XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2016

Vài nét về bộ sử của Vương triều Tây Sơn

nguyenhue.jpg
Phan Huy Lê Dương Thị The Nguyễn Thị Thoa
Một đóng góp to lớn của vương triều Tây Sơn cho kho tàng văn hóa của dân tộc là việc vương triều này cho ra đời một tác phẩm sử học tầm cỡ có giá trị: Đó là bộ Đại Việt sử ký tiền biên.
Đại Việt sử ký tiền biên là một bộ sử lớn viết bằng chữ Hán do một tác giả nổi tiếng là Ngô Thì Sĩ biên soạn. Đến thời Tây Sơn con ông là Ngô Thì Nhậm sửa sang dâng lên vua và cho in. Bộ sử này được in lần đầu tiên vào năm 1800, niên hiệu Cảnh Thịnh thời Tây Sơn (bản này hiện nay chưa tìm được). Bản in ngày nay còn giữ được ở Phòng Bảo quản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thư viện của trường Đại học Tổng hợp, thư viện Viện Sử học và một vài tủ sách của tư gia là những bản được in vào đầu đời Nguyễn trên cơ sở ván khắc cũ của thời Tây Sơn có đục bớt một vài chữ như “Bắc Thành”, “Cảnh Thịnh”…
Bộ sử gồm 17 quyền chia làm 2 phần: Ngoại kỷ (7 quyển) và bản kỷ (10 quyển). Chép từ thời Hồng Bàng đến thời thuộc Minh gồm 4354 năm.
Trong bài viết này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu đầy đủ nội dung của bộ sử mà chỉ xin so sánh để nêu lên vài nét đặc biệt của tác phẩm.
1) Tính độc lập về quan điểm của tác giả thể hiện qua bộ sử:
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Triệu Đà được coi là một ông vua chính thống, được xếp riêng thành một kỷ gọi là “Kỷ nhà Triệu”. Ngô Sĩ Liên đã từng nhắc lại lời Lê Văn Hưu tán tụng công đức của Triệu Đà: “Triệu Vũ đế khai thác đất Việt ta mà tự xưng đế, trong nước đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là lão phụ, là người mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy cũng to lắm vậy”(1).
Trong Đại Việt sử ký tiền biên, thì khác hẳn. Ngô Thì Sĩ không coi Triệu Đà là vị vua chính thống, thời kỳ Triệu Đà nắm quyền không phải thời kỳ tự chủ mà là thời kỳ Ngoại thuộc, do đó, ông chép thành kỷ “Ngoại thuộc Triệu Vũ đế”. Ngô Thì Sĩ đã nói rất rõ quan điểm của ông: “Không nhận Đà là vua, là để cho nước ta thành một nước riêng đấy”(2). Ông còn phân tích rõ bản chất quỷ quyệt của Triệu Đà và khẳng định Triệu Đà chính là kẻ đầu tiên gây họa cho nước ta, ông nói: “Triệu Đà đời Tần chỉ là một quan lệnh. Nhân nhà Tần loạn chiếm cứ đất Lưỡng Quảng. Lưu, Hạng đang tranh địa vị ở Trung Nguyên, chưa rỗi tính đến đất Lĩnh Nam. Sau khi nhà Hán ổn định Cao Tổ cũng thấy chán ghét binh đao, chán công trạng. Văn đế nối ngôi lại càng ngại dùng vũ lực… Đà nhân đấy buộc Mân Việt, Tây Âu phải lệ thuộc vào mình, xưng là “Hoàng Đế” để đề cao mình cho khác biệt. Song tự biết sức mình không địch nổi nhà Hán…bèn bỏ hiệu để tự xưng là bề tôi, dâng lễ công để làm vừa lòng nhà Hán, càng thấy rõ chỗ quỹ quyệt của Đà… Các nhà làm sử như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên lấy công mở đầu nghiệp đế mà quy cho Đà … Hết sức tán dương đức khiêm tốn của Đà là sai đấy… Đà chiếm Ngũ Lĩnh, chỉ khổ vì lòng tham không biết thế nào là đủ, lại tiêu diệt An Dương mà thôn tính đất đai, truyền được vài đời, rồi mất. Bản đồ sổ sách thuộc nước cũ của An Dương phải nhập vào nhà Hán do đó nước ta thành nguồn lợi cho Trung Quốc… nước ta ngoại thuộc vào Triệu, nên nội thuộc vào nhà Hán, cho mãi đến đời Đường quốc thống bị đoạn tuyệt, suy nguồn gốc người đầu tiên gây nên tai vạ không phải Đà thì còn ai ? Hơn nữa, Đà đặt nước ta làm quận huyện, chỉ biết tịch thu đất đai, vơ vét thuế má, chỉ cốt đầy ngọc bích cho nhà Hán, chất túi Lục Giả có đủ nghìn vàng. Còn như giáo hóa phong tục, không mảy may để ý đến. Trải qua hàng trăm năm đất nước chỉ là lệ thuộc… Lê Văn Hưu đặt phép chép sử đó, lập lối nghị luận đó, Ngô Sĩ Liên theo lối hiểu nông cạn đó mà không sửa đổi, cho đến bài Tổng luận của Lê Tung, thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm cùng nhau ca tụng cho Đà là bậc vua giỏi của nước mình. Đến nay đã trải hàng nghìn năm không ai cải chính, bởi vậy tôi phải luận thật sâu”(3).
Cuối cùng, ông kết luận: “Cho nên tiếc Ngũ Lĩnh, là tiếc cái sau khi bà Trưng mất, chứ không đáng tiếc cái trước khi Triệu Đà mất”(4). Bởi vì Bà Trưng mất, nước ta rơi vào tay nhà Hán, lại thành quận huyện của nhà Hán, chịu sự cai trị tàn ác của quân nhà Hán. Còn Triệu Đà mất hay còn thì nước ta vẫn mất độc lập, mất chủ quyền, vẫn bị quân Trung Quốc thống trị.
Quan điểm của Ngô Thì Sĩ về Triệu Đà thật rõ ràng dứt khoát. Quan điểm đó cũng được biểu thị khi tác giả đánh giá nhân vật Sĩ Nhiếp.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên coi Nhiếp là bậc vương, đặt hẳn thành kỷ gọi là “Kỷ Sĩ Vương” và viết “ Nước ta thông thi thư, quen lễ nhạc, thành một nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ Vương. Công đức ấy chẳng những chỉ thấy ở đương thời, mà còn truyền mãi đến đời sau, há chẳng lớn sao?”(5). Lê Văn Hưu cũng như Ngô Sĩ Liên đã đề cao Sĩ Nhiếp đến tột độ, cho Nhiếp là người mở mang nền văn hiến của nước ta, ca tụng đức khiêm tốn, tài văn chương của Nhiếp.
Trong Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sĩ không gọi Sĩ Nhiếp là Sĩ Vương, không xếp thành một kỷ “Sĩ Vương”. Ông cho rằng “Nhiếp chỉ là hạng quan thú mục, chỉ đáng xếp vào kỷ nội thuộc”. “Nhiếp tuy có tài, nhưng là người phương Bắc đến nhận mệnh làm thái thú; Nhiếp tuy có học vấn, giải sách Xuân thu, nhưng chỉ là để cho bản thân chứ chưa từng dạy dân trong nước, thực ra chưa bằng Tích Quang, Nhâm Diên(6). Hai ông Tích Quang, Nhâm Diên cũng chưa được chép riêng thành ký huống là Sĩ Nhiếp, cho nên tôi đã tước bỏ đi, cho vào kỷ nội thuộc theo lệ quan thú mục”(7). Đại Việt sử ký tiền biên là bộ quốc sử đầu tiên đã phê phán sai lầm kéo dài của các nhà sử học lúc đó khi coi nhà Triệu là một vương triều chính chống, coi Sĩ Nhiếp là ông tổ của nền văn hiến nước Nam và do đó, tác giả Đại Việt sử ký tiền biên đã không xếp Triệu Đà, Sĩ Nhiếp làm kỷ riêng, đấy là một quan điểm rất mới, rất tiến bộ của Đại Việt sử ký tiền biên, chứng tỏ tinh thần phê phán, lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc rất chính đáng của tác giả. Tư tưởng này được quán triệt trong toàn bộ nội dung bộ quốc sử của vương triều Tây Sơn.
2) Đại Việt sử ký tiền biên tuy biên soạn trên cơ sở của Đại Việt sử ký toàn thư nhưng là một bộ sử riêng biệt mang tính chất một bộ sử luận phong phú. Bởi lẽ tác giả đã cố ý tập hợp lời bàn của nhiều sử gia nổi tiếng như lê Văn Hưu đời trần, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Lê Tung, Nguyễn Nghiễm đời Lê và chủ yếu lời bàn của chính tác giả. Mỗi sự việc xẩy ra, mỗi đời vua, mỗi triều đại, mỗi nhân vật v.v… tác giả đều có những lời bàn xác đáng, lý luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép. Tất cả có tới 467 lời bàn. Sau mỗi triều đại đều có tổng luận, trong đó khen chê rõ ràng, khiến người đọc có thể tóm tắt được lịch sử của cả một triều đại. Sau đây là một vài lời bàn về một số nhân vật lịch sử, một số sự kiện v.v…
Về cuộc nổi dậy chiếm cứ Hoan Châu của Mai Hắc Đế, Ngô Thì Sĩ đã phê phán cách nhìn của sử cũ (Lê Văn Hưu) và ông nói rõ quan điểm của mình: “Đương lúc nội thuộc, Mai Hắc Đế ở Nam Đường khởi binh chiếm giữ châu, không chịu sự trói buộc của bọn quan lại bạo ngược, cũng là tay lỗi lạc trong bực thổ hào. Thành công thì có Lý Bôn, Triệu Quang Phục; không thành công thì có Phùng Hưng, Mai Thúc Loan. Họ đáng được biểu dương. Nhưng sử cũ lại chép là “tướng giặc” là sai lắm”.
Về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, tác giả hết lời biểu dương sự nghiệp của hai nữ anh hùng này. “Không gì khó thu phục bằng lòng người, không gì khó tập hợp bằng thế nước, lại càng không gì khó bằng một phụ nữ mà tập hợp được nhiều nam giới làm người đồng chí với mình. Nước Nam nội thuộc đã từ lâu… Bà Trưng là một đàn bà góa vấn tóc vùng lên, con trai trong nước đều cúi đầu chịu sự chỉ huy của bà, quan chức hơn 50 thành cũng phải nín hơi không dám chống cự… Tiếng tăm của bà chấn động cả Man Di, Hoa Hạ; cơ nghiệp mở mang của bà khuyâý động cả đất trời. Ôi ! thật anh hùng thay!”(8).
Về chiến thắng của Lý Thường Kiệt, Ngô Thì Sĩ cũng đánh giá cao: “Cho nên tôi cho là chiến dịch ỏ Châu Ung, Châu Liêm là võ công bậc nhất từ trước tới nay. Lý Thường Kiệt là một hoạn quan lập được công trạng thần kỳ, người Tổng phải hổ thẹn với ta nhiều lắm. Xét thấy chiến dịch này nước ta tỏ rõ được binh uy. Người Tống cho là nước ta đang mạnh muốn lấy ân ý mà vỗ về. Từ đó những lễ nghi tiến công và hình thức giấy tờ không dám trách móc hà khắc, chỉ sợ trái ý ta lại sinh thù hận”(9).
Về chiến thắng của Ngô Quyền, Đại Việt sử ký toàn thư chỉ nhận xét chung chung. “Nhà Tiền Ngô nổi lên được không những chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục có thể thấy được quy mô của bậc đế vương”(10). Trong Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sĩ lại đánh giá rất cao công lao của Ngô Quyền, ông nói: “Chiến dịch ấy giả sử Ngô Quyền không đánh cho một trận thật đau để đập tan nhuệ khí, bẻ gẫy mũi nhọn, thì bọn chúng sớm muộn sẽ đắc chí, cái thế nội thuộc lại dần dần hình thành. Cho nên chiến thắng Bạch Đằng là cơ sở của việc phục hồi quốc thống”(11).
Đối với kẻ thù, thái độ của Ngô Thì Sĩ được thể hiện trong Đại Việt sử ký tiền biên rất rõ ràng, sáng suốt và dứt khoát. Ông đã nhận định triều đình phong kiến Trung Quốc như sau: “…An Nam là nơi đô hội lớn, ruộng ưa trồng lúa, đất ưa trồng dâu, núi thì sản sinh vàng bạc, bể thì sẵn có ngọc châu. Kẻ buôn bán đến đây phần nhiều giàu có. Họ(12) lấy làm thèm thuồng muốn đặt nước ta làm quận huyện, bắt dân ta phải làm tôi tớ đã từ lâu. Khi chưa được thì muốn cho được, khi được rồi lẽ nào lại buông tha”(13). Cho nên “một thổ hào nổi lên thì quận thú dập tắt; một quận thú nổi lên thì thứ sử tập hợp lại mà đánh; thứ sử nổi lên thì Trung Quốc dốc toàn lực mà trị ngay”(14). Bản chất của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán Trung Quốc dốc toàn lực thôn tính ta là thế đấy.
Đối với cách chép sử của các sử gia đời trước, Ngô Thì Sĩ cũng mạnh dạn phê phán nhiều sai lầm của họ. Ví dụ trong “Ngoại kỷ thuộc Triệu”, ông nói: “Xét thấy một thời đại ngoại thuộc họ Triệu, sử cũ chép từ Vũ đế đến Thục Dương Vương đều phỏng theo sử nhà Hán mà biên chép thành sách.. Đà thuộc Hán, Giao Nam ta lại thuộc Đà, nên những hiện tượng tương ứng với Đà cũng đã không đáng ghi rồi, huống gì nhà Hán chép những biến dị của mặt trời và sao là để giúp cho việc chiêm nghiệm chứ liên quan gì đến Đà; nay đã nhầm mà đưa Đà vào hệ quốc thống, lại theo đấy mà bắt chước sự ghi chép của sử Hán cốt cho đầy sách sử, không xem xét có đúng hay không. Như thế thì đáng gọi là “dã” chứ không đáng là “sử”… sao có thể ghi chép nhầm như thế được. Cho nên tôi tước bỏ đi”(15). Cũng trong “Ngoại kỷ thuộc Triệu”, ông lại nhận xét: “Hai nước Mân Việt đánh nhau không phải việc của nước mình. Hơn nữa, Hoài Nam can việc đánh Mân Việt mà người Hán không nghe cũng không phải là việc bức thiết. Bức thư can gián của Hoài Nam mà sử cũ chép đã thấy trong sử nhà Hán rồi cho nên bỏ đi”(16). Trong kỷ nhà Lý, Ngô Thì Sĩ cũng nêu lên một số nhận xét phê phán: “Trong khoảng hơn 200 năm nhà Lý dựng chùa xây tháp, hết thảy các việc thờ Phật đều chép to chép đặc cách. Người biên soạn không biết đó là rườm rà, người hiệu đính cũng theo lối hủ lậu đó. Thật không đúng phép làm sử”(17). Ông phê phán sách chép sử của Lê Văn Hưu: “Lê Văn Hưu, rất tin điềm lành, thấy sự việc ghi trong lịch ngày của thời đại trước là ghi chép vào sử sách. Thế mà điển chương pháp lệnh của một thời đại thì không ghi. Rõ ràng là không đúng phép làm sử”(18).
Đại Việt sử ký tiền biên thể hiện một tinh thần phương pháp viết sử mới, tiến bộ. Tác giả đã phê bình lối viết cẩu thả không khảo cứu, thiếu khoa học của các sử gia thời trước, nhiều chỗ ông phê bình rất gắt gao và thẳng thắn. Lời bàn trong Đại Việt sử ký tiền biên vô cùng phong phú và đa dạng, đặc biệt là lời bàn của tác giả, thể hiện quan điểm dân tộc, tình yêu nước thương dân, căm ghét kẻ thù, bênh vực lẽ phải, khen chê đúng mức v.v…
3) Một giá trị đặc biệt nữa của Đại Việt sử ký tiền biên là tác giả đã tra cứu bổ sung được khá nhiều sự kiện, cải chính được khá nhiều sai sót của sử cũ mà chính bộ Việt sử thông giám cương mục đời sau đã phải theo. Đây là một điểm đáng chú ý và rất bổ ích cho người làm công tác nghiên cứu sau này và chính nó cũng nói lên được giá trị khoa học của bản thân tác phẩm. Xin đơn cử vài ví dụ:
Tất cả các sách sử của ta đều chép “Bà Trưng đã lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam”. Đại Việt sử ký tiền biên đã cải chính: “… Tổng cộng là 56 thành, sử cũ theo sử nhà Hán lầm là 65 thành, cho nên cải chính”(19). Trong sách; ông đã liệt kê từng thành và cộng lại là 56 thành. Về cái chết của Lý Nam Đế, ông đã vạch trần sự xuyên tạc của sử nhà Lương như sau: “Nói vua Lý Nam Đế ở trong động Khuất Liêu bị người trong động giết cắt tai dâng nhà Lương là nói khoác đấy”.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đại Hành hoàng đế, vua họ Lê, huý là Hoàn, người Ái Châu”(20). Đại Việt sử ký tiền biên nêu lên một ý mới: “Lê Đại Hành người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm chứ không phải người Châu Ái. Sử cũ chép nhầm”. Trong kháng chiến chống quân nguyên, về sự kiện năm 1288, Đại Việt sử ký tiền biên cũng có những giám định nói về sử liệu: “Xét sử cũ có ghi năm đó quan quân hội đánh ở ngoài cửa bể Đại Bàng, bắt được 300 chiếc thuyền tuần tiễu của giặc, người ngựa chết rất nhiều. Chiến dịch đó là do Khánh Dư đón đánh thuyền lương của nhà Nguyên. Nhà viết sử không khảo kỹ sự thực đó, cứ nói suông là quan quân. Còn chiến thắng của Khánh Dư lại ghi vào mùa đông năm Đinh Hợi. Cho nên cải chính lại mà ghi sự việc đó xuống dưới, để giữ lại sự ghi chép cũ. Hoặc sử cù chép Nguyễn Khoái đánh nhau với giặc bắt được Bình chương sự là áo Lỗ Xích. Nay tra Bắc sử thì áo Lỗ Xích là tướng đường bộ của nhà Nguyên, người đã cùng Thoát Hoan kéo quân đường bộ trở về. áo Lỗ Xích chưa hề đến Bạch Đằng mà bị Nguyễn Khoái bắt. Người bị bắt chỉ là viên tướng nhỏ… Những loại tương tự như vậy khảo xét không rõ, lường đặt không tường đã vội ghi vào sách làm cho người đọc nghi ngờ cho nên lược bỏ”(21).
Trong suốt 17 quyển của bộ sử còn nhiều chi tiết trận đánh, sự kiện lịch sử, địa danh thay đổiv.v… đã được bổ sung hoặc cải chính, mà chúng tôi không thể nêu ra hết được. Tóm lại, Bộ Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ được sử quán triều Tây Sơn in là một bộ quốc sử rất giá trị. Nó không những thể hiện được quan điểm tiến bộ cảu tác giả mà còn là bộ sử luận phong phú và có tính khoa học cao. Hy vọng rằng một ngày gần đây, bản dịch của bộ Sử này sẽ được xuất bản để phục vụ yêu cầu của giới nghiên cứu khoa học xã hội và tất cả ai muốn tìm hiểu lịch sử dân tộc.
CHÚ THÍCH
(1) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch, Nxb. KHXH Hà Nội, 1972, Tập I, tr. 78 (2) Đại việt sử ký tiền biên, Bản chữ Hán, Ngoại kỳ, q.2, tr.9. (3) (4) Sđd. tr.11. (5) Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, q.3. tr.102. (6) Tích Quang, Nhâm Diên là hai thái thú do nhà Hán cử sang nước ta thời thuộc Tây Hán. (7) Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, phần Ngoại kỷ, q3, tr.14. (8) Sđd, Ngoại kỷ, q.3, tr.6. (9) Sđd, Ngoại kỷ, q.3, tr.15. (10) Sđd, tr.148. (11) Sđd, Ngoại kỷ, q.7, tr5. (12) Chỉ các triều đại phong kiến Trung Quốc. (13) Sđd, Ngoại kỷ, q.6, tr.24. (14) Sđd, Bản kỷ, q.1, tr.7. (15) Sđd, Ngoại kỷ, q.2, tr.8. (16) Sđd, tr.12. (17) Sđd, tr.6. (18) Sđd, Bản kỷ, q.2, tr.11. (19) Sđd, Ngoại kỷ, q.3, tr.5. (20) Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập I, tr. 160. (21) Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, Bản kỷ, q.1, tr.2.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét