MT&ĐS – Bốn trong số sáu con đập đang án ngữ hàng trăm
năm nay trên sông Klamath, con sông chạy từ cao nguyên phía đông bang
Oregon tới bờ biển phía bắc bang California (Mỹ) đã được lên kế hoạch
phá dỡ vào năm 2020.
Hy vọng về việc khôi phục dòng chảy con sông với nguồn cá hồi phong
phú này sẽ không còn là điều xa vời khi các thỏa thuận mới giữa chính
quyền và các nhà vận hành đập cùng các các bên liên quan đã được thông
qua.
Điều này đã chính thức được Bộ trưởng Nội vụ Hoa Kỳ bà Sally Jewell
khẳng định vào ngày 6/4 vừa qua, ngay bên bờ sông Klamth. Bà cho hay
thỏa thuận này mở ra viễn cảnh tươi sáng cho việc khôi phục dòng sông
bằng dự án loại bỏ đập thủy điện lớn nhất lịch sử Hoa Kỳ.
Theo thỏa thuận, Tập đoàn PacifiCorp sẽ loại bỏ ba con đập ở
California (gồm Copco 1, Copco 2 và Iron Gate) và đập John C. Boyle ở
Oregon ra khỏi thị trường.
Tập đoàn này cũng ký thỏa thuận cam kết hỗ trợ nông dân và chủ trang
trại ở thượng nguồn con sông bằng các hỗ trợ tài chính và giúp khôi phục
đường đi của cá.
Mặc dù cá hồi Chinook mùa xuân và mùa thu chưa được xác nhận là chính
thức tuyệt chủng trên sông Klamath nhưng số lượng loài cá này đã suy
giảm nghiêm trọng trong nhiều năm. Kể từ năm 1997, loài cá hồi Coho trên
sông Klamath đã bị liệt kê vào danh sách các loài bị đe dọa theo Đạo
luật Các loài nguy cấp của Mỹ.
Dự kiến dòng di cư của cá hồi trên sông Klamath năm nay sẽ đạt mức
thấp nhất trong lịch sử vì hạn hán và các tác động khác của biến đổi khí
hậu làm gia tăng tác động của tình trạng thiếu nước do các đập gây ra.
Theo ông Craig Tucker, chuyên gia vận động chính sách bảo tồn, thành
viên bộ tộc 4.000 người Karuk, việc loại bỏ các đập thủy điện sẽ giúp
khai mở hàng trăm dặm môi trường đẻ trứng cho cá hồi và cải thiện đáng
kể chất lượng nước sông Klamath.
Các tộc người Karuk, Yurok và các sắc tộc khác sống trong lưu vực đều
là người theo đạo Hồi. Văn hóa, kinh tế, tôn giáo của họ đều dựa cả vào
sự trở lại của cá hồi. Loại bỏ bốn con đập là bước cần thiết đầu tiên
để khôi phục môi trường sống cho cá hồi, bên cạnh các việc khác cần phải
làm như phục hồi các đầm lầy và vùng đất ngập nước trong lưu vực.
Nguồn cá hồi hiện khan hiếm khiến nhiều người dân Karuk phải thay đổi
chế độ ăn uống theo kiểu phương Tây hiện đại, dẫn đến tỉ lệ người mắc
bệnh tim, tiểu đường và béo phì ở các bộ tộc vượt quá mức trung bình.
“Nghiên cứu cho biết trước đây mỗi người Karuk tiêu thụ 1,2 pound cá
hồi mỗi ngày. Bây giờ, một người được ăn 4 pound cá hồi một năm đã là
may mắn.” – ông Tucker nói.
Sự biến mất của cá hồi cũng ảnh hưởng tới các hoạt động tôn giáo của
bộ tộc, trong đó có buổi lễ gắn với sự xuất hiện lần đầu tiên vào mùa
xuân của cá hồi mùa xuân Chinook. Loài cá này có lẽ là loài bị ảnh hưởng
nhiều nhất bởi việc chặn dòng con sông. Người dân không thể tiến hành
tế lễ mà không thấy bóng dáng con cá hồi nào.
“Loại bỏ những con đập là hành động khôi phục lớn nhất có thể làm
trên Klamath…Đây cũng là dự án phục hồi cá hồi lớn nhất trong lịch sử
Hoa Kỳ”- ông Tucker nhận định.
Đập John C. Boyle ở Nam Oregon là một trong bốn đập trên sông Klamath sẽ được gỡ bỏ vào năm 2020 (Ảnh: Bob J. Galindo)
Trong một xu thế ngược lại, tốc độ xây dựng thủy điện trên dòng
chính sông Mê Kông đang gia tăng ở mức độ đáng báo động, kéo theo hàng
loạt hiểm họa phía sau về môi trường, xã hội, sinh thái và sinh kế của
người dân trên lưu vực. Dòng sông có nguồn thủy sản nội địa lớn nhất thế
giới này chứa đựng những giá trị kinh tế và xã hội quan trọng, cung cấp
thực phẩm và sinh kế cho hàng triệu người hiện đang bị đe dọa trong một
cuộc đua phát triển thủy điện.
“Người bị hại chính là cộng đồng và các hệ sinh thái. Những mất
mát này không gì có thể đánh đổi. Cộng đồng ven sông là những người rõ
hơn ai hết tầm quan trọng của dòng Mê Kông, nhưng dường như họ không có
tiếng nói trong các hội nghị hoặc quá trình ra quyết định phát triển các
đập thủy điện. Các chính phủ đang đưa ra các quyết định quan trọng
nhưng không có trách nhiệm giải trình và coi nhẹ những tổn thất thực sự
về môi trường và xã hội của các dự án này, và khiến các cộng đồng sống
phụ thuộc vào dòng sông phải chịu chịu rủi ro và hứng chịu hậu quả nặng
nề nhất.” – Bà Pianporn Deetes, Giám đốc Chương trình Thái Lan của
Tổ chức Sông ngòi Quốc tế bình luận trên một bài viết đăng trên Bangkok
Post”.
|
Bích Ngọc (Theo ecowatch.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét