NAM CAO
“Chí
Phèo” là truyện ngắn tuyệt tác của Nam Cao, được viết từ năm 1941, đến
nay đã 3/4 thế kỷ, mà như vừa viết xong về cái thì hiện tại. Đọc lại
đoạn văn sau khi Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát, người ta cứ ngỡ là
chuyện bắn nhau vừa ngày hôm qua đây: Cả
làng Vũ Ðại nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều về vụ án không ngờ ấy. Có
nhiều kẻ mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng ra mặt. Có người nói xa xôi:
“Trời có mắt đấy, anh em ạ!”. Người khác thì nói toạc ra: “Thằng nào chứ
hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng nó giết nhau,
nào có phải cần đến tay người khác đâu”. Mừng nhất là bọn hào lý ở trong
làng. Họ tuôn đến hỏi thăm, nhưng chính là để nhìn lý Cường bằng những
con mắt thỏa mãn và khiêu khích. Ðội Tảo, không cần kín đáo, nói toang
toang ngay ngoài chợ, trước mặt bao người: “Thằng bố chết, thằng con lớp
này không khỏi người ta cho ăn bùn”. Ai chả hiểu “người ta” đó là chính
ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ: “Thằng mọt già ấy chết, anh mình nên ăn
mừng”. Những người biết điều thì hay ngờ vực, họ chép miệng nói: “Tre
già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác, chúng mình cũng chẳng lợi
tí gì đâu…”.
Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ
rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng
nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng
chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ
Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức
thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải
chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều.
Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết
đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! A ha! Phải
đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra
cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng
không ai biết.
***
Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng
tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên
một lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và đem cho một người đàn bà góa
mù. Người đàn bà góa mù này bán hắn cho một bác phó cối không con và khi
bác phó cối này chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho
nhà nọ. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lý Kiến, bây giờ cụ
bá Kiến, ăn tiên chỉ làng. Hình như, có mấy lần bà ba nhà ông lý, trẻ
lắm mà lại hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy.
Người ta bảo ông lý ra đình thì hách dịch, cả làng phải sợ, mà về nhà
phải sợ cái bà ba còn trẻ này. Người bà ấy phốp pháp, má bà ấy hây hây,
mà ông lý thì hay đau lưng lắm; người có bệnh đau lưng thì hay sợ vợ mà
chúa đời là khoẻ ghen. Có người bảo ông lý ghen anh canh điền khoẻ mạnh
mà sợ bà ba không dám nói. Có người thì bảo anh canh điền ấy được bà ba
quyền thu quyền bổ trong nhà tin cẩn nên lấy trộm tiền trộm thóc nhiều.
Mỗi người nói một cách. Chẳng biết đâu mà lần. Chỉ biết một hôm Chí bị
giải huyện rồi nghe đâu phải đi tù. Không biết tù mấy năm, nhưng hắn đi
biệt tăm bảy, tám năm, rồi một hôm, hắn lại lù lù ở đâu lần về. Hắn về
lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như
thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì
đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo
nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ
rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông
gớm chết!
Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở
chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn
xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi.
Cụ bá không có nhà. Thấy điệu bộ hung hăng của hắn, bà cả đùn bà hai, bà
hai thúc bà ba, bà ba gọi bà tư, nhưng kết cục chẳng bà nào dám ra nói
với hắn một vài lời phải chăng. Mắc cái phải cái thằng liều lĩnh quá, nó
lại say rượu, tay nó lại lăm lăm cầm một cái vỏ chai, mà nhà lúc ấy
toàn đàn bà cả… Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chặt, rồi mặc thây
cha nó, nó chửi thì tai liền miệng đấy, chửi thì lại nghe! Thành thử chỉ
có ba con chó dữ với một thằng say rượu!… Thật là ầm ỹ! Hàng xóm phải
một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả: xưa nay họ mới chỉ
được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá chửi người ta, bây giờ
họ mới thấy người ta chửi lại cả nhà cụ bá. Mà chửi mới sướng miệng làm
sao! Mới ngoa ngắt làm sao. Họ bảo nhau: Phen này cha con thằng bá Kiến
đố còn dám vác mặt đi đâu nữa! Mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất. Cũng có
người hiền lành hơn bảo: “Phúc đời nhà nó, chắc ông lý không có nhà…”.
Ông lý đây là ông lý Cường, con giai cụ Bá nổi tiếng là hách dịch, coi
người như rơm rác. Phải ông lý Cường thử có nhà xem nào! Quả nhiên họ
nói có sai đâu! Đấy, có tiếng người sang sảng quát: “Mày muốn lôi thôi
gì?… Cái thằng không cha không mẹ này! Mày muốn lôi thôi gì?…” Đã bảo
mà! Cái tiếng quát tháo kia là tiếng lý Cường. Lý Cường đã về! Lý Cường
đã về! Phải biết… A ha! Một cái tát rất kêu. Ôi! Cái gì thế này? Tiếng
đấm tiếng đá nhau bình bịch. Thôi, cứ gọi là tan xương! Bỗng “choang”
một cái, thôi phải rồi, hẳn đập cái chai vào cột cổng… ồ hắn kêu! Hắn
vừa chửi vừa kêu làng như bị người ta cắt họng. Ồ hắn kêu!
– Ối làng nước ơi! Cứu tôi với… Ối làng
nước ôi! Bố con thằng bá Kiến nó đâm chết tôi! Thằng lý Cường nó đâm
chết tôi rồi, làng nước ôi!…
Và họ thấy Chí Phèo lăn lộn dưới đất, vừa
kêu vừa lấy mảnh chai cào vào mặt. Máu ra loe loét trông gớm quá! Mấy
con chó xông vào quanh hắn, sủa rất hăng. Lý Cường hơi tái mặt, đứng
nhìn mà cười nhạt, cười khinh bỉ. Hừ! Ngỡ là gì, chẳng hoá ra nằm ăn vạ!
Thì ra hắn định đến đây nằm vạ!
Người ta tuôn đến xem. Mấy cái ngõ tối
xung quanh đùn ra biết bao nhiêu là người! Thật ồn ào như chợ. Bà cả, bà
hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá cũng vững dạ vì có anh lý, cũng xưng xỉa ra
chửi góp. Thật ra, các bà muốn xem Chí Phèo ra làm sao? Không khéo nó
có ý gieo vạ cho cụ ông phen này…
Nhưng kìa cụ ông đã về. Cụ cất tiếng rất
sang hỏi: “Cái gì mà đông như thế này?”. Chỗ này “lạy cụ”, chỗ kia “lạy
cụ”, người ta kính cẩn giãn ra, và Chí Phèo bỗng nằm dài, không nhúc
nhích rên khe khẽ như gần chết.
Thoáng nhìn qua, đã hiểu cơ sự rồi. Làm
lý trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng,
những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng
xỉa chực tâng công với chồng:
– Các bà đi vào nhà: đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?
Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:
– Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?
Không ai nói gì, người ta dần dần tản đi.
Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có:
người nhà quê vốn ghét lôi thôi. Ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ
triệu mình đi làm chứng. Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây
giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:
– Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế ?
Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:
– Tao chỉ liều chết với bố con nhà mầy đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.
Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.
– Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?
Rồi đổi giọng, cụ thân mật hỏi:
– Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.
Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:
– Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước
đã. Có cái gì ta nói chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh
động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.
Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:
– Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến
nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một
câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lý Cường nóng tính không biết
nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.
Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao,
nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ
bá biết rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, cụ quát:
– Lý Cường đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo người ta đun nước, mau lên!
Cụ dắt Chí Phèo đứng dậy, giục thêm vài
tiếng nữa, và Chí Phèo chịu đi: hắn chỉ cố khập khiễng cái chân như bị
què. Là vì lúc ấy trong người hắn rượu đã hơi nhạt rồi, không còn kêu
gào chửi bới, hắn thấy hình như không còn hăng hái nữa. Sự ngọt ngào làm
mềm nhũn, vả lại những người đứng xem về cả rồi, hắn thấy hình như trơ
trọi. Cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy, cái sợ xa xôi thuở ngày xưa,
hắn thấy quả là táo bạo. Không táo bạo mà dám gây sự với cha con bá
Kiến, bốn đời làm tổng lý. Và nghĩ thế, hắn thấy hắn cũng oai. Hắn làm
cái ông gì ở làng này? Không vây cánh, không họ hàng thân thích; anh em
không có, đến bố mẹ cũng không… Ờ thế mà cũng dám độc lực chọi nhau với
lý trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kỳ
hào, huyện hào, Bắc kỳ nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng
huyện. Thử hỏi đã có mặt nào trong cái làng hơn hai nghìn suất đinh này
làm được thế? Kể làm rồi có chết cũng là cam tâm. Vậy mà không: cái cụ
bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn, mời hắn vào nhà xơi nước. Thôi cũng hả,
đã xử nhũn thì hắn vào. Nhưng bỗng hắn lại hơi ngần ngại; biết đâu cái
lão cáo già này nó lại chả lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi? Ồ mà thật có
thể như thế lắm! Này nó hãy lôi ngay mấy cái mâm cái nồi hay đồ vàng đồ
bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng lên, rồi cột cổ hắn vào,
chần cho một trận om xương, rồi vu cho là ăn cướp thì sao? Cái thằng bá
Kiến này, già đời đục khoét, còn đớn cái nước gì mà chịu lép như trấu
thế? Thôi dại gì mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lăn ra đây
này, lại kêu toáng lên xem nào. Nhưng nghĩ ngợi một tí, hắn có lăn ra
kêu nữa, liệu có còn ai ra? Vả lại bây giờ rượu nhạt rồi, nếu lại phải
rạch mặt mấy nhát nữa thì cũng đau. Thôi cứ vào! Vào thì vào, cần quái
gì. Muốn đập đầu thì vào ngay nhà nó mà đập đầu còn hơn ở ngoài. Cùng
lắm, nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là
thường. Thôi cứ vào.
Vào rồi, hắn mới biết những cái hắn sợ là
hão cả. Bá Kiến quả có ý muốn dàn xếp cùng hắn thật. Không phải cụ đớn,
chính thật cụ khôn róc đời, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố
cùng liều thân. Chí Phèo không là anh hùng, nhưng nó là cái thằng liều
lĩnh. Liều lĩnh thì ai thèm chấp! Thế nào là mềm nắn rắn buông? Cái nghề
làm việc quan, nếu nhất nhất cái gì cũng đè đầu ấn cổ thì lại bán nhà
đi cho sớm. Cụ vẫn bảo lý Cường như thế đấy. Vũ dũng như hắn mà làm lý
trưởng là nhờ có cụ. Cụ mà chết đi rồi, “chúng nó” lại không cho ăn bùn.
Tiếng vậy, làm tổng lý không phải việc
dễ. Ở cái làng này, dân quá hai nghìn, xa phủ xa tỉnh, kể ăn thì cũng dễ
ăn nhưng không phải hễ mà làm lý trưởng thì cứ việc ngồi mà khoét. Hồi
năm nọ, một thầy địa lý qua đây có bảo đất làng này vào cái thế “quần
ngư tranh thực”, vì thế mà bọn đàn anh chỉ là một đàn cá tranh mồi. Mồi
thì ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài mặt tử
tế với nhau, nhưng thật ra trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn
bại để cưỡi lên đầu lên cổ. Ngay thằng Chí Phèo này đến đây sinh sự biết
đâu lại không có thằng nào ẩy đến? Nếu cụ không chịu nhịn, làm cho to
chuyện có khi tốn tiền. Cái nghề quan bám thằng có tóc ai bám thằng trọc
đầu? Bỏ tù nó thì dễ rồi; nhưng bỏ tù nó cũng có ngày nó được ra, liệu
lúc ấy nó có để mình yên không chứ? Cụ phải cái vụ thằng năm Thọ, mãi
đến giờ vẫn chưa quên.
Năm Thọ vốn là một thằng đầu bò đầu bướu.
Hồi ấy, bá Kiến mới ra làm lý trưởng, nó hình như kình nhau với lão ra
mặt; lý Kiến muốn trị nhưng chưa có dịp. Được ít lâu, hắn can dự vào một
vụ cướp bị bắt giam; lý Kiến ngấm ngầm vận động cho vào tù. Vẫn tưởng
một người vai vế như năm Thọ mà thất cơ lỡ vận đến nỗi tội tù làm gì còn
dám vác mặt mo về làng? Lý Kiến mừng thầm rằng đã nhổ được cây đinh
trước mắt. Nào ngờ một buổi tối lý Kiến đang ngồi một mình soạn giấy má
thì năm Thọ vác dao xộc vào. Nó đứng chặn lấy cửa và bảo: nếu kêu lên
một tiếng thì đâm chết liền. Thì ra nó vượt ngục và về đây nhờ ông lý
một cái thẻ mang tên một người lương thiện và một trăm đồng bạc để trốn
đi. Nó lại bảo: nghe nó thì nó đi biệt, mà không nghe thì nó đâm chết,
rồi muốn ra sao thì ra; còn muốn sống với vợ con thì nghe nó.
Lẽ tất nhiên là lý Kiến nghe, năm Thọ đi
phen ấy là mất tăm, cũng không bao giờ về nữa thật. Nhưng thói đời, tre
già măng mọc, có bao giờ hết những thằng du côn? Năm Thọ vừa đi, lại có
binh Chức ở đâu lần về. Mà thằng này lúc nó còn ở nhà, nào nó có ngạo
ngược gì cho cam! Người ta đã phải gọi hắn là cục đất. Ai bảo làm sao
thì ư hữ làm vậy, mới quát một tiếng thì đã đái cả ra quần, thuế bổ một
đồng thì đóng quá hai, đến nỗi có con vợ hay hay mắt, bị người ta ghẹo
cũng chỉ im im rồi về nhà hành vợ chứ chẳng dám ho he gì, thế đấy: cái
nghề đời hiền quá cũng hoá ngu, ở đâu chứ ở đất này đã ngu, đã nhịn thì
chúng nó ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được. Hắn làm thì làm cật lực
mà quanh năm vẫn nghèo rớt mồng tơi; chỉ vì một miếng cũng không giữ
được mà ăn; đứa nào nó vớ nó cũng xoay, mà đứa nào xoay thì cũng chịu.
Sau cùng bực quá, hắn ra đi lính. Lại càng thêm tội! Không bực còn được
vợ, tuy rằng thỉnh thoảng có bị sấy sớt ra ngoài, những vẫn là vợ mình.
Bực thì hoá ra mất vợ. Bởi vì chị vợ ở nhà còn trẻ, mới hai con, cái mắt
sắc như dao lại hồng hồng đôi má, bỗng nhiên sinh ra vắng chồng, của
ngon trờ trờ ngay trước mắt, ai mà chịu được?
Nhà chị Binh ở gần đường. Ông phó đi đánh
bạc ban đêm về cũng tạt vào; anh trương tuần đi tuần cũng tạt vào; anh
hàng xóm cũng mò sang, thậm chí đến cái thằng hương Điền, đầu hai thứ
tóc, già đời làm đầy tớ cho các ông lý trưởng, cũng mon men vào gạ gẫm.
Vợ binh Chức đã nghiễm nhiên thành một con nhà thổ không phải trả tiền
để bọn lý dịch trong làng chuyên đổi. Chính ngay lý Kiến, tuy hồi ấy đã
có đến ba vợ, cũng không nỡ bỏ hoài cái của không dưng được trời cho; và
không bỏ hoài, ông còn được lợi. Mỗi lần chị Binh đi lĩnh lương hay
lĩnh măng đa của chồng, phải mượn ông lý đi nhận thực. Không ông lý nào
vác của nhà đi ăn mà nhận thực cho người ta, điều ấy là cố nhiên. Nhưng
với lý Kiến thì không những cơm rượu tiền túi, còn phải cho ngồi xe
chung và còn ở lại tỉnh nữa.
Thế là mấy đồng bạc lương đi đời; mấy đứa
con của chị ngày mai chỉ được mấy cái kẹo đạn mút, hay hậu hĩnh ra thì
được mấy cặp bánh giầy giò ăn. Thành thử công lao anh Binh, rút lại chỉ
cho chị Binh mỗi tháng một lần hưởng những cuộc vui với ông lý nhà.
Chẳng hiểu anh ta cũng biết thế mà chán
cảnh nhà hay sao mà mãn hạn ba năm cũng không thấy trở về. Rồi ít lâu
sau, có trát về làng tróc nã và áp giải tên Trần Văn Chức. Lý Kiến khai
tên ấy thuộc hạng dân lưu tán không về làng. Nhưng khai hôm trước thì
hôm sau hắn về. Lý Kiến sai đầy tớ đem trát đến nhà đòi hắn. Hắn đến
ngay, nhưng lại dẫn theo cả vợ và hai con. Không đợi ông lý nói một câu,
hắn rút con dao chọc tiết lợn ra, nhăm nhăm cầm ở tay mà bảo rằng:
“Chẳng nói giấu gì ông, tôi can án giết người. Nếu ông không thương, mà
bắt giải thì vợ con tôi chết đói. Thôi thì đằng nào chúng nó cũng chết,
tôi đâm chúng nó chết ở đây rồi ông bắt đi ở tù luôn thể”. Mắt hắn đỏ
ngầu; lưỡi dao hắn hoa lên loang loáng, chỉ trông cũng lạnh gáy. Hắn có
thể giết người được lắm, mà không chỉ giết có vợ và con thôi, khi hắn có
gan đâm chết vợ con thì hắn có kiêng gì cái cổ của người khác nữa? Lý
Kiến nghĩ ngợi một lúc rồi bảo cứ về rồi ông liệu. Ông liệu nghĩa là ông
che đậy cái án của hắn cho không ai biết và mỗi lần có trát về nhắc,
ông lại khai rằng: vẫn chưa có tên Chức về. Thế là hắn nghiễm nhiên sống
ở ngay chính giữa quê hương hắn. Và bây giờ người ta thấy vợ hắn rất
chính chuyên mà lại trung thành, chị chăm chỉ làm ăn để nuôi hắn. Những
ông trưởng, ông phó tự nhiên nghĩ bụng rằng: người ta có chồng rồi mà
còn chàng màng thì phải tội; ai cũng sinh ra tử tế cả chỉ trừ anh Binh,
bởi vì Chức bây giờ lại rất mực ngang ngược. Hắn ăn vườn đấy, nhưng
chẳng nộp thuế cho ai. Thúc hắn thì hắn chửi, cắm vườn hắn thì hắn chém,
sinh chuyện với hắn thì chính lý trưởng làng có lỗi bởi vì cố ý ẩn lậu
hắn là một tên can phạm. Ấy thế mà hắn cũng chưa vừa lòng đâu. Một hôm,
không hiểu nghĩ ngợi thế nào, hắn vác dao đến bảo thẳng vào mặt lý Kiến
rằng:
– Hồi tôi còn tại ngũ, tôi gửi về nhà có
trăm. Không biết vợ tôi nó tiêu pha gì hay cho trai mà không còn một
đồng nào cả. Tôi hỏi nó thì nó bảo: ở nhà đàn bà con gái một mình, không
dám giữ tiền, được đồng nào mang gửi ông lý cả. Tôi sợ nó bịa ra nên đã
trói sẵn nó ở nhà. Bây giờ tôi đến thưa với ông, tính toán xem được bao
nhiêu cho đem về nuôi cháu. Thiếu một đồng thì tôi không để yên cho
chúng nó.
Lý Kiến hiểu rằng: “chúng nó” đây có thể gồm cả ông. Ông cười nhạt bảo rằng:
– Thế này này, anh Binh ạ: chị ấy gửi tôi thì quả là không có…
Hắn trợn mắt lên quát:
– Thế thì thằng nào ăn đi?
Lý Kiến vội nói lấp ngay:
– Thế nhưng mà anh có thiếu tiền thì cứ
bảo tôi một tiếng. Chị ấy trót tiêu đi rồi thì có giết cũng chẳng ra.
Lôi thôi làm gì sinh tội.
Ông mở tráp ra quăng hắn 5 đồng bạc. Hắn
cầm lấy, “lạy ông” tử tế, rồi xách dao ra về. Từ hôm ấy hắn thành tử tế
với lý Kiến, nhận là chỗ đầy tớ chân tay, nhưng lý Kiến thỉnh thoảng vẫn
phải cho hắn tiền. Cho mãi đến năm ngoái đây, hắn chết…
*
* *
Thì năm nay lại nảy ra Chí Phèo, một
thằng hiền lành như đất – tội nghiệp cho hắn, có lần lý Kiến thấy hắn
vừa bóp đùi cho bà ba, vừa run run! Bỗng nhiên vùng dậy giở toàn những
giọng uống máu người không tanh. Thì ra già néo đứt dây. Cụ tiên chỉ
làng Vũ Ðại nhận ra rằng: đè nén con em đến nỗi nó không chịu được phải
bỏ làng đi là dại. Mười thằng đã đi ra thì chín thằng trở về với cái vẻ
hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ phương xa. Một người khôn ngoan
chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi
dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng,
nhưng được rồi thì lại vất trả lại năm hào “vì thương anh túng quá”! Và
cũng phải tùy mặt nữa: những thằng có máu mặt, vợ đẹp, con đàn chính là
những thằng dễ bóp; trái lại những thằng tứ cố vô thân, giết chúng thì
dễ, nhưng giết được, chỉ còn có xương; mà gây với chúng là mở một dịp
tốt để cho các phe nghịch xoay lại mình. Làng nào cũng có nhiều cánh,
mỗi cánh kết bè kết đảng chung quanh một người: cánh cụ bá Kiến, cánh
ông đội Tảo, cánh ông Tư Ðạm, cánh ông Bát Tùng… Bằng ấy cánh du lại với
nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà
trị nhau. Cụ lại nhận ra rằng: ở cái đất nhà quê, bọn dân hiền lành chỉ è
cổ làm nuôi bọn hào lý, nhưng chính bọn hào lý, nhiều khi lại phải ngậm
miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn cả dân cùng liều lĩnh, lúc nào
cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình.
Nhưng cụ không phải là một người ưa than
thở. Than thở chẳng ích gì cho ai, cái bọn dân đinh suốt đời bị đè nén
sở dĩ bị đè nén suốt đời chỉ vì khi bị đè nén chúng chỉ biết than thở
chứ không biết làm gì khác. Cụ bá Kiến không cần than thở: trị không lợi
thì cụ dùng. Cụ nghĩ bụng cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có
những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? Thế lực của cụ
sở dĩ lấn át được những vây cánh khác, một phần lớn cũng bởi cụ biết
mềm biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không
sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến,
chỉ cho nó dăm hào uống rượu, là có thể sai nó tác hại bất cứ anh nào
không nghe mình. Gặp người bướng bỉnh, đanh thép thì nó lừa đốt nhà hay
cho mấy lát dao; gặp người non mặt, thì nó quăng vào chai rượu lậu, hay
gây sự rồi lăn ra kêu làng. Có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà
ăn, nếu không thì giữa đám dân hiền lành và yên phận này, khéo lắm chỉ
bóp nặn được vào vụ thuế. Thuế một năm có một lần nếu chỉ trông vào đấy
thì bán cha đi cũng không đủ để bù vào chỗ ba, bốn nghìn bạc chạy chọt
để tranh triện đồng.
Vì thế, đêm hôm ấy, ở nhà bá Kiến ra về,
Chí Phèo vô cùng hả hê! Bá Kiến đã không vu vạ gì cho hắn, lại còn giết
gà mua rượu cho hắn uống, xong lại đãi thêm đồng bạc để về uống thuốc.
Ðồng bạc, làm gì đến thế? Hắn loạng choạng vừa đi vừa cười; hắn chẳng
cần đến ba xu. Lúc ngồi tù hắn có học mót được mấy bài thuốc giấu: chỉ
vài nắm lá, là mặt hắn lại đâu vào đấy ngay. Còn đồng bạc lại để đi uống
rượu…
Hắn uống được có ba hôm, hôm thứ tư thì hắn trợn mắt lên, bảo con mẹ hàng rượu rằng:
– Hôm nay ông không có tiền; nhà mày bán chịu cho ông một chai. Tối ông mang tiền đến trả.
Mụ bán hàng rượu hơi ngần ngừ. Thế là hắn
rút bao diêm đánh cái xòe, châm diêm lên mái nhà mụ. Mụ hoảng hốt kêu
la om xòm vội dập tắt ngọn lửa vừa mới cháy. Rồi khóc khóc mếu mếu, mụ
đưa chai rượu. Hắn hầm hầm, chĩa vào mặt mụ bảo rằng:
– Cái giống nhà mày không ưa nhẹ! Ông mua
chứ ông có xin nhà mày đâu! Mày tưởng ông quỵt hở? Mày thử hỏi cả làng
xem ông có quỵt của đứa nào bao giờ không? Ông không thiếu tiền! Ông còn
gửi đằng cụ bá, chiều này ông đi lấy về ông trả.
Mụ vừa kéo áo lên quẹt nước mũi, vừa bảo:
– Chúng cháu không dám chắc lép nhưng quả là ít vốn.
Hắn quát lên:
– Ít vốn thì tối nay ông trả. Nhà mày đã chết ngay bây giờ hay sao?
Rồi hắn xách chai ra về. Hắn về cái miếu
con ở bờ sông, vì vốn từ trước đến nay không có nhà. Lúc đi đường, hắn
đã vặn được ở nhà nào đó bốn quả chuối xanh, và bốc của cô hàng xén một
dúm con muối trắng. Bây giờ hắn uống rượu với chuối xanh chấm muối trắng
và thấy rằng cũng ngon. Hắn uống rượu với cái gì cũng ngon.
Uống xong hắn chùi miệng, rồi ngật ngà
ngật ngưỡng đến nhà bá Kiến. Gặp ai hắn cũng bảo: hắn đến nhà cụ bá Kiến
đòi nợ đây! Mới trông thấy hắn vào đến sân, bá Kiến đã biết hắn đến
sinh sự rồi. Cái mắt thì ngầu lên, hai chân thì đi lảo đảo, cái môi bầm
lại mà run bần bật. Cũng may, hắn không cầm vỏ chai, bá Kiến cũng dõng
dạc hỏi:
– Anh Chí đi đâu đấy?
Hắn chào to:
– Lạy cụ ạ. Bẩm cụ… Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ.
Giọng hắn lè nhè và tiếng đã gần như méo mó. Nhưng bộ điệu thì lại như hiền lành; hắn vừa gãi đầu gãi tai, vừa lải nhải:
– Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại
sinh ra thích đi ở tù, bẩm có thế, con có nói gian thì trời tru đất
diệt, bẩm quả là đi tù sướng quá. Ði ở tù còn có cơm để mà ăn, bây giờ
về làng về nước, một thước đất cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm
cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi tù…
Cụ bá quát, bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh của người.
– Anh này lại say khướt rồi!
Hắn xông lại gần, đảo ngược mắt, giơ tay lên nửa chừng:
– Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho con đi tù mà nếu không được thì… thì… thưa cụ…
Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn giơ ra: đó là một con dao nhỏ, nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng nói tiếp:
– Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện.
Rồi hắn cúi xuống, tần mần gọt cạnh cái
bàn lim. Cụ bá cười khanh khách. Cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo
ấy. Cụ đứng lên vỗ vai hắn mà bảo rằng:
– Anh bứa lắm. Nhưng này, anh Chí ạ, anh
muốn đâm người cũng không khó gì. Ðội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng
đấy, anh chịu khó đến đòi cho tôi, đòi được tự nhiên có vườn.
Ðội Tảo là một tay vai vế trong làng. Vây
cánh ông ta mạnh, vẫn kình nhau với nhà cụ bá mà cụ bá thường phải chịu
bởi hắn là cựu binh, lương hưu trí nhiều, quen thuộc nhiều, lại ăn nói
giỏi. Hắn vay cụ bá năm mươi đồng đã từ lâu, bây giờ đột nhiên trở mặt
vỗ tuột, lấy cớ rằng số tiền ấy tính vào món tiền chè lý Cường ra làm lý
trưởng chưa tạ hắn. Cụ bá tức như chọc họng, nhưng chưa biết làm thế
nào, bởi vì thằng binh Chức, đầy tớ chân tay của cụ, khả dĩ đương đầu
với hắn được, chết năm ngoái rồi. Bây giờ cụ mới lại gặp được Chí Phèo,
có thể thay cho binh Chức. Cụ thử nói khích xem sao. Nếu nó trị được đội
Tảo thì tốt lắm. Nếu nó bị đội Tảo trị thì cụ cũng chẳng thiệt gì, đằng
nào cũng có lợi cho cụ cả.
Chí Phèo nhận ngay! Hắn tức khắc đến nhà
đội Tảo, và cất tiếng chửi ngay từ đầu ngõ. Giá gặp phải hôm khác, thì
có án mạng lắm: đội Tảo cũng có thể đâm chém được, chưa bao giờ chịu
hàng trước cuộc giao tranh. Nhưng phúc đời cho hắn, hay là cho Chí Phèo,
hôm ấy hắn ốm liệt giường, không sao nhắc mình dậy được, có lẽ hắn cũng
không biết Chí Phèo chửi hắn. Vợ hắn, thấy Chí Phèo thở ra mùi rượu, và
biết rõ đầu đuôi món nợ, lấy năm mươi đồng giấu chồng đưa cho người nhà
đi theo Chí Phèo. Đàn bà vốn chuộng hoà bình; họ muốn yên chuyện thì
thôi, gai ngạnh làm gì cho sinh sự. Vả lại, bà đội cũng nghĩ rằng: chồng
mình đang ốm… chồng mình có nợ người ta hẳn hoi… Và năm chục đồng bạc
đối với nhà mình là mấy, lôi thôi lại chả tốn đến ba lần năm chục đồng!
Vì thế, Chí Phèo mới được vênh vênh ra
về; hắn thấy hắn oai thêm bậc nữa. Hắn tự đắc: “anh hùng làng này cóc có
thằng nào bằng ta!”. Cụ bá thấy mình thắng bên địch mà không cần đến
hội đồng làm biên bản xem chừng thích chí. Cụ đưa luôn cho anh đầy tớ
chân tay mới luôn năm đồng.
– Anh Chí ạ, cả năm chục đồng này phần
anh. nNưng nếu anh lấy cả thì chỉ ba hôm là tan hết. Vậy anh cầm lấy chỗ
này uống rượu còn để tôi bán cho anh mảnh vườn; không có vườn đất thì
làm ăn gì?
Chí Phèo “vâng dạ” ra về. Mấy hôm sau, cụ
bá bảo lý Cường cho hắn năm sào vườn ở bãi sông cắm thuế của một người
làng hôm nọ. Chí Phèo bỗng thành ra có nhà. Hồi ấy hắn mới đâu hăm bảy
hay hăm tám…
Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi
rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi? Cái mặt
hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người; nó là mặt
của con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi? Cái mặt
hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ
tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ
kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi? Bao nhiêu việc ức hiếp,
phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm! Những việc ấy
chính là cuộc đời của hắn; cuộc đời mà hắn cũng chả biết đã dài bao
nhiêu năm rồi. Bởi vì ngay đến cái thẻ có biên tuổi hắn cũng không có,
trong sổ làng người ta vẫn khai hắn là dân lưu tán, lâu năm không về
làng. Hắn nhớ mang máng rằng có lần hắn hai mươi tuổi, rồi hắn đi ở tù,
rồi hình như hắn hăm nhăm không biết có đúng không? Bởi từ đấy thì đối
với hắn không còn ngày tháng nữa. Bởi vì từ đấy hắn bao giờ cũng say.
Nhưng cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh
mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say,
đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc
say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ hắn chưa
bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời. Có lẽ hắn cũng không biết
rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại, để tác quái cho bao nhiêu dân
làng. Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu
cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của
bao nhiêu người lương thiện. Hắn đâu biết vì hắn làm tất cả những việc
ấy trong khi người hắn say; hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta
sai hắn làm. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi khi hắn
qua.
Vì thế cho nên hắn chửi hay là chẳng vì
cái gì hắn cũng chửi, cứ rượu xong là hắn chửi. Hắn chửi như những người
say rượu hát. Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi. Khổ cho
hắn và khổ cho người hắn lại không biết hát. Thì hắn chửi, cũng như
chiều nay hắn chửi…
Hắn chửi trời và đời. Hắn chửi cả làng Vũ
Ðại. Hắn chửi tất cả những đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng
mặc, ai mà hoài hơi, tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn, lại càng
không ai cần! Và hắn lấy thế làm ức lắm; bởi vì người ta không thể chửi
nhau một mình; chửi nhau một mình thì còn văn vẻ gì! Thế là chắc chắn
đã có một cớ để tức tối, một cớ rất chính đáng để hắn có thể hùng hổ đi
báo thù. Phải, hắn phải báo thù, báo thù vào bất cứ ai. Hắn phải vào nhà
nào mới được, bất cứ nhà nào. Hắn sẽ rẽ vào bất cứ ngõ nào hắn gặp để
đập phá đốt nhà hay lăn ra kêu làng nước. Phải đấy, hắn sẽ rẽ vào bất cứ
ngõ nào hắn gặp… Á, đâu kia rồi mau mau…
Nhưng mà mặt trăng lên, mặt trăng rằm
vành vạnh. Và ánh trăng chảy trên đường trắng tinh. Ồ, cái gì đây, đen
và méo mó trên đường trăng nhễ nhại? Nó xệch xạc về bên trái, thu gọn
vào rồi lại dài loang ra, xé rách vài chỗ.
Nó cứ quần quật dưới chân Chí Phèo. Chí
Phèo đứng lại và nhìn nó và hắn bỗng nghiêng ngả cười. Hắn cười ngặt
nghẽo, cười rũ rượi. Giá hắn cứ chửi lại còn dễ nghe! Cái vật xệch xạc
trên đường chính là bóng hắn. Thế là hắn cười, và hắn quên báo thù: hắn
đi qua cái ngõ đầu tiên kia rồi. Bây giờ thì đến ngõ nhà tự Lãng, một
anh thầy cúng có một bộ râu lờ phờ. Chí phèo bỗng nảy ra một ý: tạt vào
đây và đập cái bàn chầu văn của lão tự nửa mùa này ra. Bởi vì lão tự này
vừa làm thầy cúng lại vừa làm nghề hoạn lợn. Cái đàn của lão lừng phừng
nghe còn chối tai hơn là lợn kêu. Nhưng lúc vào thì lão tự lại đang
uống rượu; lão uống rượu ngay ở sân, vừa uống vừa vuốt râu, vừa rung
rung cái đầu. Chí Phèo đứng lại nhìn, thấy lão cũng hay hay. Hắn thấy
tất cả những người uống rượu đều hay hay. Rồi đột nhiên hắn khát, trời
ơi sao mà khát! Khát đến cháy cổ họng… Không do dự, hắn lại bên lão tự,
nhắc lấy chai rượu ngửa cổ dốc vào mồm tu. Lão tự duỗi cái cổ gà vặt
lông ra, trố mắt lên, nhưng không nói gì. Lưỡi lão ríu lại rồi, còn nói
làm sao được? Lão đã uống hết hai phần chai. Còn một phần thì Chí Phèo
tu nốt. Hắn tu có một hơi, rồi khà một cái, chép cái miệng như còn thèm.
Rồi hắn nắm lấy mấy cái râu lờ phờ của lão tự, nâng soi lên trăng mà
cười. Lão tự cũng cười. Hai thằng say rượu ngả vào nhau mà cười, như một
đôi tri kỷ cuồng. Rồi tự Lãng vào nhà xách hai chai rượu nữa; lão còn
đúng hai chai nữa, lão mời Chí Phèo uống nữa, uống thật say, không cần
gì. Cứ việc uống, đừng có lo ngại gì đấy! Vợ lão chết đến bảy tám năm
nay rồi, con gái lão chửa hoang bỏ lão đi, lão chỉ có một mình, không
còn vợ con nào mè nheo cả, lão muốn uống đến bao giờ thì uống. Cứ uống!
Cứ uống, cứ uống đi ông bạn lạc đường từ cung trăng xuống ạ! Uống thật
tợn, uống đến đái ra rượu thì mới thích. Nhịn uống để làm gì? Có giàu có
sang, có làm nên ông cả bà lớn nữa, chết cũng không ai gọi là “cụ lớn
mả”! Lão sống có đến hơn năm mươi rồi mà chưa thấy một cụ lớn mả nào
sống sót! Chỉ có cái mả, cái mả đất. Ai chết cũng thành cái mả, say sưa
chết cũng thành cái mả, lo gì? Cứ say.
Chưa bao giờ Chí Phèo được thỏa thê đến
thế! Hắn lấy làm lạ sao mãi đến hôm nay mới ngồi uống rượu với thằng cha
tự này. Chúng uống với nhau rất là nhiều. Và rất là nhiều. Người ta
tưởng như cả làng Vũ Ðại phải nhịn uống để đủ rượu cho chúng uống.
Ðến lúc hết cả hai chai thì tự Lãng đã bò
ra sân. Lão bò như cua và hỏi Chí Phèo rằng: người ta đứng lên bằng cái
gì? Chí Phèo vần ngửa lão ra, vuốt cái râu lờ phờ của lão mấy cái, rồi
để mặc lão thế, hắn lảo đảo ra về.
Hắn vừa đi vừa phanh ngực ra mà gãi. Hắn
gãi ngực rồi gãi lên cổ, gãi mang tai và gãi lên cả đầu. Có lúc hắn phải
đứng lại giữa đường mà gãi, ghệch chân lên mà gãi, hắn bứt rứt quá,
ngứa ngáy quá, và chợt nghĩ ngay đến cái bờ sông gần nhà. Bởi vì cái
vườn của hắn ở gần một con sông con, nước lặng và trong, khắp bãi trồng
toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuộn theo nhau thành làn.
Duy có vườn nhà hắn trồng toàn chuối, ở một góc vườn có túp lều con.
Những đêm trăng như đêm nay, cái vườn phẳng ngổn ngang những bóng chuối
đen như những cái áo nhuộm vắt tung trên bãi. Và những tàu chuối nằm
ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi như là ướt nước,
thỉnh thoảng bị gió lay lại giẫy lên đành đạch như là hứng tình.
Chí Phèo vừa tò mò nhìn những tàu lá
chuối vừa đi xuống vườn. Nhưng hắn không vào cái túp lều úp xúp mà ra
thẳng bờ sông. Hắn định sẽ nhảy xuống tắm cho khỏi ngứa ngáy rồi lăn
ngay ra vườn mà ngủ. Tội gì chui vào lều, bức đến không còn thở được.
Một thằng như hắn, đập đầu không chết, huống hồ là gió sương… Ðến bờ
sông hắn dừng lại, vì hình như có người. Có người thật, và hắn ngây ra
nhìn.
Hắn nhìn giữa hai lọ nước và tựa lưng vào
gốc chuối, một người đàn bà ngồi tênh hênh. Chính là người đàn bà, hắn
biết vậy là nhờ mái tóc dài buông xõa xuống vai trần và ngực… Hai tay
trần của mụ buông xuôi, cái mồm của mụ há hốc lên trăng mà ngủ, hay là
chết. Đôi chân thì duỗi thẳng ra trước mặt, cái váy đen xộc xệch… Bên
kia, có lẽ vì mụ giẫy cái yếm xẹo xọ để trật ra cái sườn nây nây. Tất cả
những cái ấy phơi ra trăng, rười rượi những trăng làm trắng những cái
đó có lẽ ban ngày không trắng; trăng làm đẹp lên. Chí Phèo tự nhiên thấy
ứ đầy miệng bao nhiêu là nước dãi, mà cổ thì lại khô, hắn nuốt ừng ực,
hắn thấy cái gì rộn rạo ran khắp người. Bỗng nhiên hắn run run. Ồ tại
sao như thế được? Ðáng nhẽ chính người đàn bà khốn nạn kia phải run mới
phải, cái người đàn bà dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn
này.
Nhưng người đàn bà ấy lại chính là thị
Nở, một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê
quỷ hờn. Cái mặt của thị đích thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó
ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai
má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu má nó phinh phính thì mặt thị
lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta
tưởng, trên cổ người. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi
như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố
to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn
ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm,
cũng may quyết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã
thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa
được một vài phần cho sự xấu. Ðã thế thị lại dở hơi; đó là một ân huệ
đặc biệt của Thượng đế chí công; nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ
khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất. Và thị lại nghèo nếu trái
lại, ít nhất đã có một đàn ông khổ sở. Và thị lại là dòng giống của một
nhà có mả hủi: cái này khiến không một chàng trai nào phải phân vân.
Người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm. Ngoài ba mươi tuổi,
thị vẫn chưa có chồng. Ở cái làng Vũ Ðại này người ta kết bạn từ khi lên
tám, và có khi có con từ lúc mười lăm; không ai đợi đến năm hai mươi đẻ
đứa con thứ nhất. Cứ nhìn tình hình ấy thì ta nói quách: thị Nở không
có chồng. Mà thị cũng không còn ai thân thích, trừ một người cô đã có
thể gọi được là già, và đã không chồng như thị. Số trời định thế, để
không ai phải trơ trọi trên đời này. Người cô làm thuê cho người đàn bà
buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gai,
Cẩm Phả. Còn thị sống bằng những nghề lặt vặt ở làng. Hai cô cháu sống
trong một cái nhà tre cách vườn của Chí Phèo bởi một con đê; hắn ở ngoài
bãi, hai người ở trong xóm. Có lẽ chính vì thế mà thị Nở không sợ cái
thằng mà cả làng sợ. Gần gũi lâu cũng sinh quen, mà quen thì ít khi còn
sợ. Những người trông coi vườn bách thú thường bảo rằng hổ báo hiền y
như mèo. Vả lại có lý nào để thị sợ hắn đâu? Người ta không ai sợ kẻ
khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ
có ba cái ấy… Một phần nữa cũng bởi Chí Phèo ít khi ở nhà, mà ở nhà thì
hắn lại hiền lành, ai có thể ác trong khi ngủ? Hắn chỉ về nhà để ngủ.
Ngày nào thị Nở cũng phải qua vườn nhà
hắn hai ba lần, là vì qua vườn nhà hắn có một lối nhỏ đi ra sông; trước
kia, cả xóm vẫn dùng cái ngõ ấy để ra sông tắm giặt hay kín nước. Nhưng
từ khi hắn đến người ta thôi dần, tìm một lối khác đi xa hơn. Trừ thị
Nở: thì đã bảo thị là người dở hơi, thị không thích làm như kẻ khác. Quá
tin ở người, quá tin ở mình liều lĩnh, bướng bỉnh hay có lẽ chỉ không
chịu rời thói quen. Nhưng hãy biết thị cứ đi ngõ ấy và vẫn chẳng làm sao
cả. Thế rồi quen đi. Có lần trong lúc Chí Phèo ngủ, thị vào cả nhà hắn
để rọi nhờ lửa nữa, có lần thị xin của hắn một ít rượu về để bóp chân;
hắn mải ngủ càu nhàu bảo thị rằng: ở xó nhà ấy, muốn rót bao nhiêu thì
rót, để yên cho hắn ngủ. Và lắm lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê hắn
thế?
Chiều hôm ấy thị Nở cũng ra sông kín nước
như mọi chiều. Nhưng chiều hôm ấy, trăng lại sáng hơn mọi chiều, trăng
tỏa trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng. Những vàng ấy rung
rinh mới trông thì đẹp, nhưng trông lâu mỏi mắt. Gió lại mát như quạt
hầu. Thị Nở thấy muốn ngáp mà mí mắt thì nặng dần, toan díp lại. Thị vốn
có một tật không sao chữa được: có lúc đột nhiên muốn ngủ, bất cứ ở đâu
hay đang làm gì. Bà cô thị bảo thị là một người vô tâm. Ngáp một cái,
thị nghĩ bụng: khoan hãy kín nước, hãy để lọ xuống ngồi nghỉ đây. Bởi vì
thị đã luật quật đập đất từ trưa tới giờ. Mà mấy khi được một nơi mát
thế, mát rợn da rợn thịt, sung sướng quá! Mát y như quạt hầu. Thị cởi áo
ra ngồi tựa vào gốc chuối, dáng ngồi không kín đáo, nhưng không bao giờ
thị biết thế nào là lả lơi. Con người vô tâm, không hay nghĩ xa xôi mà.
Vả lại ở đây chẳng có ai. Chí Phèo đã về đâu, mà hắn có về thì cũng say
khướt đã ngủ từ nửa đường và tới nhà tức khắc chúi đầu vào ngủ nốt. Hắn
ra làm gì đây, cho có ra nữa thì đã sao? Thị không thể sợ hắn có thể
phạm đến thị bởi lẽ rất giản dị là thị chưa thấy ai phạm đến thị bao
giờ. Thật ra thì thị cũng chẳng nghĩ ngợi nhiều đến thế. Trong óc thị đã
có một bóng đen lan rồi. Thị không ngồi thì không chịu được.
Ngồi một lúc thị thấy rằng: nếu cứ ngồi
mãi thì ngủ mất. Nhưng thị đã ngủ đến hai phần rồi. Và thị nghĩ: thì
ngủ, ngủ thì đã làm sao! Về nhà thì cũng chỉ ngủ, ngủ ngay đây cũng vậy.
Bà cô đi theo hàng ít ra cũng dăm hôm mới về. Thị cứ ngồi đây cho mát.
Và thị ngủ. Thị ngủ ngon lành và say sưa.
Chí Phèo vẫn say say nhìn và run run.
Bỗng nhiên hắn rón rén lại gần thị Nở: lần đầu tiên hắn rón rén, từ khi
về làng. Thoạt tiên, hắn xách cái lọ để ra xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi
xuống bên sườn thị.
Và thị Nở giật mình. Thị Nở mới kịp giật
mình thì thằng đàn ông đã bám víu lấy thị…. Thị vùng vẫy đẩy ra, thị mở
mắt, thị tỉnh hẳn, thị nhận ra Chí Phèo. Thị vừa thở, vừa vật nhau với
hắn vừa hổn hển: “Ô hay… Buông ra… Tôi kêu… Tôi kêu làng… Buông ra. Tôi
kêu làng lên bây giờ!” Thằng đàn ông phì cười. Sao thị lại kêu làng nhỉ?
Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn mới kêu làng thôi; người ta lại kêu tranh của
hắn, bỗng nhiên hắn la lên kêu làng.
Hắn kêu như một kẻ bị đâm, vừa kêu vừa
dằn người đàn bà xuống. Thị Nở trố mắt ngây ra nhìn. Thị Nở kinh ngạc:
sao hắn lại kêu làng nhỉ? Mà hắn vẫn chưa chịu thôi kêu làng. Cũng may
người quanh đây không có ai lạ gì tiếng hắn, mà khi hắn kêu làng thì
không ai cần động dạng: họ lạu bạu chửi rồi lại ngủ; hắn kêu làng cũng
như người khác buồn, hát ngao. Đáp lại hắn chỉ có lũ chó cắn xao lên
trong xóm.
Thị Nở bỗng nhiên bật cười. Thị Nở vừa
rủa vừa đập tay lên lưng hắn. Nhưng đó là cái đập yêu, bởi vì đập xong,
cái tay ấy lại giúi lưng hắn xuống. Và chúng cười với nhau…
Bây giờ thì chúng ngủ bên nhau… Đứa bé bú
no thì ngủ. Người ta ngủ say sau khi làm việc yêu. Chúng ngủ như chưa
bao giờ được ngủ… Trăng vẫn thức, vẫn trong trẻo… Trăng rắc bụi trên
sông, và sông gợn biết bao nhiêu vàng. Nhưng đến gần sáng, bỗng nhiên
Chí Phèo chống một tay xuống đất, ngồi lên một nửa. Hắn thấy nôn nao,
chân tay bủn rủn, như đến hai ba ngày nhịn đói. Thế mà bụng lại phinh
phính đầy, hình như bụng hơi đau. Còn hình như gì nữa, thôi đúng đau
bụng rồi. Đau thật, đau mỗi lúc một dữ! Nó cứ cuồn cuộn lên. À mà trời
lành lạnh. Hễ có gió thì kinh kinh. Mỗi lần gió, hắn rươn rướn người.
Hắn muốn đứng lên. Sao đầu nặng quá mà chân thì bẩy rẩy. Mắt hắn hoa
lên. Bụng quặn lại, đau gò ngườI. Hắn oẹ. Hắn oẹ ba bốn cái. Oẹ mãi. Giá
mửa ra được thì dễ chịu. Hắn cho một ngón tay vào móc họng. Hắn oẹ ra
một cái to hơn, ruột hình như lộn lên. Nhưng cũng chỉ nhổ ra toàn nước
dãi. Hắn nghỉ một tí rồi lại cho tay vào mồm. Lần này thì mửa được. Trời
ơi! Mửa thốc mửa tháo, mửa ồng ộc, mửa đến cả ruột. Đến nỗi người đàn
bà phải dậy. Thị ngồi nhỏm dậy và ngơ ngác nhìn. Cái óc nặng nề ấy phải
lâu mới nhớ ra và lâu mới hiểu.
Bây giờ thì Chí Phèo đã mửa xong. Hắn mệt
quá, lại vật người ra đất. Hắn đờ hai con mắt khẽ rên: hắn chỉ còn đủ
sức để rên khe khẽ. Từ đống mửa bay lại một mùi gì thoảng như mùi rượu,
hắn bỗng nhiên rùng mình.
Thị Nở lại. Đặt một tay lên ngực hắn (thị suy nghĩ đến bây giờ mới xong), thị hỏi hắn:
– Vừa thổ hả?
Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một thoáng rồi lại đờ ra ngay.
– Ði vào nhà nhé?
Hắn làm như gật đầu. Nhưng cái đầu không động đậy, chỉ có cái mí mắt là nhích thôi.
– Thì đứng lên.
Nhưng hắn đứng lên làm sao được. Thị
quàng tay vào nách hắn, đỡ cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên.
Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều.
Không có giường, chỉ có một cái chõng
tre. Thị để hắn nằm lên và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách
đắp lên cho hắn. Hắn hết rên. Hình như hắn ngủ. Thị cũng lim dim chực
ngủ. Nhưng trong nhà nhiều muỗi quá. Muỗi nhắc cho thị cái áo quên ngoài
vườn. Thị ra vườn. Đôi lọ nhắc cho thị việc đi kín nước, thị mải mốt
mặc áo, kín nước, rồi xách đôi lọ nước đi về nhà.
Trăng chưa lặn, không chừng trời còn
khuya. Thị lên giường định ngủ. Nhưng nhớ lại việc lạ lùng tối qua. Thị
cười. Thị thấy không buồn ngủ, và thị cứ lăn ra lăn vào.
Khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng lâu.
Mặt trời chắc đã cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim
ríu rít bên ngoài là đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi tờ
mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm thì bên ngoài trời
vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say.
Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng
khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn
rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột
gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm.
Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cườu nói của những người
đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.
Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!
– Vải hôm nay bán mấy?
– Kém ba xu dì ạ.
– Thế thì còn ăn thua gì!
– Thật thế đấy. Nhưng chẳng lẽ rằng lại chơi.
Chí Phèo đoán một người đàn bà hỏi một
người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Ðịnh về. Hắn nôn nao buồn, là vì mẩu
chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn
đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải,
chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba
sào ruộng làm.
Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô độc.
Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài
bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu
sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn,
chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy đọa cực nhọc mà chưa bao giờ
ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều.
Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã
đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và
ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.
Cũng may Thị Nở vào. Nếu thị không vào,
cứ để hắn vẩn vơ mãi, thì đến khóc được mất. Thị vào cắp một cái rổ,
trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên.
Là vì lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát, thị bỗng nhiên nghĩ rằng: cái
thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm
mà nằm còng queo một mình. Giá thử đêm qua không có thị thì hắn chết.
Thị kiêu ngạo vì đã cứu sống một người. Thị thấy như yêu hắn: đó là một
cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một
người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không thể quên được. Cho nên
thị nghĩ: mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với
nhau! Ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng”, thấy ngường
ngượng mà thinh thích. Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con người
khốn nạn ấy chăng. Hay sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những
tính tình mà thị chưa bao giờ biết?
Chỉ biết rằng thị muốn gặp Chí Phèo, gặp
hắn mà nhắc lại chuyện đêm qua thì chắc buồn cười lắm. Gớm! Sao lại có
thứ người đâu mà lì quá thế? Người ta ngồi đấy mà dám xán lăn ngay vào,
nó chả ngang ngược mà người ta kêu bé, nó lại làm to hơn. Mà kể thì cũng
ngù ngờ. Cái thằng trời đánh không chết ấy, nó còn sợ ai mà hòng kêu.
Nhưng mà đáng kiếp. Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay
nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo
hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà… Thế là vừa sáng
thì đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn.
Thị nấu bỏ vào cái rổ, mang ra cho Chí Phèo.
Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên
thì hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất
hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho
cái gì. Hắn vẫn phải doạ nạt hay giật cướp. Hắn phải làm cho người ta
sợ. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm
hắn, rồi lại toe toét cười. Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho
có duyên. Hắn thấy vừa vui lại vừa buồn. Và một cái gì nữa, giống như là
ăn năn. Cũng có thể như thế lắm. Người ta hay ăn năn hối hận về tội ác
khi không đủ sức để ác nữa. Thị Nở giục hắn ăn nóng. Hắn cầm lấy bát
cháo đưa lên mồm. Trời ơi cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi
cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng: những người
suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon. Nhưng sao
lại mãi đến bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?
Hắn tự hỏi rồi lại tự trả lời: vì có ai
nấu cho ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Ðời hắn chưa bao giờ được
săn sóc bởi một tay “đàn bà”. Hắn nhớ đến “bà ta”, cái con quỷ cái hay
bắt hắn bóp chân mà lại kêu bóp lên trên, trên nữa, nó chỉ nghĩ đến sao
cho thỏa nó chứ có yêu hắn đâu. Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi,
người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không
thích cái gì người ta khinh. Vả lại bị một con đàn bà gọi đến nhà mà bóp
chân! Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồi lại sợ. Quả thật, từ khi
biết rằng con vợ chủ sai hắn làm một việc không chính đáng, hắn vừa làm
vừa run. Không làm thì không được: mọi việc trong nhà, quyền đàn bà. Chứ
hắn, hắn có lòng nào đâu! Ðến nỗi người đàn bà phát cáu. Bà thấy xa xôi
không được, phải làm đến nơi. Bà bảo hắn rằng: “Mày thực thà quá! Con
trai gì hai mươi tuổi mà đã như ông già”. Hắn vẫn giả vờ không hiểu. Bà
lẳng lơ bảo: “Chả nhẽ tao gọi mày vào chỉ để bóp chân thế này thôi ư?…”
và thấy hắn dùng dằng, bà mắng xơi xơi vào mặt. Hắn chỉ thấy nhục chứ
yêu đương gì. Không, hắn chưa được một người đàn bà nào yêu cả. Vì thế
mà bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn
được, sao lại chỉ gây kẻ thù?
Bát cháo húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát
cháo và múc thêm bát nữa. Hắn thấy mình vã bao nhiêu mồ hôi. Mồ hôi chảy
ra trên đầu, trên mặt, những giọt to như giọt nước. Hắn đưa tay áo quệt
ngang một cái, quệt mũi cười rồi lại ăn. Hắn càng ăn, mồ hôi lại càng
nhiều. Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu thương hại. Hắn thấy lòng thành trẻ con.
Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó
là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người? Ðó là cái
bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi. Hay trận ốm thay đổi hẳn về
sinh lý, cũng thay đổi cả tâm lý nữa? Những người yếu đuối vẫn hay hiền
lành. Muốn ác, phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn mạnh nữa. Và có lúc hắn ngẫm
mình mà lo. Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và dọa nạt. Nếu không
còn sức mà giật cướp, dọa nạt nữa thì sao? Ðã đành, hắn chỉ mạnh vì
liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có một lúc mà người ta không thể liều
lĩnh được nữa. Bấy giờ mới nguy! Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn
muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có
thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ
nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương
thiện… Hắn băn khoăn nhìn thị Nở, như thăm dò. Thị vẫn im lặng, cười
tin cẩn, hắn thấy tự nhiên nhẹ người. Hắn bảo thị:
– Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?
Thị không đáp, nhưng cái mũi đỏ của thị
như càng bạnh ra. Hắn thấy thế cũng không có gì là xấu. Bằng một cái
giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý hắn, hắn bảo thị:
– Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.
Thị lườm hắn. Một người thật xấu khi yêu
cũng lườm. Hắn thích chí khanh khách cười. Lúc tỉnh táo, hắn cười nghe
thật hiền. Thị Nở lấy làm bằng lòng lắm. Bấy giờ mấy bát cháo ý chừng đã
ngấm. Hắn thấy lòng rất vui. Hắn bẹo thị Nở một cái làm thị nẩy hẳn
người lên. Và hắn cười, hắn lại bảo:
– Ðằng ấy còn nhớ gì hôm qua không?
Thị phát khẽ hắn một cái, làm vẻ không ưa
đùa. Sao mà e lệ thế. Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu. Hắn cười ngất, và
muốn làm thị thẹn thùng hơn nữa, hắn véo thị một cái thật đau vào đùi.
Lần này thì không những thị nẩy người. Thị kêu lên choe choé. Thị nắm cổ
hắn mà giúi xuống. Chúng tỏ tình với nhau, không cần đến những cái hôn.
Ai lại hôn, khi có những cái môi nứt nẻ như bờ ruộng vào kỳ đại hạn và
cái mặt rạch ngang dọc như mặt thớt. Vả lại, có những cách âu yếm bình
dân hơn, chúng cấu véo hoặc phát nhau… thiết thực biết mấy…
Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi.
Chúng cũng nhận thấy thế, và nhất định là lấy nhau. Như thế năm ngày
chẵn, thị ở nhà hắn cả ngày lẫn đêm, trừ những lúc đi kiếm tiền. Hắn
không còn kinh rượu nhưng cố uống cho thật ít. Ðể cho khỏi tốn tiền,
nhưng nhất là để tỉnh táo để yêu nhau. Ðàn bà không men như rượu nhưng
cũng làm người say. Và hắn say thị lắm. Nhưng thị lại là người dở hơi.
Ðến hôm thứ sáu thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người
cô ấy nội ngày nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy đừng yêu để hỏi cô thị đã.
Thấy thị hỏi, bà già kia bật cười. Bà
tưởng cháu bà nói đùa. Nhưng chợt nhớ rằng cháu bà vốn dở hơi. Bà bỗng
trở nên hoảng hốt. Bà nhục cho ông cha nhà bà. Cũng có lẽ bà tủi thân
bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua
xót lắm. Bà uất ức, uất ức với ai không biết. Nhưng rồi đổ cái uất ức
ngay lên cháu bà! Người đàn bà đức hạnh ấy thấy cháu bà sao mà đĩ thế!
Thật đốn mạt. Ngoài ba mươi tuổi, mà chưa trót đời. Ngoài ba mươi… ai
lại còn đi lấy chồng. Ai đời lại còn đi lấy chồng! Ừ! Mà có lấy thì lấy
ai chứ?… Ðàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng
không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ.
Trời ơi! Nhục nhã ơi là nhục nhã! Hỡi ông cha nhà bà! Bà gào lên như con
mẹ dại. Bà xỉa xói vào mặt cái con cháu ba mươi tuổi mà chưa trót đời.
Bà bảo phắt nó:
– Ðã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!
Thị nghe thấy thế mà lộn ruột. Nhưng thị
biết cãi bà làm sao? Con người ấy có quyền nói thế, bởi con người ấy năm
mươi tuổi rồi còn ai lấy chồng. Thị biết cãi làm sao. Mà không cãi được
thì giận dữ nổi lên đùng đùng. Thị tức lắm! Thị tức lắm! Thị cần đổ cái
tức ấy lên một người. Thị lon ton chạy sang nhà nhân ngãi. Thị thấy hắn
đang uống rượu, và vừa uống vừa lầm bầm chửi thị về nhà lâu. Hắn không
quen đợi; bởi phải đợi, hắn lại lôi rượu mà uống cho đỡ buồn. Uống vào
thì phải chửi, quen mồm rồi! Nhưng thị làm gì mà hắn chửi? Mà hắn có
quyền gì chửi thị? Ồ, thị điên lên mất! Thị dẫm chân xuống đất, rồi lại
nhảy cẫng lên như thượng đồng. Hắn thú vị quá, lắc lư cái đầu cười. Lại
còn cười! Nó nhạo thị, trời ơi! Thị điên lên mất, trời ơi là trời! Thị
chống hai tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và tớn cái môi vĩ đại lên,
trút vào mặt hắn tất cả những lời bà cô. Hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình
như hiểu. Hắn bỗng nhiên ngẩn người. Thoáng một cái, hắn lại như hít hít
thấy cái hơi cháo hành. Hắn cứ ngồi ngẩn mặt không nói gì. Thị trút
giận xong rồi. Cái mũi đỏ dị xuống rồi lại bạnh ra. Thị hả hê lắm lắm.
Thị ngoay ngoáy cái mông đít ra về. Hắn sửng sốt đứng lên gọi lại. Ai mà
thèm lại! Còn muốn lôi thôi cái gì? Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay thị.
Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khèo xuống sân. Ðã lăn
ra thì hắn phải kêu: bao giờ chả thế. Hắn nhặt một hòn gạch toan đập
đầu. Nhưng hình như hắn chưa thật say. Vì hắn nghĩ đập đầu ở đây chỉ
thiệt; đập đầu ở đây để mà ăn vạ ai? Hắn phải tự đến cái nhà con đĩ Nở
kia. Ðến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó. Nếu
không đâm được, lúc ấy hãy đập đầu kêu làng. Muốn đập đầu, phải uống
thật say. Không có rượu, lấy gì làm cho máu nó chảy? Phải uống thêm chai
nữa. Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao
ơi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa. Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo
hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống. Hắn ra đi với một con dao ở
thắt lưng. Hắn lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó!”. Nhưng hắn lại cứ
thẳng đường mà đi. Cái gì đã làm hắn quên rẽ vào nhà thị Nở? Những thằng
điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi
chúng định làm.
Trời nắng lắm, nên đường vắng. Hắn cứ đi,
cứ chửi, cứ dọa giết “nó”, và cứ đi. Bây giờ đến ngõ nhà cụ Bá. Hắn
xông xông đi vào. Cả nhà đi làm đồng vắng, chỉ có mình cụ Bá đang nằm
nghỉ trưa. Nghe tiếng hắn, cụ thấy sao bực mình quá! Chính thật thì cụ
cũng đang bực mình. Bởi vì cụ thấy đầu hơi nhức. Cụ đang muốn có một bàn
tay man mát xoa cái đầu. Cũng có lẽ, cụ chỉ muốn bà Tư đừng đi lâu quá
thế. Đi lâu thế, không biết rằng đi đâu? Sao bà ấy còn trẻ quá! Gần bốn
mươi rồi mà trông còn phây phây. Còn phây phây quá đi nữa! Cụ năm nay đã
ngoài sáu mươi. Già yếu quá, nghĩ mà chua xót. Già thế thì bà ấy chỉ
cũng già đi cho xong. Bà ấy lại cứ trẻ, cứ phây phây, cứ đẹp như mới
ngoài hai mươi tuổi, mà sao đa tình. Nhìn thì thích nhưng tưng tức lạ.
Khác gì nhai miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng. Mắt bà, miệng
bà có duyên, nhưng trông đĩ lắm. Hơi một tí là cười toe toét, tít cả mắt
lại, cái má thì hây hây. Mà thấy ghét những thằng trai trẻ, giá làm con
bà không đáng, mà thấy đâu cũng đùa. Chúng đùa nhạt như nước ốc, chỉ
được cái thô tục, mà gặp ai đâu cũng cười! Chẳng nghĩ đến địa vị cả,
người đâu mà vô tâm! Tức lạ! Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ
đi tù… Những lúc như thế, thì một người dẫu khôn ngoan cũng không bình
tĩnh được. Nhất là khi trông thấy một thằng chỉ đến vòi tiền uống rượu
như Chí Phèo. Tuy vậy, cụ cũng móc sẵn năm hào. Thà móc sẵn để tống nó
đi cho chóng. Nhưng móc rồi, cụ cũng phải quát một câu cho nhẹ người:
– Chí Phèo đấy hở ? Lè bè vừa thôi chứ, tôi không phải là cái kho.
Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:
– Cầm lấy mà cút đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi à?
Hắn trợn mắt chỉ tay vào mặt cụ:
– Tao không đến đây xin năm hào.
Thấy hắn toan làm dữ cụ đành dịu giọng:
– Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.
Hắn vênh cái mặt lên, rất kiêu ngạo:
– Tao đã bảo là tao không đòi tiền.
– Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì?
Hắn dõng dạc:
– Tao muốn làm người lương thiện!
Bá Kiến cười ha hả:
– Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
– Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm
thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là
người lương thiện nữa. Biết không? Chỉ có một cách… biết không! Chỉ có
một cách là… cái này biết không?
Hắn rút dao ra xông vào. Bá Kiến ngồi
nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng.
Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao
giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đang giẫy
đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp
ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn
còn ứ ra.
Cả làng Vũ Ðại nhao lên. Họ bàn tán rất
nhiều về vụ án không ngờ ấy. Có nhiều kẻ mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng
ra mặt. Có người nói xa xôi: “Trời có mắt đấy, anh em ạ!”. Người khác
thì nói toạc ra: “Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Rõ
thật bọn chúng nó giết nhau, nào có phải cần đến tay người khác đâu”.
Mừng nhất là bọn hào lý ở trong làng. Họ tuôn đến hỏi thăm, nhưng chính
là để nhìn lý Cường bằng những con mắt thỏa mãn và khiêu khích. Ðội Tảo,
không cần kín đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ, trước mặt bao người:
“Thằng bố chết, thằng con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn”. Ai
chả hiểu “người ta” đó là chính ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ: “Thằng mọt
già ấy chết, anh mình nên ăn mừng”. Những người biết điều thì hay ngờ
vực, họ chép miệng nói: “Tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng
khác, chúng mình cũng chẳng lợi tí gì đâu…”.
Bà cô thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay nghiến:
– Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo.
Thị cười và nói lảng:
– Hôm qua làm biên bản, lý Cường nghe đâu tốn gần một trăm. Thiệt người lại tốn của.
Nhưng thị lại nghĩ thầm:
– Sao có lúc nó hiền như đất.
Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị nhìn trộm bà cô, rồi nhìn nhanh xuống bụng:
– Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào?
Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét