Đầu thế thế kỷ XX, ngành sử học Việt Nam có một bước ngoặc lớn. Lần đầu tiên, một bộ quốc sử với tên là Việt Nam sử lược của
nhà giáo Trần Trọng Kim, được biên soạn tương đối khoa học, tuy ngắn
gọn nhưng đến nay nhiều nhà nghiên cứu vẫn đánh giá là một bộ sách có
giá trị “qua thử thách của thời gian và sự mến mộ của độc giả”.(1)
Ngoài nội dung tuy giản lược nhưng khá đầy đủ Lệ Thần Trần Trọng kim
lại có thêm những phần nghị luận khúc chiết, đưa ra được những lập
trường minh bạch đi ngược hẳn với chủ trương của triều đình nhà Nguyễn
lúc bấy giờ, có thể nói là một cuộc cách mạng trong tư tưởng học thuật.
Mở đầu chương XI viết về “Nhà Nguyễn Tây-Sơn”, tác giả đã dành hai trang phân tích về lễ “chính thống” và“ngụy triều”
để bác bỏ quan niệm trong hơn 100 năm qua lúc nào cũng coi Tây Sơn là
một bọn giặc, chỉ vì cái tội đã chống lại chúa Nguyễn. Đoạn mở đầu nó
vẫn được coi như lời biện hộ đanh thép mà hầu hết những người được đọc
sử đều chấp nhận.
Thế nhưng tổng kết lại trong gần 40 trang viết về triều đại Tây Sơn không phải không có nhưng khuyết điểm. Tác giả Việt Nam sử lược
đã sử dụng lẫn lộn chính sử và dã sử, kể cả tiểu thuyết với nhiều chi
tiết không được kiểm chứng tạo thành một nếp suy nghĩ rất khó gột rửa
cho người đi sau. Theo chân Lệ Thần Trọng Kim, những tác giả nghiên cứu
về thời đại Tây Sơn cho tới nay vẫn không tách rời văn bản ngoại sử ra
khỏi tài liệu nghiên cứu.
Với
kinh nghiệm tự thân về những ngụy tạo và bóp méo lịch sử rất tinh vi đã
chứng kiến trong vài chục năm qua, nhiều chi tiết trong tài liệu của
triều Nguyễn viết về đối phương cần đặt vào khu vực “tồn nghi” phải đối chiếu kỹ lưỡng trước khi sử dụng. Đó là nguyên nhân chủ yếu của những suy nghĩ trong bài này.
Tên vua Quang Trung là gì?
Theo sử, tên ông là Nguyễn Huệ hay Nguyễn Văn Huệ [Đại Nam chính biên liệt truyện (LT)
XXX, tr. 17a], khi xin phong vương thì đổi tên là Nguyễn Quang Bình [LT
XXX, tr. 37b]. Đến gần đây, nhiều người cho rằng ông còn có nhiều tên
tục khác như Hồ Thơm, chú Ba Thơm… Những chi tiết đó không có chứng cớ
gì chắc chắn.
Người
Việt Nam thường không chỉ có một tên nhất định mà có tên gọi hàng ngày
nôm na và tên chữ để ghi trên giấy tờ. Nhiều người vì lý do thi cử hay
chính trị cũng đổi tên, đổi họ khiến người không quen chẳng còn biết đâu
là tên thật, đâu là bí danh. Việc Nguyễn Huệ đổi tên thành Nguyễn Quang
Bình khi giao thiệp với nhà Thanh được sao chép theo sử triều Nguyễn
một cách máy móc. Có người còn cho rằng đây chỉ là tên giả theo thông lệ
của các đời vua trước khi liên lạc với Trung Hoa.
Thực ra tên Nguyễn Quang Bình hay Nguyễn Văn Bình đã xuất hiện ở những tài liệu có cơ sở trước khi Nguyễn Huệ xin phong vương:
- Theo Phủ biên tạp lục (PBTL) do Lê Quý Đôn (1726-1784) soạn năm Cảnh Hưng 37 (1776) thì “Việp Quận-công còn cho em Nguyễn-văn-Nhạc là Nguyễn-văn-Bình (về sau là vua Quang-trung) làm chức Tướng-quân Tiền-phong” (2) (năm Ất Vị 1775).
(PBTL quyển I, tr. 49). (3).
- Theo một tài liệu của Nguyễn Huệ gởi lên vua Càn Long giữa năm Mậu Thân [1788] khi ông sai quan trấn thủ Văn Uyên là Hoàng Đình Cầu và Nguyễn Đình Liễn đem lễ vật đi tiến cống cũng đã ký tên là Nguyễn Quang Bình.(4)
Hai tài liệu này đều được viết trước khi Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, do đó chắc chắn không phải để đến khi xin cầu phong ông mới đổi tên thành Nguyễn Quang Bình.
Một
chứng cớ khác cũng cần xem xét. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc, ông được vua
Thái Đức phong là Bình Vương. Trước đây các tài liệu gọi ông là Bắc Bình
Vương nhưng trong các thư từ gởi Nguyễn Thiếp thì ông tự xưng là Đại
nguyên soái Tổng quốc chính Bình Vương [Đại nguyên soái
kiêm nhiệm quốc chính Bình Vương]. Chữ Bắc trong tước hiệu này chắc là
do người ngoài thêm vào chứ không phải nguyên thủy trong tước vị. Cũng
vì thế mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng đã nhầm, tưởng ông được phong làm
Chính Bình Vương [thực ra chữ chính là nhiệm vụ Tổng quốc chính – lo hết
mọi việc hành chánh]. Các vua Trịnh, chúa Nguyễn cũng dùng tước vương
một chữ là vương vị cao quý nhất. Một thông lệ đời Lê và cả đời Nguyễn
sau này là các tước hiệu thường dùng tên của chính người đó chẳng hạn
như Minh Vũ hầu Vũ Đình Minh, Hiệp Đức hầu Nguyễn Phúc Hiệp, Kỷ Thiện
hầu Trần Văn Kỷ…(5) Việc Nguyễn Quang Bình được phong là Bình Vương có
thể cũng theo tập tục đó.
Vậy tên Huệ do đâu mà có?
Theo
chúng tôi, Huệ là tên thông tục gọi hàng ngày, thuộc loại tiểu danh hay
nhũ danh [tên gọi lúc còn bé] có thể thân mật nhưng không được dùng với
ý nghĩa kính trọng.(6) Sử nhà Nguyễn khi chép về vua Quang Trung có chủ
tâm hạ thấp, từ cách gọi xách mé đến chỗ xuyên tạc (7) nên thường gọi
trổng là “Chủng” cũng với mục đích tương tự. Trong các văn thư
của nhà Thanh khi còn đối đầu với triều đình An Nam cũng gọi là Nguyễn
Huệ nhưng trong những văn thư chính thức gởi sang nhà Thanh, dù cho cấp
địa phương hay triều đình thì ông đều xưng tên mình là Nguyễn Quang
Bình.
Một
trong những cách để kiểm chứng là xem những chữ kỵ húy. Theo Ngô Đức
Thọ, sách vở tài liệu thời Tây Sơn thường thấy kiên các chữ Bình, chữ
Phúc nhưng không kiên chữ Huệ nên tác giả suy đoán rằng “dưới triều
Tây Sơn, trong phạm vi văn thư giấy tờ dâng vua ngự lãm vẫn có qui định
kiêng húy, ít nhất là đối với một số trường hợp như chữ Bình đã thấy
trong sắc phong ở đền Hai Bà Trưng”(8). Ngô tiên sinh cũng phân
tích rõ ràng về ba chữ Huệ, Bình và Phúc và cho rằng việc kiêng chữ Phúc
là vì khi ra Thăng Long ông đã dùng con dấu “Phụng thiên phạt bạo
Nguyễn Phúc” (Vâng mệnh trời trừng phạt bạo chúa [họ] Nguyễn Phúc) nhằm “thể hiện ý căm ghét” mà chữ gọi là “ố ý tị húy”.(9) Lý giải này cũng khiến cho chúng ta không dám tin rằng tên cha của anh em Nguyễn Nhạc là Phúc như ghi trong Liệt truyện.
Vua Quang Trung có mấy anh em?
Theo LT, quyển XXX [tr. 1a. b] phần Nguyễn Văn Nhạc có chép:
Nguyễn Văn Nhạc là người huyện Phù Ly [nay là Phủ Cát], tỉnh Quy Nhơn [nay là Bình Định]. Tổ tiên vốn là người ở Hưng Nguyên, Nghệ An. Đời Lê Thịnh Đức, (10) ông tổ bốn đời bị quan quân bắt đưa vào Quy Ninh [nay là Hoài Nhơn], ấp Nhất [Tây Sơn có hai ấp Nhất và Nhị nay là An Khê, Cửu An hai phủ].
Cha y là Phúc, dọn sang ở ấp Kiên Thành [nay là thôn Phú Lạc, huyện Tuy Viễn], sinh được ba con trai, con trưởng là Nhạc, con thứ là Lữ, dưới nữa là Huệ làm nghề buôn trầu thường mua bán với người mọi…
Những
chi tiết về thân thế, danh tính và thứ tự anh em Tây Sơn chép trong sử
triều Nguyễn thường không ăn khớp với những tài liệu khác, kể cả một số
người ngoại quốc có mặt ở nước ta trong thời gian đó. Nói chung, những
chi tiết về thân thế của Nhạc, Huệ, lữ rất mơ hồ, khó kiểm chứng.
Trong Khâm định An Nam kỷ lược
[tập hợp văn thư của nhà Thanh trong giao thiệp qua lại với Tây Sơn]
quyển XIX, ở một tấu thư của Phúc Khang An, Tôn Sĩ Nghị, Tôn Vĩnh Thanh
và Hải Lộc tâu lên vua Càn Long ngày mồng 3 tháng 5 năm Kỷ Dậu [1789] sứ
thần nước ta là Nguyễn Quang Hiển khai về thân thế của mình như sau:
…Nguyễn Quang Hiển nói rằng tôi là đích trưởng điệt [cháu lớn nhất thuộc dòng chính], Nguyễn
Huệ nuôi dạy như con. Cha tôi là Nguyễn Quang Hoa mất sớm, chú thứ hai
là Quang Nhạc, hiện ở Quảng Nam, chú thứ ba là Quang Bình tức Nguyễn
Huệ, chú thứ tư là Quang Thái cũng sống ở Quảng Nam, trên núi Tây Sơn.(11)
Xét
theo văn bản, đây là chi tiết đầu tay quan trọng nhất do một người
trong gia đình khai ra mà chúng ta có thể kiếm được, cũng phù hợp với
những chi tiết khác trong ngoại sử. Tác giả Tạ Chí Đại Trường trong một
biên khảo tương đối đầy đủ về gia đình Nguyễn Nhạc cũng nêu lên những
bất nhất trong sách vở về thứ bậc và nguồn gốc anh em Tây Sơn.(12)
Về
thân thế của mình, trong nhiều biểu văn trần tình Nguyễn Huệ khẳng định
rằng không có liên hệ quân thần với nhà Lê mà chỉ có ràng buộc hôn
nhân. Vua Quang Trung cũng nhắc đi nhắc lại gia đình ông đã “chín đời”vào
đất Tây Sơn và đôi khi tiết lộ mình thuộc hoàng tộc Chiêm Thành, trong
nhà còn giữ được quốc ấn các đời trước được phong.(13)
Trong
khi sử triều Nguyễn miêu tả gia đình Nguyễn Nhạc thuộc hạng bần dân,
vốn là tù binh bị đi đày, còn theo những văn bản của Tây Sơn thì họ đã
vào định cư ở Quy Nhơn khá lâu [chín đời tính ra cũng khoảng 200 năm] và
nếu đúng thì chưa hẳn họ đã hoàn toàn thuần chủng Việt.
Một điểm đáng chú ý khác là Nguyễn Huệ luôn luôn xưng rằng mình là kẻ bạch đinh [nguyên bản bố y mà
chúng ta thường dịch là áo vải, nghĩa là người dân không có quan tước,
quần áo không có phẩm phục] như để phủ nhận mọi liên hệ với triều đình
An Nam, dù trong nam hay ngoài bắc, xác định rằng họ đứng ngoài mọi
tranh chấp quyền lực của các triều đại.
Với
lời khai của Nguyễn Quang hiển, chúng ta thấy rằng Nguyễn [Quang] Nhạc
không phải là con trưởng mà còn đứng sau Nguyễn Quang Hoa. Nguyễn Quang
Bình là anh của Nguyễn Quang Thái [tức Nguyễn Lữ] chứ không phải là em
như ghi chép trong Liệt truyện. Cho đến năm 1789, Nguyễn Quang
Thái [Lữ] còn sống ẩn cư trên núi Tây Sơn đúng như những gì được ghi
nhận trong sách vở nhưng ông ta chết năm nào thì không rõ.
Việc
cha ông có tên là Phúc mà sau này nhiều người cho rằng gốc họ Hồ, anh
em Nguyễn Nhạc đổi sang họ Nguyễn để thu phục nhân tâm, cũng không đáng
tin cậy. việc tị húy chữ Phúc đời Tây Sơn không phải vì đó là tên cha
của vua mà vì lý do căm ghét.
Vua Quang Trung lên ngôi lúc nào?
Tứ trước đến nay, sử nước ta vẫn cho rằng Nguyễn Huệ lên ngôi để cho “chính vị”.
Ký do đó hàm ý bản tâm ông không (hay chưa) muốn lên ngôi nhưng đành
phải miễn cưỡng vì nhu cầu quân sự và chính trị. Việc vua Quang Trung
lên ngôi hoàng đế để danh chính ngôn thuận ra đánh quân Thanh được chấp
nhận như một “lý sở đương nhiên”, không ai dị nghị mặc dù một số tác giả có đặt câu hỏi về ngày giờ chính xác ông đăng quang ở núi Bân.
Thực
ra, Nguyễn Huệ không phải không muốn lên ngôi mà ông đã có ý tự lập
ngay từ khi đem quân ra Bắc Hà lần thứ hai vào tháng 5 năm 1788. Cũng
vào thời gian này, ông gặp Ngô Thì Nhậm và người bầy tôi mới lập tức
khuyên ông lên ngôi hoàng đế đồng thời chủ trì việc đi “xin chữ ký” để suy tôn ông cho hợp cách.
Sau ba bức thư “suy tôn”
[do Ngô Thì Nhậm soạn] (chưa kể một chiếu trưng cầu dân ý do chính
Nguyễn Huệ hỏi dân Bắc Hà) nhưng tình hình chưa thuận lợi khiến Nguyễn
Huệ hậm hực bỏ về Phú Xuân. ở đây, Bình Vương đã chủ động việc lên ngôi,
bỏ qua những hình thức bề ngoài mà ông thấy rằng không còn hình thức
nữa.
Hiện tại có ba tài liệu với ba nhật kỳ đăng quang khác nhau: chính sử triều Nguyễn (LT), Hoàng Lê Nhất thống chí (HLNTC), và
chi tiết trong thư của Hội Truyền giáo Bắc Hà. Ngoài ra còn một nhật kỳ
có hay chênh lệch một chút với chính sử là bài Chiếu lên ngôi (Tức Vị
chiếu) (14) chép trong Hàn các anh hoa.
Liệt truyện, quyển XXX chép:
Huệ
được tin quát lớn: “Sao bọn chó Ngô dám càn rỡ làm bậy?” Lập tức ra
lệnh xuất quân. Các tướng đều khuyên lên lấy ngôi vị cho chính để nối
kết lòng người. Huệ nói xây đàn ở phía nam Bình Sơn, lấy ngày 25 tháng 11 tự lập làm hoàng đế, đổi niên hiệu thành Quang Trung, ngay hôm đó đem hết tướng sĩ thủy lục cùng tiến…(15)
Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô Gia Văn Phái) thì viết như sau:
…Ngày
20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp thì ngày 24 (tháng 11), Tuyết đã vào
đến thành Phú Xuân, Bác Bình Vương được tin báo, giận lắm, liền họp các
tướng sĩ, định thân mình cầm quân đi ngay. Nhưng các người đến họp đều
nói:
–
Chúa công với vua Tây Sơn có sự hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng
tôn phò của mọi người chưa thực vững bền, nay nghe quân Thanh sang đánh
càng dễ sinh ra ngờ lực. Vậy xin trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh
ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi
sau sẽ cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc cũng chưa là muộn.
Bắc
Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân (ở địa phận xã
An Cựu, huyện Hương Trà, Thừa Thiên-Huế), tế cáo trời đất cùng các thần
sông, thần núi; chế ra áo cổn, mũ miện, lên ngôi Hoàng đế, đổi năm thứ
11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu tiên hiệu
Quang Trung. Lễ xong hạ lệnh xuất quân. Hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788). (16)
Theo thư của các giáo sĩ có mặt tại Việt Nam còn lưu lại trong Nhật ký về những sự kiện đáng ghi nhớ, Nha Văn khố Quốc gia Paris (Paris, Archives Nationales số F5; A22) thì:
…Bắc Vương đã ấn định ngày 11 tháng Mười [âm
lịch] tức ngày mồng 8 tháng Mười Một là ngày ông tự phong mình làm
hoàng đế dưới danh hiệu “Quang Trung” (có nghĩa là ánh sáng trung ương
tức là theo sự giải thích có lẽ đúng nhất, mặt trời của vũ trụ) đồng
thời ông đang bận tính một kế hoạch vĩ đại theo như sắc lệnh ban bố ngày
mùng 6 tháng Mười [âm lịch hay ngày 3 tháng Mười Một gởi cho Đại thần
Đại tư mã và tất cả các quan hay sĩ quan Tây Sơn làm việc tại Bắc Kỳ… (17)
Những tài liệu trên, tài liệu nào gần giống sự thực nhất vẫn còn là một câu hỏi chưa có trả lời đích xác mặc dùnếu theo văn bản thì thư của các thừa sai của Hội Truyền giáo là tài liệu của chính thời đó còn để lai trong khiLiệt truyện và Hoàng Lê nhất thống chi chỉ được biên soạn và ấn hành vài chục năm sau khi sự việc xảy ra.
Hiện nay Hàn các anh hoa còn chép một bài “Chiếu lên ngôi” của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm soạn, trong đó có một câu như sau:
千 位 惟 難, 朕誠 慮 不 克堪, 而四 海 億 兆 環 歸 于 朕 一 人. 茲 乃 天 意 夫 豈 人 事, 朕 應 天 順 人, 不 可 牢 執 , 遜 以 今 年 十 一 月 二 十 二 日 即 天 子 位, 紀 年 為 光 中 元 年.
Thiên
vị duy gian, trẫm thành lự bất khắc kham, nhi tứ hải ức triệu hoàn quy
vu trẫm nhất nhân. Tư nãi thiên ý, phù khởi nhân sự, trẫm ứng thiên
thuận nhân, bất khả lao chấp, tốn nhượng dĩ kim niên thập nhất nguyệt nhị thập nhị nhật tức thiên tử vị kỷ niên vi Quang Trung nguyên niên.
Trẫm
nghĩ: nghiệp lớn rất trọng, ngôi trời khó khăn, trẫm thật lòng lo không
đương nổi. Nhưng ức triệu người trong bốn bể trông cậy vào một mình
trẫm. Đó là ý trời, há phải việc người? Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng
người, không thể cố chấp nhún nhường mãi, lấy ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung nguyên niên.(18)
Phân tích một số chi tiết trong bài Chiếu lên ngôi, chúng ta ngờ rằng bài này được soạn trước khi nghe tin quân Thanh sang chiếm nước ta, nếu không đồng thời với tờ biểu “suy tôn” lần thứ ba thì cũng chỉ sau đó một thời gian ngắn [mặc dù ngày đăng quang có thể được điền vào sau].
Văn trong bài chiếu tức vị này hoàn toàn là văn chương thời bình, không
phải thời chiến, không nhắc đến xa gần gì về việc quân Thanh xâm chiếm
nước ta và lên ngôi để thu phục nhân tâm như sử đã chép. Chính vì thế,
một số câu văn sáo mòn đầy giả tạo, chẳng hạn: “Bản ý chỉ muốn quét
trừ loạn lạc, cứu dân trong chốn nước lửa, rồi trả trước cho họ Lê, trả
đất cho Đại huynh, ung dung áo gấm hài thêu, ngắm cảnh yên vui ở hai cõi
đất mà thôi. Nhưng việc đời dời đổi, rốt cuộc trẫm không được như chí
nguyện” Hay “Người làm quan hãy giữ phong độ hòa mục, người làm
dân yên trong lệ tục vui hòa, trị giáo mở mang hưng khởi đến chỗ rất
thuận, để vãn hồi thời thịnh trị của Ngũ đế, Tam vương, khiến cho tông
miếu xã tắc được phúc không cùng, há chẳng phải đẹp đẽ sao? (19) vẫn còn hiện diện trong bài chiếu.
Qua sự kiện nêu trên, chúng ta thấy rằng việc Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ít nhất cũng đã được dự tính từtháng 8 năm Mậu Thân khi
ông phong vương cho Nguyễn Quang Toản, (20) nghĩa là tách riêng ra
thành một vương triều mới không còn lệ thuộc vào vua Thái Đức ở Quy
Nhơn. Việc phong cho con lên tước vương đồng nghĩa với việc xác định
người cha lên ngôi hoàng đế nên lễ đăng quang của vua Quang Trung chỉ là
hợp thức hóa một sự việc đã công khai.
Theo
nhật ký của các giáo sĩ trong Hội Truyền giáo Bắc Hà thì Nguyễn Huệ lên
ngôi là ngày 11 tháng 10 năm Mậu Thân (8/11//1788), tính ra trước cả
khi Tôn Sĩ Nghị ra khỏi Nam quan (28/10 năm Mậu Thân). (21) Cho nên, khi
quân Thanh vào Thăng Long (cuối tháng 11 năm Mậu Thân), Nguyễn Huệ đã
là hoàng đế Quang Trung rồi, không còn phải bận bịu gì về việc đăng
quang hay sắp đặt triều chính trong ngoài nữa.
Chúng
ta cũng có thể tin rằng khoảng từ tháng 7 đến tháng 10 năm mậu Thân,
tin về việc quân Thanh có thể sang đánh nước ta được loan truyền rộng
rãi tại Bắc Hà và Nguyễn Huệ muốn sớm lên ngôi để ông còn có thời giờ
chuẩn bị chiến tranh, đúng như bản hịch văn gọi tướng sĩ mà các nhà
truyền giáo đã dịch sang tiếng Pháp [đề ngày 3 tháng Mười âm lịch, Thái
Đức 11 (1788)] năm này được hạn kỳ lên ngôi theo tin tức của các nhà
truyền giáo.
Trong ba nhật kỳ của các giáo sĩ, trong tờ Chiếu lên ngôi và trong HLNTC thì nhật kỳ 25 tháng Chạp âm lịch trong hlntc
phải loại ra vì xem ra quá sít sao, không thể thực hiện được [25 tháng
Chạp lên ngôi ở Phú Xuân, 30 tháng Chạp đã kéo quân ra đến Nghệ An].
Nhật kỳ trong chiếu lên ngôi và trong Liệt truyện khá gần [25
tháng 11 âm lịch và 22 tháng 11 âm lịch], tuy khác nhau nhưng cũng có cơ
sở. Có tểh ông đã đăng quang ngày 11 tháng Mười âm lịch [theo báo cáo
của các giáo sĩ], nhưng khi nghe tin quân Thanh sang đánh, vua Quang
Trung đã tổ chức một đại lễ ở núi Bân mà sách vở gọi là đại sư hay thân chinh để đích thân nhà vua đem quân đi vào ngày 22 tháng 11 âm lịch như Liệt truyện ghi nhận.
Với
những mốc nhật kỳ tương đối chính xác theo ghi nhận của những nhà
truyền giáo thì sau khi lên ngôi, vua Quang Trung còn mất một thời gian
tuyển mộ binh lính, thu góp lương thực để chuẩn bị cho một đại chiến
dịch đối phó với quân Thanh. Khi đến Thanh Hóa, vua Quang Trung lại tổ
chức một đại lễ xuất quân [hay đại duyệt] cuối tháng 12 để cho quân ăn Tết là lễ đăng quang. Đại lễ xuất quân này còn được ghi chép trong nhiều sách vở điển hình là Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng:
…Huệ không nghe, liền chỉnh đốn binh tượng, làm lễ ra quân ở Thọ Hạc. Huệ ngồi trên đầu voi, ra lệnh rằng:
“Trong
các quân của ta, ai muốn đánh thì phải vì ta mà giết cho hết lũ chó
Ngô. Nếu không muốn đánh, hãy xem ta chỉ trong một trận giết hàng mấy
vạn mạng người cho coi, không phải là nói khoác đâu”
Nói xong các quan quân đều dạ ran như sấm, núi rừng rung động, chiêng trống vọng rền, hành quân tiến gấp.(23).
Xét
như thế, chúng ta thấy rằng trong khoảng thời gian từ tháng Mười đến
tháng Chạp năm Mậu Thân, không chỉ có một lễ đăng quang của vua Quang
Trung mà có tới ba lễ khác nhau, lễ đăng quang tháng Mười ở trong cung (theo đúng thủ tục mà bên ngoài ghi nhận), lễ thân chinh tháng 11 ở núi Bân để cho quân sĩ biết rằng ông sẽ đích thân cầm quân ra Bắc (như sử triều Nguyễn ghi nhận), và sau cùng là lễ đại duyệt ở Thanh Hóa (như dân Bắc Hà ghi nhận) để khẳng định rằng ông sẽ đánh cho địch “chính luân bất phản, phiến giáp bấn hoàn”.
Đối với một nhà quan quân sự tài ba như Nguyễn Huệ, chúng ta khó có thể
tin rằng ông làm việc tùy tiện mà luôn luôn dự liệu để đối phó với
những biến cố bất thường. Ông cũng đã thu xếp ổn thỏa mọi vấn đề kể cả
việc bố trí những cánh quân dàn trải đều trên khắp vương quốc để chuyển
từ phòng sang tấn công.
Tờ chiếu gởi La Sơn Phu Tử có thực là bút tích của vua Quang Trung?
Một trong những phụ bản độc nhất vô nhị kèm theo quyển La Sơn Phu Tử (24)
là lá thư viết bằng mực son mà tác giả Hoàng Xuân Hãn tin tưởng đó
chính là thủ bút của Nguyễn Huệ. Hãy đọc lời tựa của Hoàng tiên sinh
viết vào tháng năm, năm Ất Dậu (1945) tại Hà Nội:
…Một buổi hè nóng nực Năm Kỷ-mão 1939, tôi đã lội suối trèo non, mà tới ngọn núi mang dấu Phu-tử từ lúc sinh thời đến lúc tử-hậu.
Hai
ngôi mộ nấp trong làn cỏ áy; mấy gian đều trơ trên núi không cây. Thành
Lục-niên lác đác đá rêu xanh; khe Mộc-bố vọt tung vòi nước trắng. Trước
mặt, núi nhấp-nhô đoàn ngựa chạy; sau lưng lá sừng-sực bức tường ngăn.
Đấy là cảnh tiêu sơ, làm cho khách qua thăm phải động lòng trắc ẩn.
Sau
tôi tới làng Nguyệt-ao dò thăm con cháu. Họ hàng nay thịnh-vượng, nhưng
con cháu thấy điêu tàn. Nhà thờ một chái nhà tranh, tộc-trưởng một
người cày muốn.
May
có họ-hàng thân-thuộc đón tôi niềm-nở, và sau khi biết tôi cũng là
miêu-duệ của Phu-tử, mới cho tôi hay rằng còn giữ được chiếu-chỉ đời
xưa. Một cụ già thắp hương, vái rồi lấy ống-sắc mở ra xem. Bèn thấy dấu
son còn đỏ chói, chữ mực vẫn chưa phai; duy chỉ giấy xưa lâu ngày đã
thành vàng úa, và bị cuốn chặt quá nên mép rách sờn.
Nào
chiếu, nào thư nào tờ truyền, nào đạo sắc. Niên-hiệu Cảnh-hưng,
Thái-đức, Cảnh-tịnh, Quang-trung. Lối chữ đủ lối chân, lối thảo, lối
nghiêm-trang của người thư-lại, lối linh-động của bực túc-nho.
Chợt
thấy một bức chữ son, nét son tàu đỏ thẩm. Nét bút vụng về nhưng
vạm-vỡ. mắt tôi không chớp, lòng tôi băn-khoăn. Hẳn đây là thủ bút của
một vua nào! Niên-hiệu đề Thái-đức, nhưng lời thư bằng nôm là của vua
Quang-trung! Mà di bút ấy lại là bức thư mà Quang-trung tự viết mời
Phu-tử xem đất đóng đô. Lời thư lại bằng nôm. Đó là một sử-liệu quí giá
vô ngần, nó tỏ rằng Quang trung cũng biết chữ nhưng không thông; rằng
Quang-trung dùng chữ nôm trong công văn; rằng Quang-trung biết trọng
hiền-tài; rằng Phu-tử giỏi địa lý và Quang-trung tin địa-lý; rằng
Quang-trung muốn đóng đô ở phù-thạch, và rằng Quang-trung cầm quân ra
giết Vũ Văn-Nhậm ở Thăng Long…
Tờ chiếu đó nguyên văn như sau:
Chiếu truyền La-sơn Phu-tử Nguyễn Thiệp (25)
khâm tri. Ngày trước ủy cho Phu-tử về Nghệ-an tướng địa làm đô cho kịp
kỳ nầy hồi ngự, Sao về tới đó, chưa thấy đặng việc gì. Nên hãy giá hồi
Phú-xuân-kinh hưu-tức si-tốt.
Vậy
chiếu ban hạ phu-tử tảo nghi dữ Trấn-thủ Thận cọng sự, kinh chi dinh
chi, tướng địa tác đô tại Phù-thạch. Hành-cung sảo hậu cận sơ. Kỳ
chính-địa, phỏng tại dân-cư ư gian, hay là đâu cát-địa khả đô, duy
Phu-tử đạo-nhãn giám-định.
Tảo tảo bốc thành! Ủy cho Trấn-thủ Thận tảo lập cung điện. Kỳ tam nguyệt nội hoàn-thành, đắc tiện giá ngự.Duy Phu-tử vật dĩ nhàn hốt thị.
Khâm tai! Đặc chiếu.
Thái-đức thập nhất niên, lục nguyệt, sơ nhất nhật (1788).(26)
Tác giả Hoàng Xuân Hãn ghi nhận rằng bức thư do chính tay Nguyễn Huệ viết “bằng son tàu, không có dấu đóng”.
(27) Nếu quả thực đây là thủ bút của vua Quang Trung thì là một tài
liệu quý giá vô ngần, xứng đáng để làm quốc bảo cho dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, muốn đúng như thế, chúng ta cần thêm những chứng cớ khác để
cũng cố sự tin tưởng của tác giả. Cho đến nay, chưa thấy một tác giả nào
khác có lý lẽ chặt chẽ hơn để ủng hộ quan điểm này mặc dầu nhiều sách
vở đã không còn coi như một nghi vấn mà viết thẳng dưới phụ chú là “Thủ
bút của vua Quang Trung”.
Trước hết, Hoàng tiên sinh khẳng định rằng đây là thư do chính tay Nguyễn Huệ viết nhưng chỉ căn cứ vào một lý lẽ duy nhất là được viết bằng mực son và phỏng chừng là nét bút cứng cỏi có vẻ của một võ tướng:
Bức chiếu này viết bằng nửa nôm nửa chữ [Hán]. Trên
nầy là nguyên-văn. Tiếng dùng là tiếng đàng trong, ví dụ: đặng là được.
Nét bằng son hồng điều, nay còn rất tươi. Tuy nét bút cứng-cáp,
chững-chạc, nhưng cũng rõ là người viết chưa luyện. chữ cách nhau không
đều đặn. Có chữ sót sau thêm vào, như chữ chiếu ở gần cuối. Có chữ tô đi
tô lại; có chữ viết lầm, như chữ đô ở hàng thứ năm và chữ giám ở hàng
thứ bảy. Chữ tên Nguyễn Thiếp cũng viết lầm.
Lần này là lần đầu mà cụ nhận được một tờ chiếu, mà không có dấu son. Ấy vì không cần, bởi lẽ chữ viết bằng son là chữ dành riêng cho vua viết.
Chừng ấy chứng cũng đủ tỏ rằng chiếu này chính do Chính-bình- vương
viết. Lời tuy nôm nhưng dùng những câu toàn chữ xen vào. Hay là nói cho
đúng, thì đó là văn chữ có xen lẫn vào. Hay là nói cho đúng, thì đó là
văn chữ có xen nôm. Như thế tỏ rằng Nguyễn Huệ không phải hoàn-toàn vô
học.(28)
Chiếu theo nội dung. Lá thư này viết ở Phú Xuân, sau khi Nguyễn Huệ rút quân về “cho binh sĩ nghĩ ngơi”.
Việc chọn đất và vẽ kiểu kinh đô, ông cũng đưa ra những nét chính đó là
cung điện xây tại Phù Thạch, hành cung ở sau gần núi. Cung điện chính
thì ở gần nơi dân cư hay nơi nào được đất, tùy theo Nguyễn Thiếp chọn.
Vậy đây là một văn kiện quan trọng, không phải chỉ lời lẽ thăm hỏi thông
thường hay vài hàng kèm theo quà cáp để có thể gởi một cách khinh suất.
Vả lại, Nguyễn Huệ đang ở kinh đô, không phải tại một nơi biên địa hay
trên đường đi nên phải tùy tiện làm khi gấp gáp.
Đối với Nho gia ngày xưa từ giấy tờ đến cách xưng hô bao giờ cũng lấy lẽ “chính danh” trước khi “định phận”.
Theo như nội dung, Bình Vương đã ủy quyền cho Nguyễn Thiếp định đoạt
địa điểm, còn Trấn thủ Thận chỉ thực hiện việc dựng cung điện theo ý của
La Sơn Phu Tử, nhất là Nguyễn Huệ muốn làm gấp trong vòng ba tháng đủ
biết ông định dành tài lực, vật lực gần như vô giới hạn vào công tác
này. Với lời lẽ rõ ràng như thế, trách nhiệm trên vai Nguyễn Thiếp rất
lớn và minh bạch.
Tính theo thời gian, từ tháng 6 thêm ba tháng nữa, cộng thời gian qua lại chúng ta có thể ước lượng rằng Nguyễn Huệ định ra Nghệ An vào khoảng tháng Mười năm Mậu Thân [1788] và sắp xếp để làm lễ đăng quang tại đây như tin đồn mà giáo sĩ Bartette nghe được trong một lá thư gởi cho Le Breton “…ấn định ngày 11 tháng Mười (âm lịch) tức ngày mồng 8 tháng Mười Một là ngày ông tự phong mình hoàng đế dưới danh hiệu “Quang Trung”. (29) Việc xây dựng có lẽ chỉ đình lại khi quân Thanh kéo sang nước ta đưa đến những thay đổi ngoài dự tính.
Có
lẽ Giáo sư Hoàng Xuân Hãn vì mừng quá nên tin tưởng rằng đây chính là
thủ bút của Nguyễn Huệ. Thực ra, không có nguyên tắc nào quy định rằng
chỉ nhà vua mới được dùng mực son. Trong dân gian, thầy đồ viết phóng,
khảo quan chấm bài cũng dùng màu đỏ để phân biệt với học trò hay thí
sinh dùng mực thường. Những tờ chiếu khác của Bình Vương gởi Nguyễn
Thiếp không dùng chữ son mà dùng mực đen. Thông thường chỉ có những lời
phê của nhà vua trên các tờ biểu của các quan gởi lên mới dùng chữ son
để phân biệt (châu phê). Những văn bản khác tuy trên danh nghĩa là lời
của nhà vua nhưng thường do nội các soạn, viết bằng mực đến giấy vàng có
đóng dấu ngọc tỉ.
Hình thức của bản văn này cũng có những điểm đáng ngờ vì hoàn toàn không theo đúng qui luật của một tờ sắc.Ngoài chi tiết quan trọng nhất là thiếu con dấu đóng trên hàng chữ Thái-đức thập nhất niên, lục nguyệt, sơ nhất nhật
để bảo đảm đây là một công văn của triều đình, khoảng cách giữa nội
dung tờ sắc và ngày cũng quá sát (thông thường phải có một khoảng trống
để người nhận có thể trả lời mặc dù lắm khi chỉ là hình thức).
Một vài chữ được dậm lại hay sửa khiến chúng ta có thể ngờ rằng người
viết đọc không rành hay viết không thông hoặc viết trại đi vì một lí do
khác.
Dù
cấp bách, khó có thể tin được rằng Nguyễn Huệ phải tự tay viết một lá
thư quên cả đóng dấu vì Nguyệt Ao tiên sinh quen thuộc đến mức nhìn vào
mặt chữ là biết ngay. Hai người chưa thân tình đến thế và việc viết một
lá thư riêng đơn giản không đúng với quy cách của triều đình, không coi
trọng người nhận, chưa kể có thể bị giả mạo hay sửa đổi. Chính vì thế,
ngoài dấu triện Quảng vận chi bảo để đảm bảo rằng đây là một
văn thư chính thức, những con số và vị trí quan trọng trên giấy tờ ngoài
việc viết bằng chữ kép còn đóng thêm dấu kiềm nhỏ để không ai có thể
thay đổi mà không bị phát hiện.
Theo
suy nghĩ của chúng tôi, đây là một dụ chỉ khẩn cấp. Trước đây Bình
Vương đã yêu cầu Nguyễn Thiếp đi xem đất và chọn địa điểm để xây cung
điện. Tuy nhiên sau đó tình hình chưa yên, nhất là có vụ xung đột với Vũ
Văn Nhậm [có nơi viết là Nguyễn Nhậm] khiến ông phải đích thân ra Bắc
để dẹp yên. Khi về ngang qua Nghệ An, công việc vẫn chưa được xúc tiến
nên khi về Phú Xuân ông phải viết một lá thư đã được Giáo sư Hoàng Xuân
Hãn viết lại theo lói chúng ta hiểu ngày hôm nay:
Chiếu
truyền cho La-sơn Phu-tử Nguyễn Thiệp được biết. Ngày trước, ủy cho
Phu-tử về Nghệ-an xem đất đóng đô cho kịp kỳ này ngự-giá ở Bắc về trú.
Sao ta về tới đó thấy chưa được việc gì? Nên ta hãy hồi-giá về
Phú-xuân-kinh cho sĩ-tốt nghỉ-ngơi. Vậy chiếu ban xuống cho Phu-tử nên
sớm cùng ông Trấn-thủ Thận tính-toán mà làm việc, xem đất đóng đô tại
Phù-thạch. Hành-cung thì để phía sau khá gần núi. Chọn đất hoặc ở chỗ có
dân-cư, hoặc chỗ nào đất tốt có thể đóng đô được, là tùy Phu-tử lấy con
mắt tinh mà xét định. Hẹn trong ba tháng thì xong, để tiện việc
giá-ngự. Vậy Phu-tử chớ để chậm-chạp không chịu xem.
Kính thay. Đặc chiếu…
Thái-đức năm thứ 11, tháng sáu, ngày mồng 1.(30)
Chính
vì gấp gáp như thế, Nguyễn Huệ chắc cũng dặn người đưa thư bắt Nguyễn
Thiếp phải trả lời ngay trên văn bản để đem về trình, chứng minh rằng
người nhận đã đọc và thi hành ngay, không thể tìm cách diên trì thêm
nữa. Chúng tôi đoán là thế vì những lá thư trước, thường thư gởi và thư
trả lời luôn luôn có một khoảng thời gian, có lẽ lúc đầu Nguyễn Huệ còn
đủ khiêm cung để không tỏ ra quá lỗ mãng. Tuy nhiên càng về sau chúng ta
càng thấy ông thẳng thừng hơn, chẳng cứ gì với Nguyễn Thiếp mà cả những
nhà Nho khác ở Bắc Hà chứng tỏ uy quyền càng ngày càng được củng cố.
Trong thì gian cấp bách đó, Nguyễn Thiếp đã sai người nhà, học trò hay
con cháu, chép lại bản chính để lưu giữ và những lỗi “Khuể ngộ”
[sai lầm văn tự] là do người chép vội chứ không phải nguyên bản viết
sai. Còn tên Nguyễn Thiếp chép ra Nguyễn Thiếp có thể vì người chép lại
kiêng không dám viết thẳng tên thầy, tên cha mình.
Cũng
vì thế, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã không tìm thấy lá thư trả lời mà chỉ
có lá thư của Nguyễn Huệ đề ngày 19 tháng 6, chỉ cách có 17 ngày với lá
thư này, tính ra chỉ đủ thời gian sứ giả đi từ Phú Xuân đến Nguyệt Ao và
trở về Phú Xuân trình lại nên việc đòi trả lời ngay cũng hợp lý.
Nói tóm lại, theo chúng tôi đây chỉ là một bản sao
chép lại chiếu thư của Nguyễn Huệ. Vì bản sao này viết bằng mực son nên
đã gây ra một sự hiểu lầm và cũng không có chứng cớ gì để xác định đây
là bút tích của Nguyễn Huệ.
Chú thích
(1) Trần anh Tuấn, “Niềm vui và nỗi buồn trong một cuộc ra mắt sách”,http://www.diendantheky.net/2010/06/niem-vui-noi-buon-trong-mot-cuoc-ra.html
(2) Lê Quý Đôn Phủ biên tạp lục (tập I: quyển 1,2 & 3), bản dịch Lê Xuân Giáo (Sàigòn: Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, 1972), tr. 132.
(Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục (phần chữ Hán), tr.XCIX.
(4)
Cung trung Đáng, hòm số 2778, bao 162, số 38897, bản sao tấu thư của
Tôn Sĩ Nghị đề ngày mồng 8 tháng 7 năm Càn Long 53 (1788), Trang Cát
Phát, Thanh Cao Tông thập toàn võ nghiên cứu, tr.353.
(5) Lê Nguyễn Lưu, “Văn khắc thời Tây Sơn ở Huế”, trong phủ Phú Xuân Thuận Hóa thời Tây Sơn, [Kỷ yếu hội thảo khoa học – lưu hành nội bộ] (Huế: 2001), tr.177.
(6) Xem thêm Nguyễn Ngọc Huy [di cảo 7], Tên họ người Việt Nam (San Jose: Mekong-Tynan, 1998), tr. 47-9.
(7) Chẳng hạn dùng chữ cô thay vì chữ khi tự xưng.
(8) Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại (Les caractères interdits au Vietnam à travess I’histoire) Hà nội: văn hóa, 1997), tr.111.
(9) Ngô Đức Thọ, sđd, tr. 108-9.
(10) Tức đời Lê Thần Tông [1653-1658].
(11) Bản dịch Nguyễn Duy Chính (chưa xuất bản).
(12) Góp thêm về phổ-hệ Tây-Sơn và chân dung anh em họ”. Tập san Sử địa [9-10/1968]: Đặc khảo về Quang-Trung, tr.112-133.
(13) Ngô Cao Lãng, Lịch triều tạp kỷ [quyển VI] (Hà Nội: KHXH, 1995), tr.586.
(14) Ngô Thì Nhậm (quyển I). Mai Quốc Liên chủ biên (Hà Nội: Nxb Văn học, 2001), tr. 172.
(15)
Huệ đắc báo đại mạ: “Hà vật Ngô cẩu cảm nhĩ xương cuồng?”. Tức hạ lịnh
cử binh. Chư tướng hàm khuyến thỉnh tiên chính vị hiệu dĩ hệ nhân tâm.
Huệ nãi trúc đàn vu Bình Sơn chi nam dĩ thập nhất nguyệt nhị thập ngũ
nhật tự lập vi đế, cải nguyên Quang Trung tức nhật đại suất tướng sĩ
thủy lục tề tiến…
(16) Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí (bản dịch Nguyễn Đức Vân-Kiều Thu Hoạch) (Hà Nội: Nxb Văn học, 2002), tr.371-2.
(17) Đặng Phương Nghi, “Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc-tiến của Nguyễn Huệ” (Tập san Sử địa 9-10, 1968), tr.214.
(18) Ngô Thì Nhậm tác phẩm (2001), sđd, bản chữ Hán trang 513-517, bản dịch Mai Quốc Lên, tr.173.
(19) Ngô Thì Nhậm tác phẩm (2001), sđd, tr172, 173.
(20) Ngày
18 tháng Mười Một tôi đọc một lá thư đề ngày 20 tháng Chín của Đức ông
La Bartette gởi cho ông Le Breton trong đó đức ông cho biết rằng: Tiếm
vương Phú Xuân hay Bắc Vương vừa mới phong cho con trai ông làm nam
vương lúc đó mới có 7 tuổi, nhưng hoàng tử được coi như được mười hai
tuổi vì theo như lời đồn, các quan muốn nịnh người cha nên tăng cho
người con nhiều tuổi hơn. Đặng Phương Nghi, tlđd, tr 213-214.
(21) Theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị (Khâm định An Nam kỷ lược, quyển VI).
(22) Đặng Phương Nghi, tlđd, tr. 214-6.
(23) Ngô Cao Lãng, sđd, tr. 586.
(24) Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Phu tử (Paris: Minh Tân, 1952).
(25) Huệ viết tên cụ lầm ra Thiệp (lời chú của Hoàng Xuân Hãn).
(26) Hoàng Xuân Hãn, Sđd, tr. 118-9.
(27) Hoàng Xuân Hãn, Sđd, tr. 118.
(28) Hoàng Xuân Hãn, Sđd, tr. 119.
(29) Đặng Phương Nghi, tlđd, tr. 214.
(30) Hoàng Xuân Hãn, Sđd, tr. 120.
http://nghiencuulichsu.com/2014/09/26/nhung-nghi-van-ve-trieu-dai-quang-trung/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét