LAN MAN VỀ TRUYỀN THỐNG HỖN DUNG TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI VIỆT (2)
Thứ ba, 14/08/2012
Bùi Trọng Hiền
Sang
đầu thế kỷ 21, thật không quá khi nói rằng niềm tin mãnh liệt về thế
giới âm hồn vĩnh hằng là sự nổi trội ở đời sống tâm linh người Việt.
Trong đó, việc thờ cúng tổ tiên vốn xuyên suốt chiều dài lịch sử văn hóa
tín ngưỡng nay càng được chú trọng hơn bao giờ. Thế nhưng ở đây, việc
xác định cơ cấu tổ tiên là điều cần phải được xét lại. Về mặt
logic, bao nhiêu đời được gọi là tổ tiên? Và cái gọi phần mộ tổ tiên gia
tộc liệu có thể chấp chứa bao nhiêu bộ hài cốt theo dòng lịch sử bất
tận? Thử làm một phép tính đơn giản, lấy một người làm đơn vị phần tử
đầu tiên, ngoài việc thờ cúng bố mẹ đẻ của mình (2 người), họ còn phải
thờ ông nội và bà nội, ông ngoại và bà ngoại (4 người). Cứ thế, họ sẽ có
8 cụ nội ngoại, 16 kỵ nội ngoại..v.v.. Đây là dãy số tăng dần theo cấp
số nhân với công bội là 2:
1, 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128, 256...
Đó là chưa kể đến các quan hệ thân tộc khác như anh chị em ruột, anh
chị em họ, cô, dì, chú, bác nội ngoại, các vai vế ngang hàng với đời ông
bà, với đời cụ kỵ nội ngoại..v.v.. Và tất nhiên cũng chưa kể đến chuỗi
họ hàng nội ngoại bên vợ (hay chồng) khi xây dựng gia đình. Từ đó dễ
thấy tính hữu hạn về số lượng của mỗi khu phần mộ gia tộc cũng như số
lượng giới hạn “tổ tiên ông bà” mà mỗi con người có thể nhớ được trong
đời. Theo đó, thường thì người ta chỉ có thể quy tập lượng ít ỏi mồ mả,
tính đến vài ba đời là cùng. Tất tần tật số còn lại bao gồm những họ
hàng nội ngoại dây mơ dẫy má cho đến những tiền nhân xa xưa sẽ được...
quên dần theo thời gian bởi sự bất tận của nó. Thực tế, người ta sẽ chỉ
thờ cúng mộ cụ A, B, C... đời tam đại (hoặc giả tứ đại) nào đó mà chẳng
thể đoái hoài đến bố hay ông hoặc cụ kỵ của cụ A, B, C... Có nghĩa việc
thờ cúng giỗ chạp tổ tiên nội ngoại thực tế không thể không giới hạn
trong khoảng 3 đời, bởi khả năng ghi nhớ lo việc giỗ kỵ toàn bộ lớp lớp
tiền nhân là điều không tưởng. Thế nên mới có lệ chia họ tộc thành các
chi, ngành cùng các khái niệm Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ hay Tiên Tằng Tổ Khảo để
chỉ tổ tiên chung chung, mơ hồ. Khi chia tách tộc họ, người khởi đầu
một chi ở vùng đất mới sẽ có thể được coi là cụ tổ mới, như một tiền
nhân còn được biết đến trong lịch sử gần nhất. Thực tế cho thấy, ngay cả
cụ tổ mới đó rồi cũng dần bị quên lãng theo thời gian. Như vậy, có thể
khẳng định khái niệm tổ tiên là hết sức tương đối trong vòng
cuốn chiếu luân chuyển theo từng lát cắt thế hệ. Không thể nhớ xa, chỉ
nhớ những gì gần với mình, đó chính là tính hữu hạn và phần nào thực
dụng của hệ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dòng tộc. Ở đây, tính hữu hạn
của khái niệm dòng tộccũng thể hiện phần nào ở chính bản thân sự giới hạn của ngôn ngữ. Cụ thể, thuộc tính họ nội, ngoại cũng
như giới (nam/nữ) cho các đại từ nhân xưng chỉ có thể xác định rõ ràng
đến thế hệ thứ 3 (cha/mẹ, ông/ bà). Còn từ hàng cụ trở đi thì chỉ gọi là
cụ, kỵ chung chung, khó xác định. Sẽ thấy càng lên cao, các khái niệm
nội/ ngoại càng trở nên rối rắm mơ hồ... Ví dụ, 2 cụ đẻ ra ông nội thì
hẳn là 2 cụ nội rồi, nhưng 2 cụ đẻ ra bà nội thì không biết gọi
là gì cho chính xác? Bởi đó là họ ngoại của bố, mà con lại theo họ bố/
ông nội. Giả sử nếu cũng gọi đó là 2 cụ nội thì sẽ không phân biệt được với 2 cụ đẻ ra ông nội, còn nếu gọi là 2 cụ ngoại, ắt sẽ lẫn sang họ bên mẹ. Không lẽ gọi đó là 2 cụ nội thuộc họ bên ngoại của bố?
Cũng vì sự dây mơ rễ má quá phức tạp mà trên thực tế, nhiều cây phả hệ
chỉ ghi danh những người thuộc họ nội, bỏ qua họ ngoại cùng vợ/chồng của
những người trong dòng tộc. Thế nhưng nếu coi “cây có cội, nước có
nguồn”, ắt không thể phân biệt đối xử nội/ ngoại bên trọng bên khinh như
vậy! Thế nhưng nếu ghi nhận ngọn ngành trọn vẹn thì lại là điều quá sức
với người đời. Bên cạnh tính hữu hạn đó, trong tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên ông bà nhiều khi còn nảy sinh lắm chuyện rắc rối ở việc xác định
nguồn cội. Như đã biết, thường thì bố mẹ, ông bà, cụ kỵ... của cụ tổ coi
như không được tính đến vì không xác định được danh tính. Nhưng vấn đề
đặt ra là nếu xác định được thì sao? Ví dụ lâu nay chúng ta ghi nhận
ngày giỗ quốc tổ Hùng Vương. Chuyện đó nghiễm nhiên dẫn đến câu hỏi liệu
có thờ cúng giỗ chạp bố quốc tổ (tức Lạc Long Quân), mẹ quốc tổ (tức Âu
Cơ), ông nội quốc tổ (tức Kinh Dương Vương), bà nội quốc tổ (con gái
vua hồ Động Đình)..v.v.? Rồi cứ lần theo những gì huyền sử đã ghi nhận
được thì câu chuyện xem ra khá rắc rối, hay đành lờ đi vậy!?
Cũng nói thêm về việc thờ cúng tổ tiên, bên cạnh tư tưởng “uống nước
nhớ nguồn” cũng cần xem xét mặt trái của vấn đề. Người Việt vốn quan
niệm hệ thống mồ mả ứng với thế giới vong hồn có tác động trực tiếp lên
thế giới người còn sống. Người ta tin rằng mọi hiện tượng vui/buồn,
sướng/khổ, phúc/họa nơi trần gian đều có tính hệ quả, chịu sự chi phối
mạnh mẽ từ thế giới âm hồn. Ai chăm sóc tốt phần mộ thì có thể hưởng
lợi, được tổ tiên ông bà phù hộ, ban phúc lộc, nếu không dễ bị giáng
họa... Các khái niệm mộ kết, mộ phát, động mồ động mả... là ví
dụ điển hình của niềm tin tín ngưỡng thể hiện sự ràng buộc sâu sắc giữa
dương gian và cõi âm. Như thế, trong sự cầu cúng tổ tiên, săn sóc mồ mả,
bên cạnh sự tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân là mục đích mưu cầu lợi ích
cho bản thân gia đình người còn sống. Nói cách khác, tính vụ lợi/thực
dụng luôn song hành cùng cái gọi “uống nước nhớ nguồn”, thể hiện tính 2
mặt hiện hữu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Mới hiểu
tại sao người ta có thể lao tâm khổ tứ đến vậy với chuyện mồ mả. Như
chuyện tại sao gia đình nọ chỉ lo chăm sóc xây dựng phần mộ thế hệ cụ kỵ
ở vùng quê xa xôi mà không quan tâm đến phần mộ thế hệ ông bà ở vùng cư
trú. Lý do hoàn toàn theo lời phán truyền của thầy bói, cho rằng khu mộ
cụ đang phát, không xây cất thì nhà sẽ gặp đại họa hay không thể “ngóc
đầu” mà ăn nên làm ra. Tương tự, không hiếm trường hợp người ta chỉ chăm
chăm bỏ tiền xây cất khu mộ phần thuộc chi họ nhà mình, sẵn sàng hoành
tráng hóa sao cho to hơn cả khu mộ tổ kế bên, như để thể hiện sự vượng
phát chi/ngành họ của mình nhằm hy vọng “hưởng lợi” theo lời thầy bói.
Hay chuyện đám con cháu chỉ lo chăm sóc phần mộ cụ tổ bên nội mà không
hề đoái hoài đến phần mộ bên ngoại, thường coi đó là việc của dòng họ
khác. Âu đó cũng là những hệ lụy tất yếu của quan hệ chằng chịt họ hàng
nội ngoại rối rắm, vốn quá sức với người còn sống. Thời nay, với niềm
tin về thế giới âm hồn vĩnh hằng, không hiếm những người con khi cha mẹ
còn sống thì vô tâm hay đối xử tệ bạc, nhưng khi chết thì làm đám ma
linh đình, rồi xây mồ đắp mả cúng tế hoành tráng, như thể việc chăm sóc
người chết tối quan trọng hơn người sống. Hoặc giả người ta coi việc
phụng thờ âm hồn là hoàn toàn có thể bù đắp, chuộc lỗi cho mọi thiếu
hụt, sai sót của thế giới trần gian vậy. Điều đáng chú ý, tuyệt đại đa
số mọi hành vi tín ngưỡng xoay quanh phần mộ tổ tiên đều nhất nhất theo
sự hướng dẫn của các thầy bói, thầy cúng, cô đồng, phù thủy... Đến mức
thời nay, nếu có nói đa số con người hiện đại đang “sống và làm việc
theo lời thầy bói” thì xem ra cũng không có gì quá đáng. Thôi thì cưới
xin, ma chay, cải táng, xuất hành.., nhất cử nhất động đều phải thỉnh
các loại ông thầy mà làm theo để đảm bảo thế giới âm hồn tổ tiên luôn
song hành phù trợ.
Xét trên góc nhìn toàn bộ, đối tượng thờ phụng của các tín ngưỡng tôn
giáo nói chung (như Phật, Chúa, Thánh, Mẫu, thành hoàng...) là niềm tin
tín ngưỡng có tính rộng mở, bao phủ tâm linh, bảo trợ an sinh cho cả một
cộng đồng lớn, cho một dân tộc hay một quốc gia... Ngược lại, ngôi vị
tôn thờ của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên luôn khu biệt trong từng dòng họ
giới hạn, lấy đơn vị gia đình cá thể làm cơ sở. Có nghĩa nó chỉ phục vụ
đời sống tâm linh riêng cho dòng họ đó mà thôi. Bởi thế, mọi hành vi,
mục đích tín ngưỡng đơn giản chỉ mang tính tư lợi cục bộ của từng tiểu
cộng đồng nhỏ lẻ, chủ yếu thúc đẩy sự cố kết nội bộ dòng tộc với tính
gia trưởng, ganh đua mang đậm chất tiểu nông, ít nhiều hạn chế sự đoàn
kết, đồng tâm hướng tới đức tin chung của cả cộng đồng lớn. Ở Việt Nam,
nếu coi mỗi ngôi từ đường như một đền thờ riêng của dòng họ thì nếu tính
về số lượng, hẳn sẽ vượt xa mọi cơ sở thiết chế của hệ thống các tín
ngưỡng tôn giáo khác như đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ Thiên chúa...
Trong đó, rất nhiều ngôi từ đường có kiến trúc bề thế không kém gì một
ngôi chùa, hay ngôi đình làng to lớn. Thậm chí thời nay có những ngôi từ
đường còn được dát vàng ròng nguy nga tráng lệ như một cung điện vua
chúa, nhưng tất cả rút cục cũng chỉ để phục vụ lợi ích tâm linh cho một
dòng họ mà thôi. Thử suy đoán, sẽ thấy rất có thể từ ngàn xưa, chính
truyền thống thờ cúng tổ tiên dòng họ vụn vặt đó đã khiến người Việt
không thể xây dựng được những tôn giáo lớn cùng hệ tư tưởng, triết
thuyết phổ quát mà đành phải du nhập từ bên ngoài?! Hiện nay, chỉ cần
nhìn vào các nghĩa địa tân thời, hệ thống các từ đường là có thể hiểu
được cuộc đua tranh dòng họ lớn như thế nào. Mộ tổ, từ đường dòng họ này
phải cao hơn, to hơn, cầu kỳ hơn, đắc địa hơn dòng họ kia, như một tấm
gương phản chiếu rõ nét những động cơ vụ lợi, ích kỷ cá nhân cùng những
hệ lụy của nó. Trong truyền thống lịch sử, có lẽ những câu chuyện ly kỳ
về việc “táng mả hàm rồng” mưu cầu đế vương, vinh hoa phú quý của người
Việt là minh chứng sống động nhất về hành vi thực dụng, vụ lợi của người
sống với thế giới âm hồn tổ tiên. Niềm tin, ước mơ hồn nhiên đó thậm
chí còn được chạm khắc khá nhiều lên những vì kèo đình làng Việt, như
thể hiện một khát vọng lớn lao của ông cha xưa. Điều đáng nói, cái niềm
tin “đất cát mồ mả đắc địa” đó vẫn được duy trì bảo lưu đến tận ngày nay
với vai trò dẫn dắt của lực lượng các thày phủ thủy, thày địa lý thế hệ
mới (thường gọi là nhà phong thủy). Vấn đề đặt ra ở đây là
hành vi trục lợi từ mồ mả, vong hồn tổ tiên liệu có đáng được xem như
niềm tin “uống nước nhớ nguồn”? Đã đến lúc phải xem lại mặt trái giá trị
đạo đức ở hệ tín ngưỡng này. Cũng xin nói thêm, hiện nay có rất nhiều
người trong chúng ta đang rất đỗi tự hào về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của dân tộc, coi đó như một sự thể hiện đạo đức “uống nước nhớ nguồn”
của người Việt. Thế nhưng cần phải thấy rằng trên thế giới, các cộng
đồng, các dân tộc không thờ cúng tổ tiên thì cũng không có nghĩa là họ
không “uống nước nhớ nguồn” như chúng ta!
Thời
nay, trong những hình thái tín ngưỡng được phục hưng, có lẽ phong trào
sôi nổi rầm rộ và phát triển mạnh mẽ nhất phải kể đến tín ngưỡng Tứ phủ.
So với thời xưa, có lẽ chưa bao giờ hình thái tín ngưỡng này lại đạt
một vị trí cao như vậy trong đời sống tâm linh người Việt. Sau cả phân
nửa thế kỷ bị cấm hoạt động, giờ đây sinh hoạt lên đồng có thể nói là nở
rộ như nấm sau mưa. Không còn lạ những chuyện người người lên đồng, nhà
nhà hầu thánh nữa. Về mặt lợi ích kinh tế, doanh thu của các đền phủ
thờ Thánh Mẫu thường ở vào thứ hạng cao hơn so với hệ thống chùa chiền,
đình miếu nói chung. Điều này hẳn là nguyên nhân khiến cho rất nhiều
ngôi đền, phủ nổi tiếng đều phải mở thầu cho chức thủ nhang đồng đền.
Như đã nói, có những nơi, vị thủ nhang phải nộp hàng tỉ bạc vào ngân
sách chính quyền địa phương mỗi năm. Có nơi, chính quyền tỏ ra khôn
ngoan hơn, cử hẳn các cán bộ phòng văn hóa đứng ra coi sóc đền phủ để
đảm bảo tận thu toàn bộ. Nói vậy để biết nguồn lợi từ sinh hoạt tín
ngưỡng lớn như thế nào. Với đặc tính thương mại tâm linh từ ngàn xưa,
mức giá chi phí cho sinh hoạt hầu đồng thời nay cũng leo thang theo mặt
bằng giá cả sinh hoạt xã hội. Hiện nay, ở Hà Nội, giá thành lễ mở phủ
trình đồng cho những người mới gia nhập tín ngưỡng dao động từ vài chục
đến hàng trăm triệu đồng. Tùy vào sự bề thế của đền to phủ lớn, tiền lệ
phí “giọt dầu” bắc ghế hầu thánh cũng tính trung bình vài triệu/ một vấn
hầu. Việc chi phí cho một vấn hầu cỡ hàng trăm triệu đã là chuyện không
hiếm. Cá biệt có những chân đồng giàu sang, sẵn lòng bỏ cả tỷ bạc mỗi
lần hầu thánh.
Có
lẽ trên thế giới, không có một tôn giáo tín ngưỡng nào mà người gia
nhập lại phải tiêu tốn tiền của nhiều như vậy. Thế nhưng sự tốn kém đó
không hề làm nản lòng những người được gọi là có “căn đồng”. Điều này có
lẽ xuất phát từ bản chất của tín ngưỡng Tứ phủ, rất khác với các hình
thái tâm linh nói chung. Đại thể những tín đồ của Phật giáo, Thiên chúa
giáo hay Hồi giáo... thì không thể hóa thân thành phật Thích Ca, chúa
Giêsu hay thánh Allah... nhưng với các chân đồng Tứ phủ thì ngược lại. Ở
đây, các ông đồng bà đồng vừa đóng vai trò tín đồ, vừa có cơ hội hóa
thân lần lượt để trở thành chính những vị thánh trên điện thần mà họ phụng thờ.
Trong các vấn hầu của mình, người “bắc ghế” hầu thánh Tứ phủ luôn được
đám đông tôn vinh cổ vũ trong trạng thái “nhập thần- hóa thánh” liên
tiếp, hết giá này qua giá khác. Với những khoảnh khắc “thần tiên” đó,
chân đồng được thụ hưởng mạnh mẽ cái cảm giác “thánh bề trên” trong giao
tiếp ứng xử, khi phán truyền với đám đông người tham dự. Đây được xem
như yếu tố vô cùng hấp dẫn với người trần mắt thịt. Có ai mà không cảm
thấy sung sướng thăng hoa khi được cộng đồng phút chốc ngưỡng vọng như
một vị thánh chính hiệu, lúc lúc xì xụp chắp tay vái lạy thành kính, lúc
lúc hò la náo nhiệt cổ vũ.
Ảnh: Đoàn Kỳ Thanh
Trên
thực tế, việc “nhập thần- hóa thánh” ở đây chính là sự diễn xuất sân
khấu của các chân đồng trong những vai diễn thần thánh. Mỗi giá đồng thể
hiện hình ảnh một vị thánh Tứ phủ, từ phục trang cho đến những phong
thái, tính cách cùng các hoạt động biểu trưng riêng như tựa gối hút
thuốc, uống trà, uống rượu, nghe thơ văn, múa gươm, múa đao, múa hèo,
múa cờ, múa quạt, múa mồi, chèo đò, quẩy gánh bán hàng.... Với đặc điểm
đó, chiếu hầu đồng được xem như một “sân khấu” văn nghệ tâm linh với
nhiều dáng vẻ hấp dẫn riêng của nó. Cả người bắc ghế hầu lẫn đám đông
tham dự được đắm chìm miên man trong trạng thái tâm lý tự sướng đa cảm xúc,
kết hợp giao lồng các yếu tố “nhập thần- hóa thánh”, diễn viên sân
khấu, diễn viên múa, trình diễn thời trang. Điều đặc biệt, mỗi giá đồng
trong các vấn hầu không thể thiếu được màn ban tiền phát lộc với sự biểu
hiện của 2 chiều cạnh tâm lý cho/nhận đồng thuận hả hê. “Thánh” thì
hưởng thụ cái cảm giác “bề trên quyền năng” ban phát, bố thí cho “chúng
sinh” trần gian khi vung tay tung tiền bạc, lộc lá vào đám đông. Còn
khán giả tham dự thì hỷ hả mãn nguyện với cảm giác sung sướng tràn trề
khi vớ được tiền thần, lộc thánh một cách dễ dàng tự nhiên như mưa sa
trên trời. Tất cả lại diễn ra trong không gian điện thờ linh thiêng,
trang hoàng lộng lẫy cùng phần đệm khi khoan thai tinh tế, lúc sôi động
náo nhiệt với tiết tấu vũ điệu cuồng say của dàn nhạc Chầu văn quyến rũ.
Có thể chính cái tâm lý tự sướng “thánh thần” đó lý giải việc tại sao
người ta phải đặt một tấm gương to dưới điện thờ, trước mặt người hầu.
Hẳn để các chân đồng trước nhất có thể nhìn thấy rõ trong gương hình
bóng “thánh hóa”- tức sự hóa thân của mình “hiện thực” như thế nào. Bên
cạnh sự thăng hoa lúc lên đồng, khi gia nhập tín ngưỡng, mỗi chân đồng
thường “tự vận” căn số của mình ứng với một vị thánh cụ thể nào đó như
căn Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bảy, Cô Bơ, Cô Chín, Chầu Năm, Chầu Bé... Hệ
quả là trong cuộc sống thường nhật, họ cũng thường ám thị tính cách bản
thân giống với “căn cốt” các vị thánh huyền tích, trong đó có cả tính
cách mà dân gian thường lưu truyền kiểu “Phật từ bi, thánh chấp từng
li”. Như vậy, cộng với cái căn cốt “con cưng” của Mẫu, việc tự kỷ “thánh
hóa” bản thân, cảm giác vị thế cao sang hơn người vừa trình bày có lẽ
là đặc điểm hấp dẫn mãnh mẽ của hình thái tín ngưỡng này. Và, những đặc
điểm đó cũng đồng thời tạo nên một tính cách đặc trưng riêng của các con
nhang đệ tử Tứ phủ, một tính cách đồng bóng đi mãi cùng các chân đồng theo năm tháng.
Hơn
10 năm trở lại đây, tín ngưỡng Tứ phủ được một bộ phận giới chuyên môn
nâng tầm, tôn vinh như một tôn giáo lớn có tính chất đại diện đời sống
văn hóa tâm linh dân tộc- gọi là Đạo Mẫu. Có thể nói, chuyện đó
đã tác động không nhỏ đến thái độ ứng xử của xã hội, khiến việc gia
nhập tín ngưỡng ngày càng trở nên sôi nổi tấp nập. Từ già đến trẻ, từ
sang tới hèn, từ quan chí dân.., giờ đây sinh hoạt hầu đồng đã phục hưng
và phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ. Thậm chí, có trường hợp những cháu
bé còn ở độ tuổi thiếu niên nhi đồng cũng được gia đình cho làm lễ mở
phủ trình đồng hầu thánh. Xưa, chuyện “tiền Phật hẫu Mẫu” trong chùa
Việt không mấy phổ biến. Nhưng thời nay, việc nhà sư cho xây điện thờ
Mẫu trong khuôn viên chùa, kèm theo đó chấp nhận dung nạp sinh hoạt đồng
bóng đã trở nên một hiện tượng quá ư bình thường. Thậm chí bây giờ, sẽ
không hiếm gặp những nhà sư cùng tham dự lễ lên đồng, thậm chí cũng mở
phủ trình đồng, gia nhập tín ngưỡng như các con nhang đệ tử chính hiệu.
Trong bầu không khí đó, nhiều ngôi đình cũng nhanh chóng thức thời với
việc xây thêm gian Mẫu phối thờ để thu hút khách thập phương. Hay thậm
chí có ngôi đền nọ vốn thờ một đào nương lừng danh đã có công giúp vua
Lê chống giặc Minh xâm lược, nay cũng được “Tứ phủ hóa” để làm nơi hầu
đồng. Theo đó, ngôi đền được đổi tên thành đền “Mẫu đào nương”, bất chấp
Luật Di sản văn hóa. Hiện nay, vị đào nương nghiễm nhiên được coi như
một “thánh mẫu” phát sinh. Nói thế để thấy được tín ngưỡng Tứ phủ thời
nay có sức phát triển mãnh liệt như thế nào.
Xưa,
người ta lên đồng chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng tự thân. Thời
nay, có nhiều ông đồng bà đồng còn kiêm nhiệm thêm cả vai trò thầy cúng,
thầy bói. Điều này lý giải tại sao trong vòng hơn 10 năm trở lại đây,
dạng lên đồng dưới hình thức hầu chứng ngày càng phổ biến hơn
so với thời cổ truyền. Ở sinh hoạt dạng này, các gia đình có nhu cầu tâm
linh sẽ phải cùng nhau góp tiền sắm sanh đồ lễ và chi trả toàn bộ thù
lao cho các bên liên quan. Một quan thầy đồng cựu có uy tín được mời sẽ
đứng ra nhận trách nhiệm hầu đồng đại diện, thay mặt các gia chủ mà
“thông thiên” với thần linh để cầu tài cầu lộc, giải trừ tai ách, tà
ma... Với nhà có người bệnh, chân đồng còn ban cho tàn nhang nước thải
để uống, chén nước quết giầu để xoa chỗ đau hay đôi ba lá bùa trấn
yểm... Khi nào xong việc, các gia chủ còn phải sửa lễ tạ, nhiều khi khá
tốn kém. Có thể thấy, chính sự cấy ghép chức năng thầy cúng, thầy phù
thủy... ở hình thức hầu chứng lại là một cách mở lối thu nhập
cho các chân đồng. Bởi xưa nay, họ vốn chỉ đóng vai trò chi trả các
khoản thù lao cho cung văn và thủ nhang đồng đền mà thôi. Âu đó cũng là
một biểu hiện sống động về truyền thống hỗn dung tín ngưỡng của người
Việt. Cũng trong sự “pha trộn” đó, thời nay trong các vấn hầu của mình,
một số chân đồng còn lai cấy hành vi tín ngưỡng của các thanh đồng bên
tín ngưỡng thờ đức Thánh Trần. Trong một số giá đồng, họ cũng xiên
lình, thắt đai thượng, nuốt lửa hay rạch lưỡi “lấy dấu mặn” nhằm gây ấn
tượng mạnh với đám đông tham dự. Đây có thể là hệ quả của việc lai cấy
đức Thánh Trần vào điện thần Tứ phủ, một xu hướng mới phát sinh ở một bộ
phận chân đồng thời nay, xuất phát từ quan điểm của một số nhà nghiên
cứu văn hóa. Vì thế mà hiện nay rất nhiều ông đồng bà đồng bị ngộ nhận,
thường tự gọi mình là thanh đồng. Ngoài ra, việc tự nhận “thanh
đồng” cũng rất có thể xuất phát từ ý muốn “sang trọng hóa” danh từ, bởi
những chân đồng xưa nay thường vốn chỉ được dân gian gọi là đồng bóng hay đồng cốt.
Ảnh: Đoàn Kỳ Thanh
Thời
nay, không phải vô cớ mà giới đồng bóng định danh khái niệm “đồng đua”
nhằm chỉ hiện tượng đua đòi háo danh trong tín ngưỡng Tứ phủ, cốt để
khoe mẽ thể hiện bản thân mình. Những vấn hầu tốn kém bạc tỷ linh đình
là một trong những biểu hiện sống động của những chân đồng dạng này. Gần
đây, không hiếm những chân đồng vì mục đích quảng bá nhân thân trong
giới bản hội, sẵn lòng bỏ tiền thuê cả một nhóm làm phim lên tận những
danh thắng thiên nhiên vùng núi cao. Ở đó, họ tổ chức ghi hình bản thân
trong phục trang hầu đồng, thể hiện cảnh các “cô, cậu”, các “chầu thượng
ngàn” hay các “quan”, ông “hoàng” rong chơi, du ngoạn vãng cảnh sao cho
giống với chuyện thần tiên trong huyền tích các vị thánh. Mỗi đợt như
vậy, bầu đoàn thê tử các chân đồng dắt díu nhau trình diễn không khác gì
một đoàn làm phim chuyên nghiệp. Sau đó, các trích đoạn được đem về
lồng ghép vào những trường đoạn phim quay toàn bộ vấn hầu của họ, những
mong các DVD lên đồng sẽ tăng thêm phần hấp dẫn, bắt mắt. Xem ra trong
xã hội thời nay, mối quan hệ cung cầu mang tính thương mại giữa thủ
nhang đồng đền, cung văn và chân đồng ngày càng trở nên phức tạp hơn.
Thị trường các dịch vụ đi kèm cũng vận hành khá sôi động. Thôi thì đủ
mọi hiện tượng tốt xấu phát sinh tha hồ nở rộ, được phản ánh rộng rãi
trên khắp các mặt báo, như dịch vụ cho thuê quần áo hầu, thuê người hầu
dâng, múa phụ họa, làm đồ mã, viết sớ, quay phim, chụp ảnh... Thời xưa,
bắc ghế hầu thánh vốn là sinh hoạt tín ngưỡng chủ yếu giành cho giới
tiểu thương hay những người giàu. Còn thời nay, như đã nói, trong phong
trào phục hưng rầm rộ, thành phần các chân đồng ngày càng mở rộng với đủ
mọi đối tượng thành phần gia nhập. Bởi vậy, những hiện tượng khuynh gia
bại sản, tan cửa nát nhà... vì đua nhau hầu đồng là một hệ quả tất yếu,
đã được phản ánh nhiều trên báo chí. Nhớ lại thời kỳ đầu thế kỷ 20, ở
Hà Nội cũng có những chân đồng phải lần lượt bán sạch gia sản để lo việc
hầu thánh. Câu chuyện khá bi thảm với việc chân đồng tự tử, kết thúc
cuộc đời tín ngưỡng mê đắm. Ở đây, có người lý giải rằng chân đồng tìm
đến cái chết do phá sản. Nhưng với trường tự kỷ của một tín đồ tâm linh
cực đoan, cũng có người coi đó là sự “tự giải thoát” để về miền vĩnh
hằng theo hầu Mẫu Tứ phủ! Nhưng dù bằng cách nào thì đó vẫn thực sự là
một bài học đắt giá, đáng cho người đời nay phải suy ngẫm!
Với
bản chất tín ngưỡng đa thần mang đậm tính thương mại, hệ thống các đền
phủ thời nay đua nhau trùng tu, sửa sang đắp điếm, sơn son thiếp vàng,
trang hoàng lộng lẫy.., cốt sao bắt mắt giới con nhang đệ tử cũng như
thu hút khách thập phương về hành lễ. Có thể chính điều này phần nào
khởi nguồn cho phong trào trùng tu bừa bãi, phô trương quá mức, đến độ
thay đổi toàn bộ cảnh quan di tích, bất chấp Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh của Nhà nước.
Điều đáng nói là ở các cơ sở tín ngưỡng Phật giáo, phong trào tân trang
chùa chiền trong nhiều năm gần đây cũng trở nên xô bồ. Cái tâm lý to
hơn, mới hơn, đẹp hơn, cầu kỳ hơn... của phong trào xây cất đắp điếm bên
ngoài cũng lan cả vào nơi cửa thiền. Nào là những chùa cao tầng với
những vật liệu mới lạ, đắt tiền, nào là tượng Phật lớn nhất, vườn tượng
lớn nhất, bảo tháp cao nhất, những sư tử Tàu, sư tử Pháp, đèn đá Nhật
Bản, đèn lồng đủ loại... thi nhau nở rộ khiến những nhà quản lý di tích
trở nên bất lực. Những hiện tượng “diêm dúa hóa” di tích đó đã từng được
phản ánh trên báo chí, và cũng từng gặp phải phản ứng quyết liệt của
chính những chủ nhân nơi thờ tự. Đây thực sự được xem như một vấn nạn
với giới bảo tồn văn hóa, như một thách thức mới mang tính... thời đại!
Đáng chú ý, bên cạnh việc phối thờ Mẫu trong đình, chùa, ở chiều ngược
lại, cũng có ngôi đình đã làm thêm những chỗ thờ Phật ngoài sân giời,
cổng đình hay gốc đa đầu làng, bất chấp nghịch lý “Thánh hơn Phật”. Có
lẽ ban quản lý mong muốn tạo được diện mạo hoành tráng tối đa với nhiều
ban bệ đặt lễ hơn cho khách thập phương chăng? Âu đó cũng là sự biểu
hiện bản chất hỗn dung tín ngưỡng nói chung của người Việt. Có điều thời
nay, xem ra sự hỗn dung đã trở nên một “nồi lẩu tâm linh” pha trộn,
phát sinh, biến tướng đủ mọi kiểu dạng, ngày càng đi theo chiều hướng
không mấy tốt đẹp.
3-Đôi điều kiến giải...
Nhìn suốt chiều dài lịch sử, từ tín ngưỡng đa thần bản địa, người Việt
dần chuyển sang đa nguyên tôn giáo tín ngưỡng. Sẽ thấy trong sự tích hợp
đa tâm linh, truyền thống hỗn dung của người Việt được xem như một đặc
điểm cơ bản. Ở đây, sự pha trộn đan xen có lẽ chủ yếu dựa trên nguyên tắc dung hợp thực dụng,
bất luận các hệ thống giáo lý, triết thuyết, quan niệm của những tôn
giáo, tín ngưỡng có mâu thuẫn với nhau như thế nào. Liệu truyền thống đó
có phải sự biểu hiện một phần tính cách dân tộc Việt? Tạm thời, hãy coi
đó là sự hồn nhiên tín ngưỡng người Việt. Một sự “hồn nhiên”
tiếp nối từ truyền thống xưa của ông cha. Trải theo thời gian với quá
trình hỗn dung tiếp biến, pha trộn và lai tạp, thế giới tín ngưỡng người
Việt giờ đây đã trở nên như một mớ bòng bong hỗn độn, chằng chịt các
mối quan hệ đầy mâu thuẫn giữa cõi dương gian và thế giới âm ty địa
phủ...
Trong lịch sử loài người, nói chung tôn giáo tín ngưỡng trước hết là
những sáng tạo tinh thần, xác định những hệ tư tưởng, đạo đức trong sự
hình dung, tưởng tưởng về một thế giới siêu hình chi phối đời sống trần
gian. Sẽ thấy bất cứ hình thái nào, vì là sáng tạo của con người nên tất
chịu ảnh hưởng bởi bối cảnh lịch sử- xã hội, không gian văn hóa và đặc
biệt mặt bằng tri thức cộng đồng đã sinh ra nó. Ví như hệ thống “thiên
đình- cõi trời” tưởng tượng mà tín ngưỡng người Việt “ngưỡng vọng” trên
thực tế là sự mô phỏng nguyên mẫu bộ máy hành chính triều đình phong
kiến, gắn bó hữu cơ với hệ tôn giáo du nhập từ Trung Quốc. Nói cách
khác, đó cũng chính là sự giới hạn trí tưởng tượng của con người khi
sáng tạo ra thế giới siêu hình nói chung. Ở thời kỳ khoa học chưa phát
triển, mọi kiến giải về vũ trụ, về thế giới của các tôn giáo tín ngưỡng
như cõi trời, thiên đình, thiên đàng, Tây phương cực lạc, cõi âm ty, địa
phủ, địa ngục, hỏa ngục, thủy cung... đều tỏ ra “hợp lý” với niềm tin
tâm linh duy ý chí. Những câu chuyện lịch sử về việc tòa án giáo hội
Thiên chúa xử tử những nhà khoa học dám chứng minh ngược với học thuyết
của mình là những ví dụ điển hình. Dường như khoa học càng phát triển
bao nhiêu, mọi giá trị siêu hình cổ xưa sẽ càng bị triệt tiêu bấy nhiêu
bởi sự lỗi thời của nó. Thời nay, khi khoa học đã xác định ngôi nhà
chung loài người trong trái đất tròn xoay quanh mặt trời.., có lẽ các
tôn giáo tín ngưỡng cũng buộc phải xét lại “vũ trụ quan, thế giới quan”
của riêng mình, vốn ra đời trong trí tưởng tượng từ thời xa xưa.
Trong sự sáng tạo các thánh thần của thế giới siêu hình, không hiếm
những trường hợp mà nhân vật thờ phụng trên thực tế vốn là những sáng
tạo văn học, nhưng về sau được “hiển thánh hóa” trong sự lan tỏa của tâm
thức dân gian. Chuyện biến hư thành thực, biến cái siêu hình thành hữu
hình, âu đó cũng là bản chất của thế giới tâm linh nói chung. Ví dụ tác
phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, trải theo thời gian, những Đường Tăng,
Tôn Ngộ Không, Chư Bát Giới... trong tác phẩm rút cục đã được “hiện thực
hóa” một phần trong đời sống tâm linh người Việt. Cụ thể, có những lưu
phái đạo phù thủy ở miền Trung đã mặc nhiên đưa Tôn Ngộ Không trở thành
một trong những vị thánh trên hệ thống điện thần của mình để thờ phụng.
Ngày nay, không hiếm ngôi chùa Việt tiếp tục đưa những hình ảnh của Tây
Du Ký vào các bức chạm khắc mới, như một sự tiếp tục thừa nhận “tính
thiêng” các nhân vật của Ngô Thừa Ân. Thậm chí trong lần tổ chức dùng
chuyên cơ rước “xá lị” Phật về Việt Nam, một vị đại đức đã chính thức
tuyên bố rằng: “Đây quả là điều kỳ diệu, xưa ĐườngTăng mất sáu năm để đến được đất Phật, nay các vị thực hiện điều đó chỉ trong vài giờ đồng hồ bằng cả một chuyến bay riêng". Chưa
biết những viên xá lị đó liệu có phải là đồ thật hay không nhưng câu
chuyện đã phản ánh một niềm tin chân thành- sự tâm linh hóa những nhân
vật văn học điển hình Trung Quốc. Đứng trên góc độ sáng tạo tâm linh, sẽ
còn vô vàn những ví dụ phản ánh sự hồn nhiên của loài người trong việc
xây dựng, bồi đắp hệ thống tôn giáo tín ngưỡng nói chung.
Một
chuyện khác, nếu như ở Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc, Quan Thế Âm Bồ
Tát được xác định là vị Phật bà thì ở Tây Tạng, ngài lại là... Phật
ông, được tôn vinh như quốc tổ (cha đẻ) của người Tây Tạng. Cho đến ngày
nay, nhiều cao tăng Tây Tạng vẫn được xem là hiện thân của Quán Thế Âm,
trong đó có vị Gyalwang Drukpa vừa sang thăm Việt Nam năm 2011. Ở đây,
không biết giới chư tăng Phật tử Việt Nam lúc chắp tay vái ngài Gyalwang
Drukpa sẽ nghĩ gì so với việc hành lễ trước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát
trong Tam bảo, ngoài sân chùa? Rồi không biết sự “hiện thân” của đức
Phật (ông/bà) ở đây liệu có giống với sự hóa thân tưởng tượng kiểu các
chân đồng Tứ phủ? Tham vấn một số tín đồ Phật tử, được giải thích rằng
đức Quan Thế Âm Bồ Tát là một cái gì đó rất to lớn, có thể hóa thân
thiên hình vạn trạng, không có gì mâu thuẫn(!) Có lẽ trong tín ngưỡng
tôn giáo nói chung, niềm tin là một động lực mạnh mẽ đủ để biến
hư thành thực, không thành có, phi lý thành có lý. Thế nên mọi sự đều
có thể dễ dàng chấp nhận nếu như thuận với ý thức chủ quan của niềm tin
tâm linh. Xin được nhắc lại, một thế giới ảo được “hiện thực hóa” bởi
niềm tin hồn nhiên của con người vốn là căn cốt của tôn giáo tín ngưỡng.
Ở đây, cuộc vật lộn giữa tin/không tin cùng cái tâm lý bán tín bán nghi
dường như luôn đồng hành suốt chiều dài lịch sử loài người. Tôn giáo,
tín ngưỡng dù có mâu thuẫn và đối kháng như thế nào nhưng vẫn song song
tồn tại với đầy đủ vẻ hợp lý và bất hợp lý của chính nó. Anh tin điều
anh chọn, tôi tin điều tôi biết, cuộc sống tự do tín ngưỡng cũng giống
như nghệ thuật vậy, sao cũng được, miễn là thỏa mãn được nhu cầu thụ
hưởng tinh thần. Tín ngưỡng tôn giáo suy cho cùng cũng giống như phong
tục, mọi hành vi thường lặp lại như thói quen lâu đời, bất luận sự hợp
lý đến đâu.
Từ bao đời nay, các giá trị tâm linh không chỉ mê hoặc người nghèo, mù
chữ thất học mà còn xâm nhập mạnh mẽ các tầng lớp thượng lưu, tri thức,
quan chức... Điều đó là một minh chứng về sức mạnh nghìn đời của tôn
giáo, tín ngưỡng. Nhớ lại nhận định nổi tiếng của Các Mác coi tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Sẽ thấy ở góc độ tâm lý, tín ngưỡng tôn giáo rõ ràng đem lại một sức mạnh niềm tin lớn lao cho con người. Xét cho cùng, chỗ dựa tinh thần là
một chân lý vững chắc đủ để các hình thái tín ngưỡng tôn giáo có thể
trường tồn cùng với lịch sử nhân loại. Có thể nói, dù đối tượng của niềm
tin là những giá trị ảo nhưng trên thực tế đã mang lại cho con người
nhiều giá trị tinh thần không thể phủ nhận. Đó là chưa kể về bản chất,
mỗi tôn giáo lớn trên thế giới đều có giá trị như một hệ triết thuyết,
hệ đạo đức lớn, hướng con người tới một niềm tin vào cuộc sống tươi đẹp.
Sự xoa dịu nỗi đau trần thế, niềm tin vào sự trở che của đấng tối
cao... rõ ràng tạo nên một tiềm thức dạng trường ám thị, kích thích con
người gia tăng sức mạnh tinh thần. Từ đó có thể phát huy tối đa sức mạnh
nội tại trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn ở một thế giới hỗn độn với biết
bao sự bấp bênh, trắc trở. Điều này tỏ ra hợp lý khi nhận định xã hội
càng bất ổn định bao nhiêu, con người lại gia tăng nhu cầu tâm linh tín
ngưỡng bấy nhiêu. Bởi vậy, lịch sử tôn giáo tín ngưỡng mọi thời đại phần
nào như tấm gương phản ánh tâm thế con người trong mọi thời đại. Thế sự
thăng trầm lúc thịnh lúc suy, niềm tin con người dường như không thoát
khỏi những ràng buộc tâm linh, vốn đã có từ ngàn xưa. Nó giống như một
nỗi sợ hãi nguyên thủy trường tồn ám ảnh, khiến con người dễ mất khả
năng tự tin, buộc phải tìm chỗ bấu víu ở tôn giáo tín ngưỡng.
Cũng cần phải thấy rằng, thuốc phiện có thể giảm đau, kích thích sự
thăng hoa hứng khởi nhưng đồng thời nó cũng là chất gây nghiện không dễ
gì từ bỏ khi đã đắm đuối trong trường ảo giác. Trong niềm tin tôn giáo
tín ngưỡng, sự sùng bái những cá nhân thánh thần (hoặc con người được
thần thánh hóa), suy tôn ngưỡng vọng những điều siêu thực, tưởng
tượng... khiến con người dễ bị rơi vào tình trạng thái quá, cực đoan,
duy ý chí với thế giới siêu hình. Theo đó, họ dễ bất chấp những quy luật
tự nhiên hay xã hội, khó chấp nhận những ý kiến trái chiều mang tính
phản biện, thường quy cho là sự báng bổ thánh thần. Hiểu điều đó, mới
thông cảm được cho mọi hiện tượng bất bình thường ở đời sống tâm linh
nói chung. Ở đây, khoảng cách giữa đức tin cao cả vào thế giới vô hình
cũng như sự mê muội, cuồng tín ở những điều dị đoan không tưởng có lẽ
cũng chỉ trong gang tấc, dễ bị đánh lận con đen. Đây chính là tính 2 mặt
của tôn giáo tín ngưỡng nói chung, khiến cho nó trở nên rất dễ bị lợi
dụng. Trong lịch sử, việc các thế lực tăng lữ mượn tôn giáo tín ngưỡng
như một phương tiện để thỏa mãn lợi ích riêng, từ những tham vọng chính
trị cho đến những dục vọng thấp hèn là điều đã được minh chứng. Điều này
lý giải cho mọi sự xung đột tôn giáo, tàn sát đẫm máu lẫn nhau trên thế
giới. Đáng chú ý, cuộc chiến không chỉ xảy ra giữa các tôn giáo với
nhau mà còn ở cả nội bộ một tôn giáo, khi có sự chia tách thành các giáo
phái khác nhau. Thử hỏi với bản chất cao đẹp của hệ đức tin, tại sao
người ta có thể hành xử mâu thuẫn với chính giáo lý, đạo đức của tôn
giáo mà họ phụng thờ? Tại sao có những kẻ tu hành lại có thể ngang nhiên
buôn thần bán thánh để mưu cầu vật chất, trục lợi cá nhân hay thậm chí
kích động nổi loạn gây hấn chính trị trong xã hội? Nếu hiểu được nhận
định vĩ đại của Các Mác, sẽ không mấy khó khăn để tìm câu trả lời.
Vài kiến giải như vậy để có thể thấu hiểu thêm truyền thống hỗn dung
tôn giáo tín ngưỡng của người Việt. Một mặt, sự tích hợp pha trộn, dung
hòa tâm linh phần nào giảm thiểu những xung đột tôn giáo tín ngưỡng
không đáng có. Mặt khác, sẽ thấy trong bản chất “thuốc phiện tinh thần”,
“nồi lẩu” tôn giáo tín ngưỡng thời nay tựa hồ như một dạng “ma túy tổng
hợp” bất công thức, in đậm tính thực dụng nguyên thủy từ ngàn xưa, tất
sẽ gây nên những hệ lụy tương ứng. Hiện nay khắp nơi đua nhau phục dựng
lễ hội, kể cả những hành vi mà đa số người thời nay khó chấp nhận. Ví
như việc chém đứt đôi con lợn hiến sinh rồi tranh nhau bôi máu vào tiền,
dẫm đạp tranh giành vật phẩm lộc thánh... hay những cổ tục cho phép,
tôn vinh hành vi đả thương “mang tính thiêng” như sự đề cao “tinh thần
thượng võ”, bất luận gây đổ máu... Trong Hội Gióng năm 2011, khi hành lễ
đã có người bị chấn thương sọ não phải đưa đi cấp cứu. Vấn đề đặt ra ở
đây là nếu tước bỏ tục đả thương, hẳn những “chủ thể văn hóa” sẽ khó
chấp nhận vì bị coi là... mất thiêng! Hiện nay, cái cảm giác kinh hoàng
sẽ là điều không thể tránh khỏi khi quan sát toàn cảnh đời sống tâm linh
tín ngưỡng mỗi mùa lễ hội. Đây là bài toán quá khó cho các nhà quản lý.
Lâu nay chúng ta thường kêu gọi hãy trả lại các lễ hội về cho người
dân- tức những chủ thể văn hóa. Thế nhưng cũng đến lúc cần xác
định rõ, với hiện trạng “tín ngưỡng trí” như hiện nay, dù người dân địa
phương hay chính quyền đứng ra tổ chức thì cũng đến vậy mà thôi. Chả nhẽ
người dân tổ chức thì các lễ hội sẽ trở nên tốt đẹp, nhân văn và không
còn hiện tượng tiêu cực nữa hay sao? Thật khó mà tin vào điều đó! Chưa
kể đến việc khái niệm chủ thể văn hóa ở đây nhiều khi còn không
phân biệt nổi. Như hành vi bày bán thịt chó giả nai... ngồn ngộn công
khai ở chùa Hương, đó là ý đồ của chủ thể tín ngưỡng nơi cửa thiền hay
là của người dân Hương Sơn? Cũng như việc thu tiền cúng sao giải hạn,
bán phiếu công đức, bán sớ... cùng nhiều dịch vụ tâm linh khác ở các
ngôi chùa lớn, liệu có phải do chính quyền địa phương quy định hay là
chủ đích của những nhà sư trụ trì? Vấn đề này bàn đến nhạy cảm lắm bởi
sự đòi hỏi một cuộc chấn hưng có tính toàn bộ ở hệ thống các cơ sở tín
ngưỡng công cộng. Về mặt quản lý nhà nước, có khá nhiều việc nan giải để
lập lại công bằng xã hội. Ví như việc kiểm soát các nguồn thu siêu lợi
nhuận ở các cơ sở tín ngưỡng như chùa chiền, đền phủ cũng như việc xử lý
nguồn thu nhập cá nhân của các loại thủ nhang, thầy cúng, thầy bói,
thầy phù thủy, thầy địa lý, cô hồn, đồng cốt... Đây là bài toán mà chắc
hẳn các nhà quản lý còn phải “bó tay” lâu dài. Bởi có một thời chúng ta
đã cấm mà không xong. Nhưng giờ đây nếu quy hoạch, đánh thuế thu nhập
thì có nghĩa Nhà nước mặc nhiên công nhận buôn thần bán thánh cùng các
dịch vụ tâm linh như một ngành nghề chính thức trong danh mục. Còn nếu
không kiểm soát nổi, coi như chúng ta tiếp tục chấp nhận thả nổi hàng
loạt nghề thu nhập bất hợp pháp, làm giàu trên sự mê hoặc, lợi dụng niềm
tin, thuộc tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân.
Xem ra, trước mắt cần nhanh chóng xây dựng một chương trình giáo dục văn
hóa tâm linh có hệ thống trên các phương tiện truyền thông với sự góp
mặt của các nhà chuyên môn, mới mong tìm được lối thoát!
4-Vĩ thanh...
Thay cho lời kết, xin thuật lại những gì mà học giả Phan Kế Bính đã mô
tả về đời sống tâm linh người Việt giai đoạn cuối thế kỷ 19- đầu thế kỷ
20 trong tác phẩm Việt Nam phong tục. Bàn về đời sống tín ngưỡng nơi cửa thiền, ông viết “Hiện
bây giờ Phật giáo ở nước ta cũng đã suy. Tuy lưu truyền đã lâu, làng
nào cũng có chùa thờ Phật, dân gian vẫn còn cúng bái sùng phụng, nhưng
chẳng qua là bọn ngu phu, ngu phụ theo thói quen mà cúng vái chớ kỳ thật
không mấy người là mộ đạo. Trừ ra mấy kẻ bực đời đi tu, còn phần nhiều
là bọn ăn bơ làm biếng, trốn chúa lộn chồng, mượn cửa Bồ đề mà nương
thân. Còn bọn hạ lưu xã hội, mê tín sự báo ứng, thì toàn là bọn ngu
xuẩn, thấy na-mô thì cũng na-mô, thấy sám hối thì cũng sám hối, còn hiểu
gì là đạo Như Lai nữa. Huống chi lại còn nhiều kẻ tính tình rất hung
bạo mà cũng mượn cửa thiền để làm nơi trú ẩn. Tiếng là đi tu, mình mặc
áo cà sa, đầu đội nón tu lư, tay lần tràng hạt, mặt giả dạng từ bi, mà
bụng dạ thì như rắn rết, nào rượu ngon, nào gái đẹp, nào thịt chó hầm
hoa sen, nào thịt lợn viên nhỏ làm thuốc đau bụng, nào quần áo xà ích.
Na mô một bồ dao găm, hổ mang hổ lửa, sự ấy mới lại ghê gớm nữa”[1].
Mô tả hội các vãi già (Hội chư bà), vốn là những Phật tử gắn bó thường
nhật với mọi ngôi chùa, Phan Kế Bính đã chua xót than rằng “các vãi có khi kính nhà sư hơn cha mẹ sinh ra”[2], “động
nói là nam mô, động đi đâu là lạy chín phương trời, mười phương chư
Phật. Có người già cả yếu đuối cũng cố bò lê đến cửa chùa khấn la khấn
liệt, lạy lấy lạy để, ấy thực là một điều mê tín của đàn bà ta, mà không
ích gì cho đến mình cả… Song điều đó chẳng nên trách gì các bà già, chỉ
vì nữ giới nước ta không có học thức mà thôi, mà đàn bà không có học
thức, cũng bởi cách giáo dục chưa rộng vậy”[3]. Về bói toán, ông nhận định “nước ta tin việc quỷ thần, cho nên cũng theo cách Tàu mà chuộng việc bói toán”[4]. Với các lực lượng thầy cúng, phù thủy Đạo giáo, Phan Kế Bính không ngần ngại khẳng định “bọn
này thì cũng chẳng qua theo thể thức cũ, bùa bèn ấn quyết, trừ ma trừ
quỷ, dùng cách ấy để làm nghề kiếm ăn trong vòng hạ lưu xã hội, chớ kỳ
thực thì không biết tôn chỉ Đạo giáo là gì…”[5]. Về đạo phủ thủy dân tộc, Phan Kế Bính nhận định “phù
thủy là một thuật huyền ảo, xưa nay không có ích gì cho việc đời… Còn
như các thầy phù thủy chẳng qua mượn tiếng thần thánh, làm bộ tay ấn tay
quyết, trừ quỷ trừ ma, lừa kẻ ngu đần để làm nghề kiếm ăn”[6]. Riêng với các thanh đồng chuyên sát quỷ trừ tà chữa bệnh, ông cho rằng “trừ
tà chữa bệnh là một việc rất vô lý, chẳng qua là kẻ ngu xuẩn bày đặt ra
mối dị đoan, mà lừa dối những bọn vô tri vô thức, để làm nghề kiếm ăn
mà thôi”[7]. Khái quát toàn bộ sinh hoạt đồng cốt phù thủy, ông kết luận “Than
ôi, đạo phù thủy cùng là đạo đồng cốt còn thịnh hành ngày nào thì dân
trí còn ngu xuẩn ngày ấy. Bao giờ trong nước tuyệt hẳn được cái mối ấy
thì mới có cơ khôn ngoan cả được”[8]. Một thế kỷ đã trôi qua, song bức tranh toàn cảnh đó hẳn đáng để người đời nay so sánh, chiêm nghiệm và suy ngẫm lắm!
(Nguồn: siphubacha.multiply.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét