Chiến thắng Thi Nại làm hoảng hốt Tây Sơn. Nguyễn Huệ phải tức tốc
nhảy vào chiến trận, Theo tờ hịch gởi cho quân dân hai phủ Quảng Ngãi và Quy
Nhơn đề niên hiệu Quang Trung thứ 5 ngày 10 tháng 7 (27-8-1792) ông tỏ ra được
ý đó. Bản dịch của giáo sĩ De La Bissachère vẫn còn giữ được giọng hung hăng, ồ
ạt của lời kêu gọi bình Thanh 5 năm trước ở xứ Nghệ. Theo tờ hịch, sau trận Thi
Nại, Nguyễn Nhạc có viết thư cho ông trình bày rằng quân dân Quy Nhơn khiếp sợ
trước đối phương nên mới bị thua mau chóng như vậy. Quang Trung phải nhắc nhở
đến tính cách phù trợ của dân hai phủ đối với anh em Tây Sơn và ngược lại, ơn
huệ họ đã ban cho dân chúng trên 20 năm rồi. Ông gợi lại những trận bình Xiêm,
đánh Bắc oai hùng, lừng lẫy và lưu ý rằng chen vào đó, những chiến thắng chống
cựu trào thật quá dễ dàng. “Gia Định là mồ chôn” họ Nguyễn. Thế thì dân hai phủ
sợ gì bọn người nhút nhát ấy? Đúng ra dân chúng sợ người Tây dưới quyền Nguyễn
Ánh thì phải hơn. Nhưng cái kiêu hãnh của viên tướng bách thắng không cho phép
dân bái quận của mình sợ bất cứ ai, vì “cho dù loại người ấy có khéo léo đến
đâu đi nữa, tất cả đều có cặp mắt xanh của con rắn, phải coi họ như những xác
chết trôi từ biển bắc dạt xuống”.
Dự định của Nguyễn Huệ báo cáo cho dân chúng là quân Phú Xuân sẽ
đem toàn lực lượng thuỷ bộ tung vào Gia Định, đánh đến tận Cao Miên, đập tan
quân Nguyễn Ánh “như gỗ mục vậy”. Đáng chú ý là tờ hịch nói “theo lệnh Vua
Anh”. Có thể thực hai bên đã đồng ý với nhau về điểm Huệ trợ giúp cho Nhạc này
vì rõ ràng là họ đang đứng trước sự tồn vong của gia đình họ. Vì cũng chính
trong tờ hịch, Nguyễn Huệ khuyến khích dân hai phủ trung thành với Nhạc và nói
rõ rằng việc đánh Gia Định là để tỏ cho mọi người biết Nhạc - Huệ thực là anh
em và họ không bao giờ quên họ cùng một dòng máu. Lời lẽ có tính cách trấn an
và cũng lộ có sự tương nhượng. Có lẽ chính có sự nhượng bộ về phía Nhạc nên
Nguyễn Huệ hiểu dụ các làng trong hai phủ phải lo làm cầu, đường để quân dễ
trẩy đi...
Dự định không thành như ta biết. Hai mươi ngày sau, Nguyễn Huệ chết
bất ngờ vì lo cho cuộc viễn chinh. Chiến tranh do đó tiếp tục có lợi về phía
Gia Định.
Tháng 2 âm lịch 1793, có viên Đô ty Tây Sơn đem hai thuyền và 100
người vào Gia Định. Nguyễn Ánh biết được việc Nguyễn Nhạc đem em gái đi điếu
Nguyễn Huệ đến Quảng Ngãi thì bị chận lại không cho ra2. Thấy bác cháu họ còn
nghi kỵ nhau, Ánh bèn quyết định đánh Quy Nhơn3. Viên Đô ty này từ Phú Xuân đến
nên có thể chính ông cho Gia Định biết cả việc Quang Toản và Quang Thuỳ hục hặc
nhau nữa bởi vì ông Lelabousse đã kể rõ việc này trong thư khoảng tháng 6 dương
lịch khi cuộc tiến quân mới còn ở Phan Rang, Bình Khang.
Lần ra quân này (tháng 4 âm lịch 1793) do Tôn Thất Hội coi. Quân bộ
đánh Phan Rí với Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Ánh theo quân thuỷ
có Nguyễn Văn Trương, Võ Di Nguỵ đi trước, Võ Tánh hộ vệ. Quân đi có người Miên,
Hoa, Âu hung hăng, dữ tợn.
Quân thuỷ đến trước ở cửa Phan Rang. Nguyễn Kế Nhuận đánh luỹ Mai
Nương thì Tây Sơn đã chạy rồi. Nguyễn Ánh để lại Vệ uý Nguyễn Hiên đợi bộ binh
rồi ra cửa Nha Trang. Nguyễn Văn Đắc, Võ Văn Lượng đổ bộ đánh luỹ Hoa Vông lấy
phủ Diên Khánh. Ánh sai Võ Tánh mang 3 vệ đội đi lấy Bình Khang rồi chính mình
cũng theo thuỷ quân tiến ra nữa. Ở vũng Hòn Khói, Chỉ huy Trí lại bỏ Bình Khang
để một số binh tướng ra hàng đầu quân dưới cờ Gia Định.
Quân bộ chậm chân hơn, nhưng Tôn Thất Hội cũng đuổi được Đô đốc Hồ
Văn Tự chạy theo đường thượng về Quy Nhơn. Trong lúc đó binh thuỷ đã đến Xuân
Đài. Võ Tánh tiến lên đánh luỹ La Hai6, Tham đốc Tây Sơn là Phạm Văn Điềm chạy
bỏ cả lương hướng. Sức chống cự của Tây Sơn rõ là rất yếu ớt.
Như vậy là từ Bình Thuận đến Phú Yên quân Nguyễn đã chiếm trọn. Ánh
lo đặt người cai trị, thâu thuế, lấy lúa nạp thay tiền để có lương cấp binh
lính. Quan cai trị có người là quan võ rảnh ranh như Nguyễn Thoan coi Hậu thuỷ
doanh, giữ Bình Khang, có người là hàng tướng vô hại như Nguyễn Y Mân được làm
Cai bạ Phú Yên.
Nhưng khi quân Nguyễn vào đất Quy Nhơn thì thấy được sức đề kháng
của Tây Sơn. Võ Tánh đổ bộ lên cửa Thi Nại rồi tiến phá cầu Tân Hội vào tháng 6
năm đó. Tây Sơn lui về giữ núi Trường Úc7. Ở đồng Bình Thạnh, quân Nguyễn gặp
đội tượng binh của Nguyễn Bảo, con Thái Đức. Bảo thua bèn lui về đắp luỹ giăng
từ Thổ Sơn đến núi Trường Úc để ngăn giữ.
Lúc bấy giờ, bộ binh đã tiến vào theo hai đường hẻm có sẵn: Cù Mông
gần biển và Hà Nhao9 phía tây. Ánh mật sai Tôn Thất Hội ở đèo Phú Quý bắt dân
gần đó phá gai, chặt cây dọn đường để đánh trên núi. Dưới đồng, quân ông nửa
đêm vượt qua Kỳ Sơn cùng Nguyễn Văn Thành tập kích núi, có Võ Tánh đánh ở mặt
sau. Ở Trường Úc, Võ Văn Lượng đến đốt trại để Lê Văn Duyệt tiến lên núi thu
súng ống, đạn dược rất nhiều. Nguyễn Bảo và Đào Văn Hổ phải chạy về thành Quy
Nhơn bỏ lại các luỹ Phú Trung, Tân An, Cầu Chàm, Đập Đá11.
Vòng vây cứ dần dần thu hẹp lại. Nhưng Ánh cũng cần thêm quân khi
chiến tranh càng quyết liệt. Một phần Ánh lấy ở đám dân sở tại hưởng ứng theo,
phần lớn là đám dân mới nội thuộc: Phú Yên, Bình Khang. Ở các nơi này, Ánh lại
nhắm vào đám cựu quân Tây Sơn để khỏi mất công huấn luyện: lệnh truyền chiêu
tập ở Bình Khang các tay súng giỏi, binh cũ nhắm vào ai là “nhưng súng đội”,
“cựu ngạch binh” nếu không là họ?
_______________________________________
1. Ch. Maybon. La relation
sur le Tonkin et la Cochinchine de Mgr De La Bissachère, Ed. Champion, Paris, 1920, t. 173-176.
2. Nguyễn Nhạc bị lầm một lần
khi vợ chính của Quang Trung mất mà người ta đồn lầm là chính Huệ thương cảm
quá rồi cũng chết theo luôn. Lần đó Nhạc tính đem quân chiếm cả Phú Xuân, Bắc
Hà (thư ông Sérard gởi ông Letondal, Sử Địa, số 13, t. 171). Không trách bây
giờ Quang Toản ngăn không cho đi điếu cha mình.
3. Thực lục q6, 13b.
4. Địa điểm Hoa Vông còn thấy
trên bản đồ bây giờ nơi bờ phía bắc sông Cái, đối diện với thành Diên Khánh.
Chắc trước khi xây thành, Hoa Vông đã nằm cả 2 bờ sông nên lúc Võ Tánh giữ Diên
Khánh, có tên “cầu Hoa Vông”.
5. Thực lục q6, 17ab, 18ab.
6. Thực lục viết La Thai. Chỉ cần
thêm chữ 二
sau chữ 台
là ta có La Hai, tên Nôm đúng.
7. Úc Sơn tên của Thực lục.
8. ĐNNTC, tỉnh Bình Định,
(q9, 14a) có ghi: “Thổ Sơn cổ tháp tục gọi là tháp Thị Thiện”. Vậy địa điểm Thổ
Sơn chỉ ngọn đồi trọc bên cạnh quốc lộ số 1 cũ, gần cầu Bà Di, mà người Pháp
gọi là Tours
d’Argent. Tên thông thường gọi là tháp Bánh Ít.
9. Ha Nha của Thực lục.
10. Phú Quý Cương cửa Thực
lục, ngọn đèo thấp đưa tới đồng Cây Cầy.
11. Lam Kiều, Thạch Yển của
Thực lục.
Quân Nguyễn tới đánh luỹ núi Kho. Đô đốc Đẩu giữ ở đấy với 4.000
binh mạnh, dựa núi cao bắn xuống dữ dội. Trần Công Hiến người Quảng Ngãi, tâu với
Nguyễn Ánh xin vào luỹ làm nội ứng. Kết quả tự nhiên thấy rõ. Nguyễn Đức Xuyên
bên ngoài kêu hàng, Tây Sơn bắn ra, nhưng bên trong Hiến đã nổi dậy. Đô đốc Đẩu
bị bại chạy thoát, Chỉ huy Trí thoát ở Bình Khang về đến đây phải bị giết thảm.
Quân Nguyễn thu được 35 khẩu đại bác, hơn 80 thuyền biển, 3 con voi, 1 kho gạo,
1 kho cá muối cùng vô số súng điểu thương.
Thành Quy Nhơn càng bị vây siết hơn với các tướng Tôn Thất Hội, Võ
Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành. Tây Sơn cũng còn được 3 cứ điểm bên ngoài:
Gò Dê, Đầm Sấu, và Tam Tháp.
Thành bị vây đến hơn 3 tháng trời. Không phải là vũ khí tấn công
của Ánh không hiệu quả. Đám binh lính Tây phương dưới quyền đề nghị phá thành
trong 10 ngày. “Phóng diên (diều) lưu hoả pháp” của người Âu mà sử quan nói dùng
để đốt thành có lẽ chỉ cuộc tấn công ồ ạt đó bằng lửa đạn mở đường. Nhưng Ánh
không chịu viện lẽ sợ dân chúng trong thành chết không nỡ. Thấy quân về hàng
càng ngày càng đông, Ánh tin rằng bị vây lâu, quân trong thành sẽ loạn, tự
nhiên hàng đầu. Sử quan ghi rằng Ánh “bảo các quân chớ nôn đánh” và sau này các
giáo sĩ cho ràng “cuộc vây hãm kéo dài vì lỗi của vua”, tất cả đều đúng.
Trong lúc chờ đợi, Nguyễn Ánh lo đánh chiếm các đất còn lại của
Nguyễn Nhạc. Tháng 7 năm đó, ông đến cửa An Dụ sai Nguyễn Văn Trương, Nguyễn
Văn Nhân, Nguyễn Đức Thiện đánh Đệ Dương phá một cơ sở làm thuyền biển của Tây
Sơn bắt được 30 thuyền mới tạo, còn ghe nhỏ, gỗ ván đều đốt hết. Quân Tây Sơn
kéo nhau hàng hơn 300 người trong đó có Đô đốc Nguyễn Văn Thái, Cai bạ kiêm Công
bộ Trần Văn Thái, Vệ uý Nguyễn Văn Chinh, Chỉ huy Đào Văn Lượng, Nguyễn Văn
Phát. Tướng giữ Quảng Ngãi là Nguyễn Tấn Lục, Trần Công Trữ cũng về hàng.
Yên mặt bắc, Nguyễn Ánh trở về, lên Đập Đá. Lần này ông có vẻ quyết
liệt nên sai lấy “hoả xa đại pháo” đánh vào nhưng không hạ nổi ngôi thành còn
hơn vạn quân chống giữ. Tuy nhiên ông cũng thu hẹp được vòng vây lại. Quân
Nguyễn đánh luỹ Gò Dê bắt được Đào Văn Hổ, quân Tây Sơn giữ Đầm Sấu bỏ chạy vào
thành chỉ còn trơ có luỹ Tam Tháp.
Nhưng lúc bấy giờ cứu viện của Phú Xuân do Nhạc kêu cầu đã tiến
đến. Trên bộ là 17 ngàn binh, 80 voi dưới quyền Thái uý Phạm Văn Hưng, Hộ giá
Nguyễn Văn Huấn, Tư lệ Lê Trung, Tư mã Ngô Văn Sở. Dưới nước là Đại thống lĩnh
Đặng Văn Chân, Đô đốc Hô (Hô Hổ hầu cũ?) Chưởng cơ Thiêm với 30 thuyền. Thuỷ
quân thực yếu kém nhưng bộ binh thực dũng mãnh với đủ danh tướng cũ.
Cho nên ở Trà Khúc hàng tướng Trần Công Trữ chết trận, Nguyễn Đức
Thiện lui về giữ núi Cung Quăng. Nguyễn Ánh vội vã sai Nguyễn Văn Thành đem
8.000 quân ra Bến Đá giữ các đường Sa Lung, hang Tối Trời (Hôn Cốc) với Nguyễn
Kế Nhuận và Nguyễn Văn Thái.
Chiến tranh lại đổi chiều. Tuy Trương Phúc Luật vừa đem 20 thuyền
chiếm lương Tây Sơn ở Thái Cần, đốt thuỷ trại ở cửa Đại Áp tận Quảng Nam, nhưng
bộ binh Tây Sơn vẫn bám lấy sông Vệ ở Quảng Ngãi. Nguyễn Quang Toản lại đem
tiếp viện đến Sa Lung. Ánh vừa từ chối sự trợ giúp của 2 vạn quân Xiêm cùng 50
thuyền của họ phải cho Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đức Thiện thối lui rồi rút hết
toàn quân về Phú Yên, tránh đám tượng quân, bộ binh tinh nhuệ của Phú Xuân. Ở
Xuân Đài, Ánh sai Tôn Thất Hội coi hết Phú Yên, phân bố Nguyễn Huỳnh Đức đóng ở
La Hai, Nguyễn Long đóng ở Thạch Thành, Nguyễn Văn Nhân giữ 36 thuyền ở vũng
Lấm. Về đến cửa Nha Phu (Ninh Hoà), Ánh xây luỹ Gò Xoài (Mông Phụ) (Bình Khang)
để Nguyễn Văn Thành giữ. Võ Tánh đem bệnh binh, hàng binh về trước ở Gia Định.
Còn Nguyễn Văn Trương thì đồn binh thuỷ ở cửa Cầu Hin4 để Ánh lo xây một thành
Gia Định thứ hai án ngữ đường vào Nam của binh tướng Phú Xuân.
Đó là thành Diên Khánh xây trên luỹ Hoa Vông cũ. Theo sử quan,
thành cao 1 trượng, chu vi hơn 510 trượng, 6 cửa, có lầu, 4 góc có núi đất.
Dịch vụ cần tới 3.000 người Bình Thuận, 1.000 người Thuận Thành. Bản đồ còn ghi
lại rõ với 1 chữ “Diên Khánh đại đồn”5. Theo con mắt chuyên môn, nhà quân sự
hiện nay có thể nhìn vào đồ hình mà phân tách được những vị trí xếp đặt y như
của một ngôi thành theo kiểu Vauban. Nhưng với chỉ mắt thường, đem so đồ hình
với những đồ hình các công sự ở các bản đồ quân sự Pháp, ta cũng thấy được
những đường nét tương tự. Bởi vì thành Diên Khánh là của Olivier vẽ ra. Nó là
em sinh sau thành Gia Định. Nhưng ở sâu vào trong một xứ vừa chiếm được, nó
đóng một vai trò rất quan trọng. Nó sẽ chứng minh có đủ khả năng để làm một
tiền đồn chống giữ cho Gia Định. Nguyễn Ánh có nó thấy vùng an ninh, đất đai
của mình mở rộng ra, sẽ vui mừng biết có tăng tiến trên đường về cố đô.
____________________________________
1. Ở núi Càn Dương, có lẽ là
kho lúa gạo Tây Sơn đã lấy hồi tháng 9-1773.
2. Ngoài Thực lục còn có thư
của ô. Lavoué gởi các ô. Boiret và Descourvière từ Tân Triệu 13-5-1795 (BEFEO,
1912, t. 33), thư của Jean de Jesus Maria (BSEI, XV, t. 102, 103).
3. Thuộc làng Vân Tướng, quận
Bình Khê.
4. Đồng Khánh, quyển hạ, 233,
có ghi “Cù Huân đại tấn khẩu” ở ngay cửa Nha Trang. Trên vùng thành phố bây giờ
là “Cù Huân tấn sở”. Vậy kho Cù Huân mà Nguyễn Ánh lập ra chứa lương là địa
điểm thành phố Nha Trang. Cùng trong sách trên, một cửa biển nhỏ về phía nam
được gọi là “Cù Huân tiểu tấn khẩu”. Đây đúng là địa điểm cửa Bé ở cách thành
phố 2km. Phía tây nam cửa Bé là núi Cầu Hin và địa điểm Cầu Hin (còn gọi là Con
Hin, Bà Hin, khác biệt vì sự chuyển âm lờ mờ ra chữ viết cố định). Vậy Cù Huân
của Thực lục là Cầu Hin.
5. Hình số CXV ở BAVH,
Juil-Sept 1926, “Les Français au service de Gia Long”, L. Cadière lấy tài liệu
của thư viện ông Le Fèvre de Béhaine.
6. Chiến tranh vây Qui Nhơn,
ngoài những tài liệu khác có ghi, đều lấy từ Thực lục q6, 21a-30a.
Chương 6
GIA ĐỊNH VÀ PHÚ XUÂN ĐỐI ĐẦU
Tiết 16
CÁI CHẾT CỦA NGUYỄN HUỆ
Con người Nguyễn Huệ * Vai trò Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính
của Tây Sơn * Khó khăn của Cảnh Thịnh: sức tràn bờ của Tây Sơn ở Diên Khánh và
vụ Bùi Đắc Tuyến.
Giữa những bộ mặt lịch sử xuất hiện vào hậu bán thế kỷ XVIII Nguyễn
Huệ tỏ ra đặc biệt nhất. Nguyễn Ánh bền dai, kiên trì có lẽ đã làm cho một số
người trầm tĩnh thán phục, nhưng lại từng là bại tướng của “ông Long Nhương”,
nên có thắng trận cuối cùng cũng bớt một phần oai vũ đối với người sau. Nguyễn
Nhạc thất bại ngay lúc còn sống, hình như đã thừa đến 6 năm trong thành Chà
Bàn, kén may mắn hơn Châu Văn Tiếp chết trên chiến trường, Nguyễn Hữu Chỉnh bị
bêu đầu sau một hồi làm mưa làm gió. Nguyễn Huệ trái lại sống giữa hào quang rực
rỡ của chiến thắng, chết đi ném trả cho con cháu trách nhiệm giữ cho dòng họ
khỏi bị tru diệt. Nguyễn Huệ thu nhặt được tất cả những lời khen lao, từ bọn
bầy tôi quen tán tụng bất cứ ai là chủ tể cho tới đám thù nghịch từng chịu điên
đảo vì ông.
Về khuôn mặt, dáng người, lịch sử còn để lại bức vẽ truyền thần của
nhà Thanh hoạ lúc có sứ bộ 1790. Nhưng chúng ta đều biết đó chỉ là Giả Vương.
Người ta không cần chọn người giống lắm vì đã có Phúc Khang An làm tay trong
gạt Càn Long rồi. Nói về khí vũ hiên ngang của một võ tướng bách chiến bách
thắng thì hẳn Giả Vương đã có - nếu ta tin hoạ sư vẽ theo thực, không tô điểm
thêm.
Mới đây, người ta tìm được chứng cớ rằng một pho tượng trong chùa
Bộc ở Hà Nội chính là tượng Quang Trung1. Việc bức tượng được cho mặc triều
phục, đi hia mà lại chân trong chân ngoài chứng tỏ thái độ ngang tàng của con
nhà tướng. Nhưng nếu chữ “quang trung” trên đôi câu đối đúng là chỉ ông vua Tây
Sơn này thì bức tượng chắc cũng không tạc đúng hình Nguyễn Huệ vì đã phải chịu
những quy luật về hình ảnh khuôn khổ của một ông Phật, ông tướng Trung Hoa: tai
to, mắt xếch (đáng chú ý là trong hình Giả Vương, đôi mắt người mẫu còn nằm
ngang hơn ở đây).
Trong một quyển dã sử còn lại, có một vài nét về Nguyễn Huệ có vẻ
thực lắm: “Tóc Huệ quăn, mặt mụn đầy, có một con mắt nhỏ, nhưng mà cái tròng
rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu...”2.
Tóc quăn, mặt mụn, mắt không đều là dấu vết của thân xác. Nhưng câu chuyện
tròng mắt có ánh sáng phát ra, ban đêm soi sáng cả chỗ ngồi là cảm tưởng của
người nhìn khiếp sợ trước oai vũ của “Thượng công”.
Về cuộc đời riêng của con người này, lịch sử cũng biết được một ít,
nhiều hơn những ông vua thời bình cầm đầu quốc gia bằng thế tập. Sĩ phu Bắc Hà
quen với không khí tôn nghiêm, bệ vệ của Lê hoàng, Trịnh chúa đã ngạc nhiên khi
thấy cảnh anh em Tây Sơn “trò chuyện, kẻ hỏi người đáp cực kỳ ôn tồn (?) y như
anh em các nhà thường dân”3. Và cũng nhân dịp ra Bắc này, tướng sĩ dưới quyền
được vui cười cảm thấy gần gũi ông tướng oai nghiêm ngày thường với câu nói cợt
nhả: “Vì dẹp loạn mà ra rồi lấy vợ mà về, trẻ con nó cười thì sao? Tuy vậy ta
chỉ quen gái Nam Hà chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng thử một chuyến xem có
tốt không?”.
Người con gái Bắc Hà 16 tuổi đó cũng biết nhược điểm của bậc anh
hùng nên đã dùng thế lực riêng của mình mà ảnh hưởng tới quyết định của Nguyễn
Huệ khi đòi phế tự hoàng Lê Duy Kỳ, lập Sùng Nhượng công Duy Cẩn, khi thì đòi
ngược lại, “mếu khóc” vuốt ve tự ái đấng trượng phu. Tình cảm mềm yếu cũng tỏ
rõ mấy năm sau, khi Quang Trung “điên cuồng lên” vì một người vợ mất ở Phú Xuân.
Tấm lòng say mê đó đem đổ vào cuộc đời ông, nơi triều chính, nơi
chiến trường biến thành một sức quyến rũ lôi cuốn mọi người. Dù Nguyễn Nhạc có
ghét em đến dùng chữ “giảo quyệt”, “hợm hĩnh”, “kiêu ngạo”, người ta vẫn nhìn
hành động của Huệ để mà thấy các hình dung từ trên không có ý nghĩa xấu khi gán
cho một con “hùm (muốn) ra khỏi cũi”. Trái lại, khi bàn về Nguyễn Huệ, Nguyễn
Hữu Chỉnh đang ở thế đối địch, Nguyễn Đình Giản cứng cỏi đều nhận “Bắc Bình
vương là một tay anh hùng”. Khi triều thần Bắc Hà họp lại để bàn việc cử người
vào đòi Nghệ An, Phan Lê Phiên loại Nguyễn Đình Giản, Phạm Đình Dư, viện lẽ
“Bắc Bình vương là người rất quyệt, hay dùng trí thuật lao lung người khác,
trong lúc bàn luận, khi xuống lại nâng lên người ta không biết đâu mà dò”. Trần
Công Xán, viên sứ giả được đề cử sau lúc “luôn trong mấy hôm vẫn không cử được
người nào”, cũng phải e dè nhận rằng kẻ mình phải thuyết là “người huyền bí khó
lường”6. Thận trọng dè dặt không vào thăm Lê Hiển Tông bệnh, dùng lý đó để bắt
lỗi Lê Duy Kỳ sao không đợi ông vào hãy phát tang, Nguyễn Huệ thực đã hành động
có chừng mực, có tính toán khiến bọn Lê thần phải nể sợ vậy.
Những chiến thắng của ông càng đưa ông lên cao trên đài danh vọng.
Một cung nhân ở Thanh Hoá trong dịp Ngô Văn Sở chận núi Tam Điệp hẳn đã thấy cả
hùng khí của Tây Sơn nên bày mưu cho Lê Thái hậu mà kỳ thực tóm tắt được cả dư
luận Bắc Hà lúc bấy giờ đối với viên tướng “hang núi”:
“Nguyễn Huệ là bực lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc
vào Nam thật là xuất thần quỷ nhập. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu
Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào
dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm
sét...”
_________________________________________
1. Bức hình có in lại nơi
trang bìa 2 của quyển Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn. Đôi câu đối ở trang
bìa 3.
2. “Tây sơn thuật lược”: Tạ
Quang Phát dịch, Sử Địa số 9-10, t. 165.
3. Hoàng Lê, t. 92.
4. Hoàng Lê, t. 82.
5. Thư Labartette gởi cho
Letondal, 6-10-1797 (A. Launay, III, 1. 244).
6. Hoàng Lê, t. 89, 90, t.
162, 163, t. 167.
7. Hoàng Lê, t. 252.
Kẻ thù của Tây Sơn ở phương Nam, tuy phải chui nhủi chạy trốn, tức
giận vì vua chúa họ suýt diệt tộc trong tay Nguyễn Huệ cũng không thể nào nói
khác hơn những lời khen lao được, tuy họ đã từng chê trách thậm tệ Nguyễn Nhạc.
Sử quan viết: “Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như
điện, giảo, kiệt, thiện chiến? ai cũng phải sợ... Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra
trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng vâng
mệnh”.
Có thể nói Nguyễn Huệ đã dùng hào quang của mình mà che chở cho chế
độ khi phong trào Tây Sơn đưa ông lên đài danh vọng. Bởi chế độ Tây Sơn quả đã
phải đứng bấp bênh vì xây dựng trên một mâu thuẫn. Chúng ta đã nói rằng phong
trào Tây Sơn xuất hiện vì sự giao thoa của hai nguồn năng lực lấy từ hai biến
chuyển: một, bên trong là kết quả của tiến trình Nam tiến phối hợp với văn hoá
phương Nam mấy trăm năm, và một, bên ngoài là sự khích động của văn minh kỹ
thuật Âu tây trên đất Đại Việt.
Trong lịch sử của họ, Tây Sơn đã xô được Nam Hà rồi không tìm được
đồng minh bên ngoài, bên trong lại hãnh diện vì sức mạnh quân lực, họ không tìm
ra được cách tổ chức, khai thác những khả năng địa phương để tâm phục lâu dài
dân chúng. Quay ra Bắc Hà, họ lại chui đầu vào trong cái rối rắm mà người trước
đã gỡ không ra vì sự cằn cỗi của đất đai, vì không khí bảo thủ đã lâu đời, khó
tẩy phá của sinh hoạt vua quan, dân chúng.
Chúng ta đã thấy cố gắng dung hoà giữa Tây Sơn và cựu thần Lê -
Nguyễn. Nhưng sự vá víu ấy quả là tạm bợ. Bên trong chế độ vẫn chưa có sự hoà
hợp. Nguyễn Thiếp chẳng hạn, tuy thấy được lối đào tạo nhân tài theo kiểu trích
cú tầm chương không có ích lợi nên hô hào phục cổ. Nhưng cái giọng “tuần tự nhi
tiến” quả cũng là giọng kinh văn. Không thể đòi hỏi Nguyễn Thiếp điều gì khác
hơn một khi còn tồn tại cái không khí truyền thống Nho giáo đã hãnh diện có một
Ngô Nho chẳng hạn, khẳng khái nói: “Đại thần vì nước gánh việc, kẻ sĩ vì người
tri kỷ mà chết, đều là nghĩa nên làm như thế, ngoài ra tôi không còn biết có sự
gì khác”. Chính các nho sĩ bảo thủ đã chê cười nho sĩ cải cách và giễu cợt lối
học chữ Nôm do Quang Trung chủ trương.
Quân tướng Quy Nhơn cũng không chịu để lôi kéo đi xa. “Theo Chu
tử”, nhưng phải dịch kinh, truyện ra chữ Nôm, thi cử lời Nôm, dụ tướng sĩ bằng
chữ Nôm, điếu tang viết lời Nôm2. Chúng ta cũng thấy các bức thư chữ Nôm của
Nguyễn Ánh, đã nghe lời dụ ban cho tướng sĩ ở Gia Định (1800)3, nhưng đó chỉ là
phương sách tạm bợ nhất thời đối với họ Nguyễn. Trong khi đó Tây Sơn phải dùng
chữ Nôm như một phương tiện diễn đạt tư tưởng chính thức, hợp với sự hãnh diện
của họ. Có những tờ chiếu, sắc thần4 bằng chữ Hán trong triều đại là một mỉa
mai cho quá khứ của họ, nhưng cái thế cô lập với ảnh hưởng phương Nam mà từ đó
họ phát xuất khiến họ đi dần vào trong không khí các trào cũ.
Sự lưỡng lự đó làm nên yếu kém của Tây Sơn. Tất nhiên việc Chiêu
Thống còn ở Trung Hoa, việc Nguyễn Ánh hùng cứ phương Nam ảnh hưởng phần nào
vào sự quyết định hợp tác với Tây Sơn của các cựu thần Nguyễn - Lê. Nhưng bản
chất bấp bênh của chế độ Tây Sơn cũng khiến người ta ngần ngại hợp tác, nếu
không là chống đối lại.
Quân tướng Tây Sơn trong vai trò chủ động nắm vận mệnh của vùng đất
họ chiếm cứ cũng tung hết khả năng trong một cố gắng cùng cực để biến đổi xã
hội đang cuốn hút họ theo một khuynh hướng thoái trào. Những biện pháp mạnh mẽ
đã tung ra để bảo đảm thi hành cải cách hầu như đều có kèm với sự phô trương
quân lực. Triều đại Tây Sơn, do đó, có bản chất quân phiệt và chỉ có thể tồn
tại bằng chế độ quân chính của họ thôi. Thực ra đám võ tướng cũng chứng tỏ được
họ là những người kiểu mẫu của thời đại mới. Kiêu căng, quen dùng uy quyền đàn
áp, họ khiến cho những người Anh đến thăm năm 1793 phải phàn nàn cho đời sống
của người dân. Nhưng phái bộ Macartney cũng phải công bình mà nhận rằng bọn võ
tưởng ít hư hỏng hơn bọn văn quan5. Thêm một chứng cớ rằng bên dưới sự thanh
liêm tương đối của quân đội, có một tình trạng suy đồi xã hội mà những sức phản
kháng tiềm tàng có thể lợi dụng được.
Nhưng bọn võ tướng từng vào sanh ra tử vốn chỉ chịu phục tòng người
chỉ huy của họ thôi. Nguyễn Huệ cùng trưởng thành với họ, với thiên tư, với tài
năng đã cai trị họ cũng như thần dân dưới quyền bằng sức mạnh của khiếp phục.
Do uy quyển đó mà Nguyễn Huệ đã thi hành những cải cách có khi động chạm đến cả
đời sống tinh thần của dân chúng như khi tiếp tục thi hành “phụng truyền” của
Nguyễn Nhạc sai phá các chùa chỉ chừa mỗi tổng một ngôi mà thôi6. Giáo sĩ
Labartette ở Bố Chính hơn ai hết, có đủ những điều mắt thấy tai nghe để phán
đoán về chế độ Tây Sơn. Ông nói: “Một ông vua dù có ẩn ý thế nào với tôn giáo
có lẽ cũng thi hành một cách nhẹ nhàng vì những lý do chính trị. Ông chắc phải
sợ bất mãn gây ra loạn lạc. Không bao giờ ông có thể có đủ sức mạnh để làm điều
mà bọn này (Tây Sơn) đã làm. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, họ đã quét
sạch xử sở khỏi những lạm dụng nhơ nhuốc: không ai dám rục rịch hết”7.
Có lẽ biết đến vai trò - không chắc quyết định - nhưng quan trọng
của ông trong sự sinh tồn của triều đại, nên Quang Trung, trước khi mất ngày 29
tháng 7 Nhâm Tý, giờ Dạ Tý (11-12 giờ khuya 16-9-1792)8 đã đòi Trần Quang Diệu
về trối trăn, dặn chôn cất cho mau nội trong một tháng rồi dời kinh về Phượng
Hoàng Trung đô. “Nếu không, quân Gia Định kéo tới, các người sẽ không có đất mà
chôn đâu”.
__________________________________________
1. Liệt truyện , q30, 17b.)
2. Có trích trong các sách đã
dẫn: La Sơn phu tử, Quốc văn đời Tây Sơn.
3. Do An Khê sao lục trong
Nam Phong, XIV: Fév, 1924, có trích lại ở Việt Nam văn học sử yếu, sđd, t.
73-75.
4. La Sơn phu tử, sđd, t. 42,
đạo sắc phong thần Đỗ công đại vương trưng bày ở Hội chợ Hà Nội 1941.
5. Le séjour de
l’ambassade... sđd, t. 28.
6. Thư Le Roy ở Kẻ Vĩnh (Ninh
Bình), 6-12-1796 (BEFEO 1912, t. 8 ). Tờ phụng truyền được dịch trong Le peuple
annamite. E. Langlet, 1912. t. 50, 51.
7. Thư ngày 12-5-1787 (RI,
XIV, Juil-Déc. 1910, t. 44).
8. La Sơn phu tử, t. 160.
9. Liệt truyện q30, 47b. Thực
lục q6, 7b, 8a.
Đứa bé mới lên 9, “đồ sự du hí”, làm gì biết đến sự cần thiết của
những biện pháp khắt khe. Cho nên bãi lệnh mang tín bài, bỏ lệnh bắt dân lậu1,
việc làm tuy tiếng là nhân ái mà kỳ thực chứng tỏ triều thần Tây Sơn thiếu chủ
tướng đã trở nên giải đãi, dắt nhau vào con đường cầu an, đem thêm nguy vong
cho chế độ vậy.
Chế độ phân phong cho anh em đã thấy có nhược điểm ở Trung Quốc là
khi trung ương không mạnh thì quốc gia dễ tan rã. Cho nên, vào năm 1793 ai cũng
biết là Quang Thuỳ muốn độc lập với Quang Toản. Rồi loạn lạc nổi lên, nhất là ở
Bắc Hà. “Xứ xứ tịnh khởi”, thật sử quan vẽ được trong lời, sức phản động bày tỏ
khi Nguyễn Huệ chết. Ở Gia Định, tháng 7-1792, người ta còn hoảng hốt vì “tên
giặc ở Huế mạnh hơn bao giờ hết và chắc chắn hắn sẽ bóp chết Vua”2, nhưng cùng
tháng năm sau, người ta vui mừng “kẻ thù vẫn còn, nhưng lực lượng họ yếu kém
thấy rõ”.
Cho nên Ngọc Hân than khóc chồng mà như thay cả triều đại Tây Sơn
khóc chúa tể:
“Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
“Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao,
“Mà nay áo vải, cờ đào,
“Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!...
“Công dường ấy mà nhân dường ấy,
“Cõi thọ sao hẹp bấy hoá công
“Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
“Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi”.
Tuy nhiên sự tan rã không phải đến tức khắc. Mười bảy ngàn quân và
80 voi ồ ạt vào cứu viện Quy Nhơn còn đủ hung hăng để người ta tăng quân số gần
gấp đôi: 30.000 người, hay như Lelabousse nói 5-60.000 người.
Nhưng thành Chà Bàn không mất vào tay Nguyễn Ánh thì cũng mất vào
tay Phạm Văn Hưng. Quân cứu viện đến trước thành thì thấy cửa đóng. Họ lên
tiếng đe doạ thì Nguyễn Nhạc nhắm không đủ sức giữ nổi nữa nên đã mời họ vào.
Tiếp sau đó là những cử chỉ nhường nhịn giả dối. Nhạc tuyên bố nhường ngôi lại
và chỉ muốn sống như người thường thôi. Ban đầu họ không nhận, mời ông lên lại
trên ngai ngồi để họ lạy, nhưng ông từ chối. Vài tháng sau (13-12-1793), ông
mất đi, người ta nói, “vì buồn rầu và xấu hổ”. Nguyễn Bảo, con Nhạc được phong
làm Hiếu công, ăn lộc huyện Phù Ly.
Như vậy là từ nay Nguyễn Ánh phải đối đầu trực tiếp với Phú Xuân.
Việc Nguyễn Nhạc chắn giữ Quy Nhơn ngăn giúp được cho Gia Định sức mạnh của Tây
Sơn miền Bắc trong khoảng vài năm đủ để cho Nguyễn Ánh chỉnh bị quân tướng. Tuy
bây giờ thực là muộn, nhưng quân đội còn giữ được hăng hái và sức mạnh đã không
chịu để Nguyễn Ánh đe doạ mình.
Cho nên, tháng 3 Giáp Dần (1794) Quang Toản lại phái Thái uý Phạm
Văn Hưng và Tổng quản Trần Quang Diệu vào Quy Nhơn5. Bốn vạn quân của Hưng mới
tới Phú Yên thì Nguyễn Văn Nhân bỏ chạy mặc dầu đã có lời dặn của Hoàng tử Cảnh
lúc bấy giờ ở Diên Khánh bảo phải giữ.
Một đạo quân Tây Sơn theo đường núi vòng xuống Ba Ngòi định để chận
lương Diên Khánh từ Gia Định chuyển ra bằng đường bộ vì 4 vạn vuông lúa do
Nguyễn Văn Thành tải bằng đường thuỷ mắc ngược gió không ra khỏi Vũng Tàu. Ngày
28-4, 300 thuyền Diệu vào Nha Trang. Ngày 2-5 đã có bộ binh Hưng và 50 voi vào
Bình Khang vây kín 3 mặt thành Diên Khánh - Bên trong chống giữ là Bá-đa-lộc và
Hoàng tử Cảnh với lời dặn dò của Nguyễn Ánh lúc ra đi nhắc nhở sự quan trọng
của ngôi thành: “Ta đêm ngày hao mòn, từng phải cay đắng mới được chút đất này
đó”.
Bảy ngàn quân bên trong chống với 40.000 quân bên ngoài. Trên thành
Bá-đa-lộc cho đặt thêm nhiều đại bác giả làm nghi binh. Quân Diệu ở ngoài bắn
đại bác vào không hiệu quả mới đắp luỹ đất vây quanh. Trong gần một tháng không
bỏ thành theo lời Nguyễn Ánh, Diên Khánh đã tiêu hao quân địch bằng cách đột
kích khiến họ bị chết và phải sợ hãi. Trận lớn nhất và cuối cùng là vào ngày
21-5, quân Gia Định có 7-8 người chết cùng hơn 60 người bị thương. Bên ngoài có
các tướng Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành ở Ba Ngòi, Nguyễn Long trên vùng núi.
Nguyễn Văn Thành lôi Nguyễn Văn Nhân bỏ Long Cương (gò Rồng?) tới đóng Phong
Lộc, cầu Dài sát vòng vây Tây Sơn.
Ngày 23-5, Tây Sơn rút lui. Nguyễn Ánh đường thuỷ và Hoàng tử Cảnh,
Nguyễn Văn Thành đường bộ, lên đường truy kích địch ngay sáng hôm sau.
___________________________________
1. Hoàng Lê t. 272. Liệt
truyện q30, 45b. Quang Toản tên là Trát. Thư các giáo sĩ vẫn ghi là “Hoang
trot”. Tên Trát chắc là chuyển biến theo giọng Quảng Nam của một dấu vết thân
xác của Toản (Toản môi trớt, theo Tây Sơn thuật lược, bđd, t. 165. P. Ký cũng
xác nhận tên Hoàng Trớt trong “Souvenirs historiques sur Sai gon et ses
environs”, Excursions et Reconnaissances, 1885 t 26). Phái bộ Macartney có tham
dự lễ sinh nhật Vua ngày 4-6. Tính ra 4-6-1793 là ngày 26-5 Quý Sửu; ngày 26-5
Quý Mão tương đương với ngày 25-6-1783. Đó là ngày tháng, năm sinh của Quang
Toản.
2. Thư J. Liot ở Tân Triệu,
18-7-1792.
3. Thư Lavoué, Saigon ngày
31-7-1793.
4. Thư Lavoué cho các ông Boiret
và Descourvières, Tân Triệu, 13-5-1795, thư G.M Gortyne, Tonkin Occidental,
22-4-1794 (BEFEO, 1912, t. 32, 33). Hoàng Lê. t. 277, 78. Thực lục q6, 31ab.
Liệt truyện q30, 16a.
5. Thực lụcnói Quang Toản sai
nhưng ta biết (q6, 8a) mọi việc đều do Bùi Đắc Tuyên, cậu Toản quyết định. Vả
lại Hoàng Lê cũng nói khi đi Qui Nhơn có Đắc Tuyên theo làm Tán nghị giữ thành.
Vậy chính Tuyên vào Qui Nhơn để trông coi việc đánh phía nam, chia quyền quân
quốc với Phạm Văn Hưng (Liệt truyện q30, 44b).
6. Thực lục q6, 35b. Trước
đó, tháng 11 âl (3/12/1793-27/1/1794), Nguyễn Văn Thành từ Bình Khang về. Hoàng
tử Cảnh ra trấn Diên Khánh với Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành, Tống Phúc Đạm,
Phạm Văn Nhân. Sau đó, Ánh kêu Nguyễn Huỳnh Đức về, lưu quân Chân Lạp, Chà-và
lại Diên Khánh. Tôn Thất Hội cũng về để Võ Văn Lượng. Nguyễn Long, Nguyễn Văn
Nhân trấn Phú Yên có Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành của Cảnh sai phụ giúp. Thư
Pigneau gởi cho Letondal từ Phú Yên, 16-6-1794 (A. Launay, III, t. 287) nói bị
vây vào cuối tháng Avril. Thư Lavoué cho Letondal (A. Launay III, t 233-34) nói
rõ hơn vì Lavoué lúc bấy giờ ở Nha Trang có chứng kiến trận đánh.
Thực ra Cảnh và Bá-đa-lộc ở xa trận địa đến hơn một giờ đường1,
nhưng khi Tây Sơn rút lui về đồng Cây Cầy, hai người cũng trải qua nhiều vất
vả. Đi trước có Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Long, Võ Văn Lượng, Mạc Văn
Tô, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Văn Lợi tập kích sau lưng Tây Sơn. Con đường Hà
Nhao, An Tượng men theo các hẻm núi không thể nào đi ngựa hoặc đi cáng được mà
nhất định phải đi bộ và người mệt không tả được như Bá- đa-lộc đã than.
Nguyễn Ánh tới Thi Nại bèn sai Tôn Thất Hội đánh lấy Tiêu Cơ (Gành
Ráng?), làng Mai lấy được 40 đại bác cùng khí giới khác. Đổi lại, Phó tướng
Tiền quân là Nguyễn Văn Thư trúng đạn chết.
Thuỷ quân Gia Định mạnh mẽ thấy rõ. Trên núi Tam Toà, Tây Sơn bị
cai cơ Nguyễn Đình Đắc bắt đến 800 người. Trần Quang Diệu, Đổng lý Nguyễn Văn
Thận đem 8.000 binh đến bãi Nhạn, vũng Tham liền bị đánh tan. Chỉ có quân Phạm
Văn Hưng, Thống lãnh Đặng Văn Chân đóng trong cửa Thi Nại là ráng cầm cự. Hoàng
tử Cảnh xin hợp binh tiến đánh quân Hộ giá Nguyễn Văn Huấn đóng ở Vân Sơn2,
quân Kiểm điểm Trần Viết Kết đóng ở Hà Nhao. Nguyễn Ánh chỉ bảo giữ chắc ở La
Hai, Hà Nhao, tăng thêm binh giữ Cù Mông bởi vì ông tin rằng khi thuỷ binh thắng
thì bộ binh Tây Sơn sẽ tự tan rã ngay.
Tháng 6 âm lịch năm đó, Thuỷ quân của Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn
Nhân ra đánh Tây Sơn ở cửa An Dụ lấy thuyền lương rồi ra đến cửa Đại Cổ Luỹ
(Quảng Ngãi) đánh kho Phú Đăng, đuổi Tiết độ Nguyễn Văn Giáp chạy, lấy lương
rồi trở về. Trên bộ vừa được một tin quan trọng: quân Cảnh tìm được đường rừng
đi vòng đến núi Chúa nơi đóng quân của Tây Sơn. Nguyễn Ánh vội sai Phạm Văn
Triệu, Olivier, Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý, Nguyễn Văn Tồn với đội
Xiêm binh (lính Miên) cùng Trương Văn Phượng tới tăng cường. Quân Cảnh lẻn đến
tập kích phá quân Tây Sơn ở Hà Nhao, đồng Cây Cầy, núi Chúa bắt hơn 3.000
người, đuổi Trần Viết Kết chạy. Nguyễn Văn Thành vội vã truy kích bị phục binh
phải rút về Hà Nhao. Sử quan không nói rõ hơn về số thiệt hại, nhưng chắc đó là
cớ chính yếu để Ánh rút quân vì thuỷ quân ông cũng không thể phá vỡ cửa Thi Nại
để lên núi tiếp cứu bộ binh được.
Tháng 6 âm lịch Hoàng tử Cảnh dẫn binh về trước, tháng 7 Nguyễn Ánh
cho người giữ Phú Yên và tháng 9 thì về đến Gia Định sai phái Võ Tánh ra trấn
Diên Khánh.
Quân Nguyễn rút thì Tây Sơn cũng theo chân mà tràn vào. Tháng 10,
Trần Quang Diệu và Tư lệ Lê Trung đuổi Nguyễn Long và Võ Văn Lượng chạy về Bình
Khang. Hai tháng sau thì họ tiến mạnh vào. Chuyến này Tây Sơn tỏ rõ quyết tâm
và khôn ngoan mở rộng ngoại giao: họ đem vàng bạc qua cầu thông với Xiêm để cô
lập Gia Định.
Nguyễn Ánh nghe Võ Tánh cho tin quân Tây Sơn đến địa đầu Bình Khang
nhưng không thể làm gì hơn vì gió bấc thổi mạnh. Ông chỉ khuyên nhủ Võ Tánh cố
thủ và cho Lưu thủ Bình Thuận Nguyễn Văn Tính lo tăng viện, đồng thời cho
Nguyễn Huỳnh Đức làm chánh, Nguyễn Văn Thành làm phó, kéo quân đóng Phan Rang.
Trần Quang Diệu lãnh phần đánh Diên Khánh. Lê Trung tiến sâu hơn
chiếm Du Lai, đuổi Võ Văn Lân được lệnh giữ đó từ tháng 10. Nguyễn Văn Tính
tăng viện Diên Khánh không được phải quay về.
Trong tháng cuối năm Giáp Dần (đầu 1795). Trần Quang Diệu cố tìm
cách tuyệt đường lấy nước của Diên Khánh nhưng không được. Thành này một lần
nữa lại chứng tỏ khả năng phòng thủ của nó. Tây Sơn kéo lên ồ ạt bị súng trên
thành bắn xuống lăn ra chết rất nhiều. Diệu lại phải đắp thành đất vây quanh và
sơ hở để bị tập kích chết mất Đốc chiến Định. Tuy nhiên trong thành bắt đầu
thiếu muối ăn, Đội trưởng Nguyễn Văn Trứ phải đang đêm lẻn trốn khỏi vòng vây
chạy về Gia Định cáo cấp.
Trong khi đó, Tây Sơn Lê Trung tiến đánh Phan Rí khiến Nguyễn Huỳnh
Đức phải lui về Phố Hài. Nguyễn Ánh vội sai Đức về giữ Ma Ly trao quyền cho
Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Tính, Mạc Văn Tô ở lại chống giữ.
Đầu năm Ất Mão (1795), Tôn Thất Hội đem binh ra Phố Hài, Phan Rí
ngăn Tây Sơn. Nhưng Tây Sơn kéo quân đến đuổi Nguyễn chạy về Bà Rịa. Đây là lần
cuối cùng Tây Sơn xâm nhập sâu vào nội địa quân Nguyễn nhất. Nguyễn Ánh tức
giận cách chức Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành, bắt trao quân cho Tô Văn
Đoái để ông này theo Tôn Thất Hội giữ Ma Ly. Mặt khác, quân Miên dưới quyền
Nguyễn Văn Tồn cũng được đem từ Mang Thít lên đóng ở Bà Rịa án ngữ.
Tuy gió còn ngược, Nguyễn Ánh cũng để Hoàng tử Cảnh giữ Gia Định,
tự đem quân cứu Diên Khánh. Và cũng như những lần khác, thuỷ quân cũng làm thế
nương tựa cho quân bộ. Tôn Thất Hội đem bộ binh đi Phan Thiết thấy Lê Trung còn
ở Phan Rí nên đóng lại Xuy Miệt. Trong khi đó, Trương Phúc Luật đem thuyền đến
Ỷ Na đánh kho Phan Rang lấy gạo, còn Tống Viết Phúc thì phá thuỷ binh Tây Sơn
từ vũng Diễn kéo tới.
Tháng 3, Nguyễn Ánh đến cửa Cầu Hin bắn đại bác cho Võ Tánh biết
tin cứu binh rồi đi ra Sử Châu (Phú Yên) phân binh chiếm Phú Yên để chận đường
về của Tây Sơn. Ông cho Võ Văn Lượng giữ núi Gian Nan, Mai Tấn Vạn, Nguyễn Văn
Nguyện chiếm Thạch Thành rồi phân ba đồn dài từ núi Cổ Ngựa đến Đại Lãnh (đèo
Cả)3. Từ Phú Yên, ông tiến quân ngược về Nam, qua Hòn Khói, sai Nguyễn Văn Đắc
đánh luỹ Lạp Trường4, giết Đô đốc Gia, Binh bộ Tấn chiếm lĩnh Bình Khang.
Binh thế hai bên bây giờ thực đã đến lúc cài nhau mà tranh chiến.
Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Xuyên tiến phá thêm luỹ Lò Đúc (Dã Lô) trong khi Lê
Trung ở Bình Thuận đánh Xuy Miệt không thành.
_______________________________________
1. Thư Lavoué cho Letondal
27-4-1795 (A. Launay, III, t. 287).
2. Theo ĐNNTC, tỉnh Bình
Định, tả sông Vân Sơn thì đó là trung lưu sông Hà Thanh. Vùng này có một cái
chợ nổi danh là chợ Vân Hội (chợ Cây Gia), không biết có phải địa điểm Vân Sơn
này không.
3. Gian Nan là núi Cục Kịch.
Còn khi nói Đại Lãnh, chắc sử quan muốn chỉ một hòn núi, vì lẽ đó có thể gọi là
“đèo Cả” chứ không phải địa điểm Đại Lãnh hiện tại ở dưới chân đèo Cả, phía
tỉnh Khánh Hoà.
4. Vùng Vạn Ninh bây giờ?
Tháng tư, ở Phú Yên, Võ Văn
Lượng, Mai Tấn Vạn mộ được dân Thượng hai đầu đánh ép Đô đốc Tây Sơn là Nguyên,
Phượng, Quế ở sông Đà Rằng1. Phượng bị chém, còn bao nhiêu chạy về Hội An. Đánh
lâu lương thiếu, Ánh sai Hoàng tử Cảnh bắt điền hộ nạp thêm một kỳ thuế, lính
không đi đánh giặc nạp mỗi người hai vuông gạo. Lê Trung cũng thiếu lương đưa
thư cầu cứu Trần Quang Diệu thì người đưa tin bị bắt. Phan Rang bị quân Nguyễn
chiếm nhưng chỗ đóng binh xa đường thuỷ, mất thế tựa nên Tây Sơn lại đến đuổi
chạy về Ba Ngòi.
Hai bên vẫn còn dằng co nhau. Tôn Thất Hội chiếm sông Luỹ thì Lê
Trung ở sông Cạn2. Thượng đạo Tướng quân Nguyễn Long đem quân xuống khe Sương
làm thế ỷ giác cho Diên Khánh để Võ Tánh lẻn ra đốt trại Lê Văn Lợi từ núi Sĩ
Lâm đến cầu Hoa Vông. Nhưng Tây Sơn vẫn còn vây chặt, đủ mặt Tổng quản Trần
Quang Diệu, Nội hầu Lê Văn Lợi, Tiết độ Nguyễn Văn Giáp, Đổng lý Nguyễn Văn
Thận, Kiểm điểm Trần Viết Kết, nếu không có một việc vừa xảy ra ở Huế gióng hồi
chuông báo tử cho quân tướng Tây Sơn.
Như chúng ta đã phân tích ở trên, Nguyễn Huệ mất đi, bọn quân tướng
quen dưới quyền sai phái của một người chỉ thấy lệ thuộc nhau như những kẻ
ngang hàng mà thôi. Cho nên ta đã thấy Nguyễn Hữu Chỉnh hục hặc với Vũ Văn
Nhậm, Nhậm khinh lờn Ngô Văn Sở đem đến kết quả thảm thương. Đến bây giờ, Thái
sư Bùi Đắc Tuyên mà tên chưa từng nghe đến trong chiến trận và tuổi đến 80 thì
làm sao cai trị nổi bọn võ tướng dày dạn, sung sức?
Đắc Tuyên từ khi làm Thái sư thì lấy Thiền Lâm tự làm phủ riêng,
mọi việc triều chính đều xét xử ở đấy (Rõ là lối làm việc co rút của một ông
già). Ông lại tự quyền sanh sát. Kẻ bất mãn tăng lên, lại có dịp để kết tụ âm
mưu.
Trần Văn Kỷ trên đường phát phối ra Bắc Thành gặp Vũ Văn Dũng ở
trạm Mỹ Xuyên, bèn nói ít lời xúi giục. Dũng về Phú Xuân mưu với Thái uý Phạm
Văn Hưng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn giả tiếng đem quân tế cờ rồi thừa đêm tối ập
tư dinh bắt Đắc Tuyên. Tuyên trốn trong phủ Quang Toản, Vũ Văn Dũng đem quân
đến đòi, dìm nước cho chết. Ngô Văn Sở ở Bắc thành, Bùi Đắc Thận, con Tuyên, và
Ngự sử Chương, hơn 10 người đều bị luỵ. Chưa hết. Vũ Văn Dũng còn để Nguyễn Văn
Huấn đem 500 quân trấn giữ Quy Nhơn3 để án ngữ phản ứng của Lê Trung được coi
là bè đảng Bùi Đắc Tuyên và cũng trông chừng luôn Trần Quang Diệu, người mà mối
liên lạc thân tộc với Bùi Đắc Tuyên qua Bùi Thị Xuân thật không thể chối cãi.
Việc rõ ra là một mối nứt rạn thật lớn lao, đe doạ cả tương lai Tây
Sơn.
Đang vây Diên Khánh, Trần Quang Diệu nghe tin, sợ vạ cho mình bèn
họp các tướng bàn quay về dẹp loạn bên trong rồi sau sẽ trở lại. Nhưng quân
Nguyễn đã chận ở mặt sau chắn nơi Lão Lãnh, Đại Lãnh, Gian Nan Lãnh. Cuộc rút
lui cũng thật là gian nan.
Tháng 6, Trần Quang Diệu không qua sông Thị Nghi được tuy có toán
quân của Nguyễn Văn Huấn được tiếng là vào Đà Rằng để trợ thanh thế. Lê Trung ở
Do Lâm4 phải bại binh leo lên thuyền chạy một mình về Diên Khánh. Họ họp nhau
tiến đánh Gian Nan Lãnh nhưng không qua được đồn binh của Võ Văn Lượng chận ở
đó.
Trong khi đó, quân Diên Khánh ở trong thành đã bắt đầu mỏi mệt. Võ
Tánh, tướng sĩ đều mắc bệnh. Quân Nguyễn phải lo tấn công gấp rút. Vị trí của
Tây Sơn trên núi Kho không chiếm được. Nhân bắt được tên du binh Nguyễn Văn Nho
của Tây Sơn xin đi làm hướng đạo, quân Nguyễn tổ chức đánh phá. Đêm đến, 300
người lội qua sông Ngư Trường5 cởi áo bò lên đốt trại, theo sau có đạo binh hò
hét tiếp sức. Thành Diên Khánh được giải vây trong dịp này.
Nhưng Tây Sơn vẫn chưa lui được. Gian Nan Lãnh có thêm quân Nguyễn
Ánh giữ chặt. Trần Quang Diệu dẫn quân vây Tu Bông6 bị súng lớn bắn cản đường
tiến của voi. Vừa Nguyễn Văn Thành đem quân tiếp cứu, Tây Sơn bỏ chạy.
Rốt lại, Trần Quang Diệu theo đường núi Như Tráp mà về Quy Nhơn.
Đem quân về thẳng An Cựu, Diệu đóng quân bờ nam sông Hương. Vũ Văn
Dũng mang quân bản bộ cùng Nội hầu Tứ lấy lệnh Vua chống lại. Cả hai đều sai
dâng biểu lên Quang Toản tố cáo tội lỗi lẫn nhau. Sứ Vua ra bảo 2 người vào
chầu thì họ đều xin y như lời biểu của họ đã rồi nhiên hậu mới bỏ quân. Tình
thế đương găng thì Phan Huy Ích đã thảo một tờ chiếu giảng hoà7. Lý luận thuyết
phục nhắm vào việc làm cho hai tướng nhận rõ mối nguy hại từ bên ngoài đưa tới,
nhận rõ vai trò trọng yếu của họ trong việc giữ gìn, chống đỡ chế độ, trách họ
đã đem việc công làm việc riêng, không chịu để triều đình thu xếp mà lại dùng
binh ép Vua phải làm theo lời họ. Mềm mỏng, chặt chẽ, nhưng tờ chiếu cũng lộ ra
mối lo sợ tan rã của kẻ chỉ huy yếu ớt khi nhắc đến việc bỏ qua tội bất tuân
triều mệnh, phân trần không có lòng hại tướng thần và dè dặt chận trước việc có
thể xảy ra là hai bên mang quân bản bộ bỏ đi. Thực là quá xa cái thời Quang
Trung đòi “giết hết những kẻ nhị tâm, không tha một người nào”.
Người chết không sống dậy được thì người sống phải tự lo. Cuộc
triều kiến đưa đến kết quả giảng hoà. Bốn người chia nhau quyền binh làm Tứ trụ
đại thần.
Theo nhận xét của người đồng thời, “họ đều là những tay có tài trị
nước, can đảm và được dân chúng tín nhiệm”8. Nhưng đổ vỡ đã xảy ra rồi thì khó
hàn gắn được. Người chịu nạn trước tiên là Trần Quang Diệu, viên tướng biên
thuỳ mà ở Kinh đô thì như con chim bị cắt cánh. Ông bị dèm pha, tước hết binh
quyền chỉ còn cái chức hư không ngày đêm bên điện. Tướng sĩ tan rã, chán nản
tới nỗi có kẻ lộ manh tâm hàng đầu như Lê Chất (1797) mà Lê Trung chỉ tìm cách
cảnh cáo chứ không trừng trị hay ít ra tìm cách loại đi để bớt hại.
Thế rồi loạn Nguyễn Bảo làm chết Lê Trung. Thượng thư Hồ Công Diệu
dèm pha chết Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn. Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng kết phe
với Lê Văn Thanh định hại sủng thần Lê Văn Ứng của Quang Toản. Tất cả những rối
loạn đó xô đẩy nhà Tây Sơn mau sụp đổ hơn, nhưng đều đã hiện ra từ đêm 29-7
Nhâm Tý lúc một ngôi sao vừa tắt vậy.
_____________________________________
1. Thực lục: Đà Diễn; nhưng
ĐNNTC, q10, Phú Yên, 11b: “Đà Diễn cũng gọi là Đà Rằng”.
2. Một nhánh tả ngạn của sông
Luỹ, thượng lưu được gọi bằng một tên quen thuộc vì chảy qua một nhà ga cùng
tên: sông Mao.
3. Thực lục q7, 33ab; Liệt
truyện q30, 46ab; Hoàng Lê, t. 278. gọi trạm Hoàng Giang, Thái bảo Hoá thay vì
Mỹ Xuyên, Nguyễn Văn Huấn. Một chứng nhân đương thời, Lapavée, thì lại cho rằng
Bùi Đắc Tuyên muốn giết 3 con Quang Trung (Quang Thuỳ, Quang Toản, Quang Bàn?)
để cướp ngôi cho con ông (Bùi Đắc Thận?) nên mới âm mưu với Ngô Văn Sở để hành
dộng. Sứ giả gởi đi bị Vũ Văn Dũng chận lại. Âm mưu vỡ lở (Sử Địa số 13, t.
160-161).
4. Có thể là Karom, tiếng
Việt bây giờ là Du Long (Ninh Thuận). Ta biết địa điểm Ma Lâm (Bình Thuận) cũng
được bình dân gọi là Mằng Long.
5. Núi Kho là hòn Trại Thuỷ ở
Nha Trang, hiện có đặt Kim thân Phật tổ. Sông Ngư Trường là phân lưu của sông
Cái chảy xuống cầu Hà Ra (Nha Trang). Xét theo diễn tiến trận đánh và vị trí
các nơi liên hệ thì quân Nguyễn từ mặt bắc đánh vào.
6. Chữ của Thực lục là Tu Hà 修 蝦. Chúng ta nghĩ Tu Hà giống chữ Tu Hoa đã
sinh ra chữ Tu Bông bây giờ. Vậy Tu Bông không phải từ chữ Tụ Phong mà ra.
7. Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm.
Quốc văn đời Tây Sơn. sđd, t. 26-31, đề là “Dụ Nhị Suý Quốc âm chiếu văn”.
8. Thư Le Gire gởi các ông
Boiret, Chaumont, Blandin, từ Kẻ Tương (nam Quảng Bình), 12-1-1796 (BEFEO,
1912, t. 36).
Tiết 17
DAO ĐỘNG Ý THỨC HỆ Ở GIA ĐỊNH
Cơ sở tín ngưỡng và đại giá của tiếp viện Tây phương ở Gia Định *
Dao động ý thức hệ và cuộc tranh chấp quanh cá nhân Hoàng tử Cảnh * Ảnh hưởng
cuộc tranh chấp tương ứng với việc tổ chức quan lại * Ảnh hưởng cuộc tranh chấp
tương ứng với tiến triển quân sự.
Trong phần bàn về sinh hoạt tinh thần của dân chúng đương thời, ta
đã điểm xét qua những tín ngưỡng. Chúng ta đã nói đến Thần giáo, Phật giáo bị
Nguyễn Ánh ngăn chặn hoạt động. Nhưng điều đó một phần có nghĩa là chính quyền
trừ khử bớt những hành vi tiêu cực cản trở việc tổ chức xây dựng Gia Định: Bắt
bà đồng bỏ nghề đi xay lúa, giã gạo, cũng như bắt người Miên làm biếng ham chơi
phải đi lính.
Cho nên cơ sở tín ngưỡng thông thường của dân chúng vẫn còn vững
chắc. Thái hậu, Hoàng hậu sinh ra Hoàng tử Cảnh đều có thờ Phật. Cuộc sống tu
hành khuất lấp, dửng dưng, có vẻ vô tội đến nỗi một người điềm chỉ cho Ngô Văn
Sở đi bắt Chiêu Thống, đã tỏ cái dễ dàng của công việc bằng một câu ví tức
cười: “Như vào chùa trói một lão sư đi mà thôi”.
Chính yếu của tín ngưỡng đó là sự tin vào con người có linh hồn,
không phải là một thứ linh hồn vô tội, như một xuất hiện của bản ngã mà là một
thứ linh hồn có quyền phép, có xúc cảm. Tín ngưỡng đó, ta còn thấy chung quanh
ta, nhưng nghe một L.M tả cảnh xài phí của đám chuyển linh cữu Trịnh Sâm về
Thanh, ta biết rõ hơn những điều đã gây nhạc nhiên cho người ngoại quốc:
“Vào tháng giêng 1783, người ta mang xác Chúa đến mộ, xa kinh thành
vài ngày (...). Người ta khó mà tưởng tượng được đã tiêu phí như thế nào cho
đoàn rước ấy. Ngoài một số nhiều bàn dọn ê hề mọi thứ đồ ăn cúng cho người chết
mỗi ngày nhiều lần và phải suốt 3 năm theo tục lệ người ta thấy khắp chỗ vải
vóc, tơ lụa quý báu để trang trí phần mộ và những cơ sở mê tín xây lên cho
người chết.
Vàng lóng lánh trên ghế, trên kiệu, và trên mọi đồ dùng tang lễ;
nhiều chiếc thuyền lớn đều lát vàng. Tất cả những gì tráng lệ đó cũng như tất
cả những đồ dùng thường ngày của Chúa đều thiêu đốt đi để Chúa dùng bên kia thế
giới”.
Thế giới đó, nơi trú ngụ của linh hồn người thường dân, là địa
ngục, là âm phủ. Thế giới chúng ta sống là hạ giới. Khoảng vô hình quanh ta có
những con ma ở kinh Đôi Ma trêu ghẹo quân lính Tây Sơn, con tinh, ông thần phò
hộ cho người chài lưới Đà Nẵng được mùa cá. Còn linh hồn Trịnh Sâm chắc là lên
thượng giới, nơi có Thượng đế, ông trời với cả một triều đình y như dưới này
vậy.
Trên mảnh đất Đại Việt những bè phái có chống đối, chém giết nhau
nhưng cũng đều chia xẻ tin tưởng ấy, rõ ràng hay mơ hồ, tràn trề tình cảm tôn
kính sợ hãi hay cứng cỏi trong lý luận là còn tuỳ từng người. Nguyễn Ánh và
Trịnh Hoài Đức đều ý thức rõ ràng nước ta không lấy Phật giáo làm quốc giáo như
Xiêm mà gọi vua là Thiên tử, Thiên vương. Nguyễn Nhạc của Tây Sơn, giản dị, xuề
xoà hơn, để cho dân chúng gói mình là “vua Trời”.
Những ngày còn cướp bóc, phải phá nhà thờ, lấy chuông chùa, Tây Sơn
vẫn giữ tục lệ thông thường như L.M Ginestar cho biết: “Bọn vô thần cấm tất cả
mọi tôn giáo hành lễ trừ đạo đời Lê, nghĩa là đạo Trời dạy những gì là thiện và
những phép tôn trọng tổ tiên”.
Chiếm được quyền rồi, họ chấn chỉnh đạo Phật nhưng cũng khoan dung
với Thiên Chúa giáo, tuy rằng những khó khăn từ ngoài đưa tới và thái độ hướng
về cựu Nguyễn của các giáo sĩ sẽ làm cho họ dè dặt hơn. Triều đại họ, như đã
phân tích, vẫn phải kiếm lấy sức mạnh ngoài ảnh hưởng Tây phương, ảnh hưởng mà
họ cố gắng thâu nhận cho hợp một phần với bản chất thương mại nội địa của tập
thể họ dắt dẫn lúc ban đầu. Họ đã thất bại trong toan tính đó và kỹ thuật Tây
phương lại dồn về cho một ông Hoàng còn sót lại của chúa Nguyễn Nam Hà. Chúng
ta đã thấy sự hiện diện của người Tây phương, thương nhân cũng như giáo sĩ ở
Gia Định. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, nước Đại Việt thu nhận một giám
mục cố vấn cho Vua, trông coi Chế tạo cục, có các giáo sĩ giảng đạo công khai,
theo quân đội chiến thắng thu tín đồ ở nhưng vùng mới chiếm (trường hợp các
giáo sĩ Lavoué, Boisserand, Lelabousse ở Diên Khánh năm 1794)4, có các binh sĩ
Âu xây đắp thành trì, huấn luyện sĩ tốt, xây dựng một cơ cấu thuỷ quân làm mưa
làm gió trên mặt biển Đông, loại trừ các thuỷ quân địch lẫn bọn giặc cướp Mã
Lai, Tàu Ô làm trở ngại giao thương trên mặt biển5.
Nhưng họ ở đây mang một nề nếp sinh hoạt, suy tưởng khác hẳn với
chung quanh. Họ kiêu hãnh với kỹ thuật quân sự, tổ chức tiến bộ hơn nên thường
tỏ thái độ kẻ cả - thái độ tuy vậy cũng được biện chính một phần nào. Đối lại,
Nguyễn Ánh cùng binh tướng cũng đã từng chiếm được Gia Định trước khi họ tới,
nên ý thức được địa vị chủ nhân ông của mình, khăng khăng bám lấy tin tưởng có
sẵn. Cho nên trong khi Tây Sơn đang ở thế tan rã thì Gia Định cũng trải qua một
cuộc khủng hoảng vì sự lớn lên của họ. Cơn khủng hoảng bắt đầu kín đáo từ 1789
nhưng bùng nổ quyết liệt vào 1794, 1796 và lan đến 1798, 1799.
Đầu tiên phải kể đến phản ứng trong dân chúng. Ở nơi này cũng như ở
nơi khác trên mảnh đất có chiến tranh này, các giáo sĩ đều ghi những trường hợp
trở-lại-đạo từ một ông thầy phù thuỷ, cô gái quê đến một người cô (dì?) của
Nguyễn Nhạc, và ở Gia Định, một bà thứ phi của Nguyễn Ánh. Nhìn sự tiến triển
đó với cặp mắt khoan dung là một chức việc làng có uy tín, một người cậu của
Quang Toản (Trần Quang Diệu?) “tay chiến tướng giỏi nhất trong phe từ Bắc Hà
tới Nam Hà”, và chót hết, Nguyễn Ánh6. Nhưng đã có những chống đối.
____________________________________
1. Hoàng Lê, t.211.
2. Thư Giáo sĩ Serard,
6-1783, RI, XIII, t. 521.
3. Thư trích trong La guerre
et la révolle, bđd, t. 91.
4. Thư J. Liot cho các Giám
đốc Chủng viện Phái đoàn Truyền giáo, ngày 20-6-1795 (A.Launay, III, t.237).
5. Thực lục chẳng hạn, q6,
10a, đầu 1793; đáng chú ý ở q8, 27a, tháng 8 âl 1796: “Giặc Chà-và đánh Kiên
Giang. Nguyễn Ánh sai Nguyễn Đức Xuyên đánh ở Hòn Tre giết giặc, đoạt thuyền;
từ ấy Chà-và sợ mất vía không dám xâm phạm, đường thương mãi được thông suối
vậy”. (chính chúng tôi nhấn mạnh).
6. Rất nhiều trong A. Launay,
tập III, sđd.
Tây phương từng tìm cách khoe khoang khoa học của họ, như trường
hợp của ông Boisserand làm nảy tia lửa điện trước mặt các quan “như tay phù
thuỷ”, bắn ít phát súng lục trong điện vua, thả một quả khí cầu, và như các
giáo sĩ khác, có chữa một ít bệnh cho dân chúng. Do đó, người ta đồn rầm lên là
các giáo sĩ móc mắt người bệnh ra, nhét bông vào đó và dùng mắt làm ngọc cùng
các vật dụng đẹp đẽ khác. Một ông quan dám đoan chắc với Nguyễn Ánh là có việc
ấy ở nhà thờ.
Sự chống đối vì khác ý thức sinh hoạt có khi được lồng trong cuộc
tranh đấu Nguyễn - Tây Sơn. Đồ đảng Tây Sơn có người tên là Phó Tín từ Bình
Thuận vào Vĩnh Trấn giả bộ cảm vì uống thuốc tây và quả quyết rằng người Âu mưu
bắt dân Gia Định để móc mắt. Bị tra tấn mới lòi ra rằng người Âu không can gì
vào đấy hết. Có một người mướn anh ta với 80 người nữa để loan tin ấy ra. Phó
Tín cùng 7-8 người đồng đảng bị giết.
Việc quấy rối Gia Định do chủ trương của một triều Tây Sơn yếu ớt
như của Nguyễn Nhạc, sở dĩ xảy ra được vì chính đã gặp lúc dân chúng hoang
mang, nghi ngờ. Hiện tượng này tất nhiên cũng có ở bộ máy trung ương.
Mọi cuộc tranh chấp ở đây xoay quanh việc giành giựt linh hồn Hoàng
tử Cảnh. Các quan triều cố giữ lấy đấng trừ nhị của họ trong khuôn khổ tư tưởng
thịnh hành của quốc gia. Trong khi đó, các giáo sĩ, nhất là Bá-đa-lộc, hi vọng
ở ông hoàng này tương lai sẽ thành một Constantin le Grand Đông phương.
Họ càng nhiều tin tưởng hơn khi Hoàng tử Cảnh qua 4 năm tuổi thơ
sống bên Bá-đa-lộc, cũng như những đứa trẻ khác đã theo khuynh hướng tự nhiên
mà hướng về Thiên Chúa giáo. Mới đặt chân về Gia Định, Cảnh đã tỏ lộ những tư
tưởng, hành động gây rối loạn trong triều làm cho Pigneau, Lelabousse mừng nhảy
lên, viết thư khoe khoang ầm ĩ2 rằng “lòng thành kính của Cậu đối với Đạo càng
ngày càng phát triển” và “ở đây cũng như ở Pháp, Cậu tiếp tục cho ta thấy hi
vọng nhiều”.
Trong buổi lễ trình diện trước bàn thờ tổ tiên sau những năm vắng
mặt, Cảnh nhất định không lạy “những con quỷ sứ” vì “ông bà đã chết rồi không
thể trở về hưởng được”. Cảnh có thể nghe theo lời Phụ hoàng lạy bất cứ ai còn
sống chớ không thể theo các tục lệ mê tín đó được. Những dỗ dành, hai ba cái
tát tai của Hoàng hậu không lay chuyển được ý định đó và rốt lại Nguyễn Ánh
phải lạy thay con mà cảm thấy ngượng trước triều thần vào con đường phản kháng,
Cảnh vẽ hai dấu thập tự trên tượng Phật của Hoàng hậu mà kiêu hãnh rằng mình
cũng như Phật đều từ Ấn Độ tới. Và ghép chung các tôn giáo khác vào đạo Thần
tượng, Cảnh đã chỉ cho mẹ cậu trét phân bò trên tượng Thích Ca như cậu đã thấy
làm ở một giáo phái nào đó.
Những tin tưởng của cậu bé 8 tuổi này có vẻ có căn bản lắm. Trong
khi Hoàng hậu cho rằng chính cha cậu đã có quyền sáng tạo nên vạn vật, thì cậu
nằng nặc quyết người đó phải là “Đức Chúa ở trên trời”, bởi vì rõ ràng là cha cậu
đã không đẻ ngay được một bầy 2000 con voi để chống với 300 voi Tây Sơn. Cậu
hứa sẽ lấy một vợ thôi, vì Chúa đã sinh “có bao nhiêu đàn ông thì có bấy nhiêu
đàn bà”. Lúc đi ngủ, Cảnh lén đọc kinh lầm rầm. Pigneau không trực tiếp xúi
giục mà lâu lâu lại dặn dò rằng đừng quên Chúa nhất là buổi chiều và buổi sáng.
Chiến thuật khôn khéo đó được tung ra vì Pigneau thấy phản ứng của các quan,
hoàng tộc và vì nó tỏ ra có hiệu quả ở lời đinh ninh cửa Cảnh: “Tôi không muốn
làm vua và tôi muốn mai này trở về Pháp ngay nếu không có ý định làm cho cả dân
tôi trở lại đạo đã giữ tôi lại”.
Triều đình hoảng hốt, Nguyễn Ánh tức bực, nhưng già dặn, trầm tĩnh
như bà Thái hậu thì thấy khác. Yêu quý cháu nội, ngăn không cho Hoàng hậu đánh
con, bà nói: “Có gì lạ đâu con, thằng bé vừa mới về chưa nhận được chút giáo
dục phong tục của ta, chỉ thấy toàn những điều trái lại thì làm sao nó làm theo
lời ta bảo được. Để yên rồi lâu ý tưởng nó sẽ giống như của chúng ta”.
Lelabousse bảo bà ta lầm. Nhưng thực vậy.
Hai năm sau, ông cũng như Pigneau hoảng hốt viết thư báo động3. Qua
lời tâu xin của các quan, Nguyễn Ánh đem Cảnh về dạy dỗ. Ở giữa “một triều đình
ngoại đạo, sống theo quy tắc của các thầy ngoại đạo, xung quanh có các viên
Thượng thư Satan làm đủ cách để phá hoại sự vô tội của Cảnh”, cậu Hoàng tử này
trở về đời sống khuôn khổ của tầng lớp và dân tộc cậu.
Ngày Giáp Dần, tháng ba, Quý Sửu (30-4-1793), Nguyễn Ánh làm lễ
phong Cảnh làm Đông cung, xây Thái học đường, đặt Đông cung Phụ đạo dạy Cảnh
học hành. Một Thị giảng Giáo sư, hai Hàn lâm Thị học phụ tá, tám Quốc tử giám
Thị học làm bạn, sáng chiều nhóm giảng kinh sử. Hai người được kể làm Thị giảng
là Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định. Và chính Ánh bắt các quan ghi lời Cảnh nói,
hằng tháng dâng lên ông kiểm soát để biết con học hành tấn tới ra làm sao.
Tuy vậy, Ánh một mặt theo thiên tính, giáo dục vẫn quý trọng
Bá-đa-lộc, một mặt cũng nhận thấy còn cần có người này để mở rộng kiến thức con
mình, để giữ vững tinh thần quân sĩ, uy thế quốc gia, nên nhân dịp này bắt Cảnh
lạy Bá-đa-lộc 4 lạy bảo đối đãi như bực sư phó5. Tất nhiên sự hiện diện của
Pigneau bên cạnh Cảnh cứ cành ngày càng làm cho các quan khó chịu. Cho đến khi
nổ bùng ra vụ mà chúng ta gọi là vụ Tống Phúc Đạm6.
Cho Cảnh ra giữ Diên Khánh, Nguyễn Ánh có dụng ý bắt các tướng vì
sự hiện diện đó mà không bỏ thành chạy khi Tây Sơn tiến đánh. Nguyễn Ánh cũng
nài nỉ Pigneau đi theo để tăng uy thế. Trong đám tướng cùng ra Diên Khánh có
Giám quân Tống Phúc Đạm. Theo Liệt truyện, chính Đạm đã bày mưu dùng kế phản
gián chia rẽ Phạm Văn Sâm và Nguyễn Lữ trước kia.
_____________________________________
1. Thư Lelabousse cho
Letondal, 24-5-1791 (A.Launay, III, t. 291, 292); Thực lục q5, 18b, chuyện
tháng 2 âl 1791; lời chú (a) của De la Bissachère về bài hịch của Quang Trung
đã dẫn.
2. Thư Pigneau cho Letondal,
11-8-1789, thư Lelabousse cho M.... 13-12-1790 (A, Launaỵ, III, t. 277-281).
3. Thư Lelabousse cho Grine,
6-1792, cho Letodal, 17-6-1792; thư Pigneau cho Boiret, 18-6-1792; thư Guillet
cho Boiret, 20-6-1793, Lelabousse cho Boiret 6-1793 (A.Launay. III, t.
283-285).
4. Thực lực q6, 14b, 15ab.
5. Thư Lelabousse cho
Letondal, 12-6-1793 (A-launay, III, t.289) có câu Nguyễn Ánh bảo Cảnh: “Le
Maitre est plus ton père que Moi”, đó là thứ bực Sư, Phụ của Nho giáo: Thực
lực, q11, 16a.
6. Việc xác định danh tính
Tống Phúc Đạm trong vụ cũng như sự việc xảy ra lấy ở Thực lực q6, 35a, Liệt
truyện q8, phần cuối: truyện Tống Phúc Đạm, thư Lavoué cho Letondal, 21-4-1795
thư Pigneau cho Boiret, 30-5-1795 (A.Launay. III t. 301-305)
Pigneau nhận xét, bảo Đạm là người “nghiêm trang, trịnh trọng, cần
mẫn và giản dị”. Trong 8-9 tháng cùng Pigneau thảo luận, trao đổi tư tưởng về
Khổng giáo, ông đã bị Pigneau quyến rũ, đến nỗi tâu xin Vua bỏ một số nghi lễ ở
Triều đình mà ông cho là mê tín, theo như quyết nghị của Giáo hội La Mã về
“nghi lễ Trung Hoa”, đến nỗi sau khi giải vây mắc bệnh không về Gia Định được
mà ông cứ nằng nặc quyết gặp Giám mục để phải bị chết dọc đường.
Muốn hiểu rõ thái độ này của Tống Phúc Đạm đã gây xúc động cho các
quan như thế nào, ta phải phân biệt trường hợp Hoàng tử Cảnh và trường hợp Tống
Phúc Đạm. Đạm là bậc huân cựu đại thần, tuổi đã lớn (59 tuổi lúc xảy ra
chuyện), tư tưởng khuôn sáo đã thành nếp thế mà bị thuyết phục trong vòng không
đầy một năm, thì cậu bé Hoàng tử sẽ ra sao nếu cứ luôn luôn ở bên Pigneau? Năm
1789 còn bảo Cảnh nhỏ bé, chưa từng ở quê nhà nên dễ nhiễm ý tưởng của Pigneau
chứ rồi đây Cảnh càng ngày càng lớn, càng độc lập trong tư tưởng đã được uốn
nắn một lần rồi mà nay lại theo Pigneau thì nguy hại biết mấy.
Các quan, và cả Nguyễn Ánh nữa đã thấy đe doạ mất tin tưởng truyền
thống, quyền lợi riêng tư, một khi Cảnh bị lôi kéo như Tống Phúc Đạm. Gọi là
các quan bị đe doạ mất quyền lợi riêng tư, thực đúng như Pigneau đã nói. Nhưng
ta cũng khó tách biệt rõ ràng phần tranh đấu cho quyền lợi và phần phản ứng nào
bị thúc đẩy bởi va chạm tín ngưỡng.
Ngày Cảnh không lạy ông bà, Nguyễn Ánh đã tìm gặp Pigneau1 để phàn
nàn sao Thiên Chúa giáo dạy tín đồ quên ông bà. Pigneau cãi rằng: “ở xứ này,
thờ cúng ông bà vì tin rằng ông bà nhận lạy, ăn cỗ bàn, phù hộ con cháu sống
lâu, giàu có”. Vì lối thờ cúng đó nghịch với sự thực không được đạo ông công
nhận là lẽ tất nhiên. Nhưng Nguyễn Ánh biện bác rằng Pigneau chỉ bằng vào tin
tưởng của dân chúng, lúc nào và ở đâu cũng đầy tính cách dị đoan hết. Sự thực
ông tin rằng lễ bái chỉ là chứng cớ để cho con cháu nhớ ơn cha mẹ, ông bà: “Khi
tôi đi đến các chỗ lễ đó, tôi nghĩ rằng nếu tổ tiên tôi còn sống, tôi muốn đền
đáp công ơn trong muôn một. Để chứng tỏ ý nghĩ tôi chân thành và có hiệu quả,
tôi muốn ngay bây giờ làm những điều như là ông bà tôi còn sống. Tôi biết rằng
họ không còn nữa và những điều tôi sắp làm không có ích lợi gì cho họ cũng như
cho tôi. Nhưng tôi muốn tỏ cho mọi người biết rằng tôi không quên họ”. Lý lẽ
đến đây thì không còn thuần là tin tưởng mà lợi ích công cộng đã xen vào Tục
thờ cúng ông bà có liên quan đến trật tự xã hội, uy quyền của Nguyễn Ánh.
Pigneau gọi là dị đoan lễ rước ông bà cuồi năm, tục đốt vàng mã, lệ
thờ thần chủ coi như là nơi trú ngụ của linh hồn người khuất. Nguyễn Ánh cho
rằng không thể bỏ được vì sợ gây loạn. Ông nói: “Tôi đã cấm phù thuỷ, thiên
văn, tôi đã coi đạo Thần tượng là xấu và sai, nhưng tôi phải giữ đạo thờ ông bà
như tôi đã trình bày, vì theo tôi đó là một trong những căn bản giáo dục của xứ
tôi”. Nguyễn Ánh xin Pigneau cho bọn tuỳ tướng Thiên Chúa giáo của ông được
theo các cuộc lễ như mọi người, khỏi có hại cho uy tín của ông. Chỉ có một chút
đó thôi được thoả mãn là không ai ngăn họ tiến lên những địa vị cao cả.
Thế mà lời yêu cầu không được chấp thuận. Tám năm sau, Nguyễn Ánh
trong một lúc muốn dùng áp lực bắt Pigneau ra Diên Khánh lần nữa, đã cưỡng ép
một ông quan lạy bài vị các tiên chúa với lý luận: “Ta nuôi ông lâu rồi, ban ơn
phúc danh vọng cho ông nhiều rồi, sao ông không chịu lạy các đấng khuất của Ta
(...), ông không từng lạy các thánh sao? Họ cũng đã chết rồi và không trở lại
nữa. Ta cũng không tin rằng ông bà Ta hiện có trong đền, rằng họ có thể trở về
đó ăn uống, nhưng chỉ lạy để tỏ lòng biết ơn của Ta trước mọi người thôi (...).
Ông muốn Ta gởi đi Xiêm để phật vương bắt lạy Phật không?”2. Điều khó khăn này
các giáo sĩ cũng thấy là tế nhị. Những bức thư gửi đi3 đều lưu ý đến tính cách
thế tục, không có ý nghĩa tôn giáo của việc lạy xác, thờ cúng, và họ vạch ra
rằng ở Pháp vua chết đi được liệm tử tế, đơm cơm để vài ngày mà không ai cho là
mê tín cả.
Ông Boisserand kể lại cuộc hội đàm 1789 trên của Nguyễn Ánh,
Bá-đa-lộc và tiên đoán rằng nếu người ta bài bác “thì sự thù hằn tăng thêm và
mê tín càng vững chắc”. Các giáo sĩ lại chống đối tất cả những tục lệ có sẵn mà
họ cho rằng theo “nghi lễ Trung Hoa”. Ngày đầu năm, mỗi vùng đều có góp tiền
“theo dị đoan” để làm lễ Kỳ Yên, cầu cho quốc thái dân an. Pigneau sai Liot đề
nghị hai người có uy tín, có ơn cũ với Nguyễn Ánh đến xin miễn cho những người
Công giáo khỏi bị rầy rà, thì được trả lời theo kiểu “phép vua thua lệ làng”:
“Nếu các nơi không đòi người Công giáo phải nộp tiền thì tuỳ họ, nhưng nếu họ
bắt buộc thì họ có quyền vì đó là tục lệ lâu đời rồi”. Chưa hết, trong khi
Pigneau đi Diên Khánh với Lavoué, Boisserand, Lelabousse, Nguyễn Ánh có sai
trùng tu Văn Miếu, các giáo sĩ họp lại cử Hồ Văn Nghị và J.Liot vào tâu Hoàng
hậu xin góp tiền cho quốc gia chớ không góp tiền xây cất Khổng miếu. Nguyễn Ánh
bác đi vì cho rằng đó là dịp mọi người trả ơn cho người sáng lập, dạy dỗ đạo lý
chữ nghĩa. Ra về, các giáo sĩ gởi thư đi các nơi bảo “cương quyết” không nạp.
Liot ở lại thúc đẩy tinh thần các quan. Nguyễn Ánh phải chịu bỏ qua trường hợp
một viên tướng cứng đầu. Và ở trong dân gian, các tín đồ cũng noi theo gương đó
mà cưỡng lại4. Uy quyền vị chúa tể bị xâm phạm nặng nề.
Như vậy, luôn luôn có những ganh ghét, thù hằn ngấm ngầm sôi sục.
Nó chỉ bùng nổ khi bọn sĩ phu Gia Định thấy bị đe doạ thật sự. Đó là khi Tống
Phúc Đạm xoay chiều. Và khi họ tấn công thì gặp được dịp tốt.
_______________________________________
1. Thư Gpigneau cho Letondal,
17-8-1789 (A.Launay, III, t.320, 321).
2. Thư Pigneau cho Boiret,
Saigon, 12-4-1797 (A.Launay, III, t. 311).
3. Thư Boisserand, 11-8-1789,
thư Pineau cho Boiret, 15-6-1798, Pineau - Labartette, 5-6-1796, Labartette (ở
Bố Chính) cho các Giám đốc trường Dòng của Phái đoàn Truyền giáo, 12-11-1800
(A.Launay, III, t. 322, 328, 332, 335)
4. Thư J.Liot gửi cho Giám
đốc trường Dòng của Phái đoàn Truyền giáo, 20-6-1795) (A.Launay, III, t.336 -
338). Thực lục, q7, 3b, mục tháng 2 Giáp Dần (1794) có nói đến việc trùng tu
Văn Miếu ở Trấn Biên đúng vào chuyện này
Từ 1792, những tin
tức về cuộc cách mạng phản đế do bọn lái buôn Bồ đưa đến đã lọt vào tai Nguyễn
Ánh. Giáo sĩ Lavoué nhận xét rằng: “Hình như các tin ấy có ảnh hưởng mạnh đến
đầu óc ông Hoàng này và làm ông xa rời người Âu. Hiện nay (1795), ông tỏ ra ít
dễ dãi đối với đạo hơn mấy năm trước”1. Sửa soạn đi cứu Diên Khánh bị vây lần
thứ hai, Nguyễn Ánh đã tống giam Dayot và một tuỳ tướng vì tội làm chìm chiếc
tàu được giao trông coi hư hại đến nỗi không thể sửa chữa để dùng được gì cả.
Nguyễn Ánh tức giận chửi lung tung. Đúng dịp ấy, 19 người đại thần, trong số đó
có người chú vua (Tôn Thất Thăng?) và một người hoàng phái, dâng sớ bày tỏ mối
nguy hại nếu cứ để Hoàng tử Cảnh cho Bá-đa-lộc dạy dỗ theo một tin tưởng khác
hẳn mối tin tưởng cổ truyền. Họ cầu xin Nguyễn Ánh cắt đứt mối liên lạc ấy và
để Cảnh cho các quan triều dạy.
Nghe chuyện, Bá-đa-lộc khôn ngoan ẩn tránh vài ngày. Thấy Nguyễn
Ánh có vẻ nghe theo lời sớ, ông lên tiếng phàn nàn thì Ánh đến tận nhà đưa tờ
biểu cho ông coi. Bá-đa-lộc nhắc lại công trình ông đã giúp Ánh và lưu ý Ánh
rằng ông đến đây không phải với tính cách riêng tư mà là với tính cách đại sứ
của vua nước Pháp. Thực ra, thoả ước Versailles đâu có áp dụng mà ông nêu điều
này ra. Tuy nhiên, Ánh còn cần Bá-đa-lộc trong khi quân Lê Trung tiến vào cuối
Bình Thuận, nên nghe Bá-đa-lộc đòi về, nhân dịp hai người có tên trong sở là
Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành không đi cứu Phố Hài, ông kêu về tống giam
vừa để trị tội, vừa để làm vừa lòng Giám mục.
Vụ Tống Phúc Đạm có thể coi như chấm dứt với việc Bá-đa-lộc xin
phục chức cho Đức và Thành cho theo quân đánh giặc tháng 3 ất Mão (1795). Nhưng
tranh chấp vẫn còn, Bá-đa-lộc trở nên dè dặt hơn vì nhận rằng xúc động của các
quan có lý: “Các đại thần ở Pháp sẽ nói sao khi ông Hoàng của họ được đặt vào
tay một người ngoại quốc có tôn giáo khác biệt?” Hi vọng của ông như đã ghi
nhận ở lá thư 3 năm trước là “nếu dòng họ này nắm quyền thì tôn giáo sẽ yên ổn
hơn ở các triều khác”.
Trong lúc đó thì triều đình Gia Định càng ngày càng được củng cố
theo mẫu mực Nho giáo.
Tháng chạp Ất Mão, khi cứu Diên Khánh về, Ánh định tháng 3 sang năm
mở thi Hội. Theo lệ triều trước kỳ thi trải qua 3 trường, bây giờ các quan họp
lại định trường nhất hỏi về hiểu biết kinh truyện, làm thơ, trường nhì làm văn
sách, trường ba làm thơ, phú. Những người trúng cách được phân 3 hạng Giáp, Ất,
Bính cho bổ quan chức hay miễn dao dịch. Người trúng trường nhất được miễn binh
dao từ 2 đến 6 năm. Qua trường nhì, người trúng cách được bổ cao nhất là Lễ
sanh, hạng cuối được làm Nhiêu học, miễn binh dao 4 năm. Ở trường ba, 3 hạng
đầu là Cống sĩ, Huấn đạo, Lễ sanh; ba hạng sau là Huấn đạo, Lễ sanh, Nhiêu học
(suốt đời). Khoa thi tháng ba Bính Thìn (1796) lấy đỗ 273 người.
Như vậy là tiếp với nhóm Bình Xương cùng các văn quan Bắc Hà, Phú
Xuân về đầu, một nhóm cử tử thành đạt càng làm nho sĩ có đủ sức mạnh để bênh
vực, khuông phò Khổng giáo. Bọn văn quan này noi gương Hàn Dũ, Trương Hán Siêu
sẽ công kích Phật giáo rất dữ, hợp một phần với ý tưởng Nguyễn Ánh. Nhưng thực
ra, nằm ở chừng mực tín ngưỡng trung bình, lễ tiết Phật giáo đã hoà lẫn với
những tập tục bình dân mà ngay chính nho sĩ cũng không vứt bỏ được trong sinh
hoạt hàng ngày. J. Barrow đã vẽ cho ta thấy hình một tượng Phật ở một động phía
Nam Đà Nẵng (Ngũ Hành Sơn?) được đặt trên cây đa cao trông như ông thần cây
vậy4. Đó có thể là một suy đồi tín lý của Phật giáo nhưng đó cũng là sức mạnh
của họ.
Trước sự đe doạ của ý thức hệ do các giáo sĩ đưa lại, Nguyễn Ánh
với địa vị chủ tể càng ngày càng thấy phải trở nên khôn ngoan hơn để nghiêng
dần về phía những tập tục cổ truyền. Cho nên, ta không ngạc nhiên như
Lelabousse:
“Cho tới bây giờ, Đức vua không nhận tôn giáo nào khác hơn đạo thờ
ông bà, thế mà từ 2 năm nay, ông đã xây cất nhiều Khổng miếu. Điều làm mọi
người ngạc nhiên là ông hoàng này vốn không bao giờ chịu đựng đạo Phật đến nỗi
đánh roi những người đem tượng vào phòng Hoàng hậu và đánh 100 roi những ông
hoà thượng hành lễ, ông hoàng đó bây giờ lại đi chùa và dự những cuộc lễ của
các vị sư mà ông đã luôn luôn ghê tởm”5. Lelabousse giải thích là Nguyễn Ánh
muốn làm vừa lòng mẹ, vợ và các phi tần, nhưng điều đó lại đánh dấu một bước
lùi nữa trong chương trình của Pigneau.
thắng lợi quân sự tiếp theo đã đẩy Gia Định tiến mạnh trên con
đường tổ chức xã hội theo khuôn khổ của Nho giáo để bọn sĩ phu. càng trở nên tự
phụ hơn trước các giáo sĩ.
Tháng 2 Bính Thìn (1796), Nguyễn Ánh tổ chức kiểm tra quân dân chặt
chẽ bằng cách bắt dân phải mang “tín tích”, một thứ tín bài của Gia Định. Tháng
7 năm đó có tăng tiến tổ chức thuỷ quân trên cơ sở có sẵn: trước kia chỉ có 3
doanh, nay thêm 2 là 5, đủ Tiền, Hậu, Trung, Tả, Hữu.
Nhưng như kinh nghiệm cho biết, trên bộ, đội tượng binh của Trần
Quang Diệu còn làm e ngại quân Nguyễn. Từ mùa đông 1792, Gia Định bắt đầu tổ
chức tượng binh, nhưng lực lượng vẫn còn rất yếu ớt. Số voi tăng dần nhờ bắt
dân Chàm, Thượng cung cấp, nhờ Vua hay trao đổi bằng cống phẩm với Cao Miên,
Xiêm La và bắt được của Tây Sơn. Người huấn luyện điều khiển ban đầu là Chàm,
Thượng. Trong trận 1797, Nguyễn Ánh đề ra chiến thuật đánh tượng binh: ông bảo
lính cố sức giết cho được tên nài và địch quân ngồi trên đó để cướp voi7. Chiến
thuật có vẻ thật là giản dị như Kiêu binh đã từng áp dụng để giết Quận Huy.
____________________________________________
1. Thư Pigneau cho Boiret,
20-6-1792; thư Lavoué cho Giám đốc trường Dòng (A.Launay, III, t.306, chú (I)).
2. Xem lại tiết trước. Chuyện
xảy ra vào đầu năm 1795. Tên Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành được xác nhận
vì một đằng so với Thực lục (q7,23b, 24a, 27b), một đằng thư Lavoué kể trước có
nói: (Ánh) đến nhà Bá-da-lộc trước khi đi đánh Tây Sơn và 2 trong những người
tố cáo đang làm quan lớn bị tống giam vì đã bỏ rơi 2 quan khác khi Tây Sơn tiến
đánh.
3. Thực lục, q8, 12b, 13a,
15a.
4. Hình chụp lại trong
Iconographie historique..., sđd, IX, 13.
5. Thư Lelabousse cho Boiret,
12-7-1796 (A.Launay, III, t.225).
6. Thực lực, q8, 14b, 23ab.
7. Thực lục, q9, 21ab.
Nguy hại thêm cho Tây Sơn là tổ chức nội ứng của Nguyễn Ánh đã lan
mạnh trong khu vực của họ. Chúng ta đã biết, theo với đà suy yếu từ trung ương,
dân chúng càng lộ vẻ chống đối Tây Sơn. Một bài ngâm như Hoài nam khúc trong đó
tác giả nói toàn những chuyến cũ kỹ từ 1774, 1775 mà cũng làm dao động Thuận
Hoá và lan rộng đến miền Nam. Cho nên, từ tháng ba Tân Hợi (1791), sử quan đã
hãnh diện về số tay chân thương hộ ra ngoài Bình Thuận, Thuận Hoá dò la tin tức.
Những chuyến đánh ra rồi lại rút về càng tăng thêm lòng nao nức của
những người oán Tây Sơn, hướng vọng về Gia Định không kể đến sự thực ở miền
trong. Tiếp tục lợi dụng tinh thần đó, trong tháng 7 Bính Thìn (1796), Nguyễn
Ánh sai người về Quy Nhơn, Quảng Nam, Thuận Hoá chiêu dụ nghĩa binh làm nội
ứng. Một đợt thứ hai những gián điệp như vậy cũng được tung ra vào tháng 11
cùng năm.
Mùa Xuân Đinh Tỵ (1797), Gia Định phát binh đánh ra ngoài. Họ vừa
được Cai đội Nguyễn Văn Vân bạt thuyền bị bắt ở Phú Xuân năm 1793 nay trốn về
báo cáo tình hình. Con đường từ Xích Ram đến Ma Ly được sắp đặt ngựa trạm để
thông báo tin tức. Loạn Ba Phủ vừa tạm dẹp yên. Gió mùa nổi lên. Nguyễn Ánh sửa
soạn tăng cường 200 ghe chiến nhẹ và lô ghe bầu chở 12 súng lớn.
Đội quân xuất phát vào tháng 4-1797 gồm một lực lượng hùng hậu tới
447 thuyền và 42.000 chiến binh trong đó chiếc frégate và chiếc corvette đều do
người Âu chỉ huy3. Do đó mà những trận đầu tiên trên biển và ở ngoại vi Quy
Nhơn, chiến thắng có vẻ dễ dàng. Nguyễn Văn Trương dẫn thuỷ quân đánh Đô đốc
Triêm ở Tiên Châu rồi phá Đô đốc Tính ở đầm Nước Ngọt. Trên bộ, Nguyễn Văn
Thành dẫn Hậu quân đánh chợ Hội An (Phú Yên) đuổi Đô đốc Hiếu chạy về La Hai.
Nhưng quân Lê Trung đã dàn ra giữ vững mặt nam Quy Nhơn và cửa Thi
Nại. Nguyễn Ánh đành phải bỏ đó đem hơn 100 thuyền ra cửa Đà Nẵng. Hiểu rõ thực
lực mình, tránh giao chiến bất lợi, Thống lãnh Đặng Văn Chân rút hết binh
thuyền vào trong cùng với bộ binh của Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn dàn hai bên bờ
sông dựa nhau cự chiến. Một trận đổ bộ thắng nhỏ không phá vỡ được quân địch,
Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Thành, Trần Văn Tứ, Trần Văn Bố dẫn quân chiếm Câu Đê
đến Hải Vân, sát cửa Kinh thành4. Nguyễn Quang Toản sợ hãi vội vã sai Trần
Quang Diệu giữ cửa Eo (Noãn khẩu) có Đô đốc Lê Văn An tiến quân trợ giúp.
Mặc cho hai quân đối đầu ở giáp giới Quảng Nam, Thuận Hoá, Nguyễn
Ánh lo thanh toán vùng bên trong, nên sai Cảnh tiến vào cửa Đại Chiêm đánh
Chiên Doanh (thủ phủ Quảng Nam), có Võ Tánh từ Phú Yên đến trợ giúp. Cảnh chiếm
chợ Đông An, Hội An. Võ Tánh đánh Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ bắt tù binh cùng 30 tàu
Ô ở Đại Chiêm.
Trên bộ, Tây Sơn phản công dữ. Lê Trung tung quân đánh Hội An ở Phú
Yên khiến Nguyễn Văn Thành phải bỏ về giữ Bình Khang. Tháng 6 năm đó, quân
Nguyễn thắng mạnh ở Quảng Nam. Nguyễn Văn Trương đánh viện binh của Lê Văn An ở
gò Phú Gia chạy về Câu Thai. Võ Tánh đánh Tiết độ Nguyễn Văn Giáp ở sông Mỹ
Khê. Hoàng tủ Cảnh thắng ở núi La Qua, để Phạm Văn Nhàn ở lại Đại Chiêm, kéo Vũ
Bá Diên đến Phú Triêm. Đang đêm, Nguyễn Văn Khiêm và Olivier mang bọn Chiến tâm
quân lẻn đốt thuyền Tây Sơn.
Quân Quảng Nam cố thủ và cầu viện ở Quy Nhơn. Lê Trung sai Đại Đô
đốc Lê Chất, Đoạn Văn Cát, Đô đốc Nguyễn Văn Xuân và một người tên Hàn đem
2.000 quân, 40 thớt voi tới cứu, bị đánh tan. Voi bị giết, Hàn bị trúng đạn
chết. Tuy vậy Lê Trung còn là mối lo cho quân Nguyễn. Trong tháng 7, Nguyễn Ánh
sai Nguyễn Văn Biện, Nguyễn Đức Thiện đổ bộ lên cửa Hợp Hoà đóng ở Bến Ván chận
cứu binh Quy Nhơn. Đô đốc Lê Văn An của Tây Sơn cũng cố tiến chiếm Trạm Dã
nhưng không được. Nguyễn Ánh hi vọng Phú Yên yếu, Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần
Thường có thể chiếm được, nên không nghe lời Nguyễn Văn Biện, Nguyễn Đức Thành
xin đánh Trà Khúc sau khi phá được Đô đốc Gia ở Thạch Đậu.
Như vậy là hai nhóm quân Tây Sơn mạnh vẫn còn chiếm một ở Đà Nẵng,
một ở Trà Khúc với Lê Trung nơi ấy đang trưng tập đàn để bổ sung quân sĩ.
Thấy khó đánh, Nguyễn Ánh tính đến kế phản gián, sai người bảo Tham
tán Tây Sơn là Từ Văn Tú thuyết Tiểu triều Nguyễn Bảo giết Lê Trung. Mặt khác
ông tính tuyệt lương địch bằng cách sai Nguyễn Văn Biện giữ Tam Kỳ còn Lê Tấn
Tham thì theo sông Thanh Hà đốt luỹ cản trở tiếp tế giữa Nam, Ngãi.
Nhưng nếu Tây Sơn bối rối vì hụt lương thì Nguyễn cũng không hơn
gì. Từ lúc mở chiến dịch, họ đã mang lương mễ hơn 12.700 vuông gạo, 500 vuông
muối, hợp với 12.800 vuông gạo và 3 vạn quan tiền chở đến Cầu Hin tháng 6 năm
ngoái (1796). Không may, Trương Phúc Luật đem thuyền tiếp tế bị gió cản, cướp
biển đoạt (Tề Ngôi hải phỉ?), khiến quân Quảng Nam chỉ còn có 5 ngày lương.
Cuối tháng 7 đầu, Nguyễn Ánh phải cho lui quân mà không hay rằng thuyền lương
kế tiếp đã tới vũng Quất (Quảng Ngãi). Nguyễn Văn Thành chiếm được Phú Yên cũng
đành bỏ.
Chiến tranh kéo dài trong 4 tháng, quấy đảo Quảng Nam, đe doạ Phú
Xuân trong 3 tháng đã mang lại vui mừng, hi vọng cho các giáo sĩ cùng dân chúng
ở vùng này, tưởng như sắp được thoát ách Tây Sơn. Họ thất vọng vì quân Nguyễn
rút lui5, nhưng binh tướng Gia Định thì lại phấn chấn tinh thần hơn lên.
Cuối năm Đinh Tỵ, Nguyễn Ánh dẹp được loạn Ba Phủ mới nổi. Đầu năm
sau (Mậu Ngọ 1798), Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương định đem 7.000 quân
giúp Xiêm đánh Miến Điện6. Rõ ràng là Gia Định càng ngày càng tự thấy làm chủ
mình và muốn làm chủ người nữa.
_________________________________________
1. Thực lục q5, 9ab. 33a.
2. Thực lục q8. 26b, q9, 5b.
3. Chi tiết về số lượng thuỷ
quân do bức thư của Olivier gửi cho St. Lefèbre de Tranquebar, 16-4-1798, trích
của A.Slles. “Les Français au service de Gia Long. J.B.Chaigneau”, BAVH,
Janv-Mars 1923.
4. Thư Labarlette cho
Letondal, 6-10-1797 (A. Launay, III, t.242)
5. Thư Labartette cho
Letondal. 6-10-1797 kể trước. Chuyện tiến quân lấy ở Thực lục, q9, 19b - 27a.
6. Thực lục q9, 37a, q19, 2a.
Đám nho sĩ khỏi lo về phía Hoàng tủ Cảnh. Đông cung sống đúng cung
cách của một ông hoàng Đông phương: ông vừa có 3 vợ mùa xuân năm ngoái1. Và
tháng 3 năm nay (1798), chính ông đã xin làm truyện các bậc trung thần để người
ta theo đó mà được dạy dỗ rộng rãi cho trung thành với quân quyền hơn2. Còn nói
chi đến Nguyễn Ánh. Tuy vẫn còn kính trọng Pigneau, ông đã bắt đầu biết lợi
dụng ông này.
Ngày Tết năm Đinh Tỵ (1797), Pigneau đến chúc đầu năm thì Ánh đề
nghị ông đi cùng với Cảnh theo quân. Nhớ lại chuyện rắc rối kéo dài ở Diên
Khánh trong 2 năm trước, ông từ chối. Mười lăm ngày sau, Ánh mời đi chơi để nói
lại chuyện đó nhưng ông vẫn khăng khăng không nhận. Ánh bèn giở thủ đoạn chính
trị ra. Lúc trở về, ông tỏ thái độ không bằng lòng đối với Thiên Chúa giáo. Ông
bảo rằng ông đã phải chịu đựng rất nhiều để cho đạo hoạt động trong nước chỉ vì
ngưỡng mộ Pigneau, chỉ vì ông này đã làm ơn cho ông. Bây giờ thì nhất định phải
xét lại vấn đề đó. Ông lôi một viên quan có đạo ra bắt lạy các bực tiên hiền
cho kỳ được để khủng bố tinh thần Pigneau. Quả nhiên Pigneau chịu nhún, đành
phải nhận lời đi Diên Khánh3.
Bọn nho sĩ trong triều lại có thế để mà tuyên dương đạo học của họ
lên. Sử quan kể một chuyện xảy ra trong tháng 5 Mậu Ngọ (1798) như sau, có thể
tóm thâu được hết cả tình hình độc chiếm tư tưởng lúc bây giờ:
“Đất Gia Định chuộng đạo Phật. Có vị cao tăng phạm tội vua muốn
giết. Gặp kẻ cản ngăn, lấy lẽ đó là bậc chân tu, Nguyễn Ánh trả lời rằng: “Chân
tu thì có ích gì cho nước?” Ông bắt kiểm tra hoà thượng, đạo đồng chỉ miễn dao
dịch cho những tăng chúng trên 50 tuổi mà thôi, còn dưới 50 vẫn phải làm xâu
như dân thường. Quần thần can làm Ánh lưỡng lự, Ngô Tòng Châu bèn lấy tính cách
phụ đạo Đông cung tâu lên Cảnh: “Quân thượng ngài ngại đạo Phật hưng thạnh mà
quần thần không tán thành ý đó lại ngăn cản đi. Thần sợ việc làm nửa chừng rồi
thôi thì kẻ kia lại bậy bạ ngông cuồng hơn ngày trước. Tăng nhân đối với thần
không có ghét bỏ riêng tư, nhưng mà cái hại của Phật, Lão còn hơn Dương, mặc
nữa, chẳng lẽ không nói”. Hoàng tử Cảnh đồng ý. Tòng Châu bèn dâng sớ bài bác
thậm tệ, Vua mới không phân vân nữa mà quyết thi hành việc kiểm soát tăng
chúng”.
Sử quan cũng nhân dịp này mà chêm vào một câu: Bá-đa-lộc nghe Châu
bài bác “Tả đạo” trong lòng cũng ghét4. Quả vậy, nho sĩ đã thắng thế rõ rệt.
Tháng 10 năm đó, Pigneau đi Diên Khánh với Cảnh. Tuy rằng ở đó Tống Viết Phúc
vào tháng giêng năm sau (1799) nói hỗn với ông còn bị cách chức lôi về Gia
Định5, nhưng hợp với lúc J. Dayot đã đi, V. Olivier sắp bỏ chức, uy thế Tây phương
hạ xuống rõ rệt ở xứ này.
Nho sĩ dựa vào sự trù phú của Gia Định, gặp dịp Tây phương rối loạn
trong những chuyển mình về kinh tế, xã hội, mắc lo nội bộ không rảnh phát triển
về phương Đông6, lớp nho sĩ đó của đất Việt đã thu thập được một ít kỹ thuật tiến
bộ của Tây phương để lớn lên, nhưng chịu đựng được những dao động do sự tiếp
viện đem lại để vẫn làm chủ được tình hình. Họ đã biết đem trùm lên trên phần
đất miền Nam còn đầy phức tạp với những ảnh hưởng tứ xứ và bản thổ, một lớp sơn
Nho giáo đem từ phương Bắc xuống mà tính cách cứng cỏi còn được ghi nhận đến
mãi sau này và còn lưu dấu trong toàn thể chính sách quốc gia một khi nền thống
nhất được lập lại.
_______________________________________
1. Thư Lelabousse cho Boiret,
5-1797 (A.Launay, III, t.288).
2. Thực lục q10, 3a.
3. Thư Pigneau cho Boiret,
12-4-1797 (A.Launay, III, t.310, 311).
4. Thực lục q10, 12b, 13a.
5. Thực lục q10, 14b-20a.
6. Pháp không thi hành được
hiệp ước Versailles chỉ để bốn phiếu lưu giúp nên cạnh tranh nhau, tố cáo nhau
làm mất mặt Tây phương trước dân bản xứ. Chúng ta đã thấy vụ Mãn-noàỉ chứng tỏ
sự xung đột Bồ - Pháp về Đạo cũng như về Đời trên đất Gia Định. Xung đột còn
mãi đến 1801 khi người Bồ tố cáo L.Barizy đầu độc chủ tàu tên R.Henderson, và
làm cho Barizy phải bị tù (Chuyện từ thư của Barizy cho Letondal, BAVH,
Oct-Déc, t.380-384).
Tiết 18
ĐÁNH VÀ GIỮ Ở QUY NHƠN
Nỗi khó khăn và những phản ứng của Phú Xuân
* Chiến thuật ngoại giao của Nguyễn Ánh * Chiến trận chiếm thành Quy Nhơn *
Lòng quyết chiến của Tây Sơn ở Thang Mộc ấp của họ * Trận thuỷ chiến Thi Nại
(1801).
Chiến tranh dữ dội trong 3 tháng ở Quảng Nam trả thù những thất bại
của quân Nguyễn 24 năm về trước đã làm nức thế những người tự nhận là của phe
Gia Định ở miền này và gây khủng hoảng thêm cho triều đình Phú Xuân.
Ta đã nói đến vai trò của các cựu thần, các phiên thần nhà Lê, nhà
Nguyễn, nhưng dưới quyền Tây Sơn còn có một nhóm người mang tính cách chống đối
ngay từ căn bản tư tưởng: nhóm đạo đồ Thiên Chúa giáo. Thực ra, hoặc vì mang
tính cách xuề xoà của người Việt về vấn đề tôn giáo hoặc vì lý lẽ chính trị
không muốn gây bất mãn trong dân chúng để nhờ cậy Tây phương qua các giáo sĩ,
Tây Sơn đã từng để yên cho các giáo đồ hành đạo. Cuộc nổi loạn lấn chiếm của
Tây Sơn có một phần nào bài bác những tin tưởng cũ đã được giáo sĩ Labarlette ở
Thuận Hoá vui mừng ngóng đợi tương lai xán lạn cho tôn giáo của ông. Và cũng vì
những lẽ đó nên có giáo sĩ mới cho rằng dưới triều Tây Sơn tôn giáo phát triển
tiến bộ.
Nhưng ta lại đã nói thêm rằng dù Nguyễn Ánh, dù anh em Tây Sơn cũng
đều chia sẻ ý thức hệ Việt Nam hỗn tạp những tin tưởng Nho, Phật, Lão, Thần cho
nên sớm muộn gì cũng có xung đột với tin tưởng từ phương xa tới còn nhiều sắc
thái khá khác biệt. Cho nên, Nguyễn Nhạc đưa ra một phụng truyền bắt phá các
chùa nhỏ ở làng để lập chùa lớn mỗi tổng thì đồng thời cũng bắt phá các nhà thờ
để lấy vật liệu cần thiết cho việc xây cất kia. Lệnh bài đạo năm 1785 được tung
ra vì một xung đột nghi lễ, tục lệ. Nội dung sắc lệnh bài đạo ngày 17-8-1798
đưa lý lẽ: “Xét rằng kiến thức điều khiển quốc gia đều gồm trong tam cương, ngũ
thường (...) trong khi đạo Hoa lang lại đầy mê tín, dối gạt dân chúng và đảo
lộn trật tự xã hội”1.
Thế mà những biến động chính trị còn làm cho vấn đề phức tạp hơn.
Việc Pigneau xả thân vượt biển giúp Nguyễn Ánh đã được những thương nhân đi
Macao về nói lại2. Tây Sơn biết rõ ràng, tất nhiên họ nghi ngờ nhóm giáo sĩ
dưới quyền họ. Về phần giáo dân và những người lãnh đạo, theo khuynh hướng cục
bộ, họ cũng hướng về Gia Định3 không cần biết rằng ngay ở đó đám nho sĩ đang
chèn lấn các linh mục và đã thắng thế.
Những mâu thuẫn càng gay gắt hơn theo với tình thế. Quang Trung còn
vững chãi nên chỉ dùng để làm phương tiện bóc lột các tín đồ, bù đắp thiếu hụt
ngân sách thôi: tháng 7-1791, ông bắt giáo dân từ Phú Xuân trở ra phải nộp
10.000 cân đồng4. Đến Cảnh Thịnh thì nguy cơ đã lớn hơn. Các đạo đồ theo thời
thế đã chống đối rõ rệt. Với các nhà truyền giáo thì việc bức đạo ở Quảng Ngãi
tháng 8-1798 thực là dã man. Nhưng họ cũng công nhận rằng Lê Trung bắt một thầy
giảng là cốt để phăng lần đến tung tích cha Dominique do Pigneau gởi tới đang
lẩn trốn ở Phú Yên5. Tây Sơn nghi ngờ những người này có nhiệm vụ do thám binh
tình cho chúa Nguyễn. Cũng như linh mục Emanuel Triệu tử vì đạo trong chuyến
này vốn là người quê Tống Sơn, bái quận của nhà Nguyễn, sinh ở Phú Xuân, có cha
chết trong khi chống Tây Sơn năm 1775, có gia đình vào Đồng Nai và chính ông
cũng đã ở trong đội cận vệ của chúa Nguyễn6. Nghi ngờ của vua quan Tây Sơn nếu
không đích xác thì cũng có lý lẽ biện hộ.
Chiến thuật ngoại giao của Nguyễn Ánh cũng mang lại những tác dụng
quấy rối đáng kể. Từ lúc ở Xiêm về, ông vẫn cố giữ lấy tình giao hảo với Phật
vương để lấy thế tựa bên ngoài nhất là khi hiệp ước Versailles đã không được
thi hành. Mỗi lần đánh thắng trận, mỗi lần có rắc rối ở biên cương - như với
Chiêu-thùy Biện ở Cao Miên - ông đều sai sứ sang Xiêm với lời lẽ mềm mỏng. Sứ
bộ 16-12-1797 gồm có Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Kế Nhuận, Ngô Nhân Tĩnh7. Rồi
tháng 8 năm sau (1798) lại có sứ sang Xiêm. Quan trọng hơn cả là sứ bộ tháng 2
Kỷ Mùi (1799) xin Xiêm vương đem quân Chân Lạp, Vạn Tượng đánh vào mặt sau của
Nghệ An. Người trông coi việc vận động với Vạn Tượng là Nguyễn Văn Thoại
(Thuỵ), Lưu Phước Tường... Từ Diên Khánh, Nguyễn Văn Thành cũng dâng mưu đem
các thuyền cướp biển bắt được dâng với Thanh đế để chia rẽ với Tây Sơn. Sứ bộ
Ngô Nhân Tĩnh đi làm việc đó, thêm việc dò Lê Hoàng vào tháng 6 Mậu Ngọ (1798).
Những hành động đó đã làm cô lập thêm Tây Sơn. Nhưng phía Nguyễn
Ánh cũng gặp những khó khăn nội bộ. Loạn Ba Phủ đang còn là một thứ “tâm phúc
chi ưu” dằng dai thì tiếp đó Cai cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Phong lại “làm
phản” chiếm sóc Kha8.
______________________________________
1. Thư giáo sĩ Longer cho
Giám đốc nhà Dòng các Phái đoàn Truyền giáo, Tonkin, 3-6-1799 (A.Launay, III,
t.250.)
2. Thư Longer gởi cho
Dufresne, 1-5-1786, cho Letondal, 9-8-1786, Labartette cho Descourvières,
16-5-1788, cho Letondal, 18-6-1788 (A.Launay, III, t 162).
3. Thư Le Gire gởi cho cha
mẹ, 11-1-1796, cho Boiret từ Kẻ Lương, Thượng Cochinchine, 12-1-1796, có câu:
“Chúng tôi nóng đợi Vua tới... người ta quá hi vọng Vua từ Đồng Nai tới khiến
chúng tôi sai lầm... (A.Launay, III t 239, 240).
4. Thư Longer cho Giám đốc
Nhà dòng các Phái đoàn Truyền giáo 14-4-1792 (A.Launay, III, t.239).
5. vụ Nguyễn Bảo kể sau.
6. Giáo sĩ Labartette kể lại
(A.Launay, III t.251-256), thư Longer 3-6 kể trên.
7. Hai tờ chiếu sai của
Nguyễn Ánh, một có ghi chi tiết lễ vật, tất cả để ở từ đường họ Nguyễn Huỳnh,
xã Khánh Hậu, tỉnh Long An.
8. Thực lục q10, 13b.
Tây Sơn lo tìm cách thanh toán bên trong. Đầu tiên là vụ Nguyễn
Bảo. Nguyễn Bảo sau trận Quy Nhơn 1793 chỉ còn ăn lộc có huyện Phù Ly. Bị mẹ
già nói khích, Bảo ấm ức chờ cơ hội. Lúc đánh ra Quảng Nam, Nguyễn Ánh đã saì
người dụ Bảo tập kích Lê Trung. Thế rồi tháng 11 năm Mậu Ngọ (1798), viên Hiếu
công Phù Ly này tung quân chiếm Quy Nhơn, Lê Văn Thanh phải bỏ cả quân lính,
cạo trọc đầu, ăn mặc rách rưới, trốn chạy lên rừng.
Nguyên do tức thời của biến loạn có lẽ là vì sự khuyến khích của
Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường lúc bấy giờ vừa đến đóng ở sông Đà Rằng. Mặt
khác cũng vì rối loạn ở Phú Xuân. Trần Quang Diệu vừa bị tước hết quyền bính,
Bảo tin rằng tiến quân ra sẽ phối hợp được với quân Lê Trung, người từng chiến
đấu bên cạnh Diệu. Nhưng Quang Toản đã kịp thời sai Diệu dụ Lê Trung. Bảo phải
rút về cố thủ ở thành Quy Nhơn, sai Đại Đô đốc Đoạn Văn Cát, Đô đốc Nguyễn Văn
Thiệu đang đóng ở Hội An (Phú Yên) đưa thư xin hàng Nguyễn Ánh. Chính Quang
Toản đích thân vây thành. Cuộc công hãm kết thúc nhanh chóng vì quân trong
thành mới là của Quang Toản hôm trước nên đêm lẻn ra chỉ chỗ phòng thủ sơ hở
cho bên ngoài. Cứu binh Nguyễn Văn Thành chưa tới kịp thì Nguyễn Bảo đã bị xử
theo “tam ban triều điển” rồi. Việc này dẫn theo cái chết của Lê Trung, việc
trốn tránh của Lê Chất1 và chắc có ảnh hưởng xa gần tới cái chết của Nguyễn Văn
Huấn nữa.
Tuy nhiên quân Nguyễn có muốn thừa thế tiến đánh nữa cũng phải gặp
sức phản kháng kịch liệt của Tây Sơn vì đất từ nay họ phải chiếm là nơi phát
tích của kẻ thù. Tây Sơn đã tổ chức cả phủ Quy Nhơn thành một đồn binh rộng
lớn: dân biến thành lính, mỗi ấp chia thành đội ngũ, ai nấy đều được miễn thuế
thân để nức lòng đánh giặc. Truyền thống chiến đấu bừng trỗi dậy gây kính nể
cho quân Nguyễn. Mùa xuân 1799, trận chiến Quy Nhơn lại bắt đầu chuẩn bị ở Gia
Định. Kho tạm ở Cầu Hin chứa 169.000 vuông gạo từ Gia Định tới hợp với 22.100
vuông gạo, 53.500 vuông lúa, 3.000 cân thuốc đến năm ngoái ở Diên Khánh dành
phát cho chiến dịch. Nguyễn Văn Thành đem bộ binh đóng ở Diên Khánh trước..
Hoàng tử Cảnh được lệnh bảo Nguyễn Long giữ chặt Tam Lãnh không để lộ tin tức
ra ngoài. Thuỷ binh thì theo Nguyễn Văn Trương.
Tháng 4 âm lịch, Nguyễn Ánh đến Cầu Hin phân phối kẻ giữ người tiến
rồi theo thuyền ra cửa Thi Nại. Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh đổ bộ đóng ở Phủ
Trung; quân Thần Sách qua sông Càn Dương đánh Tây Sơn ở gò Cũ rồi chiếm đóng
suối Tre2, đe doạ Thái phủ Lê Văn Ứng. Quân Nguyễn đổ bộ mau như vậy nhờ tình
cờ lợi dụng một rối loạn nội bộ của Tây Sơn.
Nguyên Trần Quang Diệu vẫn có mối thù với Lê Văn Ứng về việc Ứng
xúi Quang Toản giết Lê Trung nên bàn với Vũ Văn Dũng: “Lê Văn Thanh là phe ta,
ta đem binh thuyền vào Thi Nại, mật ước với Thanh nghe súng hiệu ở cửa biển,
lừa Ứng rằng quân Gia Định đánh, sai Ứng một mình đến cho ta tập kích bắt”.
Diệu tâu với Quang Toản rằng Quy Nhơn là đất căn bản cần phải cho bầy tôi thân
tín giữ nên sai Ứng đi. Gặp lúc quân Gia Định ra bắn 3 phát súng, Lê Văn Thanh
tưởng binh Diệu, Dũng mới không phòng bị mà sai Ứng đi như đã bàn trước. Không
ngờ quân Nguyễn tiến chiếm cả vùng duyên hải, Thanh mới vội vã phân binh với
Ứng đón ở Thốc Lốc3, gò Dê.
_______________________________________
1. Chuyện Nguyễn Bảo tổng hợp của Thực lục q10, 16ab, 17b, Liệt
truyện q30, 17ab, 46b, 47ab, Hoàng Lê, t.279, 280, thư của Lelabousse cho Giám
đốc Nhà Dòng các phái đoàn Truyền giáo, tháng 6-1799, thư khác ngày 24-4-1800
(A.Launay, III, tr.259, 260).
Về nguyên nhân, Hoàng
Lê ghi Diệu đưa mật thư bảo Lê Trung phò Bảo. Trung đã kéo quân về đến Quảng
Nam “trong ngoài khiếp sợ”. Còn Liệt truyện cho biết nhân dịp Lê Trung vắng mặt
ở Qui nhơn, Nguyễn Bảo mới chiếm thành. Có lẽ ở Phú Xuân người ta hoảng lên vì
cuộc điều động quân của Nguyên Bảo và Lê Trung chớ chắc Trung chưa có hành động
nào rõ rệt là theo Bảo mới dám theo Diệu về ra mắt Quang Toản rồi đi vây Qui
Nhơn. Tuy nhiên, thư Lelabousse có câu “(Bảo) profitant de la division qui
était entre les grands mandarins”, ta mới có câu kết tạm như trên. Về tên người
và diễn biến, Thực lục cho Lê Trung chết ở Thuận Hoá vì Trần Văn Kỷ xúi giục
Quang Toản giết. Hoàng Lê cho là vì Thái phủ Màn, và Trung chết ở Qui Nhơn.
Liệt truyện cho Trung chết vì Lê Văn Ứng (Thái phủ Màn) dèm pha. Lelabousse
không nói đến tên, nhưng nói đến một người bị cách chức rồi bị chết thảm khốc:
“chặt 4 chân tay, chém sả đầu, bêu lên, mình đốt ra tro vứt khắp nơi”, là một
“chiến tướng có tài, lên chức cao bằng sức mình” - chắc ông chỉ Lê Trung.
Người giữ thành khi
Nguyễn Bảo làm loạn, Thực lục ghi Nguyễn Văn Hưng (Phạm Văn Hưng), Hoàng Lê cho
là Lê Trung thay Thái bảo Hóa (Nguyễn Văn Huấn) từ khi Trần Quang Diệu, Vũ Văn
Dũng giảng hoà, Liệt truyện nói Diệu xin Lê Trung giữ Qui Nhơn thay Huấn. Khi
Trung dẫn quân về Phú Xuân thì để lại thành cho Uyên Thanh hầu ở lại giúp Bảo,
Bảo nghe lời mẹ xúi và tin lời hứa của Nguyễn Ánh “tội cha không bắt đến con”
nên mới nổi lên bắt giam Thanh Uyên hầu, chiếm Qui Nhơn. Lelabousse kể chuyện viên
trấn thủ ở đó phải cạo đầu chạy trốn trên rừng, rồi sau ra lệnh giết Lê Trung
“thay mặt Thượng đế trừng phạt ông này” về tội bắt giáo sĩ(!). Riêng chứng cớ
này còn tỏ rằng Trung chết ở Qui Nhơn.
Liệt truyện dùng lẫn
lộn Uyên Thanh hầu và Thanh Uyên hầu nhưng chắc cũng chỉ một người, có thể là
Lê Văn Thanh, người được Quang Toản cho giữ Qui Nhơn khi dẹp Bảo xong (Tây Sơn
cũng từng có 2 tên Hô Hổ hầu và Đô đốc Hô chắc cũng chỉ một người). Chắc Thanh
nghe lệnh giết Trung, nhưng vẫn giữ cảm tình đồng liêu, nên che chở cho Lê Chất
khi Chất giả chết bị lộ về đầu. Mọi oán thù trút cho Lê Văn Ứng nên Thanh,
Diệu, Dũng lập mưu giết Ứng (xem sau) và sau này Lê Chất hàng Nguyễn Ánh mới
tìm Ứng đánh đuổi để lịch sử ghi lại cả ở Hoàng Lê lẫn Thực lục.)
2. Trúc Khê của Thực lục, một nhánh của sông La Tinh chảy vào đầm
Nước Ngọt.
3. ĐNNTC, tỉnh Bình Định, gọi là “Phúc Lộc”. Chữ của Thực lục là
“Ngốc Lộc, Thốc Lộc”. Hình như chính chữ là “Trọc Lóc”.
Cũng như những trận đánh trước, Nguyễn Ánh thừa thế thuỷ quân tiến
xa về phía Quảng Ngãi, sai Nguyễn Văn Trương tuần thám ngoài biển, để Lê Văn
Duyệt, Nguyễn Đức Thiện đến Tân Quan giữ núi Cung Quăng, Bến Đá, Đoạn Văn Cát
giữ núi Thái An, Vĩnh Thuận chặn quân tiếp viện của Diệu, Dũng.
Ghé đầm Nước Ngọt đốt lương, chém Đại đoàn luyện tên Giảng, Lê Văn
Duyệt đến Bến Đá cùng dân ứng nghĩa Quảng Ngãi giữ hang Tối Trời, núi Sa Lung
có dân Thượng phụ giúp bên trong. Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức tiến đến đồng Cây
Cầy đuổi Thiếu uý Trương Tấn Thuý, bắt 13 voi, đuổi theo đến cầu Tân An giết Đô
đốc Nguyễn Thực đổi tính mạng Vệ uý Hữu vệ của quân Thần Sách là Tôn Thất Nông.
Ở Phú Yên, Tham đốc Nguyễn Văn Điềm hàng Nguyễn Văn Thành.
Chiến thắng làm dao động tinh thần binh tướng Tây Sơn. Bây giờ Lê
Chất mới có dịp mang 200 quân ra hàng Võ Tánh cùng với Đại Đô đốc Vũ Đình Giai,
Nguyễn Văn Điểm, Đô đốc Lê Văn Niệm, Hồ Văn Viện, Trương Văn Lân, Đô uý Mai Gia
Cương, Nguyễn Văn Trí. Quân hàng được theo Nguyễn Huỳnh Đức ở suối Tre đánh
giặc.
Lương thực thu tại chỗ, lấy thuế ruộng của dân chưa nạp cho Tây Sơn
đem chứa vào kho Nước Mặn. Chính sách đó cũng tiếp tục trong tháng 5 khi Tây
Sơn đánh đập Cát, lui toán binh Miên (Xiêm binh). Họ phải mất 20 voi trước thế
hợp tác của lính Miên và đội chiến tượng của Nguyễn Đức Xuyên. Dân Tuy Viễn phải
theo Nguyễn Văn Thái hàng tướng từ (1793) đánh giặc, ăn lương trong số thuế
điền của 3 huyện Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn.
Tháng 6, Nguyễn Văn Thành vượt qua sông Lò Gạch (Đào Lô), chiếm Ưu
Đàm để phó tướng Trương Tấn Bảo chiếm An Giá, Đầm Sấu. Nhưng lúc bấy giờ Nguyễn
phải lo chống với tiếp viện của Tây Sơn, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng đến Quảng
Ngãi nghe Tân Quan bị chiếm bèn bỏ thuyền lên bộ. Diệu đóng ở Bến Đá để Dũng
lén đem quân qua suối nhỏ tập kích quân Nguyễn. Sử quan kể rằng quân đi trong
đêm có người la “con nai” rồi truyền đi thành “quân Đồng Nai”. Binh rối loạn để
Tống Viết Phúc đánh hôi lập được công. Thuỷ quân Gia Định lại thắng tiếp ở cửa
Mỹ Á, truy kích đến Sa Kỳ.
Trần Quang Diệu giấu tin thất bại của Dũng, rồi bỏ Bến Đá về đóng ở
Thanh Hảo chờ viện binh thuỷ của Trần Viết Kết. Nhưng Tống Phúc Lương phá được
Thống binh Phiền Văn Tài coi đám Tề Ngôi ở Kim Bồng, truy kích mãi tận Phú Yên
rồi trở lại với Tống Viết Phúc giữ chặt ngoài khơi đầm Mân Khê.
Trên đất liền, Lê Văn Ứng nghe tin viện binh đến bèn đem 6.000 quân
cùng 50 voi lên Tây Sơn thượng lấy lương, bị Võ Tánh biết được điều động Nguyễn
Văn Thành mang tướng hợp với Nguyễn Đức Xuyên, Lê Chất... đánh tan ở Kha Đáo.
Viện binh ngoài không có, lương trong thành thiếu, Tổng quản Lê Văn Thanh, Binh
bộ Thượng thư Nguyễn Đại Phác, thiếu uý Trương Tấn Thuý mang 10.300 người ra
hàng (tháng 6 âm lịch 1799)1.
Thế là căn bản Tây Sơn đã mất. Nguyễn Quang Toản ở Phú Xuân cũng
nôn nóng phải thân cầm binh vào Trà Khúc sai Nội hầu Lê Văn Lợi đem 1.000 quân
cùng 20 voi đến đầm Mân Khê. Trần Viết Kết đem 100 thuyền định tràn vào Sa
Huỳnh đánh sau lưng Nguyễn Văn Lợi lúc bấy giờ đang cố chống với Lê Văn Lợi. Bị
bão đắm thuyền, Kết bỏ quân chạy về Cổ Luỹ. Kinh nghiệm này làm Kết hết sức gàn
trở dự định tiến quân đánh nữa của Quang Toản. Kết cục Toản về Phú Xuân, Diệu,
Dũng về Quảng Nam, lưu Tiết độ Nguyễn Văn Giáp giữ Trà Khúc.
Nguyễn Ánh mệt mỏi nên cũng không đuổi nữa, chấm dứt chiến tranh
trong tháng 8 để lo tổ chức cai trị Quy Nhơn, thu dụng năng lực nhân, vật vùng
này.
Trước hết, như đã nói, đất Quy Nhơn đã được Tây Sơn biến thành một
đồn quân khổng lồ. Nguyễn Ánh làm chủ mới phải lo thi hành một chính sách nhặt
nhiệm khôn khéo. Vì chú trọng đến việc thu phục nhân tâm mà tháng trước đó quần
thần đã can ông đừng thu thuế thân là thuế Tây Sơn đã tha cho dân chúng. Tướng
Nguyễn Công Hu lên vùng Tây Sơn hiếp gái, lấy của bị đem trị tội ngay. Tiếp
theo là việc kiểm soát dân, lính. Ánh sai quân Nguyễn hợp với bọn hàng tướng
coi 6 thuộc của 3 huyện Quy Nhơn, phân hàng điểm duyệt 18.900 binh sĩ cũ. Chỉ
những người bị thương mới không vào sổ đội ngũ mà thôi. Lại có một sổ riêng cho
những người chỉ huy. Khi làm sổ rồi, ai ở đâu yên đấy, dời đổi một ấp, một thôn
đều bị tội. Như vậy tạm thời Nguyễn Ánh kiểm soát đám dân binh Tây Sơn khỏi làm
loạn. Ông lại còn dùng lợi nhử họ phản bội đồng ngũ cũ: dân Quy Nhơn ai bắt
được lính Tây Sơn người Bắc, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thuận Hoá ẩn trốn trong
thôn ấp, ngăn trở họ khỏi mưu chạy về Phú Xuân thì được miễn dao dịch. Ai chứa
chấp, biết mà không tố cáo thì bị tội.
Nhưng tinh thần chiến đấu của dân binh nung đúc trong lò Tây Sơn đã
làm cho Nguyễn Ánh thán phục. Ông lấy dân ở đây tổ chức thành Ngự lâm quân định
lập một đội quân ưu tú nữa sau các đội Thần Sách. Chính sách hơi vội vã khiến
có nhiều sơ hở. Sau này khi ra giải cứu Võ Tánh, bọn Ngự lâm quân bỏ chạy rất
nhiều để chiến đấu chống đối lại tận lực. Nhưng điều đó không tránh khỏi càng
tỏ rõ sự bao dung, sáng suốt của Nguyễn Ánh muốn mở đường cho quân địch về hợp tác,
trái hẳn với thái độ hẹp hòi của bọn tuỳ tướng như Tống Viết Phúc chẳng hạn.
Sau khi cải thành Quy Nhơn ra thành Bình Định để tuyên dương công
trận, khuyến khích tướng sĩ thấy trước thắng lợi cuối cùng, Nguyễn Ánh lo tổ
chức cai trị ở đây, sai Võ Tánh giữ thành với một vạn binh Miên (Xiêm binh)
cùng Ngô Tòng Châu, Trịnh Hoài Đức và bọn hàng tướng Lê Chất. Lúc Nguyễn Ánh
đang chuẩn bị về Gia Định thì Bá-đa-lộc chết ở Mỹ Cang2. Ánh rất thành thực khi
phong tước Quận công cho Giám mục, sai người đến đọc điếu văn. Sử quan nhân dịp
này cũng nhắc việc Bá-đa-lộc “tận tâm giúp đỡ” Đông cung Cảnh hồi đi Tây. Nhưng
cái chết của ông xảy ra vào lúc Nguyễn Ánh thắng mạnh ở cội gốc Tây Sơn đã chấm
dứt một quá khứ nhờ cậy, kêu xin. Vấn đề chính trị quan trọng còn lại chỉ là
thái độ đối với tướng cũ Tây Sơn mà thôi.
_______________________________________
1. Các giáo sĩ cho biết thành
có 40.000 quân tinh nhuệ ra hàng với vũ khí và 120 chiến tượng (A.Launay, III,
t.292).
2. Nhà thờ này ở làng Mỹ Cang
quận Tuy Phước (Bình Định).
Tháng 10 Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh ban sư về Gia Định. Việc mất
thành Quy Nhơn cũng gây ra rối loạn về phía Tây Sơn, theo lẽ thường của một
triều chính nghiêng ngửa có những kẻ giữ trách vụ nhưng không muốn đảm đương
trách nhiệm. Ở Thuận Hoá, Kiểm điểm Trần Viết Kết, Phụng chính Trần Văn Kỷ,
Thượng thư Hồ Công Diệu giả thư Quang Toản nói Quy Nhơn mất là tại Trần Quang
Diệu, đưa cho Vũ Văn Dũng bảo Dũng giết đi. Không ngờ Dũng được Diệu ém nhẹm
việc thua quân ở Quảng Ngãi, hàm ân nên mới đưa thư cho Diệu xem.
Trần Quang Diệu tức tốc kéo binh về bờ nam sông Hương vây thành. Kỷ
đổ cho Kết, trốn mất để Hồ Công Diệu chịu tội thay. Ổn thoả nội bộ rồi, việc
chính của Tây Sơn là lo lấy lại đất Quy Nhơn. Hai viên tướng nổi bật, được nhắc
nhở từ đây là Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, đến nỗi đối địch, Nguyễn Ánh
truyền rao ai bắt được 2 người ấy, Chánh quản được phong tước Công, Phó quản
thêm một hàm, thưởng tiền vạn quan. Danh tiếng Trần Quang Diệu có phần lấn át
cả Vũ Văn Dũng. Giáo sĩ De la Bissachère1 đã khen “viên tướng mà ngay ở Âu châu
người ta cũng phải coi là dũng mãnh, anh hùng”. Lực lượng dưới quyền ông tỏ ra
vững mạnh đến nỗi khi gần tàn cục vẫn còn làm cho Giáo sĩ tưởng rằng đạo quân
đó có những danh tướng chỉ cần ló mặt ra là quân Nguyễn phải rút về và đủ để
đánh tan đạo quân gấp 3 lần quân chiến thắng luỹ Thầy!
Tháng Giêng Canh thân (1800), Vũ Văn Dũng đổ bộ lên Thi Nại, Trần
Quang Diệu mang bộ binh đuổi Nguyễn Văn Biện đang giữ Bến Đá chạy về Bình Định.
Võ Tánh trong thành gọi binh Phú Vên tới. Lưu thủ Hồ Đắc Vạn đã sai người vận
lương tiền trước, nay sai thêm hàng tướng Phạm Văn Điềm cùng Sái Văn Long lấy
du binh đi trước rồi tự dẫn quân theo sau. Đêm qua Cù Mông, Điềm cùng Đô uý Đỗ
Văn Nguyệt, Ngô Văn Huyền, Đô tư Nguyễn Văn Soái, Hoàng Văn Tráng cùng các cựu
tướng Tây Sơn, quay lại chiếm Phú Yên đuổi Cai bạ, Ký lục chạy về Bình Khang.
Điềm làm hàng tướng Tây Sơn phản Nguyễn sẽ mở đường cho một loạt những hàng
tướng trở giáo tiếp theo, gây khốn đốn cho Nguyễn Ánh nhiều nhất vì cái thế
không lùi lại được của họ.
Sự trung thành này gây ra lo lắng và ngạc nhiên không ít cho phe
Nguyễn. Nguyễn Ánh giải thích là lòng nhớ quê xúi giục họ. Nhưng điều đó chỉ
hợp với binh tướng bị lôi về Gia Định chứ không hợp với hàng binh ở lại Bình
Định và Phạm Văn Điềm. Nguyên do là Tây Sơn cũng đã tạo ra một lề lối sinh sống
mà tướng binh họ còn quyến luyến. Họ hàng chỉ là thế bất đắc dĩ như trường hợp
Lê Văn Thanh sau này đã lẻn mang một thuyền trốn về Tây Sơn. Tủi nhục của kẻ
hàng đầu cũng khiến họ phải trở giáo: Tống Viết Phúc cứ thường chửi Từ Văn
Chiêu là hàng tướng đến nỗi khi phản lại, Chiêu luôn chận đánh Phúc và giết
được khi chiến thắng quân Nguyễn đã gần kề2.
Riêng ở đây, Phạm Văn Điềm đã giúp ích Tây Sơn rất nhiều. Ông tổ
chức Phú Yên trong thế tử chiến “bắt hết cả dân làm lính”, đắp 9-10 luỹ chỉ
trong mấy tháng khiến Nguyễn Đức Xuyên nghe thế mạnh không dám tiến nữa mà phải
dừng lại ở Diên Khánh.
Ở Diên Khánh, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng quyết hạ Võ Tánh. Diệu
bao vây 4 mặt từ mồng hai tết Canh Thân (26-1-1800)3. Ông sai đắp thành đất một
vòng ngoài dài 4.340 trượng để làm điểm tựa công kích. Trong ý chí quyết lấy
lại đất cũ, Tây Sơn dùng đến hình thức khích động tinh thần quân dân. Phan Huy
Ích làm bài hiểu dụ dán nơi quân thứ Quy Nhơn, đã đưa ra những câu kêu gọi đến
ý thức địa phương, khiêu gợi niềm hãnh diện làm dân đất khởi nghĩa một dòng
vua:
“Quý phủ ta: cội gốc nền vương, dậu phên nhà nước,
“Miền thang mộc vốn đúc non xây bể, mở mang bờ cõi bởi từ đây. Hội
phong vân từng dìu phượng vịn rồng, ghi tạc thể quyền dành dõi để.
“Dấu cờ nghĩa đã sáng công dực vận, buổi xe nhung thêm dong sức cần
vương.
“Mấy phen gió bụi nhọc con đòng, giúp oai võ cùng đều nhờ đất cũ.
Ba huyện đá vàng đền tấc dạ, căm cừu thù chi để đội trời chung”
Chúng ta không có tài liệu để biết về sự sôi động của dân chúng Quy
Nhơn khi Tây Sơn trở lại. Nhưng ngay chính ở đất Gia Định mà Ánh đã coi là căn
bản, khoảng hơn năm sau, L. Barizy cho ta thấy nỗi lo sợ phập phồng của tướng
Nguyễn giữa khung cảnh hiềm thù đe dọa vô hình:
“Lúc nào chúng tôi cũng trông tin Nhà Vua và mọi người ở đây đều
xao động đến cực độ, nông công binh đều lo lắng. Bọn giặc ở đây có những bè
đảng bí mật không ai hay biết và lâu lâu lại có một tin loan ra gây hoảng hốt
và làm cho dân chúng xáo động.
“Ngày 13 tháng này, lúc 2 giờ 30, lửa bắt đầu trong thành ở 5 chỗ
khác nhau, nơi kho lúa gạo, kho vải vóc, kho tơ lụa, nhà của Vua và các Hoàng
tử. Duy chỉ cháy có đồn Tả quân mà thôi”4.
Nhưng ở Bình Định, những sự kiện thuần tuý quân sự cũng tỏ rõ được
cái không khí đó. Tháng 4, hàng tướng coi Ngự lâm quân là Võ Văn Sự, Nguyễn Bá
Phong, giết tướng mở cửa Bắc ra ngoài đầu, Võ Tánh thấy mình lo đúng khi sai Lê
Chất đem quân bản bộ về Diên Khánh trước lúc bị vây, bây giờ bèn bảo bộ tướng
Ngô Văn Sở cướp lại thành, chỉ để lọt có 400 người. Để phòng hậu hoạ, Tánh sai
giết bọn hàng binh còn lại.
_____________________________________
1. Ch. B. Maybon, La relation
sur le Tonkin..., sđd, t.112, 113.
2. Liệt truyện q13, 10a. Lê
Chất (Liệt truyện, q24) cũng phải chịu cảnh nhục nhã đó tuy không thể phản bội
được: khi Bắc phạt, Chất được coi Hậu quản, phong Bình Tây tướng quân, có người
nói “Chất bình Tây thì ai bình Chất?”
3. Chi tiết theo lời dẫn bằng
chữ Nho đặt trên đầu bài dụ trích trong Quốc văn đời Tây Sơn, sđd, t.44 - 49.
4. Thư của L. Barizy gởi cho
Letondal, Marquini, 16-4-1801, dẫn bởi G.Taboulet, La geste française, sđd, t.
253, 254, bởi L. Cadière trong BAVH, Oct-Déc, 1926, t. 397-400. Taboulet trong
lời chú (1) của ông cho rằng nơi nói đến là thành Qui Nhơn, dựa trên lẽ Barizy
trong thư 16-7-1801 có dẫn thư ngày 8-5 nói chuyện lấy Tourane hôm 8-3 mà cho
ông này có tham chiến ở đây. Thực ra, thời gian viết thư 16-4, Barizy còn ở Gia
Định, mới ở tù ra. Ngày 17-5 dl, ông mới theo quân tiếp viện Gia Định ra tới
Qui Nhơn. Có lẽ ngày 8-3 là ngày âl vì tuy Barizy có viết rõ “8 Mars”, nhưng
vẫn kể chuyện trong các thư bằng ngày tháng âm lịch khi có liên quan đến trận
đánh (như chuyện đồng Cây Cầy), vì lẽ giản dị là quan, dân ta dùng âm lịch, 8
Mars tương đương với 21-1 Tân Dậu không hợp với trận đánh nào hết ở Quảng Nam.
Chỉ có 8-3 âl (20-4-1801) mới hợp với trận Tourane mà sử quan ghi vào đầu tháng
3 âl thôi. Và thành Qui Nhơn chưa giải vây thì Barizy có ở Thi Nại cũng làm sao
vào trong đó được? Thực lục q12, 16a ghi: “Cho Ba-la-di về nước, cấp 1 thuyền”
là chỉ việc cho chiếc thuyền chìm đã làm ông ấm ức chớ ông vẫn còn có mặt ở Thi
Nại ngày 27-5 như đã nói, và ở Đà Nẵng sau đó.
Nhưng bây giờ viện binh Gia Định đã ra. Đây là lần đầu tiên sử quan
xác nhận vai trò quan trọng của những người Pháp trong thuỷ quân Gia Định.
Tháng 2 năm đó, cho rằng người Hồng Mao (!?) “giỏi thuỷ chiến”, Ánh sai Cai đội
Ba-la-di họp thuyền bè, dự bị quân nhu, chiến cụ đợi lệnh. Đồng thời, lại cho
Nguyễn Văn Chấn coi Phụng Phi Đại hiệu thuyền chở 26 đại bác, có Renon phụ tá.
Tàu Long Phi của Nguyễn Văn Thắng có 32 đại bác, tàu Bằng Phi của Lê Văn Lăng
có 26 đại bác, mỗi tàu chở trên 300 người, tất cả đều sửa soạn đi đánh giặc1.
Chuẩn bị đâu đó rồi quân sĩ lên đường vào tháng 3. Những kẻ hăng
hái chắc còn nghe vang vang lời khuyến dụ “thành Quy Nhơn chỉ bắc, đạp phá
trùng vi; đô Thuận Hoá rung cờ, dẹp yên đảng nguỵ”.
Tháng tư nhuận, trên bộ, Nguyễn Đức Xuyên, Đặng Trần Thường dẫn voi
tiến đánh Phú Yên. Nguyễn Văn Trương vẫn coi thuỷ quân. Trần Quang Diệu vội vã
sai thêm Đô đốc Đào Công Giản, Đô đốc Tuấn vào La Hai, Hội An phụ với Phạm Văn
Điềm. Chỉ đợi Nguyễn Ánh đến vũng Trích sai Nguyễn Văn Thành đổ bộ Xuân Đài cầm
quân trên đất là trận tấn công bắt đầu.
Ở Phú Yên, chiến thắng tương đối dễ dàng. Nguyễn Văn Thành sai Đô
thống chế Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tấn Bửu phân binh 3 đạo đánh Đất Đỏ,
Thạch Kỳ rồi tiến về Hội An. Đô đốc Tuấn và Phạm Văn Điềm phải lui về gò Ải
Thạch dựa núi chống lại. Giáp trận với quân voi của Nguyễn Đức Xuyên, họ lui
thêm về giữ La Hai. Thành sai binh đi vòng đánh tập hậu đuổi bắt được Giản,
Tuấn. Điềm trốn thoát lên núi chờ cơ hội xuống quấy rối.
Quân Nguyễn cũng gặp khó khăn vì hàng ngũ mới kết hợp dần dần tan
rã. Thực ra binh đã trốn nhiều từ tháng tư đầu nhưng càng đi sâu vào nội địa
Tây Sơn, dân lính Tây Sơn trong quân Ngự lâm càng thấy có cơ hội để đào ngũ
hơn. Lính trốn nhiều đến nỗi Nguyễn Ánh phải lo vỗ về an ủi Lê Chất và khi cho Ngự
lâm quân tiến đến Cù Mông, ông phải sai Nguyễn Huỳnh Đức ra cầm quân cho chắc
dạ.
Tuy nhiên trong tháng năm âm lịch đường đến Bình Định đã mở. Khi Võ
Tánh nghe tin viện binh tới, bèn mở cửa Nam ra đánh một trận định liên lạc với
bên ngoài nhưng không được, thì mặt trận đồng Cây Cầy (còn gọi là Gò Cầy) bắt
đầu và kéo dài đến nửa năm.
Phải dừng lại để điểm xét địa thế của vùng phía nam thành Chà Bàn,
nơi xảy ra trận chiến quyết liệt, nhiên hậu chúng ta mới theo sát cuộc so tài
này. Đường đi từ Phú Yên ra có hai lối. Một men theo gần biển qua đèo Cù Mông
dọc thung lũng sông Phú Huề, từ đó có thể đến đồng Bình Thạnh, Phú Trung ở mặt
sau Thi Nại để lên Thành. Về phía tây, nơi thung lũng của hai sông La Hai đổ
xuống phía nam (Phú Yên) và sông Hà Thanh ngược hướng đông bắc (rồi đổ vào đầm
Thi Nại), có đường thông thương ngày nay làm đường liên tỉnh và thiết lộ. Vẫn ở
phía tây, các khe nguồn hợp nên sông Kỳ Lô có những ngõ ngách giữa núi Chúa,
đồng Cây Cầy, nơi quân Nguyễn - Tây Sơn đang giằng co nhau, nơi mà lần nào tiến
quân ra, quân Nguyễn cũng phải tử chiến mới xô đuổi được Tây Sơn để uy hiếp
thành Chà Bàn.
Lúc mới tấn công trên đất Bình Định, Nguyễn Văn Thành sai Nguyễn
Đình Đắc, Lê Chất đi hai bên, Trương Tấn Bửu đi giữa để ông cùng Nguyễn Đức
Xuyên đem voi ứng tiếp đánh núi Lão Hương. Tây Sơn lui về núi Chúa, nhưng viện
binh của họ tới tăng tinh thần binh sĩ. Nguyễn Văn Thành đổ ra đánh từ mờ sáng
tới trưa. Rốt lại chỉ làm cho Nguyễn Văn Sử chết, tướng nản. Lương Văn Cương,
Nguyễn Văn Vân2 đang trông coi Ngự lâm quân mang cả 200 thuộc binh chạy về phía
Tây Sơn để tiếp tục chiến đấu.
Lúc này, Tây Sơn cũng bối rối ở Nghệ An. Ta đã biết việc Nguyễn Văn
Thụy (Thoại), Lưu Phước Tường, Nguyễn Hoài Châu, Lê Văn Xuân đem 150 người dụ
Vạn Tượng đánh sau lưng Nghệ An. Phái bộ đi từ tháng 4 năm ngoái, đến Viên-chăn
vào lúc Nguyễn Ánh sắp rút về nên vua Lào không quyết tâm giúp. Tháng 3 năm
nay, Thụy lại về Gia Định xin thêm người, đến tháng 6 thì đem binh tràn xuống
Nghệ An đánh Nguyễn Đình Lạc ở Đồn Bố, đuổi Phò mã Nguyễn Văn Trị ở Đồn Lam
chạy về Thanh. Chiến dịch có lẽ không lấy gì làm dữ dội, nhưng có tiếng vang
lớn vì đánh ngay trong nội địa Tây Sơn. Các thổ hào, phiên liêu như Hà Công
Thái ở Thanh Hoá, Phan Bá Phụng ở Hưng Hoá cùng khắp nơi Bắc Hà nhân dịp này
nổi dậy đánh phá.
Ở Bình Định, Tây Sơn vẫn chưa bị lay chuyển. Nguyễn Ánh thấy đồng
Cây Cầy vững chắc muốn chuyển mũi dùi tiến quân về dưới đồng bằng. Ông sai Lê
Văn Duyệt với Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành mon men ra Phú Trung. Thực lực không
đủ, ông mới đưa thư bảo Nguyễn Văn Thành chia một nửa voi đi gặp Duyệt. Thành
không chịu vì một mặt ông phải lo đối phó với Tây Sơn đang biết rõ ông vì hàng
ngày vẫn có người bỏ qua bên kia, mặt khác ông phải lo kềm giữ chính quân ông
vì “bọn ở lại cũng không đủ tin”.
Chiến trận càng kéo dài thì tinh thần binh tướng càng lung lay,
nhất là ở những phần từ chưa đồng hoá. Tháng 7, hàng tướng coi Ngự lâm quân là
Từ Văn Chiêu làm phản với Nguyễn Văn Điểm cùng 500 thuộc binh. Tây Sơn lại được
thêm một viên tướng có tài, liều lĩnh, ngăn chặn không biết bao nhiêu trận tấn
công của Nguyễn. Ánh phải vội vàng an ủi Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức,
Nguyễn Văn Trương. Nhưng cũng không ngăn được 150 quân Ngự lâm nữa trốn đêm ở
Hội An, Ánh gượng giải thích: “nhớ quê, nhớ nhà, ai lại không vậy”.
Chưa hết bối rối cho Gia Định. Nơi đồng Cây Cầy. Thành sai người
đến núi Chúa chôn thuốc nổ đốt, nhưng không lui được giặc mà còn làm chết thêm
Nguyễn Công Trọng. Khi Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng nghe chuyện Nghệ An, muốn
kéo binh đánh rốc một lần ở núi Hoa An nơi mà Lê Văn Duyệt vừa đuổi Tư khấu
Định tháng trước, thì viên tướng Miên Cao-la-hâm-sâm của Thành lại tư thông với
Tây Sơn khiến Ánh vội vã trả lại cho Thành tướng Nguyễn Đức Xuyên (vừa đem voi
và Lê Chất xuống) để đổi quân Miên về giữ Cù Mông.
_____________________________________
1. Thực lục, q12, 4b, 5a.
2. Không phải Nguyễn Văn Vân,
con Nguyễn Văn Trương, bị bạt gió năm 1793, về năm 1797. Nguyễn Ánh tổ chức 5
đồn quân Ngự lâm quân, lấy hàng tướng chỉ huy lính cũ Tây Sơn, dưới quyền tướng
Ánh. Trong danh sách có tên Lương Văn Chương, nhưng không có Nguyễn Văn Vân, vì
ở đây (Thực lục q11, 10a 0 12b) chỉ liệt kê Đô thống chế, Thống chế đồn,
Trưởng, Phó chi mà không nói đến Trưởng hiệu, cấp bực của Vân. Trưởng hậu chi
của Vân là Nguyễn Văn Lân.
Chiến tranh dằng dai thì vấn đề lương phạn, tiếp tế đạn dược phải
gặp nhiều rắc rối, bất ngờ. Tây Sơn bị Nguyễn Văn Trương cướp mất ở Đề Di 3 vạn
vuông lúa cùng thuốc đạn, khí giới chở từ Thuận Hoá, Bắc Hà vào trên 150
thuyền. Thống lãnh tên Thụy bỏ thuyền lên bộ chạy báo tin chẳng lành cho Diệu.
Nguyễn Ánh cũng gặp trở ngại. Ông có lương ở kho Diên Khánh, phụ
thêm ở phủ Thuận Thành, ở kho La Hai, Hội An (đánh thuế điền, đinh nơi lính,
dân Phú Yên), ở kho các nơi khác bằng cách lấy trước thuế năm sau. Lương chở
đường thuỷ thường gặp các thuyền Tề Ngôi cướp phá. Từ khi Trần Quang Diệu vào
Quy Nhơn thì đội thuỷ quân đặc biệt của Tây Sơn này đã lảng vảng vào đến tận
Hòn Khói. Họ lẩn lút trên mặt biển cướp thuyền, thuốc đạn vật dụng của Nguyễn
Văn Yến chở từ Cầu Hin đi. Họ chân đánh thuyền chở cá muối của Bình Thuận. Một
mối cản trở khác chờ đợi Nguyễn Ánh là các luồng gió bấc: trong tháng 10,
thuyền lương chở qua vũng Ma Văn (vũng Nại, Ninh Thuận) bị gió lớn lật úp, chết
hơn 100 người, hao hơn vạn quan tiền, 4 vạn vuông gạo.
Thiếu lương, Ánh sai Lưu Tấn Hoà đi Bình Thuận, Bình Khang thu thuế
với lời dụ đặc biệt: “cứ tuỳ tiện làm việc không nệ nơi lệ thường”. Cần gạo,
Ánh tính lấy gạo cả nơi người Thượng ở Đồng Hương nữa. Tháng 11, điền tô tăng.
Khó khăn như vậy không trách trong tháng 9 khi Lê Văn Thanh trốn đi, Vệ uý Hồ
Văn Huệ bị Tây Sơn bắn chết ở núi Chúa, Nguyễn Đức Xuyên đã dâng sớ xin dừng
binh chờ sang lăm gió hơi thuận sẽ đánh.
Nhưng một may mắn đã đến với quân Nguyễn. Nhờ hỏi dò dân Thượng
biết được có đường đi vòng đánh tập hậu, Nguyễn Văn Thành xin thêm Tống Viết
Phúc và Lê Văn Duyệt. Nguyễn Ánh đẩy Lê Chất về La Hai và cho tin quân Cù Mông
chuẩn bị. Ngày 5-1 (1801), trận đánh xảy ra: Lê Văn Duyệt mặt trước, Nguyễn Văn
Thành mặt sau, quân Nguyễn tấn công với một đội súng thuần thục và độ 20 đại
bác cỡ nhỏ bắn gần được. Tây Sơn phải bỏ chạy đi nguồn Cơ, Đô đốc Hoan bị giết.
Tiếp tục truy kích, quân Nguyễn gặp Tây Sơn góp quân lại đánh ở Tuần Dã (đồng
Vòng?) ngày 11-1.1 L. Barizy đếm số địch quân đến 223.000 người. Thật quá
nhiều. Viên tướng chống đối là Từ Văn Chiêu đã bày tỏ gan dạ Tây Sơn. Họ đánh
rất dữ nhờ chiếm được địa thế tốt, chỉ phải chịu thua vì súng lớn, súng nhỏ của
quân Nguyễn thôi. Chiêu thua bỏ chạy để Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành mở tiệc
ăn mừng, quá hăng say chiến thắng, khích bác nhau, để hiểm thù kéo dài mãi về
sau.
Những trận tiếp theo chỉ là những cuộc thanh toán nhỏ, Nguyễn Văn
Thành đến đồng Dài sai Tống Viết Phúc đánh núi An Tượng. Tiếp theo là các trận
Đầm Sanh, Sơn Chà. Tây Sơn bỏ từ núi Đá Mài đến Hoa An, Hoa Lục. Như vậy 2 đạo
binh Cây Cầy đã thông được với nhau. Họ đóng binh dọc sông Hà Thanh, từ Quán
Rạp đến Vân Sơn. Thành Bình Định bị vây tính gần tròn năm. Lực lượng Gia Định
tuy đã tiến nhiều nhưng không đủ uy hiếp mặt sau của Thi Nại nên một số quân
quan trọng của họ còn kẹt ngoài khơi với 91 thuyền và 50.000 người2. Bộ, thuỷ
Tây Sơn còn đóng ở Thi Nại cản đường quân Nguyễn Ánh đổ bộ lên, và đe doạ phía
sau lưng quân Nguyễn Văn Thành nữa. Nhìn vào bản đồ vụng về của L. Barizy vẽ
rồi so sánh các tài liệu khác cùng địa thế thực tế, ta thấy vị trí chống đánh
của hai đối phương trước của Thi Nại. Đường nước bên trong đầm đã hẹp mà Vũ Văn
Dũng đem hai chiếc Định quốc Đại hiệu thuyền chở từ 5 đến 60 khẩu đại bác chắn
ngay cửa với dày đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ hơn, 100 ghe chiến đậu
san sát đến cửa sông đưa vào Nước Mặn. Ông còn đặt đại bác trên núi Tam Toà,
trên đất liền, bãi Nhạn (phía thành phố Quy Nhơn bây giờ) dựa vào núi cao chĩa
xuống bảo vệ đoàn thuyền trấn giữ. Trên bộ còn hơn 60 voi với quân lính.
Nguyễn Ánh lúc bấy giờ đang ở hòn Nần3. Từ tháng chạp Canh Thân
(15-01 - 12-02-1801), ông đã dự tính sắm sẵn thuyền nhỏ, chất đồ dẫn hoả rồi
móc lấy thuyền Tây Sơn đốt. Tống Viết Phúc xin đảm nhận việc đó. Ánh báo cho
Thành biết mưu tính để hợp lực ngăn chặn bộ binh không cho tiếp cứu. Theo ý
Thành, Lê Văn Duyệt được cử thay Phúc. Tướng sĩ lâm trận được khuyến khích bằng
một lời dụ: “Đây là lúc các người báo đền ơn nước, sống thì phú quý đồng hưởng,
chết thì ân điển chẳng quên; anh em trong quân, nếu anh chết em lên thay
chức…”. Sử quan cũng ghi thêm rằng: “mọi người đều nức lòng đánh giặc”.
_______________________________________
1. Thời điểm “21-11 âm lịch”,
“27-11 âm lịch” là của Barizy trong bức thư kể sau.
2. Theo ước lượng của L.
Barizy trong bức thư gởi cho Letondal ngày 11-4-1801. Đáng lưu ý là Barizy
không có dự vào trận Thi Nại. Cũng trong thư này ông phàn nàn về việc bị các
quan bắt đóng gông, nhưng hai tháng sau ông đã có mặt ở Quảng Nam trong đoàn thuyền
với Chaigneau, Vannier, de Forçan...
Trận Thi Nại sắp kể đây dựa vào các tài
liệu: Thực lục q13,3b-6b, thư của Chaigneau (có dự trận) cho Barizy, 2-3-1801,
ngay ngày sau lúc đánh nhau, thư của Lelabousse cho Nhà Chung từ Nha Trang,
20-4-1801 (G. Taboulet, La geste française..., sđd, t. 259, 260. Thư Barizy kể
trên L.Cadière “Les Francais au service de Gia Long - II - Leur correspondance”
BAVH, Oct - Déc 1926, t,373- 391) có kèm bản đồ vẽ cửa Thi Nại.
Về thực lực đôi bên, Barizy đã ước lượng
Tây Sơn như sau: 1.800 thuyền với 6.000 khẩu đại bác? Ta phải ước giảm bớt vì
nhớ rằng Barizy không dự trận và vốn có tính dễ xúc động. Chaigneau viết thư
cho ông chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên vì khả nàng chống cự của thuỷ quân Tây Sơn thôi.
Lelabousse kể chuyện có những điểm sát với Thực lục. Ví dụ ông đã chỉ đích trận
từ 10 giờ đêm đến 10 giờ sáng, việc thuyền Nguyễn nhờ đêm tối và gió tiến đến
gần thuyền địch đốt cháy theo kế hoả công.
3. Sử quan viết là Nan Dự.
ĐNNTC, tỉnh Phú Yên gọi là Bàn Than Dự, và còn chỉ thêm một hòn đảo khác tên là
Than Dự trên có khắc chữ “nan” “không biết từ thời nào”. Hòn Bàn Than và hòn
Nần là một vì đều được xác nhận là một hòn đảo bên trong vùng Cù Mông, có miếu
Công thần. Nguyễn Ánh ở đó điều khiển quân tướng tránh được sóng gió mà cũng
cách biệt với quân thù hơn. Duy lúc đánh trận Thi Nại thì chắc ông phải dời ra
đóng ở hòn Đất ngoài cửa biển Qui Nhơn. L. Barizy chỉ “Ile ông Datte”,
L.Cadière gọi theo âm đọc “hòn Đạt” là sai. Đó là một trong 3 hòn: hòn Khô, hòn
Đất, hòn Ngang (Khô dự, Thổ dự, Hoành dự) của ĐNNTC. q9, 15b.
Chiến trận xảy ra vào đêm 16 tháng giêng Tân Dậu (28-2-1801). Tiền
chi Hoàng Văn Khánh đem bộ binh lén đến Vũng Dừa đợi ở Tiêu Cơ lửa cháy thì
tiến lên công hãm trại giặc và đi vòng núi mai phục để cản tiếp viện (theo vùng
đèo Son bây giờ?). Quân Nguyễn qua Tiêu Cơ bắt được thuyền tuần Tây Sơn, truy
ra khẩu hiệu. Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương bèn đem thuyền nhỏ nhắm Hổ Cơ
xông vào, đốt thiêu thuỷ đồn làm hiệu.
Và trận tấn công bắt đầu. Theo Lelabousse, quân Nguyễn chỉ dùng có
4.000 người trên 26 ghe chiến và 100 thuyền nhỏ. Lúc đó quân Nguyễn Văn Trương,
Tống Phúc Lương đã đổ bộ rồi. Các ghe chiến còn lại chở ông Tổng thuỷ “to
họng”1 Võ Di Nguy đi trước.
Quân lính “thừa đêm tối và gió xuôi, tiến vào tàu thứ nhất, nhảy
lên đốt phá. Họ xông vào cửa biển, ném vung các bó đuốc và đổ dẫn hoả ra”. Thế
rồi trận đánh trở nên dữ dội. Quân Tây Sơn từ trên núi và từ các tàu bắn vãi
đến. Hà tiện lời như sử quan mà cũng tả ra là “tiếng súng vang trời, đạn bay
như mưa”. Võ Di Nguy trúng đạn ngã lăn ra chết. Lê Văn Duyệt không quay đầu
lại, đánh mạnh hơn đến Nguyễn Ánh bảo lùi cũng không chịu. Đám sĩ quan Tây
phương: Chaigneau, Vannier, de Forçan đưa các ghe chiến vào rồi quay lại bảo vệ
Nguyễn Ánh khi trận chiến xảy ra. Nhưng nóng lòng, sốt ruột, máu chiến sĩ nổi
lên, de Forçan lẻn đi trong đêm tối, tự mình đốt được 7 ghe chiến địch. Chiến
trận kéo dài 3 giờ sáng đến đứng trưa 1-3-1801 (“Dần tới Ngọ” của Thực lục).
Thuyền Tây Sơn cháy tan, nhưng họ còn cố chống giữ trong các giàn súng tới khi
cuối cùng đám cháy lan đến các thùng thuốc súng làm nổ tung hết lên. Như lời
Chaigneau báo cho Barizy biết chiến thắng, “ta đốt hết cả thuỷ quân giặc, không
sót một chiếc thuyền nhỏ nào”.
Ông thấy rằng “người Nam chưa bao giờ phải đánh trận dữ dội như
vậy” và sử quan cũng không quên kết luận: “Người ta gọi trận này là đệ nhất vũ
công”.
Ngày đó, Nguyễn Ánh đổ bộ lên chợ Giã3, ra dụ chiêu an rồi sai
người đi báo cho Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận biết. Ông lại bảo Gia Định
truyền sứ cho tin đến tận Cao Miên, Xiêm La. Tuy vậy, Ánh cũng mất đến hơn 600
người. Tướng thì ngoài Võ Di Nguy còn có Cai cơ Hoàng Văn Định, Phó Tiền thuỷ
dinh và Phó Vệ uý Nguyễn Vĩnh Hựu của đạo Thần Sách.
Phía Tây Sơn, họ “chống giữ đến chết” như Chaigneau nói, cho nên
toàn bộ thuỷ quân đều bị tiêu diệt. Từ nay họ không còn chút uy thế nào trên
mặt bể nữa, trước cả khoảng tháng 4 âm lịch khi Đông hải vương Mạc Quần Phù
cùng các tướng bị bắt lúc bị gió dạt ngoài khơi Thi Nại. Họ hoàn toàn không
kiểm soát được mặt bể để tha hồ cho thuỷ quân Gia Định tung hoành ra lấy Phú
Xuân mà không sợ một lực lượng lưu động nào theo kịp ngăn trở nữa. Trần Quang
Diệu còn bức được Võ Tánh chết, nhưng sự thực đám quân tướng Tây Sơn ở đây mấy
tháng sau phải tan rã trên rừng chính vì không thể nào di động theo các đồng
bằng dọc biển mà không có yểm trợ của thủy quân, chính vì sự tan vỡ ở trận Thi
Nại này vậy4.
______________________________________
1. Biệt hiệu của người Tây
gọi Võ Di Nguy, theo Barizy. Cũng Barizy cho biết người ở tiền tuyến là “ông
Yun koun” (Giám quân) mà Cadière chỉ là Phạm Văn Nhân, người giữ chức Giám quân
của 5 đội quân Thần Sách (Thực lục, q10, 8a). Thực ra, Nguyễn Ánh đã cắt Nhân
nằm ở Cù Mông. Người ở tiền đạo, như ta đã biết, là Nguyễn Văn Trương và Tống
Phúc Lương. Nguyễn Văn Trương có hồi cũng làm Giám quân dinh Trung thuỷ, rồi
coi dinh Trung thuỷ, kiêm cả Tiền, Hậu thuỷ (Thực lục, q7,26b), coi cả thuỷ
quân suất các chiến dịch về sau. Cho nên, ông Giám quân Barizy nói ở đây là
Nguyễn Văn Trương vậy.
2. L.Barizy còn viết thư ngày
11-4-1801 nhận Nguyễn Ánh mất 4.000 người, Tây Sơn mất 50.000 người, toàn bộ
thuỷ quân và thuyền bè chuyên chở trên 1.800 chiếc, 6.000 khẩu đại bác. Tưởng
chỉ nên lưu ý đến tính cách tiêu diệt hoàn toàn thuỷ quân Tây Sơn mà thôi.
3. Barizy ghi tên trên bản đồ
đầm Thi Nại là “port de Qui nhon autrement Choya” (Chợ Giã). Thị xã Qui Nhơn
hiện vẫn thường được dân quê gọi nôm na là “Giã”, tên một thứ thuyền, lưới bắt
cá dân chài thường dùng.
4. Tiết này, ngoài những
chứng dẫn khác có ghi rõ, đều lấy từ Thực lục q10, q12, q13, 1a-6b.
Tiết 19
CHIẾN TRANH Ở PHÚ XUÂN VÀ BẮC HÀ
Cuộc tử thủ của Tây Sơn ở Quy Nhơn và ý kiến giải vây cho nơi này *
Trận chiếm Phú Xuân * Cố gắng tuyệt vọng của Tây sơn ở Quy Nhơn và luỹ Thầy *
Kết thúc chiến tranh ở Bắc Hà.
Chiến thắng Thi Nại làm nhẹ bớt nỗi “uất uất không vui” của Nguyễn
Ánh. Nhưng lực lượng bộ binh của Tây Sơn vẫn còn nhiều hùng khí. Khi Ánh sai Lê
Văn Bản đem quân đi hai vũng Nồm, Bấc đóng giữ tuần phòng thì Vũ Văn Dũng đã
hợp với Trần Quang Diệu chia người trấn giữ: Tư khấu Định đóng ở Bến Đá, Đô đốc
Nguyễn Văn Ngũ giữ đầm Nước Ngọt, Đô đốc Vũ Văn Sự trấn Tân Quan ở giữa. Hàng phòng
vệ ấy dùng để cản sao cho họ rảnh tay công thành sau khi họ đã tụ tập quân lính
thề chiếm lấy cho kỳ được.
Quân Nguyễn nhân đà thắng cũng muốn tiến lên phá vỡ vòng vây cho Võ
Tánh. Nguyễn Văn Thành sai Tống Viết Phúc đóng ở Càn Dương. Binh Tây Sơn đánh
giết Vệ uý Trần Văn Xung ở chợ Chánh Lộc. Quân Phúc kéo đến thì Tây Sơn lui.
Rượt đuổi đến Thạch Cốc1, Phúc rủi gặp kẻ thù. Đô đốc Từ Văn Chiêu vẫn hậm hực
về tiếng gọi “hàng tướng” của Phúc, có dịp để trả thù bằng một trận phục binh
chiến thắng lớn lao. Phó Đô thống chế Phạm Văn Cơ, Vệ uý Nguyễn Văn Tri bị bắt,
hai Vệ uý Hoàng Phúc Bảo, Hoàng Văn Tứ bị giết khiến Phúc phải bỏ quân chạy về
Thi Nại. Như vậy rõ ràng chiến thắng thuỷ trận mới đó chưa đủ làm điên đảo Tây
Sơn trên bộ.
Mọi người hoang mang. Lúc bấy giờ chính ai đã đề nghị ra đánh Phú
Xuân để không những cứu gỡ cho tình thế mà còn làm cho chiến thắng trở nên
quyết định như lời De la Bissachère? Theo ông này, Nguyễn Ánh bị thúc đẩy bởi
các tướng Bắc Hà đang chán nản vì phải đánh lâu quá bắt đầu muốn bỏ rơi ông và
cũng được vài người Pháp khuyến khích, nói rằng đánh ra Phú Xuân vẫn là ý kiến
của Giám mục d’Adran. Với sử quan thì người bày mưu đó với người đề nghị đốt
Thi Nại cũng là một: Đặng Đức Siêu, người Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn, đồng hương với
chúa Tây Sơn2. Họ cũng có ghi thêm ý kiến của Võ Tánh, nhưng ta có thể coi lời
Võ Tánh như một sự chấp nhận hy sinh hơn là một sáng kiến. Vinh dự đó có lẽ để
dành cho mưu thần Việt thì phải hơn vì cái thế “vây Nguỵ, cứu Triệu” đầy dẫy
trong binh pháp Đông phương.
Cho nên, sau khi lên Vân Sơn coi đồn trại địch một ngày rồi về3,
bắt đầu tháng 2 âm lịch, Nguyễn Ánh sai Cai cơ Tống Phúc Chu về Gia Định hợp
với Lưu trấn ở đó là Nguyễn Văn Nhân tuyển thêm một vạn binh, nếu cần bắt cả
lính đồn điền. Rồi cũng có việc xét dân bắt lính ở Phú Yên, Bình Khang, Bình
Thuận. Ánh có nói rõ mưu mô dự tính cho Nguyễn Văn Trương để đem binh thuyền
đánh Quảng Nam, Quảng Ngãi trước.
Nhưng cuộc vét dân đã gây phản ứng về phía dân chúng. Phạm Văn Điềm
chạy lên rừng từ hồi quân trong mới kéo ra, nay tụ tập được 500 bộ đảng đánh
đốt Hội An, đuổi Lưu thủ Phan Tấn Tuấn chạy ra Xuân Đài nhờ cậy thuỷ binh của
Tống Viết Phúc, Nguyễn Đức Xuyên được phái tiếp viện.
Mối loạn Phạm Văn Điềm là khó khăn mới cho Nguyễn Ánh, dằng dai,
làm nhọc mệt quân Nguyễn không ít. Trong tháng ba, đánh rồi chạy, chạy rồi lên
đánh Điềm đã quấy rối Phú Yên trước mặt danh tướng Lê Chất. Lưu Tấn Hoà giữ Hội
An bị Điềm lén đốt phong hoả đài tuyệt đường thông tin, đánh úp giết chết.
Nguyễn Long đóng ở La Hai định chiếm lại Hội An lại bị đánh lén phải bỏ cả
lương phạn, khí giới chạy về sông Đà Rằng. Tội nghiệp cho viên Thượng đạo tướng
quân 20 năm trên rừng, mới làm chỉ huy lần đầu đã phải bại vong. Lê Chất ra
tay, hợp binh với Hoàng Văn Khinh người thay Long, tiến đánh bắt Đô tư Nguyễn
Nhiễu ở bến Gạo (Mễ Tân). Điềm bỏ chạy lần nữa nhưng vẫn còn sẽ gây khó khăn
trong tỉnh, sau lưng quân Nguyễn Văn Thành.
Trong lúc đó thì tiến triển thuỷ quân Nguyễn vẫn khả quan. Nguyễn
Văn Trương đổ bộ Cổ Luỹ, đốt kho Trà Khúc đuổi Đô đốc Tuấn chạy, rồi ra cửa Đại
Chiêm đánh Hội An, Phú Triêm bắt 24 voi. Ở La Qua, ông đuổi Đô đốc Nguyễn Văn
Xuân, Lưu thủ Thiếu uý Lưu Tấn Thể lấy hơn 80 đại bác, binh thuyền, khí giới4.
Nghe tin, Nguyễn Ánh phái thêm Tống Viết Phúc đem 1.000 binh và 30 ghe chiến
đến giúp. Ông còn cho cả Phạm Văn Nhân lãnh 3 chiếc Long, Phượng, Bằng trong
đội cận vệ của ông ra Đà Nẵng.
Để việc rút quân khỏi tiết lộ, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Công Nga đem
15 thuyền ngày đêm tuần tiễu từ cầu Tân Hội tới Nước Mặn, từ sông Tam Kỳ (?)
tới sông Dinh, Gò Bồ (Phù Sa), cấm dân chúng lai vãng, xầm xì tin tức.
_______________________________________
1. Có Thạch cốc tự, gọi nôm
là “chùa Hang” nổi danh, thuộc xã Mỹ Hoà, quận Phù Mỹ, Bình Định.
2. Liệt truyện, q10, từ tờ
6b, truyện Đặng Đức Siêu.
3. L.Barizy trong thư
11-4-1801 dẫn việc Nguyễn Ánh có mặt ở trận “Dung thi” (Đồng Thi, đồng Cây Cầy)
tháng 11, 12 âl năm ngoái, “tay mang ống viễn kính”. Barizy lúc bấy giờ còn ở
Gia Định, mới vừa ra tù nhờ lệnh hoàng tử Cảnh trước khi chết (20-3-1801),
không biết có được tin đích xác không. Vì sau trận đồng Cây Cầy, Vân Sơn thuộc
về quân Nguyễn, nhưng Thi Nại chưa bị phá, Nguyễn Ánh có bỏ hòn Nần lên bộ thám
sát không? Cho nên chuyện lần này có vẻ đáng tin hơn chuyện lần trước.
Còn địa điểm Vân Sơn theo lời tả của
ĐNNTC, tỉnh Bình Định, mục “Vân Sơn giang” thì chắc là vùng Vân Hội, quận Tuy
Phước (đã nói) chớ không phải gò Vân Sơn (có nhà ga cùng tên), gần Chà Bàn, nơi
nổi tiếng nhờ Chế Lan Viên ngồi khóc dân Chàm.
4. Thư Barizy cho các ông
Marquini, Letondal, 16-7-1801 (BAVH, Oct - Déc 1926, t. 401) kể trận đánh lấy
Huế, có nhắc trận Đà Nẵng hôm 8-3 lấy 30 voi, 84 đại bác, kho gạo, áo quần. So
với số súng và voi thu được với Thực lục ở đây, ta chắc 2 trận của 2 tài liệu
chỉ là một.
Ngày 27-5-1801, binh thuyền
Gia Định tới Quy Nhơn với 10.900 bộ binh, trên 27 ghe chiến và nhiều ghe trí
súng1. Quân ở vài ngày, Ánh đưa mật thư bảo Võ Tánh lén bỏ thành chạy ra và
đồng thời tuyên lệnh ban thưởng cho những người nào bắt được vua tôi Quang
Toản. Ngày 3-6, quân Ánh rút đi sau khi đốt lửa ở núi Một báo tin cho Nguyễn
Văn Thành ở Vân Sơn biết và để giã từ viên Phò mã Hậu quân, người anh hùng cuối
cùng của Gia Định Tam kiệt. Ngày 7-6 quân đến Đà Nẵng, Ánh sai Nguyễn Văn
Trương, Phạm Văn Nhân đem thuyền đi trước đến cửa Eo (Noãn khẩu, cửa Thuận An).
Trận đánh Phú Xuân bắt đầu2.
Tám giờ sáng ngày 11-6, thuỷ quân Nguyễn đến dàn trước mặt cửa sông
Hương chia làm 2 đạo: các tàu và thuyền trí súng dưới quyền Phạm Văn Nhân hướng
vào cửa Thuận An, 42 ghe chiến và 300 ghe nhỏ chở 15.000 bộ binh theo Nguyễn
Ánh, Lê Văn Duyệt, Lê Chất nhằm vào cửa Tư Hiền (Tư Dung, hay nôm na, cửa Ông
theo bản đồ của Barizy). Người giữ cửa là Phò mã Nguyễn Văn Trị đóng trên núi
Quy Sơn (núi Linh Thái) với 10.000 người dựa thế hàng cọc gỗ đóng chặn bên bờ
sông ngăn ghe thuyền địch.
Năm giờ sáng ngày 12, cuộc tấn công bắt đầu. Binh Tây Sơn trên núi
cao bắn xuống rất dữ, các ghe thuyền lại mắc phải cọc chìm khá nhiều. Trận
chiến kéo dài đến suốt ngày (từ Thìn tới Dậu): 7 giờ sáng tới 5 giờ chiều. Lê
Văn Duyệt bàn với Lê Chất rằng không đánh tập hậu không được. Đêm đến, ông đem
20 thuyền lén vượt bờ cát, trước sau ập lại, bắt được Nguyễn Văn Trị cách đồn
độ 500 thước. Đô đốc Phan Văn Sách cùng 500 người phải hàng.
Trong lúc trận chiến tiếp diễn ở cửa sông thì trên Kinh thành một
âm mưu nội tuyến của giáo đồ bị tiết lộ3. Một người thợ mộc ở Phú Xuân đã lén
thuyết phục Nguyễn Ánh rằng các giáo sĩ và giáo đồ có thể giúp ông được. Ông
bèn gửi thư cho Giám mục (có lẽ Labartette) và các giáo sĩ báo tin quân ông đến
và xin các ông này cầu nguyện cho. Lúc trở về người thợ mộc bị bắt và khai tất
cả. Dưới sự thúc đẩy của Nội hầu Lê Văn Lợi (Barizy viết “Hoe Hanh Loi”: Lê Văn
Lợi, hay “Noé haw Loée”: Nội hầu Lợi), một lệnh truyền tru diệt những người
Thiên Chúa giáo trong vùng được tung ra ngày mồng 5 - 5 (tết Đoan Ngọ), nếu
quân Nguyễn Ánh không vừa tới kịp4.
Trong sông, quân Nguyễn gặp một số tàu trong 64 chiếc từ Bắc vào
tiếp viện dưới quyền một viên Tư mã mà Barizy gọi là “Noe”. Hai mươi bảy thuyền
có trí súng của Tây Sơn có mang cờ lụa đỏ tiến đến ngăn chặn đội thuyền Phấn
Dực, chỉ trong phút chốc đã bị đánh thua chạy. Ba giờ chiều mồng ba tháng 5,
ghe thuyền quân Nguyễn vào bến Phú Xuân5. Quang Toản vội vã mang vàng bạc, bỏ
cả sắc ấn nhà Thanh lại để chạy cốt thoát lấy thân với em là Thái tể Quang
Thiệu, Thái sư Quang Khánh cùng Đại tư mã Tứ, Đô đốc Trù. Ở lại hàng có Nội hầu
Lê Văn Lợi, Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ cùng các Phụng nghi, Thị lang bên văn,
Đô đốc, Đô tư bên võ. Barizy đi thăm người bị bắt thấy có mặt mẹ Trần Quang
Diệu, em vợ ông, vợ Vũ Văn Dũng với các con Ngọc Hân mà ông không tiếc lời khen
ngợi vẻ mặt ưa nhìn cùng thái độ cứng cỏi của họ (đây là Quang Cương, Quang Tự,
Quang Diệu của Thực lục).
Nghe tin quân Nguyễn đánh Phú Xuân, Trần Quang Diệu sai Tư khấu
Định đem 5.000 quân vòng đường núi về cứu. Quân đi 12 ngày đường bị người
Thượng ngăn trở, Định tới thì Phú Xuân đã mất liền đóng quân cách đấy nửa ngày
đường, người ngựa mệt nhọc lăn ra ngủ. Lũ chăn trâu về báo, Nguyễn Ánh sai Lê
Văn Duyệt, Lê Chất đem quân bản bộ tiến đánh thì bị vây ở vùng núi gần đó. May
sao 4.000 quân hậu tập đến vừa kịp phá tan vòng vây. Định bỏ chạy chết trong
rừng. Ba Đô đốc bị bắt, trong đó có Đại Đô đốc Lê Văn An mà tuổi trẻ và khí vũ
hiên ngang khiến Nguyễn Ánh phải mến phục6.
Ở Quy Nhơn, Trần Quang Diệu cũng lo công kích thành gắt gao. Võ
Tánh đánh ra một lần cuối rồi tự đốt chết sau khi bảo Lưu thủ Nguyễn Văn Thanh
đưa súng cho Trần Quang Diệu gởi gắm tướng sĩ. Như vậy Tây Sơn đã thanh toán
xong đạo quân trong vòng vây để rồi phải lo phá vòng vây.
Trong nửa năm sau 1801, phía bắc không có gì đáng lo lắng cho
Nguyễn Ánh. Ông đã sai Nguyễn Văn Trương đuổi theo vua tôi Quang Toản đến sông
Gianh chận bắt 2.000 quân chạy trốn. Thế mà Tây Sơn còn ráng thắng một trận để
chặn đường cho vua họ chạy thoát. Nguyên khi Tây Sơn đến Hoành Sơn, Trương sai
Nguyễn Kế Nhuận đem 7.000 binh thuỷ bộ chận đánh. Đến núi Thần Đầu bị phục
binh, Nhuận phải chạy bỏ quân chết quá nửa7. Viên hàng tướng Tây Sơn từ đất Gia
Định nay bị Nguyễn Ánh kể tội đem ra giết chết.
__________________________________________
1. Thư Barizy đã kể, danh
xưng về các thuyền lộn xộn quá: galère, chaloupe canonnière, demi-canonnière
rồi “ghequienne”! Chuyển tiếp viện này không thể lẫn với chuyến đầu năm do Trần
Công Thái dẫn Hậu quân Gia Định ra (Thực lực, q10, 3b). Số lượng 10.900 quân
ghi ở đây, 10.000 ghi ở thư khác, ngày đến Qui Nhơn cho ta quyết chắc là chuyến
chuyển quân vào tháng 4 âm lịch của Thực lục (q13,22a)
2. Trận Huế, ngoài Thực lục,
thư Barizy kể trên, còn có tài liệu ở Liệt truyện q7, 17b, về Phạm Văn Nhân,
q8, 8a về Nguyễn Văn Trương, q21, 20b, Nguyễn Văn Thành, q22, 6b Lê Văn Duyệt,
q24, Lê chất, q30, 51ab Nguyễn Quang Toản.
3. Thư Girard gởi cho
Letondal, 25-6-1801, thư Barizy cho Marquini, 15-7-1801 (A. Launay, III, t.
422, 423).
4. Thời điểm lấy của Barizy
vì chi tiết vẽ rõ hơn, Thực lục có nói đến lúc rời Qui Nhơn ngày Canh Ngọ
(5-6-1801), đến Đà Nẵng ngày Quý Dậu tháng 4 âl (8-6-1801).
5. Theo Barizy tả biến chuyển
thì 3 giờ chiều 13-6 trùng với 3-5 của Thực lục (q14, 1b). Nhưng Nguyễn Ánh ở
dưới thuyền ngự đến 8 giờ sáng 15-6 mới vào Kinh thành có lẽ vì muốn chờ tết
Đoan Ngọ (tốt ngày? long trọng?). Vì lẽ đó nên Girard mới nói đến chuyện giải
phóng Huế ngày 15-6.
6. Thực lục q14, 10ab, Liệt
truyện q22, 7ab. Thư Barizy do Cadière đã kể có nhắc tên 3 Đô đốc hàng là Do
Doue Cane (giải thích là Lương Văn Canh như Cadière là sai), Boune và Banaa. Lê
Quốc Cầu và Lê Văn Từ bị bắt trong trận không có âm tên giống như vậy, Duy
Boune có lẽ là Tống Phúc Phượng (Liệt truyện, q25) hơn là Nguyễn Bá Phong như
Cadière đã theo lời chỉ dẫn của Ch. Maitre. Phượng cầm cánh quân riêng 1.000
người và tự đi đầu hàng trước.
7. Liệt truyện q8, 9a.
Tuy nhiên mặt nam mới là đáng chú ý tới1. Nguyễn Ánh bảo Nguyễn Văn
Trương sai Hoàng Văn Điểm giữ Thanh Hà rồi về Đồng Hới sửa luỹ phòng thủ. Thu
thêm 52.000 binh Tây Sơn nhập binh mình, Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Tống
Viết Phúc đánh vào. Đến Trà Khúc, Phúc lập được công lớn: đánh bắt Đô đốc
Nguyễn Văn Khôn, Tham đốc Hồ Văn Tự cùng 3.000 quân. Nhưng ông rủi ro lại gặp
kẻ thù: viên tướng do Trần Quang Diệu phái ra với Đại Đô đốc Lê Danh Phong (sau
ra hàng) lại là Từ Văn Chiêu, nên đã phục binh giết chết Phúc, ngăn hẳn con
đường tiến quân của Duyệt, Chất đang đóng từ cửa Mỹ Á giăng lên núi2.
Phía nam chiến luỹ đó, 30.000 quân (ước lượng của Barizy và tính
toán của Nguyễn Ánh) của Nguyễn Văn Thành cũng đang mệt nhọc với quân Dũng,
Diệu và bọn hàng tướng trong thành Bình Định3. Ở phú Yên, thỉnh thoảng Phạm Văn
Điềm cũng làm rối 6-7.000 quân của Tiên phong Hoàng Viết Tuyển.
Tháng 8 Tân Dậu (1801), Tây Sơn muốn đánh Hoa An, Hoa Lộc để thông
với Phú Yên bèn đàn áp thật mạnh ở Sơn Chà4, tiến đến sông Dinh, sát núi Một,
nhưng không kết quả. Trần Quang Diệu lại chuyển 18.000 quân ra phía Bắc, mưu
sai Từ Văn Chiêu đem 2.000 quân đánh úp sau lưng Lê Văn Duyệt để phá thế bao
vây mà tìm đường ra Bắc Hà nhưng cũng không toại nguyện. Mặt nam Bình Định,
Nguyễn Văn Thành lại tung quân đánh mạnh từ luỹ Lò Giấy (Lô Chỉ) đến Tân An
khiến Diệu phải trở vào tiếp tay với Vũ Văn Dũng tận vét dân binh chống cự5.
Trận chiến cứ dằng co như vậy trong tháng 10.
Trong khi đó ở Bắc Hà, Tây Sơn cố gượng dậy. Quang Toản cải hiệu
Cảnh Thịnh làm Bảo Hưng, hạ chiếu tự cải lỗi để uy phủ các trấn, sai đắp gò
tròn nơi cửa ô Chợ Dừa và đầm vuông nơi hồ Tây để hạ chí, đông chí ra đó tế
trời đất. Công việc thật có vẻ của thời thái bình thịnh trị khiến cho Nguyễn
Huy Lương phải làm bài phú Tụng Tây Hồ, ca ngợi công đức Tây Sơn một cách quá
muộn màng. Nhưng Nguyễn Văn Trương ở sông Gianh cũng nghe điệp báo nói Bắc Hà
“xứ xứ lũ động” nên hi vọng của Tây Sơn tranh đoạt lại đất đai thật là mỏng
manh.
Tuy vậy, tháng 8 âm lịch, Quang Thùy cũng dẫn quân bản bộ đi Nghệ
An trước. Ở Bắc trong 3 tháng, Quang Toản đốc 3 vạn binh tứ trấn cùng Thanh
Nghệ, lưu Quang Thiệu, Quang Khánh lại Thăng Long rồi kéo quân vào Nam. Từ
tháng 11 Tân Dậu ra đi mà tới 1-1 Nhâm Tuất (1802) mới xảy ra trận đánh luỹ
Trấn Ninh, thật quá xa thời Quang Trung tung quân.
Những danh tướng Tây Sơn mắc kẹt ở Quy Nhơn để ở đây nổi bật lên hình
bóng một anh thư mà giáo sĩ De la Bissachère đã hết lời ca tụng đến nỗi đem
tăng quân số bản bộ từ khoảng 5.000 lên đến 300.000! Thuỷ quân Tây Sơn do Thiếu
uý Đặng Văn Đằng và Đô đốc Lực dàn trên 100 thuyền bày trận ngoài cửa Nhật Lệ.
Trên bộ, Quang Thuỳ, Tổng quản Siêu thẳng lên luỹ Trấn Ninh. Và ở mút phía Tây
luỹ, nơi núi Đâu Mâu có Tư lệ Đinh Công Tuyết và Đô đốc Nguyễn Văn Kiên cáng
đáng. Chiến tranh xảy ra như 150 năm về trước cũng nơi đất này, tuy các vai trò
đã đổi thay.
Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Trương đánh ngoài biển, Phạm Văn Nhân,
Đặng Trần Thường phản binh cự. Quân Tây Sơn bị chết cả ngàn vẫn leo lên núi Đâu
Mâu như kiến. Nguyễn Ánh sai thả đá xuống vẫn không ngăn được. Bùi Thị Xuân đốc
thúc voi, binh tử chiến từ sáng tới trưa, đã phá đổ một vài mảng thành. Ngôi vị
Nguyễn Ánh tưởng bị đe doạ lần nữa. Nhưng ngoài biển, Nguyễn Văn Trương phá tan
được thuỷ quân Tây Sơn. Trên đất, Nguyễn Văn Kiên tiến quá sâu với 8-900 bộ
binh bỗng nhiên chịu hàng. Thế mà Bùi Thị Xuân còn đánh mãi tới xế. Thuỷ quân
Nguyễn theo đà thắng đổ bộ đánh tập hậu. Quang Toản vội vàng rút lui, bỏ quân
Bùi Thị Xuân rối loạn theo. Thế trận đánh tan rã đánh dấu lần quật cường cuối
cùng của Tây Sơn6.
Trận Trấn Ninh cũng làm tiêu tan hi vọng của quân Tây Sơn ở Quy
Nhơn. Trong hai tháng đầu năm Nhâm Tuất (1802), họ đã phục binh giết được Phó
tướng Nguyễn Văn Huệ và cố gắng cầm cự với quân Nguyễn Văn Thành hợp với Lê Văn
Duyệt vào đánh luôn trong 7 ngày. Vùng dưới biển gần Thi Nại, từ sông Dinh lên
núi Kỳ Sơn đều bị quét sạch đến mãi Vườn Cau. Vũ Văn Dũng đem nhiều binh đến
đánh, không chiếm được mà còn hao các Đô đốc nữa. Cảnh quân Lê Văn Duyệt, Lê
Chất đánh ép vào Bến Đá, thuỷ binh đổ bộ Tam Quan, Đề Di.
Nhưng cái nguy nữa cho Tây Sơn chính là thiếu lương. Hồi tháng 2 họ
định vượt núi Nha Tham lén cướp Phú Yên nhưng đã bị Nguyễn Văn Thành chặn lại
được. Bây giờ cho dù Trần. Quang Diệu và Vũ Văn Dũng có muốn đi cướp Gia Định
như giáo sĩ De la Bissachère nghe đồn cũng không được nữa7. Tháng ba năm đó,
hai người đều hết lực bỏ thành đem quân đi vòng trên núi ra Bắc với 80 tướng,
3.000 binh mạnh và 86 voi.
Tháng 5, Nguyễn Ánh lên ngôi tôn, niên hiệu Gia Long. Đối với chúng
ta, ý nghĩa chính là ở chỗ cuộc chiến kéo dài 30 năm đã sắp chấm dứt.
______________________________________
1. La relation sur le
Tonkin...., sđd: t.108, 109. Thư Langlois cho Boiret. 3-9-1802 (BEFEO, 1912,
t.55)
2. Con số 52.000 là của
Barizy. Thực lục q14, 16b - 18b, Liệt truyện q13, 9b, 10ab.
3. Trường hợp Nguyễn Văn Tồn
(Liệt truyện q28, 3ab) khi thành Bình Định mất theo Tây Sơn đánh rất hăng, quân
Nguyễn kêu không ngó lại, đến khi trở về, người ta hỏi, ông trả lời: “Đánh hăng
cho giặc khỏi nghi”. Ấy vậy mà không biết sử quan nghe ở đâu lại nói có người
khen là “có trí”.
4. Theo sự kiện kể ở đây thì
chắc là hòn Chà vùng nam sông Vân Sơn (Vân Hội) chớ không phải núi Trà (Trà
Sơn), Chà Rang (Trà Lang Sơn) ở Phù Cát, tây bắc Chà Bàn của ĐNNTC.
5. Thực lục q15, 1b, 17a,
20ab.
6. Trận Trấn Ninh: Thực lục,
q15, 28ab, q16; Liệt truyện q8, 11b-13a, q30, 53ab, 54a; La relation sur le
Tonkin... sđd t.108-111. Tuy De la Bissachère quá tán tụng Bùi Thị Xuân nên mới
lo sợ giùm cho Nguyễn Ánh, nhưng đã có những chi tiết đúng như: voi phá vài nơi
của luỹ Thầy (Liệt truyện: “Bùi Thị Xuân suất tượng khu chúng”), đánh tới 2 giờ
chiều (“quá trưa” của Liệt truyện). Duy ông không biết đến tên viên tướng phản
bội mà ta gán cho Nguyễn Văn Kiên vì ông này có mặt trong trận và có tên trong
danh sách hàng tướng.
7. La relation sur le Tonkin,
sđd, t. 113. Có thể vì toan tính đánh ở Phú Yên trong dịp này mà người ta đồn
tới tai De la Bissachère rằng Trần Quang Diệu muốn vào lấy Đồng Nai chăng?
Từ lâu trong quân đội Nguyễn Ánh có những người Bắc Hà đầu quân mưu
khôi phục nhà Lê. Nguyễn Ánh vẫn mập mờ dùng niên hiệu Cảnh Hưng trong các văn
thư. Các cựu thần nhà Lê lại thường tổ chức những cuộc xâm nhập Bắc Hà để quấy
rối hậu cứ Tây Sơn. Nhưng khuynh hướng phò Lê theo với thời gian đã trở thành
lỗi thời, quần thần nhà Nguyễn xuất thân ở Nam Hà tranh quyền bằng xương máu
của mình hẳn không phải để đặt lên ngai vàng một ông vua lưu vong chưa từng
chia xẻ gian khổ với họ. Ý nghĩa việc đúc tiền năm 1796 với danh hiệu Gia Hưng
riêng biệt cũng là một dấu vết phủ nhận từ Nguyễn Ánh1. Việc Tây Sơn cầm quyền
xứ Bắc trên 13 năm đã xua tan thành kiến ranh giới sông Gianh. Tây Sơn chịu
tiếng cướp nước, nhưng sẽ mở đường cho kẻ sau vượt tiếp mà không thấy trở ngại
nhiều. Bởi vậy, khi Nguyễn Ánh đánh Bắc mà phân vân “Bắc Hà vốn là đất của nhà
Lê” thì Đặng Đức Siêu, Trần Văn Trạc mới có thể lý luận: “Đất Bắc là của Tây
Sơn rồi... Lấy đất Bắc là lấy của Tây Sơn chứ lấy gì của Lê!”2.
Lên ngôi xong là Nguyễn Ánh đã dứt khoát sau khi chuẩn bị đầy đủ
cuộc vận động tâm lý quần thần. Những người Bắc Hà đã được dự bị từ lâu để theo
quân ra: văn thần có Đốc học Nguyễn Gia Cát, Hàn lâm viện Mai Huy Đường đã chờ
sẵn từ tháng 6 âm lịch (1801), Đặng Trần Thường cũng được rút từ quân thứ Bình
Định đến với Tham quân Hậu dinh là Nguyễn Trí Hoà3. Quân Bắc phạt gồm cả một
lực lượng hùng hậu. Tiền quân mang 60.000 binh, Tả quân Lê Văn Duyệt dẫn 86.000
người, Hậu quân Lê Chất 50.000 người; Nguyễn Văn Trương mang 50 tàu, hơn 100
ghe chiến. 800 thuyền có trí súng, 500 thuyền nhỏ hơn chở 50.000 người, tất cả
rầm rộ tấn phát4.
Quân đi dũng mãnh nhưng đã có bài “Hịch dụ các người trung nghĩa
ngoài Bắc thành”5 để chứng tỏ là Vương sứ đến. Lời kêu gọi nhắm vào việc động
viên người Bắc hưởng ứng quân Nam, phục thù cho nhà Lê:
“Trước để sanh hồi miếu xã - sau là chửng cứu sinh linh.
“Khuyến người trung nghĩa ngoài này - rõ ý không phù trong ấy”.
Nhưng chúng ta hãy nghe tiếp:
“Nghe võ hịch một lòng ứng Hán, giúp cơn đông lạc thuở trùng hưng;
“Dựng can kỳ bốn mặt công thành, từ thuở sơn man thất thế”.
Nhắc chuyện bạo Tần tức là nhắc chuyện dời đổi triều đại, tuyên
xưng cho một phía là nhà Hán, tức là bắt mọi người phải công nhận quyền uy của
triều đại mới, người viết hịch trong ước mơ của một di thần Lê Trịnh cũng đành
phải vô tình nhận rằng phân tranh sắp chỉ vào là dĩ vãng và nhà Lê chỉ còn là
bóng mờ mà thôi.
Cho nên cuộc Bắc phạt thành công thực dễ dàng. Nguyễn Văn Trương đi
trước đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, rồi cùng với bộ binh của Lê Văn Duyệt, Lê
Chất hợp nhau quét sạch xứ Nghệ. Trấn thủ Nguyễn Văn Thận, Hiệp trấn Nguyễn
Triêm, Thuỷ quân Thống lãnh tên Đại, Thiếu uý Đằng đều bỏ chạy. Trần Quang
Diệu, Vũ Văn Dũng, Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn
Điểm, Lê Công Hưng (phần lớn đều là hàng tướng cũ lại trở về), theo đường
thượng vừa đến. Diệu qua đèo Quy Hợp vào Nghệ An thì nơi này đã mất, bèn qua
Thanh Chương, vượt sông Thanh Long. Lính theo hao mòn vì thiếu ăn, bệnh tật,
nên bỏ rơi tướng họ sa vào tay bọn nông dân ham tiền. Cuộc đời dõng mãnh, thanh
cao rồi sẽ cùng chấm dứt với người vợ hiếm có. Phần Vũ Văn Dũng cũng không
thoát tay dân Nông Cống6.
Quân Nguyễn qua Thanh Ba bắt Quang Bàn và Văn Thận. Đằng và Hổ đem
nhau ra hàng. Đến Sơn Nam hạ, Nguyễn Văn Trương lùa được bọn Thống binh Tề Ngôi
lên bộ, bắt Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng. Ngày 15-7-1802, Thiếu uý Nguyễn
Văn Thọ mở cửa thành Thăng Long ra hàng. Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu,
các Đô đốc Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ, Tú (Từ Văn Tú?) vượt qua sông Nhĩ Hà
chạy trốn. Họ không may mắn hơn những người trước. Đêm ở Xương Giang, dân chúng
đón bắt, Quang Thuỳ, Đô Đốc Tú và vợ cùng tự vẫn. Còn Quang Toản bị dân Phượng
Nhỡn bắt, chấm dứt đời Tây Sơn.
Ngày 20-7, Nguyễn Ánh ra tới Thăng Long, đặt chân lên nơi mà hơn
200 năm trước, tổ tiên ông phải giả tiếng mới về Nam được. Thăng Long, Thanh
Hoá, Phú Xuân, Gia Định rồi nối vòng Gia Định, Phú Xuân, Thăng Long, con đường
thật dài, thật đầy gian nan, cực nhọc mà cũng đầy vinh quang. Đất nước mệt mỏi
vì chiến tranh nay đã tìm được đường thoát trong thống nhất, yên nghỉ. Một giai
đoạn mới bắt đầu với Nguyễn Ánh - Gia Long.
_____________________________________
1. Thực lục, q9, 6a.
2. Thực lục q16, 17b.
3. Thực lục q14, 20b, 22b.
4. Số lượng quân trong thư
Barizy gởi cho Marquini và Foulon, 15-6-1802 (BAVH, Oct-Déc 1926). Chuyện Bắc
phạt: Liệt truyện q8, 13ab, q30, 54ab, Thực lục q17, 11b-18a.
5. Tác giả Vũ Huy Dao, trích
trong Morceaux choisis... t.254, 255.
6. La relation sur le Tonkin,
sđd, t.114, 117; Liệt truyện q.30, 54b, 55a. Trong tập Bình Định (1964), Ty
Thông tin Bình Định, trang 13, 24 có đoạn xác nhận rằng Vũ Văn Dũng là người
địa phương (thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, quận Bình Khê), sau khi bị bắt bèn trốn
thoát, cải danh là Vũ Văn Độ, mất ở An Khê năm 1853. Nếu ông Độ có thật thì
chắc là một người bà con lưu lạc chớ chuyện Vũ Văn Dũng trốn thoát là điều khó
tin (Dũng không quá trẻ để đến mãi năm 1853 mới chết!). Trần Quang Diệu nhờ tha
chết cho binh tướng Võ Tánh mới được đặc ân uống thuốc độc, khỏi bị voi xé như
vợ con. Còn Vũ Văn Dũng mà đầu cũng treo giá đồng thời với của quan Thái phó
thì làm cách nào thoát khỏi nanh vuốt của Nguyễn đang thắng được? Dũng là người
Hải Dương đã có bằng cớ hẳn hoi nơi tước Chiêu Viễn hầu như ta đã nói trước.
Chương kết
Tiết 20
TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ CHẤM DỨT PHÂN TRANH
Vai trò từng cá nhân trong diễn biến lịch sử chấm dứt phân tranh *
Ý nghĩa của thời gian 32 năm rối loạn * Những dữ kiện hướng dẫn tái lập hoà
bình mở đầu cho thời kỳ cận đại ở Việt Nam.
Lịch sử vừa đóng hết một giai đoạn rối rắm, tàn bạo. Chiến tranh
liên miên trên một vùng đất đầy những đặc tính phức tạp, riêng rẽ khiến ta thấy
những bộ mặt đặc biệt hiện ra, biến đi tuỳ theo tình thế thay đổi. Về phía Tây
Sơn, những Nhưng Huy, Tứ Linh, Huyền Khê, Nguyễn Thung, Giáo Hiến có danh vọng
không vượt qua được giai đoạn đầu của một đám cướp nổi loạn. Phạm Văn Sâm, Phạm
Văn Hưng và cả Trần Quang Diệu nữa cũng được nuôi dưỡng trong sự trưởng thành
của triều đại dòng họ những người ấy. Cứ giả định rằng không có cuộc loạn phát
xuất từ làng Kiên Thành thì chắc rằng họ cũng chỉ là những người dân nai lưng
ra đóng thuế. Đòi hỏi của tình thế chiến tranh hợp với sư may mắn có liên lạc
thân tộc với dòng họ nổi dậy khiến những người này được nâng cao lên, thoát
cảnh sống một đời tầm thường, hay có khi tệ hơn, lam lũ. Hình bóng yếu ớt của
những nhân vật Bắc Hà: Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng... là một minh chứng
thêm bên lằn mức đối địch. Nằm trong sự tan rã của Trịnh Lê, lúc quyền uy Tây
Sơn chưa đủ mạnh để lan ảnh hưởng đến vùng ngoài, họ có vẻ là “con người của
thời đại”. Nhưng lâm sự, tài năng hèn kém của họ lộ ra: Nhượng tránh mặt Tây
Sơn, Cơ bất nhất lúc Lê, lúc Trịnh để rồi bị trói bởi Tiên phong của Nguyễn Hữu
Chỉnh.
Lý Tài tưởng đã tránh được số phận dành cho Tập Đình, Nguyễn Thung
những người gián tiếp hay trực tiếp chết dưới tay Nhạc, nhưng khi ông phò trì
một triều đình đang tan rã thì chức Bảo giá Đại tướng quân oai vệ không đưa
quân ông tổ chức vượt được lên trên tình trạng đao búa của một đám cướp ngày để
rồi phải chấm dứt cuộc đời trong lúc luân lạc. Châu Văn Tiếp cùng một xuất xứ
như Nguyễn Nhạc mà oán “Trời không cho ta bình Tây” chỉ vì đã đem mình ngăn
chặn một trào lưu đang lên, tuy lòng can đảm, ý chí quyết thắng của ông có thừa
như bất cứ một tướng lãnh Tây Sơn nào khác. Nguyễn Văn Trương may mắn hơn. Từ
đứa chăn trâu leo lên chức Trấn thủ Long Xuyên là công của triều đại dân chúng
Tây Sơn, nhưng làm Bình bắc Đại tướng thay mặt Nguyễn Ánh trông coi thuỷ quân
chính là nhờ ông đã ghép mình với Gia Định, tiến bộ theo với lực lượng chủ chốt
này của miền Nam.
Vượt trên hết những kẻ này là những khuôn mặt đã làm nên lịch sử:
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ và chót hết, vinh dự thay trong lịch
sử tàn nhẫn, Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng ta cũng đã thấy biến chuyển từ từ trong con
người tạo thành Gia Long khi chung cuộc. Đỗ Thanh Nhân ở Sài Gòn chống Tây Sơn
thì ông đã lánh ra Bến Lức, Lê Văn Quân thống giữ Ba Vác, Ba Lai thì ông lênh
đênh ngoài vịnh Xiêm. Thực là khác hẳn khi ông đề xướng kế hoạch đánh giặc mùa,
điều khiển dưới tay một bọn bề tôi hỗn tạp gồm những tôn thất kiêu hãnh với
dòng dõi, tướng tá dũng cảm nhưng thô lỗ, hàng tướng đầy mặc cảm và nhớ tiếc
quá khứ oanh liệt, bọn Phiêu lưu Tây phương bừa bãi ngạo nghễ... Ngôi sao
Nguyễn Huệ có chói sáng rực rỡ vì chiến công cũng không che lấp được tính cách
mâu thuẫn bấp bênh của chế độ Tây Sơn. Cho nên, Nguyễn Hữu Chỉnh cô độc giữa xứ
Bắc Hà cũ kỹ trong thành kiến đến phải mắc tội “bội phản” mà chết, Nguyễn Nhạc
ôm lấy thành Chà Bàn chờ Nguyễn Ánh mạnh lên.
Nhưng những người đang hành động, tiêu cực hay tích cực cũng đều là
biểu hiện cho những khuynh hướng, trào lưu hiện hành. Cho nên họ phải chịu sự
huỷ diệt - cụ thể là sự huỷ diệt thân xác - để cho trào lưu kia tan biến hình
thức đề kháng mạnh mẽ nhất. Bởi vậy Tây Sơn đã cố tình truy nã đến tận cùng ông
Hoàng còn sót lại của dòng họ Nguyễn. Nguyễn Ánh dùng voi xé xác Quang Toản,
Bùi Thị Xuân... Lịch sử 32 năm chấm dứt phân tranh, lịch sử thống nhất trong
chiến tranh khôngphải chỉ gồm những chém giết, hằn thù cá nhân. Tôi trung nhà
Nguyễn có thể hậm hực vì “nguỵ tặc”, cũng như người có tinh thần chống đối phải
than khóc giùm cho cơ nghiệp Nguyễn Huệ1. Nhưng vượt bỏ tính cách phù du giai
đoạn của cuộc sống từng thế hệ, người ta phải thấy có một sự nối tiếp xảy ra
trong lịch sử giữa những người trước, sau, cho dù là thù địch cũng vậy.
Chiến tranh hối thúc lịch sử. Thế mà lịch sử phân tranh trong xã
hội Đại Việt đã có dấu hiệu báo trước từ đầu thế kỷ XVI. Triều đại Lê Thánh
Tông (1460-1497) qua đi là xuôi hẳn thời thịnh vượng. Có người đã muốn tìm
nguyên nhân trong sự kiệt lực của đất đai đồng bằng Nhĩ Hà2. Nhưng lịch sử Việt
Nam không chỉ xoay quanh đồng bằng miền Bắc cho nên vấn đề có lẽ phức tạp hơn
nhiều. Để giải quyết sinh sống, người nông dân Việt khai triển đất đai với tính
cách chiếm đoạt. Những đồn điền đặt ra dưới triều Thánh Tông là lợi khí mở
đường về Nam. Song kỹ thuật không đổi mới tiến bộ thì địa phương càng dễ độc
lập với trung ương, nhất là khi trung ương lại có những yếu tố phân ly sẵn. Cho
nên, Trịnh dẹp được Mạc rồi, chấm dứt cuộc phân tranh Lê - Mạc mà không ngăn
được Nguyễn Hoàng hùng cứ phương Nam.
Nhưng đất mới cũng đem lại yếu tố văn hoá, kỹ thuật làm nên sức
mạnh cho triều đại ly khai. Sau này chúng ta thấy Tây Sơn, Nguyễn Ánh có quân
Chàm, Thượng, Miên giúp sức, nhưng J. Koffler đã chỉ rõ từ trước rằng đội quân
Chàm của dân bản thổ là một cột trụ của Nam Hà giữ quân Bắc không vượt qua được
sông Gianh. Nếu chỉ có bấy nhiêu thay đổi thì phân tranh vẫn chỉ hoàn phân
tranh. Quan trọng hơn là việc đám người bản thổ Việt hoá và đám người Việt thu
nhận ảnh hưởng bản thổ tạo thành một lớp người mới uyển chuyển hơn. Đất đai màu
mỡ vì vừa quen với kỹ thuật khai thác tỉ mỉ ở miền Bắc đưa vào, tạo nên sự trù
phú, thịnh vượng. Ấy vậy mà càng đi về xa xuống Nam mối liên lạc địa phương với
chánh quyền trung ương càng lỏng lẻo, ngay cả đối với chánh quyền Nam Hà. Những
con sông ăn sâu vào trong núi, những khoảng núi chạy dài ra biển ấp ủ, che giấu
những âm mưu khuynh đảo.
____________________________________
1. Đại diện cho thái độ đầu
là Hoàng Quang (Hoài nam khúc), các bề tôi nhà Nguyễn, đại diện cho thái độ sau
là một số người chịu ảnh hưởng trào lưu dân chủ, cách mạng ngày nay. Không đâu
vẽ rõ sự xung đột của những ý kiến chủ quan của sử gia bằng ở quyển Hoàng Lê
nhất thống chí: Ngô Thì Chí hiểu chữ “nhất thống” theo với nghĩa gồm một về vua
Lê nên cùng với Ngô Du hết sức ca tụng Nguyễn Huệ, Du càng tăng độ ca tụng khi
Tây Sơn thịnh. Thế mà tác giả viết các hồi sau chót lại cố lái chữ nhất thống
về phía Nguyễn nên gọi “nguỵ Tây” đối chọi với “quan quân”
2. Đào Duy Anh - Việt Nam
lịch sử giáo trình, Thời kỳ tự chủ, quyển hạ, Liên khu IV xuất bản, 1950. trang
25, 26, chú số 1.
Thế rồi ảnh hưởng Tây phương đến. Chúng ta biết thương nghiệp mang
lại giá trị mới cho những sản phẩm địa phương. Nam Hà có đất cho nông dân cày
cấy thì cũng có rừng rú cho người ta lấy ngà voi, sừng tê, trầm hương, kỳ nam
chuyển ra ngoài. Từ đó Nam Hà có truyền thống đón nhận ảnh hưởng từ ngoài vào.
Joan da Cruz có tên gắn liền với địa danh Phường Đúc ở Huế trong khi những con
bù nhìn giả lính Bồ đứng trên luỹ Trấn Ninh đe doạ quân Trịnh.
Tất cả tạo nên một hoàn cảnh sôi sục trong phát triển ở Nam Hà. Địa
phương và trung ương trông chừng nhau ở cả hai bên sông Gianh, nhưng sức mạnh
địa phương miền Bắc đã yếu thế nhiều vì quá khứ 10 thế kỷ kết tập chung sống.
Cho nên, biến cố có tên là Tây Sơn lại nổ bùng ra ở Nam Hà và đủ sức mạnh để
đảo lộn tất cả: chiến tranh 32 năm chỉ là cái gút để tóm thâu kết quả của mấy
trăm năm gầm gừ phân tranh, mấy trăm năm biến đổi dần dà trong xã hội Đại Việt.
Cuối đường của mối loạn tiền kẽm gặp gỡ rối loạn trong triều Nguyễn
chúa dưới quyền phụ chính Trương Phúc Loan là điều kiện tức khắc cho anh em Tây
Sơn lộ diện. Họ tụ tập dưới cờ quân Thượng, quân phản Thanh phục Minh, đám nông
dân nghèo đói, bất mãn sưu thuế, quan lại triều đình, sĩ phu, tướng lãnh không
đất dụng võ. Nói rằng Nam Hà dưới quyền chúa Nguyễn vừa yếu vừa mạnh thực là
mâu thuẫn. Nhưng đúng vậy bởi vì đã có những tiềm lực chưa dùng đến, còn đang
kết thành. Tây Sơn đã nung chín những sức mạnh đó để làm lợi cho mình. Cho nên,
cứ lúc tiến lúc thoái, họ đánh tan được nhà Nguyễn rồi ào ạt ra Bắc.
Ở đây phải nhắc lại tính cách đồng nhất trên những đường nét phát
triển chính trị của xã hội Đại Việt trong phân tranh. Trên tột đỉnh cơ cấu
quyền bính, Tây Sơn và bầy tôi Lê Trịnh xưng hô với nhau như người của hai nước
riêng biệt, một điều “quý quốc” hai điều “quý quốc”, nhưng Trịnh - Nguyễn vẫn
nhớ mình là người Thanh Hoá, Nguyễn Nhạc còn biết xưng họ ngoại chúa Nam Hà, và
Nguyễn Huệ vẫn đòi lập Phượng Hoàng Trung đô ở quê cha đất tổ Nghệ An. Ảnh
hưởng giao thương với nước ngoài không tạo nên một giai cấp bourgeois có tiền
của, xây dựng ý thức hệ, đả đảo Cựu chế như ở Tây phương nhưng cũng phát sinh ở
2 miền Nam, Bắc một lớp người làm giàu mau chóng bằng cách buôn bán, khác hẳn
bọn nông dân cặm cụi lam lũ. Phố Hiến, Kẻ Chợ, đám các lái ở Thanh Hoá còn đó để
chứng minh. Chỉ duy, trong tương quan ảnh hưởng đối với xã hội Bắc Hà, họ phải
chịu núp dưới bóng quan lại đồng hương hay không, để tìm quyền hành. Vùng này,
dân chúng bị chi phối bởi mối quan tâm phù Lê diệt Trịnh trong khi Lê chỉ là
bóng mờ bên cạnh uy quyền thực của Phủ Liêu. Cái hại sĩ phu miên man trong kinh
sách rồi truyền cho đám nông dân tuy làm yếu Bắc Hà, nhưng cũng ru ngủ được dân
chúng trong một giấc mơ bình an về ý thức hệ. Cho nên những kẻ bất mãn mà ít
hay nhiều đã được khuôn nắn trong một không khí có khác với kinh văn, dễ mở
rộng trí suy xét để đón lấy cơn giông tố tự phương Nam. Nguyễn Hữu Chỉnh ở vào
trường hợp đó. “Cõng rắn cắn gà nhà, nghĩ thật có tội, song cũng là một việc
hơn người”1 những đầu óc dù hẹp hòi cũng vẫn phải chấp nhận sự thật là có những
biến đổi đang làm đảo lộn xã hội đang sống.
Nhưng khi Nguyễn Hữu Chỉnh muốn tách rời Tây Sơn thì ông thất bại
ngay. Ông định đem những biện pháp khắt khe mà Tây Sơn đã dùng để áp dụng cho
Bắc Hà thì gặp ngay những phản đối, hãi sợ về phía dân chúng, sĩ phu. Hợp tác
với bọn khanh tướng bàn chuyện đòi đất Nghệ An thì được, nhưng như vậy là ông
đi vào vết xe cũ của Trịnh nên không đủ sức chống đối Vũ Văn Nhậm. Phải đợi Tây
Sơn đem cả một khối người ào ra dứt Lê, Bắc Hà mới thấy thay đổi thực sự.
Đứng trong quan điểm quốc gia, chiến thắng Đống Đa là một vinh dự
của người dân Việt chống xâm lăng phương Bắc. Nhưng hai mươi vạn quân Tôn Sĩ
Nghị quả có cái thế khác với quân Tống của Quách Quỳ, với đội lính thiện chiến
của Thoát Hoan. Nó là một đội Vương sư như của Trương Phụ lúc ban đầu. Thế mà
trước kia Hồ Quý Ly bị đóng cũi phải về Yên Kinh không đầy một năm và Tôn Sĩ
Nghị bây giờ mất binh đội không đầy 5 ngày. Chiến thắng do khích động lòng yêu
nước đã đành mà chính yếu còn do sự cách biệt và khác biệt kỹ thuật chiến đấu,
điều hành chiến tranh nữa. Quân Thanh có đông thực nhưng chỉ là phóng đại của
quân Trịnh Lê thôi, với từng ấy vũ khí, từng ấy ý thức hướng dẫn hành động.
Trong khi đó, Tây Sơn lấy sức mạnh căn bản nơi sự hoà hợp chủng tộc văn hoá ở
Quy Nhơn rồi đem thử sức, thu thập kinh nghiệm ở khắp các chiến trường, với cả
người ngoại quốc phía Nam nữa.
Cho nên trong sự tiếp rước Giả Vương, trong lối trao đổi ngoại
giao, chúng ta thoáng thấy ở vua tôi nhà Thanh một ý kính nể, muốn thu phục. Vì
vậy bọn Tề Ngôi hải phỉ mới chịu về đầu, khiến đường biển Đông mở rộng mà Tây
Sơn còn thêm sức mạnh nữa. “Xưa nay chưa nghe toán giặc nào như toán giặc này”.
Ở miệng viên sứ Trần Công Xán biết ra đi là chết, lời nói ấy là một xác nhận
chứ không phải là một biểu lộ khiếp nhược.
Tuy nhiên không phải là Tây Sơn không chịu những điều kiện thực tế
ràng buộc, giới hạn khả năng. Những điều kiện này có khi là do những yếu tố
trường cửu điều khiển, có khi là do những biến cố nhất thời làm tăng thêm hiệu
quả của loại trên. Trong những phe chống đối Tây Sơn tất có kẻ sẽ thừa hưởng
những thuận lợi mà Tây Sơn không thu nhận được đó để kế tục sự nghiệp của họ.
Tây Sơn nổi lên có hai ông chúa phải lưu vong đi cầu viện, một người phải ngậm
ngùi bỏ thân nơi đất khách. Chỉ có một Nguyễn Ánh trở về. Không phải là sự tình
cờ.
Ta đã nói đến việc Nguyễn Huệ diệt tộc Nguyễn, đã thanh toán giùm
họ này mối lục đục, hục hặc nội bộ. Nhưng một người còn thoát đã đưa chuyển
dòng họ đến một giai đoạn mới mà vẫn giữ được tính cách truyền thống liên tục
để lưu giữ lòng trung thành của mọi người. Trong lúc đó thì Tây Sơn không vượt
khỏi những khó khăn cũ mà còn gây ra những cản trở mới nữa. Từ Quy Nhơn, họ
tung quân vào Gia Định qua những vùng đất dằng dặc sỏi đá. Với vài ba trăm
chiếc ghe bầu đi vòng biển để nối liền nơi xuất phát và chiến trường, hành động
định kỳ theo quy luật gió mùa mỗi năm một lần vào ra thế tất không phải là một
đe doạ chiếm đóng thực sự. Từ ngữ “nhập khấu” mà sử quan dùng chỉ các cuộc hành
binh này tuy có dụng ý thiên lệch nhưng vẫn đúng sự thực một phần nào.
Chính sự giải đãi đó nuôi dưỡng cho nhà Cựu Nguyễn hồi sinh chờ
thấy những sai lầm của Tây Sơn xuất hiện để đón lợi về phía mình. Buổi đầu nổi
dậy, Tây Sơn mất sự hợp tác của bọn sĩ phu có truyền thống gần gũi tổ chức nông
nghiệp đã đành, mà còn mất luôn cả bọn Hoa kiều trung gian buôn bán nữa. Họ để
lại các tướng lãnh cai trị Gia Định với một số quân nhỏ bé mà không tỏ rõ một
chính sách lâu dài nào hết. Họ đưa ra một chính sách thương nghiệp mà thiếu
người thi hành chỉ vì vụ tàn phá Hội An (1774) và sau đó, Sài Gòn (1782) chưa
đủ thời gian để lập lại tình trạng bình thường. Nhưng cố gắng phi thường của họ
cũng đánh tan được 2 vạn quân Xiêm và đuổi Nguyễn Ánh sống cuộc đời lưu vong.
Thế rồi họ quay ra phía Bắc chiếm một phần đất Nam Hà còn sót lại dưới quyền
của họ Trịnh. Không bằng lòng Phú Xuân, Tây Sơn đứng trên luỹ Thầy mới đắp mà
nhìn ra Thăng Long. Ta đã nói đến sự khác biệt tuổi tác giữa Nguyễn Nhạc và
Nguyễn Huệ đã gây ra xung đột đầu tiên giữa hai anh em như thế nào khi người
anh cả tuổi lớn bằng lòng với sự nghiệp có được và chú em thứ 8 ba mươi bốn
tuổi tràn đầy hăng say còn muốn cướp đoạt hơn. Nhưng chúng ta cũng thấy trong
mối lo không kiểm soát được em của Nguyễn Nhạc một ý nghĩa lo lắng về đường đất
cách trở mà các phương tiện không đủ hiệu quả để bức thư ngăn Huệ đừng đi Bắc
kịp đến Huế khi quân khởi hành. Thì ra khi xô đổ cái thế phân tranh cũ, anh em
Tây Sơn cũng phải chịu luỵ vào những điều kiện chia xé từng có trước. Cho nên
Bắc Bình vương phương Bắc, Trung ương Hoàng đế ở giữa, Đông Định vương phía Nam
có chia nhau mà cai trị đất nước cũng không phải chỉ vì tham vọng riêng ai mà
chính là theo đúng quy định của thực tế xã hội, quốc gia.
_________________________________________
1. Hoàng Lê, t. 64. Chính chúng
tôi nhấn mạnh.
Tuy nhiên, việc phân phối khu vực cũng không phải là tình cờ. Tây
Sơn đã lập nghiệp bằng chiếm đoạt mà không giữ toàn vẹn phần thưởng thì chia
ra, kẻ nào có khả năng nhất, chiếm được phần lớn nhất. Thế mà như ta đã biết,
toàn bộ Đại Việt giữa hậu bán thế kỷ XVIII có trình độ nhân văn hoá theo lề lối
người Việt phai lượt dần từ Bắc đến Nam. Là kẻ có mộng tưởng lớn, tài ba,
Nguyễn Huệ tất được đun đẩy tới chỗ chiếm lấy Phú Xuân để vươn ra Bắc. Nguyễn
Nhạc bằng lòng với khoảng đất anh em ông chiếm giữ lúc ban đầu. Còn Gia Định
với ao đầm kinh rạch, mỗi bước đi là có cá sấu, có cây đổ chận đường, đầy vẻ
huyền bí nhất thì chia cho chú Bảy yếu ớt cho trọn tình anh em. Như đã nói,
Nguyễn Ánh thừa hưởng được mọi thất lợi do sự nứt rạn đó của Tây Sơn. Nhân lúc
Nguyễn Nhạc ôm lấy Hoàng Đế thành và Nguyễn Huệ bận tâm thanh toán cho xong
triều Lê sống thừa quá lâu thành cũng trở nên bề bộn thì Nguyễn Ánh về đánh Gia
Định. Nguyễn Lữ không thu phục nổi bọn xử sĩ Gia Định để có một chính sách nông
nghiệp cho miền này mà lại còn làm bất mãn thêm bọn thương gia Trung Hoa bằng
cách dời họ từ Sài Gòn lên Cầu Sơn làm hạn chế sự buôn bán của họ nữa. Cho nên
Phạm Văn Sâm có cố bám cho mấy cũng thất bại, mà thất bại cố gượng thì luỵ
thân.
Nguyễn Ánh đã thành công trước khi Bá-đa-lộc về tới khiến ông có
đất đai, có ngôi vị, nghĩa là có chính nghĩa được cụ thể hoá. Ở vào địa vị kẻ
yếu phải chống giữ, ông biến triều đình ông thành một nhóm người chiến đấu
thoát hẳn tình trạng bạc nhược trước kia, biến xứ sở ông thành một lò huấn
luyện khổng lồ. Ý niệm cũ về cách tổ chức khai thác đất đai theo lối đồn điền
gặp dịp được áp dụng triệt để với sự giúp sức của nhóm Bình Dương thi xã.
Cho nên khi phong trào giao thương Âu - Á vẫn tiếp tục mà Tây Sơn
bị ném bên lề một phần nào thì Gia Định thay mặt Đại Việt nhận lãnh tất cả
những ưu thế được đưa đến. Tất nhiên Tây phương đến với tính cách toàn bộ của
văn hoá họ. Bá-đa-lộc mang Hoàng tử Cảnh đi cầu viện đem về Gia Định không phải
chỉ một hiệp ước tuy không thi hành nhưng cũng kêu gọi người tới mà còn một ông
Hoàng trừ nhị biết đọc kinh và quả quyết hứa rằng sứ mệnh của ông là “làm cho
dân chúng xứ .tôi trở-lại-đạo”. Ông Boisserand thả một quả khí cầu không phải
chỉ làm Tây Sơn khiếp sợ mà còn làm tăng uy tín của giáo sĩ giữa đám dân ngoại
đạo nữa, điều kiện cần thiết để thu phục tín đồ đó. Vì thế mới xảy ra vụ giành
giật linh hồn Hoàng tử Cảnh nổ bùng ra với trường hợp thay đổi của Tống Phúc
Đạm.
Dễ dàng xâm nhập hơn là các dụng cụ kỹ thuật với những cách sử
dụng, điều khiển. Ta thấy đội Thần Sách kéo lưu động các súng đại bác cỡ nhỏ,
Nguyễn Ánh dùng viễn kính đi thám sát Tây Sơn và Chế tạo cục liên miên đúc súng
đóng tàu. Ta lưu ý đến việc Tây phương đến với ta bằng tàu thuyền. Gia Định lại
có sông dài, nước sâu và cả Đại Việt có một bờ biển dài dằng dặc. Tất cả những
sự kiện đó hình như đã hoà hợp để tạo nên ý nghĩ dùng tàu bè Tây phương hay
đóng theo kiểu Tây phương là phương tiện thuận lợi nhất để tiến sâu vào đất
địch. Yếu tố quyết định thống nhất thực ra đã nằm phần lớn trong sự tăng tiến
thuỷ quân Gia Định vậy.
Trong khi đó thì việc khai thác nông nghiệp ở Gia Định vẫn tiến
hành theo một nhịp mau chóng tàn nhẫn. Sự phát triển của nơi này không những
nuôi dưỡng quân Nguyễn lớn mạnh mà còn khiến bớt cách biệt trình độ Việt hoá
trên các phần đất khác nhau nữa.
Chiến tranh nung chảy đúc kết các nhóm chủng tộc khác biệt trở
thành hoà hợp hơn. Vào năm 1773 còn thấy dấu vết tổ chức thị tộc mẫu hệ của
Chiêm Thành có nữ chúa Thị Hoả ở Phú Yên, dấu vết vương triều của Tá ở Bình
Thuận, thế mà với Nguyễn Ánh, Môn-lai-phù-tử thành Nguyễn Văn Chiêu, Thôn-ba-hú
thành Nguyễn Văn Hào, Bô-kha-đáo thành Nguyễn Văn Chấn, kẻ Cai cơ, người Tán lý
sinh hoạt với quan quân Gia Định. Lui về phía Nam hơn, Trà Vinh, Ba Thắt còn có
“phiên liêu” cai trị để cho Chiêu-thuỳ Biện nay đòi mai đòi, thế mà qua trung
gian của đám lưu vong Minh dân, hai phủ lần lần thuộc quyền triều đình, đưa địa
vị một Nguyễn Văn Tồn từ “dịch đình nô” đến Cai đội coi Tiêm binh của Nguyễn.
Đám con cháu Minh dân cũng tìm được vị trí của mình trên đất họ ở, điển hình
với vai trò của Trịnh Hoài Đức, thị giảng cho Đông cung. Nhưng địa vị của họ,
nhũn nhặn hơn mà quan trọng hơn là ở cả một hệ thống tổ chức thương nghiệp mời
gọi với mức độ tăng tiến hơn trước chiến tranh các cuộc giao thương địa phương,
do đó súng ống đạn dược chế từ Tây phương đổ về Gia Định chứng tỏ hiệu quả
chính xác, hiệu suất cao vượt các thứ cùng loại của Tây Sơn chế ở Bắc Hà, Phú Xuân
như lời Giáo sĩ De la Bissachère đã kể.
Tây phương, Cách mạng 1789 lên đến tột đỉnh sôi sục gây nên phản
ứng rối loạn khắp Âu châu. Đám phiêu lưu Tây phương bị dao động, kẻ bỏ đi,
người im tiếng phục vụ trong sự ganh ghét, âm mưu hoặc của lớp nho sĩ vươn dậy,
hoặc của những kẻ đồng chủng khác quốc gia. Trong khi đó Tây Sơn có dấu hiệu
tan rã thêm mà không có hy vọng gượng lại từ cái chết của Nguyễn Huệ, tay chỉ
huy tài ba nhất trong anh em họ đã cố tạo được một lực lượng đáng kể bằng một
hệ thống quân chính tàn nhẫn trên đám dân Bắc Hà, Phú Xuân. Quân tướng Tây Sơn
chuyển thực lực của họ dần về phía Nam khi hoặc vì bắt buộc, hoặc vì tình
nguyện phải đầu quân dưới cờ Gia Định. Gia Định do đó vượt cấp bực địa phương
để trở nên trung ương hơn. Xiêm không dám đòi Hà Tiên, Long Xuyên và đem quân
giúp người mà còn bị người đe doạ: “mua một con gà mà không trả tiền thì bị
giết hết chỉ trừ một người chạy về Ayuthia báo tin thôi”. Nặc-ấn theo
Chiêu-thuỳ Biện rồi Nặc-chân chỉ lo phận sự cống thần, chịu nhận thuyền, mã cụ
của nước lớn Gia Định ban cho.
Trình độ xâm nhập kỹ thuật Tây phương vẫn còn tăng tiến, nhưng ảnh
hưởng cá nhân của nhóm phiêu lưu sụt xuống rõ rệt. Năm 1792 trong cuộc thuỷ
chiếnThi Nại, J.M. Dayot là người tấn công. Năm 1801 cũng nơi đó, thay cho ông
là Nguyễn Văn Trương, Võ Di Nguy, Lê Văn Duyệt ào ạt đốt thuyền địch trong khi
Chaigneau, Vannier, de Forçan đứng ở Hậu đội. Năm 1793, sử quan nhắc tới “Tây
dương binh” theo quân ở Bình Thuận, vây quanh Quy Nhơn, thế mà đến 1801
Chaigneau, Vannier chỉ làm nhiệm vụ lấy lương tiếp tế cho Quy Nhơn, Phú Xuân
thôi.
Chiến tranh càng dữ dội thì Đại Việt do sự súc tích lực lượng cần
thiết, càng có nhiều ảnh hưởng lan xa. Trận Đống Đa làm nể vì Bắc Kinh. Các
thương thuyền Âu - Á đem tin thịnh vượng của Gia Định qua Manille, Malacca, Goa
trên các tàu mang hiệu kỳ vua xứ Nam Hà. Các nước Tà-nê, Tam-hoạt, Nhu-phật đem
“dâng cống phẩm”, tất cả có lẽ từ Mã Lai. Ta không nói tới Xiêm mà Nguyễn Ánh
vẫn cố giữ bang giao mật thiết để nhờ cậy khuấy rối Nghệ An. Sứ bộ Nguyễn Văn
Thuỵ 150 người đi Cao Miên rồi Bangkok, Vạn Tượng qua những vùng hoang vu mà
chính các quốc gia liên hệ cũng chưa kiểm soát được. Cho nên ta thấy sử quan
ghi rằng sứ thần dùng người Chân Lạp dẫn đường, đi từ địa đầu nước này đến
Tầm-phàm-mi-tân (Kongpong - ?), qua Khu-khang, U-bôn được dân đó hưởng ứng và
Khu-khang lại sai sứ tới cống nữa1.
__________________________________________
1. Thực lục q10, 34b, 35a.
U-bon trên sông Se Mun, phụ lưu sông Mékong trên phần đất Thái, Khon khaen trên
sông Se San, phụ lưu của Se Mun, chứ không phải làng Khu-khang phía bắc dãy
Dangrek. Sứ bộ chắc đã rẽ trái qua các phụ lưu này tới Vạn Tượng chứ không đi
nốt phần sông Mékong trên đất Lào.
Việc cải thiện giao thông trên bộ cũng tăng tiến lần theo với nhu
cầu thông tin, liên lạc giữa quân tiến ra và căn bản Gia Định. Năm 1797 đã làm
ngựa trạm trên đường Xích Ram, Ma Ly. Tháng 10 năm sau thì các phong hoả đài
được đặt trên đường Bình Thuận, Bình Khang. Đặc biệt trong chuyến hạ thành Quy
Nhơn 1799 rồi kéo quân về, việc tổ chức giao thông thật chu đáo: ven đường có
đặt những trạm ngựa, chỗ nghỉ trưa, ngủ đêm. Đường sá, cầu cống được sửa sang
lại. Mỗi trạm phải dự bị 200 dân phu, 500 vuông gạo1. Tuy tổ chức đó chỉ cốt
dùng tiếp vua khải hoàn, nhưng chúng ta cũng thấy ở đó hình ảnh con đường cái
quan sau này nối liền Gia Định phì nhiêu và các vùng khai thác xưa cũ. Các con
đường hành quân của Tây Sơn ở “thượng đạo” cũng mở rộng hiểu biết vào các phần
đất sâu trong nội địa. Cùng với tăng tiến tàu bè trên mặt biển, sự cố gắng cải
thiện giao thông trên bộ thừa hưởng của chiến tranh là một yếu tố nữa để xoá bỏ
ngăn cách địa phương.
Dần dần với cuộc tiến chiếm đất đai, Nguyễn Ánh sẽ thu phục dưới
tay mình toàn bộ thực lực Đại Việt đã phát triển tột độ trong chiến tranh. Có
vậy ông mới đủ sức ngăn cấm 40.000 quân Xiêm vời về giúp không được đặt chân
vào biên giới Lào - Việt.
Cuộc phân tranh chấm dứt nhưng không chấm dứt được mọi vấn đề trong
quá khứ. Nước Đại Việt khi biến thành Việt Nam vẫn phải chịu những biến chuyển
về trước. Hai trấn Gia Định và Bắc Thành có Tổng trấn như hai Phó vương cai trị
là một dấu vết. Sự phân biệt còn mạnh tới nỗi khi Minh Mạng muốn thi hành chính
sách tập trung thì vụ loạn Lê Văn Khôi nổ bùng ra phản đối ở Nam và các cuộc
loạn tương tự xẩy ra ở Bắc. Tất nhiên là từ Tây Sơn qua Nguyễn triều cũng có
những biến chuyển tâm lý ở các vùng: miền Nam kiêu hãnh với tính cách đất dựng
nghiệp đế, xứ Huế tưng bừng với ngôi thành sẽ cất, lăng mộ sẽ xây, với những lề
lối ăn chơi của dân trưởng giả Kinh đô, và cuối cùng miền Bắc ngậm ngùi với các
bề tôi cô trung, nhớ vọng nhà Lê, với đám dân khóc than mất đô như mất nước.
Đáng nói nữa là tính cách Trung Hoa hoá của Việt Nam sau chiến
tranh. Việc Đặng Trần Thường gần như chép chuyển bộ luật nhà Thanh sang bộ luật
Gia Long là một chứng cớ tủi hổ nhất của sự thu nhận văn hoá. Ông Masson2 đã
lưu ý đến nhiều điều tương tự như vậy để coi là một định luật trong lịch sử
Việt Nam, khi mỗi lần người Việt củng cố độc lập là một lần tiến đến gần Trung
Hoa hơn. Điều đó có thể hiểu được khi nhìn vào ưu thế thực dụng, có hiệu quả về
tổ chức kết hợp xã hội theo ý thức hệ Khổng giáo ở ven bờ biển Đông. Lần này
lại thêm vào tác dụng của nhiều yếu tố, biến chuyển trong phân tranh: văn thần
nhà Nguyễn một phần là Trung Hoa còn rất gần Tàu, di dân Việt giữa dân bản thổ
khác sinh hoạt, cố tình giữ sách thánh hiền coi như một dấu hiệu bảo đảm giá
trị, và độc đáo hơn, là sĩ phu Gia Định chống đối với nguy cơ ảnh hưởng của
Bá-đa-lộc, phải trở nên bảo thủ, gay gắt hơn.
Nhưng không phải những ảnh hưởng Tây phương đã bị loại trừ. Ta
không nói nữa đến sức mạnh của quân lực Gia Định làm e dè quân đội ngoại quốc.
Ta lưu ý đến những công trình khảo sát đất đai, hay lẫn lộn lịch sử của Trịnh
Hoài Đức, Lê Quang Định, của văn thần dưới quyền Lê Chất. Vẫn biết Trung Hoa và
nước Việt trước kia cũng có những bộ địa chí, sử ký nhưng không ai có thể chối
cãi được ảnh hưởng của chiến tranh đã khích động ý muốn sáng tác thể loại này.
Thế mà ta cũng đã biết thêm là J.M. Dayot nhân lúc coi thuỷ quân đã dò các cửa
bể, đo đường nước nông sâu, định vị trí các nơi, đồng thời với công việc
Olivier làm trên bộ. Lẽ nào những tài liệu đó không góp vào sự chính xác của
các tác phẩm nói trên? Rõ ràng hơn là một Trần Văn Học theo sứ bộ Hoàng tử Cảnh
đi Pondichéry rồi lộn về phục vụ Nguyễn Ánh, đã biết đem kiến thức mở rộng trên
đường xa hợp với sự thúc đẩy của thực tế chiến tranh mà vẽ nên một bản đồ Gia
Định có các khúc uốn của sông Sài Gòn ngay nơi này giống hệt ở một bản đồ mới
ngày nay. Các thành kiểu Vauban xây sau chiến tranh của bề tôi Nguyễn Ánh là
chứng minh của kỹ thuật xây công sự phòng thủ truyền từ Bá-đa-lộc, Olivier trở
xuống.
Rồi ngấm ngầm mà quan trọng là sự phát triển của tín đồ Thiên Chúa
giáo từ ảnh hưởng của Bá-đa-lộc sẽ cứ tiếp tục hưởng sự yên ổn tương đối dưới
triều Gia Long. Họ tạo ra một lực lượng rồi sẽ lớn dần với thời gian, gây nguy
hiểm cho đám sĩ phu, nhất là khi thế lực các nước Tây phương mạnh mẽ lan về
Đông khiến họ càng cứng rắn đòi hỏi hơn lên. Nho sĩ cầm quyền và nhóm tín đồ đó
sẽ chống nhau quyết liệt mà phần bại về những người trước khi cái kẻ sau vỗ tay
mừng đón tiếng súng Đà Nẵng 1858 giải thoát họ và xô đổ mọi trật tự cũ, đưa văn
minh Tây phương thực sự đi vào đất Việt gây những ảnh hưởng vô cùng to tát.
Cho nên phải nói rằng những thừa hưởng của quá khứ, của trận chiến
kết thúc phân tranh, đậm hay lạt, nhiều hay ít rồi sẽ hợp với những điều kiện
mới nảy sinh để bắt đầu lịch sử Việt Nam. Đất nước sẽ càng ngày càng phức tạp
hơn để theo những biến động thế giới mà bước vào thời cận đại với Gia Long.
___________________________________________
1. Thực lục q9, 11b, q10,
14b, q11, 15ab.
2. Histoire de l’Indochine,
PUF, 1950, t. 62.
PHỤ LỤC
NHỮNG BỨC THƯ NÔM CỦA NGUYỄN ÁNH.
Do Giáo sĩ Cadière sưu tập
Lịch sử như đã chứng dẫn, cho ta biết nửa phần sau của hậu bán thế
kỷ XVIII kéo dài lan tới 1802 là một trong những thời kỳ rối ren nhất. Loạn lạc
làm xuất hiện một triều đại phát sinh từ dân chúng, lại sống ngắn ngủi nên còn
đầy tính chất “quê mùa”: người ta thấy triều Tây Sơn định khoa thi bằng chữ
Nôm, dịch kinh sử ra lời Nôm, dùng chiếu, chế, lệnh bằng quốc âm. Hai ông Hoàng
Xuân Hãn (trong La Sơn phu tử) và Hoàng Thúc Trâm (trong Quốc văn thời Tây Sơn)
đã gom góp được phần lớn những tài liệu đó.
Nhưng chiến tranh cũng xua đuổi ảnh hưởng Hán học ở ngay cả khu vực
của các dòng họ có truyền thống cai trị. Ông An Khê (Nam Phong tạp chí, tập
XIV, số 80, Fév. 1924) đã sao lục một Đạo dụ viết bằng quốc văn trong cuộc
duyệt binh ngày 26 tháng 3 năm Canh Thân (1800) để chuẩn bị ra cứu Võ Tánh ở
thành Bình Định. Mối liên lạc mật thiết giữa Nguyễn Ánh và Giám mục Pigneau de
Béhaine cũng gây hứng thú cho người Pháp, học giả tài tử hay chuyên nghiệp, đạo
hoặc đời, ra công tìm kiếm tài liệu. Trong khi lục lọi, L.M Cadière đã thấy
được các bản sao 14 bức thư mà Nguyễn Ánh gởi cho giáo sĩ, tướng Pháp... L.M
đem dịch ra tiếng Pháp, kèm theo bản chụp ảnh 14 tờ đó đăng trong Đô thành Hiếu
cổ Tập san (Bulletin des Amis du Vieux Hue, Janv-Mars 1926, “Les Français au
service de Gia Long - XV. - Nguyên Anh et La Mission - Documents inédits”). Ông
Cadière chú trọng đến giá trị sử liệu của chúng nên đã trình bày kèm thêm vào
các bản dịch một đoạn dẫn khởi về nguồn gốc, giá trị xác tín của các bức thư
đó. Chúng tôi cũng lần lượt ghi lại những lời của vị cố học giả giáo sĩ này.
Nguyên dưới đời Tự Đức, Phái đoàn Truyền giáo ở Huế có dùng một
người Công giáo ở Kim Long để làm trung gian liên lạc với triều đình và quan
lại địa phương. Người này chắc cũng là một tay có kiến thức, có ý tứ cẩn thận,
đã thu nhặt tất cả những giấy tờ trao đổi để dồn vào một chỗ, giữ gìn kỹ lưỡng.
Con của ông ta còn giữ tập giấy trên dưới 100 trang đó. Mười bốn tờ đầu là 14
bức thư mà Cadière đem giới thiệu với mọi người. Đó là những tờ giấy bổ xếp
đôi, như thường lệ giấy xưa, lớn bản, mỗi bề 0,350/0,220m. Tất cả do 6 lối chữ
chép khác nhau: tài liệu I, II, XI - tài liệu IV - tài liệu V, VI rõ là tay một
ông già chép - tài liệu VII - tài liệu XIII - tài liệu III, VIII, IX, X, XII,
XIV. Tài liệu XIV có thêm chữ ghi chú của các viên quan thừa hành. Trừ ba bức
V, VI, VII chỉ có một niên đại 14-9 Cảnh Hưng 47 (4-11-1786) ghi ngày viết, 11
tờ còn lại có thêm niên đại chỉ ngày sao 25-5 Minh Mạng thứ 8 (19-6-1827) và có
dấu ấn bằng triện son Tả quân của Lê Văn Duyệt, mỗi bề 0,029/0,025m.
Tài liệu có tới hai thứ loại về giá trị chính xác như vậy nên
Cadière mới phải dè dặt phân tích. Ông chú trọng đến tập họp 11 bức thư có ấn
Tả quân. Ông lục lọi trong mớ thư từ liên lạc của các giáo sĩ thì thấy Taberd
có nói về việc đó.
Giám mục Taberd làm thông dịch cho Minh Mạng từ tháng 11-1826, viết
thư ngày 28-4-1828 nói đại ý như sau:
Minh Mạng lo bài đạo, Taberd bèn kể khổ với Lê Văn Duyệt là người
trong quá khứ có liên lạc với Pigneau và trong hiện tại là kẻ đối đầu với vị
vua chuyên chế này. Ông Tả quân mới thu thập các bức thư đem sao chép lại, định
dâng lên Minh Mạng làm bằng cớ về công ơn khôi phục đất nước mà Nguyễn Ánh xưa
kia phải chịu ở các giáo sĩ.
Mười một bức thư, theo Cadière, có lẽ lấy từ Sài Gòn ở Collège Lái
Thiêu lúc bấy giờ do L.M Régéreau coi sóc, nên có ấn son của Tả quân. Ba tài
liệu V, VI, VII gồm các bức thư Nguyễn Ánh gửi cho Pigneau, cho người cầm quyền
ở Pondichéry, sĩ quan trên tàu Marquys de Castries, vì lẽ không có liên quan
tới Collège nên có thể do Pigneau giữ. Sau khi Pigneau chết, các thư đó chuyển
về tay Giáo sĩ Labartette ở Cổ Vưu (Quảng Trị). Labartette trao cho Taberd,
Taberd được Lê Văn Duyệt triệu vào bàn tính khi Duyệt từ Gia Định tới Huế tháng
12-1827, nên mới vội vã đưa cho “Thượng công” 3 bức thư đó. Vì thế mới không có
ấn Tả quân.
Đó là một dây những giả thuyết mà Cadière đưa ra, dựa trên các tài
liệu về ngày giờ lui tới nơi sinh sống của các nhân vật liên quan tới các bức
thư. Nhưng cũng chính ông Cadière đã thấy nó hợp lý tới nỗi cho rằng, đối với
ông, “đó không phải là những giả thuyết nữa mà là biểu hiện của chính thực tế”.
Theo ông Nguyễn Khắc Kham đã chỉ cho chúng tôi thì 3 bức thư V, VI,
VII có thể được lưu trữ nguyên bổn, phần ở Pháp, phần ở Tòa Thánh La Mã và tới
khoảng 1833 sau khi Tả quân mất đi mới chuyển sao cho Taberd để tiện dụng.
Chứng cớ là bức thư V của Nguyễn Ánh gửi cho Bá-đa-lộc đã được P. Nghị dịch ra
tiếng La tinh có ghi rõ ở cuối bản dịch “ở đây có dấu nhà vua” (Archives de la
Propagande de la Foi, Acta Congregationis Particularis Super Rebus Sinarum et
Indarum Orientalium 1788-17990, vol. 16, p. 1531. Trả lời cho câu hỏi Cadière
đặt ra là Lê Văn Duyệt có đưa cả 14 bức thư lên cho Minh Mạng không, ông Nguyễn
Khắc Kham nghĩ rằng chắc Tả quân không dám đưa lẫn lộn 11 bức thư có ấn của
mình và 3 bức thư không có ấn thị thực, vì sợ mắc tội khi quân. Cả 14 bức thư
chắc là đã được Taberd xuất trình cho một ông quan dưới triều Minh Mạng để ông
này thản nhiên nói “bây giờ thì thời thế đã đổi khác rồi”.
Như vậy dù sao, 3 bức thư không có ấn Tả quân cũng lại thêm một lần
xác định giá trị như 11 bức thư kia.
Chú trọng đến giá trị sử liệu, ông Cadière cố khai thác về phương
diện này. Lời chú của ông dựa trên những tài liệu đối chiếu khác có một tính
chất xác thực đáng lưu ý. Chúng ta cũng có thể nói là phần lớn giá trị nằm
trong tính chất sử liệu của nó. Nó sẽ sửa lại cho chúng ta khỏi sai lầm về một
số niên đại mà các nhà chép sử của triều Nguyễn hoặc là chép không đúng, hoặc
đã dồn trong thời hạn mơ hồ 30 ngày trong tháng: “Năm X, xuân chính nguyệt,...
nhị nguyệt, tam nguyệt...”.
___________________________________________
1. Chúng tôi rất tiết là đã
không biết chữ La tinh để đọc bản dịch mà ông Nguyễn Khắc Kham bảo đánh máy cho
chúng tôi. Nhưng theo lời ông thì trong thư có những đoạn hơi khác với bức thư
số 5 đưa ra ở đây, và ngày tháng ghi cũng khác: ngày 4-9 Cảnh Hưng thứ 46
(1785) chớ không phải 14-9 Cảnh Hưng 47 (1786). Chúng tôi đi trong mù để mà
nghĩ rằng thư viết năm 1785 sao có thể nói chuyện tàu Goa mà Thực lục q3, 1a,
ghi vào đầu 1787? Và trong bản chữ Nôm hiện có ghi ngày tương đương với
23-10-1786? Paul Nghị khi dịch đã bỏ mất 10 ngày (14 thành 4) và lui lại một
năm chăng? Sai lầm trên có thể vì quáng mắt khi dịch nhưng còn sai lầm thứ hai?
Đáng chú ý hơn chính là thư Nguyễn Ánh viết ra trong lúc còn lưu
vong hoặc mới tái tạo cơ đồ, chưa vững vàng bề thế, khiến chúng ta thấy rõ con
người ông hơn, con người mà các sử quan tả bằng những sáo ngữ với những hình
ảnh, ý niệm dành cho các bực vua chúa Đông phương “thông duệ túc thành”, phước
mạng đế vương đến qua sông có cá sấu đưa đi, giặc đuổi có cây ngã chận đường phía
sau. Đọc thư, chúng ta thông cảm với một thường nhân lênh đênh lao khổ thốt lời
chua chát với số mệnh đắng cay, một người bạn thành thực chí tình, một người
cha thương nhớ con xa cách trong khi day dứt vì chưa làm tròn bổn phận với dòng
họ, tổ tiên. Chính tính chất có liên lạc mật thiết với cá nhân một nhân vật
lịch sử quan trọng này mà sử liệu đưa ra có thể liệt vào hàng quan trọng. Chúng
ta biết lịch sử ta thiếu những tài liệu tương tự: tài liệu của nhà Nho cung cấp
thì thuộc loại đã tổng hợp rồi, tài liệu của người ngoại quốc thì quá xa cách
về tâm lý ý thức, thói quen nên gây cho người xét lại những sai lầm.
Tài liệu còn lộ cho ta suy diễn về trường hợp những chuyển biến xã
hội lôi cuốn những quyết định cá nhân. Sử gia nhà Nguyễn coi Nguyễn Ánh như con
người, ngay từ lúc đầu, đã có sẵn những đức tính lãnh đạo cao độ, mưu lược
quyền biến. Sự thực trái lại. Hoàn cảnh nguy khốn cùng với những đưa đẩy lịch
sử đã nuôi dưỡng ông Hoàng này lớn lên. Việc phục quốc bắt đầu từ ngày Ánh rời
Long Khâu (làng Gia Long) ở Vọng Các về đổ bộ Rạch Giá; có ai ngờ rằng lòng
quyết thắng chỉ có ở các bề tôi Nguyễn Thiệm, Nguyễn Đô, Nguyễn Văn Thành, Lê
Văn Quân... chứ không có Nguyễn Ánh không?
Chúng ta hãy đọc một đoạn thư thứ 9: “... (Chẳng?) ngờ ngày ấy ra
đến Cà Mâu, Rạch Giá, thấy quân tướng Tây Sơn cùng thần thứ quy thuận nghe
nhiều, bèn thẳng vào...”. Đối với Ánh, việc về nước chỉ có ý nghĩa trốn chạy
khỏi sự rình mò kiểm soát của Rama I thôi: “Từ Xiêm quốc vọng chỉ cố đô là sự
phi đắc dĩ, xúc tưởng lưu lai thốn chỉ đặng thấu nguyên do, lại e tiết lậu cơ
mưu...”. Thế rồi lấy được Gia Định, ông vẫn không tin ở thực lực của mình mặc
dầu Nguyễn Văn Thành đã can ở Xiêm là đừng mong chờ viện trợ từ nước ngoài; ông
vẫn rên rỉ với J. Liot, nhờ ông này ngóng xem tàu phương Tây của Bá-đa-lộc đến
chưa.
Phát giác này có thể làm cho Nguyễn tộc và sử thần nhà Nguyễn buồn
lòng còn trái lại những “sử gia chống phong kiến” thì hả hê, nhưng vượt ra
ngoài những xúc động chủ quan của người sau, nó khiến cho bộ mặt đất nước xưa
cũ rõ rệt hơn, và đó mới là điều chúng ta thành thực muốn thấy.
Nhưng 14 thư này dịch ra tiếng Pháp làm mất một phần chứng minh nội
tại. Thực ra không thể đòi hỏi ông Cadière làm khác được một khi ông là người
Pháp (tuy ta cũng không quên ông rất giỏi tiếng Việt). Bản dịch chữ Pháp chỉ
còn giữ được những sự kiện lịch sử chính trị, quân sự mà thôi. Tình tiết tâm lý
vẫn có đấy, nhưng đọc lên chúng ta vẫn thấy có một chút gì xa cách. Chúng ta
phải phiên âm ra lần nửa thành thứ chữ “quốc ngữ” quen thuộc của thời này. Tất
nhiên giá trị tài liệu của chúng sụt xuống so với nguyên bản chụp ảnh. Những
người thông thạo chữ Nôm đã công nhận rằng không có một quy luật chính thức nào
định cho lối phiên âm thứ chữ xưa này, cho nên chúng ta thật phải dè dặt. Ở
đây, chúng tôi cố giữ cho lời thư có giọng đường Trong chắc là gần với sự thực
hơn. Chúng tôi giành mọi trách nhiệm sai lầm, sơ sót về mình trong khi không
quên xác nhận rằng chính khả năng riêng không đủ để làm công việc phiên âm này.
Chúng tôi đặc biệt cảm tạ giáo sư Bửu Cầm đã chỉ dẫn, đọc thêm những chữ khó
khăn vì lối viết, vì phai mờ.
Và vì đây là những tài liệu được sử dụng trong tập sách nên có
nhiều điều chúng ta sẽ hiểu rõ hơn khi ghép với các tiết 10, 11 chương IV.
Chúng ta lần lượt đi vào tài liệu:
Thư thứ nhất:
Tờ vu Thầy Cai trường2 ngỏ hay: nay vừa tiếp thấy người trong bổn
đạo Thầy cho đem mật tín cùng các lý mới3 tường để sự. Lại như trên này quan
quân theo thậm nhiều nhưng mà lương hướng còn mười hai ngày nữa, vậy nên sai
Thuộc nội Cai đội Sung Đức hầu lãnh tờ nhị phong cùng thập liêm bảy lượng theo
người bổn đạo đem xuống. Kíp sai người tâm phúc đem Sung Đức hầu cùng tờ xuống
trình qua Thượng sư ngỏ tường cơ sự, còn thập liêm thì sở cậy Thầy cùng bổn đạo
lấy vật ấy mà biện mãi lương mễ trợ khi nguy cấp, bằng mua được bao nhiêu, đa
đa ích thiện càng tốt. Như mua rồi phiền cậy bổn đạo trang tải lương ấy điệu
hồi giao nạp, tiện ư cấp phát. Nay tờ.
Cảnh Hưng năm thứ 44, tháng 11, ngày 22 (15-12-1783).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25 (19-6-1827), sao theo bản
xưa. (Khuôn dấu Tả quân).
Thư thứ hai:
Chỉ sai Thầy Cai trường môn đệ đẳng danh: nghi thừa ghe nhứt chích
phản hồi Long Xuyên sở hoạn dưỡng, đãi nhựt triệu lai khả tua tề tựu đồn sở ứng
hậu. Khâm tai. Đặc sai4.
Cảnh Hưng năm thứ 45, tháng 8, ngày 26 (10-10-1784).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả
quân).
_______________________________________________________________
1. L.M Cadière đánh số bản
chụp ảnh theo hai loại. Ở đây chúng tôi chỉ lưu lại con số thứ tự các bức thư
mà thôi (theo ngày viết).
2. Các tên Gia-cô-bê (thư thứ
IV, IX), Gia-bê-sa (VIII), Nha-cô-bê (X), Nhã-ca-bá (XI), Gia-cô-vi (XIII),
Li-ốt (XIV) đều là tên của Jacques Liot (1751-1811). Giáo sĩ này rời Paris
tháng 11-1776, đến Tourane, đến Sài Gòn 1779, coi trường Dòng 1780, qua
Chanthaburi (Chantaboun) 1784, đi Bangkok 1786, rồi về Chanthaburi, về Tân
Triệu (gần Biên Hòa).
3. Chữ 買 đọc “mới” ở đây, đọc “mãi” ở “biện mãi
lương mễ” cho hợp giọng văn Hán, lại vì lẽ cho hợp giọng văn Việt, đọc “mua” ở
“bằng mua được bao nhiêu”, “như mua rồi”, nhưng lại đọc “mấy” ở thư IX (“tri
ngộ mấy lâu”). Chữ Nôm ở đây thật đã giản dị hết mực.
4. Nguyễn Ánh đang theo 20.000
quân Xiêm dưới quyền Chiêu Tăng, Chiêu Sương. Vì vậy mới có thư gọi J. Liot về
Long Xuyên.
Toàn bức thư ý nói: “(tờ) chỉ sai Thầy Cai trường cùng các người
môn đệ nên theo ghe trở về Long Xuyên để (nơi này) nuôi dưỡng. Đợi ngày triệu
đến, khá nên tề tựu đến đồn sở chờ (lệnh). Kính vậy thay. Tờ sai riêng”.
Thư thứ ba:
Tờ vu Thầy Cai trường tâm chúc:
Từ Thầy theo Ta mà trở về thì Ta cùng Xiêm binh tựu tại Mân Thiết1
hạnh công Tây tặc, thủ thắng tàu 1 chiếc, hải đạo 5 chiếc. Nhẩn ngày sau trực
tấn xứ Lạch2, nay thì Xiêm binh đại tứ lỗ lược, dâm nhơn phụ nữ, lược nhơn tài
vật, túng sát bất dung lão thiếu3. Vậy nên Tây tặc binh thế nhựt thạnh, Xiêm
binh thế nhựt suy, cớ ấy qua tháng chạp ngày mùng 84 vừa thất lợi, các giai hội
tản. Lại ngày bị đại phong thì các ghe ngoài cồn an đổ như cố. Đến tháng mười
một bữa rằm5 thì ông Cả đã giá hải nhi hành. Như nay Ta phản bộ hành tại Cồn
Khơi, vậy sai quan Tham tướng đệ tờ trình tấu Nhị vương sự cớ6, lại có sai thầy
cả Minh tùng sự vào đó, phải đạt phiến tờ ngõ tường âm tín. Như cơ thường, biến
dường nào thì thầy Minh tựu đó sự cơ hiệp liệu cùng theo. Bằng có ghe, phiền tu
đưa thầy Minh trở về khải tấu ngỏ tường hư thiệt cơ yếu Xiêm tình. Trí ý. Nay
tờ.
Cảnh Hưng năm thứ 45, tháng 12, ngày 15 (25-1-1785).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả
quân).
Thư thứ tư:
Đạt tờ vu Linh mục Gia-cô-bê, Cai trường chiếu lượng:
Thả tiền nhựt vấn hậu an phủ? Tư nhân binh sự đặc sai Khâm sai
Thống binh Cai cơ Thành Tín hầu7 trúc xứ thể thám binh tình cơ quát. Cố thử đạt
tờ tiện tri để sự. Phàm chư lý lịch nhược hà, dĩ hữu chỉ giáo Thành Tín hầu
nhứt nhứt bị thuật, tiện giác. Bất tất đa đàm. Thị lượng8.
Cảnh Hưng năm thứ 46, tháng 6, ngày 1 (6-7-1785).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả
quân).
Thư thứ năm:
Chỉ dụ Bá-đa-lộc Giám-mục Thượng sư khâm tri:
Tự Tôn sư thừa thọ ủy ký quốc gia trọng nhiệm, đảnh lực viễn hành,
các phân Nam Bắc chí tư, Quả nhân thường vọng phong hoài tưởng hữu nhược cơ
khát. Tiền niên lục nguyệt đáo kỳ, tuyệt vô âm tín, sử bỉ hoài ưu muộn nan
kham9 Chẳng ngờ đến năm nay ngày 30 tháng 8 mới thấy Bảo-lộc sư cùng Khiêm
Quang hầu, Long Chính hầu giao biểu cho Quý Ngọc hầu10 tương hồi trình tấu tự
sự; nga văn nhược thất, thủy tri quốc tộ do tồn. Nguyễn gia hồng phúc lại tôn
sư cửu đảnh vãn hồi, chí tình ủy khúc, cựu lực điều tể ngọc thành kỳ mỹ. Thử
cao hậu chi ân ngũ nội minh khắc, một xỉ nan vong11, nên đã lăm quyết như lời
bẩm cáo, dự bị giá hành. Thùy tri nhơn nguyệt như thử, thiên ý vị nhiên12. Vì
tháng 9 ngày mùng 2 tàu An-tôn-nỗi bỗng đâu vừa tới có phụng tờ Hoàng hậu
Bút-tu-kê một phong, lại tờ quan Cai thành Cô-á dâng Quả nhân rằng đã sẵn binh
đóng tại Cô-á, chiến tàu 56 chiếc, nên cho sang rước Quả nhân. Cũng có tờ cho
Xiêm vương hai phong cùng lễ vật trung tiểu bính13 nhị thập khẩu với Tây dương
tế bố nhất bách thất14 khác chi lễ tạ Xiêm vương, xin rước Quả nhân về thành
Cô-á đặng phấn lữ tiễu trừ Tây tặc. Nhưng mà việc đã ủy nãi Thượng sư, đâu
khứng tư tình viện cầu tha quốc, phải uyển ngôn từ tạ đoàn ấy mà thôi. Nhơn vì
cớ ấy, Xiêm vương hóa sự sanh nghi e Ta theo tàu ấy, hằng ngày cho người do
thám nên nỗi khổ lòng liệu lý. Như trong thập nguyệt khởi trình cứ lời chủ tàu
Li-xi-ri15 khắc ước lẽ còn chưa tiện. Phải chờ tàu An-tôn-nỗi lui khỏi cho Xiêm
vương giản bớt lòng nghi, khi ấy liệu toan mới tiện. Nên phải sai Quý Ngọc hầu
tựu tại Thổ Châu phân cùng các chủ tàu mà cầm Bảo-lộc-sư lại cùng xin một tên
hoa tiêu và súng các vật để lại. Sau vài tháng Quả nhân sẽ theo mà tàu được về
trước đệ tờ cho Thượng sư cùng quan Cai thành được hay. Còn Thiếu quân ấu tử
thì phó mặc lượng Thượng sư định liệu nỗi ở nỗi về, làm sao cho đẹp ý Thầy thì
Quả nhân cũng đẹp. Bằng vua Đại Tây có tình đoái hoài đến tiểu bang cho binh
giúp Quả nhân thì Thượng sư gắng mà về thì phân ưu mới được. Sự tu cẩn thận,
vật khả từ lao. Tư dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 47, tháng 9, ngày 14 (4-11-1786).
_____________________________________________________
1. Phiên âm Nôm của tên một
ấp, một con rạch quen gọi là Mang Thít trong quận Minh Đức, tỉnh Vĩnh Long hiện
tại.
2. Địa điểm còn lại ở tên
quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long.
3. “Xiêm binh tha hồ cướp
bóc, hiếp phụ nữ, lấy của người, giết bừa không chừa già trẻ”.
4. 18-1-1785
5. 26-12-1784. L.M Cadière
đọc thiếu chữ “một” thành “tháng mười bữa rằm” chuyển qua dương lịch là
27-11-1784 (không hiểu sao L.M lại ghi ngày 25-11-1784?). Từ thời điểm này, ông
so với ngày Pigneau đến Malacca 19-12-1784 (thư ở Pondichéry ngày 20-3-1785),
A. Launay, III, t. 91, 92) để tính chuyến hành trình là 24 ngày. Thực ra có
phải ngày rằm tháng 11 Giáp Thìn là ngày Cảnh từ giã Ánh đi cầu viện không? Tất
là không vì khởi hành 26-12 mà sao 19-12 tới Malacca? Thư Bá-đa-lộc kể trên có
nhắc chuyện gặp Ánh vào tháng 12 ở cù lao Thổ Châu khi Ánh bỏ quân Xiêm, trao
Cảnh cho Bá-đa-lộc, để mình lại theo quân Xiêm đến đón ở Coal (Réam, Trũng Kè).
Như vậy, ngày Cảnh đi, Ánh có mặt. Ngày “ông Cả giá hải nhi hành” này chắc là
ngày rời Malacca vì Bá-đa-lộc cho biết toán đi cầu viện đến Pondichéry khoảng
cuối tháng 2-1785 và mặt khác, ta thất sử quan vẫn gọi vùng Ấn thuộc Pháp là
Tiểu Tây Dương quốc.
“An đổ như cố”: bình an như
cũ.
6. Sứ đi Xiêm gồm Mạc Tử Sanh
(con Mạc Thiên Tứ) và Cai đội Trung (Thực lục q2. 15b).
7. Tiền quân Nguyễn Văn Thành
sau này. Chúng ta lưu ý rằng tước phong của một người được hợp bằng tên chính
của họ đằng trước rồi tiếp theo một tính từ, trạng từ, toàn bộ thành một ý
nghĩa tốt đẹp như “Đức Nhuận hầu” Nguyễn Huỳnh Đức, “Thắng Toàn hầu” Nguyễn Văn
Thắng (J. B. Chaigneau).
8. “Đưa thư nơi Linh mục
Gia-cô-bê Cai trường chiếu xét: thăm ông những ngày vừa qua có được bình an
không? Nay nhân việc binh, riêng sai Khâm sai Thống binh Cai cơ Thành Tín hầu
thẳng đến để dò xét binh tình bao quát; cho nên đưa thư (này) để (ông) tiện
biết tận tường. Phàm các lý lịch như thế nào thì chỉ giáo Thành Tín hầu cho đầy
đủ. Chẳng phải nói nhiều. Xét cho”.
9. “Tự tôn sư nhận lời gửi
gắm việc nước nặng nề, ra sức đi xa, phân cách Nam Bắc đến nay. Quả nhân thường
hướng gió mà nhớ mong như là đói khát vậy. Kỳ hẹn tháng 6 năm trước đến mà
không tin tức gì hết khiến kẻ quê này tưởng nhớ buồn phiền không chịu được”.
Để hiểu thư này cùng ba thư sau, ta phải
nhắc tới việc Bá-đa-lộc đi cầu viện. Lên đường khoảng tháng 12-1784, Giám mục
với Hoàng tử Cảnh và đoàn tùy tùng đến Malacca rồi Pondichéry. Ở đây,
Coutenceau des Algrains, người Xử lý Toàn quyền thuộc địa Ấn Độ của Pháp không
nghe lời Giám mục. Charpentier de Cossigny, Toàn quyền thực đến quyết định gửi
Pigneau của Pháp trên tàu Malabar. Đi theo Hoàng tử Cảnh có 43 người tùy tòng,
trong đó có Phạm Văn Nhân, Phó vệ úy, Nguyễn Văn Liêm, cai cơ. Một số người
khác ở lại Pondichéry trong đó có Paul Nghị (Bảo-lộc Nghị, Hồ Văn Nghị) và Trần
Văn Học.
De
Cossigny đồng ý với Chevalier d’Entrecasteaux coi thủy quân Đông Ấn, gửi chiếc
tàu Marquis de Castries dưới quyền De Richery đi dò tình hình. Lệnh trao ra có
điều khoản rước Nguyễn Ánh nếu ông ta muốn. Bọn Hồ Văn Nghị theo tàu trở về ghé
lại Thổ Châu dâng sớ xin đón Nguyễn Ánh. De Richery tiếp tục nhiệm vụ dò xét.
Có lẽ thấy Tây Sơn đang khuynh đảo Bắc Hà thế lên như cồn, nên lúc trở về, ông
không chờ đón Nguyễn Ánh cùng đi mà chở Hồ Văn Nghị đi luôn Pondichéry (xem thư
thứ VIII).
10. Như lời chú trước, Khiêm
Quang hầu, Long Chính hầu, Quý Ngọc hầu là tước của các tướng có tên Khiêm, tên
Long, tên Quý, L.M Cadière thấy Thực lục (q2, 5a) có tên Nguyễn Văn Liêm đi
theo Hoàng tử Cảnh vội cho đó là chữ Liêm viết lộn qua. Thực ra Khiêm Quang hầu
thuộc lớp người ở lại với Hồ Văn Nghị (Bảo-lộc sư: Thầy Paul). Thư De Richery
gửi cho Bộ trưởng Hải quân Pháp ngày 5-6-1786 (A Launay. III, t. 167) báo Cảnh
có 43 người theo. Vậy theo Cảnh là 1 vị Hoàng thân (Cai cơ Nguyễn Văn Liêm), 42
người hầu và bộ tốt. Sử quan nhà Nguyễn tuy chép việc theo lối biên niên nhưng
vì sau này mới lập sách nên kể rõ Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm là những người
đã qua Pháp thật sự. Khiêm Quang hầu... là những kẻ ở lại dưới quyền của Hồ Văn
Nghị, nên sớ dâng về, sử quan chỉ ghi tên Nghị là đủ (Thực lục q2, 21b). Kẻ đi
người ở thực tách biệt rõ ràng.
Có một tên Nguyễn Văn Khiêm cùng Lê Văn
Duyệt theo thuyền vua long đong ở Hòn Chông, hòn Thổ Châu rồi cũng Nguyễn Văn
Khiêm và Lê Văn Duyệt bị lưu lại sau trận Đồng Tuyên (tháng 4 âl 1783), đến bái
yết ở hành tại lúc Ánh theo Xiêm binh về (Thực lục q2, 14a, mục tháng 11 âl
1784). Sự việc lẫn lộn nhưng cũng chỉ một người. Vậy Khiêm Quang hầu chắc là
Nguyễn Văn Khiêm này vậy.
Cũng vì cho Nguyễn Văn Khiêm là Nguyễn
Văn Liêm, nên Cadière mới đoán Phạm Văn Nhân là Quý Ngọc hầu hoặc Long Chính
hầu, trái với nhận xét lấy tên người đặt tên tước như ông đã thấy. Quý Ngọc hầu
là Ngô Công Quý, người được Ánh sai rước Quốc mẫu (Thực lục q2, 10a). Có một
tên Nguyễn Văn Quý, Cai cơ, đánh Đông Sơn với Phan Văn Tuyên tháng 5 âl nhuận
1781 (Thực lục q1, 4a), cùng với Dương Văn Trừng đánh Bến Lức của Tây Sơn tháng
5 âl 1782 (Thực lục, q1, 19a), nhưng lại bị Tây Sơn giết trong trận Đồng Tuyên
tháng 4 âl 1783 trong khi đang cầm quân cánh hữu (Thực lục, q2, 2a). Còn Long
Chính hầu có lẽ là Thượng đạo tướng quân Nguyễn Long sau này. Nguyễn Long là bộ
tướng của Châu Văn Tiếp theo ông này từ Phú Yên vào trong chuyến đánh Gia Định
chống Hộ-bộ Bá, Đỗ Nhàn Trập (Thực lục, q1, 19ab). Tiếp chết ở Mang Thít, Lê Văn
Quân lên thay làm Tổng nhung, đến tháng 5 âl 1785 thì mang 600 người vào Vọng
Các lập đồn điền để lấy lương chi dụng (Thực lục, q2, 17ab). Vậy Nguyễn Long có
thể ở vào đám người này để chịu quyền sai phái của Nguyễn Ánh.
11. “Xảy nghe tưởng mất, mới
hay quốc tộ vẫn còn; Nguyễn Gia phúc lớn nhờ tôn sư đem về chín đỉnh, tận tình
khúc nôi, ráng sức cứu vớt cho nên (ngọc thành) vẻ đẹp; cái ơn cao dày ấy khắc
in trong lòng, đến già (mất răng) không quên...”. Đoạn này Cadière dịch hơi
khác: (Nous sommes rendus compte) que le respectable Maitre nous ramènera les 9
urnes, en traitant avec tout son coeur cette affaire difficile en nous aidant
de toutes ses forees. Vous êtes parfait comme un jade qu’on a façonné...”
12. “Ai hay ý người muốn vậy
mà ý Trời không chịu”.
13. Theo Cadière, Từ hải ghi
“bính” là cứng, chắc, Génibrel viết chữ Bính không có bộ Kim bên cạnh, coi là
một chữ Nôm và giải là “súng binh” An-tôn-lỗi (hay nỗi) là Antonio Vincente de
Rosa. Cô-á là Goa. Bút-tu-kê là Portugal.
14. “Vải tây nhỏ mịn 100 tấm”.
15. De Richery.
Thư thứ sáu:
Chỉ dụ Tổng suất quản thủy binh nơi Ấn-di-a1, quan Cai thành
Phong-ti-sê-ri nhị vị khâm tri:
Năm trước Quả nhân có sở cậy Bá-đa-lộc Giám mục Thượng sư đem Hoàng
tử sang quý quốc cầu binh đã lâu tuyệt vô âm tín, Quả nhân áy náy hằng lo.
Chẳng ngờ đến năm nay tháng 8 mới thấy biểu hồi trình mới tường tự sự, thì Quả
nhân rất bội lòng mừng rằng năm trước Giám mục Thượng sư có tính việc ấy cùng
quan Tạm quản, nhưng phải người không tình nhân ái, chẳng hay trợ nhược phò
nguy, nên không tính đặng việc chi. Nay mới gặp tân quan nhị vị là đấng kinh
văn vĩ võ, nhơn trí kiêm toàn, khảng khái lạc thi, đại hữu cứu hiểm phò điên
chi chí2, nên sai thủy bộ nhị quan thừa chiến tàu sang đây hộ nghinh bảo quốc.
Điều ấy Quả nhân xiết chi khong khen3 cảm tạ. Vì cấp thông chi trừ, nhất trích
cam lộ, huống lâm vũ đại bái sinh ngã hạn miêu hồ. Hạ nhị vị cao nghị bất sí,
đái đức Hoa, Tung, thừa ân Giang, Hớn4, tuy chưa thấy mặt thiệt đã biết lòng.
Cũng đã hòng ngự giá theo tàu ngỏ kíp được hoan đàm hiệp mặt. Chẳng ngờ nhơn
nguyện như thử, thiên ý vị nhiên. Vì tàu Cô-á vừa tới có phụng tờ Hoàng hậu
Bút-tu-kê cùng tờ quan Cai thành Cô-á sang rước quả nhân, lại có tờ cùng lễ vật
cho Xiêm vương làm cho đẹp lòng vua ấy mà rước Ta cho dễ. Nhưng vậy Quả nhân
cũng chẳng khứng theo vì chí quyết xưa nay giao lân cùng Ba-lang-thê mà thôi,
chẳng khứng cùng nước khác. Nhơn vì tàu ấy nên Xiêm vương hóa sự hồ nghi, liệu
tính theo tàu ta chưa tiện, nên phải cho chủ tàu đệ tờ về trước còn Quả nhân
thì ở lại. Vài tháng sau Ta sẽ ngự sang. Tư dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 47, tháng 9, ngày 14 (4-11-1786).
Thư thứ bảy:
Chỉ dụ Li-xi-ri thủy binh quan, tính Ba-đô-đông5 bộ binh quan cập
chiến tướng đẳng khâm tri:
Phò nguy trì điên nhơn nhơn chi mỹ thái, bài nạn giải phân kinh tế
chi diệu dụng. Nhơn nay Ta gặp thời tao loạn mông trần tha quốc, nhị vị hữu tâm
bất nhẫn, vô từ bạt thiệp chi lao, phụng sai hàng hải thiên lý nhi hân duyệt
phi thường, bất quản ba đào phong cụ, bất nại mộc vũ trất phong, chẳng những đồ
hành lý tiêu nhiên lại thêm thông ngôn cùng ghe phải mất (công?) lặn lội (-?)
sang để nghinh giá. Ước khổn khổ công lao ấy Quả nhân lấy chi báo cho cùng. Tuy
nhị vị khẳng khái lạc thi chưa thường vọng báo, nhiên hốt lược chi lễ, Quả nhân
thường quý ư tâm, nhũng trung bất đắc thù tạ, tất mông nhị vị lượng chi. Tự thử
lập cơ hưng chỉ giai xuất vu nhị vị chi công, khởi vong tháo tựu tai?6 Như
Bảo-lộc sư, Khiêm Quang hầu biểu hồi bẩm tấu rằng nhị vị ước kỳ thập nguyệt
khởi trình, Quả nhân đà dự bị giá hành. Thùy tri thiên lý vị nhiên bất như kỳ
nguyện. Vì mùng 2 tháng 9 (23-10-1786), tàu Hoa Lang bỗng đâu vừa tới có phụng
tờ Hoàng hậu Bút-tu-kê một phong, lại tờ quan Cai thành Cô-á một phong dâng Quả
nhân rằng đã sẵn binh đóng tại Cô-á, tàu chiến 56 chiếc nên cho sang rước Quả
nhân. Lại đem tờ cho Xiêm vương hai phong cùng lễ vật trung tiểu bính nhị thập
khẩu, với Tây dương tế bố nhất bách thất, lễ tạ Xiêm vương mà xin rước Quả nhân
về thành Cô-á đặng phấn lữ tiễu trừ Tây tặc. Tuy vậy, Quả nhân cũng chẳng khứng
theo vì đã biết nhị vị qua đây có lòng cùng Ta dường ấy, nỡ lòng nào theo đó bỏ
đây, nên phải uyển ngôn từ tạ nhi dĩ. Nên vì cớ ấy Xiêm vương hóa sự sinh nghi
e Ta nương thế theo tàu ấy, hằng ngày cho người do thám khó nỗi liệu toan. Như
ước kỳ thập nguyệt khởi trình, ắt7 nay còn chưa tiện nên phải sai Quý Ngọc hầu
tựu phân cùng nhị vị, cậy giúp Ta một tên hoa tiêu, súng cùng các vật. Đã có
Quý Ngọc hầu trình báo để lại cho Ta còn tàu thì đệ tờ về trước cho Thượng quan
được rõ, sau Ta sẽ giá hành sang đó. Vạn sự khởi đầu nan, mạc từ lao khổ. Tư
dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 47, tháng 9, ngày 14 (4-11-1786).
________________________________________________________
1. India.
2. “... nhị vị là đấng văn
trị võ tài, gồm đủ nhơn trí, khảng khái vui làm, có chí lớn cứu hiểm phò
nguy...”
3. “Cao rao khen ngợi”
4. “Vì lúc gấp gáp, một giọt
nước là một giọt cam lộ quý báu, huống là mưa lớn làm sinh sôi nảy nở lúa má
khô khan của Ta. Tạ ơn quyết định cao cả; mang đức như núi Hoa, Tung, gánh ơn
như sông Giang, Hớn của nhị vị...”
5. Có thể là Berneron, tên
người phụ tá của De Richéry.
6. “Phò nguy giữ ngã là sự
tốt đẹp của người có lòng nhân, là cái diệu dụng của sự bài nạn gỡ rối, cứu
trị. Nhân nay Ta gặp thời tao loạn tối tăm ở nước ngoài (mà) nhị vị có lòng bất
nhẫn, chẳng nề cái nhọc nhằn, lặn lội phụng mệnh sai vượt biển ngàn dặm mà lòng
vui đẹp chẳng thường, chẳng ngại sóng to, gió cả, đội mưa, chải gió, chẳng
những đồ hành lý mất đi, lại thêm thông ngôn cùng ghe phải mất (công?) lặn lội
sang để nghinh giá. Ước khốn khổ công lao ấy, Quả nhân lấy chi báo cho cùng.
Tuy nhị vị khẳng khái vui làm chưa từng mong báo, nhưng lễ tiếp sơ sài, Quả
nhân từng thẹn lòng lúc rối ren không thể thù tiếp, cảm tạ, tất mong nhị vị
lượng thứ cho. Từ hưng khởi dựng lập căn bản đều là công nhị vị, (Ta) há quên
sự thành tựu đâu”.
7. Ở đây chữ “ắt” đọc là (ắt)
( 瑥không tìm được chữ) ; thư thứ
X, chữ “ắt” (“như thủy binh Ta thời ắt còn trụ...”) viết là (ắt) Z. Chữ (không
tìm được chữ) (ốt) dùng ở thư XIV phiên âm tên J.Liot (Li-ốt) rất dúng, không
hiểu sao Cadière viết “Li-ỗn”.
Thư thứ tám:
Chỉ dụ Gia-bê-sa Cai trường khâm tri:
Vả việc Cô-á quốc sai tàu sang, cùng việc Ta sai phục sứ, thì đã
sai Khiêm Hòa hầu, Chiêm Mẫn hầu1 dụ tường để sự nguyên do. Ta từ đặng tin tàu
Hoa-lang-sa nhẩn nay hằng cảm công ơn Thầy Cả chẳng cùng, cạy cạy luống trông
tàu trở2 lại, ngày kể ba thu. Vừa Quý Ngọc hầu diện báo (- ?) tàu đã tựu tín sở
ước trong cử sự đặng hiệp cơ nghi. Lại tiếp thấy hai quan tàu cùng Cai trường khải
văn, gẫm biết nhơn sự đa quai, thiên tâm nan tín. Song hai quan tàu cùng
Bảo-lộc Nghị hồi bản thành trình quan Cai thành cùng Thầy Cả lo giúp Ta. Thể âu
thiên lý, nhơn sự tương vi thủy chung, thủy tuy thùy súy chung năng phấn dực3.
Vốn Ta đà thỏa lòng, mựa hề quải niệm. Khâm tai. Đặc dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 48, tháng 2, mùng 1 (19-3-1787).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả
quân).
Thư thứ chín:
Chỉ dụ Gia-cô-bê thầy Cai trường khâm tri:
Vả Ta cùng thầy Cai trường nhơn tuy biệt quốc nghĩa tợ đồng hương,
tri ngộ mấy lâu thâm tình đà tỏ biết. Từ Xiêm quốc vọng chỉ cố đô là sự phi đắc
dĩ, xúc tưởng lưu lai thốn chỉ4 đặng thấu nguyên do, lại e tiết lậu cơ mưu.
(Chẳng?) ngờ ngày ấy ra đến Cà Mâu, Rạch Giá thấy quân tướng Tây Sơn cùng thần
thứ quy thuận nghe nhiều, bèn thẳng vào phủ Gia Định. Đã thâu phục Vĩnh Trấn,
Trấn Định nhị dinh, lại Lưu thủ Khoa đã thâu phục Trấn Biên dinh. Còn một ngụy
Sâm nọ cậy tàu thuyền song còn ỷ thế trường giang cự địch nên thắng phụ vị
phân. Vừa năm trước, tháng chạp ngày 28 (4-2-1788), mừng thấy thiên lý tiên lai
nhứt phong tôn tặng, kỳ nguyện phục quốc, tương ngộ hữu kỳ, lòng Ta bất thăng
tước dược5, ngỏ phải bộc bạch quốc gia cơ chỉ cùng Thượng quan. Tứ tặng đẳng
vật, sai Khâm sai Tổng nhung Cai cơ Bảo hộ Nhàn Vân hầu6 đệ tựu ngỏ tường để
sự. Như Thầy Cả với Thân tử Ta qua tại Đại Tây Dương quốc từ ấy nhẫn nay, âm
mang vị thấu. Bằng Thầy cư (-?) cận cảnh, dầu có tin tức lai thông khá kíp tả
ký tâm thơ vãng chiếu kẻo khát vọng bất thắng, quan sơn vạn lý, hoài niệm nhất
thành. Khâm tai. Đặc dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 49, tháng 1, ngày 6 (12-2-1788).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 2, sao theo bản xưa. (Dấu Tả
quân).
Thư thứ mười:
An Nam Quốc vương7.
Tờ vu Cai trường Thượng sư Nha-cô-bê ngọc hiên nhiệm chiếu: Từ Ta
đề binh phá Tây đồ thì bộ binh đã thâu phục Gia Định phủ các xứ, còn thủy binh
nó thì trụ Mỹ Tho cùng Bến Nghé thắng phụ vị phân. Như thủy binh Ta thì ắt còn
trụ Trà Lọt. hằng ngày trông tin Đức Bá-đa-lộc Thượng sư cùng Con Ta tiêu tức
dường nào. Qua tháng 11 thấy Đội Dung tựu bẩm rằng Thượng sư có tờ quốc sự sai
Đội Dung đệ thử tờ ký bẩm, chẳng ngờ Đội Dung tới vàm8 Rạch Giá xảy gặp Tây Sơn
là thằng Lý sai ghe thiện hành xứ ấy nên Đội Dung vội bỏ tờ ấy xuống nước mà
Đội Dung ngoại bẩm các lý, hư thiệt vị tường. Vả Ta hằng lo binh gia không hở
lại chưa đặng người quán tín Thượng sư nên chưa sai đệ tín thư, lòng hằng thổn
thức. Nay có Nội viên Thuyền chủ Huấn Đức hầu là tôi tâm trường vả lại gia tư
xứ ấy lai khứ tiện thông mới sai đệ tờ trình chiếu. Như Đức Bá-đa-lộc cùng Con
Ta viện binh Quý quốc đã trụ xứ nào, khá đệ tờ cho Ta tường hiểu. Lại như tờ ấy
thì sai Cai đội Thọ đệ tựu bẩm văn cho tường để sự, vật sai tha nhân liệu sự
bất thành. Trí ý. Nay tờ.
Cảnh Hưng năm thứ 49, tháng 1, ngày 15 (21-2-1788).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 2, sao theo bản xưa. (Dấu Tả
quân).
__________________________________________________________
1. Có lẽ Cai bạ Nguyễn Thiệm,
người cùng Giám quân Tống Phúc Đạm, Thị giảng Nguyễn Đô... đến hành tại trình
bày tình hình “đơn nhược” của Gia Định và xúi bảo Ánh về nước (Thực lục q3,
1b). Hai chữ “chiêm” 瞻
và “thiệm” 贍
rất gần nhau và có thể lẫn lộn. Khiêm Hòa hầu chắc là Nguyễn Văn Khiêm nay đổi
tước.
2. Chúng tôi phiên chữ “trở”
từ 呂
(lữ) cùng như “luống trông” từ 隴 寵 (lũng lung). Địa điểm Thán Lung được hiểu
là Thang Trông (không cần đến chữ Vọng Thê) là từ nhận xét này.
3. “Lẽ trời, việc người nhất
loạt cùng làm cho có đầu có đuôi, ban đầu thì rũ cánh (bại) nhưng cuối thì sẽ
vươn lên”.
4. “Nhớ đốt tay để lại” (J.
Liot).
5. “Chẳng ghìm nhảy nhót”
(nóng nảy).
6. Nguyễn Văn Nhàn. Tên được
xác định vì ở đây có nêu tước vị “Bảo hộ” thấy hầu hết suốt những đoạn Thực lục
có nhắc đến viên tướng này.
7. Lời tự xưng đã thay đổi vì
Nguyễn Ánh đang chiến thắng
8. Vàm (沈 trầm), Cadière dịch embouchure rất đúng vì
đó là danh xưng địa phương chỉ nơi sông con đổ ra sông lớn hay sông đổ ra biển.
Thư thứ mười một:
Chỉ dụ Nhã-ca-bá Cai trường sư khâm tri:
Vả Cai trường tuy người dị quốc, song có dạ ân cần, hết lòng ưu ái
tấm lòng thương cảm chẳng cùng. Như ngoài này năm nay tháng 3 thì Tây Sơn là
thằng Hưng cất đại binh giúp thằng Sâm mà chống đánh cùng Ta, thì chúng nó đã
ghe phen đại bại, tử thương rất nhiều. Sao vậy nội tháng 6 thì Ta cũng đánh
đặng Sài Gòn mà chớ. Như Con Ta từ thuở tha bang cùng Thầy Cả nhẫn nay, Ta tấm
lòng khát vọng, độ nhựt như niên. Ơn có1. Cai trường bẩm văn về rằng đã thật
tin đến nước Ba-lang-sa mà đều bình yên vô sự, nên Ta giản tấm lòng lo, vui
mừng chẳng xiết. Như binh giúp có ra đến đó thì Cai trường giục ra cho kíp,
bằng chưa ra thì tin tức làm sao, hoặc lái Điểm2 về hỏi làm sao, khá tốc cụ bẩm
văn ngỏ tường áo để. Lại như thương tàu phương Tây có qua thì Cai trường dục ra
ngoài này đặng Ta y giá biện mãi binh khí tiện dụng binh vụ mà Ta đều tha thuế
hạng. Như Cai trường đã có lòng ưu ái cậy cùng giúp lo mọi việc, sau dầu bờ cõi
đạt yên thì hãy một trường cá nước, ơn phỉ đền ơn. Quan sơn thiên lý, tâm tự
bán tiên3. Khâm tai. Đặc dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 49, tháng 5, ngày 29 (2-7-1788).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả
quân).
Thư thứ mười hai:
Chỉ dụ Thầy Cai trường khâm tri:
Do tháng 6 ngày 25 (28-7-1788), Ta đề binh công phá Tây tặc đã thâu
phục Ba Giồng, Bến Nghé, Đồng Nai, Bà Rịa toàn bức rồi vậy. Thủy bộ binh chúng
nó kinh tâm thối hạ, xuất nhập hải môn, phòng toan phá dân cướp lương, nên ta
còn kiểm điểm thủy binh vội thành nhứt chiến cho tuyệt hậu ưu, ấy là cơ binh.
Được vậy nên phải lời cùng Thầy Cai trường: như Đại Tây Dương các chiến tàu
thủy bộ binh đã hội tựu, tua khá trình lai ngỏ tường cơ chỉ, đặng quản binh ấy
lại ngả Vịnh Tàu4 cho mau, trước là vây đón chúng nó sau là tiện đường nghinh
tiếp, đặng thừa thắng trường khu. Hễ binh quý thần tốc, chớ khá khiên diên, kẻo
tới tiết nghịch phong, quân lương nhựt phí. Thiên lý yên ba, thốn thành khẩn
khoản5. Khâm tai. Đặc dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 49, tháng 8, ngày 28 (27-9-1788).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả
quân).
Thư thứ mười ba:
An Nam Quốc vương thơ vu Gia-cô-vi Thầy Cai trường bình an hiệp
hay: từ Ta phục hồi cố quốc, đường tuy xa cách, lòng tưởng xưa nay ơn có, nghĩa
có, ghi dạ không quên. Như tàu Hòa-lan-sa6 trông chưa thấy đến. Vả tháng 8 Ta
đánh Tây tặc vừa yên, về ở Sài Gòn, có dạy sứ7 đem lễ vật vào tạ đức Phật vương
cùng Nhị vương, tuy là bạc lễ, dùng thảo tấm lòng. Như sứ đã vào đến nơi mà
dưng lễ ấy, hay là chưa vào đến nơi, cớ sao chẳng thấy tiêu tức tín hồi. Lại
như lượng đức Phật vương cùng Nhị vương có lòng thương Ta mà giúp binh khí hay
dạy lượng nào thì Thầy Cai trường bảo tín thơ cho biết, kẻo đường nghìn dặm,
trông đợi một phương. Khuyến khá ân cần, mựa đừng thất tín. Nay thơ.
Cảnh Hưng năm thứ 49, tháng 12, ngày 24, (19-1-1789).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả
quân).
Thư thứ mười bốn:
Hành Lại bộ Trí Lược hầu8 thừa lệnh sai thầy Tấn nghi tựu Long
Xuyên đạo, lãnh tiền nguyệt dĩ cụ chiến ghe nhứt chích, tính hiệp súng nhị
khẩu, cập trạo giả tứ danh, tốc tụ Chân-bôn xứ nghinh Li-ốt Cai trường sư cập
bản trường đẳng đệ hồi Sài Gòn yết kiến hành tại. Vụ tu vận tốc, vật khả kê
trì. Nay sai.
Cảnh Hưng năm thứ 52, tháng 1, ngày 18 (20-2-1791)9.
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5 ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tá
quân).
_____________________________________________________
1. Cadière âm là “cố”, giải
là “từ ngữ dùng gọi các linh mục: ông cố”. Chữ “cố” đó là khuất, xưa, viết khác
故 trong khi chữ “cố 固 trong bản văn luôn luôn phải đọc là “có”
mới có nghĩa (thư V, IX, XIII). Trong suốt các bức thư chỉ thấy Nguyễn Ánh gọi
các L.M là Thầy Cả, gọi J. Liot là Cai trường, Thầy Cai trường, chớ không gọi
là “ông cố” như danh xưng người bình dân ta gọi các L.M tây, phân biệt với các
“cha” L.M ta.
Câu văn nếu nhận chữ “có”, tránh được các
thắc mắc trên mà vẫn giữ được ý nghĩa: “... ơn có Cai trường (đưa, thảo) bẩm
văn về...”
2. Cadière dịch: “... ou si
le pilote Điểm est en retour...”. Không thể biết rõ ràng hơn. Bên cạnh chữ
“hỏi” có âm thêm chữ “nói”.
3. “Quan sơn ngàn dặm, tấm
lòng bày tỏ (trong) nửa tờ thư”.
4. Chữ viết như vậy nhưng có
lẽ phải đọc Vũng Tàu mới đúng hơn.
5. “Kẻo tới tiết gió ngược,
tổn phí lương binh hàng ngày. Ngàn dặm khói sóng, một tấc lòng thành”.
6. Hòa-lan-sa ở đây,
Hoa-lang-sa ở thư VIII, Ba-lang-thê thư VI, Đại-tây-dương quốc thư IX đều chỉ
nước Pháp.
7. Thực lục q.3, 19b gọi là
sứ “báo tin chiến thắng” (báo tiệp) song ở đây rõ ra là chủ tâm đi cầu viện.
8. Tước của J.M. Dayot nhận
từ tháng 6-1790. Đại ý toàn bức thơ: “Trí Lược hầu phục vụ lưu động cho Bộ Lại
theo lệnh sai thầy Tấn nên đến đạo Long Xuyên lãnh một chiếc ghe đã chuẩn bị (ở
đấy) từ tháng trước với hai khẩu súng, 4 tay chèo, đi đến xứ Châu-bôn đón thầy
Cai trường Li-ốt cùng toàn trường đưa về Sài Gòn, yết kiến ở hành tại. Việc nên
làm mau, chớ chậm trễ. Nay sai”.
9. Bản chụp ảnh viết rõ ngày
tháng “... chính nguyệt, thập bát nhật”, không hiểu sao Cadière đã dịch “1 lère
lune, 18e jour” mà lại chuyển qua Tây lịch là 19-6-1791. Chuyển đúng thì đó là
ngày 20-2-1791 như trên. Ngày 19-6 là ngày 18-5 âm lịch. Cadière nhìn lộn chữ
“chính” 正
thành chữ “ngũ” 五
chăng?
SÁCH BÁO THAM KHẢO
Chú:
Tài liệu tham khảo liệt kê có 4 phần: những sách, báo có tính cách
chỉ dẫn khảo cứu thư tịch, những sách, báo có tài liệu bằng chữ Việt (các tác
giả Việt Nam viết tiếng Pháp kê vào phần tiếng Pháp, những tác giả Việt viết
chữ Hán mà tác phẩm đã được dịch ra chữ Việt cũng kể vào đây), những tài liệu
viết bằng chữ Hán, và sau hết, những tài liệu sách, báo viết bằng chữ Pháp. Tên
người kể theo thứ tự abc (người Việt kể cả họ). Đối với những tác phẩm tập thể
thì lấy đề sách hay lấy cơ quan soạn thảo thay vào cho cá nhân. Ví dụ các sách
Thực lục, Liệt truyện... đều nằm dưới tên Quốc Sử Quán.
Chữ viết tắt:
Bđd: bài đã dẫn
Sđd: sách đã dẫn
q: quyển
t: trang.
BAVH: Bulletin des Amis du
Vieux Hue.
BEFEO: Bulletin de l’Ecole
Française d’Extrême-Orient.
BSEI: Bulletin de la
Société des Etudes Indochinoises.
NP: Nam Phong tạp chí
RI: Revue Indochinoise.
I. Thư tịch chỉ dẫn
1. Huỳnh Khắc Dụng, Sử liệu
Việt Nam, Sài Gòn, Bộ QGGD, 1959.
2. Cadière, L. và Pelliot,
P., “Première étude sur les sources annamites de l’histoire d’annam”, BEFEO,
IV, 1904, t. 617-671.
3. Gaspardone, E.,
“Bibliographie annamite”, BEFEO, XXXIV, 1934, t. 1-173.
4. Tavernier, E., De la
nécessité d’écrire l’histoire de l’ancien Annam, Sài Gòn, A. Portail, 1933.
II. Tài liệu chữ Việt
5. Bùi Văn Lăng, Địa dư mông
học tỉnh Bình Định, Hà Nội, Imprimerie du Trung Bắc Tân Văn, in lần thứ tư,
1938.
6. Bùi Huy Bích, “Lữ trung
tạp thuyết”, Tuyết Trang Trần Văn Ngoạn trích dịch, NP IV, t. 53-62.
7. Đông Hồ, “Hà Tiên Mạc thị
sử”, NP, XXV, t. 322-343.
8. Hoàng Quang, “Hoài Nam
khúc”, NP, XIII, 128-134, 210-216, 294-299.
9. Hoàng Thúc Trâm (Hoa
Bằng), Quang Trung Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc, Saigon, Bốn Phương, 1958.
10. Hoàng Thúc Trâm (Sơn
Tùng), Quốc văn đời Tây Sơn, Saigon, Vĩnh Bảo, 1950.
11. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn
pha tử, Paris, Minh Tân, 1952.
12. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu
lục, tập I, II, Lê Mạnh Liêu, Đàm Duy Tạo dịch, Bộ QGGD, 1963, 1965.
13. Lương Đức Thiệp, Xã hội
Việt Nam - Việt Nam tiến hóa sử, Saigon, Liên Hiệp tái bản, 1950.
14. Ngô Thì Chí, Hoàng Lê
nhất thống chí, Ngô Tất Tố dịch, Tự Do tái bản, 1958.
15. Nguyễn Văn Siêu, Phương
đình dư địa chí, Ngô Mạnh Nghinh dịch, Saigon, Tự Do, 1958.
16. Phạm Đình Hổ và Nguyễn
Án, “Tang thương ngẫu lục”, Tuyết Trang Trần Văn Ngoạn trích dịch, NP, I,
t.393-396, IV, t. 202-208, Nguyễn Hữu Tiến tiếp, NP, IV, t. 311-319, 493-502,
V, t. 48-57.
17. Phạm Đình Hổ, “Vũ Trung
tùy bút”, Nguyễn Hữu Tiễn dịch, NP, V, t.136-142, 331-339, XXI, t.236-244,
t.357-368, t. 455-465, t. 561-569...
18. Phạm Văn Diêu,
* Văn học Việt Nam, Saigon, Tân Việt,
1956.
* “Thân thế và văn tài Hồ Xuân Hương”,
Văn hóa nguyệt san, XI q7-8, tháng 7-8/1962.
19. Trần Trọng Kim, Việt Nam
sử lược, Saigon, Tân Việt, 1956.
20. Trịnh Hoài Đức, “Thành
trì chí”, Trần Kinh Hòa dịch,
Đại học năm thứ IV, số5, tháng 10-1961,
t. 62-74.
Đại
học năm thứ IV, số 6, tháng 12-1961, t. 36-62.
Đại học năm thứ V, số 1, tháng 2-1962, t.
134-136.
21. Viện Khảo Cổ, Hồng Đức
bản đồ, Trương Bửu Lâm chủ biên, Saigon, Bộ QGGD, 1962.
22. Vương Hồng Sển, Saigon
năm xưa, Tự Do, 1960.
III. Tài liệu chữ Hán
23. Quốc sử quán,
* Đại Nam thực lục tiền biên.
* Đại Nam liệt truyện tiền biên.
* Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập
(viết tắt: Liệt truyện).
* Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ
(viết tắt: Thực lục).
* Đại Nam nhất thống chí (viết tắt:
ĐNNTC).
* Đồng Khánh Ngự lãm địa dư chí đồ (viết
tắt: Đồng Khánh).
* Khâm định Việt sử thông giám cương mục
(viết tắt: Cương mục).
24. Trịnh Hoài Đức, Gia Định
thành thông chí.
IV. Tài liệu chữ Pháp
25. Aubaret. G., Histoire et
description de la Basse Cochinchine, Paris, Imprimerie Impériale, 1863.
26. Aurousseau, L., “Compte
Rendu: “Histoire moderne du Pays d’Annam (1752-1820), Ch. B. Maybon”, BEFEO,
XX/4, 1920, t. 73-120: XXII, t. 391-400.
27. Barrow, Jh., “Quelques
notes sur Gia Long par un contemporain”, BSEI, I, 1926, t. 208-214.
28. Berland, H., “Les papiers
du Dr. Crawfurd envoyé au Siam et en Cochinchine par le Gouvernement des Indes
en 1821”, BSEI, XVI/4, t. 7-134, XXIII/1, 1948, t. 43-71.
29. Boris, Ch., “Monographie
de Phu Yen”, BAVH 1929, t 199-245.
30. Boudet, P. et Masson, A.,
Iconographie historique de l’Indochine, Paris, Van Oest, 1931.
31. Cadière, L.,
* “Quelques figures sous la Cour de Vo
Vuong”, BAVH, Oct. - Déc. 1918, t. 253-306.
* “Les Français au service de Gia Long:
Despiau”, BAVH, Juil. - Sept. 1925, t. 183-185.
* “Les Français au service de Gia Long:
Nguyen Anh et La Mission-Documents inédits”, BAVH, Janv-Mars 1926, t. 1-49.
* “Les Français au service de Gia Long:
Leur correspondance”, BAVH, Oct. - Déc. 1926, t. 359-447.
* “Les lieux historiques de Quang Binh”,
BEFEO, III/2, 1903, t. 164-205.
* “Le mur de Dong Hoi”, BEFEO, VI/1-2,
1906, t. 87-254.
* “Documents relatifs à l’époque de Gia
Long”, BEFEO, XII/7, 1912, t. 1-79.
32. C.B.M. Documents sur
l’état du Cambodge, de la Cochinchine et du Tonkin de 1782-1786, RI XII (1910),
t. 503, XIV (1910), t. 43-54.
33. Chapman, et Berland, H.,
“Relation d’un voyage en Cochinehine en 1778”, BSEI, XXIII/2, 1948, t. 8-75.
34. Chassigneu, E., Histoire
des colonies et de l’expansion de la France dans le monde, tome V, Paris, Plon,
1932.
35. Gaudart, M, “Les archives
de Pondichéry et les entreprises de la Compagnie française des Indes en Indochine
au 18è siècle”, BAVH, Oct. - Déc. 1937, t. 353-380.
36. Gaide, L., “Notes
historiques sur Poulo Condore”, BAVH, Avr. - Juin. 1925, t. 87- 103.
37. Guillemet, P., “Une
industrie annamite: le noria de Quang Ngai”, BAVH, Avr. - Juin 1926, t. 97-215.
38. Hanncart, Ed., Un grand
français: Mgr Pigneau de Béhaine, Edition de la Revue des Indépendants, Paris,
1933.
39. Histoire de France, tome
II, Paris, Larousse, 1954.
40. Histoire générale des
civilisations, 7 vol. publiés sous la direction de M. Crouzet, tome V, Paris,
PUF, 1956.
41. Histoire universelle, 3
vol, publiés sous la direction de R. Grousset et E. G. Léonard, tome III,
Encyclopédie de la Pléiade, 1961.
42. Hutchinson, Ed. et
Berland, H., “Aventuriers au Siam au 17è sièsle”, BSEI, XXIII, đệ I, đệ
I/TCN/1947.
43. Imbert, V., Le séjour en
Indochine de l’ambassade de Lord Macartney, Hanoi, Taupin, 1942.
44. Jolez, R., “Macao à la
fin du 18è siècle”, BSEI, XXV, 1950, t 41-49.
45. Koffler, Jh.,
“Description historique de la Cochinchine”, RI, XV (1911), t. 448-462, t.
566-575.
46. Korpelès, S, “Un cas de
droit maritime international en 1797”. BSEI, XXIII/ 3-4, 1948, t. 125-131.
47. Laborde, A., “La province
de Quang Ngai”, BAVH, Juil. - Sept 1925 t. 153-182.
48. Lacour Gayet, J.,
Histoire du commerce, tome II, Paris, Dunod, 1953.
49. Launay, A., Documents
historiques sur la Mission de Cochinchine (1771-1823.), tome III? Paris, 1925.
50. Lê Thành Khôi, Le Viet
Nam: Histoire et civilisation, tome I: Le milieu et l’histoire, Paris, les
Editions du Minuit, 1955.
51. Maitre, Ch. E.,
“Documents sur Pigneau de Béhaine”, RI, 1913, XVIII, t. 1-16, XIX, t. 163-194.
XX, t. 323-349.
52. Malleret, L., “Eléments
d’une monographie des anciennes fortifications et citadelles de Saigon”, BSEI,
X/4, 1935, t. 5-108.
53. Masson, A., Histoire de
l’Indochine, Paris, PUF, 1950. (Ấn bản 1961 đổi là: Histoire du Viet Nam).
54. Maybon, Ch.B.,
* Histoire moderne du pays d’Annam
(1592-1820), Paris, Plon, 1919.
* La relation sur le Tonkin et la
Cochinchine de Mgr de la Bissachère, Paris, Champion, 1920.
55. Navelle, E., “De Thinai à
Bla”; Excursions et Reconnaissances, XIII, 1887.
56. Orband, R., “Les tombeaux
des Nguyens”, BEFEO, XIV/7, 1914, t. 1-74.
57. Salles, A. et Cadière,
L., “Les Français au service de Gia Long”, BAVH, Avr. - Juin 1922, t. 139-180,
Janv. - Mars 1923, t. 1-197.
58. Société des Etudes
Indochinoises. “Foire exposition de Saigon”. BSEI, XVII/3, 1942.
59. Taboulet, G.,
* La geste française en Indochine, tome
I, Paris, Andrien Maisoneuve, 1955.
* “La vie tourmentée de l’Evêque
d’Adran”, BSEI, XV/3-4, 1940, t 9-41.
* “Sur le matelot Manuel, mort au Champ
d’Honneur en combattant pour Gia Long”, BSEI, XV/3-4, 1940, t. 55-64.
* “La révolte et la guerre des Tay son
d’après les Franciscains Espagnols de Cochinchine”, BSEI, XV/3-4, 1940, t.
65-106.
* “Le trai té de Versailles et les causes
de sa non exécution”, BSEI, XIII/2, 1938, t. 67- 116.
60. Trương Vĩnh Ký, Cours
d’histoire annamite, Saigon, Imp. Du Gouvernement, 1879.
V. Sách báo mới xuất bản:
1. Hoàng Văn Hòe, Đình Thụ,
Đại Việt quốc thư, Quang Trung, Saigon, Bộ QGGD, 1967.
2. Nguyễn Phương, Việt Nam
thời bành trướng: Tây Sơn, Saigon, Khai Trí, 1968.
3. Quách Tấn,
* Nước non Bình Định, Saigon, Nam Cường,
1968.
* Xứ Trầm hương, Saigon, Lá Bối, 1970.
4. Sử Địa số 9-10, 1968, Đặc
khảo về Quang Trung:
* Hoàng Xuân Hãn, Việt Thanh chiến sử
theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh, t. 3-8, t. 245-263.
* Đặng Phương Nghi, Vài tài liệu mới lạ
về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, t. 194-243.
* Tạ Quang Phát, Tây Sơn thuật lược (dịch),
t. 155-169.
5. Sử Địa số 13. 1969, Kỷ
niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu (Đống Đa):
* Đặng Phương Nghi, Triều đại Quang Trung
dưới mắt các nhà truyền giáo Tây phương, t. 143-180.
* Hoàng Xuân Hãn, Bắc hành tùng ký, t.
3-32, t. 181-183.
*
Lý Văn Hùng, Cuộc giao thiệp giữa Quang Trung với Càn Long. Vụ 16 châu và xây
đền Sầm Nghi Đống, t. 135-142.
* Phan Khoang, Chung quanh cuộc chiến
thắng Tôn Sĩ Nghị của vua Quang Trung ngày Tết Kỷ Dậu, t. 184-189 (lược dịch
một đoạn của Đại Thanh Thực lục).
* Tạ Quang Phát, Bài chiếu của Quang
Trung Hoàng đế lên ngôi (phiên âm và dịch ra quốc văn).
NHẬT KÍ HÀNH QUÂN TRONG CHIẾN TRẬN NGUYỄN -
TÂY SƠN
Nếu chịu khó nén tự ái chút xíu thì phải công nhận rằng những ghi
chép về quá khứ của chúng ta còn lại thật là quá ít. Chẳng cần tìm những nguyên
nhân xa xôi, chỉ giản dị nhìn thấy các sử quan xưa không chịu viết riêng quyển
sách cho mình mà cứ dọn lại sách cũ thì đủ biết sự mất mát đã là to lớn dường
nào. Rồi cộng thêm với sự chăm chút riêng của nhà nước đương thời về các sản
phẩm chính thống đó, trong lúc họ lơ là để những dã sử phải huỷ hoại khiến cho
người sau không còn gì để đối chiếu, phê phán. Ví dụ sách [Đại Việt Sử ký] Toàn
thư đã lược giản những biến động từ Lý qua Trần, hẳn là từ công trình đao bút
của Ngô Sĩ Liên. Biến động có tính cách tổng hợp còn như vậy huống hồ là những
ghi chép chi li giờ phút ngày tháng, soi đủ mọi mặt sinh hoạt của những con
người tham gia vào biến cố!
Tất nhiên dù ít nhiều gì người xưa cũng có ghi chép các chi tiết mà
bản thân đương thời của họ, và của người trên họ thấy là yêu cầu cần thiết. Ví
dụ Toàn thư tuy đã để dành rất nhiều trang cho các trận chiến chống Minh nhưng
các tài liệu liên hệ còn nhiều hơn ta tưởng. Có chuyện năm 1434, Phạm Tư Minh
bồi đai bán cho người Trung Quốc bằng “giấy cũ ghi việc điểm binh” nên phải bị
giáng cấp. Lượng giấy đủ dùng cho một công cuộc mua bán hẳn không phải là ít.
Tuy nhiên sự kiện huỷ hoại như thế cũng bớt dần khi thời gian cách biệt đối với
chúng ta ngắn lại. Ví dụ về các chiến trận Nguyễn - Tây Sơn, phần giáp ranh thế
kỉ XVIII, XIX.
Nguyễn Đức Xuyên (1758-1824), người coi Tượng cơ của Nguyễn Ánh
trong chiến trận, còn để lại một tập hồi kí được đăng từng kì trên tập Nghiên
cứu Huế1 bây giờ. Chúng tôi không thấy toàn bộ hồi kí nhưng cũng tạm cho là đủ
để bàn trong vấn đề chọn lựa. Nó xuất hiện dưới tựa đề “Tập hồi kí biên niên Lí
lịch sự vụ” do Trần Đại Vinh dịch và chú giải. Theo lời dẫn thì năm 1822, Minh
Mạng sai các quan viết lí lịch sự vụ của mình đem nạp Sử quan để làm tài liệu.
Tập của Nguyễn Đức Xuyên nạp ngày 22-6 Nhâm Ngọ (1822). Trong những nhân vật
lớn từng tham gia chiến trận vừa qua, đến năm 1822 thì Nguyễn Văn Thành đã tự
tử (1817) vì vụ con là Nguyễn Văn Huyên mang cái ngông nghênh của nhà nho làm thơ
khẩu khí. Còn sống là Lê Văn Duyệt, Lê Chất, hẳn cũng có phần ghi chép của mình
nhưng hiển nhiên không thể lưu lại dấu tích vì vụ Lê Văn Khôi nổi loạn đã là
dịp để các văn quan báo thù hai ông tướng từng huênh hoang “Chúng ta kéo nhau
về triều, nạt một tiếng, bọn Trịnh Hoài Đức… xanh mặt ngay!” Lại cũng không
thấy phần của Nguyễn Văn Trương chẳng hạn. (Tuy gốc chăn trâu nhưng làm quan
nhất phẩm triều đình, từng là “tư lệnh phó “ của Nguyễn Ánh, khéo léo cư xử
trong ngoài, được vua từng trọng thì thiếu gì kẻ khoe văn múa bút xin làm
thay?). Sử quan khi viết [Đại Nam] Liệt truyện cũng đã nhận rằng có lấy tài
liệu từ các quan tham gia biến cố cũ. Vậy mà ở đây chỉ còn lại của Nguyễn Đức
Xuyên. Ta tạm bằng lòng như thế.
Chuyện chiến tranh phần nhiều là của thế kỉ trước, hồi kí bắt đầu
năm 1781 nên chỉ là những điều nhớ lại, vì thế ta không lấy làm lạ rằng cậu
thanh niên 23 tuổi này chỉ biết một biến cố quan trọng mà đương thời chắc ai
cũng rõ, đó là vụ trừ khử ổ Thanh Nhân. Phải trải qua trong hơn mười năm, được
ngoi lên trong biến cố với vai trò tham dự lớn dần, ta mới thấy Nguyễn Đức
Xuyên ghi chép nhiều hơn, từ bản thân lan qua các nhân vật, sự việc liên hệ. Và
cũng dễ thấy rằng những quyết định hành động của con người trong thời đảo lộn
không thể cứ theo chuẩn mực bình thường.
Tuỳ theo tình hình mà người ta lột áo theo phe này phe nọ để rồi
khi đứng vững ở một nơi thì lại tìm cách che giấu, biện minh cho quá khứ của
mình. Ta đã thấy Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Đăng Vân... trong sử triều đình, ở
đây lại thấy thêm tên Trương Tấn Bửu, “Đốc chiến Bửu thuận hầu” của Tây Sơn,
từng coi 500 binh Miên, sau cũng là công thần của Nguyễn Ánh. Sau trận Hòn
Chồng, thoát khỏi cuộc vây bắt của Trương Văn Đa, Nguyễn Đức Xuyên trốn về Sài
Gòn làm tướng Tây Sơn, rồi nổi loạn chống đối, nấp lánh cho đến khi Nguyễn Ánh
theo quân Xiêm về mới thoát ra được. Lần đầu hàng được ghi trong hồi kí là
“Phụng mệnh... quy tập cựu binh theo ở với Tây Sơn để làm nội ứng”, nhưng đó là
chuyện của 40 năm trước, nay Nguyễn Ánh đã mất, tha hồ viện dẫn, chưa kể công
tích đã qua, chức quyền hiện tại đủ giúp cho Xuyên xí xoá một lúc yếu mềm!
Người em thứ ba là Nguyễn Đức Ngữ cũng từng là Đô đốc Tây Sơn. Thời luân lạc
đói khổ, bị rượt đuổi, Xuyên từng liên tiếp cướp thuyền thương khách Trung Hoa,
giết người Xiêm (1783, 1784, 1785) thì chuyện đầu hàng kẻ thù cũng không lạ là
mấy!
Ghi chép của Xuyên có thêm những điều sáng tỏ, đồng thời thêm thắc
mắc cho ta - đây là chuyện kéo dài vô tận của việc tìm hiểu quá khứ. Trong lúc
đầu hàng Tây Sơn, Xuyên được “ngụy Cai cơ Trí” sai đấu côn với “Cai cơ Dũng”,
người mà Xuyên quả quyết là tướng Võ Văn Dũng nổi danh về sau. Điều này hẳn là
xác thực bởi vì khi tàn cuộc, Xuyên còn gặp Võ Văn Dũng (xem sau). Vậy là Dũng
đã có mặt trong hàng ngũ Tây Sơn từ lâu, nghĩa là sự việc đủ để giải thích
quyền lực của ông ta về sau nhưng lại gây thắc mắc về nguồn gốc Hải Dương của
ông theo Hoa Bằng phát giác2, và về tước Chiêu Viễn hầu của Quang Trung phong
cho. Cũng ngay từ 1782, Nguyễn Ánh, theo Nguyễn Đức Xuyên, đã có bộ phận “quân/quan
quân Bắc Hà” và “quân Cao Miên” được kể chung với toán “quân cấm binh hầu điếu”
trung thành. Bộ phận Bắc Hà trên là của quân lính Trịnh ở Phú Xuân đào ngũ hay
là lưu dân Bắc chưa đồng hoá với địa phương, còn cho thấy rõ là thuộc thành
phần riêng biệt? Trong 200 năm phân chia, dân khai khẩn vùng cực nam là của
Đàng Trong, vả lại chữ “quan quân Bắc Hà” đã chỉ rõ xuất xứ của họ. Họ hẳn là
của quân Trịnh chuyển qua trung gian Tây Sơn trong những trận đánh Cẩm Sa
(1775) và những tiếp giáp Trịnh Tây Sơn sau đó. Lại cũng là chuyện bình thường
của thời thế, nhóm quan quân đầu hàng, tù binh kia của Trịnh đi qua phía Nguyễn
Ánh, vẫn còn một bộ phận ở lại phía Tây Sơn trong đó hẳn có Võ Văn Dũng. Về
phần lính Miên, trong những trận chiến về sau trên đất Tây Sơn đều được gọi là
“Xiêm binh” tuy có dấu hiệu có thành phần Miên, như bộ phận dưới tay Nguyễn Văn
Tồn, người Trà Vinh, hay bộ phận “lính Xiêm” dưới quyền Ốc nha Dong - Ốc nha là
quan chức Miên.
Tuy nhiên phần lớn đó cũng chỉ là hồi ức. Sự việc được kể như có
căn cứ ghi chép đương thời là từ lúc Nguyễn Đức Xuyên rời vị trí hầu hạ Nguyễn
Ánh ra chỉ huy quân riêng: bộ phận tượng binh thành lập để đối phó với Tây Sơn.
Chính từ đây ta mới thấy được tính chất thời sự của biến động. Tất nhiên việc
ghi chép này có đi đến độ tỉ mỉ xác thực cũng phải đòi hỏi thời gian theo với
vai trò thăng tiến, đẩy đưa yêu cầu hành động của ông. Năm 1793, khi đi đánh
Quy Nhơn, Xuyên chỉ ghi những con số tròn trịa “quân dò thám tiền phương 10
người… thêm 100 người đánh phá thành mới của Nguyễn Nhạc”. Đến lúc theo quân
đánh Phú Yên, Thi Nại 1794, 95 thì Xuyên ghi chi tiết ở Nha Trang với tên các
tướng mặt trận, các tướng Tây Sơn, việc bàn định tấn công, kể cả việc Lê Văn
I)uyệt lấy tư cách tướng mặt trận, đánh trước tâu sau... Rồi trong chuyến công
tác đưa sứ Xiêm về nước, nhân dịp đánh cướp biển, Xuyên ghi việc từng ngày một,
kể cả giờ khắc đến hòn Tre (“giờ dậu”), tấn công Đồ Bà (“canh hai”).
Vai trò Xuyên càng lớn lên với chiến dịch đánh Đồ Bàn 1799-1802.
Điều này là do hai nguyên cớ bổ túc cho nhau: tính cách thân thuộc của Xuyên và
vai trò quan trọng của tượng binh trong chiến cuộc. Xuyên vốn có gốc họ “Nguyễn
Phúc...” của chúa cho nên trong chiến dịch, tiếng là dưới quyền Nguyễn Văn
Thành mà lệnh tiến quân, điều binh, báo cáo đều là trực tiếp với Nguyễn Ánh.
Trong trận đánh thất lợi ở Kì Sơn (nam Bình Định), trong báo cáo thẳng với
Nguyễn Ánh, Xuyên nhận rằng có “nặng lời” với quan Điều bát không phải chỉ vì
cậy thế thần mà cho rằng Thành đã quá sơ suất trong việc phòng thủ ở vị trí của
ông ta. Những loại xung đột hàng ngày theo kiểu này vẫn có ảnh hưởng dai dẳng
nên chính Xuyên, cũng như Lê Văn Duyệt, sẽ có dính dấp đến việc kết tội chết cho
Thành về sau. Và tất nhiên giữa cảnh tên đạn sống chết, kẻ thấp hèn hơn cũng
không mấy quan tâm đến chuyện hoàng thân quốc thích, còn vua thì cũng khó mà
bênh vực. Cho nên chúng ta thấy Xuyên phải phân trần với Nguyễn Ánh về việc
tướng sĩ dưới quyền tranh công, tranh thưởng, khởi tố cấp trên, chửi Xuyên là
“thằng hát bội, làm tướng sao nên!”.
__________________________________________
1. Nghiên cứu Huế, tập 1-5,
Trung tâm Nghiên cứu Huế, Huế 1998-2003.
2. Hoa Bằng, Quang Trung
Nguyễn Huệ, Anh hùng dân tộc 1788-1792, Saigon: Thư Lãm ấn Thư Quán, 1958.
Trong các chiến dịch trên bộ, vai trò quan trọng của tượng binh Tây
Sơn là điều đã từng nói tới, nhất là khi người ta muốn nêu cao danh vị một nữ
tướng: Bùi Thị Xuân. Cho nên đối trọng từ phía Nguyễn cũng phải là tượng binh.
Tuy có bộ phận voi của “Xiêm binh”, nhưng chính quân của Xuyên đã góp phần quan
trọng trong các cuộc tấn công, kiềm giữ quân Tây Sơn khiến cho trong các trận
thua cũng không phải chịu nhiều tổn thất. Chứng cớ rõ ràng là phán đoán từ phía
địch thủ. Sau khi bỏ Đồ Bàn rồi bị bắt ở phía thượng du, Trần Quang Diệu, Võ
Văn Dũng nghe tin Nguyễn Đức Xuyên đượcphong trấn thủ Thanh Hoá, liền nằng nặc
đòi gặp. Té ra hai tướng Tây Sơn chỉ cần thấy tận mặt người đã cùng mình đối
đầu suốt ba năm trên chiến trận mà thôi!
Nguyễn Đức Xuyên nắm lượng quân số rất chặt. Đầu năm 1801, báo cáo
lính tác chiến là 2.128 người, ốm đau sai phái là 393 người. Qua các trận, thấy
báo cáo còn 1.319 người, bị thương 50, bệnh 94, chết 13 còn mạnh 1.162, thật
sít sao. Rồi một lúc sau lệnh bổ sung, báo cáo cho thấy số người cũ, mới của
từng cơ trong 4 vệ dưới quyền, tổng cộng 2.268 người (1.650 cũ, 618 mới). Ngày
về Phú Xuân, quân số tăng lên 2.566 người. Báo cáo thiệt hại cũng rất kĩ. Trận
Kì Sơn bị thương 258 người, “thất trận” (mất tích [trốn, đầu hàng]?) 157 người,
chết 26 người, voi bị thương 32 con, mất tích 6 con. Với tình hình nắm chặt
quân số của một đơn vị trong thời tranh chiến như thế khiến ta khá tin vào số
quân của L. Barizy đưa ra, tính cả toàn bộ lực lượng của Nguyễn Ánh. Lẽ tất
nhiên không thể nào có tài liệu về phía Tây Sơn, nhưng dù có cũng có thể tin
rằng phía Tây Sơn không nắm vững quân số như Nguyễn Ánh được. Cứ xem cách Quang
Trung cuối năm Mậu Thân 1788, dẫn quân qua Nghệ An dùng chó săn người trốn, lấy
dao xỉa vào đống rơm, “chốc lát được hơn một vạn” thì thấy ngay là sự nói phỏng
chừng.
Số lượng trên là tính cho “nội dinh” 4 vệ của Xuyên, chứ còn riêng
binh tượng thì thu hẹp hơn, chỉ có 270 người nhưng với những chi tiết đáng kinh
ngạc: hạng nhất 102 người (trưởng chi 5, phó 4, cai đội 10, phó 7, đội trưởng
26, ngũ trưởng 14, lính 36); hạng nhì 79 (cai đội 3, phó 5, đội trưởng 13, ngũ
trưởng 19, lính 39); hạng ba 36 (đội trưởng 2, ngũtrưởng 9, lính 25). Như vậy
tính theo tổ chức quân sự ngày nay thì binh tượng của Xuyên là quân thiết giáp,
lúc hành quân không phải là đơn độc mà có cả một bộ phận tùng thiết đi theo.
Tên của các voi rất là nôm na: voi Rạp, Kèo Nhỏ, Bích, Nhảy, Vân của Xuyên, voi
Ngẫu, voi Tiêu của Tây Sơn. Sự quan tâm của Xuyên không phải chỉ với binh lính
mà tất nhiên còn đối với voi nữa. Ta thấy Xuyên kể chuyện voi Kèo Nhỏ thất lạc
trong chiến trận, gần cả năm sau lại trở về trong lúc quân đã dời đi nơi khác?
Chúng ta thấy chuyện chữa cho voi mắc bệnh “ăn đất”, với các chuyên viên đã đành
mà cũng có cả các lương y bất chợt theo tình hình chiến trận khiến voi phải
chết - “hạ thổ”.
Sự kiện được ghi về một phía của tranh chiến - phía Xuyên, của
Nguyễn Ánh - khiến ta dễ tưởng lầm chỉ có chuyện ba hoa công tích. Thật ra điều
này chỉ xảy ra lúc các sử gia “dọn lại”, chứ người đương thời trong sống chết
gang tấc phải cần ghi sự thật để kịp ứng biến có hiệu quả cho nên ta gặp những
chi tiết khá thất lợi cho quan niệm phe phía về sau mà Nguyễn Đức Xuyên may
thay không xoá bỏ. Đã thấy chuyện các thuộc hạ của Xuyên chửi chỉ huy trưởng
của mình là “thằng hát bội”. Xuyên cũng kể chuyện quân tướng ở lại giải vây cho
thành Bình Định, nghe tin lấy được Phú Xuân liền không chịu đánh nữa, các quan
thì “bàn ra”, còn lính lâm trận “chưa thấy giặc đã chạy”.
Vấn đề xung đột ý kiến trong việc thu dụng tướng Tây Sơn về đầu
cũng được bàn rất chi tiết, dài dòng, với ý kiến phản đối của Xuyên lấy lí lẽ
“Chừng nào thần và Thành tướng quân bỏ chúa thượng thì chúng nó mới bỏ chúa
nó....”, và những lời Nguyễn Ánh bày tỏ khéo léo mà không giấu vẻ quyền uy
trong việc bênh Lê Chất, Lê Văn Phong cùng việc xử trí đối với các hàng thần.
Trong những biến cố dồn dập vẫn thường có những chi tiết thoảng qua
tưởng chừng không quan trọng nhưng đối với người đọc tinh ý sẽ thấy như một
bằng chứng lớn lao, hoặc ít ra là gây được thích thú bất ngờ. Việc có người Âu
giúp Nguyễn Ánh với người đọc sử ngày nay đã trở thành bình thường nhưng không
ít người vẫn nghĩ rằng “Tây là Tây, Ta là Ta, Tây đánh theo Tây, Ta đánh theo
Ta”, nhất là khi thấy các sử quan kể chuyện tiến công, lui quân, bắt lính, thâu
thuế... không khác chuyện chiến trận hàng trăm năm trước. Nhưng Nguyễn Đức
Xuyên cho một chi tiết không thấy tương tự ở bất cứ nơi nào trong sách của Quốc
sử quán, khiến ta phải đặt vấn đề ảnh hưởng Tây Phương đối với quân Nguyễn Ánh
sâu đậm hơn là ta tưởng. Đó là chuyện Xuyên đánh đồn Kì Sơn “tay phải cầm súng
kíp, ngón tay vô danh và ngón giữa bị trúng đạn”, và nhờ có ống dòm khiến cho
Xuyên thấy được toán quân của Trần Quang Diệu từ xa nên lui quân kịp thời khỏi
chịu tổn thất.
Vậy thì trở lại với những chi tiết về quân ngũ như đã nói, sự kiện
Xuyên biết mà ghi lại đó có phần nào chịu ảnh hưởng theo cách tổ chức quân sự
rành rẽ của Tây Phương không? Tổ chức đó rõ ràng là khác với lối đánh “truyền
thống” đến đâu bắt lính tới đó (như Nguyễn Huệ ở Nghệ An đã nói) tuy cũng có
tướng, binh nhưng không giấu được tính chất hỗn độn từ cung cách tập họp người
dưới cờ. Kiến thức đến từ người Pháp, có Trần Văn Học biết cách vẽ bản đồ, xây
thành trì, như vậy ông quan này thật có nhiều điều khiến ta phải suy nghĩ hơn
là chỉ dựa trên những dòng chữ của sử quan để lại. Trong chuyện kể của Xuyên,
ta cũng gặp một phương thức truyền tin theo kiểu “tân cổ giao duyên”: Khi muốn
báo tin cho bên trong thành Bình Định biết, quân Nguyễn đã “đốt 5 cây hoả hổ và
3 nhà dân”! Đọc lịch sử có những chuyện này thật lí thú hơn là nghe tiếng văn
chương trầm bổng, hay những ngợi ca về thành tích chiến tranh, trị nước của các
bậc anh hùng, minh quân. Cùng một chiều hướng thích thú đó, ta nghe Xuyên kể
chuyện “ngụy Đô đốc Điềm đem khoảng 700 người (lính nam và) phụ nữ 50 người
đánh Phú Yên”. Hay, như đã nói, chuyện Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng làm thân
bại tướng với cái chết cầm chắc mà đòi gặp Nguyễn Đức Xuyên chỉ vì một lí do thật
hào hùng của con nhà tướng: Muốn thấy tận mặt kẻ từng là đối thủ trong suốt ba
năm qua? Quá khứ từ những chi tiết đó hiển hiện dồi dào màu sắc, linh động như
cuộc sống phải có, là lịch sử người sau muốn thấy, đúng như của một khoa học
lịch sử mong muốn đạt tới, xuyên qua sự mai một của thời gian, qua những sửa
đổi, gạt bỏ bôi xoá của phe phái. Một bộ phận khá lớn những ghi chép của Nguyễn
Đức Xuyên lại đưa đến một vấn đề quan trọng hơn chuyện tranh chiến cấp thời
thường nhật: Đó là các thư từ quan lại (chỉ dụ, lời tâu, báo cáo) giữa chiến
trường và trung tâm chỉ huy. Thư viết bằng chữ Nôm, bởi vì người ta phải thông
báo nhau bằng tiếng nói thường nhật. Đến thế kỉ này thì người ta chắc đã hết
tán tụng chuyện Quang Trung nâng đỡ chữ Nôm như một sáng tạo độc đáo của vị vua
anh hùng xuất thân áo vải cờ đào - người nào còn khư khư với chân lí đó thì
không có thể tranh biện gì được nữa. Lí do xuất hiện của các bản văn chữ Nôm
thường được coi như là chứng tích thăng tiến của tinh thần dân tộc Việt, nhưng
cụ thể hơn, vốn là do tình hình thực tế có quân nhân, tướng sĩ (và thường dân)
ít học dưới quyền mà người cầm quyền phải lưu tâm sử dụng đến nó (Hoàng Xuân
Hãn).
Tuy nhiên tình hình thực tế này lại có nguyên nhân lớn rộng hơn mà
người ta ít nói tới. Đó là do sự mở rộng quyền lực của các vương triều, nên
càng lúc càng có một bộ phận lớn người dân nói-tiếng-Việt tham gia vào biến cố.
Không phải chỉ chứng cớ nằm trong bản văn thề Lũng Nhai, lời thề với Lê Lai tận
trong rừng núi Lam Sơn, cùng với lời truyền của Trịnh Kiểm đã phai lạt dấu vết
Thái Lào của thế kỉ XV, XVI mà đã đến tận Đồng Nai, Gia Định, nơi Minh Mạng có
nhận xét là dân “ít học” (chữ Hán). Vì vậy thế kỉ tranh chấp Nguyễn Tây Sơn đã
khiến xuất hiện nhiều bản văn chữ Nôm hơn lúc nào hết.
Với sử gia thì những thư từ qua lại này thật quan trọng không những
chỉ vì chúng là bằng cớ đương thời của biến cố mà còn vì chúng đã sử dụng thứ
ngôn ngữ thường ngày của thời đại và địa phương nữa. Với phần cuối thế kỉ XVIII
qua XIX, L. Cadière đã đưa ra những bức thư của Nguyễn Ánh nhưng chính trong
hồi kí của Nguyễn Đức Xuyên này mới có dấu vết nhiều đến ngợp. Người dẫn hồi kí
chưa phải làm việc của một chuyên viên Hán Nôm cho nên các tài liệu vẫn còn đó
để mở ra một hướng khảo sát, miễn là nhà khảo cứu bỏ được thói quen cố đi tìm
những gì thật “xưa”, bớt quanh quẩn ở các công trình kiểu “song viết” tuy có
dáng khoa học khảo chứng nghiêm chỉnh nhưng không giấu được tính chất tầm
chương trích cú trì trệ còn rơi rớt đâu đó. Quá khứ không phải chỉ của Trần Hưng
Đạo, Nguyễn Trãi, cố níu thêm một ông Nguyễn Huệ nông dân cho ra vẻ hiện đại mà
sẽ còn là lối nói của người dân thế kỉ XVIII, XIX uốn nắn qua văn từ của ông
quan, ông vua để diễn tả tư tưởng biểu hiện tình thế cấp bách trên tầm mức quốc
gia đương thời. Điều đó không ít thì nhiều có thể thấy trong các bản văn nôm
của Nguyễn Đức Xuyên giữ được vậy.
Tháng 4, 2006
Hết!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét