên chưa
thể chuyển hẳn những người nông dân tá điền thành những người nông dân
tư hữu, mà vấn đề đặt ra là củng cố kinh tế nông dân tá điền, giảm nhẹ
mức độ lệ thuộc phong kiến, dành cho tá điền nhiều điều kiện thuận lợi
để phát triển nền kinh tế của mình. Chỉ có phục hồi và phát triển kinh
tế tiểu nông mới có thể đưa nền sản xuất nông nghiệp ra khỏi tình trạng
bị đình đốn, phá hoại và đẩy sức sản xuất tiên tiến lên. Mà muốn phục
hồi và phát triển kinh tế tiểu nông thì không phải chỉ có hạn chế nạn
kiêm tinh ruộng đất là đủ dù đó là biện pháp chủ yếu, mà còn chú ý đến
nhiều biện pháp khác như giảm nhẹ tô thuế, hạn chế nạn tham quan ô lại,
chăm sóc các công trình thủy lợi… trong đó giảm nhẹ tô thuế là một biện
pháp quan trọng.
Còn về công thương nghiệp thì trong thế
kỷ XVII – XVIII có những bước phát triển đáng kể, nhưng đến cuối thế kỷ
XVIII cũng bị kìm hãm gay gắt. Thuế thổ sản nặng nề đến nỗi làm cho
nhiều nghề thủ công bị phá sản, nhiều thợ thủ công phải bỏ nghề, phá
công vụ. Về điều này chúng ta có thể dẫn lời nhận xét của Phan Huy Chú
đã được nhiều nhà nghiên cứu sử học nhắc đến: “trưng thu hà lạm đến nỗi
cạn hết vật lực mà không đủ cung, thành ra bần cùng bỏ việc, thậm chí vì
thuế sơn mà mà tự chặt cây đi, vì thuế vải mà bẻ khung cửi, thu gỗ lạt
mà dân bỏ rìu búa, thu cá tôm mà dân xé chài lưới, đòi mật mía mà dân
không đẵn mía, đánh thuế bông chè mà vườn tược bỏ hoang” (9). Ở Đàng
Ngoài chúa Trịnh còn đặt ra 23 sở tuần tình yêu, và ở Đàng Trong chúa
Nguyễn đặt ra 51 sở tuần tình yêu để đánh thuế vào mọi hoạt động buôn
bán, trao đổi giữa các địa phương. Do đó việc bán buôn gặp nhiều khó
khăn, phải qua nhiều cửa ải thuế khóa. Quan hệ ngoại thương tương đối
phát đạt trong thế kỷ XVII, sang thế kỷ XVIII cũng sa sút hẳn vì chính
sách hạn chế khắc khe của Nhà nước phong kiến. Các thương điếm ngoại
quốc hầu hết đều phải đóng cửa, thuyền buôn ra vào thưa thớt và nhiều
thành thị như phố Hiến, Hội An… trở nên tiêu điều. Chính sách “ức
thương” của Nhà nước phong kiến đến nay đã bộc lộ rõ tất cả tính chất
bảo thủ lạc hậu của nó trước đòi hỏi phát triển của sức sản xuất .
Phát triển kinh tế hàng hóa cũng là một
yêu cầu cấp thiết của xã hội lúc bấy giờ. Chỉ có đẩy mạnh sự phát triển
của nền kinh tế hàng hóa mới bảo đảm những bước tiến vững chắc cho xã
hội và tạo điều kiện có thể tiến tới thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
trì trệ của chế độ phong kiến. Phục hồi kinh tế tiểu nông tức là đã tạo
ra một cơ sở thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Nhưng mặt
khác sự phát triển của kinh tế hàng hóa còn đòi hỏi phải bãi bỏ chính
sách kìm hãm công thương nghiệp và hạn chế ngoại thương của Nhà nước
phong kiến, giảm nhẹ các thứ thuế công thương và mở rộng việc tự do
kinh doanh.
Phục hồi kinh tế tiểu nông phát triển
kinh tế hàng hóa, đó là những yêu cầu phát triển cấp thiết của xã hội
Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII. Hai yêu cầu ấy liên hệ mật thiết với
nhau và trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ chỉ có thể thực hiện được
bằng cách cải thiện một phần nào quan hệ sản xuất phong kiến, chủ yếu là
hạn chế nạn kiêm tinh ruộng đất, giảm nhẹ chế độ tô thuế, bãi bỏ chính
sách kìm hãm công thương nghiệp, mở rộng kinh doanh tự do và quan hệ
ngoại thương. Đó là những yêu cầu trong khuôn khổ chế độ phong kiến và
có thể thực hiện được với một chính quyền phong kiến tiến bộ thiết lập
sau thắng lợi của phong trào nông dân khởi nghĩa.
***
Bây giờ chúng ta hãy xem xét cuộc khởi
nghĩa Tây Sơn và triều Quang Trung đã giải quyết những yêu cầu phát
triển xã hội trên đây như thế nào và đến mức độ nào. Làm như vậy là
chúng ta đã đánh giá những chính sách kinh tế của Tây Sơn nói chung và
Quang Trung nói riêng.
Về mặt nông nghiệp, trong Chiếu khuyến
nông, Quang Trung đã đề ra nhiệm vụ phục hồi nông nghiệp như sau: “Nay
trong nước đã bình định, cần phải phục hồi dân phiêu tán, khai khẩn
ruộng đất bỏ hoang, làm cho dân du thủ du thực trở về với ruộng đất”
(tôi nhấn mạnh, P.H.L.). Để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng ấy, Quang
Trung đã đề ra một số biện pháp sau đây:
Trước hết Quang Trung ra lệnh bắt tất cả
dân phiêu tán trốn tránh, ngụ cư ở các nơi đều nhất thiết trở về quê
hương làm ăn. Chỉ có trường hợp những người ngụ cư ở các xã khác đã sinh
cơ lập nghiệp được ba đời thì cho nhập tịch vào xã ấy, không bắt phải
trở về nguyên quán. Ngay những người trốn tránh lao dịch, lẫn trốn vào
các chùa cũng phải “hoàn tục” nghĩa là trở về sản xuất. Chỉ có những nhà
sư chân chính mới được phép làm tăng nhân chủ trì các chùa. Những biện
pháp này nhằm chấm dứt tình trạng lưu vong phiêu tán trước đây, đưa nông
dân “trở về với ruộng đất”.
Mặt khác Quang Trung tiến hành chính
sách khẩn hoang tích cực, bắt các xã phải sớm thanh toán tình trạng bỏ
hoang nghiêm trọng trước đây. Bất cứ là ruộng công hay ruộng tư, sau một
thời gian nhất định phải khai khẩn hết: Trong Chiếu khuyến nông, Quang
Trung quy định rõ “xã nào để ruộng bỏ hoang quá thời hạn quy định không
khai khẩn, nếu là ruộng công sẽ phải chiếu theo ngạch thuế điền thu gấp
đôi, nếu làm ruộng tư sẽ phải tịch thu làm ruộng công”. Như vậy Quang
Trung muốn giao hẳn nhiệm vụ khai khẩn hết ruộng bỏ hoang cho các xã vì
xã nào còn ruộng bỏ hoang thì phải chia nhau chịu thuế khống gấp đôi.
Phải nói rằng đây là một biện pháp tích cực để đẩy mạnh công việc khẩn
hoang, chứ không phải nhằm tăng tô thuế. Vì vậy đối với những làng xã
nào đó, ruộng đất bỏ hoang nhiều không thể đảm bảo khai khẩn hết trong
thời hạn quy định thì Quang Trung cũng cho hoãn hay miễn thuế, không bắt
phải chịu thuế khống. Tờ sắc của Quang Trung đề ngày 15 tháng 5 năm
Quang Trung thứ ba (1790) vừa mới phát hiện được gần đây ở làng Vĩnh
Ninh xã Đại Hưng, huyện Thanh Trì, chứng tỏ điều đó. Theo tờ sắc này thì
chỉ có ruộng đất cày cấy mới phải nạp thuế còn ruộng đất bỏ hoang (phế
canh) thì được hoãn thu thuế và ruộng đất bỏ hoang đã lâu cũng như ruộng
đất không sản xuất được đều miễn thuế. Biện pháp này thi hành cho xã
Vĩnh Hưng Đặng thuộc tổng Vĩnh Hưng Đặng, huyện Thanh Trì, nhưng cũng
soi sáng thêm chính sách nông nghiệp của Quang Trung.
Về tô thuế, Quang Trung thi hành một
chính sách thu thuế tương đối giản đơn hơn trước và có giảm nhẹ sự bóc
lột đối với nhân dân. Về tô thuế ngoài khoản chính nộp bằng thóc (ruộng
công chia làm ba hạng nộp 30, 80, và 150 bát thóc mỗi mẫu; ruộng tư cũng
có ba hạng nộp 20, 30 và 40 bát thóc mỗi mẫu), chỉ còn lại hai khoản
phụ thu bằng tiền là tiền thập vật và tiền khoán khố. So với lệ thu thuế
rất phiền phức, nặng nề của họ Trịnh, nhất là của họ Nguyễn trước đây,
chính sách tô thuế ruộng đất thời Quang Trung có nhẹ và giản đơn hơn. Về
thuế đinh, Quang Trung vẫn duy trì thuế dung như thời Lê Mạc (mỗi người
nộp 1 quan 2 tiền) nhưng bỏ hẳn thuế điệu. Trong nhiều tác phẩm nghiên
cứu trước đây, có người cho thuế điệu là một thứ thuế có lợi cho công
thương nghiệp. Thực ra, thuế điệu trong chế độ tô, dung, điệu của nhà
Đường bên Trung Quốc thu bằng sản phẩm thủ công tính theo từng hộ, còn
thuế điệu trong chế độ tô, dung, điệu của họ Trịnh thi hành từ năm 1721
lại thu bằng tiền tính theo từng đinh (mỗi đinh 6 tiền) để thay thế cho
một số phụ thu như tiền bài, biểu, điện, miếu và lao dịch đắp đê, đường…
Nhà nước thường dùng tiền thuế điệu để thuê người phục dịch trong các
công trình xây dựng và đắp đê, đường. Vì vậy miễn thuế điệu từ sông
Gianh trở ra (phạm vi Đàng Ngoài trước đây) là nhằm “bớt thuế, thương
dân” (10) và có lợi cho không riêng gì thợ thủ công, mà có lợi cho cả
nông dân nữa. Sự giảm nhẹ các thứ tô thuế như vậy là một điều kiện cần
thiết để phục hồi kinh tế tiểu nông.
Đối với việc xây dựng và quản lý các
công trình thủy lợi dưới thời Quang Trung thì cho đến nay chúng ta hầu
như chưa tìm thấy tài liệu nào. Theo một tờ sức cũng phát hiện được gần
đây ở làng Vĩnh Ninh thì năm Cảnh Thịnh thứ năm (1798) Nguyễn Quang Thùy
giữ chức Tiết chế thủy bộ chư doanh kiêm Tổng binh dân thứ vụ ở Bắc
Thành đã trực tiếp giải quyết và quy định việc đóng mở một cống nước ở
ba xã Vĩnh Hưng Đặng, Vĩnh Bảo, Vĩnh Hưng Trung thuộc huyện Thanh Trì,
tưới ruộng cho ba xã trên là ba xã Tả Thanh Oai, Phú Điền, Siêu quần
thuộc huyện Thanh Oai. Điều ấy chứng tỏ sự quan tâm của triều Tây Sơn
đối với việc thủy lợi và cũng cho phép chúng ta suy đoán rằng ở thời
Quang Trung có lẽ sự quan tâm chăm sóc ấy còn cao hơn.
Những biện pháp nông nghiệp trên đây của
Quang Trung có tính chất tiến bộ rõ rệt. Nhưng còn đối với vấn đề chủ
yếu là vấn đề ruộng đất thì Quang Trung đã giải quyết đến mức độ nào ?
Đây là khâu phức tạp nhất trong việc đánh giá chính sách kinh tế của
Quang Trung và đến nay vẫn còn những nhận định khác nhau.
Chiến tranh tạm thời chấm dứt tất nhiên
có tạo ra điều kiện thuận lợi để phục hồi sản xuất, nhưng trong hoàn
cảnh xã hội ta vào cuối thế kỷ XVIII, nếu chỉ đề ra chính sách khuyến
nông mà không giải quyết ít nhiều vấn đề ruộng đất thì không thể nào
phục hồi được nền kinh tế nông nghiệp, không thể nào giải quyết được nạn
nông dân lưu vong và đồng ruộng bỏ hoang. Chính quyền họ Trịnh trước
đấy cũng đã nhiều lần đề ra việc khuyến nông, khai khẩn ruộng đất bỏ
hoang, chiêu tập dân lưu vong trở về sản xuất, đặt ra các chức quan
khuyến nông sứ, chiêu tập sứ… nhưng đã tỏ ra bất lực và hoàn toàn thất
bại. Chính vì vậy có chúa Trịnh như Trịnh Doanh, có những viên quan như
Ngô Thừa Sĩ… đã nhìn thấy tầm quan trọng và bức thiết của vấn đề ruộng
đất , vấn đề hạn chế nạn kiêm tinh ruộng đất, nhưng không thể giải quyết
được vấn đề đặt ra. Kết quả phục hồi nông nghiệp đạt được dưới thời
Quang Trung buộc chúng ta phải nghiên cứu kỹ hơn chính sách ruộng đất
của Quang Trung. Và trong thực tế, tài liệu tuy rất thiếu thốn, nhưng
cũng cho chúng ta thấy rằng Quang Trung có đề cập và giải quyết vấn đề
ruộng đất trong một chừng mực nhất định.
Có người cho rằng, cuộc khởi nghĩa Tây
Sơn đã xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của Nhà nước phong kiến, của quan
lại và đại địa chủ, biến những người tá điền thành tiểu nông có ruộng
đất tư hữu. Theo tôi điều đó có quá cao đối với một cuộc khởi nghĩa nông
dân và trong thực tế cũng không có tài liệu cụ thể để chứng minh. Cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn có nêu cao khẩu hiệu đấu tranh “lấy của nhà giàu
chia cho dân nghèo”. Nhưng theo lời của các giáo sĩ Tây phương có mặt ở
nước ta lúc bấy giờ, thì “của cải” ở đây là lúa gạo, lương thực, tiền
của… không thấy đề cập đến ruộng đất, và nhà giàu ở đây không phải là
tất cả địa chủ, quan lại mà chỉ một số địa chủ quan lại chống đối mà
thôi. Vấn đề ruộng đất không được nêu ra và giải quyết một cách rõ ràng
trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Nhưng khi nạn kiêm tinh ruộng đất đã xảy
ra nghiêm trọng và nông dân bị mất ruộng, bị phá sản nặng nề như cuối
thế kỷ XVIII, thì trong một cuộc đấu tranh giai cấp to lớn, quyết liệt
như cuộc khởi nghĩa Tây Sơn , không thể tránh khỏi những hành động giành
lại ruộng đất một cách tự phát của nông dân. Giáo sĩ Diego de Jumilla
trong bức thư gửi cho giáo sĩ Jean Salguero ngày 15 tháng 2 năm 1774, có
nói rằng khi chiếm được Quy Nhơn, Phú Yên. Quân Tây Sơn chia nhau vào
các làng xã, “họ giết những xã trưởng phản động và đốt nhà của chúng”,
“họ đòi lấy những giấy tờ công, cũng như những sổ sách về thuế khóa, do
nhà vua và bọn quan lại đặt ra, đem đốt ở nơi công cộng”. Trước đó,
tháng 5 năm 1773 “họ tấn công và tước vũ khí viên quan do nhà vua sai
vào thu thuế, họ thu lấy tất cả giấy tờ của viên quan này đem đốt ở nơi
công cộng” (11).
Trong lúc bọn quan lại, hào cường bị
nhân dân trừng trị, hoặc bị giết chết hoặc phải bỏ trốn, trong lúc sổ
sách ruộng đất và thuế khóa bị tiêu hủy, trong lúc chính quyền phong
kiến cũ bị lật đổ và chính quyền mới chưa thành lập như vậy, thì nhất
định không tránh khỏi xảy ra hiện tượng những người nông dân cùng khổ –
nhất là những người nông dân tá điền, tự chiếm lấy ruộng đất của bọn
quan lại, hào cường bị giết hay bỏ trốn mà họ đang lĩnh canh, hay cả một
bộ phận ruộng đất công của làng xã mà họ đang cày cấy theo khẩu phần
của mình. Nhận xét đó dù không có tài liệu trực tiếp, nhưng chúng ta có
thể rút ra từ tính chất và diễn biến của cuộc khởi nghĩa. Ở vùng trung
tâm của cuộc khởi nghĩa, bao gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên ngày nay thì những hành động giành lấy ruộng đất một cách
tự phát như vậy càng dễ xảy ra. Những hành động ấy chỉ giới hạn đối với
một số quan lại chống đối, một số địa chủ cường hào gian ác mà thôi, nên
nó chỉ có tác dụng phân tán một số ruộng đất của bọn này sang tay nông
dân, hạn chế phần nào nạn kiêm tinh ruộng đất, chứ không thể đưa tới xóa
bỏ toàn bộ chế độ sở hữu ruộng đất của quan lại và đại địa chủ. Trong
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn từ buổi đầu, ngoài lực lượng chủ yếu là nông dân
nghèo khổ và các tầng lớp nhân dân bị áp bức khác như thương nhân, nhân
dân thiểu số… chúng ta còn thấy tham gia, hưởng ứng của một bộ phận địa
chủ nhỏ. Cùng với quá trình phát triển của cuộc khởi nghĩa, nhất là khi
cuộc đấu tranh giai cấp chuyển thành cuộc đấu tranh dân tộc chống ngoại
xâm, thì lực lượng tham gia phong trào càng mở rộng và chúng ta thấy có
sự tham gia của nhiều quan lại sĩ phu yêu nước. Chúng ta có thể kể
những trường hợp tiêu biểu như Trần Văn Kỷ, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích,
Nguyễn Thiếp v.v… Trong bức thư của mình, giáo sĩ Diego de Jumilla cũng
nói rằng nghĩa binh chỉ tịch thu “của cải” của những “nhà giàu” chống
đối, còn những “nhà giàu” chịu phục tùng thì không bị “gây tổn hại gì”.
Những điều ấy còn cho phép chúng ta khẳng định rằng, cuộc khởi nghĩa Tây
Sơn trong quá trình phát triển của nó, có phân tán một cách tự phát
ruộng đất của một số quan lại chống đối và địa chủ cường hào, nhưng
không xóa bỏ hẳn chế độ sở hữu ruộng đất của quan lại và dại địa chủ nói
chung.
Sau khi cuộc khởi nghĩa kết thúc, Quang
Trung tuy không để ra chính sách ruộng đất rõ ràng, nhưng trong những
biện pháp nông nghiệp của mình có tiếp tục giải quyết một số vấn đề
ruộng đất.
Đối với ruộng đất công của làng xã thì
Quang Trung đem phân cấp cho dân trong làng xã nhất là nông dân lưu vong
mới trở về, cày cấy nộp tô cho Nhà nước. Những ruộng đất công này trước
đây phần lớn bị Nhà nước và bọn cường hào lũng loạn đem cấp cho quan
lại, quân lính hoặc chiếm riêng, nên phần ruộng đất còn lại để phân cấp
cho nông dân, không còn mấy. Khi nói về thể lệ quân điền năm 1711 Phan
Huy Chú đã nhận xét rằng: chỉ có trấn Sơn Nam hạ có nhiều ruộng đất công
nên pháp quân điền còn có tác dụng, còn các trấn khác ruộng đất công
không còn mấy chỉ đủ để cấp “binh lương và ngụ lập” mà thôi (12). Hiện
nay chúng ta không có tài liệu cụ thể về thể lệ quân điền của Quang
Trung. Nhưng điều chắc chắn là dưới thời của Quang Trung , phần lớn
ruộng đất công của làng xã đều được chia cho nông dân trước hết là dân
lưu vong ,mới trở về, cày cấy nộp tô cho Nhà nước. Quang Trung hầu như
đã bãi bỏ chế độ ban cấp ruộng đất cho quan lại, hay nếu có, thì cũng
chỉ thực hiện trong một mức độ rất hẹp. Một số quan lại cao cấp trong
chính quyền Quang Trung như Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp v.v… chỉ thấy
được cấp một số dân đinh, một số làng xã để thu thuế làm bổng lộc, không
thấy được cấp ruộng đất. Theo một tài liệu trong Đại nam thực lục chính
biên của Sử quán triều Nguyễn, thì Tây Sơn cũng có cấp ruộng ngụ lộc,
nhưng có lẽ chỉ ở một mức độ rất hạn chế mà thôi. Qua cuộc khủng hoảng
của chế độ phong kiến, ruộng đất công của làng xã bị bỏ hoang nhiều nên
trong Chiếu khuyến nông Quang Trung bắt nông dân lưu vong trở về khai
khẩn cho hết. Trong tờ sắc ở làng Vĩnh Ninh, năm 1790 Quang Trung còn
miễn tô thuế ba năm cho những nông dân lưu vong mới trở về khai khẩn
ruộng hoang.
Như vậy là Quang Trung vẫn duy trì chế
độ ruộng đất công của làng xã, nhưng không phải dùng để ban cấp cho quan
lại, quân lính mà chủ yếu là để chia cho dân cày cấy nhằm đảm bảo cho
người nông dân lao động có điều kiện sản xuất, nhằm thanh toán tình
trạng ruộng đất bỏ hoang, nhân dân phiêu bạt và do đó phục hồi lại nền
kinh tế nông nghiệp. Người nông dân cày ruộng đất tuy phải nộp tô cho
Nhà nước, tuy không có quyền sở hữu ruộng đất, nhưng ít nhất cũng có
điều kiện sản xuất, có điều kiện xây dựng lại nền kinh tế cá thể của
mình. ất nhiên lúc bấy giờ chúng ta không thể đòi hỏi Quang Trung chia
hẳn số ruộng đất cho nông dân như yêu cầu của một cuộc cách mạng dân chủ
tư sản.
Còn đối với ruộng đất tư thì tất nhiên
Quang Trung vẫn phải duy trì chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa
chủ, nhưng cũng có hạn chế trong chừng nào sự chiếm hữu ruộng đất ấy có
phương hại đến nền sản xuất nông nghiệp và chính quyền mới. Quang Trung
đã tịch thu những ruộng đất tư bỏ hoang quá thời hạn quy định và ruộng
đất của những phần tử phong kiến chống đối làm ruộng công, giao về các
làng xã chia cho dân cày cấy. Theo quyển địa bạ ở huyện Nông Cống (Thanh
Hóa) gồm một tập tờ khai của các chủ ruộng của thôn Đông Bằng thượng
thuộc xã Thanh Nê, tổng Cổ Định thì từ năm 1788, trước khi lên ngôi
Hoàng đế (nên trong những tờ khai này còn để niên hiệu Thái Đức thứ 11),
Nguyễn Huệ đã bắt những người có ruộng đất tư phải kê khai tỷ mỉ số
ruộng, số thuế của mình. Cuối mỗi tờ khai phải cam đoan rằng: “Lại xin
cam đoan, nếu có gian ẩn ruộng từ một thước trở lên và đem nhất đẳng làm
nhị đẳng, nhị đẳng làm tam đẳng, hao mất thuế quan, sau có người tố
cáo, đo lại thất thực thì tôi cam chịu tịch thu gia tài điền sản và chịu
tội chết. Nay đoan”. Trong tình hình rối loạn của xã hội vào thế kỷ
XVIII, bọn địa chủ cường hào mặc sức chiếm đoạt ruộng đất để trốn tránh
thuế khóa, biện pháp kê khai trên đây là nhằm bước đầu điều tra tình
hình ruộng đất tư hữu. Sau khi lên ngôi Hoàng đế trong Chiếu khuyến
nông, Quang Trung lại một lần nữa bắt các làng xã phải kê khai tình hình
đinh, điền, trong đó ghi rõ số đinh phiêu tán mới trở về làng và số
ruộng đất mới khai khẩn được. Những điều trên chứng tỏ sự quan tâm của
Quang Trung đối với vấn đề ruộng đất.
Tất nhiên chúng ta không thể có những số
liệu, nhưng có thể nói rằng số ruộng đất bỏ hoang và số ruộng đất của
bọn địa chủ quan lại chống lại Tây Sơn bị tịch thu. Trong thế kỷ XVIII,
tình hình đồng ruộng bỏ hoang, xóm làng điêu tàn xảy ra rất nghiêm trọng
và tình hình ấy còn kéo dài cho đến cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Chúng ta
có thể kể ra rất nhiều tài liệu về tình hình này và trong phần trên của
bài này, tôi cũng nêu lên vài dẫn chứng cần thiết. Theo tờ sắc tìm được ở
làng Vĩnh Ninh, thì cho đến tháng 6 năm 1790 nghĩa là sau hơn một năm
khôi phục kinh tế, xã Vĩnh Hưng Đặng vẫn còn 258 mẫu ruộng công và 48
mẫu 5 sào ruộng tư phế canh được tạm hoãn thu thuế. Đó là chưa kể số
ruộng đất bỏ hoang lâu ngày được miễn thuế hoàn toàn. Theo An Hội thôn
chí của Bùi Dương Lịch thì dưới triều Tây Sơn, thôn An Hội (nay thuộc Hà
Tĩnh) có trên 9 mẫu đất công thì có đến 7 mẫu bỏ hoang và đất ương mạ,
có trên 118 mẫu đất tư thì cũng có đến trên 112 mẫu bỏ hoang. Còn số
ruộng đất của những phần tử phong kiến chống đối bị tịch thu thì không
có tài liệu trực tiếp, nhưng chúng ta có thể suy đoán qua số lượng những
phần tử chống đối này. Đó là tập đoàn phong kiến họ Trịnh, họ Nguyễn và
bọn vua tôi Lê Chiêu Thống, gồm một số khá lớn những triều thần, quan
lại cao cấp trong chính quyền phong kiến lúc bấy giờ. Bọn chúng đại biểu
cho những thế lực phong kiến phản động nhất trong nước và phần lớn cũng
là những địa chủ giàu có. Do đó số tài sản và ruộng đất bị tịch thu của
bọn chúng cũng không phải là ít lắm. Biện pháp tịch thu ruộng đất bỏ
hoang và ruộng đất của những phần tử phong kiến chống đối có tác dụng
phân hóa ruộng đất tập trung trong tay đại địa chủ quan liêu phản động
và tạo thêm điều kiện cho nông dân trở về sản xuất, vì những ruộng đất
tịch thu đều chuyển thành ruộng đất công chia cho dân cày cấy theo chế
độ quân điền.
Để đánh giá chính sách ruộng đất của
Quang Trung chúng ta cần phân biệt sự hạn chế khách quan của điều kiện
lịch sử và những hạn chế có thể khắc phục được của Quang Trung. Việc duy
trì chế độ phong kiến về ruộng đất và cơ sở kinh tế của giai cấp địa
chủ nói chung là một hạn chế tất yếu của điều kiện lịch sử vào cuối thế
kỷ XVIII, mà Quang Trung, cũng như bất cứ một chính quyền tiến bộ nào,
đều không thể vượt qua được. Trong giới hạn khách quan ấy, Quang Trung
đã đề ra một số biện pháp tích cực để giải quyết vấn đề ruộng đất. Tôi
không cho rằng những biện pháp ruộng đất của Quang Trung là triệt để, là
tuyệt đối không thể khác được. Thực tế lịch sử đã cho chúng ta thấy
rằng, trong phạm vi của chế độ phong kiến, vẫn có thể đề ra những biện
pháp để hạn chế nạn kiêm tinh ruộng đất. Ví dụ Hồ Quý Ly đã từng hạn chế
mức chiếm hữu ruộng đất tối đa của địa chủ, Ngô Thời Sĩ đã từng đề nghị
cho nông dân chuộc lại một nửa số ruộng đã bán cho địa chủ v.v… Vậy thì
rõ ràng là không có lý do tuyệt đối ngăn cản Quang Trung đề thêm một số
biện pháp ruộng đất tương tự như thế. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là
chúng ta cần xem xét trong hoàn cảnh xã hội cụ thể dưới thời Quang
Trung, những biện pháp ruộng đất của Quang Trung đã có tác dụng gì, còn
thiếu sót gì và cần đề thêm những biện pháp gì khác không ? Hạn chế kiêm
tinh ruộng đất không phải là cứu cánh mà là một biện pháp để củng cố
kinh tế tiểu nông, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Tôi thấy
rằng với những biện pháp của mình, Quang Trung đã đưa lại một số ruộng
đất để chia cho nông dân cày cấy theo chế độ quân điền kiểu phong kiến.
Dưới thời Quang Trung, số ruộng đất công của làng xã và ruộng đất tư bị
tịch thu vì bỏ hoang hay vì chủ ruộng chống đối, còn chưa khai khẩn hết.
Số ruộng công và tư bỏ hoang của xã Vĩnh Hưng Đặng năm 1790, số đất bỏ
hoang của thôn An Hội đủ chứng tỏ điều đó. Vì vậy vấn đề cấp thiết lúc
bấy giờ là bên cạnh những biện pháp ruộng đất ấy, cần đẩy mạnh thêm công
việc khẩn hoang, giảm nhẹ tô thuế… Có như thế mới phục hồi được kinh tế
tiểu nông và do đó khôi phục lại toàn bộ nền kinh tế nông nghiệp. Theo
tôi, chính sách nông nghiệp của Quang Trung là giải quyết theo chiều
hướng ấy.
Qua toàn bộ chính sách nông nghiệp của
Quang Trung, tôi thấy rằng đó là cả một chính sách tích cực phối hợp
nhiều biện pháp, trong đó có cả biện pháp ruộng đất. Trong giới hạn của
điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, chính sách ấy nói chung là phù hợp với
yêu cầu phát triển của xã hội ta. Chính sách ấy tất nhiên không thể giải
phóng người nông dân khỏi chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến, chế độ
bóc lột địa tô phong kiến, đưa tất cả nông dân đến địa vị của người nông
dân tình hình có ruộng đất riêng. Nhưng chính sách ấy đã có tác dụng
hạn chế bớt sự lũng đoạn ruộng đất công của làng xã, phân hóa ruộng đất
tập trung trong tay một số địa chủ, quan liêu (vì bỏ hoang hay có hành
động chống đối) và tạo điều kiện thuận lợi (tích cực khẩn hoang, giảm
nhẹ tô thuế…) cho người nông dân bị phá sản trước đây trở về khôi phục
lại nền kinh tế cá thể của mình, thanh toán lại tình trạng ruộng đồng bỏ
hoang, nông dân lưu vong. Đến vụ mùa năm 1791, sử cũ chép rằng mùa màng
trở lại phong đãng. Điều đó chứng tỏ nền kinh tế nông nghiệp đã được
phục hồi tương đối nhanh chóng. Nền kinh tế nông nghiệp được phục hồi
trước hết là do cơ sở của nó, tức là nền kinh tế tiểu nông được phục
hồi. Đó là kết quả lao động cần cù của những người nông dân lao động kết
hợp với chính sách nông nghiệp tích cực của Quang Trung.
Cùng với chính sách phục hồi nông
nghiệp, Quang Trung còn tiến hành chính sách phát triển công thương
nghiệp. Về việc đánh giá chính sách phát triển công thương nghiệp của
Quang Trung, hầu như các nhà nghiên cứu đều coi là một chính sách mạnh
dạn và tiến bộ. Quang Trung đã bãi bỏ chính sách “ức thương” của họ
Trịnh, họ Nguyễn trước đây và chủ trương đẩy mạnh sự phát triển của nền
kinh tế công thương nghiệp trong nước và mở rộng quan hệ ngoại thương
với nước ngoài. Câu nói: “Ta muốn khí dụng gì cũng chẳng phải mua của
nước Tàu” bộc lộ một tinh thần tự cường mạnh mẽ, một hoài bão to lớn của
Quang Trung muốn xây dựng một nền kinh tế công thương nghiệp phát triển
độc lập. Chính sách mở rộng ngoại thương của Quang Trung cũng khác hẳn
chính sách lợi dụng ngoại thương để phục vụ nhu cầu nội chiến và xa xỉ
của họ Nguyễn, họ Trịnh trong thế kỷ XVII. Thông thương với nước ngoài
theo Quang Trung là nhằm “khiến cho hàng hóa không ngừng đọng, để lợi
cho dân dùng” (13)
Tính chất tiến bộ của chính sách phát
triển công thương nghiệp của Quang Trung thật là rõ ràng. Ở đây tôi chỉ
muốn nhấn mạnh thêm rằng, trong lúc đánh giá chính sách kinh tế của
Quang Trung, chúng ta cần kết hợp chặt chẽ chính sách phục hồi nông
nghiệp với chính sách phát triển công thương nghiệp. Yêu cầu phát triển
của xã hội ta vào cuối thế kỷ XVIII không phải chỉ là hạn chế nạn kiêm
tinh ruộng đất, phục hồi kinh tế tiểu nông, mà còn là phát triển nền
kinh tế hàng hóa. Vào giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, phát triển
kinh tế hàng hóa là một yêu cầu rất quan trọng. Đó chính là con đường để
hình thành sức sản xuất và quan hệ sản xuất mới, con đường đưa xã hội
ta dần dần tiến lên một hình thái xã hội mới cao hơn. Sự phát triển của
kinh tế tiểu nông, xét cho đến cùng, không phải và không thể là để duy
trì mãi mãi tình trạng sản xuất tiểu nông, mà là để thúc đẩy sức sản
xuất tiến lên một bước, và tạo điều kiện cho nền kinh tế hàng hóa phát
triển mạnh mẽ. Khi nền sản xuất hàng hóa chuyển biến thành sản xuất tư
bản chủ nghĩa, thì sự phá sản của kinh tế tiểu nông lại là một hiện
tượng tất nhiên và là một bước tiến của lịch sử. Trong chính sách kinh
tế của mình, chúng ta thấy Quang Trung đã chú ý kết hợp cả hai nhiệm vụ :
phục hồi nông nghiệp và phát triển công thương nghiệp. Theo tôi, chính
sách kinh tế của Quang Trung chưa phải là những cải cách táo bạo, mà chỉ
là những biện pháp cải thiện trong khuôn khổ chế độ phong kiến. Nhưng
nói chung, đó là chính sách tiến bộ và phù hợp với yêu cầu phát triển
khách quan của xã hội ta vào cuối thế kỷ XVIII. Chính sách đó nếu được
thực hiện đầy đủ trong một thời gian dài, nhất định sẽ gây nên những
chuyển biến tốt và mở ra những khả năng tiến triển tốt đẹp cho xã hội
ta. Tuy nhiên chính sách kinh tế của Quang Trung trong phần thực hiện,
đã gặp nhiều hạn chế lớn.
Trước hết, về mặt không gian, chính sách
kinh tế của Quang Trung chỉ được thi hành trên một phần đất nước thuộc
phạm vi thống trị của chính quyền Quang Trung. Còn chính quyền của
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ thì hầu như không đề ra được chính sách gì đáng
kể nhằm giải quyết những yêu cầu phát triển của xã hội và góp phần xây
dựng đất nước. Đó là một trong những lý do khiến cho chính quyền Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Lữ suy yếu và sụp đổ nhanh chóng trước cuộc phản công của
Nguyễn Ánh.
Hạn chế lớn nhất là thời gian thực hiện
những chính sách cải cách của Quang Trung quá ngắn ngủi. Đầu năm 1789,
sau chiến thắng chống quân Thanh, Quang Trung mới có điều kiện tập trung
sức lực vào việc canh tân dựng nước, đề ra những chính sách cải cách về
các mặt. Và đến mùa thu năm 1792, Quang Trung đã chết một cách đột
ngột, bỏ dở dang tất cả sự nghiệp đang tiến hành. Sau đó Quang Toản còn
ít tuổi lên ngôi đã tỏ ra bất lực không tiếp tục được những chính sách
tiến bộ của Quang Trung và để cho mâu thuẫn nội bộ phát triển, làm cho
triều Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Trong thời gian ngắn ngủi như vậy,
những chính sách của Quang Trung, dù tiến bộ cũng chưa thể phát huy hết
tác dụng tích cực của nó trong thực tế xã hội.
Hơn nữa ngay trong thời gian Quang Trung
còn sống việc thực hiện chính sách cải cách đã gặp nhiều khó khăn do sự
lợi dụng, phá hoại của bọn quan lại, hào mục cũ gây ra. Trong chính
quyền Quang Trung còn phải sử dụng một số lượng khá lớn những quan lại
hào mục cũ, mà phần lớn tỏ ra không trung thành với chính quyền mới.
Nhiều chính sách tiến bộ của Quang Trung qua bàn tay thực hiện của bộ
máy quan liêu này đã không thi hành được đầy đủ, thậm chí có khi còn bị
xuyên tạc, lợi dụng để ức hiếp, bóc lột nhân dân. Đây là một hạn chế khó
tránh khỏi đối với một bộ máy phong kiến quan liêu, nhưng với sự kiên
quyết của Quang Trung và với thời gian vẫn có thể khắc phục được một
phần, bảo đảm thực hiện tốt hơn những chính sách đã đề ra. Chính Quang
Trung đã nhìn thấy hạn chế này và đã từng ra lệnh trừng trị bọn quan lại
tham nhũng ở các địa phương.
Với những hạn chế trên đây, chính sách
kinh tế cũng như toàn bộ chính sách về các mặt của Quang Trung, tuy có
nhiều tính chất tiến bộ nhưng chưa phát huy được hết tác dụng tích cực
của nó trong xã hội và chưa gây được chuyển biến gì sâu sắc lắm. Nhưng
dù sao, những chính sách ấy cũng bộc lộ rõ ràng tính chất tiến bộ của
triều Quang Trung – một triều đại phong kiến xây dựng trên thắng lợi của
phong trào nông dân khởi nghĩa. Cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt đó –
mà Nguyễn Huệ là lãnh tụ nông dân kiệt xuất nhất, cùng với tài năng cá
nhân lỗi lạc của mình, là những lý do cắt nghĩa tính chất tiến bộ của
triều Quang Trung.
***
Vấn đề thứ ba mà tôi muốn bàn thêm trong
bài này là nguyên nhân thất bại của Tây Sơn. Đây là một vấn đề khá phức
tạp và từ trước đến nay đã có nhiều kiến giải khác nhau.
Trong hầu hết những công trình nghiên
cứu về Tây Sơn trước đây đều coi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn hay cuộc cách
mạng Tây Sơn bao gồm thời gian dài từ khi cuộc khởi nghĩa bắt đầu bùng
nổ năm 1771 đến khi chính quyền Tây Sơn cuối cùng bị lật đổ năm 1802.
Theo tôi, cách trình bày như vậy không phân biệt rõ ràng được những
thắng lợi và thất bại của Tây Sơn và do đó, cũng dễ gây nên những nhầm
lẫn, mơ hồ trong khi cắt nghĩa sự thất bại của triều Tây Sơn.
Căn cứ vào quá trình phát triển và tính
chất của cuộc đấu tranh, chúng ta nên chia lịch sử Tây Sơn từ 1771 đến
1802 làm hai giai đoạn :
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn phát
triển của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Cuộc chiến tranh trong giai đoạn này
diễn ra dưới hình thái một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt giữa một
bên là nông dân và các tầng lớp nhân dân bị áp bức khác do anh Tây Sơn
lãnh đạo và bên kia là những thế lực phong kiến phản động tiêu biểu là
những chính quyền phản động của Nguyễn, Trịnh, Lê và những thế lực can
thiệp, xâm lược bên ngoài.
Giai đoạn thứ hai kể từ lúc cuộc khởi
nghĩa nông dân đã kết thúc và một triều đại phong kiến mới, tiến bộ đã
thành lập sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ấy, cho đến lúc triều Tây
Sơn bị lật đổ. Cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh trong giai
đoạn này đã chuyển hóa thành một cuộc chiến tranh giữa hai lực lượng
phong kiến : một bên là triều Tây Sơn; một bên là Nguyễn Ánh.
Trong giai đoạn thứ nhất, chúng ta phải
khẳng định những thắng lợi rực rỡ của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Đó là
những thắng lợi trong sự nghiệp đánh bại mọi lực lượng phong kiến phản
động bên trong và lực lượng xâm lược bên ngoài. Sức mạnh đoàn kết đấu
tranh của nhân dân được phát động rộng rãi trong cả nước, sự lãnh đạo
tài tình của anh em Tây Sơn là những nguyên nhân chính quyết định mọi
thắng lợi trên. Có thể nói đó là thắng lợi cao nhất mà cuộc khởi nghĩa
nông dân có thể đạt được trước khi có một giai cấp tiên tiến lãnh đạo.
Nhưng sau những thắng lợi ấy, phong trào
nông dân đã đứng trước một tình trạng bế tắc, không có lối thoát. Bản
thân giai cấp nông dân không đại biểu cho một phương thức sản xuất mới
nên không thể tự mình tiến hành một cuộc vận động cách mạng thắng lợi,
không thể đẩy phong trào tiến lên hoàn thành nhiệm vụ của một cuộc cách
mạng thực sự. Do đó, cuối cùng phong trào nông dân tự nó phải thoái hóa,
những lãnh tụ nông dân đi vào con đường phong kiến hóa và tiếp tục duy
trì chế độ phong kiến. Quá trình phong kiến hóa ấy là một hiện tượng tất
yếu do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ quy định. Đó là sự thiếu hẳn một
trình độ phát triển công thương nghiệp cần thiết làm xuất hiện một giai
cấp mới có khả năng lãnh đạo nông dân hoàn thành một cuộc cách mạng.
Quá trình phong kiến hóa diễn biến dần
dần ngay cả trong quá trình phát triển của cuộc khởi nghĩa. Sau những
thắng lợi nhất định, chúng ta thấy những lãnh tụ nông dân bắt đầu xưng
vương, xưng đế, phong quan tước cho các tướng tá. Những lễ phục đế vương
ấy vẫn chưa làm thay đổi chức năng của bộ tham mưu cuộc khởi nghĩa khi
họ còn đại biểu cho quyền lợi của nhân dân, tiến hành cuộc đấu tranh
chống lại mọi kẻ thù của nhân dân. Chỉ khi nào bị kẻ thù lật đổ, từ bộ
tham mưu cuộc khởi nghĩa chuyển sang chức năng của Nhà nước phong kiến
thì cuộc khởi nghĩa mới kết thúc và đó cũng là ranh giới giữa giai đoạn
thứ nhất và giai đoạn thứ hai. Trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn ranh giới
ấy ở mỗi khu vực có khác nhau. Từ năm 1786 thì Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ
đã từ lãnh tụ nông dân chuyển sang những ông vua của triều đại phong
kiến mới và tính chất nông dân khởi nghĩa đã kết thúc. Trong lúc đó thì ở
phía Bắc, Nguyễn Huệ tuy mang danh hiệu Bắc Bình Vương rồi Hoàng đế
Quang Trung, nhưng vẫn tiếp tục phát triển cuộc đấu tranh của nhân dân,
tiến lên hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ tiêu diệt những thế lực phong kiến
phản động ở Đàng Ngoài và đánh bại cuộc xâm lược của quân Thanh. Năm
1789, sau chiến thắng chống quân Thanh, thì Nguyễn Huệ mới chuyển hẳn
sang chức năng của Nhà nước phong kiến. Năm 1789 là đỉnh phát triển cao
nhất và cũng là điểm kết thúc cuối cùng của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã phát triển
thành một phong trào dân tộc rộng lớn, trên qui mô cả nước. Thắng lợi
của nó thật to lớn, nhưng theo tôi, không vì thế mà coi khởi nghĩa Tây
Sơn là “cuộc cách mạng Tây Sơn”. Trong hoàn cảnh lịch sử nước ta cuối
thế kỷ XVIII, sự phát triển kinh tế xã hội chưa tạo ra những tiền đề cần
thiết cho một cuộc cách mạng xã hội.
Sang giai đoạn thứ hai, một vấn đề khác
được đặt ra là cuộc chiến tranh giữa hai lực lượng phong kiến, một bên
là triều Tây Sơn, một bên là tập đoàn Nguyễn Ánh, tại sao lại kết thúc
với sự thất bại của triều Tây Sơn.
Tất nhiên những hạn chế khách quan của
điều kiện lịch sử lúc bấy giờ mà chúng ta đã phân tích ở trên có làm cho
triều Tây Sơn bị suy yếu. Triều Tây Sơn thiết lập sau thắng lợi của
phong trào nông dân nên còn duy trì ít nhiều thành quả đấu tranh của
nhân dân, còn có khả năng tiến hành một số chính sách tiến bộ. Nhưng dù
sao vẫn là triều đại phong kiến với chức năng bảo vệ quan hệ bóc lột
phong kiến. Do dó quan hệ giữa nhân dân với triều đại mới bị phai lạt
dần và chuyển hóa thành quan hệ đối lập giữa kẻ áp bức với người bị áp
bức. Dưới con mắt của nhân dân anh em Tây Sơn sau này không còn là lãnh
tụ của họ nữa, không còn đại biểu cho quyền lợi của họ nữa, mà đã gia
nhập hàng ngũ phong kiến. Vì vậy trong cuộc chiến tranh giữa Nguyễn Ánh
và Tây Sơn sau này, triều Tây Sơn không còn giữ được sức ủng hộ mãnh
liệt của quần chúng như trong giai đoạn khởi nghĩa trước kia. Mặc khác,
xã hội Việt Nam dưới thời Tây Sơn tuy có chuyển biến ít nhiều, nhưng về
căn bản, kết cấu kinh tế và xã hội vẫn như cũ. Cơ sở kinh tế của những
thế lực phong kiến cũ vẫn được duy trì trong phạm vi cả nước và triều
Tây Sơn vẫn phải sử dụng một bộ phận khá lớn quan lại, sĩ phu cũ trong
chính quyền mới. Những thế lực phong kiến này phần lớn đều giữ thái độ
thù địch với triều Tây Sơn và có thời cơ thuận lợi là muốn khôi phục lại
địa vị thống trị cũ. Như vậy là do những hạn chế khách quan, anh em Tây
Sơn vô tình đã phải duy trì cơ sở kinh tế của những thế lực chống đối
lại mình trong phạm vi cả nước. Tất cả tình hình ấy là hậu quả của quá
trình phong kiến hóa do điều kiện kinh tế, xã hội ấy quy định. Đó là
nguyên nhân sâu xa làm cho lực lượng Tây Sơn trong giai đoạn thứ hai bị
suy yếu, không còn khả năng vô địch như trong giai đoạn thứ nhất.
Tuy vậy, tôi nghĩ rằng, trong hoàn cảnh
xã hội nước ta vào cuối thế kỷ XVIII, vẫn có khả năng tồn tại, trong một
thời gian nhất định, một chính quyền phong kiến tiến bộ như triều Quang
Trung. Trong cuộc chiến tranh giữa Nguyễn Ánh và triều Tây Sơn, sự thất
bại cuối cùng của triều Tây Sơn có những lý do của nó.
Sự thất bại của triều Tây Sơn, ngoài những hạn chế khách quan trên kia, còn có những nguyên nhân sau đây:
Về phía Tây Sơn, có hai nguyên nhân chính
Nguyên nhân thứ nhất là trong sự lãnh
đạo của anh em Tây Sơn, ngoài những ưu điểm lớn còn có một số nhược điểm
thiếu sót quan trọng có ảnh hưởng tai hại đến sự thất bại của triều Tây
Sơn sau này. Hai thiếu sót lớn nhất là không bảo vệ được khối thống
nhất lực lượng và không có những biện pháp thích đáng để giữ đất Gia
Định.
Phong trào Tây Sơn, với tư cách là một
cuộc đấu tranh vũ bão của nhân dân cả nước, đã có tác dụng quyết định
kết thúc tình trạng chia cắt giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài kéo dài trên
hai thế kỷ và có nhiều cống hiến to lớn vào việc khôi phục lại quốc gia
thống nhất. Nhưng mặt khác, anh em Tây Sơn chưa hoàn thành được nhiệm vụ
thống nhất quốc gia. Năm 1786, anh em Tây Sơn chia nước làm ba khu vực
cai quản và do đó, đưa đến sự thành lập những chính quyền riêng biệt,
thậm chí có lúc xung đột nhau. Từ đó lực lượng Tây Sơn đang thống nhất
hùng hậu, bỗng nhiên bị chia xẻ, phân tán tạo ra những chỗ sơ hở cho
quân thù lợi dụng phản công. Nguyễn Ánh đã lợi dụng thời cơ đó, trước
hết đánh bại Nguyễn Lữ chiếm lấy Gia Định làm căn cứ rồi tiến ra đánh
bại Nguyễn Nhạc và cuối cùng lật đổ luôn cả Quang Toản, thôn tính cả
nước. Theo những tài liệu của Sử quán triều Nguyễn và cả của giáo sĩ Tây
phương (14) thì trong số những nhà lãnh đạo Tây Sơn, Nguyễn Huệ là
người sáng suốt, có nhìn thấy nguy cơ phục hồi Nguyễn Ánh ở Gia Định.
Trong lời căn dặn của Nguyễn Huệ với các tướng tá trước khi chết cũng
chứng tỏ điều đó. Nhưng do sự phân chia khu vực làm ngăn trở, do sự bất
hòa với Nguyễn Nhạc, nên Nguyễn Huệ không thể trực tiếp trấn áp kẻ thù
ngay từ buổi đầu còn non yếu của chúng.
Đất Gia Định vốn có một vị trí quan
trọng trong cuộc chiến tranh khôi phục lại chế độ phong kiến của Nguyễn
Ánh. Đây là một miền đồng bằng phì nhiêu, mới khai thác và trong quá
trình khai thác miền đất này, họ Nguyễn đã tạo ra một tâng lớp địa chủ
giàu có, trung thành với mình. Đây cũng là nơi rút lui và cầm cự cuối
cùng của những thế lực phong kiến Đàng Trong trước cuộc tiến công của
Tây Sơn. Quân Tây Sơn đã nhiều lần tấn công vào Gia Định, nhưng sau mỗi
lần tấn công thắng lợi lại rút lui, chỉ để một số quân làm nhiệm vụ đồn
trú đơn thuần về quân sự mà thôi. Sau khi chính quyền họ Nguyễn bị lật
đổ thì quân Trịnh ở phía Bắc là kẻ thù nguy hiểm nhất, nên chúng ta
không đòi hỏi anh em Tây Sơn phải dồn một số quân lớn đóng giữ đất Gia
Định. Thiếu sót của anh em Tây Sơn là ở chỗ không biết nhân những thắng
lợi của mình tiếp tục để có những chính sách cần thiết về kinh tế, chính
trị, xã hội để củng cố cơ sở của chính quyền mới lập nên ở đây. Do đó,
sau khi đại quân Tây Sơn rút lui, bọn tàn quân chúa Nguyễn với sự ủng hộ
của đại địa chủ địa phương lại âm mưu nổi dậy. Từ 1776 đến 1785 sáu lần
quân Tây Sơn chiếm được Gia Định thì sau đó cũng là sáu lần quân Nguyễn
khôi phục lại Gia Định. Năm 1786, Nguyễn Lữ được cử vào trấn giữ đất
Gia Định cũng tỏ ra bất lực không bảo vệ nổi vị trí quan trọng này. Vì
vậy, năm 1787 Nguyễn Ánh sau hiều lần thất bại vẫn chiếm được đất Gia
Định làm bàn đạp tấn công lật đổ triều Tây Sơn.
Nguyên nhân thứ hai là cơ sở của chính
quyền Tây Sơn mới xây dựng chưa được củng cố vững chắc. Việc chia rẽ anh
em Tây Sơn đưa đến sự thiết lập những chính quyền riêng biệt làm cho
lực lượng Tây Sơn bị phân tán. Hơn nữa cơ sở của mỗi chính quyền mới xây
dựng lại không được củng cố. Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ sau khi lên làm
vua, đã tỏ ra tầm thường, hưởng lạc, không đề ra được chính sách gì đáng
kể để giải quyết yêu cầu phát triển của xã hội, tranh thủ sự ủng hộ của
nhân dân. Do đó những chính quyền này đã sụp đổ nhanh chóng trước cuộc
phản công của Nguyễn Ánh. Chỉ riêng chính quyền của Nguyễn Huệ là tồn
tại vững chắc vì như chúng ta biết Nguyễn Huệ đã thực hiện nhiều chính
sách tiến bộ. Nhưng giữa lúc chính sách đó đang tiến hành dở dang, chính
quyền đang cần tiếp tục củng cố thì Nguyễn Huệ chết đột ngột. Tôi không
coi cái chết của Nguyễn Huệ là nguyên nhân quyết định tất cả, nhưng
phải thấy rằng đây là một tổn thất lớn của Tây Sơn, làm cho triều Tây
Sơn suy yếu nhanh chóng. Sau khi Quang Trung chết, chính quyền của Quang
Toản đã lâm vào tình trạng chia rẽ, xung đột nội bộ gay gắt, trong lúc
cơ sở kinh tế xã hội của chính quyền ấy chưa vững chắc, nên đã bị sụp đổ
trước cuộc phản công của Nguyễn Ánh. Triều Quang Toản vào giai đoạn
cuối cùng đã mất lòng dân nghiêm trọng và không thể coi là một vương
triều phong kiến tiến bộ.
Về phía Nguyễn Ánh cũng có hai nguyên nhân chính.
Nguyên nhân thứ nhất là Nguyễn Ánh được
sự ủng hộ của giai cấp địa chủ cả nước, nhất là tầng lớp đại địa chủ ở
Gia Định. Đây là lực lượng hậu thuẫn quan trọng nhất, là chỗ dựa đầu
tiên của Nguyễn Ánh trong việc xây dựng lực lượng chống lại Tây Sơn. Gia
Định lại là miền đất mới khai phá, kinh tế đang có điều kiện phát triển
và mâu thuẫn giai cấp chưa gay gắt lắm. Vì vậy, Nguyễn Ánh và bọn đại
địa chủ ở đây cũng dễ lôi kéo một bộ phận nhân dân theo chúng chống lại
triều Tây Sơn. Sau này, năm 1817, chính Nguyễn Ánh cũng tự nhận thấy
rằng: “Gia Định đất đai màu mỡ, các thánh mở mang chưa đến một trăm năm
mà binh mạn, của giàu, trẫm dùng đấy để đánh giặc Tây Sơn …” (15). Gia
cấp địa chủ trong nước nói chung cũng có thái độ thù hằn với triều Tây
Sơn. Triều Tây Sơn càng suy yếu, càng mất sự ủng hộ của nhân dân thì
hoạt động chống đối của bọn phong kiến càng mở rộng, càng có hiệu lực.
Bọn chúng có kẻ thì nổi dậy chống Tây Sơn, có kẻ thì trốn vào Gia Định
theo Nguyễn Ánh và luôn luôn sẵn sàng làm hậu thuẫn cho những cuộc phản
công của Nguyễn Ánh. Chúng xuyên tạc mọi chủ trương, chính sách tiến bộ
của Tây Sơn để ly gián nhân dân và tuyên truyền cho ảnh hưởng của Nguyễn
Ánh. Bài phú “Chiến tụng Tây Hồ” của Phạm Thái”, “Khúc ca hoài nam” của
Hoàng Quang và nhiều câu ca dao khác… do họ sáng tác ra đều nhằm mục
đích chính trị ấy.
Nguyên nhân thứ hai là sự giúp đỡ của tư
bản Pháp cũng có tác dụng nhất định đến sự phát triển lực lượng của
Nguyễn Ánh và cục diện của cuộc chiến tranh. Đây không phải là sự giúp
đỡ chính thức của chính phủ Pháp theo các điều khoản của hiệp ước
Versailles, mà chỉ là kết quả của cuộc vận động của Bá Đa Lộc đối với
bọn tư bản thực dân ở các thuộc địa Pháp. Bản thân lực lượng này không
lớn lắm và chúng ta không có lý do gì khuếch đại quá nhân tố ngoại viện
này thành nguyên nhân quyết định sự thắng lợi của Nguyễn Ánh. Tuy vậy
chúng ta phải thấy rằng sự can thiệp của tư bản Pháp có tác dụng nâng
cao thêm ít nhiều thuật chiến đấu của quân Nguyễn như kỹ thuật đóng tàu,
đúc súng, chế đạn, xây thành lũy, mua vũ khí của các công tình yêu tư
bản phương Tây.
Tất cả những nguyên nhân trên liên quan
mật thiết với nhau và cuối cùng đã quy định sự thất bại của triều Tây
Sơn. Theo tôi, thì trong số những nguyên nhân ấy, những nguyên nhân về
phía Tây Sơn là chủ yếu. Nói như vậy là phù hợp với nhận định cho rằng
thất bại của triều Tây Sơn không phải là một tất yếu, không thể tránh
khỏi. Những nguyên nhân về triều Tây Sơn có thể khắc phục được trong
hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Và nếu khắc phục được những nguyên nhân
ấy, một chính quyền phong kiến tiến bộ thành lập sau thắng lợi của phong
trào nông dân khởi nghĩa, vẫn có thể đứng vững trong một thời gian dài
hơn và đưa xã hội tiến lên một bước nhất định. Nói như vậy cũng có nghĩa
là chế độ phong kiến lúc bấy giờ khủng hoảng trầm trọng, nhưng không
phải là bế tắc, không có lối thoát.
Trên đây là một số suy nhĩ của tôi về ba
vấn đề do cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đề ra cho những người làm công tác
nghiên cứu sử học. Phát biểu những ý kiến trên, tôi muốn góp phần làm
sáng tỏ thêm những nét cơ bản về lịch sử của phong trào Tây Sơn.
Phan Huy Lê
———-
1. Việt sử thông giám cương mục. Q. 39
2. Phạm Đình Hổ: Vũ Trung tùy bút, NXN Văn hóa, tr. 119
3. Ngô gia văn phái
4. Lịch triều tạp kỷ, Q. 6
5. Ngô Gia văn phái sđd
6. Lê Quí Đôn: Phủ biên tạp lục, Q. 3
7. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Q. 29
8. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Q. 29
9. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Q. 31
10. Phan Huy Ích: Dụ am văn tập
11. Les Expagnols dán t’Empire d’Annam Archives tibéro – americaines. No 107, XIV ème article
12. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Q. 30
13. Thư gửi tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An 1789
14. Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kv Q. 6 L. Cadiere Documents relatifs a l’epoque de Gia Long
15. Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kv Q. 55
Nghiên cứu lịch sử số 49. 4 – 1963
và số 50. 5 – 1963
Nguồn : thư viện tỉnh Bình Định
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét