UBND TỈNH KHÁNH HOÀ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Xí nghiệp NTTS Miền trung Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
SỐ 02 /BC-XN Ayun Pa, ngày 10 tháng 11 năm 2007
BÁO CÁO THAM LUẬN
KINH NGHIỆM NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN MẶT NƯỚC LỚN HỒ AYUN HẠ VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN
Kính gửi: BAN CHỈ ĐẠO CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN
NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN – BỘ THUỶ SẢN.
Tôi tên là: Trần Anh Kiệt
- Giám đốc doanh nghiệp tư nhân (xí nghiệp nuôi trồng thuỷ sản Miền
Trung). Hiện đang nuôi cá tại hồ chứa thuỷ lợi, thuỷ điện Ayun Hạ tỉnh
Gia Lai. Tôi rất phấn khởi được Bộ thuỷ sản mời tham dự Hội Nghị bàn
biện pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản năm 2007.
Tôi xin mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm trong quản lý nuôi trồng,
khai thác cá hồ chứa thuỷ lợi, thuỷ điện và một số biện pháp phát triển
nuôi trồng thuỷ sản mặt nước lớn.
I/ Kinh nghiệm quản lý nuôi và khai thác cá tại hồ Ayunhạ, tỉnh Gia lai
Hồ Ayun Hạ tỉnh Gia Lai được tạo nên bởi chặn dòng sông Ayun phục vụ
cho thuỷ lợi và thuỷ điện. Diện tích mặt nước 3.700 ha nằm trên địa bàn
năm xã của Ba huyện (Chư Sê, Ayun Pa và Đắc Đoa).
Trải qua hơn 10 năm nuôi trồng thuỷ sản tại hồ Ayun Hạ chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm như sau:
1. Ưu điểm của nuôi cá hồ chứa:
+
Các hồ chứa thuỷ lợi, thuỷ điện sau khi chặn dòng, chìm trong nước là
một thảm thực vật dày trong đó có muôn vàn côn trùng tạo nên nguồn thức
ăn phong phú, dồi dào cho cá.
+ Mặt thoáng của hồ rộng nên có thể thả được một lượng lớn cá giống và tổ chức sản xuất theo mô hình khép kín.
+ Sản lượng thu hoạch mỗi năm có thể đạt được hàng trăm tấn cá tươi sống phục vụ tại chỗ cho nhân dân quanh vùng với giá rẻ.
+
Tạo việc làm và thu nhập ổn định cho hàng trăm lao động là người địa
phương sống quanh hồ, góp phần xoá đói, giảm nghèo và từng bước cải
thiện đời sống nhân dân.
+ Góp phần ổn định hệ sinh thái môi trường và tăng thêm nguồn thu cho ngân sách địa phương.
2. Nhược điểm của nuôi cá hồ chứa:
+ Lòng Hồ nguyên thuỷ là rừng núi, đáy hồ cây cối, thác ghềnh nên khâu khai thác, đánh bắt gặp rất nhiều khó khăn
+ Hàng năm tràn xả lũ cũng làm trôi mất một lượng lớn cá giống và cá thịt.
+
Ven hồ địa hình phức tạp tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng dùng
mìn, điện để khai thác trộm thuỷ sản, công tác quản lý, bảo vệ rất phức
tạp và gặp nhiều trở ngại. Mặt khác, đồng bào dân tộc sống ven hồ trình
độ dân trí thấp, ngôn ngữ bất đồng nên việc tuyên truyền, giải thích
rất khó khăn, thường rải lưới mắt nhỏ để bắt cá ăn và bắt luôn cá giống
mới thả làm suy giảm lượng cá giống trong hồ.
+
Công nhân của doanh nghiệp không được đào tạo chính quy, chủ yếu vừa
làm vừa học, phần lớn không ổn định tư tưởng để làm việc lâu dài, thường
làm việc theo thời vụ.
+ Các hồ chứa hầu hết ở các vùng sâu, xa nên không thu hút được các kỹ sư chuyên ngành tham gia doanh nghiệp.
+ Một số chính sách ưu đãi của nhà nước về nuôi trồng thuỷ sản doanh nghiệp nuôi cá thường không được hưởng do thiếu thông tin.
+
Tài sản đầu tư xuống hồ khó thế chấp cho ngân hàng để vay vốn tín dụng
nên nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp chủ yếu là dựa vào vốn tự có. Do
vậy hạn chế phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ .
3. Kinh nghiệm nuôi trồng, đánh bắt và tổ chức quản lý sản xuất :
a/Bổ sung nguồn lợi thuỷ sản trong hồ
Từ những ưu và nhược điểm của hồ chứa nêu trên, ngay từ khi mới tiếp
nhận mặt nước hồ Ayunhạ, doanh nghiệp đã ý thức được: Song song với việc
khai thác, đánh bắt phải liên tục thả giống xuống hồ để tái tạo nguồn
lợi (theo phương thức đánh tỉa, thả bù) đồng thời để chủ động trong khâu
giống, đơn vị đã xây dựng một trại cá giống trên diện tích 4,6 ha,
công suất ương nuôi 6 triệu con giống/năm. Liên tục từ năm 1996 đến nay
tổ chức sản xuất giống và đã thả xuống hồ lượng cá giống cụ thể như sau
:
Năm 1996 5,6 triệu con.
Năm 1997 6,6 triệu con.
Năm 1999 2,5 triệu con.
Năm 2000 5,0 triệu con.
Năm 2001 6,0 triệu con.
Năm 2002 4,0 triệu con.
Năm 2003 4,0 triệu con.
Năm 2004 5,0 triệu con.Năm 2005 5.5 triệu con.
Năm 2006 5,8 triệu con.
Năm 2007 6,1 triệu con.
Với tỷ lệ: Cá mè 60%
Cá trôi 20%
Cá chép 10%
Cá trắm 10%
b/Tái tạo nguồn lợi tự nhiên cho hồ
Ngoài khâu giống doanh nghiệp còn tìm, chọn bãi cá đẻ, khoanh vùng cấm
đánh bắt trên hồ để bổ sung nguồn cá tự nhiên. Đến mùa cá đẻ cấm sử dụng
lưới có kích cỡ từ 5cm trở xuống để đánh bắt.
c/Bảo vệ môi trường sinh thái
Song song với việc thả cá là bảo vệ môi trường, nghiêm cấm các đối tượng sử dụng mìn, điện, chất độc để bắt cá trộm.
Trong quản lý bảo vệ: Doanh nghiệp quan hệ chặt chẽ với các lực lượng
an ninh ở địa phương như công an, dân quân du kích, phối kết hợp truy
bắt, tổ chức giáo dục các đối tượng sử dụng mìn, điện, chất độc để bắt
cá, cụ thể:
-Năm 1998 bắt 2 vụ với 5 đối tượng dùng mìn bắt cá giao công an truy tố. Từ đó đến nay hiện tượng dùng mìn bắt cá không còn nữa.
-Về kích điện bắt được 78 vụ và một vụ dùng cây độc để suốt cá do vậy hiện tượng dùng kích điện cũng giảm hẳn.
Với phương châm mỗi người dân sống ven hồ là một chiến sỹ bảo vệ môi
trường. Doanh nghiệp đã ký hợp đồng thời vụ với đồng bào dân tộc sống
ven hồ, họ đã gắn bó với lòng hồ cùng tham gia với doanh nghiệp trong
việc giữ gìn an ninh, trật tự và bảo vệ môi trường. Năm 2003 đã có trên
100 người là người đồng bào dân tộc trong tổng số 200 lao động của XN.
d/Tổ chức khai thác, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm.
-
Khai thác cá bằng các loại ngư cụ: dồn, chắn, rê, chuồng, đăng, lưới
rập. Qua quá trình sử dụng và khai thác doanh nghiệp đã cải tiến hệ
thống lưới chuồng và lưới rập đồng thời làm thêm giàn xa bắt cá dưới
tràn xả lũ.
- Mỗi loại ngư cụ tổ chức một đội khai thác riêng chuyên ngành để tạo phong trào thi đua trong sản xuất
-
Khâu bảo quản sản phẩm cũng được quan tâm chú trọng. Doanh nghiệp đã
đầu tư xây dựng 3 kho lạnh bảo ôn, một máy nước đá công suất 5 tấn/ngày
phục vụ tại chỗ cho việc bảo quản sản phẩm.
-
Tổ chức mạng lưới tiêu thụ (có xe lạnh bảo ôn) nhằm mục đích đưa được
sản phẩm tươi sống đến tận người tiêu dùng ở vùng sâu, vùng xa.
Với những nỗ lực trên sản lượng đánh bắt, khai thác hàng năm không ngừng tăng cao, Cụ thể :
Năm 1996 16,5 tấn
Năm 1997 63,5 tấn
Năm 1999 90,0 tấn
Năm 2000 118,5 tấn
Năm 2001 171,5 tấn
Năm 2002 173,0 tấn
Năm 2003 178,4 tấn
Năm 2004 192 tấnNăm 2005 225tấn
Năm 2006 250 tấn
Hàng năm doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước đầy đủ và đúng hạn.
Ghi chú: Nộp tiền thuê mặt nước cho đơn vị chủ thể quản lý hồ: (Năm 1996-2002: 50.000.000đ/năm; năm 2002-2004: 60.000.000/năm. Năm 2005-2010: 73.000.000đ/năm) theo hợp đồng kinh tế đã ký và sửa đổi.
Yếu tố quan trọng để đạt được những thành quả trên ngoài sự nỗ lực, tâm
huyết trong nghề nuôi trồng thuỷ sản của doanh nghiệp còn có sự quan
tâm, giúp đỡ tận tình và hết mức của các cấp chính quyền nhất là UBND
tỉnh Gia Lai- Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đã tạo hành lang
pháp lý và có những chính sách kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp.
4. Đóng góp biện pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản
+
Nghề nuôi cá là một nghề đã có trong dân từ rất xa xưa, ông cha ta đã
có câu : “Muốn giàu nuôi cá,....” Thế nhưng phong trào nuôi cá lại có
lúc bổng, lúc trầm do kiến thức về nuôi trồng thuỷ sản của nhân dân còn
thiếu, phần lớn chỉ thả cá chứ chưa nuôi, khi nuôi hiệu quả lại chưa cao
dẫn đến chán nản, bỏ bê v.v...Mỗi tỉnh cần có một tổ chức và một đội
ngũ kỹ sư nuôi trồng giỏi, triển khai những buổi tập huấn, hội thảo cho
các hộ nuôi cá để họ có những kiến thức nhất định về nuôi trồng thuỷ
sản, như vậy việc nuôi cá của họ mới thành công cao. Ví dụ như huyện
Ayunpa, Gia lai trước đây phong trào nuôi cá rất trầm lắng, nhưng chỉ
sau việc triển khai thực hiện một số mô hình nuôi của Trung tâm khuyến
ngư Quốc gia (tập huấn, hội thảo đầu bờ,...) của trạm thuỷ sản trực
thuộc công ty KTCT thuỷ lợi Gia lai tổ chức đến nay kết quả “nhà nhà
nuôi cá, người người đào ao” mà hộ nào cũng thành công và thu được kết
quả cao.
+
Ngoài việc nuôi cá ao hồ nhỏ, ruộng trũng lồng bè v.v.. Nhà nước cũng
nên chú trọng phát triển nuôi cá mặt nước lớn (hồ chứa thuỷ lợi, thuỷ
điện). Hiện nay, tại Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung rất nhiều
hồ chứa có mặt nước lớn đang còn bỏ hoang phí chưa được khai thác, cụ
thể nhất là hồ thuỷ điện Ya Ly chặn dòng đã trên 5 năm nhưng vẫn chưa
được thả cá. Nếu tổ chức nuôi trồng triệt để sẽ có một lượng lớn thực
phẩm cho xã hội. Tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động,
tăng thu ngân sách cho Nhà nước.
+
Nhà nước, bộ thuỷ sản nên có những chính sách riêng về nuôi cá hồ chứa,
như về thuế, tiền thuê mặt nước, hỗ trợ vốn, chuyển giao con giống
mới, kỹ thuật nuôi và kỹ thuật khai thác.v.v... Nhằm khuyến khích các tổ
chức, và cá nhân tham gia nuôi cá mặt nước lớn.
+
Chính quyền địa phương nên qui định rõ chủ thể quản lý mặt nước (một
chủ), nhất là đối với các hồ chứa nằm trên địa bàn liên xã, liên huyện,
liên tỉnh. Và qui định các chủ thể quản lý mặt nước phải tổ chức nuôi
trồng thuỷ sản không được để hoang phí mặt nước, hoăc để nguồn lợi thuỷ
sản cạn kiệt không được tái tạo, bổ sung.
+
Tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ quản lý lòng hồ nên cho đấu thầu
thuê mặt nước từ khi bắt đầu đắp đập. Để các tổ chức cá nhân trúng thầu
nuôi cá có điều kiện phát dọn lòng hồ phục vụ cho việc khai thác sau
này. Đồng thời thả được cá giống ngay từ khi ngăn chặn dòng giảm thất
thoát phù du trong nước. Hoặc đưa mục tiêu nuôi trồng thuỷ sản hồ chứa
ngay từ khi phê duyệt dự án nghiên cứu khả thi để công tác bảo vệ môi
trường được thiết lập ngay từ đầu.
+
Để nhân dân vùng lòng hồ không tái sử dụng mìn, điện, chất độc khai
thác thuỷ sản. Ngoài giáo dục về pháp luật còn cần có sự trợ giúp của
chính phủ nhằm tạo và ổn định công ăn, việc làm cho họ, nhất là đồng bào
dân tộc thiểu số sống ven hồ, như cho họ mượn vốn mua ngư cụ, trợ giúp
kỹ thuật nuôi cá lồng bè, thành lập các hội nghề cá, làng nghề đưa các
hoạt động sản xuất của đồng bào vào quản lý.v.v.. Hướng họ gắn với lòng
hồ để cùng tham gia giữ gìn, an ninh trật tự và môi trường sinh thái.
Các doanh nghiệp trực tiếp nuôi trồng thuỷ sản có thể tham gia và chịu
trách nhiệm một số khâu nào đó trong chính sách nói trên.
Cuối cùng xin kính chúc Hội nghị thành công tốt đẹp./.
ĐƠN VỊ BÁO CÁO
XN NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN MIỀN TRUNG
GIÁM ĐỐC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét