Nguyễn Duy Chính
Bối cảnh sinh hoạt của khu vực Đông Nam
Á, sau hơn hai trăm năm chia cắt đã hình thành một quốc gia hoàn toàn
khác hẳn với Đàng Ngoài về mọi mặt. Chính sự xa lạ với văn minh Đàng
Trong – còn chịu ảnh hưởng nhiều của văn minh Ấn Hồi – đã tạo sự bất ngờ
cho đối phương vì những gì quân Thanh biết được về nước ta, chỉ hoàn
toàn dựa trên hiểu biết của họ về nước An Nam, tức miền Bắc với những
qui chế và tập quán gần như một nước Tàu thu nhỏ. Sự hiểu biết của họ về
Đàng Trong chỉ qua triều đình chúa Nguyễn, cũng lại là một tiểu long
khác, một thứ thái thú đối với dân chúng miền Nam. Trong địa bàn rộng
lớn của Nam Á, cư dân không phải là một chủng tộc thuần nhất mà là một
khu vực rất co dãn, rất linh động với hàng chục sắc tộc khác nhau, mỗi
sắc tộc có một truyền thống và tập quán, được tập hợp trong một hoàn
cảnh đặc biệt.
Một điều đáng cho chúng ta quan tâm là
miền Nam Việt Nam không phải là một vùng hoang địa ít dân cư, mới được
khai phá như nhiều lục địa khác ở thế kỷ 17, 18. Việc bành trướng của
dân tộc Việt Nam – nói đúng ra là của người Kinh từ châu thổ sông Hồng
tiến xuống phương Nam – chỉ là sự bao trùm một nền văn minh này lên
những nền văn minh khác. Người Kinh dần dần lấn chiếm các vùng đồng bằng
dọc theo duyên hải, đẩy các dân tộc bản địa lên cao nguyên và làm chựng
lại sinh hoạt thương mại mặt biển vốn dĩ là một phần quan trọng của đời
sống. Trên một qui mô nào đó, người Việt miền Bắc còn giữ tinh thần
nông dân gắn bó với ruộng vườn nên đã tận thu bình nguyên, chia núi
rừng, đồng bằng và biển cả ra ba khu vực biệt lập, liên hệ rời rạc. Sự
bòn rút thiên nhiên trở nên gắt gao hơn nên sớm muộn rồi cũng đưa đến
kết quả đồng qui ư tận.
Tiến trình khai thác đó vẫn tiếp tục,
khi mạnh khi yếu nhưng càng lúc người ta càng ít gắn bó với khu vực dung
thân hàng nghìn năm qua. Chế độ phong kiến, chế độ thực dân, chiến
tranh và các chính thể độc tài chỉ càng lúc càng làm gia tốc tiến trình
tự huỷ. Chính vì ba thế lực đó trung hoà và hoá giải lẫn nhau nên người
ta có cảm tưởng trong nhiều năm, trái tim lịch sử bị ngừng đập. Tuy
nhiên, đó chỉ là một giấc đông miên mà đôi khi vì một ngẫu nhiên nào đó,
một tổng hợp dù vội vã và khiên cưỡng của cả ba khu vực vẫn tạo được
những thành tích đáng kể.
Đặt vị trí của Việt Nam trong khung cảnh
vỡ hạt của cuối thế kỷ 18, với rất nhiều pha trộn khác nhau – văn minh
bản địa, Bà La Môn, Hồi giáo, Khổng, Lão, Phật rồi sau đó là văn minh
Tây phương theo chân các nhà truyền giáo và thương nhân – hoà quyện với
nhau trở thành một nếp sống đặc thù. Cái lò luyện kim đó, với tác động
từ phương Bắc tràn xuống, từ phương Tây lan qua, từ miền Nam đi lên, từ
biển Đông ập tới, trong một thời điểm nhất định đã đủ mạnh để làm thay
đổi cả cuộc diện.
Trận đánh năm Kỷ Dậu vì thế phải được
xét qua một lăng kính mới – một bên là thiên triều với đủ thứ lễ nghi
tập tục, nhiều hoa quyền, ít thực dụng, và một bên là thành phần đa
chủng, sống gần với bản năng trong những điều kiện sinh hoạt giảm thiểu
đến mức không sao đơn giản hơn được nữa. Sự tương phản mãnh liệt đó một
khi được bổ sung bằng kỹ thuật Tây phương – mà hoàn cảnh địa lý chính
trị khá độc đáo Đàng Trong đã tiếp nhận được – chính là yếu tố then chốt
tạo nên chiến thắng. Trong khi Bắc quân là một đội quân chính qui tập
trung vào chiến thuật duy nhất là giữ thành, chiếm đất theo sở trường
của người Trung Hoa thì Nam quân lại bao gồm ba mũi nhọn bao gồm ba sở
trường khác nhau được vận dụng cùng một lúc. Miền núi rừng tây nguyên
với đội binh Thượng có tài xuyên sơn đem theo một đàn voi rừng từ mạn
Lào đổ sang đã tạo cho quân Thanh sự kinh hoàng. Cánh quân từ biển kéo
vào phần lớn là đám du thương được Nguyễn Huệ thu dụng để thành lực
lượng thuỷ quân, quen thuộc với khu vực biển vùng vịnh Bắc Việt vừa tập
kích ngang hông quân Thanh, vừa chặn đường rút lui, cắt đứt hệ thống
thông tin và tiếp liệu. Bộ binh do chính vua Quang Trung chỉ huy từ Phú
Xuân kéo ra, kết hợp với quân ở miền Bắc quen thuộc địa thế tràn ngập
trận địa theo chiến thuật biển người, đổ xuống địch quân như một đợt
sóng thần từ xa ập tới.
Sau chiến thắng, nhiều huyền thoại được
tô vẽ, phao truyền về quân Tây Sơn. Một câu hỏi thường được nêu ra là
làm thế nào để Nguyễn Huệ có thể điều binh thần tốc như thế? Nhiều
phương pháp đã được đưa ra để giải thích bao gồm cả phương tiện di
chuyển (võng, thuyền, voi, ngựa …) lẫn tính toán thời gian (đại quân
tiến luôn một mạch không nghỉ từ Phú Xuân ra Thăng Long trong khoảng từ
20 đến 40 ngày). Thế nhưng những giải thích đó đều có những điểm gượng
gạo không thực tế. Một điểm quan trọng là muốn đi nhanh và đồng bộ thì
chỉ có thể áp dụng vào những binh đội với số lượng nhỏ vì theo thời gian
khoảng cách giữa người đi đầu và người đi cuối sẽ càng lúc càng xa.
Ngoài ra dù hình thức nào, đi bộ, đi thuyền hay đi ngựa, đi võng thì vẫn
có những giới hạn nhất định về tốc độ, về sự chịu đựng … không thể vượt
qua. Thực ra, điều mà người ta cho rằng thần tốc kia không ở vấn đề di
chuyển mà làm sao khéo léo điều động để ba cánh quân cùng xuất hiện kịp
thời, vừa làm tăng sự cộng hưởng của sức mạnh, vừa khiến cho đối phương
tưởng như một phép lạ nên kinh hoàng tan vỡ.
Quân Tây Sơn cũng không phải là một binh
đội duy nhất từ trong Nam kéo ra mà là nhiều đơn vị từ nhiều địa phương
được các tướng lãnh chuẩn bị cùng di chuyển tới khu vực tập kết để tham
gia chiến dịch. Nguyễn Huệ chỉ chỉ huy một số khinh binh tương đối nhỏ
và nhẹ từ Phú Xuân. Binh lính thời đó phần lớn thuộc dạng dân quân, thời
bình sống lẫn với gia đình, làng xã của mình, chỉ điều động khi hữu sự
(tương tự như những công trình thuỷ lợi hay công tác cộng đồng trong các
chế độ toàn trị, lương thực và trang bị đều do dân chúng tự túc), là
phương pháp quản trị just-in-time trong quân sự, cấp chỉ huy định mục
tiêu và thời hạn rồi để cho cấp dưới tự lo liệu thi hành. Chúng ta có
thể hình dung trục lộ tiến quân của vua Quang Trung như một đội chèo
thuyền mà tất cả đều hành động nhịp nhàng cùng một lượt, một con sông
được nhiều nguồn chảy tới để biến thành một cơn lũ mỗi lúc một dâng cao.
Cũng tương tự, lời khẳng định sẽ vào
thành Thăng Long trong ngày đầu tháng Giêng năm Kỷ Dậu – nếu quả thực có
– cũng là một nhu cầu bắt buộc, là phương thức tìm sự sống trong cái
chết, không cách nào khác hơn. Nói theo ngôn ngữ mới, vua Quang Trung
phải sử dụng chiến thuật bôn tập từ Nghệ An ra Bắc chính vì Nam quân
không có một hệ thống đài trạm để cung ứng quân lương như quân Thanh nên
mỗi người phải tự mang theo thực phẩm cho chính mình -theo tính toán cơ
bản về tiếp liệu thì một cá nhân chỉ có thể mang được từ 5 đến 10 ngày
lương là tối đa. Từ Ninh Bình về Thăng Long, trong khả năng cơ hữu, vua
Quang Trung thấy rằng ngày mồng 7 tháng Giêng là hạn định cuối cùng,
phải đạt được bằng bất cứ giá nào chứ chẳng phải do ai cố vấn, cũng
không mang tính dự ngôn, tiên tri như người ta thường chép.
Viết về cuộc chiến Việt – Thanh chúng
tôi muốn tìm giải thích cho một nghi vấn lịch sử, so sánh ưu, khuyết
điểm của một đội quân chính qui với đầy đủ nghi thức và một đội quân còn
mang tính tự phát, được tập trung rất nhanh theo nhiệm vụ và nhu cầu
rồi sau đó lại tan biến vào đời sống bình thường, không lương, không
bổng, không tử tuất. Hình thức đó là một truyền thống lâu đời của vùng
Đông Nam Á, tuy đạt được một số thắng lợi nhất định nhưng cũng đưa tới
những mất quân bình thời hậu chiến, khi chuyển từ đấu tranh giành quyền
lực sang công tác khôi phục kinh tế và ổn định xã hội.
TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT
Khi ra Bắc trừ Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ
đã không dấu diếm tham vọng lên làm vua thay nhà Lê. Dự tính đó một phần
vì ông cảm thấy mình đã đủ lông đủ cánh không muốn ở dưới quyền Nguyễn
Nhạc sau khi hai anh em đã có những xung đột trầm trọng không thể hàn
gắn được. Nguyễn Nhạc là vua Thái Đức thì ông cũng phải có một danh vị
tương đương. Nguyễn Huệ nay làm chủ cả xứ Bắc Hà vào đến Quảng Nam, so
với lãnh thổ của anh ông còn to lớn hơn nhiều và việc xưng đế cũng không
có gì trái đạo. Giữa ông và nhà Lê chẳng có ràng buộc nào ngoài tình
nghĩa với một người vợ lẽ là một nàng công chúa.
Một số quan lại nhà Lê ủng hộ chủ trương
này, điển hình là Ngô Thì Nhậm và vài đồng liêu, mặc dù phần đông chống
đối ngấm ngầm hay công khai vì chính sách cai trị hà khắc của quân Tây
Sơn và lòng đố kỵ không muốn những người từ Nam Hà ra làm chủ đất nước.
Theo tài liệu của các giáo sĩ tại miền Bắc lúc đó, Nguyễn Huệ khi ra Bắc
lần thứ hai đã công khai đưa ra một đạo dụ hỏi ý kiến toàn thể dân
chúng Bắc Hà (không phân biệt giai cấp, phẩm tước và địa vị) xem họ
thích sống dưới chế độ nào: bị một ông hoàng huyết thống nhà Lê cai trị
(ông giả vờ không nhắc đến tên Chiêu Thống) hay khẩn cầu ông ở lại điều
khiển quốc gia để được hưởng một sự thái bình hoàn toàn và vĩnh cửu,
dưới sự bảo hộ giúp đỡ của ông.
Tổng hợp nhiều tài liệu khác nhau, kể cả
thư từ giao thiệp với Nguyễn Thiếp và các bài biểu suy tôn của quan lại
nhà Lê (do Ngô Thì Nhậm soạn), chúng ta có thể xác định được rằng
Nguyễn Huệ không dấu diếm tham vọng nên đã chuẩn bị để thiên đô vào Nghệ
An vì nơi đây ở vị trí thuận tiện hơn cả để liên lạc với toàn thể khu
vực ông đang kiểm soát, nhất là có một cửa ngõ thông qua Thượng Lào và
một cửa biển để buôn bán với các quốc gia khác.
TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
Điều đáng tiếc là triều đại Tây Sơn quá
ngắn ngủi, phần lớn các tài liệu chép về giai đoạn này không còn nữa,
hoặc chỉ còn những mảnh vụn rời rạc khiến cho nhiều câu hỏi không có trả
lời. Để hình dung được cuộc chiến Việt – Thanh đầu năm Kỷ Dậu, chúng ta
không thể không xét qua tình hình bạn, ít nhất cũng trên một mô hình
tổng quát về tổ chức hành chánh và quân sự, lực lượng và tiềm năng,
phương hướng chung của thời đại và trình độ phát triển về kỹ thuật quân
sự để có một lượng giá giữa hai bên ngõ hầu hiểu được thắng lợi của quân
Nam mà không rơi vào những nhận định chủ quan.
Chúng ta cũng không thể bỏ qua những
bước căn bản mà Nguyễn Huệ dự tính, trong đó hai đề mục lớn cần đào sâu
là chính sách thu dụng thành phần thương nhân mặt biển để kiểm soát trục
lộ hàng hải đi từ eo biển Malacca lên đến Nam Trung Hoa và nhu cầu bành
trướng sang phía Tây để thực hiện mục tiêu hàng phục Tiêm La mở rộng
lãnh thổ, vừa tiêu diệt Nguyễn Ánh để trừ nốt mầm hoạ trong gan ruột vừa
tiếp thu luôn vương quốc nhỏ bé và yếu đuối của ông anh cả ở Qui
Nhơn. Chúng ta sẽ đào sâu hơn về hai kế hoạch này trong một dịp khác.
LÃNH THỔ
Vương quốc mà Nguyễn Huệ thành lập (hay
có ảnh hưởng) bao gồm những khu vực nào? Ở thế kỷ 18, việc phân định
ranh giới quốc gia còn rất mờ mịt, chúng ta chỉ có thể tìm được đại khái
địa bàn của ông gồm cả lãnh thổ hành chánh và khu vực ảnh hưởng là
những nơi khi cần ông có thể trưng dụng tài nguyên hay nhân lực. Quan
niệm rạch ròi về lãnh thổ mà chúng ta hiểu ngày hôm nay chắc chắn không
thể áp dụng vào thời kỳ này.
Trước đây khu vực phía tây lãnh thổ Bắc
Hà vẫn bị coi như một vùng xa xôi ít liên quan đến nước ta, có lẽ vì sự
khác biệt về văn hoá và chủng tộc. Tuy nhiên, khi được chia phần đất từ
Phú Xuân trở ra – nhất là khi làm chủ cả Nghệ An là phần đất nhà Lê
nhường cho ông khi có công ra bắc dẹp họ Trịnh – Nguyễn Huệ đã thấy tầm
quan trọng của những vương quốc phụ cận suốt một dải đất rộng từ bắc chí
nam, về kinh tế cũng như về quân sự.
Theo các tài liệu khám phá được ở châu
Qui Hợp, tỉnh Nghệ An năm 1974 trong từ đường quận công Tran Phuc Hoan
thì ngay từ tháng 9 năm 1787 (tháng 8 năm Đinh Mùi, Thái Đức thứ 10) tức
là ngay những ngày đầu khi đất Nghệ An mới thuộc quyền kiểm soát của
Nguyễn Huệ, quan trấn nhậm huyện Hương Sơn đã ra lệnh cho châu Quy Hợp
phải nới lỏng giao thương và bãi bỏ thuế đánh vào nhà buôn hay lúa gạo
thường qua lại vùng này. Trước đây, triều Lê Trịnh, các thông lộ qua Ai
Lao đều bị kiểm soát chặt chẽ nên việc thương mại với các lân bang hầu
như không có gì cả, ngoài việc thu thuế một số sản vật trao đổi giữa các
dân tộc thiểu số. Cũng theo tài liệu này, Nguyễn Huệ đã thực hiện được
một cải cách quan trọng mà trước nay chưa từng có, đó là biến khu vực
này thành một vùng tự do giao thương để phát triển trao đổi song phương
giữa nước ta có ưu thế trực tiếp với biển cả còn Ai Lao là đầu mối của
mạng lưới buôn bán với khắp các khu vực nội địa lên đến tận Bắc Ấn Độ và
Nam Trung Hoa. Kiểm soát được hệ thống buôn bán này, ông đã mở ra một
đầu cầu mới thay thế cho con đường trước đây thương nhân vẫn sử dụng dọc
theo khu vực Trường Sơn và đường thuỷ lộ xuống Cao Miên để từ đó thông
ra biển.
Điều này cũng nói lên phần nào sự tương
đồng, tương hợp của lực lượng Tây Sơn với các sắc dân sinh sống tại Ai
Lao, Bắc Thái và giải thích được một số tập quán tuy quen thuộc với các
dân tộc nằm sâu trong nội địa nhưng lại xa lạ với người Kinh. Việc mở
rộng giao lưu đó đã khiến cho những tiểu quốc phía tây đều có ý ngả theo
vua Quang Trung và mấy năm sau đã viết thư nhờ Đại Việt giúp họ thoát
khỏi sự áp bức của Xiêm La mà lâu nay họ phải triều cống. Chính đây là
một điểm mấu chốt để Nguyễn Huệ có thể chuyển quân ra miền Bắc mà không
cần phải đi theo những trục lộ mà chúa Trịnh hay chúa Nguyễn hằng quen
thuộc.
Vì kiểm soát một khu vực tương đối rộng
lớn (suốt từ miền Bắc vào đến Quảng Nam và có lẽ toàn bộ khu vực Thượng
và Trung Lào ngày nay) Nguyễn Huệ có nhu cầu thiết lập nhiều trung tâm
hành chánh khác nhau để tiện việc cai trị và điều động. Ông chọn hai vị
trí chiến lược tương đối quan trọng với những đặc điểm nổi bật về giao
thương là Nghệ An và Phú Xuân để xây dựng cơ sở . Riêng Nghệ An, ông coi
nơi đây là Trung Đô và cũng là địa điểm lui về một khi bị tấn công từ
hai đầu. Chúng ta cũng không thể bỏ qua giả thuyết ông muốn lên ngôi
ngay tại kinh đô mới nên đã gấp rút hối thúc Nguyễn Thiếp đi coi đất xây
cung điện và chuyển nhiều nhân công, vật liệu từ Bắc Hà vào Thanh Nghệ.
TÀI CHÁNH
Không rõ các thừa sai ngoại quốc tường
thuật về chính sách tận thu tài sản và lương thực Bắc Hà chính xác đến
mực nào nhưng chủ trương tất cả cho chiến tranh của Nguyễn Huệ là điều
cần thiết để nếu không sử dụng được thì cũng không để cho đối phương
khai thác. Ngay lần đầu ra Bắc, Nguyễn Huệ đã thu góp được rất nhiều của
cải của chúa Trịnh đem về Nam, không chia lại cho Nguyễn Nhạc nên xảy
ra xung đột, đưa đến cuộc chiến mà người ta gọi là nồi da xáo thịt.
Khi ra Bắc lần thứ hai, quan lại nhà Lê
chỉ có một số ít ủng hộ ông, đa số không tán thành những bài biểu suy
tôn của Ngô Thì Nhậm và lãnh đạm đối với cuộc trưng cầu ý kiến một
cách lộ liễu, ông đành tiến hành một kế hoạch khá cực đoan, vừa do chiến
lược đấu tranh, vừa muốn đập tan nhuệ khí của xứ Bắc Hà, nhân cơ hội
tận thu tiền bạc thành phần có máu mặt, vét cho đến người lính cuối cùng
và đưa hết vật liệu, thợ thuyền vào xây tân đô:
Ông lợi dụng một vị quan Trung Hoa (?)
tên là Thiểm Bảy, con rể vua Cảnh Hưng như ông tức là anh (hay em) cột
chèo bằng cách bảo vị này kê khai những tên đại thương gia giầu có và
những tư nhân có nhiều tiền để ông xua lính vào cướp. Cuối cùng ông kiếm
chuyện với tên đồng loã ti tiện này (tức vị quan Tàu). Ông cho tra tấn
thật dã man tên đó cùng với vợ hắn để ép chúng làm tờ kê khai đích xác
của cải của chúng. Ông đã thành công trong việc chiếm đoạt tài sản kếch
xù của chúng …
Những kế hoạch kinh tài được thực hiện
gấp rút chắc hẳn do nhiều nguyên nhân, vì tình hình nhiều mặt sôi động
phải đối phó cũng có mà vì nhu cầu cũng có. Người ta còn cho rằng ông
phẫn nộ vì một số tướng lãnh không thành công trong việc đánh dẹp tàn
quân nhà Lê ở miền thượng du nên khắt khe cả với gia đình bên vợ, tức
Ngọc Hân công chúa:
…bà goá phụ Cảnh Hưng, mẹ vợ ông có lần
xin ông tha cho các vị quan Bắc Kỳ, đặc biệt là cho Đốc Chiên. Người ta
đồn rằng bà có cho Đốc Chiên 100 thoi (hay đỉnh) vàng để ông ta dùng vào
việc mua chuộc các quan lại, bảo tồn cái đầu ông. Nhưng vì sợ hãi trước
sự phẫn nộ của con rể, bà đã bỏ trốn. Bắc vương lập tức cho tịch thu đồ
đạc và tài sản của bà công chúa Bắc Kỳ (tức là bà Hân) vợ ông bị đánh
hai mươi roi theo lệnh ông. Hình như bà này đã oán trách chồng bà vì sự
ngược đãi đối với mẹ bà.
Khi mẹ vợ ông bị điệu về triều đình, ông
đã trách mắng bà thậm tệ vì mối cảm tình của bà đối với Đốc Chiên. Số
vàng do bà cấp cho Đốc Chiên để chạy tội phải vào tay ông. Ông còn cho
lấy cung của Đốc Chiên, vị tướng đáng thương này đã bị đóng gông gần một
tháng nay. Rồi ông cho đánh vị tướng này bốn mươi trượng vì tội từ
chối, không chịu khai chỗ vua Chiêu Thống ẩn trốn. Cuối cùng ông ra lệnh
xử trảm vị tướng này ngày một tháng Sáu.
Chúng ta cũng hiểu rằng việc tích luỹ
tài sản chính vì nhu cầu quân sự, bao gồm cả chi phí về tân trang vũ khí
(phải mua những súng ống, đạn dược mới mẻ hơn của Tây Phương) và lương
thực cho quân đội, một vấn đề sinh tử vì ông đã bị cắt đứt con đường từ
Bắc và Nam nên chỉ có thể dùng thuyền để mua hoặc cướp gạo từ xứ Đồng
Nai. Chỉ khổ cho dân miền Bắc khi Nguyễn Huệ bắt nộp ngay lập tức và
cùng một lúc các thứ thuế được trả làm hai kỳ trước kia, các thứ thuế
gạo tháng Ba và tháng Mười, tất cả các thứ thuế khác mà chưa được trả
đầy đủ; không ai được than phiền hay bầy tỏ ý kiến về việc đó. Các xã
trưởng và phú hộ (hào mục) nào không tuân lệnh ngay sẽ bị đánh một trăm
trượng hoặc sẽ bị xử tử tuỳ theo họ phạm trọng tội hay khinh tội.
Chiến thuật mà nhiều người vẫn ca tụng
là thần tốc cũng là một phương thức để giảm bớt số lượng binh sĩ thường
trực phải nuôi ăn càng sớm càng tốt. Chúng ta cũng không lấy làm lạ sau
chiến thắng tại Thăng Long, Nguyễn Huệ đã giải ngũ tại chỗ rất đông
binh sĩ (phần lớn là tân quân mới tòng chinh ở Thanh Nghệ và trên đường
ra Bắc). Một số đông dân chúng từ Thanh Hoá, Nghệ An theo ra không còn
đường trở về nên đã lập nghiệp tại các vùng đất tân bồi ở duyên hải.
XÂY DỰNG TÂN ĐÔ
Việc Nguyễn Huệ chọn Nghệ An làm kinh đô
có một ý nghĩa chiến lược rất quan trọng, không những thuận tiện cho
việc rút lui và chống giữ mà còn chuẩn bị cả những kế hoạch bành trướng
sức mạnh ra toàn thể khu vực. Một khi Thăng Long từ một thủ phủ chính
trị, văn hoá, kinh tế, quân sự … hạ xuống hàng cố đô, vai trò của kinh
thành gần như mất hẳn. Việc thiên đô đó chắc chắn ảnh hưởng rất mạnh
đến tâm tình giới sĩ phu Bắc Hà nên trong giai đoạn này lòng hoài vọng
tiền triều trở thành phổ biến mặc dù trong hơn 200 qua, vua Lê chỉ là hư
vị và miền Bắc cũng không tạo được thành quả nào nổi bật. Tâm tình hoài
vọng đó được lập lại trong lịch lịch sử mỗi khi thay đổi một triều đại
ảnh hưởng không ít tới tình hình chính trị kéo dài mãi về sau. Theo các
giáo sĩ thì:
… Trong khi chờ đợi (dân chúng bắt Lê Duy Kỳ nạp cho ông), vì Bắc vương sắp phải lên đường vào Nam, ông nhất định cho phá huỷ thủ đô Bắc Kỳ, gọi là Kẻ Chợ, Kinh Đô hay Kinh Ki (Kỳ) và xây lại tại xứ Nghệ An một hoàng thành mới gần quốc gia nhỏ bé của ông (Phú Xuân) và gần Nam Kỳ Thượng, ở khoảng giữa hai vương quốc. Ông liền cấp tốc cho thực hiện kế hoạch này. Trước hết, ông cho phá tất cả các biệt thự của các Chúa cũ và của những người chuyên chế biện sự nhà Trịnh ở trong hoàng thành và cho chất lên thuyền những vật liệu, đồ đạc quí nhất và tài sản cùng với một số lớn gạo thu nhặt được để mang tới chỗ được qui định là nơi xây cất thành phố tương lai gọi là Phủ Thạnh (Thanh?) hay Thành Rum (?). Ông cũng không bỏ sót các dinh vua Chiêu Thống và cung điện các vua nhà Lê (ông phá cho tan hết). Ông cho lấy đi tất cả những thứ ông thích, ngay cả đá lát nữa (theo lời đồn) …
Ngoài tài vật, Nguyễn Huệ cũng tận dụng
nhân lực của Bắc Hà để xây dựng kinh đô mới. Các giáo sĩ cho biết ông
tuyển chọn rất nhiều thợ và nghệ sĩ đủ loại để mang theo dùng vào việc
xây cất tân đô và mỗi phường thợ của miền Bắc phải cung cấp ít nhất là
mười lăm người.
Điều này cho ta thấy Nguyễn Huệ đã tiến
hành kế hoạch vườn không nhà trống ngay từ trước khi địch đến nhưng
cũng có thể nhằm triệt tiêu mọi mầm mống chống đối của miền Bắc. Việc đó
cũng phần nào giải thích tại sao một vương quốc tương đối qui mô và có
một lịch sử lâu đời như Bắc Hà lại gần như thụ động đối với những biến
chuyển, không thấy một phản ứng nào có thể coi là đáng kể. Nguyễn Huệ
chỉ thay đổi thái độ sau khi thâu tóm quyền lực lên làm hoàng đế một
cách danh chính ngôn thuận và miền Bắc bây giờ trở thành một hậu cần
quan trọng cho chính quyền.
Vô hình chung đất Thanh Nghệ trở thành
một địa điểm dưỡng quân và tập kết khi cần thiết, mặc nhiên coi như thủ
đô quân sự và chính trị của vương quốc mặc dầu ông và bộ tham mưu vẫn
còn đóng ở Phú Xuân vì tình hình chưa hoàn toàn yên ổn và Nguyễn Nhạc
cũng có thể phản công để chiếm lại Quảng Nam khi có cơ hội. Theo thư của
linh mục người Bắc Thomas Dien đề ngày 18/12/1788 thì vào cuối tháng
Ba (năm 1788) khi Bắc vương (Nguyễn Huệ) đã thắng hai, ba trận quân đội
của Tiếm vương Nhạc được cử tới đánh ông để trả thù việc ông làm cho anh
ông mất thể diện năm 1787 đủ biết xung đột của hai anh em vẫn tồn tại
ngay cả sau khi giảng hoà trong trận Qui Nhơn và Nguyễn Huệ vẫn phải đề
phòng không phải chỉ Nguyễn Ánh mà cả Nguyễn Nhạc ở mặt nam.
LỰC LƯỢNG QUÂN SỰ
Quân Tây Sơn mà Nguyễn Huệ chỉ huy có
một số đặc tính đã ảnh hưởng đến chiến thuật, chiến lược của ông mà
chúng ta cần nghiên cứu:
Quân Tây Sơn sử dụng trong trận chiến Việt Thanh bao gồm nhiều thành phần:
- Thân binh Thuận Quảng là quân đội ông mang từ miền Nam đi ra
- Binh sĩ ra từ trước dưới quyền chỉ huy của Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân …
- Tân quân dân chúng bị cưỡng bách tòng chinh tại các làng mạc ông đi qua hay do các tướng lãnh đã tuyển mộ
- Các lực lượng phụ thuộc vào ông bao gồm các toán quân người thiểu số ở phía tây và các toán dân chài, du thương, hải phỉ … ở biển đông
Chính vì gia nhập hàng ngũ vào nhiều
thời điểm khác nhau, tại nhiều địa phương nên tổ chức và trang bị cũng
thay đổi không đồng nhất. Tuy nhiên để bảo đảm sự có mặt của họ và vận
dụng tối đa lực lượng trong chiến đấu, tướng lãnh Tây Sơn đã áp dụng một
số biện pháp nghiêm nhặt:
- Kỷ luật thép trong phương thức tuyển mộ và trừng phạt
- Lương thực tối thiểu, do cá nhân tự mang theo hay do từng tổ nhỏ đảm trách để có thể di hành nhanh mà lại không thể bỏ trốn, lệ thuộc hoàn toàn vào đoàn thể, không tồn tại được nếu sống riêng rẽ
- Đi theo đường núi để giới hạn tối đa tiếp xúc với quần chúng vừa bảo toàn bí mật vừa không tạo những xáo trộn một khi binh đội đi ngang qua
- Chia thành nhiều toán nhỏ riêng rẽ chỉ tập trung ở những điểm nhất định
- Không đóng quân tại đâu một thời gian dài để khỏi tạo ra những nhu cầu thực tế như buôn bán, liên hệ trai gái, trộm cắp và tiết lộ tin tức quân sự
Để bù lại số binh sĩ tổn thất trong
chiến tranh, nhất là một số đông đi theo Nguyễn Nhạc nên Nguyễn Huệ đã
tiến hành một chính sách cưỡng bách tòng quân đến mức tối đa và đây cũng
là một trong những lý do miền Bắc lâm vào cảnh đói kém liên tiếp trong
nhiều năm. Những giáo sĩ có mặt tại miền Bắc đã ghi nhận là chừng một
tháng nay (cuối năm 1787), một vị tướng của Tân Attila (tức Nguyễn Huệ)
tên là Vach Quich (?) đã trở lại xứ Nghệ mộ rất nhiều lính và bắt dân
chúng cung cấp một số gạo khá lớn. Với những hành động tối dã man, tên
ác quỉ đó thường hay xẻo tai, lột da mặt từ trán cho tới miệng, đánh nhừ
tử cho đến chết những viên xã trưởng hay những người đại diện cho các
làng xã không tuân lệnh hắn ngay.
Nhu cầu chiến tranh khiến cho Nguyễn Huệ
không còn nhiều chọn lựa và mục đích của việc tuyển mộ dân quân Bắc
Kinh là để thay thế các lính cũ của bạo quân Phú Xuân (Nguyễn Huệ) … vì
đội ngũ đã bỏ rơi ông để theo Nhạc, trong hoặc sau thời kỳ chiến tranh
giữa ông (Nguyễn Huệ) và tiếm vương (Nguyễn Nhạc) (khiến) ông bị lâm vào
tình trạng phải thu nhập trên lãnh thổ nhỏ bé của ông những thành phần
thuộc giai cấp hạ lưu, những tay anh chị lưu manh, nông dân và cấp cho
họ khí giới.
Việc tổ chức quân đội cũng được thay đổi
nhiều lần, ít nhất cũng từ một đội quân tự phát biến thành một phần bộ
của cơ cấu hành chánh. Việc Nguyễn Huệ muốn tách ra thành một vương quốc
riêng cho thấy ông đã phải giải quyết những vấn đề của quân sĩ mà trước
đây dường như ông không quan tâm lắm. Tiến bộ đó phần nào có thể ông
học hỏi được từ chính những người mà ông đã đánh bại như triều đình chúa
Nguyễn ở phương nam, chúa Trịnh và cơ cấu quân chủ ở phương bắc. Tiếc
rằng chúng tôi không có được bản chính bằng Hán Văn của tờ chiếu gửi cho
Ngô Văn Sở và quan binh Bắc Hà nhưng xuyên qua bản dịch từ tiếng Pháp
(do các giáo sĩ ghi nhận) của tác giả Đặng Phương Nghi chúng ta cũng có
thể phần nào nắm được tinh thần đó:
Bởi sắc lệnh này ta cho các tướng Đại Tư Mã, Đại Đốc (tức Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân) và các sĩ quan khác biết rằng từ trước tới nay các vua chúa đều lấy luật pháp để cai trị thần dân và duy trì hoà bình, nên ta cũng noi gương các vị tiền bối mà đánh dấu ngày khởi đầu triều đại ta bằng cách soạn ra một bộ luật để dân chúng sống trên đất đai ta nghiêm nhặt tuân theo. Vì thế ta đã giao cho các quan tư pháp và tham chính viện nhiệm vụ hoàn tất các tác phẩm đó trong một, hai tháng. Trong khi chờ đợi ta ban bố vài pháp quy yêu cầu mọi người và mỗi các ngươi đứng đắn thi hành. Nội dung điều lệ đó như sau:
1.Nếu một sĩ quan hay binh lính nào phạm tội gì, các quan văn võ sẽ họp lại để xử họ và nếu họ đáng bị xử tử họ sẽ bị kết án tử hình.
2.Song le trong thời chiến tranh, mỗi lần một vị chỉ huy sai bộ hạ mình đi đánh địch, bộ hạ đó phải tuyệt đối tuân theo, người nào tử trận một cách can đảm sẽ được vẻ vang. Trái lại ai vì sợ chết mà bỏ trốn sẽ bị sỉ nhục. Bởi vậy ta cho phép xử tử tức thì những kẻ trốn bổn phận cũng như những kẻ cho địch có thì giờ dưỡng sức lại và tấn công vì hèn nhát hay vì chậm chạp; sau rồi các tướng lãnh phải báo cáo hành động của họ trong trường hợp đó.
3.Khi chiến tranh chấm dứt và khi quân đội trở về kinh đô và được trả lại cho chính quyền, không một quan chỉ huy nào được tự tiện xử tử một người ngang quyền hay ngang chức và ai mà vi phạm luật này sẽ không có hi vọng được khoan hồng.
4.Mỗi lần xảy ra chuyện gì liên quan đến quốc gia hay công ích, mọi người đều phải lưu ý ngay đến việc đó kẻo một sự chậm trễ nhỏ nhặt cũng có thể gây trở ngại cho công việc. Thời bình, sự mau lẹ đó cũng cần thiết rồi, huống chi tại Bắc Kỳ nơi cuộc chiến càng ngày càng ác liệt, một cuộc chiến mà các ông phải coi như việc trọng yếu bởi vì mỗi giây phút có thể mang lại nhiều thay đổi bất ngờ liên tiếp theo nhau như gió, chớp hay như hơi và những biến chuyển đó lúc thì thuận, lúc thì nghịch thành thử không thể căn cứ trên cái gì chắc chắn được. Bởi vậy mỗi khi nhu cầu quốc gia hay tình hình chiến tranh bắt phải họp để thảo luận về những việc phải làm và mỗi khi ngày giờ họp được ấn định, các quan văn võ sẽ phải họp ngay lập tức vào ngày giờ đó để bàn bạc và quyết định với nhau. Nếu bất đồ có người vì sơ xuất mà quên tới nơi họp đúng giờ, ta cho phép Tư Mã và Đại Đô Đốc phạt họ tuỳ theo lỗi nặng hay nhẹ.
5.Nếu mỗi khi thuộc hạ quan chỉ huy chi đội hay thuộc hạ của ông đi đuổi bắt kẻ gian, đáng lẽ bảo vệ và che chở dân vô tội và hiền lành họ lại cưỡng đoạt của cải của dân chúng đáng thương sẽ đau khổ và thất vọng, vì họ phải chịu nhiều tai vạ hơn dưới thời ác quỉ Nhậm hay Tiết chế. Họ cư xử như vậy thì làm sao dân chúng yên lành được? Và làm sao gọi hành động đó là giải phóng dân chúng khỏi áp bức và làm sao phạt thủ phạm cho được? Vậy ta ra lệnh cho các sĩ quan phải công bố trong trung đội hay binh đoàn mình điều nghiêm cấm, không được lấy bất cứ vật gì của dân dù là một ngọn cỏ, như ta không ngớt tuyên cáo trước đây. Các sĩ quan sẽ chắc chắn làm vừa lòng ta và đúng theo tình ý ta nếu hết sức thi hành điều nghiêm cấm đó. Ai cư xử như vậy có thể tin rằng sau khi chia sẻ cùng ta những nỗi khổ nhọc và những mối hiểm nghèo của thời chiến này, họ cũng sẽ chia sẻ thanh danh và hưởng thú vui thời bình cùng ta. Vả lại nữa, không ai có quyền dựa vào sự vắng mặt hay sự xa cách của ta để phiền nhiễu cướp bóc dân chúng và uy hiếp đàn bà con gái. Chỉ khi nào ngưng và dẹp được những bạo hành đó, họ mới có thể tự phụ giữ nổi chức vụ và bảo đảm an ninh cho cá nhân và gia đình họ, bằng không, đừng mong gì ta dung thứ họ.
Đó là những điều ta muốn các ngươi phải biết. Ngày 3 tháng Mười [âm lịch] năm Thái Đức (Tiếm vương Nhạc) thứ 11.
BỘ BINH
Theo những bức thư của các giáo sĩ đạo
Thiên Chúa đã chứng kiến thì những đội quân của Nguyễn Huệ được tuyển mộ
rất gấp rút. Hồi năm trước, Giáo sĩ Le Roy đã tả đạo quân Quang Trung
bao gồm cả người già lão, trẻ con trông giống một toán bệnh nhân ốm yếu
hơn là một đoàn chiến binh. Một lá thư khác của giáo sĩ Longer
(13-5-1787) thì viết là Người bạn đồng sự trẻ của chúng tôi bắt buộc
phải chạy bởi vì người ta bắt tất cả mọi người phải đi đánh nhau từ 15
tuổi trở lên. Những người già, đàn bà góa, và con gái cũng bắt đi sửa
cầu, đường sá . Không những thế ngay cả sư sãi cũng phải tòng quân và
việc kiểm tra nhân số cũng rất nghiêm nhặt. Theo thư của La Bartette gửi
cho Blandin ngày 25 tháng 6 năm 1786 thì:
Họ đã phá hủy tất cả những giáo đường đẹp nhất ở đây, họ cũng phá hủy tất cả chùa chiền và bắt tất cả những nhà sư cầm vũ khí để ra trận.
Do đó dẫu Nguyễn Huệ có thể tập trung
được một số lượng binh sĩ đông đảo trong một thời gian ngắn ngủi nhưng
hiển nhiên chỉ là một đoàn quân ô hợp. Vả lại việc tận dụng nhân lực như
thế chắc chắn không thể biến họ thành một đoàn quân thiện chiến vì nhân
số không chưa đủ mà đoàn quân còn nhiều vấn đề khác như huấn luyện,
trang bị, y phục, thực phẩm, thuốc men … nếu chỉ trông cậy vào dân chúng
địa phương thì không thể nào cung ứng nổi. Ngoài ra trong nhiều năm
chinh chiến liên miên, bao nhiêu trai tráng đã bị hết bên này đến bên
kia bắt đi lính cả rồi, thành phần còn sót lại chắc chẳng được bao
nhiêu. Mặc dù việc tận dụng nhân lực đưa vào quân ngũ vốn là thói thường
của Nam Hà, chúng ta có thể ngờ rằng những dữ kiện mà nhiều người nhìn
thấy – kể cả các tài liệu chép trong chính sử nước ta – chưa hẳn đã là
sự thực hoặc nếu đúng như thế thì chỉ là hình ảnh mà Nguyễn Huệ muốn mọi
người nhìn thấy chứ thực lực của ông không phải như vậy. Đó là một hình
thức nghi binh để ông có thể mở một cuộc tấn công bất ngờ bằng những
lực lượng tinh nhuệ theo đường rừng và đường biển mà địch không hay
biết.
Những toán quân xung hãm này phần lớn là
thân binh của Nguyễn Huệ, gồm người Thượng và người Hoa, đánh cảm tử,
lớp này chết, lớp khác xông lên. Nguyễn Huệ luôn luôn có lối đánh biển
người như thế ở khắp mọi mặt trận, kể cả khi đem quân tấn công Nguyễn
Nhạc ở Qui Nhơn. Chính vì thế ông thường bắt tất cả già trẻ lớn bé ra
trận, có khi cả thành phần vị cập cách nghĩa là trẻ con. Với quan
điểm phải giành chiến thắng bằng bất cứ giá nào, Nguyễn Huệ không ngần
ngại đốt phá, tàn sát nếu gặp chống cự, để tiêu diệt cũng có mà thị uy
cũng có. Nắm vững quan điểm kỷ luật là sức mạnh của quân đội, ông hết
sức gắt gao trong việc điều quân và nổi tiếng là nghiêm minh.
THƯỢNG BINH
Khu vực Đông Nam Á vào cuối thế kỷ 18
không phải là những quốc gia có lãnh thổ hành chánh rõ rệt được qui định
theo công pháp mà là những khu vực ảnh hưởng của từng dòng họ, khi mạnh
thì bành trướng, khi yếu thì co cụm. Nằm giữa những khu vực đồng bằng
dọc theo duyên hải nước ta và Xiêm La là một khu vực rừng núi rộng lớn,
trong đó những dân tộc cao nguyên sống rải rác, du canh. Bên cạnh sinh
hoạt của từng bộ lạc, khu vực này còn có một hệ thống sơn lộ chằng chịt
mà chỉ dân bản xứ mới am tường. Nhiều đoàn thương nhân (caravan) đã sử
dụng hệ thống giao thông này để đi buôn tới tận Miến Điện, Xiêm La và
Nam Trung Hoa khiến cho sản phẩm từ vùng này có thể đem tới vùng khác.
Những thương nhân đó rất đa dạng bao gồm người Trung Hoa, người Thái,
người Shan (?), người Bhamo (ở Miến Điện). Mạng lưới buôn bán này quả là
phức tạp hơn chúng ta tưởng. Chính anh em Nguyễn Nhạc cũng là những đầu
nậu trong những đoàn buôn này, thông thạo đường sá, phong tục của vùng
Tây nguyên và sử dụng nhiều kinh nghiệm bản thân vào những trận đánh về
sau. Những toán thương nhân đó cũng quen thuộc với những loại bùa chú,
thuốc men, chất kích thích mà dân tộc thiểu số thường dùng để chữa bệnh.
Sử sách chép không đầy đủ nhưng nhà Tây
Sơn chắc chắn sử dụng một lực lượng lớn những đồng bào thiểu số, không
phải chỉ trong vùng Qui Nhơn mà gần như toàn cõi Tây Nguyên, kể cả Nam
Lào và bắc Campuchia ngày nay . Căn cứ khởi nghĩa của họ nằm ở An Khê,
thời đó gọi là đèo Mang (có nghĩa là cổng theo tiếng Bahnar). Vùng đất ở
phía đông đèo Mang gọi là Tây Sơn hạ đạo, còn vùng phía tây trở lên
chen lẫn rừng rậm núi cao gọi là Tây Sơn thượng đạo, một khu vực rộng
đến hơn 1500 km2 và trở thành một căn cứ an toàn cho lực lượng ban đầu
từ 1771 đến 1773. Khi làm chủ luôn cả miền Bắc, ảnh hưởng của Nguyễn Huệ
bao trùm luôn cả vùng Thượng Lào và đã nhiều lần đem quân tiêu diệt các
dư đảng của nhà Lê tại nơi đây.
Con đường mòn này không chỉ là một trục
lộ giao thông mà đối với anh em Tây Sơn, cả một khu vực phía Tây là một
địa bàn chiến lược với những sắc dân người Thượng và hàng trăm, hàng
ngàn con voi, lưu động tới những khu vực cần thiết. Cũng chính trục lộ
này Chế Bồng Nga đã nhiều lần đem quân sang bên Lào vòng xuống Quảng Oai
đánh úp Thăng Long.
TƯỢNG BINH
Một trong những binh đội quan trọng nhất
của nhà Tây Sơn nói riêng và của Đàng Trong nói chung là tượng binh.
Miền nam có nhiều voi nhưng người Việt không biết cách huấn luyện nên
các vua chúa thường phải mua của lân bang hay đòi các thuộc quốc tiến
cống. Giáo sĩ Cristophoro Borri đã viết như sau:
Có rất nhiều voi trong xứ Đàng Trong,
nhưng họ không dùng được vì chưa biết cách bắt và huấn luyện. Vì thế
phải đưa những con đã thuần thục và biết khuôn phép từ Campuchia là một
nước láng diềng. Voi ở đây lớn gấp hai voi ở Ấn độ. Chân và vết chân nó
để lại đo chừng một piê rưỡi đường kính. Răng thò ra từ miệng gọi là ngà
voi thì thường dài tới mười bốn piê, đó là voi đực. Còn voi cái thì
ngắn hơn nhiều. Vì thế người ta dễ nhận thấy voi ở xứ Đàng Trong to lớn
hơn những voi người ta vẫn dẫn đi diễu ở Âu châu: ngà chưa được hai piê
rưỡi.
Vào thế kỷ 17, 18 khu vực rừng núi bao
gồm miền bắc Campuchia, Nam Lào và miền trung nước ta còn nhiều loại voi
lớn không như giống voi cỏ là loại voi nhỏ hiện nay ta thường thấy.
Chính đó là những con voi được huấn luyện dùng trong tượng binh mà người
ta miêu tả là mang cả đại bác.
Khi có chiến tranh và trận mạc thì người ta
nhấc mui (trên) bành đi để thành một thứ chòi chở lính giao chiến với
nỏ, với súng và có khi với khẩu đại bác: voi không thiếu sức để mang nổi
và là con vật rất khoẻ, nếu không có gì khác. Chính tôi (tức giáo sĩ
Borri) đã thấy một con dùng vòi chuyên chở những vật rất nặng, một con
khác chuyển một khẩu súng lớn và một con nữa một mình kéo tới mười chiếc
thuyền, chiếc nọ theo sau chiếc kia, giữa đôi ngà một cách rất khéo và
đưa xuống biển …
Voi dùng trong chiến đấu cũng khác hẳn
những con voi được thuần hoá để dùng trong các đoàn lưu diễn hay trong
lễ lạc và cũng không giống như một gia súc mà nhiều dân tộc dùng trong
công việc hàng ngày. Nhiều khi người ta chỉ cần so sánh đội tượng binh
của một quốc gia cũng đủ đánh giá sức mạnh quân sự của nước ấy và đoàn
voi trận thường được dùng như một cách phô trương trong các buổi tiếp sứ
thần nước ngoài. Những con voi trận có khi còn được mặc giáp bằng da
hay kim loại và theo Maurice Collis, một người chuyên môn huấn luyện
voi, thì đây là những con vật được đào tạo để hung dữ theo lệnh lạc, sử
dụng như một mũi xung kích trong chiến đấu và cũng là một sát thủ giết
người bằng cách tung lên, dày đạp, xé nát (đối phương) một cách thích
thú như trẻ con.
Tôn Sĩ Nghị cũng biết tiếng voi trận của
Nguyễn Huệ nên khi đưa ra 8 điều quân luật, y đã học theo phép đánh của
người xưa để chống lại tượng binh:
… Điều thứ 4: Người Nam khi ra trận hay dùng voi. Voi không phải là món người Thanh quen thạo, hễ gặp voi thường cứ chạy đi trước. Nhưng nào có biết sức voi dẫu lớn, chung qui vẫn là con vật có huyết khí, không thể đương nổi với đồ dẫn hỏa của ta. Vậy hễ thấy voi ra trận nếu xa thì bắn bằng súng, nếu gần thì trị bằng dao và cung khiến voi bị thương, đau phải chạy quay lại, rồi tự giày đạp lẫn nhau. Quân ta (Thanh) thừa cơ ấy mà tấn công, tất thắng không còn phải ngờ nữa
Thực ra quân Thanh cũng có khá nhiều
kinh nghiệm với việc chống lại voi chiến vì vùng Vân Nam cũng có voi và
trong lịch sử họ cũng đã có khi điều động tượng binh. Ngay từ thời trung
cổ, quân Nguyên cũng đã hai lần đụng độ với voi của Đại Việt và của
Pagan (Miến). Tuy lúc đầu quân Mông Cổ có hoảng hốt nhưng khi họ rút vào
rừng thì cung liên hợp (composite bow) của họ lợi thế hơn nên voi bị
thương quay ngược lại. Quân Nguyên dùng tên lửa và vũ khí nhọn đánh bại
đoàn voi của nhà Trần năm 1257 rồi sau đó quân Minh cũng đã đánh thắng
15 vạn quân Maw Shan và 100 con voi bằng súng và hoả tiễn.
Trong cuộc chiến tranh với Miến Điện
trước khi sang nước ta không lâu, quân Thanh đã học tập khá nhiều và Tôn
Sĩ Nghị cũng từng đi theo đoàn quân viễn chinh nên không xa lạ gì với
voi chiến. Đối với binh sĩ chưa từng trông thấy con vật khổng lồ này,
việc kinh hoàng là điều đương nhiên, nhất là nhiều khi người ta đồn đãi
những điều quá sự thật.
THUỶ BINH
Khi người Việt còn định cư tại miền Bắc,
kỹ thuật đi biển của ta chưa có gì khởi sắc mặc dù đã nói đến biển cả
từ những truyền kỳ thời Hùng Vương. Hai trận đại thắng của Ngô Quyền và
của Trần Quốc Tuấn đều xảy ra trên sông, nơi giáp giới với biển chứ
không phải ở ngoài khơi. Mãi tới đời nhà Hồ, con trưởng của Hồ Quí Ly là
Hồ Nguyên Trừng mới bắt đầu đóng những chiến thuyền loại lớn. Với thói
quen sống biệt lập thành từng làng xã, sinh hoạt kinh tế, văn hoá, xã
hội, chính trị của dân miền Bắc thu hẹp trong một không gian nhỏ. Mỗi
làng là một đơn vị tự túc về mọi mặt mà không cần phải giao tiếp với khu
vực khác.
Trái lại các vương quốc ở Đàng Trong đã
có những quá khứ rất oai hùng liên quan đến mặt biển, một phần vì truyền
thống học hỏi của các nước ở vùng Đông Nam và Nam Á, phần khác vị trí
địa lý là bao lơn trông ra đại dương, nơi qua lại của một hải lộ đã nổi
danh là Con Đường Gia Vị (Spice Route) ngay từ thời thượng cổ.
Về kỹ thuật, người Chiêm Thành đã biết
dùng thuyền nhẹ dàn thành thế trận tấn công những tàu buôn từ lâu. Người
Chăm có một đội hải thuyền hùng hậu và những thủy thủ can trường thường
liều mạng xông xáo trên biển cả để buôn bán và chiến đấu. Kiểu mẫu tàu
chiến của người Chăm có hình dáng tương tự như của thuyền vùng Nam Dương
mà hiện nay chúng ta còn thấy dấu vết để lại nơi các thuyền trạm trổ mỹ
thuật của người Thái Lan trong những cuộc đua thuyền. Theo những hình
ảnh mà người Âu Châu vẽ lại về chiến thuyền của Đàng Trong, đó là một
loại thuyền chèo tay, mũi ngẩng cao, trạm trổ và trang trí hoa văn kỳ
dị, thân thon và dài đủ biết có thể lướt sóng với tốc độ cao. Để gia
tăng sức chịu đựng khi đụng vào nhau, mũi thuyền dùng trong chiến đấu
thường ghép thêm những thanh gỗ chéo vẫn còn thấy ở các thuyền nơi cửa
sông vùng Quảng Đông.
Những chiến thuyền đó không chở được
nhiều nhưng hiệu quả khi tấn công bất ngờ những thương thuyền hay tàu
lớn trong đêm tối, chiến thuật quen thuộc với người Chiêm Thành từ lâu
mà Nguyễn Huệ thường sử dụng. Tuy không có những tài liệu nào miêu tả
chính xác các kiểu thuyền của Tây Sơn, chúng ta có thể tin rằng chiến
thuyền vào thế kỷ 18 ở Đàng Trong cũng tương tự, khác nhau họa chăng là
số lượng, chiến thuật hay cách điều động mà thôi.
Do ảnh hưởng của văn minh hải đảo
Malaysian, thủy thủ vùng Đông Nam Á nói chung và thủy thủy người Chiêm
Thành nói riêng có thể ra khỏi bờ bể hàng ngàn dặm chẳng cần hải bàn hay
hải đồ, chỉ dựa theo màu sắc của những đám mây, màu nước biển và độ
sóng, giương buồm nương theo sức gió và nhìn sao để lấy hướng. Chỉ cần
tìm hiểu các loài chim biển và rong biển họ gặp, người Chăm có thể nhận
biết những hòn đảo còn cách xa đến 30 dặm và kiến thức về biển cả được
truyền miệng từ đời này sang đời khác theo kiểu cha truyền con nối.
Phương thức và kỹ thuật đóng thuyền của họ cũng rất độc đáo và người
Việt chúng ta đã kế thừa khá nhiều truyền thống của họ. Những con số
chúng ta còn ghi nhận được cho thấy tốc độ đóng thuyền rất đáng kể cho
thấy vào thời kỳ này miền Nam Việt Nam có những phát triển kỹ thuật mà
nhiều điều đến nay vẫn chưa khám phá hết.
Những thuyền đó khác hẳn những thuyền
buôn hay tàu chiến của người Trung Hoa (junks), trông nặng nề, thô kệch,
tuy trang bị nhiều đại pháo hơn nhưng thiếu linh động, khó xoay trở.
Cũng như người Chiêm Thành, Nguyễn Huệ rất chú trọng đến chiến thuyền và
cũng có hai loại: thuyền lớn để chở quân, lương thực, vật liệu và tàu
nhỏ nhẹ và linh động đùng để bao vây, tấn công và xung kích. Đội chiến
thuyền đó rất đông, ít ra cũng vài trăm, có khi lên hàng ngàn. Đó cũng
là lý do tại sao thủy quân thời Tây Sơn có một vị trí đáng kể, phù hợp
với những gì sử sách đã cho ta biết, Nguyễn Huệ luôn luôn dùng binh thần
tốc, bất ngờ, áp đảo và tiến đánh cũng như rút lui rất nhanh.
Trong nhiều thế kỷ tuy nạn cướp biển có
hoành hành nhưng cũng không trở thành một lực lượng đáng kể vì thiếu một
căn cứ địa để trốn tránh khi bị săn đuổi. Thế nhưng đến cuối thế kỷ thứ
18, Nguyễn Huệ đã nhìn ra được tiềm năng và vai trò của họ nên đã thu
dụng và trở thành một vị thủ lãnh tập hợp được nhiều nhóm khác nhau,
phân chia mỗi nhóm một lãnh bàn hoạt động, chỉ đạo các chiến dịch và cho
họ nơi trú ẩn. Robert J. Antony đã nhận ra rằng ở cuối thế kỷ 18, đầu
thế kỷ 19, cướp biển đã tập họp thành một vài nhóm, có đến hàng ngàn
chiến thuyền, tổng cộng đến hơn 7 vạn người. Dian Murray cũng tường
thuật khá chi tiết về những thủ lãnh mà Nguyễn Huệ chiêu dụ được căn cứ
trên những tấu triệp của nhà Thanh (văn thư các quan tâu về triều) còn
giữ trong Quân Cơ Xứ. Những tên tuổi của họ giải thích được phần nào một
số đô đốc chỉ có tên mà không có họ trong danh sách các tướng lãnh:
… Đối với đám hải khấu lẻ tẻ vùng Quảng
Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tô, Nguyễn Văn Huệ được gọi là Đại
Ca Việt Nam, là người bán những đồ họ cướp được và chia cho họ từ 20
đến 40% số tiền. Những bọn cướp lớn cũng được Hoàng đế che chở vì họ
không những được phép neo thuyền tại vùng biên giới (Trung Hoa và Đại
Việt) để tuyển quân và trộm lương thực mà còn có thể dùng Việt Nam như
một sào huyệt để rút về. Bọn hải khấu đó coi nhà vua như chủ nhân của
họ vì dưới thẩm quyền của ông họ có thể thu hoạch nhiều nguồn lợi từ
biển cả.
Ngay từ những ngày đầu đầu anh em Nguyễn Nhạc đã đặc biệt chú trọng đến vai trò của thủy
quân, một phần cũng vì bản chất của dân địa
phương sống liền với bể cả, một phần vì vào thế kỷ thứ 18 việc phát
triển đường biển đang lên đến cao độ. Họ đã sử dụng một số lớn thương
nhân Hoa kiều – kiêm nghề cướp biển – mà chính sử Việt Nam còn ghi chép.
Đó là Tập Đình (??) và Lý Tài (??) gia nhập quân Tây Sơn vào khoảng
cuối năm 1773. Hai người này chiêu mộ một số người Hoa tổ chức thành
Trung Nghĩa Quân và Hoà Nghĩa Quân. Hai đạo quân này rất dữ tợn, sử nhà
Nguyễn chép là:
… Lại lấy người thổ trước cao lớn, cạo đầu dóc tóc, lẫn lộn với người Thanh. Lúc đánh thì cho uống rượu say, cởi trần, đeo giấy vàng giấy bạc vào cổ, để tỏ ý là tất chết; thường làm quân tiền xung, quan quân không thể chống được …
Một trong những danh tướng của Nguyễn
Huệ xuất thân cướp biển là Trần Thiêm Bảo. Theo tài liệu Dian Murray
trích từ tấu triệp trong Quân Cơ Xứ của nhà Thanh thì Trần làm nghề đánh
cá ở vùng Liêm Châu, Quảng Đông cùng với vợ và hai con trai. Tháng 10
năm 1780, thuyền của y bị bão thổi dạt xuống phương Nam nên cư ngụ luôn
tại đó sinh hoạt khu vực gần Thăng Long. Năm 1783, gia đình y đầu nhập
Tây Sơn, được phong chức tổng binh và tham gia cuộc hành quân chống lại
họ Trịnh. Theo lời khai của Trần Thiêm Bảo thì y được người tài công cũ
là Lương Quí Hưng tiến dẫn và cả hai cùng tham gia trận đánh chiếm Thuận
Hoá năm 1785. Lương Quí Hưng được phong tước Hiệp Đức Hầu và được ban
một quả ấn khắc súc hữu đầu phát nghĩa là được quyền để tóc dài.
Trong những năm sau đó, khi Nguyễn Huệ ở
vào thế lưỡng đầu thọ địch, ông càng gấp rút tiến hành tổ chức quân đội
kể cả việc dùng tiền để mua chuộc các nhóm hải phỉ. Trần Thiêm Bảo lập
được nhiều công lao nên được thăng lên một vị trí quan trọng, đứng đầu
mọi nhóm cướp biển khác. Theo tài liệu của Thanh triều, Trần được phong
làm Tổng Binh Bảo Đức Hầu, dưới tay có đến sáu chiến thuyền, chỉ huy một
đạo quân trong đó có 200 quân người Việt. Chỉ trong mấy tháng, Tổng
Binh Bảo đã chiêu tập được tất cả các nhóm hoạt động trong vùng biển
đông và vịnh Bắc Việt, xây dựng cho Nguyễn Huệ một lực lượng thuỷ binh
đáng kể. Trong số các thủ lãnh, kiệt hiệt nhất có hai người là Lương Văn
Canh và Phàn Văn Tài. Lương Văn Canh gốc là ngư phủ ở Tân Hội, bị cướp
biển bắt hồi 1786 rồi gia nhập bọn họ, khi về đầu quân được Trần Thiêm
Bảo phong cho làm thiên tổng (lieutenant). Phàn Văn Tài gốc ngư phủ ở
Lục Thuỷ, Quảng Đông, cũng theo nghề cướp biển từ năm 1786, được phong
chức chỉ huy (commander).
Đến năm 1788, Nguyễn Huệ đã dứt tình với
Nguyễn Nhạc ở phương Nam lại bị áp lực từ phương Bắc khi nhà Thanh
chuẩn bị đem quân sang đánh, ông càng gấp rút tổ chức thuỷ quân để đối
phó với tình hình ngày càng quyết liệt. Tổng binh Bảo được cấp thêm 16
đại thuyền nữa và phương tiện để tuyển mộ thêm quân. Nhờ thế, Trần Thiêm
Bảo chiêu dụ được hai đám giặc do Mạc Quan Phù và Trịnh Thất đứng đầu.
Mạc Quan Phù người Toại Khê , bị bắt cóc trong khi đi đẵn gỗ, gia nhập
cướp biển năm 1787. Năm 1788, y liên kết với Trịnh Thất và cả hai được
Trần Thiêm Bảo chiêu mộ, phong cho làm tướng quân. Trần Thiêm Bảo có
nhắc đến hai người ra biển chiến đấu nhiều lần, khi trở về Việt Nam có
đem biếu lụa là, vải vóc và tiền bạc ngoại quốc. Những chức vụ của một
số cấp chỉ huy cho ta thấy họ không phải chỉ có danh hiệu hàm mà thực sự
đóng một vai trò trong tổ chức quân sự của vua Quang Trung. Nhà Nguyễn
sau này cố gán cho họ cái tên cướp biển không ngoài mục đích hạ thấp sự
chính thống của nhà Tây Sơn chỉ cốt để thay thế họ làm phiên thuộc của
Trung Hoa.
VŨ KHÍ
Theo sách sử còn ghi chép, ngoài những
loại võ khí thông dụng như kiếm kích, cung nỏ, gươm đao, quân Tây Sơn có
nhiều loại súng ống bao gồm cả súng đại bác và súng điểu thương (súng
chim). Súng đại bác được dùng để phòng thủ, nếu đưa ra trận thì dùng voi
kéo hay chở. Việc chở súng trên lưng voi và đội hình dùng voi xung
phong không phải là sáng kiến của Nguyễn Huệ mà là một truyền thống khá
lâu đời ở khắp vùng Đông Nam Á. Trong những trận đánh của Xiêm La và
Miến Điện chúng ta cũng thấy họ sử dụng chiến thuật này. Không nói gì về
sau khi họ đã trở thành một lực lượng đáng kể, ngay từ những ngày đầu
còn ở tại căn cứ nơi núi rừng, họ cũng đã có súng. Trong một lá thư của
giáo sĩ Diégo de Jumilla viết 15 tháng 2 năm 1774 cũng kể lại là khoảng
đầu tháng 4 năm 1773 ông ta đã thấy những người lính Tây Sơn xuống chợ
kẻ đeo gươm, người mang cung tên, lại có người mang súng.
Một trong những câu hỏi lớn mà nhiều sử
gia tránh né không muốn đề cập đến là võ khí vẫn được của quân Tây Sơn
gọi là hỏa hổ thực sự đó là gì.
… Về hỏa lực, Quang Trung có khí giới
lợi hại nhất là ống phun lửa tục gọi là hổ lửa và lực lượng xung kích
lợi hại nhất là voi trận.
Họ chỉ dùng các ống phóng làm lợi khí. Thứ
lợi khí ấy cũng gọi là hổ lửa. Trong khi hai bên giáp nhau, trước hết họ
dùng vật ấy đốt cháy quần áo người ta để cho người ta phải lui.
Nhiều người khẳng định rằng đây là một
loại súng phun lửa. Thực ra, muốn phun được lửa người ta phải có những
loại chất lỏng hoặc hơi có độ bắt lửa cao (chẳng hạn như xăng hay dầu
ngày nay) và sức ép mạnh để tống nhiên liệu về phía trước. Vào thế kỷ
thứ 18 chúng ta chưa có loại chất lỏng nào có đủ những điều kiện đó. Vả
lại dẫu có súng phun lửa, với sức người thì cũng không thể nào phun được
xa, chưa tới gần địch e rằng đã bị súng và cung nỏ của họ tiêu diệt
trước. Hai tác giả Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng thì lại giải
thích rằng hỏa hổ chính là đuốc mà quân Tây Sơn chế tạo ra từ những ngày
đầu tiên.
Thế nhưng ngay từ nhiều thế kỷ trước,
những đám hải khấu đã biết dùng một loại bom làm bằng bình đất nung,
miệng hẹp trong chứa thuốc súng và miểng, ném ra như một loại lựu đạn
chế tạo giản dị. Loại bom này gần đây đã được tìm thấy nơi biển Đài Loan
do quân của Trịnh Thành Công sử dụng khi tấn công quân Hòa Lan. Dian
Murray cũng đề cập đến việc hải phỉ dùng những loại miểng vụn của nồi
sắt hay đinh, có khi còn dùng tiền đồng hay các loại bình chứa. Họ cũng
hay đánh hỏa công bằng thuyền chất đầy đồ dẫn hỏa xông thẳng vào địch
hoặc ném những loại pháo bằng ống tre để đánh gãy cột buồm.
Một loại võ khí đặc biệt khác cũng có
tác dụng tương tự mà đám giặc biển cũng thường dùng là những bình đất
nung chứa thuốc súng trộn rượu mạnh. Diêm sinh được chứa vào nắp bình,
treo sẵn, khi xáp trận sẽ ném lên sàn tàu địch, bình sẽ vỡ và bén lửa.
Ngoài ra chúng ta không thể không nhắc đến một loại hỏa tiễn hình đầu
quạ, thân bằng tre có nhồi thuốc súng. Bốn ống phun ở đuôi có thể đẩy
loại tên lửa này bay xa đến 300 mét và thường được dùng để đốt phá doanh
trại hay tàu bè của đối phương đã khá phổ biến và thông dụng từ trước
thế kỷ 17.
Những loại đạn phóng như thế cũng đã
được quân Mông Cổ dùng trong những cuộc tấn kích Nhật Bản và các quốc
gia vùng Đông Nam Á mà sử sách còn ghi chép. Việc sử dụng thuốc súng vào
trong những loại súng phóng tay (hand-held projectile weaponry) đã được
dùng khá rộng rãi trên bộ cũng như trên biển vào thời kỳ đó nhưng cụ
thể loại võ khí đó ra sao thì chưa thấy ai đề cập đến. Tài liệu duy nhất
miêu tả sơ qua chỉ được thấy trong tờ biểu của Nguyễn Huy Túc như sau:
Tháng 6 năm thứ 51 (tức năm Bính Ngọ 1786)
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Văn Huệ công thành, nghe nói có đến hơn 5 vạn quân,
khí giới của chúng phần lớn là giáo mác và hỏa đồng, còn có tên là hoả
hổ, có bầu (nguyên văn doanh bả) lớn, dài chừng một thước (khoảng 30
cm), khi lâm trận phun lửa, trong ống tống nhựa thông ra, trúng phải
đâu, lập tức bốc cháy, có cả hoả pháo nhưng không nhiều
Xem như thế, rất có thể quân lính của
Nguyễn Huệ đã sử dụng một loại súng phóng loại này để tấn công và đốt
cháy đồn quân địch dưới cái tên hỏa hổ .
Một giả thuyết khác mà chúng tôi đưa ra
là ở vào thời kỳ này người ta đã biết chế tạo một loại hỏa tiễn đốt theo
hai giai đoạn (two-stage rocket) gọi là hỏa long (fire-dragon). Con
rồng lửa là một loại ống phóng có bốn hỏa tiễn ở thân chính, khi cháy
hết sẽ mồi vào những tên lửa ở trong bụng rồng và những tên lửa đó sẽ
được bắn vọt ra đằng miệng. Hỏa long được sử dụng trong những trận hải
chiến mà hai bên còn cách xa, các bình thuốc nổ ném chưa tới, dùng để
đốt tàu địch. Vì chưng hỏa tiễn bắn ra hàng loạt trông như một con rồng
lửa bay trên mặt nước nên được đặt tên là hỏa long. Có thể cũng loại võ
khí này được cải tiến đôi chút để sử dụng trên bộ nên được đặt tên là
hỏa hổ để tượng trưng cho một loại trên bờ, một loại dưới nước nhưng
thực chất chỉ là một. Vả lại hỏa long, hỏa hổ chủ yếu đều dùng tre, nứa
làm ống chứa thuốc mà tre trúc là một loại thảo mộc rất thông dụng ở
phương nam nên việc quân Tây Sơn sử dụng các loại võ khí này cũng không
phải là chuyện lạ. Có thể nói, nguyên thủy võ khí đó do người Trung Hoa
nghĩ ra nhưng lại được dùng như một thứ võ khí chiến lược của quân Nam
để chống lại phương Bắc. Có lẽ vì thế mà người thời đó đã truyền tụng
là:
Hổ tự Tây Sơn xuất
Long tòng Đông Hải lai
(Hỏa hổ phát xuất từ rừng núi phía Tây,
Hỏa long nguồn gốc từ biển cả phía Đông)
Những loại võ khí đó không phải là một
độc quyền hay bí mật quân sự mà bên kia không biết hay không chế tạo
được. Có điều quân Tây Sơn vẫn nổi tiếng là phong phú về thuốc nổ và họ
cũng mua được những loại thuốc súng của người Âu Châu nhạy hơn và cũng
mạnh hơn của quân Thanh nên quân Tây Sơn luôn luôn có uy thế áp đảo
trong những trận đánh. Chiến đấu trong tư thế áp đảo bằng lực lượng cũng
như về vũ khí vốn dĩ là một lối đánh mà vua Quang Trung thường sử dụng.
Riêng về hỏa cầu (fireball) chúng ta
thấy miêu tả tương tự như các loại bom đạn thời nay nhưng thời kỳ đó kỹ
thuật quân sự thế giới chưa đạt tới trình độ này nên tuy có nhiều điểm
tương đồng với loại bình đất nung mà hải phỉ thường dùng, chúng tôi cũng
đặt một câu hỏi và cho rằng có thể người ta mới đặt ra để trám vào một
nghi vấn chưa có tài liệu cụ thể minh chứng. Hỏa cầu đã được hải quân
(và cả giặc cướp) dùng từ lâu để phá vỡ tàu địch nhưng chỉ được dùng
trên bộ khi người ta đã chế tạo được những loại thuốc súng tốt, bén lửa
nhanh và ít khói. Kỹ thuật chế tạo thuốc nổ bộc phát ở Âu Châu từ thế kỷ
14, 15 đã truyền sang Nam Á và được sản xuất khá nhiều trong thời kỳ
này.
Cứ như nhận xét của nhiều người Âu có
mặt trên đất nước ta thời đó, trang bị của quân Việt Nam rất hùng hậu.
Trong tình thế mà việc chiến đấu là lẽ sinh tử sống còn, nhà Tây Sơn
cũng như các đối thủ của ông đều cố gắng hết sức bắt liên lạc với thương
nhân và các nhà truyền giáo ngõ hầu có thể mua được các loại vũ khí mới
của họ mặc dầu lắm khi họ không muốn đứng hẳn về một phen nào. Tuy
nhiên với những số tiền lớn bỏ ra và nhiều hình thức cưỡng đoạt khác,
quân Tây Sơn cũng có được nhiều loại võ khí tối tân nhất thời đó, đáng
kể là một số lượng lớn các loại súng điểu thương, hỏa mai và đại bác.
Như chúng ta đã biết, quân Tây Sơn kế
thừa tất cả những kỹ thuật của xứ Đàng Trong, bao gồm cả chế tạo và sử
dụng nhiều loại súng. Theo nhận xét của các giáo sĩ và thương nhân Âu
Tây, trong suốt hai trăm năm phải giữ miếng với nhau, cả Đàng Trong
lẫn Đàng Ngoài đầu hết sức canh tân về quân sự. Chúa Trịnh đã được đặt
cho cái biệt danh là thủy vương (lord of water) vì có một lực lượng
hải quân khá hùng hậu trong khi Chúa Nguyễn được gọi là hỏa vương
(lord of fire) vì quân đội miền nam được trang bị khí giới đầy đủ và tân
tiến hơn. Đó cũng là lý do tại sao Đàng Trong tuy kém thế hơn nhưng vẫn
cầm cự được mà không bị đánh bại.
Ngoài súng đại bác để bắn từ xa, các
loại súng điểu thương và súng tay cũng được sử dụng rộng rãi. Vào thế kỷ
thứ 17, súng điểu thương (flintlock) là loại súng bắt nguồn từ Âu Châu
đã được dùng khắp nơi kể cả Mỹ Châu và Á Châu. Về kỹ thuật, người Việt ở
Đàng Trong cũng nổi tiếng là thiện xạ và thuần thục trong việc sử dụng
các loại súng tay cũng như đại pháo.
Người Đàng Trong hiện giờ đã hết sức
chuyên môn trong việc dùng súng lớn và súng nhỏ vượt xa cả Âu Châu; vì
dường như suốt ngày họ chẳng làm gì khác ngoài việc tập bắn. Họ giỏi đến
nỗi họ có thể dùng súng lớn bắn trúng còn hơn người ta bắn bằng súng
nhỏ. Súng hoả mai họ bắn cũng tài lắm vì ngày nào cũng ra đồng để thực
tập.
Một trong những chi tiết rất quan trọng
là vì địa thế chật hẹp, gập ghềnh nên quân đội của ta thời đó rất ít
dùng đại pháo nhưng lại có rất nhiều súng đại bác loại nhỏ (small
cannon). Những khẩu đại bác đó có thể mang trên lưng và bắn một loại đạn
nặng chừng hơn 100 gr (4 ounces). Một người lính cõng cái nòng súng
(barrel), dài chừng 2 thước, trong khi một người lính khác mang cái
giá là một khúc gỗ tròn dài cũng chừng cái nòng súng. Khi tác xạ, cái
giá được dựng lên bằng hai cái càng hay một cái chạc cao khỏi mặt đất
chừng một mét, nòng súng sau đó để lên trên giá trong một cái ngàm sắt.
Người lính có thể điều chỉnh độ nhắm và kiểm soát bằng một cái báng tì
lên trên vai. Các loại súng này rất tiện lợi cho việc di chuyển và phục
kích quân địch.
Quân Tây Sơn cũng được huấn luyện để tự
pha chế lấy thuốc nổ và người Âu châu đã kinh ngạc vì họ nạp đạn nhanh
hơn bất cứ quốc gia nào khác. Trong khi người Anh phải thực hiện đến 20
động tác cho mỗi lần nạp đạn thì người Việt chỉ cần có 4 động tác.
Súng thời đó vẫn nạp tiền nghĩa là nạp
thuốc và đạn từ đằng trước và thường đúc bằng đồng cho dễ, ít bị nứt vỡ.
Đại bác thời đó đủ cỡ và dài ngắn khác nhau tùy theo mỗi nước, mỗi thời
kỳ. Muốn bắn được xa thì nòng phải dài, việc đợi cho thuốc cháy hết
cũng lâu hơn. Thoạt tiên, những súng trường được gọi dưới các tên
matchlock, arquebus hay musket là những súng cá nhân trang bị cho bộ
binh. Những súng đó dài và nặng nề nhưng về sau nòng súng (barrel) đã có
khương tuyến (grooves) để khi viên đạn bắn ra sẽ xoay tròn và vì thế đi
được xa hơn. Đạn là đạn chì hình tròn, vừa khít với nòng súng, phải
nhồi từ trước bằng môït cây thông nòng (ramrod) và một cái búa gỗ
(mallet). Khi viên đạn bắn ra, đạn đạo sẽ bay thẳng và không bị lệch
hướng như đạn súng trường thuở trước.
Súng trường dài từ 1.5 đến 1.6 mét, hơn
chiều cao trung bình của người Việt Nam, có báng và gỗ đỡ nòng, được
trang trí bằng những hoa văn kim loại. Dùng trong chiến trận, viên đạn
có thể đúc nhỏ hơn một chút cho tự động chạy vào trong nòng súng. Loại
súng điểu thương được mồi bằng đá lửa (flint) bằng một cái cần mổ hình
như mỏ gà (pecking hen). Mỏ gà được kéo ngược ra sau bằng tay cho mắc
vào khớp và sẽ giữ tại đó. Khi người lính bóp cò, mỏ gà sẽ bật ra, mổ
viên đá vào một thanh sắt cho xẹt ra tia lửa, đồng thời buồng thuốc súng
sẽ mở ra để lửa bén vào.
Súng quân lính thời Tây Sơn dùng chính
là loại điểu thương này, cộng thêm việc sử dụng rộng rãi các loại hỏa
long, hỏa hổ, các loại bình chứa miểng như một loại bom sơ khai
đã
khiến cho họ có nhiều ưu thế về sức mạnh, việc huấn luyện cũng mau hơn,
hiệu năng lại cao hơn lối đánh dùng các loại cung nỏ, gươm giáo. Nói
chung là cả hai bên thời đó đã dùng nhiều loại vũ khí dùng thuốc nổ. Có
điều vì thuốc súng còn sơ khai, nhất là thuốc súng của nhà Thanh bắt lửa
kém, nhiều khói nên họ thường đốt để làm màn khói che cho trận đánh hơn
là dùng để tác xạ. Chính vì thế mà sử sách đã ghi là vua Quang Trung
áo bào đen như mực vì ám khói.
Chúng ta không có con số cụ thể bao nhiêu
binh sĩ các loại và trang bị như thế nào nhưng so sánh với những lực
lượng đối nghịch, trang bị của quân Tây Sơn chắc hẳn không kém hơn.
Ngoài súng tay và các loại khí giới cổ điển đã dùng từ lâu trên đất
Việt, quân Tây Sơn cũng còn tập trung được khá nhiều súng ống cũ của cả
Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong. Đại bác thì đã được đúc tại Nam Hà từ lâu và
ngoài bắc cũng có phường đúc.
DI HÀNH
Nhiều huyền thoại đã được thêu dệt và
nhiều giả thiết được dùng để giải thích cho hợp lý lối chuyển quân nhanh
chóng và hiệu quả của Nguyễn Huệ. Chính vì quá sùng bái ông, nhiều nhà
nghiên cứu đã đề cao những chi tiết chỉ ghi lại trong tiểu thuyết và
ngoại sử, sử dụng như một nguồn tài liệu cơ bản. Những chi tiết đó phần
lớn do truyền khẩu, hoặc có thể do một số tác giả dựng lên, nhiều chỗ
hoàn toàn khác với chính sử nhà Nguyễn. Tuy nhiên vì tự ái dân tộc, vì
quan điểm chính trị, hay vì muốn có những con số cụ thể nên nhiều người
trong chúng ta đã hoàn toàn quên đi tính thực tế của sự việc. Người ta
thường nhắc đến chiến thuật điều binh bằng cách cho hai người võng một
người đi suốt ngày đêm để tiết kiệm thời gian hoặc gần đây có tác giả
lại khẳng định đó là chiếc thuyền nan đặc biệt của vùng Huế mà những
người bán rong trên sông Hương hay dùng.
Những luận cứ đó xem ra không đủ thuyết
phục vì việc di chuyển một đoàn quân hàng vạn người trong một thời gian
hết sức ngắn ngủi (4 ngày từ Huế ra Nghệ An theo dã sử) là một chuyện
không thể thực hiện ngay cả với phương tiện của thời đại ngày nay. Vào
thời kỳ đó đường từ Phú Xuân ra Bắc chưa có đường lớn, chỉ là đường mòn
dọc theo triền núi nên chỉ có thể đi thật gọn nhẹ, muốn di chuyển với đồ
đạc, quân lương, khí giới phải đi bằng thuyền.
Trong khi quân Thanh sang nước ta được
miêu tả như một đoàn quân vừa yếu vừa quá mê tín dị đoan … lính Trung
Hoa mang theo cả điếu hút, bát đĩa và các hành trang phụ khác, đeo lủng
lẳng ở thắt lưng họ. Họ vừa là lính vừa là lái buôn bồi bếp … thì quân
Nam Hà trông giống như một toán bệnh nhân ốm yếu hơn là một đoàn chiến
binh mà họ ghi nhận là những kẻ man rợ từ cao nguyên miền Nam, phù
hợp với nhận định của John Keegan là chiến tranh nào cũng cần di chuyển
nhưng đối với những dân tộc định cư thì chỉ đi một đoạn ngắn cũng gặp
nhiều khó khăn.
Theo những điều người ta mục kích, quân
Tây Sơn có voi, ngựa, võng, các loại xe kéo … nhưng chủ yếu vẫn là đi bộ
và hầu hết các phương tiện khác chỉ dành cho cấp chỉ huy hay chuyên chở
vũ khí, lương thực. Việc di chuyển vì thế rất nhọc nhằn và hao binh tổn
tướng là điều không thể tránh khỏi. Khi tình hình khó khăn, binh lính
đào ngũ cũng là một vấn đề nghiêm trọng.
… Ông tiến như vũ bão ra Bắc (từ Thanh Hoá ra Ninh Bình) chỉ mất có một ngày, không quản đường xa khó nhọc đã giết chết nhiều ngựa voi của ông, trong khi người khác phải mất ba bốn ngày …
Tốc độ di hành luôn luôn có liên hệ mật
thiết với phương tiện và địa thế. Trong lịch sử, những đạo quân có thể
di chuyển nhanh thường là những dân tộc vùng thảo nguyên bằng phẳng dùng
chiến xa hay ngựa cưỡi. Điều duy nhất mà quân Tây Sơn có thể đi nhanh
được là trang bị gọn nhẹ, nói khác đi sinh hoạt còn rất sơ khai nên
không bị lệ thuộc vào tài sản vật chất phải mang theo. Vào thời kỳ đó,
đơn vị căn bản là làng xã của nước ta có dân số trung bình chỉ khoảng
vài trăm đến một ngàn, việc di chuyển hàng vạn người (tương đương với
vài chục xã) đi một khoảng cách vài trăm cây số chắc chắn sẽ có ảnh
hưởng lớn đến những địa phương ngang qua. Những đoàn quân đó thông
thường cũng kéo theo một cái đuôi dài bao gồm xe cộ, lừa ngựa, gia súc,
vật dụng cá nhân … và cả đàn bà, trẻ con, ông già, bà cả … Đây là tình
trạng chung của mọi quốc gia, mọi quân đội chứ không riêng gì quân Tây
Sơn, nhất là trong đó rất đông những binh sĩ người Thượng có thói quen
đi chung với nhau thành từng bầy.
Điều kiện sống thấp kém và kỷ luật tàn
nhẫn là những yếu tố cơ bản, chưa kể tiếng nói, phong tục xa lạ với địa
phương họ đi ngang qua nên phải giới hạn tối đa việc tiếp xúc. Vì tình
trạng thiếu một hệ thống tiếp liệu hay chợ búa để trao đổi vật dụng,
tình trạng cướp đoạt thực phẩm, heo bò … của dân chúng thường không
tránh khỏi. Để tránh tình trạng binh lính đào ngũ, các tướng lãnh thường
phải chấp nhận một số tệ đoan khiến quần chúng coi họ như kẻ cướp.
Chúng ta cũng không lấy làm lạ khi nhiều
giáo sĩ và thương nhân Tây phương cho biết họ chứng kiến cảnh ăn thịt
người tại một vài địa điểm trong thời gian đói kém ở Đàng Trong và cả
cảnh quân Tây Sơn chia nhau ăn gan, ăn tim một số tội nhân sau khi bị
hành hình ở Bắc Hà. Một điều chắc chắn, Nguyễn Huệ luôn luôn tiến quân
rất nhanh không phải do kỹ thuật gì khác thường mà do quyết tâm và kỷ
luật thép, một hình thức bạo lực khiến người ta kinh hoàng. Kỷ luật đó
cũng là một trong những yếu tố để cho thể duy trì một đội quân luôn luôn
sẵn sàng chiến đấu.
TIẾP VẬN
Về tình hình tại Đàng Trong thế kỷ thứ
18 chúng ta thấy rất ít khả năng xây dựng những doanh trại lớn trú đóng
hàng vạn quân để sử dụng khi cần thiết. Nhu cầu chiến tranh và cơ cấu
đơn sơ của thời đó khiến chúng ta phải nghĩ đến một phương thức đồn trú
rất thông dụng là mỗi người lính đều ở với gia đình và ra trình diện khi
gọi đến còn khi ra khỏi địa phương thì chia ra từng tiểu tổ ở lẫn với
dân. Lương thực vì thế cũng thất thường và chủ yếu dựa vào số gạo thóc
cướp được của địch hay mua tại địa phương đi ngang qua. Những phương
thức đó đều rất bấp bênh nhất là vào những năm đói kém.
Theo tính toán của các chuyên gia về hậu
cần, ngoài lương thực, binh lính còn nhiều nhu cầu khác như y phục, vũ
khí, vật dụng hàng ngày, củi lửa … chỉ có thể kiếm được tại những thị
trấn có đông dân cư. Nếu không có quần chúng – trong trường hợp phải di
chuyển trong rừng sâu hay hoang địa – một người chỉ đủ sức mang theo
thực phẩm căn bản trong vòng 5 đến 10 ngày, nếu đi xa hơn thì bắt buộc
phải có những trạm tiếp liệu (magazines) hay (đôi khi) phải cử người đi
trước để kiếm lương hoặc gầy dựng chợ búa ngõ hầu các cánh quân đi sau
có chỗ mua bán đồ dùng cần thiết. Phương thức tiếp liệu và sinh hoạt của
quân Tây Sơn theo các giáo sĩ miêu tả thì thường chia nhau ra đóng tại
các đền chùa, miếu mạo, nhà thờ … nên không tránh được việc binh sĩ làm
hư hại các cơ sở này mà nhiều người ta thán mặc dù dứng về mặt quân sự
thì đây là cách sinh hoạt tự túc đơn giản và hữu hiệu hơn cả. Cũng như
bất cứ một binh đội nào, khi rút lui, quân Tây Sơn thường cướp phá các
làng mạc họ đi ngang mặc dù Nguyễn Huệ nổi tiếng là khắt khe với những
thành phần vô kỷ luật.
Để có vật liệu đúc súng hay rèn vũ khí,
nhiều tượng thờ, chuông đồng và dụng cụ canh nông đã bị trưng dụng nhưng
không phải vì lý do tôn giáo như người ta kết án mà vì nhu cầu chiến
tranh.
Dường như các sử gia Việt Nam chưa quan tâm
đúng mức về vấn đề lương thực và trang bị của quân Tây Sơn mặc dù cũng
có người đưa ra một giả thuyết về lương khô của binh sĩ thời đó là món
bánh tráng, mỗi khi ăn chỉ cần nhúng nước là có thể qua bữa. Ngoài lương
thực, chúng ta cũng không thể bỏ qua súng ống, đạn dược … vốn dĩ rất
nặng nề, không dễ dàng di chuyển trên đường đất ngoằn ngoèo, lầy lội vào
mùa đông và thường đòi hỏi một số dân công đông đảo để phục dịch. Ngoài
súng thần công loại nhỏ được chở trên lưng voi, Nguyễn Huệ không đem
theo các loại súng lớn và đã công thành bằng biện pháp sơ đẳng nhất là
dùng sức người và các cuộn rơm để xông vào, sau đó đánh hoả công.
Tài liệu về những vấn đề liên quan đến
hậu cần khác như chữa bệnh, tản thương hay các chính sách quản trị nhân
sự khác (lương bổng, tử tuất, khen thưởng, tưởng lệ …) thì hoàn toàn
không ai ghi lại. Với hình thức tổ chức còn sơ khai, những vấn đề đó
chắc chưa được qui định rõ ràng mà chỉ giải quyết dựa theo tình hình và
khả năng thực tế hay tại chỗ.
Trên thực tế, quân đội của Nguyễn Huệ
không phải là một tập thể thuần nhất mà tuyển mộ từ nhiều khu vực khác
nhau, gồm nhiều thành phần, nhiều dân tộc, có tập quán và sinh hoạt đa
dạng. Quân đội đó không theo tổ chức chính qui nên phần lớn không có
lương bổng, phải tự túc nhiều mặt và có gì ăn đó chứ không có tiêu chuẩn
hàng tháng, hàng ngày. Riêng tại miền Bắc trong những năm đó, số người
bị bắt vào lính rất đông, gần như phe nào cũng muốn vét cho đến người
cuối cùng. Việc ăn uống vì thế không theo tiêu chuẩn nhất định mà tuỳ
theo tình hình, theo thói quen của từng nhóm, không hiếm những thành
phần có lối sống còn rất dã man được người nước ngoài ghi lại.
Mặc dù không có tài liệu nào đề cập một
cách rõ rệt nhưng xuyên qua tập quán chung của quân Tây Sơn trong những
cuộc hành quân trước ở Gia Định, sinh hoạt bình thường hàng ngày và
những tường thuật giản lược từ nhiều nguồn, chúng ta có thể tin rằng
không phải chỉ ở nước ta mà hầu như trên toàn thế giới, vào thời kỳ đó
số binh đội đạt tới tổ chức chu đáo để binh sĩ có thể coi đi lính như
một nghề và sinh hoạt hoàn toàn có thể trông vào lương bổng rất hiếm nên
cấp chỉ huy vẫn phần nào dung túng cho việc cướp bóc, chiêám đoạt để
mưu sinh cũng có mà để thủ lợi cũng có.
Chỉ những khi đóng quân và phải ổn định
trật tự thì kỷ luật thép mới được áp dụng còn khi di chuyển, việc kiểm
soát đã khó mà rất có thể chính cấp chỉ huy cũng chủ động trong việc thu
đoạt tài vật. Chúng ta chỉ có thể đoán chừng Nguyễn Huệ và tướng lãnh
cao cấp chiếm đoạt kho tàng và tống tiền người giàu là vì nhu cầu xây
dựng quân đội trong khi các cấp dưới do động lực tham lợi nhiều hơn.
Theo thư của giáo sĩ Le Roy ở Nam Định viết cho ông Blandin ở Paris ngày 11 tháng 7 năm 1786 thì:
… Những người Nam Hà này đã áp dụng sự xử án khắc nghiệt, mới thấy tố cáo chẳng cần đợi xét xử lôi thôi, họ đã chém đầu những bọn trộm cướp hay tất cả những kẻ nào bị người ta tố cáo là trộm cướp Người ta rất lấy làm thích sự xử phạt như vậy và sự liêm khiết của quân Tây Sơn. Vì họ không cướp bóc ai, họ chỉ biết chặt đầu mà thôi. Điều đó đã khiến cho yên lành ở một vài nơi trong một thời gian.
Chính vì tình hình như thế, chúng ta
không thể không tham chiếu những sinh hoạt tiêu biểu của Đàng Trong và
các nước chung quanh vào thời kỳ đó để có thể hình dung được đoàn quân
đó như thế nào, thay thế những dữ kiện lịch sử viết quá sơ sài hoặc do
tưởng tượng không chính xác.
Mặc dù những nỗ lực của mọi phía để bắt
lính, thu lương nhưng thời nào cũng có những giới hạn nhất định có tính
qui luật không thể vượt qua. Đó là những nguyên tắc chặt chẽ của ngành
hậu cần (logistics) đã được Jomini định nghĩa là nghệ thuật thực dụng
của việc chuyển quân (the practical art of moving armies) trong đó bao
gồm cả cung ứng những đội ngũ tiếp liệu liên tục (providing for the
sucessive arrival of convoys of supplies) và thiết lập, tổ chức đường
tiếp liệu (establishing and organizing … lines of supplies). Một cách
tổng quát, vấn đề tiếp vận là làm sao một mặt di chuyển được binh đội,
mặt khác cung cấp đủ cho họ những điều kiện vật chất để sẵn sàng chiến
đấu.
Không phải chỉ sử gia Việt Nam, hầu hết
những nhà nghiên cứu thế giới cũng ít ai nghiên cứu vấn đề tiếp vận một
cách tường tận và thường đơn giản hoá việc di hành. Nhiều sử gia còn coi
việc di chuyển một đoàn quân quá giản dị đến mức không đếm xỉa gì đến
những điều kiện thực tế tưởng chừng như một đoàn quân có thể di chuyển
đi bất cứ phương hướng nào, bằng bất cứ tốc độ nào, bất cứ khoảng cách
nào một khi cấp chỉ huy đã quyết định . Con người cũng như con vật
trong một đoàn quân đều cần lương thực, quân trang, khí giới … và những
điều kiện tối thiểu về sinh hoạt, nghỉ ngơi khi di hành mặc dù trong
nhiều trường hợp con người bị bắt buộc áp giải đi một cách miễn cưỡng
nhưng tinh thần chiến đấu đương nhiên rất thấp.
Việc di chuyển và tiếp liệu đó tuỳ thuộc
vào nhiều yếu tố kể cả kỹ thuật, tổ chức và nhiều yếu tố phụ và chính
những thực tế đó quyết định sức mạnh của đơn vị chứ ít khi vì tinh thần
yêu nước nồng nàn, hi sinh vì đại nghĩa hay lòng căm thù sâu sắc … như
người ta thường nhấn mạnh.
TRUYỀN TIN
Quân Tây Sơn vốn dĩ không phải chỉ gồm
một chủng tộc thuần nhất nên việc truyền tin cần giản dị và dễ dàng.
Trong quá trình của họ, người ta thấy họ hay dùng tiếng kêu để truyền
hiệu lệnh cho nhau nên đã được gọi là binh Ó.
Một đặc điểm khác có thể do ảnh hưởng
của dân vùng thượng du là họ cũng hay dùng chiêng trống để thúc quân,
thu quân. Khi ra Bắc, để khỏi lẫn lộn việc khi vui chơi với hiệu lệnh
của chiến trận, họ đã cấm dân chúng không được đánh trống.
… từ ngày 17 (tháng 12 năm 1788), các
làng mạc đánh trống để đánh dấu sự vui mừng của họ vì trống tuy là một
nhạc khí được dân Bắc Kỳ rất ưa chuộng đã bị cấm đánh và ngưng sử dụng
từ ngày quân Tây Sơn làm chúa tể xứ này …
Quân Thanh trên đường tiến xuống Thăng
Long cũng đụng độ với quân Tây Sơn tại ranh giới Tam Dị, Trụ Hữu. Quân
Nam dùng ba loại cờ, đỏ, trắng, đen chia thành ba đội đánh trống tấn
công. Ngoài ra, chiếc khăn đỏ thường dùng để bịt đầu của cấp chỉ huy
cũng có khi được sử dụng như một loại kỳ hiệu. Việc dùng các màu cờ khác
nhau có lẽ do ảnh hưởng của người Chăm. Đến đời Nguyễn, khi thấy quân
đội có quá nhiều cờ quạt phức tạp nên vua Minh Mạng phải ra lệnh cho
giảm bớt.
RÚT LUI ĐỂ BẢO TOÀN
Như chúng ta đã thấy, sau khi thấy dân
chúng miền Bắc chưa ủng hộ mình một cách triệt để, giới quan lại cũng
không hưởng ứng sự vận động của nhóm Ngô Thì Nhậm tôn mình lên làm vua,
Nguyễn Huệ hậm hực rút quân về Nam để một số tì tướng trấn thủ Bắc Hà.
Cũng như sách lược chung mà nhà Tây Sơn áp dụng tại những khu vực chưa
hoàn toàn thuần hoá, miền Bắc trở thành một nơi mà dân chúng có hai hệ
thống cai trị, quan lại cũ của nhà Lê đóng nhiệm vụ hành chánh dưới
quyền của một quốc trưởng bù nhìn Lê Duy Cẩn, còn hệ thống quân sự do
Ngô Văn Sở chỉ huy giữ nhiệm vụ bảo hộ trị an thuộc quyền Nguyễn Huệ tại
Phú Xuân.
Hai hệ thống đó nương tựa vào nhau một
cách hời hợt nên khi có biến, quân Tây Sơn lập tức rút đi để lại miền
Bắc cho quan lại nhà Lê tự sinh tự diệt. Khi quân Thanh kéo đến, triều
đình Lê Duy Cẩn lập tức ra hàng khiến quan lại nhà Lê đành cam chịu sự
trừng phạt, báo thù khi Lê Duy Kỳ trở về. Chúng ta không biết số quan
lại đó những ai chạy được theo quân Tây Sơn vì tình hình theo chính sử
thì dường như tuyệt đại đa số vẫn còn ở Thăng Long.
DNCBLT chép như sau:
… Tôn Sĩ Nghị từ khước. Ngô Văn Sở bèn
hội các tướng thương nghị đánh hay giữ. Ngô Nhậm đề nghị rút lui giữ núi
Tam Điệp cho thuỷ quân và lục quân thông nhau chiếm cứ chỗ hiểm yếu mà
cố thủ, sai người gấp đưa thơ cáo nguy cấp.
Ngô Văn Sở bèn mật truyền các trấn Kinh
Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn lên (đánh) tiếng nói (phao rằng) hội quân xây
luỹ đất ở sông Nguyệt Đức rồi ngầm thu quân mà lui về. Ngô Văn Sở đưa
thông tư cho các quan trấn thủ Hải Dương, Sơn Tây nội ngày phải hội quân
ở Bắc Thành, cho trấn thủ Sơn Nam phải chỉnh bị thuyền tàu chờ thuỷ
quân đến thì cùng tiến phát.
… Ngô Văn Sở … ra lệnh cho các đạo quân chỉnh tề đội ngũ mà đi đến núi Tam Điệp (Tằng?), chia đồn đóng quân cố thủ, gấp sai Nguyễn Văn Tuyết, một tên nữa là Đinh Công Tuyết, vội chạy về báo nguy cấp.
Sĩ Nghị khước chi. Sở nãi hội chư tướng thương nghị chiến thủ, Ngô Nhâm (Nhậm) nghị thoái bảo Tam Điệp sơn, thuỷ lục tương thông, cứ hiểm dĩ thủ khiển nhân trì thư cáo cấp.
Sở nãi mật truyền Kinh Bắc, Thái (Nguyên), Lạng (Sơn) chư trấn thủ thanh ngôn trúc Nguyệt Đức giang thổ luỹ nhi tiềm thu quân dĩ qui. Di tư Hải Dương, Sơn Tây chư trấn thủ khắc nhật hội Bắc Thành, Sơn Nam trấn chỉnh sức thuyền tào hầu thuỷ quân chí tịnh phát.
… Sở lệnh chư quân túc đội nhi hành chí Tam Tằng (Điệp) sơn phân đồn cố thủ, cấp sử Nguyễn Văn Tuyết, nhất tác Đinh Công Tuyết, trì hồi cáo cấp.
Trong tình hình đó, nếu như trước đó
Nguyễn Huệ không tiên liệu những biến chuyển có thể xảy ra để tính toán
một đường rút lui thì việc tập trung quân về một vị trí cổ ngỗng như Tam
Điệp cũng do tướng lãnh Tây Sơn suy nghĩ về thế yếu, thế mạnh của ta và
địch rồi tự quyết chứ không phải do mưu sĩ Bắc Hà hiến kế. Việc quân
Tây Sơn rút lui rất bí mật và êm thắm và ngay cả một số quân địa phương
trấn đóng ở nơi hẻo lánh cũng bị bỏ rơi, không theo kịp nên việc đem
theo một số quan lại nhà Lê cần phải xét lại. Chúng ta cũng có thể ngờ
rằng việc đưa ra chi tiết chủ trương rút lui là của Ngô Thì Nhậm chỉ có
thể được bịa đặt để hạ uy tín tướng lãnh Tây Sơn, miêu tả như thành phần
hữu dũng vô mưu, hoàn toàn không có chiến thuật chiến lược gì. Cũng
trong đoạn trên, DNCBLT cũng chép cả việc Phan Văn Lân bộp chộp đốc
suất tướng sĩ mạo hiểm giá rét lội bừa qua sông, phần nhiều bị chết
chìm, người nào qua được đến bờ lại bị quân Thanh giết chết … để phải
một mình một ngựa chạy về. Chi tiết này dường như chép theo Hoàng Lê
Nhất Thống Chí và hoàn sai sự thực vì quân Tây Sơn còn chặn đánh quân
Thanh nhiều trận dọc từ Lạng Sơn xuống Thăng Long để cầm chân địch, tuy
không thành công nhưng cũng khiến cho địch phải lao đao, không đến nỗi
chưa đánh đã chạy như sử nhà Nguyễn miêu tả.
Dầu sao chăng nữa, sau khi thu tóm mọi
nhân lực tài lực của miền Bắc rồi rút về Phú Xuân, quân Tây Sơn đã bỏ
ngỏ một trận địa lớn cho quân Thanh bơ vơ, chịu đựng những cơn mưa dầm
và thời tiết lạnh lẽo của mùa đông ở miền Bắc. Tôn Sĩ Nghị phải trải
mỏng quân thành những mục tiêu cố định rồi nương theo cách bố trí của
địch để sắp xếp kế hoạch tấn công. Kế hoạch tạo điều kiện để quân địch
đóng quân tập trung thành một khu vực lòng chảo là một chiến thuật mà
nhiều quân sự gia Đông cũng như Tây, kim cũng như cổ thường áp dụng để
đánh một trận quyết liệt.
NGUYỄN HUỆ LÊN NGÔI HOÀNG ĐẾ
Từ trước đến nay, sử nước ta vẫn cho
rằng Nguyễn Huệ lên ngôi để cho chính vị. Lý do đó hàm ý bản tâm ông
không (hay chưa) muốn lên ngôi nhưng đành phải chấp nhận một cách miễn
cưỡng vì nhu cầu quân sự và chính trị. Việc vua Quang Trung lên ngôi
hoàng đế để danh chính ngôn thuận ra đánh quân Thanh được chấp nhận như
một lý sở đương nhiên, không ai dị nghị mặc dù một số tác giả có đặt
câu hỏi về ngày giờ chính xác ông đăng quang ở núi Bân.
Thực ra, Nguyễn Huệ không phải không
muốn lên ngôi mà ông đã có ý tự lập ngay từ khi đem quân ra Bắc Hà lần
thứ hai vào tháng 5 năm 1788. Cũng vào thời gian này, ông gặp Ngô Thì
Nhậm và người bầy tôi mới lập tức khuyên ông lên ngôi hoàng đế đồng thời
chủ trì việc đi xin chữ ký để suy tôn ông cho hợp cách.
Sau ba bức thư suy tôn của quần thần
nhà Lê (chưa kể một chiếu trưng cầu dân ý do chính Nguyễn Huệ hỏi dân
Bắc Hà) nhưng tình hình chưa thuận lợi khiến Nguyễn Huệ hậm hực bỏ về
Phú Xuân, đem theo một số văn thần (có thể cả Ngô Thì Nhậm như đã chép
trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí mặc dầu về sau chúng ta lại thấy họ Ngô
xuất hiện trong số quan lại ở miền Bắc cùng với Ngô Văn Sở).
Đối chiếu nhiều tài liệu khác nhau và
dàn dựng lại tình hình, chúng ta có thể nghi ngờ rằng có chút gì không
ổn về quan điểm đó. Hiện tại có ba tài liệu với ba nhật kỳ đăng quang
khác nhau: chính sử triều Nguyễn (ĐNCB, Nguỵ Tây liệt truyện), Hoàng Lê
Nhất Thống Chí, và chi tiết trong thư của Hội Truyền Giáo Bắc Hà. Ngoài
ra còn một nhật kỳ có hơi chênh lệch một chút với chính sử là bài Chiếu
Lên Ngôi (Tức Vị Chiếu) chép trong Hàn Các Anh Hoa.
Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 32 (Nguỵ Tây liệt truyện, Nguyễn Văn Huệ) chép là:
Nguyễn Huệ được cấp báo, mắng to: Bọn chó
Ngô là đồ gì dám tung hoành như thế?. Nguyễn Huệ liền xuống lịnh cử
binh. Các tướng đều khuyên xin trước hết nên chính ngôi vị và danh hiệu
để kết chặt lòng người. Nguyễn Huệ bèn đắp đàn ở phía nam núi Ngự-bình,
lấy ngày 25 tháng 11 tự lập làm Hoàng-đế cải nguyên là Quang Trung
(triều trung ương rực rỡ), liền ngày ấy cả đem tướng sĩ thuỷ bộ cùng
tiến …
Huệ đắc báo đại mạ: Hà vật Ngô cẩu cảm
nhĩ xương cuồng?. Tức hạ lịnh cử binh. Chư tướng hàm khuyến thỉnh tiên
chính vị hiệu dĩ hệ nhân tâm. Huệ nãi trúc đàn vu Bình sơn chi nam dĩ
thập nhất nguyệt nhị thập ngũ nhật tự lập vi đế, cải nguyên Quang Trung
tức nhật đại suất tướng sĩ thuỷ lục tề tiến …
Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Ngô Gia Văn Phái) thì viết như sau:
… Ngày 20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp thì ngày 24 (tháng 11), Tuyết đã vào đến thành Phú Xuân, Bắc Bình Vương được tin báo, giận lắm, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng các người đến họp đều nói:
– Chúa công với vua Tây Sơn có sự hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn phò của mọi người chưa thực vững bền, nay nghe quân Thanh sang đánh càng dễ sinh ra ngờ vực, hai lòng. Vậy xin trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau sẽ cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc cũng chưa là muộn.
Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân (ở địa phận xã An Cựu, huyện Hương Trà, Thừa Thiên – Huế), tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi; chế ra áo cổn, mũ miện, lên ngôi Hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ xong hạ lệnh xuất quân. Hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788).
Theo thư của các giáo sĩ có mặt tại Việt
Nam còn lưu lại trong Nhật Ký Về Những Sự Kiện Đáng Ghi Nhớ, Nha Văn
Khố Quốc Gia Paris (Paris, Archives Nationales số F5; A 22) thì lá thư
đề ngày 20 tháng Chín của đức ông La Bartette gửi cho ông Le Breton
trong đó Đức ông cho biết rằng:
… Bắc vương đã ấn định ngày 11 tháng Mười (âm lịch) tức ngày mồng 8 tháng Mười Một là ngày ông tự phong mình làm Hoàng đế dưới danh hiệu Quang Trung (có nghĩa là ánh sáng trung ương tức là theo sự giải thích có lẽ đúng nhất, mặt trời của vũ trụ) đồng thời ông đang bận tính một kế hoạch vĩ đại theo như sắc lệnh ban bố ngày 6 tháng Mười (âm lịch) hay ngày 3 tháng Mười Một gởi cho Đại thần Đại tư Mã và tất cả các quan hay sĩ quan Tây Sơn làm việc tại Bắc Kỳ … Những tài liệu trên, tài liệu nào gần với sự thực nhất vẫn còn là một câu hỏi chưa có trả lời đích xác mặc dù nếu theo văn bản thì thư của các thừa sai của Hội Truyền Giáo là tài liệu của chính thời đó còn để lại trong khi DNCBLT và Hoàng Lê Nhất Thống Chí chỉ được biên soạn và ấn hành vài chục năm sau khi sự việc xảy ra.
Hiện nay trong Hàn Các Anh Hoa còn chép một bài Chiếu Lên Ngôi của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm soạn, nguyên văn như sau:
Dịch âm
Tức vị chiếu
Trẫm duy Ngũ Đế dị tính nhi thụ mệnh, Tam Vương thừa thời nhi khải vận. Đạo hữu thiên đệ, thời duy biến thông, thánh nhân phụng nhược thiên đạo dĩ quân quốc tử dân kỳ nghĩa nhất dã. Ngã Việt tự Đinh Lê Lý Trần triệu kiến hữu quốc, dĩ chí vu kim, thánh tác minh hưng bất thị tính, nhiên nhi phế hưng tu đoản, kỳ vận thật thiên sở thụ, phi phù nhân chi sở năng vi dã. Hướng giả Lê gia thất bính, Trịnh thị dữ cựu Nguyễn phân cương nhị bách dư niên cương trù vặn loạn cộng chủ đồ ủng hư khí tư gia tự tư phong thực. Thiên kinh địa duy nhất truỵ nhi chấn vị hữu thậm ư thử thời dã. Gia chi cận tuế dĩ lai Nam Bắc cấu binh, dĩ truỵ đồ thán. Trẫm vi Tây Sơn bố y, bất giai xích thổ, sơ vô hoàng ốc chi chí. Nhân nhân tâm yếm loạn dục đắc minh chủ dĩ tế thế an dân ư thị tập hợp nghĩa lữ lam tất dĩ khải sơn lâm, tả hữu hoàng đại huynh trì khu nhung yên, triệu ngã bang vu tây thổ, nam định Xiêm La, Cao Miên chi thuộc, toại khắc Phú Xuân, thu Thăng Long bản dục bang tảo trừ loạn lược, cứu dân ư thuỷ hoả trung, nhiên hậu hoàn quốc Lê thị qui địa đại huynh, tiêu dao tú thường xích tả chi du, quan lưỡng địa chi hoan ngu nhi dĩ. Nhi thế cố suy di cánh bất đắc như sở chí, trẫm tái thực Lê thị Lê tự quân thất thủ xã tắc, khứ quốc bôn vong, Bắc Hà sĩ dân bất dĩ Lê chi tông tính vi qui ê trẫm thị lại. Đại huynh nghĩa quyến ư cần nguyện thủ Qui Nhơn nhất phủ, giáng xưng Tây vương, nam phục sổ thiên lý chi địa, tận thuộc ư trẫm. Trẫm tự duy lương bạc tài đức, bất đãi cổ nhân, nhi thổ địa như thử kỳ quảng, nhân dân như thử kỳ chúng, tĩnh tư thống nhiếp lẫm hồ nhược hủ sách chi ngự lục mã nãi giả. Văn võ tướng sĩ nội ngoại thần liêu hàm nguyện trẫm tảo chính vị hiệu dĩ hệ thuộc nhân tâm, thượng chương khuyến tiến, chí ư tái tam kim biểu suy tôn bất mưu đồng từ phu dĩ thần khí chí trọng. Thiên vị duy gian, trẫm thành lự bất khắc kham, nhi tứ hải ức triệu hoàn qui ư trẫm nhất nhân. Tư nãi thiên ý, phù khởi nhân sự, trẫm ứng thiên thuận nhân, bất khả lao chấp, tốn nhượng dĩ kim niên thập nhất nguyệt nhị thập nhị nhật tức thiên tử vị kỷ nguyên vi Quang Trung nguyên niên. Tư nhĩ bách tính vạn dân duy hoàng cực chi phu ngôn thị huấn thị hạnh. Nhân nghĩa trung chính nhân đạo chi đại đoan, trẫm kim dữ dân cánh thuỷ phụng tiền thánh chi minh mô dĩ trị giáo thiên hạ. Ô hô, thiên hựu hạ dân tác vi quân, tác vi sư, duy kỳ khắc tương thượng đế sủng tuy tứ phương. Trẫm phủ hữu thiên hạ tướng dữ giai chi đại đạo nạp chi xuân đài. Nhĩ thần thứ các an chức nghiệp vô đạo phỉ di. Hữu quan giả hưng tế tế chi phong, vi manh giả hữu hi hi chi tục. Trị giáo hưng hành, tễ vu chí thuận, dĩ hoán ngũ đế tam vương chi thịnh, diễn tông xã vô cương chi hưu, cố bất vĩ tai! Thập tam đạo các xứ địa phương kim niên đông vụ tô dung điệu xá thập phân chi ngũ kỳ kinh bị binh hoả điêu tàn thính phân chi hoạn khám thực tận hành quyên miễn. Cựu triều thần dân hoặc lục sự điếm luỵ kinh bị trọng luận, trừ đại nghịch bất đạo đẳng tội, kỳ dư nhất giai khoan xá Bách thần dâm từ cách khứ tự điển. Kỳ thiên thần dữ trung thần hiếu tử nghĩa phụ kinh luỵ triều bao phong giả tịnh tứ đăng trật Cựu triều văn võ viên biện hoặc do tòng vong đào tị tịnh thính hồi hương quán, kỳ bất nguyện sĩ tiến giả thính hành sở chí Nam Hà Bắc dân gian y phục tịnh hứa tòng tục, duy triều y triều quan nhất tuân tân chế.
Dịch nghĩa
Trẫm nghĩ: Ngũ đế đổi họ chịu mệnh trời, Tam vương nhân thời mở vận nước. Đạo có thay đổi, thời phải biến thông, nhưng đấng thánh nhân theo đạo trời để làm vua trong nước, yêu dân như con, thì cái nghĩa cũng chỉ là một.
Nước Việt ta từ Đinh, Lê, Lý, Trần mở nước đến nay, bậc thánh minh dấy lên, chẳng phải một họ. Nhưng phế, hưng, dài, ngắn, vận mệnh trời cho, chẳng phải sức người làm được.
Trước đây nhà Lê mất quyền, họ Trịnh và họ Nguyễn cũ chia nhau cương vực, hơn hai trăm năm, giềng mối rối loạn, ngôi vua chỉ là hư vị, mỗi họ tự ý gây dựng bờ cõi riêng mình, kỷ cương trời đất một phen đổ nát không dựng lên được, chưa có thời nào quá quắt như thời này. Thêm nữa, những năm gần đây, Nam Bắc đánh nhau, dân sa vào chốn lầm than.
Trẫm là kẻ áo vải Tây Sơn, không có một tấc đất, vốn không có chí làm vua. Chỉ vì lòng người chán ghét loạn lạc, mong có vị minh chúa để cứu đời yên dân. Cho nên tập hợp nghĩa quân, xông pha chông gai, phá núi mở rừng, giúp đỡ Hoàng đại huynh giong ruổi binh mã, gây dựng nước ở cõi tây, dẹp Tiêm La, Cao Miên ở phía nam, rồi hạ thành Phú Xuân, lấy thành Thăng Long. Bản ý chỉ muốn quét trừ loạn lạc, cứu dân trong chốn nước lửa, rồi trả nước cho họ Lê, trả đất cho Đại huynh, ung dung áo gấm hài thêu, ngắm cảnh yên vui ở hai cõi đất mà thôi. Nhưng việc đời dời đổi, rốt cuộc trẫm không được như chí nguyện. Trẫm dựng lại nhà Lê, nhưng Lê tự quân để mất xã tắc, bỏ nước chạy trốn. Sĩ dân Bắc Hà không theo về họ Lê lại dựa vào trẫm. Đại huynh vì khó nhọc mà mỏi mệt, chỉ muốn giữ một phủ Quy Nhơn, khiêm nhường xưng làm Tây vương. Mấy nghìn dặm đất ở cõi Nam thuộc về trẫm cả. Trẫm tự nghĩ mình lượng bạc, tài đức không theo kịp cổ nhân mà đất đai rộng lớn như thế, nhân dân đông đúc như thế, nghĩ đến việc cai quản, lo sợ như cầm dây cương mục mà dong sáu ngựa.
Vừa đây, tướng sĩ văn võ, thần liêu trong ngoài đều muốn trẫm sớm định vị hiệu, để thu phục lòng người, dâng biểu khuyên mời đến hai, ba lần. Các tờ biểu vàng suy tôn, không hẹn mà cùng một lời. Trẫm nghĩ: nghiệp lớn rất trọng, ngôi trời khó khăn, trẫm thật lòng lo không đương nổi. Nhưng ức triệu người trong bốn bể trông cậy vào một mình trẫm. Đó là ý trời, há phải việc người? Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, không thể cố chấp nhún nhường mãi, lấy ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung nguyên niên.
Hỡi trăm họ muôn dân các ngươi! Lời nói lớn lao của ngôi hoàng cực là lời giáo huấn phải thi hành. Nhân, nghĩa, trung, chính là đầu mối lớn lao của đạo làm người. Nay trẫm cùng dân đổi mới, theo mưu mô sáng suốt của tiền thánh để trị và dạy thiên hạ!
Than ôi! Trời vì hạ dân, đặt ra vua, đặt ra thầy, là để giúp trời vỗ yên bốn phương. Trẫm có cả thiên hạ, sẽ cùng dắt díu dân lên con đường lớn, đặt vào đài xuân.
Hỡi thần dân các ngươi! Ai nấy hãy yên chức nghiệp, chớ làm những điều không phải đạo thường. Người làm quan hãy giữ phong độ hoà mục, người làm dân yên trong lệ tục vui hoà, trị giáo mở mang hưng khởi đến chỗ rất thuận, để vãn hồi thời thịnh trị của Ngũ đế, Tam vương, khiến cho tông miếu xã tắc được phúc không cùng, há chẳng đẹp đẽ sao?
(Trong nguyên bản chữ Hán, còn có một đoạn viết chữ nhỏ, ghi các điều sau đây)
1/ Các địa phương trong 13 đạo, thuế
ruộng, thuế thân, thuế lực dịch về vụ đông năm nay, mười phần tha cho
năm phần. Những nơi bị binh hoả làm điêu tàn, cho quan phân tri khám
thực, tha miễn cho cả.
2/ Quan dân triều cũ, người nào liên luỵ vào tội, đã bị án nặng, trừ những tội đại nghịch vô đạo, còn thì đều tha cả.
3/ Các đền thời bách thần mà là thờ
nhảm, đều bị xoá bỏ thần hiệu trong tự điển, còn các thiên thần và tôi
trung, con hiếu, đàn bà tiết nghĩa đã được các triều phong tặng thì nay
đều cho thăng trật.
4/ Quan viên văn võ triều cũ, người nào
chạy trốn theo vua mà còn phải trốn tránh, đều cho về nguyên quán. Người
nào không muốn ra làm quan, cho tuỳ theo chí của mình.
5/ Quần áo dân gian Nam Hà hay Bắc Hà đều cho theo tục cũ, duy có áo chầu, mũ chầu thì nhất luật phải theo quy chế mới.
Bài chiếu này nếu xét trong hoàn cảnh
xuất hiện của nó, nếu quả thực do Ngô Thì Nhậm soạn, thì hoặc ông đang ở
Phú Xuân, hoặc đã soạn sẵn theo lệnh của Nguyễn Huệ, chờ đúng dịp là
đem ra sử dụng. Phân tích một số chi tiết trong bài Chiếu Lên Ngôi chúng
ta ngờ rằng bài này được soạn trước khi nghe tin quân Thanh sang chiếm
nước ta, nếu không đồng thời với tờ biểu suy tôn lần thứ ba (Vừa đây,
tướng sĩ văn võ, thần liêu trong ngoài đều muốn trẫm sớm định vị hiệu,
để thu phục lòng người, dâng biểu khuyên mời đến hai, ba lần. Các tờ
biểu vàng suy tôn, không hẹn mà cùng một lời.) thì cũng chỉ sau đó một
thời gian ngắn.
Văn trong bài chiếu tức vị này hoàn toàn
là văn chương thời bình, không phải thời chiến, không nhắc đến xa gần
gì về việc quân Thanh xâm chiếm nước ta và lên ngôi để thu phục nhân tâm
(để chiến đấu) như sử đã chép. Chính vì thế, một số câu văn sáo mòn đầy
giả tạo, chẳng hạn: Bản ý chỉ muốn quét trừ loạn lạc, cứu dân trong
chốn nước lửa, rồi trả nước cho họ Lê, trả đất cho Đại huynh, ung dung
áo gấm hài thêu, ngắm cảnh yên vui ở hai cõi đất mà thôi. Nhưng việc đời
dời đổi, rốt cuộc trẫm không được như chí nguyện. hay Người làm quan
hãy giữ phong độ hoà mục, người làm dân yên trong lệ tục vui hoà, trị
giáo mở mang hưng khởi đến chỗ rất thuận, để vãn hồi thời thịnh trị của
Ngũ đế, Tam vương, khiến cho tông miếu xã tắc được phúc không cùng, há
chẳng đẹp đẽ sao? vẫn còn hiện diện trong bài chiếu.
Như vậy, nếu quả thực bài văn này là tờ
chiếu ông sử dụng thì Nguyễn Huệ đã lên ngôi từ trước khi quân Thanh
sang đánh nước ta nghĩa là chậm lắm cũng vào cuối tháng 10 hay đầu tháng
11 năm Mậu Thân (1788) khi quân Thanh chưa xuất binh để những lời trong
bài chiếu thích hợp cho một quốc gia yên bình, dù chỉ rất tạm bợ.
Ngược lại nếu đã nghe tin quân Thanh
đang tiến về Thăng Long, tình hình Bắc Hà ở trong cảnh lửa cháy lông
mày, dầu sôi lửa bỏng khiến ông phải tổ chức một lễ đăng quang theo kiểu
cưới chạy tang để hôm sau tiến quân ra Bắc thì đây là một việc làm
rất thiếu chính trị. Tình hình cấp bách đó ắt sẽ khiến cho lòng người
kinh động, nhất là các tướng lãnh đang được bố trí ở mặt nam giáp với
vương quốc của Nguyễn Nhạc. Chúng ta cũng biết rằng hai anh em công khai
mắng nhau là sài lang, cẩu trệ, dù đã giải hoà nhưng tình hình không
còn thuận lợi như trước và việc bên này hay bên kia nhân cơ hội sơ hở
đem quân tấn công không phải là chuyện không thể xảy ra. Việc Nguyễn Huệ
hấp tấp lên ngôi rồi kéo quân đi sẽ tạo một khoảng trống trong guồng
máy cai trị và Nguyễn Nhạc chỉ cần sai một tì tướng cũng có thể lấy được
Phú Xuân.
Các tướng lãnh của Nguyễn Huệ nhất là
thành phần gốc Qui Nhơn vốn họ hàng thân thích hay quen biết đã lâu, ít
nhiều đều đã từng là thủ hạ của Nguyễn Nhạc. Chúng ta cũng biết rằng khi
kéo quân ra Bắc, Nguyễn Huệ vẫn để lại một số tướng lãnh quan trọng như
Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Vũ Văn Dũng … trấn thủ mặt nam có thể dễ
dàng bị vua Thái Đức mua chuộc. Việc Nguyễn Huệ lên ngôi coi như một
thách thức công khai rất nguy hiểm trong khung cảnh đó.
Qua những sự kiện nêu trên, Nguyễn Huệ
dự tính lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung ít nhất cũng đã
được dự tính từ tháng 8 năm Mậu Thân, mặc dù ngày giờ ông lên ngôi không
biết đích xác là ngày nào, 11 tháng 10 Â.L. theo các giáo sĩ, 22-11
Â.L. theo tờ chiếu lên ngôi, 25-11 Â.L. theo DNCBLT, 25 tháng 12 Â.L.
theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí hay một ngày nào khác mà chúng ta chưa
biết? Hai nhật kỳ đầu tiên và cuối cùng cách nhau gần hai tháng rưỡi
nhưng chắc chắn Nguyễn Huệ lên ngôi sau khi ông từ Bắc Hà trở về và
trước khi nghe tin quân Thanh kéo sang.
Nhật ký của các giáo sĩ trong Hội
Truyền Giáo Bắc Hà nghe được từ giáo dân của họ là ngày 11 tháng 10 năm
Mậu Thân (8-11-1788) xem ra gần với sự thực nhất. Tin tức đó họ đã nghe
từ ngày 25 tháng 10 (27-9 Mậu Thân) tức là trước ngày vua Quang Trung
lên ngôi gần nửa tháng. Cho nên, khi quân Thanh lấy Thăng Long (cuối
tháng 11 năm Mậu Thân), Nguyễn Huệ đã là hoàng đế Quang Trung rồi, không
còn phải bận bịu gì về việc đăng quang hay sắp đặt triều chính trong
ngoài nữa. Cũng theo tin của giáo sĩ La Barrette gửi cho Le Breton thì
ông đã phong vương cho con trai ngay từ tháng 9 nghĩa là công khai tách
riêng ra thành một vương triều mới không liên quan gì đến ông anh ở Qui
Nhơn nữa. Văn kiện cuối cùng chúng ta thấy ông còn dùng niên hiệu Thái
Đức chính là sắc lệnh ban bố một số điều quân luật ngày 6 tháng 10 năm
Mậu Thân (3-11-1788), 5 ngày trước hạn kỳ lên ngôi theo tin tức của các
nhà truyền giáo.
Xét như thế, chúng ta thấy rằng việc vua
Quang Trung đem quân ra Bắc không phải là một điều bất thình lình và
chúng ta có thể tin được rằng lúc nào ông vẫn hờm sẵn nhiều cánh quân
độc lập và chỉ điều động để xiết lại khi cần thiết. Đó chính là vai trò
của hai đạo quân từ rừng sâu kéo ra và từ ngoài biển đánh vào khiến cho
địch trở tay không kịp. Giảm thiểu việc đưa một đạo quân lớn từ Phú Xuân
ra bắc sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề, từ di hành đến lương thực,
khí giới và trả lời được câu hỏi tại sao Nguyễn Huệ có thể tập trung
được một đạo quân lớn và đánh tan quân Thanh trong một thời gian ngắn
ngủi.
Từ quan điểm đó, việc dàn trải lại sắp
đặt của Nguyễn Huệ và biến chuyển trong chiến dịch mùa Xuân năm Kỷ Dậu
trở nên minh bạch, đơn giản hơn, không bị những vấn đề không có câu trả
lời (làm sao có thể tiến quân ra Bắc trong 4 ngày), loại trừ được những
tưởng tượng không phù hợp với thực tế (hai người võng một) và những
chuyện bên lề mà người ta thêm bớt một cách huyền hoặc.
KẾT LUẬN
Việc điều quân của Nguyễn Huệ cho đến
nay vẫn còn là một chuỗi nhiều huyền thoại. Mặc dù những bức thư của các
nhà truyền giáo đã được đưa ra ánh sáng hơn 30 năm nay nhưng rất ít sử
gia Việt Nam khai thác vì những chi tiết trong đó không phù hợp với
những gì người ta muốn miêu tả về thời Tây Sơn. Hầu hết chúng ta vẫn
thích lập lại những tường thuật trích từ Hoàng Lê Nhất Thống Chí của nhà
họ Ngô coi như chính sử, nhất là để tô vẽ cho một chiến thắng vẫn được
coi như một thiên Anh Hùng Ca của dân tộc.
Một vấn đề chúng ta chưa lưu tâm đúng
mức là hậu cần (logistics) trong quân đội để tìm hiểu xem Nguyễn Huệ và
bộ tham mưu của ông đã thực hiện việc di chuyển, tiềp liệu, lương thực, y
tế, tải thương … như thế nào. Những vấn đề đó là những ưu tư hàng đầu
của các tướng lãnh trước khi bàn đến chiến thuật, chiến lược. Hậu cần
cũng liên quan đến thực trạng chính trị, kinh tế và khung cảnh xã hội
của quốc gia vì tài nguyên là một thực thể có những giới hạn nhất định,
không phải là một con bò sữa có thể vắt đến vô tận và phải được sử dụng
một cách linh động.
Tuy có được lợi điểm là đánh trên đất
nhà nên binh sĩ Tây Sơn có thể bám rễ vào quần chúng nhưng không phải
vì thế mà chúng ta không nhận ra một số nhược điểm được che đậy và tô
điểm bằng một số từ ngữ, lập đi lập lại trong hầu hết các nghiên cứu
lịch sử. Những khó khăn đó vốn dĩ đã được các quân sự gia Tây phương
nhấn mạnh, gọi là cọ xát của chiến tranh (friction of war), ám chỉ sự
tiêu hao năng lực ảnh hưởng đến chiến đấu. Những cọ xát đó thường bị các
sử gia bỏ quên nên miêu tả những biến cố này như những hiện tượng hiển
nhiên và chìm lẫn vào những chi tiết sôi động hơn.
Một quân sự gia Tây phương đã nhận định:
Cơ bản để hoạch định của cấp chỉ huy là kiến thức vững chắc về tiếp liệu và di hành; có thế ông ta mới biết làm sao và khi nào có thể liều lĩnh, mà chiến trận chỉ có thể thắng khi dám mạo hiểm. Cuộc tiến quân của Nguyễn Huệ trong giai đoạn đầu rõ ràng phải dựa vào một hệ thống tiếp liệu tại chỗ bao gồm một số doanh trại ông bố trí sẵn từ Phú Xuân ra Nghệ An. Trong thời gian di hành, ông đã thực hiện nhiều lối di chuyển khác nhau theo nhiều trục lộ và chỉ ấn định một điểm hẹn để tập kết. Việc tập trung lực lượng để chuẩn bị bôn tập đó được thực hiện một cách rốt ráo, cực đoan có tính một mất một còn. Lịch sử chứng minh rằng ông đã tính toán đúng trong lối tấn công quyết tử (predatory warfare) nên hậu thế ít ai nhắc đến những thiệt hại của bên mình.
Các giáo sĩ Tây Phương tuy chỉ ghi nhận
hiện tượng, nhiều chỗ chủ quan theo sự suy nghĩ của họ và dựa vào những
nguồn tin không chính xác (chẳng hạn số lượng quân của cả hai phe) nhưng
vẫn là những tài liệu nguyên thuỷ (primary sources) chưa bị đãi lọc.
Đối chiếu với những chi tiết quân sự, lối di hành liên tục (trong một
thời gian ngắn) không những cần thiết cho việc tấn công bất ngờ mà cũng
là cách duy nhất có thể kiểm soát được một đội tân quân khổng lồ bằng
dạ dày, loại trừ được những hiểm hoạ khi sử dụng thành phần quần chúng
mà trước đó chưa lâu còn đứng về phía đối nghịch với nhà Tây Sơn.
Chắc chắn khi tiến quân đánh Thăng Long,
Nguyễn Huệ không thể coi thường dân chúng Bắc Hà hiện đã trở thành một
cánh quân nằm phục sau lưng ở vùng Nghệ An Thanh Hóa, trước đây đã từng
phục kích tấn công Nguyễn Nhạc. Nếu như vì một lý do nào đó mà việc giao
binh với quân Thanh kéo dài hơn dự tính, sau lưng lại có dư đảng nhà
Lê, họ Trịnh nổi lên ông sẽ bị tấn công từ hai mặt, khó tránh khỏi một
cuộc chiến tiêu hao vốn là sở trường của Bắc Hà.
Ở thời điểm quyết liệt này, ông đã huy
động toàn lực thành phần dân chúng có nguy cơ tiềm ẩn kia thành một cánh
quân của mình, từ già chí trẻ, trai lẫn gái để đẩy họ đi trước, dưới
danh nghĩa cứu nước. Chúng ta khó lòng có thể tin được rằng người dân ở
đây hàng loạt trai tráng nô nức tòng quân như lối viết sử có tính cách
tuyên truyền, nhất là trước đây không lâu vùng này đã bị đói kém liên
tiếp, lại bị Nguyễn Hữu Chỉnh rồi Vũ Văn Nhậm vét được hơn 3 vạn người
để tiến ra Bắc hồi cuối năm 1787. Đất Thanh Nghệ cũng còn là đất tổ của
nhà Lê, là quê hương của đám lính Tam Phủ vốn dĩ là cột trụ chống giữ
giang sơn cho họ Trịnh, nay trở thành đội quân tiền phong của nhà Tây
Sơn.
Chính vì thế ông đã có thể tận dụng đến
người cuối cùng của các xứ Thanh – Nghệ để đánh một trận lớn dùng chiến
thuật biển người tràn ngập đối phương. Ông cũng tối ưu hoá được sức
mạnh của mình, kết hợp sức mạnh của các sắc dân thiểu số vùng Thượng
Lào, và khai thác thành phần bị gạt ra ngoài lề xã hội phải sống bằng
nghề cướp biển.
Chúng ta cũng có thể nghi ngờ và loại bỏ
chi tiết về ngày tháng Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế chép trong sử triều
Nguyễn. Nếu đúng như sự thông tin của các giáo sĩ cho nhau, ông lên
ngôi ngay từ đầu tháng 10 (Âm Lịch) và mất khoảng từ 40 đến 45 ngày để
ra đến Nghệ An (cuối tháng 11) trung bình mỗi ngày có thể đi từ 10 đến
15 cây số. Con số này xem ra có vẻ hợp lý với một đội quân vào thế kỷ
18, phức tạp và cồng kềnh, tổ chức còn sơ khai, thiếu hẳn một hệ thống
tiếp liệu chu đáo. Nói tóm lại, một khi loại trừ tất cả những huyền
thoại của nhà Tây Sơn, đặt Nguyễn Huệ trở về vai trò của một tướng lãnh
cần mạo hiểm để chiến thắng, việc điều quân thần tốc chính là phương
thức để khắc phục những sở đoản mà ông không thể nhất thời giải quyết
được.
Tháng 12 năm 2005
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amranand, Ping và William Warren. The Elephant in Thai Life & Legend. Bangkok: Monsoon Editions, Ltd.,1998.
2. Anthony, Robert J. Like Froth Floating
on the Sea: The World of Pirates and Seafarers in Late Imperial South
China. Berkeley: Institute of East Asian Studies, UC Berkeley, 2003.
3. Barnes, Thomas J. Tay Son, Rebellion in 18th Century Vietnam. Xlibris Corporation, 2000
4. Barrow, John. A Voyage To Cochinchina. Kuala Lumpur: Oxford University, 1975 (in theo lối chụp ảnh nguyên bản năm 1806)
5. Borri, Cristophoro. Tường Trình về Khu Truyền Giáo Đàng Trong 1631. USA: Thăng Long, không đề năm.
6. Crawfurd, John. Journal of an Embassy
from the Governor-General of India to the Courts of Siam and Cochin
China exhibiting a view of the Actual State of those Kingdoms. New
Delhi: Asian Educational Services, 2000 (chụp lại nguyên bản London,
1828)
7. Creveld, Martin Van. Supplying War: Logistics from Wallenstein to Patton. Cambridge: Cambridge University Press, 1992
8. Do Phuong Quynh. Arts and Handicrafts of Viet Nam. Hanoi: The Gioi (Foreign Languages Publishing House), 1992
9. Griess, Thomas E. (ed.) Ancient and
Medieval Warfare (The West Point Military History Series). Department of
History, US Military Academy, West Point, New York. New Jersey: Avery
Publishing Group Inc., 1984
10. Heath, Ian. Armies of the Nineteenth Century: Asia (V. 4 – Burma and Indo-China). Great Britain: Foundry Books, 2003
11. Hintz, Martin. Tons of Fun Training Elephants. New York: Julian Messner, 1982
12. Hoa Bằng. Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh
Hùng Dân Tộc 1788-1792. Saigon: Thư Lãm Ấn Thư Quán, 1958 (Đại Nam,
Cali. in lại theo lối chụp bản)
13. Hoàng Xuân Hãn. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II, trước tác, phần II: Lịch Sử. Hà Nội: nxb Giáo Dục, 1998
14. Keegan, John. A History Of Warfare. New York: Alfred A. Knopf, 1994
15. Lại Phúc Thuận. Càn Long Trọng Yếu Chiến Tranh Chi Quân Nhu Nghiên Cứu . Đài Bắc: Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện, 1984
16. Lamb, Alastair. The Mandarin Road to Old Hué. London: Chatto & Windus, 1970
17. Lê Đông Phương. Tế Thuyết Thanh Triều (quyển thượng). Đài Bắc: Truyện Ký Văn Học Xã, 1987
18. Lê Nguyễn Lưu Văn Khắc Thời Tây Sơn ở Huế. Phú Xuân Thuận Hóa thời Tây Sơn. Huế : Kỷ Yếu Hội Thảo Khoa Học, 12/2001
19. Mai Quốc Liên (chủ biên). Ngô Thì Nhậm tác phẩm (4 quyển) Hà Nội: nxb Văn Học, 2001-2
20. Một Nhóm Học Giả. Một Vài Sử Liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Calif.: Đại Nam, 1992
21. Murray, Dian H. Prirates Of The South China Coast 1790-1810. Calif.: Stanford University Press, 1987.
22. National Museum of Chinese History. A Journey Into China’s Antiquity (4 volumes). Beijing: Morning Glory Publishers, 1997
23. Ngaosrivathana, Mayoury và Kennon Breazeale (ed.). Breaking New Ground In Laos History. Chiang Mai: Silkworm Books, 2002
24. Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Hà Nội: nxb Văn Học, 2002
25. Nguyễn Lương Bích – Phạm Ngọc Phụng. Tìm Hiểu Thiên Tài Quân Sự của Nguyễn Huệ . Hà Nội: nxb QDND, 1971
26. Đỗ Bang. Những khám phá về Hoàng Đế Quang Trung. Huế: nxb Thuận Hoá, 2003.
27. Parker, Geoffrey. The Military
Revolution: Military innovation and the rise of the West 1500-1800.
Cambridge: Cambridge University Press, 1996
28. Phan Lang. Hoạ Cảnh về Người và Xứ Quảng Nam dưới thời Tây Sơn. Calif.: Việt Báo Kinh Tế số Tết Canh Thìn 2000.
29. Quách Chấn Phong và Trương Tiếu Mai(chủ biên). Việt Nam Thông Sử . Bắc Kinh: Trung Quốc Nhân Dân đại học xb xã, 2001
30. Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục I, II (bản dịch Viện Sử Học). Hà Nội: nxb Giáo Dục, 1998.
31. Reid, Anthony. Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680 (2 volumes) New Haven, London: Yale University Press, 1993
32. Simms, Peter và Sanda Simms. The Kingdoms of Laos: Six Hundred Years of History. Richmond: Curzon Press, 1999
33. Sun Laichen, Military Technology
Transfers from Ming China and the Emergence of Northern Mainland
Southeast Asia (c. 1390-1527) Journal of Southeast Asian Studies, vol.
34, 3 (10-2003)
34. Tạ Chí Đại Trường. Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam. Los Angeles, Calif: An Tiêm, 1991.
35. Tạ Quang Phát (dịch), Nhà Tây Sơn (Đại
Nam chính biên liệt truyện – Nguỵ Tây liệt truyện) Saigon: Phủ Quốc Vụ
Khanh đặc trách văn hoá, 1970
36. Tạ Quang Phát (dịch). Tây Sơn Thuật Lược (????). Saigon: Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá, 1971
37. Tana, Li. Nguyễn Cochinchina: Southern
Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries. New York: Cornell
University – Southeast Asia Program Publications, 1998.
38. Tarling, Nicholas (ed.) The Cambridge
History of Southeast Asia, tập I, phần 2: từ 1500 đến 1800. Cambridge:
Cambridge University Press, 1999.
39. Trần Gia Phụng. Nhà Tây Sơn. Toronto: Non Nước, 2005
40. Trang Cát Phát. Thanh Cao Tông Thập
Toàn Võ Công Nghiên Cứu Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1987. (chụp lại bản
của Đài Loan Cố Cung Tùng San, Giáp Chủng số 26, tháng 6 năm 1982)
41. Uỷ Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Lịch Sử Việt Nam (tập I). Hà Nội; nxb KHXH, 1976
42. William Alexander: An English Artist in Imperial China. Brighton Borough Council, 1981
43. Woodside, Alexander Barton. Vietnam and
the Chinese Model – A Comparative Study of Nguyễn and Ch’ing Civil
Government in the First Half of the Nineteenth Century. MA: Harvard
University Press, 1971.
PHỤ LỤC I
TÀI LIỆU ÂM LỊCH DƯƠNG LỊCH TRÍCH DẪN
Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê Nhất Thống
Chí (bản dịch Nguyễn Đức Vân – Kiều Thu Hoạch) (Hà Nội: nxb VH, 2002)
tr. 372 25 tháng Chạp, Mậu Thân 20-1-1789 Bắc Bình Vương lấy làm phải,
bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất củng các thần sông, thần
núi; chế ra áo cổn mũ miện, lên ngôi Hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu
Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung.
Lễ xong, hạ lệnh xuất quân. Hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu
Thân (1788)
Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện (Nguỵ
Tây) Tạ Quang Phát, Nhà Tây Sơn (Saigon: PQVKDTVH, 1970) tr. 132-3 25
tháng 11, Mậu Thân 22-12-1788 Huệ nãi trúc đàn vu Bình sơn chi nam dĩ
thập nhất nguyệt nhị thập ngũ nhật tự lập vi đế, cải nguyên Quang Trung
tức nhật đại suất tướng sĩ thuỷ lục tề tiến … Nguyễn Huệ bèn đắp đàn ở
phía nam núi Ngự-bình, lấy ngày 25 tháng 11 tự lập làm Hoàng-đế cải
nguyên là Quang Trung (triều trung ương rực rỡ), liền ngày ấy cả đem
tướng sĩ thuỷ bộ cùng tiến …
Tức Vị Chiếu (Hàn Các Anh Hoa) Trung Tâm
Nghiên Cứu Quốc Học, Ngô Thì Nhậm (tác phẩm I) Hà Nội: nxb Văn Học,
2001 tr. 173, 515-6 22 tháng 11, Mậu Thân 19-12-1788 Tư nãi thiên ý, phù
khởi nhân sự, trẫm ứng thiên thuận nhân, bất khả lao chấp, tốn nhượng
dĩ kim niên thập nhất nguyệt nhị thập nhị nhật tức thiên tử vị kỷ nguyên
vi Quang Trung nguyên niên. Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, không
thể cố chấp nhún nhường mãi, lấy ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi
thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung nguyên niên.
Archives Nationales F; A22 (Paris) Đặng
Phương Nghi, Vài Tài Liệu Mới Lạ … (Cali: Đại Nam, 1992) tr. 195
11-10-Mậu Thân 8-11-1788 Bắc Vương đã ấn định ngày 11 tháng 10 (âm lịch)
tức ngày mồng 8 tháng Mười Một là ngày ông tự phong mình làm Hoàng đế
dưới danh hiệu Quang – Trung (có nghĩa là ánh sáng trung ương tức là
theo sự giải thích có lẽ đúng nhất, mặt trời của vũ trụ) đồng thời ông
đang bận tính một kế hoạch vĩ đại theo như sắc lệnh ban bố ngày 6 tháng
Mười (âm lịch) hay ngày 3 tháng Mười Một gởi cho đại thần Đại Tư Mã …
PHỤ LỤC II
Nguyễn Huệ lên ngôi và tiến binh theo tiểu thuyết
… Ngày 20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp
thì ngày 24, Tuyết đã vào đến thành Phú Xuân, Bắc Bình Vương tiếp được
tin báo, giận lắm, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi
ngay. Nhưng các người đến họp đều nói:
-Chúa công với vua Tây Sơn có sự hiềm
khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn phò của mọi người chưa thật vững
bền, nay nghe quân Thanh sang đánh càng dễ sinh ra ngờ vực hai lòng. Vậy
xin trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để
yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau sẽ cất quân ra đánh dẹp
cõi Bắc cũng chưa là muộn.
Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp
đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi; chế
ra áo cổn mũ miện, lên ngôi Hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức
của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ xong,
hạ lệnh xuất quân. Hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân
(1788).
Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại
binh, cả thuỷ lẫn bộ cùng đi. Ngày 29 đến Nghệ An, vua Quang Trung cho
vời người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp vào dinh và hỏi:
-Quân Thanh sang đánh, tôi sắp đem binh ra chống cự. Mưu đánh và giữ, cơ được hay thua tiên sinh nghĩ thế nào?
Thiếp nói:
-Bây giờ trong nước trống không, lòng
người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu
hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh nên giữ ra sao. Chúa công đi chuyến
này, không quá mười ngày giặc Thanh sẽ bị dẹp tan.
Vua Quang Trung mừng lắm, liền sai Đại
tướng là Hám Hổ hầu kén lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một
người, chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ. Rồi nhà vua cho
mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn, đem số thân quân ở Thuận Hoá,
Quảng Nam chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, còn số lính mới tuyển ở
Nghệ An thì làm trung quân.
Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh an uỷ quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
-Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở
Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy
đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương Bắc chia nhau mà cai trị.
Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời
Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ
vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.
Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời
Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ; các ngài không nỡ ngồi
nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân
đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các
thời ấy Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu
dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc
xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy, đều là chuyện cũ rành rành
của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang mưu đồ lấy nước Nam ta
đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh
ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng.
Các ngươi đều là những kẻ có lương tri
lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ
có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị
giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói
trước!
Các quân lính đều nói:
-Xin vâng mệnh, không dám hai lòng.
Hôm sau vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi …
(Ngô GiaVăn Phái, Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Hà Nội: nxb Văn Học, 2002) tr. 371-4)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét