Mùa xuân ở vùng thượng nguồn sông Kim
Sơn năm ấy khác hẳn mọi năm. Cỏ cây ngái ngủ. Mây trắng cứ sà xuống ôm
vai núi Kim Bồng một cách ủ dột. Từ hạ lưu nhìn lên ngọn núi xanh sẫm
với vầng mây bông lãng đãng có vẻ đẹp vừa thơ mộng lại vừa u hoài. Nó
xui người ta nhớ nhung rất nhiều điều, lo nghĩ rất nhiều điều, nhất
là khi người ta lại sinh sống trên một dải đất sơn phòng có ít nhiều
đặc sản trời cho, tức là có cái để sợ mất. Cheo leo trên tất cả mọi nỗi
sợ là tội chết chém lơ lửng trong không trung, chưa biết sẽ rơi xuống
đầu mình vào lúc nào. Số là ở đây có ba thứ tuyệt phẩm. Thứ nhất là
người đẹp, thứ nhì là trà cam khổ, thứ ba là cá bống cát. Trong đó,
người đẹp là thứ quý nhất, cực hiếm, trăm năm mới có một người, nhưng
đã xuất thế thì phi phàm, dáng như tiên, mặt như ngọc, hương như sen.
Song đó chỉ là truyền thuyết, từ vài mươi năm trở lại đây chưa thấy.
Dân chúng một dải dọc sông như Vạn Hội, Thanh Lương, Năng An, Đại Định
chưa nếm cái đại phúc hoặc đại họa về người đẹp.
Còn hai thứ sau là có thật, đã làm nên
sự thao thức sảng khoái của người thưởng lãm đồng thời làm hao tổn
không ít mồ hôi, nước mắt và cả máu dân lành. Cá bống cát tên chữ là
Bình Giang sa ngư, con lớn nhất chỉ nhỉnh hơn ngón tay út người đẹp
một tị tì teo, đánh từ sông lên còn giẫy tanh tách. Làm qua một lượt,
ướp nước mắm nhỉ gia thêm hành tiêu An Lão, lập tức con nào con nấy
thân rướn cong như một dấu phẩy. Ướp độ nửa khắc trong trã đất đem kho
trên lửa than riu riu, mùi thơm bốc lên tận thiên đình, Ngọc Hoàng
đang bệnh cũng lồm cồm trở dậy đòi ăn cá bống cát kho tiêu với cơm gạo
Thần Nông. Mà phải đúng cá bống cát sông Lại (một đoạn dưới của sông
Kim Sơn) thì mới tuyệt ngon. Ăn xong, lại không muốn uống một thứ bồ
đào mỹ tửu nào ngoài trà cam khổ hái trên các triền núi Vạn Hội. Thứ trà
này được chế biến từ ngọn cây chè núi chỉ vùng này mới có, cọng lớn,
lá thô, ngắt vào quãng mờ sáng, phơi trở chín sương chín nắng rồi sao
đảo liên tục thâu đêm trên lửa đã hãm nhiệt cho đến khi lá săn lại,
khô giòn mà không bị sém. Nâng một cốc trà cam khổ bốc khói, ngửi qua
như có mùi mốc, nhưng nhắp thử một ngụm, cổ họng ngọt thơm đến hàng
giờ không dứt. Đối với người đã nghiện trà này, mọi thứ danh trà quý
hiếm từng được các văn sĩ cổ kim truyền tụng như Ô Long, Trảm Mã, Bạch
Mao Hầu, Mẫu Đơn đều xếp hàng thứ phẩm. Sở dĩ trước kia nó chưa nổi
tiếng vì sơn dân thích dùng nước suối hơn dùng trà, hoặc giả có dùng
thì họ cũng chỉ ưa loại nước chè tươi không qua sao tẩm cầu kỳ, uống
bằng bát lớn, bọt trắng chấp chới viền quanh mặt nước sóng sánh màu
mắt mèo.
Một vài nhà quan đã quen nếm trà sao
tẩm, lúc về vườn thừa nhàn bèn nghĩ cách huy động lũ con ở phục dịch
cho thú cao sang. Ban đầu cũng thử chơi thôi, không ngờ trà chế được
từ thứ chè quê ngon quá, sướng lên các cụ mới khoe nhau và cứ thế kháo
rộng ra ngoài. Quan hưu thử rồi nho sinh thử, đương chức thử. Gần đồn
xa đến phủ, đến dinh, đến tận tai chúa Nguyễn. Chúa muốn ngự lãm tất
cả của ngon vật lạ trong giang sơn mình. Chúa chỉ cần nói một, quan
Quốc phó Trương Phúc Loan hiểu mười, quan Tổng đốc dinh Quảng Nam hiểu
trăm, quan Tuần phủ Hoài Nhơn Nguyễn Khắc Tuyên hiểu nghìn và cấp số
nhân cho phép nhu cầu nở ra một cách kinh khủng tùy theo túi tham cũng
như sự nịnh hót của bọn tham quan ô lại.
Thế là hằng năm, trong vô vàn của cải
sản vật tiến kinh của dân phủ Hoài Nhơn, thế nào cũng có hai món Bình
Giang sa ngư và trà Cam khổ. Tên trà Cam khổ do đâu mà có? Người thì
bảo do vị trà ngòn ngọt đăng đắng, người thì bảo do nghề phu trà cam
chịu khổ ải. Có một người phu trà tên Tỵ người Thanh Lương quanh năm
suốt tháng quần đảo khắp các triền núi để canh chè, vì loại chè này
chỉ mọc hoang, không cách nào trồng được, mà giống khỉ rừng ở đây rất
hảo lá chè non. Một bữa nọ, nhân lúc ông Tỵ ngủ quên, bọn khỉ kéo nhau
về chén sạch đọt chè không chừa một ngọn. Kết quả năm ấy không có
trà khô dâng chúa. Ông Tỵ bị chém, đầu bêu giữa chợ, một quan chức họ
Trần quê ở Vạn Hội thương xót mới đặt tên trà là trà Cam khổ. Bọn đồng
liêu thóc mách méc lên thượng cấp, ông Trần suýt bị vạ miệng. Tương
truyền năm ông Tỵ chết oan, mây trắng không chịu bay, cứ quấn quanh
ngọn Kim Bồng.
Vị quan chức họ Trần đó văn võ kiêm
toàn, cụ tổ là người miệt ngoài chán thế sự nhiễu nhương, đưa gia đình
vào đây khẩn hoang lập ấp. Thấy cuộc đất quá đẹp, cụ tổ dành ra tám
mẫu đất dặn con cháu để làm sanh phần. Trước lúc quy tiên, cụ tổ dặn
con chôn mình ở đấy. Mộ phát, con cháu nối đời làm quan, đến ông Trần
là đời thứ ba. Giấc mộng công hầu khanh tướng trong thời buổi loạn ly
xem chừng không đủ sức hấp dẫn ông Trần. Ông tìm cách rút khỏi hí
trường, về Vạn Hội chăm sóc khu mộ Trần gia tổ sơn và mở trường dạy
học cho dân nghèo. Hồi đó, dân vùng này rất khổ cực, thường xuyên bị
bọn cướp đêm cướp ngày quấy nhiễu, nhiều người tay trắng đường cùng
lại bỏ vào truông làm nghề ăn cướp. Ngoài nạn cướp còn có nạn cọp.
Truông Mây hồi ấy có đôi cọp trắng khét tiếng dữ dằn, vẫn thường mò
sang Vạn Hội bắt người và gia súc. Có đêm cọp tha mất hai ba mạng người.
Ông Trần và dăm tay thợ săn can trường tình nguyện đi giết cọp dữ cứu
dân làng. Sau mấy tháng dai dẳng luồn rừng, họ đã giáp chiến với đôi
cọp trắng. Một người trong đoàn săn bất cẩn bị con cọp cái đang có
mang vồ chết tươi. Bạn săn mất tinh thần, tên bắn cứ rơi rụng vào
khoảng không. Thấy vậy, ông Trần liền rời chỗ nấp, lách qua một gộp
đá, giương cung, nhằm vào trán con cọp đực. Vút một cái, mũi tên độc
xé gió cắm phập ngay khoảng giữa hai hố mắt con thú. Nó rống thảm
thiết và hứng thêm mấy mũi nữa của phường săn vào bụng, vào đùi. Thấy
chồng bị hại, con cọp cái nhào qua tát ngang vào mặt ông Trần. Ông vừa
rùn chân né người tránh được thì nhanh như cắt, nó đã quay ngoắt lại
chộp cả bộ vuốt trước vào ngực ông, xé toạc một vạt áo. Ông Trần không
dám khinh suất liền lộn người mấy vòng để thoát hiểm. Bạn săn bắn như
mưa để hỗ trợ cho ông, nhưng cơn say mồi đã làm con cọp cái không còn
biết hoảng sợ. Nó điên cuồng lăn xả giữa làn tên độc, quyết truy đuổi
ông Trần. Giữa lúc nó giương hết nanh vuốt để theo đuổi mục đích thì
con cọp đực kêu lên một tiếng ai oán làm nó khựng lại. Hình như tiếng
kêu của chồng nhắc nó nhớ rằng cần phải giữ đứa con trong bụng. Và thế
là nó cũng đáp lại chồng bằng một âm thanh da diết, vừa đau xót, vừa
vâng chịu, lại vừa như một lời từ biệt buốt cả ruột gan. Con cọp đực
thấy vợ đã dừng lại thì có vẻ yên tâm, mắt nó dại đi, mình giật liên
hồi rồi duỗi ra, im phắc. Con cọp cái đau đớn đi quanh xác chồng, gí
mũi vào mắt, vào tai, vào nách. Nó còn cắn thử vào vai cọp đực. Thế
rồi nó sững sờ nhận ra rằng con cọp đực đã chết.
Đoàn thợ săn lúc ấy đã trèo lên các chạc
cây cao, ai nấy phấp phỏng nhìn xuống chỗ đôi cọp. Họ thấy con cọp
cái dùng hai chân trước ôm lấy mặt chồng, gục mặt mình vào đấy như một
con người tuyệt vọng. Giữa lúc mọi người đang sững sờ vì cảnh thương
tâm trước mắt thì nó đã buông xác bạn đời, đứng vụt dậy, ngoạm lấy vạt
áo dính máu của ông Trần, phóng thẳng vào ngàn xanh khuất dạng.
Đoàn thợ săn trở về. Nhiều tháng trôi
qua bình yên. Bọn cướp truông mấy lần đọ sức với đám võ sinh trong
làng bị thua, cạch hẳn không dám bén mảng. Con cọp cái có lẽ bận sinh
nở và nuôi con. Sức khỏe ông Trần dần dần bình phục. Thế nhưng khi
chú cọp con vừa biết nhai thịt rừng do mẹ săn về thì cọp cái lại nhớ
mối thù chồng chưa trả. Nó thường đi đi lại lại dưới bóng trăng khuya
một cách day dứt. Một đêm nọ, nó mang con đến trước một hang động. Đợi
khi con ngủ say, cọp trắng bỏ đi một lúc rồi lôi về một chú nai tơ nó
vừa quật chết, đặt trên miếng vải bên cạnh. Nó còn liếm con nó hồi lâu
rồi dứt khoát quay đầu. Nó xuống núi.
Buổi sớm định mệnh. Cửa động sịch mở.
Sơn ông ở trong động vừa bước ra thì thấy chú cọp con lông trắng như
tuyết đang ngủ ngoan bên cạnh một xác nai sóng soài tươi máu. Nhưng
điều làm ông chú ý hơn cả là miếng vải lót. Ở đâu ra thế nhỉ? Ông thầm
hỏi và cúi xuống nhìn, thì ra là vạt áo người bị cọp xé rách. Một chữ
Trần thêu bằng chỉ xanh đã bạc màu làm ông giật mình. Nhốt chú cọp
con vào một gian nhỏ trong thạch động, ông hối hả băng ngàn.
Linh cảm đã không đánh lừa ông. Thôn dân
vùng Vạn Hội còn đang kinh hoàng vì đại nạn vừa qua. Con cọp cái tấn
công bất kỳ ai trên đường tới gia trang họ Trần. Bà Trần trước đó mấy
hôm đã dẫn hai đứa con lớn về thăm quê ngoại chưa trở lên nên thoát
nạn. Ở nhà còn ông Trần, lão bộc, chị vú và đứa con trai nhỏ của ông
Trần đương tuổi nằm nôi. Con cọp cái gầm rít từng hồi dài đòi mạng.
Chị vú cuống cuồng trèo lên bồ lúa quấn chiếu rên khừ khừ. Ông Trần
bèn giao đứa con nhỏ cho lão bộc rồi nhảy ra đương đầu cùng cọp dữ.
Người và cọp quần nhau chí tử. Bụi đất bốc mù. Cây lá trong vườn tối
mặt. Lão bộc thông minh mang chiếc nôi tre treo lên chạc dừa cao. Lão
vừa treo xong thì con cọp cái trả được thù. Ông Trần bị nó móc vỡ
ngực, máu loang ướt cả mặt đất. Lão bộc thương chủ, liền rút dao găm
nhảy xuống tử chiến cùng con cọp hung hăng. Biết mình không đủ sức
đánh trả con cọp sung sức và quỷ quyệt này, lão bèn đứng tấn, hơi khom
người chờ đợi. Con cọp cái sau một lúc gầm ghè quan sát, liền lùi lại
lấy đà rồi nhảy dựng lên. Cú vồ từ trên xuống như núi sập. Những
chiếc vuốt đầy sát khí của nó vừa bập vào tấm lưng gầy của con người
nhỏ thó, tức thì lão bộc dồn hết sức tàn, đâm mạnh vào giữa tim mãnh
thú.
Sơn ông và một vài thôn dân đến nơi thì
con cọp cái đã tắt cơn giẫy chết. Nằm cạnh nó, lão bộc chỉ còn là cái
xác rách bươm nhầy nhụa máu. Cả khu vườn như nín thở, chỉ có bọn kiến
đất nghe hơi máu hối hả chạy tới chạy lui như hội chợ. Giữa lúc ấy,
tiếng khóc của cậu bé từ chạc dừa cao vọng xuống. Sơn ông che trán
nhìn khắp vườn tìm kiếm. Chiếc nôi tre như chiếc tổ dồng dộc khổng lồ
đang động đậy. Tà áo vàng phất nhẹ một cái, sơn ông đã ở trên ngọn dừa
có buộc tao nôi, nhanh chóng đưa đứa trẻ sơ sinh xuống đất. Chị vú
cho tới lúc ấy mới lóp ngóp trèo khỏi bồ lúa, lấp ló nhìn qua cửa. Sơn
ông vẫy chị ta ra ngoài, bảo chị bồng đứa nhỏ, còn ông và các thôn
dân chôn cất ông Trần và những người thiệt mạng. Con cọp cái cũng được
chôn gần đó. Trong khu mộ địa Trần gia tổ sơn có một nấm mộ đất không
bia, trên đó cỏ không mọc được, người đời sau gọi là mả cọp.
Lúc mọi người lo xong việc chôn cất
người chết thì thằng bé nhà họ Trần đang khóc ngằn ngặt. Chị vú dỗ
cách nào nó cũng không nín. Sơn ông nghe nó khóc mãi thì động tâm, bèn
đỡ lấy nó trên tay chị vú đểnh đoảng. Lập tức thằng bé nín bặt, nó
hấp háy đôi mắt hạt tiêu nhìn lên mái tóc bạc phơ và toét miệng cười.
Một tình cảm trìu mến lạ thường dâng lên trong lòng sơn ông khi ông
cúi xuống nhìn kỹ mặt nó. Trán phẳng, mày dài, mũi thanh, môi đỏ, hứa
hẹn một trang nam nhi anh tú. Có lẽ trời xui ta gặp nó chăng? Nhưng nó
còn có mẹ. Sơn ông thở dài. Ông se sẽ chuyển đứa bé cho chị vú. Nó
lại khóc thét lên như có ai đánh, ông bế lên thì nó lại cười, những
người đứng quanh đấy đều cho là lạ. Ông nói với họ:
– Phiền quý vị nhắn lại với Trần phu nhân rằng ta xin nuôi dạy đứa bé này. Sau này trời thương, mẹ con sẽ đoàn tụ!
Mọi người còn chưa kịp thưa lại điều gì
thì ông đã nhún mình phóng đi. Trong nháy mắt, tà áo vàng chỉ còn in
một dấu chấm phía trời tây rồi mất hẳn.
*
– Phu nhân này, mới đó mà ta và nàng đều già cả rồi. Bạn cũ bao kẻ đã ra người thiên cổ…
Trần Quang Diệu gối đầu lên đùi vợ. Bà
Xuân cúi xuống bỏ một sợi tóc bạc vừa nhổ được lên bàn tay ông, bàn
tay đầy vết chai của một đại tướng xông pha đông tây nam bắc chẳng mấy
lúc thư nhàn, bàn tay đựng bao nhiêu nhọc nhằn thao thức của một đời
người. Có lẽ không phải thế, bàn tay ấy không chỉ đựng một đời người,
bàn tay ấy đã đựng rất nhiều cuộc đời, rất nhiều số phận. Hình như đấy
không phải là ý nghĩ của riêng bà. Hình như ai đó đã nói như vậy, và
câu nói ấy trùng hợp với ý nghĩ thầm kín của bà, nên bà nhớ. Ai nhỉ? À
phải, Quang Trung Nguyễn Huệ đã nói như vậy khi cầm tay Trần Quang
Diệu trong lần trò chuyện cuối cùng. Hoàng đế đã nói rằng ông không
chỉ muốn gửi Quang Toản cho Diệu dạy dỗ, mà muốn gửi cả xã tắc cho
Diệu lo toan. Đó là lời nói chân thành của tình bạn, trái tim bà mách
bảo như vậy. Bà đã chia với hai người đàn ông đó – Huệ và Diệu –
những khoảnh khắc sinh tử. Bà biết họ đã gắn bó nhau ra sao, cho nên
bà hiểu lời nói của Huệ với Diệu trước phút lâm chung không phải là
lời nói thử lòng kiểu Lưu Huyền Đức thử Khổng Minh, cũng không phải là
lời thắt buộc lòng người cốt để bạn tận tụy hơn nữa với con mình. Đó
là lời gan ruột.
Những ngón tay thon dài của bà luồn vào
tóc chồng, mái tóc đẫm hương rừng núi, dù ông có về kinh thành và đồng
bằng bao lâu, hương rừng núi vẫn không phai. Bà nhớ rằng từ lần đầu
tiên gặp nhau, lần bà cứu ông thoát chết dưới vuốt bạch hổ, cõi lòng
nhi nữ thanh tân đã xao xuyến đến thế nào vì mùi tóc hoang dã ấy.
– Nhanh thật đấy! – Giọng Bùi Thị Xuân trở nên xa xôi – Bạch hổ có lẽ đã về trời rồi cũng nên, mình nhỉ?
– Không, không đâu! Bạch hổ chết thế nào
được! Chính Bạch hổ giúp ta mở con đường rừng từ Tây Sơn thượng đạo
ra Nghệ An. Mấy lần tiên đế trẩy quân ra Bắc, khi diệt Trịnh, lúc đánh
Thanh, đều đi bằng con đường này. Hồi mở đường, bao phen ta bị lạc,
những lúc ấy lại thấp thoáng Bạch hổ trước mặt. Cái bóng trắng của nó
dắt ta tìm ra phương hướng mà đi tới, cho tới khi đường được thông
suốt mới thôi. Bạch hổ hiếu nghĩa hơn cả người. Vào mùa xuân năm
ngoái, ta về thăm mộ thầy, đã thấy bên mộ đặt sẵn những quả rừng ngày
xưa thầy ta thích. Không hiểu nó kiếm bằng cách nào. Nhất định nó biết
ta về, nhưng lánh mặt.
Giọng Trần Quang Diệu không giấu nổi bùi
ngùi. Ông như thấy rõ cái hang núi ấm áp đầy bóng dáng của người thầy
yêu kính. Trong vòng tay chăm bẵm của thầy, Diệu và Bạch hổ đã lớn
lên, khi Diệu trở thành chàng trai cường tráng thì Bạch hổ cũng đương
nhiên là một đấng mày râu đường bệ. Suốt bao nhiêu năm, Bạch hổ chỉ tỏ
tình yêu mến với sơn ông, còn với Diệu thì nó rất lạnh nhạt, thậm chí
còn thù hằn. Chàng không hiểu, nhưng sơn ông thì hiểu rõ rằng chú cọp
nhỏ này từ trong bụng mẹ và trong những tháng đầu tiên được mẹ nuôi
dưỡng, nó được mẹ truyền cho lòng căm thù đối với con người có hơi
hướng đọng ở vạt áo mà mẹ nó xé được. Trớ trêu thay, Bạch hổ lại nhận
ra hơi hướng ấy nơi Diệu. Đã mấy lần con linh thú toan giở trò với cậu
bé nhưng ý định rồ dại của nó không qua nổi mắt sơn ông. Hễ bắt được nó
chơi xấu với Diệu là sơn ông lại phạt nó nhịn ăn hàng tuần trong mật
thất.
Lần nào cũng thế, nó cúi đầu nhận hình
phạt của thầy không nửa tiếng than van, nhưng khi đối diện với riêng
Diệu thì mối hận thù ma quỷ lại làm nó mờ mịt tinh thần. Một lần sơn
ông hái thuốc về muộn, nó đã quần Diệu suốt buổi. Tất cả những miếng
võ sở trường của Diệu do sơn ông truyền dạy, con linh thú đều học lỏm
được và nó rất biết cách vận dụng để tấn công cậu bé. Diệu lúc ấy háo
thắng đã bị Bạch hổ lừa bằng một thế trá bại. Giữa lúc Diệu đang thích
chí thì đột ngột Bạch hổ hoành thân chộp từ phía sau, vai trái cậu bé
bị nó bấu chặt không thương tiếc. Diệu cuống lên vì vẻ hung hãn khác
thường của con thú, may sao sơn ông về tới. Ông quát rất to làm Diệu
lịm người vì sợ mừng lẫn lộn, còn Bạch hổ thì vội buông cậu bé, rồi
ren rén tự đi vào thạch động, đinh ninh thầy sẽ phạt nhịn ăn như cũ.
Nhưng không, lần ấy sơn ông lạnh lùng đuổi Bạch hổ ra khỏi núi Kim Bồng.
Con cọp trắng quỳ mọp ăn năn mong thầy tha thứ, cả Diệu cũng đã khóc
lóc xin tội cho nó, nhưng sơn ông không đổi ý. Ông không muốn con
đường định mệnh của hai đứa trò yêu sẽ cắt nhau thê thảm ngay tại mật
thất, nơi ông đã tâm nguyện lánh đời và gieo trồng niềm thiện. Mãi đến
khi hấp hối, sơn ông mới cho Diệu biết toàn bộ sự thật và bảo Diệu
đốt trầm đầu gió gọi Bạch hổ về gặp ông lần cuối. Bạch hổ sẽ không
quên mối thù truyền kiếp – bản năng thôi thúc và trói buộc nó. Đã có
lúc thầy định giết nó để trừ hậu họa cho con, nhưng lòng thầy không
nỡ. Con hãy cố giải oán thù và bảo trọng lấy thân để hiến cho đại
cuộc.
Đã ba mươi năm trôi qua, Diệu vẫn ghi
tâm khắc cốt lời dặn của thầy. Oán thù được cởi tại cánh rừng An Khê.
Lần ấy Trần Quang Diệu tuân lệnh Nguyễn Huệ đi chiêu mộ anh tài trong
thiên hạ. Chàng vừa đi vừa nghĩ mông lung, thình lình Bạch hổ xuất
hiện. Nó vờn lượn như mây sà sóng cuốn, trút xuống chàng những cú chụp
như sấm rụng sét rơi, nếu trúng được chỉ có nước xanh xương. Chàng
càng nhượng bộ thì con mãnh thú càng lấn tới. Trong một thế nhảy lùi
để tránh đòn, Diệu bị hụt chân ngã ngửa. Trong lúc chàng chưa kịp lấy
thăng bằng thì Bạch hổ lao vút tới như một tia chớp kinh người. Chàng
chống trả một cách lúng túng trong khi Bạch hổ mỗi lúc một ngập vào
cơn say máu. Máu từ cằm, từ vai, từ hông Diệu tuôn ra như suối. Chàng
nhắm mắt chờ chết thì vang lên một tiếng phập khô rực. Bạch hổ bất ngờ
bị trúng tên ở sau cổ. Đau điếng, nó liền buông chàng ra. Diệu mơ màng
thấy một bóng hồng lướt tới với hai lằn thanh quang chập chờn bủa lưới
xuống mỗi lúc một sát đầu Bạch hổ. Chàng vội vàng thét lớn: Dừng tay! Không được giết Bạch hổ, chạy đi! Bạch hổ, chạy đi!
Cùng với tiếng thét, chàng đưa tay nhặt một viên sỏi búng thẳng về
phía trước. Hai lằn thanh quang đã sắp bổ ngay đầu Bạch hổ khựng ngay
lại. Người con gái áo hồng dậm chân la lớn: Súc sinh, còn chưa đi cho khuất mắt ta!
Âm thanh của nàng có một thứ uy lực lạ thường. Bạch hổ hốt hoảng cong
đuôi chạy trốn. Trong khi đó, Diệu đã ngất đi vì mất máu quá nhiều…
– Phu tướng, chàng nghĩ gì vậy? Có nghe thiếp hỏi không?
– À, à, ta vẫn nghe. Nàng vừa hỏi gì?
– Thiếp muốn hỏi xem chàng đã định thế
nào rồi, chuyện ông Sở bị giết oan ấy mà. Trời đâu trời không có mắt
vậy! Ông Sở theo phò nhà Tây Sơn một ngày với thiếp, công hãn mã đã
dày. Khi không bị ông Dũng lập mưu hạ ngục rồi dìm xuống sông. Chẳng
lẽ mình để vậy ngồi nhìn?
Trần Quang Diệu lắc đầu:
– Mọi chuyện cũng do Thái sư lộng quyền mà ra.
Nghe nhắc đến chú mình, Bùi Thị Xuân
chán ngán thở ra. Đã bao phen bà khuyên Bùi Đắc Tuyên giữ đúng đạo vua
tôi, đừng lấn lướt Cảnh Thịnh, đừng ép vua làm chuyện bất nghĩa. Lúc
vui Tuyên chỉ gật gật chiếu lệ. Lúc sẵn chuyện bực mình, Tuyên quát:
– Mày liệu thân mày đấy, con gái đàn
bà mà cứ muốn đái đứng. Rặt một giọng của lũ gàn thần. Thằng chồng mày
binh quyền lớn quá thành thử mày muốn lên giọng với cả chú mày chứ gì?
Tao mà không nghĩ chút tình máu mủ thì tao vả cho rớt răng.
Tuyên vẫn hay đổi ân ra oán nhanh như
chảo chớp. Hồi tiên đế còn sống, có lần Quang Trung định giáng chức
Tuyên vì tội hối lộ. Chính cung hoàng hậu là em gái Tuyên xin mãi
không được, bèn cầu quan Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ nói giúp. Nể Kỷ,
Quang Trung cho Tuyên được giữ nguyên chức, nhưng phải nộp bản tự cáo
và làm cam đoan đọc trước bá quan văn võ. Bùi Thị Xuân còn nhớ Tuyên
đã cóm róm tỏ vẻ hàm ơn Kỷ như thế nào. Thế mà cách đây không lâu, sợ
Kỷ ở vị trí phụ chính cho Cảnh Thịnh sẽ làm lu mờ mình, Tuyên đã kiếm
cớ hại Kỷ. Tuyên xúi Cảnh Thịnh giết Lê Văn Hưng vì tội tạo phản khi
Hưng vừa thắng quân Nguyễn ở Phú Yên, hăm hở về kinh báo tiệp. Biết
Hưng bị oan, quan Phụ chính Trần Văn Kỷ và đô đốc Lộc đứng ra can
thiệp. Tuyên phao luôn rằng Kỷ và Lộc cùng cánh với Hưng, xin vua
giáng chức Kỷ, Lộc, đổi làm lính. Kỷ bị đày ra coi trạm Hoàng Giang.
Triệt được các nhân vật không ăn ý với mình xong, Tuyên tính đến
chuyện thu dần binh quyền một số tướng lĩnh ở xa. Việc đổi Ngô Văn Sở ra
Thăng Long, gọi Võ Văn Dũng về Phú Xuân chính là mưu đồ của Tuyên.
Dũng về đến trạm Hoàng Giang gặp Trần Văn Kỷ bèn nghỉ đêm ở đấy. Kỷ
cho Dũng biết âm mưu của Tuyên và khuyên Dũng nên sớm trừ kẻ loạn
thần. Nghe lời Kỷ, Dũng gấp rút về kinh hợp mưu với Thiếu bảo Huấn bắt
Tuyên hạ ngục, đoạn sai Huấn vào Quy Nhơn bắt con Tuyên là Trụ, lại
đưa chiếu giả ra Thăng Long bắt trói Ngô Văn Sở giải về. Sở chịu chung
số phận với cha con Bùi Đắc Tuyên, bị bỏ cũi sắt dìm xuống sông
Hương. Trần Văn Kỷ được đón về kinh, lật đật nói cho Dũng hay rằng Sở
vô tội. Đến lúc ấy Dũng mới biết mình giết nhầm người ngay.
Cách đây mươi hôm Diệu đang thống suất
đại binh đánh thành Nha Trang, vụt nghe Sở bị giết, lòng như lửa đốt,
bèn họp chư tướng lại, bảo rằng:
– Chúa thượng không cương quyết, đại
thần giết lẫn nhau, tai biến không gì lớn hơn thế nữa. Nay chúng ta
hãy kéo về kinh dẹp yên cuộc biến loạn ở bên trong, rồi sau lại vào đánh
giặc cũng chưa muộn.
Các tướng dưới quyền Diệu đều cho là
phải. Diệu về đến Quảng Nam thì gặp vợ. Bùi Thị Xuân thương tiếc anh
nuôi là Ngô Văn Sở, mấy ngày liền mất ăn mất ngủ. Diệu nhìn dáng vẻ bơ
phờ của vợ, lòng xót xa vô hạn. Ông bảo:
– Hay nàng cứ ở đây. Để một mình ta đưa quân về kinh xem sự thể ra sao.
– Không được đâu! Chàng đi một mình lỡ có bề gì thì làm thế nào?
– Hôm qua, ta ngồi bên tràng kỷ, rượu
cầm trên tay mà miệng đắng lòng đau, không sao uống nổi. Ta ngủ quên
lúc nào không hay. Nàng biết không, tiên đế hiện về. Ta và tiên đế uống
rượu y như hồi người còn sống, y như hồi Người bàn với ta xẻ Trường
Sơn mở con đường thượng đạo để quân ta hành quân bí mật. Hai chúng ta,
tiên đế và ta ấy, như sinh ra là để hiểu nhau… Phu nhân ạ, điều ấy
chúng ta đều cảm thấy, nhưng không ai nói ra. Tiên đế thì giữ cho ta,
Người sợ có kẻ ghen ghét mà hại ta. Còn ta thì… Ta thì phải luôn luôn
nhớ rằng tiên đế không chỉ là bạn ta, mà còn là người gánh cái gánh
nặng hơn ta, nặng hơn gấp nhiều lần. Hoàng thượng bất minh không nối
nổi chí cha, nhân tâm ly tán, giặc đến thì lấy ai chống đỡ đây? Đêm
qua, trong chiêm bao tiên đế cười cười nói nói với ta, nhưng mắt Người
buồn lắm. Trước lúc đi Người chợt bảo ta: “Ông Diệu này, ta có một
câu, ông nghe thử có phải là thơ không, hay là thứ gì?”. Rồi Người
đọc: “Trẫm lạc nhân hoàn lưu chính trị”. Chui cha, phu nhân!
Phía Nam Nguyễn Ánh đang lựa gió nồm. Tiên đế nằm chắc không yên giấc,
ta phải làm sao đây? Giết thêm một Võ Văn Dũng ư? Giết thêm một Nguyễn
Văn Huấn ư? Ta gặp Huấn ở Quy Nhơn, Huấn sợ, nhưng ta lờ đi không
hỏi. Ông Dũng là một tướng giỏi của tiên đế. Ta không muốn triều đình
mất thêm người tốt.
Trần Quang Diệu ngồi dậy, đưa tay vuốt
ngược mái tóc, búi gọn trên đỉnh đầu. Bùi Thị Xuân im lặng không hỏi
gì thêm. Bà hiểu chồng mình. Diệu sẽ về triều, về để nhắc vua chứ
không phải để gây náo loạn triều đình cho hả giận. Bà cũng sẽ về triều,
bà muốn gặp lại những người đã từng rau cháo thời mới họp nhau ở Tây
Sơn thượng đạo. Nhạc, Huệ, Lữ, Diệu, Xuân, Dũng, Sở, Tuyết, Lộc, Long,
Minh… Lòng bà ngân lên từng cái tên thân thuộc. Bỗng dưng bà áp mặt
lên vai chồng, khóc òa như một đứa trẻ. Ông dịu dàng ôm lấy bà, dỗ
dành:
– Nín đi nào, phu nhân, nín đi! Sau
này, khi nào đất nước yên hàn, ta sẽ đưa nàng và con về Vạn Hội lo
khói hương cho tổ phụ. Mình sẽ về thăm đỉnh Kim Bồng, nơi ta đã cùng
Bạch hổ lớn lên dưới nách thầy ta, cùng ngắm mây trắng bay về núi. À,
phu nhân, ta vừa nghĩ ra một khúc ca mới, để ta hát nàng nghe.
Và ông cất tiếng hát. Tiếng ông như một ngọn gió núi, thổi cuộn lên rất nhiều kỷ niệm. Ông hát:
Gió bụi khốc liệt
Quân lính ở đâu?
Anh hùng ở đâu?
Máu họ dính trên mũi giáo nhọn.
Dân chúng ở đâu?
Thây họ chất đầy đồng.
Ôi núi sông cũ
Ngàn xóm tiêu điều
Ngày nào xin dây trói giặc, cất quân tinh nhuệ
Một ngọn roi thẳng hướng tảo thanh kinh khuyết.
Rồi trở về
Cưỡi hạc vàng
Nối lại cuộc rong chơi qua nhiều ngọn núi…
Trong khi ông hát, bàn tay nhiều vết
chai của ông nắm lấy tay bà. Từ bàn tay ấy, những con đường đã mở ra,
những con đường bất tận của non sông, chẳng con đường nào là không
nhuộm mồ hôi và máu, chẳng con đường nào là không đầy nhớ thương vẫy
gọi.
Trần Thị Huyền Trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét