Nguyễn Văn Lục
Lịch sử bao giờ cũng ở số nhiều.
Vì
thế có thứ lịch sử của kẻ cai trị , kẻ cầm quyền và nhất là thứ sử của
kẻ cầm bút mà đôi khi họ chỉ là thứ cung văn . Trong các chế độ tài đảng
trị bây gìờ thì nhà sử học bị liệt vào hạng văn nô . Trong khi đó ,
lịch sử lại chỉ có thể xảy ra duy nhất một lần .
Phần còn lại của lịch sử được viết đi , viết lại nhiều lần tùy theo mỗi người và tuy theo mỗi thời kỳ
Trong
lịch sử Việt Nam có hai nhân vật lịch sử cách đây hơn 200 năm , người
này người kia đã làm nên vận mệnh lịch sử Đại Việt là Tây Sơn Nguyễn Huệ
và Nguyễn Ánh Gia Long . Vóc dáng và sự nghiệp của họ đã được huyền
thoại hóa , được vinh danh hoặc đã bị bôi nhọ và bị người đời nguyền rủa
tùy theo ngòi bút của các người viết sử .
Vấn
đề ở đây là có một thứ lịch sử của những nhân vật lịch sử hay là thứ
lịch sử của những người viết sử ? Muốn nhìn lại chân diện những nhận vật
lịch sử này quả thực không dễ . Một phần phải xóa đi những lớp bụi thời
gian đã đóng rêu , đóng mốc đến mọc rễ trên họ . Một phần phải bỏ đi
những định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người như một thứ chân lý,
sự thật hiển nhiên .
Đó
là hai công việc đồng thời phải làm . Chẳng những phải xóa bỏ thần
tượng trong sách vở , xóa bỏ những đám mây mù tài liệu và hơn tất cả ,
xóa bỏ thần tượng trong đầu mỗi người mà công việc ấy gần như thể là một
công việc tẩy não .
Và
nhiệm vụ của sử học không thể câu nệ chỉ căn cứ vào sự đồng tình ít hay
nhiều của người đời rồi cứ thế trôi theo . Bài viết này mong trả lại
được công đạo cho sự thật và một cách gián tiếp giải trừ một số huyền
thoại về Tây Sơn Nguyễn Huệ và trả lại công đạo cho Nguyễn Ánh dựa trên
một số công trình của các nhà nghiên cứu chuyên ngành về sử .
Người viết cùng lắm chỉ làm công việc thông tin qua những kiến thức sử của các vị chuyên ngành viết sử .
1. Có sự chênh lệnh quá đáng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn
Người
viết nhận thấy có một sự thuận lợi rõ ràng về số lượng tài liệu viết về
Tây Sơn và sự bất lợi vì quá ít tài liệu viết về phía Nguyễn Ánh . Số
lượng chênh lệch về tài liệu có một ý nghĩa gì ? Phải chăng những người
viết sử chạy theo số đông như về hùa ? Hay viết với nhiều cảm tính ?
Động cơ nào đã thúc đẩy họ viết như thế ?
Hiểu
được những động cơ thúc đẩy họ viết là hiểu được một phần sự thật .
Chẳng hạn cộng sản Hà Nội trước đây đã hết lời ca tụng Tây Sơn nhằm lợi
dụng Tây Sơn . Nhưng phía các nhà viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975
thì do động cơ nào ?
Phía tài liệu sử nhà Nguyễn, ngoại trừ một số sách sử của triều Nguyễn viết một cách chính thức như ” Đại Nam chính biên liệt truyện “ , ” Đại Nam Thực lục tiền biên “ và ” Chính Biên “ viết
theo lối biên niên . Đây là số lượng tài liệu đồ sộ , nhưng lại không
dễ được tiếp cận và nay dù đã dịch từ Hán ra Việt cũng không mấy người
có để đọc . Người viết đọc các tập tài liệu này , măc dầu có những
khuyết điểm không tránh được như sự rườm rà , quá chi ly từng sự việc ,
nhưng rõ nét tính chính thống .
Không thể phủ nhận tinh thần công tâm , nhân cách các nhà viết sử biên niên triều Nguyễn .
Nhiều sự kiện lịch sử nay vẫn có giá trị sử học vô giá .
Ngoài
thứ chính sử đó ra thì hầu như không có mấy ai “ ở ngoài luồng ” sau
này để công sức viết đến nơi đến chốn về 100 năm nhà Nguyễn Gia Long .
Hai mươi Lăm năm Nguyễn Ánh nằm gai nếm mật lao đao . Ông vào sinh ra tử . Và gần 100 năm dòng họ Nguyễn ngồi ở ngôi báu .
Biết bao điều để phải nói , phải viết .
Không lẽ chúng ta lại phải ngồi đợi một nhà sử học ngoại quốc nào đó lò mò để cả đời ra viết hộ chúng ta ?
Triều
đại Tây Sơn ngắn ngủi mà đều là những năm bận rộn với chinh chiến .
Liệu Tây Sơn đã thực sự làm được gì ? Vậy mà người ta có thể ngồi “ vẽ
ra ” nào là về chính tri , ngoại giao , chính sách về tôn giáo , tiền tệ
, v…v…. và v…v…. , và ngay cả văn học thời Tây Sơn nữa .
Trong
khi nhà Nguyễn phải mất 88 năm mới biên soạn xong bộ Đại Nam Thực Lục
mà số người đọc được đếm trên đầu ngón tay ! Vì những sách này lại rất
khó đến tay người đọc vì phần đông dân chúng không biết chữ Hán .
Cho
nên đối với phần đông dân chúng vì không được đọc chính sử nhà Nguyễn
nên chỉ nghe nói về sử hơn là đọc sử . Biết về Nguyễn Ánh phần đông chỉ
là nghe lời đồn hơn là đọc sử . Đây là điều bất lợi không nhỏ cho Nguyễn
Ánh Gia Long bị bao vây bởi một thứ sử dân gian , truyền miệng . Làm
thế nào bịt miệng dân gian ?
Tư liệu viết về Quang Trung đã nhiều lại viết một cách thiên lệch
Hiện
tượng tài liệu sử viết về Quang Trung lấn lướt tài liệu viết về Nguyễn
Ánh là điều có thực . Có thể nó bắt đầu kể từ khi Trần Trọng Kim , một
sử gia Việt Nam dưới thời chính phủ Bảo Đại viết bộ sử Việt Nam Sử lược
với một cái nhìn mới về vua Quang Trung .
Nó
đã mở đầu cho một trào lưu viết sử về Quang Trung với nhiều hào quang ,
với nhiều danh xưng tán tụng như ” anh hùng áo vải , anh hùng dân tộc
dựng cờ đào , v…v…. ” .
Nói không quá đáng là có sự hình thành một dòng Văn sử học viết về Tây Sơn .
Đồng
ý phải nhìn nhận ở một mặt nào đó , đôi khi một dân tộc cũng cần được
nuôi dưỡng bằng một số hào quang lịch sử như thế chấp cho sự tầm thường
và kém cỏi của đời sống .
Sức
quyến rũ về hình ảnh một Quang Trung anh hùng làm nức lòng mọi người ,
khơi dậy tình tự dân tộc phải chăng cũng là một điều cần và đủ .
Nhưng liệu nó có thể thay thế cho sự trung thực của sử học ?
Nhà văn Duyên Anh đã có lần viết truyện ” Mơ được làm Người Quang Trung “ .
Tài
liệu sử viết về Quang Trung nhiều đã đành . Cạnh đó , thơ văn , kịch
nghê , sân khấu , tiểu thuyết , sách giáo khoa , tên các địa danh , ngay
cả các lễ hội đã dành một chỗ cao cho “ người anh hùng áo vải ”.
Phải
chăng có một thứ sử học , văn học và văn hóa Quang Trung thấm đẫm tình
tự dân tộc , đất nước , con người theo cái tinh thần chúng ta sống với
thời đại của những người anh hùng ?
Và
cứ thế tiếp nối sau đó có cả hơn một ngàn tài liệu sách vở viết về
Quang Trung . Cuốn sách viết về Tây Sơn được một số nhà viết sử tham
khảo rộng rãi là cuốn của Hoa Bằng : ” Quang Trung – Nguyễn Huệ , anh hùng dân tộc 1788-1792 “ , Sàigòn , 1958 .
Tựa đề sách coi Tây Sơn là anh hùng như một khẳng định vị thế của Quang Trung trong lịch sử và nhất là trong lòng người .
Nguyễn Phương với cuốn ” Việt Nam thời bành trướng : Tây Sơn “ , Sài Gòn , Khai Trí , 1967 .
Người ta có thể đồng ý với nhau là tài liệu viết về Quang Trung thì nhiều . Nhưng phải chăng viết giống nhau cũng nhiều .
Trong đó có nên nhìn nhận tính chất viết nhái và thời thượng có phần trổi bật không ?
Người
trước viết thế nào thì người sau viết lại như thế . Nó chẳng khác gì
khi có phong trào “ thời thượng triết hiện sinh ” sau này .Phải chăng có
một phong trào , một sùng bái Tây Sơn ?
Ở
miền Nam , tập san Sử Địa là “ ấn tượng và biểu tượng ” nhất của phong
trào này cũng đã trôi theo một dòng chảy “ thời thượng ” Tây Sơn . Trong
đó Tập san Sử Địa đã dành ba số chủ đề bàn về Tây Sơn .
Ý
hướng thiện chí thì có . Nhưng nay đọc lại thấy một số bài tham khảo
viết dựa trên những kiến thức “ định sẵn ” , phần biện luận một chiều
được chú trọng nhiều hơn phần tài liệu sử .
Đây
là tính chất đặc biệt của các cây viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975
và có thể cả sau 1975 viết trong tình trạng thiếu tài liệu . Càng thiếu
tài liệu thì càng biện giải thay vì trưng dẫn tài liệu .
Đã
thế, cách viết , cách chọn tài liệu , nhất là phong cách , ngôn ngữ xử
dụng cho người đọc bây giờ có cảm tưởng một số vị ấy tránh những tài
liệu xem ra bất lợi về Tây Sơn .
Đó
là lối viết sử viết một chiều. Đó cũng là tính chất đặc biệt của một số
người viết sử mà đôi vị dù viết rất cảm tình , rất thiên lệch , phong
cách viết , ngôn ngữ xử dụng đọc thấy “ tự cao ” ngoài khuôn khổ mà vẫn
tự khoác cho mình vai trò sử gia viết trung thực .
Tôi
muốn đặc biệt dành những nhận xét ở trên để nói đến trường hợp Vũ Ngự
Chiêu , Nguyên Vũ . Đây là cái bệnh “ ngụy tín ” mà J.P. Sartre đã vạch
trần trong những luận cứ triết học của ông .
Vì
thế nói chung trong các bài tham khảo ấy , hầu như không có mấy bài chú
trọng đến tài liệu sử Trung Hoa đời Càn Long . Cũng ít chú trọng đến
các tài liệu do phía người Pháp qua những phúc trình và thư từ của các
giáo sĩ thừa sai gửi về cho gia đình hoặc tu hội của họ . Những tài liệu
này ngoài tính chất quý báu là cái nhìn tại chỗ và không bị chi phối
nhiều về phe phái chính trị hẳn là có ưu điểm nói lên một phần sự việc
đã xảy ra .
Bà Đăng Phương Nghi người đầu tiên dịch các tài liệu sang tiếng Việt như hai tài liệu : ” Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ “ , Sử Địa số 9-10 , 1968 , tr94-243 và ” Triều đại vua Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương “ , Sử địa số 13, Sàigòn 1969, tr.143-180 .
Tài
liệu đã hiếm hoi . Nhưng có một số tài liệu “ đầu tay ” cùng thời với
sự kiện lịch sử như thế này thì lại úy kỵ không dùng . Riêng người viết
bài này thì ngược lại không khỏi ngạc nhiên và thích thú khi đọc sấp tài
liệu này .
Vậy
mà phần đông người viết sử miền Nam hình như tránh né , ít xử dụng các
loại sử liệu của các thừa sai Pháp . Phải chăng vì nó trình bày những “
bất lợi ” cho Tây Sơn .
Xem
ra nhiều nhà viết sử dị ứng với kho tài liệu này ? Phải chăng vì nội
dung của chúng đi ngược với những kiến thức sử quen thuộc , hay nội dung
đụng chạm đến thần tượng Quang Trung mà họ đã trót tô vẽ ?
Có người như Vũ Ngư Chiêu không ngần ngại xếp chúng vào loại tài liệu “ lời đồn ” hay “ nghe kể ” .
Hoặc
cho rằng các nhà truyền giáo này không có ý định viết sử . Hoặc họ có
lập trường chính thống ngả theo ủng hộ Nguyễn Ánh thay vì “ tiếm vương ”
Quang Trung .
Nhưng
, theo người viết , chính vì họ không có ý định viết sử, mà điều họ
viết chỉ kể lại nên về mặt sử liệu không thể coi nhẹ được .
Vì thế , đấy vẫn là thứ tài liệu đầu nguồn , trực tiếp bằng sự có mặt của họ như một nhân chứng sử .
Sự kiện họ là nhân chứng là điều quan trọng nhất . Cùng lắm , ta dùng chúng với sự thận trọng như bất cứ tài liệu sử nào .
Xin
nêu ra ở đây như một bằng chứng là những vấn đề như chiến dịch Tây Sơn
đánh ra Bắc cũng như lịch sử nhà Tây Sơn trong hơn 40 số Tập San Sử Địa
với rất nhiều giới hạn tài liệu .
• Chủ đề thứ nhất : ” Đặc Khảo về Quang Trung “ . Trong đó có đến 4 bài viết của Tạ Chí Đại Trường như : ” Vai trò của Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính của Tây Sơn – Góp thêm về phổ hệ Tây Sơn “ v…v…. Hoàng Xuân Hãn đóng góp với bài : ” Việt Thanh chiến sử theo Ngụy Nguyên “ , một sử gia Trung Quốc đời Thanh . Tạ Quang Phát với bài : ” Vua Quang Trung qua chính sử triều Nguyễn “ . Nhưng một tài liệu không thể bỏ qua được của bà Đặng Phương Nghi trích và dịch ra từ Văn khố Âu Châu bao gồm các thư : ” Lettres Édifiantes et Curieuse “ của Gia Tô Hội .
• Chủ đề thứ hai được thực hiện ngay năm sau , tháng 1-3 , năm 1969 để kỷ niệm : ” Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu , Đống Đa “ . Tạ Chí Đại Trường như thường lệ có bài : ” Đống Đa , mâu thuẫn văn hóa vượt biên giới “ . Hoàng Xuân Hãn với ” Bắc Hành Tùng Kí “ . Nguyễn Nhã với : ” Tài dùng binh của Nguyễn Huệ “ . Đăng Phương Nghi dịch : ” Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương “ .
• Chủ đề thứ ba số tháng 1 – 3 năm 1971 : ” 200 năm Phong Trào Tây Sơn “ với các bài của Hoàng Xuân Hãn : Phe chống đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “ Cử Trung Ngân ” .
Việc mất đất 6 châu Hưng Hóa của Nguyễn Toại . Những ngày tàn của Tây
Sơn dưới mắt giáo sĩ Phương Tây , bản dịch của Nguyễn Ngọc Cư ( tài liệu
Nha Văn Khố Pháp do bà Đặng Phương Nghi để lại trước khi bà sang Pháp
dạy học ở Đại học Sorbonne ).
Trong
cả ba số chủ đề trên , sự đóng góp của Tạ Chí Đại Trường là nhiều và
trổi bật . Nhưng sự đóng góp của ông Hoàng Xuân Hãn và bà Đặng Phương
Nghi trong cách nhìn mới , tìm tòi nhiều tư liệu là đáng kể hơn cả .
Ít ra hai người đã mở ra một hướng nghiên cứu sử học như mở một cái lối đi trong khu rừng rậm .
Phía các người viết sử miền Bắc
Phần
các nhà viết sử miền Bắc xem ra “ đi trước ” các nhà viết sử trong Nam .
Họ gán cho Tây Sơn những vai trò “ cách mạng ” đi trước cả Mác-Lênin .
Và phải chăng Tây Sơn là ông tổ của cuộc cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa ?
Người ta đọc được các bài viết sau đây về Tây Sơn , Nguyễn Huệ :
– Xã hội Việt Nam trong thế kỷ XVIII và những phong trào nông dân khởi nghĩa.
– Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ.
– Nguyên nhân thành bại của cuộc cách mạng Tây Sơn.
– Cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn qua một ít bức thư của người ngoại quốc đã ở Việt Nam đương thời.
– Giới thiệu văn học Việt Nam thời Tây Sơn
– Một số tài liệu về vấn đề ruộng đất thời Quang Trung
– Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ.
– Nguyên nhân thành bại của cuộc cách mạng Tây Sơn.
– Cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn qua một ít bức thư của người ngoại quốc đã ở Việt Nam đương thời.
– Giới thiệu văn học Việt Nam thời Tây Sơn
– Một số tài liệu về vấn đề ruộng đất thời Quang Trung
Người
ta cũng thừa hiểu rằng tất cả những người viết sử miền Bắc, dựa trên Sử
quan duy vật biện chứng đã biến sử học trở thành công cụ cho chế độ ấy.
Mặc dầu miền Bắc có một số trí thức đáng nể . Nhưng những vị này cũng
tự khuôn mình vào lối viết theo “ lề phải ” như Nguyễn Đổng Chi , Trần
Văn Giáp , Đào Duy Anh , Trần Thanh Mại , Trần Văn Giàu , Vũ Ngọc Phan ,
Trần Đức Thảo .
Có
thể gọi chung đó là thứ sử phi sử . Đó cũng là là thứ sử nay phải viết
lại hết , viết lại từ đầu vì những điều gì họ viết về nhà Tây Sơn thì
đều chỉ có mục đích tuyên truyền .
Họ càng “ tụng ” Tây Sơn , Tây Sơn càng không phải Tây Sơn .
Sự ca tụng Tây Sơn có khác gì bây giờ họ đang “ đánh bóng ” Lý Công Uẩn ?
Với những dụng ý như thế , Tây Sơn Nguyễn Huệ đã được bôi vẽ bằng rất nhiều hình ảnh không thật .
Sau 1975 , Quách Tấn-Quách Giao có cho in Nhà Tây Sơn , xnb Trẻ , TP.HCM , 2000 .
Đặc
biệt có cuốn sách của Trần Quỳnh Cư-Trần Viết Quỳnh nhan đề : Mười ba
đời nhà Nguyễn đã không thiếu những lời khiếm nhã đối với các vua nhà
Nguyễn . Nhưng đặc biệt ở trang 172 có ghi : Hành động cách mạng “ số
một ” của vua Bảo Đại , trích hồi ký Từ triều đình Huế đến chiến khu
Việt Bắc của Phạm Khắc Hòe cho thấy sự kính trọng của Bảo Đại đối với “
thánh ” Nguyễn Ái Quốc !
Những tài liệu ít ỏi viết về Nguyễn Ánh và khảo hướng viết sử diện mở rộng
Nhưng viết về Nguyễn Ánh , khó khăn và hiếm hoi lắm mới gom được vài bài như : “ Một vài ý kiến về sự nghiệp Gia Long ” , Phạm Việt Tuyền , Đại Học Huế , số 8 tháng 3/1958 . Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thế Anh : ” La Monarchie des Nguyên de la mort de Tu Đuc à 1925 “ . Bài viết gần đây như : ” Đánh giá lại một số tài liệu về thời kỳ Tây Sơn “ , số 3, tháng 4-6, 2007, Dòng Sử Việt .
Mới đây nhất, có bài viết khá lý thú của Võ Hương An : ” Bàn về Tây Sơn , Nguyễn Ánh “ . Chuyện đời vay trả giải lý một phần nào những nỗi oan đổ trên đầu Nguyễn Ánh .
Có
thể còn có một số bài viết khác mà người viết không thu tập được .
Nhưng nói chung nó quá ít ỏi so với số lượng tài liệu viết về Tây Sơn .
Nhưng
người viết tin rằng sẽ có những loạt bài khảo cứu nghiêm túc nhìn lại
Tây Sơn trong tương lai . Riêng các nhà viết sử có tiếng tăm ở miền Nam
trước 1975 , chắc hẳn phải điều chỉnh lại tầm nhìn lịch sử về các chiến
thắng cũng như con người Tây Sơn cho thích hợp .
Như
nhận xét ở trên, ông Hoàng Xuân Hãn là một trong những người sớm nhận
ra tính cách “ một chiều ” trong các bài khảo luận về Quang Trung . Vì
thế, ông đã dịch Việt Thanh Chiến , theo Ngụy Nguyên , một sử gia Trung
Quốc đời Thanh trong Càn Long chính vũ An-Nam ký , năm Đạo Quang thứ 22 –
1842 , nhằm cân bằng kiến thức lệnh lạc một chiều của một số người viết
. Bài viết này về mặt sử liệu nên được coi là một đóng góp quan trọng
trong việc tìm hiểu chiến dịch đánh ra Bắc của Tây Sơn Nguyễn Huệ .
Ông Hãn còn viết thêm bài : Phe chống Đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “ Cử Trung Ngân ” .
Ông
cũng đã chú trọng và giới thiệu đến các bộ sách sử khổng lồ Đại Thanh
Thật Lục được xuất bản bên Nhật để độc giả có thêm một cái nhìn “ theo
lề trái ” về Quang Trung .
Cái
ưu điểm của ông Hoàng Xuân Hãn mà một số sử gia thời đệ nhất và đệ nhị
không có được là ông rành chữ Hán , tiếp xúc trực tiếp với tài liệu của
Trung Hoa cũng giống như các ông Phan Khoang , Chen Ching Ho ( Trần Kình
Hòa ) .
Viết
sử Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Hoa mà không rành Hán Văn , lại
không chú trọng đến các tài liệu phía Trung Quốc phải chăng là một
thiếu sót mang danh nghĩa một nhà sử học ?
Cái
ưu điểm của học giả Hoàng Xuân Hãn là cái nhìn cao và vượt trên tài
liệu chỉ từ một phía . Và theo ông , cần tham khảo sử liệu từ nhiều phía
.
Vì thế , viết sử ta mà không đọc được sử Tầu thì mất đi ít nhất một nửa sự thật .
Sau
này , các người biên khảo sử như Nguyễn Duy Chính cũng đi theo hướng
khảo cứu đó khi tìm hiểu – điều mà ông gọi là Đi tìm một mảnh khuyết sử –
thông qua cuốn Khâm Đinh An Nam Kỷ lược . Cuốn sách của triều đình nhà
Thanh tổng hợp tất cả những thư từ , chiếu biểu của vua Càn Long liên
lạc trao đổi với nước ta .
Cũng
theo ông Nguyễn Duy Chính , đó là một văn bản hiếm quý để trong thư
viện của vua Gia Khánh ( 1798-1820 ), đóng dấu Ngự Thư Phòng Bảo , được
in lại do Cố Cung Bác Vật Viện biên tuyển , ấn hành lần thứ nhất vào
tháng 6 năm 2000 .
Vì thế khẳng định rằng viết về sử Việt mà thiếu sự tham khảo tài liệu sử Tàu thì dễ có nguy cơ rơi vào khiếm khuyết sử .
Sử
một lần nữa phải viết lại và nhiều bài viết sử thập niên 1960 chỉ có
giá trị thư tịch , tồn trữ đối chiếu mà không hé mở cánh cửa vào sự thật
.
Cho
nên phần đông các tham luận về sử , đặc biệt viết về Quang Trung Nguyễn
Huệ đăng trong hơn 40 Tập San sử địa thì hiện nay chỉ có chút ít giá
trị tham chiếu . Nếu không nói là phải viết lại toàn bộ .
2. Những ngộ nhận và đánh giá sai lầm về Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ
Từ những thiếu sót về tài liệu cộng với “ trào lưu văn sử học Tây Sơn ” đã
đưa tới tình trạng nhiều tác giả viết sử đã có định kiến về Nguyễn Ánh .
Người ta có cảm tưởng giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh có một cái trục về
điều xấu và một trục về điều tốt. Sự phân biệt chính tà hầu như rõ rệt
và phân minh lắm, Cái gì về phía Nguyễn Ánh là phản phúc , tàn độc , là
dã man , là phong kiến . Cái gì về phía Quang Trung là anh hùng , hào
kiệt , là cách mạng nông dân , là chiến thắng thần thánh, là “ hết lời ,
hết ý ” .
Tinh
thần phân biệt thị phi giữa thiện ác , giữa xấu tốt là một “ bước lầm ”
dẫm chân giữa các lãnh vực . Không phân biệt rõ ràng ranh giới và trách
nhiệm giữa lãnh vực sử học , lãnh vực chính trị và lãnh vực đạo lý .
Nhiều
nhà sử học thay vì trình bày khách quan sự việc đã nhảy chổm sang lãnh
vực đạo lý , đưa ra những lời phê phán đáng nhẽ thuộc thẩm quyền đạo lý .
Việc
phê phán sự “ tàn ác ” của Nguyễn Ánh mà bỏ quên bối cảnh lịch sử của
thời đại ấy với khung pháp lý , chính trị của thời đại ông ta phải chăng
là một thiếu sót ? Chẳng hạn , việc phê phán hình phạt cho voi giầy
thật đáng phê phán ở thời đại này , nhưng lại là việc “ thông thường ”
trong khuôn khổ chính trị , pháp lý thời trước .
“ Phong trào thần tượng Tây Sơn ” còn
lan tỏa ra chung quanh hào quang của ông ấy . Chẳng những Tây Sơn được
coi như anh hùng hào kiệt đã đành mà đến tất cả các bộ tướng, các cận
thần đến vợ con , đến những quan hệ “ hôn nhân chính trị ” chung quanh
ông cũng tắm gội trong cái hào quang ấy .
Hầu như có một thế giới Tây Sơn , một thời đại Tây Sơn – một thời đại vàng son – không ai có thể nói khác đi được .
Các
cận thần như La Sơn Phu Tử , Nguyễn Thiếp là những bậc trí giả , đạo
đức cao vời . Họ vừa khôn ngoan , vừa đạo hạnh , vừa chính nhân quân tử ,
vừa nho phong đạo cốt , vừa ứng xử tuyệt vời ban ra những lời nói vàng
ngọc đáng ghi khắc .
Cái hay của Huệ là chỗ biết nghe , biết dùng người tài .
Về
các tướng tá chung quanh ông như Trần Quang Diệu , Bùi Thị Xuân là
những mãnh tướng can trường có đảm lược ngoài trận địa . Chẳng những thế
còn có khí tiết cho đến lúc bị voi giầy . Ai ai không xúc động khi được
nghe những lời đối đáp can trường giữa mẹ và con gái bà Bùi Thị Xuân .
Chỉ
không ai ngạc nhiên hỏi xem ai là người đã được chứng kiến cái cảnh đau
lòng đó và có đủ thẩm quyền ghi lại từng câu , từng chữ một cách trung
thực ? Để đến nỗi ngày có người đã viết lại cảnh đó trong dịp ngày lễ Vu
Lan ?
Tuyệt vời cái scénario này .
Ngọc
Hân công Chúa với Ai Tư Vãn đi vào huyền thoại dân gian và sau này thể
hiện qua Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác như một bản Tình Ca bất hủ
.
Nay thì từ lịch sử đã chuyển sang một công đoạn khác , Văn Học .
Từ
lịch sử chuyển sang văn học dĩ nhiên có một đứt đoạn được bù khuyết
bằng cái gọi là “ hư cấu ” . Nếu người viết sử ít nhiều còn dè dặt trách
nhiệm , băn khoăn về sự đúng sai của sử liệu thì nhà văn tự vịn vai hai
chữ “ sáng tác ” để viết gì thì viết .
Nhưng
câu hỏi đặt ra là nhà văn có quyền viết tên thật các nhân vật lịch sử
đồng thời ” hư cấu ” tùy tiện ? Đó là câu hỏi quan trọng được đặt ra ,
nhưng không thuộc lãnh vực của bài này .
Đó
là chỗ khúc mắc chưa được giải đáp nên mới có câu chuyện nhà văn Trần
Vũ nhân đọc Sông Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác thấy các nhân vật
Nguyễn Huệ – Ngọc Hân , cô An , ông thày giáo “ tròn quá , toàn bích quá
” . Trần Vũ thấy “ ngứa ngáy , khó chịu ” mới viết truyện Mùa mưa gai
sắc như một “ viết ngược ” lại tác giả ” Sông Côn mùa lũ “ ?
Trong
” Mùa mưa gai sắc ” của Trần Vũ , ông đã “ biến tướng ” Ngọc Hân công
chúa “ lá ngọc cành vàng ” thành một thiếu phụ “ sẵn sàng tự cởi xiêm y
cho mục đích nhằm ” – một kẻ đối đầu với kẻ thù đã ám hại dòng họ nhà Lê
– bằng một bút pháp sắc bén như dao, lạnh lùng và tàn bạo . Dưới ngọn
bút của Trần Vũ , Huệ không hơn không kém chỉ là một kẻ bạo dâm .
Trần
Vũ cũng có cái lý của nhà văn . Lẽ thường tình cho thấy có lý nào Ngọc
Hân lại dễ dàng “ dâng hiến ” cái tiết trinh tuổi 16 và quên nỗi nhục
cho kẻ đã chiếm đoạt và hạ nhục cả dòng họ Lê ? Có thể nào có một mối
tình “ đẹp như tiểu thuyết ” giữa hai kẻ đáng nhẽ phải coi nhau như kẻ
thù ?
Ngọc Hân chẳng lẽ không nhớ cái cảnh gia đình tan nát vì “ tiếm quân ” Tây Sơn sau đây :
“
Chẳng những thế Tây Sơn còn cho giết bào đệ vua Chiêu Thống khi đánh
nhau với Tây Sơn . và Hơn thế nữa , khi mẹ vợ của ông bị điệu về triều
đình , ông đà trách mắng bà thậm tệ vì mối cảm tình của bà đối với Đốc
Chiêm . Số vàng do bà cấp cho Đốc Chiêm phải vào tay ông . Cuối cùng ông
ra lệnh xử trảm vị tướng này ngày 1 tháng 6 ” .
Trích Những tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ , Đặng Phương Nghi , TSSĐ số 9-10 , trang 209 .
Chẳng lẽ những truyện “ tàn độc ” của Nguyễn Huệ đối với vua Lê , Ngọc Hân công chúa đều không biết ?
Chỗ nào là sự thật lịch sử và chỗ nào là cái lý lẽ thế nhân thường tình ?
Hãy đọc một trích đoạn lối viết ngược của Trần Vũ cho biết :
“Đêm
ở phủ Chúa , Huệ bước chân lên lầu Tử Các , lòng âm ỉ cơn say . Sống
với Huệ hơn một tháng , Ngọc Hân đã biết những thói quen chung chạ của
Huệ. Thói quen của chứng bệnh thường thấy đi kèm với bệnh cuồng sát .
Lẳng lặng , tự nguyện , không đợi Huệ bắt , nàng cởi xiêm áo đến quỳ
trước chân giường . Cái liếc mắt của Ngọc Hân ném về phía Huệ sắc đến
nổi gai . Huệ lấy roi , không phải dây đai của đêm hợp cẩn , mà là thứ
roi gai của quản tượng dùng quất voi khi lâm trận . Ngọc Hân uốn lưng
đợi , tóc xõa chảy xuống nền đá , không trang sức , không cả chiếc vòng
kiềng cổ truyền của con gái Bắc Hà , chỉ dấu thẹo đỏ do sắt nung ở vai .
Vết thẹo đã lên da non nhưng đoán được dấu tỉ ấn của Huệ . Hai ba tấm
màn gấm dụ buông quanh chỗ Ngọc Hân quỳ , Huệ tiến tới một bước , hai
bước , rồi vung tay quất . Đâu roi vút tiếng rít như rạch tấm màn gấm .
Ngọc Hân oằn người bấu cứng lấy trụ giường . Huệ đã say máu , những chấm
máu li ti tím bầm nổi trên lưng Ngọc Hân trông như những vết ong đốt ,
hay những giọt mực son rỏ trên lên vũng sữa . Huệ vung tay tới tấp” .
Đây là truyện ngắn mà người viết bài này đọc đến ngỡ ngàng , thích thú và trân trọng .
Phải chăng cũng một cung cách ấy mà Nam Dao trong tập truyện dài lịch sử lấy bối cảnh triều Tây Sơn trong cuốn Gió Lửa ?
“ Đêm hôm đó , để mặc Huệ dày vò , đánh đá trong một cuộc truy hoan trước khi viễn chinh . Hân vừa rên rỉ vừa thì thào “ nữa đi , nữa đi ” như thách thức , dầu chỉ tưởng đến cái cơ nghiệp nhà Lê để quên nỗi đau của thể xác ” .
Khiếp quá ! Giữa cái “ hư cấu “ của Nguyễn Mộng Giác và cái hư cấu của Nam Dao thì đọc Nam Dao sướng hơn nhiều .
Đây
cũng là một tập truyện dài với “ tuyệt hư cấu ” và thay đổi cả “ trục
thời gian lịch sử ” viết thật hay . Rất tiếc , phải cần một trình độ
thưởng thức văn học nào đó nên cuốn truyện đã không được người đọc lưu
tâm đủ .
Và
cuối cùng trong Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp , nhà văn cầm bút ở
ngoài Bắc với xác chết người đẹp Ngô Thị Vinh Hoa , người tình của
Nguyễn Huệ . Câu chuyện trong Phẩm tiết xoay quanh một cái chết mà chỉ
nhà văn với giầu óc tưởng tượng mói viết ra được .
Một số nhà phê bình miền Bắc gọi Nguyễn Huy Thiệp “ xuyên tạc lịch sử ” hay là một thứ “ lịch sử giả ” ?
Nguyễn Huy Thiệp đã trả lời một cách đích đáng : “ Không ai đánh nhau với cái xác chết , người ta chỉ khai thác các xác chết sao có lợi mà thôi ” .
Phải chăng cái xác chết mà nhà văn muốn nói ở đây là sự thật lịch sử về Nguyễn Huệ ?
Giữa
Ngọc Hân – Nguyễn Huệ của Nguyễn Mộng Giác và Ngọc Hân – Nguyễn Huệ của
Trần Vũ , của Nam Dao có một chặng đường sa mạc không bao giờ tưởng có
thể đi tới .
Đó
là một sự đánh tráo con người và số phận Ngọc Hân – Nguyễn Huệ mà chỉ
có tiểu thuyết mới có quyền năng làm như vậy . Như thế , phải chăng sẽ
không có điểm hẹn lịch sử nào giữa một nhà viết sử và một nhà văn ? Thế
giới của nhà viết sử và của nhà văn thì không phải là một ?
Cho
nên rõ ràng nó không có chỗ cho một sự đối đầu cần thiết giữa các quan
điểm lịch sử với quan điểm văn học mà chúng ta mong đợi .
Và
vì thế chuyện viết sử và chuyện viết của nhà văn có những đối tượng và
mục đích khác nhau . Cùng lắm nhà viết sử đi tìm sự thật còn nhà văn
trên cả sự thật đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật .
Trở
về lại với khung cảnh sử học Việt Nam , đặc biệt phía những người Quốc
Gia người ta nhận thấy từ Trần Trọng Kim tiếp nối Hoa Bằng , Phạm Văn
Sơn , Tạ Chí Đại Trường , Vũ Ngự Chiêu và đến người viết mới đây nhất về
Tây Sơn , tác giả Trần Gia Phụng thì ít nhiều đều đi theo một một đường
thẳng của hình học phẳng mà không bắt gặp bất cứ con đường nào khác .
Tạ Chí Đại Trường
Riêng
Tạ Chí Đại Trường – ông có thế giá sử học – ông có những cố gắng khám
phá , những biện luận thông minh sắc bén và trí thức , nhưng đôi khi
cũng lùi bước trước những “ gánh nặng lịch sử ” .
Có thể ông đã không viết khác được .
Tạ
Chí Đại Trường càng tỏ ra cái tài tuấn biện luận sử học thì một mặt
khác cho thấy sự biện luận ấy là do thiếu tài liệu sử , thiếu thông tin
sử học . Giả dụ rằng , ông có trong tay đầy đủ chứng liệu sử học từ
nhiều nguồn thì chỉ việc khệ nệ bê ra và khỏi cần đến biện luận ?
Ngày
nay đọc lại bài khảo cứu của ông về cuộc hành quân ra Bắc trong chiến
dịch Việt – Thanh cho thấy sự khan hiếm tài liệu thật rõ rệt . Các biện
luận của ông về chiến dịch này không còn đứng vững nữa vì thiếu cơ sở .
Lấy
một tỉ dụ , người ta đọc thấy những câu chuyện hư cấu, những huyền
thoại về Tây Sơn được viết lại trong “ ngoại thư ” Hoàng Lê Nhất Thống
Chí ( HLNTC ) – một tập sách mà thật ra chỉ là sự pha trộn khéo léo giữa
một số sự kiện có thể “ giả định là thực ” cộng với hư cấu ! Linh Mục
Nguyễn Phương , giáo sư sử học đại học Huế có viết một bài : ” Giá trị Hoàng Lê Nhất Thống Chí “ đăng
trên báo Bách Khoa , ngày 14-5-1963 , trang 15-22 Trong đó linh mục
Nguyễn Phương đánh giá thấp giá trị lịch sử của tập sách và cuối cùng
ông xếp vào loại sách truyện , thứ ngoại thư .
Tạ
Chí Đại Trường trong tác phẩm Lịch sử nội chiến Việt Nam 1771 – 1802
cũng thừa nhận Hoàng Lê Nhất Thống Chí là không dùng được vì tính cách
truyện của nội dung tập tài liệu .
Vậy
mà cũng chính Tạ Chí Đại Trường trong phần viết về : Chiến tranh tiêu
diệt họ Trịnh , vì không có tài liệu nào khác về phía nhà Nguyễn cũng
như về phía sử Trung Hoa . Ông đã đành lòng ghi nhận : Phần viết này thì
đều lấy lại ở Hoàng Lê Nhất Thống Chí !
Sự trung thực đáng quý . Nhưng nó lại thật là mâu thuẫn với tư cách một người viết sử .
Những
“ kiến thức có sẵn ” ấy do sự lập đi lập lại bởi nhiều người, bởi nhiều
“ sách vở viết theo ” do những nguyên do khác nhau đã dần trở thành
những “ gánh nặng lịch sử ” khó phá vỡ được ?
Đã đến lúc phải can đảm trút đi cái “ Gánh nặng lịch sử này ” .
Cũng
vậy , đọc một vài cuốn sách sử như : Nhà Tây Sơn của Trần Gia Phụng mới
đây , năm 2005 , mà tính cách bảo hoàng trong tầm nhìn cũng như tài
liệu sử toát ra ngay trong phần thư mục liệt kê sách đọc . Thiếu vắng
các tài liệu về phía người Pháp hoặc xử dụng không đúng mức , thiếu vắng
các tài liệu về phía người Anh và quan trọng hơn cả thiếu vắng các sử
liệu Tàu được trích dẫn như một phản biện .
Và
nhất là thiếu vắng một cái nhìn lịch sử , một chọn lựa “ đúng ” trong
chiều kích nhìn một sự kiện lịch sử . Đây là một trong cái thiếu sót lớn
nhất của tác giả Trần Gia Phụng .
Cho nên có lẽ có thể kết luận khi đọc sách của Trần Gia Phụng là đọc cái gì , đọc tài liệu như thế nào thì viết như thế nấy .
Xin
đưa ra một bằng chứng để làm bằng cớ về số quân nhà Thanh trong cuộc
chiến Việt Thanh . Số quân nhà Thanh sang đánh nước ta được sách Hoàng
Lê Nhất Thống Chí phóng lên đến 500.000 , chỗ tài liệu khác xuống
300.000 quân . Riêng sử gia Tạ Chí Đại Trường thì đành “ khiên cưỡng ”
chấp nhận con số 200.000 quân được coi là chấp nhận được bằng vào các sử
liệu của Việt Nam .
Nhưng
ngay từ thập niên 1960 thì một ông sử gia Trung Quốc , ông Tưởng Quân
Chương , dựa theo Thanh sử , châu bản cũng như Tấu chương của Tôn Sĩ
Nghĩ đã đưa ra một con số “ sửng sốt ” . Tưởng Quân Chương cho rằng Tôn
Sĩ Nghị chỉ mang ” 8.000 quân ” sang Việt Nam , trong khi đó Nguyễn Văn
Nhạc đã tụ tập mười vạn binh mã để đánh quân Thanh , vì vậy quân Thanh
đại bại .
Nguyễn Hiến Lê
Để
đáp lễ tức khắc Tưởng Quân Chương , các tác giả Nguyễn Hiến Lê và
Nguyễn Hữu Ngư viết bài trên Bách Khoa , số 77 , ngày 15-3-1960 , trang
23 : “ Bàn về đính chính sử liệu Việt Nam nhân một bài viết của học giả Trung Quốc Tưởng Quân Chương ” .
Trích
lại trong Sự thực sử học : một con đường ngắn nhấn dẫn tới đoàn kết dân
tộc, tác giả Vũ Ngự Chiêu , Phần tài liệu đọc thêm II : Việc nghiên cứu
nhà Tây Sơn . Đăng trên Báo Đi Tới số 84 , Bộ mới , Tôn giáo và Dân tộc
, trang 159 .
Vấn
đề ở đây là để phản bác học giả Trung Quốc , ông Nguyễn Hiến Lê đã dựa
trên tài liệu chính sử nào ? Tài liệu của các thừa sai Pháp , tài liệu
Thanh sử hay tài liệu của các học giả viết bằng tiếng Anh ?
Ai là nhà sử học trên có thẩm quyền tinh thần để đưa ra một con số “ gần đúng ” với sự thật lịch sử ?
Tác
giả Nguyễn Duy Chính , trong tập biên khảo Việt Thanh chiến dịch . Quân
Thanh tiến vào Thăng Long đã đưa ra một con số khá tương cận với con số
của học giả Trung Quốc khi ông viết :
”
Việc dựng lại các trận đụng độ giữa quân Thanh và quân Nam trong vòng
một tháng tiến binh của họ cần phải được cân nhắc để không quá sơ sài
như sử nước ta mà cũng không huyênh hoang như sử Trung Hoa .
Vấn
đề quân số nhà Thanh đem sang nước ta là bao nhiêu cũng cần được đánh
giá lại . Việc khẳng định 20 , 30, 50 vạn như nhiều sách vở khó có thể
coi là chính xác, phần lớn do nhận định chủ quan và dựa trên ước đoán
tổng quát .
Riêng
sách vở của Trung Hoa thì họ luôn luôn nhắc lại con số trong Đại Thanh
thực lục là một vạn quân mặt đông và tám ngàn quân mặt tây đưa đến con
số 18.000 quân cho cả hai mặt ” .
Và tác giả Nguyễn Duy Chính giải thích thêm là ”
vua Càn Long chỉ sử dụng quân của bốn tỉnh phía Nam và tây nam như một
cuộc chiến ủy nhiệm khác hẳn các chiến dịch khác thường điều động nhiều
cánh quân từ nhiều vùng, nhất là Bát kỳ Binh ở miền Bắc ” . [ Xin đọc thêm bài viết của cùng tác giả về “ Từ Quân Doanh kỷ lược đến Khâm Định An-Nam kỷ lược ”, đăng trên Gio-o.com ( http://www.gio-o.com/nguyenduychinh.html ) ]
Giữa
con số đề nghị của Tạ Chí Đại Trường là 200.000 ngàn quân Thanh và con
số của Nguyễn Duy Chính chứa tới 20.000 người , đâu là con số giả định
có thể chấp nhân được gần đúng ?
Người
viết xin mượn chữ của Phạm thị Hoài phải chăng cần có kết quả của những
phép tính trừ trong việc đọc về các con số trong chiến dịch Việt-Thanh ?
3. Giải trừ huyền thoại về cách đối xử tàn nhẫn của nhà Nguyễn Gia Long đối với Quang Trung Nguyễn Huệ
Có
một điều cần lưu ý bạn đọc là những tài liệu liên quan đến sự “ bạo tàn
” của Nguyễn Ánh khi mới lên ngôi thì đều xuất phát từ hai nguồn tài
liệu :
Thứ
nhất từ các lá thư của các thừa sai Pháp trong Archives des Missions
Étrangères de Paris , Cochinchine , trong đó có các tài liệu như :
Lettres édifiantes et curieuses của Gia Tô Hội . Bộ Nouvelles lettres
Édifiantes et curieuses do Đặng Phương Nghi hoặc do Nguyễn Ngọc Cư dịch
hoặc Những Lời thuật của Barisy về Trận Thị Nại , Thư của giáo sĩ Le
Labousse cũng về Trận Thị Nại hoặc Lời thuật của Brisy về trận Phú Xuân .
Cả ba tài liệu trên đều do giáo sư Hoàng Xuân Hãn chuyển ngữ .
Thứ
hai và đây là phần quan trọng nhất là các vụ trả thù Tây Sơn lại do
chính các sử gia triều Nguyễn chính thức tường thuật lại . Điều đó cho
thấy thái độ công khai hóa các trừng phạt vì họ cho rằng trừng phạt đó
là xứng đáng , là xử theo luật . Bây giờ người đọc cho là xử phạt quá
tàn độc như hình phạt cho voi giày xé là có ghi trong luật lệ hẳn hoi .
Giả dụ Tây Sơn có quyền lực trong tay mà bắt được giặc có lẽ cũng không
làm khác hơn .
Về các tài liệu của Hội Thừa sai Ba Lê
Khi
dịch các tài liệu của Hội Thừa sai Ba Lê , bà Đặng Phương Nghi cũng ghi
nhận tính cách “ tế nhị ” khi phải dịch những lá thư đó . Tuy nhiên ,
không thể phủ nhận tính cách cập nhật và tinh cách nhân chứng của các lá
thư này .
Đọc
các thư từ hay bài tường thuật của các thừa sai Ba Lê cho thấy những
nhận xét chi li , tỉ mỉ , tính chất người đậm nét và những biểu lộ tình
cảm cũng rất người của các lời tường thuật . Nó như chuyện kể thực ,
sống động và trung thực .
Điều này cũng chứng tỏ Vũ Ngự Chiêu đã bất công khi đánh giá các tài liệu này .
Các
lời tường thuật có tính truyền đạt , được sự cảm thông của người đọc
không thua gì một bài phóng sự của một tay viết báo bây giờ . Đọc không
thể không mủi lòng , rơi lệ vì sự tàn bạo của con người , của kẻ thắng
trận đối với kẻ bại trận . Nhất là đối với các phụ nữ, vợ các tướng tá
bại trận .
Xin được trích dẫn vài đoạn tiêu biểu .
“Sau
đó , Nguyễn Vương hỏi tôi đã trông thấy các ngụy tướng chưa ; thấy tôi
đáp rằng chưa , ngài cho lệnh giải họ tới . Rồi ngài bảo tôi đi xem các
chị em của Tiếm vương ( Cảnh Thịnh ) . Tôi đã tuân lệnh . Những tù nhân
này ở một ngôi nhà kín, hơi tối, thiếu vẻ thanh nhã ; trong cảnh huống
của họ, có sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại . Tất cả có 5 người;
một 16 tuổi rất đẹp, một thiếu nữ 12 tuổi, con vương phi Đàng Ngoài,
dung mạo tầm thường; còn ba người khác từ 16 đến 18 có nứỚc da hơi sẫm, nhưng dung mạo xinh đẹp. Trong một ngục thất khác không xa, có thân
mẫu của vị thiếu phó, tướng chỉ huy đạo quân bao vây thành Quy Nhơn.
Bà ta độ 55 tuổi và có nhan sắc. Trong trạng huống bất hạnh, bà tỏ ra
rất cương quyết, có vẻ trinh thục và không tự tôn. Rồi tới vợ phò mã
Nguyễn Văn Trị, là chị ruột của Tiếm Vương. Còn bà Tư-Khấu Định, vợ
tướng chỉ huy pháo binh, có võ tướng; Bà Tham-lĩnh Thông, vợ phó đô
đốc hải quân và sau nữa còn rất nhiều người , muốn nhớ hết phải ghi cả
một niên giám trong ký ức .
Nguyễn
Vương đã để cho cướp phá tất cả dinh thự của các tướng địch và tôi tức
giận các binh lính đã đập vỡ và phá hủy tất cả những thứ lọt vào tay họ;
chắc chắn có những tòa nhà tuy xây cất theo lối Trung Hoa nhưng nếu ở
Paris thì có lẽ được coi là những lâu đài tráng lệ , nhiều vườn đẹp
trồng nhiều dị thảo và nhiều bình cho Nhật Bản .
Tóm lại , đó là chung cục việc báo thù của Nguyễn Vương và chắc hẳn ít là nỗi oán cừu của ngài rất hời hợt” .
Về Chính sử triều Nguyễn
Nay thử đọc một số trích đoạn được ghi chép trong chính sử triều Nguyễn về các hình phạt “ dã man ” dành cho kẻ chiến bại :
“Tháng 11 làm lễ tuyên cáo võ công. Ngày Quý dậu tế thiên địa thần kỳ, Ngày Giáp tuất hiến phù ở Thái miếu. (Hiến Phù: Dâng những người bắt được trong chiến tranh).
Sai
Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là
Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang
Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác
(Dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất di ,
còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và một của vợ chồng Huệ thì đều
giam ở Nhà đồ Ngoại (Ngoại đồ gia: Sau đổi là vũ khổ . Năm Minh Mệnh thứ hai đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi) .
Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu , Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép ,
bêu đầu cho mọi người biết . Xuống chiếu bố cáo trong ngoài ”.
( Trích Thực Lục , trang 531 ) .
( Trích Thực Lục , trang 531 ) .
Theo
tài liệu Bissachère ghi ở trên còn đưa ra chi tiết anh em nhà Cảnh
Thịnh trước khi chết còn phải chứng kiến cảnh các lính tráng tiểu tiện
vào sọt đựng hài cốt của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc .
Căn
cứ vào sự việc được chính thức sử gia nhà Nguyễn kể lại thì quả thực
cách hành xử của Nguyễn Ánh quả là quá tàn độc đội với kẻ đã chết cũng
như đối với con cháu và tướng tá thuộc hạ của Nguyễn Huệ .
Cũng
vì thế , các nhà viết sử Việt Nam đều đồng loạt lên án Nguyễn Ánh ,
Gia Long . Từ Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược , Phạm Văn Sơn trong
Việt sử toàn thư , Hoa Bằng trong Quang Trung , anh hùng dân tộc đến Vũ
Ngự Chiêu đều cùng đồng loạt lên án Nguyễn Ánh Gia Long .
Các
sử gia Trần Trọng Kim và Phạm Văn Sơn chê trách triều đình nhà Nguyễn
hẹp lượng . Hoa Bằng thương tiếc cho người anh hùng Quang Trung bị gán
cho chữ Ngụy .
Trần
Gia Phụng chê trách Nguyễn Ánh viện cớ việc trả thù chỉ là dựa trên “
nghĩa lớn trong kinh Xuân Thu ” mà thực ra là trái với đạo lý cổ truyền
của dân tộc .
Vũ Ngự Chiêu thì viết :
” Không ai phủ nhận được một điều : Cách đối xử của các vua nhà Nguyễn ( 1802-1945 )
với Quang Trung Nguyễn Huệ và gia đình Tây Sơn cực kỳ tàn nhẫn . Theo
Đại Nam Thực Lục , Chính biên , từ tháng Một Tân Dậu , ngay khi tái
chiếm kinh thành Huế , Nguyễn Chủng cho lệnh phá hủy mộ Quang Trung , “
bổ săng , phơi thây bêu đầu ở chợ ” . Con trai , con gái , họ hàng và
tướng hiệu của nhà Tây Sơn ” 31 người đều bị lăng trì cắt nát thây ” … Sự trả thù còn trút xuống dòng dõi Nguyễn Văn Nhạc dưới thời Minh Mạng (…) “
( Trích Việc nghiên cứu nhà Tây Sơn ( 1778-1802 ) Nguyên Vũ , Ngàn năm soi mặt , 2002 . Trích lại trong báo Đi Tới , số 84 , bộ mới , trang 159 ) .
( Trích Việc nghiên cứu nhà Tây Sơn ( 1778-1802 ) Nguyên Vũ , Ngàn năm soi mặt , 2002 . Trích lại trong báo Đi Tới , số 84 , bộ mới , trang 159 ) .
Qua
những tư liệu vừa trích dẫn trên cũng như sự đồng thuận của các người
viết sử cho thấy dư luận nói chung đều lên án cách hành xử của các vua
quan nhà Nguyễn đối với Tây Sơn – một người được coi là anh hùng dân tộc
.
Tuy nhiên , cũng cần nhìn lại và đánh giá lịch sử cho công bằng .
Thực sự Nguyễn Ánh có phải là người có bản tính tàn độc đối với kẻ bại trận không ?
Căn cứ vào chính sử Nhà Nguyễn cho thấy Nguyễn Ánh không phải ác độc như cái nhìn miệt thị của các người viết sử .
“
Trừ cỏ xấu , cốt để nuôi cho lúa tốt; giết kẻ ác , cốt để cứu giúp dân
lành . Vả chăng một phủ Quy Nhơn đều là đất đai cũ , nhân dân cũ của ta ,
từ thuở Tây Sơn nổi loạn , dùng làm sào huyệt , nhân dân bị thế bắt
buộc , không thể không theo (…) . Vậy ra lệnh từ nay phàm khi đối trận
chém giết thì không kể, còn bắt được người tại trận, không kể người ở
Thuận Hóa, Bắc Hà, Quảng Nam , Quảng Ngãi , Quy Nhơn , đều được thưởng
như nhau bất tất phân biệt ; người từ Quảng Ngãi về Bắc thì cho lưu lại
để thu dùng , người ở Quy Nhơn trở vào thì cấp cho tiền gạo rồi thả về .
Đó thực là đánh bằng nghĩa mà dạy bằng nhân vậy . Ta đã đinh ninh dặn
bảo , nếu có ý trái lệnh giết càn thì tức là hạng quân kiêu căng giận dữ
, do lòng tàn nhẫn , đều chiếu theo quân pháp mà trị tội ”
( Trích “ Quốc Sử Quán Triều Nguyễn . Đại Nam Thực Lục ”, tập một , trang 471-472 , nxb Giáo Dục ) .
( Trích “ Quốc Sử Quán Triều Nguyễn . Đại Nam Thực Lục ”, tập một , trang 471-472 , nxb Giáo Dục ) .
Và
đối với bọn cựu thần nhà Lê và những hương cống học trò cũng như con
cháu họ Trịnh , Nguyễn Ánh đều lấy lẽ phủ dụ , thấu rõ tâm tình của họ
để thu phục họ . Sử nhà Nguyễn viết :
“
Ta sẽ nghe lời nói thử việc làm , tùy tài bổ dụng , cho người hiền được
có vị , người tài được có chức , họp lòng nghĩ , chia mưu làm , để cùng
nên đạo trị nước . (…)
Với dòng họ Trịnh sử viết “
Tiên thế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia . Trung gian Nam Bắc
chia đôi , dần nên ngăn cách , đó là việc đã qua củ người trước , không
nên nói nữa . Ngày nay trong ngoài một nhà, nghĩ lại mồí tình thích
thuộc bao đời , thương người còn sống , nhớ người đã mất , nên lấy tình
hậu mà đối xử . Vậy cũng báo cho nhau , họp chọn lấy một người trong họ
giữ việc thờ cúng , để giữ tình nghĩa đời đời “ .
( Trích ĐNTL, trang 507-508 ) .
( Trích ĐNTL, trang 507-508 ) .
Cách ứng xử như trên , có tình có nghĩa nào phải của một kẻ tàn độc ?
Riêng
đối với La Sơn phu tử được coi là cố vấn cận thần của Tây Sơn , bốn
lần được Nguyễn Huệ vời ra giúp nước đã được Nguyễn Ánh đối đãi khoan
hồng như Sử sách ghi :
“
Thả Xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp về . Vua dụ rằng : “ Khanh là
người có tuổi tác đạo đức , rất được người ta trông cậy . Sau khi trở về
núi nên khéo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều ,
khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta ” . Bèn sai quan quân đưa về.( Trích ĐNTL , trang 445 ) .
Câu
hỏi đặt ra ở đây là tại sao Nguyễn Ánh , Gia Long lại có mối thâm thù
và muốn trả món nợ cừu hận ấy ? Phải chăng Nguyễn Huệ cũng xử sự tàn độc
khi chiến thắng ?
Những việc làm “ tàn độc ” của Tây Sơn hầu như bị sử sách bỏ quên
Việc
Nguyễn Ánh làm thì được kể lại kỹ càng . Nhưng việc của Tây Sơn làm thì
không đụng tới . Phải được hiểu như thế nào về sự việc này ?
Xin đọc trích dẫn một số sự việc khi Nguyễn Huệ Bắc tiến do linh mục Thomas Thiện viết phúc trình :
“Chừng
một tháng nay , một vị tướng của tầu Attila – Nguyễn Huệ tên là Vach
Quinh đã trở lại xứ Nghệ mộ rất nhiều lính . và bắt dân chúng cung cấp
một số gạo lớn . Với những hành động tối dã man , tên ác quỷ đó thường
hay xẻo tai , lột da mặt từ trán cho tới miệng , đánh nhừ tử cho đến
chết những viên xã trưởng hay những đại diện cho các làng xã không tuân
lệnh hắn ngay (…) . Ai nếu đều tin chắc rằng Bắc Vương ra Bắc Kỳ là để
chiếm ngai vàng vương quốc mà thôi .
Những
người ra trình diện đều bị bắt ngay lập tức . Họ phaỉ trả một số tiền
chuộc ít hay nhiều tùy theo chức vụ và tư cách của họ nếu họ muốn chạy
tội . Còn nếu không có tiền chuộc , họ sẽ bị xử tử (…) . Phẫn nộ trước
các hành động khinh thị ý ngài , Bắc Vương liền cho bắt họ lại và ra
lệnh tịch thu tài sản của họ . Ngược lại họ cứng đầu mãi , thì họ sẽ bị
giết (…) Quân Tây Sơn ra lệnh cho dân làng ông phải đem nộp ông ta ngay
nếu không cả làng sẽ bị cướp phá hoàn toàn . Dân làng buộc lòng phải
tuân lệnh và vị quan khốn nạn này lại rơi vào tay của quân Tây Sơn “ bạo
tàn ” , chúng liền xử tử ông và treo đầu ông bên lề đường ”
Ký tên . Thomas Thiện, linh mục người Bắc Kỳ .
( Trích Tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ , Đăng Phương Nghi ,Tập san sử địa , số 9-10 , Sàigòn , 1968 , từ trang 196-198 ) .
( Trích Tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ , Đăng Phương Nghi ,Tập san sử địa , số 9-10 , Sàigòn , 1968 , từ trang 196-198 ) .
Có
hai tài liệu do Ngô Bắc dịch mới đây chứng minh rằng Tây Sơn đã dùng
hải tặc Trung Hoa trong việc Bắc tiến . Đám Hải tặc Trung Hoa đã gây
nhiều kiếp nạn trong vùng mà chúng đi qua hoặc trú đóng đúng như nội
dung bản phúc trình của Thomas Thiện vừa được trích dẫn ở trên . Tài
liệu do Dian H. Murray viết với tựa đề : ” Các ảnh hưởng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn trên sự phát triển của Hải tặc Trung Hoa “ .
Để viết tài liệu này , Murray cũng đã dẫn chứng hàng chục tài liệu liên
quan của các sử gia Tầu như Shun-tehsien-chih , Kuang-tung t’ung-chih ,
Chu Huai , 8 chuan , 1827 , v…v….
Điều đó cho thấy binh đội Tây Sơn đi đến đâu dân chúng lầm than khổ sở vì bị cướp bóc , bắt lính và tàn sát dân chúng đến đó .
Nào ai đã viết lại về các sự việc này ?
Riêng
đối với dòng họ Nguyễn Ánh thì kể như không một người nào sống sót dưới
bàn tay của Tây Sơn , trừ lại còn mình Nguyễn Ánh . Theo Trần Gia Phụng
ghi lại thì :
– Thứ nhất chú , bác ruột Nguyễnh Ánh bị giết là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần , Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương .
– Thứ nhì anh em ruột của Nguyễn Ánh cũng bị Tây Sơn giết là Nguyễn Phúc Đông ( anh ruột ) và Nguyễn Phúc Mân , Nguyễn Phúc Thiên ( em ruột ) .
– Thứ ba quan trọng hơn cả , Tây Sơn đã cho quật mộ Nguyễn Phúc Côn ( thân phụ cả Gia Long ) đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790 .
Về việc này , xin đọc kỹ chính sử nhà Nguyễn đã viết lại như sau :
“ Tháng 9 , ngày Ất Hợi , sửa lại sơn lăng .
Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn văn Huệ tham bạo vô lễ , nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc ( tức lăng Trường Mậu )
rất tốt , định dem hài cốt vợ táng ở đó . Hôm đào huyệt , bỗng có hai
con cọp ở bụi rậm nhảy ra , gầm thét vồ cắn , quân giặc sợ chạy . Huệ
ghét không muốn chôn nữa . Sau Huệ đánh trận hay thua , người ta đều nói
các lăng liệt thánh khí tốt nghi ngút , nghiệp đế tất dứt . Huệ bực
tức , sai đồ đảng đào các lăng , mở lấy hài cốt quẳng xuống vưc….(…) .
Đến nay Huyên đem việc tâu lên Vua thương xót vô cùng , thân đến xem
chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục trượng. Tức thì sai chọn ngày lành
làm lễ cáo và an táng lại (….) . Ngày kỷ Hợi , vua thân đến tế cáo ,
nghẹn ngào sa lệ , bầy tôi đều khóc cả “
( Trích ĐNTL , trang 466 ) .
( Trích ĐNTL , trang 466 ) .
Chẳng
những thế , Tây Sơn Nguyễn Huệ còn đào hết lăng tẩm Tám đời của chúa
Nguyễn tại Thừa Thiên , ném xuống sông . Nhưng điều mà Nguyễn Ánh không
thể tha thứ được là phần mộ của Nguyễn Phúc Côn , thân sinh của Nguyễn
Ánh cũng bị khai quật và hài cốt bị ném xuống sông .
Theo tài liệu ghi lại không lấy gì làm chắc chắn trong Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết chi tiết như sau :
“
Theo truyền thuyết khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức đức Hưng tổ ném
xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá , sau ba lần đều
thấy cái sọ nằm trong lưới . Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh
nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi đi tìm lại hài cốt
của thân phụ nghe người làng tường thuật , ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo
chỉ chỗ . Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào
sọ , sọ liền hút những gọt huyết này ( lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người ) ” .
( Trích “ Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả ” , trang 193 , nxb Thuận Hoa , Huế 1995 . Trích lại trong bài viết của cụ Võ Hương An “ Bàn về Tây Sơn Nguyễn Ánh. Chuyện đời vay trả ” ) .
( Trích “ Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả ” , trang 193 , nxb Thuận Hoa , Huế 1995 . Trích lại trong bài viết của cụ Võ Hương An “ Bàn về Tây Sơn Nguyễn Ánh. Chuyện đời vay trả ” ) .
Dưới
cái nhìn thông tục, đời thường , cụ Võ Hương An cho rằng cuộc trả thù
của Nguyễn Ánh chỉ là một cuộc vay trả . Đời có vay thì có trả . Nói
khác đi sự trả thù có ý nghĩa chính đáng , chấp nhận được nếu đặt trong
bối cảnh một xã hội theo thứ “ Văn Hóa nuôi thù ” vốn tồn tại nơi người
Việt Nam .
Trả thù đôi khi trở thành một thúc bách luân lý và bổn phận .
Kết luận
Nay
về phía Hà Nội , vào năm 2008 đã có một hội thảo “ đánh giá lại Chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn ”từ đó có một chuyển hướng trong cách nhìn
và đánh giá lại sử đời nhà Nguyễn theo một cái nhìn công bình và khách
quan hơn . Những đánh giá sử học dựa trên yêu cầu chính trị xem ra không
còn thỏa đáng nữa .
Về
số nhà viết sử tại miền Nam trước 1975 nay không còn lại mấy người ,
nhưng thiển nghĩ họ cũng cần xác định và đánh giá lại những bài viết của
chính họ nhằm trả lại cho Nguyễn Ánh một vị trí xứng đáng hơn trong
lịch sử Việt Nam .
Đã
đến lúc một số những nhà viết sử của miền Nam Việt nam Cộng Hoà hiếm
hoi còn sót lại phải tự họ điều chỉnh lại tầm nhìn, tầm hiểu biết sử,
đánh giá lại “ những công trình sử học của chính họ và của đồng nghiệp ” .
Phải làm gấp đi . Thời giờ không còn bao nhiêu nữa cho họ .
Và
nay còn một chút hy vọng , có một số người viết sử chuyên ngành , tham
khảo nhiều nguồn tài liệu từ nhiều nguồn – từ tiếng Trung Quốc , tiếng
Pháp , tiếng Anh .
Hy
vọng họ như những con tàu phá băng , phải phá vỡ từ bên trong những
kiến thức đã đông cứng . Không thể cứ mãi sống trong những huyễn tượng
sử không thật , tự dối mình và dối người .
Công việc đó , Nguyễn Duy Chính đang âm thầm một mình , bỏ hết thì giờ và công sức viết lại sử đời Tây Sơn .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét