THANH HOÁ DƯỚI CÁCH NHÌN CỦA NGƯỜI TỈNH NGOÀI
Bản đồ thanh Hoá 4.000 năm không đổi
Thanh hoá "Quê ta"
Khu Bốn đuổi ra, Khu Ba đuổi vào
Bỏ chạy sang Lào, Lào không thèm nhận.
Bực mình tức giận, lập quốc gia riêng
Thủ đô thiêng liêng, là huyện Nông Cống
Quốc ca chính thống, là "dô tá dô tà"
Nông nghiệp nước nhà, toàn cây rau má.
Biển khơi lắm cá, mười mẻ một cân.
Vang tiếng xa gần, nem chua toàn lá.
Còn công nghiệp hoá, là phá đường tàu.
Đục ống dẫn dầu, cắt dây điện thoại
Thiên nhiên ưu đãi, lũ lụt triền miên.
Có nhiều nhất miền, là đất pha cát.
Rừng xanh bát ngát, là rặng phi lao.
Gió mát rì rào, là gió Lào nóng hổi.
Công trình nổi trội, vượt cả núi non.
Có cái cầu con, gọi là cầu bố.
Mấy cây lố nhố, thì gọi rừng thông.
Núi to bỏ ông-Gọi là núi Chẹt.
Núi bằng cái mẹt-Gọi là núi Voi
Bỏ chạy sang Lào, Lào không thèm nhận.
Bực mình tức giận, lập quốc gia riêng
Thủ đô thiêng liêng, là huyện Nông Cống
Quốc ca chính thống, là "dô tá dô tà"
Nông nghiệp nước nhà, toàn cây rau má.
Biển khơi lắm cá, mười mẻ một cân.
Vang tiếng xa gần, nem chua toàn lá.
Còn công nghiệp hoá, là phá đường tàu.
Đục ống dẫn dầu, cắt dây điện thoại
Thiên nhiên ưu đãi, lũ lụt triền miên.
Có nhiều nhất miền, là đất pha cát.
Rừng xanh bát ngát, là rặng phi lao.
Gió mát rì rào, là gió Lào nóng hổi.
Công trình nổi trội, vượt cả núi non.
Có cái cầu con, gọi là cầu bố.
Mấy cây lố nhố, thì gọi rừng thông.
Núi to bỏ ông-Gọi là núi Chẹt.
Núi bằng cái mẹt-Gọi là núi Voi
Ai đến mà coi-Quốc gia Thanh Hoá
Công nghiệp bứt phá-Là phá đường tầu
Mục tiêu hàng hàng đầu: Luồng, lang, lạc, lá
Mục tiêu hàng hàng đầu: Luồng, lang, lạc, lá
Làm ăn khấm khá trong nhiều chữ L.
Cái cầu đơn xơ gọi là cầu Bố
Hàng cây lố nhố gọi là rừng thông
Hàng cây lố nhố gọi là rừng thông
Con gái chưa chồng, đặt vòng tránh đẻ.
Thanh niên trai trẻ, lại sớm về hưu.
Làng xóm tiêu điều: Nông thôn đổi mới !
Quốc ca truyền thống “Dô tả dô tà”
'Tích cực tăng gia-Trồng tòan rau má
Dựa vào vách đá-Bắn được máy bay'
Đàn lợn thả ngày- "kinh tế hiện đại"
Mấy bà đứng đái "thuỷ lợi tưới tiêu"
Phá đường tàu nhiều, rau không kịp mọc
Quốc ca truyền thống “Dô tả dô tà”
'Tích cực tăng gia-Trồng tòan rau má
Dựa vào vách đá-Bắn được máy bay'
Đàn lợn thả ngày- "kinh tế hiện đại"
Mấy bà đứng đái "thuỷ lợi tưới tiêu"
Phá đường tàu nhiều, rau không kịp mọc
Trẻ con đi học, thường Nắm đuôi trâu
Tiết kiệm xăng dầu, bơi qua sông Mã......
Rồi họ còn xuyên tạc bài hát:
Các cụ dân quân Thanh Hóa
“Hôm qua mưa rất to
Các cụ cởi truồng đi bắt cá rô
Cá quẫy đằng đông,
Các cụ bắt đằng Tây
Hỡi dô trên đất này
Có cụ già đi bắt cá rô
Tuổi cao chí càng cao, răng càng lung lay
Không nhai được cháy nữa rồi
Sóng vỗ vào mông,
Các cụ rụng hết cả lông
Hỡi dô trên đất này
Có cụ già ấy không có lông
Thế có tức không
Huân chương không lấy đâu
Các cụ bảo rằng thịt trâu dễ chia
Máy bay đằng Đông,
Các cụ giương súng đằng Tây
Hỡi dô trên đất này
Có cụ già bắn rơi máy bay
Hết xăng”
Các cụ cởi truồng đi bắt cá rô
Cá quẫy đằng đông,
Các cụ bắt đằng Tây
Hỡi dô trên đất này
Có cụ già đi bắt cá rô
Tuổi cao chí càng cao, răng càng lung lay
Không nhai được cháy nữa rồi
Sóng vỗ vào mông,
Các cụ rụng hết cả lông
Hỡi dô trên đất này
Có cụ già ấy không có lông
Thế có tức không
Huân chương không lấy đâu
Các cụ bảo rằng thịt trâu dễ chia
Máy bay đằng Đông,
Các cụ giương súng đằng Tây
Hỡi dô trên đất này
Có cụ già bắn rơi máy bay
Hết xăng”
Rồi họ còn hát dân ca Thanh Hoá
bôi bác ước mơ của con cháu quê choa:
Mơ ước cao của “con” người Thanh hóa
“Dô tá, dô tà”
Năm nay sẽ được mùa rau má lớn
Tàu rau má, to bằng tàu lá sen
Năm nay sẽ được mùa rau má lớn
Tàu rau má, to bằng tàu lá sen
“Dô tá, dô tà”
Nhà 7 người chỉ cần xơi một lá
Là đủ no liên suốt hết cả tuần
Nhà 7 người chỉ cần xơi một lá
Là đủ no liên suốt hết cả tuần
“Dô tá, dô tà-dô khoan, dô hầy
ơi dô khoan ta dô khoan”-Thế có sướng không
Ước mơ lớn của “cháu” người Thanh hóa
“Dô tá, dô tà”
Năm sau sẽ được mùa rau má nữa
Tàu rau má, to bằng tàu lá chuối
Năm sau sẽ được mùa rau má nữa
Tàu rau má, to bằng tàu lá chuối
“Dô tá, dô tà”
Nhà 7 người chỉ cần xơi một lá
Là đủ no suốt hết cả tháng ròng
Nhà 7 người chỉ cần xơi một lá
Là đủ no suốt hết cả tháng ròng
“Dô tá, dô tà-dô khoan, dô hầy
ơi dô khoan ta dô khoan”-Thế đã sướng chưa
NGHE THƠ: THANH HOÁ QUÊ CHOA TỰ ĐÁNH GIÁ MÌNH
Quê choa Thanh Hóa đẹp tuyệt vời,
Có dòng Sông Mã lặng lờ trôi,
Có hàng tre nhỏ bao làng xóm,
Có cánh chim câu liệng giữa trời.
Ấy thế mà!
Họ bảo choa: dân ba tỷ bảy,(Nợ NN năm 1985)
Họ bảo choa: dân cạy đường tàu,
Họ bảo choa: chỉ thích thịt trâu,
Chia cho dễ huân huy chương không thích.
Chuyện hàng ngày choa đâu có trách,
Cãi cọ tép, tôm khu nọ, khu kia.
Một dải non sông, choa đâu muốn phân chia,
Mà họ bảo choa, thích lập vương quốc mới.
Đẩy vào đẩy ra, đẩy sang Lào không nổi,
Tức giận trở về định lập quốc gia riêng.
Cuộc đấu tranh chống Mỹ thiêng liêng,
Các bô lão choa bắn rơi thần sét.
Họ lại bảo choa: súng trường đì đẹt,
Vớ giặc lái mù, lại lúc hết sạch xăng.
Họ lại bảo choa: ăn nói lăng nhăng,
Làm ăn lớn – thả rông cho lợn chạy.
Họ bảo choa: dân ba tỷ bảy,
Bởi làm ăn trông vào sáu chữ lờ
(Lợn, lúa, lang, luồng, lạc, lá)
Nhắc nợ hoài vẫn cứ làm ngơ,
Ruộng đất lắm, mà suốt đời tất bật.
Đào rau má mà làm cho tàu bị lật,
Cái cầu cỏn con thì bảo là to.
Bằng cái quạt mo mà gọi là cầu bố,
Có cái đồi thông mấy cây lố nhố,
Mà cứ khoe khoang gọi đó là rừng,
Họ nói nhiều, choa đâu dám dửng dưng,
Không có lửa thì làm sao có khói,
Họ dèm pha, cũng làm mình nhức nhối.
Tự ngẫm quê mình sao vẫn cứ nghèo xơ,
Đất tỉnh Thanh – một miền đất nên thơ.
Có biển mênh mông, trải dài theo đất nước,
Rừng bạt ngàn đến tận vùng Bá Thước.
Mỏ Crôm Cổ Định trữ lượng giàu,
Hàm Rồng hiên ngay hùng vĩ những nhịp cầu,
Vẫn kiêu hãnh vắt qua dòng sông Mã,
Sông Suối nên thơ vẫn trôi về biển cả,
Đã trở thành huyền thoại đất tỉnh Thanh,
Một dòng sông nảy lửa chiến tranh.
Vùi đáy sâu biết bao tàu bay Mỹ,
Ai đã đến đất Thanh rồi nhỉ?
Có ngỡ ngàng không?khi đến đất nơi này.
Thị xã tranh nghèo nay đã lắm đổi thay,
Một thành phố nguy nga và tráng lệ.
Du khách đổ về nhiều không đếm xuể,
Khao khát hè về nghỉ mát biển Sầm Sơn.
Ôi ! Sầm Sơn, còn đâu nữa đẹp hơn?
Trai, gái đến không muốn rời xa nữa,
Biển đẹp hiền hòa như vòng tay mẹ.
Giang rộng đón con ôm chặt vào lòng,
Đến đất Thanh rồi thấy có tuyệt vời không???
Có dòng Sông Mã lặng lờ trôi,
Có hàng tre nhỏ bao làng xóm,
Có cánh chim câu liệng giữa trời.
Ấy thế mà!
Họ bảo choa: dân ba tỷ bảy,(Nợ NN năm 1985)
Họ bảo choa: dân cạy đường tàu,
Họ bảo choa: chỉ thích thịt trâu,
Chia cho dễ huân huy chương không thích.
Chuyện hàng ngày choa đâu có trách,
Cãi cọ tép, tôm khu nọ, khu kia.
Một dải non sông, choa đâu muốn phân chia,
Mà họ bảo choa, thích lập vương quốc mới.
Đẩy vào đẩy ra, đẩy sang Lào không nổi,
Tức giận trở về định lập quốc gia riêng.
Cuộc đấu tranh chống Mỹ thiêng liêng,
Các bô lão choa bắn rơi thần sét.
Họ lại bảo choa: súng trường đì đẹt,
Vớ giặc lái mù, lại lúc hết sạch xăng.
Họ lại bảo choa: ăn nói lăng nhăng,
Làm ăn lớn – thả rông cho lợn chạy.
Họ bảo choa: dân ba tỷ bảy,
Bởi làm ăn trông vào sáu chữ lờ
(Lợn, lúa, lang, luồng, lạc, lá)
Nhắc nợ hoài vẫn cứ làm ngơ,
Ruộng đất lắm, mà suốt đời tất bật.
Đào rau má mà làm cho tàu bị lật,
Cái cầu cỏn con thì bảo là to.
Bằng cái quạt mo mà gọi là cầu bố,
Có cái đồi thông mấy cây lố nhố,
Mà cứ khoe khoang gọi đó là rừng,
Họ nói nhiều, choa đâu dám dửng dưng,
Không có lửa thì làm sao có khói,
Họ dèm pha, cũng làm mình nhức nhối.
Tự ngẫm quê mình sao vẫn cứ nghèo xơ,
Đất tỉnh Thanh – một miền đất nên thơ.
Có biển mênh mông, trải dài theo đất nước,
Rừng bạt ngàn đến tận vùng Bá Thước.
Mỏ Crôm Cổ Định trữ lượng giàu,
Hàm Rồng hiên ngay hùng vĩ những nhịp cầu,
Vẫn kiêu hãnh vắt qua dòng sông Mã,
Sông Suối nên thơ vẫn trôi về biển cả,
Đã trở thành huyền thoại đất tỉnh Thanh,
Một dòng sông nảy lửa chiến tranh.
Vùi đáy sâu biết bao tàu bay Mỹ,
Ai đã đến đất Thanh rồi nhỉ?
Có ngỡ ngàng không?khi đến đất nơi này.
Thị xã tranh nghèo nay đã lắm đổi thay,
Một thành phố nguy nga và tráng lệ.
Du khách đổ về nhiều không đếm xuể,
Khao khát hè về nghỉ mát biển Sầm Sơn.
Ôi ! Sầm Sơn, còn đâu nữa đẹp hơn?
Trai, gái đến không muốn rời xa nữa,
Biển đẹp hiền hòa như vòng tay mẹ.
Giang rộng đón con ôm chặt vào lòng,
Đến đất Thanh rồi thấy có tuyệt vời không???
Bay có biết rằng trong lịch sử cha, ông
Dân Thanh Hoá quê choa đều làm vua cả đó
Từ Tiền Lê-Hậu Lê-đánh tan Nhà Mạc nữa
Rồi Hồ Qúi Ly-đến Minh Mạng-Gia Long
Họ Trịnh-Nguyễn quê choa cũng làm chúa 200 năm
Nhưng do dưới vua nên quê choa không tính.
Văn nhân, Đại thần quê choa nhiều vô kể
Bởi đất nhiều Rồng nên chẳng thể sống chung
Phải vào đàng trong ở cùng “đồ xứ Nghệ”
Bởi thế nên quê choa mới bị người ta chế:
"Xứ Thanh quen Cậy thế để Xứ Nghệ cậy thần"
Những đứa con xa quê, nghe chớ bần thần
Bởi bản chất của dân quê choa là vậy đó.
Yêu nước, cần cù và cũng rất Trung Quân
Hãy nhớ đất mẹ nghèo nuôi thân mình khôn lớn,
Và phải biết mẹ trải quá nhiều đau đớn.
Vất vả và khổ rồi nên càng lớn, càng yêu,
Ta yêu tổ quốc Việt Nam bao nhiêu,
Càng tự hào nhiều vì mình Quê Thanh Hóa.
Hãy nhớ đất mẹ nghèo nuôi thân mình khôn lớn,
Và phải biết mẹ trải quá nhiều đau đớn.
Vất vả và khổ rồi nên càng lớn, càng yêu,
Ta yêu tổ quốc Việt Nam bao nhiêu,
Càng tự hào nhiều vì mình Quê Thanh Hóa.
ĐIỂM LẠI LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA NGƯỜI QUÊ CHOA
1/Thời đồng đá
Văn
hoá Hoa Lộc là văn hoá từ đá chuyển sang đồng được chia làm 3 giai
đoạn: Cồn Chân Tiên, Ðông Khối và Quì Chử cách ngày nay 4.200 năm.
Hoa
Lộc thuộc huyện Hậu Lộc gồm di vật Ðá mới hoàn hảo, mài dũa mịn màng
tất cả các mặt, đặc biệt có lưỡi cuốc đá, có thể có cả lưỡi cày đá, các
đồ gốm có trang trí và nung chín là nồi niêu, bát đĩa đủ loại. Cồn Chân
Tiên ở sát chân phía Ðông Nam núi Ðọ, thuộc xã Thiệu Khánh (Thiệu Hoá)
là một di chỉ Văn hoá Hoa Lộc quan trọng, được coi là cốt lõi mở đầu
việc hình thành bộ Cửu Chân trong đất nước các Vua Hùng xa xưa. Ðông
Khối (xã Ðông Cương, thành phố Thanh Hoá) là di chỉ công xưởng chế tác
đá phong phú và rộng lớn nhất ở Việt Nam thuộc thời đại Ðồng thau cách
nay 3.100 năm. Quì Chử (xã Hoằng Quì, Hoằng Hoá) là di chỉ có nhiều
chiến cụ như rìu cân, rìu xéo, mũi giáo, mũi lao và mũi tên bằng đồng có
trang trí bằng hoa văn đúc nổi, có cả các dụng cụ để nấu và đúc đồng.
Di chỉ Ðông Sơn (nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hoá), thời
Ðồng Thau là quan trọng nhất trong khảo cổ học Việt Nam, nổi tiếng trên
thế giới, được đặt tên cho nền văn hoá Việt Nam ở giai đoạn cách đây
2.820 + 60 năm. Lần đầu tiên ở Việt Nam, có một nền văn hoá bao trùm một
địa bàn cỡ quốc gia từ Hoàng Liên Sơn đến miền Nam Việt Nam, đó là nền
Văn hoá Ðông Sơn. Riêng ở Thanh Hoá, đồ đồng Ðông Sơn đã có mặt khắp mọi
miền trong tỉnh, cho tới tháng 7/1986 đã phát hiện 85 di tích. Ðồ đồng
Ðông Sơn đã gồm đủ bộ công cụ, chiến cụ và nhạc cụ của người nông dân
đương thời, trước khi có máy móc. Trên các đồ đồng này đều có khắc chạm
đúc nổi các hoa văn trang trí, đặc biệt là các hình vẽ mô tả sinh hoạt
văn hoá của người Việt thời bấy giờ. Thời Ðông Sơn, nghề dệt vải rất
phát triển, chất lượng sản phẩm rất tốt, đẹp, di vật còn đến tận ngày
nay. Chuôi kiếm đồng là cả một pho tượng mô tả người phụ nữ vừa đẹp về
kiểu dáng vừa tiện cầm nắm. Trống đồng Ðông Sơn là nhạc khí đẹp nhất, âm
lượng tốt nhất và có kích thước lớn nhất trong các di vật thời đại Ðồng
Thau, Thanh Hoá là nơi phát hiện 80% số lượng các trống đồng có ở Việt
Nam và thế giới. Như vậy, Thanh Hoá có những di chỉ sau đây được đặt tên
cho các nền văn hoá khảo cổ: Núi Ðọ (đá cũ), Ða Bút (đá mới), Hoa Lộc
(đồng đá) và Ðông Sơn (đồng thau). Bộ Cửu Chân mà lãnh thổ được xác định
đầu tiên và không thay đổi của tỉnh Thanh Hoá là một trong 15 bộ của sự
phân chia hành chính của thời các vua Hùng, về sau là quận, châu, trấn ở
thời xưa và là tỉnh ngày nay. Ðịa danh Cửu Chân cùng với văn hoá thuần
Việt Ðông Sơn còn kéo dài được nhiều thế kỷ sau Công nguyên, từ cuộc
khởi nghĩa Bà Triệu (thế kỷ III sau CN) cho mãi đến thế kỷ X, những
người xuất thân từ xứ này đều được gọi là người Cửu Chân.
2/Cuộc khởi nghĩa của Chu Ðạt (156 - 160)
Năm
156, Chu Ðạt, người huyện Cự Phong (nay là Phú Hào, xã Thọ Phú, huyện
Triệu Sơn) chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cự Phong (vùng đất các
huyện Nông Cống, Quảng Xương, Tĩnh Gia và Như Xuân, Như Thanh ngày nay)
giết chết huyện lệnh rồi tiến công Tư Phố, giết chết thái thú nhà Ðông
Hán, lực lượng có đến 5.000 người, quản trị Cửu Chân được 4 năm từ năm
156 đến năm 160.
3/Cuộc khởi nghĩa bà Triệu (Triệu Thị Trinh) năm 248
Từ
năm 220, Cửu Chân thuộc quyền cai trị của Ðông Ngô (một trong 3 nước
thời Tam Quốc), trong xứ không kể Nghệ An, Hà Tĩnh nữa, có chừng 3 vạn
hộ. Bà Triệu tức Triệu Ẩu, Triệu Thị Trinh, người Quân Yên (huyện Yên
Ðịnh), 20 tuổi, lập căn cứ ở Núi Nưa (Triệu Sơn), hội quân với 3 anh em
họ Lý ở Bồ Ðiền (tức Phú Ðiền, huyện Hậu Lộc) cùng tiến đánh quận sở Tư
Phố đại thắng. Hầu hết các huyện lỵ, thành ấp ở Cửu Chân, Cửu Ðức, Nhật
Nam (2 quận nay là vùng Nghệ Tĩnh - Quảng Bình) bị nghĩa quân đánh hạ,
các thái thú, huyện lệnh và huyện trưởng bị giết... nền đô hộ của nhà
Hán ở Giao Châu hơn 330 năm bị lật đổ.
4/Thời nước Vạn Xuân, Lý Nam Ðế (542 - 556)
Mùa
xuân 542, Lý Bí - mẹ đẻ là người Cửu Chân, khởi nghĩa thắng lợi, lập ra
nước Vạn Xuân xưng là Lý Nam Ðế. Nhà Lương đàn áp. Lý Thiên Bảo là anh
ruột Lý Bí rút về Dã Năng (huyện Bá Thước ngày nay) xưng là Ðào Lang
Vương tiếp tục kháng chiến. Sau đó Thiên Bảo mất, Lý Phật Tử lên thay
tức là Hậu Lý Nam Ðế. Năm 556, Lý Phật Tử đánh nhau với Triệu Việt Vương
Triệu Quang Phục - người tiếm ngôi của Lý Bí và là người đánh bại quân
đội nhà Lương ở đầm Dạ Trạch - Quang Phục thua Phật Tử, chết ở cửa biển
Lạch Trào (tức Cửa Hới ngày nay).
5/Cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc (đầu thế kỷ VII)
Lê
Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng với 4 người con lật đổ quan cai trị của
nhà Tuỳ (Trung Quốc) đóng ở Ðông Phố (tức Ðồng Pho, xã Ðông Hoà huyện
Ðông Sơn ngày nay), gọi là kinh đô Trường Xuân, tự quản Cửu Chân chống
lại nhà Ðường cho đến đầu thế kỷ VI. Ðến thế kỷ VII, Cửu Chân gồm 6
huyện có 16.100 hộ (quận Giao Chỉ có 30.000 hộ) khoảng 84.000 nhân khẩu,
thuộc xứ An Nam (tên An Nam thay cho Giao Châu bắt đầu từ đây). Quận sở
là Ðông Phố (tức là Ðồng Pho). Năm 759, quân Mã Lai cướp phá Châu ái
(tên gọi Cửu Chân từ năm 523) bị quan cai trị là Trương Bá Nghi tiêu
diệt. Năm 797, quân Mã Lai lại cướp phá Châu ái nữa, xây cả thành, lập
nước, nhưng bị quan cai trị là Trương Châu đánh đuổi, san phẳng thành
trì thu hồi mọi của cải. Thế kỷ IX, Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo đã
rất phát đạt ở Châu ái. Ðạo Nho có anh em Khương Công Phụ, đỗ Tiến sỹ
làm quan đến Tể tướng triều đình nhà Ðường, đạo Lão biến các hang động
đẹp nhất ở khắp Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn làm nơi tu tiên và đạo Phật
có các Ðại hoà thượng như Trí Hành và Ðại Thăng Ðăng sang tận Trung Quốc
để hành đạo.
6/Thời Dương Ðình Nghệ (? - 937)
Dương
Ðình Nghệ, chính khách quan trọng nhất thế kỷ X của lịch sử Việt Nam,
thu hút hơn 3.000 người làm vây cánh ở làng Giàng, Tư Phố (nay là đất
các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hoá), trong đó có Ngô
Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng... Tháng 3 năm 931, Dương
Ðình Nghệ đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của nhà Nam Hán (Trung Quốc), tiêu
diệt viện binh Nam Hán, tự lập làm tiết độ sứ, chấm dứt vĩnh viễn nền đô
hộ hơn 1.000 năm của người Trung Quốc ở Việt Nam. Từ Dương Ðình Nghệ,
Việt Nam xác định lại được quốc thống của một đất nước độc lập hoàn
toàn.
7/Thời Ngô Quyền (938 - 968)
Mùa
đông năm 938, Ngô Quyền đem quân đội Cửu Chân tiến ra Bắc tiêu diệt
Kiều Công Tiễn - kẻ phản bội họ Dương ở Ðại La (Hà Nội ngày nay), rồi
cản phá quân Nam Hán Lưu Hoàng Thao trên sông Bạch Ðằng, lên ngôi vua
tức Ngô Vương Quyền. Thời 12 sứ quân, Cửu Chân nằm trong vòng kiểm soát
của Ðinh Bộ Lĩnh ở miền Ðông và của Ngô Xương Xí - cháu nội Ngô Quyền, ở
Bình Kiều (đất vùng Triệu Sơn ngày nay) tức miền Tây lãnh thổ.
8/Thời Ðại Cồ Việt - Tiền Lê (968 - 1009)
Năm
979 - 980, Lê Hoàn trấn áp xong quân chống đối của Nguyễn Bặc và Ðinh
Ðiền ở vùng sông Tống (vùng đất huyện Hà Trung ngày nay) lên ngôi vua .
Năm 981, ông đánh tan quân xâm lược nhà Tống, và năm 982 đánh thắng quân
Chiêm Thành. Năm 982, nhà vua cho nạo vét các sông ngòi, đào kênh nối
liền hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên, sông Bạng cho đến vùng đất
tỉnh Nghệ An ngày nay, thành một đường giao thông thuận tiện đầu tiên ở
Cửu Chân và ở cả đất nước Ðại Cồ Việt. Người chỉ huy đào các kênh này là
Ðào Lang, làng Bùi Ðỉnh (xã Yên Trung huyện Yên Ðịnh ngày nay). Từ năm
999 đến năm 1005, các vua tiền Lê phải trực tiếp điều quân bình định
miền viễn tây Thanh Hoá nhưng chưa ổn.
9/Thời Nhà Lý (1010 - 1225)
Năm
1111, Cửu Chân đổi làm phủ Thanh Hoá. Tên Thanh Hoá bắt đầu có từ đây
(Thanh: trong sạch; Hoá: biến hoá), dời lỵ sở từ Ðông Phố đến Duy Tinh
(vùng đất các xã Văn Lộc, Mỹ Lộc, Thuần Lộc huyện Hậu Lộc ngày nay).
Ruộng đất Thanh Hoá bắt đầu bị nhà vua lấy ban cho các đại thần dưới
dạng phong ấp. Ðó chính là chế độ phong kiến hình thành ở nước ta.
10/Thời nhà Trần (1226 - 1400)
Tháng
giêng năm Thiệu Long thứ XV nhà Trần (năm 1272), Lê Văn Hưu, người làng
Bồi Lý (xã Thiệu Trung, Thiệu Hoá ngày nay) dòng dõi Lê Lương, soạn
xong Ðại Việt sử ký toàn thư - bộ sử hoàn chỉnh đầu tiên của nước ta.
Lê
Văn Hưu được tôn là ông tổ ngành sử học của Việt Nam . Ðầu năm 1285,
kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2, ở Thanh Hoá, quân đội nhà Trần
do Trần Kiên, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chỉ huy chống giữ cầm chân
giặc, ở các điểm Yên Duyên (xã Quảng Hùng), núi Ðá Chẹt (Quảng Lĩnh),
Vân Trinh (Quảng Hợp), Bố Vệ (thành phố Thanh Hoá), Phú Tân (Hà Toại),
Nga Lĩnh, Quang Lộc, Liên Lộc, chiến sự rất dữ dội. Sau khi tướng
Nguyên: Toa Ðô tiến được ra sông Hồng thì Hưng Ðạo Vương lại đem 2 vua
Trần rút vào Thanh Hoá (ở các vùng Nga Sơn, Hà Trung, Thạch Thành ngày
nay) để bảo toàn đầu não. Ðến tháng 5 năm 1285, từ Thanh Hoá, Hưng Ðạo
Vương tiến quân ra Bắc quét sạch quân Nguyên Mông khỏi bờ cõi Ðại Việt.
Năm 1370, dòng họ Lê ở Ðại Lại (Ðò Lèn, Hà Ngọc huyện Hà Trung) do Lê
Liêm cầm đầu hội quân Thanh Hoá tiến ra Thăng Long phế bỏ người tiếm
ngôi Dương Nhật Lễ, lập lại nhà Trần bằng vua Trần Phủ - tức Trần Nghệ
Tôn - nhà Trần từ đây thiên vào Thanh Hoá. Năm 1378, quân Chiêm Thành
vào cướp Thanh Hoá bị quan quân nhà Trần trấn giữ đánh bại. Năm 1380,
quân Chiêm Thành do đích thân vua Chế Bồng Nga chỉ huy lại vào cướp
Thanh Hoá bị Hồ Quí Ly đánh bại ở cửa sông Ngu (tức Lạch Trường, Hoằng
Trường ngày nay). Năm 1382, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá,
bị Nguyễn Ða Phương đánh bại ở cửa Thần Ðầu (tức Thần Phù, huyện Nga
Sơn ngày nay). Năm 1389, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, Hồ
Quí Ly chống không nổi phải bỏ chạy. Quân Chiêm Thành tiến ra Bắc. Năm
1390, tướng chỉ huy nhà Trần ở Thanh Hoá là Trần Khát Chân cản phá được
quân Chiêm Thành, giết chết Chế Bồng Nga, chấm dứt vĩnh viễn sự quấy rối
của các vua Chiêm Thành.
11/Thời nhà Hồ (1400 - 1407)
Mùa
xuân năm 1397, xây dựng xong thành đá Tây Giai ở động Thiên Tôn (nay là
đất xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc). Tháng 2 năm Canh Thìn
(1400), Hồ Quí Ly lên ngôi vua ở thành này, thay nhà Trần, đổi tên nước
là Ðại Ngu (nghĩa là rất an vui và cùng lo việc nước), bỏ kinh đô Thăng
Long, lấy thành đá mới làm quốc đô gọi là Tây Ðô. Nhà Hồ phát hành tiền
giấy thay cho tiền đồng đúc từ năm 1396, đến năm 1400 định lại giá kim
ngạch cho thêm chặt chẽ. Năm 1402, nhà Hồ hoàn thành việc xây dựng con
đường Thiên Lý từ Tây Ðô ra Ðông Quan (tức Thăng Long cũ) và từ Tây Ðô
vào Hoá Châu (vùng Quảng Bình ngày nay) dọc đường đặt nhà trạm, phố xá
và bưu dịch có hệ thống. Sau một năm chiến đấu ngoan cường nhưng thất
bại, năm 1407, nhà Hồ và nước Ðại Ngu mất vào tay quân xâm lược nhà
Minh.
Ghi chú:Theo gia phả họ Hồ, tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang (Trung Quốc), đời Hậu Hán thời Ngũ đại Thập quốc (năm 947-950), tương đương thời Dương Tam Kha của Việt Nam, sang làm Thái thú Diễn Châu và định cư ở hương Bào Đột nay là xã quỳnh lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đến đời nhà Lý,
có người trong họ lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt
Đoan. Đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa,
làm con nuôi tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình. Quý Ly là
cháu bốn đời của Lê Huấn. Ông có hai người cô đều được vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đều trở thành mẹ hai vua nhà Trần, do đó ông sớm được đưa vào làm quan trong triều đình nhà Trần.
12/Cuộc kháng chiến 10 năm chống nhà Minh(1418 - 1428)
Mùa
xuân, tháng Giêng ngày mồng 2 năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng với
những người tài giỏi trong cả nước khởi nghĩa ở Mường Chính (nay là
huyện lỵ Lang Chánh) tiến về Khả Lam (tức Lam Sơn) bắt đầu cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược nhà Minh (Trung Quốc) giải phóng đất nước. Lê
Lợi xưng là Bình Ðịnh Vương, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang (nay
là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân). Bình Ðịnh Vương chiến đấu ở Thanh Hoá 6
năm, các trận đánh lớn diễn ra ở Lam Sơn, Mường Một (vùng Bát Mọt,
huyện Thường Xuân ngày nay), Mường Chính, Bến Bổng (vùng thượng du sông
Âm), Ba Lẫm (vùng Chiềng Lẫm, huyện Bá Thước ngày nay), Kình Lộng (vùng
Cổ Lũng, huyện Bá Thước),úng ải (vùng đèo Thiết ốvùng đèo thiết ống,
huyện Bá Thước), Sách Khôi (ở khoảng giữa huyện Bá Thước và huyện Hoàng
Long - Ninh Bình và huyện Thạch Thành - Thanh Hoá), Ða Căng (vùng Thọ
Nguyên, Thọ Xuân), có trận phía địch có tới 10 vạn quân như ở Kình Lộng.
Mùa đông năm 1424, Bình Ðịnh Vương tiến quân vào Nghệ An theo kế sách
của Nguyễn Chích. Mùa thu năm 1426, quân khởi nghĩa tiến ra Bắc bao vây
Ðông Quan. Ngày 17 tháng 9 năm Bính Ngọ (1426), Bình Ðịnh Vương đến Lỗi
Giang (vùng đất các huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc ngày nay) chỉ huy bao
vây Tây Ðô. Cuối năm 1426, Bình Ðịnh Vương ra Bắc chỉ huy giải phóng các
miền đất Giao Chỉ (Bắc Bộ ngày nay), và vây hãm thành Ðông Quan. Ngày
22 tháng một năm Ðinh Mùi (1427), giặc Minh đầu hàng. Mùa xuân năm sau -
giặc rút về, đất nước sạch bóng quân thù, thành Tây Ðô lại về Ðại Việt.
Ngày 15 tháng giêng năm Mậu Thân (1428), Bình Ðịnh Vương lên ngôi hoàng
đế nước Ðại Việt, thủ đô là Ðông Kinh (tức Ðông Quan, thủ đô Hà Nội
ngày nay). Cả nước chia làm 3 đạo hành chính lớn, Thanh Hoá thuộc đạo
Hải Tây trong số các trấn ven biển Tây Ðô.
13/Thời Lê sơ (1428 - 1516)
Tháng
11 - Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ về bái yết Sơn Lăng, Lam Sơn, sau 10
năm chiến đấu giành độc lập cho đất nước thắng lợi. Mùa Hè năm Canh
Tuất (1430) đổi Tây Ðô làm Tây Kinh và Ðông Ðô (Hà Nội) làm Ðông Kinh.
Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tổ mất, một tháng sau đem về
an táng ở Lam Sơn, gọi nơi an táng là Vĩnh Lăng. Tháng 12 năm Quí Sửu (
1433) xây dựng điện Lam Sơn (gọi là Lam Kinh). Ngày 7 tháng 01 Giáp Dần
(1434), điện Lam Kinh bị cháy (cháy lần thứ nhất). Tháng 9 Mậu Thìn
(1448): xây dựng lại Lam Kinh do Thái uý Trịnh Khả chỉ huy. Từ Mậu Ngọ
(1438) đến Mậu Tý (1468), 3 lần khơi đào các kênh trong xứ Thanh Hoá.
Năm Bính Tý, tháng 4 (1516), Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dực, lập
vua Lê Chiêu Tông rước về Tây Kinh.
14/Thời Lê Mạc (1516 - 1788)
Họ
Mạc cướp ngôi vua Lê ở Thăng Long. Quan Ðiện tiền tướng quân là Nguyễn
Kim - người Hà Trung lập căn cứ ở Thanh Hoá chống lại họ Mạc. Năm 1533
(Quí Tỵ), ông này đưa được Lê Ninh (con vua Chiêu Tông) lên ngôi tức Lê
Trang Tông đánh chiếm Tây Kinh (1545) thắng lợi. Ðến năm 1545 (ất Tỵ),
Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm lên thay, đánh nhau nhiều trận lớn
với họ Mạc ở Thanh Hoá, 17 lần quân Mạc đều thua.
Từ
năm 1533 đến 1592, triều đình nhà Lê ở Thanh Hoá, quản lý đất nước từ
Thanh Hoá trở vào, đóng đô ở Yên Trường (nay thuộc Yên Ðịnh) mở nhiều
khoa thi, chọn người hiền tài tham gia chính quyền. Năm 1593, Trịnh Tùng
- con trai Trịnh Kiểm, kế tục cha tiêu diệt họ Mạc, đưa vua Lê Thế Tông
trở lại Thăng Long, lập phủ chúa, Ðàng Ngoài do vua Lê - Chúa Trịnh trị
vì từ năm 1599. Trong thời đó, năm 1588, Nguyễn Hoàng (con trai của
Nguyễn Kim) vào trấn thủ xứ Thuận Hoá, mở đầu sự nghiệp các Chúa Nguyễn ở
Ðàng trong. Năm 1738, Lê Duy Mật (con vua Lê Dụ Tông Duy Ðường) khởi
nghĩa chống Chúa Trịnh, địa bàn hoạt động rộng khắp Tây Nam, Tây, Tây
Bắc Thanh Hoá và vùng Tây Bắc lẫn Tây Bắc Bộ. Năm 1770, Duy Mật bị con
rể phản bội phải thua và tự sát với vợ con, chấm dứt 32 năm chiến đấu.
Từ năm 1557 đến 1786, Thanh Hoá bị 10 trận bão lụt lớn xen đại hạn, 15
lần đói to chết nhiều người và 16 cuộc chiến giữa quân Trịnh - Mạc,
những tai hoạ âý không hề có ở thời Lê sơ.
15/Thời Tây Sơn
Những
năm quân Tây Sơn tiến công ra Bắc, quân dân Thanh Hoá do Lê Trung Nghĩa
(tức Quận Mãn) chỉ huy chống lại rất dữ dội, Lê Trung Nghĩa tử trận ở
Tĩnh Gia.
Quân
đội Tây Sơn phá huỷ hoàn toàn Lam Kinh và kinh đô An Trường biểu tượng
của các vua Lê, và còn phá huỷ nhiều chùa chiền miếu mạo khác. Năm 1790,
con vua Quang Trung là Quang Bàn được cử làm trấn thủ Thanh Hoá. Năm
1792, thì tách ra 2 phủ Trường An và Thiên Quan của Thanh Hoa ngoại
thành trấn Thanh Bình (tức Ninh Bình ngày nay).
16/Thời nhà Nguyễn (1802 - 1945)
Thanh
Hoá là đất tổ của nhà Nguyễn, cho nên sau kinh thành Huế, Thanh Hoá đặc
biệt được chú trọng. Nhà Nguyễn coi viên quan tổng đốc quản trị Thanh
Hoá ngang với chức thượng thư trong triều đình và phải là một vị hoàng
thân mới được làm tổng đốc tỉnh Thanh Hoá.
Ðặc
biệt, triều đình ra lệnh không được đào bới khai mỏ gì ở Thanh Hoá sợ
rằng xúc phạm đến oai linh của xứ sở. Nhà Nguyễn xây lăng tổ khai sáng ở
Triệu Tường (Hà Trung), thành Triệu Tường lớn thứ 2 sau thành Thanh
Hoá, chu vi 182 trượng (1 trượng = 4m), xây dựng lại Lam Kinh để tỏ lòng
kính ngưỡng nhà Lê, dựng đền thờ các vua Lê ở Kiều Ðại (TP Thanh Hoá),
hằng năm cắt cử các quan lại thay mặt nhà vua cúng tế và tổ chức phòng
thủ ở Thanh Hoá rất hùng mạnh gồm một hệ thống 11 đồn binh có quân chính
qui trấn giữ 7 bảo súng (pháo đài), 1 đồn thuỷ với 44 khẩu đại bác
(súng thần công) mỗi đợt tuyển quân lấy của Thanh Hoá hơn 7.000 người.
Ngày 25/11/1885, quân xâm lược Pháp lần đầu tiên tiến công Thanh Hoá.
Trước đó, ngày 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm Nghi tuyên bố
chọn Thanh Hoá làm thủ phủ kháng chiến, nên tinh thần Cần Vương của quân
dân Thanh Hoá rất sôi sục. Vùng rừng núi Thanh Hoá được xây dựng những
sơn phòng tích trữ tiền của, lương thảo để chuẩn bị đánh giặc. Ba tháng
sau (12/3/1886), nghĩa quân Cần Vương đã tiến đánh quân Pháp đóng ở
thành Thanh Hoá. Mùa hè năm 1886, nghĩa quân lập bộ chỉ huy kháng chiến
toàn Thanh Hoá do Tống Duy Tân đứng đầu và lập chiến khu ở Ba Ðình (Nga
Sơn). Từ 18/12/1887, chiến sự dữ dội nhất giữa quân Việt Nam và Pháp đã
nổ ra ở Ba Ðình. Quân Pháp phải tập trung trên địa bàn một số xã ở đây
lượng binh lính lớn nhất so với toàn quốc (6.000 người trong một trận)
để chiến đấu và bị thiệt hại nặng nề. Cuối cùng vì không được tiếp ứng
như kế hoạch dự kiến, nghĩa quân do Ðinh Công Tráng chỉ huy đã rút lui
an toàn khỏi các chiến luỹ. Ngày nay quảng trường trọng đại nhất của đất
nước mang tên chiến khu này, đó là quảng trường Ba Ðình lịch sử ở thủ
đô Hà Nội. Các cuộc chiến đấu chống quân đội Pháp ở Thanh Hoá đến giữa
năm 1895 mới chấm dứt cùng với hàng ước của nhà Nguyễn. Thanh Hoá và các
tỉnh miền Trung Việt Nam vẫn nằm trong nền độc lập hạn chế của nhà
Nguyễn không bị Pháp cai trị trực tiếp. Thực tế chính quyền thuộc địa
Pháp chỉ cai quản địa phận thị xã Thanh Hoá được thành lập ngày
12/7/1899 ở khu đất phía Ðông thành Thanh Hoá mà thôi. Năm 1918, chế độ
thi cử tuyển hiền tài, kiểu Nho giáo ở Thanh Hoá mới bãi bỏ. Thanh Hoá
bắt đầu hình thành xã hội phong kiến thuộc địa hiện đại hoá.
Từ
1802, khi bắt đầu vương triều Nguyễn đến khi sụp đổ hoàn toàn năm 1945,
chế độ này đã trải qua 13 triều vua: Gia Long (1802-1819), Minh Mạng
(1820-1840), Thiệu Trị 1841-1847), Tự Đức (1848-1883), Dục Đức (1883,
trong 3 ngày), Hiệp Hòa (1883, trong 4 tháng), Kiến Phúc (1883-1884),
Hàm Nghi (1884-1885), Đồng Khánh (1885-1888), Thành Thái (1889-1907),
Duy Tân (1907-1916), Khải Định (1916-1925), Bảo Đại (1925-1945). Trong
các triều vua đó, chỉ có 4 đời vua đầu tiên là chế độ phong kiến độc
lập.
17/Thời hiện đại
Các
năm 1926 - 1927, các tổ chức cách mạng đầu tiên ở Thanh Hoá ra đời.
Ngày 25/6/1930, chi bộ Ðảng Cộng sản đầu tiên thành lập ở làng Hàm Hạ
(thuộc xã Ðông Tiến, Ðông Sơn), và ngày 29/7/1930, đã thành lập Ðảng bộ
tỉnh, Bí thư Tỉnh uỷ đầu tiên là đồng chí Lê Thế Long.
Tháng
9/1942, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hoá thành lập. Ngày 24/7/1945, nhân dân
huyện Hoằng Hoá giành chính quyền huyện thắng lợi. Ngày 19/8/1945, nhân
dân thành phố Thanh Hoá và một số huyện tiến hành tổng khởi nghĩa thắng
lợi. 4 ngày sau, cách mạng thành công trên toàn tỉnh. Ngày 23/8/1945,
chính quyền cách mạng tỉnh Thanh Hoá ra mắt đồng bào ở thành phố Thanh
Hoá. Ngày 2/9/1945, Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Cùng với cả
nước, lịch sử Thanh Hoá bước vào thời kỳ phát triển mới. Trong thời đại
phong kiến, người dân Thanh Hoá đã ghi lại những mốc son chói lọi trong
lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam . Thanh
Hoá là nơi phát tích của các vương triều: Tiền Lê (Lê Hoàn), Hồ (Hồ Qúi
Ly-gốc Nghệ An, con nuôi của người Thanh Hoá), Hậu Lê (Lê Lợi), chúa
Trịnh (Trịnh Kiểm), chúa Nguyễn (Nguyễn Hoàng), triều Nguyễn (Nguyễn
Ánh-Gia Long). Trong sự nghiệp cách mạng ngày nay, người dân xứ Thanh
cũng góp phần xứng đáng đối với cả nước để xây dựng quê hương mình nhanh
chóng trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh.
*Sự kiện kết nghĩa với tỉnh ngoài
(theo tinh thần tất cả vì miền Nam ruột thịt)
Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước và xây dựng miền Bắc XHCN:
Ngày 12/03/1960, tỉnh Thanh Hóa kết nghĩa với tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng
Ngày 12/02/1961, thị xã Thanh Hóa kết nghĩa với thị xã Hội An.
TÓM LẠI LỊCH SỬ VIỆT NAM HẦU HẾT ĐỀU LÀ
NGƯỜI THANH HOÁ QUÊ CHOA CẢ PHẢI KHÔNG?
MỜI XEM THÊM:
NGƯỜI THANH HOÁ QUÊ CHOA CẢ PHẢI KHÔNG?
MỜI XEM THÊM:
THỐNG KÊ DANH NHÂN TRUYỀN THUYẾT, DANH NHÂN VĂN HOÁ- LỊCH SỬ VÀ VÕ TƯỚNG NGƯỜI THANH HOÁ QUÊ CHOA
I/Danh nhân truyền thuyết
Tên
truyền thuyết của vua Lê Anh Tôn (1556 - 1573), đồn rằng ông vua này
thuở hàn vi nợ tiền rượu chè kinh khủng nhưng lại đem lại điều may mắn
cho những người đi chợ, bán hàng, chúa Chổm người Cầu Bố nay thuộc thành
phố Thanh Hoá.
2/Xiển bột
Hậu duệ hài hước của Trạng Quỳnh, sống vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Thọ Xuân.
Theo
truyện truyền kỳ của Ðoàn Thị Ðiểm, Liễu Hạnh đầu thai vào nhà ông Lê
Thái ở Vụ Bản, Nam Ðịnh, lấy chồng có con, hết hạn đầy về trời. Nhưng
nàng lại trở lại hạ giới ngao du sơn thuỷ và cứu nhân độ thế.
4/Mai An Tiêm
Thời
Hùng Vương, Mai An Tiêm đã cùng vợ con cải thiện đảo hoang nơi bị đầy
ải để tồn tại và phát triển, người nhân giống cây dưa hấu đầu tiên ở
nước ta. Núi có sự tích Mai An Tiêm hiện ở Nga Thiện - Nga Sơn.
5/An Dương Vương
Vua nước Âu Lạc, mất ở Nghi Sơn, nơi ông theo thần Kim Qui xuống biển.
6/Mỵ Châu - Trọng Thuỷ
Con
gái và con rể của An Dương Vuơng. Mỵ Châu chết ở núi Ngọc úc. Trọng
Thuỷ chết ở một cái giếng ở dưới chân núi Ngọc úc. Giếng này nhờ đó mang
tên Ngọc Tiễn (rửa ngọc). Tất cả đều ở vùng Nghi Sơn - Hải Thượng (Tĩnh
Gia-TH)
7/Từ Thức
Người
đời nhà Trần, quê ở Hà Trung, đã lên tiên giới ở do một tiên cô là
Giáng Hương chỉ dẫn. Ðộng tiên nơi Từ Thức đi vào nay ở xã Nga Thiện,
huyện Nga Sơn
8/Chân Nhân (núi Nưa), Hồ Công (Vĩnh Lộc)
Chân
Nhân (núi Nưa), Hồ Công (Vĩnh Lộc) là những đại diện cho đạo tu tiên có
nhiều phép thuật, hiện di tích còn ở núi Nưa (Triệu Sơn-TH), động Hồ
Công (Vĩnh Lộc-TH)
9/Trạng Quỳnh
Ông
tổ hài hước diễu cợt thần quyền, vương quyền và thói ỷ thế nước lớn áp
chế nước nhỏ thời vua Lê chúa Trịnh, do nhân dân thêu dệt ra từ một nhân
vật có thật là Nguyễn Quỳnh ở Hoằng Hoá TH.
II/Danh nhân văn hoá-lịch sử
1/Lê Thị Hoa (TK I)
Quê
ở xã Nga Thiện (Nga Sơn-TH), là một nữ tướng tài ba của Hai Bà Trưng.
Bà đã cùng 4 người con tham gia khởi nghĩa và đã lập được nhiều công
tích.
2/Bà Triệu (226 - 248)
Quê
ở vùng núi Quân Yên, xã Ðịnh Công (Yên Ðịnh-TH). Năm 20 tuổi, cùng anh
là Triệu Quốc Ðạt dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Ngô. Khi Triệu Quốc Ðạt
mất, nghĩa quân tôn bà làm thủ lĩnhvà bà tiếp tục kháng chiến. Cuộc khởi
nghĩa đã lan ra Giao Chỉ và vào tận Cửu Ðức, Nhật Nam và làm rung động
cả Trung Quốc.
Người
làng Hội Trào, huyện Hoằng Hoá-TH. Lúc bé đã nổi tiếng thần đồng, năm
27 (hoặc 28) tuổi đỗ hội nguyên, thi đình đỗ nhất giáp tiến sĩ, tên thứ 2
(tức bảng nhãn). Ông làm quan đến thượng thư Bộ lại, được tham dự triều
chính, tước Ðôn Trung Bá. Ông còn là nhà giáo mẫu mực, là thầy dạy của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đào tạo nhiều nhân tài học thức cho xứ Thanh và đất nước.
Quê
ở Biện Thượng huyện Vĩnh Lộc, có công lao lớn trong cuộc trung hưng nhà
Lê: bắt sống đại tướng Nguyễn Quyện, lấy lại Ðông Kinh.
Quê
ở làng Trương Xá, xã Hoà Lộc (Hậu Lộc-TH), đỗ cử nhân năm 1864, công
Ðinh Công Tráng xây dựng căn cứ và là một trong những lãnh tụ của cuộc
khởi nghĩa Ba Ðình.
6/Nguyễn Hữu Dật (1604 - 1681)
Quê
ở Gia Miêu, xã Hà Long huyện Hà Trung-TH, là một trong những trụ cột
của chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Ðược giao làm bố chánh Quảng Bình.
Ông có tài về chiến lược quân sự và văn thơ. Mất được truy tặng Chiêm
quận công.
7/Nguyễn Chích (1382 - 1448)
Quê
ở Ðông Ninh, Ðông Sơn. Ông xây dựng và lãnh đạo căn cứ Hoàng Nghiêu
chống giặc Minh, khi Lê Lợi khởi nghĩa, ông đem nghĩa quân Hoàng Nghiêu
theo. Ông là một tướng lĩnh tài ba, đã đề xướng kế hoạch đánh vào Nghệ
An thắng lợi, làm thay đổi tình thế nghĩa quân, mở đầu cho thắng lợi
liên tiếp và thắng lợi cuối cùng của nghĩa quân Lam Sơn.
8/Lưu Ðình Chất (1566 - 1627)
Người
làng Quì Chử, Hoằng Hoá, là con công thần Lâm quận công Lưu Ðình
Thưởng. Năm 42 tuổi ông mới thi đỗ nhị giáp tiến sỹ, mùa Hè, Quí Mùi
(1623), Trịnh Xuân gây biến ông giúp Thanh Vương (Trịnh Tráng) dẹp loạn.
Vì có công và tài giỏi nên vào phủ làm tham tụng, tiến lên thượng thư
bộ hộ, thiếu bảo, tước Phúc quận công. Năm Ðinh Mão (1627) ông mất, thọ
62 tuổi, được truy tặng thiếu sư.
9/Hồ Nguyên Trừng
Con trai Hồ Quí Ly, là nhà sáng chế kỹ thuật quân
sự tài giỏi. Cuộc kháng chiến chống Minh thất bại, cha con ông bị bắt
đưa về Trung Quốc, ở đây ông chế được nhiều loại đại bác. Làm quan đến
Công bộ thượng thư. Ông còn viết sách, làm thơ với tác phẩm tiêu biểu
như "Nam ông mộng lục", tỏ rõ lòng nhớ quê hương đất nước của mình.
10/Phạm Vấn (?- 1435)
Quê
ở Nguyên Xá (Ðông Sơn). Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ năm 1416, có
công lao trong các trận Bồ Mộng, Bồ Đằng, giải phóng thành Nghệ An...
Ông là một trụ cột của triều đình vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, với ngôi
tể tướng. Mất, truy tặng Thái phó, năm 1484 truy phong Trấn quận công.
11/Ðinh Củng Viên (?- 1294)
Quê
ở huyện Ðông Sơn, là một nhà ngoại giao tài giỏi dưới đời Trần Thánh
Tông (1258 -1278), khi mất được phong tặng chức Thái phó
12/Hoàng Bật Ðạt (1842 - 1887)
Là một trong những người chỉ huy tài giỏi, kiên cường của nghĩa quân Ba Ðình trong phong trào Cần Vương chống Pháp
13/Trịnh Thị Ngọc Trúc (?)
Là
con gái Trịnh Tráng, là chính cung hoàng hậu của vua Lê Thần Tông (1619
- 1643). Người ta cho rằng bà là tác giả bộ từ điển Hán - Nôm cổ nhất
của nước ta "Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa"
14/Trịnh Duy Thuân (? - 1542)
Người
sách Thuỷ Chú, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân ngày nay), là cháu công thần
An Quốc công Trịnh Khắc Phục. được phong Lỵ Quốc công, trấn giữ Thanh
Hoá (1522) khi Mạc Ðăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1527), ông là người bảo
vệ che chở hoàng tử Lê Duy Ninh và cùng với chiêu huân công Nguyễn Kim
sắm sửa binh lương, chiêu tập hào kiệt mở đầu cuộc trung hưng nhà Lê,
việc chưa thành, ông mất năm 1542.
15/Cầm Bá Thước (1853 - 1895)
Quê
ở Trịnh Vạn, Thường Xuân, Thanh Hoá. Năm 1895, phong trào Cần Vương của
nhân dân Thanh Hoá phát triển mạnh mẽ, ông lãnh đạo nhân dân lập căn cứ
Trịnh Vạn tổ chức chống Pháp. Ông được Tôn Thất Thuyết phong cho chức
Tán tướng quân vụ, và tiến hành các trận đánh đồn Po Lẹ, đồn Cửa Đặt...
gây cho Pháp nhiều thiệt hại. Bị sa vào tay giặc, ông không khai nửa
lời, hy sinh anh dũng.
16/Nguyễn Mậu Tuyên (1518-1599)
Người
làng Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân ngày nay), dòng dõi công thần
(cháu Thúc quốc công Nguyễn Nhữ Lãm). Ông học sâu, hiểu rộng, làm quan
đến tể tướng, mẫu mực khuôn phép cho trăm quan. Làm quan tới Thiếu phó
Quỳnh quận công. Mất truy tặng Thiếu sư
17/Nguyễn Thu (1799 - 1855)
Còn
có tên là Nguyễn Bão, quê xã Nông Trường (Triệu Sơn), đậu cử nhân năm
1821, làm án sát và tham dự biên soạn "Thực lục tiền biên", sau thăng
Thị lang Hộ bộ. Ông đă để lại 17 tác phẩm lịch sử, triết học, thơ văn
như Lê Quí ký sự, Việt Thi tục biên,...
18/Trịnh Tùng (1546 - 1623)
Người
kế tục sự nghiệp của cha là Trịnh Kiểm và hoàn thành sự nghiệp trung
hưng nhà Lê. Ông là Chúa thứ 2 dòng chúa Trịnh, ở ngôi chúa 54 năm và
thiết lập nên thể chế nhà nước mới: vua-chúa ở Việt Nam
19/Nguyễn Mộng Tuân (TK XV)
Quê
ở xã Ðông Anh (Ðông Sơn-TH). Năm 1400, đậu thái học sinh và tham gia
khởi nghĩa Lam Sơn, lập được nhiều công lớn. Dưới thời vua Lê Nhân Tông,
ông được cử đi đánh quân Chiêm Thành. Nguyễn Mộng Tuân còn là nhà thơ
với các tác phẩm Cúc Pha thi tập, Chí Linh sơn phú,..
20/Trịnh Tuê (còn gọi là Trịnh Huê) ( 1704 - ?)
Quê
ở Biện Thượng, nay thuộc xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc (trú quán ở xã
Bất Quần, nay là Quảng Thịnh, Quảng Xương). Ông đỗ Trạng nguyên khoa
Bính Thìn (1736) đời Lê ý Tông. Ðây là người được phong trạng nguyên
cuối cùng của nước ta. Ông từng giữ chức Tham Tụng, Thượng thư bộ Hình,
Tế tửu (hiệu trưởng) Quốc tử giám. Khi mất được tặng Hữu thị lang
21/Ðào Duy Từ (1572 - 1634)
Quê
làng Hoa Trai, xã Nguyên Bình (Tĩnh Gia). Ông là một trong những vị
khai quốc công thần nhà Nguyễn, một nhà quân sự, ngoại giao, văn hoá tài
giỏi. Ông đã có công giúp nhà Nguyễn mở mang kinh tế, giữ yên lãnh thổ,
được phong tước Lộc Khê hầu và thờ trong Thái Miếu, ông là tác giả của
tác phẩm Hổ trướng khu cơ, Ngoạ Long cương Vãn, Tư Dung vãn...
22/Lê Bật Tứ (1562 - 1627)
Quê
ở xã Tân Ninh (Triệu Sơn). Năm 1598, đậu tiến sĩ. Năm 1619, được phong
chức thượng thư bộ binh, rồi Tham tụng, ông còn là một nhà ngoại giao
tài giỏi, một vị quan chính trực, nhiều lần khuyên chúa Trịnh trị tội
bọn gian thần
23/Nguyễn Ðôn Tiết (1836 - ?)
Quê
ở xã Hoằng Ðức (Hoằng Hoá) đậu phó bảng năm 1879. Năm 1885, hưởng ứng
chiếu Cần vương, ông đă mộ quân phối hợp với nghĩa quân Hoàng Bật Ðạt
tấn công đồn Pháp ở Bút Sơn. Sa vào tay giặc (1886), ông bị đầy đi tù ở
Lao Bảo và hi sinh ở đấy
24/Lê Thánh Tông (1442 - 1497)
Lê
Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhân Tuất (1442) huý là Tư Thành,
là con thứ tư vua Lê Thái Tông và Hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao; là cháu
nội vua Lê Thái Tổ, mất ngày 30 tháng 12 năm Ðinh Tỵ ( 1497). Năm 1460,
ông lên ngôi vua trị vì được 38 năm với hai niên hiệu: Quang Thuận (1460
- 1469) và Hồng Ðức (1470 - 1497). Ông là nhà cải cách lớn trong lịch
sử Việt Nam . Bộ luật thành văn đầu của nước ta, được soạn dưới thời
ông. Ông là người sáng lập hội Tao Ðàn, để lại nhiều tập thơ, 1 tập
truyện ký và rất nhiều bài viết đặc sắc trong các tập Hồng Ðức thi tập,
Thánh Tông di cảo...
25/Lê Trạc Tú (?)
Người
làng Thượng Cốc, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân ngày nay), ông nội là Tán
Thiện, chú là Tán Tương cùng đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1499), ông đỗ Ðệ
nhất giáp chế khoa, khoa Ðinh Sửu (1577), khi làm Thượng thư bộ lại và
Tể tướng ông cất nhắc người hiền tài, ông sống ngay thẳng, trong sạch,
trong nhà không có của dư.
26/Lê Tắc (TK XIV)
Quê
ở Ðông Sơn, theo Trần ích Tắc hàng giặc Nguyên và làm quan Phụng nghị
đại phu ở Hán Dương (Trung Quốc). ở Trung Quốc, ông đă hoàn thành bộ An Nam chí lược gồm 20 cuốn nói về lịch sử Việt Nam từ thượng cổ đến đời Trần
27/Tống Duy Tân (1837 - 1892)
Ông
quê ở xã Vĩnh Tân (Vĩnh Lộc). Ông đậu tiến sĩ năm 1875, làm tri huyện
Vĩnh Tường, án sát Sơn Tây, chánh sứ sơn phòng Quảng Hoá. Năm 1886, ông
cùng con là Tống Nhữ Mai lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh. Ông cùng
Phạm Bành, Hoàng Bật Ðạt, Trần Xuân Soạn... lãnh đạo nghĩa quân Ba Ðình,
ông đã bị giặc Pháp bắt tại hang Niên Kỷ (Bá Thước) và hi sinh tại thị
xã Thanh Hoá năm 1892
28/Trần Hạng (1372 - 1399)
Quê ở xã Vĩnh Thành (Vĩnh Lộc), đậu Thái học sinh và có công trong cuộc kháng chiến chống quân Chiêm Thành của quân dân nhà Trần
29/Cao Ðiển (1853 - 1896)
Quê
ở làng Trinh Sơn, xã Hoằng Giang, Hoằng Hoá. Ðược Tôn Thất Thuyết cử
chỉ huy trận tấn công vào sứ quán và đồn binh Pháp ở Huế. Sau đó về
Thanh Hoá cùng Tống Duy Tân xây dựng căn cứ Hùng Lĩnh (Vĩnh Lộc) chống
Pháp. Trên đường ra Bắc liên lạc với nghĩa quân Yên Thế của Hoàng Hoa
Thám, ông bị Pháp bắt tại thị xã Bắc Giang và xử chém tại thị xã Thanh
Hoá.
30/Ðại Thặng Ðăng (Pháp danh) (TK VIII)
Người
Thanh Hoá, có tên Phạn là Mahayana Pridipa, uyên thâm phật học, đến
Trung Quốc, ấn Ðộ nghiên cứu và truyền đạo, chú giải kinh phật. Ông mất
tại chùa Niết Bàn (ấn Ðộ), thọ 60 tuổi.
31/Nguyễn Hiệu (1664 - 1735)
Là
người làng Lan Khê, Nông trưởng, Triệu Sơn năm 27 tuổi đỗ hội nguyên,
thi đỗ đồng tiến sĩ. Ông là người tài giỏi, trung hậu và ngay thẳng nên
được trọng dụng, làm quan đến thượng thư rồi tể tướng. Khi mất (1735)
được triều đình truy tặng thái bảo, đại tư đồ, gia phong làm phúc thần.
32/Lê Hy (1646 - 1702)
Quê
ở xã Ðông Khê, Ðông Sơn. Năm 1664 đỗ tiến sĩ. Tài năng của ông được các
chúa Trịnh tin dùng, cử đi sứ Trung Quốc được phong chức thượng thư bộ
binh rồi thăng Tham tụng (Tể tướng) tước Lai sơn bá. Ông là nhà viết sử
nổi tiếng với tác phẩm Bản kỷ tục biên do ông chủ biên.
33/Nguyễn Hữu Hào (1647 - 1713)
Quê
ở làng Gia Miêu, Hà Long, Hà Trung. Có công lớn với chúa Nguyễn trong
các cuộc giao tranh với chúa Trịnh, được phong chức cai cơ, chưởng cơ
rồi chức trấn thủ Quảng Bình..., ông còn sáng tác truyện thơ nôm Song tinh bất dạ lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Khi mất truy tặng Ðôn hậu công thần trấn phủ.
34/Lê Hoàn (941 - 1005)
Quê
xã Xuân Lập, Thọ Xuân, từ một người lính bình thường, ông đã lập được
nhiều chiến công, được Đinh Bộ Lĩnh giao cho làm Thập đạo tướng quân
tổng chỉ huy quân đội. Năm 980, trước sự xâm lược của quân Tống, ông
được quân sĩ và triều đình Hoa Lư tôn làm Hoàng đế. Ông đã tổ chức quân
dân Ðại Việt hoàn thành cuộc kháng chiến chống Tống. Ông là nhà ngoại
giao tài giỏi, có công lớn trong mở mang kinh tế, phát triển nông
nghiệp, giữ yên bờ cõi đất nước
35/Lê Phụng Hiểu (? - ?)
Là
người hương Băng Sơn, Châu Ái (nay là xã Hoằng Sơn, huyện Hoằng Hoá).
Ông khỏe mạnh hơn người, võ nghệ cao cường, Lý Thái Tổ dùng làm vũ vệ
tướng quân. Khi Thái Tổ mất, các vương gây biến, ông đánh dẹp, tôn Thái
Tông lên ngôi, giữ yên triều Lý. Ðược phong Ðô thống thượng tướng quân,
tước hầu. Ông còn có công lao lớn trong việc dẹp giặc Chiêm Thành giữ
yên bờ cõi phía Nam. Khi chết được phong làm phúc thần
36/Lê Văn Hưu (1230 - 1322)
Quê
ở xã Thiệu Trung, Thiệu Hoá. Năm 1247, thi đỗ bảng nhăn. Năm 1272, làm
hàn lâm viện học sĩ kiêm quốc sử viện quán tu và hoàn thành bộ sử Ðại
Việt sử ký gồm 30 quyển. Ông không chỉ là nhà viết sử lỗi lạc đầu tiên
của nước nhà mà còn là nhà quân sự với chức thượng thư bộ binh kiêm
chưởng sử, tước Nhân uyên hầu
37/Nguyễn Hoàng (1524 - 1613)
Là
con trai thứ hai của Hưng Quốc công - Nguyễn Kim, vào trấn thủ Thuận
Quảng, mở đầu cho sự nghiệp của các chúa Nguyễn với vương triều Nguyễn.
38/Nguyễn Hoàn (1713 - 1791)
Quê
ở làng Lan Khê, xã Nông Trường (Triệu Sơn). Năm 1743, đậu tiến sĩ,
thăng chức lại bộ thượng thư. Năm 1777 được thăng chức thái phó, quốc
lão... Không những là một vị quan to trong triều, ông còn biên khảo
những tác phẩm lịch sử như Quốc sử tục biên, Ðại Việt đăng khoa lục...cùng với một số tác giả khác
39/Lương Hữu Khánh (TK XVI)
Quê
ở làng Hội Triều, nay là xã Hoằng Phong, Hoằng Hoá. Ông đậu cử nhân năm
12 tuổi, đậu thứ 2 thi hội, không thi đình dưới triều Mạc Ðăng Doanh.
Ông có công trong việc khôi phục nhà Lê, được thăng tới thượng thư bộ
binh, tước Đạt quận công. Ông đă để lại các tác phẩm như Quan sử, Tân
quan văn kê phú...
40/Trịnh Khả (1399 - 1451)
Người
làng Kim Bôi xã Vĩnh Hoà, Vĩnh Lộc. Ông là một trong 18 người có mặt
trong hội thề Lũng Nhai năm Bính Thân (1416). Khi Lê Lợi vây thành Nghệ
An, ông cùng Lê Văn Linh được cử làm tướng văn, tướng võ. Cùng với Lê
Triện, Ðinh Lễ đánh tan 5 vạn quân của Vương Thông ở Ninh Kiều, chặn
đứng 2 vạn quân của Mộc Thạnh ở ải Lê Hoa. Ông được phong tới chức Nhập
nội thái uý, bình chương quân quốc trọng sự, thượng trụ quốc, được ban
kim ngư trang kim phù, tước Quốc thượng hầu. Tháng 9 năm thứ 9 (1451),
đời vua Lê Nhân Tông, ông cùng con là Trịnh Bá Quát bị hại, vì có kẻ
gièm pha với Thái hậu là cha con ông làm phản. Năm thứ 11 (1553), Lê
Nhân Tông coi việc triều chính khôi phục lại quan tước cho ông. Ðời
Thánh tông truy phong Hiển khánh vương.
41/Hà Tông Huân (1697 - 1790)
Người
làng Kim Thành, huyện Yên Ðịnh, năm 28 tuổi đỗ bảng nhãn. Ông là người
thông minh, tài trí được trọng dụng, ra vào phủ chúa bàn việc quân quốc
cơ yếu, làm đồng tham tụng rồi nhập chính tham tụng, kiêm việc ở Quốc tử
giám. Khi về hưu vẫn được vời ra làm bậc ngũ lão, được gia thăng thiếu
bảo, tước Huy quận công, khi mất được tặng hàm thái phó.
42/Lê Ðình Kiên (1620 - 1704)
Quê
làng Thiết Ðinh, xã Ðịnh Tường (Yên Ðịnh-TH). Ông có công trong việc
xây dựng phố Hiến (Hưng Yên) thành một trung tâm buôn bán lớn của đất
nước. Ông là nhà ngoại giao, ngoại thương tài năng, góp phần quan trọng
vào việc mở mang đất nước
43/Nguyễn Kim (? - 1545)
Là
người Gia Miêu, huyện Tống Sơn (Hà Trung ngày nay), là người khởi xướng
và lãnh đạo công cuộc trung hưng nhà Lê. Sự nghiệp chưa thành, ông bị
hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc, mất năm 1545. Ông đă sáng
suốt nhìn nhận và giao quyền lực lại cho con rể là Trịnh Kiểm trước khi
mất. Ông là người mở nghiệp cho dòng chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.
44/Lê Khôi (?- 1446)
Người
Lam Sơn, huyện Thuỵ Nguyên (Thọ Xuân ngày nay), là cháu gọi Lê Lợi bằng
chú ruột và là một trong những người đầu tiên đứng dưới cờ nghĩa Lam
Sơn. Ông lập được nhiều công lớn: đánh thắng trận Khả Lưu, hạ thành
Xương Giang...; bình Chiêm mở mang bờ cõi, dẹp nội loạn Bế Khắc Thiệu,
Nông Ðắc Thái, nhiều lần đánh thắng Ai Lao, giữ vững biên ải quốc gia.
Ông có nhiều kế sách trị bình, lấy đức và chính làm đầu, dân được bình
yên. Ông là người có công to, đức lớn, tài cao, nên các triều vua Lê
(Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông) đều tin dùng, cho tham dự việc triều
chính. Mất truy tặng Thái uý Tam quốc công.
45/Trịnh Kiểm (1503 - 1570)
Quê
làng Sóc Sơn, Vĩnh Hùng, Vĩnh Lộc. Ông là người có công lớn trong sự
nghiệp trung hưng nhà Lê. Ông là người mưu lược đã cùng tướng sĩ đánh
lui 5 đợt tấn công của nhà Mạc, bảo vệ vững chắc Thanh Hoá. Ông cũng đă
hết sức chăm lo triều chính, lập chế độ thuế khoá, khuyến khích nghề
nông, mở rộng thi cử để chọn nhân tŕi... Ông là ông tổ của dòng chúa
Trịnh.
46/Nhữ Bá Sĩ (1787 - 1867)
Người
làng Cát Xuyên (Hoằng Cát, Hoằng Hoá), đỗ cử nhân năm 1821, xin cáo
quan về quê dạy học, sau đó ông mưu việc chống Pháp, việc chưa thành thì
mất. Ông là người có học vấn uyên thâm, viết sách về giáo dục, văn hoá,
lịch sử... tiêu biểu nhất là tác phẩm Việt sử tam bách vịnh, Thanh Hoá
tỉnh chí.
47/Trần Xuân Soạn (1849 - 1923)
Quê
ở làng Thọ Hạc, TP Thanh Hoá, do chiến công làm tới Ðề đốc năm 1885,
ông được phái kháng chiến trong triều đình Huế giao chức đề đốc quân vụ
cùng Tôn Thất Thuyết tổ chức chống Pháp. Khi về Thanh Hoá, ông cùng các
lãnh tụ nghĩa quân lập căn cứ Ba Đình, Mã Cao... và được giao nhiệm vụ
đóng quân ở Thạch Thành hỗ trợ cho Ba Ðình. Ông mất tại Long Châu (Trung
Quốc).
48/Nguyễn Chích (1382-1448):
Danh
tướng, khai quốc công thần thời Hậu Lê, quê Thanh Hoá. Xuất thân từ
cảnh nghèo khổ nhưng vốn mạnh mẽ, linh hoạt, nồng nàn yêu nước, ông
chiêu tập hàng ngàn người trong vùng, xây đồn đắp luỹ làm căn cứ kháng
chiến chống giặc Minh. Sau đó, đem quân phò giúp Lê Lợi cho đến khi khởi
nghĩa Lam Sơn toàn thắng năm 1427. Tận tụy phục vụ 3 đời vua Lê (Thái
Tổ, Thái Tông, Nhân Tông), ông xứng danh đại thần với chức Tổng quản,
lừng lẫy với những chiến công đánh quân Minh phía Bắc, giặc Chiêm Thành
phương Nam và dẹp yên nhiều cuộc phản loạn nội bộ.
49/Lê Tư Thành (1442-1497): Vị
vua xuất sắc nhất thời Hậu Lê, hiệu Thánh Tông, quê Thanh Hoá. Thông
tuệ, phong nhã, tài đức vẹn toàn, được các cận thần đưa lên ngôi năm 18
tuổi. Với những cải cách toàn diện và phát triển vượt bậc về kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, giai đoạn ông cầm quyền (1460-1497) được coi
là thời kỳ thịnh vượng nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Ông còn là
nhà thơ lớn, lập ra hội thơ Tao Đàn danh tiếng và để lại nhiều tác phẩm
giá trị: Hồng Đức quốc âm thi tập, Cổ tân bách vịnh, Văn minh cổ suý,
Xuân vân thi tập…
50/Nguyễn Phúc Nguyên: Sinh năm Quý Hợi 1563,
quê gốc Thanh Hóa, chúa thứ hai nhà Nguyễn. Thông minh, năng động, từng
trải, nhiệt tình giúp cha khởi nghiệp và năm 1624 kế vị ngôi chúa. Nhân
từ, cẩn thận lại mềm mỏng, khéo léo, ông thu hút nhiều người tài và
được dân chúng mến yêu gọi là chúa Phật, chúa Sãi. Nhờ ông mà bờ cõi
phương Nam được mở rộng, thế lực họ Nguyễn lớn mạnh và đối trọng được
với chúa Trịnh ngoài Bắc, góp phần tạo dựng Vương triều Nguyễn sau này
III/Võ tướng người Thanh Hoá Quê choa
Từ
cổ chí kim, Thanh Hoá có cả thảy 172 vị tướng với nhiều tên tuổi hiển
hách như: Lê Thị Hoa, Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Phụng Hiểu, Trần Bình Trọng,
Trần Khát Chân, Lê Lợi, Đinh Liệt,................cho đến các tướng
lĩnh quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, các bạn blog tự tìm hiểu thêm.
Tôi chỉ nêu cụ thể 15 danh tướng đã tìm hiểu được:
1/HOÀNG ĐÌNH ÁI (1527-1607)
Ông
là người huyện Vĩnh Phúc (nay là huyệnVĩnh Lộc, Thanh Hoá ), là con nhà
cậu của Lương Quốc Công Trịnh Kiểm. Ông là người có học thức, thông
binh pháp, trong thời gian nhà Lê Trung Hưng ở Thanh Hoá chống Mạc, lập
nhiều công lớn, được phong Quảng Tây Hầu.
Năm 1557, ông được phong Đô đốc chỉ huy sứ Vệ Cẩm y. Năm 1558, ông được phong tước Vinh Quận Công, lúc ấy ông mới 32 tuổi.
Năm 1570, Lượng Quốc Công Trịnh Kiểm mất, Trịnh Cối mưu nổi loạn đầu
hàng nhà Mạc, ông cùng với các tướng Hà Thọ Lộc, Nguyễn Hữu Lưu dẹp tan
cuộc biến loạn đó. Lợi dụng tình hình rối ren đó, Mạc Kính Điển kéo quân
vào đánh. Ông được cử cùng với Đặng Huấn đem quân ra đường bên hữu, đến
đâu giặc đều tan vỡ cả, bình định được các huyện Quảng Xương, Nông
Cống, Ngọc Sơn.
Năm
1573, đời Lê Thế Tông ông được phong Thái Phó. Cũng trong năm này, quân
Mạc do Mạc Kính Điển chỉ huy lại vào đánh phá, ông dự chiến phá tan
được ở Cẩm Thuỷ, Đường Sơn.
Năm
1581, tướng Mạc Đôn Nhượng thống lĩnh các đạo quân kéo vào đánh phá,
chúng vượt đường biển đến huyện Quảng Xương, đóng quân ở núi Đường
Ngang. Ông được cử thống lĩnh các tướng đem quân chống giữ. Ông họp các
tướng chia làm ba đạo, bảo cùng dẫn quân đều tiến, còn mình tự đốc đại
quân, ra hiệu lệnh tiến quân đánh nhau với quân Mạc một trận lớn. Quan
quân nhuệ khí rất mạnh, quân Mạc đại bại, Mạc Đôn Nhượng phải thu tàn
binh trốn về Kinh ấp. Sau trận đó, ông được phong Thái Uý (1582 )
Năm
1591 tình hình đã có nhiều biến chuyển, quân đội đã mạnh nên Trịnh Tùng
chủ trương tiến quân ra Bắc, ông được cử chỉ huy đạo quân thứ hai là
Dinh hữu khu, đánh tan quân Mạc ở Phấn Thượng (Sơn Tây), bắt sống được
tương giặc là Nguyễn Quyện, tướng giặc là Bùi Văn Khuê xin hàng. Cuối
năm 1592 ông lại đem quân phá tan quân Mạc Kính Chỉ ở Thanh Lâm. Đại
quân Mạc bị tiêu diệt.
Năm
1593 khi diêt xong nhà Mạc, lấy lại được kinh đô, lúc bàn công ban
thưởng ông được gia phong Hữu tướng, Thái uý, tước Vinh Quốc Công.
Mấy năm sau đuổi hẳn tàn binh nhà Mạc lên Cao Bằng, ông được phong làm Thái Tể.
Năm
1599, Lê Kính Tông lên ngôi, ông được gia phong làm Đồng bình chương
sự, cho tham dự việc triều chính. Ông mất năm 1607, thọ 81 tuổi, được
truy phong Mậu Nghĩa Công, ban tên thuỵ là Hậu Đức, cho khắc bia ''thần
đạo'' để ghi công.
2/LÊ VĂN AN (? - 1437)
Danh
tướng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở làng Mục Sơn (nay là xã
Xuân Bái, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá), tham dự Hội thề Lũng Nhai (1416).
Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra (1418) ông đã chỉ huy quân Thiết Đột, đánh
trên trăm trận lớn nhỏ, rất dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Ông đã tham
gia một số trận đánh quan trọng như: trận Khả Lưu, trận Tân Bình-Thuận
Hoá (1424); vây hãm và dụ hàng giặc ở thành Nghệ An (1425). Năm 1427,
ông cùng với tướng Lê Lý (tức Nguyễn Lý) được lệnh đem 3 vạn quân hỗ trợ
cho tướng Lê Sát ở Chi Lăng - Xương Giang. Ông đã lập công lớn trong
trận đánh Xương Giang (11- 1427).
Sau
ngày toàn thắng, với những công lao nói trên ông được phong Nhập nội tư
mã, hàm Suy trung Bảo chính công thần, tước Đình Thượng Hầu.
Năm
1434, nhân có biến loạn ở Lạng Sơn, ông được cử chức Tư mã Bắc đạo, đem
quân đi đánh dẹp. Lập công, tuy được thăng chức Nhập nội Đại tư mã, Đô
đốc Tổng quản Bắc đạo nhưng vẫn bị chê trách (vì đã bắt bớ tràn lan,
không làm yên lòng dân).
Năm 1437 ông mất, được truy tặng Tư Không, ban cho tên thuỵ là Trung Hiến.
3/NGUYỄN ÁNH (1762-1819)
Vua đầu tiên, sáng lập triều đại nhà Nguyễn, là cháu của chúa Định - Nguyễn Phúc Thuần.
Năm
1777, sau khi Nguyễn Phúc Dương và Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn giết,
con cháu chúa Nguyễn phải trốn tránh để khỏi bị sát hại Nguyễn Ánh là
một người quả cảm, có chí lớn. Ông đã tập hợp lục lượng để chống Tây Sơn
khôi phục lại cơ nghiệp của nhà chúa. Năm1780, Nguyễn Ánh lên ngôi
vương ở Gia Định, tiếp tục chống quân Tây Sơn. Sau nhiều năm thất bại
phải chốn tránh, hai lần chốn ra đảo Phú Quốc, ông đã cầu viện sự giúp
đỡ của ngoại bang mượn năm vạn quân Xiêm sang nhưng đã bị Nguyễn Huệ
đánh tan trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút (1875); cho con là Hoàng Tử Cảnh
sang Pháp để cầu viện trợ và kí hiệp ước ngày 28/11/1787, nhưng hiệp
ước này đã không được thực hiện.
Năm
1787, nhân khi anh em Tây Sơn bất hòa ,xung đột, tranh quyền đoạt vị,
Nguyễn Ánh đã đem quân đánh chiếm lại được Gia Định. Khi lực lượng đã
mạnh, đến năm 1801, Nguyễn Ánh đã thu phục lại được thành Phú Xuân và
năm sau đã chiếm được kinh đô Thăng Long, lật đổ nhà Tây Sơn, làm chủ cả
đất nước lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long. Đổi quốc hiệu là Việt
Nam (1804)
Sau
khi lên ngôi ông đã ra lệnh trả thù nhà Tây Sơn một cách tàn bạo. Để
đưa đất nước vào thế ổn định, Gia Long đã đặt quan hệ ngoại giao với nhà
Thanh, liên hệ với Xiêm La, Chân Lạc, Ai Lao : chú trọng quy định pháp
luật, năm 1815 bộ "Quốc triều hình luật" (còn gọi là "luật Gia Long")
được ban hành gồm 22 quyển với 398 điều; cho tổ chức lại nhà nước từ
trung ương đến địa phương, lập sổ hộ tịch để dễ kiểm soát, lệnh cho các
làng, xã trong toàn quốc phải lập sổ địa bạ, định thuế khóa,...
Đồng
thời ông cũng có nhiều hành động nhằm chấn hưng văn hóa giáo dục. Từ
năm 1802, Nguyễn Ánh đã ra lệnh soạn các bộ sử : "Chính biên", "tiền
biên", "Cương mục". Năm 1806, sai biên soạn bộ "Nhất thống địa dư chí"
gồm 10 quyển, cho lập các văn miếu ở địa phương, phát triển Nho học, mở
khoa thi Hương.
Năm 1819, ông mất, thọ 59 tuổi sau khi đổi ngôi cả chúa và vua tổng cộng 39 năm.
4/PHẠM BÀNH (1827-1887)
Ông
quê ở làng Tương Xá (nay thuộc xã Hoà Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hoá),
đậu cử nhân khoa Giáp Tý (1864), làm quan đến chức án sát tỉnh Nghệ An,
nổi tiếng thanh liêm và biết quan tâm đến đời sống nhân dân.
Năm
1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông bỏ quan về quê cùng với Hoàng Bật
Đạt mộ quân khởi nghĩa. Giữa năm 1886 ông được cử cùng với Hoàng Bật
Đạt, Đinh Công Tráng và một số tướng lĩnh khác xây dựng căn cứ Ba Đình
nhằm bảo vệ cửa ngõ miền Trung và làm bàn đạp toả đánh địch ở đồng bằng.
Căn cứ Ba Đình thuộc địa phận huyện Nga Sơn (Thanh Hoá). Sở dĩ gọi là
Ba Đình vì nơi đây gồm 3 làng: Mĩ Khê, Thượng Thọ, Mậu Thịnh ở liền
nhau, mỗi làng có một ngôi đình, đứng ở làng này sẽ nhìn thấy đình ở hai
làng bên và có một ngôi nghè chung, Lập căn cứ Ba Đình nghĩa quân có
thể kiểm soát và khống chế đường số 1 (là con đường đi yết hầu của địch
từ Bắc vào Nam), hơn thế nữa địa thế nơi đây rất thuận lợi cho việc xây
dựng một căn cứ phòng ngự kiên cố và từ đó nghĩa quân có thể toả ra ngăn
chặn những hoạt động của địch ở khu vực giữa Ninh Bình và Thanh Hoá.
Sau
những thất bại nặng nề ở Ba Đình, thực dân Pháp chủ trương tẩp trung đủ
mọi binh chủng, có pháo binh yểm trợ đã tiến hành bao vây và mở nhiều
đợt tấn công mới hạ nổi được Ba Đình.
Mặc
dù tuổi già sức yếu (lúc này ông đã 60 tuổi) nhưng Phạm Bành luôn có
mặt ở trận địa, nơi nguy hiểm nhất để động viên và khích lệ các nghĩa
binh chiến đấu.
Ba
Đình thất thủ, ông đưa nghĩa quân rút về căn cứ dự phòng ở Mã Cao (Yên
Định) ngay đêm 20-2-1887, rồi lánh về quê. Nhưng sau để cứu mẹ già và
con là Phạm Tiêu bị giặc bắt làm con tin, ông đã ra đầu thú và uống
thuốc độc tự tử ngay sau khi mẹ và con được thả ngày 18 - 3 năm Đinh Hợi
(tức ngày 11 - 4 - 1887) để tỏ rõ khí tiết của mình.
5/NGUYỄN BẶC (924 - 980)
Danh
tướng của Đinh Bộ Lĩnh. Ông quê ở Gia Miêu (nay là xã Hà Phong, huyện
Hà Trung, Thanh Hoá). Xét trong gia phả, ông là tổ tiên của Nguyễn Kim
và dòng họ của vua nhà Nguyễn khởi đầu là Gia Long (Nguyễn ánh). Ông
theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân từ buổi đấu, thường được cử chỉ
huy một đạo quân lớn đánh vào sào huyệt các sứ quân. Nhà Đinh thành lập,
ông được phong Định Quốc Cồng (971). Năm 979 vua Đinh cùng con là Nam
Việt Vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích ám hại, ông truy bắt được, chém chết.
Sau đó, ông cùng với Lê Hoàn, Đinh Điền đưa con nhỏ của Đinh Tiên Hoàng
là Đinh Toàn lên ngôi vua. Do vua nối ngôi còn nhỏ (6 tuổi), Lê Hoàn
được cử làm Nhiếp chính. Ông nghi ngờ Lê Hoàn có ý muốn cướp ngôi nên đã
cùng với Đinh Điền, Phạm Hạp dấy quân, tiến công vào kinh thành. Quân
của Lê Hoàn nhờ chuẩn bị trước đã đánh bại cuộc tiến công. Ông bị bắt và
bị xử tử.
6/LƯƠNG ĐẮC BẰNG (1472 - ?)
Ông
quê ở làng Hội Triều, huyện Hoằng Hoá, đỗ Bảng nhãn khoa Kỷ Mùi (1499)
đời Lê Hiến Tông, làm quan đến Tả thị lang bộ Lại dưới triều Lê Tương
Dực. Năm 1510, ông dâng ''kế sách trị bình'' 14 điều lên vua yêu cầu sửa
sang chính trị. Nhà vua khen ngợi nhưng không thi hành. Sau thăng lên
Thượng thư bộ Lại kiêm Đông các đại học sĩ, tước Đôn Trung Bá. Ông xin
nghỉ việc lui về ở ẩn. Ông là thân sinh của Lương Hữu Khánh và Lương
Khiêm Hanh, tất cả đều nổi tiếng thần đồng từ bé.
Có tài liệu nói Lương Đắc Bằng tinh thông thuật số, truyến lại cho học trò là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng hiện nay, ngoài bản ''kế sách trị bình'', ông không để lại tác phẩm nào khác.
Có tài liệu nói Lương Đắc Bằng tinh thông thuật số, truyến lại cho học trò là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng hiện nay, ngoài bản ''kế sách trị bình'', ông không để lại tác phẩm nào khác.
7/ĐỖ BÍ (Thế kỉ XV)
Ông
quê ở thôn Cung Hoàng (nay thuộc huyện Nông Cống, Thanh Hoá). Ông tham
gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ngay từ những buỗi đầu.
Tháng
4 năm Mậu Tuất (1418), quân Minh vây đánh, bộ chỉ huy bị vây hãm ở núi
Chí Linh hơn 3 tháng trời, ông luôn đi sát để bảo vệ Lê Lợi.
Ông
là một vị tướng có tài. Năm 1424, ông được cử tham gia chỉ huy trận Khả
Lưu, chặn đứng cuộc hành quân của giặc, không cho chúng đánh chiếm lại
Trà Lân- một vị trí hết sức quan trọng án ngữ mạch giao thông phía tây
Nghệ An. Trận này ta thắng lớn, làm thay đổi hẳn tình hình theo chiều
hướng có lợi cho Lam Sơn.
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi và bộ chỉ huy Lam Sơn quyết định tiến quân ra Bắc, ông được cử cùng với các tướng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả và Lý Triện chỉ huy đạo quân thứ nhất gồm 3.000 quân và một thớt voi, có nhiệm vụ uy hiếp mặt Nam thành Đông Quan. Khi vừa tiến ra phía Nam thành Đông Quan, đạo quân này đã lập được ba chiến công vang dội: thắng trận Ninh Kiều (9-1426), trận Nhân Mục (9-1426), trận Xa Lộc (10-1426). Ông đã vinh dự được chỉ huy trực tiếp hai trận Ninh Kiều và Nhân Mục.
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi và bộ chỉ huy Lam Sơn quyết định tiến quân ra Bắc, ông được cử cùng với các tướng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả và Lý Triện chỉ huy đạo quân thứ nhất gồm 3.000 quân và một thớt voi, có nhiệm vụ uy hiếp mặt Nam thành Đông Quan. Khi vừa tiến ra phía Nam thành Đông Quan, đạo quân này đã lập được ba chiến công vang dội: thắng trận Ninh Kiều (9-1426), trận Nhân Mục (9-1426), trận Xa Lộc (10-1426). Ông đã vinh dự được chỉ huy trực tiếp hai trận Ninh Kiều và Nhân Mục.
Tháng
11 năm 1426, nhà Minh sai Vương Thông đem 5 vạn quân sang cứu nguy,
đóng ở Đông Quan hòng làm thay đổi tương quan lực lượng. Mặc dù vậy, ông
và các tướng chỉ huy cũng hạ quyết tâm chủ động đánh giặc, trận phục
kích Tốt Động- Chúc Động thắng lợi đã thể hiện điều đó, buộc Vương Thông
phải rút về cố thủ trong thành Đông Quan. Từ đây nghĩa quân vây chặt
Đông Quan. Ngày 7 tháng 2 năm Đinh Mùi (tức ngày 4-3-1427), Vương Thông
bất ngờ tấn công vào khu vực đóng quân của ông và Lý Triện ở Qủa Động.
Trận này, Lý Triện đã anh dũng hy sinh, còn ông thì bị bắt, mãi đến khi
Vương Thông đầu hàng mới được trao trả.
Năm 1428, sau thắng lợi hoàn toàn, lúc luận công ban thưởng, ông được ban quốc tính, tước Huyện hầu (là 1 trong số 14 người được ban tước này).
Trong suốt 20 năm làm quan trong triều, ông vẫn luôn liêm khiết và được tín nhiệm. Năm 1448, lúc vua Lê Nhân Tông cùng đông đả bá quan văn võ về bái yết Lam Kinh, ông và Nguyễn Thận vinh dự được ở lại coi giữ kinh thành Thăng Long. Sau ông mất vào năm nào, không thấy sử chép.
Năm 1428, sau thắng lợi hoàn toàn, lúc luận công ban thưởng, ông được ban quốc tính, tước Huyện hầu (là 1 trong số 14 người được ban tước này).
Trong suốt 20 năm làm quan trong triều, ông vẫn luôn liêm khiết và được tín nhiệm. Năm 1448, lúc vua Lê Nhân Tông cùng đông đả bá quan văn võ về bái yết Lam Kinh, ông và Nguyễn Thận vinh dự được ở lại coi giữ kinh thành Thăng Long. Sau ông mất vào năm nào, không thấy sử chép.
8/BÙI BỊ (Thế kỉ XV)
Ông
quê ở Hào Lương, huyện Lương Giang (nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá).
Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu. Năm 1418, ông cùng
với Trịnh Khả bơi theo thuyền giặc, bí mật giành lại hài cốt của tổ tiên
Lê Lợi khi giặc Minh hèn hạ trả thù bằng cách quật mồ mả
Khi
giặc ồ ạt tiến công vào Lam Sơn, bắt được gia quyến của Lê Lợi, nghĩa
quân phải rút về Chí Linh. Sau đó nghĩa quân khiêu chiến, phục binh ở
Mường Một, giặc thua to. Trong một loạt trận đánh ở Mường Một, Mường
Nanh, Nga Lạc, Mỹ Canh thì trận Mỹ Canh là trận tương đối lớn. Ta bắt
được tướng giặc là Nguyễn Sao và giết được hơn một ngàn tên. Trong trận
này, ông đã lập công lớn.
Tháng
4 năm 1427, viện binh của giặcdo Lý An chỉ huy từ Tây Đô vào cứu nguy
cho thành Nghệ An. Thấychỗ sơ hở của giặc, Lê Lợi cử Đinh Lễ, Bùi Bị, Lê
Sát, Lý Triện, Lưu Nhân Chú đem 2 ngàn quân bất ngờ tiến công thẳng ra
Tây Đô. Với cuộc hành quân kiên quyết, táo bạo và cấp tốc, ông và các
tướng đã giải phóng hầu hết đất Thanh Hoá, buộc giặc phải co về cố thủ
trong thành Tây Đô. Từ đây, miền đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hoá
trở vào Nam đã thuộc về Lam Sơn.
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi cử một vạn quân tiến ra Bắc, chia làm ba đạo khác nhau. Ông có vinh dự được cùng với các tướng Lưu Nhân Chú, Lê Ninh chỉ huy đạo quân thứ hai tiến ra vùng Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên để giải phóng vùng hạ lưu sông Hồng và chặn địch từ Nghệ An, Tây Đô tháo chạy ra. Nhiệm vụ đầu tiên ta đã hoàn thành còn nhiệm vụ chặn địch không hoàn thành, hai vạn quân địch vẫn chạy ra được Đông Quan.
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi cử một vạn quân tiến ra Bắc, chia làm ba đạo khác nhau. Ông có vinh dự được cùng với các tướng Lưu Nhân Chú, Lê Ninh chỉ huy đạo quân thứ hai tiến ra vùng Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên để giải phóng vùng hạ lưu sông Hồng và chặn địch từ Nghệ An, Tây Đô tháo chạy ra. Nhiệm vụ đầu tiên ta đã hoàn thành còn nhiệm vụ chặn địch không hoàn thành, hai vạn quân địch vẫn chạy ra được Đông Quan.
Sau
trận Tốt Động-Chúc Động, bộ chỉ huy nghĩa quân chuyển đại bản doanh ra
Bắc, đóng tại Tây Phù Liệt (Hà Nội) để uy hiếp thành Đông Quan. Ông và
Trần Nguyên Hãn được lệnh đem hơn một trăm chiến thuyền, đánh mạnh vào
khu vực Hát Môn. Vương Thông hốt hoảng phải co về cố thủ trong thành
Đông Quan.
Cuối năm 1427, khi Vương Thông đầu hàng, ta tổ chức Hội thề Đông Quan, ông được vinh dự là một trong 13 tướng cùng Lê Lợi tham dự.
Cuối năm 1427, khi Vương Thông đầu hàng, ta tổ chức Hội thề Đông Quan, ông được vinh dự là một trong 13 tướng cùng Lê Lợi tham dự.
Năm 1428, triều Lê định công ban thưởng, ông được ban quốc tính họ Lê, tước Huyện hầu. Sau không rõ ông mất vào năm nào.
9/PHẠM XUÂN BÍCH (1784-1833)
Ông
quê ở xã Định Tiến, huyện Yên Định, Thanh Hoá, đậu cử nhân khoa Tân Tỵ
(1821) đời Minh Mạng. Ông đã từng làm Huấn đạo tỉnh Nghệ An, tri huyện
Hưng Hoá, tri phủ Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc), sau được vời về kinh đô Huế
làm Lang trung bộ Công, rồi Tả thị lang bộ Lại. Năm 1831, tình hình Nam
Bộ có nhiều biến loạn, quân Cao Miên thường sang cướp phá, ông được cử
làm Hiệp trấn tỉnh Hà Tiên, sau thăng lên Tuần phủ. Năm 1833, quân Cao
Miên vào cướp phá, ông cố giữ thành để chống cự, nhưng không có tiếp
viện nên thành bị hạ, ông bị sa vào tay giặc. Quân giặc dụ hàng nhưng
ông không chịu khuất phục và bị chúng giết hại. Sau đó, quân triều đình
đã đánh tan quân giặc.
Ông
được vua Minh Mạng truy tặng Trung phụng Đại phu, hàm Nhị phẩm, được
thờ ở đền Trung Liệt tại Huế. Năm 1836, triều đình cho rước hài cốt của
ông về táng ở Tràng Lang, Định Tiến tại cánh đồng Đồi Quang.
10/ĐINH BỒ (?-1427)
Danh
tướng cụôc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở Thuỷ Cối (nay thuộc xã Minh
Tiến, huyện Ngọc Lặc, Thanh Hoá), là em Đinh Lễ, anh Đinh Liệt, là cháu
bên ngoại của Lê Lợi. Lúc đầu ông được phân công phụ trách việc quân
lương. Sau đó, ông được cử chỉ huy đội quân Thiết Đột. Đội quân Thiết
Đột do ông chỉ huy rất giỏi phục kích nên đã từng thắng nhiều trận như:
trận Lạc Thuỷ (1418); trận Nga Lạc (1419); trận Thi Lang (1420), trận
này đội quân của ông đã tiêu diệt được hơn một ngàn tên địch, Lý Bân và
Phương Chính đã thoát chêt trong trận này.
Khi
tiến quân vào Nghệ An,ông đã lập nhiều công trong trận hạ đồn Đa Căng,
trận Trà Lân, trận Khả Lưu. Vì vậy ông được phong chức Thượng tướng, hàm
Thiếu bảo. Tháng 7 năm ất tỵ (1425), ông được cử chỉ huy một ngàn quân
cùng với tướng Doãn Nỗ, Lê Định tiến vào giải phóng Tân Bình-Thuận Hoá
để mở rộng địa bàn về phía Nam. Cùng với sự phối hợp của thuỷ quân, vùng
Tân Bình-Thuận Hoá được giải phóng. Ông được cử ở lại làm trấn thủ nơi
này.
Cuộc
kháng chiến đang chuẩn bị bước vào giai đoạn quyết liệt nhất thì vết
thương của ông trong trận Hồ Xá lại tái phát, rất nhiều lương y đã cố
giắng chạy chữa nhưng không được. Ông mất vào ngày 15 thàng 7 năm Đinh
Mùi (1427). Nghe tin dữ, Lê Lợi đã sai người mang sắc phong quốc tính,
tước Thái bảo và áo gấm đỏ vào khâm liệng.
Năm
1428, khi Lê Looơị lên ngôi đã gia phong cho ông tước Uy dũng Đại
vương, Trung đẳng Phúc thần và sai lập đền thờ ở Thuận Hoá.
11/NGUYỄN HỮU CẢNH (KÍNH) (1650-1700)
Danh
tướng của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, người có công thành lập các dinh
Trấn Biên (Đồng Nai), Phiên Trấn (Gia Định). Ông là con của Chiêu Vũ Hầu
Nguyễn Hữu Dật. Ông là người Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay là huyện Hà
Trung, Thanh Hoá). Năm 1692, ông làm Tổng binh đánh dẹp cuộc nổi dậy của
Bà Tranh và lập trấn Thuận Thành (thuộc Ninh Thuận, Bình Thuận ngày
nay), sau đó lại dẹp cuộc nổi dậy của A Ban câu kết với ốc Nha Thát. Nhờ
đó ông được cử làm trấn thủ dinh Bình Khang (vùng Khánh Hoà-Bình
Thuận). Năm 1698, ông được chúa Nguyễn cử làm Thống suất chưởng cơ kinh
lược vùng Gia Định (đồng bằng sông Cửu Long). Hơn một năm sau, ông đã tổ
chức được các đơn vị hành chính, xây dựng chính quyền các dinh, huyện,
xã và chiêu tập dân nghèo khai hoang định cư lập làng xóm. Sau khi ông
mất, chúa Nguyễn phong tặng là Hiệp trấn công thần, đặc tiến Chưởng cơ
dinh Tướng quân, Lễ Tài hầu, an táng tại Cù Lao Phố (Biên Hoà, Đồng
Nai). Nhiều làng, ấp ở Gia Định thờ ông làm thành hoàng.
12/ĐINH LỄ (?-1427)
Là
công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, người Lam Sơn,
Thọ Xuân, Thanh Hoá, Việt Nam.Gia phả họ Đinh Danh ở Thái Bình nói rằng
ông là dòng dõi của Nam Việt vương Đinh Liễn con vua Đinh Tiên
Hoàng.Đinh Lễ là cháu gọi Lê Lợi bằng cậu. Ông là người dũng cảm, nhiều
mưu lược, võ nghệ hơn người, khi còn trẻ thường làm cận vệ cho Lê Lợi.
Những ngày đầu khởi nghĩa Lam Sơn ông theo Lê Lợi chiến đấu vùng núi chí
Linh trải qua nhiều gian khổ.
Năm
1424, quân Lam Sơn tiến vào Nghệ An, đánh nhau to với quân Minh ở Khả
Lưu. Đinh Lễ cùng Lê Sát xông lên phía trước, các tướng sĩ thấy vậy cùng
tiến theo, đánh bại quân Minh, đuổi Trần Trí, Sơn Thọ, bắt được nhiều
tù binh. Sau trận đó ông được Lê Lợi phong chức Tư không.
Năm
1425, quân Lam Sơn vây Lý An, Phương Chính ở Nghệ An, Đinh Lễ được sai
đi tuần ở Diễn châu. Ông đặt phục binh ngoài thành, đón đánh tướng Minh
là Trương Hùng vận 300 thuyền lương từ Đông Quan (Hà Nội) tới. Hùng bỏ
chạy, Đinh Lễ cướp được thuyền lương, thừa thế đuổi đánh quân Minh đến
tận Tây Đô (Thanh Hoá).
Lê
Lợi sai Lê Triện, Lê Sát tiếp ứng cho ông, đánh tan quân Minh buộc địch
rút vào thành. Đinh Lễ chiêu dụ dân cư Tây Đô, chọn người khoẻ mạnh đầu
quân vây thành.
Tháng 8 năm 1426, sau khi làm chủ từ Thanh Hoá đến Thuận Hoá, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ cùng Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.
Tháng 8 năm 1426, sau khi làm chủ từ Thanh Hoá đến Thuận Hoá, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ cùng Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.
Lê
Triện tiến đến gần Đông Quan đánh bại TrầnTrí. Nghe tin viện binh nhà
Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra
chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí
đánh Đông Quan (Thăng Long, Hà Nội).
Phạm
Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Vua Minh lại sai Vương Thông mang
quân sang tiếp viện. Thông hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia
cho Phương Chính, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại
đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân
Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã
phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Đinh Lễ,
Nguyễn Xí.
Đinh
Lễ cùng Nguyễn Xí đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động.
Nhân bắt được thám tử của Vương Thông, hai tướng biết Thông định chia
đường, hẹn nhau khi pháo nổ thì quân mặt trước mặt sau cùng đánh úp Lê
Triện. Ông và Nguyễn Xí bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt
Động, rồi đốt pháo giả làm hiệu cho quân Minh tiến vào. Quân Vương Thông
mắc mưu rơi vào ổ phục kích, bị đánh thua to. Trần Hiệp, Lý Lượng và 5
vạn quân Minh bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy
về cố thủ ở Đông Quan.
Lê
Lợi được tin thắng trận liền tiến đại quân ra bắc, vây thành Đông Quan.
Đinh Lễ được lệnh cùng Nguyễn Xí mang quân vây phía nam thành.
Tháng
2 năm 1427, tướng Minh là Phương Chính đánh úp Lê Triện ở Từ Liêm,
Triện bị tử trận. Tháng 3 Vương Thông đánh trại quân Lam Sơn ở Tây Phù
Liệt. Tướng Lê Nguyễn cố thủ rồi cầu viện binh. Đinh Lễ cùng Nguyễn Xí
được lệnh mang 500 quân thiết đột tiếp viện, đánh đuổi quân Minh đến My
Động. Hậu quân Lam Sơn không theo kịp, Vương Thông thấy vậy bèn quay lại
đánh, hai tướng cưỡi voi bị sa xuống đầm lầy, bị quân Minh bắt mang về
thành. Đinh Lễ không chịu hàng nên bị địch giết. Lê Lợi nghe tin ông mất
rất thương tiếc.
Năm
1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua truy tặng ông làm Nhập nội kiểm hiệu tư
đồ. Năm 1484, Lê Thánh Tông gia phong làm thái sư Bân quốc công, về sau
tấn phong Hiển Khánh vương.
Em
Đinh Lễ là Đinh Liệt cũng là một công thần khai quốc nhà Hậu Lê. Cả hai
anh em ông đều được đặt tên phố ở trung tâm Hà Nội ngày nay.
13/ĐINH LIỆT (?-1471)
Là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, người Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá, Việt Nam.
Gia phả họ Đinh Danh ở Thái Bình nói rằng ông là dòng dõi của Nam Việt vương Đinh Liễn con vua Đinh Tiên Hoàng.
Đinh Liệt cùng anh ruột là Đinh Lễ là cháu gọi Lê Thái Tổ bằng cậu. Ông khi còn trẻ thường đi theo cận vệ cho Lê Lợi.
Những ngày đầu khởi nghĩa Lam Sơn, ông theo Lê Lợi chiến đấu vùng núi chí Linh trải qua nhiều gian khổ.
Năm
1424, quân Lam Sơn chiếm được thành Trà Lân, sắp đánh thành Nghệ An.
Các tướng Minh mang quân thuỷ bộ cùng đến. Lê Lợi chia cho Đinh Liệt
1000 quân sai đi theo đường tắt chiếm trước huyện Đỗ Gia (nay là huyện
Hương Sơn). Lê Lợi nhử địch vào ổ phục kích để Đinh Liệt đánh tập hậu,
quân Minh thua to.
Năm
1427, quân Lam Sơn vây Đông Quan (Hà Nội), anh ông là tướng Đinh Lễ bị
tử trận. Lê Lợi bèn phong ông làm Nhập nội thiếu uý Á hầu.
Cuối
năm 1427, Liễu Thăng mang viện binh sang, ông được lệnh cùng Lê Sát
mang quân lên Chi Lăng, góp sức diệt địch, chém được Liễu Thăng, đánh
tan đạo viện binh.
Đầu
năm 1428 ông được xếp vào chức thủ quân thiết đột. Trong số những công
thần theo Lê Lợi từ hội thề Lũng Nhai thì Đinh Liệt được xếp hàng đầu,
phong làm Suy trung Tán trị hiệp mưu bảo chính công thần Vinh lộc đại
phu tả kim ngô đại tướng quân, tước Thượng tri tự.
Năm 1429, khi khắc biển công thần, Đinh Liệt được phong làm Đình Thượng hầu.
Năm 1432, ông được phong làm Nhập nội tư mã, tham dự triều chính.
Tháng
5 năm 1434 đời Lê Thái Tông có quân Chiêm Thành vào cướp phá, ông được
lệnh lĩnh các quân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá đánh địch. Quân Lê đi
đến Hoá Châu, vua Chiêm vội rút về.
Năm
1444 đời Lê Nhân Tông, vua còn nhỏ, có người vu cáo ông, thái hậu
Nguyễn Thị Anh cầm quyền nhiếp chính sai giam cả nhà ông dưới hầm. Nhờ
có người trong hoàng tộc là Lê Khắc Phục và công chúa Ngọc Lan xin hộ,
đến tháng 6 năm 1448 ông mới được tha ra, nhưng vợ con vẫn bị giam. Đến
tháng năm 1450 gia đình ông mới được thả.
Trong niên hiệu Diên Ninh của Lê Nhân Tông (1454-1459), ông được giữ chức thái bảo.
Năm
1459, anh vua Nhân Tông là Lê Nghi Dân giết vua cướp ngôi. Ông cùng
Nguyễn Xí, Lê Lăng cầm đầu các tướng làm binh biến lật đổ Nghi Dân đưa
hoàng tử Tư Thành lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông. Tháng 6 năm 1460
ông được phong chức Khai phủ nghi đồng tam ty, Bình chương quân quốc
trọng sự, Nhập nội thái phó Á quận hầu. Trong năm đó ông liên tiếp được
gia phong.
Tháng 12 năm 1460, ông cùng Lê Lăng đi đánh tù trưởng họ Cầm làm loạn, được thăng lên chức thái sư phụ chính.
Năm
1465, Nguyễn Xí mất, Đinh Liệt làm quan đầu triều, từ đó thường quyết
định nhiều việc lớn của triều đình, được vua và các quan lại rất tôn
trọng.
Năm
1470, Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, ông làm chức Chinh lỗ tướng
quân, cùng Lê Niệm (cháu nội Lê Lai) làm tiên phong đi trước, đánh chiếm
kinh thành Đồ Bàn, bắt vua Chiêm là Trà Toàn.
Năm
1471, ông mất, được truy phong là Trung Mục vương. Ông là một trong
những công thần khai quốc sống lâu nhất sau khi nhà Hậu Lê thành lập,
sống tới tận thời Hồng Đức. Con cháu Đinh Liệt sau tiếp tục nối đời làm
quan cho nhà Hậu Lê và thời Lê-Trịnh.
Theo
gia phả họ Đinh Danh ở Thái Bình, Đinh Liệt còn để lại một số bài thơ
nói về Vụ án Lệ Chi Viên đương thời. Ông cùng anh là Đinh Lễ đều được
đặt tên phố ở trung tâm Hà Nội ngày nay.
14/LÊ THÀNH (?-?)
Vị
tướng tài phò vua Lê Lợi và được phong tới chức Bình Ngô Khai Quốc Công
Thần Tổng Quản Thượng Tướng Quân. Cụ Lê Thành quê ở xã Lam Sơn, huyện
Thiệu Hóa, Tỉnh Thanh Hóa, họ Đỗ nhưng vì có công lớn với đất nước nên được Vua sủng ái cho ghép Họ Vua để con cháu sau này mang họ Lê Đỗ.
Trong cuộc chiến chống quân Ngô, cuối cùng Cụ bại trận vong tại Thuận
Hóa. Bà vợ cả có tên là Nguyễn Thị Cả thay chồng đem quân đuổi giặc
nhưng không kịp đành tuẩn tiết. Bà cả không có con. Bà thứ có tên là
Nguyễn Thị Phái, quê ở ấp Đình Hương, nổi danh về nhan sắc tuyệt vời đã
cùng Con - Cháu dựng nên thôn Định Hòa ngày nay. Nghè Đình Hương và Phủ
Mẫu ở chân núi Đình Hương cách thôn Định Hòa gần 1 km là nơi thờ cúng
hai Bà, nhưng tiếc thay, do chiến tranh tàn phá đã bị xóa hết dấu tích.
Là vị Thành Hoàng của thôn Định Hòa, bàn thờ cụ Lê Thành trước đây đặt
tại ngôi đình cũ đã được chuyển về Phủ Thờ gần đấy từ năm 1994. Cuốn thế
phả đầu tiên của họ Lê Đỗ được ghi chép bằng chữ Hán từ đời thứ nhất
đến đời thứ 15. Tới năm 1943, Thế Phả được ghi thêm bằng chữ Quốc Ngữ và
tới năm 1983 được bổ sung bằng tiếng Việt hoàn toàn. Từ đời thứ 13, một
số chi nhánh đã tự ý đổi qua họ khác như Lê Văn, Lê Đình, Đỗ Công, Đỗ
Trọng,... Vì vậy, kể từ đời thứ 16 trở về sau, trong gia phả họ Lê Đỗ
chỉ còn ghi chép con cháu Cụ Lê Đỗ Gốc (thuộc đời thứ 11) và Cụ Gốc được
coi như Cụ Tổ của dòng họ Lê Đỗ sau này. Mộ Cụ Tổ đã được cải táng về
Nghĩa Trang của Họ Lê Đỗ từ năm 1993. Ngày Giỗ Tổ là ngày mùng 1 tháng 5 âm lịch.
15/THƯỢNG TƯỚNG TRẦN KHÁT CHÂN
Ông
thuộc dòng dõi Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, một danh tướng trong
cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông ở thế kỷ 13. Cũng theo sử cũ, Trần
Bình Trọng thuộc dòng dõi Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, người sáng lập
nhà Tiền Lê thế kỷ 10. Như thế, Trần Khát Chân gốc họ Lê ở Châu Ái. Văn
bia xã Tương Mai ghi năm Thuận Thiên thứ 3 (1430) cho biết ông sinh ngày
Tân Sửu, tháng Chạp, năm Thiệu Khánh thứ nhất (1370).
Năm
Kỷ Tỵ (1389), quân Chiêm Thành vào cướp Thanh Hóa, Hồ Quý Ly đem quân
đi chống cự. Bị thua, Quý Ly trốn về Thăng Long. Thượng hoàng Trần Nghệ
Tông bèn sai Trần Khát Chân làm tướng đem quân đi chặn đánh giặc đang
theo đường sông Hồng tiến về Thăng Long. Ông "vâng mệnh, khảng khái rỏ
nước mắt lạy tạ rồi ra đi". Thượng hoàng cảm động cũng khóc, lấy nước
mắt tiễn đưa.
Quân
Đại Việt đến Hoàng Giang thì gặp địch. Ông liệu nơi ấy không thể đánh
nổi nên rút lui về phục binh ở ngã ba sông Hải Triều và sông Nhị Hà.
Ngày 23 tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), thuyền địch đi qua đấy, ông tập
trung hỏa pháo bắn vào thuyền vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga. Bồng Nga
chết tại trận, quân Chiêm tan tác như rắn mất đầu, vội rút về nước
không dám gây sự nữa. Chiến công này đã cứu Thăng Long khỏi tai họa bị
tàn phá. Ông được phong làm Long Tiệp Bổng thần Nội vệ Thượng tướng,
tước Vũ tiết quan Nội hầu và được ban thái ấp ở vùng Kẻ Mơ, phía nam
kinh thành Thăng Long.
Năm
1399, thấy Hồ Quý Ly chuyên quyền, giết vua Trần Thuận Tông, ông cùng
một số vương hầu nhà Trần mưu sát Hồ Quý Ly trong hội thề ở núi Đốn Sơn
(xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc). Việc bị bại lộ, hơn 730 người bị giết.
Người đời truyền rằng khi sắp bị chém, Trần Khát Chân gào thét ba tiếng.
Chết qua ba ngày sắc mặt vẫn như còn sống.
Tại nơi ông bị hành hình, sau có đền thờ ở làng Phương Nhai và ở sườn núi Đốn Sơn. Ba tổng Cao Mật, Bỉnh Bút, Nam Cai có tới 29 làng cúng tế. ở Thăng Long, dân vùng Kẻ Mơ cũng lập đền thờ, tạc tượng đá, dựng bia ghi nhớ công đức của ông. Hiện nay, ở Hà Nội có đường phố mang tên Trần Khát Chân.
Tại nơi ông bị hành hình, sau có đền thờ ở làng Phương Nhai và ở sườn núi Đốn Sơn. Ba tổng Cao Mật, Bỉnh Bút, Nam Cai có tới 29 làng cúng tế. ở Thăng Long, dân vùng Kẻ Mơ cũng lập đền thờ, tạc tượng đá, dựng bia ghi nhớ công đức của ông. Hiện nay, ở Hà Nội có đường phố mang tên Trần Khát Chân.
Tham khảo thêm: DÒNG THƠ XỨ THANH
Xứ Thanh, vùng đất địa linh nhân kiệt, vùng đất tối cổ, nơi phát tích
phần lớn các vương triều Việt Nam. Ắt là nơi hội tụ nhân tài của cả
nước, từ thời Bà Triệu, Dương Đình Nghệ, Lê Đại Hành đến Lê Thái Tổ và
Trịnh – Nguyễn sau này. Xứ Thanh cũng trở thành đối tượng thẩm mỹ của
các hồn thơ dân tộc. Cảm quan xứ Thanh, trong cái hùng vĩ bao la hội tụ
hồn thiêng sông núi, với Lam Kinh, Hàm Rồng, Ba Dội, Thần Phù, Lạch
Bạng… Tìm đến xứ Thanh, xứ sở thanh bình, khoảng trong trẻo của tâm hôn,
con người giản dị, mộc mạc, tình quê đậm đà êm dịu những nỗi niềm trăn
trở. Xứ Thanh, vùng quê văn hóa có sắc thái riêng.
Cho
nên xuyên suốt lịch sử Văn học dân tộc có dòng thơ xứ Thanh, giọng thơ
xứ Thanh, góp phần phong phú cho thơ ca dân tộc và những nét rất riêng
của một miền thơ. Cố công đi tìm ta sẽ thấy dáng vẻ tâm hồn xứ Thanh qua
thơ xứ Thanh. Văn hóa xứ Thanh là một trong những yếu tố cơ bản chi
phối điệu thơ xứ Thanh.
Từ
hào khí Bà triệu, hào khí Lam Sơn, hào khí Cần Vương đánh Pháp, đến hào
khí cách mạng vô sản, cha ông ta đã xây dựng những viên đá tảng cho nền
thơ xứ Thanh và thơ ca dân tộc. Cũng cần thấy rằng xứ Thanh là một
trong những vùng đất với tư cách là đối tượng thẩm mỹ, có vị trí quan
trọng trong sự trưởng thành của hồn thơ cách mạng Tố Hữu, là cái duyên
buổi đầu với cách mạng của nhà thơ Xuân Diệu hòa tâm hồn vào vùng đất xứ
Thanh…
Với
những bông hoa đầu mùa, những tác phẩm thơ thành công trong cách mạng
tháng 8 và buổi đầu kháng chiến chống Pháp, điều thú vị là sự xuất hiện
phần lớn những cây bút xứ Thanh như: Trần Mai Ninh, Hồng Nguyên, Thôi
Hữu, Minh Hiệu, Hữu Loan, Hà Khang đủ điều kiện để khẳng định vị trí xứ
Thanh – Cái nôi buổi đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Và thời kháng
chiến chống Mỹ, trên văn đàn thơ Việt Nam lại trào lên những thành tựu
của thơ ca người Thanh Hóa như Vương Anh, Nguyễn Duy, Mã Giang Lân, Lê
Đình Cánh, Văn Đắc… Mới đây tìm ra Cầm Giang với những bài thơ nổi tiếng
trong nền thơ Việt Nam : Nhớ vợ (bút danh Cầm Vĩnh Uy), Em Tắm (bút
danh Bạc Văn Ùi), Núi Mường Hung – Dòng sông Mã, người con gái Châu Yên,
Mộ bên đường… Ông tên thật là Lê Gia Hợp (1932 -1989), quê ở làng
Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Mảnh
đất xứ Thanh, mảnh đất của sử thi và thế sự, con người xứ Thanh chân
chất, hiền hòa, sống nghĩa tình, trọng thủy chung, có cả chút phóng túng
ngang tàng trong mạch ngầm trăn trở, hướng về cội nguồn trong tâm thức,
tâm linh.
Vùng
quê và con người Thanh Hóa, thấm đượm trong thơ xứ Thanh ở chỗ này, chỗ
kia mỗi bài thơ của tác giả xứ Thanh. Xu hướng giữ gìn bản sắc dân tộc,
cảm quan của các nhà thơ đương đại xứ Thanh trong quá trình biểu hiện
tâm hồn, còn thể hiện cả chất liệu văn hóa xứ Thanh trong thơ. Ta gặp
giọng điệu của sử thi Đẻ đất Đẻ nước mà ngây ngất thi sĩ trong thơ Vương
Anh. Trăn trở hào hùng mà tình tứ trong thơ Huy Trụ. Cái ào ạt mà sâu
lắng của người cửa sông trong thơ Nguyễn Ngọc Quế, Lã Hoan. Lối thơ
duyên dáng nhẹ nhàng sâu kín thấm đẫm niềm thương của Đăng Sơn, Đào
Phụng. Mai Ngọc Thanh “Lặng lẽ xanh” với lỗi thơ tạo hình gây ấn tượng
mạnh, cách nói cách nghĩ độc đáo. Lời bình dị mà tứ sâu trong thơ Đinh
Ngọc Diệp. Văn Đắc giữa hai bờ hư thực với câu thơ phóng túng ào ạt.
Mạnh Lê rung lên cảm xúc trong chiều sâu văn hóa từ ẩn ức tâm linh. Lê
Hai trăn trở đời thường. Phạm Khang ngất ngây đi tìm giọng điệu thơ mới
lạ riêng cho mình. Nguyễn Minh Khiêm tung phá tìm thể nghiệm mới. Quế
Anh, tứ và lời táo bạo. Nguyễn Trọng Liên trầm sau hai thời điểm quá khứ
và thực tại với số phận con người. Lê Đình Bằng với trữ tình thế sự. Lê
Văn Sự với giọng thơ êm ả đồng quê. Lâm Bằng tắm hồn trong Cỏ đón từng
“Giọt nắng” cho đời. Cao Sơn Hải thả bút, hồn bay cao với mọi miền quê
đất nước để rồi về với Mùa xuân bản mường và Người đàn bà vùng cao, nhìn
quê hương sâu sắc hơn. Và cả đội ngũ người làm thơ dân tộc thiểu số có
nhiều tìm tòi trong tiếp biến văn hóa dân tộc mình như: Bùi Nhị Lê, Bùi
Tiên, Vi Lập Công, Cầm Bá Lai, Bùi Kim Quy, Bùi Chí Hăng, Cao Hồng Minh…
Ta yêu cái thơ ngây êm ả mà sâu sắc trong dòng thơ viết về đề tài thiếu
nhi trong thơ Đỗ Xuân Thanh, Nguyễn Ngọc Quế, Mai Ngọc Uyển. Nguyễn
Cảnh Hưng tỏ ra tài hoa và mạnh bạo với dòng thơ thế sự trào phúng. Phạm
Cú cần mẫn trong dòng thơ lý luận đạo đức. Và thơ của các nữ sĩ xứ
Thanh, vốn thơ mang nhiều nữ tính, nên thơ nữ đầy ắp chất thơ. Ta gặp
thơ Kim Quy trăn trở hoài niệm, thơ Vũ Thị Khương mang tứ gọn, lời thơ
dụi dàng duyên dáng. Nguyễn Thị Nhung với điệu nói mộc mạc xứ Thanh. Và
còn nhiều gương mặt thơ nữa đang có xu hướng tự khẳng định mình. Hỗ trợ
cho các nhà thơ trên đất Thanh còn có biết bao nhà thơ quê Thanh ở mọi
miền tổ quốc có nhiều đóng góp cho thơ hiện đại Việt Nam như: Lữ Giang,
Cầm Giang, Hồ DZếnh, Lê Đại Thanh, Nguyễn Bao, Định Hải, Xuân Sách, Lê
Đình Cánh, Lê Văn Vọng, Trần Vũ Mai, Nguyễn Duy, Mã Giang Lân, Anh Chi,
Trịnh Thanh Sơn, Phạm Đình Ân, Mai Văn Hai, Trịnh Anh Đạt, Lê Minh Hoài,
Nguyễn Hoa, Lê Thị Kim, Lê Tuấn Lộc… Có thể nói trên mảnh đất xứ Thanh
đang nở rộ đội ngũ thơ đi tìm sáng tạo mới.
Trên
đất nước của thơ ca này, làm thơ cực dễ, ai cũng làm được thơ ca. Nhưng
làm được thơ hay cực khó, mà thơ hay mới đúng được, thế nào là thơ hay
đó là điều còn nhiều bàn cãi. Chỉ có thể nói một cách chung chung là thơ
hay là phải có sức sống trong thời gian, nhiều người nhớ, nhiều người
thuộc (có thể quên cả tác giả và tên bài thơ). Nhà thơ Trần Mạnh Hảo có
quan niệm Thơ nói cho cùng sống bằng câu chữ ít khi sống bằng bài. Một
câu thơ thơ hay thường là hình ảnh biểu tượng gây ấn tượng với nhiều ý
nghĩa, vừa sâu sắc vừa thâm trầm, vừa bay bổng tài hoa. Một câu thơ dù
thông minh uyên bác đến đâu mà thiếu hồn vía, thiếu cảm xúc thì vẫn chưa
thể là câu thơ hay được. Nếu thế thì thơ Thanh Hóa có số lượng câu thơ
hay không nhỏ so với các vùng thơ của cả nước. NGUỒN: Thạch Thành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét