Nếu
cơ nghiệp nhà Lý mở đầu bởi vị hoàng đế xuất thân từ vùng địa linh Cổ
Pháp (Lý Công Uẩn) thì đất phát vương của nhà Trần lại nằm cách đó khá
xa, về phía Đông của thượng nguồn sông Phổ Đà.
Phần 1: Chuyện những vùng đất long mạch của vua chúa Việt 'phát' như thế nào?
Phần 1: Chuyện những vùng đất long mạch của vua chúa Việt 'phát' như thế nào?
Một cuộc “tầm long”
Mãi
đến đầu thế kỷ 18, sau gần 900 năm xảy ra sự kiện Cao Biền trấn yểm
long mạch nước ta, một tài liệu của Trung Quốc với tựa đề Cao Biền di cảo
(cùng một số cuốn khác trước kia như An Nam cửu long kinh chẳng hạn),
nhắc việc Cao Biền sau khi đem 5.000 quân vượt biển tiến về hướng Nam
năm 865 (được chi viện thêm 7.000 quân nữa vào năm sau 866) đã đánh
chiếm nước ta và lập bàn đồng giữa trời, dùng thuật phong thủy lẫn những
phương pháp thần bí để “tầm long” ráo riết.
Vậy
“tầm long” là gì? Tầm long là phép tìm kiếm long mạch ngoài đất trống,
như cụ Tả Ao chỉ rõ: “Chẳng qua ra đến ngoài đồng/ Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ
long mới tường” và được học giả Cao Trung qua hằng chục năm nghiên cứu
sách địa lý của Tả Ao giải thích rõ đại ý dưới đây:
Long
mạch là mạch đất bên trong có chứa khí mạch, giống như trong cành cây
có chứa nhựa cây, nó có thể chạy qua những dãy đồi núi cao, cũng có thể
đi rất thấp, luồn qua sông qua suối, thậm chí qua biển, rồi đột ngột
nhô lên với những thớ đất lắm khi uốn lượn sà sà trên mặt ruộng như hình
con rồng đang cuộn mình vươn tới để ôm chầu vào một huyệt đất nào đó
(gọi là long nhập thủ).
Nơi
đó có thể hạ huyệt chôn cất, hoặc cải táng mồ mả cha ông để con cháu
đời sau phát vương, phát tướng, phát trạng, phát tài lộc phú quý. Trước
huyệt kết có đất nổi lên cao che chắn (gọi là án), hoặc có gò bao
quanh kết hình ấn kiếm, ngựa voi, chiêng trống (gọi là sa).
“Tả
Ao địa lý toàn thư” ghi rõ muốn tầm long cần phải biết: Thái tổ sơn của
toàn thể các cuộc đất xuất phát từ dãy Himalaya, phải biết Minh đường
là nơi nước tụ trước huyệt để nuôi khí lành, biết Thanh long là thớ đất
bên trái huyệt và Bạch hổ là thớ đất bên phải huyệt, cả hai ôm chầu vào
huyệt kết, biết về long sinh (mạch sống động như mãng xà vương đang
phóng tới), long tử (mạch nằm ngay đơ như chiếc đũa tre), long cường
(mạch nổi to như sóng lớn), long nhược (mạch lặng lờ như sóng nhỏ lăn
tăn).
Những
điều trên chắc hẳn Cao Biền đã ứng dụng trong cuộc “tầm long” trên toàn
cõi nước ta để trấn yểm, nhưng đất phát vương của 12 đời vua Trần (chưa
kể thêm đời hậu Trần) đã tồn tại vượt lên ý đồ của Cao Biền. Đó là vùng
đất ở nguồn sông Phổ Đà, tức sông Luộc, nằm trên địa phận thôn Lưu Gia
(thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay).
Phát vương trên đất kết
Đến
với vùng đất đó buổi sơ khai có 3 anh em nhà họ Lưu, gồm: Lưu Khánh
Đàm, Lưu Ba, Lưu Lượng. Về sau, cả ba người đều làm quan, trong đó Lưu
Khánh Đàm được vua Lý Nhân Tông trọng dụng (khi vua sắp mất vào tháng
chạp năm Đinh Mùi 1127 đã cho gọi Đàm vào nhận di chiếu để cùng Lê Bá
Ngọc đưa hoàng thái tử là Lý Thần Tông lên ngôi trước linh cữu). Tên
tuổi của Lưu Khánh Đàm (và Lưu Ba) đều được Ngô Sĩ Liên nhắc đến trong
“Đại Việt sử ký toàn thư”.
Đó
là dòng họ thứ nhất tìm đến cư ngụ tại vùng đất phong thủy ở nguồn sông
Luộc. Dòng họ thứ hai đến với đất phát vương là nhà họ Tô chuyên buôn
tơ lụa, giàu có nhất nhì trong vùng. Nhưng cả hai họ Lưu và họ Tô cũng
chỉ dừng lại ở mức quý tộc, cự phú, chứ không phát vương được. Mà phải
đợi đến họ Trần xuất hiện thì “đất kết” mới ứng lên một dòng vương giả
mới bắt đầu từ sự có mặt của một người đến từ hương Tức Mặc, xứ Hải
Thanh, đó là Trần Hấp.
Trần
Hấp sinh được 2 con trai là Trần Lý (lý là cá chép) và Trần Thiện. Trần
Lý lớn lên kết hôn với Tô Thị Hiền 15 tuổi, thế là hai họ Trần và Tô
kết sui gia và tạo thành thế lực mạnh nhất trong vùng. Trần Lý có người
bạn họ Phùng rất giỏi về khoa địa lý, được dân chúng kính nể, thường gọi
là “thầy Phùng”.
Ông
là người biết rõ kiểu đất “hậu sinh phát đế” ở thôn Lưu Gia, mà tiến sĩ
Đinh Công Vĩ đã ghi lại trong cuốn “Chuyện tình vua chúa hoàng tộc Việt
Nam” khá thuyết phục như sau: “Ba mũi nhọn chồng lên nhau này là núi
Tam Đảo với ba ngọn Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị. Đấy là Tổ sơn, long
mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, thấp dần rồi chìm qua
sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng mới đột
khởi nổi lên một ngọn núi khác.
Rồi
từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường,
kết lại ở gò Sao. Phía trước gò ấy có ba gò lớn là Tam thai, phía sau có
bảy gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời
soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao
nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất
hậu sinh phát đế”.
Khi
phát hiện ra chỗ đất kết, thầy Phùng đã bàn với Trần Lý nên cải táng mộ
ông bà của họ Trần về chôn ở đó. Vì sao thầy Phùng lại không thể dùng
chỗ đất kết để chôn ông bà mình? Theo thầy và nhiều nhà phong thủy khác,
người tìm ra long mạch và chỗ huyệt kết chưa hẳn là người có thể cải
táng thân nhân của mình để con cháu phát vương được, vì cần phải ứng
đúng mệnh số nữa.
Thầy
Phùng biết họ Trần sắp phát và đã kể lại chi tiết bí mật liên quan đến
câu chuyện phong thủy ở gò Sao cho con mình là Phùng Tá Chu (cũng là một
nhân vật lịch sử) được biết: Vào ngày lập thu, mộ hiển thủy tổ khảo ở
Tức Mặc và hiển thủy tổ tỷ ở Lưu Gia của dòng họ Trần đã dời chuyển đến
gò Sao song táng, công việc hoàn tất đúng giờ chính Hợi.
Những
người tham gia rà soát các vị trí và hình thể của long mạch lần cuối để
đặt la bàn xác định nơi hạ huyệt cũng như hướng cải táng đều là người
họ Trần. Chỉ duy nhất có thầy Phùng biết chuyện. Xong việc, bên trên mộ
được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết.
Sau
cuộc lễ chưa lâu, vào giữa một đêm rằm sáng trăng, thái tử Sảm (tức vua
Lý Huệ Tông sau này) từ Thăng Long chạy loạn đến vùng Lưu Gia đã tình
cờ trông thấy và nhanh chóng say mê cô con gái xinh đẹp của Trần Lý là
Trần Thị Dung, lúc ấy mới 15 tuổi (là chị em chú bác ruột với Trần Thủ
Độ), rồi cưới Dung. Đây là sự kiện mở đầu cho một loạt biến cố tiếp đó
để vương quyền nhà Lý chuyển sang tay nhà Trần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét