Khổng Tử sinh thời của ngài thường nói với học trò rằng “(Ngô) thuật
nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” nghĩa là: Ta chỉ thuật lại mà không trước
tác, tin vào đạo lý đời xưa.
1/ Bối cảnh ra đời học thuyết Chính danh:
Khổng
Tử sinh thời của ngài thường nói với học trò rằng “(Ngô) thuật nhi bất
tác, tín nhi hiếu cổ” nghĩa là: Ta chỉ thuật lại mà không trước tác, tin
vào đạo lý đời xưa. Các nhà nghiên cứu về Nho giáo và Khổng tử ngày nay
đều cho rằng, trong các tác phẩm như Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Xuân
Thu, Luận Ngữ… thì chỉ có quyển Luận Ngữ được xem là đáng tin cậy nhất
vì những lời phát biểu của Khổng tử trong sinh thời mà phần lớn là đàm
thoại với học trò của ngài. Do đâu mà Khổng tử đề ra học thuyết Chính
danh?
Trong
thời đại của mình, Khổng Tử nhận thấy tình trạng rối ren, phức tạp của
xã hội phong kiến thời Chu. Xã hội mà tôn ti trật tự bị rối ren, đảo
lộn. Ngài lấy làm tiếc cái thời đầu nhà Chu như Chu Võ Vương, Chu Công…
sao mà thời đại tươi đẹp, phong hóa tốt tươi đến thế! Ngài nhìn thấy
tình cảnh “tôi thí vua, con giết cha không phải nguyên nhân của một sáng
một chiều”. Mọi sự việc, nguyên nhân đều có cái cớ của nó. Mà cái cớ
này không tự dưng mà có mà nó được tích tập dần dần qua thời gian mà đến
một thời điểm nào đó, chúng ta tạm gọi đó là điểm nút thì sẽ xảy ra
kịch tính như trên. Kinh dịch có câu “Đi trên sương mà băng giá tới” (Lý
sương kiên băng chí) là thuận với lẽ diễn tiến tự nhiên của mọi sự vậy.
Khổng
tử thấy tình trạng xã hội thời ngài hỗn loạn đến nỗi “tôi giết vua, con
giết cha” là tệ hại lắm rồi, nhưng ngài là người không thích bạo lực,
không thích làm cuộc thay đổi triệt để để triệt tiêu cái tệ trên bằng
bạo lực cho nên ngài mới đề ra học thuyết chính danh nhằm để cải tạo xã
hội, giáo hóa xã hội dần dần. Bản tính ngài thích ôn hòa, thích giáo
huấn dần dần hơn là bạo lực, mà bạo lực chưa chắc gì đã giải quyết triệt
để cái tệ “tôi giết vua, con giết cha” nói trên mà bất quá chỉ thay thế
cuộc thí quân này bằng cuộc thí quân khác hoặc vụ giết cha này bằng vụ
giết cha khác. Bạo lực bất quá chỉ giải quyết việc trước mắt, tức thời,
chỉ trị được ngọn chứ làm sao trị được gốc của tình hình trên, chỉ có
cuộc cách mạng tư tưởng mới trị được gốc của cái tệ tôi giết vua, con
giết cha nói trên. Cũng theo Hồ Thích “Khổng tử chủ trương chính danh
chính từ, một mặt muốn cổ võ hành động con người một mặt muốn cấm dân
làm bậy.”
2/ Học thuyết Chính danh, một phát kiến của Khổng Tử.
Hầu
hết các nhà Nho, các nhà nghiên cứu về Nho giáo và Khổng tử đều thừa
nhận rằng học thuyết Chính danh là một phát kiến mới của Khổng tử. Do
chính ngài quan sát thấy được tình trạng lộn xộn, mất tôn ti trật tự,
trên cho ra trên, dưới cho ra dưới; vua cho ra vua, tôi cho ra tôi,… nên
ngài mới đề ra học thuyết chính danh. Thực chất, học thuyết chính danh
không những chỉ có giá trị ở thời ông. Nói theo cách nói của học giả
Nguyễn Hiến Lê khi viết lời mào cho cuốn Khổng Tử đã phát biểu rằng
“Triết thuyết nào cũng chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh
giá một triết thuyết thì phải đặt nó vào thời của nó, xem nó có giải
quyết được những vấn đề của thời đó không, có là một tiến bộ so với các
thời trước, một nguồn cảm hứng cho các đời sau không. Và nếu sau mười
thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao
thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi.”
3/ Nội dung của học thuyết chính danh.
Chúng
tôi nhận thấy, hầu hết các nhà nghiên cứu về Nho giáo và Khổng tử đều
trích dẫn một số câu vấn-đáp của thầy trò Khổng tử trong Luận Ngữ, thiên
Tử lộ vì cho rằng đó là câu chìa khóa của học thuyết chính danh. Chúng
tôi cũng xin chép ra đây để tham khảo.
“Tử Lộ viết: Vệ quân đãi Tử nhi vi chính, Tử tương hề tiên?
Tử viết: Tất dã chính danh hồ!
Tử Lộ viết: Hữu thị tai, tử chi vu dã, hề kỳ chính?
Tử
viết: Dã tai Do dã! Quân tử ư kỳ sở bất tri, cái khuyết như dã. Danh
bất chính tắc ngôn bất thuận. Ngôn bất thuận tắc sự bất thành. Sự bất
thành tắc lễ nhạc bất hưng. Lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng.
Hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc. Cố quân tử danh chi tất
khả ngôn dã. Ngôn chi tất khả hành dã, quân tử ư kỳ ngôn vô sở cẩu nhi
dĩ hỹ.”
Nghĩa là: Tử Lộ hỏi: Nếu vua nước Vệ mời thầy về giúp cai trị nước, thầy làm gì trước?
Khổng tử đáp: Tất phải lấy chính danh làm trước vậy!
Tử Lộ hỏi: Có việc ấy sao? Thầy vu khoát lắm! Thế nào gọi là chính danh?
Khổng
tử đáp: Anh Do quê mùa này! Người quân tử có điều gì mình không biết
thì bỏ qua mà không nói. Nay danh bất chính tất lời nói không thuận. Lời
nói mà không thuận tất việc chẳng thành. Việc chẳng thành thì tất lễ
nhạc không hưng thịnh. Lễ nhạc không hưng thịnh thì tất hình phạt chẳng
đúng phép, hình phạt mà không đúng khuôn phép thì tất dân không biết đặt
tay chân vào đâu để nhờ cậy. Cho nên người quân tử quan niệm được danh
ắt nói ra được, mà nói ra được tất làm được. Người quân tử nói ra điều
gì nên dè dặt không cẩu thả được!
Học
giả Nguyễn Hiến Lê viết trong Hồi Ký của mình rằng “Thuyết chính danh
của ông (Khổng Tử) đẻ ra thuyết giết một bạo chúa là giết một tên thất
phu của Mạnh, bắt bọn cầm quyền phải có đức, phải thương dân; ông điều
chỉnh lại quyền lợi, nghĩa vụ của vua tôi; ông lại đào tạo một giai cấp
mới:Kẻ sĩ để trị nước, thay thế bọn quý tộc thiếu tài, thiếu đức, giai
cấp đó đa số sống ở trong giới bình dân, địa chủ mới và thương nhân mà
ra.”
Học
thuyết chính danh của Khổng tử không chỉ chỉ được áp dụng trong chính
trị, cai trị mà còn được ông áp dụng trong cách gọi tên sự vật, đồ vật.
Sách Nho giáo có câu chuyện về cái bình đựng rượu được gọi là cái “cô”.
Thời trước Khổng tử, cái bình đựng rượu có cạnh góc người ta gọi là cái
“cô”. Đến đời Khổng tử, người ta làm cái bình đựng rượu bỏ cạnh góc đi
mà vẫn gọi là cái “cô”, Khổng tử không hài lòng về tên gọi này vì theo
ông, nếu cái bình đựng rượu muốn được gọi là cái “cô” thì phải phục hồi
hình dạng cũ của nó. Còn nếu không thì gán cho nó một cái tên mới mà
không gọi là cái cô nữa. [Khổng Tử, Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Hóa 1995].
Qua
hai dẫn chứng trên chúng ta thấy Khổng tử rất coi trọng tôn ti, trật
tự, trên dưới, mà tư tưởng này đã có trước thời Khổng tử rồi. Nó bị biến
dạng dưới thời ông, do đó, ông xiển dương học thuyết chính danh để sửa
trị lại trật tự xã hội, sự cai trị. Đặt sự vật với đúng tên gọi của nó
(trường hợp cái “cô”).
4/ Học thuyết chính danh thực hành trong thời Khổng Tử.
Nhà
nghiên cứu Nguyễn Tôn Nhan trong quyển Nho Giáo Trung Quốc, khi viết về
Khổng tử và những tư tưởng của ngài, ông không xét học thuyết chính
danh theo một mục riêng mà chỉ xem chính danh là phụ vào lễ và mục đích
của chính danh là giữ lễ. Lễ của kẻ trên đối với người dưới và ngược
lại. “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử.”
Chính
danh là tiền đề để lễ nhạc hưng vượng lên; lễ nhạc hưng vượng chính là
cái bản để trị nước. Chỉ vì lễ nhạc không hưng vượng, hình phạt mới
không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết phải làm gì?
Tề
Cảnh công hỏi Khổng tử về chính trị, Khổng tử nói: “Quân quân, thần
thần, phụ phụ, tử tử.” Nghĩa là vua phải ra vua, bề tôi phải ra bề tôi,
cha phải ra cha, con phải ra con. Tức là người nào ở vị trí nào thì phải
ứng xử ở vị trí đó, không được lẫn lộn, không được tùy tiện, phải tuân
theo phép tắc, quy củ của xã hội đã quy định. Nếu làm không được như vậy
thì xã hội sẽ đảo lộn như trường hợp của nước Vệ. Xuất Công Triếp và
Khoái Quý nước Vệ, hai cha con mà tranh nhau ngôi vua. Cả hai cha con
đều thiếu tư cách như vậy cho nên, nếu trị dân thì dân không phục vì
danh bất chính thì nói làm sao mà dân nghe lọt tai được, mà dân không
phục thì nước sẽ loạn. Nước Vệ muốn được yên, theo Khổng tử, thì việc
đầu tiên là phải lập một công tử khác làm vua, danh chính, ngôn thuận
đường hoàn.
Khổng
tử, mười mấy năm bôn ba, đi hết nước này đến nước kia, chỉ cầu sao cho
có ông vua nào dùng mình, vì ông tin rằng nếu có ông vua nào dùng mình
thì chỉ vài năm thôi, ông sẽ làm cho nước đó cường thịnh. Nhưng thực tế
thầy trò ông, đi hết nước này đến nước nọ, tìm cách này hay cách nọ để
truyền đi bản ý của ngài đến các ông vua, cố tìm cách để cho họ dùng
mình nhưng rốt cục ngài đã thất bại. Có lần ông và học trò còn bị vây
khốn suýt chết ở nước Trần và Thái vì họ cho rằng, ông có tài như vậy,
nếu đến giúp nước nào thì nước đó mạnh lên thì họ sẽ nguy mất. Thật là
chua xót cho thầy trò ông!
“Chính
giả, chính dã” là một châm ngôn bất hủ của Khổng tử. Nghĩa là muốn được
chính danh thì lời nói và hành động phải đúng đắn. Muốn làm bậc chính
danh quân tử thì lời nói và hành động phải đúng đắn. Nói suông e không
được đâu! Lời nói và việc làm có đúng đắn thì người mới theo về.
Chừng
nào mà vua còn làm tròn thiên mệnh, nhân dân dưới quyền cai trị của vua
được hưởng hòa bình và hạnh phúc thì đó là vua hiền, con người vua là
thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Muốn như vậy ông vua, chẳng hạn, còn
phải siêng năng lên nữa để làm tròn trách nhiệm của một ông vua. Trái
lại, nếu đó là một ông vua ác độc, mà sự cai trị hà khắc làm cho nhân
dân điêu đứng khổ sở, thì tức là ông vua ác đó đã đánh mất chính danh và
có thể sẽ bị mất luôn ngôi vua và mệnh trời và nhân dân có quyền chính
đáng nổi dậy, lật đổ ông vua ác độc đó và cử người khác lên thay thế.
Thay bậc đổi ngôi cũng là do mệnh trời. Nếu cuộc khởi nghĩa thành công,
một ông vua khác lên thay, thì đó cũng hợp chính danh và hợp với mệnh
trời. Nếu không phải thì cuộc khởi nghĩa đó thất bại.
Trường
hợp của hai ông vua Kiệt, Trụ là điển hình vì không làm tròn trách
nhiệm của ông vua, để dân bị tai vạ, đối khổ cho nên mất danh phận làm
vua và mệnh trời rồi còn bị giết. Mạnh tử sau này bảo “Hại nhân, hại
nghĩa là quân tàn tặc; giết quân tàn tặc là giết một đứa thất phu, một
tên dân quèn. Nghe nói giết một tên thất phu tên là Trụ, chứ chưa nghe
nói giết vua.”
Mạnh
tử đề cao thuyết chính danh một cách cực đoan, nhưng âu cũng là phù hợp
với tình hình Trung Hoa thời ông. Thật vậy, làm vua mà mất đức thì gây
tác hại rất lớn cho dân chúng, không thể lường hết được. Dân có oán ông
vua thất đức đó cũng phải lẽ thôi. Mạnh tử có nói thêm một chút cực đoan
thì ông cũng là thay dân mà phát biểu vậy.
5/ Các tư tưởng có liên quan đến thuyết chính danh.
Các từ hiểu ngầm là chính danh:
Khổng
tử cho rằng, việc chính trị hay hay dở là do ở người cầm quyền. Người
cầm quyền nào biết theo đường ngay chính để sửa đạo nhân thì việc gì
cũng thành ra ngay chính hết thảy. Ngài bảo Quý Khang tử rằng “Chính giả
chính dã, tử suất dĩ chính, thục cảm bất chính.” Nghĩa là: làm chính
trị là làm cho mọi việc ngay thẳng, ông lấy ngay thẳng mà khiến người,
thì ai dám không ngay thẳng? Cho nên, hễ người trên ngay thẳng thì người
dưới bắt chước mà làm theo. Vua mà ngay chính thì không sai khiến người
ta cũng làm theo điều phải, còn vua mà không ngay chính thì có sai
khiến người ta cũng không ai theo cả (kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành,
kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng. Luận Ngữ, thiên Tử Lộ)
Theo
chúng tôi nghĩ, người cầm quyền thời nào cũng phải nêu cao cái đức của
mình. Theo Khổng tử, người cầm quyền trước hết phải sửa mình cho đoan
chính cái đã. Đó là ý tứ trong câu bốn chữ của Khổng tử “chính giả,
chính dã”. Người cầm quyền theo Khổng tử phải là người quân tử, vì người
quân tử ắt phải rèn đức tức là tu thân, rồi sau đó mới có quyền bắt
người trong nhà khuôn theo phép tắc mà ông ta đưa ra tức là tề gia. Có
tề gia giỏi thì mới có thể trị quốc tốt, ngày nay có thể gọi là lãnh đạo
quốc gia, quản lý xã hội. Có trị quốc tốt thì thiên hạ mới theo về mình
thì coi như đã bình được thiên hạ rồi. Theo ý kiến cá nhân chúng tôi,
thuật “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” được hiểu là như vậy.
Ta
thử ví dụ, nếu lãnh đạo của chúng ta tham nhũng, mất đức thì nói ai
nghe? Con cái trong nhà họ chưa chắc là nghe họ nữa là. Như thế thì họ
có tư cách gì để lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo xã hội nữa? Lại càng không
có tư cách đứng trên trường quốc tế để phát biểu. Trường hợp như vậy họ
đã mất chính danh, làm mất luôn chức vụ cũng giống như các vua chúa thời
xưa một khi đã mất chính danh thì mất luôn thân phận làm vua.
Do
đó, theo chúng tôi nghĩ, học thuyết chính danh tuy là được Khổng tử
phát kiến cách đây hơn 2.500 năm nhưng vẫn còn giá trị của nó. Tuy học
thuyết là của người Trung Hoa nhưng chúng ta có thể áp dụng được tùy
theo hoàn cảnh cụ thể của dân tộc ta.
6/ Một số đánh giá chung về học thuyết chính danh.
Chúng
tôi còn hiểu rằng, chính danh không có nghĩa là ngu trung theo kiểu
tuyệt đối trung thành theo chủ nhân, thờ một ông vua trước sau không
thay đổi cho dù ông vua đó đã mất thân phận làm vua do làm bậy. Vấn đề
này chúng ta thấy có nhiều tấm gương sáng trong lịch sử dân tộc ta như
trường hợp của Sư Vạn Hạnh, Lê Lợi, Quang Trung v.v… và sau này là Đảng
Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân làm cuộc khởi nghĩa thành công.
Sư
Vạn Hạnh rất sáng suốt, khi ngài thấy triều Tiền Lê đã thối nát, không
còn cứu vãn được nữa và đã đến lúc dứt bỏ vai trò lãnh đạo của nó thì
ngài không ngần ngại gì mà vứt bỏ nó. Ngài ủng hộ ngay Lý Công Uẩn lúc
đó đang được lòng người. Nếu ngài ngu trung với nhà Tiền Lê thì có được
lợi ích gì cho nhân dân ngoài cái tiếng trung thần (có thể hiểu là từ
này ở đây là ngu trung) được ghi lại trong sử sách? Theo chúng tôi nghĩ,
ngài thấy Lý Công Uẩn rất xứng đáng (chính danh) nên ủng hộ họ Lý vì
lợi ích chung của dân tộc.
Lê
Lợi khi khởi nghĩa, muốn được lòng dân ủng hộ ông cũng đã tìm con cháu
họ Trần về lập làm vua để danh chính ngôn thuận mà quy tụ lực lượng
chống lại bọn xâm lược Minh và ông quyết tâm đoàn kết các lực lượng và
kiên trì, bền bỉ chiến đấu tới ngày thắng lợi. Do đó, về sau ông xứng
đáng làm vua khai sáng một triều đại mới mà không phải là con cháu họ
Trần mà ông đã lập làm vua bù nhìn. Do đó, họ Trần chấm dứt vai trò của
họ trên vũ đài chính trị là điều tất yếu.
Hoàng
đế Quang Trung Nguyễn Huệ cũng vậy. Lần ra Bắc thứ nhất, ông ủng hộ nhà
Lê Mạt vì nhà Lê Mạt còn danh nghĩa làm vua. Nhưng lần ra Bắc thứ hai
thì ông chấm dứt ngay vai trò làm vua của vua Lê Chiêu Thống vì ông này
có hành vi bán nước, cầu viện quân ngoại xâm đánh nhân dân mình. Lần thứ
ba ra Bắc, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung để quy
tục lực lượng đánh đuổi xâm lăng. Nhân dân rất ủng hộ ông, kể cả những
quần thần trước kia phò tá vua Lê. Ông chính danh bước lên vũ đài chính
trị, lãnh đạo nhân dân chống quân Thanh xâm lược khi dân tộc bị lâm
nguy. Đó là một hành động anh hùng của bậc chính danh quân tử, đó cũng
là lý do vì sao nhân dân ta lại ca tụng, hết lòng ủng hộ hoàng đế Quang
Trung mà không ủng hộ vua Lê nữa.
Vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và lãnh đạo sau này cũng là chính danh. Vì ngoài Đảng Cộng Sản Việt
Nam ra, không còn có đảng nào khác đủ sức và đủ uy tín đứng ra lãnh đạo
nhân dân giành độc lập, tự do cho dân tộc từ tay phát xít Nhật và sau
này tiếp tục chống Pháp thành công.
Mỹ
là cường quốc mạnh nhất mang quân đi xâm lược Việt Nam dưới chiêu bài
này nọ. Nhân dân Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu, ăn không đủ no, mặc không
đủ ấm nhưng rốt cuộc, cuộc chiến tranh vì chính nghĩa của dân tộc ta đã
dành được thắng lợi. Nhân dân yêu chuộng hòa bình khắp nơi trên toàn thế
giới đều ủng hộ nhân dân Việt Nam, thậm chí cả một bộ phận lớn nhân dân
tiến bộ ở Mỹ. Chúng ta chiến thắng vì chúng ta có chính nghĩa. Chính
nghĩa ở đây chính là chính danh vậy.
7/ Bài học lịch sử của học thuyết Chính danh.
Học
thuyết chính danh do đức Khổng tử phát kiến cách đây hơn 2.500 năm từ
thời Trung Quốc còn đang ở chế độ phong kiến phân quyền với lòng mong
muốn của ông phục hồi lại chế độ, lễ lạc tốt đẹp của thời nhà Chu ban
đầu khi ông nhận thấy tình trạng xã hội khá lộn xộn, mất tôn ti trật tự.
Ông vốn là người khoan hòa, tuy có tư tưởng cách mạng như không thích
chiến tranh, do đó ông mới đề ra học thuyết chính danh để cải tạo xã hội
một cách dần dần.
Nghiên
cứu về đức Khổng tử, nhà nào cũng phải công nhận rằng học thuyết chính
danh là một phát kiến của ông và đó là đóng góp quan trọng của ông cho
Trung Quốc nói riêng và nhân loại nói chung. Theo cách nói của học giả
Nguyễn Hiến Lê thì “Nếu sau mười thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm
cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn
cho nhân loại rồi.”
Dân
tộc Việt Nam, tuy có biết đến học thuyết chính danh của Khổng tử nhưng
lại vận dung nó rất uyển chuyển để cứu dân, cứu nước, chống xâm lăng
điển hình qua một số vị anh hùng trung lịch sử dân tộc như Sư Vạn Hạnh,
Lê Lợi, Nguyễn Huệ…. Đảng Cộng Sản Việt Nam nêu cao chính nghĩa để chiến
đấu vì độc lập tự do, giải phóng dân tộc, chống quân xâm lược, Pháp,
Nhật, rồi Mỹ được cả dân tộc và nhân dân tiến bộ hòa bình thế giới ủng
hộ vì cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam là cuộc chiến đấu chính nghĩa,
nên cuối cùng, dù kẻ thù có mạnh cỡ nào, chúng có nham hiểm đến đâu đi
chăng nữa thì chúng ta cũng giành được thắng lợi chung cuộc, buộc kẻ thù
phải chấp nhận sự thất bại trước ý chí và chính nghĩa của dân tộc ta.
(sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét