XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2016

Việt Nam thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802 (2)



Việt Nam thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802 (2)

Tiết 14
DÂN ĐẠI VIỆT Ở CUỐI THẾ KỶ XVIII

Các sắc dân trong tiến trình tiếp xúc * Đời sống vật chất thường nhật * Đời sống với ảnh hưởng của chiến tranh * Đời sông tinh thần.
Trên con đường phát triển của đôi bên Tây Sơn và Nguyễn dần dần đưa tới chỗ biến đổi thế quân bình có lợi cho Gia Định, chúng ta đã phân tích ảnh hưởng bên ngoài cùng thái độ, công việc của lớp người cầm quyền. Nhưng ta cũng không quên rằng thấp thoáng sau những sự kiện chứng dẫn vẫn có bóng quyền uy, mồ hôi nước mắt của đám dân chúng đã đưa Quang Trung đến trận Đống Đa, mời gọi Nguyễn Ánh về Gia Định, nghĩa là thúc đẩy lịch sử đi theo bước tiến của nó mà chính họ, họ cũng không hay biết gì. Trước khi bước gấp tới để nhìn đôi bên thanh toán nhau, chúng ta hãy dừng lại sống cuộc sống không tên không tuổi của người xưa vào thời đó qua những tài liệu quá hiếm hoi, quá vắn tắt đã để lại.
Bản đồ nhân chủng Đại Việt vào hậu bán thế kỷ XVIII có khác với bây giờ, nhất là ở miền Nam Hà. Trên con đường tràn về Nam, đám nông dân đồng bằng tiếp xúc với những nhóm thiểu số hoặc từ đời nào vẫn có cuộc sống bộ lạc dời đổi như các sắc dân phía Tây, hoặc đã từng là phần tử của những quốc gia hào hùng trong quá khứ như Chiêm Thành, Chân Lạp, hoặc là những kẻ từ phương xa tới, những con chim đi tìm đất lành như Tiêm, Trung Hoa... Chúng ta đã thấy sức mạnh của Nam Hà dựa trên sự kết hợp này như thế nào rồi. Tuy nhiên các phần tử không phải đã được nhất hoá - cũng như ở Bắc Hà - các nhóm sẽ hướng về trung ương mà dần dần biến đổi.
Trước nhất là dân Chiêm Thành. Khoảng 1773-1774, chúng ta gặp họ tụ đoàn xa nhất về hướng Bắc là Thạch Thành ở Phú Yên. Nữ chúa Thị Hoả của họ đã hưởng ứng với Tây Sơn và bị Tống Phúc Hợp giết. Nhóm thứ hai quan trọng hơn, ở Bình Thuận, được Nguyễn đặt riêng là Thuận Thành trấn, từ Kế-bà-tử đến Chưởng cơ Tá vẫn thế tập kế truyền.
Từ năm 1782, Tây Sơn vào, Tá đem vàng bạc ra hàng. Năm 1788, Nguyễn Ánh về, Tá đem quân lên núi giết quân Ánh biến thành một tiền đồn quan trọng của Tây Sơn. Khi quân Nguyễn ra đến Phan Rí, Nguyễn Văn Hào dẫn bắt giết Tá. Từ đó mới chấm dứt vương hiệu. Ánh phong cho Nguyễn Văn Chiêu làm Chưởng cơ, Nguyễn Văn Hào, Nguyễn Văn Chấn làm Cai cơ coi trấn Thuận Thành. Các tên đó vốn là Nguyễn-hoá rồi chứ thật ra Chiêu tên Môn-lai-phù-tử, Hào tên Thôn-ba-hú, Chấn tên Bô-kha-đáo. Sau Chiêu được phong Tán lý theo quân Nguyễn Ánh đánh giặc trở thành một viên quan triều, còn Hào lên thế coi sóc Chử Chân, Tiểu Trà Dương, Đại Trà Dương có Chấn phụ tá.
Đầu năm 1793, lại thêm 3 sóc về hàng là Phố Châm và Ba Phủ, Nguyễn Ánh lo tổ chức cai trị trấn Thuận Thành, đặt Lịnh-sử-ti 10 người coi xét công việc trong trấn. Sưu dịch họ phải làm ngoài binh vụ là bắt voi nạp, vào tổ chức An tượng cơ để dạy voi cho thuần, dùng trong chiến tranh. Thuế Gia Định đánh vào họ là trầm hương, kỳ nam, thuế lúa nạp thay tiền. Ruộng ở đó thường bị khô cháy, không cày cấy được miễn thuế. Ruộng Trà Nương ở xứ Long Hương, Phan Rí, Phố Hài là lộc ăn của vua Chàm cũng theo quy chế trên, nghĩa là chỉ chịu thuế những khoảng nào có người cày thôi.
Các trận chiến qua lại trên trấn Thuận Thành khiến cho hơn 36 sóc người Thượng phải bỏ xuống phía nam nơi các vùng Đồng Môn, Phước Hưng, La Bôn xin trú ngụ và phụ thuộc vào dinh Trấn Biên. Chiến tranh gây sách nhiễu cho lớp người thiểu số này nên có sóc như sóc Ba Phủ đã nổi loạn suốt mấy năm 1796, 1797, 1798, 1799 đến nỗi Nguyễn Văn Thành phải kêu lên: “Ba Phủ là mối lo tâm phúc của ta”. Chính loạn Ba Phủ lúc dừng, lúc phát, lúc ẩn náu trong rừng sâu, lúc ồ ạt ngoài đồng nội đã làm ngăn trở ít nhiều những cuộc tiến quân ra Bắc.
Một điều đáng chú ý là sự quy phục càng ngày càng đông của những người Thượng về phía Gia Định. Rải rác đây đó, Thực lục ghi việc tháng 4 âm lịch 1791 dân Thượng Bình Khang đánh Tây Sơn, việc Ánh kêu gọi các tù trưởng Phố Châm, Ba Phủ kêu gọi đồng bào họ về hàng để ngăn giặc, việc dân Thượng Đồng Hương ở Bình Khang (1793), Thuỷ Xá ở Phú Yên (1794) ra hàng được cấp vải vóc, tiền bạc, chiêng cồng. Các việc này cũng như việc Hà Công Thái tù trưởng Mường ở Thanh Hoá đưa thư vào Gia Định xin đánh giặc chứng tỏ thái độ bất phục tùng của đám dân phía Tây đối với Tây Sơn. Hành động này có thể do uy danh của Nguyễn Ánh lan rộng ra, nhưng đằng khác cũng bắt nguồn từ việc Tây Sơn không có đủ để trao đổi với họ gạo lúa, vải vóc, sắt đồng... nghĩa là những thứ họ cần dùng trong khi Gia Định rộng rãi hơn.
Người trung gian quan trọng giữa Gia Định và các sắc tộc miền Cao Nguyên là Nguyễn Long, bộ tướng của Châu Văn Tiếp từ lúc chiếm cứ núi Chà Rang với dân Thượng Phú Yên. Chức Thượng đạo Tướng quân mà ông giữ suốt cả thời gian từ lúc về Gia Định đến khi thống nhất, chứng tỏ Nguyễn Ánh đã biết dùng uy tín của ông để chiêu dụ họ. Tên tuổi ông có vẻ lấp sau các chiến tướng đánh Tây Sơn, nhưng nội một vai trò giữ yên miền Thượng cũng đủ là cả một đại công rồi.
Xa nữa về phía Nam cũng có những vấn đề phức tạp về chủng tộc phải đặt ra. Ở đây, sử quan gọi người Việt là Hán nhân, người Hoa đến ở là Thanh nhân, Đường nhân, người Miên là Lạp dân hay Phiên dân. Chính sách tự trị, phân biệt được thực hiện trong một chừng mực có lợi cho quốc gia. Một người Thanh làm Chưởng cơ tên Trần Công Dẫn được phái trông coi làm sổ bộ cho những người Đường cũ và mới ở các tỉnh, kể cả binh lính. Có lẽ Lư Việt Quan làm Tổng phủ ở Trà Vinh coi Đường nhân, trưng quan thuế, là một người Hoa; cũng có lẽ người Hoa là Tường Vĩnh Quan làm Đồng khấu coi ruộng muối, Lâm Ngũ Quan Tổng phủ Ba Thắc.
Về phía người Miên, tháng 1 âm lịch 1791, Ốc-nha La làm An phủ ở Ba Thắc trông coi các phiên liêu, bộ lạc. Chính sách tự trị này là kết quả của những bước dò dẫm. Ban đầu dẹp xong Phạm Văn Sâm, giết được Ốc-nha Ốc, Ánh thấy không cai trị trực tiếp được họ nên phải để cho một viên “phiên liêu về hàng” là Gia-tri-giáp coi phủ Ba Thắc. Triều đình trông chừng bằng cách lập luỹ Trấn Di kiềm chế.
Thế nhưng chính sách tự trị quá rộng rãi này lại không được hiệu quả. Thổ dân vẫn hướng về Chân Lạp nên khi Gia-tri-giáp được rút về Nam Vang thì viên tù trưởng mới lại đánh phá luỹ Trấn Di khiến Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Trương phải đến thay thế Trương Phúc Khoa mới dẹp an được. Số lượng quân chinh phạt lên đến 8.000 người và kết quả là đồng ruộng bị đốt cháy, bọn nổi loạn chắc bị giết hết nếu không có Bá-đa-lộc can kịp. Nguyễn Ánh rút bớt quyền các tù trưởng, để Ốc-nha Kê dưới quyền đạo Trấn Di đi thu mối lợi lớn là thuế hoa chi của Đường nhân, còn các chức việc Miên (phiên liêu) thì dưới quyền một An phủ như ta đã thấy.

1. Vùng Trà Dương hay Tà Dương thuộc quận An Phước (Ninh Thuận), giáp giới Bình Thuận, vùng nội địa của Cà Ná.
2. Phố Châm chắc là vùng gần Tánh Linh mà Aymonier (“Notes sur l’Annam Le Binh thuận”, Excursions et Reconnaissances, 1885, t. 210) gọi là Patjam chiếm 2, 3 xóm Chàm và 2, 3 xóm Thượng Chrou (hay Ka-hơ). Ba Phủ chắc là dân Đê (Thượng) Ba-vô của ĐNNTC, tỉnh Bình Thuận, mục núi Phố Châm (Bộ QGGD, t. 28) vì ở đây có nhắc đến cuộc loạn năm 1797 của bộ lạc này. Ba Phủ hay Ba Vô cùng gần như nhau về chuyển âm cũng như về chữ viết (nếu dùng chữ phủ = thủ + vô).
3. Vùng quận lỵ Tuy Phong, Bình Thuận. hiện gọi là Liên Hương.
4. Lá Buông? Vùng rừng Lá bây giờ?
5. Thực lục q5, 4b, 6a, chuyện tháng 10 âl. 1790; q6, 10b, 19b, tháng 12 âl. đầu 1792; q7, 2ab, 12a, tháng 2 âl. 1794; q8, 11a, tháng 11 âl. 1795; q9, 5ab, 8a, 12ab, 34ab, 35ab, 37ab chuyện tháng 11 âl. 1796, tháng 12 âl, cùng năm, tháng 2 âl. 1797, tháng 8, tháng 9, tháng 10, tháng 12 âl. cùng năm.
6. Thực lục q5, 21b; q6, 10b, 31b; nhất là q7, 2a, 12b, 13a; chuyện Hà Công Thái: Thực lục q7, 4a, Liệt truyện q28, 4b.
7. Thực lục q4, 35a, q5, 17a
8. Thư Lelabousse cho một người trông coi Chủng viện các Phái đoàn Truyền giáo 13-12-1790 (A. Launay, III, t. 290).

Việc Ba Thắc lôi thôi cũng vì Chiêu-thuỳ Biện, viên phụ chính ở Nam Vang. Ông này luôn luôn tìm cách gây hiềm khích giữa Gia Định và Vọng Các bằng cách báo rằng Nguyễn Ánh đúc súng đạn để xâm chiếm Xiêm khiến Ánh phải sai sứ sang phân trần. Việc Biện muốn chiếm lại Ba Thắc có lúc đã được Rama I nghe theo nên khiến sứ qua Gia Định điều đình về việc đó nhân tiện muốn lan rộng ảnh hưởng đến vùng Hà Tiên bằng cách xin cho Mạc Công Bính giữ Long Xuyên, Kiên Giang. Ánh từ chối khéo: “Vì cớ Chiêu-thuỳ Biện chớ riêng người Xiêm thì đâu có tiếc”. Cho đến tháng 9 âm lịch 1794, Biện chạy về Battambang, Gia Định nhân đó đòi Nặc-ấn từ lâu ở Xiêm, Nguyễn Ánh mới thoát được một kẻ làm rầy rà, nhất là khi thực lực ông đã lớn mạnh hẳn. Người Việt tới, người Miên cũng không tránh khỏi nạn bị giành đất. Nguyễn Ánh phải ra sắc bắt dân chúng phàm xứ nào ruộng đất canh tác thành ruộng rồi thì cứ trông coi, ai làm chủ nấy, dư ra chia đều mà không được tranh tụng gì cả. Về phần người Hoa ngụ cư, như có đất hoang được quan chứng cho khai phá thì được cấp làm.
Phân định rõ ràng quyền lợi, người Miên trở thành một phần tử trong một quốc gia. Cho nên, Nguyễn Ánh cũng không quên nguồn nhân lực này. Ta đã nói tới đội binh Miên của Nguyễn Văn Tồn, người dịch đình nô (mõ làng) sau này vào năm 1795 cùng với 1.500 binh và chánh, phó chi binh Miên là Ốc-nha Diệp, Ốc-nha Oa đi trấn Bà Rịa. Chúng ta cũng nghe đến đoàn quân Miên 5.000 người cùng 10 voi do Cao-la-hâm-sâm cầm đầu có mặt ở Quy Nhơn trong trận phá vây cho Võ Tánh. Tất cả vừa đủ để chứng minh sự tham gia của họ vào chiến tranh. Điều đáng lưu ý là theo với thời gian lối sinh sống của họ cũng như của những đám dân thiểu số khác dần dần Việt hoá đi. Lịch sử Đại Việt có họ thêm dồi dào, phức tạp, thêm yếu tố thúc đẩy năng lực tiến thủ cần thiết cho bất cứ một tập thể nào muốn sinh tồn và lớn mạnh.
Những sự kiện trên nhìn xét trong giao tiếp của từng khối người trên bình diện quốc gia, không làm cho chúng ta quên người dân trong sinh hoạt hàng ngày. Chúng ta còn thấy họ khi chúng ta về thăm lại những làng, sóc miền quê, khi nhìn lại chung quanh ta. Điều ấy xác quyết được vì sự tiến bộ bao hàm đổi thay cũng có ý nghĩa cái gì được giữ lại. Tuy nhiên không vì lẽ đó mà chúng ta lẫn lộn hiện tại với quá khứ, nhất là khi quá khứ có chứng tỏ đã quan sát vào lúc đương thời của nó.
Sinh hoạt thường ngày khác nhau tuỳ theo cách khai thác sản vật. Trên miền núi hay bìa rừng người ta sống với lề lối lượm hái, săn bắn có khi có tổ chức khá cao. Ở Nghệ An dân tổng Hữu Đạo, huyện Thượng Du phải đi lấy vỏ quế và sáp ong vàng để dâng lên Vua4. Việc lấy sáp vàng thấy có khắp nơi trên đất Việt (hoàng lạp nậu ở Gia Định), nhưng quế là đặc biệt ở vùng Thanh, Nghệ, Quảng cũng như trầm hương, kỳ nam thấy nhiều ở phía nam, nghề nghiệp của dân Thượng Bình Khang, dân Chàm... Dân Thượng len lỏi hái trầu, măng le, cây trái chuyển qua các nguồn. Ngoài ra ngà voi, sừng tê cũng là những sản phẩm có danh ngoài xứ.
Người dân miền núi dữ dằn, đen điu thì người dân đồng vẻ mặt trông nhẹ nhõm hơn, nước da ít sậm hơn, lễ phép, đáng yêu, lành và giản dị. Nông phu, theo nhận xét của người ngoại quốc, có dáng lanh lẹ và thông minh. Đàn bà nhiều hơn đàn ông và cũng làm việc đồng áng nhiều hơn. Ruộng thì có ruộng núi nhờ nước trời mưa và ruộng đồng. Ở vùng quê Quảng Nam ruộng cắt thành từng mảnh nhỏ hai bên những bờ đất nhỏ. Các rạch dẫn nước từ sông vào. Ruộng nào nước không tới thì người ta tưới bằng vò. Tuy nhiên có hệ thống dẫn thuỷ nhập điền được trông nom chu đáo bằng những công cụ khá tinh xảo như các xe nước ở bắc Bình Định và Quảng Ngãi. Cày có hai trâu kéo. Cái cày toàn bằng gỗ. Thực lục có dẫn việc cấp ngưu canh điền khí cho những người ở đồn điền trại, dẫn việc trâu bò của Kiến Hoà phải chết dịch nhiều.
Người dân chài có khi sống cả năm trên các ghe mui cong. Muốn cho những đứa bé rủi có lọt xuống sông khỏi chết trôi, người ta cột những chiếc phao to vào cổ chúng. Chiếc ghe giản dị nhất thì bằng tre đan rồi quét vôi lên. Nhưng cũng có những thuyền gỗ thường dùng, làm bằng 5 tấm ván ghép chung với nhau không có sườn nâng đỡ. Chúng được uốn cong bằng lửa rồi nối bằng các then nhỏ và lạt tre cột lại. Chính dân chài tự đóng thuyền lấy và họ sử dụng nhiều đến các ngón chân phụ giúp các bàn tay khiến chúng cứng khều như bàn chân vậy.
Việc buôn bán những thổ sản đối với các nghề nông, chài thật đã đem lại nhiều mối lợi lớn hơn. Chúng ta đã thấy Nguyễn Nhạc buôn trầu (hiểu theo nghĩa buôn qua các nguồn: lâm sản đi xuống, cá, muối, kim khí đi lên) nên “nhà khá giả”. Chúng ta cũng biết đến đám các lái ở Bắc Hà đồng bạn với thân sinh Nguyễn Hữu Chỉnh, vận chuyển bằng ghe thuyền. Xứ Đồng Nai dưới quyền Nguyễn Ánh việc mua bán phát đạt tới nỗi sứ bộ Cao Miên Ốc-nha Tha-la-ma, Ốc-nha Sa-thi nhân đi cống đem theo 14 thuyền, 140 người có dư để đi buôn khiến cho dinh Vĩnh Trấn phải náo động. Sự giao tiếp với người ngoại quốc sinh ra một hạng đàn bà làm áp phe, làm vợ bé, dùng việc này để được việc kia đến có khi được chồng đồng ý cho phóng túng. Tang thương ngẫu lục có chép chuyện sinh một đứa con lai, chắc là kết quả của cuộc sống chung đụng theo kiểu đó.
Kỹ thuật dựa trên kinh nghiệm cũng đến mức được người Anh khen. Họ ngạc nhiên về việc người dân Quảng Nam biết dùng bẹ chuối đắp lên một lớp mỏng đường đen để rút mật còn lại một thứ đường mỏng tinh khiết. Đồ gốm làm ra rất sạch sẽ. Còn về nghề nấu quặng, họ đã lấy được sắt tốt đúc súng mồi lửa (hoả hổ), lao phóng và các thứ khí giới khác. Điều ghi nhận này làm ta nhớ đến các cục tượng của Nguyễn Ánh ở Gia Định. Thành Chà Bàn ngày nay có một làng dân chuyên nghề lò rèn. Chắc đó là hậu duệ của đám dân chế võ khí cho Nguyễn Nhạc, Quang Toàn vậy. Quan sát viên không thấy ở Quảng Nam dấu vết của hoạ phẩm, điêu khắc phẩm. Lelabousse có nhắc tới một người ở Gia Định không học gì hết mà có thể làm được các đồ vật bằng ngà.
Cơm ăn thường ngày lẫn với một ít gia vị, mỡ súc vật. Bữa cơm của viên trấn thủ Tourane đãi phái đoàn Macartney khá thịnh soạn. Có những đĩa đựng thịt heo, thịt bò xắt miếng chấm nước rất ngon (nước mắm?). Có những đĩa đựng cá, thịt gà hấp (luộc?) và rất nhiều trái, mứt. Số đĩa dàn ra ba hàng đến hơn 100 cái. Trước mặt các thực khách bày ra các bát cơm và hai lông nhím để xiên thịt. Cái thìa bằng sứ như bây giờ còn thấy ở các nhà sang. Sau bữa ăn người ta mời uống giáp vòng các ly rượu đế nhỏ. Không thấy Tổng trấn mời người Anh thưởng thức những chén trà tàu mà Phạm Đình Hổ thèm tiếc.
Khách ngoại quốc ngạc nhiên sao ta không biết dùng rượu vang tuy dây nho mọc đầy núi. Thuộc vào hàng chất say, họ chú ý tới trầu cau. Người ta đựng trong một túi lụa có nhiều ngăn treo nơi lưng quần. Người giàu có đầy tớ mang ống điếu hầu. Nhưng chính họ tự mang trầu cau trong một túi nhỏ bỏ vào ruột tượng quàng từ trên vai xuống dây lưng. Gói trầu là một trong những vật kể vào đồ mặc chính. Ở Quảng Nam có rất nhiều bông vải. Trẻ con lột lấy múi bông rồi đàn bà kéo sợi, dệt vải, thường đem nhuộm chàm đi. Dân chúng cả đàn ông lẫn đàn bà đều mặc những cái áo dài thật rộng, cổ chật, trước ngực nhiều lằn xếp, cánh dài phủ cả bàn tay. Người quý phái mặc áo trùng, cập đôi, cập ba. Áo thứ nhất dài chấm đất, chiếc ngoài cụt hơn một chút. Cứ như vậy nếu có cập nhiều màu thì ta thấy có hình dạng cầu vồng sặc sỡ. Đồ lót gồm có một áo cánh lụa hay vải và không quần cụt. Quần dài cùng thứ vải với áo.
Phạm Đình Hổ cho biết người ở quê mặc áo vải trắng thô, học trò hay người thường lúc việc công mặc áo xanh lam (thanh cát) hoặc sẫm, hoặc lợt, hoặc sừng lúc có quốc tang, lúc thường mặc áo thâm. Đàn bà miền Bắc vẫn mặc váy.
Đàn bà đội nón, không đội mũ. Đàn ông hoặc lấy khăn chít đầu, hoặc đội các thứ nón tu lờ của nhà sư (cư diện), nón sọ nhỏ (xuân lôi tiểu), nón vỏ bứa (toan bì), nón mo cau của lính Tây Sơn bắt chước người dân lúc đội đi đường. Tất cả đều đi chân đất. Nhưng ta thấy người sang di chuyển bằng ngựa, bằng cáng như lúc Tây Sơn khởi loạn, bằng võng mành mành cánh sáo.

1. Thực lục q5, 9a, 32b; q6, 2b, 3ab; q7, 12ab.
2. Thực lục q7, 24ab.
3. Những bằng chứng về sinh hoạt kể ở đây, nếu không chú rõ xuất xứ, thì đều lấy từ những điều mà nhân viên phái bộ Macartney quan sát ở Tourane.
4. Tờ sức về việc thu thuế lâm sản ngày 9-4-1790 đã dẫn. Tự Do, số 1757, 19-1-1963.
5. Thực lục q5, 17b, tháng 5 âl. 1791.
6. Bộ Quốc gia Giáo dục VNCH xuất bản, 1962, t. 89.
7. Thư ngày 3-12-1790 (A. Launay III, sđd, t. 280).
8. Tuyết Trang Trần Văn Ngoạn dịch trong “Tồn cổ lục”, Nam Phong, V, t. 137.
9. “Vũ trung tuỳ bút”, Nam Phong, XXI, t. 462, 463 hay “Tồn cổ lục, IV, t. 206.
10. Hoàng Lê. t. 36.
11. Các số Nam Phong trên IV, t. 205, XXI, t. 461, 462, Phạm Đình Hổ kể các thứ nón riêng cho từng hạng người: ở kinh kỳ (nón cổ chầu), trẻ (tiểu liên diệp), lính (trạo lạp), người hầu hạ, vợ con (viên đấu sư), có tang (xuân lôi đại) … nhưng trước đó soạn giả có nói tới việc thay đổi ăn mặc, giao tiếp dưới đời Trịnh Sâm.
12. Thực lục, q10 37b.
13. Chuyện trộm cắp của “Vũ trung tuỳ bút”, Nam Phong, XXI, t. 561.

Trên một bức hoạ của J. Barrow để lại chúng ta thấy một nhóm người ngồi chơi ngoài trời. Ở mặt tiền bên phải một người có vẻ lính vì có giáo dài, có tấm khiên đánh giặc, đầu vấn khăn, quần cụt, ở trần lộ ra những bắp thịt rắn chắc. Trước mặt anh ta là một bàn cờ tướng. Phía sau anh và ngồi nhìn nghiêng mặt là một người đàn bà tóc vấn ở trần hở ngực, nét mặt thanh tú, nhẹ nhõm như Barrow đã công nhận. Những người bên trái hoặc phía sau nữa có vẻ sang hơn: một ông già áo quần rộng thùng thình, đội khăn phủ vai, có người đội nón lá chóp đã tơi, che thêm cái dù và có người đội nón thượng. Tất cả đều có vẻ thư thả thung dung trong một khung cảnh nhàn tản như túp lều với hàng cau, dãy núi làm nền cho bức vẽ.
Đám quân lính thì có điều đặc biệt hơn. Quân Tây Sơn mang giáo rất dài trang trí bằng một cục tua nhuộm đỏ và màu đỏ này không ai được mang ở áo quần cũng như vật dụng và chỉ dành riêng cho quân đội thôi (họ vẫn giữ gìn được mối quyến rũ của lá cờ đỏ những ngày mới nổi dậy!). J. Barrow tả lính Gia Định không đồng phục về màu sắc cũng như về kiểu mẫu. Thường ra, một chiếc khăn quấn đầu đôi khi trùm khắp, một chiếc áo cánh hay áo chẽn xuề xoà với một quần cụt là trang phục của lính. Nhưng khi triều đình có việc thì họ mặc đặc biệt hơn, đội mũ giấy bìa cứng treo đuôi bò màu đỏ loét. Các áo chiến choàng ngoài và các vạt áo lấm chấm thì hoàn toàn theo kiểu cách Trung Hoa.
Đời sống thường nhật đó không phải lúc nào cũng êm đềm trôi qua. Trong giai đoạn chiến tranh này, dân chúng đã trải qua những tai hoạ khủng khiếp. Ta đã nói tới những thảm cảnh đói ở Thuận Hoá năm 1775, đã tưởng tượng trận dịch tể làm hao mòn một nửa quân Trịnh ở nơi đó rồi. Hãy nghĩ thêm những khi lính tráng đắc thế như lúc loạn Kiêu binh. Họ phá nhà Huy quận công Hoàng Đình Bảo “không còn mảnh ngói”, phá cả nhà “những quan thị mọi ngày có tánh khắc khổ mà họ vẫn ghét. Họ còn lùng những người đó mà giết nữa là khác”. Trịnh Tông chém một người để thị oai thì việc phá nhà tạm dừng, nhưng việc bắt người vẫn chưa thôi hẳn. Dân chúng ở Quảng Nam, Thuận Hoá cũng phải chịu áp lực của những người có chút chức vị và bọn lính tráng tàn ngược. Ở Gia Định, lính và cả quan cũng đi trộm cướp, có người có chức khá lớn như Cai cơ Nguyễn Văn Triệu, Ngô Công Thành, Nguyễn Văn Đại ở dinh Vĩnh Trấn. Cấm vệ binh của Nguyễn Ánh được ưu đãi, quyền lớn nên có kẻ giả mạo để đi ăn cướp khỏi bị tội khiến Ánh phải lập thẻ lính để kiểm soát. Lính ngang tàng đến nỗi dân Bắc Hà phải gọi là “cha”!
Cho nên, khi tình thế đảo ngược có dịp trả thù là dân chúng không từ nan. Quân Trịnh đóng ở Huế khi bị Nguyễn Huệ phá vỡ chạy ra ngoài thành đều bị dân chúng giết chết. Kiêu binh ở tứ trấn khi Nguyễn Khản ủng hộ Trịnh Khải chống họ, họ trốn đi qua các làng xóm buột miệng nói lộ ra tiếng Thanh Nghệ đều bị dân quê bắt giết, đành phải giả người câm đi ăn xin cùng đường. Một hoạt cảnh mà Hoàng Lê kể lại nói lên đầy đủ thái độ dân đối với quan và lính trong thời loạn:
“Khi Tây Sơn vào Thăng Long, Kiêu binh chạy ra các làng bị dân quê kể tội kiêu lộng ngày trước không chứa chấp và làm nhục nhã đủ đường. Có người cởi trần trùng trục hốt hoảng ở phía trong thành chạy ra khi qua cửa ô bị dân ở đó trông thấy và chỉ mặt nói:
“Thằng bụng phệ kia có lẽ là lính Nhưng kiện, lôi cổ nó lại mà đánh chết đi.
“Người ấy vội đáp:
“ - Không phải, ta là quan Huyện uý huyện Thọ Xương đây.
“Mọi người cùng cười:
“ - Người ta vẫn bảo “ông huyện to bụng” thật không sai.
“Người ấy cũng cười rồi đi”.
Ở những nơi không có đánh nhau họ vẫn phải chịu ảnh hưởng nặng nề khi các đối phương thấy rằng muốn thắng được địch quân phải tận dụng sức lực tài năng dân chúng. Ta đã thấy điều đó ở vùng Tây Sơn. Nguyễn Ánh cũng không thể nào làm khác hơn. Thiếu lương mễ, thuế má, dân góp. Thiếu gỗ ván làm thuyền vận lương, dân đóng mỗi người mạnh hơn 3 quan, già yếu bệnh tật một nửa. Thiếu áo cho lính mặc, dân phải nạp vải. Đến đi lính cũng không tránh được đóng góp. Để dự bị đánh Tây Sơn vào giữa năm 1789, Ánh bắt thu lương riêng của quan quân. Đánh giặc nửa chừng (tháng 4 âm lịch 1795), Ánh kêu Cảnh ở Gia Định bắt bọn phủ binh, thuộc binh, lạc tòng quân không đi đánh giặc mỗi người nộp hai vuông gạo. Quân đến vùng nào thì ở đó cung cấp quân nhu. Thuế năm nay không đủ chi dụng thì bắt dân góp trước thuế năm sau! Cho nên dân phải trốn tránh. Đến dân đồn điền càng không sung sướng gì hơn. Họ trốn nhiều đến nỗi Bộ Hộ phải ra lệnh bắt Cai trại mộ người bổ sung, hạn 15 người là đủ số trong tháng không xong thì phải đi lính.
Tuy nhiên qua đói kém, chiến trận, người dân lại cày cấy, cất lại nhà thờ khiến các giáo sĩ phải ngạc nhiên về năng lực xây dựng của họ. Rồi những lúc rảnh rỗi, họ cũng biết tìm cách giải trí.
Phái đoàn Macartney ngạc nhiên về một đám 7-8 người chuyền nhau đá kiện không cho rớt xuống đất. Trái kiện làm bằng một miếng da thuộc khô, có dây cuốn lại. Ba chiếc lông dài cắm vào trong miếng da, toả ra phía trên nhưng đằng dưới túm lại, chui qua cái lỗ cách nhau nửa phân của một đồng tiền. Có hai, ba đồng tiền như vậy để làm đằm cái kiện.
Khi rảnh rang người ta đi coi hát. Người Anh không biết họ diễn hài kịch gì (có lẽ là bữa hát chèo, bài chòi), nhưng thấy một người già làm ra vẻ tức giận và một thằng hề chọc cười đáng gọi là có tài. Người đi xem vây quanh rạp, có người leo lên cây nhìn vào đám hát, vào khán giả. Macartney được mời đi xem một vở tuồng hát bội vào bữa 4-6, có kèn trống hợp tấu, diễn từ cũng nhịp nhàng “như sân khấu Ý”. Đám đàn ca hát rất đúng nhịp và cả tay chân thân mình uốn éo cũng rất uyển chuyển, đều đặn như bức hình còn ghi lại cho ta thấy thêm. Ca nhi cũng nhiều ở Gia Định, nhưng Nguyễn Ánh lại tìm cách ngăn cấm không cho lẫn lộn trong quan quân. Ngoài ra, ở vùng này, các trò đá gà, đá cá, đánh bạc cũng là những món giải trí thông thường.
Sống vui buồn lẫn lộn như vậy, dân chúng còn để ý đến những hiện tượng siêu hình. Các lễ tiết, tin tưởng mà chúng ta còn thấy quen thuộc vừa là dịp cho họ cầu mong thần thánh giúp đỡ họ qua cơn nguy khốn như trường hợp người dân chài ở Tourane lên bộ cầu xin gia đình yên ổn, chuyến ra khơi đầy lưới. Trên các cành cây to hay trên các nơi cao khác, họ dựng trang thờ, đặt vào đó cơm, đường và các thức ăn rồi đốt trầm lên khấn khứa.
Một nhân chứng đã viết những điều mắt thấy tai nghe về một tu viện vùng thiểu số Mường: “Tôi được đến thăm một tăng viện mà họ gọi là Cả Đễ. Có hai “Chậu húa” hay thầy tăng với 6 hay 8 người “sơ tu”(…). Họ mặc áo đỏ, không làm gì cả, không cưới vợ, nhưng nghe đâu họ cũng rất phóng túng. Làng của Cả Đễ đó nuôi tất cả những người ở trong tăng viện không để ai phải mất công làm bếp. Khi có một người đến thăm họ theo tục lệ, trước nhất phải bái tượng đặt tại một góc phòng sau đó quỳ dưới chân “Chậu hùa” để chào ông ta và để thưởng công cho khách, ông ta đưa tay cho hôn. Trong khi đó thì “Chậu hùa” ngồi nghiêm. Họ chỉ ăn có hai lần một ngày. Những ai ham ăn thường viện cớ cúng để giữ lại hai phần cơm sáng hay trưa để đến tối ăn.
Tăng viện hay Cả Đễ ở trên núi cao nhất vì theo sách dạy, họ tin rằng họ ở nơi cao bao nhiêu, khi chết họ càng dễ lên trời bấy nhiêu vì họ cho rằng trời chỉ cách núi cao nhất có 20 dặm...”.
Trong dân gian đầy phù thuỷ, ông đồng, bà bóng mà Nguyễn Ánh bắt ngăn cấm, không thì đánh roi, phạt xay lúa, giã gạo. Tục lệ bị khinh khi, nhưng thực ra nó bắt nguồn từ tin tưởng của rất đông dân chúng nên ảnh hưởng rất to tát. Chúng ta lưu ý rằng tin tưởng đồng bóng đã được thể chế hoá ở vùng Trịnh bằng đạo Nội. Chuyển về Nam, màu đỏ của phái đạo đó - màu tượng trưng cho phương Nam - đã trở nên một khích động linh hồn quân tướng Tây Sơn nơi lá cờ, nơi sắc áo lính tráng. Tất nhiên không khí thần bí đó gặp mảnh đất tốt của sinh hoạt bộ lạc, của tư tưởng Chiêm Thành, của các hội kín Minh dân lưu vong lại càng nồng nàn thêm khiến kết thành một phong trào quấy đảo dữ dội, khiến Nguyễn Ánh thù ghét các ông đồng, bà bóng cứ tưởng mình vô tội vạ.
Tuy nhiên, tục thờ cúng ông bà - lạy xác - trên khắp nước vẫn được chính quyền bênh vực coi như là nền tảng đạo đức của dân tộc. Các giáo sĩ phần lớn cũng công nhận ý nghĩa luân lý, không mê tín của tục này nhưng vẫn theo lệnh Roma để gây ra xung đột khiến ý thức Tây phương đi vào với một số đông người đã hiện diện ở Đại Việt rồi mà phải lùi bước lại đợi một cuộc can thiệp mạnh mẽ hơn vào nửa thế kỷ sau.

1. P. Boudet và A. Masson. Iconographie historique de l’Indochine française, ang VIII, hình 11.
2. Dẫn của G. Taboulet. La geste française... sđd, t. 257.
3. Hoàng Lê, t. 30.
4. Hoàng Lê, t. 76.
5. Thực lục q4, 1b, 14a; q6, 12b; q7, 30b; q8, 7a, 13b; q10, 14a.
6. Iconographie historique.... sđd, bảng VII, hình 10.
7. Thực lục q8, 28b mục tháng 8 âl 1796: “Văn võ thần... ăn thua cả hàng trên ngàn”.
8. Thư ông Guérand gởi ông Blandin, 20-7-1796 (Sử Địa số 9-10. t.159, 160).

Tiết 15
CHIẾN TRANH VỚI NGUYỄN NHẠC
Phản ứng của Quy Nhơn * Cuộc tiến quân dò dẫm của Lê Văn Quân * Những chuẩn bị trong khó khăn và trận thuỷ chiến ở Thi Nại 1792 * Chiến tranh ở thành Quy Nhơn.
Ta đã thấy sự sôi sục phát triển của Gia Định và Phú Xuân. Trong khi đó Quy Nhơn vẫn im lìm. Vẫn biết có khi biến cố vẫn xảy ra mà tài liệu không nói tới để cho sử gia phải cam bó tay nhưng cũng có khi biến cố thật không xảy ra nhiều vì địa phương, thời đại, tập đoàn ở đó gặp phải những điều kiện ghìm bước tiến. Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc ở vào trường hợp này.
Nơi vùng Tây Sơn, trong khi em ông cai trị trên hai cựu đô Nam, Bắc có đủ nhân vật tài lực để làm thế trưởng thành thì Nguyễn Nhạc phải bằng lòng với một phần lớn xứ Chiêm Thành cũ từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận. Cũng như chúng ta choáng mắt trước bước tiến ồ ạt của Tây Sơn, lầm tưởng họ có một hậu thuẫn kinh tế dồi dào, phái bộ Macartney nhìn thấy “bằng mắt trần” xứ Tsiompa có dáng của một cánh đồng xinh tốt, chập chùng thành từng bực cấp từ bờ biển tới bên trong và chen lẫn một cách kỳ diệu những nội cỏ và đồng áng. Nhưng bằng viễn kính thì cái cảnh giàu có ấy tan biến đi, nhường cho cảnh một vùng mênh mông những cát vàng nhạt, chen vào đó rải rác những dãy núi, đỉnh nhọn vút lên cao. Vì vậy ta không lấy làm lạ rằng vùng Bình Thuận, Bình Khang không là cái đích tranh giành của Tây Sơn và Nguyễn. “Đất Bình Thuận chiếm dễ giữ khó”. Nguyễn Văn Thành đã nói như vậy bởi vì quân Tây Sơn không giữ được mảnh đất khô cằn này thì đổi về tay Gia Định mới trung hưng, khó khăn nào có giảm bớt đâu.
Thất bại trong chiến tranh nồi da xáo thịt gây một xúc động tâm lý cho viên tướng đa mưu mà tuổi đã về chiều khiến cho Nguyễn Huệ phải chê trách. Nhưng thực ra Thái Đức Hoàng đế cũng không thể làm hơn được. Trên căn bản nông nghiệp, ông cũng biết cố gắng khuyến khích dân chúng canh tác bằng cách công nhận ích lợi của những cơ sở sẵn có như cho các tay thợ gìn giữ các xe nước ở Quảng Ngãi được miễn sưu dịch, cấp bằng cho người trông coi. Đám Tề Ngôi cũng có lảng vảng che chở bờ biển cho ông và trước sự phát triển của Gia Định làm dân, binh Tây Sơn phải kinh hồn, chính ông cũng cố gắng cho đóng nhiều thuyền bè mong chận trước cuộc tấn công 1792. Nhưng kết quả thực là ít ỏi. Sự hiện diện của ông khiến Phú Xuân cách biệt Gia Định chỉ có hiệu quả là làm cho Gia Định qua những bước khó khăn ban đầu thôi.
Tháng 4 Canh Tuất (1790), thu thập được năng lực mới mẻ, Nguyễn Ánh bàn chuyện đánh Bình Thuận. Nguyễn Văn Thành bác đi nhưng Ánh vừa nhận thấy được ích lợi do giao thương đưa lại nên muốn mở rộng đất để “xuất nhập thông thương” để “nhờ cậy cái lợi cá muối” (của Bình Thuận) cần yếu cho binh lính, dân chúng.
Dưới quyền của Tiết chế Lê Văn Quân có 6.000 quân. Tiên phong là Võ Tánh; Nguyễn Văn Thành được làm phó với dụng ý làm hoà giải mối bất đồng giữa viên tướng cướp mới về làm Phò mã và viên phụ tá của Châu Văn Tiếp cục mịch, thô lỗ nhưng vẫn rõ ra là can đảm, có tài. Bình Thuận là đất Chàm, nhờ dịp Tây Sơn nới lỏng, viên cầm quyền ở đó tên Tá hưởng được một quyền tự trị khá rộng rãi nên đứng về phe Quy Nhơn. Nguyễn Ánh cũng khôn ngoan cho đi theo quân một người Chàm là Hàn lâm Nguyễn Văn Chiêu làm Khâm sai Tán lý.
Nguyễn Văn Thành tiến quân đến Hốc Trâm chận đường về khiến Đô đốc Tây Sơn là Đào Văn Hổ phải nhờ Chưởng cơ Tá dẫn theo thượng đạo rút lui. Tá bị bội phản chết và quân Gia Định chiếm được Phan Rí. Lê Văn Quân muốn nhân dịp này thừa thắng tiến lấy Diên Khánh. Nhưng quân tướng Gia Định với xuất xứ lẫn lộn chưa tín nhiệm nhau. Nguyễn Văn Thành không đồng ý việc tiến quân. Võ Tánh không đồng ý với Quân đã đành mà Tổng nhung Cai cơ Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Văn Dực còn ám thông với Tây Sơn nữa. Lê Văn Quân mặc thuộc tướng, để Nguyễn Văn Thành giữ chợ Mai (Mai Thị), Võ Tánh giữ Phan Rí rồi tự dẫn binh chia giữ Nha Phân và Mai Nương trên ba luỹ mới đắp. Nhưng Tây Sơn đã tiến quân đánh trước.
Tháng 6 năm đó, Đô đốc Hồ Văn Tự, Nguyễn Công Thái, Tham tá Từ Văn Tú từ Diên Khánh đem 9.000 quân vào tấn công. Thuỷ binh họ cũng đồng thời đổ bộ lên cửa Phan Rang. Binh Nguyễn chết nhiều, Quân lui về giữ Ỷ Na đưa thư cầu cứu. Lúc bấy giờ Nguyễn Văn Thành và Võ Tánh đã được chiếu triệu về nhưng Tánh cứ đi luôn mặc Thành một mình quay lại.
Nguyễn Ánh một mặt sai Phạm Văn Nhân tiếp, một mặt tự dẫn binh thuỷ ra cửa Tắc Khái. Lúc bấy giờ Quân, Thành đã lui được về Phan Rí. Quân Tây Sơn lại tới vây. Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương, Võ Văn Lượng đem binh tiếp viện khiến Tây Sơn lui về Phan Rang. Ánh cũng nhân mùa gió bấc sắp tới, bất lợi cho cuộc hành quân nên để Nguyễn Văn Tính giữ Phan Rí, triệu Lê Văn Quân về đóng Phước Hưng6.
Trận chiến kéo dài khoảng 4 tháng là lần thử sức đầu tiên của Gia Định và Quy Nhơn.

1. V. Imbert. Le séjour de l’ambassade... sđd, t. 11, 12.
2. Thực lục q4, 32a, mục tháng 4 âl 1790. Lời can lúc Nguyễn Ánh muốn đánh Bình Thuận (xem sau).
3. A. Laborde. “La province de Quang ngai”, BAVH, Juil-Sept 1924. Trong bài có chụp phía ngoài tờ sắc của Nguyễn Nhạc, giữa có 3 chữ thảo “Thính chấp bằng” (giấp cho giữ làm cớ), chữ đỏ, hàng bên phải một cột chữ: “Thự Thục lang Vũ Văn Lợi, Hà Nghĩa phủ, Mộ Hoa huyện, Tứ chính tư đô vạn”. Bên trái: “Thái Đức thập nhị niên, tam nguyệt, nhị thập ngũ nhật (20-4-1789). Ta biết tỉnh Quảng Ngãi lấy nước vào ruộng bằng xe nước. Theo P. Guillemet (“Une industrie annamite: les noria du Quảng Ngãi”, BAVH, Avr- Juin 1926, phụ lục), ở nhà Lão Diệm làng Bồ Để, huyện Mộ Đức còn giữ ngoài những tờ ghi niên hiệu Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Tự Đức có một tờ đơn (số 6 trong phụ lục) của dân 2 xã thôn Thiện Đề, An Mỹ, huyện Mộ Hoa, phủ Hoà Nghĩa xin cho được miễn sưu dịch. Đơn đề ngày 2-12 Thái Đức thứ 12 (16-1-1790).
4. Một chợ ở Phan Rang tên Chàm là Dac niên.
5. Cà Ná?
6. Liệt truyện q27, 4a, 5b. Thực lục q4, 32a, 34a, 35b, 38ab; q5, 1ab. Phước Hưng, chữ của Thực lục là Hưng Phúc vùng cửa Xích Ram.

Dù có tên Phạm Văn Nhân, người theo hầu Hoàng tử Cảnh và dù tháng 3-1790 ở Gia Định đã có độ 10 thuyền buôn Bồ và một tàu Pháp như L.M J. de Jésus Maria cho biết, chúng ta không nghĩ rằng người Tây đã tham gia chiến trận, vì họ phải theo Nguyễn Ánh mà Ánh thì chưa đến Phan Rí. Dù sao, rõ là lực lượng Gia Định tuy đánh bại Phạm Văn Sâm nhưng chưa đủ sức tiến ra. Và Ánh phải chờ đợi.
Trong khoảng thời gian đó Ánh lo chỉnh đốn nội bộ, phát triển thế lực. Cũng chính lúc này người Tây phương dồn dập tới. Ánh mua tàu đồng của ông Gombra, sai Dayot đi buôn ở Macao, Manille. Nhưng đồng thời Gia Định cũng gặp nhiều khó khăn do phát triển gây ra. Ánh nuôi binh, dân đói. Ánh lo xây công sự phỏng thủ bắt sưu dịch nhiều, dân oán, ngóng về Tây Sơn. Ánh thận trọng lo việc mở mang, chần chờ không ra quân làm bọn phiêu lưu Tây phương, kiêu ngạo có sẵn, ồ ạt đã quen, mong muốn có chiến tranh để kiếm lợi, đâm ra sốt ruột, chán nản. Ngày đầu tháng 5-1791, Ánh thấy Dayot đi buôn tiêu nhiều quá, phát ghét đòi đuổi cả bọn từ lính tới sĩ quan. Phần Bá-đa-lộc lại nghĩ rằng do thái độ thiếu cả quyết của Ánh mà Tây Sơn bớt lo sợ và cho rằng “trong tình thế này nếu họ có gan đến đánh thì thực là khó ngăn cản họ”.
Thực ra Bá-đa-lộc còn có dụng ý khác khi hối thúc Ánh ra quân. Quá tin cậy vào lực lượng một nhóm người phiêu lưu, Pigneau định chắc ông sẽ thắng được Tây Sơn. Ông muốn ra Bắc Hà làm phép cho các L.M ở đấy mà từ lâu ông không được gặp. Ông hỏi thúc Ánh cất binh. Ánh không chịu, ông đòi bỏ đi tới 2 lần. Ngón đòn doạ già này sau đó Nguyễn Ánh sẽ bắt chước để buộc ông ở lại.
Tuy nhiên việc đánh Tây Sơn cũng vẫn được tiến hành. Tháng giêng Nhâm Tý, Nguyễn Ánh bày ra kế hoạch mà sau này người ta sẽ gọi là những trận giặc mùa. Ông bảo đợi tiết gió nam thổi thì ra quân, gió ngược thì trở về. Khi đánh thì tụ tập binh lính lại, khi về thì cho đi cày ruộng, binh không mệt, không ngồi ăn không trong lúc Tây Sơn chạy ứng cứu đầu này đầu nọ không rảnh tý nào.
Nhưng đến khoảng tháng 5-1792 thì Gia Định nhốn nháo về tin Tây Sơn sắp tràn vào. Không phải của Nhạc mà là của Huệ mới đáng sợ. Tin nghe ngóng ở đây thì nói Tây Sơn có độ 300.000 người tràn vào đánh tốc thẳng xuống Cao Man. Sử quan thì cho biết Xiêm đưa thư xin Ánh giúp binh ở đường thượng vì Tây Sơn đánh mạnh ở Vạn Tượng. Thư trả lời của Nguyễn Ánh cho biết rõ Gia Định có thám báo kỹ càng. Theo đó, Nguyễn Huệ tuyển binh Bắc Hà có đến 2-30 vạn muốn đem vào tấn công. Bộ binh đánh các đạo miền thượng phá đến Nam Vang, chuyển đánh sau lưng Sài Gòn. Thuỷ binh sẽ vào Côn Lôn, phá Hà Tiên, theo Long Xuyên, Kiên Giang ập lên chiếm Sài Gòn mặt trước. Thắng xong họ sẽ tính tới Xiêm. Điều này chắc là Ánh doạ Xiêm để đề nghị một cuộc hợp tác: Xiêm ở phía sau trên bộ, Nguyễn Ánh phía trước mặt đường thuỷ cùng hai mặt đánh Nghệ An, Phú Xuân, phá trước kế của Tây Sơn.
Kế hoạch đánh Gia Định có vẻ thực vì toan tính to lớn, hung bạo hợp với thói quen của Nguyễn Huệ. Và sau đó quả có 40 thuyền Tề Ngôi của Quang Trung lần mò vào đánh phá ở Bình Thuận. Không biết vì sao kế hoạch không thành. Sử quan không cần nhắc lại nếu sự việc không xảy ra để cho họ ghi. Lelabousse đưa hai giả thuyết: hoặc Tây Sơn sợ những chiếc tàu Âu lúc này đến buôn bán rất nhiều ở Gia Định, hoặc quân họ đã gặp hai đạo quân Xiêm đưa lên ngăn họ vào Miên. Rốt cục họ đã rút lui. Sự thực, như đã nói, Nguyễn Huệ thật khó mà hi vọng thắng khi đưa quân đi vòng tránh đất Vua Anh để đến đánh. Còn đường bộ thì núi rừng chập chùng, quân Lào, Xiêm, Miên sẵn sàng tiêu hao, đánh tập hậu; đường nước thì gió bấc đã dứt và gió nam đang thổi mạnh. Cuộc viễn chinh chỉ chậm lại nếu không có bất ngờ xảy ra cho Nguyễn Huệ.
Trong lúc Nguyễn Ánh bấn loạn thì Pigneau đòi đi lần thứ hai. Người ta nhốn nháo lên vì ông này bỏ đi tức là lôi theo cả bọn phiêu lưu đang giúp binh. Nguyễn Ánh cũng còn non tay không biết rằng khoảng đó năm trước Bá-đa-lộc muốn đi nhưng không dám vì sợ hại cho công cuộc truyền giáo. Ánh vội vã tới xin Pigneau ở lại. Một người lẻn nghe trộm cuộc hội kiến thuật lại rằng Pigneau trách Ánh không chịu nghe lời, không đi đánh Tây Sơn.
Rốt lại Bá-đa-lộc thắng. Ông không đi nhưng Nguyễn Ánh phong Olivier làm Vệ uý Thần Sách quân và đem súng lớn, lương thực ra ngoài biển tổ chức một cuộc tập trận lớn gồm khoảng 128 chiếc vừa đại hiệu thuyền vừa ô thuyền. Chiến dịch bắt đầu.
Thuỷ quân tràn đến vũng Diên bắt được thuyền tuần Tây Sơn biết họ không chuẩn bị phòng thủ, Nguyễn Ánh sai Tôn Thất Huy cắt đặt tướng sĩ, Nguyễn Văn Thành làm Tiên phong, Phạm Văn Nhân tiếp theo sau. Nguyễn Văn Trương theo Trung quân hộ vệ và Nguyễn Kế Nhuận đi sau rốt.
Đến Thi Nại, Nguyễn Ánh cho binh giỏi lên bộ đốt huỷ trại Tây Sơn, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành lấy thuyền Long, Phụng xông thẳng vào. Nhưng theo người Tây, kẻ mở đường lại là Dayot trên chiến “tàu đồng”. Quân Tây Sơn giữ thành tưởng là tàu buôn định khám tàu nhưng khi thấy theo sau đó là cả thuỷ quân của Nguyễn Ánh nên chận lại. Họ bắn 5-6 tiếng đại bác. Dayot theo thói quen Tây phương cho kéo cờ lên, bắn trả hết loạt. Rồi chiếc tàu nghiêng lại để bắn nốt phía bên kia. Tây Sơn tiếp tục bắn nhưng tới lần thứ hai thì cả hệ thống phòng thủ đã bị chiếm.
Đô đốc Tây Sơn tên Thành bỏ chạy. Quân Gia Định lấy được 5 đại hiệu thuyền, 30 ghe đi biển và 40 ghe sai rồi lại tìm bắt được 3 ghe Tề Ngôi nữa. Hai ngày ở chợ Thi Nại, Nguyễn Ánh vỗ về, phủ dụ dân chúng. Quân lại kéo về Gia Định, khứ hồi chỉ hơn 10 ngày.
Đó là chiến thắng đầu tiên chứng tỏ sức mạnh của đội thuỷ quân mới. Nguyễn Ánh lại còn vui mừng hơn khi biết chắc rằng đến lúc này Nhạc, Huệ cũng vẫn chưa hoà nhau. Nức lòng, ông cho sửa soạn ngay cuộc tấn công mùa sau: cho quân nghỉ, cho sứ đi Xiêm báo tiệp, bắt voi làm tượng binh, tạo thêm đại hiệu thuyền, tăng thuỷ binh.

1. Các thư của Pigneau 26-5-1791, 1-8-1791, 14-9-1791, của J. Liot 17-12-1791, của Lavoué ở Lái Thiêu 16-6-1792 (A. Launay, III, t. 297).
2. Thư của Pigneau gởi cho ông Boiret 20-6-1792 (A. Launay, III, t. 297).
3. Thực lục q6, 1b, chú, sử quan ghi những lời mà ta tin chắc là của Nguyễn Ánh, vì đối với họ lời vua là trọng nên không được sơ sót bỏ qua.
4. Thư ngày 16-6-1792 (A. Launay, III, t. 223).
5. Thực lục, q6, 2b, 3ab. Chính nhân dịp này Xiêm đòi cho Mạc Công Bính giữ luôn Long Xuyên, Kiên Giang và cho Chiêu-thuỳ Biện đất Ba Thắc nhưng Ánh từ chối.
6. Thư Lelabousse cho ông Letondal, 17-6-1792 (A. Launay, III, t. 297).
7. Thực lục q6, 6ab, 7ab.
8. Thư của L.M Jean de Jesus Maria kể chuyện Thi Nại tháng 8-1792. La révolte et la guerre des Tay son..., bđd, t. 102.

Chiến thắng Thi Nại làm hoảng hốt Tây Sơn. Nguyễn Huệ phải tức tốc nhảy vào chiến trận, Theo tờ hịch gởi cho quân dân hai phủ Quảng Ngãi và Quy Nhơn đề niên hiệu Quang Trung thứ 5 ngày 10 tháng 7 (27-8-1792) ông tỏ ra được ý đó. Bản dịch của giáo sĩ De La Bissachère vẫn còn giữ được giọng hung hăng, ồ ạt của lời kêu gọi bình Thanh 5 năm trước ở xứ Nghệ. Theo tờ hịch, sau trận Thi Nại, Nguyễn Nhạc có viết thư cho ông trình bày rằng quân dân Quy Nhơn khiếp sợ trước đối phương nên mới bị thua mau chóng như vậy. Quang Trung phải nhắc nhở đến tính cách phù trợ của dân hai phủ đối với anh em Tây Sơn và ngược lại, ơn huệ họ đã ban cho dân chúng trên 20 năm rồi. Ông gợi lại những trận bình Xiêm, đánh Bắc oai hùng, lừng lẫy và lưu ý rằng chen vào đó, những chiến thắng chống cựu trào thật quá dễ dàng. “Gia Định là mồ chôn” họ Nguyễn. Thế thì dân hai phủ sợ gì bọn người nhút nhát ấy? Đúng ra dân chúng sợ người Tây dưới quyền Nguyễn Ánh thì phải hơn. Nhưng cái kiêu hãnh của viên tướng bách thắng không cho phép dân bái quận của mình sợ bất cứ ai, vì “cho dù loại người ấy có khéo léo đến đâu đi nữa, tất cả đều có cặp mắt xanh của con rắn, phải coi họ như những xác chết trôi từ biển bắc dạt xuống”.
Dự định của Nguyễn Huệ báo cáo cho dân chúng là quân Phú Xuân sẽ đem toàn lực lượng thuỷ bộ tung vào Gia Định, đánh đến tận Cao Miên, đập tan quân Nguyễn Ánh “như gỗ mục vậy”. Đáng chú ý là tờ hịch nói “theo lệnh Vua Anh”. Có thể thực hai bên đã đồng ý với nhau về điểm Huệ trợ giúp cho Nhạc này vì rõ ràng là họ đang đứng trước sự tồn vong của gia đình họ. Vì cũng chính trong tờ hịch, Nguyễn Huệ khuyến khích dân hai phủ trung thành với Nhạc và nói rõ rằng việc đánh Gia Định là để tỏ cho mọi người biết Nhạc - Huệ thực là anh em và họ không bao giờ quên họ cùng một dòng máu. Lời lẽ có tính cách trấn an và cũng lộ có sự tương nhượng. Có lẽ chính có sự nhượng bộ về phía Nhạc nên Nguyễn Huệ hiểu dụ các làng trong hai phủ phải lo làm cầu, đường để quân dễ trẩy đi...
Dự định không thành như ta biết. Hai mươi ngày sau, Nguyễn Huệ chết bất ngờ vì lo cho cuộc viễn chinh. Chiến tranh do đó tiếp tục có lợi về phía Gia Định.
Tháng 2 âm lịch 1793, có viên Đô ty Tây Sơn đem hai thuyền và 100 người vào Gia Định. Nguyễn Ánh biết được việc Nguyễn Nhạc đem em gái đi điếu Nguyễn Huệ đến Quảng Ngãi thì bị chận lại không cho ra. Thấy bác cháu họ còn nghi kỵ nhau, Ánh bèn quyết định đánh Quy Nhơn. Viên Đô ty này từ Phú Xuân đến nên có thể chính ông cho Gia Định biết cả việc Quang Toản và Quang Thuỳ hục hặc nhau nữa bởi vì ông Lelabousse đã kể rõ việc này trong thư khoảng tháng 6 dương lịch khi cuộc tiến quân mới còn ở Phan Rang, Bình Khang.
Lần ra quân này (tháng 4 âm lịch 1793) do Tôn Thất Hội coi. Quân bộ đánh Phan Rí với Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Ánh theo quân thuỷ có Nguyễn Văn Trương, Võ Di Nguỵ đi trước, Võ Tánh hộ vệ. Quân đi có người Miên, Hoa, Âu hung hăng, dữ tợn.
Quân thuỷ đến trước ở cửa Phan Rang. Nguyễn Kế Nhuận đánh luỹ Mai Nương thì Tây Sơn đã chạy rồi. Nguyễn Ánh để lại Vệ uý Nguyễn Hiên đợi bộ binh rồi ra cửa Nha Trang. Nguyễn Văn Đắc, Võ Văn Lượng đổ bộ đánh luỹ Hoa Vông lấy phủ Diên Khánh. Ánh sai Võ Tánh mang 3 vệ đội đi lấy Bình Khang rồi chính mình cũng theo thuỷ quân tiến ra nữa. Ở vũng Hòn Khói, Chỉ huy Trí lại bỏ Bình Khang để một số binh tướng ra hàng đầu quân dưới cờ Gia Định.
Quân bộ chậm chân hơn, nhưng Tôn Thất Hội cũng đuổi được Đô đốc Hồ Văn Tự chạy theo đường thượng về Quy Nhơn. Trong lúc đó binh thuỷ đã đến Xuân Đài. Võ Tánh tiến lên đánh luỹ La Hai, Tham đốc Tây Sơn là Phạm Văn Điềm chạy bỏ cả lương hướng. Sức chống cự của Tây Sơn rõ là rất yếu ớt.
Như vậy là từ Bình Thuận đến Phú Yên quân Nguyễn đã chiếm trọn. Ánh lo đặt người cai trị, thâu thuế, lấy lúa nạp thay tiền để có lương cấp binh lính. Quan cai trị có người là quan võ rảnh ranh như Nguyễn Thoan coi Hậu thuỷ doanh, giữ Bình Khang, có người là hàng tướng vô hại như Nguyễn Y Mân được làm Cai bạ Phú Yên.
Nhưng khi quân Nguyễn vào đất Quy Nhơn thì thấy được sức đề kháng của Tây Sơn. Võ Tánh đổ bộ lên cửa Thi Nại rồi tiến phá cầu Tân Hội vào tháng 6 năm đó. Tây Sơn lui về giữ núi Trường Úc. Ở đồng Bình Thạnh, quân Nguyễn gặp đội tượng binh của Nguyễn Bảo, con Thái Đức. Bảo thua bèn lui về đắp luỹ giăng từ Thổ Sơn đến núi Trường Úc để ngăn giữ.
Lúc bấy giờ, bộ binh đã tiến vào theo hai đường hẻm có sẵn: Cù Mông gần biển và Hà Nhao phía tây. Ánh mật sai Tôn Thất Hội ở đèo Phú Quý bắt dân gần đó phá gai, chặt cây dọn đường để đánh trên núi. Dưới đồng, quân ông nửa đêm vượt qua Kỳ Sơn cùng Nguyễn Văn Thành tập kích núi, có Võ Tánh đánh ở mặt sau. Ở Trường Úc, Võ Văn Lượng đến đốt trại để Lê Văn Duyệt tiến lên núi thu súng ống, đạn dược rất nhiều. Nguyễn Bảo và Đào Văn Hổ phải chạy về thành Quy Nhơn bỏ lại các luỹ Phú Trung, Tân An, Cầu Chàm, Đập Đá.

Vòng vây cứ dần dần thu hẹp lại. Nhưng Ánh cũng cần thêm quân khi chiến tranh càng quyết liệt. Một phần Ánh lấy ở đám dân sở tại hưởng ứng theo, phần lớn là đám dân mới nội thuộc: Phú Yên, Bình Khang. Ở các nơi này, Ánh lại nhắm vào đám cựu quân Tây Sơn để khỏi mất công huấn luyện: lệnh truyền chiêu tập ở Bình Khang các tay súng giỏi, binh cũ nhắm vào ai là “nhưng súng đội”, “cựu ngạch binh” nếu không là họ?
_______________________________________
1. Ch. Maybon. La relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mgr De La Bissachère, Ed. Champion, Paris, 1920, t. 173-176.
2. Nguyễn Nhạc bị lầm một lần khi vợ chính của Quang Trung mất mà người ta đồn lầm là chính Huệ thương cảm quá rồi cũng chết theo luôn. Lần đó Nhạc tính đem quân chiếm cả Phú Xuân, Bắc Hà (thư ông Sérard gởi ông Letondal, Sử Địa, số 13, t. 171). Không trách bây giờ Quang Toản ngăn không cho đi điếu cha mình.
3. Thực lục q6, 13b.
4. Địa điểm Hoa Vông còn thấy trên bản đồ bây giờ nơi bờ phía bắc sông Cái, đối diện với thành Diên Khánh. Chắc trước khi xây thành, Hoa Vông đã nằm cả 2 bờ sông nên lúc Võ Tánh giữ Diên Khánh, có tên “cầu Hoa Vông”.
5. Thực lục q6, 17ab, 18ab.
6. Thực lục viết La Thai. Chỉ cần thêm chữ sau chữ là ta có La Hai, tên Nôm đúng.
7. Úc Sơn tên của Thực lục.
8. ĐNNTC, tỉnh Bình Định, (q9, 14a) có ghi: “Thổ Sơn cổ tháp tục gọi là tháp Thị Thiện”. Vậy địa điểm Thổ Sơn chỉ ngọn đồi trọc bên cạnh quốc lộ số 1 cũ, gần cầu Bà Di, mà người Pháp gọi là Tours d’Argent. Tên thông thường gọi là tháp Bánh Ít.
9. Ha Nha của Thực lục.
10. Phú Quý Cương cửa Thực lục, ngọn đèo thấp đưa tới đồng Cây Cầy.
11. Lam Kiều, Thạch Yển của Thực lục.

Quân Nguyễn tới đánh luỹ núi Kho. Đô đốc Đẩu giữ ở đấy với 4.000 binh mạnh, dựa núi cao bắn xuống dữ dội. Trần Công Hiến người Quảng Ngãi, tâu với Nguyễn Ánh xin vào luỹ làm nội ứng. Kết quả tự nhiên thấy rõ. Nguyễn Đức Xuyên bên ngoài kêu hàng, Tây Sơn bắn ra, nhưng bên trong Hiến đã nổi dậy. Đô đốc Đẩu bị bại chạy thoát, Chỉ huy Trí thoát ở Bình Khang về đến đây phải bị giết thảm. Quân Nguyễn thu được 35 khẩu đại bác, hơn 80 thuyền biển, 3 con voi, 1 kho gạo, 1 kho cá muối cùng vô số súng điểu thương.
Thành Quy Nhơn càng bị vây siết hơn với các tướng Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành. Tây Sơn cũng còn được 3 cứ điểm bên ngoài: Gò Dê, Đầm Sấu, và Tam Tháp.
Thành bị vây đến hơn 3 tháng trời. Không phải là vũ khí tấn công của Ánh không hiệu quả. Đám binh lính Tây phương dưới quyền đề nghị phá thành trong 10 ngày. “Phóng diên (diều) lưu hoả pháp” của người Âu mà sử quan nói dùng để đốt thành có lẽ chỉ cuộc tấn công ồ ạt đó bằng lửa đạn mở đường. Nhưng Ánh không chịu viện lẽ sợ dân chúng trong thành chết không nỡ. Thấy quân về hàng càng ngày càng đông, Ánh tin rằng bị vây lâu, quân trong thành sẽ loạn, tự nhiên hàng đầu. Sử quan ghi rằng Ánh “bảo các quân chớ nôn đánh” và sau này các giáo sĩ cho ràng “cuộc vây hãm kéo dài vì lỗi của vua”, tất cả đều đúng.
Trong lúc chờ đợi, Nguyễn Ánh lo đánh chiếm các đất còn lại của Nguyễn Nhạc. Tháng 7 năm đó, ông đến cửa An Dụ sai Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhân, Nguyễn Đức Thiện đánh Đệ Dương phá một cơ sở làm thuyền biển của Tây Sơn bắt được 30 thuyền mới tạo, còn ghe nhỏ, gỗ ván đều đốt hết. Quân Tây Sơn kéo nhau hàng hơn 300 người trong đó có Đô đốc Nguyễn Văn Thái, Cai bạ kiêm Công bộ Trần Văn Thái, Vệ uý Nguyễn Văn Chinh, Chỉ huy Đào Văn Lượng, Nguyễn Văn Phát. Tướng giữ Quảng Ngãi là Nguyễn Tấn Lục, Trần Công Trữ cũng về hàng.
Yên mặt bắc, Nguyễn Ánh trở về, lên Đập Đá. Lần này ông có vẻ quyết liệt nên sai lấy “hoả xa đại pháo” đánh vào nhưng không hạ nổi ngôi thành còn hơn vạn quân chống giữ. Tuy nhiên ông cũng thu hẹp được vòng vây lại. Quân Nguyễn đánh luỹ Gò Dê bắt được Đào Văn Hổ, quân Tây Sơn giữ Đầm Sấu bỏ chạy vào thành chỉ còn trơ có luỹ Tam Tháp.
Nhưng lúc bấy giờ cứu viện của Phú Xuân do Nhạc kêu cầu đã tiến đến. Trên bộ là 17 ngàn binh, 80 voi dưới quyền Thái uý Phạm Văn Hưng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn, Tư lệ Lê Trung, Tư mã Ngô Văn Sở. Dưới nước là Đại thống lĩnh Đặng Văn Chân, Đô đốc Hô (Hô Hổ hầu cũ?) Chưởng cơ Thiêm với 30 thuyền. Thuỷ quân thực yếu kém nhưng bộ binh thực dũng mãnh với đủ danh tướng cũ.
Cho nên ở Trà Khúc hàng tướng Trần Công Trữ chết trận, Nguyễn Đức Thiện lui về giữ núi Cung Quăng. Nguyễn Ánh vội vã sai Nguyễn Văn Thành đem 8.000 quân ra Bến Đá giữ các đường Sa Lung, hang Tối Trời (Hôn Cốc) với Nguyễn Kế Nhuận và Nguyễn Văn Thái.
Chiến tranh lại đổi chiều. Tuy Trương Phúc Luật vừa đem 20 thuyền chiếm lương Tây Sơn ở Thái Cần, đốt thuỷ trại ở cửa Đại Áp tận Quảng Nam, nhưng bộ binh Tây Sơn vẫn bám lấy sông Vệ ở Quảng Ngãi. Nguyễn Quang Toản lại đem tiếp viện đến Sa Lung. Ánh vừa từ chối sự trợ giúp của 2 vạn quân Xiêm cùng 50 thuyền của họ phải cho Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đức Thiện thối lui rồi rút hết toàn quân về Phú Yên, tránh đám tượng quân, bộ binh tinh nhuệ của Phú Xuân. Ở Xuân Đài, Ánh sai Tôn Thất Hội coi hết Phú Yên, phân bố Nguyễn Huỳnh Đức đóng ở La Hai, Nguyễn Long đóng ở Thạch Thành, Nguyễn Văn Nhân giữ 36 thuyền ở vũng Lấm. Về đến cửa Nha Phu (Ninh Hoà), Ánh xây luỹ Gò Xoài (Mông Phụ) (Bình Khang) để Nguyễn Văn Thành giữ. Võ Tánh đem bệnh binh, hàng binh về trước ở Gia Định. Còn Nguyễn Văn Trương thì đồn binh thuỷ ở cửa Cầu Hin để Ánh lo xây một thành Gia Định thứ hai án ngữ đường vào Nam của binh tướng Phú Xuân.
Đó là thành Diên Khánh xây trên luỹ Hoa Vông cũ. Theo sử quan, thành cao 1 trượng, chu vi hơn 510 trượng, 6 cửa, có lầu, 4 góc có núi đất. Dịch vụ cần tới 3.000 người Bình Thuận, 1.000 người Thuận Thành. Bản đồ còn ghi lại rõ với 1 chữ “Diên Khánh đại đồn”. Theo con mắt chuyên môn, nhà quân sự hiện nay có thể nhìn vào đồ hình mà phân tách được những vị trí xếp đặt y như của một ngôi thành theo kiểu Vauban. Nhưng với chỉ mắt thường, đem so đồ hình với những đồ hình các công sự ở các bản đồ quân sự Pháp, ta cũng thấy được những đường nét tương tự. Bởi vì thành Diên Khánh là của Olivier vẽ ra. Nó là em sinh sau thành Gia Định. Nhưng ở sâu vào trong một xứ vừa chiếm được, nó đóng một vai trò rất quan trọng. Nó sẽ chứng minh có đủ khả năng để làm một tiền đồn chống giữ cho Gia Định. Nguyễn Ánh có nó thấy vùng an ninh, đất đai của mình mở rộng ra, sẽ vui mừng biết có tăng tiến trên đường về cố đô.
____________________________________
1. Ở núi Càn Dương, có lẽ là kho lúa gạo Tây Sơn đã lấy hồi tháng 9-1773.
2. Ngoài Thực lục còn có thư của ô. Lavoué gởi các ô. Boiret và Descourvière từ Tân Triệu 13-5-1795 (BEFEO, 1912, t. 33), thư của Jean de Jesus Maria (BSEI, XV, t. 102, 103).
3. Thuộc làng Vân Tướng, quận Bình Khê.
4. Đồng Khánh, quyển hạ, 233, có ghi “Cù Huân đại tấn khẩu” ở ngay cửa Nha Trang. Trên vùng thành phố bây giờ là “Cù Huân tấn sở”. Vậy kho Cù Huân mà Nguyễn Ánh lập ra chứa lương là địa điểm thành phố Nha Trang. Cùng trong sách trên, một cửa biển nhỏ về phía nam được gọi là “Cù Huân tiểu tấn khẩu”. Đây đúng là địa điểm cửa Bé ở cách thành phố 2km. Phía tây nam cửa Bé là núi Cầu Hin và địa điểm Cầu Hin (còn gọi là Con Hin, Bà Hin, khác biệt vì sự chuyển âm lờ mờ ra chữ viết cố định). Vậy Cù Huân của Thực lục là Cầu Hin.
5. Hình số CXV ở BAVH, Juil-Sept 1926, “Les Français au service de Gia Long”, L. Cadière lấy tài liệu của thư viện ông Le Fèvre de Béhaine.
6. Chiến tranh vây Qui Nhơn, ngoài những tài liệu khác có ghi, đều lấy từ Thực lục q6, 21a-30a.

Chương 6
GIA ĐỊNH VÀ PHÚ XUÂN ĐỐI ĐẦU

Tiết 16
CÁI CHẾT CỦA NGUYỄN HUỆ

Con người Nguyễn Huệ * Vai trò Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính của Tây Sơn * Khó khăn của Cảnh Thịnh: sức tràn bờ của Tây Sơn ở Diên Khánh và vụ Bùi Đắc Tuyến.
Giữa những bộ mặt lịch sử xuất hiện vào hậu bán thế kỷ XVIII Nguyễn Huệ tỏ ra đặc biệt nhất. Nguyễn Ánh bền dai, kiên trì có lẽ đã làm cho một số người trầm tĩnh thán phục, nhưng lại từng là bại tướng của “ông Long Nhương”, nên có thắng trận cuối cùng cũng bớt một phần oai vũ đối với người sau. Nguyễn Nhạc thất bại ngay lúc còn sống, hình như đã thừa đến 6 năm trong thành Chà Bàn, kén may mắn hơn Châu Văn Tiếp chết trên chiến trường, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bêu đầu sau một hồi làm mưa làm gió. Nguyễn Huệ trái lại sống giữa hào quang rực rỡ của chiến thắng, chết đi ném trả cho con cháu trách nhiệm giữ cho dòng họ khỏi bị tru diệt. Nguyễn Huệ thu nhặt được tất cả những lời khen lao, từ bọn bầy tôi quen tán tụng bất cứ ai là chủ tể cho tới đám thù nghịch từng chịu điên đảo vì ông.
Về khuôn mặt, dáng người, lịch sử còn để lại bức vẽ truyền thần của nhà Thanh hoạ lúc có sứ bộ 1790. Nhưng chúng ta đều biết đó chỉ là Giả Vương. Người ta không cần chọn người giống lắm vì đã có Phúc Khang An làm tay trong gạt Càn Long rồi. Nói về khí vũ hiên ngang của một võ tướng bách chiến bách thắng thì hẳn Giả Vương đã có - nếu ta tin hoạ sư vẽ theo thực, không tô điểm thêm.
Mới đây, người ta tìm được chứng cớ rằng một pho tượng trong chùa Bộc ở Hà Nội chính là tượng Quang Trung. Việc bức tượng được cho mặc triều phục, đi hia mà lại chân trong chân ngoài chứng tỏ thái độ ngang tàng của con nhà tướng. Nhưng nếu chữ “quang trung” trên đôi câu đối đúng là chỉ ông vua Tây Sơn này thì bức tượng chắc cũng không tạc đúng hình Nguyễn Huệ vì đã phải chịu những quy luật về hình ảnh khuôn khổ của một ông Phật, ông tướng Trung Hoa: tai to, mắt xếch (đáng chú ý là trong hình Giả Vương, đôi mắt người mẫu còn nằm ngang hơn ở đây).
Trong một quyển dã sử còn lại, có một vài nét về Nguyễn Huệ có vẻ thực lắm: “Tóc Huệ quăn, mặt mụn đầy, có một con mắt nhỏ, nhưng mà cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu...”. Tóc quăn, mặt mụn, mắt không đều là dấu vết của thân xác. Nhưng câu chuyện tròng mắt có ánh sáng phát ra, ban đêm soi sáng cả chỗ ngồi là cảm tưởng của người nhìn khiếp sợ trước oai vũ của “Thượng công”.
Về cuộc đời riêng của con người này, lịch sử cũng biết được một ít, nhiều hơn những ông vua thời bình cầm đầu quốc gia bằng thế tập. Sĩ phu Bắc Hà quen với không khí tôn nghiêm, bệ vệ của Lê hoàng, Trịnh chúa đã ngạc nhiên khi thấy cảnh anh em Tây Sơn “trò chuyện, kẻ hỏi người đáp cực kỳ ôn tồn (?) y như anh em các nhà thường dân”3. Và cũng nhân dịp ra Bắc này, tướng sĩ dưới quyền được vui cười cảm thấy gần gũi ông tướng oai nghiêm ngày thường với câu nói cợt nhả: “Vì dẹp loạn mà ra rồi lấy vợ mà về, trẻ con nó cười thì sao? Tuy vậy ta chỉ quen gái Nam Hà chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng thử một chuyến xem có tốt không?”.
Người con gái Bắc Hà 16 tuổi đó cũng biết nhược điểm của bậc anh hùng nên đã dùng thế lực riêng của mình mà ảnh hưởng tới quyết định của Nguyễn Huệ khi đòi phế tự hoàng Lê Duy Kỳ, lập Sùng Nhượng công Duy Cẩn, khi thì đòi ngược lại, “mếu khóc” vuốt ve tự ái đấng trượng phu. Tình cảm mềm yếu cũng tỏ rõ mấy năm sau, khi Quang Trung “điên cuồng lên” vì một người vợ mất ở Phú Xuân.
Tấm lòng say mê đó đem đổ vào cuộc đời ông, nơi triều chính, nơi chiến trường biến thành một sức quyến rũ lôi cuốn mọi người. Dù Nguyễn Nhạc có ghét em đến dùng chữ “giảo quyệt”, “hợm hĩnh”, “kiêu ngạo”, người ta vẫn nhìn hành động của Huệ để mà thấy các hình dung từ trên không có ý nghĩa xấu khi gán cho một con “hùm (muốn) ra khỏi cũi”. Trái lại, khi bàn về Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh đang ở thế đối địch, Nguyễn Đình Giản cứng cỏi đều nhận “Bắc Bình vương là một tay anh hùng”. Khi triều thần Bắc Hà họp lại để bàn việc cử người vào đòi Nghệ An, Phan Lê Phiên loại Nguyễn Đình Giản, Phạm Đình Dư, viện lẽ “Bắc Bình vương là người rất quyệt, hay dùng trí thuật lao lung người khác, trong lúc bàn luận, khi xuống lại nâng lên người ta không biết đâu mà dò”. Trần Công Xán, viên sứ giả được đề cử sau lúc “luôn trong mấy hôm vẫn không cử được người nào”, cũng phải e dè nhận rằng kẻ mình phải thuyết là “người huyền bí khó lường”. Thận trọng dè dặt không vào thăm Lê Hiển Tông bệnh, dùng lý đó để bắt lỗi Lê Duy Kỳ sao không đợi ông vào hãy phát tang, Nguyễn Huệ thực đã hành động có chừng mực, có tính toán khiến bọn Lê thần phải nể sợ vậy.
Những chiến thắng của ông càng đưa ông lên cao trên đài danh vọng. Một cung nhân ở Thanh Hoá trong dịp Ngô Văn Sở chận núi Tam Điệp hẳn đã thấy cả hùng khí của Tây Sơn nên bày mưu cho Lê Thái hậu mà kỳ thực tóm tắt được cả dư luận Bắc Hà lúc bấy giờ đối với viên tướng “hang núi”:
“Nguyễn Huệ là bực lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là xuất thần quỷ nhập. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm sét...”.
_________________________________________
1. Bức hình có in lại nơi trang bìa 2 của quyển Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn. Đôi câu đối ở trang bìa 3.
2. “Tây sơn thuật lược”: Tạ Quang Phát dịch, Sử Địa số 9-10, t. 165.
3. Hoàng Lê, t. 92.
4. Hoàng Lê, t. 82.
5. Thư Labartette gởi cho Letondal, 6-10-1797 (A. Launay, III, 1. 244).
6. Hoàng Lê, t. 89, 90, t. 162, 163, t. 167.
7. Hoàng Lê, t. 252.

Kẻ thù của Tây Sơn ở phương Nam, tuy phải chui nhủi chạy trốn, tức giận vì vua chúa họ suýt diệt tộc trong tay Nguyễn Huệ cũng không thể nào nói khác hơn những lời khen lao được, tuy họ đã từng chê trách thậm tệ Nguyễn Nhạc. Sử quan viết: “Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo, kiệt, thiện chiến? ai cũng phải sợ... Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng vâng mệnh”.
Có thể nói Nguyễn Huệ đã dùng hào quang của mình mà che chở cho chế độ khi phong trào Tây Sơn đưa ông lên đài danh vọng. Bởi chế độ Tây Sơn quả đã phải đứng bấp bênh vì xây dựng trên một mâu thuẫn. Chúng ta đã nói rằng phong trào Tây Sơn xuất hiện vì sự giao thoa của hai nguồn năng lực lấy từ hai biến chuyển: một, bên trong là kết quả của tiến trình Nam tiến phối hợp với văn hoá phương Nam mấy trăm năm, và một, bên ngoài là sự khích động của văn minh kỹ thuật Âu tây trên đất Đại Việt.
Trong lịch sử của họ, Tây Sơn đã xô được Nam Hà rồi không tìm được đồng minh bên ngoài, bên trong lại hãnh diện vì sức mạnh quân lực, họ không tìm ra được cách tổ chức, khai thác những khả năng địa phương để tâm phục lâu dài dân chúng. Quay ra Bắc Hà, họ lại chui đầu vào trong cái rối rắm mà người trước đã gỡ không ra vì sự cằn cỗi của đất đai, vì không khí bảo thủ đã lâu đời, khó tẩy phá của sinh hoạt vua quan, dân chúng.
Chúng ta đã thấy cố gắng dung hoà giữa Tây Sơn và cựu thần Lê - Nguyễn. Nhưng sự vá víu ấy quả là tạm bợ. Bên trong chế độ vẫn chưa có sự hoà hợp. Nguyễn Thiếp chẳng hạn, tuy thấy được lối đào tạo nhân tài theo kiểu trích cú tầm chương không có ích lợi nên hô hào phục cổ. Nhưng cái giọng “tuần tự nhi tiến” quả cũng là giọng kinh văn. Không thể đòi hỏi Nguyễn Thiếp điều gì khác hơn một khi còn tồn tại cái không khí truyền thống Nho giáo đã hãnh diện có một Ngô Nho chẳng hạn, khẳng khái nói: “Đại thần vì nước gánh việc, kẻ sĩ vì người tri kỷ mà chết, đều là nghĩa nên làm như thế, ngoài ra tôi không còn biết có sự gì khác”. Chính các nho sĩ bảo thủ đã chê cười nho sĩ cải cách và giễu cợt lối học chữ Nôm do Quang Trung chủ trương.
Quân tướng Quy Nhơn cũng không chịu để lôi kéo đi xa. “Theo Chu tử”, nhưng phải dịch kinh, truyện ra chữ Nôm, thi cử lời Nôm, dụ tướng sĩ bằng chữ Nôm, điếu tang viết lời Nôm2. Chúng ta cũng thấy các bức thư chữ Nôm của Nguyễn Ánh, đã nghe lời dụ ban cho tướng sĩ ở Gia Định (1800)3, nhưng đó chỉ là phương sách tạm bợ nhất thời đối với họ Nguyễn. Trong khi đó Tây Sơn phải dùng chữ Nôm như một phương tiện diễn đạt tư tưởng chính thức, hợp với sự hãnh diện của họ. Có những tờ chiếu, sắc thần4 bằng chữ Hán trong triều đại là một mỉa mai cho quá khứ của họ, nhưng cái thế cô lập với ảnh hưởng phương Nam mà từ đó họ phát xuất khiến họ đi dần vào trong không khí các trào cũ.
Sự lưỡng lự đó làm nên yếu kém của Tây Sơn. Tất nhiên việc Chiêu Thống còn ở Trung Hoa, việc Nguyễn Ánh hùng cứ phương Nam ảnh hưởng phần nào vào sự quyết định hợp tác với Tây Sơn của các cựu thần Nguyễn - Lê. Nhưng bản chất bấp bênh của chế độ Tây Sơn cũng khiến người ta ngần ngại hợp tác, nếu không là chống đối lại.
Quân tướng Tây Sơn trong vai trò chủ động nắm vận mệnh của vùng đất họ chiếm cứ cũng tung hết khả năng trong một cố gắng cùng cực để biến đổi xã hội đang cuốn hút họ theo một khuynh hướng thoái trào. Những biện pháp mạnh mẽ đã tung ra để bảo đảm thi hành cải cách hầu như đều có kèm với sự phô trương quân lực. Triều đại Tây Sơn, do đó, có bản chất quân phiệt và chỉ có thể tồn tại bằng chế độ quân chính của họ thôi. Thực ra đám võ tướng cũng chứng tỏ được họ là những người kiểu mẫu của thời đại mới. Kiêu căng, quen dùng uy quyền đàn áp, họ khiến cho những người Anh đến thăm năm 1793 phải phàn nàn cho đời sống của người dân. Nhưng phái bộ Macartney cũng phải công bình mà nhận rằng bọn võ tưởng ít hư hỏng hơn bọn văn quan. Thêm một chứng cớ rằng bên dưới sự thanh liêm tương đối của quân đội, có một tình trạng suy đồi xã hội mà những sức phản kháng tiềm tàng có thể lợi dụng được.
Nhưng bọn võ tướng từng vào sanh ra tử vốn chỉ chịu phục tòng người chỉ huy của họ thôi. Nguyễn Huệ cùng trưởng thành với họ, với thiên tư, với tài năng đã cai trị họ cũng như thần dân dưới quyền bằng sức mạnh của khiếp phục. Do uy quyển đó mà Nguyễn Huệ đã thi hành những cải cách có khi động chạm đến cả đời sống tinh thần của dân chúng như khi tiếp tục thi hành “phụng truyền” của Nguyễn Nhạc sai phá các chùa chỉ chừa mỗi tổng một ngôi mà thôi. Giáo sĩ Labartette ở Bố Chính hơn ai hết, có đủ những điều mắt thấy tai nghe để phán đoán về chế độ Tây Sơn. Ông nói: “Một ông vua dù có ẩn ý thế nào với tôn giáo có lẽ cũng thi hành một cách nhẹ nhàng vì những lý do chính trị. Ông chắc phải sợ bất mãn gây ra loạn lạc. Không bao giờ ông có thể có đủ sức mạnh để làm điều mà bọn này (Tây Sơn) đã làm. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, họ đã quét sạch xử sở khỏi những lạm dụng nhơ nhuốc: không ai dám rục rịch hết”.

Có lẽ biết đến vai trò - không chắc quyết định - nhưng quan trọng của ông trong sự sinh tồn của triều đại, nên Quang Trung, trước khi mất ngày 29 tháng 7 Nhâm Tý, giờ Dạ Tý (11-12 giờ khuya 16-9-1792) đã đòi Trần Quang Diệu về trối trăn, dặn chôn cất cho mau nội trong một tháng rồi dời kinh về Phượng Hoàng Trung đô. “Nếu không, quân Gia Định kéo tới, các người sẽ không có đất mà chôn đâu”.
__________________________________________
1. Liệt truyện, q30, 17b.)
2. Có trích trong các sách đã dẫn: La Sơn phu tử, Quốc văn đời Tây Sơn.
3. Do An Khê sao lục trong Nam Phong, XIV: Fév, 1924, có trích lại ở Việt Nam văn học sử yếu, sđd, t. 73-75.
4. La Sơn phu tử, sđd, t. 42, đạo sắc phong thần Đỗ công đại vương trưng bày ở Hội chợ Hà Nội 1941.
5. Le séjour de l’ambassade... sđd, t. 28.
6. Thư Le Roy ở Kẻ Vĩnh (Ninh Bình), 6-12-1796 (BEFEO 1912, t. 8 ). Tờ phụng truyền được dịch trong Le peuple annamite. E. Langlet, 1912. t. 50, 51.
7. Thư ngày 12-5-1787 (RI, XIV, Juil-Déc. 1910, t. 44).
8. La Sơn phu tử, t. 160.
9. Liệt truyện q30, 47b. Thực lục q6, 7b, 8a.

Đứa bé mới lên 9, “đồ sự du hí”, làm gì biết đến sự cần thiết của những biện pháp khắt khe. Cho nên bãi lệnh mang tín bài, bỏ lệnh bắt dân lậu, việc làm tuy tiếng là nhân ái mà kỳ thực chứng tỏ triều thần Tây Sơn thiếu chủ tướng đã trở nên giải đãi, dắt nhau vào con đường cầu an, đem thêm nguy vong cho chế độ vậy.
Chế độ phân phong cho anh em đã thấy có nhược điểm ở Trung Quốc là khi trung ương không mạnh thì quốc gia dễ tan rã. Cho nên, vào năm 1793 ai cũng biết là Quang Thuỳ muốn độc lập với Quang Toản. Rồi loạn lạc nổi lên, nhất là ở Bắc Hà. “Xứ xứ tịnh khởi”, thật sử quan vẽ được trong lời, sức phản động bày tỏ khi Nguyễn Huệ chết. Ở Gia Định, tháng 7-1792, người ta còn hoảng hốt vì “tên giặc ở Huế mạnh hơn bao giờ hết và chắc chắn hắn sẽ bóp chết Vua”, nhưng cùng tháng năm sau, người ta vui mừng “kẻ thù vẫn còn, nhưng lực lượng họ yếu kém thấy rõ”.
Cho nên Ngọc Hân than khóc chồng mà như thay cả triều đại Tây Sơn khóc chúa tể:

“Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
“Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao,
“Mà nay áo vải, cờ đào,
“Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!...

“Công dường ấy mà nhân dường ấy,
“Cõi thọ sao hẹp bấy hoá công
“Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
“Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi”.

Tuy nhiên sự tan rã không phải đến tức khắc. Mười bảy ngàn quân và 80 voi ồ ạt vào cứu viện Quy Nhơn còn đủ hung hăng để người ta tăng quân số gần gấp đôi: 30.000 người, hay như Lelabousse nói 5-60.000 người.
Nhưng thành Chà Bàn không mất vào tay Nguyễn Ánh thì cũng mất vào tay Phạm Văn Hưng. Quân cứu viện đến trước thành thì thấy cửa đóng. Họ lên tiếng đe doạ thì Nguyễn Nhạc nhắm không đủ sức giữ nổi nữa nên đã mời họ vào. Tiếp sau đó là những cử chỉ nhường nhịn giả dối. Nhạc tuyên bố nhường ngôi lại và chỉ muốn sống như người thường thôi. Ban đầu họ không nhận, mời ông lên lại trên ngai ngồi để họ lạy, nhưng ông từ chối. Vài tháng sau (13-12-1793), ông mất đi, người ta nói, “vì buồn rầu và xấu hổ”. Nguyễn Bảo, con Nhạc được phong làm Hiếu công, ăn lộc huyện Phù Ly.
Như vậy là từ nay Nguyễn Ánh phải đối đầu trực tiếp với Phú Xuân. Việc Nguyễn Nhạc chắn giữ Quy Nhơn ngăn giúp được cho Gia Định sức mạnh của Tây Sơn miền Bắc trong khoảng vài năm đủ để cho Nguyễn Ánh chỉnh bị quân tướng. Tuy bây giờ thực là muộn, nhưng quân đội còn giữ được hăng hái và sức mạnh đã không chịu để Nguyễn Ánh đe doạ mình.
Cho nên, tháng 3 Giáp Dần (1794) Quang Toản lại phái Thái uý Phạm Văn Hưng và Tổng quản Trần Quang Diệu vào Quy Nhơn5. Bốn vạn quân của Hưng mới tới Phú Yên thì Nguyễn Văn Nhân bỏ chạy mặc dầu đã có lời dặn của Hoàng tử Cảnh lúc bấy giờ ở Diên Khánh bảo phải giữ.
Một đạo quân Tây Sơn theo đường núi vòng xuống Ba Ngòi định để chận lương Diên Khánh từ Gia Định chuyển ra bằng đường bộ vì 4 vạn vuông lúa do Nguyễn Văn Thành tải bằng đường thuỷ mắc ngược gió không ra khỏi Vũng Tàu. Ngày 28-4, 300 thuyền Diệu vào Nha Trang. Ngày 2-5 đã có bộ binh Hưng và 50 voi vào Bình Khang vây kín 3 mặt thành Diên Khánh - Bên trong chống giữ là Bá-đa-lộc và Hoàng tử Cảnh với lời dặn dò của Nguyễn Ánh lúc ra đi nhắc nhở sự quan trọng của ngôi thành: “Ta đêm ngày hao mòn, từng phải cay đắng mới được chút đất này đó”.

Bảy ngàn quân bên trong chống với 40.000 quân bên ngoài. Trên thành Bá-đa-lộc cho đặt thêm nhiều đại bác giả làm nghi binh. Quân Diệu ở ngoài bắn đại bác vào không hiệu quả mới đắp luỹ đất vây quanh. Trong gần một tháng không bỏ thành theo lời Nguyễn Ánh, Diên Khánh đã tiêu hao quân địch bằng cách đột kích khiến họ bị chết và phải sợ hãi. Trận lớn nhất và cuối cùng là vào ngày 21-5, quân Gia Định có 7-8 người chết cùng hơn 60 người bị thương. Bên ngoài có các tướng Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành ở Ba Ngòi, Nguyễn Long trên vùng núi. Nguyễn Văn Thành lôi Nguyễn Văn Nhân bỏ Long Cương (gò Rồng?) tới đóng Phong Lộc, cầu Dài sát vòng vây Tây Sơn.
Ngày 23-5, Tây Sơn rút lui. Nguyễn Ánh đường thuỷ và Hoàng tử Cảnh, Nguyễn Văn Thành đường bộ, lên đường truy kích địch ngay sáng hôm sau.
___________________________________
1. Hoàng Lê t. 272. Liệt truyện q30, 45b. Quang Toản tên là Trát. Thư các giáo sĩ vẫn ghi là “Hoang trot”. Tên Trát chắc là chuyển biến theo giọng Quảng Nam của một dấu vết thân xác của Toản (Toản môi trớt, theo Tây Sơn thuật lược, bđd, t. 165. P. Ký cũng xác nhận tên Hoàng Trớt trong “Souvenirs historiques sur Sai gon et ses environs”, Excursions et Reconnaissances, 1885 t 26). Phái bộ Macartney có tham dự lễ sinh nhật Vua ngày 4-6. Tính ra 4-6-1793 là ngày 26-5 Quý Sửu; ngày 26-5 Quý Mão tương đương với ngày 25-6-1783. Đó là ngày tháng, năm sinh của Quang Toản.
2. Thư J. Liot ở Tân Triệu, 18-7-1792.
3. Thư Lavoué, Saigon ngày 31-7-1793.
4. Thư Lavoué cho các ông Boiret và Descourvières, Tân Triệu, 13-5-1795, thư G.M Gortyne, Tonkin Occidental, 22-4-1794 (BEFEO, 1912, t. 32, 33). Hoàng Lê. t. 277, 78. Thực lục q6, 31ab. Liệt truyện q30, 16a.
5. Thực lụcnói Quang Toản sai nhưng ta biết (q6, 8a) mọi việc đều do Bùi Đắc Tuyên, cậu Toản quyết định. Vả lại Hoàng Lê cũng nói khi đi Qui Nhơn có Đắc Tuyên theo làm Tán nghị giữ thành. Vậy chính Tuyên vào Qui Nhơn để trông coi việc đánh phía nam, chia quyền quân quốc với Phạm Văn Hưng (Liệt truyện q30, 44b).
6. Thực lục q6, 35b. Trước đó, tháng 11 âl (3/12/1793-27/1/1794), Nguyễn Văn Thành từ Bình Khang về. Hoàng tử Cảnh ra trấn Diên Khánh với Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành, Tống Phúc Đạm, Phạm Văn Nhân. Sau đó, Ánh kêu Nguyễn Huỳnh Đức về, lưu quân Chân Lạp, Chà-và lại Diên Khánh. Tôn Thất Hội cũng về để Võ Văn Lượng. Nguyễn Long, Nguyễn Văn Nhân trấn Phú Yên có Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành của Cảnh sai phụ giúp. Thư Pigneau gởi cho Letondal từ Phú Yên, 16-6-1794 (A. Launay, III, t. 287) nói bị vây vào cuối tháng Avril. Thư Lavoué cho Letondal (A. Launay III, t 233-34) nói rõ hơn vì Lavoué lúc bấy giờ ở Nha Trang có chứng kiến trận đánh.
Thực ra Cảnh và Bá-đa-lộc ở xa trận địa đến hơn một giờ đường1, nhưng khi Tây Sơn rút lui về đồng Cây Cầy, hai người cũng trải qua nhiều vất vả. Đi trước có Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Long, Võ Văn Lượng, Mạc Văn Tô, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Văn Lợi tập kích sau lưng Tây Sơn. Con đường Hà Nhao, An Tượng men theo các hẻm núi không thể nào đi ngựa hoặc đi cáng được mà nhất định phải đi bộ và người mệt không tả được như Bá- đa-lộc đã than.
Nguyễn Ánh tới Thi Nại bèn sai Tôn Thất Hội đánh lấy Tiêu Cơ (Gành Ráng?), làng Mai lấy được 40 đại bác cùng khí giới khác. Đổi lại, Phó tướng Tiền quân là Nguyễn Văn Thư trúng đạn chết.
Thuỷ quân Gia Định mạnh mẽ thấy rõ. Trên núi Tam Toà, Tây Sơn bị cai cơ Nguyễn Đình Đắc bắt đến 800 người. Trần Quang Diệu, Đổng lý Nguyễn Văn Thận đem 8.000 binh đến bãi Nhạn, vũng Tham liền bị đánh tan. Chỉ có quân Phạm Văn Hưng, Thống lãnh Đặng Văn Chân đóng trong cửa Thi Nại là ráng cầm cự. Hoàng tử Cảnh xin hợp binh tiến đánh quân Hộ giá Nguyễn Văn Huấn đóng ở Vân Sơn, quân Kiểm điểm Trần Viết Kết đóng ở Hà Nhao. Nguyễn Ánh chỉ bảo giữ chắc ở La Hai, Hà Nhao, tăng thêm binh giữ Cù Mông bởi vì ông tin rằng khi thuỷ binh thắng thì bộ binh Tây Sơn sẽ tự tan rã ngay.
Tháng 6 âm lịch năm đó, Thuỷ quân của Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhân ra đánh Tây Sơn ở cửa An Dụ lấy thuyền lương rồi ra đến cửa Đại Cổ Luỹ (Quảng Ngãi) đánh kho Phú Đăng, đuổi Tiết độ Nguyễn Văn Giáp chạy, lấy lương rồi trở về. Trên bộ vừa được một tin quan trọng: quân Cảnh tìm được đường rừng đi vòng đến núi Chúa nơi đóng quân của Tây Sơn. Nguyễn Ánh vội sai Phạm Văn Triệu, Olivier, Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý, Nguyễn Văn Tồn với đội Xiêm binh (lính Miên) cùng Trương Văn Phượng tới tăng cường. Quân Cảnh lẻn đến tập kích phá quân Tây Sơn ở Hà Nhao, đồng Cây Cầy, núi Chúa bắt hơn 3.000 người, đuổi Trần Viết Kết chạy. Nguyễn Văn Thành vội vã truy kích bị phục binh phải rút về Hà Nhao. Sử quan không nói rõ hơn về số thiệt hại, nhưng chắc đó là cớ chính yếu để Ánh rút quân vì thuỷ quân ông cũng không thể phá vỡ cửa Thi Nại để lên núi tiếp cứu bộ binh được.
Tháng 6 âm lịch Hoàng tử Cảnh dẫn binh về trước, tháng 7 Nguyễn Ánh cho người giữ Phú Yên và tháng 9 thì về đến Gia Định sai phái Võ Tánh ra trấn Diên Khánh.
Quân Nguyễn rút thì Tây Sơn cũng theo chân mà tràn vào. Tháng 10, Trần Quang Diệu và Tư lệ Lê Trung đuổi Nguyễn Long và Võ Văn Lượng chạy về Bình Khang. Hai tháng sau thì họ tiến mạnh vào. Chuyến này Tây Sơn tỏ rõ quyết tâm và khôn ngoan mở rộng ngoại giao: họ đem vàng bạc qua cầu thông với Xiêm để cô lập Gia Định.
Nguyễn Ánh nghe Võ Tánh cho tin quân Tây Sơn đến địa đầu Bình Khang nhưng không thể làm gì hơn vì gió bấc thổi mạnh. Ông chỉ khuyên nhủ Võ Tánh cố thủ và cho Lưu thủ Bình Thuận Nguyễn Văn Tính lo tăng viện, đồng thời cho Nguyễn Huỳnh Đức làm chánh, Nguyễn Văn Thành làm phó, kéo quân đóng Phan Rang.
Trần Quang Diệu lãnh phần đánh Diên Khánh. Lê Trung tiến sâu hơn chiếm Du Lai, đuổi Võ Văn Lân được lệnh giữ đó từ tháng 10. Nguyễn Văn Tính tăng viện Diên Khánh không được phải quay về.
Trong tháng cuối năm Giáp Dần (đầu 1795). Trần Quang Diệu cố tìm cách tuyệt đường lấy nước của Diên Khánh nhưng không được. Thành này một lần nữa lại chứng tỏ khả năng phòng thủ của nó. Tây Sơn kéo lên ồ ạt bị súng trên thành bắn xuống lăn ra chết rất nhiều. Diệu lại phải đắp thành đất vây quanh và sơ hở để bị tập kích chết mất Đốc chiến Định. Tuy nhiên trong thành bắt đầu thiếu muối ăn, Đội trưởng Nguyễn Văn Trứ phải đang đêm lẻn trốn khỏi vòng vây chạy về Gia Định cáo cấp.
Trong khi đó, Tây Sơn Lê Trung tiến đánh Phan Rí khiến Nguyễn Huỳnh Đức phải lui về Phố Hài. Nguyễn Ánh vội sai Đức về giữ Ma Ly trao quyền cho Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Tính, Mạc Văn Tô ở lại chống giữ.
Đầu năm Ất Mão (1795), Tôn Thất Hội đem binh ra Phố Hài, Phan Rí ngăn Tây Sơn. Nhưng Tây Sơn kéo quân đến đuổi Nguyễn chạy về Bà Rịa. Đây là lần cuối cùng Tây Sơn xâm nhập sâu vào nội địa quân Nguyễn nhất. Nguyễn Ánh tức giận cách chức Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành, bắt trao quân cho Tô Văn Đoái để ông này theo Tôn Thất Hội giữ Ma Ly. Mặt khác, quân Miên dưới quyền Nguyễn Văn Tồn cũng được đem từ Mang Thít lên đóng ở Bà Rịa án ngữ.
Tuy gió còn ngược, Nguyễn Ánh cũng để Hoàng tử Cảnh giữ Gia Định, tự đem quân cứu Diên Khánh. Và cũng như những lần khác, thuỷ quân cũng làm thế nương tựa cho quân bộ. Tôn Thất Hội đem bộ binh đi Phan Thiết thấy Lê Trung còn ở Phan Rí nên đóng lại Xuy Miệt. Trong khi đó, Trương Phúc Luật đem thuyền đến Ỷ Na đánh kho Phan Rang lấy gạo, còn Tống Viết Phúc thì phá thuỷ binh Tây Sơn từ vũng Diễn kéo tới.
Tháng 3, Nguyễn Ánh đến cửa Cầu Hin bắn đại bác cho Võ Tánh biết tin cứu binh rồi đi ra Sử Châu (Phú Yên) phân binh chiếm Phú Yên để chận đường về của Tây Sơn. Ông cho Võ Văn Lượng giữ núi Gian Nan, Mai Tấn Vạn, Nguyễn Văn Nguyện chiếm Thạch Thành rồi phân ba đồn dài từ núi Cổ Ngựa đến Đại Lãnh (đèo Cả). Từ Phú Yên, ông tiến quân ngược về Nam, qua Hòn Khói, sai Nguyễn Văn Đắc đánh luỹ Lạp Trường4, giết Đô đốc Gia, Binh bộ Tấn chiếm lĩnh Bình Khang.
Binh thế hai bên bây giờ thực đã đến lúc cài nhau mà tranh chiến. Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Xuyên tiến phá thêm luỹ Lò Đúc (Dã Lô) trong khi Lê Trung ở Bình Thuận đánh Xuy Miệt không thành.
_______________________________________
1. Thư Lavoué cho Letondal 27-4-1795 (A. Launay, III, t. 287).
2. Theo ĐNNTC, tỉnh Bình Định, tả sông Vân Sơn thì đó là trung lưu sông Hà Thanh. Vùng này có một cái chợ nổi danh là chợ Vân Hội (chợ Cây Gia), không biết có phải địa điểm Vân Sơn này không.
3. Gian Nan là núi Cục Kịch. Còn khi nói Đại Lãnh, chắc sử quan muốn chỉ một hòn núi, vì lẽ đó có thể gọi là “đèo Cả” chứ không phải địa điểm Đại Lãnh hiện tại ở dưới chân đèo Cả, phía tỉnh Khánh Hoà.
4. Vùng Vạn Ninh bây giờ?

Tháng tư, ở Phú Yên, Võ Văn Lượng, Mai Tấn Vạn mộ được dân Thượng hai đầu đánh ép Đô đốc Tây Sơn là Nguyên, Phượng, Quế ở sông Đà Rằng. Phượng bị chém, còn bao nhiêu chạy về Hội An. Đánh lâu lương thiếu, Ánh sai Hoàng tử Cảnh bắt điền hộ nạp thêm một kỳ thuế, lính không đi đánh giặc nạp mỗi người hai vuông gạo. Lê Trung cũng thiếu lương đưa thư cầu cứu Trần Quang Diệu thì người đưa tin bị bắt. Phan Rang bị quân Nguyễn chiếm nhưng chỗ đóng binh xa đường thuỷ, mất thế tựa nên Tây Sơn lại đến đuổi chạy về Ba Ngòi.
Hai bên vẫn còn dằng co nhau. Tôn Thất Hội chiếm sông Luỹ thì Lê Trung ở sông Cạn. Thượng đạo Tướng quân Nguyễn Long đem quân xuống khe Sương làm thế ỷ giác cho Diên Khánh để Võ Tánh lẻn ra đốt trại Lê Văn Lợi từ núi Sĩ Lâm đến cầu Hoa Vông. Nhưng Tây Sơn vẫn còn vây chặt, đủ mặt Tổng quản Trần Quang Diệu, Nội hầu Lê Văn Lợi, Tiết độ Nguyễn Văn Giáp, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Kiểm điểm Trần Viết Kết, nếu không có một việc vừa xảy ra ở Huế gióng hồi chuông báo tử cho quân tướng Tây Sơn.
Như chúng ta đã phân tích ở trên, Nguyễn Huệ mất đi, bọn quân tướng quen dưới quyền sai phái của một người chỉ thấy lệ thuộc nhau như những kẻ ngang hàng mà thôi. Cho nên ta đã thấy Nguyễn Hữu Chỉnh hục hặc với Vũ Văn Nhậm, Nhậm khinh lờn Ngô Văn Sở đem đến kết quả thảm thương. Đến bây giờ, Thái sư Bùi Đắc Tuyên mà tên chưa từng nghe đến trong chiến trận và tuổi đến 80 thì làm sao cai trị nổi bọn võ tướng dày dạn, sung sức?
Đắc Tuyên từ khi làm Thái sư thì lấy Thiền Lâm tự làm phủ riêng, mọi việc triều chính đều xét xử ở đấy (Rõ là lối làm việc co rút của một ông già). Ông lại tự quyền sanh sát. Kẻ bất mãn tăng lên, lại có dịp để kết tụ âm mưu.
Trần Văn Kỷ trên đường phát phối ra Bắc Thành gặp Vũ Văn Dũng ở trạm Mỹ Xuyên, bèn nói ít lời xúi giục. Dũng về Phú Xuân mưu với Thái uý Phạm Văn Hưng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn giả tiếng đem quân tế cờ rồi thừa đêm tối ập tư dinh bắt Đắc Tuyên. Tuyên trốn trong phủ Quang Toản, Vũ Văn Dũng đem quân đến đòi, dìm nước cho chết. Ngô Văn Sở ở Bắc thành, Bùi Đắc Thận, con Tuyên, và Ngự sử Chương, hơn 10 người đều bị luỵ. Chưa hết. Vũ Văn Dũng còn để Nguyễn Văn Huấn đem 500 quân trấn giữ Quy Nhơn để án ngữ phản ứng của Lê Trung được coi là bè đảng Bùi Đắc Tuyên và cũng trông chừng luôn Trần Quang Diệu, người mà mối liên lạc thân tộc với Bùi Đắc Tuyên qua Bùi Thị Xuân thật không thể chối cãi.
Việc rõ ra là một mối nứt rạn thật lớn lao, đe doạ cả tương lai Tây Sơn.
Đang vây Diên Khánh, Trần Quang Diệu nghe tin, sợ vạ cho mình bèn họp các tướng bàn quay về dẹp loạn bên trong rồi sau sẽ trở lại. Nhưng quân Nguyễn đã chận ở mặt sau chắn nơi Lão Lãnh, Đại Lãnh, Gian Nan Lãnh. Cuộc rút lui cũng thật là gian nan.
Tháng 6, Trần Quang Diệu không qua sông Thị Nghi được tuy có toán quân của Nguyễn Văn Huấn được tiếng là vào Đà Rằng để trợ thanh thế. Lê Trung ở Do Lâm4 phải bại binh leo lên thuyền chạy một mình về Diên Khánh. Họ họp nhau tiến đánh Gian Nan Lãnh nhưng không qua được đồn binh của Võ Văn Lượng chận ở đó.
Trong khi đó, quân Diên Khánh ở trong thành đã bắt đầu mỏi mệt. Võ Tánh, tướng sĩ đều mắc bệnh. Quân Nguyễn phải lo tấn công gấp rút. Vị trí của Tây Sơn trên núi Kho không chiếm được. Nhân bắt được tên du binh Nguyễn Văn Nho của Tây Sơn xin đi làm hướng đạo, quân Nguyễn tổ chức đánh phá. Đêm đến, 300 người lội qua sông Ngư Trường5 cởi áo bò lên đốt trại, theo sau có đạo binh hò hét tiếp sức. Thành Diên Khánh được giải vây trong dịp này.
Nhưng Tây Sơn vẫn chưa lui được. Gian Nan Lãnh có thêm quân Nguyễn Ánh giữ chặt. Trần Quang Diệu dẫn quân vây Tu Bông6 bị súng lớn bắn cản đường tiến của voi. Vừa Nguyễn Văn Thành đem quân tiếp cứu, Tây Sơn bỏ chạy.

Rốt lại, Trần Quang Diệu theo đường núi Như Tráp mà về Quy Nhơn.
Đem quân về thẳng An Cựu, Diệu đóng quân bờ nam sông Hương. Vũ Văn Dũng mang quân bản bộ cùng Nội hầu Tứ lấy lệnh Vua chống lại. Cả hai đều sai dâng biểu lên Quang Toản tố cáo tội lỗi lẫn nhau. Sứ Vua ra bảo 2 người vào chầu thì họ đều xin y như lời biểu của họ đã rồi nhiên hậu mới bỏ quân. Tình thế đương găng thì Phan Huy Ích đã thảo một tờ chiếu giảng hoà7. Lý luận thuyết phục nhắm vào việc làm cho hai tướng nhận rõ mối nguy hại từ bên ngoài đưa tới, nhận rõ vai trò trọng yếu của họ trong việc giữ gìn, chống đỡ chế độ, trách họ đã đem việc công làm việc riêng, không chịu để triều đình thu xếp mà lại dùng binh ép Vua phải làm theo lời họ. Mềm mỏng, chặt chẽ, nhưng tờ chiếu cũng lộ ra mối lo sợ tan rã của kẻ chỉ huy yếu ớt khi nhắc đến việc bỏ qua tội bất tuân triều mệnh, phân trần không có lòng hại tướng thần và dè dặt chận trước việc có thể xảy ra là hai bên mang quân bản bộ bỏ đi. Thực là quá xa cái thời Quang Trung đòi “giết hết những kẻ nhị tâm, không tha một người nào”.
Người chết không sống dậy được thì người sống phải tự lo. Cuộc triều kiến đưa đến kết quả giảng hoà. Bốn người chia nhau quyền binh làm Tứ trụ đại thần.
Theo nhận xét của người đồng thời, “họ đều là những tay có tài trị nước, can đảm và được dân chúng tín nhiệm”8. Nhưng đổ vỡ đã xảy ra rồi thì khó hàn gắn được. Người chịu nạn trước tiên là Trần Quang Diệu, viên tướng biên thuỳ mà ở Kinh đô thì như con chim bị cắt cánh. Ông bị dèm pha, tước hết binh quyền chỉ còn cái chức hư không ngày đêm bên điện. Tướng sĩ tan rã, chán nản tới nỗi có kẻ lộ manh tâm hàng đầu như Lê Chất (1797) mà Lê Trung chỉ tìm cách cảnh cáo chứ không trừng trị hay ít ra tìm cách loại đi để bớt hại.
Thế rồi loạn Nguyễn Bảo làm chết Lê Trung. Thượng thư Hồ Công Diệu dèm pha chết Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn. Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng kết phe với Lê Văn Thanh định hại sủng thần Lê Văn Ứng của Quang Toản. Tất cả những rối loạn đó xô đẩy nhà Tây Sơn mau sụp đổ hơn, nhưng đều đã hiện ra từ đêm 29-7 Nhâm Tý lúc một ngôi sao vừa tắt vậy.
_____________________________________
1. Thực lục: Đà Diễn; nhưng ĐNNTC, q10, Phú Yên, 11b: “Đà Diễn cũng gọi là Đà Rằng”.
2. Một nhánh tả ngạn của sông Luỹ, thượng lưu được gọi bằng một tên quen thuộc vì chảy qua một nhà ga cùng tên: sông Mao.
3. Thực lục q7, 33ab; Liệt truyện q30, 46ab; Hoàng Lê, t. 278. gọi trạm Hoàng Giang, Thái bảo Hoá thay vì Mỹ Xuyên, Nguyễn Văn Huấn. Một chứng nhân đương thời, Lapavée, thì lại cho rằng Bùi Đắc Tuyên muốn giết 3 con Quang Trung (Quang Thuỳ, Quang Toản, Quang Bàn?) để cướp ngôi cho con ông (Bùi Đắc Thận?) nên mới âm mưu với Ngô Văn Sở để hành dộng. Sứ giả gởi đi bị Vũ Văn Dũng chận lại. Âm mưu vỡ lở (Sử Địa số 13, t. 160-161).
4. Có thể là Karom, tiếng Việt bây giờ là Du Long (Ninh Thuận). Ta biết địa điểm Ma Lâm (Bình Thuận) cũng được bình dân gọi là Mằng Long.
5. Núi Kho là hòn Trại Thuỷ ở Nha Trang, hiện có đặt Kim thân Phật tổ. Sông Ngư Trường là phân lưu của sông Cái chảy xuống cầu Hà Ra (Nha Trang). Xét theo diễn tiến trận đánh và vị trí các nơi liên hệ thì quân Nguyễn từ mặt bắc đánh vào.
6. Chữ của Thực lục là Tu Hà . Chúng ta nghĩ Tu Hà giống chữ Tu Hoa đã sinh ra chữ Tu Bông bây giờ. Vậy Tu Bông không phải từ chữ Tụ Phong mà ra.
7. Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm. Quốc văn đời Tây Sơn. sđd, t. 26-31, đề là “Dụ Nhị Suý Quốc âm chiếu văn”.
8. Thư Le Gire gởi các ông Boiret, Chaumont, Blandin, từ Kẻ Tương (nam Quảng Bình), 12-1-1796 (BEFEO, 1912, t. 36).

Tiết 17
DAO ĐỘNG Ý THỨC HỆ Ở GIA ĐỊNH

Cơ sở tín ngưỡng và đại giá của tiếp viện Tây phương ở Gia Định * Dao động ý thức hệ và cuộc tranh chấp quanh cá nhân Hoàng tử Cảnh * Ảnh hưởng cuộc tranh chấp tương ứng với việc tổ chức quan lại * Ảnh hưởng cuộc tranh chấp tương ứng với tiến triển quân sự.
Trong phần bàn về sinh hoạt tinh thần của dân chúng đương thời, ta đã điểm xét qua những tín ngưỡng. Chúng ta đã nói đến Thần giáo, Phật giáo bị Nguyễn Ánh ngăn chặn hoạt động. Nhưng điều đó một phần có nghĩa là chính quyền trừ khử bớt những hành vi tiêu cực cản trở việc tổ chức xây dựng Gia Định: Bắt bà đồng bỏ nghề đi xay lúa, giã gạo, cũng như bắt người Miên làm biếng ham chơi phải đi lính.
Cho nên cơ sở tín ngưỡng thông thường của dân chúng vẫn còn vững chắc. Thái hậu, Hoàng hậu sinh ra Hoàng tử Cảnh đều có thờ Phật. Cuộc sống tu hành khuất lấp, dửng dưng, có vẻ vô tội đến nỗi một người điềm chỉ cho Ngô Văn Sở đi bắt Chiêu Thống, đã tỏ cái dễ dàng của công việc bằng một câu ví tức cười: “Như vào chùa trói một lão sư đi mà thôi”.
Chính yếu của tín ngưỡng đó là sự tin vào con người có linh hồn, không phải là một thứ linh hồn vô tội, như một xuất hiện của bản ngã mà là một thứ linh hồn có quyền phép, có xúc cảm. Tín ngưỡng đó, ta còn thấy chung quanh ta, nhưng nghe một L.M tả cảnh xài phí của đám chuyển linh cữu Trịnh Sâm về Thanh, ta biết rõ hơn những điều đã gây nhạc nhiên cho người ngoại quốc:
“Vào tháng giêng 1783, người ta mang xác Chúa đến mộ, xa kinh thành vài ngày (...). Người ta khó mà tưởng tượng được đã tiêu phí như thế nào cho đoàn rước ấy. Ngoài một số nhiều bàn dọn ê hề mọi thứ đồ ăn cúng cho người chết mỗi ngày nhiều lần và phải suốt 3 năm theo tục lệ người ta thấy khắp chỗ vải vóc, tơ lụa quý báu để trang trí phần mộ và những cơ sở mê tín xây lên cho người chết.
Vàng lóng lánh trên ghế, trên kiệu, và trên mọi đồ dùng tang lễ; nhiều chiếc thuyền lớn đều lát vàng. Tất cả những gì tráng lệ đó cũng như tất cả những đồ dùng thường ngày của Chúa đều thiêu đốt đi để Chúa dùng bên kia thế giới”.
Thế giới đó, nơi trú ngụ của linh hồn người thường dân, là địa ngục, là âm phủ. Thế giới chúng ta sống là hạ giới. Khoảng vô hình quanh ta có những con ma ở kinh Đôi Ma trêu ghẹo quân lính Tây Sơn, con tinh, ông thần phò hộ cho người chài lưới Đà Nẵng được mùa cá. Còn linh hồn Trịnh Sâm chắc là lên thượng giới, nơi có Thượng đế, ông trời với cả một triều đình y như dưới này vậy.
Trên mảnh đất Đại Việt những bè phái có chống đối, chém giết nhau nhưng cũng đều chia xẻ tin tưởng ấy, rõ ràng hay mơ hồ, tràn trề tình cảm tôn kính sợ hãi hay cứng cỏi trong lý luận là còn tuỳ từng người. Nguyễn Ánh và Trịnh Hoài Đức đều ý thức rõ ràng nước ta không lấy Phật giáo làm quốc giáo như Xiêm mà gọi vua là Thiên tử, Thiên vương. Nguyễn Nhạc của Tây Sơn, giản dị, xuề xoà hơn, để cho dân chúng gói mình là “vua Trời”.
Những ngày còn cướp bóc, phải phá nhà thờ, lấy chuông chùa, Tây Sơn vẫn giữ tục lệ thông thường như L.M Ginestar cho biết: “Bọn vô thần cấm tất cả mọi tôn giáo hành lễ trừ đạo đời Lê, nghĩa là đạo Trời dạy những gì là thiện và những phép tôn trọng tổ tiên”.
Chiếm được quyền rồi, họ chấn chỉnh đạo Phật nhưng cũng khoan dung với Thiên Chúa giáo, tuy rằng những khó khăn từ ngoài đưa tới và thái độ hướng về cựu Nguyễn của các giáo sĩ sẽ làm cho họ dè dặt hơn. Triều đại họ, như đã phân tích, vẫn phải kiếm lấy sức mạnh ngoài ảnh hưởng Tây phương, ảnh hưởng mà họ cố gắng thâu nhận cho hợp một phần với bản chất thương mại nội địa của tập thể họ dắt dẫn lúc ban đầu. Họ đã thất bại trong toan tính đó và kỹ thuật Tây phương lại dồn về cho một ông Hoàng còn sót lại của chúa Nguyễn Nam Hà. Chúng ta đã thấy sự hiện diện của người Tây phương, thương nhân cũng như giáo sĩ ở Gia Định. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, nước Đại Việt thu nhận một giám mục cố vấn cho Vua, trông coi Chế tạo cục, có các giáo sĩ giảng đạo công khai, theo quân đội chiến thắng thu tín đồ ở nhưng vùng mới chiếm (trường hợp các giáo sĩ Lavoué, Boisserand, Lelabousse ở Diên Khánh năm 1794), có các binh sĩ Âu xây đắp thành trì, huấn luyện sĩ tốt, xây dựng một cơ cấu thuỷ quân làm mưa làm gió trên mặt biển Đông, loại trừ các thuỷ quân địch lẫn bọn giặc cướp Mã Lai, Tàu Ô làm trở ngại giao thương trên mặt biển.
Nhưng họ ở đây mang một nề nếp sinh hoạt, suy tưởng khác hẳn với chung quanh. Họ kiêu hãnh với kỹ thuật quân sự, tổ chức tiến bộ hơn nên thường tỏ thái độ kẻ cả - thái độ tuy vậy cũng được biện chính một phần nào. Đối lại, Nguyễn Ánh cùng binh tướng cũng đã từng chiếm được Gia Định trước khi họ tới, nên ý thức được địa vị chủ nhân ông của mình, khăng khăng bám lấy tin tưởng có sẵn. Cho nên trong khi Tây Sơn đang ở thế tan rã thì Gia Định cũng trải qua một cuộc khủng hoảng vì sự lớn lên của họ. Cơn khủng hoảng bắt đầu kín đáo từ 1789 nhưng bùng nổ quyết liệt vào 1794, 1796 và lan đến 1798, 1799.
Đầu tiên phải kể đến phản ứng trong dân chúng. Ở nơi này cũng như ở nơi khác trên mảnh đất có chiến tranh này, các giáo sĩ đều ghi những trường hợp trở-lại-đạo từ một ông thầy phù thuỷ, cô gái quê đến một người cô (dì?) của Nguyễn Nhạc, và ở Gia Định, một bà thứ phi của Nguyễn Ánh. Nhìn sự tiến triển đó với cặp mắt khoan dung là một chức việc làng có uy tín, một người cậu của Quang Toản (Trần Quang Diệu?) “tay chiến tướng giỏi nhất trong phe từ Bắc Hà tới Nam Hà”, và chót hết, Nguyễn Ánh6. Nhưng đã có những chống đối.
____________________________________
1. Hoàng Lê, t.211.
2. Thư Giáo sĩ Serard, 6-1783, RI, XIII, t. 521.
3. Thư trích trong La guerre et la révolle, bđd, t. 91.
4. Thư J. Liot cho các Giám đốc Chủng viện Phái đoàn Truyền giáo, ngày 20-6-1795 (A.Launay, III, t.237).
5. Thực lục chẳng hạn, q6, 10a, đầu 1793; đáng chú ý ở q8, 27a, tháng 8 âl 1796: “Giặc Chà-và đánh Kiên Giang. Nguyễn Ánh sai Nguyễn Đức Xuyên đánh ở Hòn Tre giết giặc, đoạt thuyền; từ ấy Chà-và sợ mất vía không dám xâm phạm, đường thương mãi được thông suối vậy”. (chính chúng tôi nhấn mạnh).
6. Rất nhiều trong A. Launay, tập III, sđd.

Tây phương từng tìm cách khoe khoang khoa học của họ, như trường hợp của ông Boisserand làm nảy tia lửa điện trước mặt các quan “như tay phù thuỷ”, bắn ít phát súng lục trong điện vua, thả một quả khí cầu, và như các giáo sĩ khác, có chữa một ít bệnh cho dân chúng. Do đó, người ta đồn rầm lên là các giáo sĩ móc mắt người bệnh ra, nhét bông vào đó và dùng mắt làm ngọc cùng các vật dụng đẹp đẽ khác. Một ông quan dám đoan chắc với Nguyễn Ánh là có việc ấy ở nhà thờ.
Sự chống đối vì khác ý thức sinh hoạt có khi được lồng trong cuộc tranh đấu Nguyễn - Tây Sơn. Đồ đảng Tây Sơn có người tên là Phó Tín từ Bình Thuận vào Vĩnh Trấn giả bộ cảm vì uống thuốc tây và quả quyết rằng người Âu mưu bắt dân Gia Định để móc mắt. Bị tra tấn mới lòi ra rằng người Âu không can gì vào đấy hết. Có một người mướn anh ta với 80 người nữa để loan tin ấy ra. Phó Tín cùng 7-8 người đồng đảng bị giết1.
Việc quấy rối Gia Định do chủ trương của một triều Tây Sơn yếu ớt như của Nguyễn Nhạc, sở dĩ xảy ra được vì chính đã gặp lúc dân chúng hoang mang, nghi ngờ. Hiện tượng này tất nhiên cũng có ở bộ máy trung ương.
Mọi cuộc tranh chấp ở đây xoay quanh việc giành giựt linh hồn Hoàng tử Cảnh. Các quan triều cố giữ lấy đấng trừ nhị của họ trong khuôn khổ tư tưởng thịnh hành của quốc gia. Trong khi đó, các giáo sĩ, nhất là Bá-đa-lộc, hi vọng ở ông hoàng này tương lai sẽ thành một Constantin le Grand Đông phương.

Họ càng nhiều tin tưởng hơn khi Hoàng tử Cảnh qua 4 năm tuổi thơ sống bên Bá-đa-lộc, cũng như những đứa trẻ khác đã theo khuynh hướng tự nhiên mà hướng về Thiên Chúa giáo. Mới đặt chân về Gia Định, Cảnh đã tỏ lộ những tư tưởng, hành động gây rối loạn trong triều làm cho Pigneau, Lelabousse mừng nhảy lên, viết thư khoe khoang ầm ĩ2 rằng “lòng thành kính của Cậu đối với Đạo càng ngày càng phát triển” và “ở đây cũng như ở Pháp, Cậu tiếp tục cho ta thấy hi vọng nhiều”.
Trong buổi lễ trình diện trước bàn thờ tổ tiên sau những năm vắng mặt, Cảnh nhất định không lạy “những con quỷ sứ” vì “ông bà đã chết rồi không thể trở về hưởng được”. Cảnh có thể nghe theo lời Phụ hoàng lạy bất cứ ai còn sống chớ không thể theo các tục lệ mê tín đó được. Những dỗ dành, hai ba cái tát tai của Hoàng hậu không lay chuyển được ý định đó và rốt lại Nguyễn Ánh phải lạy thay con mà cảm thấy ngượng trước triều thần vào con đường phản kháng, Cảnh vẽ hai dấu thập tự trên tượng Phật của Hoàng hậu mà kiêu hãnh rằng mình cũng như Phật đều từ Ấn Độ tới. Và ghép chung các tôn giáo khác vào đạo Thần tượng, Cảnh đã chỉ cho mẹ cậu trét phân bò trên tượng Thích Ca như cậu đã thấy làm ở một giáo phái nào đó.
Những tin tưởng của cậu bé 8 tuổi này có vẻ có căn bản lắm. Trong khi Hoàng hậu cho rằng chính cha cậu đã có quyền sáng tạo nên vạn vật, thì cậu nằng nặc quyết người đó phải là “Đức Chúa ở trên trời”, bởi vì rõ ràng là cha cậu đã không đẻ ngay được một bầy 2000 con voi để chống với 300 voi Tây Sơn. Cậu hứa sẽ lấy một vợ thôi, vì Chúa đã sinh “có bao nhiêu đàn ông thì có bấy nhiêu đàn bà”. Lúc đi ngủ, Cảnh lén đọc kinh lầm rầm. Pigneau không trực tiếp xúi giục mà lâu lâu lại dặn dò rằng đừng quên Chúa nhất là buổi chiều và buổi sáng. Chiến thuật khôn khéo đó được tung ra vì Pigneau thấy phản ứng của các quan, hoàng tộc và vì nó tỏ ra có hiệu quả ở lời đinh ninh cửa Cảnh: “Tôi không muốn làm vua và tôi muốn mai này trở về Pháp ngay nếu không có ý định làm cho cả dân tôi trở lại đạo đã giữ tôi lại”.
Triều đình hoảng hốt, Nguyễn Ánh tức bực, nhưng già dặn, trầm tĩnh như bà Thái hậu thì thấy khác. Yêu quý cháu nội, ngăn không cho Hoàng hậu đánh con, bà nói: “Có gì lạ đâu con, thằng bé vừa mới về chưa nhận được chút giáo dục phong tục của ta, chỉ thấy toàn những điều trái lại thì làm sao nó làm theo lời ta bảo được. Để yên rồi lâu ý tưởng nó sẽ giống như của chúng ta”. Lelabousse bảo bà ta lầm. Nhưng thực vậy.
Hai năm sau, ông cũng như Pigneau hoảng hốt viết thư báo động. Qua lời tâu xin của các quan, Nguyễn Ánh đem Cảnh về dạy dỗ. Ở giữa “một triều đình ngoại đạo, sống theo quy tắc của các thầy ngoại đạo, xung quanh có các viên Thượng thư Satan làm đủ cách để phá hoại sự vô tội của Cảnh”, cậu Hoàng tử này trở về đời sống khuôn khổ của tầng lớp và dân tộc cậu.
Ngày Giáp Dần, tháng ba, Quý Sửu (30-4-1793), Nguyễn Ánh làm lễ phong Cảnh làm Đông cung, xây Thái học đường, đặt Đông cung Phụ đạo dạy Cảnh học hành. Một Thị giảng Giáo sư, hai Hàn lâm Thị học phụ tá, tám Quốc tử giám Thị học làm bạn, sáng chiều nhóm giảng kinh sử. Hai người được kể làm Thị giảng là Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định. Và chính Ánh bắt các quan ghi lời Cảnh nói, hằng tháng dâng lên ông kiểm soát để biết con học hành tấn tới ra làm sao.
Tuy vậy, Ánh một mặt theo thiên tính, giáo dục vẫn quý trọng Bá-đa-lộc, một mặt cũng nhận thấy còn cần có người này để mở rộng kiến thức con mình, để giữ vững tinh thần quân sĩ, uy thế quốc gia, nên nhân dịp này bắt Cảnh lạy Bá-đa-lộc 4 lạy bảo đối đãi như bực sư phó. Tất nhiên sự hiện diện của Pigneau bên cạnh Cảnh cứ cành ngày càng làm cho các quan khó chịu. Cho đến khi nổ bùng ra vụ mà chúng ta gọi là vụ Tống Phúc Đạm.
Cho Cảnh ra giữ Diên Khánh, Nguyễn Ánh có dụng ý bắt các tướng vì sự hiện diện đó mà không bỏ thành chạy khi Tây Sơn tiến đánh. Nguyễn Ánh cũng nài nỉ Pigneau đi theo để tăng uy thế. Trong đám tướng cùng ra Diên Khánh có Giám quân Tống Phúc Đạm. Theo Liệt truyện, chính Đạm đã bày mưu dùng kế phản gián chia rẽ Phạm Văn Sâm và Nguyễn Lữ trước kia.
_____________________________________
1. Thư Lelabousse cho Letondal, 24-5-1791 (A.Launay, III, t. 291, 292); Thực lục q5, 18b, chuyện tháng 2 âl 1791; lời chú (a) của De la Bissachère về bài hịch của Quang Trung đã dẫn.
2. Thư Pigneau cho Letondal, 11-8-1789, thư Lelabousse cho M.... 13-12-1790 (A, Launaỵ, III, t. 277-281).
3. Thư Lelabousse cho Grine, 6-1792, cho Letodal, 17-6-1792; thư Pigneau cho Boiret, 18-6-1792; thư Guillet cho Boiret, 20-6-1793, Lelabousse cho Boiret 6-1793 (A.Launay. III, t. 283-285).
4. Thực lực q6, 14b, 15ab.
5. Thư Lelabousse cho Letondal, 12-6-1793 (A-launay, III, t.289) có câu Nguyễn Ánh bảo Cảnh: “Le Maitre est plus ton père que Moi”, đó là thứ bực Sư, Phụ của Nho giáo: Thực lực, q11, 16a.
6. Việc xác định danh tính Tống Phúc Đạm trong vụ cũng như sự việc xảy ra lấy ở Thực lực q6, 35a, Liệt truyện q8, phần cuối: truyện Tống Phúc Đạm, thư Lavoué cho Letondal, 21-4-1795 thư Pigneau cho Boiret, 30-5-1795 (A.Launay. III t. 301-305)

Pigneau nhận xét, bảo Đạm là người “nghiêm trang, trịnh trọng, cần mẫn và giản dị”. Trong 8-9 tháng cùng Pigneau thảo luận, trao đổi tư tưởng về Khổng giáo, ông đã bị Pigneau quyến rũ, đến nỗi tâu xin Vua bỏ một số nghi lễ ở Triều đình mà ông cho là mê tín, theo như quyết nghị của Giáo hội La Mã về “nghi lễ Trung Hoa”, đến nỗi sau khi giải vây mắc bệnh không về Gia Định được mà ông cứ nằng nặc quyết gặp Giám mục để phải bị chết dọc đường.
Muốn hiểu rõ thái độ này của Tống Phúc Đạm đã gây xúc động cho các quan như thế nào, ta phải phân biệt trường hợp Hoàng tử Cảnh và trường hợp Tống Phúc Đạm. Đạm là bậc huân cựu đại thần, tuổi đã lớn (59 tuổi lúc xảy ra chuyện), tư tưởng khuôn sáo đã thành nếp thế mà bị thuyết phục trong vòng không đầy một năm, thì cậu bé Hoàng tử sẽ ra sao nếu cứ luôn luôn ở bên Pigneau? Năm 1789 còn bảo Cảnh nhỏ bé, chưa từng ở quê nhà nên dễ nhiễm ý tưởng của Pigneau chứ rồi đây Cảnh càng ngày càng lớn, càng độc lập trong tư tưởng đã được uốn nắn một lần rồi mà nay lại theo Pigneau thì nguy hại biết mấy.
Các quan, và cả Nguyễn Ánh nữa đã thấy đe doạ mất tin tưởng truyền thống, quyền lợi riêng tư, một khi Cảnh bị lôi kéo như Tống Phúc Đạm. Gọi là các quan bị đe doạ mất quyền lợi riêng tư, thực đúng như Pigneau đã nói. Nhưng ta cũng khó tách biệt rõ ràng phần tranh đấu cho quyền lợi và phần phản ứng nào bị thúc đẩy bởi va chạm tín ngưỡng.
Ngày Cảnh không lạy ông bà, Nguyễn Ánh đã tìm gặp Pigneau1 để phàn nàn sao Thiên Chúa giáo dạy tín đồ quên ông bà. Pigneau cãi rằng: “ở xứ này, thờ cúng ông bà vì tin rằng ông bà nhận lạy, ăn cỗ bàn, phù hộ con cháu sống lâu, giàu có”. Vì lối thờ cúng đó nghịch với sự thực không được đạo ông công nhận là lẽ tất nhiên. Nhưng Nguyễn Ánh biện bác rằng Pigneau chỉ bằng vào tin tưởng của dân chúng, lúc nào và ở đâu cũng đầy tính cách dị đoan hết. Sự thực ông tin rằng lễ bái chỉ là chứng cớ để cho con cháu nhớ ơn cha mẹ, ông bà: “Khi tôi đi đến các chỗ lễ đó, tôi nghĩ rằng nếu tổ tiên tôi còn sống, tôi muốn đền đáp công ơn trong muôn một. Để chứng tỏ ý nghĩ tôi chân thành và có hiệu quả, tôi muốn ngay bây giờ làm những điều như là ông bà tôi còn sống. Tôi biết rằng họ không còn nữa và những điều tôi sắp làm không có ích lợi gì cho họ cũng như cho tôi. Nhưng tôi muốn tỏ cho mọi người biết rằng tôi không quên họ”. Lý lẽ đến đây thì không còn thuần là tin tưởng mà lợi ích công cộng đã xen vào Tục thờ cúng ông bà có liên quan đến trật tự xã hội, uy quyền của Nguyễn Ánh.
Pigneau gọi là dị đoan lễ rước ông bà cuồi năm, tục đốt vàng mã, lệ thờ thần chủ coi như là nơi trú ngụ của linh hồn người khuất. Nguyễn Ánh cho rằng không thể bỏ được vì sợ gây loạn. Ông nói: “Tôi đã cấm phù thuỷ, thiên văn, tôi đã coi đạo Thần tượng là xấu và sai, nhưng tôi phải giữ đạo thờ ông bà như tôi đã trình bày, vì theo tôi đó là một trong những căn bản giáo dục của xứ tôi”. Nguyễn Ánh xin Pigneau cho bọn tuỳ tướng Thiên Chúa giáo của ông được theo các cuộc lễ như mọi người, khỏi có hại cho uy tín của ông. Chỉ có một chút đó thôi được thoả mãn là không ai ngăn họ tiến lên những địa vị cao cả.
Thế mà lời yêu cầu không được chấp thuận. Tám năm sau, Nguyễn Ánh trong một lúc muốn dùng áp lực bắt Pigneau ra Diên Khánh lần nữa, đã cưỡng ép một ông quan lạy bài vị các tiên chúa với lý luận: “Ta nuôi ông lâu rồi, ban ơn phúc danh vọng cho ông nhiều rồi, sao ông không chịu lạy các đấng khuất của Ta (...), ông không từng lạy các thánh sao? Họ cũng đã chết rồi và không trở lại nữa. Ta cũng không tin rằng ông bà Ta hiện có trong đền, rằng họ có thể trở về đó ăn uống, nhưng chỉ lạy để tỏ lòng biết ơn của Ta trước mọi người thôi (...). Ông muốn Ta gởi đi Xiêm để phật vương bắt lạy Phật không?”2. Điều khó khăn này các giáo sĩ cũng thấy là tế nhị. Những bức thư gửi đi3 đều lưu ý đến tính cách thế tục, không có ý nghĩa tôn giáo của việc lạy xác, thờ cúng, và họ vạch ra rằng ở Pháp vua chết đi được liệm tử tế, đơm cơm để vài ngày mà không ai cho là mê tín cả.
Ông Boisserand kể lại cuộc hội đàm 1789 trên của Nguyễn Ánh, Bá-đa-lộc và tiên đoán rằng nếu người ta bài bác “thì sự thù hằn tăng thêm và mê tín càng vững chắc”. Các giáo sĩ lại chống đối tất cả những tục lệ có sẵn mà họ cho rằng theo “nghi lễ Trung Hoa”. Ngày đầu năm, mỗi vùng đều có góp tiền “theo dị đoan” để làm lễ Kỳ Yên, cầu cho quốc thái dân an. Pigneau sai Liot đề nghị hai người có uy tín, có ơn cũ với Nguyễn Ánh đến xin miễn cho những người Công giáo khỏi bị rầy rà, thì được trả lời theo kiểu “phép vua thua lệ làng”: “Nếu các nơi không đòi người Công giáo phải nộp tiền thì tuỳ họ, nhưng nếu họ bắt buộc thì họ có quyền vì đó là tục lệ lâu đời rồi”. Chưa hết, trong khi Pigneau đi Diên Khánh với Lavoué, Boisserand, Lelabousse, Nguyễn Ánh có sai trùng tu Văn Miếu, các giáo sĩ họp lại cử Hồ Văn Nghị và J.Liot vào tâu Hoàng hậu xin góp tiền cho quốc gia chớ không góp tiền xây cất Khổng miếu. Nguyễn Ánh bác đi vì cho rằng đó là dịp mọi người trả ơn cho người sáng lập, dạy dỗ đạo lý chữ nghĩa. Ra về, các giáo sĩ gởi thư đi các nơi bảo “cương quyết” không nạp. Liot ở lại thúc đẩy tinh thần các quan. Nguyễn Ánh phải chịu bỏ qua trường hợp một viên tướng cứng đầu. Và ở trong dân gian, các tín đồ cũng noi theo gương đó mà cưỡng lại4. Uy quyền vị chúa tể bị xâm phạm nặng nề.
Như vậy, luôn luôn có những ganh ghét, thù hằn ngấm ngầm sôi sục. Nó chỉ bùng nổ khi bọn sĩ phu Gia Định thấy bị đe doạ thật sự. Đó là khi Tống Phúc Đạm xoay chiều. Và khi họ tấn công thì gặp được dịp tốt.
_______________________________________
1. Thư Gpigneau cho Letondal, 17-8-1789 (A.Launay, III, t.320, 321).
2. Thư Pigneau cho Boiret, Saigon, 12-4-1797 (A.Launay, III, t. 311).
3. Thư Boisserand, 11-8-1789, thư Pineau cho Boiret, 15-6-1798, Pineau - Labartette, 5-6-1796, Labartette (ở Bố Chính) cho các Giám đốc trường Dòng của Phái đoàn Truyền giáo, 12-11-1800 (A.Launay, III, t. 322, 328, 332, 335)
4. Thư J.Liot gửi cho Giám đốc trường Dòng của Phái đoàn Truyền giáo, 20-6-1795) (A.Launay, III, t.336 - 338). Thực lục, q7, 3b, mục tháng 2 Giáp Dần (1794) có nói đến việc trùng tu Văn Miếu ở Trấn Biên đúng vào chuyện này

Từ 1792, những tin tức về cuộc cách mạng phản đế do bọn lái buôn Bồ đưa đến đã lọt vào tai Nguyễn Ánh. Giáo sĩ Lavoué nhận xét rằng: “Hình như các tin ấy có ảnh hưởng mạnh đến đầu óc ông Hoàng này và làm ông xa rời người Âu. Hiện nay (1795), ông tỏ ra ít dễ dãi đối với đạo hơn mấy năm trước”1. Sửa soạn đi cứu Diên Khánh bị vây lần thứ hai, Nguyễn Ánh đã tống giam Dayot và một tuỳ tướng vì tội làm chìm chiếc tàu được giao trông coi hư hại đến nỗi không thể sửa chữa để dùng được gì cả. Nguyễn Ánh tức giận chửi lung tung. Đúng dịp ấy, 19 người đại thần, trong số đó có người chú vua (Tôn Thất Thăng?) và một người hoàng phái, dâng sớ bày tỏ mối nguy hại nếu cứ để Hoàng tử Cảnh cho Bá-đa-lộc dạy dỗ theo một tin tưởng khác hẳn mối tin tưởng cổ truyền. Họ cầu xin Nguyễn Ánh cắt đứt mối liên lạc ấy và để Cảnh cho các quan triều dạy.
Nghe chuyện, Bá-đa-lộc khôn ngoan ẩn tránh vài ngày. Thấy Nguyễn Ánh có vẻ nghe theo lời sớ, ông lên tiếng phàn nàn thì Ánh đến tận nhà đưa tờ biểu cho ông coi. Bá-đa-lộc nhắc lại công trình ông đã giúp Ánh và lưu ý Ánh rằng ông đến đây không phải với tính cách riêng tư mà là với tính cách đại sứ của vua nước Pháp. Thực ra, thoả ước Versailles đâu có áp dụng mà ông nêu điều này ra. Tuy nhiên, Ánh còn cần Bá-đa-lộc trong khi quân Lê Trung tiến vào cuối Bình Thuận, nên nghe Bá-đa-lộc đòi về, nhân dịp hai người có tên trong sở là Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành không đi cứu Phố Hài, ông kêu về tống giam vừa để trị tội, vừa để làm vừa lòng Giám mục.
Vụ Tống Phúc Đạm có thể coi như chấm dứt với việc Bá-đa-lộc xin phục chức cho Đức và Thành cho theo quân đánh giặc tháng 3 ất Mão (1795). Nhưng tranh chấp vẫn còn, Bá-đa-lộc trở nên dè dặt hơn vì nhận rằng xúc động của các quan có lý: “Các đại thần ở Pháp sẽ nói sao khi ông Hoàng của họ được đặt vào tay một người ngoại quốc có tôn giáo khác biệt?” Hi vọng của ông như đã ghi nhận ở lá thư 3 năm trước là “nếu dòng họ này nắm quyền thì tôn giáo sẽ yên ổn hơn ở các triều khác”.
Trong lúc đó thì triều đình Gia Định càng ngày càng được củng cố theo mẫu mực Nho giáo.
Tháng chạp Ất Mão, khi cứu Diên Khánh về, Ánh định tháng 3 sang năm mở thi Hội. Theo lệ triều trước kỳ thi trải qua 3 trường, bây giờ các quan họp lại định trường nhất hỏi về hiểu biết kinh truyện, làm thơ, trường nhì làm văn sách, trường ba làm thơ, phú. Những người trúng cách được phân 3 hạng Giáp, Ất, Bính cho bổ quan chức hay miễn dao dịch. Người trúng trường nhất được miễn binh dao từ 2 đến 6 năm. Qua trường nhì, người trúng cách được bổ cao nhất là Lễ sanh, hạng cuối được làm Nhiêu học, miễn binh dao 4 năm. Ở trường ba, 3 hạng đầu là Cống sĩ, Huấn đạo, Lễ sanh; ba hạng sau là Huấn đạo, Lễ sanh, Nhiêu học (suốt đời). Khoa thi tháng ba Bính Thìn (1796) lấy đỗ 273 người.
Như vậy là tiếp với nhóm Bình Xương cùng các văn quan Bắc Hà, Phú Xuân về đầu, một nhóm cử tử thành đạt càng làm nho sĩ có đủ sức mạnh để bênh vực, khuông phò Khổng giáo. Bọn văn quan này noi gương Hàn Dũ, Trương Hán Siêu sẽ công kích Phật giáo rất dữ, hợp một phần với ý tưởng Nguyễn Ánh. Nhưng thực ra, nằm ở chừng mực tín ngưỡng trung bình, lễ tiết Phật giáo đã hoà lẫn với những tập tục bình dân mà ngay chính nho sĩ cũng không vứt bỏ được trong sinh hoạt hàng ngày. J. Barrow đã vẽ cho ta thấy hình một tượng Phật ở một động phía Nam Đà Nẵng (Ngũ Hành Sơn?) được đặt trên cây đa cao trông như ông thần cây vậy4. Đó có thể là một suy đồi tín lý của Phật giáo nhưng đó cũng là sức mạnh của họ.
Trước sự đe doạ của ý thức hệ do các giáo sĩ đưa lại, Nguyễn Ánh với địa vị chủ tể càng ngày càng thấy phải trở nên khôn ngoan hơn để nghiêng dần về phía những tập tục cổ truyền. Cho nên, ta không ngạc nhiên như Lelabousse:
“Cho tới bây giờ, Đức vua không nhận tôn giáo nào khác hơn đạo thờ ông bà, thế mà từ 2 năm nay, ông đã xây cất nhiều Khổng miếu. Điều làm mọi người ngạc nhiên là ông hoàng này vốn không bao giờ chịu đựng đạo Phật đến nỗi đánh roi những người đem tượng vào phòng Hoàng hậu và đánh 100 roi những ông hoà thượng hành lễ, ông hoàng đó bây giờ lại đi chùa và dự những cuộc lễ của các vị sư mà ông đã luôn luôn ghê tởm”5. Lelabousse giải thích là Nguyễn Ánh muốn làm vừa lòng mẹ, vợ và các phi tần, nhưng điều đó lại đánh dấu một bước lùi nữa trong chương trình của Pigneau.
thắng lợi quân sự tiếp theo đã đẩy Gia Định tiến mạnh trên con đường tổ chức xã hội theo khuôn khổ của Nho giáo để bọn sĩ phu. càng trở nên tự phụ hơn trước các giáo sĩ.
Tháng 2 Bính Thìn (1796), Nguyễn Ánh tổ chức kiểm tra quân dân chặt chẽ bằng cách bắt dân phải mang “tín tích”, một thứ tín bài của Gia Định. Tháng 7 năm đó có tăng tiến tổ chức thuỷ quân trên cơ sở có sẵn: trước kia chỉ có 3 doanh, nay thêm 2 là 5, đủ Tiền, Hậu, Trung, Tả, Hữu.
Nhưng như kinh nghiệm cho biết, trên bộ, đội tượng binh của Trần Quang Diệu còn làm e ngại quân Nguyễn. Từ mùa đông 1792, Gia Định bắt đầu tổ chức tượng binh, nhưng lực lượng vẫn còn rất yếu ớt. Số voi tăng dần nhờ bắt dân Chàm, Thượng cung cấp, nhờ Vua hay trao đổi bằng cống phẩm với Cao Miên, Xiêm La và bắt được của Tây Sơn. Người huấn luyện điều khiển ban đầu là Chàm, Thượng. Trong trận 1797, Nguyễn Ánh đề ra chiến thuật đánh tượng binh: ông bảo lính cố sức giết cho được tên nài và địch quân ngồi trên đó để cướp voi. Chiến thuật có vẻ thật là giản dị như Kiêu binh đã từng áp dụng để giết Quận Huy.
____________________________________________
1. Thư Pigneau cho Boiret, 20-6-1792; thư Lavoué cho Giám đốc trường Dòng (A.Launay, III, t.306, chú (I)).
2. Xem lại tiết trước. Chuyện xảy ra vào đầu năm 1795. Tên Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành được xác nhận vì một đằng so với Thực lục (q7,23b, 24a, 27b), một đằng thư Lavoué kể trước có nói: (Ánh) đến nhà Bá-da-lộc trước khi đi đánh Tây Sơn và 2 trong những người tố cáo đang làm quan lớn bị tống giam vì đã bỏ rơi 2 quan khác khi Tây Sơn tiến đánh.
3. Thực lục, q8, 12b, 13a, 15a.
4. Hình chụp lại trong Iconographie historique..., sđd, IX, 13.
5. Thư Lelabousse cho Boiret, 12-7-1796 (A.Launay, III, t.225).
6. Thực lực, q8, 14b, 23ab.
7. Thực lục, q9, 21ab.
Nguy hại thêm cho Tây Sơn là tổ chức nội ứng của Nguyễn Ánh đã lan mạnh trong khu vực của họ. Chúng ta đã biết, theo với đà suy yếu từ trung ương, dân chúng càng lộ vẻ chống đối Tây Sơn. Một bài ngâm như Hoài nam khúc trong đó tác giả nói toàn những chuyến cũ kỹ từ 1774, 1775 mà cũng làm dao động Thuận Hoá và lan rộng đến miền Nam. Cho nên, từ tháng ba Tân Hợi (1791), sử quan đã hãnh diện về số tay chân thương hộ ra ngoài Bình Thuận, Thuận Hoá dò la tin tức.
Những chuyến đánh ra rồi lại rút về càng tăng thêm lòng nao nức của những người oán Tây Sơn, hướng vọng về Gia Định không kể đến sự thực ở miền trong. Tiếp tục lợi dụng tinh thần đó, trong tháng 7 Bính Thìn (1796), Nguyễn Ánh sai người về Quy Nhơn, Quảng Nam, Thuận Hoá chiêu dụ nghĩa binh làm nội ứng. Một đợt thứ hai những gián điệp như vậy cũng được tung ra vào tháng 11 cùng năm.
Mùa Xuân Đinh Tỵ (1797), Gia Định phát binh đánh ra ngoài. Họ vừa được Cai đội Nguyễn Văn Vân bạt thuyền bị bắt ở Phú Xuân năm 1793 nay trốn về báo cáo tình hình. Con đường từ Xích Ram đến Ma Ly được sắp đặt ngựa trạm để thông báo tin tức. Loạn Ba Phủ vừa tạm dẹp yên. Gió mùa nổi lên. Nguyễn Ánh sửa soạn tăng cường 200 ghe chiến nhẹ và lô ghe bầu chở 12 súng lớn.
Đội quân xuất phát vào tháng 4-1797 gồm một lực lượng hùng hậu tới 447 thuyền và 42.000 chiến binh trong đó chiếc frégate và chiếc corvette đều do người Âu chỉ huy3. Do đó mà những trận đầu tiên trên biển và ở ngoại vi Quy Nhơn, chiến thắng có vẻ dễ dàng. Nguyễn Văn Trương dẫn thuỷ quân đánh Đô đốc Triêm ở Tiên Châu rồi phá Đô đốc Tính ở đầm Nước Ngọt. Trên bộ, Nguyễn Văn Thành dẫn Hậu quân đánh chợ Hội An (Phú Yên) đuổi Đô đốc Hiếu chạy về La Hai.
Nhưng quân Lê Trung đã dàn ra giữ vững mặt nam Quy Nhơn và cửa Thi Nại. Nguyễn Ánh đành phải bỏ đó đem hơn 100 thuyền ra cửa Đà Nẵng. Hiểu rõ thực lực mình, tránh giao chiến bất lợi, Thống lãnh Đặng Văn Chân rút hết binh thuyền vào trong cùng với bộ binh của Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn dàn hai bên bờ sông dựa nhau cự chiến. Một trận đổ bộ thắng nhỏ không phá vỡ được quân địch, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Thành, Trần Văn Tứ, Trần Văn Bố dẫn quân chiếm Câu Đê đến Hải Vân, sát cửa Kinh thành4. Nguyễn Quang Toản sợ hãi vội vã sai Trần Quang Diệu giữ cửa Eo (Noãn khẩu) có Đô đốc Lê Văn An tiến quân trợ giúp.
Mặc cho hai quân đối đầu ở giáp giới Quảng Nam, Thuận Hoá, Nguyễn Ánh lo thanh toán vùng bên trong, nên sai Cảnh tiến vào cửa Đại Chiêm đánh Chiên Doanh (thủ phủ Quảng Nam), có Võ Tánh từ Phú Yên đến trợ giúp. Cảnh chiếm chợ Đông An, Hội An. Võ Tánh đánh Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ bắt tù binh cùng 30 tàu Ô ở Đại Chiêm.
Trên bộ, Tây Sơn phản công dữ. Lê Trung tung quân đánh Hội An ở Phú Yên khiến Nguyễn Văn Thành phải bỏ về giữ Bình Khang. Tháng 6 năm đó, quân Nguyễn thắng mạnh ở Quảng Nam. Nguyễn Văn Trương đánh viện binh của Lê Văn An ở gò Phú Gia chạy về Câu Thai. Võ Tánh đánh Tiết độ Nguyễn Văn Giáp ở sông Mỹ Khê. Hoàng tủ Cảnh thắng ở núi La Qua, để Phạm Văn Nhàn ở lại Đại Chiêm, kéo Vũ Bá Diên đến Phú Triêm. Đang đêm, Nguyễn Văn Khiêm và Olivier mang bọn Chiến tâm quân lẻn đốt thuyền Tây Sơn.
Quân Quảng Nam cố thủ và cầu viện ở Quy Nhơn. Lê Trung sai Đại Đô đốc Lê Chất, Đoạn Văn Cát, Đô đốc Nguyễn Văn Xuân và một người tên Hàn đem 2.000 quân, 40 thớt voi tới cứu, bị đánh tan. Voi bị giết, Hàn bị trúng đạn chết. Tuy vậy Lê Trung còn là mối lo cho quân Nguyễn. Trong tháng 7, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Biện, Nguyễn Đức Thiện đổ bộ lên cửa Hợp Hoà đóng ở Bến Ván chận cứu binh Quy Nhơn. Đô đốc Lê Văn An của Tây Sơn cũng cố tiến chiếm Trạm Dã nhưng không được. Nguyễn Ánh hi vọng Phú Yên yếu, Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường có thể chiếm được, nên không nghe lời Nguyễn Văn Biện, Nguyễn Đức Thành xin đánh Trà Khúc sau khi phá được Đô đốc Gia ở Thạch Đậu.
Như vậy là hai nhóm quân Tây Sơn mạnh vẫn còn chiếm một ở Đà Nẵng, một ở Trà Khúc với Lê Trung nơi ấy đang trưng tập đàn để bổ sung quân sĩ.
Thấy khó đánh, Nguyễn Ánh tính đến kế phản gián, sai người bảo Tham tán Tây Sơn là Từ Văn Tú thuyết Tiểu triều Nguyễn Bảo giết Lê Trung. Mặt khác ông tính tuyệt lương địch bằng cách sai Nguyễn Văn Biện giữ Tam Kỳ còn Lê Tấn Tham thì theo sông Thanh Hà đốt luỹ cản trở tiếp tế giữa Nam, Ngãi.
Nhưng nếu Tây Sơn bối rối vì hụt lương thì Nguyễn cũng không hơn gì. Từ lúc mở chiến dịch, họ đã mang lương mễ hơn 12.700 vuông gạo, 500 vuông muối, hợp với 12.800 vuông gạo và 3 vạn quan tiền chở đến Cầu Hin tháng 6 năm ngoái (1796). Không may, Trương Phúc Luật đem thuyền tiếp tế bị gió cản, cướp biển đoạt (Tề Ngôi hải phỉ?), khiến quân Quảng Nam chỉ còn có 5 ngày lương. Cuối tháng 7 đầu, Nguyễn Ánh phải cho lui quân mà không hay rằng thuyền lương kế tiếp đã tới vũng Quất (Quảng Ngãi). Nguyễn Văn Thành chiếm được Phú Yên cũng đành bỏ.
Chiến tranh kéo dài trong 4 tháng, quấy đảo Quảng Nam, đe doạ Phú Xuân trong 3 tháng đã mang lại vui mừng, hi vọng cho các giáo sĩ cùng dân chúng ở vùng này, tưởng như sắp được thoát ách Tây Sơn. Họ thất vọng vì quân Nguyễn rút lui, nhưng binh tướng Gia Định thì lại phấn chấn tinh thần hơn lên.
Cuối năm Đinh Tỵ, Nguyễn Ánh dẹp được loạn Ba Phủ mới nổi. Đầu năm sau (Mậu Ngọ 1798), Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương định đem 7.000 quân giúp Xiêm đánh Miến Điện6. Rõ ràng là Gia Định càng ngày càng tự thấy làm chủ mình và muốn làm chủ người nữa.
_________________________________________
1. Thực lục q5, 9ab. 33a.
2. Thực lục q8. 26b, q9, 5b.
3. Chi tiết về số lượng thuỷ quân do bức thư của Olivier gửi cho St. Lefèbre de Tranquebar, 16-4-1798, trích của A.Slles. “Les Français au service de Gia Long. J.B.Chaigneau”, BAVH, Janv-Mars 1923.
4. Thư Labarlette cho Letondal, 6-10-1797 (A. Launay, III, t.242)
5. Thư Labartette cho Letondal. 6-10-1797 kể trước. Chuyện tiến quân lấy ở Thực lục, q9, 19b - 27a.
6. Thực lục q9, 37a, q19, 2a.
Đám nho sĩ khỏi lo về phía Hoàng tủ Cảnh. Đông cung sống đúng cung cách của một ông hoàng Đông phương: ông vừa có 3 vợ mùa xuân năm ngoái. Và tháng 3 năm nay (1798), chính ông đã xin làm truyện các bậc trung thần để người ta theo đó mà được dạy dỗ rộng rãi cho trung thành với quân quyền hơn2. Còn nói chi đến Nguyễn Ánh. Tuy vẫn còn kính trọng Pigneau, ông đã bắt đầu biết lợi dụng ông này.
Ngày Tết năm Đinh Tỵ (1797), Pigneau đến chúc đầu năm thì Ánh đề nghị ông đi cùng với Cảnh theo quân. Nhớ lại chuyện rắc rối kéo dài ở Diên Khánh trong 2 năm trước, ông từ chối. Mười lăm ngày sau, Ánh mời đi chơi để nói lại chuyện đó nhưng ông vẫn khăng khăng không nhận. Ánh bèn giở thủ đoạn chính trị ra. Lúc trở về, ông tỏ thái độ không bằng lòng đối với Thiên Chúa giáo. Ông bảo rằng ông đã phải chịu đựng rất nhiều để cho đạo hoạt động trong nước chỉ vì ngưỡng mộ Pigneau, chỉ vì ông này đã làm ơn cho ông. Bây giờ thì nhất định phải xét lại vấn đề đó. Ông lôi một viên quan có đạo ra bắt lạy các bực tiên hiền cho kỳ được để khủng bố tinh thần Pigneau. Quả nhiên Pigneau chịu nhún, đành phải nhận lời đi Diên Khánh.
Bọn nho sĩ trong triều lại có thế để mà tuyên dương đạo học của họ lên. Sử quan kể một chuyện xảy ra trong tháng 5 Mậu Ngọ (1798) như sau, có thể tóm thâu được hết cả tình hình độc chiếm tư tưởng lúc bây giờ:
“Đất Gia Định chuộng đạo Phật. Có vị cao tăng phạm tội vua muốn giết. Gặp kẻ cản ngăn, lấy lẽ đó là bậc chân tu, Nguyễn Ánh trả lời rằng: “Chân tu thì có ích gì cho nước?” Ông bắt kiểm tra hoà thượng, đạo đồng chỉ miễn dao dịch cho những tăng chúng trên 50 tuổi mà thôi, còn dưới 50 vẫn phải làm xâu như dân thường. Quần thần can làm Ánh lưỡng lự, Ngô Tòng Châu bèn lấy tính cách phụ đạo Đông cung tâu lên Cảnh: “Quân thượng ngài ngại đạo Phật hưng thạnh mà quần thần không tán thành ý đó lại ngăn cản đi. Thần sợ việc làm nửa chừng rồi thôi thì kẻ kia lại bậy bạ ngông cuồng hơn ngày trước. Tăng nhân đối với thần không có ghét bỏ riêng tư, nhưng mà cái hại của Phật, Lão còn hơn Dương, mặc nữa, chẳng lẽ không nói”. Hoàng tử Cảnh đồng ý. Tòng Châu bèn dâng sớ bài bác thậm tệ, Vua mới không phân vân nữa mà quyết thi hành việc kiểm soát tăng chúng”.
Sử quan cũng nhân dịp này mà chêm vào một câu: Bá-đa-lộc nghe Châu bài bác “Tả đạo” trong lòng cũng ghét4. Quả vậy, nho sĩ đã thắng thế rõ rệt. Tháng 10 năm đó, Pigneau đi Diên Khánh với Cảnh. Tuy rằng ở đó Tống Viết Phúc vào tháng giêng năm sau (1799) nói hỗn với ông còn bị cách chức lôi về Gia Định5, nhưng hợp với lúc J. Dayot đã đi, V. Olivier sắp bỏ chức, uy thế Tây phương hạ xuống rõ rệt ở xứ này.
Nho sĩ dựa vào sự trù phú của Gia Định, gặp dịp Tây phương rối loạn trong những chuyển mình về kinh tế, xã hội, mắc lo nội bộ không rảnh phát triển về phương Đông6, lớp nho sĩ đó của đất Việt đã thu thập được một ít kỹ thuật tiến bộ của Tây phương để lớn lên, nhưng chịu đựng được những dao động do sự tiếp viện đem lại để vẫn làm chủ được tình hình. Họ đã biết đem trùm lên trên phần đất miền Nam còn đầy phức tạp với những ảnh hưởng tứ xứ và bản thổ, một lớp sơn Nho giáo đem từ phương Bắc xuống mà tính cách cứng cỏi còn được ghi nhận đến mãi sau này và còn lưu dấu trong toàn thể chính sách quốc gia một khi nền thống nhất được lập lại.
_______________________________________
1. Thư Lelabousse cho Boiret, 5-1797 (A.Launay, III, t.288).
2. Thực lục q10, 3a.
3. Thư Pigneau cho Boiret, 12-4-1797 (A.Launay, III, t.310, 311).
4. Thực lục q10, 12b, 13a.
5. Thực lục q10, 14b-20a.
6. Pháp không thi hành được hiệp ước Versailles chỉ để bốn phiếu lưu giúp nên cạnh tranh nhau, tố cáo nhau làm mất mặt Tây phương trước dân bản xứ. Chúng ta đã thấy vụ Mãn-noàỉ chứng tỏ sự xung đột Bồ - Pháp về Đạo cũng như về Đời trên đất Gia Định. Xung đột còn mãi đến 1801 khi người Bồ tố cáo L.Barizy đầu độc chủ tàu tên R.Henderson, và làm cho Barizy phải bị tù (Chuyện từ thư của Barizy cho Letondal, BAVH, Oct-Déc, t.380-384).

Tiết 18
ĐÁNH VÀ GIỮ Ở QUY NHƠN

Nỗi khó khăn và những phản ứng của Phú Xuân *Chiến thuật ngoại giao của Nguyễn Ánh *Chiến trận chiếm thành Quy Nhơn *Lòng quyết chiến của Tây Sơn ở Thang Mộc ấp của họ *Trận thuỷ chiến Thi Nại (1801).

Chiến tranh dữ dội trong 3 tháng ở Quảng Nam trả thù những thất bại của quân Nguyễn 24 năm về trước đã làm nức thế những người tự nhận là của phe Gia Định ở miền này và gây khủng hoảng thêm cho triều đình Phú Xuân.
Ta đã nói đến vai trò của các cựu thần, các phiên thần nhà Lê, nhà Nguyễn, nhưng dưới quyền Tây Sơn còn có một nhóm người mang tính cách chống đối ngay từ căn bản tư tưởng: nhóm đạo đồ Thiên Chúa giáo. Thực ra, hoặc vì mang tính cách xuề xoà của người Việt về vấn đề tôn giáo hoặc vì lý lẽ chính trị không muốn gây bất mãn trong dân chúng để nhờ cậy Tây phương qua các giáo sĩ, Tây Sơn đã từng để yên cho các giáo đồ hành đạo. Cuộc nổi loạn lấn chiếm của Tây Sơn có một phần nào bài bác những tin tưởng cũ đã được giáo sĩ Labarlette ở Thuận Hoá vui mừng ngóng đợi tương lai xán lạn cho tôn giáo của ông. Và cũng vì những lẽ đó nên có giáo sĩ mới cho rằng dưới triều Tây Sơn tôn giáo phát triển tiến bộ.
Nhưng ta lại đã nói thêm rằng dù Nguyễn Ánh, dù anh em Tây Sơn cũng đều chia sẻ ý thức hệ Việt Nam hỗn tạp những tin tưởng Nho, Phật, Lão, Thần cho nên sớm muộn gì cũng có xung đột với tin tưởng từ phương xa tới còn nhiều sắc thái khá khác biệt. Cho nên, Nguyễn Nhạc đưa ra một phụng truyền bắt phá các chùa nhỏ ở làng để lập chùa lớn mỗi tổng thì đồng thời cũng bắt phá các nhà thờ để lấy vật liệu cần thiết cho việc xây cất kia. Lệnh bài đạo năm 1785 được tung ra vì một xung đột nghi lễ, tục lệ. Nội dung sắc lệnh bài đạo ngày 17-8-1798 đưa lý lẽ: “Xét rằng kiến thức điều khiển quốc gia đều gồm trong tam cương, ngũ thường (...) trong khi đạo Hoa lang lại đầy mê tín, dối gạt dân chúng và đảo lộn trật tự xã hội”.

Thế mà những biến động chính trị còn làm cho vấn đề phức tạp hơn. Việc Pigneau xả thân vượt biển giúp Nguyễn Ánh đã được những thương nhân đi Macao về nói lại. Tây Sơn biết rõ ràng, tất nhiên họ nghi ngờ nhóm giáo sĩ dưới quyền họ. Về phần giáo dân và những người lãnh đạo, theo khuynh hướng cục bộ, họ cũng hướng về Gia Định không cần biết rằng ngay ở đó đám nho sĩ đang chèn lấn các linh mục và đã thắng thế.

Những mâu thuẫn càng gay gắt hơn theo với tình thế. Quang Trung còn vững chãi nên chỉ dùng để làm phương tiện bóc lột các tín đồ, bù đắp thiếu hụt ngân sách thôi: tháng 7-1791, ông bắt giáo dân từ Phú Xuân trở ra phải nộp 10.000 cân đồng. Đến Cảnh Thịnh thì nguy cơ đã lớn hơn. Các đạo đồ theo thời thế đã chống đối rõ rệt. Với các nhà truyền giáo thì việc bức đạo ở Quảng Ngãi tháng 8-1798 thực là dã man. Nhưng họ cũng công nhận rằng Lê Trung bắt một thầy giảng là cốt để phăng lần đến tung tích cha Dominique do Pigneau gởi tới đang lẩn trốn ở Phú Yên. Tây Sơn nghi ngờ những người này có nhiệm vụ do thám binh tình cho chúa Nguyễn. Cũng như linh mục Emanuel Triệu tử vì đạo trong chuyến này vốn là người quê Tống Sơn, bái quận của nhà Nguyễn, sinh ở Phú Xuân, có cha chết trong khi chống Tây Sơn năm 1775, có gia đình vào Đồng Nai và chính ông cũng đã ở trong đội cận vệ của chúa Nguyễn. Nghi ngờ của vua quan Tây Sơn nếu không đích xác thì cũng có lý lẽ biện hộ.

Chiến thuật ngoại giao của Nguyễn Ánh cũng mang lại những tác dụng quấy rối đáng kể. Từ lúc ở Xiêm về, ông vẫn cố giữ lấy tình giao hảo với Phật vương để lấy thế tựa bên ngoài nhất là khi hiệp ước Versailles đã không được thi hành. Mỗi lần đánh thắng trận, mỗi lần có rắc rối ở biên cương - như với Chiêu-thùy Biện ở Cao Miên - ông đều sai sứ sang Xiêm với lời lẽ mềm mỏng. Sứ bộ 16-12-1797 gồm có Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Kế Nhuận, Ngô Nhân Tĩnh. Rồi tháng 8 năm sau (1798) lại có sứ sang Xiêm. Quan trọng hơn cả là sứ bộ tháng 2 Kỷ Mùi (1799) xin Xiêm vương đem quân Chân Lạp, Vạn Tượng đánh vào mặt sau của Nghệ An. Người trông coi việc vận động với Vạn Tượng là Nguyễn Văn Thoại (Thuỵ), Lưu Phước Tường... Từ Diên Khánh, Nguyễn Văn Thành cũng dâng mưu đem các thuyền cướp biển bắt được dâng với Thanh đế để chia rẽ với Tây Sơn. Sứ bộ Ngô Nhân Tĩnh đi làm việc đó, thêm việc dò Lê Hoàng vào tháng 6 Mậu Ngọ (1798).

Những hành động đó đã làm cô lập thêm Tây Sơn. Nhưng phía Nguyễn Ánh cũng gặp những khó khăn nội bộ. Loạn Ba Phủ đang còn là một thứ “tâm phúc chi ưu” dằng dai thì tiếp đó Cai cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Phong lại “làm phản” chiếm sóc Kha;.
______________________________________
1. Thư giáo sĩ Longer cho Giám đốc nhà Dòng các Phái đoàn Truyền giáo, Tonkin, 3-6-1799 (A.Launay, III, t.250.)
2. Thư Longer gởi cho Dufresne, 1-5-1786, cho Letondal, 9-8-1786, Labartette cho Descourvières, 16-5-1788, cho Letondal, 18-6-1788 (A.Launay, III, t 162).
3. Thư Le Gire gởi cho cha mẹ, 11-1-1796, cho Boiret từ Kẻ Lương, Thượng Cochinchine, 12-1-1796, có câu: “Chúng tôi nóng đợi Vua tới... người ta quá hi vọng Vua từ Đồng Nai tới khiến chúng tôi sai lầm... (A.Launay, III t 239, 240).
4. Thư Longer cho Giám đốc Nhà dòng các Phái đoàn Truyền giáo 14-4-1792 (A.Launay, III, t.239).
5. vụ Nguyễn Bảo kể sau.
6. Giáo sĩ Labartette kể lại (A.Launay, III t.251-256), thư Longer 3-6 kể trên.
7. Hai tờ chiếu sai của Nguyễn Ánh, một có ghi chi tiết lễ vật, tất cả để ở từ đường họ Nguyễn Huỳnh, xã Khánh Hậu, tỉnh Long An.
8. Thực lục q10, 13b.

Tây Sơn lo tìm cách thanh toán bên trong. Đầu tiên là vụ Nguyễn Bảo. Nguyễn Bảo sau trận Quy Nhơn 1793 chỉ còn ăn lộc có huyện Phù Ly. Bị mẹ già nói khích, Bảo ấm ức chờ cơ hội. Lúc đánh ra Quảng Nam, Nguyễn Ánh đã saì người dụ Bảo tập kích Lê Trung. Thế rồi tháng 11 năm Mậu Ngọ (1798), viên Hiếu công Phù Ly này tung quân chiếm Quy Nhơn, Lê Văn Thanh phải bỏ cả quân lính, cạo trọc đầu, ăn mặc rách rưới, trốn chạy lên rừng.
Nguyên do tức thời của biến loạn có lẽ là vì sự khuyến khích của Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường lúc bấy giờ vừa đến đóng ở sông Đà Rằng. Mặt khác cũng vì rối loạn ở Phú Xuân. Trần Quang Diệu vừa bị tước hết quyền bính, Bảo tin rằng tiến quân ra sẽ phối hợp được với quân Lê Trung, người từng chiến đấu bên cạnh Diệu. Nhưng Quang Toản đã kịp thời sai Diệu dụ Lê Trung. Bảo phải rút về cố thủ ở thành Quy Nhơn, sai Đại Đô đốc Đoạn Văn Cát, Đô đốc Nguyễn Văn Thiệu đang đóng ở Hội An (Phú Yên) đưa thư xin hàng Nguyễn Ánh. Chính Quang Toản đích thân vây thành. Cuộc công hãm kết thúc nhanh chóng vì quân trong thành mới là của Quang Toản hôm trước nên đêm lẻn ra chỉ chỗ phòng thủ sơ hở cho bên ngoài. Cứu binh Nguyễn Văn Thành chưa tới kịp thì Nguyễn Bảo đã bị xử theo “tam ban triều điển” rồi. Việc này dẫn theo cái chết của Lê Trung, việc trốn tránh của Lê Chất1 và chắc có ảnh hưởng xa gần tới cái chết của Nguyễn Văn Huấn nữa.
Tuy nhiên quân Nguyễn có muốn thừa thế tiến đánh nữa cũng phải gặp sức phản kháng kịch liệt của Tây Sơn vì đất từ nay họ phải chiếm là nơi phát tích của kẻ thù. Tây Sơn đã tổ chức cả phủ Quy Nhơn thành một đồn binh rộng lớn: dân biến thành lính, mỗi ấp chia thành đội ngũ, ai nấy đều được miễn thuế thân để nức lòng đánh giặc. Truyền thống chiến đấu bừng trỗi dậy gây kính nể cho quân Nguyễn. Mùa xuân 1799, trận chiến Quy Nhơn lại bắt đầu chuẩn bị ở Gia Định. Kho tạm ở Cầu Hin chứa 169.000 vuông gạo từ Gia Định tới hợp với 22.100 vuông gạo, 53.500 vuông lúa, 3.000 cân thuốc đến năm ngoái ở Diên Khánh dành phát cho chiến dịch. Nguyễn Văn Thành đem bộ binh đóng ở Diên Khánh trước.. Hoàng tử Cảnh được lệnh bảo Nguyễn Long giữ chặt Tam Lãnh không để lộ tin tức ra ngoài. Thuỷ binh thì theo Nguyễn Văn Trương.
Tháng 4 âm lịch, Nguyễn Ánh đến Cầu Hin phân phối kẻ giữ người tiến rồi theo thuyền ra cửa Thi Nại. Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh đổ bộ đóng ở Phủ Trung; quân Thần Sách qua sông Càn Dương đánh Tây Sơn ở gò Cũ rồi chiếm đóng suối Tre2, đe doạ Thái phủ Lê Văn Ứng. Quân Nguyễn đổ bộ mau như vậy nhờ tình cờ lợi dụng một rối loạn nội bộ của Tây Sơn.
Nguyên Trần Quang Diệu vẫn có mối thù với Lê Văn Ứng về việc Ứng xúi Quang Toản giết Lê Trung nên bàn với Vũ Văn Dũng: “Lê Văn Thanh là phe ta, ta đem binh thuyền vào Thi Nại, mật ước với Thanh nghe súng hiệu ở cửa biển, lừa Ứng rằng quân Gia Định đánh, sai Ứng một mình đến cho ta tập kích bắt”. Diệu tâu với Quang Toản rằng Quy Nhơn là đất căn bản cần phải cho bầy tôi thân tín giữ nên sai Ứng đi. Gặp lúc quân Gia Định ra bắn 3 phát súng, Lê Văn Thanh tưởng binh Diệu, Dũng mới không phòng bị mà sai Ứng đi như đã bàn trước. Không ngờ quân Nguyễn tiến chiếm cả vùng duyên hải, Thanh mới vội vã phân binh với Ứng đón ở Thốc Lốc, gò Dê.
_______________________________________
1. Chuyện Nguyễn Bảo tổng hợp của Thực lục q10, 16ab, 17b, Liệt truyện q30, 17ab, 46b, 47ab, Hoàng Lê, t.279, 280, thư của Lelabousse cho Giám đốc Nhà Dòng các phái đoàn Truyền giáo, tháng 6-1799, thư khác ngày 24-4-1800 (A.Launay, III, tr.259, 260).
      Về nguyên nhân, Hoàng Lê ghi Diệu đưa mật thư bảo Lê Trung phò Bảo. Trung đã kéo quân về đến Quảng Nam “trong ngoài khiếp sợ”. Còn Liệt truyện cho biết nhân dịp Lê Trung vắng mặt ở Qui nhơn, Nguyễn Bảo mới chiếm thành. Có lẽ ở Phú Xuân người ta hoảng lên vì cuộc điều động quân của Nguyên Bảo và Lê Trung chớ chắc Trung chưa có hành động nào rõ rệt là theo Bảo mới dám theo Diệu về ra mắt Quang Toản rồi đi vây Qui Nhơn. Tuy nhiên, thư Lelabousse có câu “(Bảo) profitant de la division qui était entre les grands mandarins”, ta mới có câu kết tạm như trên. Về tên người và diễn biến, Thực lục cho Lê Trung chết ở Thuận Hoá vì Trần Văn Kỷ xúi giục Quang Toản giết. Hoàng Lê cho là vì Thái phủ Màn, và Trung chết ở Qui Nhơn. Liệt truyện cho Trung chết vì Lê Văn Ứng (Thái phủ Màn) dèm pha. Lelabousse không nói đến tên, nhưng nói đến một người bị cách chức rồi bị chết thảm khốc: “chặt 4 chân tay, chém sả đầu, bêu lên, mình đốt ra tro vứt khắp nơi”, là một “chiến tướng có tài, lên chức cao bằng sức mình” - chắc ông chỉ Lê Trung.
      Người giữ thành khi Nguyễn Bảo làm loạn, Thực lục ghi Nguyễn Văn Hưng (Phạm Văn Hưng), Hoàng Lê cho là Lê Trung thay Thái bảo Hóa (Nguyễn Văn Huấn) từ khi Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng giảng hoà, Liệt truyện nói Diệu xin Lê Trung giữ Qui Nhơn thay Huấn. Khi Trung dẫn quân về Phú Xuân thì để lại thành cho Uyên Thanh hầu ở lại giúp Bảo, Bảo nghe lời mẹ xúi và tin lời hứa của Nguyễn Ánh “tội cha không bắt đến con” nên mới nổi lên bắt giam Thanh Uyên hầu, chiếm Qui Nhơn. Lelabousse kể chuyện viên trấn thủ ở đó phải cạo đầu chạy trốn trên rừng, rồi sau ra lệnh giết Lê Trung “thay mặt Thượng đế trừng phạt ông này” về tội bắt giáo sĩ(!). Riêng chứng cớ này còn tỏ rằng Trung chết ở Qui Nhơn.
      Liệt truyện dùng lẫn lộn Uyên Thanh hầu và Thanh Uyên hầu nhưng chắc cũng chỉ một người, có thể là Lê Văn Thanh, người được Quang Toản cho giữ Qui Nhơn khi dẹp Bảo xong (Tây Sơn cũng từng có 2 tên Hô Hổ hầu và Đô đốc Hô chắc cũng chỉ một người). Chắc Thanh nghe lệnh giết Trung, nhưng vẫn giữ cảm tình đồng liêu, nên che chở cho Lê Chất khi Chất giả chết bị lộ về đầu. Mọi oán thù trút cho Lê Văn Ứng nên Thanh, Diệu, Dũng lập mưu giết Ứng (xem sau) và sau này Lê Chất hàng Nguyễn Ánh mới tìm Ứng đánh đuổi để lịch sử ghi lại cả ở Hoàng Lê lẫn Thực lục.)
2. Trúc Khê của Thực lục, một nhánh của sông La Tinh chảy vào đầm Nước Ngọt.
3. ĐNNTC, tỉnh Bình Định, gọi là “Phúc Lộc”. Chữ của Thực lục là “Ngốc Lộc, Thốc Lộc”. Hình như chính chữ là “Trọc Lóc”.


Cũng như những trận đánh trước, Nguyễn Ánh thừa thế thuỷ quân tiến xa về phía Quảng Ngãi, sai Nguyễn Văn Trương tuần thám ngoài biển, để Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Thiện đến Tân Quan giữ núi Cung Quăng, Bến Đá, Đoạn Văn Cát giữ núi Thái An, Vĩnh Thuận chặn quân tiếp viện của Diệu, Dũng.
Ghé đầm Nước Ngọt đốt lương, chém Đại đoàn luyện tên Giảng, Lê Văn Duyệt đến Bến Đá cùng dân ứng nghĩa Quảng Ngãi giữ hang Tối Trời, núi Sa Lung có dân Thượng phụ giúp bên trong. Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức tiến đến đồng Cây Cầy đuổi Thiếu uý Trương Tấn Thuý, bắt 13 voi, đuổi theo đến cầu Tân An giết Đô đốc Nguyễn Thực đổi tính mạng Vệ uý Hữu vệ của quân Thần Sách là Tôn Thất Nông. Ở Phú Yên, Tham đốc Nguyễn Văn Điềm hàng Nguyễn Văn Thành.
Chiến thắng làm dao động tinh thần binh tướng Tây Sơn. Bây giờ Lê Chất mới có dịp mang 200 quân ra hàng Võ Tánh cùng với Đại Đô đốc Vũ Đình Giai, Nguyễn Văn Điểm, Đô đốc Lê Văn Niệm, Hồ Văn Viện, Trương Văn Lân, Đô uý Mai Gia Cương, Nguyễn Văn Trí. Quân hàng được theo Nguyễn Huỳnh Đức ở suối Tre đánh giặc.
Lương thực thu tại chỗ, lấy thuế ruộng của dân chưa nạp cho Tây Sơn đem chứa vào kho Nước Mặn. Chính sách đó cũng tiếp tục trong tháng 5 khi Tây Sơn đánh đập Cát, lui toán binh Miên (Xiêm binh). Họ phải mất 20 voi trước thế hợp tác của lính Miên và đội chiến tượng của Nguyễn Đức Xuyên. Dân Tuy Viễn phải theo Nguyễn Văn Thái hàng tướng từ (1793) đánh giặc, ăn lương trong số thuế điền của 3 huyện Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn.
Tháng 6, Nguyễn Văn Thành vượt qua sông Lò Gạch (Đào Lô), chiếm Ưu Đàm để phó tướng Trương Tấn Bảo chiếm An Giá, Đầm Sấu. Nhưng lúc bấy giờ Nguyễn phải lo chống với tiếp viện của Tây Sơn, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng đến Quảng Ngãi nghe Tân Quan bị chiếm bèn bỏ thuyền lên bộ. Diệu đóng ở Bến Đá để Dũng lén đem quân qua suối nhỏ tập kích quân Nguyễn. Sử quan kể rằng quân đi trong đêm có người la “con nai” rồi truyền đi thành “quân Đồng Nai”. Binh rối loạn để Tống Viết Phúc đánh hôi lập được công. Thuỷ quân Gia Định lại thắng tiếp ở cửa Mỹ Á, truy kích đến Sa Kỳ.
Trần Quang Diệu giấu tin thất bại của Dũng, rồi bỏ Bến Đá về đóng ở Thanh Hảo chờ viện binh thuỷ của Trần Viết Kết. Nhưng Tống Phúc Lương phá được Thống binh Phiền Văn Tài coi đám Tề Ngôi ở Kim Bồng, truy kích mãi tận Phú Yên rồi trở lại với Tống Viết Phúc giữ chặt ngoài khơi đầm Mân Khê.
Trên đất liền, Lê Văn Ứng nghe tin viện binh đến bèn đem 6.000 quân cùng 50 voi lên Tây Sơn thượng lấy lương, bị Võ Tánh biết được điều động Nguyễn Văn Thành mang tướng hợp với Nguyễn Đức Xuyên, Lê Chất... đánh tan ở Kha Đáo. Viện binh ngoài không có, lương trong thành thiếu, Tổng quản Lê Văn Thanh, Binh bộ Thượng thư Nguyễn Đại Phác, thiếu uý Trương Tấn Thuý mang 10.300 người ra hàng (tháng 6 âm lịch 1799).

Thế là căn bản Tây Sơn đã mất. Nguyễn Quang Toản ở Phú Xuân cũng nôn nóng phải thân cầm binh vào Trà Khúc sai Nội hầu Lê Văn Lợi đem 1.000 quân cùng 20 voi đến đầm Mân Khê. Trần Viết Kết đem 100 thuyền định tràn vào Sa Huỳnh đánh sau lưng Nguyễn Văn Lợi lúc bấy giờ đang cố chống với Lê Văn Lợi. Bị bão đắm thuyền, Kết bỏ quân chạy về Cổ Luỹ. Kinh nghiệm này làm Kết hết sức gàn trở dự định tiến quân đánh nữa của Quang Toản. Kết cục Toản về Phú Xuân, Diệu, Dũng về Quảng Nam, lưu Tiết độ Nguyễn Văn Giáp giữ Trà Khúc.
Nguyễn Ánh mệt mỏi nên cũng không đuổi nữa, chấm dứt chiến tranh trong tháng 8 để lo tổ chức cai trị Quy Nhơn, thu dụng năng lực nhân, vật vùng này.
Trước hết, như đã nói, đất Quy Nhơn đã được Tây Sơn biến thành một đồn quân khổng lồ. Nguyễn Ánh làm chủ mới phải lo thi hành một chính sách nhặt nhiệm khôn khéo. Vì chú trọng đến việc thu phục nhân tâm mà tháng trước đó quần thần đã can ông đừng thu thuế thân là thuế Tây Sơn đã tha cho dân chúng. Tướng Nguyễn Công Hu lên vùng Tây Sơn hiếp gái, lấy của bị đem trị tội ngay. Tiếp theo là việc kiểm soát dân, lính. Ánh sai quân Nguyễn hợp với bọn hàng tướng coi 6 thuộc của 3 huyện Quy Nhơn, phân hàng điểm duyệt 18.900 binh sĩ cũ. Chỉ những người bị thương mới không vào sổ đội ngũ mà thôi. Lại có một sổ riêng cho những người chỉ huy. Khi làm sổ rồi, ai ở đâu yên đấy, dời đổi một ấp, một thôn đều bị tội. Như vậy tạm thời Nguyễn Ánh kiểm soát đám dân binh Tây Sơn khỏi làm loạn. Ông lại còn dùng lợi nhử họ phản bội đồng ngũ cũ: dân Quy Nhơn ai bắt được lính Tây Sơn người Bắc, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thuận Hoá ẩn trốn trong thôn ấp, ngăn trở họ khỏi mưu chạy về Phú Xuân thì được miễn dao dịch. Ai chứa chấp, biết mà không tố cáo thì bị tội.
Nhưng tinh thần chiến đấu của dân binh nung đúc trong lò Tây Sơn đã làm cho Nguyễn Ánh thán phục. Ông lấy dân ở đây tổ chức thành Ngự lâm quân định lập một đội quân ưu tú nữa sau các đội Thần Sách. Chính sách hơi vội vã khiến có nhiều sơ hở. Sau này khi ra giải cứu Võ Tánh, bọn Ngự lâm quân bỏ chạy rất nhiều để chiến đấu chống đối lại tận lực. Nhưng điều đó không tránh khỏi càng tỏ rõ sự bao dung, sáng suốt của Nguyễn Ánh muốn mở đường cho quân địch về hợp tác, trái hẳn với thái độ hẹp hòi của bọn tuỳ tướng như Tống Viết Phúc chẳng hạn.
Sau khi cải thành Quy Nhơn ra thành Bình Định để tuyên dương công trận, khuyến khích tướng sĩ thấy trước thắng lợi cuối cùng, Nguyễn Ánh lo tổ chức cai trị ở đây, sai Võ Tánh giữ thành với một vạn binh Miên (Xiêm binh) cùng Ngô Tòng Châu, Trịnh Hoài Đức và bọn hàng tướng Lê Chất. Lúc Nguyễn Ánh đang chuẩn bị về Gia Định thì Bá-đa-lộc chết ở Mỹ Cang2. Ánh rất thành thực khi phong tước Quận công cho Giám mục, sai người đến đọc điếu văn. Sử quan nhân dịp này cũng nhắc việc Bá-đa-lộc “tận tâm giúp đỡ” Đông cung Cảnh hồi đi Tây. Nhưng cái chết của ông xảy ra vào lúc Nguyễn Ánh thắng mạnh ở cội gốc Tây Sơn đã chấm dứt một quá khứ nhờ cậy, kêu xin. Vấn đề chính trị quan trọng còn lại chỉ là thái độ đối với tướng cũ Tây Sơn mà thôi.
_______________________________________
1. Các giáo sĩ cho biết thành có 40.000 quân tinh nhuệ ra hàng với vũ khí và 120 chiến tượng (A.Launay, III, t.292).
2. Nhà thờ này ở làng Mỹ Cang quận Tuy Phước (Bình Định).


Tháng 10 Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh ban sư về Gia Định. Việc mất thành Quy Nhơn cũng gây ra rối loạn về phía Tây Sơn, theo lẽ thường của một triều chính nghiêng ngửa có những kẻ giữ trách vụ nhưng không muốn đảm đương trách nhiệm. Ở Thuận Hoá, Kiểm điểm Trần Viết Kết, Phụng chính Trần Văn Kỷ, Thượng thư Hồ Công Diệu giả thư Quang Toản nói Quy Nhơn mất là tại Trần Quang Diệu, đưa cho Vũ Văn Dũng bảo Dũng giết đi. Không ngờ Dũng được Diệu ém nhẹm việc thua quân ở Quảng Ngãi, hàm ân nên mới đưa thư cho Diệu xem.
Trần Quang Diệu tức tốc kéo binh về bờ nam sông Hương vây thành. Kỷ đổ cho Kết, trốn mất để Hồ Công Diệu chịu tội thay. Ổn thoả nội bộ rồi, việc chính của Tây Sơn là lo lấy lại đất Quy Nhơn. Hai viên tướng nổi bật, được nhắc nhở từ đây là Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, đến nỗi đối địch, Nguyễn Ánh truyền rao ai bắt được 2 người ấy, Chánh quản được phong tước Công, Phó quản thêm một hàm, thưởng tiền vạn quan. Danh tiếng Trần Quang Diệu có phần lấn át cả Vũ Văn Dũng. Giáo sĩ De la Bissachère1 đã khen “viên tướng mà ngay ở Âu châu người ta cũng phải coi là dũng mãnh, anh hùng”. Lực lượng dưới quyền ông tỏ ra vững mạnh đến nỗi khi gần tàn cục vẫn còn làm cho Giáo sĩ tưởng rằng đạo quân đó có những danh tướng chỉ cần ló mặt ra là quân Nguyễn phải rút về và đủ để đánh tan đạo quân gấp 3 lần quân chiến thắng luỹ Thầy!
Tháng Giêng Canh thân (1800), Vũ Văn Dũng đổ bộ lên Thi Nại, Trần Quang Diệu mang bộ binh đuổi Nguyễn Văn Biện đang giữ Bến Đá chạy về Bình Định. Võ Tánh trong thành gọi binh Phú Vên tới. Lưu thủ Hồ Đắc Vạn đã sai người vận lương tiền trước, nay sai thêm hàng tướng Phạm Văn Điềm cùng Sái Văn Long lấy du binh đi trước rồi tự dẫn quân theo sau. Đêm qua Cù Mông, Điềm cùng Đô uý Đỗ Văn Nguyệt, Ngô Văn Huyền, Đô tư Nguyễn Văn Soái, Hoàng Văn Tráng cùng các cựu tướng Tây Sơn, quay lại chiếm Phú Yên đuổi Cai bạ, Ký lục chạy về Bình Khang. Điềm làm hàng tướng Tây Sơn phản Nguyễn sẽ mở đường cho một loạt những hàng tướng trở giáo tiếp theo, gây khốn đốn cho Nguyễn Ánh nhiều nhất vì cái thế không lùi lại được của họ.
Sự trung thành này gây ra lo lắng và ngạc nhiên không ít cho phe Nguyễn. Nguyễn Ánh giải thích là lòng nhớ quê xúi giục họ. Nhưng điều đó chỉ hợp với binh tướng bị lôi về Gia Định chứ không hợp với hàng binh ở lại Bình Định và Phạm Văn Điềm. Nguyên do là Tây Sơn cũng đã tạo ra một lề lối sinh sống mà tướng binh họ còn quyến luyến. Họ hàng chỉ là thế bất đắc dĩ như trường hợp Lê Văn Thanh sau này đã lẻn mang một thuyền trốn về Tây Sơn. Tủi nhục của kẻ hàng đầu cũng khiến họ phải trở giáo: Tống Viết Phúc cứ thường chửi Từ Văn Chiêu là hàng tướng đến nỗi khi phản lại, Chiêu luôn chận đánh Phúc và giết được khi chiến thắng quân Nguyễn đã gần kề.
Riêng ở đây, Phạm Văn Điềm đã giúp ích Tây Sơn rất nhiều. Ông tổ chức Phú Yên trong thế tử chiến “bắt hết cả dân làm lính”, đắp 9-10 luỹ chỉ trong mấy tháng khiến Nguyễn Đức Xuyên nghe thế mạnh không dám tiến nữa mà phải dừng lại ở Diên Khánh.
Ở Diên Khánh, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng quyết hạ Võ Tánh. Diệu bao vây 4 mặt từ mồng hai tết Canh Thân (26-1-1800)3. Ông sai đắp thành đất một vòng ngoài dài 4.340 trượng để làm điểm tựa công kích. Trong ý chí quyết lấy lại đất cũ, Tây Sơn dùng đến hình thức khích động tinh thần quân dân. Phan Huy Ích làm bài hiểu dụ dán nơi quân thứ Quy Nhơn, đã đưa ra những câu kêu gọi đến ý thức địa phương, khiêu gợi niềm hãnh diện làm dân đất khởi nghĩa một dòng vua:
“Quý phủ ta: cội gốc nền vương, dậu phên nhà nước,
“Miền thang mộc vốn đúc non xây bể, mở mang bờ cõi bởi từ đây. Hội phong vân từng dìu phượng vịn rồng, ghi tạc thể quyền dành dõi để.
“Dấu cờ nghĩa đã sáng công dực vận, buổi xe nhung thêm dong sức cần vương.
“Mấy phen gió bụi nhọc con đòng, giúp oai võ cùng đều nhờ đất cũ. Ba huyện đá vàng đền tấc dạ, căm cừu thù chi để đội trời chung”
Chúng ta không có tài liệu để biết về sự sôi động của dân chúng Quy Nhơn khi Tây Sơn trở lại. Nhưng ngay chính ở đất Gia Định mà Ánh đã coi là căn bản, khoảng hơn năm sau, L. Barizy cho ta thấy nỗi lo sợ phập phồng của tướng Nguyễn giữa khung cảnh hiềm thù đe dọa vô hình:
“Lúc nào chúng tôi cũng trông tin Nhà Vua và mọi người ở đây đều xao động đến cực độ, nông công binh đều lo lắng. Bọn giặc ở đây có những bè đảng bí mật không ai hay biết và lâu lâu lại có một tin loan ra gây hoảng hốt và làm cho dân chúng xáo động.
“Ngày 13 tháng này, lúc 2 giờ 30, lửa bắt đầu trong thành ở 5 chỗ khác nhau, nơi kho lúa gạo, kho vải vóc, kho tơ lụa, nhà của Vua và các Hoàng tử. Duy chỉ cháy có đồn Tả quân mà thôi”4.
Nhưng ở Bình Định, những sự kiện thuần tuý quân sự cũng tỏ rõ được cái không khí đó. Tháng 4, hàng tướng coi Ngự lâm quân là Võ Văn Sự, Nguyễn Bá Phong, giết tướng mở cửa Bắc ra ngoài đầu, Võ Tánh thấy mình lo đúng khi sai Lê Chất đem quân bản bộ về Diên Khánh trước lúc bị vây, bây giờ bèn bảo bộ tướng Ngô Văn Sở cướp lại thành, chỉ để lọt có 400 người. Để phòng hậu hoạ, Tánh sai giết bọn hàng binh còn lại.
_____________________________________
1. Ch. B. Maybon, La relation sur le Tonkin..., sđd, t.112, 113.
2. Liệt truyện q13, 10a. Lê Chất (Liệt truyện, q24) cũng phải chịu cảnh nhục nhã đó tuy không thể phản bội được: khi Bắc phạt, Chất được coi Hậu quản, phong Bình Tây tướng quân, có người nói “Chất bình Tây thì ai bình Chất?”
3. Chi tiết theo lời dẫn bằng chữ Nho đặt trên đầu bài dụ trích trong Quốc văn đời Tây Sơn, sđd, t.44 - 49.
4. Thư của L. Barizy gởi cho Letondal, Marquini, 16-4-1801, dẫn bởi G.Taboulet, La geste française, sđd, t. 253, 254, bởi L. Cadière trong BAVH, Oct-Déc, 1926, t. 397-400. Taboulet trong lời chú (1) của ông cho rằng nơi nói đến là thành Qui Nhơn, dựa trên lẽ Barizy trong thư 16-7-1801 có dẫn thư ngày 8-5 nói chuyện lấy Tourane hôm 8-3 mà cho ông này có tham chiến ở đây. Thực ra, thời gian viết thư 16-4, Barizy còn ở Gia Định, mới ở tù ra. Ngày 17-5 dl, ông mới theo quân tiếp viện Gia Định ra tới Qui Nhơn. Có lẽ ngày 8-3 là ngày âl vì tuy Barizy có viết rõ “8 Mars”, nhưng vẫn kể chuyện trong các thư bằng ngày tháng âm lịch khi có liên quan đến trận đánh (như chuyện đồng Cây Cầy), vì lẽ giản dị là quan, dân ta dùng âm lịch, 8 Mars tương đương với 21-1 Tân Dậu không hợp với trận đánh nào hết ở Quảng Nam. Chỉ có 8-3 âl (20-4-1801) mới hợp với trận Tourane mà sử quan ghi vào đầu tháng 3 âl thôi. Và thành Qui Nhơn chưa giải vây thì Barizy có ở Thi Nại cũng làm sao vào trong đó được? Thực lục q12, 16a ghi: “Cho Ba-la-di về nước, cấp 1 thuyền” là chỉ việc cho chiếc thuyền chìm đã làm ông ấm ức chớ ông vẫn còn có mặt ở Thi Nại ngày 27-5 như đã nói, và ở Đà Nẵng sau đó.

Nhưng bây giờ viện binh Gia Định đã ra. Đây là lần đầu tiên sử quan xác nhận vai trò quan trọng của những người Pháp trong thuỷ quân Gia Định. Tháng 2 năm đó, cho rằng người Hồng Mao (!?) “giỏi thuỷ chiến”, Ánh sai Cai đội Ba-la-di họp thuyền bè, dự bị quân nhu, chiến cụ đợi lệnh. Đồng thời, lại cho Nguyễn Văn Chấn coi Phụng Phi Đại hiệu thuyền chở 26 đại bác, có Renon phụ tá. Tàu Long Phi của Nguyễn Văn Thắng có 32 đại bác, tàu Bằng Phi của Lê Văn Lăng có 26 đại bác, mỗi tàu chở trên 300 người, tất cả đều sửa soạn đi đánh giặc1.
Chuẩn bị đâu đó rồi quân sĩ lên đường vào tháng 3. Những kẻ hăng hái chắc còn nghe vang vang lời khuyến dụ “thành Quy Nhơn chỉ bắc, đạp phá trùng vi; đô Thuận Hoá rung cờ, dẹp yên đảng nguỵ”.
Tháng tư nhuận, trên bộ, Nguyễn Đức Xuyên, Đặng Trần Thường dẫn voi tiến đánh Phú Yên. Nguyễn Văn Trương vẫn coi thuỷ quân. Trần Quang Diệu vội vã sai thêm Đô đốc Đào Công Giản, Đô đốc Tuấn vào La Hai, Hội An phụ với Phạm Văn Điềm. Chỉ đợi Nguyễn Ánh đến vũng Trích sai Nguyễn Văn Thành đổ bộ Xuân Đài cầm quân trên đất là trận tấn công bắt đầu.
Ở Phú Yên, chiến thắng tương đối dễ dàng. Nguyễn Văn Thành sai Đô thống chế Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tấn Bửu phân binh 3 đạo đánh Đất Đỏ, Thạch Kỳ rồi tiến về Hội An. Đô đốc Tuấn và Phạm Văn Điềm phải lui về gò Ải Thạch dựa núi chống lại. Giáp trận với quân voi của Nguyễn Đức Xuyên, họ lui thêm về giữ La Hai. Thành sai binh đi vòng đánh tập hậu đuổi bắt được Giản, Tuấn. Điềm trốn thoát lên núi chờ cơ hội xuống quấy rối.
Quân Nguyễn cũng gặp khó khăn vì hàng ngũ mới kết hợp dần dần tan rã. Thực ra binh đã trốn nhiều từ tháng tư đầu nhưng càng đi sâu vào nội địa Tây Sơn, dân lính Tây Sơn trong quân Ngự lâm càng thấy có cơ hội để đào ngũ hơn. Lính trốn nhiều đến nỗi Nguyễn Ánh phải lo vỗ về an ủi Lê Chất và khi cho Ngự lâm quân tiến đến Cù Mông, ông phải sai Nguyễn Huỳnh Đức ra cầm quân cho chắc dạ.
Tuy nhiên trong tháng năm âm lịch đường đến Bình Định đã mở. Khi Võ Tánh nghe tin viện binh tới, bèn mở cửa Nam ra đánh một trận định liên lạc với bên ngoài nhưng không được, thì mặt trận đồng Cây Cầy (còn gọi là Gò Cầy) bắt đầu và kéo dài đến nửa năm.
Phải dừng lại để điểm xét địa thế của vùng phía nam thành Chà Bàn, nơi xảy ra trận chiến quyết liệt, nhiên hậu chúng ta mới theo sát cuộc so tài này. Đường đi từ Phú Yên ra có hai lối. Một men theo gần biển qua đèo Cù Mông dọc thung lũng sông Phú Huề, từ đó có thể đến đồng Bình Thạnh, Phú Trung ở mặt sau Thi Nại để lên Thành. Về phía tây, nơi thung lũng của hai sông La Hai đổ xuống phía nam (Phú Yên) và sông Hà Thanh ngược hướng đông bắc (rồi đổ vào đầm Thi Nại), có đường thông thương ngày nay làm đường liên tỉnh và thiết lộ. Vẫn ở phía tây, các khe nguồn hợp nên sông Kỳ Lô có những ngõ ngách giữa núi Chúa, đồng Cây Cầy, nơi quân Nguyễn - Tây Sơn đang giằng co nhau, nơi mà lần nào tiến quân ra, quân Nguyễn cũng phải tử chiến mới xô đuổi được Tây Sơn để uy hiếp thành Chà Bàn.
Lúc mới tấn công trên đất Bình Định, Nguyễn Văn Thành sai Nguyễn Đình Đắc, Lê Chất đi hai bên, Trương Tấn Bửu đi giữa để ông cùng Nguyễn Đức Xuyên đem voi ứng tiếp đánh núi Lão Hương. Tây Sơn lui về núi Chúa, nhưng viện binh của họ tới tăng tinh thần binh sĩ. Nguyễn Văn Thành đổ ra đánh từ mờ sáng tới trưa. Rốt lại chỉ làm cho Nguyễn Văn Sử chết, tướng nản. Lương Văn Cương, Nguyễn Văn Vân2 đang trông coi Ngự lâm quân mang cả 200 thuộc binh chạy về phía Tây Sơn để tiếp tục chiến đấu.
Lúc này, Tây Sơn cũng bối rối ở Nghệ An. Ta đã biết việc Nguyễn Văn Thụy (Thoại), Lưu Phước Tường, Nguyễn Hoài Châu, Lê Văn Xuân đem 150 người dụ Vạn Tượng đánh sau lưng Nghệ An. Phái bộ đi từ tháng 4 năm ngoái, đến Viên-chăn vào lúc Nguyễn Ánh sắp rút về nên vua Lào không quyết tâm giúp. Tháng 3 năm nay, Thụy lại về Gia Định xin thêm người, đến tháng 6 thì đem binh tràn xuống Nghệ An đánh Nguyễn Đình Lạc ở Đồn Bố, đuổi Phò mã Nguyễn Văn Trị ở Đồn Lam chạy về Thanh. Chiến dịch có lẽ không lấy gì làm dữ dội, nhưng có tiếng vang lớn vì đánh ngay trong nội địa Tây Sơn. Các thổ hào, phiên liêu như Hà Công Thái ở Thanh Hoá, Phan Bá Phụng ở Hưng Hoá cùng khắp nơi Bắc Hà nhân dịp này nổi dậy đánh phá.
Ở Bình Định, Tây Sơn vẫn chưa bị lay chuyển. Nguyễn Ánh thấy đồng Cây Cầy vững chắc muốn chuyển mũi dùi tiến quân về dưới đồng bằng. Ông sai Lê Văn Duyệt với Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành mon men ra Phú Trung. Thực lực không đủ, ông mới đưa thư bảo Nguyễn Văn Thành chia một nửa voi đi gặp Duyệt. Thành không chịu vì một mặt ông phải lo đối phó với Tây Sơn đang biết rõ ông vì hàng ngày vẫn có người bỏ qua bên kia, mặt khác ông phải lo kềm giữ chính quân ông vì “bọn ở lại cũng không đủ tin”.
Chiến trận càng kéo dài thì tinh thần binh tướng càng lung lay, nhất là ở những phần từ chưa đồng hoá. Tháng 7, hàng tướng coi Ngự lâm quân là Từ Văn Chiêu làm phản với Nguyễn Văn Điểm cùng 500 thuộc binh. Tây Sơn lại được thêm một viên tướng có tài, liều lĩnh, ngăn chặn không biết bao nhiêu trận tấn công của Nguyễn. Ánh phải vội vàng an ủi Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương. Nhưng cũng không ngăn được 150 quân Ngự lâm nữa trốn đêm ở Hội An, Ánh gượng giải thích: “nhớ quê, nhớ nhà, ai lại không vậy”.
Chưa hết bối rối cho Gia Định. Nơi đồng Cây Cầy. Thành sai người đến núi Chúa chôn thuốc nổ đốt, nhưng không lui được giặc mà còn làm chết thêm Nguyễn Công Trọng. Khi Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng nghe chuyện Nghệ An, muốn kéo binh đánh rốc một lần ở núi Hoa An nơi mà Lê Văn Duyệt vừa đuổi Tư khấu Định tháng trước, thì viên tướng Miên Cao-la-hâm-sâm của Thành lại tư thông với Tây Sơn khiến Ánh vội vã trả lại cho Thành tướng Nguyễn Đức Xuyên (vừa đem voi và Lê Chất xuống) để đổi quân Miên về giữ Cù Mông.
_____________________________________
1. Thực lục, q12, 4b, 5a.
2. Không phải Nguyễn Văn Vân, con Nguyễn Văn Trương, bị bạt gió năm 1793, về năm 1797. Nguyễn Ánh tổ chức 5 đồn quân Ngự lâm quân, lấy hàng tướng chỉ huy lính cũ Tây Sơn, dưới quyền tướng Ánh. Trong danh sách có tên Lương Văn Chương, nhưng không có Nguyễn Văn Vân, vì ở đây (Thực lục q11, 10a 0 12b) chỉ liệt kê Đô thống chế, Thống chế đồn, Trưởng, Phó chi mà không nói đến Trưởng hiệu, cấp bực của Vân. Trưởng hậu chi của Vân là Nguyễn Văn Lân.

Chiến tranh dằng dai thì vấn đề lương phạn, tiếp tế đạn dược phải gặp nhiều rắc rối, bất ngờ. Tây Sơn bị Nguyễn Văn Trương cướp mất ở Đề Di 3 vạn vuông lúa cùng thuốc đạn, khí giới chở từ Thuận Hoá, Bắc Hà vào trên 150 thuyền. Thống lãnh tên Thụy bỏ thuyền lên bộ chạy báo tin chẳng lành cho Diệu.
Nguyễn Ánh cũng gặp trở ngại. Ông có lương ở kho Diên Khánh, phụ thêm ở phủ Thuận Thành, ở kho La Hai, Hội An (đánh thuế điền, đinh nơi lính, dân Phú Yên), ở kho các nơi khác bằng cách lấy trước thuế năm sau. Lương chở đường thuỷ thường gặp các thuyền Tề Ngôi cướp phá. Từ khi Trần Quang Diệu vào Quy Nhơn thì đội thuỷ quân đặc biệt của Tây Sơn này đã lảng vảng vào đến tận Hòn Khói. Họ lẩn lút trên mặt biển cướp thuyền, thuốc đạn vật dụng của Nguyễn Văn Yến chở từ Cầu Hin đi. Họ chân đánh thuyền chở cá muối của Bình Thuận. Một mối cản trở khác chờ đợi Nguyễn Ánh là các luồng gió bấc: trong tháng 10, thuyền lương chở qua vũng Ma Văn (vũng Nại, Ninh Thuận) bị gió lớn lật úp, chết hơn 100 người, hao hơn vạn quan tiền, 4 vạn vuông gạo.
Thiếu lương, Ánh sai Lưu Tấn Hoà đi Bình Thuận, Bình Khang thu thuế với lời dụ đặc biệt: “cứ tuỳ tiện làm việc không nệ nơi lệ thường”. Cần gạo, Ánh tính lấy gạo cả nơi người Thượng ở Đồng Hương nữa. Tháng 11, điền tô tăng. Khó khăn như vậy không trách trong tháng 9 khi Lê Văn Thanh trốn đi, Vệ uý Hồ Văn Huệ bị Tây Sơn bắn chết ở núi Chúa, Nguyễn Đức Xuyên đã dâng sớ xin dừng binh chờ sang lăm gió hơi thuận sẽ đánh.
Nhưng một may mắn đã đến với quân Nguyễn. Nhờ hỏi dò dân Thượng biết được có đường đi vòng đánh tập hậu, Nguyễn Văn Thành xin thêm Tống Viết Phúc và Lê Văn Duyệt. Nguyễn Ánh đẩy Lê Chất về La Hai và cho tin quân Cù Mông chuẩn bị. Ngày 5-1 (1801), trận đánh xảy ra: Lê Văn Duyệt mặt trước, Nguyễn Văn Thành mặt sau, quân Nguyễn tấn công với một đội súng thuần thục và độ 20 đại bác cỡ nhỏ bắn gần được. Tây Sơn phải bỏ chạy đi nguồn Cơ, Đô đốc Hoan bị giết. Tiếp tục truy kích, quân Nguyễn gặp Tây Sơn góp quân lại đánh ở Tuần Dã (đồng Vòng?) ngày 11-1.1 L. Barizy đếm số địch quân đến 223.000 người. Thật quá nhiều. Viên tướng chống đối là Từ Văn Chiêu đã bày tỏ gan dạ Tây Sơn. Họ đánh rất dữ nhờ chiếm được địa thế tốt, chỉ phải chịu thua vì súng lớn, súng nhỏ của quân Nguyễn thôi. Chiêu thua bỏ chạy để Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành mở tiệc ăn mừng, quá hăng say chiến thắng, khích bác nhau, để hiểm thù kéo dài mãi về sau.
Những trận tiếp theo chỉ là những cuộc thanh toán nhỏ, Nguyễn Văn Thành đến đồng Dài sai Tống Viết Phúc đánh núi An Tượng. Tiếp theo là các trận Đầm Sanh, Sơn Chà. Tây Sơn bỏ từ núi Đá Mài đến Hoa An, Hoa Lục. Như vậy 2 đạo binh Cây Cầy đã thông được với nhau. Họ đóng binh dọc sông Hà Thanh, từ Quán Rạp đến Vân Sơn. Thành Bình Định bị vây tính gần tròn năm. Lực lượng Gia Định tuy đã tiến nhiều nhưng không đủ uy hiếp mặt sau của Thi Nại nên một số quân quan trọng của họ còn kẹt ngoài khơi với 91 thuyền và 50.000 người2. Bộ, thuỷ Tây Sơn còn đóng ở Thi Nại cản đường quân Nguyễn Ánh đổ bộ lên, và đe doạ phía sau lưng quân Nguyễn Văn Thành nữa. Nhìn vào bản đồ vụng về của L. Barizy vẽ rồi so sánh các tài liệu khác cùng địa thế thực tế, ta thấy vị trí chống đánh của hai đối phương trước của Thi Nại. Đường nước bên trong đầm đã hẹp mà Vũ Văn Dũng đem hai chiếc Định quốc Đại hiệu thuyền chở từ 5 đến 60 khẩu đại bác chắn ngay cửa với dày đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ hơn, 100 ghe chiến đậu san sát đến cửa sông đưa vào Nước Mặn. Ông còn đặt đại bác trên núi Tam Toà, trên đất liền, bãi Nhạn (phía thành phố Quy Nhơn bây giờ) dựa vào núi cao chĩa xuống bảo vệ đoàn thuyền trấn giữ. Trên bộ còn hơn 60 voi với quân lính.
Nguyễn Ánh lúc bấy giờ đang ở hòn Nần3. Từ tháng chạp Canh Thân (15-01 - 12-02-1801), ông đã dự tính sắm sẵn thuyền nhỏ, chất đồ dẫn hoả rồi móc lấy thuyền Tây Sơn đốt. Tống Viết Phúc xin đảm nhận việc đó. Ánh báo cho Thành biết mưu tính để hợp lực ngăn chặn bộ binh không cho tiếp cứu. Theo ý Thành, Lê Văn Duyệt được cử thay Phúc. Tướng sĩ lâm trận được khuyến khích bằng một lời dụ: “Đây là lúc các người báo đền ơn nước, sống thì phú quý đồng hưởng, chết thì ân điển chẳng quên; anh em trong quân, nếu anh chết em lên thay chức…”. Sử quan cũng ghi thêm rằng: “mọi người đều nức lòng đánh giặc”.
_______________________________________
1. Thời điểm “21-11 âm lịch”, “27-11 âm lịch” là của Barizy trong bức thư kể sau.
2. Theo ước lượng của L. Barizy trong bức thư gởi cho Letondal ngày 11-4-1801. Đáng lưu ý là Barizy không có dự vào trận Thi Nại. Cũng trong thư này ông phàn nàn về việc bị các quan bắt đóng gông, nhưng hai tháng sau ông đã có mặt ở Quảng Nam trong đoàn thuyền với Chaigneau, Vannier, de Forçan...
      Trận Thi Nại sắp kể đây dựa vào các tài liệu: Thực lục q13,3b-6b, thư của Chaigneau (có dự trận) cho Barizy, 2-3-1801, ngay ngày sau lúc đánh nhau, thư của Lelabousse cho Nhà Chung từ Nha Trang, 20-4-1801 (G. Taboulet, La geste française..., sđd, t. 259, 260. Thư Barizy kể trên L.Cadière “Les Francais au service de Gia Long - II - Leur correspondance” BAVH, Oct - Déc 1926, t,373- 391) có kèm bản đồ vẽ cửa Thi Nại.
      Về thực lực đôi bên, Barizy đã ước lượng Tây Sơn như sau: 1.800 thuyền với 6.000 khẩu đại bác? Ta phải ước giảm bớt vì nhớ rằng Barizy không dự trận và vốn có tính dễ xúc động. Chaigneau viết thư cho ông chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên vì khả nàng chống cự của thuỷ quân Tây Sơn thôi. Lelabousse kể chuyện có những điểm sát với Thực lục. Ví dụ ông đã chỉ đích trận từ 10 giờ đêm đến 10 giờ sáng, việc thuyền Nguyễn nhờ đêm tối và gió tiến đến gần thuyền địch đốt cháy theo kế hoả công.
3. Sử quan viết là Nan Dự. ĐNNTC, tỉnh Phú Yên gọi là Bàn Than Dự, và còn chỉ thêm một hòn đảo khác tên là Than Dự trên có khắc chữ “nan” “không biết từ thời nào”. Hòn Bàn Than và hòn Nần là một vì đều được xác nhận là một hòn đảo bên trong vùng Cù Mông, có miếu Công thần. Nguyễn Ánh ở đó điều khiển quân tướng tránh được sóng gió mà cũng cách biệt với quân thù hơn. Duy lúc đánh trận Thi Nại thì chắc ông phải dời ra đóng ở hòn Đất ngoài cửa biển Qui Nhơn. L. Barizy chỉ “Ile ông Datte”, L.Cadière gọi theo âm đọc “hòn Đạt” là sai. Đó là một trong 3 hòn: hòn Khô, hòn Đất, hòn Ngang (Khô dự, Thổ dự, Hoành dự) của ĐNNTC. q9, 15b.

Chiến trận xảy ra vào đêm 16 tháng giêng Tân Dậu (28-2-1801). Tiền chi Hoàng Văn Khánh đem bộ binh lén đến Vũng Dừa đợi ở Tiêu Cơ lửa cháy thì tiến lên công hãm trại giặc và đi vòng núi mai phục để cản tiếp viện (theo vùng đèo Son bây giờ?). Quân Nguyễn qua Tiêu Cơ bắt được thuyền tuần Tây Sơn, truy ra khẩu hiệu. Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương bèn đem thuyền nhỏ nhắm Hổ Cơ xông vào, đốt thiêu thuỷ đồn làm hiệu.
Và trận tấn công bắt đầu. Theo Lelabousse, quân Nguyễn chỉ dùng có 4.000 người trên 26 ghe chiến và 100 thuyền nhỏ. Lúc đó quân Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đã đổ bộ rồi. Các ghe chiến còn lại chở ông Tổng thuỷ “to họng” Võ Di Nguy đi trước.
Quân lính “thừa đêm tối và gió xuôi, tiến vào tàu thứ nhất, nhảy lên đốt phá. Họ xông vào cửa biển, ném vung các bó đuốc và đổ dẫn hoả ra”. Thế rồi trận đánh trở nên dữ dội. Quân Tây Sơn từ trên núi và từ các tàu bắn vãi đến. Hà tiện lời như sử quan mà cũng tả ra là “tiếng súng vang trời, đạn bay như mưa”. Võ Di Nguy trúng đạn ngã lăn ra chết. Lê Văn Duyệt không quay đầu lại, đánh mạnh hơn đến Nguyễn Ánh bảo lùi cũng không chịu. Đám sĩ quan Tây phương: Chaigneau, Vannier, de Forçan đưa các ghe chiến vào rồi quay lại bảo vệ Nguyễn Ánh khi trận chiến xảy ra. Nhưng nóng lòng, sốt ruột, máu chiến sĩ nổi lên, de Forçan lẻn đi trong đêm tối, tự mình đốt được 7 ghe chiến địch. Chiến trận kéo dài 3 giờ sáng đến đứng trưa 1-3-1801 (“Dần tới Ngọ” của Thực lục). Thuyền Tây Sơn cháy tan, nhưng họ còn cố chống giữ trong các giàn súng tới khi cuối cùng đám cháy lan đến các thùng thuốc súng làm nổ tung hết lên. Như lời Chaigneau báo cho Barizy biết chiến thắng, “ta đốt hết cả thuỷ quân giặc, không sót một chiếc thuyền nhỏ nào”.
Ông thấy rằng “người Nam chưa bao giờ phải đánh trận dữ dội như vậy” và sử quan cũng không quên kết luận: “Người ta gọi trận này là đệ nhất vũ công”.
Ngày đó, Nguyễn Ánh đổ bộ lên chợ Giã, ra dụ chiêu an rồi sai người đi báo cho Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận biết. Ông lại bảo Gia Định truyền sứ cho tin đến tận Cao Miên, Xiêm La. Tuy vậy, Ánh cũng mất đến hơn 600 người. Tướng thì ngoài Võ Di Nguy còn có Cai cơ Hoàng Văn Định, Phó Tiền thuỷ dinh và Phó Vệ uý Nguyễn Vĩnh Hựu của đạo Thần Sách.
Phía Tây Sơn, họ “chống giữ đến chết” như Chaigneau nói, cho nên toàn bộ thuỷ quân đều bị tiêu diệt. Từ nay họ không còn chút uy thế nào trên mặt bể nữa, trước cả khoảng tháng 4 âm lịch khi Đông hải vương Mạc Quần Phù cùng các tướng bị bắt lúc bị gió dạt ngoài khơi Thi Nại. Họ hoàn toàn không kiểm soát được mặt bể để tha hồ cho thuỷ quân Gia Định tung hoành ra lấy Phú Xuân mà không sợ một lực lượng lưu động nào theo kịp ngăn trở nữa. Trần Quang Diệu còn bức được Võ Tánh chết, nhưng sự thực đám quân tướng Tây Sơn ở đây mấy tháng sau phải tan rã trên rừng chính vì không thể nào di động theo các đồng bằng dọc biển mà không có yểm trợ của thủy quân, chính vì sự tan vỡ ở trận Thi Nại này vậy.
______________________________________
1. Biệt hiệu của người Tây gọi Võ Di Nguy, theo Barizy. Cũng Barizy cho biết người ở tiền tuyến là “ông Yun koun” (Giám quân) mà Cadière chỉ là Phạm Văn Nhân, người giữ chức Giám quân của 5 đội quân Thần Sách (Thực lục, q10, 8a). Thực ra, Nguyễn Ánh đã cắt Nhân nằm ở Cù Mông. Người ở tiền đạo, như ta đã biết, là Nguyễn Văn Trương và Tống Phúc Lương. Nguyễn Văn Trương có hồi cũng làm Giám quân dinh Trung thuỷ, rồi coi dinh Trung thuỷ, kiêm cả Tiền, Hậu thuỷ (Thực lục, q7,26b), coi cả thuỷ quân suất các chiến dịch về sau. Cho nên, ông Giám quân Barizy nói ở đây là Nguyễn Văn Trương vậy.
2. L.Barizy còn viết thư ngày 11-4-1801 nhận Nguyễn Ánh mất 4.000 người, Tây Sơn mất 50.000 người, toàn bộ thuỷ quân và thuyền bè chuyên chở trên 1.800 chiếc, 6.000 khẩu đại bác. Tưởng chỉ nên lưu ý đến tính cách tiêu diệt hoàn toàn thuỷ quân Tây Sơn mà thôi.
3. Barizy ghi tên trên bản đồ đầm Thi Nại là “port de Qui nhon autrement Choya” (Chợ Giã). Thị xã Qui Nhơn hiện vẫn thường được dân quê gọi nôm na là “Giã”, tên một thứ thuyền, lưới bắt cá dân chài thường dùng.
4. Tiết này, ngoài những chứng dẫn khác có ghi rõ, đều lấy từ Thực lục q10, q12, q13, 1a-6b.

Tiết 19
CHIẾN TRANH Ở PHÚ XUÂN VÀ BẮC HÀ
Cuộc tử thủ của Tây Sơn ở Quy Nhơn và ý kiến giải vây cho nơi này * Trận chiếm Phú Xuân * Cố gắng tuyệt vọng của Tây sơn ở Quy Nhơn và luỹ Thầy * Kết thúc chiến tranh ở Bắc Hà.
Chiến thắng Thi Nại làm nhẹ bớt nỗi “uất uất không vui” của Nguyễn Ánh. Nhưng lực lượng bộ binh của Tây Sơn vẫn còn nhiều hùng khí. Khi Ánh sai Lê Văn Bản đem quân đi hai vũng Nồm, Bấc đóng giữ tuần phòng thì Vũ Văn Dũng đã hợp với Trần Quang Diệu chia người trấn giữ: Tư khấu Định đóng ở Bến Đá, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ giữ đầm Nước Ngọt, Đô đốc Vũ Văn Sự trấn Tân Quan ở giữa. Hàng phòng vệ ấy dùng để cản sao cho họ rảnh tay công thành sau khi họ đã tụ tập quân lính thề chiếm lấy cho kỳ được.
Quân Nguyễn nhân đà thắng cũng muốn tiến lên phá vỡ vòng vây cho Võ Tánh. Nguyễn Văn Thành sai Tống Viết Phúc đóng ở Càn Dương. Binh Tây Sơn đánh giết Vệ uý Trần Văn Xung ở chợ Chánh Lộc. Quân Phúc kéo đến thì Tây Sơn lui. Rượt đuổi đến Thạch Cốc1, Phúc rủi gặp kẻ thù. Đô đốc Từ Văn Chiêu vẫn hậm hực về tiếng gọi “hàng tướng” của Phúc, có dịp để trả thù bằng một trận phục binh chiến thắng lớn lao. Phó Đô thống chế Phạm Văn Cơ, Vệ uý Nguyễn Văn Tri bị bắt, hai Vệ uý Hoàng Phúc Bảo, Hoàng Văn Tứ bị giết khiến Phúc phải bỏ quân chạy về Thi Nại. Như vậy rõ ràng chiến thắng thuỷ trận mới đó chưa đủ làm điên đảo Tây Sơn trên bộ.
Mọi người hoang mang. Lúc bấy giờ chính ai đã đề nghị ra đánh Phú Xuân để không những cứu gỡ cho tình thế mà còn làm cho chiến thắng trở nên quyết định như lời De la Bissachère? Theo ông này, Nguyễn Ánh bị thúc đẩy bởi các tướng Bắc Hà đang chán nản vì phải đánh lâu quá bắt đầu muốn bỏ rơi ông và cũng được vài người Pháp khuyến khích, nói rằng đánh ra Phú Xuân vẫn là ý kiến của Giám mục d’Adran. Với sử quan thì người bày mưu đó với người đề nghị đốt Thi Nại cũng là một: Đặng Đức Siêu, người Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn, đồng hương với chúa Tây Sơn2. Họ cũng có ghi thêm ý kiến của Võ Tánh, nhưng ta có thể coi lời Võ Tánh như một sự chấp nhận hy sinh hơn là một sáng kiến. Vinh dự đó có lẽ để dành cho mưu thần Việt thì phải hơn vì cái thế “vây Nguỵ, cứu Triệu” đầy dẫy trong binh pháp Đông phương.
Cho nên, sau khi lên Vân Sơn coi đồn trại địch một ngày rồi về3, bắt đầu tháng 2 âm lịch, Nguyễn Ánh sai Cai cơ Tống Phúc Chu về Gia Định hợp với Lưu trấn ở đó là Nguyễn Văn Nhân tuyển thêm một vạn binh, nếu cần bắt cả lính đồn điền. Rồi cũng có việc xét dân bắt lính ở Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận. Ánh có nói rõ mưu mô dự tính cho Nguyễn Văn Trương để đem binh thuyền đánh Quảng Nam, Quảng Ngãi trước.
Nhưng cuộc vét dân đã gây phản ứng về phía dân chúng. Phạm Văn Điềm chạy lên rừng từ hồi quân trong mới kéo ra, nay tụ tập được 500 bộ đảng đánh đốt Hội An, đuổi Lưu thủ Phan Tấn Tuấn chạy ra Xuân Đài nhờ cậy thuỷ binh của Tống Viết Phúc, Nguyễn Đức Xuyên được phái tiếp viện.
Mối loạn Phạm Văn Điềm là khó khăn mới cho Nguyễn Ánh, dằng dai, làm nhọc mệt quân Nguyễn không ít. Trong tháng ba, đánh rồi chạy, chạy rồi lên đánh Điềm đã quấy rối Phú Yên trước mặt danh tướng Lê Chất. Lưu Tấn Hoà giữ Hội An bị Điềm lén đốt phong hoả đài tuyệt đường thông tin, đánh úp giết chết. Nguyễn Long đóng ở La Hai định chiếm lại Hội An lại bị đánh lén phải bỏ cả lương phạn, khí giới chạy về sông Đà Rằng. Tội nghiệp cho viên Thượng đạo tướng quân 20 năm trên rừng, mới làm chỉ huy lần đầu đã phải bại vong. Lê Chất ra tay, hợp binh với Hoàng Văn Khinh người thay Long, tiến đánh bắt Đô tư Nguyễn Nhiễu ở bến Gạo (Mễ Tân). Điềm bỏ chạy lần nữa nhưng vẫn còn sẽ gây khó khăn trong tỉnh, sau lưng quân Nguyễn Văn Thành.
Trong lúc đó thì tiến triển thuỷ quân Nguyễn vẫn khả quan. Nguyễn Văn Trương đổ bộ Cổ Luỹ, đốt kho Trà Khúc đuổi Đô đốc Tuấn chạy, rồi ra cửa Đại Chiêm đánh Hội An, Phú Triêm bắt 24 voi. Ở La Qua, ông đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Xuân, Lưu thủ Thiếu uý Lưu Tấn Thể lấy hơn 80 đại bác, binh thuyền, khí giới4. Nghe tin, Nguyễn Ánh phái thêm Tống Viết Phúc đem 1.000 binh và 30 ghe chiến đến giúp. Ông còn cho cả Phạm Văn Nhân lãnh 3 chiếc Long, Phượng, Bằng trong đội cận vệ của ông ra Đà Nẵng.
Để việc rút quân khỏi tiết lộ, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Công Nga đem 15 thuyền ngày đêm tuần tiễu từ cầu Tân Hội tới Nước Mặn, từ sông Tam Kỳ (?) tới sông Dinh, Gò Bồ (Phù Sa), cấm dân chúng lai vãng, xầm xì tin tức.
_______________________________________
1. Có Thạch cốc tự, gọi nôm là “chùa Hang” nổi danh, thuộc xã Mỹ Hoà, quận Phù Mỹ, Bình Định.
2. Liệt truyện, q10, từ tờ 6b, truyện Đặng Đức Siêu.
3. L.Barizy trong thư 11-4-1801 dẫn việc Nguyễn Ánh có mặt ở trận “Dung thi” (Đồng Thi, đồng Cây Cầy) tháng 11, 12 âl năm ngoái, “tay mang ống viễn kính”. Barizy lúc bấy giờ còn ở Gia Định, mới vừa ra tù nhờ lệnh hoàng tử Cảnh trước khi chết (20-3-1801), không biết có được tin đích xác không. Vì sau trận đồng Cây Cầy, Vân Sơn thuộc về quân Nguyễn, nhưng Thi Nại chưa bị phá, Nguyễn Ánh có bỏ hòn Nần lên bộ thám sát không? Cho nên chuyện lần này có vẻ đáng tin hơn chuyện lần trước.
      Còn địa điểm Vân Sơn theo lời tả của ĐNNTC, tỉnh Bình Định, mục “Vân Sơn giang” thì chắc là vùng Vân Hội, quận Tuy Phước (đã nói) chớ không phải gò Vân Sơn (có nhà ga cùng tên), gần Chà Bàn, nơi nổi tiếng nhờ Chế Lan Viên ngồi khóc dân Chàm.
4. Thư Barizy cho các ông Marquini, Letondal, 16-7-1801 (BAVH, Oct - Déc 1926, t. 401) kể trận đánh lấy Huế, có nhắc trận Đà Nẵng hôm 8-3 lấy 30 voi, 84 đại bác, kho gạo, áo quần. So với số súng và voi thu được với Thực lục ở đây, ta chắc 2 trận của 2 tài liệu chỉ là một.
 
Ngày 27-5-1801, binh thuyền Gia Định tới Quy Nhơn với 10.900 bộ binh, trên 27 ghe chiến và nhiều ghe trí súng1. Quân ở vài ngày, Ánh đưa mật thư bảo Võ Tánh lén bỏ thành chạy ra và đồng thời tuyên lệnh ban thưởng cho những người nào bắt được vua tôi Quang Toản. Ngày 3-6, quân Ánh rút đi sau khi đốt lửa ở núi Một báo tin cho Nguyễn Văn Thành ở Vân Sơn biết và để giã từ viên Phò mã Hậu quân, người anh hùng cuối cùng của Gia Định Tam kiệt. Ngày 7-6 quân đến Đà Nẵng, Ánh sai Nguyễn Văn Trương, Phạm Văn Nhân đem thuyền đi trước đến cửa Eo (Noãn khẩu, cửa Thuận An). Trận đánh Phú Xuân bắt đầu2.
Tám giờ sáng ngày 11-6, thuỷ quân Nguyễn đến dàn trước mặt cửa sông Hương chia làm 2 đạo: các tàu và thuyền trí súng dưới quyền Phạm Văn Nhân hướng vào cửa Thuận An, 42 ghe chiến và 300 ghe nhỏ chở 15.000 bộ binh theo Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt, Lê Chất nhằm vào cửa Tư Hiền (Tư Dung, hay nôm na, cửa Ông theo bản đồ của Barizy). Người giữ cửa là Phò mã Nguyễn Văn Trị đóng trên núi Quy Sơn (núi Linh Thái) với 10.000 người dựa thế hàng cọc gỗ đóng chặn bên bờ sông ngăn ghe thuyền địch.
Năm giờ sáng ngày 12, cuộc tấn công bắt đầu. Binh Tây Sơn trên núi cao bắn xuống rất dữ, các ghe thuyền lại mắc phải cọc chìm khá nhiều. Trận chiến kéo dài đến suốt ngày (từ Thìn tới Dậu): 7 giờ sáng tới 5 giờ chiều. Lê Văn Duyệt bàn với Lê Chất rằng không đánh tập hậu không được. Đêm đến, ông đem 20 thuyền lén vượt bờ cát, trước sau ập lại, bắt được Nguyễn Văn Trị cách đồn độ 500 thước. Đô đốc Phan Văn Sách cùng 500 người phải hàng.
Trong lúc trận chiến tiếp diễn ở cửa sông thì trên Kinh thành một âm mưu nội tuyến của giáo đồ bị tiết lộ3. Một người thợ mộc ở Phú Xuân đã lén thuyết phục Nguyễn Ánh rằng các giáo sĩ và giáo đồ có thể giúp ông được. Ông bèn gửi thư cho Giám mục (có lẽ Labartette) và các giáo sĩ báo tin quân ông đến và xin các ông này cầu nguyện cho. Lúc trở về người thợ mộc bị bắt và khai tất cả. Dưới sự thúc đẩy của Nội hầu Lê Văn Lợi (Barizy viết “Hoe Hanh Loi”: Lê Văn Lợi, hay “Noé haw Loée”: Nội hầu Lợi), một lệnh truyền tru diệt những người Thiên Chúa giáo trong vùng được tung ra ngày mồng 5 - 5 (tết Đoan Ngọ), nếu quân Nguyễn Ánh không vừa tới kịp.
Trong sông, quân Nguyễn gặp một số tàu trong 64 chiếc từ Bắc vào tiếp viện dưới quyền một viên Tư mã mà Barizy gọi là “Noe”. Hai mươi bảy thuyền có trí súng của Tây Sơn có mang cờ lụa đỏ tiến đến ngăn chặn đội thuyền Phấn Dực, chỉ trong phút chốc đã bị đánh thua chạy. Ba giờ chiều mồng ba tháng 5, ghe thuyền quân Nguyễn vào bến Phú Xuân. Quang Toản vội vã mang vàng bạc, bỏ cả sắc ấn nhà Thanh lại để chạy cốt thoát lấy thân với em là Thái tể Quang Thiệu, Thái sư Quang Khánh cùng Đại tư mã Tứ, Đô đốc Trù. Ở lại hàng có Nội hầu Lê Văn Lợi, Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ cùng các Phụng nghi, Thị lang bên văn, Đô đốc, Đô tư bên võ. Barizy đi thăm người bị bắt thấy có mặt mẹ Trần Quang Diệu, em vợ ông, vợ Vũ Văn Dũng với các con Ngọc Hân mà ông không tiếc lời khen ngợi vẻ mặt ưa nhìn cùng thái độ cứng cỏi của họ (đây là Quang Cương, Quang Tự, Quang Diệu của Thực lục).
Nghe tin quân Nguyễn đánh Phú Xuân, Trần Quang Diệu sai Tư khấu Định đem 5.000 quân vòng đường núi về cứu. Quân đi 12 ngày đường bị người Thượng ngăn trở, Định tới thì Phú Xuân đã mất liền đóng quân cách đấy nửa ngày đường, người ngựa mệt nhọc lăn ra ngủ. Lũ chăn trâu về báo, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất đem quân bản bộ tiến đánh thì bị vây ở vùng núi gần đó. May sao 4.000 quân hậu tập đến vừa kịp phá tan vòng vây. Định bỏ chạy chết trong rừng. Ba Đô đốc bị bắt, trong đó có Đại Đô đốc Lê Văn An mà tuổi trẻ và khí vũ hiên ngang khiến Nguyễn Ánh phải mến phục.
Ở Quy Nhơn, Trần Quang Diệu cũng lo công kích thành gắt gao. Võ Tánh đánh ra một lần cuối rồi tự đốt chết sau khi bảo Lưu thủ Nguyễn Văn Thanh đưa súng cho Trần Quang Diệu gởi gắm tướng sĩ. Như vậy Tây Sơn đã thanh toán xong đạo quân trong vòng vây để rồi phải lo phá vòng vây.
Trong nửa năm sau 1801, phía bắc không có gì đáng lo lắng cho Nguyễn Ánh. Ông đã sai Nguyễn Văn Trương đuổi theo vua tôi Quang Toản đến sông Gianh chận bắt 2.000 quân chạy trốn. Thế mà Tây Sơn còn ráng thắng một trận để chặn đường cho vua họ chạy thoát. Nguyên khi Tây Sơn đến Hoành Sơn, Trương sai Nguyễn Kế Nhuận đem 7.000 binh thuỷ bộ chận đánh. Đến núi Thần Đầu bị phục binh, Nhuận phải chạy bỏ quân chết quá nửa. Viên hàng tướng Tây Sơn từ đất Gia Định nay bị Nguyễn Ánh kể tội đem ra giết chết.
__________________________________________
1. Thư Barizy đã kể, danh xưng về các thuyền lộn xộn quá: galère, chaloupe canonnière, demi-canonnière rồi “ghequienne”! Chuyển tiếp viện này không thể lẫn với chuyến đầu năm do Trần Công Thái dẫn Hậu quân Gia Định ra (Thực lực, q10, 3b). Số lượng 10.900 quân ghi ở đây, 10.000 ghi ở thư khác, ngày đến Qui Nhơn cho ta quyết chắc là chuyến chuyển quân vào tháng 4 âm lịch của Thực lục (q13,22a)
2. Trận Huế, ngoài Thực lục, thư Barizy kể trên, còn có tài liệu ở Liệt truyện q7, 17b, về Phạm Văn Nhân, q8, 8a về Nguyễn Văn Trương, q21, 20b, Nguyễn Văn Thành, q22, 6b Lê Văn Duyệt, q24, Lê chất, q30, 51ab Nguyễn Quang Toản.
3. Thư Girard gởi cho Letondal, 25-6-1801, thư Barizy cho Marquini, 15-7-1801 (A. Launay, III, t. 422, 423).
4. Thời điểm lấy của Barizy vì chi tiết vẽ rõ hơn, Thực lục có nói đến lúc rời Qui Nhơn ngày Canh Ngọ (5-6-1801), đến Đà Nẵng ngày Quý Dậu tháng 4 âl (8-6-1801).
5. Theo Barizy tả biến chuyển thì 3 giờ chiều 13-6 trùng với 3-5 của Thực lục (q14, 1b). Nhưng Nguyễn Ánh ở dưới thuyền ngự đến 8 giờ sáng 15-6 mới vào Kinh thành có lẽ vì muốn chờ tết Đoan Ngọ (tốt ngày? long trọng?). Vì lẽ đó nên Girard mới nói đến chuyện giải phóng Huế ngày 15-6.
6. Thực lục q14, 10ab, Liệt truyện q22, 7ab. Thư Barizy do Cadière đã kể có nhắc tên 3 Đô đốc hàng là Do Doue Cane (giải thích là Lương Văn Canh như Cadière là sai), Boune và Banaa. Lê Quốc Cầu và Lê Văn Từ bị bắt trong trận không có âm tên giống như vậy, Duy Boune có lẽ là Tống Phúc Phượng (Liệt truyện, q25) hơn là Nguyễn Bá Phong như Cadière đã theo lời chỉ dẫn của Ch. Maitre. Phượng cầm cánh quân riêng 1.000 người và tự đi đầu hàng trước.
7. Liệt truyện q8, 9a.

Tuy nhiên mặt nam mới là đáng chú ý tới1. Nguyễn Ánh bảo Nguyễn Văn Trương sai Hoàng Văn Điểm giữ Thanh Hà rồi về Đồng Hới sửa luỹ phòng thủ. Thu thêm 52.000 binh Tây Sơn nhập binh mình, Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Tống Viết Phúc đánh vào. Đến Trà Khúc, Phúc lập được công lớn: đánh bắt Đô đốc Nguyễn Văn Khôn, Tham đốc Hồ Văn Tự cùng 3.000 quân. Nhưng ông rủi ro lại gặp kẻ thù: viên tướng do Trần Quang Diệu phái ra với Đại Đô đốc Lê Danh Phong (sau ra hàng) lại là Từ Văn Chiêu, nên đã phục binh giết chết Phúc, ngăn hẳn con đường tiến quân của Duyệt, Chất đang đóng từ cửa Mỹ Á giăng lên núi.
Phía nam chiến luỹ đó, 30.000 quân (ước lượng của Barizy và tính toán của Nguyễn Ánh) của Nguyễn Văn Thành cũng đang mệt nhọc với quân Dũng, Diệu và bọn hàng tướng trong thành Bình Định. Ở phú Yên, thỉnh thoảng Phạm Văn Điềm cũng làm rối 6-7.000 quân của Tiên phong Hoàng Viết Tuyển.
Tháng 8 Tân Dậu (1801), Tây Sơn muốn đánh Hoa An, Hoa Lộc để thông với Phú Yên bèn đàn áp thật mạnh ở Sơn Chà, tiến đến sông Dinh, sát núi Một, nhưng không kết quả. Trần Quang Diệu lại chuyển 18.000 quân ra phía Bắc, mưu sai Từ Văn Chiêu đem 2.000 quân đánh úp sau lưng Lê Văn Duyệt để phá thế bao vây mà tìm đường ra Bắc Hà nhưng cũng không toại nguyện. Mặt nam Bình Định, Nguyễn Văn Thành lại tung quân đánh mạnh từ luỹ Lò Giấy (Lô Chỉ) đến Tân An khiến Diệu phải trở vào tiếp tay với Vũ Văn Dũng tận vét dân binh chống cự. Trận chiến cứ dằng co như vậy trong tháng 10.
Trong khi đó ở Bắc Hà, Tây Sơn cố gượng dậy. Quang Toản cải hiệu Cảnh Thịnh làm Bảo Hưng, hạ chiếu tự cải lỗi để uy phủ các trấn, sai đắp gò tròn nơi cửa ô Chợ Dừa và đầm vuông nơi hồ Tây để hạ chí, đông chí ra đó tế trời đất. Công việc thật có vẻ của thời thái bình thịnh trị khiến cho Nguyễn Huy Lương phải làm bài phú Tụng Tây Hồ, ca ngợi công đức Tây Sơn một cách quá muộn màng. Nhưng Nguyễn Văn Trương ở sông Gianh cũng nghe điệp báo nói Bắc Hà “xứ xứ lũ động” nên hi vọng của Tây Sơn tranh đoạt lại đất đai thật là mỏng manh.
Tuy vậy, tháng 8 âm lịch, Quang Thùy cũng dẫn quân bản bộ đi Nghệ An trước. Ở Bắc trong 3 tháng, Quang Toản đốc 3 vạn binh tứ trấn cùng Thanh Nghệ, lưu Quang Thiệu, Quang Khánh lại Thăng Long rồi kéo quân vào Nam. Từ tháng 11 Tân Dậu ra đi mà tới 1-1 Nhâm Tuất (1802) mới xảy ra trận đánh luỹ Trấn Ninh, thật quá xa thời Quang Trung tung quân.
Những danh tướng Tây Sơn mắc kẹt ở Quy Nhơn để ở đây nổi bật lên hình bóng một anh thư mà giáo sĩ De la Bissachère đã hết lời ca tụng đến nỗi đem tăng quân số bản bộ từ khoảng 5.000 lên đến 300.000! Thuỷ quân Tây Sơn do Thiếu uý Đặng Văn Đằng và Đô đốc Lực dàn trên 100 thuyền bày trận ngoài cửa Nhật Lệ. Trên bộ, Quang Thuỳ, Tổng quản Siêu thẳng lên luỹ Trấn Ninh. Và ở mút phía Tây luỹ, nơi núi Đâu Mâu có Tư lệ Đinh Công Tuyết và Đô đốc Nguyễn Văn Kiên cáng đáng. Chiến tranh xảy ra như 150 năm về trước cũng nơi đất này, tuy các vai trò đã đổi thay.
Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Trương đánh ngoài biển, Phạm Văn Nhân, Đặng Trần Thường phản binh cự. Quân Tây Sơn bị chết cả ngàn vẫn leo lên núi Đâu Mâu như kiến. Nguyễn Ánh sai thả đá xuống vẫn không ngăn được. Bùi Thị Xuân đốc thúc voi, binh tử chiến từ sáng tới trưa, đã phá đổ một vài mảng thành. Ngôi vị Nguyễn Ánh tưởng bị đe doạ lần nữa. Nhưng ngoài biển, Nguyễn Văn Trương phá tan được thuỷ quân Tây Sơn. Trên đất, Nguyễn Văn Kiên tiến quá sâu với 8-900 bộ binh bỗng nhiên chịu hàng. Thế mà Bùi Thị Xuân còn đánh mãi tới xế. Thuỷ quân Nguyễn theo đà thắng đổ bộ đánh tập hậu. Quang Toản vội vàng rút lui, bỏ quân Bùi Thị Xuân rối loạn theo. Thế trận đánh tan rã đánh dấu lần quật cường cuối cùng của Tây Sơn.
Trận Trấn Ninh cũng làm tiêu tan hi vọng của quân Tây Sơn ở Quy Nhơn. Trong hai tháng đầu năm Nhâm Tuất (1802), họ đã phục binh giết được Phó tướng Nguyễn Văn Huệ và cố gắng cầm cự với quân Nguyễn Văn Thành hợp với Lê Văn Duyệt vào đánh luôn trong 7 ngày. Vùng dưới biển gần Thi Nại, từ sông Dinh lên núi Kỳ Sơn đều bị quét sạch đến mãi Vườn Cau. Vũ Văn Dũng đem nhiều binh đến đánh, không chiếm được mà còn hao các Đô đốc nữa. Cảnh quân Lê Văn Duyệt, Lê Chất đánh ép vào Bến Đá, thuỷ binh đổ bộ Tam Quan, Đề Di.
Nhưng cái nguy nữa cho Tây Sơn chính là thiếu lương. Hồi tháng 2 họ định vượt núi Nha Tham lén cướp Phú Yên nhưng đã bị Nguyễn Văn Thành chặn lại được. Bây giờ cho dù Trần. Quang Diệu và Vũ Văn Dũng có muốn đi cướp Gia Định như giáo sĩ De la Bissachère nghe đồn cũng không được nữa7. Tháng ba năm đó, hai người đều hết lực bỏ thành đem quân đi vòng trên núi ra Bắc với 80 tướng, 3.000 binh mạnh và 86 voi.
Tháng 5, Nguyễn Ánh lên ngôi tôn, niên hiệu Gia Long. Đối với chúng ta, ý nghĩa chính là ở chỗ cuộc chiến kéo dài 30 năm đã sắp chấm dứt.
______________________________________
1. La relation sur le Tonkin...., sđd: t.108, 109. Thư Langlois cho Boiret. 3-9-1802 (BEFEO, 1912, t.55)
2. Con số 52.000 là của Barizy. Thực lục q14, 16b - 18b, Liệt truyện q13, 9b, 10ab.
3. Trường hợp Nguyễn Văn Tồn (Liệt truyện q28, 3ab) khi thành Bình Định mất theo Tây Sơn đánh rất hăng, quân Nguyễn kêu không ngó lại, đến khi trở về, người ta hỏi, ông trả lời: “Đánh hăng cho giặc khỏi nghi”. Ấy vậy mà không biết sử quan nghe ở đâu lại nói có người khen là “có trí”.
4. Theo sự kiện kể ở đây thì chắc là hòn Chà vùng nam sông Vân Sơn (Vân Hội) chớ không phải núi Trà (Trà Sơn), Chà Rang (Trà Lang Sơn) ở Phù Cát, tây bắc Chà Bàn của ĐNNTC.
5. Thực lục q15, 1b, 17a, 20ab.
6. Trận Trấn Ninh: Thực lục, q15, 28ab, q16; Liệt truyện q8, 11b-13a, q30, 53ab, 54a; La relation sur le Tonkin... sđd t.108-111. Tuy De la Bissachère quá tán tụng Bùi Thị Xuân nên mới lo sợ giùm cho Nguyễn Ánh, nhưng đã có những chi tiết đúng như: voi phá vài nơi của luỹ Thầy (Liệt truyện: “Bùi Thị Xuân suất tượng khu chúng”), đánh tới 2 giờ chiều (“quá trưa” của Liệt truyện). Duy ông không biết đến tên viên tướng phản bội mà ta gán cho Nguyễn Văn Kiên vì ông này có mặt trong trận và có tên trong danh sách hàng tướng.
7. La relation sur le Tonkin, sđd, t. 113. Có thể vì toan tính đánh ở Phú Yên trong dịp này mà người ta đồn tới tai De la Bissachère rằng Trần Quang Diệu muốn vào lấy Đồng Nai chăng?

Từ lâu trong quân đội Nguyễn Ánh có những người Bắc Hà đầu quân mưu khôi phục nhà Lê. Nguyễn Ánh vẫn mập mờ dùng niên hiệu Cảnh Hưng trong các văn thư. Các cựu thần nhà Lê lại thường tổ chức những cuộc xâm nhập Bắc Hà để quấy rối hậu cứ Tây Sơn. Nhưng khuynh hướng phò Lê theo với thời gian đã trở thành lỗi thời, quần thần nhà Nguyễn xuất thân ở Nam Hà tranh quyền bằng xương máu của mình hẳn không phải để đặt lên ngai vàng một ông vua lưu vong chưa từng chia xẻ gian khổ với họ. Ý nghĩa việc đúc tiền năm 1796 với danh hiệu Gia Hưng riêng biệt cũng là một dấu vết phủ nhận từ Nguyễn Ánh1. Việc Tây Sơn cầm quyền xứ Bắc trên 13 năm đã xua tan thành kiến ranh giới sông Gianh. Tây Sơn chịu tiếng cướp nước, nhưng sẽ mở đường cho kẻ sau vượt tiếp mà không thấy trở ngại nhiều. Bởi vậy, khi Nguyễn Ánh đánh Bắc mà phân vân “Bắc Hà vốn là đất của nhà Lê” thì Đặng Đức Siêu, Trần Văn Trạc mới có thể lý luận: “Đất Bắc là của Tây Sơn rồi... Lấy đất Bắc là lấy của Tây Sơn chứ lấy gì của Lê!”.
Lên ngôi xong là Nguyễn Ánh đã dứt khoát sau khi chuẩn bị đầy đủ cuộc vận động tâm lý quần thần. Những người Bắc Hà đã được dự bị từ lâu để theo quân ra: văn thần có Đốc học Nguyễn Gia Cát, Hàn lâm viện Mai Huy Đường đã chờ sẵn từ tháng 6 âm lịch (1801), Đặng Trần Thường cũng được rút từ quân thứ Bình Định đến với Tham quân Hậu dinh là Nguyễn Trí Hoà. Quân Bắc phạt gồm cả một lực lượng hùng hậu. Tiền quân mang 60.000 binh, Tả quân Lê Văn Duyệt dẫn 86.000 người, Hậu quân Lê Chất 50.000 người; Nguyễn Văn Trương mang 50 tàu, hơn 100 ghe chiến. 800 thuyền có trí súng, 500 thuyền nhỏ hơn chở 50.000 người, tất cả rầm rộ tấn phát.
Quân đi dũng mãnh nhưng đã có bài “Hịch dụ các người trung nghĩa ngoài Bắc thành” để chứng tỏ là Vương sứ đến. Lời kêu gọi nhắm vào việc động viên người Bắc hưởng ứng quân Nam, phục thù cho nhà Lê:
“Trước để sanh hồi miếu xã - sau là chửng cứu sinh linh.
“Khuyến người trung nghĩa ngoài này - rõ ý không phù trong ấy”.
Nhưng chúng ta hãy nghe tiếp:
“Nghe võ hịch một lòng ứng Hán, giúp cơn đông lạc thuở trùng hưng;
“Dựng can kỳ bốn mặt công thành, từ thuở sơn man thất thế”.
Nhắc chuyện bạo Tần tức là nhắc chuyện dời đổi triều đại, tuyên xưng cho một phía là nhà Hán, tức là bắt mọi người phải công nhận quyền uy của triều đại mới, người viết hịch trong ước mơ của một di thần Lê Trịnh cũng đành phải vô tình nhận rằng phân tranh sắp chỉ vào là dĩ vãng và nhà Lê chỉ còn là bóng mờ mà thôi.
Cho nên cuộc Bắc phạt thành công thực dễ dàng. Nguyễn Văn Trương đi trước đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, rồi cùng với bộ binh của Lê Văn Duyệt, Lê Chất hợp nhau quét sạch xứ Nghệ. Trấn thủ Nguyễn Văn Thận, Hiệp trấn Nguyễn Triêm, Thuỷ quân Thống lãnh tên Đại, Thiếu uý Đằng đều bỏ chạy. Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Điểm, Lê Công Hưng (phần lớn đều là hàng tướng cũ lại trở về), theo đường thượng vừa đến. Diệu qua đèo Quy Hợp vào Nghệ An thì nơi này đã mất, bèn qua Thanh Chương, vượt sông Thanh Long. Lính theo hao mòn vì thiếu ăn, bệnh tật, nên bỏ rơi tướng họ sa vào tay bọn nông dân ham tiền. Cuộc đời dõng mãnh, thanh cao rồi sẽ cùng chấm dứt với người vợ hiếm có. Phần Vũ Văn Dũng cũng không thoát tay dân Nông Cống.

Quân Nguyễn qua Thanh Ba bắt Quang Bàn và Văn Thận. Đằng và Hổ đem nhau ra hàng. Đến Sơn Nam hạ, Nguyễn Văn Trương lùa được bọn Thống binh Tề Ngôi lên bộ, bắt Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng. Ngày 15-7-1802, Thiếu uý Nguyễn Văn Thọ mở cửa thành Thăng Long ra hàng. Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, các Đô đốc Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ, Tú (Từ Văn Tú?) vượt qua sông Nhĩ Hà chạy trốn. Họ không may mắn hơn những người trước. Đêm ở Xương Giang, dân chúng đón bắt, Quang Thuỳ, Đô Đốc Tú và vợ cùng tự vẫn. Còn Quang Toản bị dân Phượng Nhỡn bắt, chấm dứt đời Tây Sơn.
Ngày 20-7, Nguyễn Ánh ra tới Thăng Long, đặt chân lên nơi mà hơn 200 năm trước, tổ tiên ông phải giả tiếng mới về Nam được. Thăng Long, Thanh Hoá, Phú Xuân, Gia Định rồi nối vòng Gia Định, Phú Xuân, Thăng Long, con đường thật dài, thật đầy gian nan, cực nhọc mà cũng đầy vinh quang. Đất nước mệt mỏi vì chiến tranh nay đã tìm được đường thoát trong thống nhất, yên nghỉ. Một giai đoạn mới bắt đầu với Nguyễn Ánh - Gia Long.
_____________________________________
1. Thực lục, q9, 6a.
2. Thực lục q16, 17b.
3. Thực lục q14, 20b, 22b.
4. Số lượng quân trong thư Barizy gởi cho Marquini và Foulon, 15-6-1802 (BAVH, Oct-Déc 1926). Chuyện Bắc phạt: Liệt truyện q8, 13ab, q30, 54ab, Thực lục q17, 11b-18a.
5. Tác giả Vũ Huy Dao, trích trong Morceaux choisis... t.254, 255.
6. La relation sur le Tonkin, sđd, t.114, 117; Liệt truyện q.30, 54b, 55a. Trong tập Bình Định (1964), Ty Thông tin Bình Định, trang 13, 24 có đoạn xác nhận rằng Vũ Văn Dũng là người địa phương (thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, quận Bình Khê), sau khi bị bắt bèn trốn thoát, cải danh là Vũ Văn Độ, mất ở An Khê năm 1853. Nếu ông Độ có thật thì chắc là một người bà con lưu lạc chớ chuyện Vũ Văn Dũng trốn thoát là điều khó tin (Dũng không quá trẻ để đến mãi năm 1853 mới chết!). Trần Quang Diệu nhờ tha chết cho binh tướng Võ Tánh mới được đặc ân uống thuốc độc, khỏi bị voi xé như vợ con. Còn Vũ Văn Dũng mà đầu cũng treo giá đồng thời với của quan Thái phó thì làm cách nào thoát khỏi nanh vuốt của Nguyễn đang thắng được? Dũng là người Hải Dương đã có bằng cớ hẳn hoi nơi tước Chiêu Viễn hầu như ta đã nói trước.

Chương kết
Tiết 20
TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ CHẤM DỨT PHÂN TRANH

Vai trò từng cá nhân trong diễn biến lịch sử chấm dứt phân tranh * Ý nghĩa của thời gian 32 năm rối loạn * Những dữ kiện hướng dẫn tái lập hoà bình mở đầu cho thời kỳ cận đại ở Việt Nam.
Lịch sử vừa đóng hết một giai đoạn rối rắm, tàn bạo. Chiến tranh liên miên trên một vùng đất đầy những đặc tính phức tạp, riêng rẽ khiến ta thấy những bộ mặt đặc biệt hiện ra, biến đi tuỳ theo tình thế thay đổi. Về phía Tây Sơn, những Nhưng Huy, Tứ Linh, Huyền Khê, Nguyễn Thung, Giáo Hiến có danh vọng không vượt qua được giai đoạn đầu của một đám cướp nổi loạn. Phạm Văn Sâm, Phạm Văn Hưng và cả Trần Quang Diệu nữa cũng được nuôi dưỡng trong sự trưởng thành của triều đại dòng họ những người ấy. Cứ giả định rằng không có cuộc loạn phát xuất từ làng Kiên Thành thì chắc rằng họ cũng chỉ là những người dân nai lưng ra đóng thuế. Đòi hỏi của tình thế chiến tranh hợp với sư may mắn có liên lạc thân tộc với dòng họ nổi dậy khiến những người này được nâng cao lên, thoát cảnh sống một đời tầm thường, hay có khi tệ hơn, lam lũ. Hình bóng yếu ớt của những nhân vật Bắc Hà: Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng... là một minh chứng thêm bên lằn mức đối địch. Nằm trong sự tan rã của Trịnh Lê, lúc quyền uy Tây Sơn chưa đủ mạnh để lan ảnh hưởng đến vùng ngoài, họ có vẻ là “con người của thời đại”. Nhưng lâm sự, tài năng hèn kém của họ lộ ra: Nhượng tránh mặt Tây Sơn, Cơ bất nhất lúc Lê, lúc Trịnh để rồi bị trói bởi Tiên phong của Nguyễn Hữu Chỉnh.
Lý Tài tưởng đã tránh được số phận dành cho Tập Đình, Nguyễn Thung những người gián tiếp hay trực tiếp chết dưới tay Nhạc, nhưng khi ông phò trì một triều đình đang tan rã thì chức Bảo giá Đại tướng quân oai vệ không đưa quân ông tổ chức vượt được lên trên tình trạng đao búa của một đám cướp ngày để rồi phải chấm dứt cuộc đời trong lúc luân lạc. Châu Văn Tiếp cùng một xuất xứ như Nguyễn Nhạc mà oán “Trời không cho ta bình Tây” chỉ vì đã đem mình ngăn chặn một trào lưu đang lên, tuy lòng can đảm, ý chí quyết thắng của ông có thừa như bất cứ một tướng lãnh Tây Sơn nào khác. Nguyễn Văn Trương may mắn hơn. Từ đứa chăn trâu leo lên chức Trấn thủ Long Xuyên là công của triều đại dân chúng Tây Sơn, nhưng làm Bình bắc Đại tướng thay mặt Nguyễn Ánh trông coi thuỷ quân chính là nhờ ông đã ghép mình với Gia Định, tiến bộ theo với lực lượng chủ chốt này của miền Nam.
Vượt trên hết những kẻ này là những khuôn mặt đã làm nên lịch sử: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ và chót hết, vinh dự thay trong lịch sử tàn nhẫn, Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng ta cũng đã thấy biến chuyển từ từ trong con người tạo thành Gia Long khi chung cuộc. Đỗ Thanh Nhân ở Sài Gòn chống Tây Sơn thì ông đã lánh ra Bến Lức, Lê Văn Quân thống giữ Ba Vác, Ba Lai thì ông lênh đênh ngoài vịnh Xiêm. Thực là khác hẳn khi ông đề xướng kế hoạch đánh giặc mùa, điều khiển dưới tay một bọn bề tôi hỗn tạp gồm những tôn thất kiêu hãnh với dòng dõi, tướng tá dũng cảm nhưng thô lỗ, hàng tướng đầy mặc cảm và nhớ tiếc quá khứ oanh liệt, bọn Phiêu lưu Tây phương bừa bãi ngạo nghễ... Ngôi sao Nguyễn Huệ có chói sáng rực rỡ vì chiến công cũng không che lấp được tính cách mâu thuẫn bấp bênh của chế độ Tây Sơn. Cho nên, Nguyễn Hữu Chỉnh cô độc giữa xứ Bắc Hà cũ kỹ trong thành kiến đến phải mắc tội “bội phản” mà chết, Nguyễn Nhạc ôm lấy thành Chà Bàn chờ Nguyễn Ánh mạnh lên.
Nhưng những người đang hành động, tiêu cực hay tích cực cũng đều là biểu hiện cho những khuynh hướng, trào lưu hiện hành. Cho nên họ phải chịu sự huỷ diệt - cụ thể là sự huỷ diệt thân xác - để cho trào lưu kia tan biến hình thức đề kháng mạnh mẽ nhất. Bởi vậy Tây Sơn đã cố tình truy nã đến tận cùng ông Hoàng còn sót lại của dòng họ Nguyễn. Nguyễn Ánh dùng voi xé xác Quang Toản, Bùi Thị Xuân... Lịch sử 32 năm chấm dứt phân tranh, lịch sử thống nhất trong chiến tranh khôngphải chỉ gồm những chém giết, hằn thù cá nhân. Tôi trung nhà Nguyễn có thể hậm hực vì “nguỵ tặc”, cũng như người có tinh thần chống đối phải than khóc giùm cho cơ nghiệp Nguyễn Huệ1. Nhưng vượt bỏ tính cách phù du giai đoạn của cuộc sống từng thế hệ, người ta phải thấy có một sự nối tiếp xảy ra trong lịch sử giữa những người trước, sau, cho dù là thù địch cũng vậy.
Chiến tranh hối thúc lịch sử. Thế mà lịch sử phân tranh trong xã hội Đại Việt đã có dấu hiệu báo trước từ đầu thế kỷ XVI. Triều đại Lê Thánh Tông (1460-1497) qua đi là xuôi hẳn thời thịnh vượng. Có người đã muốn tìm nguyên nhân trong sự kiệt lực của đất đai đồng bằng Nhĩ Hà2. Nhưng lịch sử Việt Nam không chỉ xoay quanh đồng bằng miền Bắc cho nên vấn đề có lẽ phức tạp hơn nhiều. Để giải quyết sinh sống, người nông dân Việt khai triển đất đai với tính cách chiếm đoạt. Những đồn điền đặt ra dưới triều Thánh Tông là lợi khí mở đường về Nam. Song kỹ thuật không đổi mới tiến bộ thì địa phương càng dễ độc lập với trung ương, nhất là khi trung ương lại có những yếu tố phân ly sẵn. Cho nên, Trịnh dẹp được Mạc rồi, chấm dứt cuộc phân tranh Lê - Mạc mà không ngăn được Nguyễn Hoàng hùng cứ phương Nam.
Nhưng đất mới cũng đem lại yếu tố văn hoá, kỹ thuật làm nên sức mạnh cho triều đại ly khai. Sau này chúng ta thấy Tây Sơn, Nguyễn Ánh có quân Chàm, Thượng, Miên giúp sức, nhưng J. Koffler đã chỉ rõ từ trước rằng đội quân Chàm của dân bản thổ là một cột trụ của Nam Hà giữ quân Bắc không vượt qua được sông Gianh. Nếu chỉ có bấy nhiêu thay đổi thì phân tranh vẫn chỉ hoàn phân tranh. Quan trọng hơn là việc đám người bản thổ Việt hoá và đám người Việt thu nhận ảnh hưởng bản thổ tạo thành một lớp người mới uyển chuyển hơn. Đất đai màu mỡ vì vừa quen với kỹ thuật khai thác tỉ mỉ ở miền Bắc đưa vào, tạo nên sự trù phú, thịnh vượng. Ấy vậy mà càng đi về xa xuống Nam mối liên lạc địa phương với chánh quyền trung ương càng lỏng lẻo, ngay cả đối với chánh quyền Nam Hà. Những con sông ăn sâu vào trong núi, những khoảng núi chạy dài ra biển ấp ủ, che giấu những âm mưu khuynh đảo.
____________________________________
1. Đại diện cho thái độ đầu là Hoàng Quang (Hoài nam khúc), các bề tôi nhà Nguyễn, đại diện cho thái độ sau là một số người chịu ảnh hưởng trào lưu dân chủ, cách mạng ngày nay. Không đâu vẽ rõ sự xung đột của những ý kiến chủ quan của sử gia bằng ở quyển Hoàng Lê nhất thống chí: Ngô Thì Chí hiểu chữ “nhất thống” theo với nghĩa gồm một về vua Lê nên cùng với Ngô Du hết sức ca tụng Nguyễn Huệ, Du càng tăng độ ca tụng khi Tây Sơn thịnh. Thế mà tác giả viết các hồi sau chót lại cố lái chữ nhất thống về phía Nguyễn nên gọi “nguỵ Tây” đối chọi với “quan quân”
2. Đào Duy Anh - Việt Nam lịch sử giáo trình, Thời kỳ tự chủ, quyển hạ, Liên khu IV xuất bản, 1950. trang 25, 26, chú số 1.

Thế rồi ảnh hưởng Tây phương đến. Chúng ta biết thương nghiệp mang lại giá trị mới cho những sản phẩm địa phương. Nam Hà có đất cho nông dân cày cấy thì cũng có rừng rú cho người ta lấy ngà voi, sừng tê, trầm hương, kỳ nam chuyển ra ngoài. Từ đó Nam Hà có truyền thống đón nhận ảnh hưởng từ ngoài vào. Joan da Cruz có tên gắn liền với địa danh Phường Đúc ở Huế trong khi những con bù nhìn giả lính Bồ đứng trên luỹ Trấn Ninh đe doạ quân Trịnh.
Tất cả tạo nên một hoàn cảnh sôi sục trong phát triển ở Nam Hà. Địa phương và trung ương trông chừng nhau ở cả hai bên sông Gianh, nhưng sức mạnh địa phương miền Bắc đã yếu thế nhiều vì quá khứ 10 thế kỷ kết tập chung sống. Cho nên, biến cố có tên là Tây Sơn lại nổ bùng ra ở Nam Hà và đủ sức mạnh để đảo lộn tất cả: chiến tranh 32 năm chỉ là cái gút để tóm thâu kết quả của mấy trăm năm gầm gừ phân tranh, mấy trăm năm biến đổi dần dà trong xã hội Đại Việt.
Cuối đường của mối loạn tiền kẽm gặp gỡ rối loạn trong triều Nguyễn chúa dưới quyền phụ chính Trương Phúc Loan là điều kiện tức khắc cho anh em Tây Sơn lộ diện. Họ tụ tập dưới cờ quân Thượng, quân phản Thanh phục Minh, đám nông dân nghèo đói, bất mãn sưu thuế, quan lại triều đình, sĩ phu, tướng lãnh không đất dụng võ. Nói rằng Nam Hà dưới quyền chúa Nguyễn vừa yếu vừa mạnh thực là mâu thuẫn. Nhưng đúng vậy bởi vì đã có những tiềm lực chưa dùng đến, còn đang kết thành. Tây Sơn đã nung chín những sức mạnh đó để làm lợi cho mình. Cho nên, cứ lúc tiến lúc thoái, họ đánh tan được nhà Nguyễn rồi ào ạt ra Bắc.
Ở đây phải nhắc lại tính cách đồng nhất trên những đường nét phát triển chính trị của xã hội Đại Việt trong phân tranh. Trên tột đỉnh cơ cấu quyền bính, Tây Sơn và bầy tôi Lê Trịnh xưng hô với nhau như người của hai nước riêng biệt, một điều “quý quốc” hai điều “quý quốc”, nhưng Trịnh - Nguyễn vẫn nhớ mình là người Thanh Hoá, Nguyễn Nhạc còn biết xưng họ ngoại chúa Nam Hà, và Nguyễn Huệ vẫn đòi lập Phượng Hoàng Trung đô ở quê cha đất tổ Nghệ An. Ảnh hưởng giao thương với nước ngoài không tạo nên một giai cấp bourgeois có tiền của, xây dựng ý thức hệ, đả đảo Cựu chế như ở Tây phương nhưng cũng phát sinh ở 2 miền Nam, Bắc một lớp người làm giàu mau chóng bằng cách buôn bán, khác hẳn bọn nông dân cặm cụi lam lũ. Phố Hiến, Kẻ Chợ, đám các lái ở Thanh Hoá còn đó để chứng minh. Chỉ duy, trong tương quan ảnh hưởng đối với xã hội Bắc Hà, họ phải chịu núp dưới bóng quan lại đồng hương hay không, để tìm quyền hành. Vùng này, dân chúng bị chi phối bởi mối quan tâm phù Lê diệt Trịnh trong khi Lê chỉ là bóng mờ bên cạnh uy quyền thực của Phủ Liêu. Cái hại sĩ phu miên man trong kinh sách rồi truyền cho đám nông dân tuy làm yếu Bắc Hà, nhưng cũng ru ngủ được dân chúng trong một giấc mơ bình an về ý thức hệ. Cho nên những kẻ bất mãn mà ít hay nhiều đã được khuôn nắn trong một không khí có khác với kinh văn, dễ mở rộng trí suy xét để đón lấy cơn giông tố tự phương Nam. Nguyễn Hữu Chỉnh ở vào trường hợp đó. “Cõng rắn cắn gà nhà, nghĩ thật có tội, song cũng là một việc hơn người”1 những đầu óc dù hẹp hòi cũng vẫn phải chấp nhận sự thật là có những biến đổi đang làm đảo lộn xã hội đang sống.
Nhưng khi Nguyễn Hữu Chỉnh muốn tách rời Tây Sơn thì ông thất bại ngay. Ông định đem những biện pháp khắt khe mà Tây Sơn đã dùng để áp dụng cho Bắc Hà thì gặp ngay những phản đối, hãi sợ về phía dân chúng, sĩ phu. Hợp tác với bọn khanh tướng bàn chuyện đòi đất Nghệ An thì được, nhưng như vậy là ông đi vào vết xe cũ của Trịnh nên không đủ sức chống đối Vũ Văn Nhậm. Phải đợi Tây Sơn đem cả một khối người ào ra dứt Lê, Bắc Hà mới thấy thay đổi thực sự.
Đứng trong quan điểm quốc gia, chiến thắng Đống Đa là một vinh dự của người dân Việt chống xâm lăng phương Bắc. Nhưng hai mươi vạn quân Tôn Sĩ Nghị quả có cái thế khác với quân Tống của Quách Quỳ, với đội lính thiện chiến của Thoát Hoan. Nó là một đội Vương sư như của Trương Phụ lúc ban đầu. Thế mà trước kia Hồ Quý Ly bị đóng cũi phải về Yên Kinh không đầy một năm và Tôn Sĩ Nghị bây giờ mất binh đội không đầy 5 ngày. Chiến thắng do khích động lòng yêu nước đã đành mà chính yếu còn do sự cách biệt và khác biệt kỹ thuật chiến đấu, điều hành chiến tranh nữa. Quân Thanh có đông thực nhưng chỉ là phóng đại của quân Trịnh Lê thôi, với từng ấy vũ khí, từng ấy ý thức hướng dẫn hành động. Trong khi đó, Tây Sơn lấy sức mạnh căn bản nơi sự hoà hợp chủng tộc văn hoá ở Quy Nhơn rồi đem thử sức, thu thập kinh nghiệm ở khắp các chiến trường, với cả người ngoại quốc phía Nam nữa.
Cho nên trong sự tiếp rước Giả Vương, trong lối trao đổi ngoại giao, chúng ta thoáng thấy ở vua tôi nhà Thanh một ý kính nể, muốn thu phục. Vì vậy bọn Tề Ngôi hải phỉ mới chịu về đầu, khiến đường biển Đông mở rộng mà Tây Sơn còn thêm sức mạnh nữa. “Xưa nay chưa nghe toán giặc nào như toán giặc này”. Ở miệng viên sứ Trần Công Xán biết ra đi là chết, lời nói ấy là một xác nhận chứ không phải là một biểu lộ khiếp nhược.
Tuy nhiên không phải là Tây Sơn không chịu những điều kiện thực tế ràng buộc, giới hạn khả năng. Những điều kiện này có khi là do những yếu tố trường cửu điều khiển, có khi là do những biến cố nhất thời làm tăng thêm hiệu quả của loại trên. Trong những phe chống đối Tây Sơn tất có kẻ sẽ thừa hưởng những thuận lợi mà Tây Sơn không thu nhận được đó để kế tục sự nghiệp của họ. Tây Sơn nổi lên có hai ông chúa phải lưu vong đi cầu viện, một người phải ngậm ngùi bỏ thân nơi đất khách. Chỉ có một Nguyễn Ánh trở về. Không phải là sự tình cờ.
Ta đã nói đến việc Nguyễn Huệ diệt tộc Nguyễn, đã thanh toán giùm họ này mối lục đục, hục hặc nội bộ. Nhưng một người còn thoát đã đưa chuyển dòng họ đến một giai đoạn mới mà vẫn giữ được tính cách truyền thống liên tục để lưu giữ lòng trung thành của mọi người. Trong lúc đó thì Tây Sơn không vượt khỏi những khó khăn cũ mà còn gây ra những cản trở mới nữa. Từ Quy Nhơn, họ tung quân vào Gia Định qua những vùng đất dằng dặc sỏi đá. Với vài ba trăm chiếc ghe bầu đi vòng biển để nối liền nơi xuất phát và chiến trường, hành động định kỳ theo quy luật gió mùa mỗi năm một lần vào ra thế tất không phải là một đe doạ chiếm đóng thực sự. Từ ngữ “nhập khấu” mà sử quan dùng chỉ các cuộc hành binh này tuy có dụng ý thiên lệch nhưng vẫn đúng sự thực một phần nào.
Chính sự giải đãi đó nuôi dưỡng cho nhà Cựu Nguyễn hồi sinh chờ thấy những sai lầm của Tây Sơn xuất hiện để đón lợi về phía mình. Buổi đầu nổi dậy, Tây Sơn mất sự hợp tác của bọn sĩ phu có truyền thống gần gũi tổ chức nông nghiệp đã đành, mà còn mất luôn cả bọn Hoa kiều trung gian buôn bán nữa. Họ để lại các tướng lãnh cai trị Gia Định với một số quân nhỏ bé mà không tỏ rõ một chính sách lâu dài nào hết. Họ đưa ra một chính sách thương nghiệp mà thiếu người thi hành chỉ vì vụ tàn phá Hội An (1774) và sau đó, Sài Gòn (1782) chưa đủ thời gian để lập lại tình trạng bình thường. Nhưng cố gắng phi thường của họ cũng đánh tan được 2 vạn quân Xiêm và đuổi Nguyễn Ánh sống cuộc đời lưu vong. Thế rồi họ quay ra phía Bắc chiếm một phần đất Nam Hà còn sót lại dưới quyền của họ Trịnh. Không bằng lòng Phú Xuân, Tây Sơn đứng trên luỹ Thầy mới đắp mà nhìn ra Thăng Long. Ta đã nói đến sự khác biệt tuổi tác giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã gây ra xung đột đầu tiên giữa hai anh em như thế nào khi người anh cả tuổi lớn bằng lòng với sự nghiệp có được và chú em thứ 8 ba mươi bốn tuổi tràn đầy hăng say còn muốn cướp đoạt hơn. Nhưng chúng ta cũng thấy trong mối lo không kiểm soát được em của Nguyễn Nhạc một ý nghĩa lo lắng về đường đất cách trở mà các phương tiện không đủ hiệu quả để bức thư ngăn Huệ đừng đi Bắc kịp đến Huế khi quân khởi hành. Thì ra khi xô đổ cái thế phân tranh cũ, anh em Tây Sơn cũng phải chịu luỵ vào những điều kiện chia xé từng có trước. Cho nên Bắc Bình vương phương Bắc, Trung ương Hoàng đế ở giữa, Đông Định vương phía Nam có chia nhau mà cai trị đất nước cũng không phải chỉ vì tham vọng riêng ai mà chính là theo đúng quy định của thực tế xã hội, quốc gia.
_________________________________________
1. Hoàng Lê, t. 64. Chính chúng tôi nhấn mạnh.

Tuy nhiên, việc phân phối khu vực cũng không phải là tình cờ. Tây Sơn đã lập nghiệp bằng chiếm đoạt mà không giữ toàn vẹn phần thưởng thì chia ra, kẻ nào có khả năng nhất, chiếm được phần lớn nhất. Thế mà như ta đã biết, toàn bộ Đại Việt giữa hậu bán thế kỷ XVIII có trình độ nhân văn hoá theo lề lối người Việt phai lượt dần từ Bắc đến Nam. Là kẻ có mộng tưởng lớn, tài ba, Nguyễn Huệ tất được đun đẩy tới chỗ chiếm lấy Phú Xuân để vươn ra Bắc. Nguyễn Nhạc bằng lòng với khoảng đất anh em ông chiếm giữ lúc ban đầu. Còn Gia Định với ao đầm kinh rạch, mỗi bước đi là có cá sấu, có cây đổ chận đường, đầy vẻ huyền bí nhất thì chia cho chú Bảy yếu ớt cho trọn tình anh em. Như đã nói, Nguyễn Ánh thừa hưởng được mọi thất lợi do sự nứt rạn đó của Tây Sơn. Nhân lúc Nguyễn Nhạc ôm lấy Hoàng Đế thành và Nguyễn Huệ bận tâm thanh toán cho xong triều Lê sống thừa quá lâu thành cũng trở nên bề bộn thì Nguyễn Ánh về đánh Gia Định. Nguyễn Lữ không thu phục nổi bọn xử sĩ Gia Định để có một chính sách nông nghiệp cho miền này mà lại còn làm bất mãn thêm bọn thương gia Trung Hoa bằng cách dời họ từ Sài Gòn lên Cầu Sơn làm hạn chế sự buôn bán của họ nữa. Cho nên Phạm Văn Sâm có cố bám cho mấy cũng thất bại, mà thất bại cố gượng thì luỵ thân.
Nguyễn Ánh đã thành công trước khi Bá-đa-lộc về tới khiến ông có đất đai, có ngôi vị, nghĩa là có chính nghĩa được cụ thể hoá. Ở vào địa vị kẻ yếu phải chống giữ, ông biến triều đình ông thành một nhóm người chiến đấu thoát hẳn tình trạng bạc nhược trước kia, biến xứ sở ông thành một lò huấn luyện khổng lồ. Ý niệm cũ về cách tổ chức khai thác đất đai theo lối đồn điền gặp dịp được áp dụng triệt để với sự giúp sức của nhóm Bình Dương thi xã.
Cho nên khi phong trào giao thương Âu - Á vẫn tiếp tục mà Tây Sơn bị ném bên lề một phần nào thì Gia Định thay mặt Đại Việt nhận lãnh tất cả những ưu thế được đưa đến. Tất nhiên Tây phương đến với tính cách toàn bộ của văn hoá họ. Bá-đa-lộc mang Hoàng tử Cảnh đi cầu viện đem về Gia Định không phải chỉ một hiệp ước tuy không thi hành nhưng cũng kêu gọi người tới mà còn một ông Hoàng trừ nhị biết đọc kinh và quả quyết hứa rằng sứ mệnh của ông là “làm cho dân chúng xứ .tôi trở-lại-đạo”. Ông Boisserand thả một quả khí cầu không phải chỉ làm Tây Sơn khiếp sợ mà còn làm tăng uy tín của giáo sĩ giữa đám dân ngoại đạo nữa, điều kiện cần thiết để thu phục tín đồ đó. Vì thế mới xảy ra vụ giành giật linh hồn Hoàng tử Cảnh nổ bùng ra với trường hợp thay đổi của Tống Phúc Đạm.
Dễ dàng xâm nhập hơn là các dụng cụ kỹ thuật với những cách sử dụng, điều khiển. Ta thấy đội Thần Sách kéo lưu động các súng đại bác cỡ nhỏ, Nguyễn Ánh dùng viễn kính đi thám sát Tây Sơn và Chế tạo cục liên miên đúc súng đóng tàu. Ta lưu ý đến việc Tây phương đến với ta bằng tàu thuyền. Gia Định lại có sông dài, nước sâu và cả Đại Việt có một bờ biển dài dằng dặc. Tất cả những sự kiện đó hình như đã hoà hợp để tạo nên ý nghĩ dùng tàu bè Tây phương hay đóng theo kiểu Tây phương là phương tiện thuận lợi nhất để tiến sâu vào đất địch. Yếu tố quyết định thống nhất thực ra đã nằm phần lớn trong sự tăng tiến thuỷ quân Gia Định vậy.
Trong khi đó thì việc khai thác nông nghiệp ở Gia Định vẫn tiến hành theo một nhịp mau chóng tàn nhẫn. Sự phát triển của nơi này không những nuôi dưỡng quân Nguyễn lớn mạnh mà còn khiến bớt cách biệt trình độ Việt hoá trên các phần đất khác nhau nữa.
Chiến tranh nung chảy đúc kết các nhóm chủng tộc khác biệt trở thành hoà hợp hơn. Vào năm 1773 còn thấy dấu vết tổ chức thị tộc mẫu hệ của Chiêm Thành có nữ chúa Thị Hoả ở Phú Yên, dấu vết vương triều của Tá ở Bình Thuận, thế mà với Nguyễn Ánh, Môn-lai-phù-tử thành Nguyễn Văn Chiêu, Thôn-ba-hú thành Nguyễn Văn Hào, Bô-kha-đáo thành Nguyễn Văn Chấn, kẻ Cai cơ, người Tán lý sinh hoạt với quan quân Gia Định. Lui về phía Nam hơn, Trà Vinh, Ba Thắt còn có “phiên liêu” cai trị để cho Chiêu-thuỳ Biện nay đòi mai đòi, thế mà qua trung gian của đám lưu vong Minh dân, hai phủ lần lần thuộc quyền triều đình, đưa địa vị một Nguyễn Văn Tồn từ “dịch đình nô” đến Cai đội coi Tiêm binh của Nguyễn. Đám con cháu Minh dân cũng tìm được vị trí của mình trên đất họ ở, điển hình với vai trò của Trịnh Hoài Đức, thị giảng cho Đông cung. Nhưng địa vị của họ, nhũn nhặn hơn mà quan trọng hơn là ở cả một hệ thống tổ chức thương nghiệp mời gọi với mức độ tăng tiến hơn trước chiến tranh các cuộc giao thương địa phương, do đó súng ống đạn dược chế từ Tây phương đổ về Gia Định chứng tỏ hiệu quả chính xác, hiệu suất cao vượt các thứ cùng loại của Tây Sơn chế ở Bắc Hà, Phú Xuân như lời Giáo sĩ De la Bissachère đã kể.
Tây phương, Cách mạng 1789 lên đến tột đỉnh sôi sục gây nên phản ứng rối loạn khắp Âu châu. Đám phiêu lưu Tây phương bị dao động, kẻ bỏ đi, người im tiếng phục vụ trong sự ganh ghét, âm mưu hoặc của lớp nho sĩ vươn dậy, hoặc của những kẻ đồng chủng khác quốc gia. Trong khi đó Tây Sơn có dấu hiệu tan rã thêm mà không có hy vọng gượng lại từ cái chết của Nguyễn Huệ, tay chỉ huy tài ba nhất trong anh em họ đã cố tạo được một lực lượng đáng kể bằng một hệ thống quân chính tàn nhẫn trên đám dân Bắc Hà, Phú Xuân. Quân tướng Tây Sơn chuyển thực lực của họ dần về phía Nam khi hoặc vì bắt buộc, hoặc vì tình nguyện phải đầu quân dưới cờ Gia Định. Gia Định do đó vượt cấp bực địa phương để trở nên trung ương hơn. Xiêm không dám đòi Hà Tiên, Long Xuyên và đem quân giúp người mà còn bị người đe doạ: “mua một con gà mà không trả tiền thì bị giết hết chỉ trừ một người chạy về Ayuthia báo tin thôi”. Nặc-ấn theo Chiêu-thuỳ Biện rồi Nặc-chân chỉ lo phận sự cống thần, chịu nhận thuyền, mã cụ của nước lớn Gia Định ban cho.
Trình độ xâm nhập kỹ thuật Tây phương vẫn còn tăng tiến, nhưng ảnh hưởng cá nhân của nhóm phiêu lưu sụt xuống rõ rệt. Năm 1792 trong cuộc thuỷ chiếnThi Nại, J.M. Dayot là người tấn công. Năm 1801 cũng nơi đó, thay cho ông là Nguyễn Văn Trương, Võ Di Nguy, Lê Văn Duyệt ào ạt đốt thuyền địch trong khi Chaigneau, Vannier, de Forçan đứng ở Hậu đội. Năm 1793, sử quan nhắc tới “Tây dương binh” theo quân ở Bình Thuận, vây quanh Quy Nhơn, thế mà đến 1801 Chaigneau, Vannier chỉ làm nhiệm vụ lấy lương tiếp tế cho Quy Nhơn, Phú Xuân thôi.
Chiến tranh càng dữ dội thì Đại Việt do sự súc tích lực lượng cần thiết, càng có nhiều ảnh hưởng lan xa. Trận Đống Đa làm nể vì Bắc Kinh. Các thương thuyền Âu - Á đem tin thịnh vượng của Gia Định qua Manille, Malacca, Goa trên các tàu mang hiệu kỳ vua xứ Nam Hà. Các nước Tà-nê, Tam-hoạt, Nhu-phật đem “dâng cống phẩm”, tất cả có lẽ từ Mã Lai. Ta không nói tới Xiêm mà Nguyễn Ánh vẫn cố giữ bang giao mật thiết để nhờ cậy khuấy rối Nghệ An. Sứ bộ Nguyễn Văn Thuỵ 150 người đi Cao Miên rồi Bangkok, Vạn Tượng qua những vùng hoang vu mà chính các quốc gia liên hệ cũng chưa kiểm soát được. Cho nên ta thấy sử quan ghi rằng sứ thần dùng người Chân Lạp dẫn đường, đi từ địa đầu nước này đến Tầm-phàm-mi-tân (Kongpong - ?), qua Khu-khang, U-bôn được dân đó hưởng ứng và Khu-khang lại sai sứ tới cống nữa1.
__________________________________________
1. Thực lục q10, 34b, 35a. U-bon trên sông Se Mun, phụ lưu sông Mékong trên phần đất Thái, Khon khaen trên sông Se San, phụ lưu của Se Mun, chứ không phải làng Khu-khang phía bắc dãy Dangrek. Sứ bộ chắc đã rẽ trái qua các phụ lưu này tới Vạn Tượng chứ không đi nốt phần sông Mékong trên đất Lào.

Việc cải thiện giao thông trên bộ cũng tăng tiến lần theo với nhu cầu thông tin, liên lạc giữa quân tiến ra và căn bản Gia Định. Năm 1797 đã làm ngựa trạm trên đường Xích Ram, Ma Ly. Tháng 10 năm sau thì các phong hoả đài được đặt trên đường Bình Thuận, Bình Khang. Đặc biệt trong chuyến hạ thành Quy Nhơn 1799 rồi kéo quân về, việc tổ chức giao thông thật chu đáo: ven đường có đặt những trạm ngựa, chỗ nghỉ trưa, ngủ đêm. Đường sá, cầu cống được sửa sang lại. Mỗi trạm phải dự bị 200 dân phu, 500 vuông gạo1. Tuy tổ chức đó chỉ cốt dùng tiếp vua khải hoàn, nhưng chúng ta cũng thấy ở đó hình ảnh con đường cái quan sau này nối liền Gia Định phì nhiêu và các vùng khai thác xưa cũ. Các con đường hành quân của Tây Sơn ở “thượng đạo” cũng mở rộng hiểu biết vào các phần đất sâu trong nội địa. Cùng với tăng tiến tàu bè trên mặt biển, sự cố gắng cải thiện giao thông trên bộ thừa hưởng của chiến tranh là một yếu tố nữa để xoá bỏ ngăn cách địa phương.
Dần dần với cuộc tiến chiếm đất đai, Nguyễn Ánh sẽ thu phục dưới tay mình toàn bộ thực lực Đại Việt đã phát triển tột độ trong chiến tranh. Có vậy ông mới đủ sức ngăn cấm 40.000 quân Xiêm vời về giúp không được đặt chân vào biên giới Lào - Việt.
Cuộc phân tranh chấm dứt nhưng không chấm dứt được mọi vấn đề trong quá khứ. Nước Đại Việt khi biến thành Việt Nam vẫn phải chịu những biến chuyển về trước. Hai trấn Gia Định và Bắc Thành có Tổng trấn như hai Phó vương cai trị là một dấu vết. Sự phân biệt còn mạnh tới nỗi khi Minh Mạng muốn thi hành chính sách tập trung thì vụ loạn Lê Văn Khôi nổ bùng ra phản đối ở Nam và các cuộc loạn tương tự xẩy ra ở Bắc. Tất nhiên là từ Tây Sơn qua Nguyễn triều cũng có những biến chuyển tâm lý ở các vùng: miền Nam kiêu hãnh với tính cách đất dựng nghiệp đế, xứ Huế tưng bừng với ngôi thành sẽ cất, lăng mộ sẽ xây, với những lề lối ăn chơi của dân trưởng giả Kinh đô, và cuối cùng miền Bắc ngậm ngùi với các bề tôi cô trung, nhớ vọng nhà Lê, với đám dân khóc than mất đô như mất nước.
Đáng nói nữa là tính cách Trung Hoa hoá của Việt Nam sau chiến tranh. Việc Đặng Trần Thường gần như chép chuyển bộ luật nhà Thanh sang bộ luật Gia Long là một chứng cớ tủi hổ nhất của sự thu nhận văn hoá. Ông Masson2 đã lưu ý đến nhiều điều tương tự như vậy để coi là một định luật trong lịch sử Việt Nam, khi mỗi lần người Việt củng cố độc lập là một lần tiến đến gần Trung Hoa hơn. Điều đó có thể hiểu được khi nhìn vào ưu thế thực dụng, có hiệu quả về tổ chức kết hợp xã hội theo ý thức hệ Khổng giáo ở ven bờ biển Đông. Lần này lại thêm vào tác dụng của nhiều yếu tố, biến chuyển trong phân tranh: văn thần nhà Nguyễn một phần là Trung Hoa còn rất gần Tàu, di dân Việt giữa dân bản thổ khác sinh hoạt, cố tình giữ sách thánh hiền coi như một dấu hiệu bảo đảm giá trị, và độc đáo hơn, là sĩ phu Gia Định chống đối với nguy cơ ảnh hưởng của Bá-đa-lộc, phải trở nên bảo thủ, gay gắt hơn.
Nhưng không phải những ảnh hưởng Tây phương đã bị loại trừ. Ta không nói nữa đến sức mạnh của quân lực Gia Định làm e dè quân đội ngoại quốc. Ta lưu ý đến những công trình khảo sát đất đai, hay lẫn lộn lịch sử của Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, của văn thần dưới quyền Lê Chất. Vẫn biết Trung Hoa và nước Việt trước kia cũng có những bộ địa chí, sử ký nhưng không ai có thể chối cãi được ảnh hưởng của chiến tranh đã khích động ý muốn sáng tác thể loại này. Thế mà ta cũng đã biết thêm là J.M. Dayot nhân lúc coi thuỷ quân đã dò các cửa bể, đo đường nước nông sâu, định vị trí các nơi, đồng thời với công việc Olivier làm trên bộ. Lẽ nào những tài liệu đó không góp vào sự chính xác của các tác phẩm nói trên? Rõ ràng hơn là một Trần Văn Học theo sứ bộ Hoàng tử Cảnh đi Pondichéry rồi lộn về phục vụ Nguyễn Ánh, đã biết đem kiến thức mở rộng trên đường xa hợp với sự thúc đẩy của thực tế chiến tranh mà vẽ nên một bản đồ Gia Định có các khúc uốn của sông Sài Gòn ngay nơi này giống hệt ở một bản đồ mới ngày nay. Các thành kiểu Vauban xây sau chiến tranh của bề tôi Nguyễn Ánh là chứng minh của kỹ thuật xây công sự phòng thủ truyền từ Bá-đa-lộc, Olivier trở xuống.
Rồi ngấm ngầm mà quan trọng là sự phát triển của tín đồ Thiên Chúa giáo từ ảnh hưởng của Bá-đa-lộc sẽ cứ tiếp tục hưởng sự yên ổn tương đối dưới triều Gia Long. Họ tạo ra một lực lượng rồi sẽ lớn dần với thời gian, gây nguy hiểm cho đám sĩ phu, nhất là khi thế lực các nước Tây phương mạnh mẽ lan về Đông khiến họ càng cứng rắn đòi hỏi hơn lên. Nho sĩ cầm quyền và nhóm tín đồ đó sẽ chống nhau quyết liệt mà phần bại về những người trước khi cái kẻ sau vỗ tay mừng đón tiếng súng Đà Nẵng 1858 giải thoát họ và xô đổ mọi trật tự cũ, đưa văn minh Tây phương thực sự đi vào đất Việt gây những ảnh hưởng vô cùng to tát.
Cho nên phải nói rằng những thừa hưởng của quá khứ, của trận chiến kết thúc phân tranh, đậm hay lạt, nhiều hay ít rồi sẽ hợp với những điều kiện mới nảy sinh để bắt đầu lịch sử Việt Nam. Đất nước sẽ càng ngày càng phức tạp hơn để theo những biến động thế giới mà bước vào thời cận đại với Gia Long.
___________________________________________
1. Thực lục q9, 11b, q10, 14b, q11, 15ab.
2. Histoire de l’Indochine, PUF, 1950, t. 62.

PHỤ LỤC
NHỮNG BỨC THƯ NÔM CỦA NGUYỄN ÁNH.
Do Giáo sĩ Cadière sưu tập
Lịch sử như đã chứng dẫn, cho ta biết nửa phần sau của hậu bán thế kỷ XVIII kéo dài lan tới 1802 là một trong những thời kỳ rối ren nhất. Loạn lạc làm xuất hiện một triều đại phát sinh từ dân chúng, lại sống ngắn ngủi nên còn đầy tính chất “quê mùa”: người ta thấy triều Tây Sơn định khoa thi bằng chữ Nôm, dịch kinh sử ra lời Nôm, dùng chiếu, chế, lệnh bằng quốc âm. Hai ông Hoàng Xuân Hãn (trong La Sơn phu tử) và Hoàng Thúc Trâm (trong Quốc văn thời Tây Sơn) đã gom góp được phần lớn những tài liệu đó.
Nhưng chiến tranh cũng xua đuổi ảnh hưởng Hán học ở ngay cả khu vực của các dòng họ có truyền thống cai trị. Ông An Khê (Nam Phong tạp chí, tập XIV, số 80, Fév. 1924) đã sao lục một Đạo dụ viết bằng quốc văn trong cuộc duyệt binh ngày 26 tháng 3 năm Canh Thân (1800) để chuẩn bị ra cứu Võ Tánh ở thành Bình Định. Mối liên lạc mật thiết giữa Nguyễn Ánh và Giám mục Pigneau de Béhaine cũng gây hứng thú cho người Pháp, học giả tài tử hay chuyên nghiệp, đạo hoặc đời, ra công tìm kiếm tài liệu. Trong khi lục lọi, L.M Cadière đã thấy được các bản sao 14 bức thư mà Nguyễn Ánh gởi cho giáo sĩ, tướng Pháp... L.M đem dịch ra tiếng Pháp, kèm theo bản chụp ảnh 14 tờ đó đăng trong Đô thành Hiếu cổ Tập san (Bulletin des Amis du Vieux Hue, Janv-Mars 1926, “Les Français au service de Gia Long - XV. - Nguyên Anh et La Mission - Documents inédits”). Ông Cadière chú trọng đến giá trị sử liệu của chúng nên đã trình bày kèm thêm vào các bản dịch một đoạn dẫn khởi về nguồn gốc, giá trị xác tín của các bức thư đó. Chúng tôi cũng lần lượt ghi lại những lời của vị cố học giả giáo sĩ này.
Nguyên dưới đời Tự Đức, Phái đoàn Truyền giáo ở Huế có dùng một người Công giáo ở Kim Long để làm trung gian liên lạc với triều đình và quan lại địa phương. Người này chắc cũng là một tay có kiến thức, có ý tứ cẩn thận, đã thu nhặt tất cả những giấy tờ trao đổi để dồn vào một chỗ, giữ gìn kỹ lưỡng. Con của ông ta còn giữ tập giấy trên dưới 100 trang đó. Mười bốn tờ đầu là 14 bức thư mà Cadière đem giới thiệu với mọi người. Đó là những tờ giấy bổ xếp đôi, như thường lệ giấy xưa, lớn bản, mỗi bề 0,350/0,220m. Tất cả do 6 lối chữ chép khác nhau: tài liệu I, II, XI - tài liệu IV - tài liệu V, VI rõ là tay một ông già chép - tài liệu VII - tài liệu XIII - tài liệu III, VIII, IX, X, XII, XIV. Tài liệu XIV có thêm chữ ghi chú của các viên quan thừa hành. Trừ ba bức V, VI, VII chỉ có một niên đại 14-9 Cảnh Hưng 47 (4-11-1786) ghi ngày viết, 11 tờ còn lại có thêm niên đại chỉ ngày sao 25-5 Minh Mạng thứ 8 (19-6-1827) và có dấu ấn bằng triện son Tả quân của Lê Văn Duyệt, mỗi bề 0,029/0,025m.
Tài liệu có tới hai thứ loại về giá trị chính xác như vậy nên Cadière mới phải dè dặt phân tích. Ông chú trọng đến tập họp 11 bức thư có ấn Tả quân. Ông lục lọi trong mớ thư từ liên lạc của các giáo sĩ thì thấy Taberd có nói về việc đó.

Giám mục Taberd làm thông dịch cho Minh Mạng từ tháng 11-1826, viết thư ngày 28-4-1828 nói đại ý như sau:
Minh Mạng lo bài đạo, Taberd bèn kể khổ với Lê Văn Duyệt là người trong quá khứ có liên lạc với Pigneau và trong hiện tại là kẻ đối đầu với vị vua chuyên chế này. Ông Tả quân mới thu thập các bức thư đem sao chép lại, định dâng lên Minh Mạng làm bằng cớ về công ơn khôi phục đất nước mà Nguyễn Ánh xưa kia phải chịu ở các giáo sĩ.
Mười một bức thư, theo Cadière, có lẽ lấy từ Sài Gòn ở Collège Lái Thiêu lúc bấy giờ do L.M Régéreau coi sóc, nên có ấn son của Tả quân. Ba tài liệu V, VI, VII gồm các bức thư Nguyễn Ánh gửi cho Pigneau, cho người cầm quyền ở Pondichéry, sĩ quan trên tàu Marquys de Castries, vì lẽ không có liên quan tới Collège nên có thể do Pigneau giữ. Sau khi Pigneau chết, các thư đó chuyển về tay Giáo sĩ Labartette ở Cổ Vưu (Quảng Trị). Labartette trao cho Taberd, Taberd được Lê Văn Duyệt triệu vào bàn tính khi Duyệt từ Gia Định tới Huế tháng 12-1827, nên mới vội vã đưa cho “Thượng công” 3 bức thư đó. Vì thế mới không có ấn Tả quân.
Đó là một dây những giả thuyết mà Cadière đưa ra, dựa trên các tài liệu về ngày giờ lui tới nơi sinh sống của các nhân vật liên quan tới các bức thư. Nhưng cũng chính ông Cadière đã thấy nó hợp lý tới nỗi cho rằng, đối với ông, “đó không phải là những giả thuyết nữa mà là biểu hiện của chính thực tế”.
Theo ông Nguyễn Khắc Kham đã chỉ cho chúng tôi thì 3 bức thư V, VI, VII có thể được lưu trữ nguyên bổn, phần ở Pháp, phần ở Tòa Thánh La Mã và tới khoảng 1833 sau khi Tả quân mất đi mới chuyển sao cho Taberd để tiện dụng. Chứng cớ là bức thư V của Nguyễn Ánh gửi cho Bá-đa-lộc đã được P. Nghị dịch ra tiếng La tinh có ghi rõ ở cuối bản dịch “ở đây có dấu nhà vua” (Archives de la Propagande de la Foi, Acta Congregationis Particularis Super Rebus Sinarum et Indarum Orientalium 1788-17990, vol. 16, p. 1531. Trả lời cho câu hỏi Cadière đặt ra là Lê Văn Duyệt có đưa cả 14 bức thư lên cho Minh Mạng không, ông Nguyễn Khắc Kham nghĩ rằng chắc Tả quân không dám đưa lẫn lộn 11 bức thư có ấn của mình và 3 bức thư không có ấn thị thực, vì sợ mắc tội khi quân. Cả 14 bức thư chắc là đã được Taberd xuất trình cho một ông quan dưới triều Minh Mạng để ông này thản nhiên nói “bây giờ thì thời thế đã đổi khác rồi”.
Như vậy dù sao, 3 bức thư không có ấn Tả quân cũng lại thêm một lần xác định giá trị như 11 bức thư kia.
Chú trọng đến giá trị sử liệu, ông Cadière cố khai thác về phương diện này. Lời chú của ông dựa trên những tài liệu đối chiếu khác có một tính chất xác thực đáng lưu ý. Chúng ta cũng có thể nói là phần lớn giá trị nằm trong tính chất sử liệu của nó. Nó sẽ sửa lại cho chúng ta khỏi sai lầm về một số niên đại mà các nhà chép sử của triều Nguyễn hoặc là chép không đúng, hoặc đã dồn trong thời hạn mơ hồ 30 ngày trong tháng: “Năm X, xuân chính nguyệt,... nhị nguyệt, tam nguyệt...”.
___________________________________________
1. Chúng tôi rất tiết là đã không biết chữ La tinh để đọc bản dịch mà ông Nguyễn Khắc Kham bảo đánh máy cho chúng tôi. Nhưng theo lời ông thì trong thư có những đoạn hơi khác với bức thư số 5 đưa ra ở đây, và ngày tháng ghi cũng khác: ngày 4-9 Cảnh Hưng thứ 46 (1785) chớ không phải 14-9 Cảnh Hưng 47 (1786). Chúng tôi đi trong mù để mà nghĩ rằng thư viết năm 1785 sao có thể nói chuyện tàu Goa mà Thực lục q3, 1a, ghi vào đầu 1787? Và trong bản chữ Nôm hiện có ghi ngày tương đương với 23-10-1786? Paul Nghị khi dịch đã bỏ mất 10 ngày (14 thành 4) và lui lại một năm chăng? Sai lầm trên có thể vì quáng mắt khi dịch nhưng còn sai lầm thứ hai?

Đáng chú ý hơn chính là thư Nguyễn Ánh viết ra trong lúc còn lưu vong hoặc mới tái tạo cơ đồ, chưa vững vàng bề thế, khiến chúng ta thấy rõ con người ông hơn, con người mà các sử quan tả bằng những sáo ngữ với những hình ảnh, ý niệm dành cho các bực vua chúa Đông phương “thông duệ túc thành”, phước mạng đế vương đến qua sông có cá sấu đưa đi, giặc đuổi có cây ngã chận đường phía sau. Đọc thư, chúng ta thông cảm với một thường nhân lênh đênh lao khổ thốt lời chua chát với số mệnh đắng cay, một người bạn thành thực chí tình, một người cha thương nhớ con xa cách trong khi day dứt vì chưa làm tròn bổn phận với dòng họ, tổ tiên. Chính tính chất có liên lạc mật thiết với cá nhân một nhân vật lịch sử quan trọng này mà sử liệu đưa ra có thể liệt vào hàng quan trọng. Chúng ta biết lịch sử ta thiếu những tài liệu tương tự: tài liệu của nhà Nho cung cấp thì thuộc loại đã tổng hợp rồi, tài liệu của người ngoại quốc thì quá xa cách về tâm lý ý thức, thói quen nên gây cho người xét lại những sai lầm.
Tài liệu còn lộ cho ta suy diễn về trường hợp những chuyển biến xã hội lôi cuốn những quyết định cá nhân. Sử gia nhà Nguyễn coi Nguyễn Ánh như con người, ngay từ lúc đầu, đã có sẵn những đức tính lãnh đạo cao độ, mưu lược quyền biến. Sự thực trái lại. Hoàn cảnh nguy khốn cùng với những đưa đẩy lịch sử đã nuôi dưỡng ông Hoàng này lớn lên. Việc phục quốc bắt đầu từ ngày Ánh rời Long Khâu (làng Gia Long) ở Vọng Các về đổ bộ Rạch Giá; có ai ngờ rằng lòng quyết thắng chỉ có ở các bề tôi Nguyễn Thiệm, Nguyễn Đô, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Quân... chứ không có Nguyễn Ánh không?
Chúng ta hãy đọc một đoạn thư thứ 9: “... (Chẳng?) ngờ ngày ấy ra đến Cà Mâu, Rạch Giá, thấy quân tướng Tây Sơn cùng thần thứ quy thuận nghe nhiều, bèn thẳng vào...”. Đối với Ánh, việc về nước chỉ có ý nghĩa trốn chạy khỏi sự rình mò kiểm soát của Rama I thôi: “Từ Xiêm quốc vọng chỉ cố đô là sự phi đắc dĩ, xúc tưởng lưu lai thốn chỉ đặng thấu nguyên do, lại e tiết lậu cơ mưu...”. Thế rồi lấy được Gia Định, ông vẫn không tin ở thực lực của mình mặc dầu Nguyễn Văn Thành đã can ở Xiêm là đừng mong chờ viện trợ từ nước ngoài; ông vẫn rên rỉ với J. Liot, nhờ ông này ngóng xem tàu phương Tây của Bá-đa-lộc đến chưa.
Phát giác này có thể làm cho Nguyễn tộc và sử thần nhà Nguyễn buồn lòng còn trái lại những “sử gia chống phong kiến” thì hả hê, nhưng vượt ra ngoài những xúc động chủ quan của người sau, nó khiến cho bộ mặt đất nước xưa cũ rõ rệt hơn, và đó mới là điều chúng ta thành thực muốn thấy.
Nhưng 14 thư này dịch ra tiếng Pháp làm mất một phần chứng minh nội tại. Thực ra không thể đòi hỏi ông Cadière làm khác được một khi ông là người Pháp (tuy ta cũng không quên ông rất giỏi tiếng Việt). Bản dịch chữ Pháp chỉ còn giữ được những sự kiện lịch sử chính trị, quân sự mà thôi. Tình tiết tâm lý vẫn có đấy, nhưng đọc lên chúng ta vẫn thấy có một chút gì xa cách. Chúng ta phải phiên âm ra lần nửa thành thứ chữ “quốc ngữ” quen thuộc của thời này. Tất nhiên giá trị tài liệu của chúng sụt xuống so với nguyên bản chụp ảnh. Những người thông thạo chữ Nôm đã công nhận rằng không có một quy luật chính thức nào định cho lối phiên âm thứ chữ xưa này, cho nên chúng ta thật phải dè dặt. Ở đây, chúng tôi cố giữ cho lời thư có giọng đường Trong chắc là gần với sự thực hơn. Chúng tôi giành mọi trách nhiệm sai lầm, sơ sót về mình trong khi không quên xác nhận rằng chính khả năng riêng không đủ để làm công việc phiên âm này. Chúng tôi đặc biệt cảm tạ giáo sư Bửu Cầm đã chỉ dẫn, đọc thêm những chữ khó khăn vì lối viết, vì phai mờ.
Và vì đây là những tài liệu được sử dụng trong tập sách nên có nhiều điều chúng ta sẽ hiểu rõ hơn khi ghép với các tiết 10, 11 chương IV.
Chúng ta lần lượt đi vào tài liệu:
Thư thứ nhất:1
Tờ vu Thầy Cai trường2 ngỏ hay: nay vừa tiếp thấy người trong bổn đạo Thầy cho đem mật tín cùng các lý mới3 tường để sự. Lại như trên này quan quân theo thậm nhiều nhưng mà lương hướng còn mười hai ngày nữa, vậy nên sai Thuộc nội Cai đội Sung Đức hầu lãnh tờ nhị phong cùng thập liêm bảy lượng theo người bổn đạo đem xuống. Kíp sai người tâm phúc đem Sung Đức hầu cùng tờ xuống trình qua Thượng sư ngỏ tường cơ sự, còn thập liêm thì sở cậy Thầy cùng bổn đạo lấy vật ấy mà biện mãi lương mễ trợ khi nguy cấp, bằng mua được bao nhiêu, đa đa ích thiện càng tốt. Như mua rồi phiền cậy bổn đạo trang tải lương ấy điệu hồi giao nạp, tiện ư cấp phát. Nay tờ.
Cảnh Hưng năm thứ 44, tháng 11, ngày 22 (15-12-1783).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25 (19-6-1827), sao theo bản xưa. (Khuôn dấu Tả quân).
Thư thứ hai:
Chỉ sai Thầy Cai trường môn đệ đẳng danh: nghi thừa ghe nhứt chích phản hồi Long Xuyên sở hoạn dưỡng, đãi nhựt triệu lai khả tua tề tựu đồn sở ứng hậu. Khâm tai. Đặc sai.
Cảnh Hưng năm thứ 45, tháng 8, ngày 26 (10-10-1784).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả quân).
_______________________________________________________________
1. L.M Cadière đánh số bản chụp ảnh theo hai loại. Ở đây chúng tôi chỉ lưu lại con số thứ tự các bức thư mà thôi (theo ngày viết).
2. Các tên Gia-cô-bê (thư thứ IV, IX), Gia-bê-sa (VIII), Nha-cô-bê (X), Nhã-ca-bá (XI), Gia-cô-vi (XIII), Li-ốt (XIV) đều là tên của Jacques Liot (1751-1811). Giáo sĩ này rời Paris tháng 11-1776, đến Tourane, đến Sài Gòn 1779, coi trường Dòng 1780, qua Chanthaburi (Chantaboun) 1784, đi Bangkok 1786, rồi về Chanthaburi, về Tân Triệu (gần Biên Hòa).
3. Chữ đọc “mới” ở đây, đọc “mãi” ở “biện mãi lương mễ” cho hợp giọng văn Hán, lại vì lẽ cho hợp giọng văn Việt, đọc “mua” ở “bằng mua được bao nhiêu”, “như mua rồi”, nhưng lại đọc “mấy” ở thư IX (“tri ngộ mấy lâu”). Chữ Nôm ở đây thật đã giản dị hết mực.
4. Nguyễn Ánh đang theo 20.000 quân Xiêm dưới quyền Chiêu Tăng, Chiêu Sương. Vì vậy mới có thư gọi J. Liot về Long Xuyên.
Toàn bức thư ý nói: “(tờ) chỉ sai Thầy Cai trường cùng các người môn đệ nên theo ghe trở về Long Xuyên để (nơi này) nuôi dưỡng. Đợi ngày triệu đến, khá nên tề tựu đến đồn sở chờ (lệnh). Kính vậy thay. Tờ sai riêng”.

Thư thứ ba:
Tờ vu Thầy Cai trường tâm chúc:
Từ Thầy theo Ta mà trở về thì Ta cùng Xiêm binh tựu tại Mân Thiết hạnh công Tây tặc, thủ thắng tàu 1 chiếc, hải đạo 5 chiếc. Nhẩn ngày sau trực tấn xứ Lạch, nay thì Xiêm binh đại tứ lỗ lược, dâm nhơn phụ nữ, lược nhơn tài vật, túng sát bất dung lão thiếu3. Vậy nên Tây tặc binh thế nhựt thạnh, Xiêm binh thế nhựt suy, cớ ấy qua tháng chạp ngày mùng 84 vừa thất lợi, các giai hội tản. Lại ngày bị đại phong thì các ghe ngoài cồn an đổ như cố. Đến tháng mười một bữa rằm5 thì ông Cả đã giá hải nhi hành. Như nay Ta phản bộ hành tại Cồn Khơi, vậy sai quan Tham tướng đệ tờ trình tấu Nhị vương sự cớ, lại có sai thầy cả Minh tùng sự vào đó, phải đạt phiến tờ ngõ tường âm tín. Như cơ thường, biến dường nào thì thầy Minh tựu đó sự cơ hiệp liệu cùng theo. Bằng có ghe, phiền tu đưa thầy Minh trở về khải tấu ngỏ tường hư thiệt cơ yếu Xiêm tình. Trí ý. Nay tờ.
Cảnh Hưng năm thứ 45, tháng 12, ngày 15 (25-1-1785).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả quân).

Thư thứ tư:
Đạt tờ vu Linh mục Gia-cô-bê, Cai trường chiếu lượng:
Thả tiền nhựt vấn hậu an phủ? Tư nhân binh sự đặc sai Khâm sai Thống binh Cai cơ Thành Tín hầu7 trúc xứ thể thám binh tình cơ quát. Cố thử đạt tờ tiện tri để sự. Phàm chư lý lịch nhược hà, dĩ hữu chỉ giáo Thành Tín hầu nhứt nhứt bị thuật, tiện giác. Bất tất đa đàm. Thị lượng8.
Cảnh Hưng năm thứ 46, tháng 6, ngày 1 (6-7-1785).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả quân).

Thư thứ năm:
Chỉ dụ Bá-đa-lộc Giám-mục Thượng sư khâm tri:
Tự Tôn sư thừa thọ ủy ký quốc gia trọng nhiệm, đảnh lực viễn hành, các phân Nam Bắc chí tư, Quả nhân thường vọng phong hoài tưởng hữu nhược cơ khát. Tiền niên lục nguyệt đáo kỳ, tuyệt vô âm tín, sử bỉ hoài ưu muộn nan kham Chẳng ngờ đến năm nay ngày 30 tháng 8 mới thấy Bảo-lộc sư cùng Khiêm Quang hầu, Long Chính hầu giao biểu cho Quý Ngọc hầu tương hồi trình tấu tự sự; nga văn nhược thất, thủy tri quốc tộ do tồn. Nguyễn gia hồng phúc lại tôn sư cửu đảnh vãn hồi, chí tình ủy khúc, cựu lực điều tể ngọc thành kỳ mỹ. Thử cao hậu chi ân ngũ nội minh khắc, một xỉ nan vong, nên đã lăm quyết như lời bẩm cáo, dự bị giá hành. Thùy tri nhơn nguyệt như thử, thiên ý vị nhiên12. Vì tháng 9 ngày mùng 2 tàu An-tôn-nỗi bỗng đâu vừa tới có phụng tờ Hoàng hậu Bút-tu-kê một phong, lại tờ quan Cai thành Cô-á dâng Quả nhân rằng đã sẵn binh đóng tại Cô-á, chiến tàu 56 chiếc, nên cho sang rước Quả nhân. Cũng có tờ cho Xiêm vương hai phong cùng lễ vật trung tiểu bính nhị thập khẩu với Tây dương tế bố nhất bách thất khác chi lễ tạ Xiêm vương, xin rước Quả nhân về thành Cô-á đặng phấn lữ tiễu trừ Tây tặc. Nhưng mà việc đã ủy nãi Thượng sư, đâu khứng tư tình viện cầu tha quốc, phải uyển ngôn từ tạ đoàn ấy mà thôi. Nhơn vì cớ ấy, Xiêm vương hóa sự sanh nghi e Ta theo tàu ấy, hằng ngày cho người do thám nên nỗi khổ lòng liệu lý. Như trong thập nguyệt khởi trình cứ lời chủ tàu Li-xi-ri khắc ước lẽ còn chưa tiện. Phải chờ tàu An-tôn-nỗi lui khỏi cho Xiêm vương giản bớt lòng nghi, khi ấy liệu toan mới tiện. Nên phải sai Quý Ngọc hầu tựu tại Thổ Châu phân cùng các chủ tàu mà cầm Bảo-lộc-sư lại cùng xin một tên hoa tiêu và súng các vật để lại. Sau vài tháng Quả nhân sẽ theo mà tàu được về trước đệ tờ cho Thượng sư cùng quan Cai thành được hay. Còn Thiếu quân ấu tử thì phó mặc lượng Thượng sư định liệu nỗi ở nỗi về, làm sao cho đẹp ý Thầy thì Quả nhân cũng đẹp. Bằng vua Đại Tây có tình đoái hoài đến tiểu bang cho binh giúp Quả nhân thì Thượng sư gắng mà về thì phân ưu mới được. Sự tu cẩn thận, vật khả từ lao. Tư dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 47, tháng 9, ngày 14 (4-11-1786).
_____________________________________________________
1. Phiên âm Nôm của tên một ấp, một con rạch quen gọi là Mang Thít trong quận Minh Đức, tỉnh Vĩnh Long hiện tại.
2. Địa điểm còn lại ở tên quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long.
3. “Xiêm binh tha hồ cướp bóc, hiếp phụ nữ, lấy của người, giết bừa không chừa già trẻ”.
4. 18-1-1785
5. 26-12-1784. L.M Cadière đọc thiếu chữ “một” thành “tháng mười bữa rằm” chuyển qua dương lịch là 27-11-1784 (không hiểu sao L.M lại ghi ngày 25-11-1784?). Từ thời điểm này, ông so với ngày Pigneau đến Malacca 19-12-1784 (thư ở Pondichéry ngày 20-3-1785), A. Launay, III, t. 91, 92) để tính chuyến hành trình là 24 ngày. Thực ra có phải ngày rằm tháng 11 Giáp Thìn là ngày Cảnh từ giã Ánh đi cầu viện không? Tất là không vì khởi hành 26-12 mà sao 19-12 tới Malacca? Thư Bá-đa-lộc kể trên có nhắc chuyện gặp Ánh vào tháng 12 ở cù lao Thổ Châu khi Ánh bỏ quân Xiêm, trao Cảnh cho Bá-đa-lộc, để mình lại theo quân Xiêm đến đón ở Coal (Réam, Trũng Kè). Như vậy, ngày Cảnh đi, Ánh có mặt. Ngày “ông Cả giá hải nhi hành” này chắc là ngày rời Malacca vì Bá-đa-lộc cho biết toán đi cầu viện đến Pondichéry khoảng cuối tháng 2-1785 và mặt khác, ta thất sử quan vẫn gọi vùng Ấn thuộc Pháp là Tiểu Tây Dương quốc.
“An đổ như cố”: bình an như cũ.
6. Sứ đi Xiêm gồm Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) và Cai đội Trung (Thực lục q2. 15b).
7. Tiền quân Nguyễn Văn Thành sau này. Chúng ta lưu ý rằng tước phong của một người được hợp bằng tên chính của họ đằng trước rồi tiếp theo một tính từ, trạng từ, toàn bộ thành một ý nghĩa tốt đẹp như “Đức Nhuận hầu” Nguyễn Huỳnh Đức, “Thắng Toàn hầu” Nguyễn Văn Thắng (J. B. Chaigneau).
8. “Đưa thư nơi Linh mục Gia-cô-bê Cai trường chiếu xét: thăm ông những ngày vừa qua có được bình an không? Nay nhân việc binh, riêng sai Khâm sai Thống binh Cai cơ Thành Tín hầu thẳng đến để dò xét binh tình bao quát; cho nên đưa thư (này) để (ông) tiện biết tận tường. Phàm các lý lịch như thế nào thì chỉ giáo Thành Tín hầu cho đầy đủ. Chẳng phải nói nhiều. Xét cho”.
9. “Tự tôn sư nhận lời gửi gắm việc nước nặng nề, ra sức đi xa, phân cách Nam Bắc đến nay. Quả nhân thường hướng gió mà nhớ mong như là đói khát vậy. Kỳ hẹn tháng 6 năm trước đến mà không tin tức gì hết khiến kẻ quê này tưởng nhớ buồn phiền không chịu được”.
      Để hiểu thư này cùng ba thư sau, ta phải nhắc tới việc Bá-đa-lộc đi cầu viện. Lên đường khoảng tháng 12-1784, Giám mục với Hoàng tử Cảnh và đoàn tùy tùng đến Malacca rồi Pondichéry. Ở đây, Coutenceau des Algrains, người Xử lý Toàn quyền thuộc địa Ấn Độ của Pháp không nghe lời Giám mục. Charpentier de Cossigny, Toàn quyền thực đến quyết định gửi Pigneau của Pháp trên tàu Malabar. Đi theo Hoàng tử Cảnh có 43 người tùy tòng, trong đó có Phạm Văn Nhân, Phó vệ úy, Nguyễn Văn Liêm, cai cơ. Một số người khác ở lại Pondichéry trong đó có Paul Nghị (Bảo-lộc Nghị, Hồ Văn Nghị) và Trần Văn Học.
      De Cossigny đồng ý với Chevalier d’Entrecasteaux coi thủy quân Đông Ấn, gửi chiếc tàu Marquis de Castries dưới quyền De Richery đi dò tình hình. Lệnh trao ra có điều khoản rước Nguyễn Ánh nếu ông ta muốn. Bọn Hồ Văn Nghị theo tàu trở về ghé lại Thổ Châu dâng sớ xin đón Nguyễn Ánh. De Richery tiếp tục nhiệm vụ dò xét. Có lẽ thấy Tây Sơn đang khuynh đảo Bắc Hà thế lên như cồn, nên lúc trở về, ông không chờ đón Nguyễn Ánh cùng đi mà chở Hồ Văn Nghị đi luôn Pondichéry (xem thư thứ VIII).
10. Như lời chú trước, Khiêm Quang hầu, Long Chính hầu, Quý Ngọc hầu là tước của các tướng có tên Khiêm, tên Long, tên Quý, L.M Cadière thấy Thực lục (q2, 5a) có tên Nguyễn Văn Liêm đi theo Hoàng tử Cảnh vội cho đó là chữ Liêm viết lộn qua. Thực ra Khiêm Quang hầu thuộc lớp người ở lại với Hồ Văn Nghị (Bảo-lộc sư: Thầy Paul). Thư De Richery gửi cho Bộ trưởng Hải quân Pháp ngày 5-6-1786 (A Launay. III, t. 167) báo Cảnh có 43 người theo. Vậy theo Cảnh là 1 vị Hoàng thân (Cai cơ Nguyễn Văn Liêm), 42 người hầu và bộ tốt. Sử quan nhà Nguyễn tuy chép việc theo lối biên niên nhưng vì sau này mới lập sách nên kể rõ Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm là những người đã qua Pháp thật sự. Khiêm Quang hầu... là những kẻ ở lại dưới quyền của Hồ Văn Nghị, nên sớ dâng về, sử quan chỉ ghi tên Nghị là đủ (Thực lục q2, 21b). Kẻ đi người ở thực tách biệt rõ ràng.
      Có một tên Nguyễn Văn Khiêm cùng Lê Văn Duyệt theo thuyền vua long đong ở Hòn Chông, hòn Thổ Châu rồi cũng Nguyễn Văn Khiêm và Lê Văn Duyệt bị lưu lại sau trận Đồng Tuyên (tháng 4 âl 1783), đến bái yết ở hành tại lúc Ánh theo Xiêm binh về (Thực lục q2, 14a, mục tháng 11 âl 1784). Sự việc lẫn lộn nhưng cũng chỉ một người. Vậy Khiêm Quang hầu chắc là Nguyễn Văn Khiêm này vậy.
      Cũng vì cho Nguyễn Văn Khiêm là Nguyễn Văn Liêm, nên Cadière mới đoán Phạm Văn Nhân là Quý Ngọc hầu hoặc Long Chính hầu, trái với nhận xét lấy tên người đặt tên tước như ông đã thấy. Quý Ngọc hầu là Ngô Công Quý, người được Ánh sai rước Quốc mẫu (Thực lục q2, 10a). Có một tên Nguyễn Văn Quý, Cai cơ, đánh Đông Sơn với Phan Văn Tuyên tháng 5 âl nhuận 1781 (Thực lục q1, 4a), cùng với Dương Văn Trừng đánh Bến Lức của Tây Sơn tháng 5 âl 1782 (Thực lục, q1, 19a), nhưng lại bị Tây Sơn giết trong trận Đồng Tuyên tháng 4 âl 1783 trong khi đang cầm quân cánh hữu (Thực lục, q2, 2a). Còn Long Chính hầu có lẽ là Thượng đạo tướng quân Nguyễn Long sau này. Nguyễn Long là bộ tướng của Châu Văn Tiếp theo ông này từ Phú Yên vào trong chuyến đánh Gia Định chống Hộ-bộ Bá, Đỗ Nhàn Trập (Thực lục, q1, 19ab). Tiếp chết ở Mang Thít, Lê Văn Quân lên thay làm Tổng nhung, đến tháng 5 âl 1785 thì mang 600 người vào Vọng Các lập đồn điền để lấy lương chi dụng (Thực lục, q2, 17ab). Vậy Nguyễn Long có thể ở vào đám người này để chịu quyền sai phái của Nguyễn Ánh.
11. “Xảy nghe tưởng mất, mới hay quốc tộ vẫn còn; Nguyễn Gia phúc lớn nhờ tôn sư đem về chín đỉnh, tận tình khúc nôi, ráng sức cứu vớt cho nên (ngọc thành) vẻ đẹp; cái ơn cao dày ấy khắc in trong lòng, đến già (mất răng) không quên...”. Đoạn này Cadière dịch hơi khác: (Nous sommes rendus compte) que le respectable Maitre nous ramènera les 9 urnes, en traitant avec tout son coeur cette affaire difficile en nous aidant de toutes ses forees. Vous êtes parfait comme un jade qu’on a façonné...”
12. “Ai hay ý người muốn vậy mà ý Trời không chịu”.
13. Theo Cadière, Từ hải ghi “bính” là cứng, chắc, Génibrel viết chữ Bính không có bộ Kim bên cạnh, coi là một chữ Nôm và giải là “súng binh” An-tôn-lỗi (hay nỗi) là Antonio Vincente de Rosa. Cô-á là Goa. Bút-tu-kê là Portugal.
14. “Vải tây nhỏ mịn 100 tấm”.
15. De Richery.

Thư thứ sáu:
Chỉ dụ Tổng suất quản thủy binh nơi Ấn-di-a1, quan Cai thành Phong-ti-sê-ri nhị vị khâm tri:
Năm trước Quả nhân có sở cậy Bá-đa-lộc Giám mục Thượng sư đem Hoàng tử sang quý quốc cầu binh đã lâu tuyệt vô âm tín, Quả nhân áy náy hằng lo. Chẳng ngờ đến năm nay tháng 8 mới thấy biểu hồi trình mới tường tự sự, thì Quả nhân rất bội lòng mừng rằng năm trước Giám mục Thượng sư có tính việc ấy cùng quan Tạm quản, nhưng phải người không tình nhân ái, chẳng hay trợ nhược phò nguy, nên không tính đặng việc chi. Nay mới gặp tân quan nhị vị là đấng kinh văn vĩ võ, nhơn trí kiêm toàn, khảng khái lạc thi, đại hữu cứu hiểm phò điên chi chí2, nên sai thủy bộ nhị quan thừa chiến tàu sang đây hộ nghinh bảo quốc. Điều ấy Quả nhân xiết chi khong khen3 cảm tạ. Vì cấp thông chi trừ, nhất trích cam lộ, huống lâm vũ đại bái sinh ngã hạn miêu hồ. Hạ nhị vị cao nghị bất sí, đái đức Hoa, Tung, thừa ân Giang, Hớn4, tuy chưa thấy mặt thiệt đã biết lòng. Cũng đã hòng ngự giá theo tàu ngỏ kíp được hoan đàm hiệp mặt. Chẳng ngờ nhơn nguyện như thử, thiên ý vị nhiên. Vì tàu Cô-á vừa tới có phụng tờ Hoàng hậu Bút-tu-kê cùng tờ quan Cai thành Cô-á sang rước quả nhân, lại có tờ cùng lễ vật cho Xiêm vương làm cho đẹp lòng vua ấy mà rước Ta cho dễ. Nhưng vậy Quả nhân cũng chẳng khứng theo vì chí quyết xưa nay giao lân cùng Ba-lang-thê mà thôi, chẳng khứng cùng nước khác. Nhơn vì tàu ấy nên Xiêm vương hóa sự hồ nghi, liệu tính theo tàu ta chưa tiện, nên phải cho chủ tàu đệ tờ về trước còn Quả nhân thì ở lại. Vài tháng sau Ta sẽ ngự sang. Tư dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 47, tháng 9, ngày 14 (4-11-1786).
Thư thứ bảy:
Chỉ dụ Li-xi-ri thủy binh quan, tính Ba-đô-đông5 bộ binh quan cập chiến tướng đẳng khâm tri:
Phò nguy trì điên nhơn nhơn chi mỹ thái, bài nạn giải phân kinh tế chi diệu dụng. Nhơn nay Ta gặp thời tao loạn mông trần tha quốc, nhị vị hữu tâm bất nhẫn, vô từ bạt thiệp chi lao, phụng sai hàng hải thiên lý nhi hân duyệt phi thường, bất quản ba đào phong cụ, bất nại mộc vũ trất phong, chẳng những đồ hành lý tiêu nhiên lại thêm thông ngôn cùng ghe phải mất (công?) lặn lội (-?) sang để nghinh giá. Ước khổn khổ công lao ấy Quả nhân lấy chi báo cho cùng. Tuy nhị vị khẳng khái lạc thi chưa thường vọng báo, nhiên hốt lược chi lễ, Quả nhân thường quý ư tâm, nhũng trung bất đắc thù tạ, tất mông nhị vị lượng chi. Tự thử lập cơ hưng chỉ giai xuất vu nhị vị chi công, khởi vong tháo tựu tai?6 Như Bảo-lộc sư, Khiêm Quang hầu biểu hồi bẩm tấu rằng nhị vị ước kỳ thập nguyệt khởi trình, Quả nhân đà dự bị giá hành. Thùy tri thiên lý vị nhiên bất như kỳ nguyện. Vì mùng 2 tháng 9 (23-10-1786), tàu Hoa Lang bỗng đâu vừa tới có phụng tờ Hoàng hậu Bút-tu-kê một phong, lại tờ quan Cai thành Cô-á một phong dâng Quả nhân rằng đã sẵn binh đóng tại Cô-á, tàu chiến 56 chiếc nên cho sang rước Quả nhân. Lại đem tờ cho Xiêm vương hai phong cùng lễ vật trung tiểu bính nhị thập khẩu, với Tây dương tế bố nhất bách thất, lễ tạ Xiêm vương mà xin rước Quả nhân về thành Cô-á đặng phấn lữ tiễu trừ Tây tặc. Tuy vậy, Quả nhân cũng chẳng khứng theo vì đã biết nhị vị qua đây có lòng cùng Ta dường ấy, nỡ lòng nào theo đó bỏ đây, nên phải uyển ngôn từ tạ nhi dĩ. Nên vì cớ ấy Xiêm vương hóa sự sinh nghi e Ta nương thế theo tàu ấy, hằng ngày cho người do thám khó nỗi liệu toan. Như ước kỳ thập nguyệt khởi trình, ắt7 nay còn chưa tiện nên phải sai Quý Ngọc hầu tựu phân cùng nhị vị, cậy giúp Ta một tên hoa tiêu, súng cùng các vật. Đã có Quý Ngọc hầu trình báo để lại cho Ta còn tàu thì đệ tờ về trước cho Thượng quan được rõ, sau Ta sẽ giá hành sang đó. Vạn sự khởi đầu nan, mạc từ lao khổ. Tư dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 47, tháng 9, ngày 14 (4-11-1786).
________________________________________________________
1. India.
2. “... nhị vị là đấng văn trị võ tài, gồm đủ nhơn trí, khảng khái vui làm, có chí lớn cứu hiểm phò nguy...”
3. “Cao rao khen ngợi”
4. “Vì lúc gấp gáp, một giọt nước là một giọt cam lộ quý báu, huống là mưa lớn làm sinh sôi nảy nở lúa má khô khan của Ta. Tạ ơn quyết định cao cả; mang đức như núi Hoa, Tung, gánh ơn như sông Giang, Hớn của nhị vị...”
5. Có thể là Berneron, tên người phụ tá của De Richéry.
6. “Phò nguy giữ ngã là sự tốt đẹp của người có lòng nhân, là cái diệu dụng của sự bài nạn gỡ rối, cứu trị. Nhân nay Ta gặp thời tao loạn tối tăm ở nước ngoài (mà) nhị vị có lòng bất nhẫn, chẳng nề cái nhọc nhằn, lặn lội phụng mệnh sai vượt biển ngàn dặm mà lòng vui đẹp chẳng thường, chẳng ngại sóng to, gió cả, đội mưa, chải gió, chẳng những đồ hành lý mất đi, lại thêm thông ngôn cùng ghe phải mất (công?) lặn lội sang để nghinh giá. Ước khốn khổ công lao ấy, Quả nhân lấy chi báo cho cùng. Tuy nhị vị khẳng khái vui làm chưa từng mong báo, nhưng lễ tiếp sơ sài, Quả nhân từng thẹn lòng lúc rối ren không thể thù tiếp, cảm tạ, tất mong nhị vị lượng thứ cho. Từ hưng khởi dựng lập căn bản đều là công nhị vị, (Ta) há quên sự thành tựu đâu”.
7. Ở đây chữ “ắt” đọc là (ắt) ( không tìm được chữ) ; thư thứ X, chữ “ắt” (“như thủy binh Ta thời ắt còn trụ...”) viết là (ắt) Z. Chữ (không tìm được chữ) (ốt) dùng ở thư XIV phiên âm tên J.Liot (Li-ốt) rất dúng, không hiểu sao Cadière viết “Li-ỗn”.

Thư thứ tám:
Chỉ dụ Gia-bê-sa Cai trường khâm tri:
Vả việc Cô-á quốc sai tàu sang, cùng việc Ta sai phục sứ, thì đã sai Khiêm Hòa hầu, Chiêm Mẫn hầu1 dụ tường để sự nguyên do. Ta từ đặng tin tàu Hoa-lang-sa nhẩn nay hằng cảm công ơn Thầy Cả chẳng cùng, cạy cạy luống trông tàu trở2 lại, ngày kể ba thu. Vừa Quý Ngọc hầu diện báo (- ?) tàu đã tựu tín sở ước trong cử sự đặng hiệp cơ nghi. Lại tiếp thấy hai quan tàu cùng Cai trường khải văn, gẫm biết nhơn sự đa quai, thiên tâm nan tín. Song hai quan tàu cùng Bảo-lộc Nghị hồi bản thành trình quan Cai thành cùng Thầy Cả lo giúp Ta. Thể âu thiên lý, nhơn sự tương vi thủy chung, thủy tuy thùy súy chung năng phấn dực. Vốn Ta đà thỏa lòng, mựa hề quải niệm. Khâm tai. Đặc dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 48, tháng 2, mùng 1 (19-3-1787).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả quân).

Thư thứ chín:
Chỉ dụ Gia-cô-bê thầy Cai trường khâm tri:
Vả Ta cùng thầy Cai trường nhơn tuy biệt quốc nghĩa tợ đồng hương, tri ngộ mấy lâu thâm tình đà tỏ biết. Từ Xiêm quốc vọng chỉ cố đô là sự phi đắc dĩ, xúc tưởng lưu lai thốn chỉ4 đặng thấu nguyên do, lại e tiết lậu cơ mưu. (Chẳng?) ngờ ngày ấy ra đến Cà Mâu, Rạch Giá thấy quân tướng Tây Sơn cùng thần thứ quy thuận nghe nhiều, bèn thẳng vào phủ Gia Định. Đã thâu phục Vĩnh Trấn, Trấn Định nhị dinh, lại Lưu thủ Khoa đã thâu phục Trấn Biên dinh. Còn một ngụy Sâm nọ cậy tàu thuyền song còn ỷ thế trường giang cự địch nên thắng phụ vị phân. Vừa năm trước, tháng chạp ngày 28 (4-2-1788), mừng thấy thiên lý tiên lai nhứt phong tôn tặng, kỳ nguyện phục quốc, tương ngộ hữu kỳ, lòng Ta bất thăng tước dược5, ngỏ phải bộc bạch quốc gia cơ chỉ cùng Thượng quan. Tứ tặng đẳng vật, sai Khâm sai Tổng nhung Cai cơ Bảo hộ Nhàn Vân hầu6 đệ tựu ngỏ tường để sự. Như Thầy Cả với Thân tử Ta qua tại Đại Tây Dương quốc từ ấy nhẫn nay, âm mang vị thấu. Bằng Thầy cư (-?) cận cảnh, dầu có tin tức lai thông khá kíp tả ký tâm thơ vãng chiếu kẻo khát vọng bất thắng, quan sơn vạn lý, hoài niệm nhất thành. Khâm tai. Đặc dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 49, tháng 1, ngày 6 (12-2-1788).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 2, sao theo bản xưa. (Dấu Tả quân).

Thư thứ mười:
An Nam Quốc vương.
Tờ vu Cai trường Thượng sư Nha-cô-bê ngọc hiên nhiệm chiếu: Từ Ta đề binh phá Tây đồ thì bộ binh đã thâu phục Gia Định phủ các xứ, còn thủy binh nó thì trụ Mỹ Tho cùng Bến Nghé thắng phụ vị phân. Như thủy binh Ta thì ắt còn trụ Trà Lọt. hằng ngày trông tin Đức Bá-đa-lộc Thượng sư cùng Con Ta tiêu tức dường nào. Qua tháng 11 thấy Đội Dung tựu bẩm rằng Thượng sư có tờ quốc sự sai Đội Dung đệ thử tờ ký bẩm, chẳng ngờ Đội Dung tới vàm8 Rạch Giá xảy gặp Tây Sơn là thằng Lý sai ghe thiện hành xứ ấy nên Đội Dung vội bỏ tờ ấy xuống nước mà Đội Dung ngoại bẩm các lý, hư thiệt vị tường. Vả Ta hằng lo binh gia không hở lại chưa đặng người quán tín Thượng sư nên chưa sai đệ tín thư, lòng hằng thổn thức. Nay có Nội viên Thuyền chủ Huấn Đức hầu là tôi tâm trường vả lại gia tư xứ ấy lai khứ tiện thông mới sai đệ tờ trình chiếu. Như Đức Bá-đa-lộc cùng Con Ta viện binh Quý quốc đã trụ xứ nào, khá đệ tờ cho Ta tường hiểu. Lại như tờ ấy thì sai Cai đội Thọ đệ tựu bẩm văn cho tường để sự, vật sai tha nhân liệu sự bất thành. Trí ý. Nay tờ.
Cảnh Hưng năm thứ 49, tháng 1, ngày 15 (21-2-1788).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 2, sao theo bản xưa. (Dấu Tả quân).
__________________________________________________________
1. Có lẽ Cai bạ Nguyễn Thiệm, người cùng Giám quân Tống Phúc Đạm, Thị giảng Nguyễn Đô... đến hành tại trình bày tình hình “đơn nhược” của Gia Định và xúi bảo Ánh về nước (Thực lục q3, 1b). Hai chữ “chiêm” và “thiệm” rất gần nhau và có thể lẫn lộn. Khiêm Hòa hầu chắc là Nguyễn Văn Khiêm nay đổi tước.
2. Chúng tôi phiên chữ “trở” từ (lữ) cùng như “luống trông” từ (lũng lung). Địa điểm Thán Lung được hiểu là Thang Trông (không cần đến chữ Vọng Thê) là từ nhận xét này.
3. “Lẽ trời, việc người nhất loạt cùng làm cho có đầu có đuôi, ban đầu thì rũ cánh (bại) nhưng cuối thì sẽ vươn lên”.
4. “Nhớ đốt tay để lại” (J. Liot).
5. “Chẳng ghìm nhảy nhót” (nóng nảy).
6. Nguyễn Văn Nhàn. Tên được xác định vì ở đây có nêu tước vị “Bảo hộ” thấy hầu hết suốt những đoạn Thực lục có nhắc đến viên tướng này.
7. Lời tự xưng đã thay đổi vì Nguyễn Ánh đang chiến thắng
8. Vàm ( trầm), Cadière dịch embouchure rất đúng vì đó là danh xưng địa phương chỉ nơi sông con đổ ra sông lớn hay sông đổ ra biển.

Thư thứ mười một:
Chỉ dụ Nhã-ca-bá Cai trường sư khâm tri:
Vả Cai trường tuy người dị quốc, song có dạ ân cần, hết lòng ưu ái tấm lòng thương cảm chẳng cùng. Như ngoài này năm nay tháng 3 thì Tây Sơn là thằng Hưng cất đại binh giúp thằng Sâm mà chống đánh cùng Ta, thì chúng nó đã ghe phen đại bại, tử thương rất nhiều. Sao vậy nội tháng 6 thì Ta cũng đánh đặng Sài Gòn mà chớ. Như Con Ta từ thuở tha bang cùng Thầy Cả nhẫn nay, Ta tấm lòng khát vọng, độ nhựt như niên. Ơn có1. Cai trường bẩm văn về rằng đã thật tin đến nước Ba-lang-sa mà đều bình yên vô sự, nên Ta giản tấm lòng lo, vui mừng chẳng xiết. Như binh giúp có ra đến đó thì Cai trường giục ra cho kíp, bằng chưa ra thì tin tức làm sao, hoặc lái Điểm2 về hỏi làm sao, khá tốc cụ bẩm văn ngỏ tường áo để. Lại như thương tàu phương Tây có qua thì Cai trường dục ra ngoài này đặng Ta y giá biện mãi binh khí tiện dụng binh vụ mà Ta đều tha thuế hạng. Như Cai trường đã có lòng ưu ái cậy cùng giúp lo mọi việc, sau dầu bờ cõi đạt yên thì hãy một trường cá nước, ơn phỉ đền ơn. Quan sơn thiên lý, tâm tự bán tiên. Khâm tai. Đặc dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 49, tháng 5, ngày 29 (2-7-1788).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả quân).

Thư thứ mười hai:
Chỉ dụ Thầy Cai trường khâm tri:
Do tháng 6 ngày 25 (28-7-1788), Ta đề binh công phá Tây tặc đã thâu phục Ba Giồng, Bến Nghé, Đồng Nai, Bà Rịa toàn bức rồi vậy. Thủy bộ binh chúng nó kinh tâm thối hạ, xuất nhập hải môn, phòng toan phá dân cướp lương, nên ta còn kiểm điểm thủy binh vội thành nhứt chiến cho tuyệt hậu ưu, ấy là cơ binh. Được vậy nên phải lời cùng Thầy Cai trường: như Đại Tây Dương các chiến tàu thủy bộ binh đã hội tựu, tua khá trình lai ngỏ tường cơ chỉ, đặng quản binh ấy lại ngả Vịnh Tàu4 cho mau, trước là vây đón chúng nó sau là tiện đường nghinh tiếp, đặng thừa thắng trường khu. Hễ binh quý thần tốc, chớ khá khiên diên, kẻo tới tiết nghịch phong, quân lương nhựt phí. Thiên lý yên ba, thốn thành khẩn khoản. Khâm tai. Đặc dụ.
Cảnh Hưng năm thứ 49, tháng 8, ngày 28 (27-9-1788).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả quân).
Thư thứ mười ba:
An Nam Quốc vương thơ vu Gia-cô-vi Thầy Cai trường bình an hiệp hay: từ Ta phục hồi cố quốc, đường tuy xa cách, lòng tưởng xưa nay ơn có, nghĩa có, ghi dạ không quên. Như tàu Hòa-lan-sa6 trông chưa thấy đến. Vả tháng 8 Ta đánh Tây tặc vừa yên, về ở Sài Gòn, có dạy sứ7 đem lễ vật vào tạ đức Phật vương cùng Nhị vương, tuy là bạc lễ, dùng thảo tấm lòng. Như sứ đã vào đến nơi mà dưng lễ ấy, hay là chưa vào đến nơi, cớ sao chẳng thấy tiêu tức tín hồi. Lại như lượng đức Phật vương cùng Nhị vương có lòng thương Ta mà giúp binh khí hay dạy lượng nào thì Thầy Cai trường bảo tín thơ cho biết, kẻo đường nghìn dặm, trông đợi một phương. Khuyến khá ân cần, mựa đừng thất tín. Nay thơ.
Cảnh Hưng năm thứ 49, tháng 12, ngày 24, (19-1-1789).
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5, ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tả quân).
Thư thứ mười bốn:
Hành Lại bộ Trí Lược hầu thừa lệnh sai thầy Tấn nghi tựu Long Xuyên đạo, lãnh tiền nguyệt dĩ cụ chiến ghe nhứt chích, tính hiệp súng nhị khẩu, cập trạo giả tứ danh, tốc tụ Chân-bôn xứ nghinh Li-ốt Cai trường sư cập bản trường đẳng đệ hồi Sài Gòn yết kiến hành tại. Vụ tu vận tốc, vật khả kê trì. Nay sai.
Cảnh Hưng năm thứ 52, tháng 1, ngày 18 (20-2-1791)9.
Minh Mạng năm thứ 8, tháng 5 ngày 25, sao theo bản xưa. (Dấu Tá quân).
_____________________________________________________
1. Cadière âm là “cố”, giải là “từ ngữ dùng gọi các linh mục: ông cố”. Chữ “cố” đó là khuất, xưa, viết khác trong khi chữ “cố trong bản văn luôn luôn phải đọc là “có” mới có nghĩa (thư V, IX, XIII). Trong suốt các bức thư chỉ thấy Nguyễn Ánh gọi các L.M là Thầy Cả, gọi J. Liot là Cai trường, Thầy Cai trường, chớ không gọi là “ông cố” như danh xưng người bình dân ta gọi các L.M tây, phân biệt với các “cha” L.M ta.
      Câu văn nếu nhận chữ “có”, tránh được các thắc mắc trên mà vẫn giữ được ý nghĩa: “... ơn có Cai trường (đưa, thảo) bẩm văn về...”
2. Cadière dịch: “... ou si le pilote Điểm est en retour...”. Không thể biết rõ ràng hơn. Bên cạnh chữ “hỏi” có âm thêm chữ “nói”.
3. “Quan sơn ngàn dặm, tấm lòng bày tỏ (trong) nửa tờ thư”.
4. Chữ viết như vậy nhưng có lẽ phải đọc Vũng Tàu mới đúng hơn.
5. “Kẻo tới tiết gió ngược, tổn phí lương binh hàng ngày. Ngàn dặm khói sóng, một tấc lòng thành”.
6. Hòa-lan-sa ở đây, Hoa-lang-sa ở thư VIII, Ba-lang-thê thư VI, Đại-tây-dương quốc thư IX đều chỉ nước Pháp.
7. Thực lục q.3, 19b gọi là sứ “báo tin chiến thắng” (báo tiệp) song ở đây rõ ra là chủ tâm đi cầu viện.
8. Tước của J.M. Dayot nhận từ tháng 6-1790. Đại ý toàn bức thơ: “Trí Lược hầu phục vụ lưu động cho Bộ Lại theo lệnh sai thầy Tấn nên đến đạo Long Xuyên lãnh một chiếc ghe đã chuẩn bị (ở đấy) từ tháng trước với hai khẩu súng, 4 tay chèo, đi đến xứ Châu-bôn đón thầy Cai trường Li-ốt cùng toàn trường đưa về Sài Gòn, yết kiến ở hành tại. Việc nên làm mau, chớ chậm trễ. Nay sai”.
9. Bản chụp ảnh viết rõ ngày tháng “... chính nguyệt, thập bát nhật”, không hiểu sao Cadière đã dịch “1 lère lune, 18e jour” mà lại chuyển qua Tây lịch là 19-6-1791. Chuyển đúng thì đó là ngày 20-2-1791 như trên. Ngày 19-6 là ngày 18-5 âm lịch. Cadière nhìn lộn chữ “chính” thành chữ “ngũ” chăng?

SÁCH BÁO THAM KHẢO
Chú:
Tài liệu tham khảo liệt kê có 4 phần: những sách, báo có tính cách chỉ dẫn khảo cứu thư tịch, những sách, báo có tài liệu bằng chữ Việt (các tác giả Việt Nam viết tiếng Pháp kê vào phần tiếng Pháp, những tác giả Việt viết chữ Hán mà tác phẩm đã được dịch ra chữ Việt cũng kể vào đây), những tài liệu viết bằng chữ Hán, và sau hết, những tài liệu sách, báo viết bằng chữ Pháp. Tên người kể theo thứ tự abc (người Việt kể cả họ). Đối với những tác phẩm tập thể thì lấy đề sách hay lấy cơ quan soạn thảo thay vào cho cá nhân. Ví dụ các sách Thực lục, Liệt truyện... đều nằm dưới tên Quốc Sử Quán.

Chữ viết tắt:
Bđd:    bài đã dẫn
Sđd:    sách đã dẫn
q:    quyển
t:    trang.
BAVH:   Bulletin des Amis du Vieux Hue.
BEFEO:    Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême-Orient.
BSEI:    Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises.
NP:    Nam Phong tạp chí
RI:    Revue Indochinoise.

I. Thư tịch chỉ dẫn
1. Huỳnh Khắc Dụng, Sử liệu Việt Nam, Sài Gòn, Bộ QGGD, 1959.
2. Cadière, L. và Pelliot, P., “Première étude sur les sources annamites de l’histoire d’annam”, BEFEO, IV, 1904, t. 617-671.
3. Gaspardone, E., “Bibliographie annamite”, BEFEO, XXXIV, 1934, t. 1-173.
4. Tavernier, E., De la nécessité d’écrire l’histoire de l’ancien Annam, Sài Gòn, A. Portail, 1933.

II. Tài liệu chữ Việt
5. Bùi Văn Lăng, Địa dư mông học tỉnh Bình Định, Hà Nội, Imprimerie du Trung Bắc Tân Văn, in lần thứ tư, 1938.
6. Bùi Huy Bích, “Lữ trung tạp thuyết”, Tuyết Trang Trần Văn Ngoạn trích dịch, NP IV, t. 53-62.
7. Đông Hồ, “Hà Tiên Mạc thị sử”, NP, XXV, t. 322-343.
8. Hoàng Quang, “Hoài Nam khúc”, NP, XIII, 128-134, 210-216, 294-299.
9. Hoàng Thúc Trâm (Hoa Bằng), Quang Trung Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc, Saigon, Bốn Phương, 1958.
10. Hoàng Thúc Trâm (Sơn Tùng), Quốc văn đời Tây Sơn, Saigon, Vĩnh Bảo, 1950.
11. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn pha tử, Paris, Minh Tân, 1952.
12. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, tập I, II, Lê Mạnh Liêu, Đàm Duy Tạo dịch, Bộ QGGD, 1963, 1965.
13. Lương Đức Thiệp, Xã hội Việt Nam - Việt Nam tiến hóa sử, Saigon, Liên Hiệp tái bản, 1950.
14. Ngô Thì Chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô Tất Tố dịch, Tự Do tái bản, 1958.
15. Nguyễn Văn Siêu, Phương đình dư địa chí, Ngô Mạnh Nghinh dịch, Saigon, Tự Do, 1958.
16. Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, “Tang thương ngẫu lục”, Tuyết Trang Trần Văn Ngoạn trích dịch, NP, I, t.393-396, IV, t. 202-208, Nguyễn Hữu Tiến tiếp, NP, IV, t. 311-319, 493-502, V, t. 48-57.
17. Phạm Đình Hổ, “Vũ Trung tùy bút”, Nguyễn Hữu Tiễn dịch, NP, V, t.136-142, 331-339, XXI, t.236-244, t.357-368, t. 455-465, t. 561-569...
18. Phạm Văn Diêu,
      * Văn học Việt Nam, Saigon, Tân Việt, 1956.
      * “Thân thế và văn tài Hồ Xuân Hương”, Văn hóa nguyệt san, XI q7-8, tháng 7-8/1962.
19. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Saigon, Tân Việt, 1956.
20. Trịnh Hoài Đức, “Thành trì chí”, Trần Kinh Hòa dịch,
      Đại học năm thứ IV, số5, tháng 10-1961, t. 62-74.
      Đại học năm thứ IV, số 6, tháng 12-1961, t. 36-62.
      Đại học năm thứ V, số 1, tháng 2-1962, t. 134-136.
21. Viện Khảo Cổ, Hồng Đức bản đồ, Trương Bửu Lâm chủ biên, Saigon, Bộ QGGD, 1962.
22. Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Tự Do, 1960.

III. Tài liệu chữ Hán
23. Quốc sử quán,
      * Đại Nam thực lục tiền biên.
      * Đại Nam liệt truyện tiền biên.
      * Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (viết tắt: Liệt truyện).
      * Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ (viết tắt: Thực lục).
      * Đại Nam nhất thống chí (viết tắt: ĐNNTC).
      * Đồng Khánh Ngự lãm địa dư chí đồ (viết tắt: Đồng Khánh).
      * Khâm định Việt sử thông giám cương mục (viết tắt: Cương mục).
24. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí.

IV. Tài liệu chữ Pháp
25. Aubaret. G., Histoire et description de la Basse Cochinchine, Paris, Imprimerie Impériale, 1863.
26. Aurousseau, L., “Compte Rendu: “Histoire moderne du Pays d’Annam (1752-1820), Ch. B. Maybon”, BEFEO, XX/4, 1920, t. 73-120: XXII, t. 391-400.
27. Barrow, Jh., “Quelques notes sur Gia Long par un contemporain”, BSEI, I, 1926, t. 208-214.
28. Berland, H., “Les papiers du Dr. Crawfurd envoyé au Siam et en Cochinchine par le Gouvernement des Indes en 1821”, BSEI, XVI/4, t. 7-134, XXIII/1, 1948, t. 43-71.
29. Boris, Ch., “Monographie de Phu Yen”, BAVH 1929, t 199-245.
30. Boudet, P. et Masson, A., Iconographie historique de l’Indochine, Paris, Van Oest, 1931.
31. Cadière, L.,
      * “Quelques figures sous la Cour de Vo Vuong”, BAVH, Oct. - Déc. 1918, t. 253-306.
      * “Les Français au service de Gia Long: Despiau”, BAVH, Juil. - Sept. 1925, t. 183-185.
      * “Les Français au service de Gia Long: Nguyen Anh et La Mission-Documents inédits”, BAVH, Janv-Mars 1926, t. 1-49.
      * “Les Français au service de Gia Long: Leur correspondance”, BAVH, Oct. - Déc. 1926, t. 359-447.
      * “Les lieux historiques de Quang Binh”, BEFEO, III/2, 1903, t. 164-205.
      * “Le mur de Dong Hoi”, BEFEO, VI/1-2, 1906, t. 87-254.
      * “Documents relatifs à l’époque de Gia Long”, BEFEO, XII/7, 1912, t. 1-79.
32. C.B.M. Documents sur l’état du Cambodge, de la Cochinchine et du Tonkin de 1782-1786, RI XII (1910), t. 503, XIV (1910), t. 43-54.
33. Chapman, et Berland, H., “Relation d’un voyage en Cochinehine en 1778”, BSEI, XXIII/2, 1948, t. 8-75.
34. Chassigneu, E., Histoire des colonies et de l’expansion de la France dans le monde, tome V, Paris, Plon, 1932.
35. Gaudart, M, “Les archives de Pondichéry et les entreprises de la Compagnie française des Indes en Indochine au 18è siècle”, BAVH, Oct. - Déc. 1937, t. 353-380.
36. Gaide, L., “Notes historiques sur Poulo Condore”, BAVH, Avr. - Juin. 1925, t. 87- 103.
37. Guillemet, P., “Une industrie annamite: le noria de Quang Ngai”, BAVH, Avr. - Juin 1926, t. 97-215.
38. Hanncart, Ed., Un grand français: Mgr Pigneau de Béhaine, Edition de la Revue des Indépendants, Paris, 1933.
39. Histoire de France, tome II, Paris, Larousse, 1954.
40. Histoire générale des civilisations, 7 vol. publiés sous la direction de M. Crouzet, tome V, Paris, PUF, 1956.
41. Histoire universelle, 3 vol, publiés sous la direction de R. Grousset et E. G. Léonard, tome III, Encyclopédie de la Pléiade, 1961.
42. Hutchinson, Ed. et Berland, H., “Aventuriers au Siam au 17è sièsle”, BSEI, XXIII, đệ I, đệ I/TCN/1947.
43. Imbert, V., Le séjour en Indochine de l’ambassade de Lord Macartney, Hanoi, Taupin, 1942.
44. Jolez, R., “Macao à la fin du 18è siècle”, BSEI, XXV, 1950, t 41-49.
45. Koffler, Jh., “Description historique de la Cochinchine”, RI, XV (1911), t. 448-462, t. 566-575.
46. Korpelès, S, “Un cas de droit maritime international en 1797”. BSEI, XXIII/ 3-4, 1948, t. 125-131.
47. Laborde, A., “La province de Quang Ngai”, BAVH, Juil. - Sept 1925 t. 153-182.
48. Lacour Gayet, J., Histoire du commerce, tome II, Paris, Dunod, 1953.
49. Launay, A., Documents historiques sur la Mission de Cochinchine (1771-1823.), tome III? Paris, 1925.
50. Lê Thành Khôi, Le Viet Nam: Histoire et civilisation, tome I: Le milieu et l’histoire, Paris, les Editions du Minuit, 1955.
51. Maitre, Ch. E., “Documents sur Pigneau de Béhaine”, RI, 1913, XVIII, t. 1-16, XIX, t. 163-194. XX, t. 323-349.
52. Malleret, L., “Eléments d’une monographie des anciennes fortifications et citadelles de Saigon”, BSEI, X/4, 1935, t. 5-108.
53. Masson, A., Histoire de l’Indochine, Paris, PUF, 1950. (Ấn bản 1961 đổi là: Histoire du Viet Nam).
54. Maybon, Ch.B.,
      * Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820), Paris, Plon, 1919.
      * La relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mgr de la Bissachère, Paris, Champion, 1920.
55. Navelle, E., “De Thinai à Bla”; Excursions et Reconnaissances, XIII, 1887.
56. Orband, R., “Les tombeaux des Nguyens”, BEFEO, XIV/7, 1914, t. 1-74.
57. Salles, A. et Cadière, L., “Les Français au service de Gia Long”, BAVH, Avr. - Juin 1922, t. 139-180, Janv. - Mars 1923, t. 1-197.
58. Société des Etudes Indochinoises. “Foire exposition de Saigon”. BSEI, XVII/3, 1942.
59. Taboulet, G.,
      * La geste française en Indochine, tome I, Paris, Andrien Maisoneuve, 1955.
      * “La vie tourmentée de l’Evêque d’Adran”, BSEI, XV/3-4, 1940, t 9-41.
      * “Sur le matelot Manuel, mort au Champ d’Honneur en combattant pour Gia Long”, BSEI, XV/3-4, 1940, t. 55-64.
      * “La révolte et la guerre des Tay son d’après les Franciscains Espagnols de Cochinchine”, BSEI, XV/3-4, 1940, t. 65-106.
      * “Le trai té de Versailles et les causes de sa non exécution”, BSEI, XIII/2, 1938, t. 67- 116.
60. Trương Vĩnh Ký, Cours d’histoire annamite, Saigon, Imp. Du Gouvernement, 1879.

V. Sách báo mới xuất bản:
1. Hoàng Văn Hòe, Đình Thụ, Đại Việt quốc thư, Quang Trung, Saigon, Bộ QGGD, 1967.
2. Nguyễn Phương, Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn, Saigon, Khai Trí, 1968.
3. Quách Tấn,
      * Nước non Bình Định, Saigon, Nam Cường, 1968.
      * Xứ Trầm hương, Saigon, Lá Bối, 1970.
4. Sử Địa số 9-10, 1968, Đặc khảo về Quang Trung:
      * Hoàng Xuân Hãn, Việt Thanh chiến sử theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh, t. 3-8, t. 245-263.
      * Đặng Phương Nghi, Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, t. 194-243.
      * Tạ Quang Phát, Tây Sơn thuật lược (dịch), t. 155-169.
5. Sử Địa số 13. 1969, Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu (Đống Đa):
      * Đặng Phương Nghi, Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây phương, t. 143-180.
      * Hoàng Xuân Hãn, Bắc hành tùng ký, t. 3-32, t. 181-183.
      * Lý Văn Hùng, Cuộc giao thiệp giữa Quang Trung với Càn Long. Vụ 16 châu và xây đền Sầm Nghi Đống, t. 135-142.
      * Phan Khoang, Chung quanh cuộc chiến thắng Tôn Sĩ Nghị của vua Quang Trung ngày Tết Kỷ Dậu, t. 184-189 (lược dịch một đoạn của Đại Thanh Thực lục).
      * Tạ Quang Phát, Bài chiếu của Quang Trung Hoàng đế lên ngôi (phiên âm và dịch ra quốc văn).

NHẬT KÍ HÀNH QUÂN TRONG CHIẾN TRẬN NGUYỄN - TÂY SƠN
Nếu chịu khó nén tự ái chút xíu thì phải công nhận rằng những ghi chép về quá khứ của chúng ta còn lại thật là quá ít. Chẳng cần tìm những nguyên nhân xa xôi, chỉ giản dị nhìn thấy các sử quan xưa không chịu viết riêng quyển sách cho mình mà cứ dọn lại sách cũ thì đủ biết sự mất mát đã là to lớn dường nào. Rồi cộng thêm với sự chăm chút riêng của nhà nước đương thời về các sản phẩm chính thống đó, trong lúc họ lơ là để những dã sử phải huỷ hoại khiến cho người sau không còn gì để đối chiếu, phê phán. Ví dụ sách [Đại Việt Sử ký] Toàn thư đã lược giản những biến động từ Lý qua Trần, hẳn là từ công trình đao bút của Ngô Sĩ Liên. Biến động có tính cách tổng hợp còn như vậy huống hồ là những ghi chép chi li giờ phút ngày tháng, soi đủ mọi mặt sinh hoạt của những con người tham gia vào biến cố!
Tất nhiên dù ít nhiều gì người xưa cũng có ghi chép các chi tiết mà bản thân đương thời của họ, và của người trên họ thấy là yêu cầu cần thiết. Ví dụ Toàn thư tuy đã để dành rất nhiều trang cho các trận chiến chống Minh nhưng các tài liệu liên hệ còn nhiều hơn ta tưởng. Có chuyện năm 1434, Phạm Tư Minh bồi đai bán cho người Trung Quốc bằng “giấy cũ ghi việc điểm binh” nên phải bị giáng cấp. Lượng giấy đủ dùng cho một công cuộc mua bán hẳn không phải là ít. Tuy nhiên sự kiện huỷ hoại như thế cũng bớt dần khi thời gian cách biệt đối với chúng ta ngắn lại. Ví dụ về các chiến trận Nguyễn - Tây Sơn, phần giáp ranh thế kỉ XVIII, XIX.
Nguyễn Đức Xuyên (1758-1824), người coi Tượng cơ của Nguyễn Ánh trong chiến trận, còn để lại một tập hồi kí được đăng từng kì trên tập Nghiên cứu Huế1 bây giờ. Chúng tôi không thấy toàn bộ hồi kí nhưng cũng tạm cho là đủ để bàn trong vấn đề chọn lựa. Nó xuất hiện dưới tựa đề “Tập hồi kí biên niên Lí lịch sự vụ” do Trần Đại Vinh dịch và chú giải. Theo lời dẫn thì năm 1822, Minh Mạng sai các quan viết lí lịch sự vụ của mình đem nạp Sử quan để làm tài liệu. Tập của Nguyễn Đức Xuyên nạp ngày 22-6 Nhâm Ngọ (1822). Trong những nhân vật lớn từng tham gia chiến trận vừa qua, đến năm 1822 thì Nguyễn Văn Thành đã tự tử (1817) vì vụ con là Nguyễn Văn Huyên mang cái ngông nghênh của nhà nho làm thơ khẩu khí. Còn sống là Lê Văn Duyệt, Lê Chất, hẳn cũng có phần ghi chép của mình nhưng hiển nhiên không thể lưu lại dấu tích vì vụ Lê Văn Khôi nổi loạn đã là dịp để các văn quan báo thù hai ông tướng từng huênh hoang “Chúng ta kéo nhau về triều, nạt một tiếng, bọn Trịnh Hoài Đức… xanh mặt ngay!” Lại cũng không thấy phần của Nguyễn Văn Trương chẳng hạn. (Tuy gốc chăn trâu nhưng làm quan nhất phẩm triều đình, từng là “tư lệnh phó “ của Nguyễn Ánh, khéo léo cư xử trong ngoài, được vua từng trọng thì thiếu gì kẻ khoe văn múa bút xin làm thay?). Sử quan khi viết [Đại Nam] Liệt truyện cũng đã nhận rằng có lấy tài liệu từ các quan tham gia biến cố cũ. Vậy mà ở đây chỉ còn lại của Nguyễn Đức Xuyên. Ta tạm bằng lòng như thế.
Chuyện chiến tranh phần nhiều là của thế kỉ trước, hồi kí bắt đầu năm 1781 nên chỉ là những điều nhớ lại, vì thế ta không lấy làm lạ rằng cậu thanh niên 23 tuổi này chỉ biết một biến cố quan trọng mà đương thời chắc ai cũng rõ, đó là vụ trừ khử ổ Thanh Nhân. Phải trải qua trong hơn mười năm, được ngoi lên trong biến cố với vai trò tham dự lớn dần, ta mới thấy Nguyễn Đức Xuyên ghi chép nhiều hơn, từ bản thân lan qua các nhân vật, sự việc liên hệ. Và cũng dễ thấy rằng những quyết định hành động của con người trong thời đảo lộn không thể cứ theo chuẩn mực bình thường.
Tuỳ theo tình hình mà người ta lột áo theo phe này phe nọ để rồi khi đứng vững ở một nơi thì lại tìm cách che giấu, biện minh cho quá khứ của mình. Ta đã thấy Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Đăng Vân... trong sử triều đình, ở đây lại thấy thêm tên Trương Tấn Bửu, “Đốc chiến Bửu thuận hầu” của Tây Sơn, từng coi 500 binh Miên, sau cũng là công thần của Nguyễn Ánh. Sau trận Hòn Chồng, thoát khỏi cuộc vây bắt của Trương Văn Đa, Nguyễn Đức Xuyên trốn về Sài Gòn làm tướng Tây Sơn, rồi nổi loạn chống đối, nấp lánh cho đến khi Nguyễn Ánh theo quân Xiêm về mới thoát ra được. Lần đầu hàng được ghi trong hồi kí là “Phụng mệnh... quy tập cựu binh theo ở với Tây Sơn để làm nội ứng”, nhưng đó là chuyện của 40 năm trước, nay Nguyễn Ánh đã mất, tha hồ viện dẫn, chưa kể công tích đã qua, chức quyền hiện tại đủ giúp cho Xuyên xí xoá một lúc yếu mềm! Người em thứ ba là Nguyễn Đức Ngữ cũng từng là Đô đốc Tây Sơn. Thời luân lạc đói khổ, bị rượt đuổi, Xuyên từng liên tiếp cướp thuyền thương khách Trung Hoa, giết người Xiêm (1783, 1784, 1785) thì chuyện đầu hàng kẻ thù cũng không lạ là mấy!
Ghi chép của Xuyên có thêm những điều sáng tỏ, đồng thời thêm thắc mắc cho ta - đây là chuyện kéo dài vô tận của việc tìm hiểu quá khứ. Trong lúc đầu hàng Tây Sơn, Xuyên được “ngụy Cai cơ Trí” sai đấu côn với “Cai cơ Dũng”, người mà Xuyên quả quyết là tướng Võ Văn Dũng nổi danh về sau. Điều này hẳn là xác thực bởi vì khi tàn cuộc, Xuyên còn gặp Võ Văn Dũng (xem sau). Vậy là Dũng đã có mặt trong hàng ngũ Tây Sơn từ lâu, nghĩa là sự việc đủ để giải thích quyền lực của ông ta về sau nhưng lại gây thắc mắc về nguồn gốc Hải Dương của ông theo Hoa Bằng phát giác, và về tước Chiêu Viễn hầu của Quang Trung phong cho. Cũng ngay từ 1782, Nguyễn Ánh, theo Nguyễn Đức Xuyên, đã có bộ phận “quân/quan quân Bắc Hà” và “quân Cao Miên” được kể chung với toán “quân cấm binh hầu điếu” trung thành. Bộ phận Bắc Hà trên là của quân lính Trịnh ở Phú Xuân đào ngũ hay là lưu dân Bắc chưa đồng hoá với địa phương, còn cho thấy rõ là thuộc thành phần riêng biệt? Trong 200 năm phân chia, dân khai khẩn vùng cực nam là của Đàng Trong, vả lại chữ “quan quân Bắc Hà” đã chỉ rõ xuất xứ của họ. Họ hẳn là của quân Trịnh chuyển qua trung gian Tây Sơn trong những trận đánh Cẩm Sa (1775) và những tiếp giáp Trịnh Tây Sơn sau đó. Lại cũng là chuyện bình thường của thời thế, nhóm quan quân đầu hàng, tù binh kia của Trịnh đi qua phía Nguyễn Ánh, vẫn còn một bộ phận ở lại phía Tây Sơn trong đó hẳn có Võ Văn Dũng. Về phần lính Miên, trong những trận chiến về sau trên đất Tây Sơn đều được gọi là “Xiêm binh” tuy có dấu hiệu có thành phần Miên, như bộ phận dưới tay Nguyễn Văn Tồn, người Trà Vinh, hay bộ phận “lính Xiêm” dưới quyền Ốc nha Dong - Ốc nha là quan chức Miên.
Tuy nhiên phần lớn đó cũng chỉ là hồi ức. Sự việc được kể như có căn cứ ghi chép đương thời là từ lúc Nguyễn Đức Xuyên rời vị trí hầu hạ Nguyễn Ánh ra chỉ huy quân riêng: bộ phận tượng binh thành lập để đối phó với Tây Sơn. Chính từ đây ta mới thấy được tính chất thời sự của biến động. Tất nhiên việc ghi chép này có đi đến độ tỉ mỉ xác thực cũng phải đòi hỏi thời gian theo với vai trò thăng tiến, đẩy đưa yêu cầu hành động của ông. Năm 1793, khi đi đánh Quy Nhơn, Xuyên chỉ ghi những con số tròn trịa “quân dò thám tiền phương 10 người… thêm 100 người đánh phá thành mới của Nguyễn Nhạc”. Đến lúc theo quân đánh Phú Yên, Thi Nại 1794, 95 thì Xuyên ghi chi tiết ở Nha Trang với tên các tướng mặt trận, các tướng Tây Sơn, việc bàn định tấn công, kể cả việc Lê Văn I)uyệt lấy tư cách tướng mặt trận, đánh trước tâu sau... Rồi trong chuyến công tác đưa sứ Xiêm về nước, nhân dịp đánh cướp biển, Xuyên ghi việc từng ngày một, kể cả giờ khắc đến hòn Tre (“giờ dậu”), tấn công Đồ Bà (“canh hai”).
Vai trò Xuyên càng lớn lên với chiến dịch đánh Đồ Bàn 1799-1802. Điều này là do hai nguyên cớ bổ túc cho nhau: tính cách thân thuộc của Xuyên và vai trò quan trọng của tượng binh trong chiến cuộc. Xuyên vốn có gốc họ “Nguyễn Phúc...” của chúa cho nên trong chiến dịch, tiếng là dưới quyền Nguyễn Văn Thành mà lệnh tiến quân, điều binh, báo cáo đều là trực tiếp với Nguyễn Ánh. Trong trận đánh thất lợi ở Kì Sơn (nam Bình Định), trong báo cáo thẳng với Nguyễn Ánh, Xuyên nhận rằng có “nặng lời” với quan Điều bát không phải chỉ vì cậy thế thần mà cho rằng Thành đã quá sơ suất trong việc phòng thủ ở vị trí của ông ta. Những loại xung đột hàng ngày theo kiểu này vẫn có ảnh hưởng dai dẳng nên chính Xuyên, cũng như Lê Văn Duyệt, sẽ có dính dấp đến việc kết tội chết cho Thành về sau. Và tất nhiên giữa cảnh tên đạn sống chết, kẻ thấp hèn hơn cũng không mấy quan tâm đến chuyện hoàng thân quốc thích, còn vua thì cũng khó mà bênh vực. Cho nên chúng ta thấy Xuyên phải phân trần với Nguyễn Ánh về việc tướng sĩ dưới quyền tranh công, tranh thưởng, khởi tố cấp trên, chửi Xuyên là “thằng hát bội, làm tướng sao nên!”.
__________________________________________
1. Nghiên cứu Huế, tập 1-5, Trung tâm Nghiên cứu Huế, Huế 1998-2003.
2. Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh hùng dân tộc 1788-1792, Saigon: Thư Lãm ấn Thư Quán, 1958.

Trong các chiến dịch trên bộ, vai trò quan trọng của tượng binh Tây Sơn là điều đã từng nói tới, nhất là khi người ta muốn nêu cao danh vị một nữ tướng: Bùi Thị Xuân. Cho nên đối trọng từ phía Nguyễn cũng phải là tượng binh. Tuy có bộ phận voi của “Xiêm binh”, nhưng chính quân của Xuyên đã góp phần quan trọng trong các cuộc tấn công, kiềm giữ quân Tây Sơn khiến cho trong các trận thua cũng không phải chịu nhiều tổn thất. Chứng cớ rõ ràng là phán đoán từ phía địch thủ. Sau khi bỏ Đồ Bàn rồi bị bắt ở phía thượng du, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng nghe tin Nguyễn Đức Xuyên đượcphong trấn thủ Thanh Hoá, liền nằng nặc đòi gặp. Té ra hai tướng Tây Sơn chỉ cần thấy tận mặt người đã cùng mình đối đầu suốt ba năm trên chiến trận mà thôi!
Nguyễn Đức Xuyên nắm lượng quân số rất chặt. Đầu năm 1801, báo cáo lính tác chiến là 2.128 người, ốm đau sai phái là 393 người. Qua các trận, thấy báo cáo còn 1.319 người, bị thương 50, bệnh 94, chết 13 còn mạnh 1.162, thật sít sao. Rồi một lúc sau lệnh bổ sung, báo cáo cho thấy số người cũ, mới của từng cơ trong 4 vệ dưới quyền, tổng cộng 2.268 người (1.650 cũ, 618 mới). Ngày về Phú Xuân, quân số tăng lên 2.566 người. Báo cáo thiệt hại cũng rất kĩ. Trận Kì Sơn bị thương 258 người, “thất trận” (mất tích [trốn, đầu hàng]?) 157 người, chết 26 người, voi bị thương 32 con, mất tích 6 con. Với tình hình nắm chặt quân số của một đơn vị trong thời tranh chiến như thế khiến ta khá tin vào số quân của L. Barizy đưa ra, tính cả toàn bộ lực lượng của Nguyễn Ánh. Lẽ tất nhiên không thể nào có tài liệu về phía Tây Sơn, nhưng dù có cũng có thể tin rằng phía Tây Sơn không nắm vững quân số như Nguyễn Ánh được. Cứ xem cách Quang Trung cuối năm Mậu Thân 1788, dẫn quân qua Nghệ An dùng chó săn người trốn, lấy dao xỉa vào đống rơm, “chốc lát được hơn một vạn” thì thấy ngay là sự nói phỏng chừng.
Số lượng trên là tính cho “nội dinh” 4 vệ của Xuyên, chứ còn riêng binh tượng thì thu hẹp hơn, chỉ có 270 người nhưng với những chi tiết đáng kinh ngạc: hạng nhất 102 người (trưởng chi 5, phó 4, cai đội 10, phó 7, đội trưởng 26, ngũ trưởng 14, lính 36); hạng nhì 79 (cai đội 3, phó 5, đội trưởng 13, ngũ trưởng 19, lính 39); hạng ba 36 (đội trưởng 2, ngũtrưởng 9, lính 25). Như vậy tính theo tổ chức quân sự ngày nay thì binh tượng của Xuyên là quân thiết giáp, lúc hành quân không phải là đơn độc mà có cả một bộ phận tùng thiết đi theo. Tên của các voi rất là nôm na: voi Rạp, Kèo Nhỏ, Bích, Nhảy, Vân của Xuyên, voi Ngẫu, voi Tiêu của Tây Sơn. Sự quan tâm của Xuyên không phải chỉ với binh lính mà tất nhiên còn đối với voi nữa. Ta thấy Xuyên kể chuyện voi Kèo Nhỏ thất lạc trong chiến trận, gần cả năm sau lại trở về trong lúc quân đã dời đi nơi khác? Chúng ta thấy chuyện chữa cho voi mắc bệnh “ăn đất”, với các chuyên viên đã đành mà cũng có cả các lương y bất chợt theo tình hình chiến trận khiến voi phải chết - “hạ thổ”.
Sự kiện được ghi về một phía của tranh chiến - phía Xuyên, của Nguyễn Ánh - khiến ta dễ tưởng lầm chỉ có chuyện ba hoa công tích. Thật ra điều này chỉ xảy ra lúc các sử gia “dọn lại”, chứ người đương thời trong sống chết gang tấc phải cần ghi sự thật để kịp ứng biến có hiệu quả cho nên ta gặp những chi tiết khá thất lợi cho quan niệm phe phía về sau mà Nguyễn Đức Xuyên may thay không xoá bỏ. Đã thấy chuyện các thuộc hạ của Xuyên chửi chỉ huy trưởng của mình là “thằng hát bội”. Xuyên cũng kể chuyện quân tướng ở lại giải vây cho thành Bình Định, nghe tin lấy được Phú Xuân liền không chịu đánh nữa, các quan thì “bàn ra”, còn lính lâm trận “chưa thấy giặc đã chạy”.
Vấn đề xung đột ý kiến trong việc thu dụng tướng Tây Sơn về đầu cũng được bàn rất chi tiết, dài dòng, với ý kiến phản đối của Xuyên lấy lí lẽ “Chừng nào thần và Thành tướng quân bỏ chúa thượng thì chúng nó mới bỏ chúa nó....”, và những lời Nguyễn Ánh bày tỏ khéo léo mà không giấu vẻ quyền uy trong việc bênh Lê Chất, Lê Văn Phong cùng việc xử trí đối với các hàng thần.
Trong những biến cố dồn dập vẫn thường có những chi tiết thoảng qua tưởng chừng không quan trọng nhưng đối với người đọc tinh ý sẽ thấy như một bằng chứng lớn lao, hoặc ít ra là gây được thích thú bất ngờ. Việc có người Âu giúp Nguyễn Ánh với người đọc sử ngày nay đã trở thành bình thường nhưng không ít người vẫn nghĩ rằng “Tây là Tây, Ta là Ta, Tây đánh theo Tây, Ta đánh theo Ta”, nhất là khi thấy các sử quan kể chuyện tiến công, lui quân, bắt lính, thâu thuế... không khác chuyện chiến trận hàng trăm năm trước. Nhưng Nguyễn Đức Xuyên cho một chi tiết không thấy tương tự ở bất cứ nơi nào trong sách của Quốc sử quán, khiến ta phải đặt vấn đề ảnh hưởng Tây Phương đối với quân Nguyễn Ánh sâu đậm hơn là ta tưởng. Đó là chuyện Xuyên đánh đồn Kì Sơn “tay phải cầm súng kíp, ngón tay vô danh và ngón giữa bị trúng đạn”, và nhờ có ống dòm khiến cho Xuyên thấy được toán quân của Trần Quang Diệu từ xa nên lui quân kịp thời khỏi chịu tổn thất.
Vậy thì trở lại với những chi tiết về quân ngũ như đã nói, sự kiện Xuyên biết mà ghi lại đó có phần nào chịu ảnh hưởng theo cách tổ chức quân sự rành rẽ của Tây Phương không? Tổ chức đó rõ ràng là khác với lối đánh “truyền thống” đến đâu bắt lính tới đó (như Nguyễn Huệ ở Nghệ An đã nói) tuy cũng có tướng, binh nhưng không giấu được tính chất hỗn độn từ cung cách tập họp người dưới cờ. Kiến thức đến từ người Pháp, có Trần Văn Học biết cách vẽ bản đồ, xây thành trì, như vậy ông quan này thật có nhiều điều khiến ta phải suy nghĩ hơn là chỉ dựa trên những dòng chữ của sử quan để lại. Trong chuyện kể của Xuyên, ta cũng gặp một phương thức truyền tin theo kiểu “tân cổ giao duyên”: Khi muốn báo tin cho bên trong thành Bình Định biết, quân Nguyễn đã “đốt 5 cây hoả hổ và 3 nhà dân”! Đọc lịch sử có những chuyện này thật lí thú hơn là nghe tiếng văn chương trầm bổng, hay những ngợi ca về thành tích chiến tranh, trị nước của các bậc anh hùng, minh quân. Cùng một chiều hướng thích thú đó, ta nghe Xuyên kể chuyện “ngụy Đô đốc Điềm đem khoảng 700 người (lính nam và) phụ nữ 50 người đánh Phú Yên”. Hay, như đã nói, chuyện Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng làm thân bại tướng với cái chết cầm chắc mà đòi gặp Nguyễn Đức Xuyên chỉ vì một lí do thật hào hùng của con nhà tướng: Muốn thấy tận mặt kẻ từng là đối thủ trong suốt ba năm qua? Quá khứ từ những chi tiết đó hiển hiện dồi dào màu sắc, linh động như cuộc sống phải có, là lịch sử người sau muốn thấy, đúng như của một khoa học lịch sử mong muốn đạt tới, xuyên qua sự mai một của thời gian, qua những sửa đổi, gạt bỏ bôi xoá của phe phái. Một bộ phận khá lớn những ghi chép của Nguyễn Đức Xuyên lại đưa đến một vấn đề quan trọng hơn chuyện tranh chiến cấp thời thường nhật: Đó là các thư từ quan lại (chỉ dụ, lời tâu, báo cáo) giữa chiến trường và trung tâm chỉ huy. Thư viết bằng chữ Nôm, bởi vì người ta phải thông báo nhau bằng tiếng nói thường nhật. Đến thế kỉ này thì người ta chắc đã hết tán tụng chuyện Quang Trung nâng đỡ chữ Nôm như một sáng tạo độc đáo của vị vua anh hùng xuất thân áo vải cờ đào - người nào còn khư khư với chân lí đó thì không có thể tranh biện gì được nữa. Lí do xuất hiện của các bản văn chữ Nôm thường được coi như là chứng tích thăng tiến của tinh thần dân tộc Việt, nhưng cụ thể hơn, vốn là do tình hình thực tế có quân nhân, tướng sĩ (và thường dân) ít học dưới quyền mà người cầm quyền phải lưu tâm sử dụng đến nó (Hoàng Xuân Hãn).
Tuy nhiên tình hình thực tế này lại có nguyên nhân lớn rộng hơn mà người ta ít nói tới. Đó là do sự mở rộng quyền lực của các vương triều, nên càng lúc càng có một bộ phận lớn người dân nói-tiếng-Việt tham gia vào biến cố. Không phải chỉ chứng cớ nằm trong bản văn thề Lũng Nhai, lời thề với Lê Lai tận trong rừng núi Lam Sơn, cùng với lời truyền của Trịnh Kiểm đã phai lạt dấu vết Thái Lào của thế kỉ XV, XVI mà đã đến tận Đồng Nai, Gia Định, nơi Minh Mạng có nhận xét là dân “ít học” (chữ Hán). Vì vậy thế kỉ tranh chấp Nguyễn Tây Sơn đã khiến xuất hiện nhiều bản văn chữ Nôm hơn lúc nào hết.
Với sử gia thì những thư từ qua lại này thật quan trọng không những chỉ vì chúng là bằng cớ đương thời của biến cố mà còn vì chúng đã sử dụng thứ ngôn ngữ thường ngày của thời đại và địa phương nữa. Với phần cuối thế kỉ XVIII qua XIX, L. Cadière đã đưa ra những bức thư của Nguyễn Ánh nhưng chính trong hồi kí của Nguyễn Đức Xuyên này mới có dấu vết nhiều đến ngợp. Người dẫn hồi kí chưa phải làm việc của một chuyên viên Hán Nôm cho nên các tài liệu vẫn còn đó để mở ra một hướng khảo sát, miễn là nhà khảo cứu bỏ được thói quen cố đi tìm những gì thật “xưa”, bớt quanh quẩn ở các công trình kiểu “song viết” tuy có dáng khoa học khảo chứng nghiêm chỉnh nhưng không giấu được tính chất tầm chương trích cú trì trệ còn rơi rớt đâu đó. Quá khứ không phải chỉ của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, cố níu thêm một ông Nguyễn Huệ nông dân cho ra vẻ hiện đại mà sẽ còn là lối nói của người dân thế kỉ XVIII, XIX uốn nắn qua văn từ của ông quan, ông vua để diễn tả tư tưởng biểu hiện tình thế cấp bách trên tầm mức quốc gia đương thời. Điều đó không ít thì nhiều có thể thấy trong các bản văn nôm của Nguyễn Đức Xuyên giữ được vậy.
Tháng 4, 2006






Nguồn: http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=2042.85;wap2

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét