Đặng Thành
Thời kỳ Tam Quốc bắt đầu vào năm 220 khi nhà Tào Ngụy được thành lập (1) và kết thúc vào năm 280 khi nhà Ngô sụp đổ (2).
Tuy nhiên theo Trần Thọ (3), tác giả của bộ chính sử Tam Quốc Chí được
biên soạn vào thế kỷ thứ 3 thì thời đại Tam Quốc bắt đầu từ năm 189 đến
năm 280. Toàn bộ tác phẩm gồm 66 quyển với nội dung đề cập về cuộc đời
và sự nghiệp của các nhân vật lịch sử trong thời đại này. Tác phẩm được
người đương thời đánh giá rất cao và được xếp vào danh sách Nhị Thập Tứ
Sử (4). Ngoài ra tác phẩm còn ảnh hưởng rất sâu rộng, làm nền tảng cho
bộ tiểu thuyết TAM QUỐC DIỄN NGHĨA nổi tiếng của La Quán Trung được viết
vào thế kỷ 14. Dưới ngòi bút của tác giả, Lưu Bị là một vị vua hiền,
một vị vua đầy lòng nhân ái, luôn lấy nhân nghĩa làm cứu cánh cho cuộc
đời. Tuy nhiên nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc đời của vị vua này không
đủ biện minh cho mục đích cuối cùng mà ông quyết theo đuổi.
Ở đây chúng tôi không đi vào vết xe của
phần lớn người Tống: thấy Lưu Bị thất bại, người Tống chau mày, đến đoạn
Tào Tháo bại trận họ lại vui mừng vì phần lớn dân chúng bị ảnh hưởng
rất nhiều bởi cuốn tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung và
cuốn sử chính trị Tư trị Thông giám (5) do Tư Mã Quang chủ biên. Nói
khác đi, chúng tôi cố gắng dựa vào chính sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ và chú thích của Bùi Tùng Chi (6) để nêu lên những nét đặc trưng của cuộc đời và sự nghiệp của Lưu Bị trong thời đại Tam Quốc.
THÂN THẾ
Lưu Bị (刘备) (161-223) tự Huyền Đức (玄德),
người ở quận Trác nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Ông là con của Lưu
Hoằng, cháu Lưu Hùng; con cháu đời sau của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu
Thắng (7) thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Hán. Đến đời Lưu Bị, cơ nghiệp
nhà Hán suy tàn; ông mồ côi cha từ nhỏ, cùng mẹ sống bằng nghề đan giày,
bện chiếu. Năm 15 tuổi, Lưu Bị được mẹ gửi đi học cùng với người đồng
tông là Lưu Đức Nhiên và Công Tôn Toản. Cha của Lưu Đức Nhiên thường chu
cấp cho Lưu Bị ăn học. Công Tôn Toản và Lưu Bị là bạn rất thân. Công
Tôn Toản nhiều tuổi hơn nên Lưu Bị coi như anh trai.
KHỞI NGHIỆP
Lưu Bị không thích đọc sách chỉ thích
cưỡi ngựa, ca hát và mặc quần áo đẹp. Vóc người ông cao lớn (1,72m: theo
Tam Quốc Chí, Trần Thọ), dung mạo nổi bật và khác thường. Tính tình
ông trầm mặc ít nói, mừng giận không lộ ra mặt. Ông có chí lớn, thích
kết giao với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ (8) và được nhiều người
trẻ tuổi vây quanh.
Lưu Bị cùng Quan Vũ (9) và Trương Phi
đối xử với nhau như anh em và trong suốt cuộc đời của Lưu Bị, ông đã hết
lòng sống vì họ. Buổi đầu khởi nghiệp, có hai nhà buôn ngựa ở vùng Trác
Quận là Trương Thế Bình và Tô Song tài trợ tiền và vàng giúp Lưu Bị mua
ngựa và binh khí, nhờ vậy Lưu Bị mới tập hợp được một số binh lính.
Năm 184, Trương Giác cầm đầu cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng (giặc Hoàng Cân) nổi
dậy chống triều đình. Nhờ tham gia chiến dịch chống quân nổi dậy thành
công, Lưu Bị được thăng Huyện úy huyện An Hỉ (10), sau thăng chức Cao
Đường lệnh cấp huyện trưởng. Không lâu sau đó, Đại tướng Hà Tiến cử Đô úy
Quán Khâu Nghị đến An Dương mộ binh. Lưu Bị gia nhập rồi dẫn quân dẹp
giặc Khăn Vàng ở Hạ Bi và ông được phong làm Hạ Mật thừa. Quân giặc lại
đến quấy nhiễu, Lưu Bị chạy sang nương nhờ bạn cũ là Trung lang tướng Công Tôn Toản.
Công Tôn Toản dâng biểu tiến cử ông làm Biệt bộ Tư mã rồi điều ông sang
giúp Thứ sử Thanh Châu là Điền Khải chống lại Viên Thiệu.
Lưu Bị lập được nhiều chiến công nên Điền Khải cho giữ chức Bình Nguyên
lệnh, sau thăng lên Bình Nguyên tướng. Lưu Bị bổ nhiệm Quan Vân Trường
và Trương Phi làm Biệt bộ Tư mã, thống lĩnh quân đội của Lưu Bị (chỉ
trên danh nghĩa).
Năm 190, Viên Thiệu tập họp chư hầu đánh
Đổng Trác. Lưu Bị và Công Tôn Toản không đến dự hội minh với chư hầu
như La Quán Trung mô tả trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.
TIẾP QUẢN TỪ CHÂU
Cùng thời điểm Đào Khiêm đánh Khuyết Tuyên thì xảy ra vụ án mạng Tào Tung (cha Tào Tháo).
Giữa năm 193, Tào Tung từ Lạc Dương tới Lang Nha định dưỡng lão. Đoàn
người mang theo hơn 100 xe vàng bạc châu báu (11) và khi đi ngang qua Từ
Châu, Tào Tung bị bộ tướng của Đào Khiêm là Trương Cương giết và cướp
hết hành lý.
Tào Tháo nghe tin cha bị hại ở Từ Châu
cho rằng Đào Khiêm đồng mưu với thủ hạ giết cha mình nên quyết tâm báo
thù. Ông lấy cớ Đào khiêm ủng hộ triều đình do thủ hạ của Đổng Trác nắm
quyền ở Trường An và việc Đào Khiêm mật giao với Khuyết Tuyên (12) nên
Tào Tháo điều hơn hai mươi ngàn quân tiến đánh Từ Châu.
Sau nhiều ngày chiến đấu, quân Tào chiếm
hơn 10 thành và đánh bại quân Đào Khiêm ở Bành Thành, giết hơn 10 ngàn
quân Từ Châu; vì vậy nước sông Hán Thủy không chảy được (13). Từ Châu
Mục Đào Khiêm rút quân vào thành Đan Dương cố thủ đồng thời cầu cứu Thứ
sử Thanh Châu là Điền Khải. Điền Khải lúc đó đang bị Viên Thiệu vây đánh
nên ông đã cầu cứu tướng giữ Bình Nguyên là Công Tôn Toản. Tướng Toản
cử Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi đi cứu Thanh Châu. Cùng lúc Công
Tôn Toản được tin Đào Khiêm cầu cứu nên ông cử Lưu Bị cầm quân đi giải
cứu Từ Châu trước. Lúc đó quân số của Lưu Bị có hơn một ngàn
quân cùng với đám kị binh tạp nhạp người Ô Hoàn ở U Châu rồi lại được
Đào Khiêm cấp cho 4.000 quân nữa nên ông bỏ Điền Khải theo về với Đào
Khiêm và cùng Đào Khiêm tử thủ ở Đan Dương. Tào Tháo vây
đánh nhiều ngày nhưng không sao phá được thành, ông liền trút hận thù
lên dân thường vô tội và ra lệnh tàn sát hơn một trăm ngàn người ở năm
thành kể cả nhiều người dân từ Thiểm Tây chạy qua đó lánh nạn Lý Thôi –
Quách Dĩ cũng bị giết (14).
Thuộc hạ của Tào Tháo là Trần Cung và
Trương Mạo nhận thấy Tào Tháo quá tàn bạo nên tôn Lã Bố làm minh chủ,
giữ chức Thứ sử Duyện Châu và giao 100 ngàn quân chống lại thế lực hùng
mạnh của Tào Tháo. Lã Bố lấy Bộc Dương làm bản doanh rồi mang quân đánh
chiếm hầu hết các thành trì của Tào Tháo ngoại trừ 3 thành còn trung
thành với Tào Tháo là Yên Thành, Đông A và Phạm Huyện, Lã Bố chưa đánh
chiếm được. Nhận được hung tin, Tào Tháo liền bỏ Từ Châu mang quân về
giải cứu Duyện Châu nhưng mãi đến năm 195 ông mới bình định xong vùng
đất trước đây do ông cai quản.
Qua trận đánh quyết định với quân Tào,
Đào khiêm rất cảm phục tấm lòng vì nghĩa của Lưu Bị nên ông có ý tiến cử
Lưu Bị vào chức vụ Từ Châu Mục thay mình điều hành Từ Châu.
Lưu Bị, một phần biết rõ lực lượng của
mình còn yếu không đủ sức chống cự lại lực lượng hùng mạnh của quân Tào
và các lực lượng khác đang dòm ngó Từ Châu; một phần vì tính khiêm
nhường cố hữu áp dụng không đúng lúc của Lưu Bị nên ông từ chối không
tiếp quản Từ Châu và đề nghị Đào Khiêm trao Từ Châu cho Viên Thuật là
người có đủ năng lực bảo vệ Từ Châu. Đào Khiêm hỏi ý kiến của Khổng Dung
(15) nhưng Khổng Dung không đồng tình với Lưu Bị vì ông cho rằng Viên
Thuật không đủ thực lực để giữ Từ Châu khỏi rơi vào vòng xoáy của quân
Tào. Cuối cùng ông vẫn không dám nhận, nên Đào Khiêm đề nghị Lưu Bị đem
quân đóng ở Tiểu Bái để bảo vệ Từ Châu và ông đã nhận lời.
Năm 194 thời Hán Hiến Đế, Từ Châu Mục
Đào Khiêm bị bệnh qua đời. Trần Đăng và nhiều người khác muốn Lưu Bị lên
thay nhưng Lưu Bị vẫn không dám nhận trọng trách đó. Cuối cùng, Khổng
Dung thuyết phục được Lưu Bị và ông đồng ý tiếp quản Từ châu với chức vụ
Từ Châu Mục; và đây là căn cứ đầu tiên của Lưu Bị.
MẤT TỪ CHÂU
Mùa xuân năm 195, Tào Tháo quyết định
thay đổi chiến thuật đánh Lã Bố: ông chia quân làm nhiều cánh, dương
đông kích tây khiến Lã Bố hoang mang. Một mặt Tào Tháo điều quân đánh
Định Đào, Lã Bố vội vàng mang quân đi cứu. Đến mùa hạ, ông lại tấn công
Cự Dã. Lữ Bố mang một vạn quân từ Định Đào cứu viện Cự Dã. Tào Tháo bố
trí quân mai phục đánh bại Lã Bố trên đường chuyển quân rồi thúc quân
chiếm lấy Định Đào. Lữ Bố và Trần Cung rút quân về Đông Mân, Tào Tháo hạ
thành Cự Dã. Trong khi Lã Bố hoang mang chưa nghĩ ra cách ứng phó thì
Tào Tháo điều quân đánh chiếm các thành trì nhỏ ở Duyện Châu. Cùng
đường, Lữ Bố dẫn quân chạy đến Từ Châu theo Lưu Bị. Ông đón tiếp Lã Bố
và cho Lã Bố đóng quân ở Tiểu Bái, một quận có tính cách chiến lược
thuộc Dự Châu. Đó là một sai lầm vô cùng lớn lao mà sau này Lưu Bị phải
trả giá đắt cho cuộc đời làm chính trị của ông.
Năm 196, trong triều đình nhà Hán ở
Trường An xảy ra loạn lạc. Hán Hiến Đế trốn khỏi sự kềm kẹp của Lý Thôi –
Quách Dĩ chạy về hướng đông. Không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, Tào Tháo đón
Hán Hiến Đế đưa về Hứa Xương, lấy danh nghĩa Thiên Tử để sai khiến chư
hầu. Sau đó ông nhân danh Hán Hiến Đế phong chức cho Lưu Bị và Lưu Bị
tiếp nhận tước vị do Tào Tháo ban phong.
Cùng lúc đó Viên Thuật ở Dương Châu mang
quân tấn công Từ Châu. Lưu Bị cử Trương Phi ở lại giữ Hạ Bì (thủ phủ
Từ Châu) còn ông điều quân giao chiến với Viên Thuật ở Thạch Đình thuộc
huyện Hoài Âm hơn một tháng chưa phân thắng bại. Nhân lúc hai tướng giữ
Hạ Bì là Trương Phi và Tào Báo bất hòa (16), Lã Bố thừa cơ mang quân tập
kích Hạ Bì và toàn thắng. Vợ con của Lưu Bị bị Lã Bố bắt. Lưu Bị mang
quân trở về định đánh chiếm lại Hạ Bì nhưng bị Lã Bố đánh bại phải lui
quân về Quảng Lăng; lại bị Viên Thuật truy kích nên Lưu Bị phải chạy ra
Hải Tây. Trong thế cùng, Lưu Bị đành trở về Từ Châu đầu hàng Lã Bố.
Theo Ngụy thư: các tướng dưới quyền Lã
Bố cho Lưu Bị là kẻ phản phúc khó dung nên khuyên Lã Bố sớm trừ đi nhưng
Lã Bố không nghe. Ông nói riêng với Lưu Bị về chuyện chẳng lành đó. Lưu
Bị vô cùng sợ hãi, ông phái người đến xin Lã Bố đóng quân ở Tiểu Bái và
Lã Bố chấp thuận. Lã Bố tự xưng là Châu Mục Từ Châu và cử Lưu Bị làm
Thứ sử Dự Châu (17). Không ngờ sau này chính ông lại chết vì một lời
gièm pha của Lưu Bị.
VIÊN MÔN XẠ KÍCH
Năm 196, bộ tướng của Lã Bố là Hách Manh
nghe theo lời xúi giục của Viên Thuật làm phản nhưng cuối cùng Lã Bố
dẹp được cuộc nổi loạn đó. Không giết được Lã Bố, Viên Thuật trở mặt làm
thân, xin kết thông gia với Lã Bố. Vì tình thế lúc đó không cho phép
đánh lại Viên Thuật nên ông nhận lời.Viên Thuật thấy kéo được Lã Bố về
phe mình nên ông sai Kỳ Linh mang 30 ngàn quân tấn công Tiểu Bái để diệt
trừ Lưu Bị. Trước tình thế nguy ngập, Lưu Bị cầu cứu Lã Bố. Ông chỉ
mang 1.000 quân và 200 quân kỵ tới Tiểu Bái để buộc hai bên hoà giải. Lữ
Bố sai cắm kích từ xa 150 bước và giao hẹn: nếu ông bắn trúng ngạnh
kích thì hai bên phải giảng hoà. Nếu một bên không chịu hòa, ông sẽ theo
bên kia đánh lại. Sau đó Lã Bố lùi lại giương cung bắn trúng ngạnh
kích. Lưu Bị vô cùng cám ơn ông, còn Kỳ Linh thấy Lã Bố kiêu dũng, không
dám làm trái ý phải mang quân về.
Năm 198, lực lượng của Lưu Bị ở Tiểu Bái
lên đến hàng vạn quân khiến Lã Bố lo sợ nên ông lại giảng hòa với Viên
Thuật và nhận lời đánh Lưu Bị. Ông điều hai tướng Cao Thuận và Trương
Liêu mang quân đánh Tiểu Bái. Lưu Bị không chống trả nổi nên bỏ thành và
gia quyến chạy về phía tây rồi sai người cầu cứu Tào Tháo. Tào Tháo cử
tướng Hạ Hầu Đôn mang quân cứu Lưu Bị. Quân hai bên đụng độ ở Từ Châu.
Lã Bố dẫn quân ra đối địch, đánh bại tướng Hạ Hầu Đôn.
HÃM THÀNH HẠ BÌ
Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân cùng
Lưu Bị mang quân tiến đánh Từ Châu. Tháng 10 năm đó quân Tào hạ được
Bành Thành. Trần Cung khuyên Lã Bố mang quân ra đón đánh địch trước khi
quân Tào tiến đến thành Hạ Bì (thủ phủ của Từ Châu) nhưng Lã Bố không
nghe, đợi quân Tào đến thành mới giao chiến. Sau đó, quân Tào tiến đến
Hạ Bì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến; nhưng sau vài trận giao
tranh, Lã Bố thua phải rút vào thành Hạ Bì cố thủ rồi sai sứ cầu viện
Viên Thuật và Trương Dương.
Tào Tháo gởi thơ dụ hàng nhưng Trần Cung
khuyên ông không nên hàng và hiến kế chia quân chống cự. Quân Tào vây
hãm thành Hạ Bì một tháng nhưng không sao hạ được thành. Tào Tháo có ý
muốn lui quân nhưng Tuân Du và Quách Gia khuyên ông nên đánh gấp. Tào
Tháo theo kế của hai ông, sai quân khơi dòng chảy của sông Nghi Thủy và
sông Tứ Thủy đổ nước vào thành Hạ Bì. Thành ngập nước, Lã Bố rút lên lầu
Bạch Môn cố thủ, chờ quân cứu viện… nhưng viện binh của Viên Thuật
không bao giờ đến (18). Tới bước đường cùng, Lã Bố đưa vợ mình đến nhờ
Quan Vũ nói giúp với Tào Tháo…Nhìn người đàn bà đẹp, Tào Tháo ưng ý và
giữ lại cho mình nhưng vẫn vây hãm thành Hạ Bì (19). Đúng lúc đó, Trương
Dương khởi binh cứu Lã Bố nhưng ông bị tùy tướng của mình là Dương Xú
giết chết để đầu hàng Tào Tháo.
Thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành trước kia
bị Lã Bố trách phạt nên oán hận liền bất ngờ bắt trói Trần Cung và Cao
Thuận rồi mở cửa thành Hạ Bì đầu hàng quân Tào. Tào Tháo cùng Lưu Bị
thúc ngựa vào thành. Lã Bố muốn đầu hàng Tào Tháo và ông nhờ Lưu Bị nói
giúp nhưng… Lưu Bị quay lưng, ông khuyên Tào Tháo nên giết Lã Bố vì theo
ông, Lã Bố là người phản phúc: giết chủ tướng và cha nuôi mình (Đình
Nguyên và Đổng Trác). Tào Tháo nghe theo lời Lưu Bị cho hành quyết Lã
Bố, người đã ít nhất một lần cứu mạng Lưu Bị (20). Các tướng
dưới quyền ông là Trần Cung và Cao Thuận cũng bị chém; chỉ có Trương
Liêu đầu hàng Tào Tháo nên không bị giết và sau này trở thành danh tướng
nhà Tào Ngụy.
CHIẾM LẠI TỪ CHÂU VÀ LY KHAI TÀO THÁO
Tào Tháo và Lưu Bị thu quân về Hứa
Xương. Ông không trả lại Từ Châu cho Lưu Bị mà cử Xa Trụ trấn giữ. Tào
Tháo phong Lưu Bị làm Tả tướng quân và giữ ông ở lại Hứa Xương để kềm
chế.
Việc Tào Tháo khuynh đảo triều đình nhà Hán khiến Quốc cửu
Đổng Thừa bất mãn. Năm 199, Đổng Thừa ngầm liên kết với Lưu Bị để chờ
cơ hội lật đổ Tào Tháo. Lúc bấy giờ lực lượng của Viên Thuật trong tình
trạng sức cùng lực kiệt nên ông bỏ Hoài Nam lên Hà Bắc để nhường ngôi
hoàng đế cho anh là Viên Thiệu. Lưu Bị xin Tào Tháo đi đánh Viên Thuật
và Tào Tháo chấp thuận. Ông phái Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi đem
hơn 1.000 quân chặn đánh Viên Thuật ở Từ Châu. Đây là sai lầm lớn nhất
trong cuộc đời làm chính trị của Tào Tháo khi ông sơ xuất phê chuẩn đề
nghị của Lưu Bị xin mang quân đi dẹp giặc. Lúc đầu Tào Tháo không để ý
đến hậu quả vô cùng tai hại của việc ông cử Lưu Bị cùng Quan Vũ và
Trương Phi đi đánh Viên Thuật; ngay khi Đổng Chiêu can vì không muốn cho
Lưu Bị rời khỏi Hứa Xương, Tào Tháo cũng chỉ nói ngắn gọn:” Ta đã bằng lòng cho Lưu Bị đi rồi, bây giờ không tiện thay đổi.” Cho tới khi cả Trình Dục cùng Quách Gia đi tìm Tào Tháo và nêu lên được ý then chốt: “Lưu Bị mượn quân, e có ý khác” thì Tào Tháo mới tỉnh ngộ, ông nói với vẻ hối hận:“Muộn rồi! Giờ có đuổi theo cũng không kịp.”
Viên Thuật bị Lưu Bị đánh bại phải quay
về và khi đến Giang Đình, cách Thọ Xuân 80 dặm, ông bị bệnh qua đời. Từ
Lục, thủ hạ của Viên Thuật đem ngọc tỉ truyền quốc (ấn
triện được làm bằng ngọc, tượng trưng cho quyền lực tối cao của các
hoàng đế và được lưu truyền qua nhiều triều đại trong lịch sử Trung
Quốc) dâng cho Tào Tháo.
Âm mưu lật đổ Tào Tháo của Đổng Thừa ở
Hứa Xương bị bại lộ, Đổng Thừa bị Tào Tháo giết cả họ. Nhân cơ hội đánh
thắng Viên Thuật và vụ trọng án Đổng Thừa cùng với nhận định của Tào
Tháo về con người tiềm ẩn của Lưu Bị (“Nay anh hùng trong thiên hạ chỉ có sứ quân và Tháo này”), ông quyết tâm ra đi và chính thức ly khai Tào Tháo rồi bất ngờ mang quân đánh chiếm Từ Châu, giết Xa Trụ. Năm 200, Lưu Bị bổ nhiệm Quan Vũ làm Thái thú Hạ Bì; Tào Tháo tức giận mang quân đánh gấp Từ Châu. Lưu Bị không chống trả nổi nên bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu (Theo chú giải của Bùi Tùng Chi trong Ngụy thư, Lưu Bị về với Viên Thiệu được cha con Viên Thiệu hết lòng cung kính, trọng vọng). Trương
Phi trốn về Nhữ Nam còn Quan Vũ không có đường chạy nên đầu hàng Tào
Tháo. Gia quyến của Lưu Bị đều bị Tào Tháo bắt. Từ Châu rơi vào tay Tào
Tháo và ông làm chủ địa bàn rộng lớn ở Trung Nguyên; chính thức ở thế
đối mặt với lực lượng hùng mạnh của Viên Thiệu.
LIÊN KẾT VỚI TƯỚNG KHĂN VÀNG CUNG ĐÔ Ở NHỮ NAM
Sau trận Diên Tân, Tào Tháo và Viên
Thiệu tạm hưu chiến. Lưu Bị nhận thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để
chống trả Tào Tháo nên ông xin Viên Thiệu được sang Nhữ Nam để tổ chức
du kích đánh sau lưng quân Tào. Viên Thiệu chấp thuận. Quan Vũ ở bên Tào
sau khi lập công trả ơn cho Tào Tháo, Quan Vũ cũng trốn đi tìm Lưu Bị
và cả hai anh em tái ngộ với Trương Phi tại Nhữ Nam.
Lưu Bị liên kết với tướng Khăn Vàng là
Cung Đô ở Nhữ Nam. Tào Tháo tự mang đại quân tiến đánh Nhữ Nam và giết
chết tướng Cung Đô. Lưu Bị không chống trả nổi nên bỏ chạy về Kinh Châu theo Lưu Biểu và được Lưu Biểu cho trấn giữ ở Tân Dã, một huyện tiền đồn chống quân Tào ở phương Bắc.
“LONG TRUNG ĐỐI” CỦA MƯU THẦN GIA CÁT LƯỢNG
Tình thế lúc bấy giờ diễn biến khá phức
tạp: Tào Tháo đã thống nhất trung nguyên, thanh thế vang dội từ miền bắc
đến miền nam. Tôn Quyền ngự trị vùng đất giàu có Giang Đông với địa thế
hiểm trở và đã truyền được ba đời vua. Riêng Lưu Bị sau một thời gian
dài hơn nửa đời người phấn đấu vẫn chưa có một căn cứ địa nào để từ đó
khả dĩ thiết lập được một chính quyền mới, ngoại trừ huyện Tân Dã, nơi
Lưu Biểu cho ở nhờ để chống đỡ quân Tào chứ không phải là căn cứ địa của
riêng ông.
Tại Tân Dã, Lưu Bị tích cực chiêu nạp
hiền tài hầu giúp ông hoàn thành nghiệp bá vương của mình. Qua lời giới
thiệu của Tư Mã Huy và Từ Thứ (21), Lưu Bị ba lần tìm đến Long
Trung(nay là Tương Dương, Hồ Bắc) thỉnh giáo Gia Cát Lượng (22), một
thiên tài kiệt xuất của thời đại Tam Quốc giúp ông làm cách nào khôi
phục lại cơ nghiệp nhà Hán. Hình như Thượng đế tạo ra Khổng Minh Gia Cát
Lượng để giúp riêng cho Lưu Bị xây dựng một vương triều mới và…lịch sử
bắt đầu chuyển hướng. Lưu Bị tôn Gia Cát Lượng làm Quân sư. Lúc bấy giờ
Lưu Bị đã 46 tuổi, còn Gia Cát Lượng mới 26 tuổi . Gia Cát Lượng cùng
ông bí mật luận bàn vềchính sách dựng nước và giữ nước. Gia Cát lượng
qui hoạch chiến lược cho Lưu Bị:” liên kết với Tôn Quyền, tiếp quản Kinh
Châu, chiếm lấy Ích Châu và chống lại Tào Tháo”. Từ đó Lưu Bị coi cuộc
luận bàn bí mật đó là tư tưởng chiến lược để thống nhất thiên hạ.
TÀO THÁO VÀO KINH CHÂU
Mùa xuân năm Kiến An thứ XIII (năm 208),
Tôn Quyền thực hiện quy hoạch chiến lược của Lỗ Túc và Cam Ninh đưa
quân vào Giang Hạ, phá hủy thành trì, giết tướng Hoàng Tổ (Thái thú
Giang Hạ) và giết dân chúng hết sức dã man (Chiến dịch đồ thành). Sau
lần đánh phá này, Tôn Quyền có ý muốn chia quân chiếm đóng Giang Hạ,
nhưng theo lời khuyên của Trương Chiêu (mưu sĩ của Tôn Quyền), ông bỏ
Giang Hạ rút quân về Giang Đông.
Để tiến đánh Giang Hạ, Tôn Quyền lấy cớ
báo thù cho cha (Tôn Kiên bị tên lạc chết trong trận chiến với Hoàng Tổ)
nhưng nguyên nhân chính vẫn là Tôn Quyền muốn đánh chiếm Kinh Châu.
Vào tháng bảy năm Kiến An thứ XIII, Tào
Tháo đem đại quân đánh Lưu Biểu. Cũng vào thời gian này, Lưu Biểu bi
bệnh nặng và qua đời vào tháng tám. Trước lúc lâm chung, Lưu Biểu đã
khẩn cầu Lưu Bị tiếp quản Kinh Châu nhưng Lưu Bị khéo léo từ chối. Theo
lời chú dẫn Ngụy thư của Bùi Tùng Chi trong Tam Quốc Chí, phần Tiên chủ
truyện, Bùi Tùng Chi không thừa nhận việc này vì trong thời gian Lưu Bị
đóng quân ở Phàn Thành, hào kiệt Kinh Châu theo về với Lưu Bị ngày càng
nhiều nên Lưu Biểu nghi ngờ muốn diệt Lưu Bị để trừ hậu họa. Hơn nữa, từ
lâu vợ chồng Lưu Biểu cùng anh em Sái Mạo (anh vợ Lưu Biểu) đã có ý bỏ
trưởng lập thứ và chọn Lưu Tông làm người thừa kế; như vậy làm gì có
chuyện lúc lâm chung Lưu Biểu khẩn khoản nhường lại Kinh Châu cho Lưu
Bị? Vả lại theo Hậu Hán thư, kể từ khi Lưu Biểu bị bệnh nặng, Sái Mạo và
đồng bọn đã khống chế Lưu Biểu, không cho Lưu Kỳ gặp mặt cha trước khi
chết, làm sao Lưu Bị có khả năng gặp được Lưu Biểu? Tóm lại những chi
tiết ca tụng Lưu Bị là người nhân đức trong Tam Quốc Diễn Nghĩa của La
Quán Trung khi tiếp quản Kinh Châu đều không đúng với lịch sử.
Lưu Kỳ ra đi chưa được lâu, Lưu Biểu bị
bệnh và qua đời; người thay thế tất nhiên là Lưu Tông. Vào thời gian
này, đại quân Tào Tháo trên đường tiến vào Kinh Châu. Lúc đó Khoái Việt,
Hàn Tung, Phó Huấn đều khuyên Lưu Tông ra hàng Tào Tháo. Lưu Tông cử
Tống Trung đến chỗ Lưu Bị để “tuyên chỉ”, lúc đó Lưu Bị đang trấn giữ
Phàn Thành. Ông vô cùng kinh hãi cùng Gia Cát Lượng, Từ Thứ chạy về
hướng nam. Trên đường tháo chạy còn có vô số nhân sĩ, dân chạy loạn,
quân sĩ của Lưu Tông…; tất cả gồm mười mấy vạn người. Bấy giờ có người
khuyên Lưu Bị bỏ mặc mọi người, phải nhanh chóng cùng khinh quân đến
Giang Lăng. Lưu Bị giải thích:”Muốn làm việc lớn phải lấy dân làm gốc.
Nay mọi người theo ta, nỡ lòng nào ta vứt bỏ họ.”Tháng chín Lưu Tông đầu
hàng. Tào Tháo cho rằng: “Giang Lăng có tiềm năng về quân sự rất lớn, e
Lưu Bị chiếm mất”, nên ông đã thống lãnh năm ngàn kỵ binh tinh nhuệ
vượt ba trăm dặm một ngày đêm truy đuổi Lưu Bị.
Quân Tào đuổi kịp quân Lưu Bị tại cầu
Trường Bản, Đương Dương: Lưu Bị đành bỏ vợ con chạy xuống phía nam.
Triệu Vân ôm đứa trẻ yếu đuối (sau này là Hậu chủ) và bảo vệ Cam phu
nhân (mẹ của Hậu chủ) mới thoát nạn. Nhờ có Trương Phi, Lưu Bị mới bảo
toàn tính mạng nhưng không có đường thoát vì Tào Tháo đã chặn đường dẫn
đến Giang Lăng. Cùng đường, Lưu Bị rẽ sang bến Hán Tân, vừa lúc gặp
chiến thuyền của Quan Vũ ở đó, ông qua được sông Miện rồi hội quân với
Lưu Kỳ (con trưởng của Lưu Biểu, nguyên là Thái thú Giang Hạ chỉ huy hơn
mười ngàn quân) rồi cùng nhau tiến đến Hạ Khẩu (nay là TP. Vũ Hán, Hà
Bắc). Tào Tháo tiến vào Giang Lăng.
TRẬN CHIẾN XÍCH BÍCH
Chính sử ghi chép về trận chiến này
không nhiều và còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Do vậy
trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ tóm lược vài ý chính về trận
chiến Xích Bích.
Mùa đông năm Kiến An thứ XIII (năm 208),
sau khi Tào Tháo tiến vào Giang Lăng, ông lập tức xuôi dòng Trường
Giang hành quân về hướng đông, bất ngờ đụng độ với quân liên minh Tôn
Quyền – Lưu Bị từ Phàn Khẩu ngược dòng lên và trận chiến đẩm máu xảy ra
tại Xích Bích. Theo Tam Quốc Chí của Trần Thọ, phần Tiên chủ truyện và
Chu Du truyện kể: thủy quân Tôn Quyền hợp lực với thủy quân Lưu Bị đốt
phá hạm thuyền của Tào Tháo tại mặt trận Xích Bích (23). Lúc bấy giờ
dịch bệnh bùng phát trong quân Tào, quân sĩ chết rất nhiều cùng nhiều
nguyên nhân khác nữa (quân Tào chiến đấu xa xôi, lâu ngày mệt mỏi lại
không quen “chiến trường sông nước” và bất ngờ bị liên quân đánh phủ đầu
tại khúc sông hẹp) dẫn đến đại quân Tào thất bại và Tào Tháo hạ lệnh
lui quân. Ông cùng thủ hạ tháo chạy về hướng ải Hoa Dung xuyên qua vùng
đầm lầy lớn phía Bắc hồ Động Đình. Liên quân Tôn Quyền – Lưu Bị truy
kích quân Tào đến tận Nam Quận. Kết qủa Tào Tháo phải bỏ Miền Nam rút về
Nghiệp Quận để dưỡng quân và bổ sung quân số.
Theo quan điểm của một số học giả và
cũng là nhận thức chung của các sử gia Trung Quốc, sở dĩ Tào Tháo bại
trận vì ông sai lầm về chiến lược. Nghĩa là ông không xác định rõ mục
tiêu chiến lược của mình: Chiếm Kinh Châu hay chiếm Giang Đông? Tiêu
diệt Lưu Bị hay tiêu diệt Tôn Quyền? Hoặc cả hai ý trên, tóm lại chiến
lược không rõ ràng. Tại sao một người lắm mưu nhiều kế như Tào Tháo lại
phạm vào những sai lầm cơ bản như vậy? Nguyên nhân vẫn là tính kiêu ngạo
và coi thường đối phương.
Cần nói thêm về chiến thuật (khóa các
hạm thuyền vào với nhau, thủy quân lập doanh trại trên bờ) do Tào Tháo
tự quyết hay là ý kiến của mưu sĩ nào? Lịch sử không đề cập đến nhưng
theo Tam Quốc Chí của Trần Thọ, phần Bàng Thống truyện ghi chép rất rõ
ràng:”Bàng Thống không tham dự trận chiến Xích Bích”.
Chiến thắng này đã góp phần củng cố vị
thế cho hai chư hầu Ngô, Thục ở hai bên bờ Trường Giang; đồng thời ngăn
cản Tào Tháo mở rộng phạm vi quyền lực xuống phía Nam Trung Hoa và tạo
cơ sở cho sự hình thành hai nước Thục Hán và Đông Ngô.
TIẾP QUẢN KINH CHÂU và CHIẾM LẤY ÍCH CHÂU
Sau trận chiến Xích Bích, Kinh Châu
được chia ba cho hai khối liên minh quân sự Tôn Quyền – Lưu Bị và Tào
Tháo. Mục tiêu của cả ba nhà lãnh đạo lúc bấy giờ là chiếm lấy Ích châunhưng cuối cùng Lưu Bị đã giành thắng lợi trong vụ tranh chấp này.
Theo thỏa thuận của các phe tham chiến, Lưu Bị chiếm được một nửa Nam quận và ngay trong năm đó ông lấy xong bốn quận: Vũ
Lăng, Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng. Lưu Bị cử Gia Cát Lượng làm
Quân sư Trung lang tướng kiêm Tổng đốc ba quận: Trường Sa, Quế Dương và
Linh Lăng. Năm sau, Lưu Kỳ nguyên là Thứ sử Kinh Châu (do Lưu Bị dâng
biểu tiến cử -tất nhiên trên danh nghĩa- sau khi Tào Tháo thua trận Xích
Bích) bị bệnh chết nên mọi người dưới quyền tôn Lưu Bị lên làm Kinh
Châu mục, trị sở đặt tại Công An (tên cũ: Du Giang Khẩu).
Tôn Quyền gả em gái duy nhất của mình cho Lưu Bị để tình giao hảo hai họ Tôn – Lưu luôn bền vững (24).Năm Kiến An thứ XVI (năm 211), Tào Tháo ra lệnh Tư Lệ Hiệu úy Chung Do và Chinh Tây hộ quân Hạ Hầu Uyên đem quân đánh Trương Lỗ ở Hán Trung (25). Lưu Chương (26), Thứ sử Ích Châu nghe tin rất lo lắng. Quan Biệt giá Tùng sự Thục quận Trương Tùng đưa ý kiến: “Tào
Tháo dụng binh rất giỏi, nếu Tào công có thêm quân và lương của Trương
Lỗ, tới đánh Ích Châu thử hỏi ai có thể chống cự nổi?”. “Giờ đây ta chỉ
còn dựa vào Lưu Dự Châu (Lưu Bị) là người đồng tộc với tướng quân (Lưu
Chương), lại là đối thủ của Tào Tháo và giỏi dụng binh. Chi bằng ta mời
ông ta đem quân đánh chiếm Hán Trung. Trương Lỗ thua tất nhiên Ích Châu
sẽ hùng mạnh. Tào Tháo có vào Ích Châu cũng chẳng làm gì được.” Kế
sách của Trương Tùng bị Hoàng Quyền, Lưu Ba và nhiều người chỉ trích, cụ
thể Vương Lụy đã tự tử trước cửa châu để phản đối; nhưng Lưu Chương vẫn
cho thực hiện kế sách của Trương Tùng vì ông lo có nội loạn (27). Lưu
Chương cử Pháp Chính đi Kinh Châu để liên lạc với Lưu Bị. Đến Kinh Châu,
Pháp Chính được Lưu Bị tiếp đãi rất ân cần. Trở về Thành Đô, Pháp Chính
và Trương Tùng bí mật bàn cách đón Lưu Bị vào làm chủ Ích Châu. Một
trong hai người còn dâng cả bản đồ Ích Châu cho Lưu Bị (Lịch sử ghi
không đồng nhất về chi tiết Trương Tùng hay Pháp Chính dâng bản đồ Ích
Châu cho Lưu Bị). (28)
Ít lâu sau, Tào Tháo dự định tiến quân
đánh Hán Trung. Ích Châu bị uy hiếp. Trương Tùng nhân cơ hội này khuyên
Lưu Chương mời Lưu Bị đem quân vào giữ Hán Trung. Lưu Chương cử Pháp
Chính dẫn bốn ngàn quân nghênh đón Lưu Bị vào đất Ba Thục. Ông còn lệnh
cho Pháp Chính mang theo rất nhiều của cải để làm quà tặng. Pháp Chính
gặp Lưu Bị, mật bàn với ông về kế hoạch đánh úp Ích Châu trong đó chính
ông và Trương Tùng làm nội ứng. Lưu Bị vẫn còn do dự chưa quyết.
Vào tháng 12 năm Kiến An thứ XVI (năm
211), Lưu Chương bị Trương Lỗ từ Hán Trung uy hiếp nên ông mời Lưu Bị
đem quân từ Kinh Châu đến cứu. Lưu Bị để Gia Cát Lượng, Quan Vũ và
Trương Phi giữ Kinh Châu, Triệu Vân lo hậu cần; rồi cùng Quân sư Bàng
Thống dẫn năm mươi ngàn quân vào Tây Xuyên. Khi Lưu Bị vừa đến Phù Thành
(nay là thị trấn Cẩm Dương, Tứ Xuyên), Lưu Chương từ Thành Đô
đích thân tới nghênh đón và mở tiệc khoản đãi. Bàng Thống và Pháp Chính
kiến nghị Lưu Bị nhân cơ hội ngàn năm có một lần nên giết Lưu Chương (Pháp Chính nói lại ý Trương Tùng),
rồi chiếm lấy Tây Xuyên nhưng Lưu Bị cho đó là hành động bất nhân nên
ông không chấp nhận. Sau đó Lưu Chương cử Lưu Bị làmHành Đại Tư mã, cấp
thêm binh cho Lưu Bị rồi sai ông đem quân đi đánh Trương Lỗ. Lưu Bị hợp
binh có hơn ba vạn quân. Ông điều quân đến vùng Gia Manh (nay là vùng
biên Quảng Nguyên, Tứ Xuyên) rồi đóng quân ở đó lo thu phục nhân tâm,
chờ thời cơ, không tiến đánh Trương Lỗ.
Tháng mười năm Kiến An thứ XVII (năm
212), Tào Tháo đem quân đánh Tôn Quyền nên ông yêu cầu Lưu Bị đến cứu.
Lưu Bị liền viết thơ yêu cầu Lưu Chương cấp mười ngàn binh mã với quân
trang quân dụng đầy đủ để trở về cứu viện Kinh Châu (lúc đó Quan Vũ đang
giữ chức Tổng đốc Kinh Châu) nhưng Lưu Chương chỉ cấp bốn ngàn quân,
còn mọi thứ bớt đi phân nửa vì ông đã nghi ngờ hành động của Lưu Bị ở
Gia Manh; giờ đây được tin Lưu Bị muốn tiến quân về phía đông nên Lưu
Chương lại càng nghi hơn. Trương Tùng ở Thành Đô tưởng thật nên ông vội
vàng viết thư khuyên Lưu Bị ở lại. Người anh của Trương Tùng là Trương
Túc lúc đó giữ chức Thái thú Quảng Hán sợ liên lụy đến mình nên tố cáo
với Lưu Chương và hậu quả là Trương Tùng bị Lưu Chương bắt chém. Kể từ
đó mối hiềm khích giữa Lưu Chương và Lưu Bị chính thức vỡ tung. Lưu
Chương ra lệnh đóng cửa biên ải, cấm Lưu Bị đi qua cửa quan. Lưu Bị giết
tướng Dương Hoài giữ cửa quan Bạch Thủy rồi điều Hoàng Trung và Trác
Ưng bí mật dẫn quân quay trở lại đánh Lưu Chương. Lưu Bị đến thẳng Quan
Trung giữ vợ con các tướng và binh sĩ làm con tin rồi hợp quân
với Hoàng Trung và Trác Ưng tiến đánh Phù Thành. Quân Lưu Chương bại
trận nên lui về Miên Trúc. Lưu Chương cử Lý Nghiêm làm Đô đốc tại Miên
Trúc nhưng Lý Nghiêm lại dẫn thủ hạ đầu hàng Lưu Bị cho nên quân lực của
Lưu Bị càng mạnh hơn. Lưu Bị cử Gia Cát Lượng, Trương Phi, Triệu Vân
dẫn binh ngược dòng sông bình định các huyện quanh Miên Trúc. Mùa hạ năm
213, Lưu Bị tiến quân vây hãm Lạc Thành (nay thuộc phía bắc Quảng Hán,
Tứ Xuyên) do Lưu Tuần, con của Lưu Chương trấn giữ và gần một năm sau
quân Lưu Bị mới hạ được. Năm 214, Lưu Bị tiến quân vào Thành Đô, Lưu
Chương đầu hàng vô điều kiện. Lưu Bị làm chủ toàn bộ Ích Châu, tự xưng
là Ích Châu Mục và phong Pháp Chính làm Thái thú quận Thục, trực tiếp
quản lý Thành Đô.
Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa (Hồi 63),
để đánh chiếm Lạc Thành, quân Kinh Châu chia làm hai đường: Bàng Thống
cùng Ngụy Diên đi tiên phong tiến theo con đường nhỏ phía nam dẫn tới
cửa tây Lạc Thành; còn Lưu Bị và Hoàng Trung tiến quân theo con đường
lớn dẫn tới cửa đông Lạc Thành. Riêng Bàng Thống vì chủ quan khinh địch,
ông lọt vào ổ phục kích của Trương Nhiệm nên cả người lẫn ngựa đều chết
dưới chân đồi Lạc Phượng (29).
Sau trận chiến Xích Bích, Chu Du mất gần
một năm nữa mới đánh đuổi được quân Tào ra khỏi Giang Lăng. Sau đó giữa
Lưu Bị và Tôn Quyền xảy ra vụ tranh chấp Kinh Châu. Lưu Bị cho rằng
Kinh Châu vốn của Lưu Biểu, người anh em đồng tộc với mình. Lưu Biểu
chết, người thừa kế phải là Lưu Bị. Nhưng Tôn Quyền quan niệm: Kinh Châu
do chính ông đánh chiếm được từ tay Tào Tháo nên Kinh Châu phải thuộc
về Đông Ngô. Trước kia Chu Du đã giao cho Lưu Bị cai quản vùng đất phía
hữu ngạn Trường Giang nhưng Lưu Bị cảm thấy vùng đất này còn nhỏ hẹp nên
rất không vừa ý. Theo chú dẫn Giang Biểu Truyện của Bùi Tùng Chi trong
Tam Quốc Chí – Tiên chủ truyện:” Lưu Bị thấy Chu Du nhường ít đất, không đủ để an dân, nên mới đề nghị Tôn Quyền cho mượn mấy quận ở Kinh Châu”.
Sau khi Chu Du chết, Lỗ Túc thuyết phục Tôn Quyền giao Giang Lăng cho
Lưu Bị (Lịch sử gọi là cho mượn Kinh Châu). Đất mượn của người khác
không phải là biện pháp lâu dài vì vậy Lưu Bị tìm cách mở rộng địa bàn
và cuối cùng Lưu Bị đã chiếm được Ích Châu.
Lưu Bị lấy xong Ích Châu, Tôn Quyền biết
ngay việc lớn của mình đã hỏng. Tôn Quyền cho Lưu Bị là người bội tín,
bội nghĩa và cử người đến đòi lại Kinh Châu (Thực tế chỉ là Nam quận và một phần Nam quận là Giang Lăng). Năm Kiến An thứ XX (năm 215), Tôn Quyền cử Gia Cát Cẩn (anh Gia Cát Lượng) đến gặp Lưu Bị đòi lại Kinh Châu. Lưu Bị không trả, nói:”
Hiện ta đang chuẩn bị đánh phá Lương Châu. Chờ khi lấy được Lương Châu,
ta sẽ trả lại tất cả các vùng đất Kinh Châu cho các vị”. Tôn Quyền
biết Lưu Bị không muốn trả hay không bao giờ trả nữa, nên cử các quan
viên đến 3 quận Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng để làm việc nhưng bị
Quan Vũ lúc đó là Tổng Đốc Kinh Châu đuổi các quan viên đó ra khỏi biên
cảnh. Tôn Quyền tức giận cử Lã Mông tức khắc đem 20 ngàn quân đi lấy 3
quận Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng; đồng thời ra lệnh Lỗ Túc đưa
mười ngàn quân vào giữ Ba Khâu(thị trấn Nhạc Dương, Hồ Nam ngày nay) còn
mình đóng quân tại Lục Khẩu để chỉ huy. Được tin, Lưu Bị cử Gia Cát
Lượng ở lại giữ Thành Đô, còn mình đem 50 ngàn quân về đóng tại Công An;
Quan Vũ thống lĩnh 30 ngàn quân đến đóng tại Ích Dương, quyết tử chiến
với Tôn Quyền. Trước khi vào trận hai bên có cuộc hội đàm giữa Lỗ Túc và
Quan Vũ nhưng không có kết quả. Tháng ba cùng năm, Tào Tháo mang quân
tây chinh Trương Lỗ, tháng bảy quân Tào tiến vào Hán Trung, trực tiếp uy
hiếp Ích Châu. Lưu Bị hiểu rằng lúc này không phải là lúc trở mặt với
Tôn Quyền nên ông cử người đến cầu hòa với Tôn Quyền. Kết quả hai bên đi
đến thỏa thuận chia Kinh Châu làm hai phần, lấy sông Tương làm ranh
giới: phía đông thuộc về Đông Ngô, phía tây thuộc về Thục Hán. Nam Dương
và Tương Dương, Nam Quận vẫn thuộc về Tào Tháo. Như vậy Lưu Bị mất khu
vực phía đông sông Tương.
Tóm lại lần tranh chấp này, Tôn Quyền
không đòi được Kinh Châu chỉ đón được em gái về nước và tất nhiên Tôn
Quyền cùng các tướng dưới quyền ông không hài lòng.
Tôn Quyền sau đó tiếp tục muốn củng cố
tình thân hữu với Lưu Bị nên sai sứ giả đến xin cầu hôn con gái Quan Vũ
cho con trai mình. Quan Vũ không nhận thức được tầm quan trọng của liên
minh Tôn – Lưu trong chiến lược dựng và giữ nước của Gia Cát Lượng ở
Long Trung; chẳng những ông từ chối mà còn nhục mạ Tôn Quyền. Quan Vũ
nói với sứ giả:” Ông về nói với Tôn Quyền, con gái một hổ tướng sao lại gả cho loài chó hèn hạ được!” (Lịch
sử Trung Quốc 5000 năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dư Chương, sách dẫn, Tập 2
tr. 33). Từ đó quan hệ giữa Đông Ngô và Lưu Bị trở nên căng thẳng hơn
trước. Người duy nhất chủ trương liên minh với Lưu Bị là Lỗ Túc đã qua
đời (năm 217). Lã Mông, người chủ trương tiêu diệt Quan Vũ lên thay Lỗ
Túc; kể từ đó, Tôn Quyền chủ trương liên hợp với Tào Tháo để diệt nhà
Thục Hán.
LÊN NGÔI HÁN TRUNG VƯƠNG
Lưu Bị giải quyết xong vụ tranh chấp
Kinh Châu, ông cử Gia Cát Lượng ở lại giữ Thành Đô còn mình và mưu sĩ
Pháp Chính đem quân tiến đánh Hán Trung. Tào Tháo nghe tin lập tức ra
quân chống trả Lưu Bị. Tào Tháo đích thân đóng quân tại Trường An để chỉ
huy mặt trận Hán Trung. Hai bên đánh nhau suốt một năm nhưng không phân
thắng bại. Qua năm thứ hai, trong trận đánh lớn ở Dương Bình Quang,
chủ tướng Ngụy, Hạ Hầu Uyên bị quân Thục giết. Tào Tháo buộc phải rút
khỏi Hán Trung, lui quân về Trường An. Năm 219, các tướng tá văn võ Ích
Châu tôn Lưu Bị lên làm Hán Trung Vương. Ông phong bốn viên thượng tướng
với quân hàm: Tiền tướng quân Quan Vũ, Hữu tướng quân Trương Phi, Tả
tướng quân Mã Siêu và Hậu tướng quân Hoàng Trung; Triệu Vân không được
phong và ông vẫn giữ quân hàm Dực quân tướng quân (Khi viết Tam Quốc
Chí, Trần Thọ đã đưa cả Triệu Vân và Quan Trương Mã Hoàng vào trong một
truyện nên có sự ngộ nhận là “Ngũ hổ thượng tướng.”(PHẨM TAM QUỐC của Dịch Trung Thiên, Tập 2, sách dẫn tr. 195).
VÂY HÃM TƯƠNG DƯƠNG và PHÀN THÀNH
Trên đà chiến thắng, Quan Vũ lúc đó đang
trấn thủ Kinh Châu tự ý mang quân Bắc phạt vớingầm ý đồng tình của Lưu
Bị. Tháng 7 năm 219, Quan Vũ giao cho My Phương trấn giữ Giang Lăng;
Phó Sĩ Nhân giữ thành Công An còn ông dẫn đại quân tấn công Tương Dương
và Phàn Thành (mặt trận Tương Phàn). Ông cho quân vây hãm thành Tương
Dương, sau đó vây đánh Phàn Thành. Tào Nhân, tướng giữ Phàn Thành vội
cầu cứu Tào Tháo. Ông liền cử hai danh tướng Vu Cấm và Bàng Đức dẫn bảy
đạo quân đi cứu viện. Tào Nhân bố trí hai tướng Vu Cấm và Bàng Đức đóng
quân ở vùng đất bằng phía bắc Phàn Thành để hỗ trợ chặt chẽ cho cánh
quân trong thành, khiến Quan Vũ không cách nào đánh vào thành được.
Tháng tám năm đó, trời mưa bất thường
nhiều ngày không dứt, nước sông Hán Thủy dâng cao, tràn ra ngoài đê;
Phàn Thành bị nước lũ vây kín, các trại quân Vu Cấm bị dìm trong nước.
Quan Vũ thừa cơ dẫn thủy quân tấn công, kết quả Vu Cấm bị bắt và đầu
hàng; Bàng Đức bị bắt nhưng không chịu hàng mặc dù Quan Vũ hết lời
khuyên. Cuối cùng, Quan Vũ đành phải ra lệnh giết Bàng Đức.
Theo Tam Quốc Chí – Tưởng Tế truyện, lúc
Tào Tháo bàn chuyện dời đô cùng các quan thuộc quyền để tránh mũi tấn
công của Quan Vũ. Mưu sĩ Tư Mã Ý và Tưởng Tế góp ý với Tào Tháo:”
Lưu Bị và Tôn Quyền tuy bề ngoài thân mật nhưng bên trong vẫn ngờ vực
lẫn nhau. Lần này Quan Vũ thắng trận, Tôn Quyền chắc chắn không vui.
Chúng ta nên cử người đến du thuyết với Tôn Quyền, phong cho ông ta
chính thức cai trị miền Giang Đông và hẹn với ông ta cùng đánh Quan Vũ.
Như vậy Phàn Thành sẽ được giải vây, khỏi phải bàn tới việc dời đô”.
Tào Tháo thực hiện ý đó, liền phái sứ
giả xuống Giang Đông thương lượng với Tôn Quyền. Tôn Quyền bằng lòng
ngay và ông viết thư bảo đảm với Tào Tháo sẽ đưa quân đến miền tây tập
kích Quan Vũ. Ông còn yêu cầu phía Tào Tháo giữ kín chuyện đó vì sợ Quan
Vũ kịp thời chống đỡ. Đổng Chiêu chủ trương phải để lộ “mật tin tập
kích Kinh Châu” vì bảo mật có lợi cho phía Tôn Quyền nhưng để lộ mật tin
có lợi cho phía Tào Tháo (Tam Quốc Chí – Đổng Chiêu truyện).
Lúc đó Tào Tháo đã phái Từ Hoảng điều
viện binh đến Phàn Thành. Ông lệnh cho Từ Hoảng sao thư của Tôn Quyền
thành nhiều bản với nội dung: “Quân Tào và quân Tôn Quyền đánh kẹp từ hai phía: quân Quan Vũ trước sau đều có địch” rồi cho quân buộc thư vào tên, bắn vô doanh trại quân Quan Vũ đồng thời bắn tin vào Phàn Thành để quân thủ thành biết tin tức.
Việc làm này khiến Quan Vũ do dự mặc dầu
ông không hoàn toàn tin vào tính xác thực của bức thư. Về phía quân thủ
thành, khi nghe tin, tinh thần quyết tâm giữ thành của quân sĩ tăng
cao, đúng như Đổng Chiêu dự đoán.
QUÂN TÔN QUYỀN TẬP KÍCH NAM QUẬN
Tào Tháo dự liệu tình hình hoàn toàn
chính xác. Quan Vũ do dự. Tôn Quyền không những không do dự mà hành động
mau lẹ, dứt khoát và có kế hoạch tỉ mỉ. Theo Tam Quốc Chí – Lã Mông
truyện: Sau khi Lã Mông phụng mệnh đến Tầm Dương (nay ở tây nam Hoàng
Mai, Hồ Bắc) nhằm đánh lừa Quan Vũ. Ông cho ngụy trang toàn bộ thuyền
chiến thành thuyền buôn, chọn binh sĩ tinh nhuệ giấu trong khoan thuyền
và binh lính chèo thuyền đều mặc quần áo trắng giả thương nhân rồi cho
thuyền tiến sang bờ bắc. Đến nơi, quân canh của Thục tưởng là thuyền
buôn nên cho phép họ ghé vào bờ. Khi màn đêm buông xuống, quân ẩn bên
trong khoang thuyền bí mật tiến chiếm các lầu canh, bắt giữ gần như toàn
bộ quân của Quan Vũ ở bờ bắc.
Quan Vũ vốn yêu quí binh sĩ nhưng lại
coi thường các sĩ phu. Do vậy hai tướng My Phương và Phó Sĩ Nhân bất mãn
Quan Vũ. Ông ra trận, yêu cầu hai tướng phải cung cấp quân lương kịp
thời và đầy đủ, nhưng vì nhiều lý do khách quan, họ không thể hoàn thành
nhiệm vụ nên bị Quan Vũ nhục mạ và hăm dọa sẽ trừng trị. Nhân cơ hội Lã
Mông bất ngờ kéo quân đánh chiếm Nam Quận, cả hai tướng vừa bất mãn vừa
khiếp sợ sẽ bị Quan Vũ trách phạt nên hai ông đầu hàng, dâng Giang Lăng
và thành Công An cho Tôn Quyền.
THUA TRẬN MẠCH THÀNH.
Quan Vũ nhận được tin Nam Quận thất thủ,
ông bàng hoàng…định quay về nhưng tất cả đều đã muộn; Lã Mông đã giành
được lòng người Nam Quận. Lúc đó, Từ Hoảng thay đổi chiến thuật, dương
đông kích tây; Quan Vũ mắc mưu nên bị thua trận. Ông hạ lệnh giải vây
Phàn Thành, quân sĩ rút lui trong tình trạng hoảng loạn, rơi xuống sông
Hán Thủy chết rất nhiều. Quan Vũ chạy về hướng Mạch Thành. Đến nơi ông
mới biết tin tướng Đông Ngô là Lục Tốn đã đánh chiếm Nghi Đô (Thái thú
Phàn Hữu bỏ chạy). Trong lúc ở Mạch Thành, Quan Vũ chờ viện binh thì
Mạnh Đạt và Lưu Phong án binh bất động không đến cứu. Tháng chạp năm
219, Tôn Quyền sai người dụ hàng. Trong tình thế bị quân Ngô truy kích,
một mặt Quan Vũ cho quân lính trong thành Mạch Thành treo cờ trắng giả
hàng, một mặt ông dẫn quân chạy lên phía tây bắc hướng đến Ích Châu hoặc
Hán Trung (địa bàn của Lưu Bị). Trên đường tháo chạy, quân sĩ bỏ trốn
rất nhiều. Cuối cùng còn lại hơn mười quân khinh kỵ cùng ông chạy tới
Chương Hương (phía đông bắc huyện Đương Dương, Hồ Bắc ngày nay) thì bị
bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung chặn đường bắt (Tam Quốc Chí – Ngô
chủ truyện). Vì không chịu khuất phục Tôn Quyền nên Quan Vũ và con là
Quan Bình cùng Đô đốc Triệu Lụy bị hành quyết tại Lâm Thư (tây bắc huyện
Viễn An, Hồ Bắc ngày nay). Tôn Quyền sai người mang đầu Quan Vũ nộp cho
Tào Tháo. Tào Tháo không mang đầu của Quan Vũ đi bêu mà ra lệnh làm lễ
tang rất trọng thể, theo đúng nghi thức an táng chư hầu.
“Các nhà nghiên cứu cho rằng: Tào
Tháo đã từng phụ nhiều người nhưng chưa một lần phụ Quan Vũ (30). Mặt
khác việc làm của Tào Tháo còn mang một ý nghĩa chính trị nữa: Tôn Quyền
nộp đầu Quan Vũ cho Tào Tháo là muốn thiên hạ biết rằng ông giết Quan
Vũ chẳng qua theo lệnh của Tào Tháo và việc làm này khiến Lưu Bị sẽ chĩa
mũi nhọn về phía Tào; nhưng Tào Tháo đã ra lệnh an táng thủ cấp của
Quan Vũ rất trọng thể và như vậy ông đã gởi một thông điệp ngược lại:
“Tôn Quyền tự ý giết Quan Vũ”. Do đó Tào Tháo đã giải tỏa được mối hiềm
nghi của mọi người và dễ dàng lái được mũi nhọn của Lưu Bị quay về phía
Tôn Quyền” (31).
Như chúng ta biết, bất luận vì lí do gì Quan Vũ mất tất nhiên Kinh Châu mất. Đây là tổn thất vô cùng lớn lao bên phía Lưu Bị. Vậy ai là người chịu trách nhiệm cho lần thất bại này? Mặc dầu không có tài liệu nào khẳng định Lưu Bị phát động cuộc chiến Tương Phàn nhưng ở địa vị của ông phải gánh lấy trách nhiệm chủ yếu bởi vì trong cuộc chiến, chính ông và Gia Cát Lượng không có một biện pháp ứng cứu kịp thời nào khi Quan Vũ thua trận.
Như chúng ta biết, bất luận vì lí do gì Quan Vũ mất tất nhiên Kinh Châu mất. Đây là tổn thất vô cùng lớn lao bên phía Lưu Bị. Vậy ai là người chịu trách nhiệm cho lần thất bại này? Mặc dầu không có tài liệu nào khẳng định Lưu Bị phát động cuộc chiến Tương Phàn nhưng ở địa vị của ông phải gánh lấy trách nhiệm chủ yếu bởi vì trong cuộc chiến, chính ông và Gia Cát Lượng không có một biện pháp ứng cứu kịp thời nào khi Quan Vũ thua trận.
Theo sử gia Hà Tư Toàn:” Quan Vũ tấn công Tương Dương, Phàn Thành gần như không bàn bạc trước với Lưu Bị và Gia Cát Lượng”(32). Thực
vậy, trong Tam Quốc Chí không hề thấy có một gợi ý hay một mệnh lệnh
nào của Lưu Bị để Quan Vũ tấn công Tương Dương và Phàn Thành. Sử sách
cũng không ghi lại bất cứ một phản đối nào của Lưu Bị về trận chiến này.
Cho nên chỉ có thể giải thích là Quan Vũ tự ý phát động cuộc chiến
Tương Phàn với ngầm ý tán thành của Lưu Bị.
Tóm lại trong cuộc chiến Tương Phàn,
Quan Vũ chịu trách nhiệm trực tiếp; Lưu Bị chịu trách nhiệm của người
lãnh đạo. Gia Cát lượng không chịu trách nhiệm vì nhiệm vụ chính của ông
là hành chánh, không liên quan đến quân sự.
DI LĂNG: TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH
Mùa hạ năm CN 221, vừa lên ngôi hoàng đế, Lưu Bị nôn nóng muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm này, để rửa mối thù cho Quan Vũ, vị tướng yêu quý nhất của Lưu Bị bị quân Đông Ngô sát hại; ông tuyên bố tuyệt giao với Đông Ngô, dồn mọi nỗ lực cho cuộc chiến báo thù và đích thân mang 75.000 quân sang đánh Đông Ngô.
Mùa hạ năm CN 221, vừa lên ngôi hoàng đế, Lưu Bị nôn nóng muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm này, để rửa mối thù cho Quan Vũ, vị tướng yêu quý nhất của Lưu Bị bị quân Đông Ngô sát hại; ông tuyên bố tuyệt giao với Đông Ngô, dồn mọi nỗ lực cho cuộc chiến báo thù và đích thân mang 75.000 quân sang đánh Đông Ngô.
Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách
lược “Liên minh chống Tào” của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh
Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng ở cương vị Thừa tướng, ông không can ngăn
được Lưu Bị nên đã dẫn đến kết quả thua trận Di Lăng, Khiếu Đình (gọi
tắt: trận chiến Di Lăng).Vài ngày trước khi Lưu Bị cất quân, một vị
tướng yêu quý khác của Lưu Bị là Trương Phi bị tùy tướng của mình sát
hại rồi cắt lấy thủ cấp chạy sang hàng Đông Ngô. Hai sự kiện quá đau
lòng khiến ông mất hết tự chủ và quyết tâm hơn khi quyết định mang đại
quân tiến đánh Đông Ngô. Tất cả các tướng lãnh và binh lính của nhà Thục
được động viên cho cuộc chiến báo thù, ngoại trừ Gia Cát Lượng và Triệu
Vân (33) cùng những người phản đối cuộc chiến đều bị Lưu Bị ra lệnh bỏ
lại hậu phương.
Tôn Quyền thấy Lưu Bị ra quân lần này
thế lực rất mạnh, nên ông cử sứ giả sang gặp Lưu Bị xin hòa nhưng Lưu Bị
thẳng thừng cự tuyệt (CN năm 222). Tôn Quyền biết không còn hy vọng
giảng hoà, liền cử tướng trẻ Lục Tốn làm Đại đô đốc thống lãnh 50.000
quân chống lại quân Thục.
Chỉ sau mấy tháng ra quân, Lưu Bị đã
tiến sâu vào lãnh thổ của Đông Ngô. Trong khi Đại đô đốc Lục Tốn ra lệnh
toàn quân lùi sâu về phía sau, nhường hàng mấy trăm dặm sườn núi cao
ngất cho Lưu Bị. Từ Tỉ Qui, Lưu Bị tiếp tục đánh gấp về hướng đông. Biên tướng quânHoàng Quyền vội can Lưu Bị:
“Quân Đông Ngô xưa nay chiến đấu rất dũng mãnh, xin hoàng thượng chớ
coi thường chúng. Quân ta thuận dòng sông, tiến quân dễ nhưng lui quân
rất khó. Vậy xin để tiểu tướng đi trước mở đường, hoàng thượng ở phía
sau tiếp ứng. Như vậy cuộc hành quân sẽ thuận lợi và an toàn hơn.” Lưu
Bị nhất định không chịu nghe theo đề nghị của Hoàng Quyền. Ông ra lệnh
Hoàng Quyền đóng quân giữ Giang Bắc để phòng quân Tào; còn mình dẫn quân
dọc theo bờ nam, vượt suối băng rừng tiến đến Khiếu Đình (Tam Quốc Chí
– Hoàng Quyền truyện). Đến đây bị phòng tuyến vững chắc của quân Đông
Ngô ngăn chặn, Lưu Bị không tiến quân được nữa. Suốt trong nhiều tháng
trời, quân Thục không có cơ hội giao chiến với quân Đông Ngô. Thêm vào
đó, đường vận chuyển lương thực khó khăn, lại thêm thời tiết nóng bức,
quân sĩ mệt mỏi, thiếu lương thực; do vậy tinh thần chiến đấu của quân
Thục ngày càng sa sút… Lúc bấy giờ Lục Tốn mới hạ lệnh phản công. Biết
Lưu Bị không có kinh nghiệm dùng binh: thay vì cho thủy quân và lục quân
cùng tiến đánh, ông bỏ qua điều kiện thuận lợi này, lại cho đóng quân
nơi tử địa (Lưu Bị cho thủy quân lên bờ lập vô số những doanh trại san
sát bên nhau hàng bảy trăm dặm xuyên qua rừng núi từ huyện Vu đến Di
Lăng), nên Lục Tốn dùng chiến thuật hỏa công thiêu rụi hơn bốn mươi
doanh trại của Lưu Bị. Không kịp ứng phó trước tình thế bất lợi của quân
Thục, Lưu Bị cùng quân sĩ tháo chạy lên núi Mã Yên. Lục Tốn ra lệnh các
cánh quân Đông Ngô áp sát từ bốn phía rồi xông lên tấn công mãnh liệt.
Quân Thục “như băng tan, núi lở, quân chết hàng mấy vạn”(34).
Dưới đồng bằng và trên mặt sông, thi thể quân lính nằm la liệt và trôi
nổi thật khủng khiếp. Đến đêm, Lưu Bị dẫn tàn binh bại tướng mở đường
máu, phá vòng vây chạy về phía tây. Quân Đông Ngô đuổi sát phía sau. Nhờ
các kho trạm dọc đường, quân Thục đem hết xe cộ, khôi giáp ra làm vật
cản đường truy kích của quân Đông Ngô, Lưu Bị và bại tướng mới chạy
thoát được về huyện Vu, sau đó chạy về thành Bạch Đế (Tam Quốc Chí – Lục
Tốn truyện).
Trận chiến này, quân Thục gần như bị
quân Đông Ngô tiêu diệt hoàn toàn. Toàn bộ thuyền bè, vật tư, quân trang
quân dụng phút chốc rơi vào tay quân Đông Ngô.
Sau thất bại thảm hại tại mặt trận Di
Lăng, tháng tư năm sau (CN năm 223), Lưu Bị bị bệnh và qua đời tại cung
Vĩnh An, thành Bạch Đế (phía đông Phụng Tiết, Trùng Khánh ngày nay),
hưởng thọ 62 tuổi. Ông được truy tôn: Hán Chiêu Liệt Hoàng Đế. Thế tử
Lưu Thiện nối ngôi năm 16 tuổi (Hán Hậu Chủ); Thừa tướng Gia Cát Lượng
phụ chính, Thượng thư lệnh Lý Nghiêm làm phó.
“Vì sao Lưu Bị phải đông chinh? Một
số người nói vì muốn báo thù cho Quan Vũ. Tam Quốc Chí – Pháp Chính
truyện cũng nói “Rửa nhục cho Quan Vũ” hoặc vì tức giận. Nói vậy là
không đúng. Tam Quốc sử thoại của ngài Lã Tư Miễn nói: “Báo thù thay cho
nghĩa đệ” rõ ràng là nói đùa và “đoàn quân Lưu Bị là đoàn quân phẫn
nộ”. Cũng chưa hẳn là vậy. Tôi (tác giả PHẨM TAM QUỐC) thấy ngài Lã nói
có lý. Vì sao?
1.- Con người kiên định, khó lay chuyển như Lưu Bị sẽ không làm việc theo cảm tính.
2.- Sau khi Quan Vũ bị hại, Lưu Bị
không tỏ ra đau đớn lắm hoặc đập bàn tức giận mà đang mãi mê với việc
xưng đế của mình, cũng không kịp phong hầu cho Quan Vũ. Năm Cảnh Diệu
thứ III (năm 260), Hậu chủ Lưu Thiền mới truy phong Quan Vũ là Tráng Mâu
Hầu.
3.- Lúc Lưu Bị ra quân chừng nửa năm sau khi Quan Vũ mất, như vậy đâu phải là sự rung động của tình cảm? Chỉ có thể nói là ông đã hành động theo phương châm đã định” (PHẨM TAM QUỐC của Dịch Trung Thiên Tập 2, sách dẫn tr.197 – 198 ).
Quan Vũ tự ý mang quân đánh Tương Phàn,
Lưu Bị chinh phạt Đông Ngô; cả hai trận chiến đều không theo quy hoạch
chiến lược (Long Trung đối) của Gia Cát Lượng nhưng tại sao ông không
nói một lời nào? Theo Dịch Trung Thiên:“Có thể Gia Cát Lượng không
muốn mất Kinh Châu hoặc mang tâm lý may rủi trong trận chiến Khiếu Đình.
Nhưng cũng không thể loại bỏ một khả năng nữa: biết nhưng không nói vì
có nói cũng chẳng có tác dụng gì, chi bằng không nói” (Dịch Trung Thiên, sách dẫn tr. 223).
Thực vậy, theo Tam Quốc Chí – Pháp Chính truyện: Sau khi Lưu Bị bại trận ở Di Lăng, Gia Cát Lượng thở dài nói:” Nếu Pháp Chính còn, chắc chắn ông sẽ ngăn được hoàng thượng đông chinh…”
Điều đó chứng tỏ rằng Lưu Bị chỉ nghe theo lời Pháp Chính (cả hai
phương diện: mưu trí và tình cảm); cho nên nếu Gia Cát Lượng có khuyên
cũng vô ích.
Dưới ngòi bút của La Quán Trung, Lưu Bị
là một vị vua nhân từ, tính tình điềm đạm ít nói; luôn lấy nhân nghĩa
làm trọng. Mọi công việc liên quan đến quân sự, phần lớn tùy thuộc vào
các tướng thân cận quyết định. Nhưng thực ra, qua bao nhiêu trận đánh
giành thắng lợi(thắng ít, bại nhiều) đều do Lưu Bị quyết đoán và tự ông
cầm quân ra chiến trường giao tranh với địch. Mặc dầu có nhiều quân sư
đại tài như Gia Cát Lượng, Bàng Thống, Pháp Chính bày mưu tính kế nhưng
ông mới là người quyết định sau cùng. Ông không vội vã chấp thuận một
sách lược nào cho dù sách lược đó mang lại cho ông kết quả tốt nhưng
trái với đạo đức và lương tâm. Đó là bản chất cố hữu của Lưu Bị mà chính
Tào Tháo cũng phải nễ phục.
Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của Lưu
Bị theo chính sử, ta thấy ông là nhà lãnh đạo chính trị khôn ngoan sáng
suốt. Tào Tháo là người có nhận xét về ông rất chính xác:” Nay anh hùng trong thiên hạ chỉ có sứ quân và Tháo này!” Câu nói trên đã được ghi vào sử sách.
Quách Gia, mưu sĩ xuất sắc nhất của Tào
Tháo và là một thiên tài quân sự (lúc làm quân sư cho Tào Tháo, ông mới
27 tuổi và đã giúp Tào Tháo thống nhất Miền Bắc Trung Quốc). Ông hết mực
trung thành, tận tụy phục vụ cho Tào Tháo đến cuối cuộc đời (chết năm
37 tuổi). Quách Gia xuất sắc nhìn người không chỉ nhìn rõ kẻ thù mà ông
còn nhìn rõ người mà mình phục vụ nữa. Với Lưu Bị trong thời gian sống
bên Tào Tháo, dù có che đậy khéo đến đâu cũng không thể qua mặt được
Quách Gia. Thực vậy, Ngụy thư viết: Có người thưa với Tào Tháo:“Lưu Bị có chí anh hùng, nên sớm giết đi để trừ hậu họa.” Tào Tháo hỏi ý kiến Quách Gia, ông nói ngay:“Nay
minh công cầm bảo kiếm khởi nghĩa để trừ bạo yên dân, tất nhiên minh
công phải nhờ vào sự trung thành và tín nghĩa. Được như vậy vẫn còn sợ
không mời được anh hùng hào kiệt trong thiên hạ đến với chúng ta. Lúc
này Lưu Bị là anh hùng trong thiên hạ hết đường lui, đến nhờ minh công
lại bị minh công giết. Vậy còn ai muốn theo minh công để bình định thiên
hạ nữa đây? Giết một người để mất hết hy vọng của bốn biển, điều đó nên
suy nghĩ kỷ.” Nói tóm lại, Quách Gia chủ trương không nên giết Lưu
Bị. Không lâu sau đó, Tào Tháo cử Lưu Bị cùng với Quan Vũ và Trương Phi
mang 1.000 quân chặn đánh Viên Thuật ở Từ Châu. Ông cùng Trình Dục đi
tìm Tào Tháo để ngăn chặn không cho Lưu Bị ra quân bởi ông biết Lưu Bị
lần này ra đi không bao giờ trở lại. Ý của Quách Gia là Tào Tháo phải
giam lỏng Lưu Bị nhưng không hiểu vì lý do gì, Tào Tháo lại không hiểu ý
Quách Gia. Có thể đây là vấn đề quá nhạy cảm nên Quách Gia không nói rõ
ý của mình. Đến khi biết Lưu Bị công khai phản bội, Tào Tháo mới nói:“Hận là ta đã không nghe theo lời khuyên của Quách Gia!”
Lưu Bị còn là nhà lãnh đạo quân sự tầm cỡ. Tài cầm quân của ông tuy không xuất sắc bằng Tào Tháo nhưng cũng đủ làm cho đối phương phải kiêng dè; hơn nữa chính ông đã trực tiếp chỉ huy ngoài mặt trận nên có nhiều trải nghiệm về trận mạc. Lưu Bị đã tập hợp được nhiều tướng tài ba cùng với sự cống hiến không mệt mỏi của hai vị quân sư lừng danh Gia Cát Lượng, Bàng Thống và nhà chính khách tài danh Pháp Chính đã giúp ông chiếm được Kinh Châu và vùng đất rộng lớn Ích Châu (Ba Thục) để có một vị thế khá vững chắc vào thời đại Tam Quốc. Lưu Bị còn là nhà chính trị nhạy cảm, biết phân biệt đâu là chiến lược đúng phải theo đuổi để hoàn thành hoài bão mà ông đã ấp ủ từ thời còn trẻ (Chiến lược do KhổngMinh Gia Cát Lượng đề nghị ở Long Trung) và đâu là chiến thuật cần phải tránh cho dùchiến thuật đó nhanh chóng mang đến cho ông nhiều điều lợi (từ chối giết Lưu Chương và tập kích Ích Châu theo đề nghị của Pháp Chính và Bàng Thống).
Lưu Bị còn là nhà lãnh đạo quân sự tầm cỡ. Tài cầm quân của ông tuy không xuất sắc bằng Tào Tháo nhưng cũng đủ làm cho đối phương phải kiêng dè; hơn nữa chính ông đã trực tiếp chỉ huy ngoài mặt trận nên có nhiều trải nghiệm về trận mạc. Lưu Bị đã tập hợp được nhiều tướng tài ba cùng với sự cống hiến không mệt mỏi của hai vị quân sư lừng danh Gia Cát Lượng, Bàng Thống và nhà chính khách tài danh Pháp Chính đã giúp ông chiếm được Kinh Châu và vùng đất rộng lớn Ích Châu (Ba Thục) để có một vị thế khá vững chắc vào thời đại Tam Quốc. Lưu Bị còn là nhà chính trị nhạy cảm, biết phân biệt đâu là chiến lược đúng phải theo đuổi để hoàn thành hoài bão mà ông đã ấp ủ từ thời còn trẻ (Chiến lược do KhổngMinh Gia Cát Lượng đề nghị ở Long Trung) và đâu là chiến thuật cần phải tránh cho dùchiến thuật đó nhanh chóng mang đến cho ông nhiều điều lợi (từ chối giết Lưu Chương và tập kích Ích Châu theo đề nghị của Pháp Chính và Bàng Thống).
Với tài chinh phục lòng người, Lưu Bị đã
thu nạp nhiều người tài giỏi: Quan Vũ, Trương Phi, Khổng Minh Gia Cát
Lượng, Bàng Thống, Pháp Chính, rồi sau này có Khương Duy, học trò của
Gia Cát Lượng và những người này đã trung thành, tận tụy và hết lòng
sống vì ông cho cho đến cuối cuộc đời. Ngược lại nhà Tào Ngụy hiếm có
những trung thần như vậy và thay vào đó là những người chống đối (Khổng
Dung, Tuân Úc, Thôi Diễm, Dương Tu…), những cuộc bạo loạn xảy ra sau khi
Tào Tháo qua đời; tiêu biểu là cuộc nổi loạn của cha con Tư Mã Ý giết
vua Ngụy tiếm ngôi.
Nhiều ý kiến cho rằng Lưu Bị là nhà lãnh
đạo biết nắm lấy thời cơ để hoàn thành tham vọng của mình cho dù nhiều
sự kiện ông đã hành xử không thích hợp với thái độ của một nhà lãnh đạo
gương mẫu.
Sau khi Lã Bố bị Tào Tháo đánh đuổi, ông
chạy qua nương nhờ Lưu Bị và được Lưu Bị cử Lã Bố đóng quân ở Tiểu
Bái. Không lâu sau đó, Lã Bố đánh úp Từ Châu, Lưu Bị chống trả không nổi
phải bỏ Từ Châu chạy về Quảng Lăng lại bị Viên Thiệu truy kích; cùng
đường Lưu Bị phải quay lại Từ Châu đầu hàng Lã Bố. Lưu Bị được Lã Bố
dung nạp và cứu mạng ít nhất một lần nhưng khi Lã Bố ở bước đường cùng,
Lưu Bị lại đứng về phe Tào Tháo và dùng lời trái với đạo đức và lẽ phải
(vì Lã Bố đã xin đầu hàng) để giết chết ân nhân mình (!) hay đó chỉ là
lời của một vị lãnh đạo vương quyền muốn trừ mối họa về sau? Có thể
đúng, vì tất cả chính quyền dưới thời Tam Quốc đều là chính quyền chuyên
chế mà chính quyền chuyên chế thì không kể đến đạo lý. Lịch sử đã chứng
minh điều đó; cho nên yếu tố an toàn cho chế độ vẫn phải được tính
trước.
Về sau, Lưu Bị ly khai Tào Tháo theo
Viên Thiệu rồi lại bỏ Viên Thiệu đầu quân Lưu Biểu. Sau trận đại thắng ở
mặt trận Xích Bích, nắm lấy cơ hội, Lưu Bị bất ngờ đánh chiếm Kinh Châu
rồi phong Lưu Kỳ làm Thứ sử bù nhìn Kinh Châu. Ông còn quay lưng với
Lưu Chương, đánh chiếm khu vực rộng lớn Ích Châu (Ba Thục) rồi tự xưng
đế và lập ra nhà Thục Hán. Những hành động đó đâu phải người tài trí nào
cũng làm được mà phải công nhận rằng Lưu Bị là một chính trị gia có
thực tài và ông đã xây dựng một vương quốc độc lập từ hai bàn tay trắng.
Nhưng xét cho cùng về đức độ, Lưu Bị
cũng không hơn Tào Tháo bởi cả hai đều là những nhân vật cường quyền,
không muốn người khác đưa ra những ý kiến ngăn cản chính sách, đường lối
chính trị, cương lĩnh chính trị của mình cho dù cách thực hiện các sách
lược đó không đưa đến kết quả tốt. Nhiều sự kiện lịch sử sau khi Lưu Bị
lên ngôi đã chứng minh nhận định đó: Chiến dịch Đông chinh do ông phát
động bị Triệu Vân và Tần Mật phản đối, việcxưng đế của Lưu Bị cũng có
nhiều người không tán thành như Phí Thi, Ung Mậu, Lưu Ba. Hậu quả: Đại
tướng Triệu Vân không còn được Lưu Bị tín nhiệm nữa (Triệu Vân không
được tham gia chiến dịch Đông chinh), Tần Mật bị nhốt vào ngục (về sau
được tha), Phí Thi bị giáng chức, Ung Mậu bị giết. Riêng Thượng thư lệnh
Lưu Ba sợ bị nghi ngờ, ông luôn giữ thái độ im lặng, không dám gặp
riêng ai hoặc nói điều gì nếu không phải việc công.
Lại có thức giả cho rằng:” Lưu Bị
lấy nhân nghĩa làm trọng chỉ là chiêu bài mị dân và qua thân phận của
người em kết nghĩa Quan Vũ, hậu thế thấy rõ ngọn cờ giả nhân giả nghĩa
của Lưu Bị và nhất là sau khi lên ngôi, ông có thực lòng còn coi Quan Vũ
là người em kết nghĩa ngày nào nữa không?”
Đây là một cuộc khủng hoảng thầm lặng.
Lý do chủ yếu là vì nền chính trị cổ đại Trung Quốc không để lại đầy đủ
hoặc cố tình che giấu những sự kiện lịch sử cơ bản đã xảy ra dưới vương
triều Thục Hán, bởi vậy hậu thế không thể căn cứ vào đó để nhận xét vấn
đề một cách chuẩn xác và công bằng mà chỉ suy đoán cho dù những suy đoán
có sức thuyết phục nhất cũng khó thuyết phục được nhiều người chấp
nhận. Do đó đã gây ra những xung đột ngấm ngầm hay ít nữa cũng tiềm ẩn
trong tư tưởng của mỗi người khi đọc tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa của La
Quán Trung, nhất là những mẫu chuyện hư cấu không có trong chính sử,
đôi lúc còn làm người đọc hiểu sai về chính sử. Do vậy vào những dịp
cuối tuần nhàn rỗi, ta thử phân tích nhận xét trên có quá nghiêm khắc
lắm không?
Đặng Thành, mùa thu 2008
Chú thích:
(1) Tào Phi cướp ngôi nhà Hán xưng đế ở Lạc Dương năm 220 lập ra nhà Tào Ngụy.
(2) Tôn Hạo hay Đông Ngô Mạt Đế là vị vua cuối cùng của nhà Đông Ngô bị Tấn Vũ Đế bắt sống năm 280.
(3) Trần Thọ (233 –
297) người ở quận Ba Tây (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc), trước
làm quan trong triều đình Thục Hán, sau khi Thục Hán diệt vong, ông sang
làm quan cho nhà Tây Tấn. Ông là tác giả của bộ chính sử Tam Quốc Chí,
một trong 24 bộ chính sử nổi tiếng của Trung Quốc. Khi viết Tam Quốc
Chí, ông đã căn cứ vào nhiều sử liệu như Ngụy Thư của Vương Thẩm, Ngụy
Lược của Ngư Hoạn, Ngô Thư của Vi Chiêu…
Lúc đầu gồm 3 tác phẩm: Ngụy Quốc
Chí, Thục Quốc Chí và Ngô Quốc Chí, đến năm Hàm Bình thứ 6 thời Bắc Tống
(năm 1003) hợp lại thành một tác phẩm duy nhất lấy tên Tam Quốc Chí.
(4) Bộ Nhị Thập Tứ Sử
là tuyển tập các cuốn sách sử Trung Quốc bao quát giai đoạn lịch sử từ
năm 3000 TCN tới thời nhà Minh vào thế kỷ 17. Toàn bộ có 3. 213 tập
và khoảng 40 triệu chữ. Bộ Nhị Thập Tứ Sử này được coi là một nguồn dữ
liệu chính xác về truyền thống lịch sử và văn hóa Trung Quốc; và đã được
sử dụng trong nghiên cứu về văn học, nghệ thuật, âm nhạc, khoa học,
quân sự, địa lý, dân tộc và nhiều chủ đề khác (Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia, Phần Nhị Thập Tứ Sử).
(5) Tư Trị Thông Giám
là một tác phẩm sử liệu quan trọng của Trung Quốc được viết theo thứ tự
sự kiện lịch sử đã xảy ra trong một giai đoạn lịch sử dài 1362 năm từ
năm 403 TCN (thời Chiến Quốc) đến năm 959 (hết thời Hậu Chu). Toàn bộ
tác phẩm có 294 quyển với khoảng 3 triệu từ.
Tư Mã Quang (chủ biên) và nhiều tác
giả viết Tư Trị Thông Giám nhằm mục đích phục vụ sự thống trị của triều
đình nhà Tống nên nội dung mang màu sắc chính trị. Do vậy Tư Trị Thông
Giám có thể được gọi làsử chính trị. Tác phẩm cũng đề
cập đến nhiều lãnh vực: xã hội, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa.
Ngoài công việc chủ yếu ghi chép các sự kiện lịch sử, Tư Mã Quang còn
đưa ra những bình luận về các sự kiện đó. Về giá trị, tác phẩm được đánh
giá rất cao và coi Tư Trị Thông Giám là một kiệt tác của nền sử học
Trung Quốc.
(6) Theo thống kê của một số học
giả, thì số tư liệu mà Bùi Tùng Chi dùng để chú giải Tam Quốc Chí có
khoảng 240 loại, gấp 3 lần so với nguyên bản Tam Quốc Chí của Trần Thọ.
Tuy nhiên theo học giả Mã Niệm Tổ thì số tư liệu mà Bùi Tùng Chi sử dụng
chỉ có 203 loại. Hiện nay, theo thống kê bản hiệu đính Tam Quốc Chí tại
Trung Hoa thư cục đã phát hiện phần chính văn của Trần Thọ có 366.657 chữ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi có 320.799 chữ. Tống Văn Đế đương thời gọi công việc chú thích của Bùi Tùng Chi là “bất hủ”. Các sử gia đời sau như Tư Mã Quang (thời Bắc Tống)
khi biên soạn Tự Trị Thông Giám đã tổng hợp các truyện ký trong Tam
quốc chí của Trần Thọ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi để miêu tả trận chiến Xích Bích. Bản Tam quốc chí do Bùi Tùng Chi chú thích là bản thông dụng nhất hiện nay, còn gọi là Trần chí, Bùi chú.
(7) Lưu Thắng là con của Hán Cảnh Đế Lưu Khải.
(8) Thiên hạ tức đế
quốc Trung Hoa cổ gồm 9 châu: Thanh Châu, U Châu, Từ Châu, Ký Châu, Kinh
Châu, Dương Châu, Duyện Châu, Dự Châu và Ích Châu. Dưới mỗi châu có
quận và huyện.
(9)Quan Vũ (關羽, ? – 220), cũng được gọi là Quan Công (關公), tự là Vân Trường hay Trường Sinh (長生),
là một vị tướng quân đội trong thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam
Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà
Thục Hán với vị hoàng đế đầu tiên là Lưu Bị. Ông cũng là người đứng đầu
trong số 4 thượng tướng của nhà Thục Hán, gồm: Quan Vũ, Trương Phi,
Hoàng Trung và Mã Siêu.
(10) An Hỷ úy là huyện úy huyện An Hỷ (nay là thị trấn Định Châu, Hà Bắc) tương đương với chức Phó Cục Trưởng cục công an ở huyện. (“Phẩm Tam Quốc” của Dịch Trung Thiên, tập 1, NXB Công an Nhân dân 2010, tr. 243).
(10) An Hỷ úy là huyện úy huyện An Hỷ (nay là thị trấn Định Châu, Hà Bắc) tương đương với chức Phó Cục Trưởng cục công an ở huyện. (“Phẩm Tam Quốc” của Dịch Trung Thiên, tập 1, NXB Công an Nhân dân 2010, tr. 243).
(11)”Kể chuyện Tam Quốc” của Lê Đông Phương. NXB Đà Nẳng 2007, tr.87 – 88.
(12) Thực ra Đào Khiêm chỉ giao du
để lừa Khuyết Tuyên. Sau này Đào Khiêm mang quân đánh và giết chết
Khuyết Tuyên. (“Kể chuyện Tần Hán” của Lê Đông Phương và Vương Tử Kim.
NXB Đà Nẳng 2007, tr. 367)
(13) “Kể chuyện Tần Hán” sách dẫn tr. 368
(14) “Kể chuyện Tam Quốc” sách dẫn tr. 88
(15) Khổng Dung (153 – 208) là cháu
đời thứ 20 của Đức Khổng Tử, con quan Đô úy Thái Sơn Khổng Trụ. Ông là
một học giả uyên thâm, tài ba lỗi lạc giữ chức Thái thú quận Bắc Hải.
Thuở thiếu thời, Khổng Dung ứng xử rất thông minh. Một hôm có người
khách đến nhà ông biếu một giỏ lê. Người nhà bảo Khổng Dung chọn cho
mình một quả. Cậu bé Khổng Dung chọn một quả nhỏ nhất. Người khách lấy
làm lạ hỏi:” Sao cháu không chọn quả lớn?” Khổng Dung đáp:”Thưa, vì cháu
nhỏ hơn các anh cháu nên cháu chọn quả nhỏ nhất. Vả lại, cháu lớn hơn
em cháu nên cháu nhường cho em quả lớn hơn”. Lúc đó Khổng Dung mới bốn
tuổi và câu chuyện trên trở thành bài học luân lý cho trẻ em Trung
Quốc.
Khi làm quan, ông bất đồng chính
kiến với Tào Tháo và đại diện cho thế lực chống đối trong triều; cho nên
ông luôn tìm những sơ hở của Tào Tháo để chỉ trích. Ông còn công kích
vào đường lối chính trị của Tào Tháo nữa. Mỗi khi Tào Tháo đưa ra một
quyết sách lớn lao, Khổng Dung đều phản đối. Thí dụ trận đại chiến Quan
Độ giữa Tào Tháo và Viên Thiệu có tính cách sống còn của thể chế: Tào
Tháo chỉ có một con đường thắng, không được bại; nhưng Khổng Dung lại
rêu rao trong triều rằng Tào Tháo không thể dành được phần thắng. Kết
quả trận chiến: Viên Thiệu đại bại.
Năm 208, Tào Tháo cải cách chế độ
quan lại và đề cử Si Lự vào chức vụ Ngự sử Đại phu. Si Lự vốn có mối bất
hòa với Khổng Dung nên ông hiểu ý của Tào Tháo ngay. Si Lự cho thu thập
những tội chứng của Khổng Dung trong đó có những lời mưu phản. Khổng
Dung bị nhốt vào ngục và sau đó bị xử tử vì tội danh bất hiếu:” Cha và
con có ân tình gì? Chẳng qua do tình dục phát tác một lúc mà thôi. Còn
mẹ và con có nghĩa tình gì? Chỉ như vật dụng để tạm trong vại, sau lấy
ra dùng là hết quan hệ.” Thật ra không có chứng cớ để buộc tội Khổng
Dung nói những lời bất nhân bất nghĩa đó; chỉ biết bố cáo (bản thông báo
cho mọi người biết về tội trạng của tội phạm) viết là nghe Nễ Hành nói
lại nhưng Nễ Hành đã chết không có người chứng. Cuối cùng Khổng Dung bị
xử tội chết lúc ông 55 tuổi; vợ và con ông đều bị giết sạch (Phẩm Tam
Quốc của Dịch Trung Thiên, Tập 2, sách dẫn tr. 73, 74, 75 và 76).
(16) Theo chú giải của Bùi Tùng Chi
trong Anh Hùng Ký: Vì bất hòa, Trương Phi muốn giết tướng cũ của Đào
Khiêm ở Hạ Bì là Tào Báo. Tào Báo tử thủ tại quân doanh rồi sai các
tướng dưới quyền đến gặp Lã Bố khuyên ông nhân lúc đêm tối bất ngờ tập
kích Hạ Bì. Tào Báo ra lệnh mở cửa thành cho Lã Bố chiếm Hạ Bì. Trương
Phi thua trận bỏ chạy.
(17) Dự Châu có 6 quận nhưng trên thực tế Lưu Bị chỉ có 1 quận Tiểu Bái để đóng quân.
(18) Tào Tháo gởi thơ dụ hàng; Lã Bố
muốn đầu hàng Tào Tháo nhưng Trần Cung khuyên ông không nên hàng và
hiến kế chia quân chống lại. Lữ Bố chấp thuận nhưng sau ông lại đổi ý và
sai Hứa Dĩ cùng Vương Khải đi cầu cứu viện binh của Viên Thuật. Viên
Thuật ra điều kiện: Lã Bố phải mang con gái tới Thọ Xuân theo lời hứa
hôn trước đây rồi ông mới gởi quân cứu viện đến giúp. Lã Bố liền lấy
bông và áo giáp quấn quanh người con gái yêu của ông rồi sai kỵ binh
nhân lúc đêm tối vượt vòng vây đến chỗ Viên Thuật (“Kể chuyện Tần Hán”
của Lê Đông Phương và Vương Tử Kim, sd tr. 377).
(19) “Kể chuyện Tần Hán” của Lê Đông Phương và Vương Tử Kim, NXB Đà Nẳng 2007 tr. 377.
(20) Theo Tam Quốc Chí, Lã Bố truyện
và Hậu Hán thư Lã Bố truyện: Tại lầu Bạch Môn, lúc đó Lã Bố tuy là tù
binh của Tào Tháo nhưng ông vẫn bình tĩnh nói với Tào Tháo:”Tốt rồi,
Thôi chuyện cũ coi như hết, thiên hạ yên định!” Tào Tháo hỏi lại:” Ông
nói vậy có nghĩa là gì? Lã Bố đáp:” Cái họa trong lòng Minh công chẳng
phải là Lã Bố này sao? Giờ đây Lã Bố đã thuần phục ngài rồi! Nếu ngài để
Lã Bố thống lĩnh kỵ binh, Minh công thống lĩnh bộ binh thì thiên hạ còn
ai ngăn cản nổi?” Rồi ông quay sang nói với Lưu Bị:” Huyền Đức công à!
Ngài là thượng khách còn tôi là tù nhân ở dưới thềm, dây buộc quá chặt,
ngài không thể nói giúp tôi một câu sao?” Tào Tháo cười khà khà: “Trói
hổ không thể không trói chặt hơn!” và ông định hạ lệnh cởi trói cho Lã
Bố nhưng Lưu Bị ngồi cạnh Tào Tháo, buông giọng lạnh lùng:” Minh công
không thấy Lã Bố đối xử với Đình Nguyên, Đổng Trác như thế nào sao?” và
ngay sau đó Tào Tháo đổi ý, nghe lời Lưu Bị, ra lệnh hành hình Lã Bố
(Phẩm Tam Quốc của Dịch Trung Thiên, Tập 1, sách dẫn tr. 209 – 210).
(21) Từ Thứ (徐庶) tự Nguyên Trực (元直), nguyên trước kia là một Quân sư của Lưu Bị lúc Lưu Bị đóng quân ở Tân Dã.
Một hôm, Tào Tháo mời mẹ của Từ Thứ
đến để thuyết phục bà viết thư gọi Từ Thứ về Hứa Đô làm quan nhưng bà
lão từ chối và ném lọ mực vào người Tào Tháo. Ông rất giận bà lão và
suýt sai quân đem bà ra chém. Nhờ Trình Dục dâng kế, ông sai dọn cho bà
lão một ngôi nhà khang trang, cho người nuôi dưỡng và chăm sóc bà rất
chu đáo. Trình Dục thường đem quà đến biếu. Mỗi lần nhận quà, bà lão đều
viết thiệp cám ơn. Nhờ vậy, Trình Dục học được nét bút của mẹ Từ Thứ
rồi ông viết một bức thư giả gọi Từ Thứ từ Tân Dã trở về Hứa Đô.
Nhận được thư đúng nét bút của mẹ,
Từ Thứ xin Lưu Bị Trở về Tào. Trước khi lên đường sang Tào, ông cam kết
với Lưu Bị suốt đời không giúp cho Tào Tháo bất cứ một kế gì và đề nghị
Lưu Bị mời Gia Cát Lượng ra làm Quân sư. Từ Thứ trở về Hứa Đô
gặp mẹ và cho biết ông đã nhận được bức thư của mẹ gọi về. Bà lão giận
dữ, trách mắng ông rồi lặng lẽ vào trong nhà treo cổ tự tử.
Trong thời gian làm quan cho Tào
Tháo, Từ Thứ chỉ quan tâm đến việc quan văn, chứ không đóng góp gì đáng
kể cho Tào Tháo về mặt quân sự.
Tam Quốc Diễn Nghĩa có kể chuyện Từ
Thứ khi ở Xích Bích biết Bàng Thống bày kế liên hoàn là để lừa Tào Tháo,
nhưng ông không nói mà giả vờ xin Tào Tháo cho về lại phương Bắc để giữ
hậu phương. Nhờ đó ông thoát khỏi trách nhiệm của trận chiến Xích Bích,
nơi quân Tào đại bại (Wapedia – Wiki: Từ Thứ).
Sự thực: khi Gia Cát Lượng đến với Lưu Bị, Từ Thứ vẫn còn ở với Lưu Bị
và cả 2 người cùng làm mưu sĩ chống Tào. Khi Lưu Bị bị thua ở Đương
Dương – Tràng Bản, chẳng những 2 con gái Lưu Bị bị bắt mà mẹ Từ Thứ cũng
bị bắt tại đây. Tào Tháo sai mẹ Từ Thứ viết thư dụ con. Bà không cự
tuyệt Tào Tháo như trong Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả. Từ Thứ lúc đó mới
sang Tào (“Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện” của Trần Văn Đức, NXB
Văn Học 2008, tr.116).
(22) Gia Cát Lượng (181- 234) là Quân Sư của Lưu Bị và là đại thần của nước Thục thời Hậu Hán. Ông là một chính trị gia đại tài, một nhà quân sự lỗi lạc, một học giả uyên thâm. Theo Dâng biểu Gia Cát Lượng tập của Trần Thọ: “Ít có nhân tài nào như vậy, thân cao 8 thước (1,84m), dung mạo khôi ngô tuấn tú, khác hẳn người thường”. Trong trận Xích Bích, Gia Cát Lượng đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng để đem lại chiến thắng cuối cùng cho liên quân Ngô – Thục.
(22) Gia Cát Lượng (181- 234) là Quân Sư của Lưu Bị và là đại thần của nước Thục thời Hậu Hán. Ông là một chính trị gia đại tài, một nhà quân sự lỗi lạc, một học giả uyên thâm. Theo Dâng biểu Gia Cát Lượng tập của Trần Thọ: “Ít có nhân tài nào như vậy, thân cao 8 thước (1,84m), dung mạo khôi ngô tuấn tú, khác hẳn người thường”. Trong trận Xích Bích, Gia Cát Lượng đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng để đem lại chiến thắng cuối cùng cho liên quân Ngô – Thục.
(23) Cũng theo Tam Quốc Chí của Trần
Thọ, phần Quách Gia truyện và Ngô chủ truyện kể, chính Tào Tháo đã tự
đốt thuyền trước khi ra lệnh lui quân. Chú dẫn của Bùi Tùng Chi trong
Giang Biểu truyện thậm chí còn kể: Sau đó Tào Tháo viết thư cho Tôn
Quyền, “Chiến dịch Xích Bích, xảy ra dịch bệnh, ta (Tào Tháo) tự đốt
thuyền và lui quân, Chu Du mới có hư danh!” (Phẩm Tam Quốc của Dịch
Trung Thiên, Tập 1, sd tr. 428 – 429).
(24) Lúc đó Tôn Quyền mới
29 tuổi, em gái tên Tôn Nhân chừng 19 tuổi và Lưu Bị đã 49 tuổi. Tôn
Nhân xuất thân từ gia đình Tôn thị là tiểu thư số 1 Giang Đông. Theo Tam
Quốc Chí – Pháp Chính truyện: Tôn tiểu thư tài năng dũng mãnh như 4
người anh: Tôn Sách, Tôn Quyền, Tôn Dực và Tôn Khung. Người hầu hạ bên
cạnh có hơn 100 người, tất cả đều được trang bị vũ khí (dao) để bảo vệ
tiểu thư. Cho nên mỗi lần Lưu Bị vào phòng của đệ nhất phu nhân Kinh
Châu, tâm trạng của ông hết sức lo lắng nếu không muốn nói là kinh hãi
(sợ bị người khác giết: chú dẫn Tự trị Thông giám của Hồ Tam Tỉnh). Theo
Tam Quốc Chí – Pháp Chính truyện, về điểm này Gia Cát Lượng và Lưu Bị
đều biết rõ. Về sau khi nhớ lại đoạn lịch sử này, Gia Cát Lượng nói:” Sợ
Tôn Phu nhân sinh biến ngay bên cạnh”; nên Lưu Bị để Triệu Vân ở gần
mình để đề phòng bất trắc. Cũng theo chú dẫn Vân Biệt truyện của Bùi
Tùng Chi trong Tam Quốc Chí – Triệu Vân truyện: Tiểu thư ỷ mình là em
gái Tôn Quyền nên vô cùng kiêu ngạo. Phu nhân đem theo nhiều quan viên
và tướng lãnh cùng quân lính Đông Ngô để bảo vệ mình. Lưu Bị chẳng còn
biện pháp nào khác đành để Triệu Vân, một người nghiêm chỉnh giúp mình
và trông coi Tôn phu nhân. Không biết người em gái họ Tôn tự
mình làm vậy hay do Tôn Quyền chỉ dẫn? Nếu ý sau đúng thì cuộc hôn nhân
này là “một cuộc hôn nhân chính trị” còn nếu ý trước đúng thì chúng ta
không thể không khâm phục Tôn phu nhân là bậc “nữ nhi anh hùng”.
Trong tác phẩm Đại trí đại dũng Tôn phu nhân của ngài Chúc Tú Hiệp viết:” Nữ nhân tài trong ba nước, Tôn phu nhân là số 1. Tuy nhiệm vụ chưa hoàn thành, nhưng tiến thoái tùy ý; lấy chồng nước khác như đến chỗ không người, dễ gì một người con gái bình thường làm được?” Đúng như vậy. Nhưng tôi cảm thấy một người con gái như vậy là bất hạnh: Lấy chồng không tự nguyện, ly dị cũng không phải tự ý mình. Trong lịch sử không thấy nói tới Tôn phu nhân ra sao trong khoảng thời gian sau khi trở về Đông Ngô? Hiển nhiên Tôn phu nhân và Lưu Bị không còn cơ hội để gặp lại nhau”. (Theo PHẨM TAM QUỐC của Dịch Trung Thiên, Tập 2, sách dẫn tr. 137, 138, 139 và tr. 140).
(25) Sự thực, Tào Tháo muốn điều quân diệt hai tướng Mã Siêu và Hàn Toại vì ông nghi hai tướng này sẽ làm phản. Để thực hiện cuộc hành quân này, Chung Do và Hạ Hầu Uyên phải đưa quân đi qua địa phận của Mã Siêu, Hàn Toại và như vậy hai tướng này buộc phải làm phản. Từ đó Tào Tháo mới có cớ tiến quân diệt Mã Siêu và Hàn Toại được. Đúng như dự đoán của Tào Tháo: Chung Do vừa xuất quân, mười lộ Quan Tây của Mã Siêu, Hàn Toại nổi dậy làm phản. Mười vạn quân hợp lại chiếm Đồng Quan chuẩn bị chiến đấu với quân Tào và Tào Tháo đã có cớ tiến quân đánh họ. Ông đích thân dẫn quân dẹp loạn. Kết quả gần mấy chục ngàn người chết mới dẹp yên được.
Trong tác phẩm Đại trí đại dũng Tôn phu nhân của ngài Chúc Tú Hiệp viết:” Nữ nhân tài trong ba nước, Tôn phu nhân là số 1. Tuy nhiệm vụ chưa hoàn thành, nhưng tiến thoái tùy ý; lấy chồng nước khác như đến chỗ không người, dễ gì một người con gái bình thường làm được?” Đúng như vậy. Nhưng tôi cảm thấy một người con gái như vậy là bất hạnh: Lấy chồng không tự nguyện, ly dị cũng không phải tự ý mình. Trong lịch sử không thấy nói tới Tôn phu nhân ra sao trong khoảng thời gian sau khi trở về Đông Ngô? Hiển nhiên Tôn phu nhân và Lưu Bị không còn cơ hội để gặp lại nhau”. (Theo PHẨM TAM QUỐC của Dịch Trung Thiên, Tập 2, sách dẫn tr. 137, 138, 139 và tr. 140).
(25) Sự thực, Tào Tháo muốn điều quân diệt hai tướng Mã Siêu và Hàn Toại vì ông nghi hai tướng này sẽ làm phản. Để thực hiện cuộc hành quân này, Chung Do và Hạ Hầu Uyên phải đưa quân đi qua địa phận của Mã Siêu, Hàn Toại và như vậy hai tướng này buộc phải làm phản. Từ đó Tào Tháo mới có cớ tiến quân diệt Mã Siêu và Hàn Toại được. Đúng như dự đoán của Tào Tháo: Chung Do vừa xuất quân, mười lộ Quan Tây của Mã Siêu, Hàn Toại nổi dậy làm phản. Mười vạn quân hợp lại chiếm Đồng Quan chuẩn bị chiến đấu với quân Tào và Tào Tháo đã có cớ tiến quân đánh họ. Ông đích thân dẫn quân dẹp loạn. Kết quả gần mấy chục ngàn người chết mới dẹp yên được.
(26) Lưu Chương là một tướng thời
Hậu Hán, ông là người thuộc dòng dõi hoàng tộc. Ông được nhà vua giao
cai quản một vùng đất rộng lớn và có địa thế khá hiểm trở: khu vực Ích
Châu hay còn gọi là Ba Thục mà sau này Lưu Bị đánh chiếm rồi lập ra nhà
Thục Hán.
(27) Sau khi kế vị cha (Lưu Yên),
Lưu Chương vẫn tiếp tục trấn áp nội loạn nên ông mới nghe theo kế của
Trương Tùng. Ông sợ nếu không có cớ mời Lưu Bị vào Hán Trung sẽ bị nhiều
người sinh nghi chống đối dẫn đến hậu qủa khó lường nên ông mượn cớ nhờ
Lưu Bị đi đánh Trương Lỗ. Lưu Chương nghĩ: khi Lưu Bị thắng trận, Lưu
Bị sẽ ở lại Hán Trung và sẽ cùng ông hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau hình thành
một lực lượng khả dĩ uy hiếp được các thế lực tiềm ẩn bên trong (các
tướng lãnh Thục “có ý khác”) và bên ngoài (Tào Tháo). Còn nữa, Hán Trung
và Thục quận tuy cùng một châu nhưng lại có chính quyền riêng biệt, do
đó làm gì có chuyện “một nước không thể có hai vua” như Hoàng Quyền can
gián. Nhưng ông không ngờ khi Lưu Bị vào được Hán Trung rồi, Lưu Bị
không những không giúp đỡ cho Lưu Chương mà còn chiếm đoạt luôn cả giang
sơn của ông nữa.
(28) Theo chú dẫn Ngô thư của Bùi
Tùng Chi trong Tam Quốc Chí – Tiên chủ truyện thì Trương Tùng là người
dâng bản đồ, nhưng các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng những điều ghi
trong Ngô thư không đáng tin. Tư trị thông giám của Tư Mã Quang xác nhận
Trương Tùng không hề gặp Lưu Bị. Vậy có thể trong chuyến công du lần
này, Pháp Chính đã dâng bản đồ Ích Châu cho Lưu Bị (Phẩm Tam Quốc của
Dịch Trung Thiên, Tập 2, sd tr. 125).
(29) Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc
Bàng Thống chết ở chân đồi Lạc Phượng rồi Khổng Minh Gia Cát Lượng mới
vào Tây Xuyên và việc Bàng Thống bị tướng Tây Xuyên là Trương Nhiệm mai
phục ở chân đồi Lạc Phượng bắn chết. Lưu Bị không có người phụ tá phải
gọi Khổng Minh từ Kinh Châu vào Tây Xuyên; Khổng Minh lừa bắt được
Trương Nhiệm.
Sự thực không phải vậy:
Khi đánh Tây Xuyên khó khăn, Lưu Bị đã gọi Khổng Minh Gia Cát Lượng vào
tham chiến tại chiến trường này rồi. Gia Cát Lượng cùng Trương Phi và
Triệu Vân vào Tây Xuyên nửa năm sau Bàng Thống mới chết tại Lạc Thành
(không phải chết tại chân đồi Lạc Phượng) khi đụng độ với Trương Nhiệm.
Trận này Lưu Bị và Bàng Thống tác chiến độc lập, không có Gia Cát Lượng
và các tướng khác tham gia nhưng vẫn thắng được Trương Nhiệm ở Lạc
Thành. Bàng Thống thắng trận nhưng bị tên lạc chết. Trương Nhiệm bị Lưu
Bị bắt sống, ông không chịu qui hàng nên bị giết (Trần Văn Đức, sách đã
dẫn, tr. 116)
(30) Lê Đông Phương “Kể chuyện Tam Quốc”, NXB Đà Nẳng 2007,tr.281.
(31) Nguyễn Tử Quang”Tam Quốc bình giảng”, NXB Tổng hợp An Giang 1989 tr. 223
(32) Dịch Trung Thiên “Phẩm Tam Quốc”, Tập 2, NXB CAND 2010 tr. 177.
(33) Theo chú dẫn Vân biệt truyện
của Bùi Tùng Chi trong Tam Quốc Chí – Triệu Vân truyện, Đại tướng Triệu
Vân can:”Kẻ cướp ngôi vua là Tào Phi chứ không phải Tôn Quyền. Nếu diệt
được Tào Ngụy, Đông Ngô tự nhiên phải khuất phục; không nên bỏ qua Tào
Ngụy mà đánh Đông Ngô”.
(34) Phẩm Tam Quốc của Dịch Trung Thiên, Tập 2, sd tr. 204.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
* Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
* Lịch sử Trung Quốc 5000 năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dư Chương (Tập 1 và 2), NXB Văn hóa Thông tin 1997.
* Kể chuyện Tam Quốc của Lê Đông Phương, NXB Đà Nẳng 2007.
* Kể chuyện Tần Hán của Lê Đông Phương và Vương Tử Kim, NXB Đà Nẳng 2007.
* Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện của Trần Văn Đức, NXB Văn học 2008.
* Tam Quốc bình giảng của Nguyễn Tử Quang, NXB Tổng hợp An Giang 1989.
* Phẩm Tam Quốc của Dịch Trung Thiên (Tập 1 và 2) NXB Công an Nhân dân, 2010.
*Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung,Việt Nam Thư Quán – Thư viện Online.
*10 đại thừa tướng Trung Quốc, Phần Gia Cát Lượng, NXB Thanh niên 2002.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét