XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 21 tháng 8, 2016

Hoa sa la trong mối liên hệ với đạo phật

Cây Sala hay còn gọi là cây đầu lân hoàn toàn thích hợp trồng nơi cửa chùa vì ngoài nó có hoa đẹp , hình tượng như cái đầu lân là 1 trong những linh thú của đạo phật thì cây còn có dáng cao, táng rộng giúp che mát cho sân chùa trong những ngày nắng nóng. Hình tượng cây sala khi nở hoa càng làm cho khung cảnh trang nghiêm của chùa thêm rực rỡ nhưng lại dịu mát với cành lá xanh mướt và táng cây rộng vì thế mà cây sala luôn là những tặng vật yêu thích của phật tử khi cúng lễ vật cho chùa.

I. Giới thiệu


Sala – loài hoa đẹp có gốc từ Ấn Độ được đưa sang bởi công lao của các nhà sư Việt Nam – nhằm giúp nhiều người không qua được xứ Phật sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng.

Cây Sala luôn là tặng vật yêu thích và có ý nghĩa của phật tử đến chùa
Trong kinh điển Phật giáo, Đức Phật đản sinh ở gốc cây sala (Shorea robusta), trong vườn Lumbini (Lâm-tì-ni), và nhập diệt giữa hai cây sala tại Kusinara (Câu-thi-na). Ngoài ra, vì Phật thuộc Trang Nghiêm kiếp là Phật Tỳ Xá Phù cũng giác ngộ dưới gốc cây sala. Vì thế ngày nay, ngoài cây bồ-đề ra thì cây sala cũng được trồng tại các khuôn viên chùa chiền. Tuy nhiên, tại Sri Lanka, Thái Lan và một số quốc gia Phật giáo khác thì cây sala thường bị nhầm lẫn với cây đầu lân này, cũng như với cây vô ưu (Saraca asoca). Do dó tại các chùa chiền cũng thường trồng cây đầu lân. Trong giới chơi cây cảnh ở Việt Nam, cây này có tên là cây ngọc kỳ lân, đầu lân hay hàm rồng.
Trong kinh Phật, có hai loại cây được xem là linh thiêng và thường được nhắc đến nhiều là cây Bồ đề và cây Sa la. Dưới gốc cây Bồ đề, thái tử Tất Đạt Đa giác ngộ thành Phật sau 49 ngày đêm thiền định. Dưới cây Sa la ở vườn Lâm Tì Ni (Lumbini), Đức Phật đản sinh và Ngài cũng nhập diệt dưới cây Sa la tại Câu Thi La (Kusinara).
Cây Sa la tên khoa học là Couroupita guianensis Mart. ex Berg, họ Lộc vừng Lecythidaceae, bộ Sim Myrtales; trong tiếng Anh thường gọi là Cannonball Tree. Ở Việt Nam, cây Sa la còn gọi là cây Đầu lân, Hàm rồng. Giới chơi cây cảnh gọi là Ngọc kỳ lân. Cây phổ biến trong khu rừng tân nhiệt đới, đặc biệt là ở lưu vực sông Amazon. Nó có nguồn gốc ở Guyana (Nam Mỹ). Ngày nay cây này có thể tìm thấy ở Ấn Độ, miền Nam dãy núi Hy Mã Lạp, và về sau được trồng nhiều nơi ở Nam Á và Đông Nam Á.
Ở miền Nam Việt nam, cây có trồng ở các chùa như Xá lợi, Vĩnh Nghiêm… Có một cây Sa la to ở khu du lịch Bình Qưới, Thanh Đa; gốc to tới mấy người ôm. Hoa Sa la thường được nhắc tới trong kinh Phật. Có tác giả nghiên cứu Phật giáo còn gọi Sa la là hoa Vô Ưu. Tán cây Sa la rậm rạp, hoa Sa la rất đẹp; những cánh hoa rất dầy, hoa nhìn cứ là lạ như là hoa của loài cây thời khủng long còn xót lại. Khi kết trái, trái Sa la chín rất hôi, và khi nó chín nẫu và nồng nặc thì lúc ấy hạt mới đủ già để mọc thành mầm cây mới. Đó cũng là qui luật sinh diệt mà nhà Phật dùng cây Sa la để tượng trưng.
Cây Sa la là một loại cây thân gỗ, cây có thể cao tới 30-35m. Hoa Sa la ra từ thân cây, suốt từ gốc lên, chùm hoa dài ra liên tục có thể tới 2-3m, quả lớn tròn to đường kính quả 15-24cm, có 200-300 hạt trong một quả. Quả cây Sa la có tính kháng sinh, kháng nấm, sát khuẩn và có tác dụng giảm đau. Cây được sử dụng để chữa bệnh cảm lạnh và đau dạ dày. Nước uống làm từ các lá được sử dụng để chữa bệnh da. Bên trong quả có thể khử trùng vết thương và lá non chữa đau răng…

II.Ý nghĩa


Cây Sa la là nơi Đức Phật sinh ra. Theo tục lệ, khi chuẩn bị đến kỳ mãn nguyệt khai hoa Hoàng Hậu Maya cùng với đoàn tùy tùng về nhà cha mẹ để sinh. Dọc đường, bà dừng chân nghỉ dưới gốc một cây Sa la ở khu rừng Lumbini, ngoại thành Kapilavatthu, thuộc nước Nepal ngày nay. Cơn đau sinh ập đến, bà tìm nơi bấu víu và cây liền nghiêng nhánh xuống cho bà vịn. Hoàng Hậu vừa vin cây thì cậu bé Siddharta ra đời và sau này tu luyện trở thành Đức Phật. Hình ảnh cây Sa la vươn nhánh xuống cho hoàng hậu vịn trong lúc sinh hạ mang rất nhiều ý nghĩa.

Cây sala có dáng cao và táng rộng, không chỉ có hoa đẹp mà nó còn có bóng mát che nắng và làm dịu không khí nơi cửa chùa
Khi biết mình sắp viên tịch, Phật hành trình đến đền Càpàla, xứ Vesàli làm lễ, rồi di chuyển thêm một lộ trình khá dài đến tiếp Kusinàra. Mặc dù bị bệnh khá nặng nhưng Phật vẫn kiên quyết đi bộ, vượt sông đến rừng Sa la, xứ Kusinàra. Đoạn đường này dù chỉ có chừng 9km nhưng Phật phải đi mất khoảng 3 tuần, dừng nghỉ đến 25 lần vì bệnh và mệt.
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ I), Phật dạy: “Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết bàn, này Ananda, đó là Thánh tích, người thiện tín cần chiêm ngưỡng và tôn kính”. Như vậy, đến Kusinàra để nhập diệt là mục đích của Phật. Ngay cả Tôn giả Ananda cũng ngạc nhiên, thắc mắc về việc này: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ tại đô thị nhỏ bé, hoang vu và phụ thuộc này. Bạch Thế Tôn, có những đô thị khác to lớn hơn như Campà (Chiêm Bà), Ràjagaha (Vương Xá), Sàvatthi (Xá Vệ)…, Thế Tôn hãy diệt độ tại những chỗ ấy”. Cũng nhờ sự thắc mắc này, Thế Tôn giải thích rằng, sở dĩ chọn Kusinàra để diệt độ vì đây là nơi Ngài đã xả bỏ thân mạng trong quá khứ. “Ta đã từng sáu lần làm Chuyển luân Thánh vương và bỏ xác tại đây, nay Ta thành Vô thượng Chánh giác lại cũng muốn bỏ xác tại đây” (Kinh Du Hành, Trường A Hàm I; Kinh Đại Thiện Kiến Vương, Trung A Hàm II). Theo ngài Narada, “Đức Phật chọn Kusinàra để nhập diệt vì ba lý do. Lý do đầu tiên là để thuyết bài pháp Mahàsudasana Sutta nhằm khuyến khích đời sống đạo hạnh. Thứ nhì là để dẫn dắt Subhadda, người đệ tử cuối cùng của Ngài, vì ngoài Đức Phật ra không ai có thể cảm hóa vị này được. Thứ ba là để cho vị Bà la môn Dona có thể phân chia Xá lợi của Ngài một cách êm thắm giữa những người sùng mộ Ngài” (Đức Phật và Phật pháp, tr.225).
Kinh Đại Bát Niết Bàn ghi, khi đến Kusinàra, vào trong rừng sa la, Ngài nằm đầu hướng về phương Bắc, giữa hai cây Sa la song thọ. Lúc bấy giờ, Sa la song thọ nở hoa trái mùa, tràn đầy cành lá. Những đóa hoa này rơi xuống, tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường Ngài.


Từ lâu hình ảnh của cây Sala đã gắn liền với màu của Phật đạo
Theo kinh Đại Bổn Duyên, Trường A Hàm I, cội sa la là Đạo tràng chứng đắc Vô thượng giác của Đức Phật Tỳ Xá Bà. Kinh điển cũng ghi rằng, khu rừng sa la nơi Thế Tôn nhập diệt vì đau thương sầu thảm, khô héo và mang màu trắng như chim hạc, nên còn gọi là Hạc lâm. Đặc biệt là bốn cây Sa la song thọ gần nơi sàng tọa của Phật nằm lúc nhập diệt, mỗi cây chỉ có một nhánh khô héo, chuyển sang màu trắng, cành lá hoa quả đều rơi rụng nhưng nhánh kia vẫn xanh tốt. Bốn cây này được gọi là tứ khô tứ vinh thọ (bốn cây, mỗi cây có một nhánh sống và một nhánh chết). Song thọ ở phương Đông tượng trưng cho Thường và Vô thường; song thọ ở phương Tây tượng trưng cho Ngã và Vô ngã; song thọ ở phương Nam tượng trưng cho Lạc và Bất lạc; song thọ ở phương Bắc tượng trưng cho Tịnh và Bất tịnh (Đại Niết Bàn kinh sớ, quyển 1). Chính hình ảnh của bốn cây Sa la “không phải sống mà cũng không phải chết” này đã nói lên sự thị hiện Niết bàn “sanh nhi bất sanh, diệt nhi bất diệt” của Thế Tôn. Niết bàn là vô sanh, bất diệt giữa muôn trùng sanh diệt. Bốn nhánh Sa la còn xanh tốt trong màu trắng tang thương của Hạc lâm biểu trưng cho bốn đức Niết bàn. Chính giữa vô thường biến chuyển mới làm sáng tỏ cái chân thường, vạn pháp không đối lập mà dung nhiếp; tuy hai mà một, tuy một mà hai. Vì vậy mà Thế Tôn đã chọn rừng Sa la làm nơi nhập diệt.
Như vậy, Sa la là cây thiêng (linh thọ) trong Phật giáo, giống như cây Bồ đề. Lúc ngài Huyền Trang đến Kusinàra chiêm bái, rừng Sa la chỉ còn bốn cây, hiện nay còn hai cây là những chứng tích thiêng liêng. Do đó, trồng cây Sa la để ngưỡng vọng Thế Tôn, hướng về Thánh tích, thú hướng Niết bàn là chuyện nên làm. Quan niệm Sa la là cây “diệt pháp” và không nên trồng là hoàn toàn thiển cận và sai lạc.

III. Bài học

Hoa Sāla đã lưu lại nhiều truyền thuyết trong nền văn học Phật giáo. Từ thời Tỳ Sa Bà Phật (विश्वभूः Viśvabhūḥ) cho đến Thích Ca Mâu Ni Phật. Cây Sāla là nơi mà Đức Phật Tỳ Bà Thi đạt được sự hoàn toàn giác ngộ và cũng là nơi an nghĩ cuối đời của Đức Phật Thích Ca ở Kusinagara.
Một ngày nào đó, bạn bớt chút thời gian thử tìm ngắm cây và hoa Sa la. Nó đẹp lắm và người ta có thể suy ngẫm nhiều điều. Ở Việt Nam, đạo Phật đã thấm sâu vào cuộc sống. Dù nhiều người khai trong lý lịch là không tôn giáo nhưng vẫn tin và làm theo những triết lý và quy tắc Phật giáo. Ngày nay trong thế giới phẳng của toàn cầu hóa với những bầy thú điện tử, con người ta quay cuồng vì tiền bạc và địa vị. Nhưng người ta vẫn cần dành chút thời gian để quay về với cuộc sống hàng ngày; vẫn cần quan tâm đến những điều tưởng như nhỏ nhoi; vẫn cần lắm những đức tin về cuộc sống, cần phải đối xử công bằng với cỏ cây muông thú.
Nhớ tới cây Sa la nơi Phật sinh ra, cũng như là nhớ tới mảnh đất chôn rau cắt rốn. Nhớ để bảo vệ gìn giữ từng tấc đất của Tổ quốc mình. Nhớ tới cây Sa la – nơi Phật mất đi, cũng là nhớ tới quy luật sinh tồn tái tạo. Nhớ để duy trì bản sắc dân tộc, tạo sự trường tồn của nền văn hóa Việt
“Khi Phật nhập niết bàn, cây sala đang trái mùa bỗng nở hoa đỏ rực. Các đệ tử ngài lấy làm rất ngạc nhiên, hỏi Đức Phật thì được ngài trả lời rằng: Phật giáo cũng như các đạo khác, chỉ là phần bên ngoài. Chính bên trong các con phải tu tập, rèn luyện cho đắc đạo thì tự nhiên sẽ được đơm hoa, kết trái. Đức Phật ra đi để lại một kho tàng tình thương, niềm tin cho mọi người từ giai cấp thấp cho đến cao rằng hãy rèn luyện đức tin và lòng nhân ái của mình, ắt hẳn sẽ có ngày thành công” – tỳ kheo Tánh Hiền nhắn nhủ.
Đến chùa Tăng Quang trong sáng rằm tháng tư năm nay như thấy bình yên và lòng lắng lại dưới tán cây sala đầy hoa đỏ trước chánh điện. Ngôi chùa có tuổi đời trên 50 năm, xây theo phong cách Phật giáo nguyên thủy, được ôm trùm bởi bóng mát của 2 cây sala to nhất, đẹp nhất Huế.
Sau khóa lễ cúng niệm rằm tháng tư, tỳ kheo Tánh Hiền, trụ trì chùa Tăng Quang từ từ kể: “Theo Phật sử, cây sala hay còn gọi là cây vô ưu là nơi Đức Phật đã sinh ra. Sau khi Đức Phật tu đắc đạo, đến tuổi già, ngài nhập niết bàn tại khu rừng Usinara đầy cây sala, lúc đó ngài nằm giữa 2 cây sala hay còn gọi là song thụ. Vì thế, sala gắn mật thiết với hình ảnh của Đức Phật.
Cây sala tại chùa Tăng Quang được 1 ngài tăng thống của Phật giáo nguyên thủy Việt Nam cùng chư tăng phật tử qua Ấn Độ xin giống cây về trồng từ Huế vào miền Nam cách đây gần 60 năm. Tăng Quang là chùa đầu tiên ở Huế có được cây sala. Trải qua thời gian, bị bão đánh gãy một vài lần, nhưng cây vẫn ngày càng tươi xanh, tỏa bóng mát và hoa thơm ngát”.


Hoa đẹp có hình tượng như đầu lân , một trong những linh thú của đạo Phật và Tỏa hương thơm ngát
Ngoài ra trong khuôn viên của nhiều chùa khác cũng được Phật tử cúng tặng cây Sala nên vào mùa này cây nở hoa và ra trái, người dân kể rằng cây này mà trồng trong chùa rất linh thiêng, chỉ cần nhặt được hoa của nó rụng xuống thì sẽ “cầu gì được nấy”. Vì thế những Phật tử đi chùa có người đứng cầu nguyện cả hai tiếng đồng hồ để chờ hoa rụng mà chưa được. Mặc dù hoa sala xum xuê phủ đến tận gốc nhưng không ai đưa tay hái, bởi mọi người đều ý thức rằng “hoa là lộc, rơi xuống mới linh”.
Hiện nay cây sala được nhân giống và bán phổ biến, giá cả của cây con cao từ 0,5 – đến 1m  thì khoảng 50.000 VND , cây cao hơn từ 1-2 mét thì giá 150 – 200.000 VND.
Cây có thể có hoa từ 3-4 năm tuổi trở lên . Tuy nhiên cây cũng nhanh cao lớn nếu được trồng đầy đủ dinh dưỡng dưới đất. Khoảng 2 năm tuổi là cây có thể cao 2 mét hơn rồi. (ST)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét