Tên sách: Việt Nam thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802
Tác giả: Tạ Chí Đại Trường
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
Năm xuất bản: 2007
Chân thành cảm tạ:
- Ông Trương Bửu Lâm, nguyên Giám đốc
Viện Khảo cổ.
- Ông Bửu Cầm, Giáo sư Đại học Văn khoa
Sài Gòn.
- Bà Langlet, Giáo sư Đại học Văn khoa
Sài Gòn.
- Ông Nguyễn Khắc Kham, nguyên Giáo sư
Đại học Văn khoa Sài Gòn.
- Ông Nghiêm Thẩm, Giáo sư Đại học Văn
khoa Sài Gòn, Quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia.
- Anh Nguyễn Nhã, Chủ nhiệm Tập san Sử
Địa.
LỜI GIỚI THIỆU
Khởi nghĩa Tây Sơn là một đề tài luôn
luôn hấp dẫn giới nghiên cứu Việt Nam. Đây không phải chỉ là một cuộc khởi
nghĩa đã đánh đổ được hai dòng họ phong kiến trị vì trong nhiều thế kỷ ở Đàng
Trong và Đàng Ngoài, mà còn hoàn thành sự nghiệp chống ngoại xâm đánh lui hai
kẻ thù hùng mạnh ở miền nam và miền bắc. Vì vậy trong những năm đầu Chiến tranh
thế giới thứ hai, khi tinh thần dân tộc được nâng cao do tác động của các phong
trào đấu tranh giải phóng, thì cuộc khởi nghĩa lại trở thành trọng tâm chú ý
của nhiều nhà sử học. Tiếp đến trong những năm sau chiến tranh chống Pháp,
trong xu hướng đề cao vai trò động lực lịch sử của nông dân, cuộc nổi dậy của
những người anh hùng áo vải lại tăng thêm sức hấp dẫn các nhà sử học Mác xít ở
miền Bắc, muốn chứng minh cho một định đề có sẵn. Thậm chí có tác giả còn đi
đến nhận định đây là một cuộc cách mạng nông dân, hoặc đi xa hơn, cho đây là
cái mốc đánh dấu sự hình thành của dân tộc Việt Nam. Cho đến nay, trong thư mục
của Thư viện Quốc gia Hà Nội, đã có không dưới 60 cuốn sách của các tác giả
Việt Nam nghiên cứu về phong trào này, đấy là chưa kể hàng trăm hàng ngàn bài
báo và tạp chí cứ mỗi năm đến ngày Tết nguyên đán lại nhắc đến chiến thắng Đống
Đa lịch sử và đưa ra những đánh giá mới về cuộc khởi nghĩa.
Nhưng rồi những suy nghĩ cảm tính dần dần
cũng lắng đọng để đi đến những phân tích lý trí. Các nhà nghiên cứu quan tâm
hơn đến những tài liệu bổ trợ ngoài lịch sử chính thống, đặc biệt là những tài
liệu dân gian và những văn bản của thời đó còn sót lại, mong dựng lại một bức
tranh chính xác về bản chất cuộc khởi nghĩa. Phải thừa nhận rằng trong mấy thập
niên qua, chúng ta đã sưu tập được khá nhiều tài liệu mới về Tây Sơn, từ những
văn bia bị bỏ quên, những gia phả trong các dòng họ, đến những văn thư trao đổi
ở các đồn biên cảnh còn lưu giữ được, và nhất là những câu chuyện kể dân gian
rất phong phú. Nhưng lúc này chúng ta đang đứng trước một thách thức, đó là tài
liệu về thời Tây Sơn còn lại không đầy đủ, nhiều lỗ hổng chưa được chứng minh.
Chẳng hạn riêng chuyện các viên tướng Tây Sơn chỉ huy các mũi tấn công Thăng
Long năm 1789, cũng đã làm tốn bao giấy mực tranh luận mà vẫn chưa làm người
đọc thỏa mãn.
Chính vì vậy mà việc tái bản cuốn Việt
Nam thời Tây Sơn của Tạ Chí Đại Trường là một đóng góp mới đối với việc nghiên
cứu lịch sử cuộc khởi nghĩa. Có lẽ đây là một trong những công trình sớm nhất
đã cố gắng thu thập tối đa những tư liệu viết về Tây Sơn của đủ các loại người,
từ các sử gia chính thống, đến những người trong cuộc đương thời, và quan trọng
hơn là lời chứng của các giáo sĩ, thương nhân và bọn phiêu lưu nước ngoài đã có
mặt ở Đại Việt trong những thời kỳ đó (sách xuất bản lần đầu năm 1970 tại Sài
Gòn). Tác giả đã làm công việc khảo cứu một cách có hệ thống, đi từ việc giám
định các tư liệu được sử dụng, xác định tính chân xác của các tư liệu đó, từ
tài liệu chữ Hán Nôm, đến các ghi chép và bút ký của người nước ngoài. Những
địa danh bằng chữ Hán Nôm được xác định lại như Bân Thiết là Mang Thít, Xuy
Miệt là Xoài Mút, Thán Lung là Thang Trông. Những tên người tên đất được người
nước ngoài ghi lại bằng, những cái tên kỳ quặc như Ou doi be, Hoe Hanh Loie,
Choya, cua Heo đã được tác giả đối chiếu, tìm quy luật chuyển âm để dựng lại
chính xác hoặc đưa ra giả định mới. Qua tham khảo một khối lượng tài liệu phong
phú mà tác giả đã dựng lại được cả một giai đoạn lịch sử kể từ khi nổ ra cuộc
khởi nghĩa ở Tây Sơn cho đến khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, kết thúc cuộc
chiến tranh hơn 30 năm. Mỗi một sự kiện đều có sự so sánh giữa tài liệu ghi lại
của các đại thần nhà Lê, đến các sử quan nhà Nguyễn, và tham chiếu những ghi
chép của các nhân chứng ngoại quốc và tư liệu Trung Hoa. Tác giả không bỏ qua
những tư liệu văn học và truyền thuyết dân gian để hiểu rõ thêm tình cảm của
nhân dân đối với từng nhân vật và từng sự kiện lịch sử.
Nếu trong lần xuất bản đầu tiên tác giả
lấy tên công trình là Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, thì trong khi trình bày,
tác giả không dừng lại ở những xung đột giữa các tập đoàn quân sự Bắc Hà, Nam
Hà và quân khởi nghĩa, mà còn đề cập đền nhiều hoạt động khác của xã hội mà nổi
lên trên hết là hai cuộc chiến chống ngoại xâm vang dội ở Rạch Gầm-Xoài Mút và
ở Đống Đa. Vì vậy trong lần tái bản này, được sự đồng ý của tác giả, chúng tôi
đã đổi lại tên sách là Việt Nam thời Tây Sơn, mang tính bao quát hơn. Như tác
giả đã nhận định trong lời kết là “Tất cả đã tạo nên một hoàn cảnh sôi sục
trong phát triển ở Nam Hà. Địa phương và trung ương trông chừng nhau ở cả hai
bên sông Gianh, nhưng sức mạnh địa phương miền Bắc đã yếu thế nhiều vì quá khứ
10 thế kỷ kết tập chung sống. Cho nên biến cố có tên là Tây Sơn lại nổ bùng ra
ở Nam Hà và đủ sức mạnh để đảo lộn tất cả: chiến tranh 32 năm chỉ là cái gút để
tóm thâu kết quả của mấy trăm năm gầm gừ phân tranh, mấy trăm năm biến đổi dần
dà trong xã hội Đại Việt ( ... ). Cho nên phải nói rằng những thừa hưởng của
quá khứ, của trận chiến kết thúc phân tranh, đậm hay lạt, nhiều hay ít rồi sẽ
hợp với những điều kiện mới nảy sinh để bắt đầu lịch sử Việt Nam. Đất nước sẽ
càng ngày càng phức tạp hơn để theo những biến động thế giới mà bước vào thời
cận đại với Gia Long”.
Việt Nam thời Tây Sơn là mộl giai đoạn
bản lề trong lịch sử đất nước ta. Đó là sự bùng nổ của những xung đột ngấm ngầm
bên trong một xã hội đang trên đà phát triển, để san bằng tất cả mọi trở ngại
trên con đường thống nhất dân tộc, phát triển quốc gia. Mong rằng việc tái bản
cuốn sách này sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc, muốn hiểu sâu thêm về một
giai đoạn đầy biến động của dân tộc, có được cái nhìn đầy đủ hơn về những nhân
vật anh hùng cũng như những kẻ phiêu lưu của một thời kỳ lịch sử.
ĐÀO HÙNG
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
MỞ ĐẦU
Hậu bán thế kỷ XVIII là một trong những
giai đoạn rối ren nhứt và cũng là một trong những giai đoạn hiếm hoi mà người
Việt sau khi chịu được cơn chuyển mình, thấy đất nước lớn mạnh hơn, dồi dào
sinh lực hơn ngày trước. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, biến cố tàn Lê, mạt Trịnh, sự
phục hồi của họ Nguyễn, tất cả đầy sinh động, hấp dẫn, khiến cho người đương
thời vội vã ghi chép, người sau kiên nhẫn lục lọi làm nên những tổng hợp chuyên
biệt, khoa học mà chúng ta chú ý ở đây. Hãy kể lấy một vài trường hợp. Thời đại
lịch sừ kể trên tràn một phần khá lớn trong quyển Histoire moderne du pays d’
Annam (1529 - 1820) của Ch. Maybon1 là “quyển sách có giá trị đặc biệt”, “một
công trình có giá trị trong học giới” như Phạm Quỳnh đã tán tụng.
Không khí phục cổ do báo Tri Tân
(1940-1945) đưa tới phía người Việt, dưới sự thúc đẩy của ảnh hưởng Trường Viễn
đông Bác cổ qua các ông Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố, Biệt Lam Trần Huy Bá, Mãn Khánh
Dương Kỵ... hợp với không khí nghiêm trọng của Thế chiến thứ hai nuôi dưỡng ý
hướng khảo sát, khiến thấy xuất hiện giữa những tác phẩm lịch sử khác, quyển
Quang Trung Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc của Hoa Bằng3. Cũng được sửa soạn
thành hình trong thời kỳ đó, nhưng xuất hiện muộn màng trong thời chiến tranh
(1945-1954) để nhân dịp biện hộ cho thái độ soạn giả trước thời cuộc là quyển
La Sơn Phu Tử của Hoàng Xuân Hãn4. Hiện nay theo với sự tạo lập các chứng chỉ
Sử học ở trường Đại học Huế, giáo sư Nguyễn Phương cũng khảo sát biến động Tây
Sơn đăng dần trên các tạp chí Đại học, Bách khoa, Đại học Sư phạm Huế5. Và bắt
đầu chúng tôi cũng thu nhặt tài liệu để khảo sát giai đoạn này trong tính cách
toàn thể của nó dưới nhan đề là: “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến
1802”.
Các thư viện: Thư viện quốc gia, Tổng thư
viện và đặc biệt Thư viện Khảo cổ đã cung cấp tài liệu cho chúng tôi. Các bài
chỉ dẫn thư tịch của L. Cadière và P. Pelliot, E. Gaspardone, Trần Văn Giáp,
Huỳnh Khắc Dụng, ở các sách tổng hợp cẩn thận theo tinh thần khoa học đã giúp
chúng tôi dễ dàng trong khi tìm tòi. Nhưng ở đây chúng tôi vẫn vấp phải một
điều mà người trước đã lưu ý tới: tài liệu khiếm khuyết.
Lê Quý Đôn ngày trước đã thống trách về
tình trạng sách vở lưu lạc, mất mát ở nước ta6. Hay nói như L. Cadière và P.
Pelliot7, “không ở đâu mà cái gia tài kiến thức của một dân tộc lại tan biến
nhanh như vậy”. Thực ra, tình trạng hiếm hoi sách vở, nhất là sử ký, cũng được
người xưa công nhận là tại người ta ít chuyên tâm chú ý sáng tác. Tham tụng đời
Trịnh Khải là Bùi Huy Bích viết: “Nước ta về môn sử ký rất là sơ lược. Chép sử
có hai lối, một là kỷ truyện, hai là biên niên. Lối kỷ truyện thời đã không có
rồi, đến lối biên niên cũng lại thiếu thốn, nhiều chỗ sai lầm... Học giả có
biết nghĩ đến cũng nên sửa sang lại sử, hay là làm lời bàn bạc, chứa vào kho
vua để đợi hậu thế”.
Thế mà khí hậu và chiến tranh tàn hại lại
đua nhau phá hoại những sách vở ít ỏi đã ra đời. Hai tác giả Cadière và Pelliot
từ năm 1904 còn có giọng bi quan huống là chúng ta bây giờ, trải qua chiến
tranh tiêu thổ 1945-1954 và 1956 - ?. Bộ Thực lục chính biên đệ nhất kỷ của
Viện Khảo cổ thiếu mất từ quyển 14 tới quyển 32 là một trong những ví dụ. Có
những sách không dùng được hoặc thiếu hụt hiệu quả xác thực: quyển Hoàng Lê
nhất thống chí theo bản dịch của Ngô Tất Tố có những lỗi in thật là tai hại.
Tài liệu hiếm hoi dẫn đến sự cách biệt người và tài liệu: có thể thư viện ở Huế
còn giữ những bộ Thực lục thiếu sót trên9. Vì lẽ đó mà tài liệu thường phải
rải rác khiến chúng ta sử dụng không đều phần sách tham khảo đã liệt kê.
Nhưng nếu bằng lòng với thực tế thì chúng
ta cũng có thể sử dụng phần hiện có được. Tài liệu gồm có hai phần xét từ nguồn
gốc: những giấy tờ, sử sách của người nước ta để lại hay của các nhân vật Tây
phương có liên lạc với công cuộc truyền giáo, buôn bán với xứ này cung cấp.
Loại thứ nhất, phần thuộc những tài liệu
xác đáng nhất, có thể là các đồng tiền Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung,
Cảnh Thịnh, các bộ giáp, khí giới của tướng binh Chà-và của Nguyễn Ánh (trưng
bày ở Hội chợ Sài Gòn, khu lịch sử 1942), bản chụp ảnh các thư Nguyễn Ánh gởi
người Tây phương, chiếu truyền La Sơn Phu Tủ của Quang Trung, sắc phong thần
đời Quang Trung (trưng bày ở Hội chợ Hà Nội, khu lịch sử, 1940-1941)10... Trong
những thứ này thì chính chúng tôi cũng chỉ thấy tận mắt, trong hình trạng thực
của nó, các đồng tiền, các thư và tờ sắc thuộc Nguyễn Huỳnh Đức về chuyến đi sứ
năm 1797 thôi. Tài liệu này cất trong nhà thờ Đức Nhuận hầu ở làng Khánh Hậu,
tỉnh Long An và cảm giác đầu tiên của chúng tôi khi nhìn thấy là xứ sở đương
thời quả thực nghèo nàn, từ đó mới hiểu rõ hơn nỗi thất vọng của bọn phiêu lưu
Olivier, Barizy.
Cũng thuộc loại thứ nhất nhưng tiếp theo
những tài liệu kể trước trong thứ tự cổ điển về tính cách xác thực là các thi
văn, lời thuật của các nhân vật lịch sử (Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích,
Trịnh Hoài Đức...). Phần nhiều những loại này vì tính cách tiêu khiển, ngâm
vịnh của chúng và một số những bản văn vì hình thức vần đối của chúng vẫn được
kể là tài liệu văn học.11. Nhưng nếu nói như H. I. Marrou12 “mọi thứ đều có thể
là tài liệu”, thì ta vẫn dùng được chúng bởi vì, các văn thần của chúng ta ngày
xưa làm thơ văn là để diễn tả mối xúc động của họ trước sự kiện xảy ra, nghĩa
là tính cách nhân chứng lịch sử của họ vẫn có ngay khi họ để hồn mơ mộng. Đọc
câu thơ Lê Ngọc Hân khóc Quang Trung:
“Mà nay áo vải cờ đào”
trong một tiếng kêu thất vọng dài 164
câu, triền miên nỗi niềm đau xót, ta thấy xúc động trước cảnh tử biệt sinh ly.
Nhưng nếu dừng ở lãnh vực sử học, thì hai chữ “cờ đào” là một chứng cớ hoạt
động của quân tướng Tây Sơn, chứng cớ thấy ở nơi khác, nơi các bức thư của L.M
(linh mục) D. de Jumilla và L. Barizy.
1. Paris. Lib. Plon. 1919.
2. Thượng Chi văn tập, Bộ Quốc gia Giáo
dục (Việt Nam Cộng hòa) tái bản, tập V.8. Đáng lưu ý rằng Aurousseau khi phê
bình sách của Maybon lại chê rằng ông này không tìm được gì mới hơn những điều
mà L. Cadière đã nói đến hơn 10 năm trước.
3. Gồm 2 tập, tập trên 202 trang (Tri Tân
xuất bản, in xong ngày 6-5-1944), tập dưới 310 trang (Trịnh Như Luân xuất bản,
in xong ngày 8-8-1944). (Theo chỉ dẫn của lời tựa lần tái bản quyển Quang Trung
Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc, sửa lại một tập. Sài Gòn, xuất bản Bốn phương,
1958)
4. Paris, Minh Tân xuất bản. 1952
5. Đã in thành sách Việt Nam thời bành
trướng: Tây Sơn, Khai Trí. 1968.
6. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Lê Mạnh
Liêu dịch. Bộ QGGD. 1963. 8. Xem dịch văn và nguyên bản lời tựa Nghệ văn chí,
Đại Việt thông sử do E. Gaspardone dịch trong BEFEO. 1934: 7-9.
7. “Première étude sur les sources
annamites de l’histoire d’ Annam”. BEFFO. IV 1904. t. 167.
8. Lữ trung tạp thuyết. Tuyến Trang Trần
Văn Ngoạn dịch trong mục “Tồn cổ lục”. Nam Phong tạp chí, Janv. 1919, t. 52.
9. Hiện nay (1969). Viện Khảo cổ đã có đủ
với ấn bản ở Nhật.
10. Xem Foire exposition de Saigon, La
Sơn Phu Tử, Phụ lục của sách này.
11. Chúng ta thấy khuynh hướng này rõ rệt
khi Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm đem các bài “Dụ Nhị suý quốc âm”, “Hiểu thị quân
dân Qui Nhơn” vào trong quyển Quốc văn đời Tây Sơn (Sài Gòn, Vĩnh Bảo xuất bản,
1950), Dương Quảng Hàm dùng bài “Dụ tướng sĩ ở Gia Định” để minh chứng phong
trào văn Nôm cuối thế kỷ XVIII, G. Cordier (Morceaux choisis d’auteurs
annamites, Hanoi. 1932, t. 254, 255) chép bài “Hịch dụ các người trung nghĩa
ngoài Bắc thành” của Lê Huy Dao.
12. De la connaissance historique, Du
Seuil, 1962, t. 315.
Đương thời có một quyển lịch sử ký sự là
quyển Hoàng Lê nhất thống chí. Theo giáo sư Dương Quảng Hàm, quyển “lịch sử
tiểu thuyết”1 này còn có tên An Nam nhất thống chí chia làm 7 hồi, chép công
việc nhà Hậu Lê từ Trịnh Sâm đến lúc nhà Trịnh mất ngôi Chúa (1767- 1787). Một
bản tục biên (hồi 7 - 17) chép tiếp từ lúc Chiêu Thống chạy sang Tàu đến khi di
hài được đem về chôn ở Thanh Hoá. Giáo sư thắc mắc “không biết có phải Ngô Du
đã soạn 7 hồi sau không” mà không lưu ý rằng bản tục như giáo sư dẫn có đến 10
hồi. Trong khi đó bản dịch của Ngô Tất Tố có đến 19 hồi tất cả. Xét theo hơi văn
và chủ đích lộ ra, sách chắc phải do 3 tác giả viết. Ngô Thì Chí chắc viết 7
hay 8 hồi đầu với dụng ý hiểu chữ nhất thống là gồm-một-về-Lê nhân dịp Tây Sơn
diệt Trịnh. Các hồi sau (đến trang 277 trong bản Ngô Tất Tố) có lẽ của Ngô Du
viết trong thời kỳ họ Ngô có Ngô Thì Nhậm là sủng thần của Quang Trung, giọng
văn đầy tính cách thán phục viên chủ tướng này. Giọng văn từ trang 277 đổi đi
gọi Quang Toản là vua “Nguỵ Tây”, quân Gia Định là “quân của Hoàng Triều” khiến
Ngô Tất Tố phải chú thêm là “dịch theo nguyên văn”. Tác giả đoạn này rõ là một
kẻ bề tôi Nguyễn viết ra nối bản văn trước để cưỡng ép ý nhất thống do Ngô Thì
Chí đề ra, quay về phục vụ cho công cuộc xây dựng sự nghiệp của Nguyễn Ánh.
Bài thơ dài Hoài nam khúc thì thuần nhất
hơn. Người ta biết tác giả là Hoàng Quang và sự việc ghi lại vào khoảng
1774-1775. Khung cảnh là xứ Huế và đóng vai trò là đám quan liêu thất cơ lỡ vận
của Chúa Nguyễn. Sử sự ghi khá rõ: tính cách chuyên quyền của Trương Phúc Loan,
ngày Kinh thành thất thủ, cảnh khổ nhục trong khung cảnh đói rét chung ở Thuận
Hoá... Nhưng đáng chú ý hơn là thái độ biểu lộ của tác giả khiến ta hiểu được
một phần khuynh hướng chung của đương thời: người mà tác giả trông cậy không
phải là Duệ Tông, càng không phải là Nguyễn Phúc Ánh mà là Hoàng tôn Dương. Lúc
nào cũng là Hoàng tôn.
Mười mấy năm sau, bài thơ lại có một tác
dụng khác. Nó nung nấu trong vùng Tây Sơn một khuynh hướng trông chờ ở Gia Định
và thành một chất liệu kích thích tinh thần binh sĩ nơi này. Đến đây ta có một
ghi nhận thích thú: giá trị minh chứng của một tài liệu không phải chỉ ở nội
dung đã định rồi, lúc ban đầu, mà còn ở trong đời sống của nó, ở cách hiểu tài
liệu của những người sau biểu lộ thái độ lịch sử của họ nữa.
Lịch sử trong thời đại này liên quan tới
công nghiệp của ông vua khai sáng triều Nguyễn nên các sử quan chăm chú trước
tập khá nhiều. Theo hai ông Cadière và Pelliot thì Quốc sử quán thiết lập năm
1821, đến năm 1841 viết xong Liệt Thánh thực lực tiền biên, Thực lục chính biên
đệ nhất kỷ gồm 60 quyển và một quyển thủ. Năm 1852, Đại Nam liệt truyện tiền
biên xong và in ngay, còn Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (33 quyển) thì
làm tiếp sau đó, nhưng mãi đến năm 1889 mới in.
Một quyển sách mà hai tác giả trên khen
là tác phẩm quan trọng nhất về toàn thể lịch sử Việt Nam là Khâm định Việt sử
thông giám cương mục. Dụ sai làm ra ngày 23-1-1856. Người coi sóc là Tổng tài
Phan Thanh Giản, phụ tá có một Phó Trọng tài, 6 Toản tu góp tài liệu, viết lên,
6 Khảo hiệu xét lại và 6 Đằng tả viết chữ ngay ngắn. Sách soạn trong 3 năm
1856-1859, dâng lên Tự Đức coi lại các lần 1871, 1872, 1876, 1878 và có lời phê
bên trên.
Sách có lẫn phép biên niên và cương mục.
Cương mục là một hình thức ghi chép lịch sử có tính cách tổng hợp cao hơn phép
biên niên. Người ta tóm thâu ý chính của việc làm trong một tiêu đề (cương, bài
cái) rồi thuật tự sự rõ ràng tiếp theo đó (mục, bài con)2. Trong các sách người
ta có những lời chú chỉ rõ vị trí địa dư hiện tại, nhắc lại các việc liên quan
nơi khác.
Lối biên niên đã khiến cho mọi người phàn
nàn là làm cho độc giả khó thấy được mối liên lạc giữa các sự kiện có liên quan
mà lại xuất hiện rải rác trong thời gian. Tuy nhiên chúng ta cũng lưu ý rằng sử
quan cũng thường hay tóm lược câu chuyện sắp kể bằng một câu ngắn. Ví dụ:
“Tháng 8 ngày Đinh Dậu, lấy Gia Định: Vương từ Tam phụ về Nghi Giang, Phạm Văn
Sâm bày dinh từ chợ Điều Khiển đến chợ Khung Dung. Sai Võ Tánh đi vòng ra đồng
tập trận..”.
Đổi lại sự bất tiện kể trên, ta giữ được
các việc còn nguyên tính cách sơ khởi của chúng, mới qua được chủ quan người
ghi chép, chưa phải biến đổi lần nữa qua người tổng hợp. Ở điểm về sự chính xác
này, người ta phân biệt dã sử và chính sử. Người ta hay chê chính sử có nhiều
thiên lệch như trường hợp sử quan nhà Nguyễn gọi Tây Sơn là nguỵ Tây, Tây tặc,
gọi các cuộc chiếm đóng của anh em họ là “nhập khấu” (vào ăn cướp)... Sử quan
chỉ chép những sự việc của Tây Sơn, Trịnh - Lê khi chúng có liên quan tới Chúa
của họ thôi. Dã sử sẽ bổ khuyết vào sự thiếu sót đó.
Nhưng ta không nên quá tách bạch hai
nguồn tài liệu để chúng chống đối nhau về quan điểm, từ đó, về giá trị sự kiện
ghi chép. Điều trước nhất là người viết dã sử cũng là những nhà nho có tài.
Chính sử quan nhà Nguyễn cũng biết bổ khuyết tài liệu mình có được bằng cách
tham bác dã sử khi viết về tổ chức quân chính triều Tây Sơn chẳng hạn. Họ cũng
đã dùng những chữ rất kêu để khen tài Nguyễn Huệ, cũng không giấu tật xấu say
sưa của Nguyễn Văn Thành, tật ham chơi trong tình trạng chiến tranh của Thành,
Duyệt, Huỳnh Đức... Cho đến cả việc quan quân Gia Định có người đi cướp của
dân, sách nhiễu dân chúng, họ cũng ghi rõ.
Thiếu sót có chăng là do không khí hiểu
biết, tình trạng bẩn chật của kinh tế tạo sự thấp kém kỹ thuật mà các sử gia
xưa phải đắm ghìm vào đó. Thực ra, có những nhà nho như Bùi Huy Bích quá già
lại ở trong mạt kiếp của một triều đại nên làm Tể tướng bị người ta chê trách5,
nhưng cũng đã tỏ ra có kiến thức hơn người. Theo lời Kính phủ Nguyễn Ánh, năm
1740, Bùi làm Đốc đồng đem quân đến biên giới Ai Lao giữ giặc, đã “bắc thang
trèo lên núi xem bài văn bia chữ to bằng bàn tay, khắc vào đá sâu một tấc, lấy
mực in bài bia về”6. Phương pháp khảo sát thực là mới mẻ, không phải là mới mẻ
ở hành động mà là ở ý tưởng áp dụng: người xưa in chữ ở các bài bia để lấy mẫu
viết thiếp (tháp), còn ông in chữ bia để làm tài liệu như đã chứng tỏ ở luận cứ
của ông về việc khảo sử. Chính ông đã bàn về một cách ghi chép sử sách sao cho
chính xác, bao gồm nhiều sự kiện, bày tỏ được tình trạng sinh hoạt kinh tế, văn
hoá trong nước: “Các việc sau này cũng là cần lắm: tra xét nguồn gốc sông núi,
địa danh biến đổi, nhân vật kẻ hay người dở, phép tắc lúc đổi khi theo, thói
dân nơi tốt nơi xấu, sản vật chỗ ít chỗ nhiều, hay là phép chầu, cách đón các
nước láng giềng, chữ tốt văn hay của các người đời trước, cùng là phép tắc
thường dùng của các quan, nhà dân, những điều ích lợi về việc canh cửi, người
lành kẻ ác, chuyện hay chuyện lạ mà có báo ứng từ trước đến nay, rất nhỏ cho
đến tờ buồi vụn vặt, bài thuốc kinh nghiệm, chia ra từng loại, biến ra từng pho
sách để cho người sau có chỗ mà dò. Làm những công việc ấy, so với nặn nọt các
câu vô dụng chẳng ích lợi gấp mấy mươi ru?
“Đành rằng thế, những nhà trước thuật
cũng nên tra xét cho rõ ràng chỗ nào nghi ngờ thì nên bỏ ngờ, có thể mong rằng
sau này có người biết chăng. Ví bằng ngờ mà cũng cho là tin, nhiều ít có không
cũng chỉ nghe theo người ta nói, như thế không phải là cách làm sách? Các bậc
quân tử có thể khen sao được?”7.
1. Việt Nam văn học sử yếu, t. 289. Về sự
xác định tính chất này, xem lời phản đối của ông Nguyễn Phương ở tạp chí Bách
khoa ngày 14-5-1963. t. 15-22: “Giá trị quyển Hoàng Lê nhất thống chí”.
2. Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử
yếu, t. 264, 350, 351
3. Thực lục q3. 14b.
4. Liệt truyện. 930, 40b: “kiến ư dã sử,
tạp ký…
5. Hoàng Lê nhất thống chí. t. 153. 154.
6. Chuyện Bia núi Thành Nam trong mục
“Tồn cổ lục”. Nam Phong II, Fév. 1918. t. 106. Chính chúng tôi nhấn mạnh.
7. Lữ trung tạp thuyết, dịch trong mục
“Tồn cổ lục”, NP. IV. t. 53.
Ý tưởng chỉ dẫn đành rằng khá tiến bộ
nhưng cũng cho ta thấy tính cách vụn vặt, tản mát của phương pháp. Nhất là chủ
đích luân lý trong sự biên chép còn đè nặng ở đây: “người lành người ác, chuyện
lạ chuyện hay mà có báo ứng từ trước đến nay”. Quan điểm của sách Xuân Thu đó
chi phối rất nhiều các nhà viết sử xưa từ sử quan của triều đình tới những nhà
nho sáng tác riêng tư nhưng vẫn có ý định dùng lịch sử làm gương đạo đức cho
người đời. Thế rồi đứng trước sự thử thách của thực tế, giáo lý trung trinh của
họ bị lung lay, khiến họ phải lúng túng. Kẻ theo thì tán tụng triều mới nhưng
còn nhớ triều cũ, kẻ chống lại vì đã trót làm tôi một ông chúa nhưng cũng thấy
đối phương có nhiều khả năng...
Tuy nhiên trở ngại vẫn không hẳn là giới
hạn của quan niệm đạo đức lúng túng đó. Tài liệu đòi hỏi được giải thích. Và
lịch sử là sự hiểu thấu tài liệu của sử gia. Điều này lại còn tăng tiến và tuỳ
thuộc theo với kiến thức, khuôn mẫu tư tưởng mà người đọc sách chịu thu nhận.
Chính vì lẽ đó, lịch sử triều Tây Sơn với các sử quan phải chịu tuỳ thuộc vào
hành động của Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương, Phúc Ánh. Vậy mà dưới ảnh
hưởng của các thuyết cách mạng Tây phương và những biến động mới đây, nó đã trở
thành một triều đại với Trần Trọng Kim, rồi bỏ chữ “triều đại” còn mang dấu
tích phong kiến, nó trở thành lịch sử một cuộc cách mạng, để nhân tiện tác giả
quyển sách đặt chen vào đó những ý tưởng chính trị giai đoạn bây giờ1.
Vì lẽ đó, tuy sử quan trong Thực lục kể
chuyện quan chức thuyên chuyển lòng thòng, chép việc chính trị, quân sự nhiều,
ta vẫn có thể tìm được ở đấy những ý nghĩa kinh tế, văn hoá. Qua sự sắp đặt cai
trị Ba Thắc, Trà Vinh, ban đầu Nguyễn Ánh giết tù trưởng phản kháng Ốc-nha Ốc,
cai trị bằng quân tướng rồi rút lui đi để “phiên liêu” Gia- tri-giáp coi sóc,
dẹp loạn rồi cho họ tự trị một phần qua chính quân đội, một phần qua đám người
Trung Hoa ngụ cư, chúng ta biết được mối tăng tiến tiếp xúc của các nhóm chủng
tộc, trình tự Việt hoá của các nhóm thiểu số vùng Hậu Giang (tiết 14). Qua vụ
định cư lưu dân Phú Yên, Bình Thuận ở Gia Định, ta biết được chênh mực kinh tế
giữa 2 vùng thù nghịch...
Có những giải thích phải được chứng thực
thêm khi phối hợp với những tài liệu Tây phương để có tầm ảnh hưởng quan trọng
hơn. Tài liệu thuộc loại này gồm một phần là những hình ảnh, đồ bản... của
người Tây phương về những nhân vật đương thời, ghi bằng những con số chính xác
các vị trí sông biển trong xứ. Nhờ có thói quen làm việc đúng đắn của họ, ta
biết được hình ảnh trung thực của cậu bé Hoàng tử Cảnh non trẻ mà vẫn làm dáng
oai nghiêm, khuôn mặt một Nguyễn Phúc Ánh rắn rỏi rõ ra của một vị vua từng
trải phong sương, khuôn mặt một Bá-đa-lộc đầy tự tin và đáng chú ý vì hoàn cảnh
hơi khác lạ là hình dáng một Chaigneau có vẻ Việt Nam hẳn đi với chiếc khăn
quấn đầu, bộ áo quần rộng nhiều nếp, thắt chẽn ngang lưng và chân quấn xà cạp,
đi đất. Ta thấy được các bản đồ vụng về vẽ của Thi Nại, cửa Thuận An của L.
Barizy kề bên các bản đồ khá chính xác do J.M. Dayot cung cấp tài liệu. Một sự
phối hợp nhỏ bé của các tài liệu ta và Tây xuất hiện trong đồ bản thành Diên
Khánh có hình thức một công sự Vauban mà bên góc lại ghi 4 chữ Hán “Diên Khánh
đại đồn”.
Vì sự có mặt của giáo sĩ ở khắp nơi, của
những nhà buôn, lính tráng Tây phương trên đất nước này mà chúng ta có thêm một
lô những tài liệu gồm những bức thư kể cho nhau nghe về tình hình trong, ngoài
nước, nhận xét của họ về những nhà cầm quyền bản xứ, về tương quan giao tiếp
giữa chính quyền, dân chúng bản xứ và người ngoại quốc. Các giáo sĩ Phăng-xi-cô:
Diego de Jumilla, J.M. de Castuera, Ginestar..., thương nhân Chapman... đã làm
nhân chứng cho những ngày đầu Tây Sơn khởi nghĩa, những ngày lao đao của Duệ
Tông, rồi những ngày đầu phục hưng của Nguyễn Ánh. Các giáo sĩ De Gire, Serard,
Ceram... ở vùng Trịnh, Labartette, Doussain ở vùng Tây Sơn, Lelabousse, Lavoué,
J. Liot - không cần kể tới Pigneau - và các tướng Olivier, J.M. Dayot, L.
Barizy... ở vùng Nguyễn đều làm đầy đủ nhiệm vụ quan sát với thói quen đòi hỏi
tính cách xác thực và với sự tò mò được kích thích thêm vì thấy gì chung quanh
cũng lạ, cũng mới. Giá trị chứng nhân được ghi nhận ngay lúc đương thời: Nguyễn
Ánh sai Olivier viết thư cho người đại diện các phái đoàn Truyền giáo là
Letondal ở Macao đã lâu để xin dò xét về chi tiết cuộc giao thiệp hoà bình hay
chiến tranh giữa Tây Sơn và nhà Thanh vì những tài liệu do ông này cung cấp thì
“chắc chắn hơn từ những nơi khác đưa đến”.
Chuyện họ ghi lại thường nhiều chi tiết.
Điều đó có một phần là do họ có những tiếp xúc cá nhân trong những vụ liên quan
đến họ. Lelabousse, Pigneau, Lavoué... ghi rất rõ hành vi, cử chỉ của Hoàng tử
Cảnh lúc mới về, thay đổi như thế nào lúc lớn lên và sự xung đột giáo sĩ - nho
sĩ trong triều một cách tỉ mỉ, chân xác trong khi sử quan chỉ nhắc nhở bên lề
vụ chống tăng chúng rằng: “Nghe Ngô Tòng Châu bài bác tả đạo, Bá-đa-lộc cũng
ghét”, hay vụ Tống Viết Phước bị cách chức vì thường “hay nói hỗn với
Bá-đa-lộc” nhưng quên luôn ý định cải giáo của Hoàng tử.
Sự tỉ mỉ còn từ quan điểm nhận xét của
nhân chứng nữa. Ta thấy sử quan cũng đã tỉ mỉ trong việc liệt kê quan tước,
thuyên chuyển chức vụ, chăm chú trong khi ghi chép lời vàng ngọc của vua họ.
Trong khi đó, L.M. Jumilla tỉ mỉ khi kể cuộc khởi loạn, không lưu ý đến chính,
nguỵ, Chapman cho thấy tình trạng lúng túng của nền kinh tế Tây Sơn qua sự vuốt
ve thương nhân này của Nguyễn Nhạc, qua cảnh tàn phá ở Hội An kéo theo sự biến
mất lớp người Hoa làm trung gian buôn bán với bên ngoài. Các giáo sĩ vùng Trịnh
khiến chúng ta lưu ý đến một tầng lớp thương nhân các lái ở Thanh, Nghệ, xứ
“cậy thế, cậy thần”, vạch rõ sự cấu kết của một thứ thương ban không chính thức
với văn, vũ, giám ban của họ Trịnh.
Nhưng không phải những tài liệu này không
có khuyết điểm. Những khuyết điểm này chính là bề trái của điều mà ta khen là
ưu điểm. Đứng ngoài một khuôn mẫu văn hoá, người Tây phương có những nhận xét
khách quan, nhưng đồng thời, họ cũng bị bó trong những thành kiến sinh ra vì
giáo dục đã hấp thụ được, nên những thiên lệch trong phán đoán lại xảy ra.
giống như bề tôi Tây Sơn khinh bỉ gọi người Tây phương là “những xác chết trôi
từ biển Bắc xuống”, các giáo sĩ cũng chê trách những tay phù thuỷ, gọi đạo Phật
là “đạo Thần tượng”, lễ Văn Miếu, tục thờ cúng tổ tiên là “dị đoan, mê tín”. Họ
không ngớt lời dài dòng ca tụng một ông Hoàng hứa cải giáo, một ông Giám quân
tỏ thiện ý với Bá-đa-lộc trong khi họ đả kích mạnh những nho sĩ chống đối lại
họ là những Sa tăng tranh đấu vì tước vị, quyền lợi mà không thấy trong đó một
chống đối vì lý tưởng, vì ý thức hệ. Đó là chưa kể họ cũng theo thời mà gọi Tây
Sơn là “bọn phản loạn”, “bọn vô đạo”, “tên bạo chúa”...
Một khuyết điểm nữa cũng do nơi tính cách
ngoại quốc của họ. Họ quan sát, ghi trung thành sự việc - tuy qua lăng kính văn
hoá của họ - kiểm điểm được ngày tháng chính xác mà không làm sao ghi đúng được
tên người, tên xứ nên có khi bỏ luôn không thèm nói tới. May mắn là khi nhắc về
một người có thành tích, họ chỉ tên bằng cách nói vòng quanh đến công việc của
những người này nên ta cũng dễ biết: ví dụ như khi L. Barizy nói đến một ông
Giám quân từng qua Pháp (Phạm Văn Nhân), ông tướng thuỷ quân trước kia theo Tây
Sơn (Nguyễn Văn Trương). Còn ngoài ra là những tên người kỳ quái: Ou doi be,
Hoe Hanh Loie, Noe Hau Loée, Dou Doue Cane, Bahaa, les Sang leys (lính của Lý
Tài), những tên đất tức cười: Dou hau, Choya, ong Datte, cua Heo...
Để chỉ định người, vật họ đã dùng những
chữ không tương đương vì thế có nghĩa hoặc thiếu sót, hoặc dư thừa. Những người
Pháp dùng chữ “oncle maternel du roi” để chỉ một viên tướng tài ba của Tây Sơn
(ta đoán là Trần Quang Diệu) mà không lưu ý rằng với sự minh định quá tỉ mỉ
trong tông tộc Việt Nam xưa, chữ đó có thể chỉ từ Bùi Đắc Tuyên sang Phạm Văn
Sâm, Phạm Văn Hưng đến Trần Quang Diệu, ông dượng của Cảnh Thịnh (bà con qua
Bùi Thị Xuân, nếu có thể gọi là bà con vì Bùi Đắc Tuyên là anh em cùng cha khác
mẹ với Phạm Hoàng hậu, mẹ Cảnh Thịnh). Thấy những tên to lớn “Tây dương dạng
thuyền”, “Đại hiệu thuyền”, “Hải đạo thuyền”, sử quan dùng mà không tả ra, ta
muốn tìm ở các tài liệu Tây phương để rõ hơn thực lực thuỷ quân Nguyễn Ánh, thì
lại không khỏi ngơ ngẩn trước các tên: frégate, corvette, chaloupe canonière,
demi-canonière... lẫn lộn với Thao, ghequienne... trong các bức thư.
Nho sĩ và Tây nhân thường không chú ý lắm
hoặc ghi sót những câu ca dao, truyền thuyết của dân chúng. Có khi loại tài
liệu này xuất hiện dưới hình thức những sấm ký có mục đích “tuyên truyền chính
trị”, nói theo lối bây giờ. Chẳng hạn như câu:
Đầu cha lấy làm chân con,
Mười bốn năm tròn, hết kiếp thì thôi.
Hay:
Cha nhỏ đầu, con nhỏ chân,
Đến năm Nhâm Tuất (1802) thì thân chẳng
còn.
[Chữ “tiểu” trên đầu chữ “quang” (trung)
xuất hiện dưới chữ “cảnh” (thịnh)].
Có khi là một ước mơ thốt nên lời, chứng
tỏ được chuyển biến tâm lý trong dân chúng:
Đục cùn thì giữ lấy tông (tên Trịnh
Khải),
Đục long, cán (Trịnh Cán) gẫy còn mong
nỗi gì.
Có khi là lời ghi nhận sự kiện, một sử sự
ngắn, trống trơn hoặc bao gồm cả nguyên nhân, kết quả:
- Binh Triều: Binh Quốc phó; Binh ó: Binh
Hoàng tôn.
- Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần.
- Sự này chỉ tại Bà Chè (Đặng Thị Huệ),
Cho Chúa mất nước, cho nghè làng xiêu.
1. Văn Tân, “Cách mạng Tây Sơn”, Hà Nội.
Văn Sử Địa xuất bản, 1957.
Nguồn tin từ dân chúng tuy mơ hồ và lẫn
lộn cả pháp thuật vì tính cách thần thánh hoá do óc tôn sùng của họ dựng lên,
nhưng ta cũng không thể từ đó mà tước bỏ, không công nhận phút sự thực nào. Về
việc Nguyễn Nhạc tự ngồi vào cũi để chiếm thành Quy Nhơn trong tay Tuần vũ
Nguyễn Khắc Tuyên, có người như ông Nguyễn Phương1 nghi ngờ và bài bác hẳn.
Việc này Cương mục (144. 22b) có chép và Chính biên liệt truyện thì ghi lại
bằng chữ nhỏ. Liệt truyện viết ra xây dựng trên các tài liệu lấy ở sách vở cũ
đã đành mà còn thu nhặt ở các gia phả, tin tức trong dân chúng nữa2. Việc Liệt
truyện viết bằng chữ nhỏ không phải là tỏ ý hoài nghi tính cách xác đáng của
nguồn tin nhưng là ghi thêm một lời nói cho dồi dào, cho xác thực hơn câu
chuyện như chính sử quan đã chú về việc “khuyết họ”, về địa điểm đích xác lúc
họ viết sách. Có thể Liệt truyện nhặt được câu chuyện Nhạc chui vào cũi ở Bình
Định vì dư luận truyền thuyết còn mạnh tới nỗi cuối thế kỷ XIX một người Pháp
tới xứ này còn nghe đồn về chuyện ấy3. Sự thực là mưu đó có thể đem ra dùng
thực như những mưu cướp thành có nhan nhản trong truyện xưa, với ai ngồi
trong cũi không biết nhưng Nguyễn Nhạc ở địa vị chủ tướng thừa hưởng sự thán
phục gan dạ đó từ dân chúng. Dân chống đối vốn có những hành động bất ngờ mà
luận lý thông thường không thể bàn tới được.
Chính từ những nguồn tài liệu khác nhau
đó mà chúng tôi phối hợp với những nhận xét riêng tư để lập nên quyển sách.
Phải nhận rằng công việc đã nhẹ bớt một
phần: phần phê bình ngoại diện tài liệu, về xuất xứ và điều kiện khả tín của
nó. Điều này có nguyên nhân là giai đoạn lịch sử tương đối gần cận, sách vở
sáng tác hoặc có cơ quan chính thức như Quốc sử quán in ra, hoặc dễ dàng xác
định tác giả, thời gian sáng tác như Hoài nam khúc. Mặt khác, thời kỳ này, như
đã nói ở đầu, kích thích được óc tìm tòi của học giả. Về phía người Pháp, thời
kỳ này với sự can thiệp của Bá-đa-lộc và bọn phiêu lưu Tây phương ở Gia Định,
như là một chứng minh cho lòng tốt của “mẫu quốc” với thuộc địa, hay đứng đắn
hơn, là sự kiện đánh dấu kéo dài sự thành lập đế quốc Đông Pháp lùi về trước
trên dưới 100 năm, một giai đoạn mà sự tiếp xúc Đông - Tây, rụt rè từ trước đó
mấy trăm năm, bỗng trở nên mạnh mẽ, mật thiết hơn. Họ gia công tìm tòi tài
liệu, hình ảnh, thư tờ. Chúng ta có hình ảnh xưa cũ trong tập Iconographie
historique de l'Indochine của P. Boudet và A. Masson. Chúng ta có các thư từ
trong Correspondance générale (Paris 1906-1907, E.J.Vrill) của H. Cordier, 3
tập Histoire de la Mission de Cochinchine của A. Launay mà ta dùng tập 3 (1925)
rất nhiều... Một tài liệu đưa ra dù ít ỏi vẫn được biện chính kỹ càng về giá
trị xác tín cũng như về nội dung sự kiện: chúng ta hãy xem việc làm đầy tính
chất khoa học của L. Cadière khi đưa ra những bức thư Nôm của Nguyễn Ánh.
Về phía người Việt, chiến thắng Đống Đa
như là một chứng minh trong thời kỳ ngoại thuộc (Pháp thuộc) về tính chất quật
cường của dân tộc; cuộc khởi nghĩa Tây Sơn có dáng một cuộc khởi nghĩa của dân
chúng, quyến rũ, dễ say mê trong thời kỳ tư tưởng cách mạng, dân chủ lôi cuốn
con người. Được đào luyện trong lò khoa học Pháp, một số học giả tiếp tục
truyền thống cũ, đi về các nơi thôn dã sưu tập tài liệu, cung cấp cho đám quần
chúng ưa men say ái quốc quá khứ oai hùng của dân tộc, dĩ vãng phức tạp, dồi
dào sinh lực của quốc gia. Nhưng phải nên nhận rằng trên bước đầu chủ quan đó,
tinh thần khoa học vẫn có để chứng minh giá trị của tác phẩm.
Việc tìm lại sự thực lịch sử căn cứ vào
sự đối chiếu các loại tài liệu tìm ra đó. Phương pháp luận giáo khoa vẫn bảo ta
rằng một tài liệu được chứng bày ở nơi các tài liệu khác xuất xứ thì được công
nhận là đúng. Song một đòi hỏi khắt khe về nguyên tắc như vậy không bao giờ áp
dụng được vì những căn cứ luận lý chung và tâm lý người chứng. Hơn nữa nguyên
tắc đòi phải có sự đồng ý của các tài liệu khiến cho sử sự trở nên nghèo nàn
thực chất hơn5. Đằng khác, như ở trường hợp tập sách này, tài liệu có khi chỉ một,
hay cùng một loại của người cùng phe. Từ đó, người ta nêu ra một phương pháp
xét định như sau:
“Khi chúng ta đứng trước một tài liệu,
một người chứng, điều quan tâm lớn của chúng ta không phải là tự hỏi xem có thể
đem đối chiếu với những thứ khác không (thực ra... (...) chứng cớ hầu như luôn
thuộc cùng một loại, cùng nội dung, cùng khuynh hướng), không phải là xem thử
người chứng có muốn lừa ta không..., nhưng trước hết là phải hiểu xem hắn ta có
hiểu những gì hắn nói với chúng ta hay không (hay là nếu đó không phải là một
chứng cớ cố ý mà là một chứng tích tài liệu dính líu tới thì phải xem thử hắn
ta trình bày ra được không), đến mức nào thì hắn ta hiểu hay đã trình bày ra,
đến độ chính xác nào, nghĩa là về sự dồi dào phức tạp sâu sắc mà hắn ta phản chiếu,
ghi nhận, từ đó đã chuyển cho chúng ta sự thực tế nhị của con người mà chúng ta
muốn nắm lấy”.
Bằng vào thái độ rộng rãi đó - rộng rãi
sau khi thấu suốt tính cách phức tạp của vấn đề, chứ không vì không giải quyết
được mà dễ dãi, buông thả - một tài liệu đơn độc có thể đứng tạm để người ta
đào sâu ý nghĩa nội tại của nó, hay qua khả năng của người chứng. Lúc bấy giờ
mớ kiến thức tổng quát hay chuyên môn của các khoa học bàng phụ sẽ giúp ích ta
rất nhiều để cho tài liệu thêm vững vàng giá trị. Ví dụ sử quan kể chuyện
Nguyễn Ánh gặp nước ngọt giữa biển như là một bằng cớ về đế mệnh của ông ta,
Nguyễn Văn Thành cũng có nhắc tới bằng chữ “hải lễ” (nước ngọt ở biển) trong
bài “Văn tế trận vong tướng sĩ” đọc ở Bắc thành cuối năm 1802. Nhưng tài liệu
gồm lại chỉ là của một phe: bề tôi Nguyễn Ánh. Chứng cớ đã đơn độc lại khoác
thêm cái vỏ huyền hoặc như có dụng ý bày ra để lôi kéo ông Trời về phe mình. Bỏ
đi chăng? Không, sử sự vẫn có thật duy trình độ hiểu biết của sử quan không
tới, mới giải thích theo một lối vừa dễ dãi vì có sẵn, vừa có lợi cho họ thôi.
Dùng một mớ kiến thức về địa lý thiên nhiên, nhìn vào địa điểm lênh đênh (từ
cửa Ma Ly đi ra), xét lưu lượng sông Cửu Long là ta có thể hiểu rõ sự kiện
ngay.
Mở rộng nguyên tắc xét đoán tài liệu đã
xong, ta phải đi sâu vào chi tiết. Trong những khảo luận đã thành, những kê cứu
của người Pháp, có khi phải bỏ lơ những chi tiết về tên người, tên đất để chỉ
chú ý tới sử sự vì người ta cũng gặp phải những xa lạ khó giải quyết như người
trước. Về phía các soạn giả Việt, tên người tên đất lại có vẻ quen thuộc quá
nên không chú ý tới vấn đề nêu ra, nhất là khi vấn đề không hẳn dễ giải quyết.
Tuy nhiên, đặc tính của đối tượng sử học
là tính cách độc nhất trong thời gian, với những người có tên họ riêng tham
gia, nơi một địa điểm có thực. Cho nên phải giải quyết vấn đề trong chừng mực
và phương tiện có được. Tên họ các tướng Gia Định nhiều lúc còn phải tìm mới
ra. Vì sử quan sau này thì chép cả tên lẫn họ, nhưng thư từ, sắc chỉ đương thời
chỉ kêu tên tước mà thôi. Có may chút ít là khác với triều Lê và về trước, chức
tước Nguyễn được hợp bằng tên và một tính từ thành một danh xưng có ý tốt đẹp
như Chấn Võ hầu Nguyễn Văn Chấn (Vannier), Tĩnh Thành hầu Ngô Nhân Tĩnh, Đức
Nhuận hầu Nguyễn Huỳnh Đức. Thế mà điều này còn làm cho L.M. Cadière tuy biết
trước, vẫn tưởng Khiêm Quang hầu là Nguyễn Văn Liêm mà người ta đã viết lộn khi
sao lại (謙 và 廉) và phân vân không biết Quý Ngọc
hầu, Long Chính hầu ai là Phạm Văn Nhân6. So với Thực lục, Liệt truyện, tìm
hiểu hành động những người can dự đến, ta biết Khiêm Quang hầu là Nguyễn Văn
Khiêm, Quý Ngọc hầu là Ngô Công Quý và Long Chính hầu là Nguyễn Long.
Thế còn tránh sao được những lầm lộn về
phía Tây Sơn, nguỵ triều! Thực Lục, Liệt truyện đầy rẫy những lời chú “khuyết
tính” (thiếu họ). Nguyễn Trấn của Trịnh Hoài Đức, Đặng Văn Chân, Đặng Văn Chấn,
Nguyễn Văn Chấn của sử quan, Ngô gia văn phái là một. Tên người cũng bất nhất
trong cùng một xuất xứ của sách: Phạm Văn Hưng, Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn
Hưng. Tên Chân hay Trấn sai lạc là do giọng đọc, khó mà có thể nói tên nào là
trúng. Nhưng họ Nguyễn thì sai là chắc vì ta nhớ tới thói quen cải họ theo dòng
vua ngày trước. Giữa Phạm Văn Hưng và Phạm Công Hưng, ta lấy tên Phạm Văn Hưng
vì chữ “công” có ý nghĩa tôn trọng hơn là ý nghĩa một chữ lót trong khi những
người đồng họ giữ địa vị quan trọng (chắc xuất thân từ phía ngoại Quang Toản)
đã có tên là Phạm Văn Sâm, hay trống trơn: Phạm Ngạn. Tên của những người chưa
được xác định đành phải chịu viết theo thói quen đã thành trong khi chờ các
chứng cớ khác để quyết định rõ ràng hơn. Trường hợp Phạm Văn Sâm là một may
mắn. Tên viên Thái bảo của Nguyễn Lữ này rất ít khi được đọc là Sâm mà vẫn được
gọi là Tham, không chút phân vân nào giữa hai lối đọc cho cùng một chữ 寥. Thư của G.M (giám mục)
Labartette ở vùng Bố Chính gởi ngày 23-7-1788 khiến ta bỏ thói quen để thích
nghi với chữ mới. Trường hợp của Vũ Văn Nhậm cũng vậy Sử quan nhà Nguyễn phân
vân giữa hai tên Nhậm 任 và 仕 Sĩ của người con rể Nhạc. Không
có chữ “Chuong Nha” (Chưởng Nhậm) của các giáo sĩ thì ta còn lầm lâu.
1. “Những bước đầu của anh em Tây Sơn”,
Đại học, tháng 4-1962, t. 336.
2. Cadière và Pelliot cho biết một viên
quan đang (1904) thu thập tài liệu để viết quyển Liệt truyện đệ nhị ký. Chú ý
rằng Hoàng Lê, nơi mà Cương mục và Liệt truyện thường lấy tài liệu cũng có ghi
chuyện này.
3. E. Navelle. “De Thinat à Blá”,
Excursions et Reconnaissances, XIII, 1887, t. 142. Vì tinh thần địa phương một
phần lớn, xứ sở này còn giấu con chúa Nguyễn Nhạc tới đời Minh Mạng mới bị phát
giác (Liệt truyện q30, 55b). Cho đến hồi Mai Xuân Thưởng chống Pháp, người ta
còn ghép tội ông này mưu đồ phục nghiệp Tây Sơn. Thành kiến tất đã góp phần vào
việc gìn giữ sự thật ban đầu.
4. Tây Sơn có rất nhiều sáng kiến đã đem
áp dụng trên chiến trường gây bỡ ngỡ cho địch quân của họ: các trận yếm kích,
bối thuỷ, các mẹo lừa.
5. H. I. Marrou. De la connaissance
historique. 1. 128-133.
6. Chú thích bản dịch bức thư Nôm thứ tư
trong loạt tài liệu đã kể.
Địa danh mới còn gây nhiều lôi thôi hơn
nữa. Ông Aurousseau khi phê bình Ch.B. Maybon đã chỉ trích rằng ông này không
lưu ý đến khoa học địa lý lịch sử để viết lịch sử Việt Nam cho chính xác hơn.
Ông còn có nhã ý chỉ cho Maybon một số sách địa lý Việt, Hoa để kê cứu1. Thực
ra vấn đề không dễ dàng như ông tưởng. Lê Quý Đôn đi sứ Tàu bị người ta hỏi vị
trí tuỳ thuộc của một địa điểm xưa mà không trả lời được. Phạm Đình Hổ kể lại
chuyện đó để làm bằng chứng cho công trình tìm tòi của ông về sự thay đổi duyên
cách, địa lý2.
Đằng khác, địa danh cũng không được ghi
trong sử sách như tên gọi thông thường: các làng Mọc, làng Tó... ở Bắc đều có
tên “chữ” khác. Thế mà sử sách lại viết bằng chữ Hán để ghi nhưng âm Nôm,
tất có sự sai lạc khó hiểu, nhất là khi sự chuyển âm lại không theo một tiêu
chuẩn nhất định theo thói quen viết chữ Nôm.
Có những địa danh được phiên âm bằng
những chữ Hán đọc gần cận: Bân Thiết ..?..切 là Mang Thít, Phan Thiết, Xuy Miệt 吹 蔑 là Xoài Mút, Trà
Luật 茶律 là Trà Lọt, Mỹ
Thu 夷 秋 là Mỹ Tho... Có những địa danh
phải được dịch ra mới hiểu. Lam Kiều 藍 嬌 là Cầu Chàm
(Bình Định), Lộ Cảnh giang 鷺 勁 江 là sông Cổ Cò (An Xuyên), Tam Phụ 三 埠 là Ba Giồng, Giá Khê 架 溪 là Rạch Giá. Có
khi sự ghi nhận địa danh thật bất ngờ: Thán Lung 炭 籠 thật vô nghĩa
khi ta muốn dịch ra, mà thực không kết quả khi ta muốn dò âm gần cận. Đó là địa
điểm ấp Thang Trông do sự kết hợp của một chữ dịch nghĩa theo giọng miền Nam và
một chữ Nôm lạ (lung tín đọc là trông tin).
Khó khăn càng đi sâu càng hiện ra. Một
vài chữ là một trường hợp khác nhau. Âm Hán không có vần R nên Bà Rịa phải viết
là Bà Địa, Hà Riêu là Hà Liêu, nhưng Đồng Lam nếu không tìm được địa điểm Đồng
Chàm th có phải gọi là Đồng Ram như sông Xích Ram ở Phước Hải bây giờ mà sách
viết là Xích Lam? Có những khó khăn gây ra chính vì thói quen không quy định
một chữ có nghĩa đích xác, dùng trong những trường hợp nhất định (có lẽ bất cứ
dân tộc nào cũng vấp phải). Bởi vậy, bắt đầu bằng chữ “hòn” mà các địa điểm Hòn
Đất, Hòn Chông (Hà Tiên), Hòn Khói (Khánh Hoà) lại ở trên đất liền, trong khi
hòn Tre, hòn Thổ Châu (Nam Phần), hòn Ngang, hòn Đất (Bình Định) lại là những
hòn đảo, làm sao người ta không phân vân trước các tên Điệp Thạch Dự, Chông
Dự...? Và trước một dãy chữ “dự” để dịch chữ “hòn” (chỉ cần sát nghĩa), làm sao
người ta hiểu rằng Yên Cương là Hòn Khói nếu không tìm được lý lẽ chứng dẫn
thêm? Chưa đủ rắc rối, Phú Quý Cương (Bình Định) lại là một ngọn đèo ở giữa núi
rừng trùng điệp.
Có những khó khăn vì thay đổi duyên cách,
địa lý. Tên xứ ở ta luôn luôn thay đổi vì chính quyền sau tỏ ý không phải kế
tục chính quyền trước nên đổi thay để giữ riêng biệt cho mình. Trường hợp rõ
rệt khi Nguyễn Ánh chiếm lấy Quy Nhơn (1799) bèn đổi tên là thành Bình Định rồi
sau này cất thêm một thành mới gần đó lại chuyển tên về vị trí mới. Phần nữa vì
tính cách khai thác những vùng đất đai càng ngày càng sâu rộng. Hưng Phúc ngày
xưa đã phải chia thành Phước Hưng thượng, Phước Hưng hạ...
Lịch sử thêm ý nghĩa khi địa danh được
xác định vị trí của nó, như khi thấy Phước Hưng là một tiền đôn của Nguyễn Ánh
ta mới thấy thế lực của ông còn quanh quẩn ở vùng Bà Rịa.
Việc xác định địa danh đòi hỏi nhiều tài
liệu. Có khi với một bản đồ cỡ nhỏ (1/2.000.000 của Service Géographique de
Dalat in ra), chúng ta cũng tìm được địa điểm Hòn Khói, Ba Ngòi (Khánh Hoà),
Vũng Liêm (Vĩnh Bình)… Có khi cần những bản đồ lớn hơn, những chuyên thư hàng
tỉnh (loại của nhà cầm quyền Pháp trước đây, của chính quyền VNCH và của Hội
Nghiên cứu Đông Dương), nhờ đấy chúng tôi xác định được cửa Xích Ram chứ không
đọc Xích Lam, Ba Vác chứ không là Ba Việt... Những sách địa chí xưa (Gia Định
thành thông chí với các bản dịch của Aubaret và Trần Kinh Hoà, Phương đình dư
địa chí của Nguyễn Văn Siêu, Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán) cũng góp
phần xác định tuy nhiên phải được kiểm chứng trong hiện tại: địa điểm Quang Hoá
thuộc xã Cẩm Giang tỉnh Tây Ninh thấy ở sách Phương đình cũng như ở chuyên thư
về tỉnh Tây Ninh; Lương Phú Giang là rạch ở quận lỵ Bến Tranh cũ (Lương Phú,
tên chợ, tên ấp chiến lược), Nhất thống chí còn gọi là Tranh Giang 爭 江, phân biệt với rạch Chanh (Tranh Giang 橙 江 ) ở Đồng Tháp, Long An, Định Tường (nhưng vẫn còn có chỗ
phân vân: rạch Lương Phú được đề cập, lúc nào ở Bến Tranh, lúc nào chỉ một phụ
lưu của sông Hàm Luông?)
Có trở ngại là ngay đến những bản đồ quân
sự cũng không ghi hết các tên đất trong khi khoa địa danh học ở ta chưa phát
triển mấy. Các chuyên thư địa phương vẫn thường mang khuyết điểm chung: các tác
giả vốn là nhân viên hành chánh hay không chuyên môn nên yếu về kỹ thuật đồ bản
và không biết tìm tòi sâu trong quá khứ. Nên để ý rằng các địa điểm nổi danh
ngày xưa trải qua những biến thiên có khi đã mất tích trên bản đồ ngày nay để
các tên mới thay thế vào. Ví dụ trên các bản đồ Bình Định dù lớn đến đâu cũng
không có các tên Nước Mặn, An Thái. Chỉ có các làng Nho Lâm, Mỹ Thạnh thôi.
Phải tìm hiểu đến tận nơi mới moi ra các sự kiện tương tự. Vậy mà các chuyên
thư ta đang có phần nhiều lại chỉ là những loại vẽ ranh giới hành chánh, ngay
đến những địa điểm có bàn đến trong sách cũng không xác định đủ.
Ở đây chiến tranh cũng có đôi chút ích
lợi: các trận đánh xảy ra tận hang cùng ngõ hẻm - cũng như ngày xưa, nên cột
tin tức chiến sự trên báo cũng là một nguồn kiểm nhận quý giá. Tất nhiên không
phải khi tìm ra một địa điểm trong thực tế đúng in hay gần giống như trong sách
là ta vội quyết xác ngay.
Do những trở ngại đó, các địa danh có khi
còn một khoảng trống xác định khá lớn để chờ đợi các bằng cớ khác. Cùng trong
tỉnh Định Tường có 2 con rạch Trà Tân và Trà Lọt mà các sử quan hình như cũng
không phân biệt rõ ràng. Họ nói nhiều đến Trà Tân và chỉ một lần Trà Lọt nhưng
lại đúng vào cùng một sự kiện xảy ra. Biết rằng chữ “tân” 津 có thể lẫn với chữ “luật” 律 ta dựa vào chữ “trà luật” nơi bức
thư Nôm của Nguyễn Ánh mà xác định một chuyện ở một con rạch chảy từ Mỹ Lợi
(Đồng Tháp) ra Tiền Giang qua chợ Cái Nứa, tuy không biết rõ là sự việc xảy ra
ở vào khúc nào.
Nhiều khi lý luận phải bạo một chút. Thị
Dã 棉 野 của Thục lục mà Barizy gọi là
Dung Thi (Đồng Thị) là nơi nào? Theo chi tiết các trận đánh vùng này phải ở
miền núi phía nam Bình Định ngày nay ăn thông với con đường liên tỉnh Bình Phú
mà Nguyễn Văn Thành kéo quân ra. Đó chỉ có thể là đồng Cây Cầy (Gò Cầy) nằm
cách đường tiến quân bằng đèo Phú Quý ở phía nam. Tên Cây Cầy lấy từ một chút
biến đổi âm đọc khi dịch chữ “thị” là “cây cậy” cũng như vùng Mã Cảnh Sơn mà
dân Phú Yên đọc không phân biệt Cổ ngựa (dịch đúng chữ trên) hay Cỏ ngựa.
Trường hợp chữ Thán lung trên cũng có thể sắp vào đây nếu Đại Nam nhất thống
chí (Lục tỉnh Nam kỳ) không ghi rõ là Vọng Thê 望 梯 (Thang
Trông).
Những xác định trên không bao gồm được
hết các địa danh. Tập sách còn phải đành cam chịu ghi nguyên văn chữ dùng của
sách vở xưa để chờ kết quả những tìm tòi tiếp sau, nếu phương tiện cho phép mở
rộng kiến thức và chờ công việc của người khác phụ thêm vào. Những thành quả
thu được về địa danh được tập trung một phần lớn vào 2 bản đồ đính kèm.
1. “Điểm sách: Histoire moderne du pays
d'Annam (1582 - 1820)”. BEFEO. XX 1920, t. 75 trở đi.
2. Vũ trung tùy bút: Xét về tên các xứ
đất nước ta thay mỗi đời mỗi khác: Đông Châu dịch trong NP. V. Déc. 1919. t.
335.
Tiến lên một mực nữa là việc xác định sử
sự. Ta đã nói đến 2 nguồn tin tức, tài liệu cùng tính chất và ưu khuyết điểm
của chúng. Nhưng thực là may khi ta có được 2 tài liệu khác nhau như vậy. Chúng
sẽ bổ túc cho nhau để lịch sử mà chúng ghi nhận thêm dồi dào sắc thái, chất
liệu.
Sự thực, ngay những tài liệu trong nước
đã có sự bổ túc đó rồi. Lịch sử Tây Sơn chỉ là phụ vào sử nhà Nguyễn đối với sử
quan của triều này, nhưng quyển Hoàng Lê nhất thống chí lại đặt trọng tâm để
các sự việc xoay quanh là sự hưng vong của triều đình Lê, Trịnh ở Thăng Long.
Chính vì phối hợp hai nguồn tài liệu này với tài liệu của các văn võ thần Tây
Sơn ở Phú Xuân mà ông Hoa Bằng viết tỉ mỉ về Quang Trung thành 2 tập sách dày.
Ta thấy tài liệu trong nước nêu rõ những
người, sự việc này một cách tỉ mỉ nhưng lại bỏ quên sự việc khác. Ví dụ sử quan
chỉ nói một cách sơ sài về trận Bến Ván ở đó quân Nguyễn Nhạc bị đánh lui phải
về Bến Đá. L.M Diego de Jumilla lại kể một trận đánh “gần Tiên Đoả” với ngày
tháng, chi tiết về tiến lui, tỉ số thương vong, các hàng rào làm chiến luỹ
chống cự. May mắn hơn nhưng lần khác như lúc xem ai là “hai người bà con với
Chúa”, lần này ta nhìn vào địa điểm Bến Ván (Quảng Nam), thấy câu “dựa luỹ
chống cự” của Thực lục, ta có toàn bộ chi tiết trận đánh Bến Ván ngày
22-12-1773. Trong cuộc xung đột ý thức hệ ở Gia Định năm 1795, thư các giáo sĩ
nói đến đầu mối là một ông Giám quân có đi trấn Diên Khánh, không về tới Gia
Định mà chết dọc đường. Liệt truyện đoạn Tống Phúc Đạm cùng Thực lục thời gian
xảy ra chuyện vây cứu, cho ta biết đó là ông này. Thư giáo sĩ cũng nhắc tới 2
viên quan trong số 19 người tố cáo Bá-đa-lộc làm hư Hoàng tử Cảnh, đã bị cầm
ngục vì bỏ quân bạn khi Tây Sơn tiến đánh. Thực lục cho ta biết đó là 2 ông
Tổng trấn sau này: Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành. Tuy họ không nhắc gì
đến vụ Tống Phúc Đạm cả, nhưng ta thấy rõ là Nguyễn Ánh nhân dịp hài tội, cho
lệnh tống giam 2 người để làm vừa lòng Bá-đa-lộc. Như vậy, ta chắp nối được một
câu chuyện xung đột ở Gia Định, hình thức đại giá của sức mạnh nơi này (tiết
17).
Sử quan chú trọng đến chính trị, quan
chức, việc kế vị, nhưng một thương nhân như Chapman tất nhiên phải quan sát về
tài nguyên trong nước, nhận xét về điều kiện buôn bán tương quan với thái độ
của chính quyền bản xứ như thế nào. Nhờ Chapman mà ta biết được tình hình Quy
Nhơn vào khoảng 1778 khi sử quan Nguyễn chú ý vào việc Nguyễn Ánh vội vã xây
dựng quyền binh sau chuyến tàn sát diệt tộc của Nguyễn Huệ, còn Hoàng Lê thì
đang lo kể chuyện tranh giành phế trưởng lập thứ ở Phủ Liêu, Thăng Long. Nhìn
tình hình chung ta thấy Tây Sơn trong thời gian này có đủ yên ổn để củng cố và
lo bành trướng thực lực. Nhưng qua Chapman cho biết, Tây Sơn cũng phải lúng
túng. tuy đó là sự khủng hoảng lớn lên: Lý Tài vừa đi mang cả 1/2 thuỷ quân của
họ, họ hết cả tiền vì phải nhập cảng thực phẩm, họ định quân bình lại khủng
hoảng và nếu có thể, phát triển xứ sở hơn bằng gạ Chapman đến buôn bán không
lấy thuế, nhắc cho người Anh rằng họ sẵn sàng mời giúp, đổi bằng một thương
điếm trên đất họ. Qua tình trạng lúng túng đó, ta mới hiểu vì sao họ không
chiếm hẳn được Gia Định mà chỉ vào rồi ra, ta mới thấy chữ “vào cướp bóc” (nhập
khấu) của sử quan dùng, tuy có dụng ý thiên lệch nhưng đã tả đúng được thực
trạng.
Nhưng điều quan trọng hơn, chính là từ
những khó khăn đó, ta thấy rõ nhược điểm của triều Tây Sơn, nhược điểm mà họ cố
gắng khắc phục để xây dựng một chế độ quân chính mạnh mẽ từ Phú Xuân trở ra,
nhược điểm làm suy yếu chính họ và nhất là đám anh em còn để lại ở Quy Nhơn,
Gia Định. Nguyễn Ánh len vào lợi dụng nhược điểm đó để lớn mạnh. Tây Sơn không
dùng được thương nhân Trung Hoa, giáo sĩ để làm trung gian thu nhận kỹ thuật
Tây phương thì Nguyễn Ánh phục hưng được vậy. Tắt một lời, đứng nhìn từ Quy
Nhơn năm 1778, với nhân chứng Chapman, ta phăng lần ra sợi dây cộng thông lịch
sử giải rõ sự lớn mạnh của Tây Sơn để xô đổ Nguyễn, Trịnh, Lê, thắng trận Đống
Đa, giúp ta hiểu sự thất bại của Nguyễn Hữu Chỉnh cũng như chính sự thất bại
của Tây Sơn có những liên quan nào đưa đến thành công cho Nguyễn Phúc Ánh.
Bằng vào các ý tưởng hướng dẫn, ta bắt
tay vào việc tổng hợp các tài liệu để vẽ lại lịch sử hậu bán thế kỷ XVIII theo
những đường nét lớn, gạt sang bên những ân oán, hờn giận riêng tư, phe phái của
người đương thời và về sau.
Đây là giai đoạn kết thúc phân tranh, một
cuộc phân tranh kéo dài mấy trăm năm, bề ngoài là sự tranh giành địa vị của các
họ phong kiến mà bề trong là một phần do sự phân rã của xã hội Đại Việt mà dân
tộc phản ứng lại bằng con đường về Nam. Phân tranh lại cũng có nguyên cớ từ
trong giải pháp xây dựng đó mà sự tiến bộ kỹ thuật của quốc gia, sự tăng tiến ý
thức của dân chúng chưa đủ trưởng thành để nối kết nhau lại.
Tình trạng đó phải gây ra một sự đổ vỡ
lớn lao. Tây Sơn tưởng như là lực lượng đáp ứng nhu cầu của tình thế. Cho nên
ta không lấy làm lạ về sức tàn phá của họ. Khởi nghĩa ở Quy Nhơn, họ đánh tan
quân chúa Nam Hà đang chia kéo bè phái, họ nã tróc kẻ thù đến tận hang cùng ngõ
hẻm, diệt Duệ Tông, Tân Chính Vương và xô đổ cố gắng trung hưng của Nguyễn Ánh.
Từ Nam họ ra Bắc bởi vì chính trong bản thân và quân ngũ họ đã chứa mầm mống
làm tan rã họ phong kiến Bắc Hà (tiết 7). Chiếm rồi nhả, họ phải lưỡng lự vì
chống đối với thành kiến địa phương, tông tộc, vì sự phân rã ngay trong lực
lượng của họ. Cho nên cuối 1786, đầu 1787, ta thất đất nước chia 5: Nguyễn Lữ ở
Gia Định, Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn, Nguyễn Huệ ở Phú Xuân. Hữu quân ly khai của
Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An và Trịnh Bồng gượng gạo ở Thăng Long. Chính
đó là điều mà ta gọi là “phản ứng dội ngược” trong sự bành trướng của Tây Sơn
vậy. Nguyễn Huệ cố vươn lên bằng trận thắng Đống Đa để đưa dòng họ mình lên
hàng một triều đại Việt Nam. Lại chính “phản ứng dội ngược” kia đã nuôi sống
một triều cũ: Nguyễn Phúc Ánh ở Vọng Các lần về Gia Định.
Tất nhiên không nên quên cố gắng riêng
của ông ta. Hậu bán thế kỷ XVIII có 3 họ phong kiến bị biến cố xua đuổi. Thế mà
Trịnh Bồng khóc than “chẳng may đẻ vào nhà Chúa (...) bị một lũ tiểu nhân xúi
khôn, xúi dại...” Lê Chiêu Thống không có phản ứng nào trước sự thay đổi của
vua tôi nhà Thanh nên phải ngậm ngùi chết ở đất khách. Chỉ có Nguyễn Ánh theo
quân Xiêm về nước mà vẫn có một đạo quân riêng, lưu vong vẫn có quân khai thác
đồn điền, gặp dịp thì lẻn trốn về phục nghiệp. Ta phải nghĩ rằng hoàn cảnh
Chiêu Thống và Nguyễn Ánh khác nhau. Tây Sơn ở Gia Định yếu kém không đủ làm áp
lực với Xiêm vương như Nguyễn Huệ ở Thăng Long đã gần như là yêu sách với Càn
Long vậy. Tuy thế, Ánh cũng đã phải chịu những khổ nhục vì các đối xử của bộ
tướng Xiêm, chịu đựng sự nghi ngờ của vua Xiêm, nghĩa là những yếu tố đã gây
nên thất vọng cho Trịnh Bồng, Lê Chiêu Thống.
Chính khả năng vượt khó khăn đó của
Nguyễn Ánh và bề tôi khi gặp dịp Tây Sơn không giải quyết được khó khăn của họ,
đã giúp ông trở về Gia Định tổ chức quân lính mở rộng chiến tranh phục thù đưa
đến trận thắng cuối cùng.
Trong tập sách có những tiểu mục của mỗi
tiết tóm thâu những vấn đề phải xét đến. Ví dụ:
TIẾT 13: NHỮNG LỰC LƯỢNG CHIẾN ĐẤU
Tính cách chung của đôi bên * Tổ chức
quân chính của Tây Sơn * Vai trò bổ khuyết của những chiếc thuyền Tề Ngôi * Tổ
chức khai thác Gia Định * Ưu thế vũ khí, công sự phòng thủ và thuỷ quân của
Nguyễn Ánh.
Trong tiết này, ta sẽ xét, như đã nói,
“những lực lượng chiến đấu” mà hai kẻ thù mạnh nhất, Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh
nắm giữ. Tất nhiên những lực lượng đó được đặt trên một căn bản tổ chức kinh
tế, chính trị... dựa theo điều kiện khả đắc của từng đối phương. Cho nên, ở Phú
Xuân ta xét đến chế độ quân chính của Tây Sơn và ở miền Nam ta nói đến công
cuộc khai thác đất đai ở Gia Định. Chế độ quân chính đó bắt nguồn từ đâu, phát
triển như thế nào, kết hợp với những điều kiện mới (tổ chức nông nghiệp, thương
nghiệp ở Phú Xuân, Bắc Hà, sự hợp tác của Lê thần...). Trong vị trí đó ta giải
thích được mối bang giao Tây Sơn - Thanh cùng ý định đánh chiếm Lưỡng Quảng, ta
hiểu thấu được lực lượng Tây Sơn cùng vai trò kỳ lạ của bọn cướp biển Tề Ngôi
như là lực lượng thuỷ quân phụ tá và một đội thương thuyền có võ trang, trong
một chừng mực giống như loại của bọn Corsaire Anh, Pháp những thế kỷ trước.
Nhưng cũng từ đó, ta chớm thấy nhược điểm của chế độ Phú Xuân mà mãi đến tiết
16 ta mới phải bàn đến.
Về phía Gia Định, ta xét tới việt quy
thuận của nhóm nho sĩ Bình Dương như là một nhắc nhở, khêu dậy ý thức tổ chức
xã hội trên cơ sở Khổng giáo, nông nghiệp “dĩ nông vi bản”, nơi một vùng mà
đất, người đang chờ đón khai thác. Phát triển nông nghiệp đi đôi với sự phát
triển thương nghiệp có trợ giúp của các tay phiêu lưu Tây phương (tiết 12) quy
định tính chất và khả năng lực lượng của Nguyễn Ánh. Cho nên ta có thể nói đến
“ưu thế vũ khí, công sự phòng thủ và thuỷ quân của Nguyễn Ánh” vậy.
Gọi đó là những “vấn đề” không phải là để
chối bỏ tính cách biến động trong thời gian nhưng là để nhấn mạnh rằng lịch sử
không xảy ra quá rời rạc, tách biệt với nhau như phép biên niên đã cho ta có
cảm tưởng như vậy. Những sự kiện về con người xã hội không nên được kết tập theo
quy định của năm tháng, quy ước để tính xoay vần của vũ trụ, mà là theo những
điều kiện lịch sử, văn hoá của tập đoàn đó.
Cho nên lịch sử “nội chiến” không phải
chỉ xét về giai đoạn 1771-1802 của Nam Hà, Tây Sơn, Bắc Hà hay rõ hơn, của Đại
Việt cô lập trong thời gian, không gian. Vượt trên tính cách quy ước của sự
phân chia giai đoạn lịch sử, lịch sử nội chiến từ 1771- 1802 chỉ là nối tiếp
của lịch sử phân tranh của Đại Việt, không phải bắt đầu vào năm 1558, năm
Nguyễn Hoàng trốn vào Nam mà là manh nha từ sau triều đại huy hoàng của Lê
Thánh Tông (1460 - 1497), bộc phát khi Trần Cao nổi loạn dẫn đến việc Mạc Đăng
Dung cướp ngôi để Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm mưu đồ chống lại ở Thanh Hoá.
Bài trừ được thành kiến riêng biệt, tự
tôn hay tự ty, về quốc gia chủng tộc, ta sẽ thấy lịch sử Đại Việt trong giai
đoạn này tương quan với mối liên hệ văn hoá của dân Việt khi tiếp xúc với các
dân tộc phương Nam, các dân tộc xa tận phương Tây theo thương thuyền tràn đến.
Đồng thời họ cũng vẫn đào sâu những khả năng văn hoá từ phương Bắc đem lại đã
lâu đời.
Hiện tượng này không phải là riêng rẽ độc
nhất. Lịch sử các dân tộc vẫn để chúng ta lấy ra được những ví dụ chứng dẫn về
sự phối hợp văn hoá: lịch sử văn minh Trung Hoa qua sự thành lập các triều
Đường, Nguyên, Thanh chẳng hạn, nói rõ đặc điểm phối hợp của vùng Trung Nguyên
với các dân tộc phía tây, phương bắc. Nhưng trong tính cách đặc thù của một
trường hợp giao tiếp, chúng ta cũng vẫn thấy có sự riêng biệt: vì lẽ đó, chúng
tôi coi biến động Tây Sơn như một kết quả của cuộc phối hợp văn hoá, chủng tộc
ven biển Đông từ thế kỷ XV, biến động được tiếp nối một cách oái oăm bởi một
nhân vật còn sót lại của dòng chúa phong kiến cũ.
Ta thấy trung tâm những biến động chính
trị quy mô của Đại Việt cứ dời dần về phương Nam: Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm ở
Thanh Hoá, con cháu họ Nguyễn ở Phú Xuân, Tây Sơn ở Quy Nhơn, cuối cùng Nguyễn
Ánh ở Gia Định. Nhắc lại, trong giai đoạn phá vỡ phân tranh này, lịch sử nhìn
theo sự nảy nở của Tây Sơn, biến động kết hợp sự thu nhận văn hoá phương Nam và
văn hoá kỹ thuật Tây phương do thương thuyền đưa đến. Xếp Nguyễn Nhạc, Châu Văn
Tiếp, Nguyễn Hữu Chỉnh vào cùng bọn thương nhân nội địa kết tập phần nào do
phong trào giao thương Âu - Á đem lại, không phải ta đã mắc vào lý luận quá thô
thiển của Nguyễn Bách Khoa chỉ nhìn thấy một trong hai yếu tố văn hoá gây biến
động thôi. Ở đây, chúng ta không nói đến sự thành lập một giai cấp thương nhân,
phú hào, nhưng là sự chớm phát những nhà giàu vì buôn bán, buôn với trên nguồn,
buôn với dưới biển. Không thể nào chối cãi được tính chất đại biểu của những
người cầm đầu một biến động.
Duy ở đây không phải chỉ có yếu tố tư sản
mà thôi. Những nhà giàu, thương nhân xuất hiện ở Đại Việt vào thế kỷ XVIII tất
nhiên mang dấu vết đặc thù của xã hội này, không thể nào là khuôn mẫu in lại
của những nhà tư sản Tây phương đã làm Cách mạng 1789 cả. Sự nồng nhiệt, lòng
hăng say của Tây Sơn có tính chất rừng rú thật đặc biệt. Khi phát triển ra, họ
sẽ đem tính chất này truyền thụ cho những người mới kết hợp. Nhưng thảm hoạ của
Tây Sơn đã bắt đầu ngay từ bản chất của tập thể họ đại diện. Xúi được nông dân
nổi loạn, họ phải lấn át hoặc bỏ rơi nho sĩ - hay bị nho sĩ bỏ rơi. Thế mà
trong khuôn khổ ý thức hệ truyền thống, nho sĩ chính là lớp người hướng dẫn
chính sách nông nghiệp trong nước. Bỏ rơi nho sĩ, không có chính sách nông
nghiệp trong buổi đầu, họ lại gặp những biến động do họ gây ra khiến cho chính
sách thương nghiệp của họ phải thất bại. Mất hướng tiến hợp với bản chất phát
sinh của họ, họ quay về phủ dụ được nho sĩ đầu hàng thì chính sách nông nghiệp
truyền thống lại tỏ ra thiếu sinh khí vì được thi hành đi lại mãi trên đất cũ:
Tây Sơn Nguyễn Huệ bỏ đất Quy Nhơn đi về phía Bắc, có hùng mạnh hơn thực đấy
nhưng phải chui vào lề lối sinh hoạt cũ để khiến phải tự tan rã. Nguyễn Ánh thừa
hưởng được tất cả những thiếu sót Của Tây Sơn: một chính sách nông nghiệp mới
trên đất Gia Định chứng tỏ hiệu lực của nó, một chính sách thương nghiệp trông
chừng cho không làm hại cơ cấu chính thể mà vẫn có ích, tất cả đã làm dồi dào
sinh lực quốc gia, điều hoà tạm thời cho không có mâu thuẫn trong quốc gia.
Công trình đó đã thêm một bước cho sự hoàn thiện cuộc thống nhất (xem kết
luận).
Cho nên, lịch sử, nhìn qua là lịch sử
chiến tranh mà thực mang đầy ý nghĩa văn hoá. Ta có dịp dừng lại để nhìn - một
cách thiếu sót - sinh hoạt của dân Đại Việt vào cuối thế kỷ XVIII (tiết 14). Ta
dành một tiết (tiết 17) để bàn về mối dao động có thể gọi là ý thức hệ ở Gia
Định. Từ đó, chiến sự không phải nổ bùng một cách lẻ loi mà hoặc là kết thúc
của một chuyển biến văn hoá, hoặc là mở ra cho một chuyển biến văn hoá mới, lúc
tiến, lúc lùi, chuyển đổi lặng lẽ hay ồ ạt: lịch sử diễn tả sẽ có đủ chiều sâu,
chiều rộng, sống động, dồi dào hơn. Chúng ta đã gắng đem lại ý nghĩa đích thực,
đặt đúng giá trị của quan niệm lịch sử về biến cố vẫn thường hoặc được quá chú
trọng hoặc bị quá coi thường vậy.
Trên đây là trình bầy tất cả lề lối làm
việc cùng những ý tưởng hướng dẫn việc xây dựng tập sách này. Không có người
ghi chép con người vẫn mang sử tính - nhưng ta không hiểu được lịch sử nếu nó
không xuất hiện trên trang giấy. Ấy thế mà có biết bao nhiêu khó khăn cho người
thu xếp: giới hạn số lượng tài liệu còn lại, khả năng phê phán, tổng hợp mớ tài
liệu ấy, giới hạn gặp phải khi diễn đạt thành lời...
Nhưng những điều đó không phải để ngăn
một giai đoạn lịch sử mang hình thức diễn tả là tập sách này. Chúng ta chỉ tạm
dừng lại, chờ những tổng hợp khác gần với sự thực của quá khứ hơn.
Lời phụ thêm:
Tập sách này được viết vào các năm 1962,
1963, 1964. Đến 1969, một số tài liệu được phổ biến thêm nên chúng tôi có sửa
chửa một ít chi tiết cho rõ ràng hơn. Còn đại thể, dàn bài, những ý tưởng giải
thích giai đoạn lịch sử vẫn còn như cũ, không đổi.
PHẦN THỨ NHẤT
SỰ TAN RÃ Ở NAM HÀ
(1771 - 1785)
Chương 1.
CÁC LỰC LƯỢNG TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ĐẾN KHOẢNG
1775
Tiết 1
BIẾN CHUYỂN TỚI 1775: TÂY SƠN KHỞI NGHĨA
Biến động Tây Sơn và những bạo động ở Bắc
Hà * Sự suy đồi quyền bính ở Nam Hà với khả năng phản kháng của dân chúng *
Chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn. * Quân Trịnh vào Phú Xuân * Chúa Nguyễn vào Đồng
Nai.
Sự kiện quan trọng nhất xảy ra trong lịch
sử Đại Việt vào giữa hậu bán thế kỷ XVIII là “loạn” Tây Sơn. Từ trước không
phải không có những người thường dân lên làm vua, dựng nên một triều đại mới,
nhưng họ lập nghiệp bằng cách đánh đuổi ngoại xâm (Lê Lợi), hoặc bằng cách phụ
tá triều đại trước, mang quan tước của dòng họ này rồi tìm cách soán đoạt
(Trần, Mạc). Chỉ riêng có anh em Tây Sơn truất quyền các triều đại có mặt bằng
mưu mô binh lực, đem vào lịch sử những tên mà bình thường là anh buôn trầu, chị
đàn bà giữ con, ông thầy đồ ở làng và cả những kẻ sống ngoài vòng pháp luật
nữa1.
Biến động Tây Sơn có tính cách dân chúng
làm ta liên tưởng những cuộc chống đối ở Bắc Hà dưới thời Trịnh Doanh, Trịnh
Giang. Những Nguyễn Cừ. Nguyễn Tuyển, Nguyễn Danh Phương... đều dựa vào đám
nông dân cùng khổ, lập riêng triều đình có khi đến hàng 10 năm trời. Tuy nhiên,
họ làm loạn sát kinh đô, trong một xã hội quá thuần nhất về kỹ thuật, ý thức,
nên phải chịu thất bại, ngậm thở ngùi than:
Hỏi sao sao luỵ cơ trần,
Bận tài bay nhảy, xót thân tang bồng?
Nào khi vỗ cánh rỉa lông?
Hót câu thiên túng trong vòng lao lung?
(Nguyễn Hữu Cầu)
Họ không đủ sức phá vỡ chính quyền Trịnh,
nhưng ngược lại họ Trịnh nằm trong sự đổ nát của chính mình, trong sự rạn nứt
của thời đại cũng không thể nào bóp nghẹt được sức phản kháng của dân chúng vốn
lúc nào cũng hi vọng, chờ đợi:
Mặc
bay đông ngữ, tây đàm,
Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung.
(Nguyễn Hữu Cầu)
Trong khi ở Bắc Hà chính quyền và dân
chúng trông chừng nhau thì ở Nam Hà nhóm lên loạn Tây Sơn ngang ngửa, tàn bạo
dứt đứt những gì tạo lập thế phân tranh kéo dài 200 năm có hơn. Tất nhiên đã có
những điều kiện chủ quan và khách quan đem đến sự thành công cho họ, giúp họ từ
một tiền đồn di dân hẻo lánh ào xuống xô đổ ngôi vị Nguyễn, trườn ra đất Bắc
chấm dứt Trịnh, Lê, cũng như sau này có những điều kiện mới nảy sinh đưa đẩy họ
tới thất bại, trao công trình thống nhất lần đầu mà họ mở lối kiến tạo vào tay
một ông hoàng còn sót lại của Nam Hà.
Trước nhất là sự rối loạn ngay trong
triều chúa Nguyễn ở Thuận Hoá. Ở đây mọi tội lỗi đều được bề tôi họ Nguyễn trút
vào đầu Trương Phúc loan. Xử sĩ Hoàng Quang kể tội Loan với giọng hậm hực, có
khi ngây ngô: quan Quốc phó đem tinh binh giữ biệt thự Phấn Dương của mình, để
binh lão nhược ra ngoài chống giặc; quan thu thóc lúa, bạc vàng cho đầy túi
bằng những mưu mô làm suy bại nước: quan thu dụng, mua chuộc triều thần để họ
phải chịu “giọng miệng xôi chùa” …2
Võ vương Nguyễn Phúc Khoát mất đi (1765),
Hoàng trưởng tử Chương đã qua đời (1763) mà Thái tử Hiệu, con thứ 9, lại còn
mất trước đó nữa (1760)3. Đáng lẽ cha Nguyễn Phúc Ánh là Chương Võ, con thứ 2
Võ vương lên cầm quyền, nhưng bị Trương Phúc Loan giam vào ngục “ưu uất mà
mất”. Việc này hại lây đến cả 2 đại thần: Trương Văn Hạnh và Lê Cao Kỷ4. Phúc
Thuần con thứ 16 của Võ vương được lên ngôi (12 tuổi), chiếm địa vị của con
Thái tử Hiệu thường được gọi là Hoàng tôn Dương. Rối loạn trong việc thế tập
này còn ảnh hưởng rất lâu, đến mãi khi họ Nguyễn chạy vào Đồng Nai.
Đã được Duệ Tông phong làm Quốc phó, quản
Tượng cơ, kiêm Tàu vụ, Trương Phúc Loan còn đặt vây cánh bên ngoài, cho các con
lấy công chúa Ngọc Nguyện, Ngọc Chú để làm thế lực bên trong. Quyền uy có thì
tiền cũng theo đó mà dồi dào. Chúa cho ông lấy sản thuế các nguồn Thu Bồn, Trà
Sơn, Trà Vân, Đồng Hương làm bổng riêng, mỗi năm thu bạc đến 200 lượng có dư
với ngà voi, sáp vàng, mật trắng, “đồ quý chất như núi”5. Gọi là “Chúa cho”,
nhưng chắc gì Chúa đủ trí khôn và đủ quyền để biết và có thể làm gì? Gia tư của
Phúc Loan lại được tăng bội bằng nhiều hình thức ám muội khác. P. Poivre đã cho
ta biết việc ông gạt tiền của người khách thương này6.
Vai trò của Trương Phúc Loan trong việc
xô đẩy triều chúa Nguyễn đi vào chỗ suy sụp thật không thể chối cãi7. Nhưng
không phải chỉ mình ông thối nát.
1. Không phải chỉ vì thân tình mà Ngọc
Hân công chúa (trong Ai tư vãn) nói về Nguyễn Huệ (Tây Sơn nói rộng ra) là dân
“áo vải cờ đào, giúp dân, dựng nước...” Trong mọi tờ thư biểu đưa sang nhà
Thanh. Quang Trung vẫn xưng là “kẻ bố y”. Người Tây phương (BSEI. XV 1940. 66)
Cũng thấy rõ tính chất xã hội của cuộc loạn này. Ngay đến kẻ thù của Tây Sơn
cũng công nhận có dân chúng ủng hộ họ. Quần thần Nguyễn Ánh khi khuyên Chúa
đừng làm mất nhân tâm, đã nói về Tây Sơn: “Kẻ kia, Nhạc Huệ, anh em từ dân áo
vải, không đất cắm dùi, vươn tay hô một tiếng, người theo có cả vạn chẳng đầy
5, 6 năm có được đất nước. Họ không có quá tài đức của người thì vì lẽ gì lại
hưng thạnh dữ dội như vậy?” (Thực lục q1. 2ab).
2. “Hoài nam khúc”, NP XIII. t. 157 -
180.
3. “R. Orband. Généalogie des Nguyens”,
BEFEO, 1914: Võ vương có 30 con (18 trai, 12 gái). Các con trai là: (1) Chương
hay Trà († 1763), (2) Luân, (3) Mão hay Văn (1734-1773), (4) Quới hay Thành
(1735-1775), (5) Duệ hay Bửu (1735-?), (6) Chất (1737-1777), (7) Kinh
(1737-1775), (8 ) Bảng (1739-?), (9) Hiệu (1739-1760), (10) Yến hay Chiêu
(1740-1772), (11) Tuân hay Đa (1742-1764), (12) Yến hay Viêm (1743-1776), (13)
Đãng hay Trường (1744-1786), (14) Tuyền hay Quyền (1749-?), (15) Diệu (1753-?),
(16) Thuần, Duệ Tông (1753-1777), (17) Xuân (1757-1780), (18) Thăng
(1762-1819).
4. Thực lục tiền biên, q11, 1b, 2a, sử sự
tiếp theo ở tờ 4ab.
5. Ta không nên lấy làm lạ về sự giàu có
này. Chapman, người đại diện của W. Hastings trong chuyến đi thăm dò Nam Hà năm
1778 cho biết ở vùng Huế, tỉnh Chàm (Quảng Nam) có nhiều mỏ vàng. Trà Sơn (ĐNNTC,
tỉnh Quảng Nam, q5 gọi là Trà Tế Sơn) là nơi sản xuất vàng. Hải cảng Đà Nẵng
chuyển phẩm vật nguồn này ra ngoài. Nguồn Trà Vân, theo lời tả của ĐNNTC, tỉnh
Bình Định, q9, nếu chỉ nguồn An Lão, Kim Sơn thì cũng có vàng, ngoài mật ong
sáp vàng... Nguồn Thu Bồn sản xuất quế chắc dùng cửa Hội An làm nơi chuyển tiếp
ra ngoài. Nguồn Đồng Hương ở Bình Khang (Khánh Hoà, vùng Vạn Ninh) mà ĐNNTC
tỉnh Khánh Hoà gọi Động Hương, là nơi sản xuất sáp ong vàng với các đội Hoàng
lạp hoạt động thường xuyên. Như vậy có thể nói Trương Phúc Loan đã bao thầu hết
các nguồn lợi trên rừng của Nam Hà và còn nắm quyền xuất cảng nữa (ông coi chức
Tàu vụ). Sự việc này còn chứng tỏ sinh hoạt rộn rịp của ngành buôn nguồn, khai
thác lâm, khoáng sản vào thế kỷ XVII, XVIII ở vùng này.
6. L. Cadière, “Quelques figures sous la
Cour de Võ vương”, BAVH, 1918, t. 262-264.
7. L.M Cadière (bđd, t.270, 271) không
phủ nhận lầm lỗi của Trương Phúc Loan, nghĩ rất đúng rằng người chung quanh ông
cũng làm bậy như vậy, nhưng lại cho rằng sở dĩ sử quan nhà Nguyễn ghét ông vì
ông đã gạt cha Gia Long không cho lên ngôi và vì ông một phần nào có cảm tình
với người ngoại quốc. L.M không lưu ý rằng Trương Phúc Loan đón tiếp niềm nở P.
Poivre chẳng hạn là để lợi dụng đổi tiền lấy bạc và khi thấy Poivre đòi ông
thoả mãn việc đổi bạc riết quá, ông bèn tìm cách tống khứ đi ngay. Thêm nữa có
nhiều chứng cớ cho biết mọi người đã kết tội Loan từ lúc Nguyễn Ánh chưa ló
diện trên chính trường (Trịnh đưa hịch kể tội Loan để làm cớ tiến quân, Tây Sơn
tôn phù Hoàng tôn Dương).
Không đợi đến Duệ Tông mới có trò hư hỏng
vì Loan dạy cho cách ăn chơi. Võ vương lúc sanh tiền cũng chỉ nghĩ tới lạc thú
riêng, P. Poivre được một ông Cai bộ cho biết như thế. Người khách thương đại
diện cho Dupleix này được cho biết rằng các quan dưới quyền Võ vương có đủ cách
dối gạt Chúa để cản trở Poivre. Đến nỗi ông phải kêu lên một cách tức giận:
“Phải cho họ hiểu rằng chúng ta từ hơn 6.000 dặm lại đây không phải chịu mất cơ
nghiệp làm giàu cho cả bầy háu đói này”1. Chúa có nhiều con bèn nghĩ ra cách
gây dựng bằng cách bắt các quan nuôi các hoàng tử và phải chia của cho họ.
“Nhưng họ không thiệt thòi vì nhờ sự che chở của Chúa họ sẽ được những gì họ
muốn... Họ cướp bóc mà không bị trừng phạt và khi có của, họ sẽ đem giấu đút
cho các con riêng của họ, bù ngay lúc bọn này còn sống phần gia tài mất đi
kia”2 (phần chia cho các hoàng tử). Binh lính, tướng lãnh bấy giờ thì lão
nhược, nhút nhát, nghe đến phải đi đánh giặc vội vàng đem vàng bạc đút lót quan
Quốc phó để cắt đặt người khác thay.
Tất nhiên tiền đó trong lúc trên không
tuân cương kỷ này thì dưới, người ta không nề hà gì mà không vơ vét của dân
đen.
An ninh không được chính quyền lưu tâm,
trộm cướp tha hồ hoành hành. Rồi đói khổ, mất mùa càng làm cho dân chúng cùng
quẫn. Chưa phải những trận đói kinh hồn của Cương mục, Thục lục tả vắn tắt, của
các giáo sĩ ở Huế, Quảng Nam kể tỉ mỉ vào cuối năm 1774, đầu 1775. Đó là hậu
quả của chiến tranh hơn là nguyên nhân của chiến tranh. Đói kém bắt đầu từ năm
1768 vì một sự sai lầm về chính sách tiền tệ: tiền kẽm được tha hồ đúc từ vua
chí dân gây nên một tình trạng lạm phát khiến dân chúng mất tin tưởng, đua nhau
với đám đúc tiền lậu mua lúa tích trữ, trong khi nhà giàu không dám tung gạo
ra. Tệ trạng ấy kéo dài từ Phú Xuân đến Ba Thắc trong cả những năm không mất
mùa. Lại thêm tham vọng của Mạc Thiên Tứ, vùng Hà Tiên phải lâm vào cảnh chiến
tranh với Xiêm, ảnh hưởng đến tình trạng sản xuất của một vùng vốn được coi là
“vựa lúa của quốc gia”.
Rốt cục trong triều Chúa phân rẽ, năm phe
ba phía. Chất men lý tưởng trung trinh không có đối tượng để nối kết lòng
người. Dân chúng không nhờ cậy được ở chính quyền, phải quay về những người nào
hứa hẹn và thực hiện được một phần nào hứa hẹn đem lại ấm no cho họ.
Nhưng không phải sự rối loạn triều chính,
sự oán ghét của dân chúng đủ đem lại sự sụp đổ cho họ Nguyễn. Quan lại nhũng
nhiễu hầu như là một chứng bệnh kinh niên của xã hội xưa, trước đó và mãi sau
này nữa (cả dưới thời Tây Sơn). Ta đã thấy Nguyễn Hữu Cầu dõng mãnh, Nguyễn
Danh Phương bền dai với dân chúng Bắc Hà phụ hoạ cũng không phá được họ Trịnh.
Trái lại tình thế Nam Hà lúc này thuận tiện cho một cuộc nổi dậy thành công cho
những người chống đối có mộng tưởng, có khả năng làm việc lớn.
Những điều kiện đó, anh em Tây Sơn đã có
đủ, và nếu thiếu, đã biết tạo ra. Bởi vì đồng thời phản đối Trương Phúc Loan
không phải chỉ có họ. Mùa hạ 1770, vùng Quảng Nam có loạn6. Nhưng cuộc loạn
không có ngày mai. Chỉ còn anh em Tây Sơn.
Họ là 3 người: Nguyễn Văn Nhạc, Nguyên
Văn Lữ, Nguyễn Văn Huệ. Sử quan nhà Nguyễn không cho biết rõ hơn. Nhưng trong
một bức thư, giáo sĩ Labartette thêm một ít chi tiết: Nhạc là anh lớn, người
thứ hai là “Đức ông bảy”, người thứ ba là “Đức ông tám”7. Nhiều tài liệu cho ta
biết “Đức ông tám” là Nguyễn Huệ8. Lúc mới khởi nghĩa, Huệ mới 18 tuổi đầu.
Cách biệt thứ bực với người em nhỏ cho ta thấy Nhạc là người chủ xướng cuộc
chống đối.
Anh em Tây Sơn là dòng dõi Hồ Quý Ly.
nguyên quán ở đất Hưng Nguyên (Nghệ An). Ông bà họ bị quân Nguyễn bắt vào Nam
nhân lúc Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật đem quân ra lấy 7 huyện phía nam sông
Cả, thời Thịnh Đức nhà Lê (1653-1657, nhưng trận chiến kéo dài từ 1655-1661).
Một nhân vật chính trong họ bị bắt có thể là Hồ Phi Phúc. Họ được đưa về làng
Tây Sơn thuộc huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn9 Đến đời cha Nhạc mà Liệt truyện gọi
tên là Phúc, mới dời xuống ấp Kiên Thành sinh ra 3 anh em, lấy mẫu tính để gọi
Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Lữ, Nguyễn Văn Huệ.
Cứ theo sử sách thì nguyên nhân khởi loạn
của Nhạc rất tầm thường: ông làm biện lại ở đất Vân Đồn (?) gá bạc, tiêu lạm
tiền thuế, bị Đốc trưng Đằng đòi hỏi gắt gao “mới trốn vào rừng tụ đảng ăn
cướp”. Chi tiết đòi tiền thuế phù hợp với bằng chứng của Chapman cho biết một
nguyên nhân bùng ra rối loạn: Trương Phúc Loan đã đánh thuế vào khoảng một
dollar espagnol cho tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ, giàu nghèo gì
hết11. L.M Jumilla kể chuyện vào khoảng tháng 5-1773, một viên quan đi thâu
thuế ở Quy Nhơn có mang lính hộ tống, bị quân Tây Sơn chặn lại đòi giấy tờ,
tiền bạc, đâm cho một nhát ở vai trái phải cùng lính hầu bỏ chạy.
Nhạc thua bạc, quỵt thuế, túng cùng làm
loạn hay đứng về phía dân chúng chống đối chế độ thuế má khắt khe rồi bị chính
quyền vu cáo? Chúng ta đã có đủ tài liệu để trả lời dứt khoát. Việc viên quan
thu thuế bị đâm tháng 5-1773 và việc Đốc trưng Đằng thúc thuế ở Nguyễn Nhạc rõ
là một. Nhưng Tây Sơn đã khởi loạn từ năm 1771 và kéo nhau xuống đồng bằng cả
lúc ban ngày từ tháng 4-1773 thì vụ gọi là quỵt thuế đâu phải là nguyên nhân
của cuộc nổi dậy? Vả lại, địa vị của Nhạc không phải của một anh cờ bạc tầm
thường: một người đứng đầu công cuộc làm ăn buôn bán của cả một vùng mới được
chính quyền trung ương cho coi việc thu thuế rồi lại nhờ vào chức phận này mà
tăng uy tín với dân địa phương13, thì chống đối với chính quyền - tất nhiên là
sống ngoài vòng pháp luật - đâu có phải đợi đến cái thế cùng mới bạo gan làm
việc?
1. Trích Du ký của P. Poivre nơi Cadière,
bđd, trang 273.
2. Bđd t.289.
3. Thực lục tiền biên. Q11, 18a.
4. Thực lục tiền biên, q11 12ab. tờ sớ
của Ngô Thế Lân (1170).
5. J.Komer, “Description historique de la
Cochinchine”, RI, XV, Mai-Juin 1911 t.10: Xét thêm thư của giáo sĩ Halbout.
tháng 7-1775 (A. Launay. III, t 460): “Mỗi năm từ Đồng Nai, vùng phì nhiêu, có
hàng ngàn chiếc ghe đến vùng này mang lại sự đầy đủ và nỗi vui mừng cho dân
chúng”.
6. Thực lục tiền biên, q11, 11ab.
7. Thư ngày 12-5-1787 (RI, XIV, Juil-Déc.
1910, t. 44)
8. Hoàng Lê, t.53, ghi: “...sinh ra Nhạc
và 2 người em là Bình và Lữ”. Bình là Nguyễn Huệ (Liệt truyện, q30, 37b). Cương
mục q44, 22a cho biết thứ tự Nhạc. Huệ, Lữ. Sách ta chỉ có Liệt truyện (q30,
1a) là cho biết Huệ là em út, phù hợp với nhiều tài liệu của các giáo sĩ đương
thời để lại. Một ví dụ: thư của Đức ông Veren (Labartette) ngày 8-6-1788 có
câu: “chiến tranh bùng nổ (…) giữa 2 anh em Nhạc và ông Tám (Đặng Phương Nghi,
vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ”, Sử Địa số 9-10 t.
237).
9. Tây Sơn là một địa danh chỉ cả vùng
núi phía Tây đồng bằng của phủ Qui Nhơn xưa. Danh từ hàm ý nghĩa phong thuỷ hơn
là địa lý. Còn địa điểm Tây Sơn, nơi phát xuất của triều đại họ Nguyễn mới này
là địa phận 2 làng Cửu An, An Khê ngày nay (khu vực xác định vẫn còn rộng quá),
trước 1945 thuộc Kontum, sau 1955 được sáp nhập vào tỉnh Bình Định trong một
quận mới lập: quận An Túc. Tên phủ Qui Nhơn cũng trải qua nhiều thay đổi: ban
đầu là phủ Hoài Nhơn (1470), năm 1602 lần đầu có tên Qui Nhơn, 1651 tên phủ Qui
Ninh, 1742 trở về tên cũ, 1831 lại gọi phủ Hoài Nhơn, 1832 thành tỉnh Bình Phú
(ĐNNTC, tỉnh Bình Định, q9, Kiến trí duyên cách). Với người ngoại quốc buôn bán
thì Qui Nhơn là vùng Thi Nại mà họ gọi là Quinion, Chincton, Choya (Chợ Giã,
tức là thành phố Qui Nhơn bây giờ).
10. Hoàng Lê nêu lên tên Hồ Phi Phúc là
một ông tổ trong dòng. Hoặc Liệt truyện sai lầm, hoặc hai tên Phúc phải là hai
người khác nhau. Không nên nói như ông Văn Tân (Tập san Văn Sử Địa số 19, “Hồ
Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục” trình bày do ông Phạm Văn
Diêu trong Văn hoá Nguyệt san, tháng 7-8/1962) rằng đó là một người. Nguyễn Huệ
chết năm 1792 thọ 40 tuổi, vậy sinh vào khoảng 1753. Hồ tôn thế phả cho biết Hồ
Phi Phúc đã có mặt ở Nghệ An năm 1655, dù là còn ẵm ngửa, nếu là cha Nguyễn Huệ
tất phải sinh ông này vào lúc 100 tuổi. Huống nữa, giọng điệu của tác giả Hoàng
Lê, người sống sau câu chuyện tù binh Hưng Nguyên cả hàng 100 năm, rõ ra là Hồ
Phi Phúc lúc còn ở Nghệ An đã là người có danh vọng rồi.
Nếu nghĩ rằng tục lệ ta hay kỵ huý ông bà
để không thể có 2 ông Phúc ở nhà họ Hồ Tây Sơn thì càng chỉ nên giữ tên Phúc
của xứ Nghệ thôi mà bỏ tên Phúc của Liệt truyện đi.
11. Chapman, “Narative of a voyage to
Cochinchina in 1788”, bản dịch Pháp văn của H. Berland. BSEI, XXIII, 1948, t.
22.
12. L.M. thuộc dòng Phăng-xi-cô, tiết thư
ở Tiên Đỏa ngày 15-2-1774 kể chuyện mắt thấy tai nghe về cuộc khởi nghĩa trong
chuyến ông vào Qui Nhơn, tá túc tại nhà thờ Gia Hữu (phía bắc Bồng Sơn) (BSEI,
XV. 1940. t. 74).
13. Muốn biết chức tước của Nguyễn Nhạc
to như thế nào đối với dân chúng, hãy xem lại một chi tiết trong tiến triển của
cuộc khởi nghĩa. Loạn quân tụ tập từ 1771, kéo xuống chợ tháng 5-1773, tháng
9-1773 cướp tỉnh thành mà trước đó chỉ có một trận đụng độ để cho sử quan cùng
người ngoại cuộc không hẹn mà cùng ghi như nhau: xung đột với một viên Đốc
trưng, một người trông coi việc thu thuế. Xung đột nhỏ mà đầy ý nghĩa giá trị
chứng cứ xã hội, đối với dân chúng, chính quyền trung ương là viên quan thu
thuế. Nguyễn Nhạc, trước khi làm loạn, là một viên quan thu thuế như vậy.
Cho nên, đánh bạc, Nhạc nào có dễ gì để
cho người ta lột!
Quan sát vùng đất và cư dân, ta thấy rõ
sự thực hơn. Làng Tây Sơn có thể coi như một tiền đồn di dân Việt ở về phía
Tây, sâu vào trong xứ người Thượng. Là một tiền đồn di dân, thực vậy, vì tuy sử
sách không nói rõ hơn, nhưng việc bắt người Hưng Nguyên đem lên vùng này có thể
coi là họ Nguyễn đã áp dụng chính sách khai phá cổ truyền trên đất mới với tính
cách cưỡng bách mà thôi. Có lẽ đợi đến 2 đời sau, thành người địa phương, thoát
tính cách tù binh cưỡng bách kia, họ Hồ mới dời xuống Kiên Thành, sửa soạn cho
con dựng nghiệp lớn.
Vị tri cư trú mới lại đắc thế cho công
cuộc làm ăn của họ này. Kiên Thành cũng ở trên bờ sông Côn như các sông nhỏ
miền Trung khác, nối liền đồng biển và núi rừng, đóng vai trò rất quan trọng về
nhân văn, kinh tế. Những sông này tạo nên những vùng đất nhỏ hẹp nhưng rất phì
nhiêu. Chúng là con đường giao thông trao đổi phẩm vật trên rừng, dưới biển.
Trên rừng có mật ong, trầm hương, măng le, vàng... chuyển xuống đồng đổi lấy
gạo, chế phẩm (vải lụa, đồ sắt...). Lâm sản, lúa gạo lại đưa xuống các vùng biển
để chuyên chở ngược về nguồn những loại cá, mắm, muối, đồng sắt1. Vùng ba huyện
có địa điểm Kiên Thành như một giao điểm tụ hội của phẩm vật các nguồn Kim Sơn
Đồng Hươu, An Tượng... chuyển xuống Nước Mặn, Thi Nại để ra biển và cũng là chỗ
phân phối ngược lên các tài nguyên ngoài biển cả đưa vào.
Trong khung cảnh hàng hoá lưu chuyển như
vậy, tay buôn Nguyễn Nhạc chọn lấy một phẩm vật quan trọng, cần thiết vì là nhu
cầu của phong tục: trầu nguồn. Loại trầu này đắc dụng hơn thứ trầu trồng ở các
vườn dưới đồng lá nhỏ mầu xanh vàng, gân lá nổi nhiều khiến miếng trầu hay dòn,
dễ gãy. Có nhìn thấy từng giỏ trầu nguồn, lá to bằng bàn tay sè - têm được
nhiều miếng - màu xanh lặc lìa, mềm mại xếp nằm sát lên nhau làm nổi những đầu
cuống lá nổi thành hàng dài mầu xanh non, có nhìn thấy từng giỏ trầu chất vun
lên, tươi mát chờ đón bạn hàng ở các phiên chợ sớm như thế mới thấy sự đắc dụng
của một món hàng được khắp mọi giới ưa chuộng.
Căn cứ vào chút phong tục còn rơi rớt lại
làm dấu vết cho trào lưu cuối mùa của dòng thương mại, căn cứ vào địa điểm
Trường Trầu còn lại, ta có thể vẽ ra khung cảnh hoạt động trong vùng người hào
phú đất Kiên Thành.
Len lỏi vào trong các nguồn - càng vào
sâu lá trầu càng tốt, có những người Thượng hái trầu chứa trong gùi mang thẳng
xuống Trường Trầu, hay qua những trung gian khác chủng tộc. Ở đây, người ta tỉa
lá vàng úa, vứt lá sâu quăn, xén bớt phần cuống héo mặt - cho tỏ ra trầu còn
mới - rửa sạch sắp xếp gọn ghẽ rồi chất cho các bạn hàng đem về phân phối các
chợ miền xuôi. Nguyễn Nhạc hình như đã đóng vai trò đầu nậu2 của công việc buôn
bán này và chính nhờ sự giao thiệp khi gom góp, chuyển giao hàng hoá, điều
khiển việc tính toán lời lỗ, trích thu phần lời của người mua, kẻ bán mà ông đã
tập cho mình thói quen tổ chức, óc chỉ huy và sự quảng giao rất cần thiết cho
về sau vậy.
Nghề buôn nguồn thịnh hành và nhiều lợi,
nên đồng thời với Nhạc cũng có người nổi danh: Châu Văn Tiếp. Tiếp buôn gì?
Không biết, nhưng có thể nói chính vì tính cách không chuyên riêng một món hàng
nào mà Tiếp yếu thế đối với Nhạc. Ông không nắm được một tổ chức lớn mà chỉ có
những bạn buôn như Nguyễn Long (dân Đồng Xuân, Phú Yên), Phạm Văn Sĩ (dân Phù
Mỹ, Bình Định, đồng xứ với Tiếp), nên lúc đầu khởi loạn phải phục tùng theo
Nhạc, và khi phản kháng thì chỉ tụ tập được đám người Thượng trên một vùng núi
thôi.
Gọi là Nguyễn Nhạc có lực lượng phối hợp
lớn lao là chúng ta căn cứ vào tính chất cư dân trong vùng. Những nhóm người
Thượng chắc trước khi Việt hoá đã sống lan xuống các vùng nguồn về phía đông
hơn bây giờ nhiều. Họ là lực lượng kết hợp quý báu cho Nhạc lúc ban đầu.
(Truyền thuyết ghi rằng Nhạc có một người vợ nhỏ thuộc bộ lạc Thượng hẳn không
quá xa sự thực). Những người Thượng này còn có mối liên hệ chủng tộc gần với
nhóm người Chàm ở Thạch Thành vùng Phú Yên3. Nữ chúa Thị Hoả của họ đã hưởng
ứng Nguyễn Nhạc ngay từ lúc đầu.
Vùng này còn khối di dân Trung Hoa sinh
sống như một tập thể tự trị, nhưng vẫn chịu dưới quyền nhà Nguyễn. Chính quyền
tập họp họ thành từng “thuộc”: có 6 thuộc như vậy ở Quy Nhơn vào năm 1799 và 3
thuộc trước đó, hồi đầu thế kỷ XVIII, cuối thế kỷ XVII4. Họ sống bên lề một ít
trong đất nước thu nhận họ. Phần lớn họ là Minh dân lưu vong, nằm trong các tổ
chức hội kín (Thiên Địa hội) ít chịu dung hợp với chính quyền.
Nhưng ngay cả đám người Việt cũng có một
phần lớn thoát ra ngoài kỷ cương của Triều đình: những người lên rừng, xuống
biển trao đổi phẩm vật, những người làm thuê, gặt hái theo vụ mùa khác nhau của
lúa núi lúa đồng, những kẻ trốn xâu lậu thuế... Vào những lúc rảnh rỗi, tất cả
có thể gặp nhau quanh chiếu bạc, nơi đám hát. Triều đình không thể nào kiểm
soát được đám dân “vong mạng, vô lại” này.
Cho nên không nên lấy làm lạ rằng dưới
quyền Nguyễn Nhạc có bọn cướp Nhưng Huy, Tứ Linh ở nguồn An Tượng. Không ngạc
nhiên với đám quân của Tập Đình, Lý Tài “người cao lớn, gọt đầu kết tóc, giả
làm người Thanh, khi đánh giặc, uống rượu say, ở trần, đeo giấy vàng bạc xung
trận liều mình”. Tập thể hỗn tạp, cuồng say bạo động đó thật xứng mang tên
“quân ó”, “hàm hồ tương ứng”.
Những khối người sẵn sàng bạo động được
Nguyễn Nhạc nối kết thành một lực lượng vững chắc. Nhưng để hướng dẫn vào những
mục tiêu to lớn phải nhờ ở tay một người từ xa đến, đem tầm mắt của ông Biện
lại đất Vân Đồn vượt khỏi sự hạn chế của những dãy núi chập chùng bao quanh
vùng đất ông. Đó là Giáo Hiến, môn khách của Trương Văn Hạnh, viên quan Nội hữu
rủi ro trong cuộc tranh chấp ở Triều đình. Trong trường dạy văn võ của Giáo
Hiến ở An Thái có anh em Lữ, Huệ7.
Hoàn cảnh đổi mới đã đem thay đổi đến cho
con người Giáo Hiến. Nếu ở Phú Xuân ông phải lo sợ cho tính mạng mình thì ở
phần đất cùng tịch này, ông có đủ thư thả để nuôi chí căm hờn Trương Phúc Loan.
Rời bỏ địa vị bên cạnh quan Nội hữu, ông đã tách rời đám quan lại sang cả để
đến gần với dân chúng hơn. Giá ngày trước kia có động lòng trước cảnh trăm họ
lầm than ông cũng đến làm như Ngô Thế Lân, Nguyễn Cư Trinh dâng lên một bản
“thái bình sách” là cùng. Trở thành một tên trí thức “vô lại”, con đường giữa
ông chọn là lật đổ Trương Phúc Loan và Duệ Tông để tôn phò Hoàng tôn Dương.
Giữa cái không khí thần quyền bàng bạc khắp địa phương8 tạo bởi sự hỗn hợp tạp
nhạp của tin tưởng nơi ông Dàng, nơi Bà chúa xứ, nơi Thần núi..., ông đem cái
lý trí của Nho giáo tạo ra phụ hoạ vào việc giải thích lời sấm “Tây khởi nghĩa,
Bắc thu công” để xúi Nhạc làm loạn.
1.“Tout le pays est entrecoupé de
rivières sinon assez grandes pour recevoir des vaisseaux de fort tonnage, du
moins très disposées pour faciliter le commerce intérieur... Avant les
troubles, les primitifs habitants des montagnes, apportaient de grandes
quantités de poudre d’or qu’ils troquaient contre le riz, des étoffes et du
fer. Ce sont eux également qui procurent le bois d’aigle et le calambac de même
que certaines quantités de cire, de miel et d’ivoire...” (Chapman, bđd, t. 59).
Ai về nhắn với nậu nguồn,
Măng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên (ca
dao).
2. Nghề đầu nậu cha truyền con nối (vì sự
kế tục tài sản và nghề nghiệp), nhưng ta không biết sáng kiến tổ hợp nghề buôn
trầu nguồn là của cha Nhạc hay chính của Nhạc thực hiện. Chỉ biết chữ “nậu”
được sử dụng nhiều ở nơi khác (hoàng lạp nậu: tổ hợp lấy sáp vàng; đồn điền
nậu: tổ hợp làm ruộng), nhưng không có nơi nào danh từ vượt khỏi lãnh vực
chuyên môn. Chỉ ở Bình Định (nhất là ở miền Nam) chữ “nậu” trở thành một danh
từ phổ thông, dùng chỉ một tập hợp (“nậu nguồn” ở câu ca dao trước) và đã tổng
quát hoá để thành đại danh từ chỉ “họ”, “người ta”, (“nầu”). Có phải đó là bằng
cớ chứng tỏ sinh hoạt tổ hợp nghề nghiệp ở đây được nâng cao hơn hết trong vùng
Nam Hà thời bấy giờ không? Đi xa hơn, có thể thắc mắc là lề lối sinh hoạt tổ
chức tập thể này có ảnh hưởng nào trong sự thành công của Tây Sơn không?
3.ĐNNTC, tỉnh Phú Yên, chỉ rõ Thạch Thành
ở đây chớ không phải Thạch Thành vẽ trong Hồng Đức bản đồ, thuộc về Bình Thuận.
4.Thực lục, q11, 5b có các tên: An Ngãi,
Nhơn Ân, Nghĩa Hoà, Sơn Điền, Hà Bạc, Võng Nhi. Hồng Đức bản đồ, t. 154, ghi 3
thuộc ở 3 huyện. Thì Đôn ở Bồng Sơn, Thì Lượng ở Phù Ly, Thì Ngạn ở Tuy Viễn.
Đáng chú ý là trong suốt tập bản đồ không có nơi nào ghi tên các thuộc như vậy.
Chữ “thuộc” cũng thấy được dùng cho một tổ hợp tìm kỳ nam (Tầm hương thuộc ở
Bình Khang. Thực lục q5. 37a).
5.Thực lục tiền biên, q 11, 18ab: Phủ
biên tạp lục q1, 50a
6.Liệt truyện q30, 1b.
7.Giáo Hiến đến xứ An Thái sớm nhất là
vào năm 1765 (năm Võ vương mất). Vậy chỉ có Lữ, Huệ ở tuổi 13, 14 đi học thôi.
Nhạc ở vào khoảng tuổi “nhi lập”, lại phải trông coi cơ sở làm ăn hẳn không có
tương quan thầy trò với Giáo Hiến. Sự kiện này giải thích tính cách độc lập
trong hành động của Nhạc và vai trò lu mờ của Giáo Hiến về sau trong quân đội
Tây Sơn.
8.Đọc Nước non Bình Định của Quách Tấn,
người ta thấy khuynh hướng thần bí đó, tuy sau bao năm đổi thay vẫn còn lưu
truyền trong truyện tích, trong quan niệm phong thuỷ về núi sông. Tên Tứ Linh,
một đám cướp ở An Tượng, có vẻ như không phải của một người cầm đầu mà như của
một tập thể tín ngưỡng, dấu vết một giáo phái hoạt động căn cứ trên tư tưởng Cổ
Trung Hoa chịu một ít biến đổi trên vùng đất còn đầy tính chất bộ lạc này.
9. Liệt truyện q30, 1b. Không có chi tiết
nào rõ hơn về xuất xứ câu sấm để biết đó là của Nhạc hay của Hiến bịa ra, hay
có từ trước với một ý nghĩa nào khác.
Ảnh hưởng chắc không phải chỉ xuyên qua
Nguyễn Nhạc mà thôi. Một ông đồ nơi làng quê là cái đích ngưỡng mộ của dân
chúng. Đàng này lại là một ông quan ở Kinh về. Chính kiến của ông chắc ăn sâu
vào tâm trí mọi người một cách đáng kể. Ông đã đem vào đầu óc mọi người một lý
tưởng. Chính trong lúc những người trong triều Chúa hoang mang, phân tán, hoang
mang đến thành phản bội như sẽ thấy thì đám bần cùng nổi loạn tưởng đã tìm được
một ý nghĩa cao cả cho hành động của họ. “Họ tuyên bố trong các làng mạc rằng
họ không phải là những tên trộm cướp, nhưng họ gây chiến tranh là để tuân mệnh
Trời và tuân lệnh Đức Thượng sư”. Họ nói và làm, nên đã được dân chúng gọi là
“những tên trộm cướp nhân đức”. Tất nhiên không tránh được những hành vi vô kỷ
luật riêng rẽ. Nhưng trong phần lớn, đội quân Tây Sơn từng chứng tỏ một tinh
thần chịu đựng kỷ luật rất cao được nâng đỡ bằng một lý tưởng và họ đã giữ được
tinh thần này trong gần suốt thời gian theo chân anh em Nguyễn Nhạc.
Trong ý nghĩ của Giáo Hiến, chắc ông cũng
chỉ mong Nguyễn Nhạc trừ được Trương Phúc Loan để trả hận cho bạn và mong Nhạc
trở thành bề tôi lương đống của Triều đình. Đi theo đường lối này có Châu Văn
Tiếp đóng ở núi Chà Rang (Phú Yên). Nhưng quyền hành động vào một tay cơ trí có
tham vọng như Nguyễn Nhạc thì sự việc đâu có xảy ra như Giáo Hiến toan liệu
được. Không phải là một sự phản bội, nhưng chính là vì Nguyễn Nhạc đã không
xuất thân như Giáo Hiến, ở vào hoàn cảnh như ông.
Tuy nhiên trong buổi đầu, Nhạc không quên
dùng chiêu bài tôn phù Hoàng tôn Dương, khen ông này “nhân hậu thông minh”. Ý
nghĩa tôn phù đến với Nhạc chỉ còn là một phương tiện không hơn, không kém.
Tung chiêu bài tôn phù, ông đã làm một công đôi việc. Một mặt nó sẽ làm cho
công cuộc chiến đấu của ông có chính nghĩa buổi đầu để cho cuộc thay đổi khỏi
đột ngột, lôi người theo dưới cờ của mình càng nhiều càng hay: Châu Văn Tiếp đã
liên kết với ông suốt mấy năm trời, cùng theo quân đi Quảng Nam rước Hoàng tôn
về Quy Nhơn. Như thế hàng ngũ đối phương yếu đi. Lợi thế khác lại về ông:
triều Chúa một khi còn giữ Hoàng tôn trong phe họ thì cứ còn nghi ngờ mà không
có cớ trừ bỏ rồi cứ lục đục mãi.
Triều Chúa thật ở vào thế suy yếu nhất
trong khi Tây Sơn càng ngày càng lớn mạnh.
Tháng giêng năm Nhâm Thìn (1772), Vua sai
Chưởng cơ Tôn Thất Văn đi tuyển xét ở Quy Nhơn. Báo cáo về việc Tây Sơn lập 6
đồn trên vùng Thượng đạo từ năm trước (1771) có đến tai Triều đình rồi không?
Tự ông quan kiểm tra này đã có thấy ở đây những dấu hiệu gì tỏ rõ một cuộc nổi
loạn sẽ khuynh đảo được dòng họ ông hay không?
Tình hình nghiêm trọng hơn khi vào đầu
tháng 4-1773, Tây Sơn đã kéo nhau từng toán xuống các chợ ngay lúc ban ngày,
lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo, đe dọa đốt nhà cửa để bắt người tuân theo.
Họ họp từng nhóm khoảng 300 người, riêng vùng Dou hau (Đồng Hươu, Đồng Hào?) có
đến 600 người và họ quấy nhiễu suốt 7 tháng ròng ở Phú Yên, Quy Nhơn. Tổ chức
của họ cứ theo thắng lợi mà trở thành lớn lao, có quy củ hơn. Lúc đầu họ võ
trang giáo mác, cung tên và cả súng tay nữa. Họ đi bộ, nhưng sau đó, khoảng
tháng 8, họ đi ngựa, cáng và võng. Để bày tỏ vị trí phương nam và tính cách bạo
động của quân khởi nghĩa, họ mang mỗi đội một lá cờ đỏ dài độ 9 aunes (khoảng
1m). Thanh thế lớn lên, Nguyễn Nhạc dời quân xuống Kiên Thành tự xưng làm đệ
nhất trại chủ coi 2 huyện Phù Ly và Bồng Sơn, cho Nguyễn Thung làm đệ nhị trại
chủ coi Tuy Viễn, Huyền Khê làm đệ tam trại chủ coi quân lương. Có thể là đạo
quân của Châu Văn Tiếp và quân Nữ chúa Thị Hoả đã chia nhau khống chế Phú Yên.
Quân thế thực phức tạp mà cũng thực nguy hiểm.
Triều Chúa còn thờ ơ với biến cố quan
trọng nơi tỉnh nhỏ này thì quan Tuần vũ Nguyễn Khắc Tuyên làm gì mà chống cự
lại được? Khoảng trung tuần tháng 9-1773, vào một buổi sáng sớm, có 2 đội quân
với nội công đến vây biệt thự quan Trấn thủ, chiếm thành trì khiến ông phải bỏ
lại ấn tín, vợ con, mặc quần áo sơ sài chạy ra Tân Quan. Lời thuật của Jumilla
chứng tỏ phản ứng về phe Chúa ở địa phương hầu như không có. Về việc đánh phủ
Quy Nhơn, tuy ta không nhận thuyết Nguyễn Nhạc chui vào cũi giả bị bắt vì địa
vị chủ tướng không cho phép chính ông làm như vậy, nhưng ta không thể bài bác
hẳn câu chuyện9. Có thể đó là một mưu để làm kế nội công, ngoại kích và kẻ ngồi
trong cũi tuy không là Nhạc vẫn có thể xưng là Nhạc để được lọt vào vòng thành
gần dinh Trấn thủ hơn. Dân bạo động vẫn có nhiều kế hoạch liều lĩnh ta không thể
ngờ được.
Chiếm được hai kho lương ở Càn Dương và
Nước Ngọt xong, đến tháng 10-1773, họ ra Quảng Ngãi thắng thêm một trận. Nhưng
lần này họ gặp phản ứng của triều Chúa. “Chúa sai các Phò mã Nguyễn Cửu Thống,
Nguyễn Cửu Sách, Cai đội Phan Tấn, Nguyễn Vệ, Tổng nhung Tống Sùng, Tán lý Đỗ
Văn Hoảng đánh chẳng lại. Sùng, Hoảng phải chết trận”10. Linh mục Jumilla cho
biết rõ chi tiết hơn. Quân hai bên gặp nhau ở Bến Đá sau lễ Các thánh (1-11).
“Bọn phản loạn có 3 đạo quân, hai bên là cánh quân Trung Hoa và người Thượng,
giữa là người Việt... Buổi chiều ngày thứ ba, quân Trung Hoa ở cánh phải giết
được viên quan dũng mãnh nhất của binh triều là Ou doi be”11. Họ toàn thắng và
tiến vào Quảng Ngãi. Linh mục còn cho biết có một đạo thuỷ binh của quân triều
đi đường bể bị bão đắm, chỉ còn thoát có một thuyền do một quan Công giáo điều
khiển.
Trận thất bại này gây ra một sự rối loạn
ở triều Chúa. Các quan đổ tội lẫn cho nhau thông đồng với Tây Sơn. Cuối cùng,
Trương Phúc Loan thắng thế và Chưởng cơ Tôn Thất Văn phải dìm nước chết ở biển
Tam Giang12.
Hạ tuần tháng 12-1773 quân hai bên gặp
nhau ở Bến Ván, “gần Tiên Đoả”13. Đội quân hùng mạnh của Chúa từ Hội An14 gồm
độ 5.000 người và cầm đầu là một viên quan dũng mãnh nhất trong tỉnh. Có thể đó
là Nguyễn Cửu Dật mà Thực lục tiền biênthường ghi nhận chiến công. Jumilla đã
kể một cách tỉ mỉ với ngày tháng xác thực trận đánh này. Hai bên giáp trận ngày
22-12. Binh triều qua 2 ngày chiếm hai luỹ. Cánh quân Thượng của Tây Sơn ghi
một thắng lợi nhỏ, đuổi viên tướng triều chạy cùng với voi trận nhưng họ không
tiến được hơn. Quân Tây Sơn cố thủ trong chiến luỹ độc nhất vững nhất còn lại.
Mười tám viên tướng Tây Sơn và quân họ chống với 3 cánh quán triều 3 mặt: dọc
theo chân núi, dọc theo quan lộ và từ các thuyền chiến dưới biển bắn lên. Thuỷ
quân bắn chết được một viên tướng dũng mãnh của Tây Sơn với 2 tên quân. Sáng 27
quân triều toàn thắng tiến vào luỹ với một lính chết và hai bị thương.
Lời thuật chuyện cho ta thấy một điều
quan trọng: quân triều uy hiếp được Tây Sơn nhờ có súng lớn. Lúc bấy giờ không
có những cỗ đại bác lưu động trên đất (Nguyễn Ánh sẽ du nhập kỹ thuật này làm
rối Tây Sơn). Các súng lớn gắn trên thuyền chiến và di động nhờ các thuyền đổi
chỗ. Nhờ ưu thế đó, quân triều có thể tấn công từ xa, lưu động, khiến địch quân
hoảng hốt, tan rã mau.
1.Thư Linh mục Jumilla kể trước, bđd, t.
74.
2.Liệt truyện. q30, 2b.
3.Liệt truyện, q6. 21ab, truyện Châu Văn
Tiếp.
4.Thực lục tiền biên, q11, 15b.
5.Liệt truyện, q30, 2b.
6.Thư Jumilla đã dẫn. Chú ý đến chữ “cờ
đào” trong “Ai tư vãn” của Ngọc Hân. Ý nghĩa cờ trắng là cờ hàng, cờ đỏ là cờ
quyết chiến thấy trong cuộc bàn cãi đánh hay đầu ở Phú Xuân, năm 1786, dưới
quyền Phạm Ngô Cầu.
7.Liệt truyện, q30, 2b, 3a.
8.Không phải thành Chà Bàn, ĐNNTC, tỉnh
Bình Định, q9, 14b chỉ rõ thành Càn Dương. Chúng tôi không có phương tiện để
tìm ra vị trí Càn Dương: nhưng ông Nguyễn Phương cho biết phủ trị ở làng Châu
Thành (Phù Cát). Chứng tích danh xưng đó có thể là một bằng cớ đích xác, tuy
nhiên bản đồ trang 6 của Đồng Khánh Ngự lãm địa dư chí đồ, quyển thượng, lại
viết là 珠 成 chớ không phải là 州 城.
9.Chúng ta lưu ý rằng Nguyễn Nhạc trông
coi vùng Phù Ly vẫn bao gồm được làng Châu Thành.
10.Thực lục tiền biên. q11, 18a.
11.Ou doi be: ông (Cou Chinh: Cống Chỉnh,
Dounai: Đồng Nai) Đội Be, Be là tên riêng, có thể chỉ Cai đội Nguyễn Vệ (bua:
vua) tuy không thấy Thực lục nói tử trận.
12.Thực lục tiền biên, q11, 18b nói rõ
tên người và âm mưu lật đổ Trương Phúc Loan bị Loan vu cáo lại. Đối chiếu với
Jumilla, ta thấy ông viết: “Ở triều, các quan bắt giam hai người tôn thất vì
phải chịu trách nhiệm trận bại quân này”.
13.Liệt truyện, q30, 3b: “Nhạc đến Bản
Tân (本 津) bằng luỹ dĩ cự”. So với thư
Jumilla, bđd, t. 77, L.M viết: “Thiên đoạ”, cũng như nơi khác: “Tha đao”.
14.Bản dịch bức thư viết Faifo. Không
biết nguyên văn có như vậy không. J. Koffler ghi là Phai pho và chú là “marché
de vieilleries”. Ông Nguyễn Phương viết “Hải phố”. Có lẽ phải gọi như tên gọi
thường dùng cho địa điểm hiện tại giống như ở sách Quốc sử quán: Hội An. Ông
Nguyễn Bội Liên cho biết rằng Hải Phố, Chợ Chiều, Hội An là 3 địa điểm riêng
biệt (Sử Địa số 7-8, t.249-252). Chợ Chiều đúng là tên Marché de vieilleries
của J. Koffler. Vậy thì thương cảng nổi tiếng này cũng có lúc dời đổi trọng tâm
nhưng rốt lại địa điểm Hội An có vẻ được sử dụng lâu dài hơn hết vì trên tấm
bản đồ của Thiên nam tứ chí lộ đồ thư q1 (chụp ảnh, phiên âm giảng giải trong
Hồng Đức bản đồ, Viện Khảo cổ, trang 94, 95 mà ông Trương Bửu Lâm cho là thực
hiện vào giữa các năm 1630-1653, có các tên Hội An phố, Hội An kiều, Hội An đàm
và ở Bình nam đồ (sách trên, trang 148, 149. Ông Trương Bửu Lâm cho rằng đã
thực hiện khoảng các năm 1653-1690) cũng vẫn có Hội An phố, Hội An đàm.
Tây Sơn thua phải rút về Quy Nhơn. Nhưng
trong chuyến vươn ra Quảng Nam này họ đã ghi nhận một thắng lợi thu phục nhân
tâm nữa. Người ta thuật cho L.M. Jumilla nghe rằng trong lúc đi đường gặp một
người Thiên Chúa giáo phải mang vòng sắt nơi cổ1, họ rứt ra ném xuống đất. Dù
mấy năm sau (1778), J. Liot có gặp một người cô (dì) của chúa Tây Sơn mộ đạo đi
nữa2, ta cũng không thể cho đó là một hành động sùng kính. Cử chỉ của tên quân
rõ ra là của một kẻ chống đối muốn xoá bỏ những quy chế đang lưu hành, thế
thôi. Tuy rằng lần sau ra đóng ở nhà thờ Tiên Đoả, tướng Tây Sơn (Nguyễn Nhạc
?) đã tỏ thái độ thân thiện với đạo giáo, đó cũng vẫn không phải là thái độ của
một con chiên mà là của một tay chính trị. Họ lại thăm L.M, xin thuốc men và
cho phép giảng đạo công khai, xây nhà thờ, cho 13 người lính gác bảo vệ. Họ lại
đòi L.M tới Dinh nói rõ nguyên cớ nổi dậy của họ và cho biết mục đích của họ là
thay đổi chúa Nguyễn và chính quyền. Tuy L.M đã dè dặt trả lời rằng ông không
muốn “can dự vào việc chính trị” nhưng há rằng trước đó (thư 15-2-1774), ông đã
không nhận xét rằng chính quyền “xấu xa” và cho rằng “giờ phán xét của Thượng
đế đã điểm đối với chúa Nguyễn và bầy tôi” đó ư? Tất đã có những phản ứng của
giáo dân hùa theo Tây Sơn khiến chúa Nguyễn phải cho ra một sắc luật ân xá ngày
12 tháng 3 Giáp Ngọ (22-4-1774).
Tuy nhiên sau trận Bến Ván, Tây Sơn phải
lúng túng. Tháng giêng Giáp Ngọ (1774), quân triều mặt bắc đánh thốc vào Quy
Nhơn. Ngay trong sào huyệt của mình, Tây Sơn có thể để phản công dữ dội. Tập
Đình, Lý Tài phục kích quân triều ở núi Bích Kê vào lúc khoảng 9 giờ tối, làm
rối loạn 40 voi địch và đến sáng hôm sau thì đuổi kịp Tiết chế Tôn Thất Hương
đâm chết. Cậu bé Tôn Thất Thăng (12 tuổi) trên đường tiếp chiến, hoảng sợ bỏ
quân chạy suốt đêm. Chỉ trong 7 ngày, quân Tây Sơn chiếm lại Quảng Nam và cả
tỉnh thành.
Họ ở đấy trong 2 tháng chống với Tôn Thất
Nghiêm. Nghiêm bị đòi về chống Trịnh để Nguyễn Cửu Dật ở lại làm Tả quân Đại đô
đốc đánh Tây Sơn 10 trận lui về Bến Ván. Họ có đủ thì giờ vơ vét của cải, mang
đi 45 con voi, khí giới trong đó có 82 khẩu đại bác mà người Anh và người Hoà
cho (?) chúa Nguyễn để giữ thành.
Việc rút lui này có thể còn do sự hiện
diện của 2 chiếc tàu Ma cao vừa đến ở đấy. Cho nên, với sự trực tiếp can thiệp
của chiếc tàu Diligent bênh chúa Nguyễn, họ đã không ngần ngại phá Hội An, vừa
để cướp tiền bạc, vừa để trả thù. Bốn năm sau, Chapman ghé đến còn trông thấy
cảnh điêu tàn của một nơi mà ngày trước “hàng trăm thuyền bè từ các cửa biển
Trung Hoa và Nhật Bản đến mua đường, quế, hồ tiêu, kỳ nam...”5. Hành động phá
phách trong chiến tranh này tất không sao tránh khỏi nhưng cũng đủ làm xa lánh
các khách thương mà sau này Tây Sơn cố tìm cách vời đến vì thấy cần thiết,
nhưng họ không hoàn toàn đạt được ý muốn.
Còn đương chống nhau với Nguyễn Của Dật ở
Quảng Nam thì Tây Sơn lại gặp phản ứng của Gia Định: mùa hạ Giáp Ngọ (1774),
viên Điều khiển ở đó là Nguyễn Cửu Đàm sai Lưu thủ Long Hồ là Tống Phúc Hợp ra
đánh Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang, vượt vịnh Hòn Khói lăm le chiếm Phú
Yên. Nhưng Tây Sơn lúng túng thì Duệ Tông cũng bối rối không kém vì quân
Trịnh đã kéo vào.
Cái hận không đánh chiếm được Thuận Hoá
vẫn canh cánh bên lòng các chúa Trịnh. Từ khi Trịnh Doanh chết đi, Trịnh Sâm
lên nối ngôi (1767), tiếp tục đánh dẹp giặc giã còn lại trong nước: năm 1769
phá tan ổ giặc Hoàng Công Toản (con Hoàng Công Chất) ở Hưng Hoá; cùng năm, cứ
điểm Trấn Ninh của Lê Duy Mật cũng bị phá vỡ. Đám quân binh đang hăng sức thì
xảy ra việc Nam Hà. Chính viên Trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Đạt vừa dự vào trận
Trấn Ninh đã phi báo cho chúa Trịnh rõ. Đồng thời nguồn tin loạn Tây Sơn và
việc Trương Phúc Loan chuyên quyền gây rối cũng được chính các nạn nhân của
Loan, con Tôn Thất Duệ, Tôn Thất Văn chạy ra Thăng Long báo cáo tỏ tường7. Hết
sức dè dặt, Trịnh Sâm cũng phái vào Nam một đạo quân lớn do Quận Việp Hoàng Ngũ
phúc cầm đầu với các danh tướng của Trịnh còn giữ những vai trò quan trọng sau
này: Phó tướng Bùi Thế Đạt, Thuộc tướng Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Hoàng
Đình Bảo8.
Đến Hà Trung, Phúc khôn ngoan nghe theo
lời dặn của Trịnh Sâm biên thư cho Nam Hà mượn tiếng dẹp giặc. Đi sâu vào cương
giới, ông cũng áp dụng chính sách chia rẽ đó: một bài hịch dài kể tội Trương
Phúc Loan được ban bố ra9. Thực ra, Hoàng Ngũ Phúc chỉ xô một bức tường đã hư
nát rồi. Nam Hà không còn có được ý chí đoàn kết của trăm năm về trước nữa. Mầm
mống rối loạn bên trong đã làm cho lòng người phân tán. Cho nên, phản bội cứ
tiếp theo phản bội mà làm chúa Nguyễn thua mất.
Quân mới đến bắc Bố Chính đã có một Tri
phủ tên Trần Giai đầu Trịnh xin làm hướng đạo. Ở Đăng Xương (Quảng Trị), một thư
sinh làm thơ xin yết kiến Hoàng Ngũ Phúc chỉ vẽ sở trường, sở đoản của quân
Nguyễn để Trịnh quân liệu mà chế ngự. Phản bội khoác hình thức hèn hạ hơn như ở
trường hợp hàng tướng Kiêm Long. Ông này xúi Quận Việp tiến quân bằng một câu
nói ý “Đường không đi không tới, chuông không đánh không kêu”. Lòng người đã
như vậy thì thành luỹ vững chắc mà làm gì? Còn đâu thời Trương Phúc Phấn chống
giữ cho luỹ Trường Dục? Cho nên, ở Trấn Ninh, Hoàng Đình Thể được các biên
tướng giữ thành làm nội ứng mở cửa cho quân Trịnh tràn vào.
Tinh binh lúc bấy giờ ở Quảng Nam hết đến
nỗi Duệ Tông phải rút Tôn Thất Nghiêm về. Tôn Thất Thiệp, Cai đội Thuộc nội
Đặng phải đem cả quân Cấm vệ ra chống giữ Kinh thành. Quân thế thật là yếu cho
nên trước đó, Trương Phúc Loan đã bị các đại thần họp lại bắt đưa cho Hoàng Ngũ
Phúc, hy vọng quân Trịnh giữ lời tuyên bố trong bài hịch ở Hồ Xá mà dừng tiến
quân10, nhưng không ngăn họ nại cớ khác là vào giúp đánh Tây Sơn. Thành Phú
Xuân bị vây ngày 28 Tết. Ất Mùi (30-1-1775), Duệ Tông phải dẫn quan binh, gia
quyến với cả cậu bé Nguyễn Phúc Ánh, nương đêm tối ra đi theo cửa Tư Dung vào
Quảng Nam, bỏ lại cả một kho tàng làm cho Trịnh Sâm thêm kiêu hãnh.
Mất Trương Phúc Loan, không phải họ
Nguyễn được củng cố lại quân thế. Có thể Duệ Tông không ưa gì Loan, nhưng suốt
10 năm, ngôi vị của Nguyễn Phúc Thuần đã gắn liền với quan Quốc phó. Nay mất
Loan, những khuynh hướng chống đối có thể để ép Duệ Tông phải chịu nhượng bộ
trên đường lưu vong. Cho nên, ở Quảng Nam, Hoàng tôn Dương được tôn làm Đông
cung coi giữ tỉnh này.
Nhưng Chúa phong Thế tử cho Dương thì Tây
Sơn cũng đòi Dương. Thêm nữa, họ lại ở vào thế mạnh. Để cụ thể hoá đòi hỏi, họ
tiến quân theo 2 đường đánh ép lại: Tập Đình, Lý Tài lên cửa biển Hợp Hoà,
Nguyễn Nhạc đem bộ binh từ sông Thu Bồn đổ xuống, xua Nguyễn Cửu Dật về Trà Sơn
(bán đảo Sơn Trà)12. Dương chạy về Câu Đê, Chúa chạy về Liên Chữ. Địa vị Duệ
Tông càng bị đe doạ nặng. Ông phải tìm nơi nương tựa, tránh nguy hiểm, một nơi
hy vọng còn người trung thành với danh hiệu Chúa vì ở xa địch và cách biệt với
những điều tiếng không hay về sự tranh chấp trong Hoàng gia: đất Gia Định. Ngày
12 tháng 2 Ất Mùi (1775), Chúa xuống thuyền13. Và vẫn có cậu bé Nguyễn Phúc Ánh
đi theo.
Bị Duệ Tông bỏ rơi, Đông cung Dương dễ
dàng cho Tây Sơn thuận tiếng chiếm đoạt hơn. Họ tổ chức hai đạo quân rầm rộ đi
“rước” ông về được Hội An sau khi phá tan một âm mưu phản bội trong hàng ngũ
họ14. Biến chuyển này thực là quan trọng trong tấn tuồng lịch sử đang diễn ra.
Các vai trò sắp phải đối bộ mặt, tuy người ta vẫn thấy nguyên vẹn các phe phái:
Tây Sơn núp bóng sau Đông cung, Duệ Tông đã cao bay xa chạy, và quân Trịnh lăm
le tiến vào.
1.Thư Jumilla, bđd, t.71: theo luật cấm
đạo 1750, người Thiên Chúa giáo phải mang một vòng sắt nơi cổ, lớn bằng ngón
tay, có đính miếng sắt khắc hai chữ “tả đạo” và phải cắt cỏ cho voi ăn.
2.A. Launay , III, t. 16, 17 . Chuyện ở
Qui Nhơn.
3.Revue Indochinoise (RI) 1913. t. 535.
Bản Pháp ngữ của đạo luật đăng trong tờ Gazette d’ Amsterdams tháng 2-1776.
4.P. Jumilla, bđd, t. 18. Liệt truyện
q30, 4ab. Thực lục tiền biên, q11, 19ab, 20a.
5.Chapman, bđd. t. 37.
6.Liệt truyện, q30, 4a. 5b gọi vịnh Hòn
Khói là Vân Phong. Tên này được đặt từ năm Minh Mạng thứ 6 (1825 (ĐNNTC, q10,
Phú Yên).
7.Thực lục tiền biên. q11, 20b.
8.Cương mục q44, 10b, 11a nói quân có 33
dinh, 3 vạn người, Thực lục tiền biên, q11, 21a: 23 dinh tướng sĩ; Labartette,
thư ngày 26-1-1775 (A. Launay III, t. 102) cho biết khoảng 13, 14.000 người.
9.Thực lục tiền biên. q11, 23ab.
10.Thực lục tiền biên. q11, 23b, 24a.
11.Thực lục tiền biên, q11, 25b, 26a, P.
Jumilla, t. 83.
12.ĐNNTC. tỉnh Quảng Nam, mục nói về Trà
Sơn úc (vũng Đà Nẵng) chỉ bán đảo Sơn Trà là Trà Sơn. Nhưng Hồng Đức bản đồ,
t.148, 149, chỉ rõ Sơn Trà dưới biển và Trà Sơn tận trên nguồn trong núi. Chắc
Nguyễn Cửu Dật chạy về Sơn Trà thì phải hơn vì ở đây ông mới tiện đường theo
Duệ Tông được.
13.Thực lục tiền biên, q12, 2a.
14.Thực lục tiền biên, q12, 4a.
Bây giờ Trịnh đối đầu với Tây Sơn. Cũng
như lần mới gặp quân Nguyễn, Nhạc thua to một trận ở Cẩm Sa, phải rút về Bến
Ván và đem Đông cung về giấu ở Hà Riêu, An Thái rồi ở Bông Giang. Đối với quân
Tống Phúc Hợp chực tiến ra, Nhạc dùng Đông cung diễn tấn tuồng tôn phò1 để đánh
lừa Hợp không phòng bị cho Nguyễn Huệ đánh trận thắng chớp nhoáng bất ngờ đầu
tiên trong đời viên tướng tài ba chuyên yểm kích này (tháng 7 Ất Mùi 1775).
Nhưng có Đông cung để lợi dụng, Tây Sơn
cũng gặp phải trở ngại trong nội bộ họ. Đã nói trong buổi đầu dấy loạn, với
chiêu bài tôn phò Dương, họ tập trung thêm dưới trướng những người chỉ có mục
đích tôn phò, điển hình là Châu Văn Tiếp. Nhưng đâu phải Nhạc ngây ngốc dọn cỗ
sẵn cho người ăn như vậy. Cho nên ý mượn cớ tôn phò để xây dựng sự nghiệp riêng
phải tỏ rõ ra một khi Tây Sơn có Dương trong tay, nếu Nhạc không muốn đổ vỡ bao
nhiêu dự tính của mình. Trong số những người hợp tác nhân dịp này biết rõ điều
đó để chống đối lại với ông, quan trọng hơn cả tất là Châu Văn Tiếp3. Người thứ
hai cũng quan trọng là Lý Tài. Nguyên nhân phản bội tuy không cùng là một với
Tiếp, nhưng cũng do ảnh hưởng gián tiếp của việc bắt Đông cung Dương: ở Hội An,
Tập Đình muốn giết Dương, Lý Tài phải can gián mãi mới thôi. Cảm tình giữa hai
người nảy sinh từ đó, và một khi chống đối với Nguyễn Nhạc, Lý Tài sẽ gắn bó
với Dương.
Các hành vi chống đối, bội phản này rất quan
trọng trong việc làm yếu sức Tây Sơn và tiếp sức cho nhà Nguyễn hấp hối dài hơi
hơn. Ta biết đám quan binh nhà Nguyễn, trừ một vài người, không có đủ gan dạ,
cơ trí để đánh giặc: đã có nhiều chứng dẫn trước rồi, hãy kể thêm một Tống Phúc
Hợp già cỗi, do dự, chẵn một năm trời mà không thống lĩnh Ngũ dinh qua được Phú
Yên. Gan dạ, liều lĩnh dứt khoát để lấp đầy thiếu sót về số đông, về kỹ thuật,
những cái đó trong buổi đầu này phải được huấn luyện từ trong lò lửa Tây Sơn.
Cho nên, những hàng tướng Tây Sơn thực là của quý cho nhà Nguyễn. Hậu quả gián
tiếp cho việc Lý Tài về với Gia Định là sự hợp tác của những người Trung Hoa ở
đấy và cùng với việc Nguyễn Nhạc đuổi Tập Đình sau trận Cẩm Sa, có lẽ đám di
dân Trung Hoa ở Quy Nhơn đã mất sáng kiến mà trở thành thụ động. Ảnh hưởng trực
tiếp là việc suy yếu nhà Tây Sơn trong khoảnh khắc: Tây Sơn mất một nửa số
lượng chiến thuyền trong khi lực lượng thuỷ quân là lực lượng làm cho họ tự tin
nhất4 vì lực lượng cốt cán đó giúp họ đổ bộ được vào Gia Định.
Nhưng dù sao thì vượt qua được những
chống đối gây nên vì chuyện Dương, Tây Sơn cũng chính thức bước vào lúc hành
động như một lực lượng độc lập với chính quyền cũ, không nhờ vả gì hết, cho dù
chỉ là một chút tiếng tăm. Họ đem Đông cung an trí ở Thập Tháp để tự lập chúa
mới (tháng 3 Bính Thân 1776). Với Trịnh, họ khôn khéo xin đầu hàng. Có những
khó khăn trong tình hình quân chính ở Thuận Hoá (đói kém, dịch tể, sức chống
đối của cựu thần Nguyễn), có những cản trở về mặt tâm lý (Trịnh vẫn coi đất mới
khai phá của chúa Nguyễn như không phải của họ, họ chỉ bận tâm trong toan tính
“đồng hoá”5 vùng Thuận Quảng cũ vừa chiếm lại được thôi), khiến Hoàng Ngũ Phúc
phải chấp nhận cuộc hàng đầu. Tây Sơn đóng vai trò “tướng Trịnh” khôn ngoan như
họ đã tôn phò Dương: mỗi một công trận họ đều báo cáo với Hoàng Ngũ Phúc. Cho
nên sau trận Phú Yên, Phúc bấy giờ ở Châu Ổ (Quảng Ngãi) bèn phong cho Nguyễn
Huệ chức Tây Sơn Hiệu Tiền phong Tướng quân.
Thế quân bình Tây Sơn - Trịnh cũng tạm
thời vững nhờ tình hình kinh tế hai vùng được nhà cầm quyền Tây Sơn khai thác
mối tương quan có lợi cho phe họ.
Trong chiến tranh, phần lớn vùng của họ
chỉ chịu một vài trận rồi tránh khỏi sự giày xéo qua lại trong các cuộc tiến
quân. Cho nên không lấy làm lạ rằng hai năm sau, Chapman đến vùng Quy Nhơn thấy
“bờ biển nhiều chỗ trồng trọt kỹ lưỡng... các vùng thấp trồng lúa và những cây
tiêu trùm lên các đồi đến tận đỉnh”. Trên đường đi cáng lên thành Chà Bàn, ông
cũng thấy vào trong một thung lũng trồng trọt kỹ lưỡng và ruộng lúa được cấy
ngay trong thành7. Tiềm lực Tây Sơn được vững vàng còn nhờ số vàng bạc, khí
giới họ cướp được ở các cuộc công phá tỉnh thành, hoặc nơi họ Nguyễn, hoặc nơi
dân chúng, nhất là của cải thuyền bè của đám thương nhân Trung Hoa8. Chính sách
chia của thô sơ buổi đầu khiến dân chúng nghèo khổ không lâm vào tình trạng đói
khát. Lại quá khứ “dân đen” của những người cầm đầu còn gần quá nên họ sống rất
giản dị, ít hao tốn. Chapman nhận xét rằng triều đình Tây Sơn thiếu cái huy
hoàng, tráng lệ như của các ông Hoàng Đông phương, nhưng có tính cách sắp đặt,
cẩn thận làm người ta có cảm giác đứng trước một vị chúa tể dũng mãnh. Đám quân
hầu của một vị phò mã Tây Sơn có dáng kỷ luật, mạnh bạo. Đám quân lính dưới
quyền gặp gì mặc nấy. Hiệu suất khả năng kinh tế do dó tăng lên. Cộng với khả năng
của đám người cầm đầu, lòng hăng hái của binh sĩ, Tây Sơn quả có đủ điều kiện
chủ quan làm e dè Hoàng Ngũ Phúc ở chính sào huyệt của họ.
Quân Trịnh ở Thuận Hoá, Nam, Ngãi có cả
sự ủng hộ của Bắc Hà. Nhưng họ cũng vấp phải những khó khăn như tổ tiên họ đã
gặp. Trịnh Sâm đã cẩn thận lập ra cả một tổ chức chuyển vận quân hướng từ Sơn
Nam tới Đồng Hới9. Nhưng ngay từ đầu năm đó (tháng 2 Giáp Ngọ) Nghệ An đã gặp
đói, dân chết10. Rồi khi tiến sâu vào Nam Hà thì quân Trịnh gặp thêm khó khăn,
lần này cực kỳ nghiêm trọng: chiến tranh lôi kéo toán quân qua lại tàn phá,
Quảng Nam, Thuận Hoá đã gặp một trận đói kinh khủng trong lịch sử.
Đói từ tháng 10 Giáp Ngọ (1774)11. Ở cửa
Hàn (Tourane) không còn một con heo, con gà, con vịt. Đường cát trước kia sản
xuất thật nhiều, nay biến mất. Tiền sụt giá: một quan còn giá trị độ một đồng
tiền. Đó là tình trạng giữa năm 177512. Đã có người đàn bà ở giáo khu Bau nghe
(?) ăn. thịt con13. Tình trạng nguy hại hơn là thêm vào với việt mất nhân công,
người ta không còn hạt giống để gieo mùa sau14. Cho nên đói khổ không chừa đến
cả đám quan quyền, tôn thất: các phu nhân phải đi ăn xin. Giáo sĩ Labartette
vào một chủ nhật, ngạc nhiên thấy một người cháu vua dắt con trai, cả hai đều
rách rưới, đến ăn mày ông15. Cả bản Hoài nam khúc thảm thương là tiếng kêu than
của đám quan quyền họ Nguyễn mất tước lộc, chịu đựng kiếp sống của kẻ chờ tiếng
“ta lai” (lại đây: tiếng gọi người ăn mày), van vỉ miếng ăn, rên siết đói lạnh.
Có thể nào mà quân Trịnh còn tinh thần
chiến đấu vững chắt lúc ban đầu ở một nơi xa lạ đầy chết chóc, gớm ghiếc như
vậy? Thêm nữa, chết chóc vì đói khổ dẫn đến chết vì bệnh tật. Đến điều này thì
quân Trịnh không còn hy vọng gì tránh khỏi. Họ chết quá nửa. Và chính Hoàng Ngũ
Phúc trong chuyến kéo quân về Phú Xuân cũng phải bỏ mạng dọc đường (tháng 10 Ất
Mùi, 1775)
Thiên tai loại dùm cho Tây Sơn một kẻ
địch. Họ Nguyễn ở phương Nam, trên một vùng phì nhiêu, tiếp xúc gần hơn với
trào lưu giao thương quốc tế qua sự trung gian của đám Hoa kiều Minh dân lưu
vong hay thương nhân, có tìm cách gì loại trừ được những mâu thuẫn nội bộ đem
từ Phú Xuân vào, có biết cách khai thác những điều kiện có lợi cho mình để
chống đối với Tây Sơn không?
1. Liệt truyện, q30, 7b kể rõ ràng chi
tiết. Việc Tống Phúc Hợp chịu cử sứ giả ra Qui Nhơn xem xét tình hình trong lúc
hai bên còn đánh nhau chứng tỏ tình hình phe phái lúc này còn mù mờ khiến cho
Nhạc dùng được Đông cung Dương để gây chia rẽ phía triều Chúa cả năm trời mãi
đến khi ông thấy đủ lực lượng để không cần Dương nữa.
2. Thực lục tiền biên, q12. 6ab.
3. Sự kiện làm cho Tiếp dứt khoát với
Nhạc hẳn là trận đánh đuổi Tống Phúc Hợp. Việc Lý Tài, Châu Văn Tiếp tách rời
từ cuối năm 1775 khiến cho Nguyễn Nhạc thấy quân thế mình thuần nhất hơn, ảnh
hưởng đến quyết định sau này của ông.
4. Chapman, bđd, t. 30, viết: “Vì vậy ông
(Nhạc) phải chịu một vố nặng khi tôi ở đây, lúc 1/2 thuỷ quân tách ra sau một
chuyến kình cãi giữa người em ông và một trong những viên tướng chính dưới
quyền”. Chapman muốn nói ai đây? Thời gian được xác định “khi tôi ở đây”, nghĩa
là vào khoảng tháng 7- 1778. Khoảng này không có sự tan rã nào quan trọng. Có
thể Chapman nghe chuyện trước đó (nhưng đối với thời đại vẫn còn là chuyện thời
sự). Cuối năm 1775 có 3 người phản Tây Sơn: một người không quan trọng nên bị
Tống Phúc Hợp giết, còn lại Châu Văn Tiếp và Lý Tài. Châu Văn Tiếp tụ chúng
trên núi, quân bản bộ toàn là người Thượng. Chỉ có Lý Tài đã từng điều khiển
thuỷ quân ở Quảng Nam và chịu dưới quyền sai phái của Nguyễn Huệ khi ông này
tập kích Phú Yên rồi giao cho Tài giữ (để Tài trả lại cho Tống Phúc Hợp). Cho
nên. Chapman muốn nói đến việc Tài vậy.
5. Thực lục tiền biên, q12, 12a.
6. Thực lục tiền biên, q12, 6b.
7. Chapman, bđd, t. 26, 27. Chapman đến
cửa Thi Nại ngày 13-7-1778, bắt đầu lên Chà Bàn ngày 22-7.
8. Chapman, t.30. Thực lục tiền biên,
q12, 5a. Tây Sơn cướp cả thuyền lương của Mạc Thiên Tứ viện trợ cho Duệ Tông.
9. Cương mục, q44, 11ab.
10. Cương mục, q44, 10a.
11. Thực lục tiền biên, q11, 22a.
12. Thư của Labartette từ Tho duc ngày
21-6-1775 (A. Launay, III, t. l03).
13. Thư của Labartette từ Tho duc ngày
21-7-1775 dẫn lời của ông Halbout ở Quảng Nam (A. Launay. III. t. 105). Hoàng
Quang: “người ăn thịt người trời đất thấu chăng”.
14. Thư của ông Halbout tháng 7-1775 (A.
Launay III. t. 106).
15. Thư của Labartette ở Tho duc
21-7-1775 (A. Launay, III, t. 104).
16. Thục lục tiền biên, q12, 7a. Vấn đề
đặt ra là dịch tễ có lan tràn đến vùng Tây Sơn hay không. Có lẽ tính chất tách
biệt của 2 đạo quân, 2 chủ quyền, ngăn cản sự liên lạc giữa hai vùng khiến vô
tình có một hàng rào y tế được lập nên có lợi cho Tây Sơn.
Tiết 2
LỰC LƯỢNG NGOẠI QUỐC
Lưu ý đến lực lượng Tây phương vì tiến bộ
kỹ thuật của họ * Các đế quốc thứ hạng * Các đế quốc hàng đầu: cuộc cạnh tranh
Anh, Pháp * Những kẻ phiêu lưu.
Thật là một chuyện không cần phải bàn cãi
khi ta nhận xét rằng những biến động trong một nước tất có những tương quan ảnh
hưởng với các lân bang. Những phong trào độc lập thời Bắc thuộc phần lớn được
thành công nhằm vào những giai đoạn Trung Hoa gặp rối loạn, qua phân. Trái lại,
những khi trong nước Việt có tranh giành ngôi báu, rối loạn thì quân Trung Hoa
lại có cớ để đem đại binh sang. Cả một vùng Thuỷ Chân Lạp về tay chúa Nguyễn
nhân dịp họ này nhìn về phương nam là do những tranh giành thế tập của các
triều vua Cao Miên làm suy yếu thực lực trong nước họ. Từ cuối thế kỷ XV, với
những phát kiến về hàng hải, người Tây phương đem thuyền bè sang Á đông, mở
rộng sự giao tiếp Đông - Tây thì các nước ở Á châu một khi có biến động lại
thấy ngay sự can thiệp của người da trắng. Quần đảo Nam Dương là một thí dụ cụ
thể. Nước Đại Việt trong những thế kỷ phân tranh Nam, Bắc, có ngăn chặn được sự
quấy rối của các thương nhân Tây phương cũng nhờ nơi tổ chức chính trị chặt chẽ
ở hai miền. Cuộc thử sức giữa thuỷ quân và Thế tử Nam Hà Nguyễn Phúc Tần với
hạm đội Hoà Lan vào cuối năm Quý Mùi (1643) mà kết quả là chiến thắng về tay
quân Nguyễn đã làm cho Công ty Đông Ấn Độ Hoà Lan (VOC) - nói rộng ra, các
thương nhân Tây phương - chịu bằng lòng đến buôn bán dưới sự kiểm soát của các
chính quyền hiện hữu.
Tình thế đã đổi khác khi thời gian trôi
qua. Biến động Tây Sơn làm đảo lộn các trật tự cũ. Duệ Tông dắt Nguyễn Ánh và
tiếp theo sau đó, Đông cung Dương chạy vào Đồng Nai. Họ Trịnh ở phương bắc bề
ngoài có vẻ hùng mạnh nhưng bên trong cũng bị mục nát vì sự nhu nhược của đám
sĩ phu cầm quyền trước thái độ khinh lờn của đám Kiêu binh Thanh Nghệ. Từ 1674,
họ đã giết quan Tham tụng Nguyễn Quốc Trinh, phá nhà Phạm Công Trứ. Một lần nữa
vào năm 1741 họ lại phá nhà và chực giết Tham tụng Nguyễn Quý Cảnh. Chỉ còn đợi
Trịnh Sâm chết đi (1782) với rối loạn bỏ trưởng lập thứ là Kiêu binh có thể can
thiệp vào việc vua chúa để rồi huênh hoang tuyên bố rằng “ngày nay, được có
triều đình, khiến vua tôn ngồi yên mà hưởng phú quý đều là sức của chúng mình”.
Họ đã đi đến tột đỉnh của quyền hành nhưng vì thiếu một lý tưởng, thiếu một
người cầm đầu sắc sảo, chúng ta không gặp được ở Bắc Hà một chế độ quân chính
mà chỉ một tình trạng ô hợp, hỗn loạn của Kiêu binh thôi.
Nhìn về phương bắc, bực thầy của Đại
Việt, cùng thời gian cũng đang ở trong tình trạng ruỗng nát bên trong cái vỏ
hào nhoáng của triều đại Càn Long (1736-1796) rực rỡ. Chiến thắng của quân
Thanh ở Tân Cương (1755) mở rộng biên giới phía tây ngăn chận tham vọng bá chủ
của Nga hoàng đồng loã với đế quốc Anh, nhưng tạo gánh nặng chiến phí gìn giữ
quân đội thống trị. Ở nội địa, dân số vùn vụt tăng vượt xa số lượng đất đai
khai khẩn không đủ cung ứng cho nhu cầu, tạo nên vấn đề cấp thiết và quan trọng
nhất cho Trung Hoa mãi đến bây giờ. Giai cấp địa chủ bản xứ vốn đã hợp tác với
quân Thanh, bây giờ lại hưởng thụ thêm mối lợi đất đai tăng giá nên cố sức giữ
cái đà tích luỹ bằng cách ngăn chận công thương nghiệp không cho phát triển
mạnh. Mâu thuẫn xã hội gặp dịp bùng dậy đồng loạt với mâu thuẫn mang hình thức
quốc gia chủ nghĩa. Loạn nổi lên ở Sơn Đông năm 1774, năm sau Bạch Liên giáo
phất cờ phản Thanh phục Minh ở Hà Nam, rồi An Huy. Đàn áp của chính quyền thật
tàn nhẫn trên 6 tỉnh có nhiều tín đồ và cuộc loạn hao của tốn người dữ dội nhất
từ 1793 đến 1802 mới chấm dứt.
Tình hình đáng chú ý hơn là trong khi Nam
Bắc Hà, Trung Hoa ở các tình trạng rối ren, ngưng trệ kinh tế, kỹ thuật thì Tây
phương bắt đà những tiến bộ kỹ thuật từ thế kỷ XV, càng ngày càng phát triển
mạnh mẽ.
Xét lịch sử Âu châu, sử gia Tây phương
nhận thấy từ năm 1640, trái với tình trạng ngưng trệ trước đó, là bắt đầu cho
một giai đoạn thịnh vượng về kinh tế. Sự tiến triển của hạ tầng cơ sở cứ biến
đổi dần, ngấm ngầm mà chắc chắn suốt tiền bán thế kỷ XVIII.
Đầu tiên là sự phát triển dân số. Thuyết
Malthus(1766-1834) là ý thức của Âu châu hoảng hốt lên vì sự gia tăng đó. Các
tay lãnh đạo, trí thức ưu tú là những người trẻ tuổi. Thế kỷ XVIII là “thế kỷ
của tuổi trẻ Âu châu”. Gia tăng dân số gây nên sự nghèo đói cho đám bần cùng
khiến họ phải ra tỉnh, đi ra nước ngoài. Dòng xuất cư phiêu lưu tìm sang giàu
khích động ở các thế kỷ trước vì vàng bạc của Mỹ châu, vì các chuyện kỳ lạ của
Marco Polo đưa về, đến bây giờ vì biến đổi đã kể vẫn tồn tại với những người bỏ
xứ mà đi.
Đáng kể là những người Âu châu ra ngoài
nước - buôn bán, truyền đạo, phiêu lưu - hưởng được cả những thành quả về tiến
triển kỹ thuật xảy ra trên đất nước họ. Thế kỷ XVIII ở Âu châu thấy xuất hiện
những khoa học thuần tuý đồng loạt và có tương quan với những phát triển kỹ
thuật trong các ngành dệt, máy hơi nước, chế tạo kim khí, nhất là ở Anh.
Tất nhiên, những tiến bộ này giúp ích cho
sự phát triển lực lượng quân sự mà Âu châu tăng tiến từ khi biết dùng thuốc
súng của người Trung Hoa qua dân Ả Rập. Nếu trước kia Alexandre de Rhodes ngắm
chiếc thuyền Nam chinh của chúa Trịnh mà không thấy chiếc thuyền Hoà Lan nào
dài bằng, thì đến thế kỷ này tình thế đã đảo ngược. Chưa nói đến dự trù can
thiệp của Pigneau de Béhaine dựa trên sự kiêu hãnh về ưu thế quân sự của Tây
phương, Chapman trong chuyến đi dò xét Nam Hà năm 1778 theo lệnh của Toàn quyền
Anh ở Ấn Độ cũng có cảm tưởng tương tự.
Nhận xét về thực lực Tây Sơn, ông ghi:
“Các đạo quân của Nhạc ít đáng kể, giá trị quân sự kém lắm và tôi có thể nói
chắc chắn rằng độ 100 người có kỷ luật sẽ đánh lui toàn bộ quân đội của ông ta.
Thuỷ quân của ông gồm có vài chiếc thuyền chiến và 3 hay 4 ghe chài lấy của
người Trung Hoa...” Có thể là còn một số quân rải rác các nơi, đi theo Nguyễn
Huệ, nhưng riêng chính Nguyễn Nhạc cũng nhận thấy được ưu thế kỹ thuật Tây
phương. Chính ông đã hỏi Chapman xem thử ông này có thể dùng các tàu dưới quyền
để giúp ông được không? Với các điều kiện nào? Nhạc muốn có các cố vấn Anh,
muốn có các tàu chiến Anh phụ giúp để thực hiện mộng khuất phục nước Cao Miên,
toàn thể bán đảo đến tận Xiêm và các tỉnh Nam Hà phía bắc còn ở trong tay quân
Bắc Hà. Đánh đổi lấy sự trợ giúp đó, Tây Sơn có thể nhường đất cho Anh quốc lập
thương điếm.
Rồi không phải chỉ ở lãnh địa Tây Sơn
Chapman mới gặp sự nài ép giúp đỡ quân sự đó. Ông đến Phú Xuân vùng chiếm đóng
của Trịnh, một viên quan Bắc Hà đón tiếp ông cũng ló bộ mặt phản đối chính
quyền và mong ông giúp một tay1. Tất cả minh chứng rằng mọi người thời bấy giờ
đều biết đến sự hùng mạnh của Tây phương, cho dù chỉ mới biết qua các đội
thương thuyền lẻ tẻ. Nhưng tương quan lực lượng của các quốc gia Tây phương có
mặt ở Á châu vào hậu bán thế kỷ XVIII không giống như ở các thế kỷ trước. Những
biến chuyển ở Âu châu đã gây nên sự thay đổi đó.
Người Bồ Đào Nha từ thế kỷ XIV đã tranh
chiếm được nền độc lập trong tay dân Hồi giáo rồi dùng đám quân binh phong kiến
thất nghiệp vào trong công việc tìm kiếm đất mới. Họ dùng võ lực giành giựt độc
quyền bán hương liệu Á đông trong tay người Ả Rập. Đế quốc của họ là một chuỗi
những thương điếm gần bờ biển, có võ trang. Kinh đô của đế quốc đó là Goa trên
bờ biển phía tây Ấn Độ.
Nhưng từ 1580 nước họ sáp nhập vào Tây
Ban Nha dưới quyền của Philippe II. Đế quốc họ tan rã dần vì sự tranh chiếm của
người Hoà Lan. Đến thế kỷ XVII, khi họ giành được tự trị thì Ấn Độ đã mất. Chút
quyền bảo trợ Gia tô giáo mà họ đã hưởng được của các Giáo hoàng về các vùng
Đông của đường ranh giới ấn định bởi các hiệp ước Tordesillas 1499 rồi cũng sẽ
bị sự cạnh tranh của các nước, nhất là nước Pháp với hội Truyền giáo, mà yếu
dần đi và mất hẳn.
Tuy vậy khi xảy ra rối loạn ở Đại Việt,
họ cũng muốn can thiệp vào. Có hai chiếc tàu Bồ ở Đà Nẵng vào dịp Tây Sơn ra
Quảng Nam. Họ từ Macao tới. Macao là một nhượng địa mà người Bồ đã đem tiền lo
lót đám quan lại Trung Hoa để lập nên thương điếm. Vào cuối thế kỷ XVIII, chính
quyền ở đây dưới tay một viên quan cai trị do Lisbonne đề cử, đại diện cho vị
Phó vương thành Goa với một Biện lý, một uỷ viên, hai thẩm phán và nhiều vị cố
vấn2. Nhưng lực lượng quân sự của Bồ ở một nơi rất gần Đại Việt này thực không
đáng kể. Pigneau nói một cách mỉa mai về việc có ý định cầu viện một nơi như
Macao, không có lấy một tên quân3. Viên biện của Phái đoàn Truyền giáo ở Macao
thời đó là Letondal thì ghi rõ hơn: “Có độ 4 - 50 tên Cipaye hay mọi da đen
không được huấn luyện kỹ càng và ăn mặc lôi thôi”.
Đế quốc Tây Ban Nha, vì hiệp ước
Tordesillas, dồn toàn lực ở Mỹ châu thu nhặt bạc vàng và truyền giáo. Nhờ
chuyến viễn du của Magellan (1519-21), họ chiếm được Phi luật tân, biến đất này
thành đất của Chúa, sung túc nhờ việc giao thương Á - Mỹ châu (qua Mễ tây cơ)
bằng các thuyền galion. Họ cũng có quyền lợi tôn giáo ở Đại Việt. Các nhà tu
hành khất (Franciscains) ở đây thường liên lạc với Manille. Họ có mặt trong vụ
giúp đỡ Duệ Tông rồi Nguyễn Phúc Ánh. Quyền lợi tôn giáo lẫn lộn với quyền lợi
quốc gia thường gây nên sự xung đột giữa người Tây Ban Nha và người Pháp.
Trong khi đó, người Hoà Lan mà tiếng tăm
của họ ngày trước làm cho người Việt gán danh từ Hoà Lan đạo cho Gia tô giáo
lại không có hành động nào đáng kể ở bán đảo này. Công ty Đông Ấn Độ của họ
(VOC) thất bại ở Nam Hà, Đài Loan bèn dồn trở về quần đảo Nam Dương lo khai
thác nhân vật tài lực ở đây. Vào hậu bán thế kỷ XVIII, họ bị người Anh cạnh
tranh ráo riết: hiệp ước Breda 1763 cho họ toàn quyền ở Nam Dương, nhưng hiệp
ước 1784 mở rộng vùng biển này cho các tàu Anh vào giao thương.
Biến chuyển xảy ra bất lợi cho các đế
quốc già cỗi như vậy vì trong thế kỷ XVII, XVIII nước Anh đã phát triển mạnh về
kinh tế để nắm quyền trên biển cả. Cạnh tranh với người Anh nhờ sự hùng mạnh
của thời đại Louis XIV, người Pháp cũng phát triển ở Ấn Độ. Một tay phiêu lưu,
François Martin, xây dựng nên thành phố Pondichéry. Dupleix (1697-1763) có tham
vọng muốn thành lập một đế quốc Pháp ở Ấn Độ nên mở rộng đất chiếm được về phía
nội địa rồi gặp phải tham vọng của người Anh ngăn cản lại. Từ trận Chiến tranh
Kế vị ở nước Áo (1740-1748) đến trận Chiến tranh Bảy năm (1756-1763), Anh -
Pháp xung đột nhau ở Âu châu rồi mở rộng chiến tuyến đến tận các thuộc địa.
Karikal bị chiếm 4-1760, Pondichéry đầu 1761 rồi tiếp theo, Mahé, Nelisseram
trên bờ biển Malabar lần lượt lọt vào tay quân Anh vì lỗi lầm nghiêm trọng của
Lally Tollendal. Kết quả Trận chiến Bảy năm là người Pháp còn có 5 thành phố: Karikal,
Pondichéry, Chandernagor, Mahé, Yanaon. Rồi vì Chiến tranh giành độc lập Hoa
Kỳ, xung đột Anh - Pháp tái phát. Chandernagor (7-1778), Karikal (8-1778),
Pondichéry (10-1778), Mahé (3-1779) phải bị quân Anh chiếm đóng lần nữa và chỉ
giao hoàn người Pháp sau hoà ước Versailles 1783.
1. Chapman, bđd, t. 30-32, 39.
2. "Macao à la fin du 18e S.”, R.
Jolez, tổng lãnh sự Pháp ở Hong hong, BSEI, 1950, t. 41-49.
3. Thư của Pigneau cho ông Descouvrières,
12-3-1786 (A. Launay, III, sđd, t. 161
4. Nhật ký của ông Letondal (A. Launay,
III, sđd. t. 157).
5. Vụ Manuel giúp Nguyễn Ánh, BSEI, 1940,
t. 32, 33 (xem sau).
Cuộc xung đột ở thuộc địa thực ra có tính
cách vì quyền lợi các thương nhân, “chiến tranh các tay buôn”, như Voltaire đã
nhận định. Kết quả là ở thuộc địa, nói riêng ở Ấn Độ, người Pháp bị thua thiệt,
mất đất, hết tiền. Sau 1763, người Anh làm chủ nền thương mại nội địa, nắm
trong tay các thợ dệt Ấn, điều khiển các ông Hoàng Ấn (nabab), xúi họ cản trở
người Pháp. Ở Bengale, các giấy thông hành Pháp không có giá trị gì, tàu họ bị
đóng thuế 2 lần, bị lục lọi, soát xét, ngăn cấm chở vàng bạc xuôi sông Gange
(chỉ thị của W. Hastings 1769). Trước tình trạng đó, Bộ trưởng Necker phải giải
tán Công ty Đông Ấn Độ và để cho các thương nhân được tự do buôn bán riêng rẽ
(nghị định 13-8-1770).
Xung đột Anh - Pháp nghiêng thất lợi về
phía người Pháp đã khiến cho họ phải tìm cách hướng về nơi khác Ấn Độ để vừa
trả thù, vừa tìm lại thế làm quân bình lực lượng ở hải ngoại.
Ngày trước kia, P. Poivre đã chú ý tới vị
trí địa lý thuận tiện của đất Nam Hà đối với việc buôn bán của người Pháp.
Chiến tranh càng làm tỏ rõ giá trị ý kiến ấy ra. Trong những văn kiện bí mật,
người Pháp đã nhận xét: “Hình như chỉ có xứ Nam Hà là đã tránh khỏi sự chú ý
của người Anh, nhưng làm sao người ta có thể tin rằng họ sẽ không dòm ngó tới?
Nếu họ quyết định ở đó trước ta thì mãi mãi ta sẽ bị loại trừ ở đấy, ta sẽ mất
một điểm tựa quan trọng trong phần đất này của Á châu, phần đất làm cho chúng
ta nắm quyền ngăn chặn người Anh buôn bán với người Trung Hoa khi có chiến
tranh xảy ra, che chở việc thương mãi của ta ở khắp nơi trên Ấn Độ và làm cho
họ luôn luôn lo ngại”1.
Tin tức về loạn Tây Sơn ở Nam Hà được
truyền đi đến các thuộc địa Anh - Pháp ở Ấn Độ nhờ những chuyến tàu buôn Tây
phương ghé Đà Nẵng. Ta đã nói đến hai chiếc tàu Macao. Vào khoảng tháng 9-1777,
chiếc tàu Diligent ghé Đà Nẵng chở về Ấn Độ L.M Jean de Loureiro, y sĩ của chúa
Nguyễn, với hai vị quan đại thần xin đi nhờ vào Gia Định. Loureiro có vận động
cầu cứu Tây phương giùm cho chúa Nguyễn. Thế là Anh - Pháp lại có đề tài để
xung đột nữa. Warren Hastings, toàn quyền Anh, phái Chapman đi dò xét khoảng
tháng 7-1778. Trước đó và cùng năm, viên tư lệnh thành Chandernagor, Chevalier,
cũng đã thúc đẩy viên toàn quyền Pháp ở Pondichéry, De Bellecombe, nên nhân dịp
này mà “hưng khởi uy thế và tăng tiến nền thương mại quốc gia”. Ông nhấn mạnh
thêm rằng nếu không chịu làm trước người Anh, họ sẽ can thiệp vào và người Pháp
“năm sau, sẽ đau đớn được tin rằng người Anh vừa có một thuộc địa mới nữa”.
Nhưng xung đột về Nam Hà không xảy ra
giữa hai đế quốc. Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ (1775-1783) giải toả vấn đề Nam
Hà. Hai chính quyền không lưu ý tới thì vấn đề bỏ lừng cho các sáng kiến cá
nhân.
Từ trào lưu xuất cư vào cuối thế kỷ XV,
các thương nhân Tây phương đã chứng tỏ tinh thần mạo hiểm phiêu lưu của họ.
Chúng ta hãy nhận định ưu điểm của đám thương nhân nói chung về tinh thần mạo
hiểm, sáng kiến un đúc thêm trong khi di chuyển so với đám người ở lì một chỗ,
bảo thủ, kiến thức hẹp hòi, thiếu gan dạ. Hãy xét hành tung một Châu Văn Tiếp
sau khi chống Tây Sơn, được triệu hồi về Gia Định đã lại ra Phú Yên chống đánh
sát bên nách địch. Rồi khi Chúa chạy, quân tan, lần mò theo đường thượng đạo đi
cầu viện, nhận được lời hứa, Tiếp lại theo đường rừng về tìm Chúa. Con người
trung kiên đó đã từng đi buôn nguồn với chúa Tây Sơn là một ví dụ về tinh thần
mạo hiểm của đám thương nhân.
Nhưng thương nhân Tây phương nhờ vào một
phong trào rộng lớn hơn, đã có những hành động quyến rũ hơn. Chúng ta lưu ý đến
một tác giả của hậu bán thế kỷ XIX, cũng là một tay phiêu lưu, ca tụng đám
người tiền phong: “Vì một bao hạt tiêu, họ không ngần ngại cắt cổ nhau, từ chối
sự cứu rỗi linh hồn, điều mà ở vào những lúc khác, họ đã tỏ ra rất bận tâm. Cái
lối cứng đầu cứng cổ kỳ lạ trong khi theo đuổi ý muốn làm cho họ thách đố với
chết chóc ở hàng ngàn hình thức: những rủi ro của biển cả xa lạ, các bệnh kỳ dị
và ghê tởm, thương tích, bắt bớ, đói rét, dịch tể, tuyệt vọng. Điều đó làm cho
họ trở nên to lớn, anh hùng, bi thống ngay cả trong những ham muốn buôn bán
không thoả mãn của họ, trong khi cái chết lạnh lùng đến đem họ đi không chừa
già trẻ. Hình như khó có thể tin rằng nội một lòng tham lam lại thúc đẩy những
người ấy theo đuổi ý tưởng một cách liên tục, cố gắng và hy sinh một cách kiên
trì như vậy... Với chúng ta, những người kế tục mà những thử thách như thế đã
tránh khỏi, họ có vẻ sáng rực lên không phải vì những thành quả họ đã đạt được
mà là vì chúng ta thấy ở họ những công cụ của định mệnh đã xô đẩy họ đi vào nơi
vô định, tuân theo một tiếng nói bên trong, một khích động toàn thể để đi tìm
một giấc mộng xa vời...”
Riêng Đông Nam Á, điển hình cho đám người
phiêu lưu này ở cuối thế kỷ XVII là Constantin Phaulkon đã làm cho Louis XIV
tưởng thực hiện được tham vọng làm chủ một quốc gia: Xiêm La dưới triều Phra
narai. Thế kỷ sau, thành công ở Ấn Độ của Dupleix (Pháp), Clive (Anh) về tiền
bạc, danh vọng, gây nên sự thèm khát, ganh ghét ở các chính quốc. Vẻ huy hoàng
rực rỡ của các triều đình Đông phương vẫn còn làm ngợp những tay phiêu lưu.
Công ty Đông Ấn Độ Pháp suy sụp, Đế chính Pháp tan rã, các chức việc, võ quan
thất nghiệp đua nhau đem kiến thức phục vụ các ông hoàng Ấn chống với người
Anh. Trình độ kỹ thuật thu nhận ở quốc gia xuất phát, tinh thần gan dạ kèm với
óc tổ chức khiến họ nổi bật lên giữa đám người họ phục vụ. Cho nên, không lấy
làm lạ rằng những viên lính thuỷ đào ngũ của Pháp lại giữ những vai trò điều
khiển quan trọng trong thuỷ quân Nguyễn Ánh sau này.
Hành động song song với đám người phiêu
lưu vì tư lợi này còn có những kẻ được gọi là Lớp người Phiêu lưu của Chúa và
của Lòng Bác ái, tức là các tu sĩ Thiên Chúa giáo. Họ đi truyền giáo với mục
đích đem những người “ngoại đạo” trở về nước Chúa. Ta cũng thấy ở họ tinh thần
mạo hiểm không sợ gian nguy. L.M. Laneau can dự vào vụ Phaulkon bị bắt giam ở
Ayuthia đến tháng 4-1691 mới được thả. Trong tù, ông viết thư (6-1690) cho
Louis XIV: “Chúng tôi sẽ làm lại như cũ nếu phải bắt đầu làm lại...”
Nhưng đồng thời, các tu sĩ này cũng không
thể nào tách rời quyền lợi đạo giáo với quyền lợi tổ quốc của họ. Viên Tư lệnh
thành Chandernagor đã nói rõ ràng trong một bức thư gởi cho Toàn quyền
Pondichéry (12-2-1778): “Tôi luôn luôn lấy làm lạ rằng tại sao ông Bộ trưởng
không ra lệnh cho các tu sĩ ở các nơi liên lạc thư từ với các người cầm quyền
để báo cáo cho họ biết về tình hình chánh trị những nơi họ ở, với các chi tiết
về buôn bán mà ta có thể gây được ở nơi đó. Điều đó chắc chắn có ích cho quyền
lợi chung hơn là vài tên tín đồ mà họ phải chăm sóc. Với lại làm cả hai việc
không có gì là mâu thuẫn hết. Trong khi một người là L.M, họ không nên quên
rằng tình trạng tiên khởi của họ là người của vua họ và phải chú trọng đến việc
phục vụ cho vua trong mọi việc cần đến họ”.
Không phải là chính quyền ép buộc, các tu
sĩ cũng công nhận việc phục vụ cho vua họ như một bổn phận thiêng liêng. Laneau
trong thư nói trên, không ân hận đã bị bắt, vì “điều đó có liên quan quá nhiều
đến thanh danh của Hoàng thượng.”
Chính trong cái ý thức tâm lý chung đó
của thời đại mà chúng ta thấy các giáo sĩ đều đồng loạt hành động như nhau.
Không phục vụ cho vua họ ở chính quốc thì họ phục vụ cho vương quyền nơi họ trú
ngụ, nhất là khi đường lối phục vụ này có hy vọng dẫn đến kết quả tốt đẹp cho
sự phát triển Đạo. L.M Jumilla có lần chê trách vua tôi nhà Nguyễn mà cũng phải
theo phản ứng tự nhiên cho Duệ Tông chui xuống gầm giường, thoát tay Tây Sơn
Nguyễn Lữ6. Các L.M ở Đồng Nai cũng như ở Thuận Hoá đều gọi Tây Sơn là “bọn
phản loạn” (les révoltés), gọi Nhạc, Huệ là “kẻ bạo chúa”, “kẻ thoán đoạt” (le
tyran, l’ursurpateur), bày tỏ trong các thư gởi đi tấm lòng hướng về cựu Nguyễn
của họ. Chót hết là Bá-đa-lộc đã gạt bỏ bao lời mời gọi, dẫn dụ của Tây Sơn để
hành động cương quyết trợ giúp Nguyễn Phúc Ánh. Cho nên, chính trong khung cảnh
dó, có những tham vọng để phục vụ cá nhân, quốc gia hay tôn giáo từ bên ngoài
sẵn sàng nhảy vào can thiệp mà chiến tranh chấm dứt phân chia ở Đại Việt thấy
thêm một yếu tố quyết định vậy.
1. G. Taboulet, La geste française en
Indochine, tome I t. 154, 155.
2. Thư đề ngày 12-2-1778 ở Chandernagor
(G. Taboulet, sđd, t.159).
3. Hutchinson và Berland. “Aventuriers au
Siam au 17e siècle”: BSEI. XXII. 1947, t. 13.
4. Aventuriers au Siam...”. bđd, 1.148.
5. M. Gaudart. “Les archives de
Pondichéry et les entreprises de la Compagnie française des Indes en Indochine
au 18e siècle”, BAVH, Oct- Déc 1937, t. 367.
6. BSEI, XV. 1940. bđd, t. 84.
Chương 2
GIA ĐỊNH,
ĐẤT TRANH CHIẾM QUYẾT LIỆT
Tiết 3
ĐẤT GIA ĐỊNH VÀ CHÚA TÔI NHÀ NGUYỄN
*Tình trạng khai thác và tiềm lực của Gia
Định * Trịnh chúa từ bỏ ý định Nam xâm * Đông Sơn Đỗ Thanh Nhân và Tây Sơn
Nguyễn Lữ (1776) * Nguyễn Huệ tiêu diệt họ Nguyễn (1777) * Nguyễn Phúc Ánh và
một giai đoạn mới của lịch sử họ Nguyễn.
Đất Gia Định1 mà chú cháu Nguyễn Phúc Ánh
dắt díu nhau vào hồi tháng 2 (Ất Mùi 1775) là nơi lập thành do công khai thác
của hai nhóm người: đám Minh thần lưu vong nửa cướp, nửa quan và đám nông dân
Việt nghèo khổ. Ở miền Đông, Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên khai phá đất
đai và đáng chú ý hơn, họ mở mang thương cục, làm giàu bằng cách mua bán với đủ
các hạng người: Trung Hoa, Tây phương, Nhật Bản, Chà-và (Mã Lai)2. Về phía cực
Tây, Cảng Khẩu3 Hà Tiên của Mạc Cửu cũng thịnh vượng bằng những sòng bạc rút
tiền của đám thương nhân và bọn lưu dân Phú Quốc, Cần Giọt (Kampot), Rạch Giá,
Vũng Thơm (Kompong Som), Trũng Kè, Cà Mâu4. Đám nông dân Việt thì phá rừng, vỡ
đất, giành giựt đất ruộng của người Miên bản xứ.
Tất nhiên với sự khai thác vội vã như
vậy, bản đồ xứ Gia Định vào hậu bán thế kỷ XVIII có những nét riêng biệt.
Việc Nguyễn Ánh tổ chức hành chánh ba năm
sau (1778) cho ta thấy một vài đặc điểm đó. Ông hoạch định bản đồ và chia ranh
giới cho các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ liên lạc nhau. Dinh Trấn Biên
lãnh một huyện (Phước Long) và 4 tổng (Tân Chánh, Bình An, Long Thành, và Phước
An). Dinh Phiên Trấn lãnh một huyện (Tân Bình) và 4 tổng (Bình Dương, Tân Long,
Phước Lộc, và Bình Thuận). Dinh Long Hồ cải làm dinh Hoằng Trấn lãnh một châu
(Định Viễn) và 3 tổng (Bình An, Bình Dương, Tân An). Đạo Trường Đồn (Định
Tường) lãnh một huyện (Kiến An) và 3 tổng (Kiến Đăng, Kiến Hưng, Kiến Hoà)6. Rõ
ràng là dân chúng (Việt) đã tập trung ở các thị trấn lớn và còn rải rác ở các
nơi xa. Vùng Hà Tiên vì chiến tranh với Xiêm đã bị tàn phá, dân cư thất tán mãi
đến thời trung hưng của Nguyễn Ánh (1788) cũng chưa gượng dậy được và còn chịu
ảnh hưởng binh lực của người Xiêm. Các thị trấn Việt giăng hàng từ cù lao Đại
Phố (Biên Hoà), Gia Định, Mỹ Tho, Long Hồ, Cần Thơ cắt đứt hẳn một khối đông
đúc dân Miên ở khu vực Bassac, Trà Vinh đoạn tuyệt với chính quốc của họ. Khối
dân này được hưởng sự thịnh vượng thương mãi do các cửa Cổ Chiên, Bassac, Mỹ
Thanh vẫn là một ổ rối loạn, mệt cho những ai nắm quyền xứ Gia Định. Chính uy
quyền của họ Nguyễn làm cho phần đất phức tạp này trở thành Đại Việt tách ra
khỏi con mắt dòm ngó, không phải của đám vua quan Chân Lạp suy yếu mà là của
quốc gia Xiêm đang lớn mạnh.
Đi vào Gia Định, Duệ Tông không những
tránh thoát được gọng kìm Trịnh - Tây Sơn, bỏ rơi được vào tay địch một kẻ
tranh quyền với mình mà còn kỳ vọng nơi đạo quân Tống Phúc Hợp để mưu đồ khôi
phục. Kỳ vọng đó không phải là vô căn cứ vì đất Đồng Nai “vựa lúa của quốc gia”
còn là nơi của đám dân tứ chiếng, cương cường, với đám hào phú Minh hương sống
trong “lầu son gác tía”, “ngói lợp tường xây”, đủ tiềm lực nuôi dưỡng chiến
tranh.
Viên lão thần Mạc Thiên Tứ tuy không còn
thành trì để cai trị nữa, nhưng vẫn là cánh tay đắc lực của Duệ Tông. Là người
Minh hương, làm quan triều, ông có đủ uy tín cũng như liên lạc hương ấp với đám
hào phú Đồng Nai để kêu gọi họ giúp Nguyễn. Là tướng từng có tham vọng lớn lao
(đã gây nên chiến tranh Xiêm - Việt 1769-1772), ông đủ quảng giao và biết rõ
khả năng kẻ ông có thể lợi dụng được. Ông viết thư cho Bá-đa-lộc kêu ông này từ
Nam Vang xuống vào khoảng giữa 1775 để bàn bạc chính sách cầu viện.
Những điều kiện thuận lợi đó, chú cháu
Nguyễn Phúc Ánh đã không dùng được trong những năm đầu vào Gia Định, vì một
mặt, Duệ Tông chưa giải quyết được những tranh chấp nội bộ, mặt khác, kẻ thù
của họ anh em Tây Sơn nhân dịp rảnh tay phía bắc, đã theo đuổi họ đến tận cùng.
Gọi là rảnh tay phía bắc không phải chỉ
vì Nguyễn Nhạc có một chính sách khôn ngoan đối với Trịnh Sâm mà còn vì Trịnh
Sâm đã bỏ mộng tưởng chiếm đất Nguyễn. Thực vậy, đã nói đói kém, dịch tể ở
Thuận Hoá, Quảng Nam ngăn bước tiến quân Trịnh. Trong khi đó ở Thăng Long, việc
chiếm Phú Xuân mang lại cho Trịnh chúa cả một kho tàng to tát8 để giúp cho Sâm
phung phí “làm ly cung ở trên Tây Hồ” mỗi tháng ba, bốn lần dạo chơi. Các nội
thần giả làm đàn bà, bày hàng bách hoá chung quanh bờ hồ để bán cho các quan
theo hầu Trịnh Sâm ghé lên mua trong tiếng nhạc dìu dặt, réo rắt của bọn nhạc
công nấp đâu đó. “Triệu bất tường”9 rõ rệt thêm trong sự nuông chiều thứ phi
Đặng Thị Huệ. Cho đến năm 1777, khi con người làm “cho Chúa mất nước” này sinh
được Trịnh Cán để có kẻ giành ngôi thế tử với Trịnh Khải, người con trưởng, thì
nguy cơ nghiêng đổ ngai vàng đã không có cơ cứu vãn được.
Cuối năm 1775, Nguyễn Nhạc dẹp xong cuộc
chống đối ở hai phủ Thăng (Bình), Điện (Bàn) (Quảng Nam) của Tôn Thất Xuân, Tôn
Thất Quyền với mưu chủ Trương Phúc Tá và viên hào phú người Hoa tên Tất. Nhạc
để cho Tham tướng Nguyễn Văn Duệ giữ Quảng Nam10 mà không gặp phản ứng nào của
Phú Xuân hết. Thực là một khuyến khích cho Nguyễn Nhạc trong việc đuổi theo họ
Nguyễn.
Viên Tiết chế đi Gia Định vào tháng 2 năm
Bính Thân (1776) là Nguyễn Lữ, lần đầu mà cũng là lần cuối cầm đầu quân tướng.
Duệ Tông vội chạy đi Đồng Chàm ở Trấn Biên tị nạn, kêu Tống Phúc Hợp về cứu.
Nhưng ngay ở Gia Định, Chúa cũng còn có một lực lượng phụ tá dưới quyền Đỗ
Thanh Nhân, viên tướng từ Quảng Nam vào.
Ông này đã tụ tập được 3.000 người ở Ba
Giồng12 với các tướng Huỳnh Đức, Trần Bố, Đỗ Hoành, Võ Nhàn, Đỗ Kỳ, lấy tên
Đông Sơn quân (cái tên mang quan niệm phong thuỷ, ma thuật, ngụ ý chống đối Tây
Sơn, không chỉ một hòn núi nào hết). Binh tướng quay về với những vũ khí thô
sơ, biến chế tại chỗ: dao xà gạc, đoản đao, gậy lao, gậy vung nhựa sối.
1. Gọi theo sử quan Nguyễn. Sau 1790, Gia
Định thành được xây cất làm nơi tập trung thực lực Nguyễn Ánh rồi với Tổng trấn
Lê Văn Duyệt, nó trở thành tên chỉ chung của cả Nam phần ngày nay. Sự thực đối
với dân chúng miền ngoài thời đó, tên thông dụng là Đồng Nai (Thực lục, q10,
37b).
2. “Thành trì chí” của Trịnh Hoài Đức,
Đại học V, 1, tháng 2-1962, trang 141 và chú số 49. Thực lục, q31, 2b, 3a.
3. Can Cao của người Tây phương, gọi từ
âm Quảng Đông (Kang K’ao).
4. Liệt truyện tiền biên, truyện Mạc
Thiên Tứ q6, 1ab. Nguyên chữ Hán (Việt) là Cần Bột, Giá Khê, Hương Úc, Lũng Kỳ,
Kha Mao. Chú trong ngoặc là dẫn giải riêng. Cùng quyển tờ 6a nói Thiên Tứ đổi
Kha Mao ra Long Xuyên, do đó, ta hiểu rằng danh xưng còn chỉ cả vùng “nước đen”
phía tây hạ lưu sông Cửu Long.
5. Thực lục, q10, 11b chẳng hạn.
6. Thực lục, q1, 8a. Muốn hình dung mức
độ khai thác cư dân trên vùng đất rộng như Gia Định quanh các năm 1778, hãy so
sánh với phủ Qui Nhơn đồng thời chẳng hạn nhỏ hơn nhiều mà có tới 3 huyện (Bồng
Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn).
7. Thư của Pigneau cho những người cai
quản hội Truyền giáo, đề Can Cao, 5-6-1776: “Tôi từ triều đình Cambodge xuống
Can Cao gần một năm rồi”.
8. Thư Jumilla đã dẫn. t. 83, Hoàng Lê,
sđd, t. 2.
9. Vũ trung tuy bút, Đông Châu dịch, NP,
XXI. t. 236. Chuyện xảy ra vào các năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774-1775). Chú ý rằng
bản dịch của Bộ Quốc gia Giáo dục (VNCH. 1962, không có chi tiết thời gian kể
trên.
10. Thực lục tiền biên, q12, 7ab. Liệt
truyện, q30, 8ab.
11. Truyện Đỗ Thanh Nhân, Liệt truyện
q27, 21b... Một số sử sự tiếp theo thấy ở đây và Thực lục tiền biên q12, 9a,
11b, 14ab... đến hết sách.
12. Tam Phụ. Ba Giồng gồm có: Giồng Dứa
(thuộc xã Phước Thạnh, Châu Thành, Định Tường). Giồng Cát hay Giồng Nhị Bình
(xã Nhị Bình, quận Sầm Giang), Giồng Thuộc Nhiêu chạy dài từ xã Dưỡng Điềm,
Điềm Hy (quận Sầm Giang) đến xã Nhị Quí (quận Cai Lậy). Giồng Cát còn có tên
Giồng Giữa (vì nằm giũa 2 giồng kia) và Gò Luỹ (chắc là Gò Lữ, Lữ Phụ nói đến
sau này). (Chỉ dẫn của ông Trương Ngọc Tường ở Cai Lậy.
13. Bđd. BSEI, 1940. t. 84. và bđd, Thành
trì chí, Đại học, 2-1962, t. 143.
Sử quan nhà Nguyễn ghi ba trận thắng của
quân Đông Sơn và quy công khôi phục Sài Gòn cho Đỗ Thanh Nhân. Thực ra trong
lúc chưa có trận đụng độ to tát nào để ghi tên chiến trận thì Nguyễn Lữ đã vội
vã vơ vét thóc lúa Gia Định chở trên hai trăm thuyền về Quy Nhơn. Thiếu người
cầm đầu có tài, gan dạ, Tây Sơn đã bỏ mất một cơ hội tiêu diệt họ Nguyễn.
Vừa lúc ấy, binh tướng Tống Phúc Hợp cũng
từ Bình Khang kéo vào với Lý Tài. Ở địa vị một viên Ngoại hữu do chiến công
khắc phục Sài Gòn mà có và là chủ tướng Đông Sơn, Đỗ Thanh Nhân không dung một
viên tướng Tây Sơn, cho dù là tướng đã quy phục. Xung đột xảy ra. Bị gọi là “đồ
chó heo” ngay tại vùng đất đầy người Trung Hoa, Lý Tài tức giận chiêu mộ hơn
8.000 người, chia làm bốn sắc cờ, lập đội Trung đao quân riêng cho người Minh
hương, lên chiếm núi Châu Thới1 dùng giáo, tầm vông, dao, súng điểu thương,
trong tháng 8 thắng quân Đông Sơn ở suối Lồ Ồ2 rồi đe doạ chiếm thành Phiên
Trấn. Tình thế trở nên phức tạp hơn khi Đông cung Dương bỏ chùa Thập Tháp trốn
xuống cửa Thi Nại đi vào Nam (5 tháng 10 âl)3. Vốn có quen Lý Tài từ lúc ở Hội
An, Dương cố thuyết phục Duệ Tông chiêu hàng Lý Tài. Tài giữ sứ giả, đem quân
xuống Sài Gòn, chịu để Dương chiêu an trong lúc quân Đông Sơn chạy về Ba Giồng
khiến Duệ Tông phải chạy theo. Như vậy, Đông cung Dương đã thắng Duệ Tông một
lần nữa. Cuộc đảo chánh thành khi Đông cung sai Trương Phúc Thận “rước” được
Duệ Tông về chùa Kim Chương4 để công nhận nhường ngôi cho. Dương thành Tân
Chính vương dưới sự chuyên chính của Bảo giá Đại tướng quân Lý Tài.
Trong khi xảy ra sự phế lập ở Sài Gòn thì
Nguyễn Ánh ở Ba Giồng với Đông Sơn. Không nên lấy làm lạ điều này. Từ khi vào
Gia Định được chức Chưởng sử cầm Tả dực quân, ở bên Duệ Tông để bàn việc binh,
khắn khít với Duệ Tông lúc chạy trốn Tây Sơn, Nguyễn Ánh luôn luôn hướng về Duệ
Tông5 chống Lý Tài “kiêu hoành nan chế”. Gia Định trong chia rẽ, Đông Sơn ở Ba
Giồng chống Hoà Nghĩa quân ở Phiên Trấn, là miếng mồi ngon cho Tây Sơn.
Họ vào tháng 3 năm Đinh Dậu (1777) như họ
đã hứa6 cả thuỷ lẫn bộ, cầm đầu là Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.
Tân Chính vương đem quân đi Trấn Biên.
Tướng tiền đạo của Vương gặp Tây Sơn đều bị giết, Vương lui về Sài Gòn. Thuỷ
binh Tây Sơn cũng đang dằng co ở đây. Hoà nghĩa quân giết được Tuần sát Tuyên ở
Hốc Môn. Nhưng gặp lúc Trương Phúc Thận kéo quân từ Cần Giuộc7 về tiếp viện,
quân Hoà Nghĩa tưởng là Đông Sơn đánh tập hậu bèn bỏ Hốc Môn chạy về Bến Nghé.
Tây Sơn thừa thế đuổi theo, thuỷ bộ ép đánh. Lý Tài hoảng hốt chạy về Ba Giồng
bị giết, còn Duệ Tông được 4.000 quân Đông Sơn rước về trú ở Rạch Chanh8 rồi đi
Tài Phụ.
Tháng tư, Tây Sơn tiến đến đuổi Duệ Tông
về Long Hưng. Gặp lúc Đỗ Thanh Nhân từ Rạch Giá đến, cả hai bèn đi Cần Thơ gặp
Mạc Thiên Tứ. Sau khi bàn định, Đỗ Thanh Nhân bèn đi cầu Trần Văn Thức và Châu
Văn Tiếp giúp đỡ. May mắn nhờ chuyến đi này ông tránh được nạn lớn.
Về phần Tân Chính vương ông chạy thua ở
Rạch Chanh về Trà Tân9 rồi được Tống Phúc Thiêm rước về Ba Vác10. Tháng 7, Tây
Sơn đánh tan viện binh Bình Thuận của Trần Văn Thức và tiến đến Ba Vác. Tống
Phúc Hoà (em Tống Phúc Hợp) không giữ được lâu, tự tử. Vương chết cùng 18 người
theo (19-9-1777) không có dịp để thực hiện ý định chạy ra Bình Thuận với Châu
Văn Tiếp.
Số phận của Duệ Tông cũng được định đoạt
sau đó. Chúa đã bỏ chạy đi Trấn Giang (Cần Thơ) tức là nơi Mạc Thiên Tứ và các
con Tứ chống giữ. Nhưng Tứ từ trận Hà Tiên cũng không có thực lực nên bàn với
Duệ Tông xin qua Kiên Giang đón thuyền đi Quảng Đông cầu viện. Chúa chạy về
Long Xuyên, nhưng Tây Sơn đuổi kịp đến nơi. Chúa cùng Nguyễn Phúc Đổng, anh
Nguyễn Phúc Ánh, và cha con Chưởng cơ Trương Phúc Thận, Lưu thủ Lượng, Tham mưu
Nguyễn Danh Khoáng đều bị giết (18-10-1777).
Lúc bấy giờ Nguyễn Ánh ở đâu mà lại thoát
khỏi cái vạ diệt tộc này? Sử quan nhà Nguyễn không lưu ý nhiều đến việc chạy
trốn không lấy gì làm vẻ vang cho chúa của họ nên không xét đến nơi chốn lưu
lạc của ông. Họ thay thế cái nhục lẩn tránh Tây Sơn bằng câu chuyện cá sấu đưa
qua sông, một bằng chứng mạng số đế vương của ông hoàng này. Tuy nhiên, do đó
ta cũng thấy những ngày chạy trốn thật đầy kinh hoàng. Thế mà, chỉ trong một
tháng sau ta thấy ông có mặt ở Long Xuyên với Đỗ Thanh Nhân. Điều đó chứng tỏ
ông vẫn theo Duệ Tông từ lúc rời Ba Giồng. Nhờ đó mà được Pigneau đem giấu trốn
và sai Hồ Văn Nghị đem thức ăn nuôi sống. Nguyễn Ánh thoát nạn thật là một may
mắn, trong khi Duệ Tông và Tân Chính vương chết đi không hẳn là một bất hạnh
cho họ Nguyễn. Hai người chết đi, chấm dứt một giai đoạn trong lịch sử họ
Nguyễn, giai đoạn suy vong, tranh chấp quyền lợi riêng tư trong cái thế nghiêng
ngửa của dòng họ.
Đối với Tây Sơn, con bài Đông cung Dương
đã không dùng đến nữa từ khi họ phá Tống Phúc Hợp ở Phú Yên. Nhưng thực ra nó vẫn
giúp ích Tây Sơn trong việc cùng với Duệ Tông chống đối làm phân rẽ thế lực Gia
Định cho đến bấy giờ.
Thất mã, đắc mã, cái chết tỉa Duệ Tông và
Tân Chính vương ở vào trường hợp đó. Tin chắc đã xong việc Gia Định, Nguyễn Huệ
và Nguyễn Lữ kéo binh về Quy Nhơn để lại Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy, Điều khiển
Hoà cùng Cai cơ Chấn chia binh cai trị. Nhưng khi anh em Tây Sơn xây thành Chà
Bàn, Nguyễn Nhạc xưng đế, hiệu là Thái Đức, phong Lữ làm Tiết chế, Huệ làm Long
nhương Tướng quân ở đất Quy Nhơn, thì họ cũng thấy ở Gia Định một trong những
người cuối cùng của dòng họ Nguyễn tập hợp tàn binh chống lại. Thực là khó chịu
cho họ.
1. Chiêu Thái.
2. Tân Bản Kiều.
3. Việc Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn
vương, phong chức cho các em, sai Nguyễn Lữ vào Nam và đem đày Đông cung Dương
vào chùa Thập Tháp đồng thời trong mùa xuân Bính Thân (1776) chứng tỏ ý muốn
hành động độc lập của Tây Sơn, loại trừ dứt khoát uy thế của cựu Nguyễn. Còn
việc chùa Thập Tháp ở ngay chân thành Chà Bàn, tức là chỗ dễ cho Nhạc trông
chừng Dương nhất mà Dương có thể thoát xuống cửa Thi Nại gần 20 cây số đường
nước lụt lội chính là nhờ ở sơ hở của lính gác trong mùa mưa to gió lớn ở địa
phương hơn là nhờ mưu kế đặt người giả cho ngủ trên giường của anh mưu sĩ nào
đó.
4. Nay đã bị phá đi, trên nền ấy xây cất
trại nuôi ngựa trong thành Ô Ma (trụ sở Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia - VNCH).
5. Thực lục, q1 2ab.
6. “La révolte...”, bđd. BSEI, 1948, t.
85.
7. Chỉ dẫn của Trịnh Hoài Đức (Aubaret,
t. 201). Thực lục tiền biên lầm với Cần Bột (Kampot).
8. 橙 汀. Có 2 địa danh
tương đương: Bến Tranh (như Trúc Giang: Bến Tre) đã có tên riêng khác, và Rạch
Chanh: (Tranh: chanh, tự điển P. Gouin, Đào Duy Anh), con rạch chảy trong vùng
Đồng Tháp ăn thông với Tiền Giang qua Ba Giồng. Quân tướng Nguyễn hay chạy về
phía này để núp trong tỉnh Romdoul của Chân Lạp hay để qua sông hướng Long Hồ,
đi Cần Thơ, Rạch Giá ra biển: con đường thoát thân thiết yếu đến nỗi Lý Tài
biết Đông Sơn ở Ba Giồng mà cũng chạy về đó để bị giết.
9. Rạch Trà Tân chảy từ giồng Thuộc Nhiêu
qua các làng Long Khánh, Long Tiên, Long Trung (chợ Ba Dừa) rồi ra Tiền Giang
nơi làng Hưng Long (chỉ dẫn của ông Trương Ngọc Tường, Cai Lậy).
10. Ba Việt của Thực lục, Liệt truyện.
Địa điểm Ba Vác ở trên rạch Cái Mơn chảy trong cù lao Mỏ Cày.
11. Thực lục. q1, 3a.
12. Thư ông Faulet cho ông Descourvières
ngày 25-4-1780 (A. Launay III. tr. 69. 70).
13. Liệt truyện, q30, 9b. Thử thách ở
chiến trường là mực thước đo tài năng các tướng. Các tên Chu, Hãn, Uy sau này
biến mất trên chính trường. Hoà chắc là Nguyễn Văn Hoà. Còn Chấn có phải là
Đặng Văn Chân (Chấn) không?
14. Ông Nguyễn Phương (Đại học số 5,
tháng 10-1762, t. 762) có dựa Tây Sơn sử truyện để tả thành này. Đáng lưu ý là
những danh từ to tát dùng để chỉ những kiến trúc thường rất khiêm tốn của ta
ngày xưa khiến ta cứ tưởng sự xây cất bên trong tất là hùng vĩ, tráng lệ lắm.
Chapman (bđd, t.29) trong chuyến đi thăm Qui Nhơn đã tả rõ như sau: “Thành chỉ
là một bức tường đá nhiều chỗ hư hại, không ụ súng, không tháp núp bắn, hay tất
cả những gì gọi là một thành trì chiến đấu... Cửa chính và tường không có một
tên lính gác nào và bên trong đất cày thành ruộng”. Chapman đến giữa năm 1778
tả như trên, nhưng thành có thể xây đắp thêm vào những năm sau. Tuy nhiên chi
tiết đất cày thành ruộng bên trong vẫn đúng nếu ta nhìn lại di tích ngày nay.
Qui mô tương đối thì khá hùng vĩ với dãy bờ đất đỏ đá ong chiếm ba làng Bả
Canh, Nam An, Thuận Chánh của quận An Nhơn. Tên thành 閻 盤 城 có thể đọc là Đồ
Bàn, Chà Bàn, Xà Bàn. Người địa phương ngày xưa, trên danh thiếp của họ, thường
dùng tên thành để chi tỉnh Bình Định: Nguyễn Văn Mỗ, Xà Bàn Thành, hay Trần Văn
Mỗ, Cổ Bàn Thành. Tên Chà Bàn, gốc Chàm, có ý nghĩa tôn giáo (Çaban = autel -
Aymonier và Cabaton, Dictionnaire Cam-Français, Paris, 1906, t. 461).
Hiện nay thành còn dấu vết là những mô
đất đỏ chạy bao quanh với hai thẻ đá đứng, dựng song song, chắc là cửa thành
sót lại sau khi Gia Long (năm thứ 12) sai phá đi, lấy vật liệu xây thành mới là
thành Bình Định bây giờ, cách phía Nam vài cây số (cũng bị phá nốt năm 1945,
1955). Thành Chà Bàn nay gọi là Thành Cũ.
Tiết 4
NGUYỄN PHÚC ÁNH VÀ QUYỀN UY Ở GIA ĐỊNH
Cuộc khởi binh ở Long Xuyên * Những nhận
xét về Nguyễn Ánh * Vụ Đỗ Thanh Nhân * Cố gắng tổ chức kinh tế ở vùng Tây Sơn
và giới hạn khả năng công phá Gia Định của họ.
Cả dòng họ Nguyễn sau biến cố Ba Vác và
Long Xuyên gần như là không còn ai hoạt động nửa ngoài Nguyễn Ánh. Thực vậy, về
phía vai chú Nguyễn Ánh có Tôn Thất Chất chết cùng năm này, Tôn Thất Đãng
(1744-1786) không hoạt động, Tôn Thất Xuân (1759- 1780) chạy sang Xiêm với Mạc
Thiên Tứ và mắc nạn ở đấy, Tôn Thất Thăng nằm lì ở Phú Xuân. Hai người anh thì
Tôn Thất Cao chết trận (không rõ năm nào), Tôn Thất Đổng cùng chết với Duệ
Tông. Một người em, Tôn Thất Điển còn sống tới 1783.
Phải nhận rằng sau biến cố 1777, nếu kẻ
sống sót không phải là Ánh thì biến chuyển ở Gia Định còn gây nhiều phiền phức
cho họ Nguyễn. Bởi vì, chúng ta lưu ý rằng ở Gia Định lúc bấy giờ Lý Tài đã
mất, Mạc Thiên Tứ lưu vong, lực lượng còn lại có người cầm đầu là quân Đông
Sơn. Mà như ta đã biết, Nguyễn Ánh đã nhân danh Duệ Tông điều khiển quân Đông
Sơn thì nay Duệ Tông chết đi, vị chúa không chối cãi của họ là chàng thanh niên
16 tuổi này.
Tháng 10 âm lịch 1777, ông trở về khởi
binh ở Long Xuyên. Gặp Thánh Nhân ở Sa Đéc1 và Cai cơ Hồ Văn Lận tiếp với quân
Cần vương Tống Phúc Khuông, Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phúc Lương, Dương Văn Trừng,
ông đánh thắng ở Long Hồ. Tháng 12 Đinh Dậu, quân Nguyễn thừa thế trở về Sài
Gòn, đuổi Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy về Quy Nhơn.
Tháng giêng năm Mậu Tuất (1778), họ
Nguyễn lập lại chính quyền dưới bóng cờ của Đại nguyên suý Nhiếp quốc chính
Nguyễn Phúc Ánh.
Như đã nói, một giai đoạn mới mở đầu,
không phải chỉ riêng cho họ Nguyễn mà còn kéo dài cho lịch sử Việt Nam nữa.
Những biến cố mới sẽ tuỳ thuộc không ít thì nhiều vào con người này mà ta muốn
biết.
John Barrow dựa trên các tài liệu của L.
Barizy, của một viên thư ký Trung Hoa của chính quyền Gia Định (Trịnh Hoài
Đức?) và các giáo sĩ mà vẽ rõ một Nguyễn Ánh lúc đứng tuổi với “dáng người cao trung
bình, vẻ mặt đều đặn, nhẹ nhõm”, “màu da đỏ hồng, rám nắng vì dầu dãi..”.. Sử
quan im lặng về điểm hình dạng này vì không dám mạn thượng, vì không có thói
quen tả thực. Nhưng khi nói đến tính tình thì ta thấy họ không tiếc dịp đề cao
vị hoàng đế của họ. Theo họ, Nguyễn Ánh là người “thông duệ túc thành”. Ông rất
trung thành với Duệ Tông, không bỏ vua khi nguy hiểm. Với bầy tôi, ông biết
chia ngọt xẻ bùi trong ngày nằm gai nếm mật. Trong đời sống công cũng như tư,
ta thấy ông lúc mềm mỏng, lúc cương quyết, ứng phó khá lẹ làng với tình thế.
Ông tổng hợp được nơi mình vai trò của một chính trị gia, một võ tướng. Chúng
ta có thể thấy vai trò ông đóng phải khó khăn tới chừng nào khi nghĩ rằng trong
thời kỳ cầm quyền, dưới tay ông lố nhố một đám quan binh phức tạp vì tình thế
(hôm qua cướp, nay quan, sớm đầu tối đánh) và lại phức tạp vì cấu tạo nữa (quân
Việt xen lẫn quân Miên, Chàm, Mã Lai, Tây phương, Trung Hoa).
“Người ta tả ông gan dạ, không thô kệch,
dồi dào biến trá trong mọi tình thế. Ý tưởng đúng đắn; không khi nào khó khăn
ngăn chặn được ông và chướng ngại không làm cho ông lùi bước... Cử chỉ của ông
đối với người ngoại quốc thật dễ thương và hoà nhã. Các sĩ quan dưới quyền ông
rất kính phục ông. Ông đối xử với họ rất nhã nhặn, thân mật và tốt..”3. Sử quan
còn cho ta biết ông bắn được súng điểu thương, bơi lội giỏi.
Những hình ảnh ấy tuy có lúc được vẽ vời
cho có vẻ “chơn mạng đế vương” nhưng không hẳn quá xa sự thật. Cũng nhìn xét
nhân vật quan trọng này để đồng thời tán tụng một bề trên của mình, L.M
Lelabousse viết trong bức thư đề ngày 14-4-1800:
“Ông hoàng này có lẽ là con người nóng
nảy, đoản tính nhất trong xứ, nhưng... những lời rầy la của Giám mục d’Adran đã
làm đằm tính bồng bột đó”. Ông cương quyết nhưng không hung tàn, ông hay nghiêm
trị nhưng theo lệ luật.
“Ông có đủ đức của tâm hồn cũng như của
trí tuệ. Ông có tính biết ơn, bao dung và tế nhị về điểm danh dự. Lớn lên trong
tai ương, ông chịu đựng được nghịch cảnh một cách can đảm, xứng đáng với nhà
thông thái đã huấn luyện cho.
“Lúc trẻ ông ưa rượu, nhưng từ khi phải
cầm đầu công việc, ông đã bỏ đi đến bây giờ không nếm lấy một giọt... Vì vậy,
ông mới ra những lệnh rất nghiêm khắc chống với những ai say sưa...
“Các đức tính trí tuệ không nhường những
đức tính tâm hồn. Hăng hái, thông tuệ, thẳng thắn, ông hiểu ngay từ lúc đầu
những việc phức tạp nhất. Ông nhớ mọi chuyện rất tài và ông bắt chước rất dễ
dàng...
“Ông rất cần mẫn. Ban đêm, ông đọc nhiều.
Ông rất tò mò tìm hiểu
“Đó là vị Hoàng đế vĩ đại nhất từ xưa đến
nay cửa xứ Cochinchine. Giám mục d’Adran và ông hoàng này là hai con người vĩ
đại mà những vẻ tráng lệ của xở này sẽ còn giữ lại hình ảnh oai hùng. Thế kỷ
của họ sẽ lưu danh...”
Ảnh hưởng của Bá-đa-lộc ở Nguyễn Ánh
không phải là không quan trọng, nhưng không phải chỉ như thế. Giáo dục mà ông
hoàng này hấp thụ là một thứ giáo dục Khổng môn được khuôn nắn trong thực tế.
“Lớn lên trong tai ương…”, Lelabousse nói có lý. Gia Long là một Nguyễn Ánh
được tập thành trong biến cố. Tuổi trẻ, gặp gia biến quá sớm, trước một kẻ thù
gần như là vô địch, bị rượt đuổi tận hang cùng ngõ hẻm, ông mang nhiều mặc cảm
yếu ớt, hay than thở và bị bắt buộc mong đợi, trông cậy ở người nhiều. Nhưng
tình thế giúp ông tự chủ dần dần. Việc khu trừ Đỗ Thanh Nhân là một ví dụ điển
hình.
Nguyễn Ánh vừa yên vị ở Gia Định thì
tháng hai năm Mậu Tuất (1778), quân Tây Sơn lại kéo vào. Quy Nhơn mắc bận rộn
việc xưng đế của Nguyễn Nhạc nên phái vào Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy và Hộ giá
Phạm Ngạn. Tây Sơn chiếm đánh các vùng Trấn Biên, Phiên Trấn và ven biển. Cựu
tướng Hoà Nghĩa đạo Trần Phượng thua trận ở sông Phước Lộc. Tháng ba năm đó, để
Đỗ Thanh Nhân trấn giữ Sài Gòn, Nguyễn Ánh bỏ đi Bến Lức Lê Văn Quân và Nguyễn
Văn Hoằng chận đánh được Tây Sơn ở Bến Lức khiến họ phải rút ra ngoài sông lớn.
Mở cuộc phản công, Đỗ Thanh Nhân chận được Tư khấu Uy ở sông Bến Nghé trong lúc
Nguyễn Văn Hoằng tiến đánh Đồng Nai (Biên Hoà) giết Liêm. Lăng thâu Trấn Biên.
Thuỷ quân bị Lê Văn Duyệt phá, Phạm Ngạn theo đường bộ về Bình Thuận gặp cản
trở của Châu Văn Tiếp và Lê Văn Quân phải thối lui về Quy Nhơn.
Việc Đỗ Thanh Nhân ở lại chống giữ cho
thành chứng tỏ lần nữa vai trò quan trọng của ông trong chiến tranh. Địa vị ông
sẽ càng vững chắc khi Gia Định thấy yên ổn, thoát khỏi những chuyến nhiễu lược
thường xuyên của Tây Sơn.
Trong các năm 1778, 1979, 1980, Gia Định
lo củng cố thực lực của mình: Nguyễn Ánh lo tổ chức hành chánh, chia doanh
trấn, đặt người coi giữ, tạo chiến thuyền, trữ lượng phòng bị chiến tranh. Sức
mạnh Gia Định cũng cần phải được chứng minh với phiên thuộc, nhất là với Chân
Lạp đang thừa thế rối ren để tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của Đại Việt.
Từ tháng 6 âm lịch (1779), ở Chân Lạp,
Nặc Vinh đã giết Nặc Thâm và bức tử Nặc Tôn để chiếm chính quyền. Đỗ Thanh Nhân
đem quân đánh dẹp, lập Nặc Ấn là con Nặc Tôn lên làm vua, lưu Hồ Văn Lân ở lại
bảo hộ rồi rút quân về.
Ngay chính trên đất Gia Định cũng không
yên vì thiểu số người Miên ở vùng Trà Vinh dưới quyền của tù trưởng Ốc Nha11.
Họ chiếm cứ một vùng mà sử quan phải tả là “rừng sâu, đầm lớn, cỏ dầy, tăm
tối”. Đỗ Thanh Nhân lúc bấy giờ giữ chức Ngoại hữu Phụ chính Thượng tướng quân,
nhân dịp tức vị của Nguyễn Ánh (đầu Xuân 1780) bèn cất quân phá rừng, mở đường
tiến đánh. Dương Văn Trừng lấy móc sắt câu các thuyền lại với nhau, dựng bè
chuối trên thuyền để ngăn tên giặc và theo nước thuỷ triều, quan binh đã tiến
lên phá được sức kháng cự của địch quân.
Chiến thắng Trà Vinh xong, Đỗ Thanh Nhân
trở về sửa soạn chiến thuyền, huấn luyện thuỷ binh cùng bộ binh. Ông tiếp tục
học hỏi về khoa học, kỹ thuật Tây phương với Bá-đa-lộc.
Việc tổ chức ở Gia Định chắc có Bá-đa-lộc
nhúng tay vào một ít. Ông này đã có mặt ở đây từ 1775 mà mối liên lạc mật thiết
với Nguyễn Ánh được các nhà truyền giáo rõ từ năm 1777. Tuy nhiên, người quan
trọng vẫn là Đỗ Thanh Nhân.
Kiêu căng trong quyền tước, ỷ thị nơi lực
lượng Đông Sơn trong việc giữ gìn quyền vua, Đỗ Thanh Nhân trở thành chuyên
chế. Ông mộ thêm vây cánh riêng cho ông. Bản tính hung bạo, ông làm cho cả xứ
phải sợ hãi, thù ghét. Quân Đông Sơn cũng có những hành động tàn ác như Trung
đao quân của Lý Tài thuở trước: họ dùng hình phạt rất thảm khốc, thiêu sống
người, giết cả đàn bà có mang. Có tham vọng không cùng, Đỗ Thanh Nhân còn muốn
chiếm lấy chánh quyền. Ông cắt xén các khoản chi phí trong cung. Nguyễn Ánh tới
phủ riêng ông không thèm giữ lễ. Ông cho tay chân nắm các chức vụ, và để cho
những ai thân hậu được mang họ của ông như một vị chúa tể vương tước.
Nhưng một võ tướng thô bạo như Đỗ Thanh
Nhân tự dẫn mình đến chỗ chết mà không hay biết.
Một người chín chắn, có ý thức về địa vị
của mình, có nhiều phụ tá mưu lược như Nguyễn Ánh, tất không thể nào chịu ép
một bề. Vào gần nửa đêm một ngày nào đó, ông đi tìm Bá-đa-lộc để hỏi ý kiến.
Ông này phân vân giữa Đỗ Thanh Nhân và Nguyễn Ánh, cả hai người ông đều có ý
giữ liên lạc để lợi dụng truyền đạo, nên trả lời thối thác một cách khôn ngoan.
Ánh khóc về, vẫn không bỏ ý định giành lại quyền binh.
Tống Phúc Thiêm thấy được ý Ánh, tâu xin
trừ “giặc bên cạnh vua”. Ánh suy nghĩ rất lâu và hai người bàn bạc kỹ lưỡng.
Cuối cùng mưu kế được đặt ra. Nguyễn Ánh giả bệnh ở mãi trong cung, các quan
văn võ phải vào vấn an. Nhưng trong mấy ngày đầu, Đỗ Thanh Nhân không tới. Đến
cuối ngày thứ ba, ông tới với một số đông vệ sĩ như thường lệ. Để quân hầu ở
ngoài, Nhân tiến vào trong gặp mẹ, vợ Nguyễn Ánh trong phòng bệnh, cả hai không
hay biết gì hết. Nhân chưa kịp nói một lời thì một nhóm vệ sĩ ở phòng bên cạnh
tiến ra, giết chết ngay.
Nhưng mối lo sợ của Nguyễn Ánh khi nghĩ
tới hậu quả vụ trừ Đỗ Thanh Nhân đã xảy ra. “Tôi ngại có rối loạn lớn”. Quả
vậy, quân Đông Sơn mất chủ tướng bị phân ra làm 4 đạo. Một số quân trung thành
với chủ cũ chạy về Ba Giồng, căn cứ cũ, làm phản dưới quyền của Đỗ Bảng, Võ
Nhàn - anh của Phò mã Chưởng hậu quân Võ Tánh sau này.
1. Sa Đích của Thực lục.
2. Thực lục, q1, 3b và Liệt truyện q27,
23b, q30, 9b.
3. Trích lại của G. Taboulet, La geste
française, t. 270.
4. Thực lục q6, 19a. Chế độ khắc khổ: q4,
9b, 15a, q8, 28b.
5. Lòng ham thích học hỏi được truyền đến
cho con. Xem lời dặn Hoàng tử Cảnh lúc cho ra trấn Diên Khánh (Thục lục q6,
35b). Ý kiến của Dayot: “(Nguyễn Ánh) chú ý thích thú với tất cả những gì thuộc
về khoa học phát minh” (G. Taboulet, La geste française, sđd, t. 250).
6. G. Taboulet, La geste française. sđd.
t. 268.
7. Lật Giang 栗 汀 của sử quan.
8. Trịnh Hoài Đức chỉ rõ sông Bến Nghé là
sông Bình Giang, vàm Bến Nghé ở chỗ rạch Bến Nghé đổ ra sông Sài Gòn (Aubaret.
t. 137, 184). Có lẽ là khúc sông Sài Gòn (Tân Bình giang) ở khoảng Bến Tàu bây
giờ.
9. Thực lục. q1, 4b. 5ab.
10. Thực lục. q1, 7b. Liệt truyện q21,
23b.
11. Chức quan Chân Lạp.
Các loạn tướng không được may mắn như mấy
lần chống đối trước. Trong tháng 5 nhuận, Nguyễn Đình Toàn, Tống Phúc Lương
được lệnh đánh họ ở sông Lương Phú. Tống Phúc Lương vụng về làm bại binh. Lương
bị biếm, Cai cơ Nguyễn Văn Quý, Phan Văn Tuyên thay. Đỗ Bảng, Võ Nhàn đều bị
trừ1.
Như vậy, Nguyễn Ánh cũng đã trải qua một
cơn thử thách. Lần này, kẻ địch không phải từ ngoài vào mà là nằm trong tâm phúc.
Thử thách đó làm vững chắc thêm kinh nghiệm cầm quyền của ông. Vụ này đã gây
nên sóng gió trong chính quyền Gia Định. Cuộc bạo loạn của các phản tướng Đông
Sơn là một trong những nguyên nhân làm ngưng cuộc tiến quân ra Phú Yên hồi giữa
năm 1781.
Sử quan nhà Nguyễn vẫn cho là vụ này làm
đầu mối cho việc Tây Sơn lại tấn công vào Nam: được tin Đỗ Thanh Nhân bị giết,
Nguyễn Nhạc mừng rỡ “Hữu Phương chết rồi, các tướng khác không đáng lo” rồi
chuẩn bị nam chinh2. Sự thực không giản dị như vậy. Đỗ Thanh Nhân cũng như Châu
Văn Tiếp năm sau, không đủ là một cản trở nguy hiểm cho Tây Sơn.
Chúng ta lưu ý rằng từ 1775, lúc tiến lúc
lui, quân Nguyễn vẫn giữ các vùng Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận trong khi Tây
Sơn chuyên chú vào việc tấn công Gia Định tới ba lần rồi. Tại sao vậy? Không
phải tại có Châu Văn Tiếp cản trở ở vùng ngoài như người ta vẫn tưởng. Chuyến
nam chinh 1777, Tây Sơn kéo vào bằng cả đường bộ mà không gặp cản trở quan
trọng. Tổng đốc Chu, Hộ giá Phạm Ngạn những lần rút lui tuy bị chận đánh nhưng
vẫn về được Quy Nhơn. Có thể coi bọn Châu Văn Tiếp như các đội tiền đồn lẻ tẻ,
lẩn tránh trên vùng núi rừng trong khi đại bản doanh đóng ở Gia Định với họ
Nguyễn cầm đầu. Đánh vào nơi phải đánh, đó là lý do Tây Sơn “nhập khấu” Gia
Định.
Tây Sơn còn biết Gia Định ở một điểm nữa:
đó là sự sung túc ở miền này. Họ hẳn không quên việc họ cướp thuyền lương của
Mạc Thiên Tứ viện trợ cho Duệ Tông vào năm 1774, việc Nguyễn Lữ chở lúa thóc
kho Gia Định về Quy Nhơn. Ngoài ra, họ còn cướp tiền bạc của các phú thương Hoa
kiều ở cù lao Đại Phố nữa. Có thể nói tiền của, thóc lúa đó đã nuôi nấng quân
Tây Sơn chật vật đánh giặc.
Tình trạng nghèo cực ở vùng Tây Sơn không
phải là một điểm lạ. Họ nổi dậy thừa hưởng một xứ cùng khổ sẵn, càng cùng khổ
hơn vì tàn phá của chiến tranh, làm ruộng đất bỏ hoang, công nghệ lụn bại,
khiến họ khó khăn khi muốn phát triển quyền lực quá giới hạn địa phương quê
hương họ.
Chiếm thêm Quảng Nam, họ chỉ thêm được
một xứ tan nát của Nguyễn, Trịnh để lại. Họ phải mua những vật dụng cần thiết
nhất của các thuyền buôn Trung Hoa nhập cảng với giá cắt cổ. Tiền bạc do đó hụt
lần và họ phải phá nhà thờ, nhất là chùa để lấy chuông tượng đúc tiền.
Nguyễn Nhạc cũng ước lượng được tài
nguyên trong xứ rất dồi dào: tiêu, đậu khấu, quế, gỗ mun, ngà voi, thiếc... mà
dân chúng không biết lợi dụng vì họ “ngu dốt”. Nhưng ông cũng biết rằng các
nước khác coi các thứ này là quý giá và chúng có thể đem lại lợi tức cho quốc
gia ông. Cho nên, gặp Chapman, ông vội vã mời buôn bán, đưa ra một thuế biểu:
10.000 quan cho một chiếc tàu 3 cột buồm, 7.000 quan cho tàu 2 cột buồm, 4.000
quan cho những chiếc nhỏ hơn. Bị chê mắc, ông hạ xuống còn 7.000 quan, 4.000
quan và 2.000 quan. Rồi mời mọc Chapman về nhà riêng, ông lại ném ra một ý kiến
tỏ ra hàng đầu: tha thuế. Cuộc thương thuyết thật tức cười nhưng cũng cho ta
thấy được tình cảnh đáng thương của Tây Sơn trong việc thực hiện mơ ước lớn lao
với các phương tiện eo hẹp.
Thực vậy, chính quyền Quảng Nam cho
Chapman một giấy phép buôn bán, bắt mọi người ai mua đồ của ông phải trả đủ,
không được ức hiếp, ngược đãi ông cũng như khách hàng của ông. Nếu không tuân,
họ sẽ phải chịu những hình phạt nặng nề. Nhưng điều đáng nguy cho cả Tây Sơn là
Chapman không tìm được một người nào trong tỉnh để thảo luận việc bán buôn. Ta
hiểu tại sao có điều đó: chỉ có người Trung Hoa mới làm nghề buôn bán to lớn,
thế mà Faifo vừa bị tàn phá đến tận gốc thì ai đâu mà giao dịch với ông.
Tóm lại chiến tranh không phải là không
hao tốn cho Tây Sơn. Sau này, Nguyễn Ánh có lần kéo quân ra cũng vì lương vận
tải không kịp mà phải rút về. Cho nên, những chuyến đánh vào rồi lại quay ra
của Tây Sơn phải được giải thích bằng sự giới hạn của lương tiền cung cấp chiến
tranh. Giới hạn này lại chuyển qua hình thức khác, giới hạn quy định của gió
mùa. Đánh vào khi còn mùa gió bấc, rút về khi nổi gió nam, Tây Sơn phải liệu
định thời gian hành quân thu đến mực tối thiểu: chiến thuật yểm kích, đánh mạnh
rút nhanh mà người ta vẫn khen Nguyễn Huệ, có một phần nguyên cớ từ các giới
hạn này.
Chật vật như vậy nên khi anh em họ xưng
Đế ở Hoàng đế thành (Chà Bàn), khinh địch đưa vào Nam toán quân yếu kém của
Tổng đốc Chu, họ đã để mất một cơ hội diệt Nguyễn Ánh. Phải chờ tới năm sau khi
Nguyễn Ánh đã thu nhận những yếu tố mới (tiết 5) để cải thiện binh lực. Tây Sơn
sợ tàu Hoà Lan trở nên e dè. Đỗ Thanh Nhân chết rồi, Nguyễn Ánh còn tổ chức
được một cuộc tiến quân ra Phú Yên. Tây Sơn hẳn không dám vội xét đoán hậu quả
cái chết của Nhân sẽ có lợi cho họ. Thực ra, chỉ có lúc tin Hữu Phương chết hợp
với điều chứng kiến tận mắt về khả năng của đội quân Tôn Thất Dụ tiến ra, họ
mới vững lòng ồ ạt phản công, “nhập khấu” Gia Định lần nữa để ghi trận Ngã Bảy
vào sổ quân công của họ như ta sẽ thấy.
1. Tổng hợp Thực lục q1, 11b, 12a, 13b;
Liệt truyện q12, 3a chuyện Nguyễn Đình Toàn, q13, 2ab, chuyện Tống Phúc Thiêm,
q27, 2ab, 25a, chuyện Đỗ Thanh Nhân; A. Launay, III, t. 312, 313, tài liệu của
Thư viện Hội Truyền giáo.
Quận lỵ Bến Tranh cũ còn có tên là Lương
Phú, vậy Lương Phú Giang là sông Bến Tranh.
Truyện Đỗ Thanh Nhân nói rõ ông này chết
vào khoảng tháng 3 âl 1781, Liệt truyện q30, 10a cho vào năm Nhâm Dần (1782).
Suy xét mối liên quan với cuộc tấn công Phú Yên, vụ các tàu Bồ (tiết 5) chạy
trốn được xác định rõ tháng 7-1781, ta thấy việc xảy ra quả vào năm Tân Sửu
(1781).
2. Liệt truyện q30, 10a.
3. Chapman, bđd, t. 30-32, 36, 37.
4. Chapman lên thành Chà Bàn vào khoảng
giữa tháng 7-1778, được Nguyễn Nhạc tiếp, ông lưu ý đến một chiếc ghế trống bên
cạnh Nhạc “dành cho người em khác đang ở Đồng Nai”. Ai đây? Như trước đã thấy,
chuyến vào tháng 2 Mậu Tuất (1778) không có người nào trong 3 anh em Tây Sơn
theo chỉ huy. Trận chiến kết thúc vào khoảng tháng 3 âl. Như vậy không thể nói
rằng người em vắng mặt kia ở Đồng Nai được. Phải nghĩ rằng Tây Sơn lúc này đang
chuẩn bị đánh báo thù từ khi họ biết tin thua. Người đi sửa soạn đó tất là
Nguyễn Huệ, chắc lúc bấy giờ ở Phú Yên (ở cửa Thi Nại thì Chapman đã biết) và
vì thế mới có tin đồn ông “ở Đồng Nai” và Chapman mới thấy thuỷ sư Tây Sơn chỉ
có vài chiếc galère và ít thuyền cướp được của người Trung Hoa thôi.
Tiết 5
KỸ THUẬT TÂY PHƯƠNG RỤT RÈ
BƯỚC VÀO CHIẾN TRANH NAM HÀ
Mới mẻ trong quân lực Nguyễn Ánh * Trận
Ngã Bảy * Vụ cầu Tham Lương và hậu quả * Châu Văn Tiếp và Nguyễn Huệ.
Khi các đối phương mở cuộc chiến tranh
thanh toán nhau thì họ thử dùng tất cả phương tiện để đạt tới mục đích. Trong
cuộc tranh chấp Tây Sơn - Nguyễn ở buổi đầu này, lòng can đảm, gan dạ của chiến
sĩ Tây Sơn bị ngăn cản rất nhiều vì hậu thuẫn kinh tế giới hạn, vì thiếu phương
tiện nối liền với một chiến trường xa nơi xuất phát. Cho nên thấy được kỹ thuật
cao độ của Tây phương Nguyễn Nhạc mới đề nghị với họ xin người luyện tập sĩ
tốt, mướn tàu chở binh lính, mở giao thương. Nhưng ông đã thất bại như ta đã
thấy và sẽ thấy vì xứ sở ông, do ảnh hưởng của chiến tranh, thiếu mất đám người
trung gian quan trọng: thương nhân Trung Hoa.
May mắn hơn Tây Sơn, Nguyễn Ánh ở Gia
Định có những điều kiện để lôi kéo thương nhân Trung Hoa, lại thêm các giáo sĩ
Tây phương, một trung gian quan trọng khác nữa. Trong khi phân trần về hành
động đã can dự vào chính trị Đại Việt, Giám mục d’Adran chứng minh cho ta thấy
xác nhận trên trong bức thư đề ngày 26-7-1779: “Hai chiếc tàu từ Macao đến
Bassac trong năm nay để buôn bán... Một người Trung Hoa đưa ý kiến với ông lớn
của xứ Cochinchine cho ông ta biết rằng tàu chứa đầy đại bác, diêm tiêu, lưu
hoàng và các thứ khí giới, đạn dược khác. Ông quan mà tôi rất quen đó đương hết
sức cần các thứ hàng hoá này, vội vã bắt tôi viết thư cho các quan coi tàu yêu
cầu họ bán cho ông hết hay một phần. Hay nếu có thể, họ đem tàu giúp xứ
Cochinchine: đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi khác nữa”.
Tuy các vị chủ tàu có phàn nàn về thái độ
tham dự của Bá-đa-lộc, cách giao thiệp này cũng đưa tới kết quả là vào khoảng
tháng hè 1781 trong cuộc duyệt binh tháng 5 Tân Sửu với không dưới 3 vạn quân,
80 thuyền đi biển, 3 đại chiến thuyền, sử quan ghi rõ có hai chiếc tàu Tây (Tây
dương thuyền). Thực ra, Bá-đa-lộc và các L.M giòng Franciscain ghi nhận tới 3
chiếc tàu Bồ Đào Nha chở đầy binh lính, khí giới súng đạn và lương thực. Chính
Bá-đa-lộc, “bằng cách nói chuyện chơi” cũng đã du nhập kiến thức, kỹ thuật mới
vào Gia Định khi ông dạy Đỗ Thanh Nhân lối dùng lựu đạn, làm giúp một thước đo
góc đạc điền, một rapporteur, một ống loa, một dụng cụ thiên văn và những dụng
cụ toán học khác... Hơn nữa, ông còn cho người giúp việc của ông, Mãn-noài,
Emmanuel..., một tay lính thuỷ breton, sang phụ tá Nguyễn Ánh, điều khiển một
chiếc tàu Bồ.
Có được lực lượng như vậy, Nguyễn Ánh tuy
vừa mới xử xong Đỗ Thanh Nhân, vẫn tưởng rằng có thể tấn công ngay Tây Sơn. Sau
kỳ duyệt binh, ông sai Tôn Thất Dụ làm Tiết chế bộ binh Bình Thuận cùng Tống
Phúc Thiêm, Nguyễn Hữu Thuỵ, Dương Văn Trừng ra Hòn Khói2 hợp với Châu Văn Tiếp
tiến đánh. Hai chiếc tàu Bồ nhân dịp này giương buồm chạy thẳng. Chiếc thứ ba
dưới quyền Mãn-noài không trốn được. Tuy chỉ có một mình, nó cũng làm cho binh
Tây Sơn nghe đồn bọn “Olane” giúp vua, bây giờ thấy chiếc tàu do tay “Ông Cả”
tạo ra, “chạy không cần nước”, đâm ra sợ hãi bỏ trốn khỏi Bình Thuận, Bình
Khang, Phú Yên3. Nhưng cuộc tiến quân không đạt kết quả vì bộ binh Tây Sơn với
nhiều voi thiện chiến đã đánh đuổi quân Nguyễn Ánh làm Châu Văn Tiếp phải chạy
về Chà Rang. Gặp lúc dư đảng Đông Sơn nổi dậy, quân Nguyễn rút về Gia Định.
Tốn thực nhiều để trang bị tàu Bồ mà
không được ích lợi gì, triều đình Gia Định lấy làm tức giận. Nếu phải e ngại
phản ứng ngoại quốc thì Mãn-noài có đó để ra tay trả thù ngay, luôn tiện thanh
toán mối hiềm Pháp, Tây Ban Nha trên bình diện đạo cũng như đời ở xứ này.
Mãn-noài đã phục cho viên chủ tàu Antonio Rodiguez say trong một tiệc rượu, rồi
giết chết cùng với 27 lính Bồ khác và L.M Antonio làm Tuyên uý dưới tàu, chỉ để
thoát có 8, 9 kẻ bơi trốn vào bờ (tháng 9-1781).
Tất cả những việc xảy ra làm suy kém binh
lực Nguyễn Ánh, tuy nhiên họ cũng còn mạnh hơn đạo thuỷ binh Tây Sơn kéo vào
đầu tháng 4-1782, như nhận xét của Pigneau. Sử quan Nguyễn ghi đạo quân Nhạc,
Huệ vào cửa Cần Giờ tháng ba Nhâm Dần có độ vài trăm thuyền. Tống Phúc Thiêm
lãnh thuỷ binh từ khi Đỗ Thanh Nhân chết đi, được lệnh dẫn binh ra sông Ngã Bảy
đợi. L.M Ginestar ghi nhận quân Gia Định có hơn 400 thuyền chiến, 70 ghe Tàu
(?) và chiếc tàu Bồ của Mãn-noài cướp.
Nguyễn Ánh đứng ở đầu thuyền, chiến đấu
rất hăng. Nhưng Tây Sơn thừa thế gió lớn thổi thuận, xông thẳng lên, ào ạt tiến
đánh. Tống Phúc Thiêm mang phần lớn binh thuyền bỏ chạy, Nguyễn Ánh phải lui.
Tây Sơn đuổi theo nhưng bị Mãn-noài cản trở. Hai lần họ cố trèo lên tàu mà
không được vì Mãn-noài dùng lựu đạn ném họ tan tành. Lần đầu tiên chiến cụ Tây
phương chứng tỏ trực tiếp hiệu nghiệm của nó. Nhưng quân địch vẫn ào ạt xông
lên lần thứ ba. Lần này họ thành công. Mãn-noài một mình ở lại giữ thuyền, châm
lửa cho thuyền nổ, mình chết. TâySơn đã thắng trận nhờ gan dạ nhưng phải mất
rất nhiều mạng.4 Thực là một mối cám hận cho Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ.
Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, có khi
lẩn trốn trong khu rừng Romdoul của Chân Lạp.5 Tây Sơn đuổi theo vào cuối tháng
tư dương lịch, bắt vua quan Chân Lạp hàng phục và bắt tất cả những người Việt
chạy loạn ở đấy phải về nước. May mắn cho Nguyễn Ánh, một việc vừa xảy ra ở
Phiên Trấn khiến Tây Sơn bị ngăn trở phần nào trong việc săn đuổi.
Lúc bấy giờ Tiết chế Bình Thuận Tôn Thất
Dụ nghe Tây Sơn vào Gia Định vội xuất binh đem Nguyễn Văn Đàm, Trần Văn Tự,
tướng Hoà nghĩa Trần Công Chương đi vào cứu giá. Tháng 1 âm lịch, viện binh đến
Vườn Trầu6 gặp bộ binh Tây Sơn, họ bèn phục binh đánh. Tham tán Hồ Công Siêu bị
đạn chết. Về phía Tây Sơn, Hộ giá Phạm Ngạn bị Chương giết ở cầu Tham Lương.
Vừa lúc ấy đại binh Tây Sơn kéo đến, họ phải rút lui.
Cái chết của Phạm Ngạn gây ra một cuộc
giết chóc Minh dân tàn bạo không từng thấy. Nhạc, Huệ đã mất khôn ngoan rồi
sao?
Chúng ta hãy lưu ý trước tiên đến cá nhân
người bị giết. Tài liệu không nói rõ gì hơn, nhưng ở chỗ khác ta thấy Nguyễn
Huệ có một người vợ họ Phạm đã sinh ra Quang Toàn. Trong xã hội cũ của chúng
ta, mối liên lạc tông tộc, địa phương là một bảo đảm cho sự vững bền của triều
đình. Cho nên họ Trịnh lựa quân Tam phủ cho làm Ưu binh, hưởng đặc quyền. Họ
Nguyễn trọng người Tống Sơn đến nỗi lấy phẩm từ “quý” thay thế cho cái tên
huyện riêng kia để gọi những người cùng xứ đã theo Nguyễn Hoàng vào Nam là dân
Quý Huyện, Quý Hương, cho hưởng rất nhiều ưu đãi đến như Tống Phúc Phượng theo Tây
Sơn tới thế cùng lực kiệt mới hàng vẫn được kể vào hàng thần từ nhà Nguyễn. Tây
Sơn vươn lên trong một xã hội rạn nứt mà vẫn trong khuôn khổ cũ cũng không
thoát khỏi thông lệ đó. Vụ Quang Toàn phong tước cho anh em, vụ Bùi Đắc Tuyên
sẽ là những chứng cớ mạnh mẽ. Ở đây, Phạm Ngạn có bà con với Nguyễn Huệ không?
Ta đã nói tài liệu im lặng. Nhưng mối thâm tình với hai ông chúa Tây Sơn thì
hẳn Phạm Ngạn đã có. Chức Hộ giá với mấy lần Nam chinh mà không có Nhạc, người
cần “hộ giá”, chứng tỏ vai trò quan trọng, địa vị thân thuộc với Tây Sơn của
ông. Ông cầm quân có nghĩa như chính Nhạc cầm quân vậy.
Đằng khác, nhìn vào hoạt động của kẻ mà
Nhạc trút căm hận lên đầu, ta cũng thấy nhiều điểm sáng tỏ. Từ những biến loạn
1776, 1777 tàn phá cù lao Đại Phố ở Biên Hoà thì thương nhân Trung Hoa kéo về
quây quần quanh thành Gia Định. Lý Tài chết đi nhưng đám Hoà Nghĩa quân vẫn
còn. Nguyễn Ánh khôn ngoan đã thu dụng họ, tuy không đồng hoá được quân đội họ.
Ta thấy trong trận 1779 có tên Hoà Nghĩa
quân của Trần Phượng, trận Vườn Trầu có Trần Công Chương, và năm sau nữa có Hoà
Nghĩa đạo của Trần Đình với các tướng Tổng binh Trần Hưng, Lâm Húc. Như vậy,
người Trung Hoa, buôn bán cũng như binh lính từ dân ngụ cư mà ra đều ở trong
một thế hợp tác chặt chẽ với Nguyễn Ánh. Thực lực Gia Định đã làm cho Tây Sơn
phải thắng mà hao quân ở Gia Định, làm cho họ bại mất viên Hộ giá thân tín ở
cầu Tham Lương, Nhạc và Huệ hẳn không thể không hiểu chính là vì đám dân Trung
Hoa ở đây. Ra lệnh tàn sát, Nhạc đã tuân theo sự xúi giục của tình cảm, có sự
góp sức của lý trí. Hờn oán làm cho lệnh càng ghê gớm.
L.M Castuera có mặt ở Chợ Quán ghi nhận
(thư ngày 7-7-1782có) gần 4.000 người Trung Hoa bị giết. Sử quan nhà Nguyễn
tăng số lên “hơn vạn”. Trịnh Hoài Đức cũng vậy. André Tôn (thư ngày 1-7-1784)
nói có từ 10.000 đến 12.000 người chết. Đáng lưu ý là con số trên vạn là nhận
xét của những người Việt quen ước lượng phóng đại. Tuy nhiên cảnh tượng diễn tả
thật là kinh khiếp và hẳn không xa sự thật bao nhiêu: “Người Trung Hoa, bất
luận binh lính hay dân buôn, mới đến hay ở lâu, đều bị bắt giết, thây chất ngổn
ngang vất đầy sông ngòi, đến nỗi nước ứ không chảy, cả tháng hơn người ta không
ai dám ăn tôm cá, uống nước sông”. Một không khí khủng bố bao trùm khắp vùng:
những ai có hàng Trung Hoa trong nhà như vải lụa, trà thuốc, hương giấy... đều
vất cả ra đường mà không người dám lượm.
1. A. Launay, III, t. 74, 75. Ông quan
lớn này là Đỗ Thanh Nhân (xem trước: vụ Đỗ Thanh Nhân). Chính chúng tôi nhấn
mạnh chữ Trung Hoa. Chúng ta cũng lưu ý đến ngày tháng bức thư để hiểu rõ những
điều nói ở tiết trước về sự e dè của Tây Sơn đối với thuỷ quân Gia Định.
2. Yên Cương, Hòn Chông, nhà giòng Hòn
Đất của Pigneau đều ở ngay trên đất liền. Vì lẽ đó, trái với tin tưởng thông
thường, “hòn” không phải để chỉ riêng những đảo nhỏ mà còn để chỉ những gò đất
nhô ra gần biển. Cho nên, Hòn Khói thật là địa danh rất hợp để tìm ra vị trí
Yên Cương của sử quan.
3. Chi tiết kể ra trước và sau đây lấy ở
thư Pigneau kể trước, thư của L.M Castuera gởi cho L.M Trưởng tỉnh (BEFEO,
1940, bđd, t. 88), thư Pigneau đề ngày 24-7-1782 (A. Launay, III, t. 71, 76).
Thực lục, q1, 13ab có ghi “Thuỷ binh Tây Sơn không dám đánh” phù hợp với lời
huênh hoang của Castuera.
“Olane”: Hoà Lan; Ông Cả: Bá-đa-lộc.
Những chi tiết do các nguồn sử liệu khác nhau so ra hết sức sít sao ở đây.
4. Thư Pigneau 24-7-1782, Langenois ở Sa
Đéc, 14-11-1782, L.M Ginestar, 7-7-1782, Liệt truyện q30, 10b, Thực lục q1,
16ab.
Về thời gian Tây Sơn vào, Thực lục, Trịnh
Hoài Đức có chỉ rõ tháng 3 âl. Thư Pigneau ở Pondichéry ghi: “Mars 1782” gần
việc xảy ra hơn, phù hợp với xác nhận của Langenois “au commencement d’ Avril”.
Không như ông Nguyễn Phương đoán “có lẽ vào hồi tháng giêng Nhâm Dần” (Đại học,
10-1762, t. 773, chủ số 1). Cũng không như ông bảo người mang binh thuyền bỏ
trốn là Đỗ Nhàn Trập (bài dẫn trên. t. 773). Thục lục q1, 12b nói: “Ánh sai
Phúc Thiêm lãnh thuỷ binh”, 16a “Ánh sai Phúc Thiêm dàn binh ở Thất Kỳ giang”.
Vậy viên Général commandant la flotte mà Ginestar nói đến chính là Tống Phúc
Thiêm.
5. Swayrieng bây giờ.
6. Hốc Môn, Gia Định.
7. BSEI, 1940, “La révolle ét la guerre
des Tây Sơn”, bđd, t. 87; Thực lục q1, 17a; Liệt truyện q 30, 10b; A. Launay,
III, t. 84.
Thế là sau vụ Hội An, theo với sự đưa đẩy
của chiến tranh, Tây Sơn càng trở nên cô lập. Như đã thấy, thương nhân Hoa cung
cấp vật dụng cho người Việt, xuất cảng những sản vật trong nước, là một nhân tố
quan trọng cho sự phát triển kinh tế ở đây. Tuy Tây Sơn sẽ còn đủ khôn ngoan để
ve vãn các giáo sĩ, cố tìm cách lôi họ về phía mình với đạo luật tự do hành
giáo (tháng 12-1783), nhưng thương nhân Tây phương thấy gương ở các bạn Đông Á
của họ và của cả chính họ nữa, trở nên dè dặt, lo ngại: một việc chiếc tàu của
Chapman bị quân Trịnh ở Phú Xuân cướp bóc vào giữa năm 1778 mà mãi đến giữa năm
1793 còn làm cho phái bộ Macartney lo lắng khi phải ghé vào Tourane1 đủ chứng
tỏ. Phải chờ đợi để người ta quên, nhưng thời gian lại không đứng về phía Tây
Sơn.
Tuy nhiên, bận rộn ở vùng Bến Nghé đã làm
cho Tây Sơn phải xao lãng nơi khác. Nguyễn Ánh lại trở về giồng Lữ, có thêm hai
người Hoa phụ tá là Thống binh Hạp và Kính. Đô đốc Tây Sơn, Nguyễn Học, đuổi
theo bị Nguyễn Kim Phẩm đánh giết thâu hơn 80 thuyền. Mừng rỡ tưởng có thể đánh
thẳng về Gia Định, Ánh sai Nguyễn Huỳnh Đức làm tiên phong, Tôn Thất Cốc làm
trung quân, Trần Xuân Đàm, Kim Phẩm hộ giá, tiến quân kéo về Ngã Tư. Nhưng
Nguyễn Huệ, không biết có biết đến Hàn Tín không, đã dàn binh xoay lưng ra
sông, đánh thật dữ. Nguyễn Ánh phải chạy về Bến Lức được Lưu thủ Vinh Trấn
doanh rước về Hậu Giang, qua Rạch Giá, Hà Tiên, theo thuyền nhỏ trốn ra Phú
Quốc.
Tưởng yên được Gia Định, Tây Sơn rút về
Quy Nhơn, lưu lại hàng tướng Đông Sơn Đỗ Nhàn Trập với Hộ bộ Bá và 3.000 quân
để coi sóc (tháng 5 âm lịch). Số quân và tên tướng thật không đủ giữ. Cho nên,
chỉ tháng sau đó là Hồ Văn Lân đã đánh đuổi Đô đốc Nguyễn Loan, chiếm Long Hồ
rồi cùng với Dương Văn Trừng, Nguyễn Văn Quý đánh Bến Lức, thắng thêm một trận
nhỏ. Nhưng đáng e ngại chính là lực lượng Châu Văn Tiếp với cây cờ thêu “Lương
Sơn tá quốc” bày tỏ ý định trung thành với nhà Nguyễn. Quân Tiếp kéo vào với
những viên thuộc tướng sau này sẽ nổi danh như: Lê Văn Quân, Nguyễn Long. Hộ bộ
Bá muốn rút quân thì Đỗ Nhàn Trập ngăn lại quyết thử sức. Ông bị tiên phong
Phạm Văn Sĩ xông vào đánh trước rồi hậu đội Tiếp cũng công kích nên phải đại
bại. Nhàn Trập và Bá chạy về Quy Nhơn.
Như vậy, nhờ Châu Văn Tiếp, Nguyễn Ánh
lại làm chủ Gia Định lần nữa. Ông lại lo tổ chức binh bị. Có một số người từ
Phú Xuân trốn vào đầu, nhưng cũng không phải là kẻ có tài. Lực lượng của ông
sau mấy lần tan rã đã yếu ớt đến nỗi ông phải lo sai sứ thông hiếu với Xiêm để
đề phòng Tây Sơn “nhập khấu”.
Tuy nhiên, những tháng cuối năm, ông cũng
lo tổ chức phòng thủ. Trên bờ nam sông Sài Gòn (sông Tân Bình), Ánh lập luỹ Vàm
Cỏ (Thảo câu) cho Dương Văn Trừng giữ, phía bờ bắc lập luỹ Cá Trê (Giác ngư)
cho Tôn Thất Mân giữ. Có cầu tre nối hai bờ. Giữa sông bày hơn 100 thuyền có
Giám quân Tô giữ bè nứa đợi Tây Sơn đến dùng hoả công đốt.
Nguyễn Ánh không phải chờ lâu vì chiến
tranh vẫn mang tính cách định kỳ của nó, quy định bởi những trận gió mùa. Lần
này là với Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.
Từ đầu tháng 3-1783, Bá-đa-lộc đã phải
hội bàn với Nguyễn Ánh về việc tránh Tây Sơn. Người ta không tính việc chạy qua
Chân Lạp vì chiến tranh và đói kém đã tàn phá xứ này. Phải tính chuyện chạy ra
các hải đảo ở vịnh Xiêm. Bá-đa-lộc được uỷ thác sửa soạn tàu bè, lương thực đề
phòng phải đi.
Ngày 19-3 có tin Tây Sơn đến. Cũng bằng
cửa Cần Giờ. Tới nơi, Tây Sơn chia binh làm hai đạo: Tư khấu Nguyễn Văn Kim
đánh bắc ngạn và Đô đốc Lê Văn Kế đánh nam ngạn. Lưu thủ Thăng và Tiên phong
Tuý định dụ thuỷ quân Tây Sơn mắc vào kế hoả công mà không tính đến việc nước
triều đưa quân địch lên theo với đà gió đông thổi ngược lại. Mồi lửa quay lại
đốt thuyền Chúa. Lê Văn Kế chặt đứt cầu nổi làm chết Tôn Thất Mân. Dương Văn
Trừng bị bắt. Châu Văn Tiếp may thoát được, chạy thẳng qua Xiêm cầu viện.
Nguyễn Ánh về Ba Giồng với 5, 6 người tướng và hơn 100 quân. Ở đó cũng không
yên, ông chạy thẳng ra Hà Tiên gặp Bá-đa-lộc rồi hai người trốn qua Phú Quốc, ở
hai nơi khác nhau.
Nhưng quân Nguyễn còn chưa chịu thua.
Không biết sự việc tiến triển ra làm sao, hai tháng sau, Nguyễn Ánh lại trở về
ông tập trung quân đóng ở Đồng Tuyên và phân phối nhiệm vụ cho các tướng sĩ:
Nguyễn Kim Phẩm được làm Tiền phong, Nguyễn Huỳnh Đức trông coi đám binh người
Miên làm Hậu ứng; Trung quân có Tôn Thất Dụ, Nguyễn Đình Toàn, Lại bộ Hồ Đồng,
Binh bộ Minh, Tham nghị Trần Đại Thể, Tham mưu Trần Đại Huề (con Thể); Chưởng
cơ Hoằng giữ Tả chi, Nguyễn Văn Quý Hữu chi. Nguyễn Huệ nghe tin đem binh tới.
Trận chiến xảy ra và Toàn, Quý, Minh, Huề bị giết, Huỳnh Đức, Hồ Đồng bị bắt về
làm tay chân Nguyễn Huệ. Mất hết thuyền, đạo quân trốn chạy trong một xứ đầy
sông rạch này phải đem thân làm mồi cho cá. Nguyễn Ánh bắt đầu từ nay một cuộc
đời lưu vong thật sự.
1. Van Imbert. Le séjour en Indochine de
l’ambassade de Lord Macartney (1793). Hanoi, 1942.
2. Thực lục. q1, 18ab, 19ab, 20a.
3. Thực lục q2, 1ab chỉ nói đến việc Ánh
thua, chạy về Ba Giồng trong tháng hai âl rồi tiếp đến tháng 4 âl với trận Đồng
Tuyên như là Ánh vẫn còn lẩn quẩn trong vùng này. Thực ra, hãy nghe Bá-đa-lộc
nói (thư 20-3-1785): “Ngày thánh Joseph... chúng tôi nhận được tin giặc tới...
ngày sau... chúng tôi ra biển bằng cửa Bassac và ngày thứ hai tới một giáo khu
có 400 dân Cochinchinois... Vua đã chạy trốn ra đây với độ 90 thuyền. Chúng tôi
phải đi tìm một chỗ khác, chắc chắn và xa hơn. Chúng tôi dừng lại ở một hòn đảo
lớn để làm lễ Phục sinh... Người ta đem tin cho chúng tôi biết là vua ở cách
chúng tôi một ngày đường, và giặc vẫn theo” (A. Launay, III, t. 87, 88). Thư
khác (Bangkok, 6-12-1783) bổ túc cho ta biết giáo khu ông gặp Nguyễn Ánh vào
ngày 21-3 là “ở gần Cancao” và nơi Nguyễn Ánh trốn vào khoảng lễ Phục sinh tuy
ở cách Bá-đa-lộc tới “1 ngày 1/2 đường” nhưng “ở cùng một hòn đảo” (A. Launay, III,
t. 77-79). Hòn đảo lớn đó chắc không thể nào khác hơn là hòn Phú Quốc.
Sử
quan nhà Nguyễn lặng im ở chỗ Nguyễn Ánh chạy ra Phú Quốc vài ngày sau trận Bến
Nghé có dụng ý gì? Họ quên, hay tránh nói đến việc chạy trốn của Chúa họ chừng
nào hay chừng nấy, hay vì trong khoảng thời gian này có việc nhờ cậy các Linh
mục Franciscain đi xin cứu viện ở Manille mà các sử quan thì làm sách trong
thời kỳ sát tả nên tránh nói đến “công ơn” của các giáo sĩ được chừng nào hay
chừng nấy?
chuongxedap:
Tiết 6
CHIẾN THẮNG TÂY SƠN
TRƯỚC VIỆN BINH XIÊM LA
Tây Sơn săn đuổi * Giao thiệp Gia Định và
Xiêm La * Viện binh Xiêm và chiến bại * Ảnh hưởng.
Sau trận Đồng Tuyên, Nguyễn Ánh lại thêm
một lần khốn đốn. Trong lúc quân lính chết đuối thì nhờ biết bơi, ông đã thoát
nạn. Có những may mắn đưa đến cho ông Chúa này để sử quan nhà Nguyễn lại có dịp
tán tụng phước mạng đế vương. Qua Rạch Chanh, ông nhờ đến một con trâu nằm trên
bờ; giữa dòng nước triều chiều chảy xiết chìm trâu thì may sao một con cá sấu
(?) lại đưa giúp ông qua bờ bên kia. Tây Sơn đã có mặt tại Hậu Giang chận mất
con đường chạy trốn quen thuộc, ông phải chạy xuống trú ở Mỹ Tho, rồi từ đó đưa
gia quyến đi Phú Quốc.
Bị săn đuổi, binh tướng trở lòng. Đó là
đám người từ lâu vẫn khó đồng hoá: quân Hoà Nghĩa đạo. Nguyên để có người điều
khiển đám tân binh, Ánh sai Tôn Thất Cốc trông coi rồi sai tướng Hoà Nghĩa Trần
Đình về cửa Cần Giờ để do thám. Công việc thật khó khăn mà tướng sai thì không
đủ uy tín, Đình không thi hành. Ánh sai Cốc giết đi. Thuộc tướng của Đình là
Trần Hưng và Lâm Húc làm phản chiếm Hà Tiên. Rủi ro cho Nguyễn Kim Phẩm và công
chúa Ngọc Chú, người về Hà Tiên thu binh, người mua gạo mắm, đều bị bọn này
giết chết.
Tuy nhiên việc quân đội Gia Định có mặt ở
các đảo vịnh Xiêm gây nên khó khăn cho các đám cướp biển ở vùng này.
Vinh-ly-ma, một tướng Xiêm từ sau loạn Phi-nhã Oan-sản (1781) tụ tập một đám
người Mã Lai chiếm cứ đảo Cổ Long trong vịnh Kompong Som, thấy lẽ khôn ngoan là
đem thuộc binh ra thần phục Nguyễn Ánh. Đội quân lưu vong lái thêm 100 chiến
thuyền và 200 người nữa.
Thêm người tất thêm miệng ăn cho đám quân
thiếu thốn sẵn. Nguyễn Ánh phải dùng binh Vinh-ly-ma quen cướp giựt hai ba lần
vào Hà Tiên và quanh đó để kiếm khí giới, lương thực. Tin tức nơi trú ẩn lộ ra
ngoài.
Tháng 6 âm lịch, lúc Nguyễn Ánh đang ở
mũi Đá Chồng thì Tổng suất Tây Sơn là Phan Tấn Thuận kéo binh tới vừa thuỷ vừa
bộ. Cai cơ Lê Phước Điển phải đóng vai trò Lê Lai thuở trước, Ánh mới chạy
thoát về đảo Cổ Long. Tôn Thất Điển, Tôn Thất Cốc, Hoảng, Vinh-ly-ma đều bị
bắt và bị giết. Tây Sơn vẫn không tha. Một tháng sau, phò mã Trương Văn Đa lại
đem quân đến Cổ Long vây ba vòng trùng trùng, điệp điệp, quyết không để Ánh
thoát lần nữa. Rủi ro cho Tây Sơn, một trận bão đánh đắm nhiều thuyền để Ánh
nhân đó thoát ra, chạy đi Cổ Cốt.
Tây Sơn rút đi, Ánh lại mò về Phú Quốc.
Tình cảnh đám quân bại thật thảm thương: thuyền Ánh gãy nát cột buồm, quân lính
hết lương phải bứt cỏ mà ăn rồi sống nhờ một thuyền gạo của một người đàn bà Hà
Tiên đem giúp. Để vợ con lại hải đảo, Ánh táo bạo đem một chiếc thuyền vào cửa
Ma Ly do thám tình hình. Độ 20 thuyền Tây Sơn thấy được đến vây, ông giương
buồm chạy thẳng ra biển, lênh đênh suốt 7 ngày đêm. Gặp được dòng nước ngọt,
thoát chết khát, ông quay trở về Phú Quốc.
Không ở yên được một chỗ, Ánh phải sai
Cai cơ Nguyễn Văn Chính về Long Xuyên chiêu binh, tập mã. Thuyền đến cửa sông
Ông Đốc thì bắt được tướng Tây Sơn là Quản Nguyệt, Ánh sai chém đầu thị chúng.
Oai vũ chưa thấy đâu mà chỉ làm động đến Tây Sơn. May mắn, đạo quân tuần đêm
bắt được viên Phó chiến Dạng trong đội phục binh ở cửa sông do Lưu thủ Long
Xuyên của Tây Sơn là Nguyễn Hoá điều động. Rõ được cơ mưu, Ánh giục thuyền chạy
mau cho thoát.
Lúc bấy giờ Lữ, Huệ đã về Quy Nhơn, để
lại Trương Văn Đa với Chưởng tiền Bảo. Nguyễn Ánh trôi dạt Hòn Chông, rồi Thổ
Châu, Cổ Long, Cổ Cốt... sống cuộc đời vật vờ phẫn chí của viên chúa tể trong
cơn bại vong. Ông phải thay phiên chèo chống, chia sớt cùng khổ với bọn tòng
thần cùng vài trăm binh trên độ mươi lăm chiếc thuyền. Tướng sĩ có khi vài ngày
không ăn, phải đào rễ cây nhấm nhá cầm hơi.
Vắng Nguyễn Huệ, dư đảng Ánh ở đất liền
tưởng có dịp nổi lên thành công. Hồ Văn tân đánh ở Tân Châu, Tôn Thất Hội chiếm
giồng Sao, đắp luỹ cự địch trong khi Lê Văn Quân lại giữ sông Tân Hoà. Quân
Tây Sơn tiến đánh giồng Sao rồi phá tan đồn Tân Hoà. Tháng giêng năm Nhâm Thìn
(1784), kiện tướng Ánh không còn ai ở Gia Định vì Hội, Quân đều bỏ chạy sang
Xiêm, chỗ trú cuối cùng.
Châu Văn Tiếp sau trận Cá Trê đã theo
đường thượng chạy một mạch qua Xiêm kêu xin viện binh. Tiếp thực táo bạo trong
lúc Ánh không dám liều lĩnh8. Sở dĩ có sự dè dặt này vì bang giao Xiêm Việt lúc
bấy giờ tuy có dấu hiệu cải thiện nhưng chưa đủ cho Ánh thấy Xiêm tỏ ra quên
những cừu thù cũ.
Nam Vang và Hà Tiên là hai địa điểm đầu
mối gây chiến. Ta đã biết âm mưu mở rộng Hà Tiên qua phía Xiêm đã gây nên trận
chiến tranh giữa Mạc Thiên Tứ và Trịnh Quốc Anh9. Khi Duệ Tông bị bắt, Tứ với
Tôn Thất Xuân chạy trốn bị thuyền Xiêm bắt về Vọng Các. Mùa xuân 1778, Ánh sai
Cai cơ Lưu Phúc Trưng qua tìm Tứ. Mùa hạ năm đó sứ bộ của Cai cơ Tham, Tịnh đi
Xiêm thì gặp rủi ro: một thuyền Xiêm đi buôn Quảng Đông về qua Hà Tiên bị Lưu
thủ Thăng giết cướp. Có người Chân Lạp lại nói dèm rằng Gia Định có mật thư cho
Tứ, Xuân làm nội ứng để chiếm Vọng Các. Muốn khỏi lo lắng, Trịnh Quốc Anh cho
giết Tứ, các con lớn Tử Diên, Tử Hoàng, Tử Thượng và Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh,
50 người tuỳ tùng, chỉ chừa lại con nhỏ và cháu Tứ phải đi đày thôi 10. Tình
hình bang giao không mấy khả quan thì lại tiếp xảy ra việc tranh quyền bảo hộ
Chân Lạp.
1. Ta biết là những khúc sông có tên là
Rạch Chanh bắt đầu từ Long Định (Long An) đi vào Vàm Cỏ đông phía hạ lưu Bến
Lức, qua Vàm Cỏ tây rồi ra Tiền Giang bằng kinh Bà Bèo và rạch Ba Rài. Vậy thì
Nguyễn Ánh đã thoát nạn ở các khúc Rạch Chanh nào?
Chứng tích
hiện tại so với sử sự thì hình như không hợp. Rạch Chanh khá nhỏ (trừ phi vào
thế kỷ XVIII nó có lớn hơn không) mà sử quan kể chuyện Ánh lội qua sông, leo
lên lưng trâu cỡi, nước triều buổi chiều dâng, trâu chìm, cá sấu đưa đi... như
trên một khúc sông lớn vậy. Địa điểm chính xác chắc là vịnh Đá Hàn trên sông
Vàm Cỏ tây gần chỗ một khúc Rạch Chanh nhập vào (xã Hướng Thọ Phú, Long An). Đó
là một vùng nước xoáy rất dữ (một khuỷu sông). tục truyền Nguyễn Ánh đi qua đó
không ghe thuyền, bỗng nhiên đá dưới sông trồi lên, hàn lại (vi thế mới có tên
là Đá Hàn. Người ta đồn ở khúc sông này có bầy trâu nước, ai lấy được một sợi
lông của nó mang theo qua sông, thân mình không bao giờ bị chìm. Phảng phất
trong truyện tích, ta thấy có chuyện Nguyễn Ánh cỡi trâu qua sông. Vậy chắc
khúc sông này là chỗ Nguyễn Ánh thoát nạn.)
2. Sử quan gọi là đảo Côn Lôn. Tìm ra địa
điểm Cổ Long là công của Ch. Maybon (Histoire moderne du pays d’Annam, t. 201,
chú số 3). Tuy nhiên, tên Côn Lôn nói ở các quyển Thực lục về sau không thể lẫn
được vì đảo này, từ lúc Nguyễn Ánh chiếm hẳn Gia Định đã đóng vai trò quan
trọng trong việc tiếp xúc với Tây phương mà Tây phương thì biết rõ nó hơn Cổ
Long.
3. Chi tiết vụ này lấy ở Thực lục q2,
3ab, Liệt truyện q28, 9b, thư Langenois gởi cho Descourvières từ Sa Đéc
14-11-1783. Sử quan gọi vị trí xảy ra cuộc vây hãm là “Điệp thạch dự”, hòn Đá
Chồng. Trịnh Hoài Đức (Aubaret, t. 52) kể chuyện Vinh-ly-ma, gọi là vũng Luỹ
Thạch ở Phú Quốc. Hai chữ “luỹ” và “điệp” có thể lẫn với nhau. Thực ra chữ “dự”
ở đây không chỉ một hòn đảo mà chỉ một mõm núi nhô ra sát biển.
Trận chiến hình như không phải chỉ xảy ra ngoài biển, ở mũi Đá Chồng của đảo
Phú Quốc mà còn có trên đất liền ở vùng Hà Tiên nữa. Tài liệu Tây phương trên
ghi: “...(Ánh) trong lúc chờ đợi viện binh ở Xiêm đã hai ba lần lẻn vào Cancao
và quanh đó với bọn Mã Lai Campot để tìm lương thực, khí giới thì thuỷ quân Tây
Sơn và đạo quân Lào, Bassac bằng đường bộ đổ xô đến cướp của ông nhiều thuyền
đi biển, bắt các tướng, hầu hết đều phản bội. Một vài người bị giết, số còn lại
đem về Sài Gòn”. (A. Launay, III, t. 79, chú số 1).
Chúng tôi nhấn mạnh các chữ Mã Lai Campot vì đó là đầu mối tổng hợp các tài
liệu. Sử quan vẫn gọi bọn cướp biển ở vịnh Xiêm là giặc Chà-và (từ chữ Java).
Khi Nguyễn Ánh ở Xiêm đánh Pégou (Mã Lai) giúp Rama I, sử quan cũng gọi là đánh
giặc Chà-và. Vậy Chà-và ở đây là chỉ dân Malais, và bọn “Malais du Campot” nói
trên là tướng sĩ của Vinh-ly-ma. Thực lục ghi việc Xiêm tướng Vinh-ly-ma về đầu
rồi tiếp theo vụ Điệp Thạch Dự liền, khiến ta có thể thấy ngay sự liên tục giữa
hai sự kiện. Hơn nữa trong thời gian chờ đợi viện binh Xiêm, chỉ có trận bại
chiến này là lớn thôi, trận mà Pigneau có nói tới: “... (khoảng 17, 18-7) vua
đánh với bọn nổi loạn một trận mất gần hết binh thuyền còn lại” (A. Launay,
III. t. 88) rất đúng với thời điểm tháng 6 âl của Thực lục.
4. Đồng Khánh, quyển hạ, t. 209 cho biết
đó là cửa biển của xã Tam Tân (nay thuộc Bình Tuy). Sông Ma Ly có tên trên bản
đồ của Nha Địa dư là sông Phan. Ta có thể hoài nghi là địa điểm Ánh tới quá xa
Phú Quốc và quá gần Tây Sơn. Tuy nhiên sự việc lại quá hợp với chi tiết nước
ngọt giữa biển kể sau. Phải ở Ma Ly chạy thẳng ra biển Đông, đi tới 7 ngày đêm
người ta mới vẫn có thể may ra gặp các dòng nước ngọt do sông Cửu Long đổ ra vì
khối lượng lớn quá nên không lẫn với nước mặn được.
5. Đốc Công hải khẩu. Thực lục, q2, 7ab.
6. Thực lục, q2, 8b; thư của Pigneau kể
chuyện nửa sau tháng giêng 1784 (A. Launay III, t. 90.)
7. Cù lao Ông Chưởng.
8. Thư ông Descourvières (A. Launay, III,
t. 80).
9. Ch. Maitre “Documents sur Pigneau de
Béhaine, évêque d’Adran”, RI, 1913. t 176. Liệt truyện tiền biên, q6, 5ab
10. Liệt truyện q32, 3b, 4a.
Vào cuối năm 1781, Trịnh Quốc Anh phái
các tướng Chất-tri, Xô-si qua Chân Lạp hỏi tội Nặc-ấn, trả thù vụ Nặc-vinh bị
Đỗ Thanh Nhân giết. Nặc-ấn thua rút binh về Colompé cầu cứu với Gia Định vào
cuối tháng giêng 1782. Nguyễn Hữu Thuỵ và Hồ Văn Lân tiến quân lên Loveck.
Chiến tranh còn dằng dai thì ở Xiêm xảy ra chính biến. Giặc thành Cổ Lạc
(Korat) nổi dậy, Trịnh Quốc Anh sai Phi-nhã Oan-sản cầm quân dẹp mà không biết
tại sao lại không lưu ý rằng người cầm đầu cuộc loạn lại là em Sản. Sản quay
giáo đem quân về Vọng Các bắt Anh cầm tù. Ở Chân Lạp, Chất-tri cầu hoà với
Thuỵ, bẻ tên thề, nhận cờ, đao, kiếm của Thuỵ tặng rồi kéo quân về giết Quốc
Anh, vu tội cho Sản rồi giết luôn. Chất-tri, Xô-si, và cháu là Ma-lặc làm đệ
nhất, đệ nhị, đệ tam Phật vương, cùng nhau cai trị truyền dòng Rama.
Việc kết giao với Nguyễn Hữu Thuỵ, tiếp
theo với việc Rama I kêu Mạc Tử Sanh về Vọng Các nuôi, có thể coi như những dấu
hiệu khuyến khích Nguyễn Ánh tới gần Xiêm hơn. Cho nên, khi bại binh ở sông Ngã
Tư, Ánh sai sứ bộ trên 100 người theo đường Chân Lạp qua Xiêm cầu viện. Dân
Chân Lạp gặp dịp may trả thù kẻ thất thế, bèn giết gần hết sứ bộ với Nguyễn Hữu
Thuỵ, Trần Xuân Đàm. Chỉ có Nguyễn Văn Nhân, Cao Phước Trí là chạy thoát. Tuy
bị trở ngại, Nguyễn Ánh khôn ngoan vẫn cố giữ liên lạc thân thiện để hi vọng
nhờ cậy. Mùa thu năm 1782, khi trở lại Gia Định rồi, ông cũng sai sứ đi Xiêm
nữa.
Đến nay, Xiêm vương nghe lời Châu Văn
Tiếp ai cầu, một mặt sai Tiếp theo thượng đạo trở về tìm chủ, một mặt sai
Thát-xỉ-đa đem thuyền đi Hà Tiên tìm rước Ánh ở Long Xuyên vào tháng 5- 1784.
Nhưng có phải vì lời kêu xin khẩn thiết của Châu Văn Tiếp ngày nay và vì nhớ
mối kết giao với Nguyễn Hữu Thuỵ trước kia mà Xiêm vương cho rước Nguyễn Ánh để
rồi tính việc trợ giúp không? Có những tài liệu khiến ta phải dè dặt.
Bá-đa-lộc đến Bangkok vào đầu tháng
11-1783 có gặp ở đây một sứ giả của Tây Sơn. Tài liệu thật là ít ỏi để cho ta
có thể biết thêm về ngày tháng tới lui, sứ mệnh giao phó, sự tiến hành công
việc của viên sứ giả này ở Bangkok. Tuy nhiên do đó, ta cũng thấy Xiêm phải lựa
chọn Nguyễn Ánh và Tây Sơn mà quyết định nghiêng về bên nào lại tuỳ thuộc vào
tình hình Chân Lạp.
Thực vậy, trong tháng 12-1783, Trương Văn
Đa dẫn quân tấn công Chân Lạp. Trước đó, Nặc Ấn bị Chiêu-thuỳ-biện, một người
Mã Lai, nổi dậy đánh đuổi đến phải trốn qua Xiêm. Đa đến, Biện vốn được Xiêm
công nhận làm phụ chính ở đây từ trước, vội vàng chạy qua cầu viện. Và rồi Tây
Sơn giáp mặt quân Xiêm. Trương Văn Đa nghe tin điệp viên báo rằng quân Xiêm sẽ
tiến theo đường Lào đánh Quy Nhơn, nên quyết định khai chiến. Xiêm cũng đòi Tây
Sơn trả những kẻ thù của Xiêm mà Tây Sơn giữ (?) không thì chiến tranh. Và
chiến tranh xẩy ra. Tây Sơn bị Xiêm vây, hai bên đánh nhau vài lần.
Cuối cùng Trương Văn Đa rút khỏi Nam Vang
(6-1-1784). Nhưng từ đó “chiến tranh càng ngày càng nhen nhúm giữa người Xiêm
và bọn giặc ở Sài Gòn”.
Để phân tán lực lượng Tây Sơn, Xiêm vương
nghĩ tới Nguyễn Ánh. Và đó là cớ quan trọng nhất để giải thích việc Nguyễn Ánh
được “rước mời” vào Vọng Các. Cuộc đón rước nếu thực tình và diễn tiến trong
bình đẳng thì sao lại để xẩy ra những điều mà khi gặp lại Bá-đa-lộc lần thứ
hai, Ánh phải than phiền về “cách thức người ta lôi ông vào Xiêm”?
Tuy vậy, Ánh cũng ở Vọng Các chờ đợi đưa
về. Đây là dịp may mắn cho Xiêm vương có thể mở rộng cương giới về phía Thuỷ
Chân Lạp. Viện binh Xiêm gồm có hai vạn quân, ba trăm chiến thuyền dưới quyền
điều khiển của Chiêu Tăng, Chiêu Sương, xuất binh ngày Nhâm thìn tháng sáu
(25-7-1784).
Chiến tranh dùng Xiêm binh chiếm Gia Định
được Nguyễn Ánh tóm thuật trong một bức thư gởi cho J. Liot:
“Từ Thầy theo Ta mà trở về thì Ta cùng
Xiêm binh tựu tại Mang Thít hạnh công Tây tặc, thủ thắng tàu một chiếc, hải đạo
5 chiếc. Nhẩn ngày sau trực tấn xứ Lạch. Nay thì Xiêm binh đại tứ lỗ lược,
dâm nhơn phụ nữ, lược nhơn tài vật, túng sát bất dung lão thiếu. Vậy nên Tây
tặc binh thế nhựt thạnh, Xiêm binh thế nhựt suy. Cớ ấy qua tháng chạp, mùng tám
vừa thất lợi, các giai hội tản”...
Sử quan ghi cẩn thận hơn: tháng 7 âm
lịch, khi quân Nguyễn Ánh và Xiêm chiếm Kiên Giang rồi đánh Đô đốc Tây Sơn
Nguyễn Hoá ở Trấn Giang (Cần Thơ), quân Xiêm chia nhau đồn trú Ba Vác, Trà Ôn,
Mang Thít, Sa Đéc. Nguyễn Ánh lo kiến tạo lực lượng riêng. Ông sai Cai cơ Trịnh
Ngọc Trí đi đến các làng kêu cựu thần đang lẩn trốn và hào kiệt nổi lên hưởng
ứng quan binh. Kết quả sơ khởi cũng khả quan: ở Vũng Liêm, phó Đốc chiến Lý của
Tây Sơn ra hàng. Cai cơ Nguyễn Tấn Văn hàng Tây Sơn ở trận Cá Trê năm ngoái nay
cũng trở về. Sau đó là Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm bị bắt sau trận Đồng
Tuyên và dư đảng Đông Sơn do Nguyễn Văn Thành chiêu dụ.
10 âm lịch, Nguyễn Ánh chịu một cái tang
đau đớn: Châu Văn Tiếp quá hăng hái tiến sâu vào trận địa chết đổi mạng với
Chưởng tiền Bảo ở Mang Thít. Trương Văn Đa vội rút về Long Hồ, sai người cấp
báo Quy Nhơn.
Quân Xiêm hoành hành dữ. Ánh kêu với cận
tướng, rồi bỏ ra các hải đảo, gặp Bá-đa-lộc ở Thổ Châu vào tháng 12-1784,
than thở với ông này rằng: người Xiêm lừa gạt ông, lấy cớ lập lại quyền binh
cho ông chỉ để dùng danh vị ông mà cướp bóc dân chúng và bắt sống ông thôi.
Trong khi đó, các tướng ông còn lại ở lục địa cố gắng tìm chiến thắng. Lê Văn
Quân tiếp tục công việc của Châu Văn Tiếp, làm Khâm sai Tổng nhung, đem Chưởng
cơ Đổng tiến chiếm Ba Lai, Trà Lọt.
Nhưng không lâu, tháng chạp Giáp Thìn,
Nguyễn Huệ kéo quân vào. Chạm với một kẻ địch lạ tay, Nguyễn Huệ đánh mấy lần
không thủ thắng đã có ý rút quân về. Vừa lúc một hàng tướng của Nguyễn Ánh, Lê
Xuân Giác, liền cho Huệ kế phục binh, đánh mạnh, bất thần, hợp với sở trường
viên tướng trẻ mà đầy khả năng này.
Huệ đem lính thiện chiến mai phục ở Rạch
Gầm, rạch Xoài Mút rồi dụ quân Xiêm tới. Quen mùi chiến thắng, quân Xiêm tiến
sâu vào nội địa bị đánh úp tan tành, chỉ còn vài nghìn người lẩn trốn theo
đường bộ Cao Miên chạy về nước. Thực là một chiến thắng làm choáng váng địch
quân. Nguyễn Ánh không trông cậy gì ở viện binh Xiên nữa. “Họ sợ Tây Sơn như sợ
cọp”.
Nguyễn Ánh chạy về Trấn Giang sai Cai cơ
Châu Phúc Trung tâu sự tình lên Nhị vương nước Xiêm. Cuộc đời lao đao bị săn
đuổi lại bắt đầu qua Thổ Châu rồi Cổ Cốt. May mắn hơn, lần này đã quen sẵn, ra
Cổ Cốt, Nguyễn Ánh gặp Cai cơ Trung đem binh Xiêm rước. Tháng ba năm Ất Tỵ
(1785), với các tướng tòng vong trên 5 thuyền và 200 binh, Nguyễn Ánh lủi thủi
vào Vọng Các.
Nhưng hi vọng chưa dứt, ông còn mong chờ.
Trong khi đó Tây Sơn lại bắt đầu tính chuyện tuôn đổ sức mạnh có sẵn của họ
ngược lên phía bắc, cưỡng bách đám dân chúng ở đây nhìn nhận oai quyền, giá trị
của kẻ bà con phương xa về đã thu nhặt được trong chuyến viễn du mấy trăm năm
cách biệt.
1. La-bích, Lô-việt của sử quan.
2. Phi-nhã là chức tước (sử quan cũng biết
đến điều này: Liệt truyện q32, 2a). Chất-tri cũng vậy. Tên Rama I là P’hut
Yodfa (P. Schweisguth, Un siècle d’histoire dans la péninsule indochinoise
(1750-1830), Taupin, Hanoi. 1944.
3. Thực lục q1, 14ab, 15ab. Thư J. Liot
cho Ô. Descourvières, 25-7-1782, A. Launay, III, t. 74.
4. Thực lục q1, 18a, Liệt truyện q13
truyện Nguyễn Hữu Thuỵ 6a, truyện Nguyễn Văn Nhân 15b. “La révolte ét la guerre
des Tây Sơn”, bđd, t. 87.
5. Thực lục q2, 9b, 10a ghi tháng hai âm
lịch (21/2-20/3/1784). Ghi chú của ông Descourvières (A. Launay, III, t. 80)
tuy không đề rõ ngày viết, nhưng cho biết J. Liot ở Chantaboun (Chanthaburi),
bệnh không theo Pigneau được, viết thư nói rõ Nguyễn Ánh gặp tướng Xiêm “tháng
5 năm nay” nói rằng “vua từ Chantaboun đi Bangkok” lúc ông ta viết thư ngày
31-5. “Năm nay” là năm 1784 vì khi nói chuyện Bá-đa-lộc xin được giấy thông
hành để ra khỏi Xiêm (1784), Descourvières cũng dùng chữ “năm nay”. Về số quân
đem vào Xiêm, Liot nói có tới 4.500 người, Thực lục ghi chỉ có tướng hơn 30 và
quân vài mươi. Ngày về nước được ghi rõ “Nhâm Thìn tháng 6” (25-7). Vậy Ánh ở
Xiêm không lâu, chứng tỏ Xiêm đã chuẩn bị sẵn sàng từ trước. Về đạo quân đi
rước, có thể đây là đạo quân mà Pigneau gặp ở Chantaboun giữa tháng 12-1783. Đó
là đạo thuỷ quân, vì họ ra lệnh cho ông đợi họ rời bến rồi hãy đi sau. Điều ông
nghe thấy là đạo quân này “gởi chống bọn Cochinchinois” (A. Launay, III, t. 89)
phù hợp lời Thực lục q2. 9b: “Thát-xỉ-đa đem thuỷ quân đi Hà Tiên... tiếng là
cứu viện mà để lén mời Nguyễn Ánh”
6. A. Launay, III, t. 80.
7. Thư của André Tôn cho Ô. Descourvières
1-7-1784, A. Lau nay, III, t. 84. A. Tôn cũng bị dẫn từ Nam Vang về trong dịp
này. Thư của L.M Ginestar, dòng Phăng-xi-cô 1784 (“La révolte... bđd, BSEI,
1940, t. 98). L.M bị đưa lên Nam Vang với thầy giảng Emmanuel trong tháng
12-1783 và về theo Trương Văn Đa. Thực lục q2, 8a.
8. Xem Phụ lục, bản thư Nôm thứ ba. Liot
có tên trong Liệt truyện (q28 Bá-đa-lộc) tuy Liệt truyện lẫn với L.M Ginestar
(sẽ nói sau)
9. Thư triệu hồi Long Xuyên, thư thứ hai.
10. Một ấp ở làng Mỹ Thạnh Trung, quận
Minh Đức, Vĩnh Long.
11. Hải đạo thuyền (thuyền đi biển) thấy
ghi trong Thực lục, Liệt truyện.
12. Định Tường còn có tên xứ Tầm Lạch.
Nay còn địa danh Chợ Lách, một quận của tỉnh Vĩnh Long, phía bờ tây Tiền Giang.
13. Liêm Úc của Thực lục.
14. Thực lục q2, 14a.
15. Pigneaụ, thư 20-3-1785 ở Pondichéry
(A. Launay, III, t. 91).
16. Sầm Giang, Xuy Miệt của Thực lục,
Liệt truyện. Rạch Gầm chảy từ xã Long Tiên (quận Cai Lây, Định Tường) sang các
làng Bàn Long, Vĩnh Kim (q. Sầm Giang) đến Kim Sơn ra Tiền Giang. Rạch Xoài Mút
chảy từ giồng Dứa ấp Thanh Long sang ấp Thạnh Hưng xã Phước Thạnh, vào rạch
Xoài Hột đến Tiền Giang. (Chỉ dẫn của ông Trương Ngọc Tường, Cai Lậy). Binh
Xiêm bại ngày 8-12 Giáp Thìn (18-1-1785) như lời thư Nguyễn Ánh kể trước.
PHẦN THỨ HAI
SỰ TAN RÃ Ở BẮC HÀ VÀ PHẢN ỨNG DỘI NGƯỢC
KHI TÂY SƠN BÀNH TRƯỚNG
(1786 – 1789)
Chương 3
CHIẾN TRANH BẮC HÀ
Tiết 7
CHIẾN TRANH TIÊU DIỆT HỌ TRỊNH
Vai trò Nguyễn Hữu Chỉnh trong chiến
tranh phá vỡ phân tranh cũ * Cùng đích mơ ước của Nguyễn Nhạc ở Phú Xuân *
Chiêu bài “Phò Lê diệt Trịnh” cũ kỹ khi năng lực mới đem ra sử dụng.
Trong thời gian tiến mạnh về nam, khi dân
Đại Việt chậm chạp nhưng chắc chắn biến đổi người và tự để mình biến đổi, thì
cả vùng Á châu cũng thấy được thế giới mở rộng với các thuyền buôn Âu châu mang
xa lạ đến. Riêng ở Việt Nam, người Bồ đến Hội An (Nam Hà), người Hoà đến phố
Hiến (Bắc Hà) rồi sau đó là người Anh, người Pháp. Theo với họ cũng có nhưng
người Á châu (Trung Hoa, Nhật, Mã Lai, Xiêm La...) đã hành nghề từ trước nhưng
lại tăng tiến theo trào lưu giao thương khích động.
Người ta ghi nhận rằng hoạt động thương
mại hồi này ở ta không lấy gì làm khởi sắc cho lắm vì tình trạng nghèo đói của
dân chúng. Mọi cung cấp ra cũng như vào phần lớn do đám lái buôn Trung Hoa.
Nhưng trên bình diện quốc gia và địa phương, sự giao thương đem lại hàng hoá,
con người, tư tưởng khác cũng gây những xáo trộn quan trọng.
Ngoại thương làm khích động nội thương:
trầm hương, kỳ nam, tiêu, cau, ớt... đi từ núi, từ đồng xuống biển, cá mắm,
đồng sắt từ biển lên núi, đồng. Người đi buôn vượt khỏi ràng buộc của hương
ước, của “lệ làng”, tiếp xúc với người khác xứ, khác nước trở nên tiến bộ, có
sáng kiến và dám liều hơn. Chúng ta đã thấy nhân dịp chúa Nguyễn phát triển thế
lực về phía nam, phía tây, nảy sinh ra một dòng trao đổi sản vật giữa miền núi
và đồng bằng dọc biển qua các nguồn để hợp với những nguyên nhân khác gây ra và
nuôi dưỡng biến động Tây Sơn.
Nhưng trong lúc nhóm Nam Hà ly khai yếu
ớt phải sẵn sàng chờ đón thu nhận, thích ứng với hoàn cảnh và một chừng mực
phương tiện mới, thì Bắc Hà vẫn dựa trên cơ cấu trường cửu có sẵn ở trung châu
Nhĩ Hà để cố gang tồn tại. Điều đó giải rõ tại sao biến loạn Tây Sơn xảy ra ở
Nam Hà, nhưng cũng cho ta thấy trước thời kỳ nghiêng đổ của Bắc Hà. Sớm hay
muộn Tây Sơn cũng là một thế lực đe doạ họ Trịnh như Hoàng Ngũ Phúc đã thấy.
Đúng vậy, ảnh hưởng giao thương làm đa tạp hoá xã hội cũng có ở Bắc Hà đồng
thời với sự tan rã triều chính.
Lịch sử chính thống không ghi rõ có một
“thương ban” bên cạnh văn, võ và giám ban của họ Trịnh, chịu chức tước củng cố
hay quấy đảo triều Chúa. Nhưng những nhân chứng thời đại đã cho ta thấy họ
Trịnh và võ quan ủng hộ đám dân Thanh, Nghệ đi buôn bán trở nên giàu có hơn,
cũng như họ đã ban đặc quyền cho ưu binh Tam phủ để bảo vệ cơ nghiệp nhà Chúa
vậy.
Lúc thái bình người ta không chú ý để ghi
nhận sự có mặt của lái buôn vì họ ở dưới bậc chót của giai tầng xã hội. Nhưng
họ vẫn kiên nhẫn làm giàu không kể câu “vi phú bất nhân” vì người ta lúc nào
cũng cần tiền và chứng tỏ, lúc bình thời, người ta mua chuộc họ bằng quan tước,
khi hoạn lạc, người ta tha hồ cướp bóc họ. Đám thương nhân “các lái” của Trịnh
đã trải qua như vậy chuyến loạn ở Thăng Long, lúc Tây Sơn ra Bắc:
“Đám các lái rất phè phỡn trong thời đói
kém, vì lợi dụng được lúc thiếu gạo để bán mắc... và để cho những người nghèo
khổ chết đói dọc đường. Đám các lái mất hết, thuyền, thóc, tiền sạch cả. Ở đây,
chúng tôi thấy họ đi qua, trần truồng để trở về xứ Thanh”.
Đám các lái đó không phải buôn bán loanh
quanh xóm chợ làng quê mà thôi. Vị trí tập trung và số lượng của họ cho biết
tầm hoạt động rộng lớn của họ: họ ở “gần cửa Bạng, nơi hòn Biện Sơn, nhân số
lên tới gần 3.000 người”.
Nguồn lợi tức của họ không tuỳ thuộc vào
đất ruộng nên họ có gia tư, sản nghiệp lớn, trong lúc đám nông dân đói kém sạt
nghiệp và trong lúc đám sĩ phu xuất thân từ đồng quê cũng hoảng hốt trước tình
cảnh thảm thương xảy ra chung quanh nên đâm ra chán đời, bi quan. Họ sống sung
túc rồi muốn danh vọng. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng ở trong số đó.
Ông người làng Đông Hải, huyện Nghi Lộc,
trấn Nghệ An. Không phải tình cờ mà cha ông lái buôn, gia tư kể hàng vạn, có
con đỗ Hương cống mà vẫn cứ nương tựa Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc. Đó là vì võ
quan cần tiền của lái buôn và lái buôn cần thế lực của nhà quan để làm giàu cho
dễ.
Cuộc sống sung túc tạo cho Chỉnh hơn
người. Học khắp các kinh sử, đỗ Hương cống năm 16 tuổi, hay Nôm (nghĩa là không
chịu nho hoá), hào hiệp, giao du rộng rãi, ứng biến lanh lẹ, giỏi thuỷ chiến
đến có danh hiệu “con cắt nước”, Chỉnh là một bộ mặt đặc biệt, nổi bật của Bắc
Hà thời ấy. Chỉnh ý thức được tài mình, cho nên không phải là quá huênh hoang
khi ông nói với Nguyễn Huệ: “Nhân tài Bắc Hà có một mình Chỉnh, Chỉnh đi rồi ấy
là cái nước trống không”.
Mơ ước làm chim bằng tung cánh đến xưng
tước là Bằng lĩnh hầu, Bằng quận công, Chỉnh có tầm mắt rộng rãi hơn bọn sĩ
phu, võ quan đương thời. “Thiên hạ vạn nước, lo gì không chỗ đi”, đó là lời Chỉnh
trả lời thái độ rụt rè của Trấn thủ Nghệ An, em rể Quận Việp, khi phải trốn cái
vạ Quận Huy bị quân Tam phủ giết chết. Nguyễn Nhạc, Châu Văn Tiếp rồi bây giờ
Nguyễn Hữu Chỉnh, những người khác xứ, lúc bạn lúc thù nhưng đều giống nhau ở
chỗ xuất thân, đó là những bộ mặt nổi loạn làm khuấy đảo thêm dữ dội xã hội Đại
Việt của thế kỷ XVIII vậy.
Tháng 11 Nhâm Dần (1782), Chỉnh đi theo
Tây Sơn, “ngày đêm vì giặc bày mưu thiết kế”. Sử quan nhà Nguyễn thấy rõ rằng
Chỉnh “rốt lại thành mối lo cho Bắc Hà”. Nhưng vượt trên sự lo lắng cho cơ
nghiệp một dòng họ, ta cũng thấy việc Chỉnh vào Quy Nhơn là quan trọng: đó là
sự tập trung, hợp tác của những năng lực làm gẫy đổ cơ cấu chính trị đương
thời, đó là sự tiếp sức làm đổ vỡ nốt cái thế phân tranh cũ kéo dài hơn hai
trăm năm rồi.
Tây Sơn mạnh, điều đó không ai là không
nhận thấy. Lê Quý Đôn đem chuyện sấm ký, nói Tây Sơn có đất thiên tử chẳng qua
cũng chỉ thay người đương thời ý thức được cái sức mạnh đó mà thôi. Từ khi đuổi
đánh quân Xiêm vào đầu năm 1785, quân Tây Sơn bắt đầu dòm ngó phía bắc, nơi
kinh đô cũ của Chúa Nam Hà. Chiếm được Thuận Hoá mới là đạt đến cùng đích mơ
ước của Nguyễn Nhạc như khi ông thổ lộ với Chapman từ 1778.
Trong khi con hổ non Tây Sơn gầm gừ nhìn
ra thì con sư tử già Trịnh đã tàn tạ đến mức không thể cử động được. Những Linh
mục thời bấy giờ ở Bắc Hà đã ghi lại những thiên tai, thuỷ loạn mà dân chúng
phải gánh chịu. Đó là những trận hạn hán ghê gớm “làm dân xứ Nghệ không gặt
được hột nào”. Trận dịch trâu bò tiếp theo vào năm 1784 làm chết 2/3 súc vật
khiến cho người phải cày bừa thay. Nghề chài, nghề đã làm giàu cho cha Nguyễn
Hữu Chỉnh ở xứ Thanh Nghệ cũng tàn tạ vì bão tố năm 1785. Trước khi Tây Sơn tới
Bắc Hà phải chịu nạn đói vì lụt to, hạn lớn, sâu bọ nhiều, vì dịch đi tướt.
1. Những chi tiết cho chương này, trừ
xuất xứ khác có ghi, đều lấy ở Hoàng Lê nhất thống chí, bản dịch của Ngô Tất Tố.
2. Thư của Le Roy gởi cho Blandin ở Paris
từ Kẻ Vĩnh (Ninh Bình), 6-12-1786 (BEFEO, 1912, t. 7-8). Chữ nghiêng ở trích
văn trên là của nguyên văn chữ Việt trong bức thư.
3. Hãy đọc Chinh phụ ngâm khúc chẳng hạn
thì thấy rõ.
4. Quá khứ thương nhân của Chỉnh và gia
đình khác biệt với đám vua quan còn bằng chứng trong câu chuyện một giáo sĩ kể
về lúc Chỉnh nắm quyền ở Thăng Long (1787): “...một hôm nọ, một số người có cửa
hàng tại Hoàng thành đến tố cáo với tướng Chỉnh rằng một vài vị hoàng thân, chú
bác và cậu vua đến bức hiếp không cho họ buôn bán. Coũ Chỉnh bất bình bắt vua
phải trừng phạt những người này. Chiêu Thoũ lập tức phải cho bắt mấy người đó
nạp cho Coũ Chỉnh. Sau khi quở trách các vị này, ông bắt họ phải bồi thường do
họ gây ra, còn cấm họ từ rầy không được la cà trong phạm vi thành phố nữa. Nếu
không tuân lệnh thì sẽ bị trừng phạt”. (Sử Địa, số 9-10, 1969, t. 201).
Hãy nghĩ, nếu không sở cậy nơi quá khứ buôn bán của gia đình quan Tướng quốc,
thương nhân Thăng Long làm gì dám khiếu nại những hành vi nhũng nhiễu của quan
quyền, hoàng thân quốc thích?
5. Thực lục q1, 22a.
6. Thư ông Breton, gởi ngày 10-7-1787,
thư G.M Ceram ở Kẻ Vĩnh (Ninh Bình) (RI. XII, 1910, t. 526, 536, 538).
Những tai hoạ do nhà cầm quyền gây ra
càng làm cho dân chúng điêu đứng hơn nữa. Những chương đầu của quyển Hoàng Lê
nhất thống chí cực tả được tình trạng rối loạn chính quyền ở Bắc Hà vào những
năm này.
Chúng ta thấy được đám quần thần văn võ
chuyên nịnh bợ đưa đón lời Trịnh Sâm, chúc mừng Trịnh Cán. Có kẻ chuyên tố cáo
người để làm quan như Đốc đồng Nguyễn Huy Bá ở trấn Thái Nguyên, có kẻ như Đặng
Mậu Lân cậy quyền Thứ phi, làm nhục quan quân, bắt hiếp vợ con dân gian, thậm
chí đến giết sứ giả Trịnh Sâm sau khi hỏi một câu rất hách: “Chúa là cái gì?”
Chúa là cái gì? Thực vậy, Chúa bị khinh
khi vì gia đạo không yên. Trịnh Sâm yêu quý Thứ phi Đặng Thị Huệ, muốn cho con
Huệ là Trịnh Cán lên nối nghiệp. Con trưởng Sâm là Trịnh Tông tưởng có thể nhân
lúc Sâm nổi chứng đau bụng kinh niên nguy kịch mà mưu đồ giành quyền binh,
nhưng thất bại gây ra vụ án Canh Tý (1780) mà lời than van uất ức của một nạn
nhân là lời kết án chế độ: “Trời không có mắt, trào không có quan để cho Quốc
Chấn chết oan”.
Đám ưu binh Tam phủ mà số lượng độ chừng
25 - 30.000 người dùng để bảo vệ Chúa, thường ngày không có việc gì làm ngoài
việc phá phách dân chúng, đe doạ các quan, bây giờ mới chen vào việc nhà Chúa.
Trịnh Sâm mất sau hàng năm sống tránh ánh sáng mặt trời để Trịnh Cán lên ngôi
gây nên cái hoạ tương tranh. Kiêu binh phế Cán sau khi giết Huy Quận công Hoàng
Đình Bảo, người che chở Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi lập Trịnh Tông lên ngôi Chúa
trong một cảnh mà Ngô Thì Chí tả một cách mỉa mai.
Quyền binh từ nay ở trong tay Kiêu binh.
Chúa lập được thì vua cũng do họ lập được nốt. Họ hoành hành tàn phá phố phường
dữ dội nhất vào những tháng đầu năm Giáp Thân (1781).
Tình hình Bắc Hà như vậy, Chỉnh hay biết cặn
kẽ nhờ căn vặn một thuyết khách của Chúa Trịnh. Cuối mùa xuân Bính Ngọ (1786),
Trịnh Phu Như từ Thuận Hoá vâng mệnh trấn tướng Phạm Ngô Cầu vào Tây Sơn điều
đình việc biên giới nhưng lại thóc mách nói cho Chỉnh rõ về tình hình đói kém ở
Bắc Hà, dân với lính không ưa gì nhau. Với một viên trấn tướng đần độn, chậm
chạp như Phạm Ngô Cầu thì ba vạn quân dưới quyền điều khiển của các viên Đại
tướng, Phó tướng, Đốc thị, Phó Đốc thị cũng không thành một lực lượng gì hết,
huống hồ là cách cai trị gay gắt, cướp bóc trong một xứ vừa qua nạn đói lại
khiến cho người dân càng thù ghét lính tráng.
Cho nên, cuối tháng tư âm lịch Bính Ngọ,
quân Tây Sơn trực phát Thuận Hoá dưới quyền Nguyễn Huệ có Vũ Văn Nhậm làm Tả Đô
đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu Đô đốc với Tiết chế Nguyễn Lữ đi tiếp ứng4. Đánh
trúng vào tâm lý mê tín của Phạm Ngô Cầu, Tây Sơn mưu khiến Cầu lập đàn chạy
suốt 7 ngày đêm, mệt mỏi tướng sĩ, để hoảng hốt thấy giặc ầm ầm kéo đến không
đường chống cự. Đại diện cho nhóm “treo cờ điều” quyết chiến6 ba cha con Hoàng
Đình Thể và tướng Vũ Tá Kiên chết ở ngoài thành Phú Xuân vì Cầu muốn hàng đã
không tiếp tế thuốc đạn. Số mệnh của ông quan Đại muốn “treo cờ bạc” này cũng
không hơn gì: ông bị tống về Quy Nhơn rồi bị giết. Tây Sơn ca khúc khải hoàn
vào Huế ngày 14-6-1786.
Trong trận này, quân lính Bắc Hà ở Phú
Xuân rất ít người chạy trốn được về, lớp bị Tây Sơn giết, lớp bị dân chúng
Thuận Hoá trừ.
Chiến tranh tàn sát vẫn được coi là vết
nhơ cho Tây Sơn, nhưng không phải họ không có lý do để bào chữa. Lý do đó nằm trong
nguyên tắc hành quân của họ. Đánh mau, đánh mạnh, đánh bất thần thì tất luật lệ
giết chóc của chiến tranh được thi hành triệt để.
Người ta cũng có thể coi việc Tây Sơn
trong trận đánh Thuận Hoá phá huỷ một chiếc tàu Bồ từ Macao tới, dìm nước anh
em viên chủ tàu, giết hai người thuỷ thủ7 như là một chứng cứ về lòng hiếu sát
của họ. Thực ra, chúng ta lưu ý rằng thuỷ quân của họ chỉ là một đoàn thuyền8
tuy tới hơn 400 chiếc, nhưng vẫn ọp ẹp so với chiếc tàu đồng Tây phương ở vùng
tiến quân. Họ đã có kinh nghiệm của trận chiến mùa xuân 1782 ở sông Ngã Bảy.
Phải đánh ồ ạt để lấp liếm cái yếu kém kỹ thuật của họ. Cho nên, phải tàn sát.
Chứ bình thường họ cũng biết cố tìm cách lôi kéo các nước Tây phương theo họ.
Cuối năm 1785, một chiếc tàu Macao bị gió
bạt vào Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc tịch thu chiếc tàu đó, cho người lái nhưng vụng
về để chìm mất. Chủ tàu và thuỷ thủ được trả về Macao có lẽ vào lúc xuất quân
đánh phú Xuân (5-1786). Tây Sơn cho người theo mang thư cho toàn quyền Manille
xin giao thương và mua đại bác để đánh giặc, mua đồng để đúc tiền và luôn thể
dò xét xem Nguyễn Ánh có đi Manille với Bá-đa-lộc không9. Nhưng dù sao chiến
tranh cũng đưa họ tới chỗ cô lập với bên ngoài cũng như sẽ cô lập với dân chúng
vì tính cách tận dụng nhân lực của họ.
Sau khi chiếm được Đồng Hới, đuổi tướng
Ninh Tốn chạy về Bắc, Tây Sơn dừng lại. Thực vậy, vì như đã nói, đó là cùng tột
ước muốn của Nhạc: chiếm để làm chủ cả giang sơn “họ ngoại” của mình. Ý định đó
thể hiện trong việc xây lại luỹ Thầy cao 19 bộ, dày 1 sào. Không ai được ở nhà,
cả đàn bà, con gái, người goá - trừ người còn cho con bú, đều phải đi đắp luỹ
hoặc vào rừng đốn cây. Dịch vụ đó lại làm hao tốn thêm một xứ sở đã ít người
sẵn vì chiến tranh, dịch tể, đói kém.
Nhưng nếu Tây Sơn của Nguyễn Nhạc bắt đầu
phải dè dặt thì Tây Sơn của Nguyễn Huệ với viên tướng chưa hề thua 33 tuổi tất
không thể dừng lại bên dưới sông Gianh mà phải làm cái gì để “phô trương lòng
gan dạ của họ”. Lại thêm vào đó là viễn tượng chiếm lại số vàng trong kho Phú
Xuân mà Trịnh đã lấy về 12 năm trước, chưa kể kho vàng của chính họ Trịnh.
Nếu Nguyễn Huệ còn ngần ngừ thì có Nguyễn
Hữu Chỉnh để đốc xúi thêm vào. Đem binh pháp ra để khuyến dụ Huệ, vạch rõ đất
Bắc chỉ còn cái vỏ rỗng không “tướng trễ, binh kiêu, triều đình không kỷ
cương”, dùng chiêu bài Phù Lê, diệt Trịnh để tiến quân, dùng viễn tượng thành
công lớn trong lời sấm để ngăn cái sợ trái lệnh Vua Anh, Chỉnh thực đã hết lòng
tìm cách để trở về quê cũ với uy danh sấm sét vậy.
Nhưng đi đánh một xứ xa cũng phải cần tổ
chức thêm lực lượng. Quân của họ lúc từ Quy Nhơn cũng lẫn lộn đủ thứ hạng và
giống người. Ngoài người Việt Nam Hà, tất nhiên, họ còn có “những người Mường,
Man di và các bọn mọi khác như Cao Miên, Cambien (?), Xiêm..”., nghĩa là có thể
nói đám người thiểu số miền núi, đồng bằng Nam Hà, đám tù binh ở chiếc tàu Bồ,
trong các trận chiến thắng trước ở Gia Định. Bây giờ họ phải lấy thêm quân
Thuận Hoá, Bố Chính. Tù binh Bắc Hà thì không còn nữa. Dân số ở đây lại sụt
xuống nhiều vì đói, dịch tể đến nỗi người ta phải lôi đàn bà đi đắp luỹ sửa
đường. Chỉ còn những người của các tôn giáo lẩn lút đứng ngoài chiến tranh là
còn đông đúc. Cho nên, từ Phú Xuân cho tới sông Gianh, chỉ trong 5 ngày, tất cả
đều bị bắt đi. Tây Sơn phá các chùa chiền và ép các nhà sư phải mang khí giới
đi đánh giặc. Những tín đồ Công giáo cũng không được chừa, hầu hết đều phải gia
nhập vào đoàn quân viễn chinh ra Bắc. Ngoài ra, Tây Sơn cũng cần kim khí. Họ
phá nhà thờ, chùa chiền, một phần để bắt người, một phần để tìm các tượng và
các chuông về đúc súng đại bác. Đáng lưu ý là đám tân binh bị bắt buộc vác
súng này, một khi bị lôi cuốn vào trận địa, vẫn trở nên những người lính can
đảm, có kỷ luật.
Trước khí thế ào ạt như vậy, Thăng Long
lại không nghĩ gì đến chống đánh. Họ cho đất Thuận Hoá là đất Nam Hà, mất đi
cũng là “điều may”, chỉ cần giữ Nghệ An là được. Quân tướng sai đi trấn Nghệ An
dưới quyền Trịnh Tự Quyền thì trùng trình đến 10 ngày chưa xong việc chỉnh bị.
Trong lúc đó thì Tây Sơn đã ra. Nguyễn
Hữu Chỉnh lãnh 150 thuyền. đi trước vào cửa Đại An nhắm vào kho lương Vị Hoàng
(Nam Định) tấn phát. Trên đường đi, trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Toại, Thanh Hoá -
Tạ Danh Thuỳ nghe gió bỏ thành chạy. Tướng giữ Vị Hoàng cũng không hơn gì.
Chỉnh thu được ở đây hàng trăm vạn hộc lương, giải quyết chắc việc tiếp tế cho
quân đội rồi đốt lửa làm hiệu cho Nguyễn Huệ hay biết chiến thắng mà đến
(16-7-1786).
Trịnh phải vội vã tổ chức quân chống cự.
Trịnh Tự Quyền xuống giữ Sơn Nam đóng ở Kim Động. Bùi Thế Dận đem bộ binh yểm
hộ cho Đinh Tích Nhưỡng dẫn thuỷ binh đến cửa Luộc. Nhưng quân Tây Sơn cũng vừa
đến đánh tan quân Nhưỡng, xua Dận, Quyền chạy rồi chiếm giữ phố Hiến ngày 19-7.
Hôm sau đoàn thuyền trực chỉ Thăng Long.
1. Thư G.M Ceram, 29-5-1784 (RI, XII,
1910, t. 522, 523).
2. Thư ông Breton kể trước.
3. Thư G.M Ceram kể trên.
4. Chi tiết Nguyễn Lữ làm Tiết chế là của
Liệt truyện, q30, 12ab.
5. Ngoài Hoàng Lê, Liệt truyện, còn có
thư ông Le Breton đã dẫn, thư Labartette gởi cho Le Blandin 23-6-1786 (BEFEO,
1912. t. 12, 13).
6. Thư ông Doussain gởi ông Blandin
6-6-1787 (Sử Địa, số 9-10, t. 232-233).
7. Thư 10-7-1786, 1-8-1786 của Labartette
gởi cho Descourvières, của Longer gởi cho Le Blandin (BEFEO, 1912, t. 14, 15,
17), thư của Labartette gởi cho Letondal ở Macao, 10-8-1786 (A. Launay, III, t.
124).
8. Thư Longer gởi cho Le Blandin (BEFEO,
1912, t. 15 có một lối nói đáng chú ý: “chiều ngày 13 tháng này (6). Thuỷ quân,
hay nói rõ ràng hơn, các ghe thuvền Tây Sơn tiến vào cửa Huế”. (Chúng tôi nhấn
mạnh).
9. Trích từ nhật ký của ông Letondal (A.
Launay, III, t. 154, chú số l).
10. Thư Labartette, G.M Veren, cho
Boiret, 15-7-1786 (RI, XIV, 1910, t. 43); thư của Doussain, tạp chí trên, t.
47. Cả hai đều ở Bố Chính trong chiến tranh.
11. Thư Labartette cho Le Blandin.
23-6-1786 (BEFEO, 1912, t. 13, 14).
12. Thư Le Roy cho Le Blandin 6-12-1786
kể trước.
13. Thư Labartette, 23-6-1786 kể trước.
Cũng thấy ở A. Launay, III, t. 122.
14. Thư Longer gởi cho Juilhard (A.
Launay, III, t. 122).
15. Thư Labartette gởi cho Boiret.
15-7-1786 (A. Launay, III, t. 123).
16. Thư La Mothe, 3-12-1786 (RI, XII,
1910, t. 532.
17. BEFEO, 1912. t. 7.
Tướng tá Kinh đô lo chạy vợ con, cất giấu
của cải, không một người nào dám đánh giặc. Tham tụng Bùi Huy Bích bị công kích
rồi bị Tông bãi chức, bắt ra trận đốc chiến. Trần Công Xán hiến mưu Chúa, gọi
Hoàng Phùng Cơ, bộ tướng Hoàng Ngũ Phúc trước kia, từ Sơn Tây về góp 300 bản bộ
binh với 1.000 người vội vã chiêu mộ bằng 5.000 lạng bạc quân phí, tất cả đem
ra đóng ở hồ Vạn Xuân. Thuỷ quân của Kinh kỳ cũng đến đóng ở bến Thuý Ái chờ
giặc.
Nếp sống thái bình, lừ đừ đã quen thói,
quân Trịnh không lường được sức đánh hoả tốc của Tây Sơn. Giặc đến mà lính
tráng không kịp lên thuyền để viên Thiên tướng Ngô Cảnh Hoàn một mình đầu
thuyền cự chiến, bị súng lớn bắn chết lôi theo cái chết thảm thương hơn của người
vợ bé Phan Thị Thuấn. Quân Tây Sơn đã ùa lên bộ mà quân Phùng Cơ còn ăn cơm thì
cái thế thua thật đã rõ rệt nghiêng về phía nào rồi.
Tây Sơn chém giết cho chán rồi tiến quân
lên bến Tây Long. Đám lính hộ vệ kinh thành bây giờ mới cho người ta thấy xấu
hổ với danh vị ưu binh. Nghe súng hoả mai của giặc họ “sợ mất vía, bỏ cả khí
giới, chạy thục mạng”. Cây cờ “Diệt Trịnh phù Lê” phất phới trên thành Thăng
Long khiến cho “chỉ có Chúa Trịnh, bộ hạ cùng binh lính chạy trốn thôi”
(21-7-1786).
“Giặc Quảng” tiến vào Trịnh phủ lấy vàng
bạc, súng lớn, súng tay, đồ đạc, voi ngựa, chỉ để lại cái xác vôi gạch. Quân
tướng Tây Sơn chui rúc ở các chùa, vứt chôn các pho tượng, không một mặc cảm
nào hết. Binh lính cũng mang tinh thần cương cường của chủ tướng. L.M Le Roy ở
Kẻ Vĩnh thấy họ đi lính “không lương, không tiền”, mà “không lấy cái gì của
người Bắc hết, hoặc ăn cơm không muối, uống nước lạnh và ngủ ngoài trời”3. Ở
cửa Bạng, La Mothe thấy họ cướp bóc, đốt phá, nhưng giết người rất ít, vì có
lệnh cấm của “bạo chúa”. Họ trị tội bọn trộm cướp một cách giản dị đến thành
thô kệch, tàn nhẫn: có ai cáo là không cần phải dông dài, họ chặt đầu tức khắc.
Hình phạt cũng không miễn trừ cho binh lính họ.
Nhưng chiến thắng không đủ, người ta còn
phải hợp pháp hoá việc tiến quân đối với dân chúng. Thực ra, ở cửa miệng người
mạnh việc gì không phải. Ở đây, như đã thấy, người ta có sẵn để lợi dụng một
chiêu bài cũ kỹ: “Phò Lê diệt Trịnh” và một lời sấm truyền tụng từ lâu trong
dân gian rằng Trịnh sẽ mất nghiệp Chúa. Lẽ Trời như vậy, Tây Sơn chỉ là kẻ đại
Thiên hành đạo thôi. Cho nên, Lý Trần Quán dù có tự phụ “đạo hiếu 3 năm đã
trọn” có nhắc đến nghĩa vua tôi, tình thầy trò cũng không ngăn được tên học trò
Tuần huyện Trang bắt Đoan Nam vương Trịnh Tông đem nạp cho Tây Sơn với cái lẽ
giản dị “sợ thầy không bằng sợ giặc, quý Chúa không bằng quý thân”.
Điều đó cho ta thấy sức phân ly của xã
hội Bắc Hà đương thời. Những biến loạn trước xưng là diệt Trịnh phò Lê nhưng
không có được những lực lượng kết tập to lớn. Đám nông dân trung châu đi theo
Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương... chẳng hạn, vì
nghèo đói, bất mãn quan lại mà vác bừa vác gậy làm giặc, mỗi nơi mỗi nhóm chứ
thương gì Lê! Đám sĩ phu, võ tướng thấy ngồi ở phủ Chúa cũng không khác gì Điện
Vua, làm Bồi tụng cũng giữ ngôi Tể tướng thì có gì mà thắc mắc đổi thay? Còn
Nguyễn chúa ở phương Nam muốn nói đến nghĩa tôn phù - để giữ độc quyền tôn phù,
thì cũng không đủ sức đem binh qua 7 huyện Nghệ An. Những lực lượng phân tán
của xã hội Đại Việt chỉ vừa đủ để giữ ngôi vua Lê chứ không đủ để trao lại thực
quyền cho dòng họ này.
Rồi theo dần với thời gian, các vua Lê
không dự vào chính sự trở nên vô tài, dung thường. Điển hình nhất là ông vua
già, bệnh Lê Hiển Tông. Làm vua mà “khoanh tay rũ áo, tìm trò mua vui”, bị
Trịnh Sâm đè nén mọi cách vẫn cười cợt mới có thể làm vua lâu dài. Nhưng lâu
dần tính cầu an thành trầm trệ đến nỗi không muốn Trịnh chúa mất nghiệp, sợ
“mất kẻ gánh cái lo”, đến nỗi Kiêu binh xin tôn phò, chính ông doạ tố cáo với
Đoan Nam vương, đến nỗi được Nguyễn Huệ trao quyền thì không mấy vui, coi đó là
“một gánh nặng”, gả Ngọc Hân cho người để họ chia sớt “lo lắng”.
Nhưng ông mai giảo hoạt Nguyễn Hữu Chỉnh
chắc không ngờ mình vừa làm một việc thay đổi lớn lao con người của viên tân
Nguyên suý Uy quốc công của triều Lê tàn tạ. Viên tướng thường thắng Nguyễn Huệ
tuy cầm quân nhiều lần, tuy làm em vua một cõi, có lúc hãnh diện là “kẻ bố y”,
nhưng không thoát khỏi mặc cảm làm kẻ mường mán trong hang hốc xa xôi. Làm rể
một giòng vua có quá khứ 400 năm, có người vợ kinh sử làu thông, Nguyễn Huệ lớn
lên trước chính mình sau mười mấy năm hiên ngang trước binh tướng. Can dự vào
việc lập Tự Hoàng, lo lắng cho việc chôn cất Hiển Tông, ông đã không là khách
trong nước An Nam này nữa. Mối dè dặt, e ngại can thiệp vào đất Lê cứ dần dà
xoá tan trong đầu óc ông cho đến khi có những cuộc tiến quân sau. Nhưng hiện
tại ông chưa dám bỏ ý tôn Lê. Tây Sơn còn lo đề phòng loạn ở các trấn của các
tướng mất chức biến thành cướp như Đinh Tích Nhưỡng chiếm Cẩm Giang ở Hải
Dương, của viên văn quan trở thành tướng bất đắc dĩ, Dương Trọng Tế, chiếm
huyện Gia Lâm ngay bên thành Thăng Long. Nguyễn Huệ lo tìm cách cải thiện, tăng
cường chiến cụ bằng cách tìm thợ rèn, và chỉ chăm chú rút về. Việc Nguyễn Nhạc
hối hả ra Thăng Long làm cho ý định thêm chắc chắn.
Họ hàng Tây Sơn bàn mật ngày rút quân về
mà không cho Chỉnh dự vào. Ngô Thì Chí cho là Vũ Văn Nhậm ghét Chỉnh, xúi Huệ
bỏ rơi cho người Bắc Hà giết, tiện cho việc chiếm đất sau này. Nguyên cớ hiềm
khích nhỏ mọn, lễ vật dân chúng đưa cho Chỉnh nhiều hơn cho Nhậm - cho ta thấy
một lý do là sự cô lập của Tây Sơn giữa dân Bắc Hà. Tây Sơn chưa hẳn thù ghét
Chỉnh, nhưng trước sự đắc thế, quen thuộc, cá trong nước của Hữu quân họ, một
người vốn tự nhận có tài, dễ muốn làm việc độc lập, họ phải nghi kỵ.
Thế rồi nửa đêm 31-8-1786 Tây Sơn lén lút
đi, thình lình như khi họ tới, duy không có Chỉnh cùng về. Biết được tình hình
Bắc Hà yếu ớt, họ không nề hà gì mà không chiếm lấy một ít đất. Đóng quân ở
dinh Vĩnh mươi ngày, họ cho Nguyễn Văn Duệ giữ Nghệ An, Vũ Văn Dũng6 ở Hà Trung
(Thanh Hoá) lui về châu Bố Chính, để Vũ Văn Nhậm giữ Đồng Hới ứng tiếp nhau.
Nhân dịp đó, họ vơ vét kho tàng phủ Yên Trường chứa bảo vật của họ Trịnh ở xứ
Thanh. Quân lính cũng thừa cơ trên đường về mà “cướp đoạt hai bên sông, bắt cóc
đàn bà, con nít, làm nhiều điều nhơ uế”.
Nguyễn Hữu Chỉnh ở Kinh đô vội vã cướp
thuyền chạy theo kịp. Nguyễn Huệ khôn khéo lấy cớ ngoài Bắc còn có Hoàng Phùng
Cơ, Đinh Tích Nhưỡng chưa trừ được nên cho vàng bạc, lưu Chỉnh lại Nghệ An rồi
rút binh về thành Phú Xuân trong khoảng tháng 9-1786.
Trong một chuyến phiêu lưu dài 3 tháng,
quân Tây Sơn đã đem lại tan rã cho đất Trịnh từ Thuận Hoá ra Thăng Long. Bắc Hà
như một ngôi nhà ọp ẹp, bị xô đổ không gượng dậy được, một cái “nước không” như
lời Chiêu Thống nói, chỉ còn chờ Tây Sơn ra cướp lần nữa là xong. Nhưng chuyến
phiêu lưu dài này không phải là không có kết quả dội lại trong nội bộ Tây Sơn.
Phản ứng dội ngược lại tai hại đến mực không ngờ có ảnh hưởng to lớn đến vận
mệnh của họ.
1. Thư Le Roy 6-10-1786 kể trước.
2. Thư Le Roy 6-12-1786 kể trước.
3. Thư Le Roy 26-7-1787 (RI. XII, 1910.
t. 535
4. Thư La Mothe 3-12-1786 kể trước.
5. Thư Le Roy, 6-12-1786 kể trước.
6. Hoàng Lê ghi là Đô đốc Chiêu Viễn hầu.
Thư Quang Trung gởi cho ông này khi sai đi sứ Trung Hoa năm 1792 (Hoa Bằng,
Quang Trung Nguyễn Huệ, sđd, t. 329) có câu: “sắc sai Hải Dương Chiêu Viễn Đại
đô đốc”. So với Qui Nhơn, đất Hải Dương quả là xa để có một viên tướng (Vũ Văn
Dũng) về giúp Tây Sơn được phong hàm Chiêu Viễn hầu như vậy.
7. Thư Le Roy 6-10-1786, 6-12-1786 đã kể.
8. .Thư Doussain đã kể.
9. Việc Tây Sơn ra Bắc, các chi tiết còn
ở quyển 30, Liệt truyện, chuyện Nguyễn Huệ, tờ 18a trở đi, ở Cương mục quyển
46, 22a trở đi.
Tiết 8
NỒI DA XÁO THỊT
Nguyên nhân * Chiến tranh * Kết quả: “ngư
ông” Nguyễn Ánh.
Vào đầu năm 1787, trong khi người ta
tưởng những lực lượng thống nhất có cơ tập thành thì một biến chuyển lớn lao
làm tan vỡ viễn tượng đó: anh em Tây Sơn, hay nói đúng hơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ đánh nhau. Tại sao có thể xảy ra như vậy?
Sách Hoàng Lê cho chúng ta biết sự rạn
nứt có từ lúc Nguyễn Huệ nghe lời Nguyễn Hữu Chỉnh “tự chuyên” kéo quân ra Bắc.
Chúa Tây Sơn vốn biết Huệ “khôn ngoan”, “giảo quyệt” sợ Huệ lấy Bắc Hà trở về
hợm hĩnh, khó mà kìm chế. Khi tiếp được thư báo Bắc Hà lấy được rồi, Nhạc lại
sợ Huệ cầm đại quân ở xa, có tướng tài trong tay sinh biến, nên lật đật ngày
đêm dẫn bộ binh ra lôi về. Mối rắc rối quyền bính này tưởng có thể dẹp yên được
khi Huệ ra tận ngoài cửa ô Thăng Long đón tiếp Nhạc, dâng binh phù, tạ tội, dẫn
về nhà giới thiệu vợ mới cưới, anh em đối đáp “y như anh em các nhà thường
dân”.
Nhưng chúng ta thấy mối nứt rạn vẫn còn:
Nguyễn Nhạc nắm quyền thấy rằng cơ ngũ đã được đổi mới dưới quyền Huệ mà vẫn
phải để nguyên. Xung đột nổ bùng khi quân Tây Sơn về đến Huế. Sách Hoàng Lê
mượn lời Nguyễn Hữu Chỉnh tâu với Chiêu Thống mà nói rõ mối biến loạn này:
“Vua Tây từ khi về Nam thì kéo về luôn
quốc thành, còn Thượng công thì ở Phú Xuân, nghỉ quân mua vui, hoặc là ban bố
mệnh lệnh, sửa sang thành lũy. Bao nhiêu quân tướng, khí giới, các vật quý báu
lấy được ở Bắc đem về, Thượng công đều chứa vào một chỗ, vua Tây cho người ra
vời, Thượng công cũng không chịu vào chầu. Rồi thì phong quan ban chức, Thượng
công đều tự quyết định, không hỏi gì đến vua Tây. Vua Tây cho người đem ấn ra
phong Thượng công là Bắc Bình vương và hỏi những thứ của báu bắt được ở phủ
Chúa Trịnh, Thượng công cũng không chịu trả lời. Vua Tây giận lắm, vì thế anh
em mới gây ra cuộc binh đao”.
Sử quan nhà Nguyễn khi bàn về chỗ này quy
tội thực nhiều cho Nguyễn Nhạc. Họ cho rằng từ lúc đánh Bắc Hà thắng, Nhạc đắc
chí, ngày càng buông thả dâm loạn, giết Nguyễn Thung, người cộng sự lúc đầu,
lại hiếp vợ Huệ, “người người đều ghê tởm”. Trong chuyến Bắc xâm, vàng bạc quý
giá của Trịnh phủ Nguyễn Huệ lấy, Nhạc đòi không cho Huệ và ông lại còn tranh
chiếm đất Quảng Nam nữa1. Do đó, chiến tranh mới nổ bùng.
Một nhân chứng đương thời tại chỗ viết
thư nói về việc xảy ra sau ngày Tây Sơn ở Bắc về, kể nhiều điểm tương tự với
các người Việt: Nguyễn Huệ “để Nhạc đi về Quy phủ và ngay sau đó bắt dân chúng
tôn lên làm Đức Chúa; Nhạc biết tin không bằng lòng nên nhiều lần đe doạ
em...”.
Như vậy việc Huệ tự chuyên ở Huế, không
muốn thuộc dưới quyền Nhạc nữa được xác nhận ngay cả trong lặng yên (lạ kỳ, có
vẻ thiên vị đối với Huệ) của sử quan bởi vì Nhạc đã lôi em từ Bắc Hà về mà phải
chịu để Huệ ở lại Phú Xuân với vàng bạc cướp được chứ không kéo được về ngay
Hoàng Đế thành như những lần Nam chinh. Sở dĩ Nhạc chịu về Quy Nhơn một mình vì
mối lo của Nhạc đã thành sự thực: binh lính quen chịu sự điều khiển của Huệ
phần lớn đã theo ông này. Hoàng Lê cho ta thấy lúc Nhạc thu lại binh phù ở Bắc
thấy có nhiều sự đổi thay, sắp đặt quân ngũ khác đi nhưng giả vờ không hay biết
gì hết. Ông không thể làm khác hơn ở đất địch, nhưng về tới Phú Xuân ông cũng
không lấy lại được thực quyền: một phần rất lớn thuỷ quân đã theo Nguyễn Huệ3.
Do đó, ta thấy hành động “dâm, sát” ở Quy Nhơn của Nhạc có thể coi là vì phẫn
chí, vì mối bận tâm thanh toán nội bộ hơn là vì đắc chí như lời sử quan.
Nhưng tại sao bỗng dưng lần này Huệ trở
chứng với ông anh khi đã không có gì xảy ra hết trong những chuyến viễn chinh
Gia Định? Đó chính là vì Tây Sơn đã tiến đến một giai đoạn khác trong sự phát
triển của họ. Một biến cố có căn cớ sâu xa bắt nguồn từ những chuyển biến lịch
sử bên trong cũng như bên ngoài nước như biến cố Tây Sơn, tất có những giai
đoạn phát triển khác nhau, kế tiếp nhau mà từng cá nhân đang đóng vai tuồng
lịch sử đó không thể thấy được vì phải chịu giới hạn của cá tính, giáo dục,
thành kiến thu nhận và khoảng thời gian sống nữa. Hãy trở về Nguyễn Nhạc. Như
ta đã nói, ước vọng của Nhạc thổ lộ với Chapman là chiếm cả giang sơn Nam Hà,
và chỉ chừng ấy đủ rồi. Ông vẫn tự nhận mình là vua Tây Sơn, “vua Trời” của
binh dân đất Nam Hà. Đối với đất Bắc, ông trở lại thời kỳ thường dân xa xưa,
mặc cảm tương tự xuất hiện như khi mới gặp Chapman ông đã vội vã thanh minh
việc nổi loạn khiến người khách buôn này không khỏi ngạc nhiên. Trên đường lật
đật ra Bắc, Nguyễn Nhạc gặp ở Nghệ An một đám dân quê khúm núm dâng lễ vật, gọi
“quan lớn”, ông gạt đi:
“Tôi không phải là quan lớn. Tôi là họ
ngoại của Chúa Nam Hà vẫn quen gọi là Biện Nhạc đấy... Các người hậu tình thấy
tôi đi xa, lương khô ăn nhạt mà đem những món ăn ngon lành biếu tôi, cám ơn,
cám ơn...”
Vì vậy khi Nguyễn Hữu Chỉnh mang mầm mống
phá hoại Bắc Hà vào miền Nam ươm giống phát triển, ông đã không biết sử dụng để
lật đổ chúa Trịnh. Ông đã lớn tuổi rồi, từ một tên Biện lại làm loạn (cho dù có
ý thức) lên được vua Trời, thế là đủ lắm rồi.
Nguyễn Nhạc dừng lại, nhưng những động
lực vô ý thức của lịch sử vẫn thúc đẩy con người tiến tới. Ta thấy Nguyễn Hữu
Chỉnh xui được Tây Sơn ra Bắc xô nốt dấu vết của nền phân tranh cũ. Rồi trong
chuyến đi đó, ta đã thấy Nguyễn Huệ lớn lên như thế nào. Tuổi còn trẻ, ước vọng
còn lớn, chuyến ra Bắc với đất Bắc tan rã hé cho ông thấy có cả một xứ sở dưới
dấu vết đổ nát vẫn chứng tỏ tràn trề sinh lực, của cải phong phú, xứ sở đó sớm
muộn gì cũng vào tay anh em ông. Thế mà ông cứ cản lại, “sợ khó kìm chế” ông.
Lời hịch lúc đánh nhau có chữ chê Nhạc “khinh suất, can không nghe”. Khinh
suất, can không chịu nghe chính vì Nhạc tự mãn trở nên coi thường những khuyến
cáo đổi thay, trong lúc Huệ còn muốn tiến nữa.
Thế là anh em chia lìa. Quân đi Bắc đã có
cơ ngũ đổi thay, khác với lúc xuất phát, đã luyện thành nếp mới. Một phần nữa
họ là dân Thuận Hoá, Bố Chính, có thể có lính Bắc Hà, họ thích ở lại Huế hơn.
Cho nên Nhạc về Nam mà Huệ còn giữ được quân.
Khi ra Bắc, Tây Sơn chiếm được kho tàng
của Trịnh như các chứng nhân đã nói. Vàng bạc vốn không phải chỉ cần thiết cho
bề ngoài một triều đình mà còn thiết yếu cho việc binh nhung nữa. Huệ phải giữ
lại, và giữ được vì Nhạc cô thế ở Phú Xuân.
Nhưng Nhạc tất nhiên cũng cần vàng bạc.
Ta đã thấy Tây Sơn cần tiền như thế nào. Chỉ cần thêm một chứng cớ nữa. Trước
khi chiếm Thuận Hoá, vùng Tây Sơn có xẩy ra một vụ rối loạn phong tục do giáo
điều Thiên Chúa gây ra, nên nảy sinh một vụ cấm đạo. Ấy thế mà những kẻ nào,
nếu nghèo, nộp 10 cân đồng, nếu giàu, nộp từ 100-200 cân đồng thì khỏi phải
chối đạo: Đến nỗi L.M Longer phải đưa ra nhận xét: “Có thể là bạo chúa chỉ làm
như vậy vì keo cú bòn mót hơn là vì có ác cảm với đạo Thánh”. Số chi của quốc
gia vì phải trao đổi với bên ngoài trong một tình trạng kém thế nên lại càng
gia tăng gấp bội.
Tây Sơn, cả Nhạc lẫn Huệ, đều cần rất
nhiều tiền. Nhạc đòi vàng đất Bắc, Huệ cố giữ và nhân đã có mâu thuẫn cũng muốn
chiếm luôn kho vàng ở Quy Nhơn. Chiến tranh xảy ra.
Một bức thư viết ngày 12-5-1787 cho biết
chiến tranh xẩy ra đã 3 tháng rồi. Kẻ nào mạnh thì ra tay trước lấn lướt cho
nên Nguyễn Huệ mới kéo quân vào Quy Nhơn trong tuần lễ Tro (21-2-1787). Số
lượng quân đi, kẻ ước lượng 60.000 người, người tính đến 100.000. chỉ biết rằng
với lối hành quân của Nguyễn Huệ số quân không nhỏ được. “Ông bắt tất cả mọi
người phải ra trận”, tất cả nghĩa là mọi người “từ 15 đến 60 tuổi”. Cho nên
vùng Thuận Hoá, nhà thờ biến thành trại lính, tượng thần phật bị lấy ra đúc
súng đại bác, đúc nồi. Khi quân đi rồi không còn đàn ông, ở nhà chỉ có đàn bà,
kẻ mất cha, người mất con, kẻ lại mất chồng.
Họ, những lực lượng quyết định tình thế
trên giải đất này họ đánh nhau rất dữ. Lại bộ Hồ Đồng bị bắt ở trận Đồng Tuyên
trước làm cho Nguyễn Huệ một bài hịch, chửi bằng “sài lang, chó heo” để kể tội
Nhạc “làm nhơ uế cả một triều”, “khinh suất, can không nghe” và cả quyết rằng
“ngôi báu tất phải đổi dời”.
1. Liệt truyện, q30, 13b, 14a.
2. Thư ông Doussain cho Le Blandin ngày
6-6-1787 (BEFEO, 1912, t. 19).
3. Thư ông Longer cho Boiret, 3-5-1787
(A. Launay, III, t. 143).
4. Liệt truyện, q30, 14a.
5. Trường hợp Vũ Văn Nhậm theo phe Huệ
cũng đáng chú ý. Nhậm không phải ở vào thế bất đắc dĩ vì ông có thể làm như
Nguyễn Văn Duệ. Mọi hành động về sau: đuổi Duệ. bắt Chỉnh, tung hoành nơi đất
Bắc khiến Huệ lo sợ chứng tỏ ông thuộc lớp người có chí riêng, không đồng ý với
sự tự mãn của cha vợ.
6. Thư gởi cho Dufresne. 1-5-1787 (A.
Launay III. t. 126).
7. Thư Longer gởi cho Boiret 3-5-1787
(RI. XIV, 1910, t. 46).
8. Thư Labartette kể trước, tiết 1. Cũng
thư của ông, một năm sau 30-6-1788 (Sử Địa, số 9-10, t. 237) cho biết đánh nhau
từ tháng 1 âl (18/2-18/3/1787) và chấm dứt tháng 5 âl (15/6-14/7/1787).
9. Thư Doussain, 6-6-1787 (BEFEO, 1912.
t.19)
10. Thư Labartette gởi cho Letondal,
21-5-1787 (A. Launay, III, t. 129).
11. Thư Doussain gởi cho Descourvières
8-6-1787 (BEFEO, 1912, t. 19).
Quân Nguyễn Huệ vào vây thành Quy Nhơn,
đắp núi đất đặt đại bác bắn đổ vào. Nhạc kêu khóc ở đền thờ cha mẹ rồi kêu Đặng
Văn Chân ở Gia Định về tiếp cứu. Chân đem binh về đến Tiên Châu (Phú Yên) thì
bị đánh tan, chính mình phải đầu Huệ làm tỳ tướng. Hai ba lần giáp công, Huệ
cũng bị mất đến nửa số quân và phải lấy thêm lính Thuận Hoá, bắt những kẻ vừa
đủ 15 tuổi.
Nhạc phải lên mặt thành, khóc kêu gọi
tình anh em ruột thịt cho Huệ giải vây. Tinh thần ăn đều chia đủ của anh em họ
thật cũng đáng khen, nhưng đã đem lại tai hại không nhỏ cho triều đại. Trần Văn
Kỷ của Nguyễn Huệ bèn lấy Bến Ván làm địa giới ngăn cách đất của Bắc Bình vương
và Thái Đức Hoàng đế. Còn “chú Bảy” thì được đất Gia Định với tước Đông Định
vương.
Cuộc chiến này thực là một kinh ngạc lớn
cho dân chúng thời bấy giờ. Uy danh của gia đình Tây Sơn bị hạ xuống, người ta
trông ngóng về một ông Chủng nào đó mà người ta chỉ biết là kẻ còn sót lại của
triều đại vừa trị vì. Theo lời đồn thì người Hồng Mao sẽ đem Nguyễn Ánh trở về
ngôi vị cũ. Chứng cớ rõ ràng là từ năm vừa qua có mấy chiếc tàu ngoại quốc đi
dọc theo bờ biển Nam Hà, lăng xăng dò đường nước nông sâu, ghé vào cửa Thi Nại,
rồi khi gặp thuyền buồm Tây Sơn cản lại thì nổ súng. Rõ ràng lắm là tiếng đại
bác vọng lại từ bờ biển. Thế lực ông Chủng mạnh như vậy nên, cũng vẫn theo lời
đồn, vua Trời bị ông em quý thúc đánh thái quá đã phái người xin với ông trả
lại ngôi báu mà tên bà con họ ngoại này đã chiếm đoạt. Tiếng đồn chỉ dựa trên
một sự thực là các tàu De Castries, La Dryade, Le Pandour lảng vảng ngoài bờ
biển Nam Hà để dò xét tình hình xem có tiện cho một cuộc can thiệp không, thế
mà gặp dịp lại được dân chúng thổi phồng lên tạo ra một dư luận mong ngóng về
một vị cứu tinh nơi xa, trong lúc vị này đang bị giam lỏng và chăm chắm thoát
khỏi thành phố Vọng Các.
Trong đám binh tướng Tây Sơn có kẻ ngả
theo phe này hay phe khác, nên ngoài chiến tranh giáp công chính thức, Nhạc và
Huệ còn lo thanh toán nội bộ. Có hai trường hợp điển hình: Nguyễn Văn Duệ,
tướng Nhạc ở vùng Huệ và Nguyễn Đăng Vân, con nuôi Huệ ở vùng Nhạc.
Nguyễn Văn Duệ vốn được Huệ cho giữ Nghệ
An để kìm chế Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh ra Bắc đuổi Trịnh Bồng, được thư Duệ hẹn
cùng đánh vào, bèn sắp 10 lượng 10 tấm đoạn xúi Duệ mưu chiếm Nghệ An. Việc Duệ
làm loạn này cũng là do mưu kế của Nguyễn Huỳnh Đức, người bị Huệ bắt sau trận
Đồng Tuyên (1783) được cho làm tướng cùng giữ Nghệ An với Duệ mà lòng cứ đồ mưu
về chúa cũ. Việc bị Vũ Văn Nhậm phát giác. Đức xúi Duệ đem quân theo ngả Thượng
Lào về Quy Nhơn và lãnh quân đi trước. Nửa đường Đức bày tỏ ý thật và dụ Duệ
theo mình đi tìm Nguyễn Ánh. Nghe Duệ tức giận “thằng này định bán ta đây”, Đức
tính chuyện không êm trốn thẳng qua Xiêm. Còn Duệ xuống Quy Nhơn.
Được Duệ về giúp, Nguyễn Nhạc lên tinh
thần, tưởng có thể phục thù mối nhục kêu khóc năm ngoái. Tháng 3-1788, Duệ kéo
quân ra Quảng Nam, nơi “biên giới Chăm”. Không được may mắn như năm 1775, Duệ
bị quân Phú Xuân đánh tan, thân phải bị bắt cho voi giầy, đầu bêu ở thành Hội
An. Nhạc hoàn toàn tuyệt vọng không còn sức gượng dậy nữa.
Câu chuyện thanh toán nội bộ cũng xảy ra
ở Quy Nhơn: Nguyễn Thung hẳn là một nạn nhân của cuộc xung đột ruột thịt bất
ngờ đó. Một nạn nhân khác may mắn hơn vì ở mãi tận Gia Định. Vẫn biết Gia Định
của Nguyễn Lữ nhưng vụ Đặng Văn Chân cho ta thấy Lữ theo phe Nhạc. Sử quan nhà
Nguyễn chép rằng Nguyễn Đăng Vân là con nuôi của Huệ vượt bể qua hàng ở Vọng
Các mùa thu 1787 vì thấy rõ Tây Sơn là “bạn nghịch”. Nguyên cớ viện ra để được
nhận hàng không đáng kể cũng như câu chuyện về hết mệnh đế vương do Nguyễn Văn
Trương bịa ra để hàng vậy. Chúng ta phải lưu ý rằng Nguyễn Đăng Vân là con nuôi
yêu quý của Huệ đang ở trong vùng Nhạc và thời gian vượt bể sang hàng là ngay
sau khi chiến tranh nồi da xáo thịt xẩy ra ở Quy Nhơn. Đăng Vân tất đã trải qua
những dao động mà Nguyễn Văn Duệ đã gặp. Duệ không nghe lời Huỳnh Đức, nhưng
Nguyễn Đăng Vân ở một vùng đầy vết tích của Nguyễn Ánh trong lúc con đường về
Bắc mịt mù tất phải hướng về Vọng Các. Gió mùa không những chỉ chở quân đi
chinh phục mà còn trỏ đường cho tướng trốn chạy nữa vậy.
Nhưng không phải chỉ có vài chuyện đó xảy
ra là thanh toán xong mối hiềm nghi của tướng và các phụ tá giữa hai miền.
Chúng ta thấy người nắm giữ Tả quân của Huệ ở Đồng Hới là Vũ Văn Nhậm lại là
con rể của Thái Đức. Mọi người đương thời rõ ràng thấy Nhậm ở vào thế khó xử,
dù muốn tỏ lòng trung thành với Huệ cũng vẫn bị gán cho ý nghĩ “trông về bên
trong” (Quy Nhơn). Nguyễn Huệ cũng nghĩ vậy. Tuy nhiên, vốn là một tay có thủ
đoạn, Huệ vẫn dùng, dùng mà nghi ngờ. Đến khi trao quyền lớn cho Nhậm đem quân
hỏi “tội” Nguyễn Hữu Chỉnh, Huệ mới cần phải lo đề phòng biến loạn, khỏi như
ông anh ông trước kia đã không lo đề phòng ông. Cho nên, ông dặn nhỏ Ngô Văn Sở
“Điều lo của ta không phải tại Bắc Hà mà là tại Nhậm vậy”8. Cái thế quân tướng
hoài nghi như vậy làm cho Nguyễn Ánh sẽ có một viên tướng tài giỏi chờ đón ở
Long Xuyên và cũng để có dịp cho một kẻ chăn trâu leo lên chức Đại tướng quân:
Nguyễn Văn Trương.
May mắn cho Nguyễn Ánh hơn nữa là việc
chia ba đất nước đã giúp Ánh ngăn cách với kẻ thù nguy hiểm nhất của ông,
Nguyễn Huệ, bằng một giải đất của ông vua già Nguyễn Nhạc “ham dật lạc, cầu tạm
bợ yên ổn, không tính lo về sau”. Thực vậy, Nguyễn Nhạc bị em vây đánh phải
khóc mới được hoà, tinh thần suy đốn, không có một phản ứng nào khi Nguyễn Ánh
về chiếm Gia Định, bỏ mặc cho Phạm Văn Sâm là một viên tướng tài, trung thành,
lo toan đến thế cùng lực kiệt, hàng rồi mà vẫn tính chuyện mưu với Nguyễn Huệ
phản Nguyễn Ánh. Nguyễn Huệ cũng không thể làm gì hơn. Như người đồng thời nhận
xét: “Ông tập họp quân lính, hoặc để đánh anh, hoặc để đánh ông vua chính thức
và có lẽ cả hai mục đích (vì ông không thể đánh ông vua mà không bước qua đất
của anh ông”. Nhưng như ta đã nói, hoặc tình anh em ruột thịt đã không cho phép
ông làm như vậy. Phải đợi đến con ông, tình thân đã cách xa hơn một ít và tình
thế cũng bức ngặt đến nơi, họ mới chiếm Quy Nhơn để trực tiếp đối diện với
Nguyễn Ánh. Nhưng bây giờ thì chậm mất rồi. Trở lại thời phân làm ba của Tây
Sơn, “Gia Định đơn nhược yếu ớt”11 dưới quyền Nguyễn Lữ là một cơ hội tốt cho
Nguyễn Ánh và bọn bầy tôi lưu vong. Họ lục tục trở về.
1. Ta gặp lại tên Chân ở Bắc Hà, sớm nhất
sau vụ này là lúc Tôn Sĩ Nghị sang, Ngô Văn Sở rút đi sai Đặng Văn Chân đem
thuỷ quân về trước. Các trận sau này Chân cũng chỉ huy thuỷ quân.
2. BEFEO, 1912, t. 17.
3. Cương mục q47, 3a, Liệt truyện q30, t.
136.
4. RI, XIV, 1910. t. 46.
5. Truyện Nguyễn Huỳnh Đức trong Liệt
truyện q7, 10a-17b, Thực lục q4, 3b-5a.
6. Thư Labartette ngày 30-6-1788 kể
trước. Tài liệu của Đặng Phương Nghi (Sử Địa số 9-10, t. 204), lời chú trang
239 cho biết viên quan chỉ huy Tiền vệ bị bắt tên là Trần Đức. Ông Nguyễn
Phương (Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn, t. 211) dựa Tây Sơn sử truyện chỉ
rõ viên tướng cầm quân cho Nhạc là Nguyễn Văn Duệ. Chúng ta nghĩ rằng chính Duệ
với quân rút về tăng cường mới gây tự tin cho Nhạc. Còn tên Trần Đức nêu ra
chắc vì ông Labartette ở Quảng Bình lộn với Huỳnh Đức, người theo Duệ về rồi
nửa đường trốn theo Nguyễn Ánh được ban cho họ Nguyễn vậy.
7. Truyện Nguyễn Đăng Vân. Liệt truyện
q13, 20b-21b, Thực lục q3, 5b, 6a. Sau này Vân hăng hái chống quân Phạm Văn Sâm
tới chết hẳn không Phải vì quá trung thành với chủ mới mà vì mối thù cũ vậy.
8. Liệt truyện q30, 27b. Cương mục q47,
28b.
9. Liệt truyện q30, 42a.
10. Thư Letondal dựa vào thư Labartette ở
Bố Chính 7-11-1788 (RI, XIV, 1910, t. 53).
11. Thực lục q3, 1b.
Tiết 9
ĐỐNG ĐA: TỘT ĐỈNH CỦA TÂY SƠN
Bắc Hà hay chế độ cũ dưới mắt Tây Sơn *
Trận Đống Đa và tác động tâm lý của nó.
“Sáng ngày khi biết Tây Sơn kéo quân về
Nam đêm trước, Lê Chiêu Thống đòi các quan vào triều và hỏi:
- Anh em hắn cướp hết nước ta mà đi, để
cái “nước không” lại đây cho ta, nếu như có việc nguy cấp thì lấy gì mà chống
chế?
Các quan ngơ ngác nhìn nhau, không biết
nên nói thế nào. Tả hữu chợt có người tâu:
- Hôm qua vâng có chỉ truyền sớm nay đặt
triều. Bây giờ ngự giá đã tới, dám xin nhắc lại.
Hoàng thượng lại hỏi các quan:
- Triều hãy thôi chăng?
Các quan đều nói:
- Hoàng thượng ra triều để giáng chỉ đổi
niên hiệu, đó là việc lớn sao lại thôi?”
Một đoạn thuật chuyện trong sách Hoàng Lê
vắn tắt cho ta thấy sự tan rã của cái thế thống-nhất-về-Lê. Cái “nước không” mà
Lê Chiêu Thống đã nói đây không phải chỉ là không bảo vật, không kho tàng. Nỗi
kinh hoàng của Chiêu Thống chính do ở cái không khí trống trơn quyền bính mà
Tây Sơn để lại ở Bắc Hà.
Đoan Nam vương chết, Tây Sơn đi người ta
cứ tưởng quyền bính từ đây tập trung về tay Lê, nhưng tình thế trái ngược lại
vì thói quen lâu đời đã không dễ gì một sớm một chiều xoá nhoà được.
Trước hết là về phía nhà vua. Vị thiên tử
21 tuổi đó có mối thù Trịnh giết cha, có kinh nghiệm tù ngục nhưng chỉ để nuôi
dưỡng oán hờn chứ không được chuẩn bị cầm quyền nối ngôi ông nội. Ông chỉ mới
muốn tự chủ trong việc chôn cất Tiên đế thì đã bị ông dượng rể giành lấy làm
đến phải tạ tội mới được yên thân.
Triều thần nhà vua thì qua 200 năm ở nể
cũng không biết việc gì làm hết. Hãy nhìn bộ mặt ngơ ngác của họ khi Chiêu
Thống hỏi mưu lược giũ nước. Có kẻ lanh trí nghĩ ra thì chỉ được có mỗi một việc
là đặt triều đã nói hôm qua. Thế rồi các quan mừng rỡ nhờ tìm được lối thoát,
đốc xúi vua ra triều để được tung hô mừng thời mới. Ừ, việc lớn quá sao lại
thôi?
Trong khi đó thì phải thấy rằng thói quen
làm việc quanh Trịnh phủ dưới quyền họ Trịnh đã tập thành, để một khi xảy ra
biến cố “đám cố gia di thần nhà Chúa” vẫn còn luyến nhớ họ. Hãy nghe Đỗ Thế
Long biện hộ cho nhà Chúa mà đàn hặc Nguyễn Hữu Chỉnh:
- “Khi ông mới xuất thân, nào cầm quân,
nào phong hầu, cái gì không phải là ơn nhà Chúa. Nay ông lấy tiếng phù Lê diệt
Trịnh để kéo quân ra, thật là quá tệ. Nếu bảo nhà Chúa hiếp chế nhà Vua là việc
có lỗi thì sao khôngnghĩ cái công tôn phù hai trăm năm trời? Theo người mới mà
phản người cũ tức là bất nghĩa, bới cái lỗi để lấp cái công tức là bất nhân...”
Cho nên khi văn thần của Lê bất lực thì
võ tướng làm việc ở các trấn một khi kéo quân về chỉ là để phù Trịnh. Khuôn mặt
Trịnh nổi bật nhất là một người đã từng âm mưu giành ngôi anh, tính dựa vào
Kiêu binh đoạt ngôi cháu: đó là Trịnh Lệ, em ruột Trịnh Sâm. Được Thì Trung hầu
tìm đón về Thăng Long, Lệ nhận cho Dương Trọng Tế phản Chiêu Thống thần phục
mình để lập nên triều chúa mới. Một khuôn mặt khác của Trịnh nhu hoà hơn, nhưng
nhờ kích thích của thời thế cũng chứa nhiều tham vọng: đó là Trịnh Bồng, “ông
quận Quế”. Tấn tuồng xoay chiều, đổi chủ lại diễn ra chớp nhoáng. Nguyễn Mậu
Nễ, bộ tướng của Dương Trọng Tế, noi gương chủ đi đón Trịnh Bồng về đuổi Trịnh
Lệ chạy khỏi phủ Chúa (4-11-1786).
Trong họ Trịnh không còn ai giành quyền
nữa để Chiêu Thống làm áp lực có hiệu quả với Trịnh Bồng nên đành chịu Đinh
Tích Nhưỡng mang quân về ép ông phong chức cho Chúa. Ông cũng còn hy vọng ở
Hoàng Phùng Cơ, nhưng viên tướng này cũng liệu gió phất cờ mà sắp hàng bên phủ
Liêu.
Nhưng tình trạng đó không có nghĩa là quyền
binh đã được tập trung quanh chiếc ngai “đố an” - Án Đô vương. Những người lăng
xăng chạy từ cung Vua tới phủ Chúa tranh các danh vị Tham tụng, Bình chương:..
“khư khư những thứ cũ rích” không phải là một lực lượng đáng kể. Bên văn hãy
xem một Ninh Tốn, tướng bại trận Đồng Hới ngày trước, đem cái khôn quyệt “nhanh
trí” của mình ra để dò ý Hoàng Phùng Cơ xem thế mà đổi chiều phò tá. Đám người
“sợ hãi xám mặt” trước Bắc Bình vương, đã bị Nguyễn Hữu Chỉnh mỉa mai tài
thuyết khách từng đem một tên trấn nước để khỏi làm “mê hoặc thiên hạ”, đám
người ấy quả không đủ sức nghĩ xa hơn cách tiến thân bằng mồm mép. Còn võ tướng
Đinh Tích Nhưỡng chẳng hạn, một ông trấn thủ biến thành cướp, không dằn mặt nổi
ông nghè Nguyễn Hãn, còn nói gì đến việc đánh ai? Tình trạng phân ly từ trên
đem đến một sự kết tập binh lính, dân chúng lỏng lẻo, nay là của phe này, mai
bị vào phe khác không có dáng gì hơn bọn trước.
Nguyễn Hữu Chỉnh thừa hưởng được lề lối
kết tập của Tây Sơn có thắng được Trịnh Bồng vào cuối tháng giêng 1787 cũng là
lẽ tự nhiên.
Từ khi bị Nguyễn Huệ bỏ rơi ở Nghệ An,
Chỉnh phải lo kiến tạo lực lượng riêng để bảo vệ bản thân và chờ cơ hội phát
triển. Không có Tây Sơn thì ông làm Tây Sơn vậy. Ông truyền hịch chiêu binh. Ai
ngần ngừ, ngỏ ý chống báng, ông đem tay chân đến giết ngay. Chỉ 10 ngày ông đã
có hơn 1.000 quân. Tất nhiên không phải chỉ có sự đe doạ làm nên tinh thần binh
sĩ. Khả năng tổ chức quân binh của ông từ những kinh nghiệm qua được đem ra thử
thách lần nữa. Quân có thiếu chính nghĩa thì phải tạo nó ra. Một chuyến liên
lạc ngầm với Chiêu Thống được tuyên bố khoa trương khiến dân chúng Nghệ An bỏ
phe chống đối mà theo ông.
Về phần Chiêu Thống từ khi thất vọng với
Hoàng Phùng Cơ, quả vua thấy không còn ai có thể để kêu gọi về giúp ngoài
Nguyễn Hữu Chỉnh. Quân Nghệ An rầm rộ tiến ra. Một trận nhỏ phá tan quân Trịnh
Bồng gởi vào hỏi tội, bắt sống Phan Huy Ích, giết Lê Trung Nghĩa khiến uy thanh
Chỉnh nổi dậy. Một lần nữa, quân tướng quanh phủ Chúa lại lảng xa. Trịnh Bồng
có mếu máo chạy trốn cũng chỉ là thêm chút kinh nghiệm đắng cay cho con người
thời loạn. Chỉ có họ Trịnh là không hy vọng trỗi dậy nữa: Chiêu Thống tức giận
sai đốt tan phủ Chúa để tuyệt diệt dấu vết của một uy quyền đã áp bức dòng họ
mình trên hai trăm năm dài.
Phát huy chiến thắng, Nguyễn Hữu Chỉnh
cho quân đánh bắt Dương Trọng Tế ở Gia Lâm, bắt Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây đem về
giết, đuổi tan quân Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương. Uy quyền của Chỉnh lớn dần
ngang với thực lực. Chỗ ở của Chỉnh tấp nập quan chức ra vào.
Tuy nhiên muốn lập riêng một triều Chúa
mà hành động của Chỉnh vẫn có dấu vết của viên Hữu quân Tây Sơn. Thực vậy, muốn
có lực lượng bình Bắc Hà, muốn tìm cách tập trung một quyền hành từ lâu vẫn
phân tán nên bị khinh khi, Chỉnh đã áp dụng những phương pháp như của Tây Sơn
đã làm. Sách Hoàng Lê với những nhận xét chủ quan, thiển cận vẫn cho ta thấy rõ
điều đó:
“Bây giờ tiền bạc trong nước phần nhiều
bị nhà giàu giấu cất, nhân dân đói khổ vì nạn khan tiền, vật giá đắt lên vùn
vụt. Chỉnh bèn xin với Triều đình ra lệnh thu hết tượng đồng các chùa đem về
Kinh sư mở lò đúc tiền. Rồi Chỉnh thả cho thủ hạ đi khắp tứ phía cướp bóc
chuông, tượng của các làng xóm. Người nào mà dám giấu diềm, tức thì bị chúng
bắt đem về khảo đả nghiêm trị. Duy có pho tượng đồng đen ở Quán Trấn Vũ phía
bắc Kinh thành chúng không dám lấy mà thôi. Thấy Chỉnh làm việc như vậy dân
chúng ai cũng ta thán. Một hôm có người dán ở cửa Đại Hưng hai câu (...), dịch
ra quốc văn thời là:
Thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc
ở đâu được?
Hoàng thượng đốt phủ Chúa, phủ đốt, điện
cũng trơ thôi.
Tất nhiên phương pháp đưa ra không ngăn
được kẻ thừa hành nhũng nhiễu. Chỉnh lại không có đủ tay chân có tài để khống
chế người và kìm chế mình. Chỉnh “mới” quá đối với Trịnh - Lê thần. Cho nên,
đến như việc đánh dẹp Trịnh Bồng, Quận Thạc, Quận Liễn, những kẻ mà bọn thần tử
cựu trào có hồi cũng mỉa mai, thế mà vẫn bị Ngô Thì Chí gọi là “mượn Hoàng
thượng để sai cả nước (.:.), dùng quân trừ bỏ kẻ hại mình”; Đinh Nhạ Hành cũng
tố cáo Chỉnh “lúc cầm quyền ra tay tàn sát; những huân thần, túc tướng, lệnh
tộc và thế gia bị giết hại rất nhiều”.
1. Tài liệu của Nhật ký Hội Truyền giáo
Bắc Kỳ (Sử Địa số 9-10, t. 195). Hoàng Lê, t. 132 ghi ngày đốt phủ Chúa là 8-10
năm Bính Ngọ (28-11-1786) so với ngày Trịnh Bồng vào Thăng Long (4-11-1786)
thật quá gần, không kịp cho quá nhiều sự việc xẩy ra trong thời kỳ Bồng cầm
quyền. Chúng ta vẫn không có tài liệu nào khác để đối chiếu nên tạm dùng các
kết quả trên vậy
2. Trích lại của Hoa Bằng, Quang Trung
Nguyễn Huệ, sđd, t. 135
Sự tồn tại của vua Lê cũng là một chứng
cớ thất bại của Nguyễn Hữu Chỉnh. Lê đế vẫn còn đó là nền nếp cũ vẫn còn, dù dở
đến đâu cũng còn có cớ tồn tại. Chỉnh sẽ bị luỵ vào cái không khí ươn hèn đó để
đổi mình đi, như lời nhận xét của Ngô Nho nói với Trần Công Xán:
“Ông Bằng từ khi đắc thế đến giờ, vàng
ngọc chật đai, không giống hồi nhai rễ rau làm việc được như ngày xưa. Tôi e
ông ấy run rẩy ra chốn trận mạc ắt bị Văn Nhậm bắt được”.
Đó không phải là lời tiên tri. Việc ra
Bắc đã được Bắc Bình vương định từ trước, nhưng phải đình lại vì chiến trận Quy
Nhơn1. Nguyễn Hữu Chỉnh ở yên lại tưởng nhân Nhạc - Huệ xung đột mà có thể thu
được mối lợi ngư ông. Ông xúi Nguyễn Văn Duệ chống Huệ không thành. Ông sai
Trần Công Xán vào Phú Xuân đòi đất Nghệ để giải toả áp lực của Lê thần. Nhưng
không phải chỉ số phận sứ bộ mà cả số phận Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đã được định
rồi, ở Phú Xuân. Nơi dinh trấn Nghệ, Vũ Văn Nhậm nói thẳng vào mặt Trần Công
Xán:
“Tôi nay đã lãnh binh phù, sớm tối sẽ kéo
thẳng ra Thăng Long, trước hãy chém đầu thằng giặc Chỉnh, rồi sau mới hỏi vua
Lê tại sao bội ơn dong đứa làm phản?... Vua Lê đã không giữ được nước thì các
trấn từ Thanh Hoá trở ra, tôi không lấy người khác cũng lấy...”
“Vua Lê đã không giữ được nước”, ý kiến
này không phải chỉ của Nhậm. Đó là nhận xét gây nên ước vọng của Nguyễn Huệ, đó
là đầu mối gây nên chiến tranh nồi da xáo thịt.
Việc chuẩn bị đánh Thăng Long được Vũ Văn
Nhậm sửa soạn ở Nghệ An vào hạ tuần tháng 10-17872. Quân đội của Nhậm vét ở Bố
Chính, Thanh Nghệ được “hơn 30.000 người”, bắt đầu tiến ra Bắc khoảng trung
tuần tháng chạp. Đụng độ với Lê Duật, trấn thủ Thanh Hoá của Nguyễn Hữu Chỉnh,
từ 26-12, Nhậm đánh trận tập kích thắng lớn, giết Duật rồi tiến ra Sơn Nam.
Hoàng Viết Tuyển ở đấy lại xung đột với Chỉnh và có ý hàng Tây Sơn nên quân
Nhậm tránh được một mũi nhọn. Quân Nguyễn Như Thái bị thua trên đường đi chiếm
Tam Điệp. Quân tan, Thái bị bắt3, Nguyễn Hữu Chỉnh phải tự cầm quân. Con Chỉnh,
Hữu Du, cũng không may mắn hơn các tướng khác. Đêm 6 rạng 7 tháng 1 (1788),
Chỉnh lẻn về Kinh thành khóc với Chiêu Thống “Bloi oi la bloi, nhà Lê đã mất
rồi!” rồi cùng vượt sông trốn sang Kinh Bắc.
Vũ Văn Nhậm vào thành Thăng Long
(9-1-1788), cho quân đuổi theo Chỉnh, giết Hữu Du, bắt Chỉnh (12-1) đem về xử
tử (15-1), bêu đầu cho công chúng xem.
Việc thanh toán quyền bính Bắc Hà, cũng
như trước kia đối với Nam Hà, rõ ràng là không khó với thực lực của Tây Sơn.
Nhưng theo với sự mở rộng quyền hành, họ còn phải tìm cách biện chính hành
động, thuyết phục Lê thần, Nguyễn thần công nhận sự đổi thay rồi thu dụng những
người này làm tay chân. Nguyễn Nhạc lúc ra Bắc đã định “xin” mấy ông nghè đem
về nước. Nguyễn Huệ bắt Nguyễn Đăng Trường, thả đi rồi bắt lại ở Gia Định mới
giết đi. Lúc đánh Phú Xuân, ông thu nhận được Trần Văn Kỷ rồi nhờ người này làm
trung gian mời Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, hỏi dò Nguyễn Nghiễm
(cha Nguyễn Du) để tìm đến ông già ở ẩn Nguyễn Thiếp trấn Nghệ An.
Tất cả những việc đó chứng tỏ Tây Sơn
phải mất thì giờ và hao tốn công phu để khuôn nắn trong dòng ý thức hệ thời
đại. Ta không lấy làm lạ, Nguyễn Huệ vẫn phải giải quyết vấn đề theo những dữ
kiện có sẵn. Chính ông vẫn coi việc thu dụng Nho thần như một tiến bộ cho chính
quyền ông. Tây Sơn thiếu Nho thần, không có một chính sách ở Gia Định, chỉ mang
quân tới chiếm rồi đi, không thay đổi nổi lòng người. Ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ
phải ai cầu Nguyễn Thiếp chính là để quân bình lại cái không khí sùng chuộng võ
uy trong triều ông do ở nơi “những kẻ giúp việc trong nhất thời đều là những kẻ
mạnh bạo”.
Nhưng hiện tại sức mạnh Tây Sơn vẫn là ở
quân lực của họ, cụ thể ở Bắc Bình vương Nguyễn Huệ. Tình thế chưa đến để họ
gạt triều Lê ra ngoài triều chính để thuyết phục ông già Nguyễn Thiếp, tuy rằng
trong chuyến trôi dạt theo nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống đã qua kinh Bắc rồi
lênh đênh ở Hải Dương với thổ hào Trần Quang Châu, ở Sơn Nam với trang Hoàng
Viết Tuyển, ở Thanh Hoá, về lại Kinh Bắc, trải qua đủ mùi lưu lạc của ông vua
một triều đại tàn kiếp. Ấy thế mà Lê còn làm cho Tây Sơn mất một dũng tướng
nữa.
Nguyên cớ sâu xa như đã nói là mối bất
hoà nội bộ tận xứ Quy Nhơn. Nhưng nguyên nhân gần cận là thái độ khác nhau của
những kẻ chiến thắng đối với cái “nước không” của Chiêu Thống bỏ lại. Vũ Văn
Nhậm cầm đầu quân tướng Bắc phạt nên hơn ai hết, ông thấy rõ tình hình nghiêm
trọng do các tướng và thổ hào của Lê được dịp mượn tiếng Cần vương để thoả mãn
khát vọng quyền uy trong một xã hội phân rã. Về phía đồng bọn, nói theo các
giáo sĩ đương thời, “Ông còn lo sợ sự phẫn nộ của Bắc vương vì ông khăng khăng
từ chối nhiều lần không chịu tuân theo lệnh gọi ông về Phú Xuân sau khi đã giết
được Hữu Chỉnh. Ông lại còn bị tình nghi là đã có tham vọng chiếm ngai vàng Bắc
kỳ đáng lẽ là của chủ ông nhân lúc người này đang đánh nhau với Tiếm vương
Nhạc...”6. Cho nên theo thói quen làm việc có sẵn cộng thêm ý tưởng đề phòng
trước biến loạn, thụ hưởng chiến thắng, ông đã tận lực khai thác đất Bắc.
“Người ta chỉ nghe đến mộ lính, quyên gạo, quyên tiền”. Quân Nhậm bắt các chức
sắc trong làng kê khai đinh điền để tính thuế, bắt xâu, bắt cung nữ. Họ triệt
hạ các mô đất trong làng sợ có thể biến thành chiến luỹ chống họ. Loạn khắp nơi
nên Nhậm phải sai đắp lại thành Đại La. Ngô Thì Chí kể: “Dân phu đói khát mệt
nhọc, có kẻ đương đội thúng đất mà ngã sấp xuống. Bởi vậy ai cũng ta oán”.
Tình hình nghiêm trọng như vậy nên Nhậm
mới nghe lời một Lê thần mà đem Sùng Nhượng công Lê Duy Cẩn lên làm Giám quốc
để giải toả bớt áp lực tôn Lê. Ngô Văn Sở người được Bắc Bình vương sai kìm cặp
dò xét Nhậm, lại thấy trong hành động đó thêm một ý nghĩa muốn làm Nguyễn Hữu
Chỉnh của viên Tiết chế, nên mật báo về Phú Xuân.
Cuối tháng 3 (1788), vừa dẹp xong Nguyễn
Văn Duệ, Bắc Bình vương nghĩ tới chuyện ra Bắc. Quân ở đàng xa mà uy danh vương
đã khiến Hoàng Viết Tuyển phải bỏ dinh sở trốn đi. Đại binh với một đoàn hộ giá
gồm 150 con voi, 100 người nằm võng, nhiều kiệu thếp vàng, Ngọc Hân, Bắc Bình
vương tiến vào thành Thăng Long với uy thế khiến Vũ Văn Nhậm không dám chống
cự. Ông bị bắt tức khắc. Hôm sau (5-5-1788), ông bị trói phơi nắng ngoài pháp
trường một ngày cho công chúng coi rồi bị xử trảm7.
Tuy Ngô Văn Sở nghĩ rất đúng rằng:
“Từ khi có nước Nam tới giờ triều đại
thay đổi không biết mấy lần, thiên hạ không phải của riêng ai, liệu có thể lấy
thì lấy đi, rồi thì đặt quan chia chức để dựng phên tường cho sự trông nghe của
mọi người đều đổi mới một lượt”.
Nhưng tình thế chưa tới đó, Nguyễn Huệ
cũng không thể làm hơn Vũ Văn Nhậm được. Để hạ bệ Chiêu Thống, Bắc Bình vương
ra một bá cáo công kích ông này vô ơn bạc nghĩa, mất tư cách và vô tài bất
tướng. Đồng thời với bá cáo này có một bản văn khác khôn khéo nhắc công phù Lê
diệt Trịnh của “Đức lệnh”, biện hộ cho việc xử trảm Vũ Văn Nhậm để đưa ra một
cuộc trưng cầu dân ý cho dân chúng “không phân biệt giai cấp, phẩm tước và địa
vị” bày tỏ ý kiến theo Lê hay theo Tây Sơn (15-5-1788). Chắc là dân chúng muốn
theo Lê cũng không thể bày tỏ ở Thăng Long được. Chiến thắng của Nguyễn Phúc
Ánh ở phương Nam và áp lực vọng Lê ở đây khiến ngôi vị Giám quốc “lại mục” của
Sùng Nhượng Công chưa đổ. Quyền xứ Bắc về tay Đại tư mã Ngô Văn Sở, phụ tá là
các tướng: Nội hầu Phan Văn Lân, Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Đô đốc Nguyễn Văn
Tuyết và các hàng thần Lê: Ngô Thì Nhậm với chức mới Lễ bộ Tả thị lang, tước
Tình Phái hầu, Hình bộ Tả thị lang Phan Huy Ích, tước Thuỵ Nham hầu, cùng Ninh
Tốn, Nguyễn Bá Lân. Các trấn do tướng Tây Sơn chia nhau nắm giữ.
Nhưng việc chống đói chứng tỏ tiềm lực
đất Bắc còn nhiều. Bắc Bình vương một khi không đếm xỉa gì đến nhà Lê nữa tất
phải biết khai thác tiềm lực ấy, không thể để cho các lực lượng phản động lợi
dụng được. Các văn võ thần đều bị kêu ra trình diện và bị giữ lại ở kinh thành.
Có lệnh bắt nộp ngay lập tức và cùng một lúc các thứ thuế trước kia vốn phải
trả trong 2 kỳ tháng ba và tháng mười (hai vụ mùa), luôn cả việc truy thu các
thứ thuế trước kia chưa được thanh toán. Một đạo quân 240.000 người, nghĩa là
đông gấp đôi số quân thường nhật của nhà Lê trước kia, được tuyển mộ với hạn
định 5 ngày cho xong. Không đóng đô được ở Thăng Long, Bắc Bình vương cho phá
tất cả cung điện của nhà Trịnh để chuyên chở vật liệu cùng lúa gạo về thành Rum
xây Phượng hoàng Trung đô. Mỗi phường ít nhất phải cung cấp 15 người thợ chuyên
môn cho công cuộc kiến tạo.
Vội vã sắp xếp xong công việc, ngày
24-6-1788, Bắc Bình vương rời Thăng Long, ngóng tin Phạm Văn Hưng ở miền Nam,
trong lúc Lê Quýnh, Nguyễn Huy Túc, Nguyễn Quốc Đống phò gia quyến Chiêu Thống
vào đất Thanh (12-6-1788), rồi được dẫn tới Long Châu, Nam Ninh để vận động với
Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị ra quân. Tháng 9 âm lịch (29/9-28/10/1788), sứ
bộ “nón rách, áo tơi tàn” Lê Duy Đản, Trần Danh Án, được Lê Quýnh về đưa đường,
mang chiếu thư cầu viện qua cửa ải để chính thức hoá việc tiến quân của Tôn đã
chuẩn bị sẵn từ tháng 6 Mậu Thân (4/7/1788-1/8/1788).
Ngày 28-11 (1788), quân Tôn Sĩ Nghị và Đề
đốc Hứa Thế Hanh tràn qua Lạng Sơn. Cánh Quảng Tây do Tổng binh Thượng Duy
Thanh, Phó tướng Khánh Thành điều động, cánh Quảng Đông do Trương Triều Long và
Lý Hoá Long nắm giữ. Viên Đề đốc Vân Nam là Ô Đại Kinh thì vượt đường Cao Bằng
nhắm Tuyên Quang tiến quân. Quân số chính quy khoảng độ 2 vạn người nhưng đám
phụ lực nghĩa dũng được dịp đi theo rất đông, gây nên thanh thế lớn, trong đó
có 2.000 quân Nùng thiện chiến của Sầm Nghi Đống. Cho nên, sử gia Nguỵ Nguyên
mới nói “tiếng đại binh có vài chục vạn” và các giáo sĩ đương thời cho rằng
không dưới 30 vạn. Quân số ước tính hơn số 20 vạn của sử Việt8.
1. Thư ông Daussain ngày 6-6-1787 kể
trước.
2. Chi tiết về ngày tháng, sự việc có chỗ
nào không giống với Hoàng Lê, Liệt truyện, Cương mục là lấy ở tài liệu giáo sĩ
(Sử Địa số 9-10, t. 195 trở đi). Tướng tiên phong của Nhậm mà tài liệu này gọi
“Vach Quinh” là Quýnh Ngọc hầu, người thắng Nguyễn Như Thái ở Điềm Xá. Tài liệu
cũng không nói tới “ong Doc chiên” xung đột với Nguyễn Hữu Chỉnh là ai, nhưng
so với các nơi khác ta biết đó là Hoàng Viết Tuyển. Chính Tuyển coi thuỷ quân,
ở Sơn Nam, nguyên cùng với Chỉnh là bộ tướng Tây Sơn, và kết cục cũng như Doc
chiến bị tan quân vì một trận cuồng phong làm chìm hạm đội. Nhắc lời Chỉnh ở
Hoàng Lê “Tuyển ở Sơn Nam không về (cứu Thăng Long) kịp” là vô lý vì Sơn Nam
sau khi Duật bại đã trở thành tuyến đầu mà sao quân Tuyển lại bất động không
giao chiến? Phải nói như tài liệu giáo sĩ là Chỉnh còn hi vọng xoa dịu sự thù
ghét của Tuyển, hi vọng thành hình khi Tuyển được bạn bè ở Tây Sơn bảo đừng có
về mà nguy hiểm. Tuyển viết thư cho Chỉnh xin tha tội, bị Tây Sơn bắt được nên
phải chống Tây Sơn tới cùng và Chiêu Thống trong lúc cần người cũng không kẻ
vạch chuyện bỏ rơi Chỉnh nữa.
3. Theo các tài liệu ta thì Nguyễn Như
Thái bị giết tại trận. Các giáo sĩ cho ta biết Thái (mà họ gọi Lê Thai) bị bắt
giữ và mãi tới khi Nguyễn Huệ ra Bắc giết Nhậm mới đem xử tử (10-5-1788), Hoàng
Viết Tuyển bị giết ngày 1-6-1788.
4. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, sđd, t.
98, 102, 103, 109.
5. La Sơn phu tử, sđd, thư của Nguyễn Huệ
gởi Nguyễn Thiếp, t. 105, 106.
6. Tài liệu “Nhật ký Giáo hội Bắc kỳ”...
đã dẫn có nhiều chi tiết giống với sử ta như chuyện Chỉnh xuất quân dùng dằng
vì thấy điềm xấu, Chỉnh lẻn trốn về Thăng Long lúc nửa đêm, Nhậm xây thành
phòng thủ... Duy ở đây lại nói Ngô Văn Sở đến tháng 12-1788 mới ra Bắc với
2.000 quân. Tôi theo tài liệu ta vì có nhiều sự kiện về lúc đánh Chỉnh, Ngô Văn
Sở được sử ta nói đến nhiều quá chắc không lầm lẫn được.
Còn về việc thụ hình của Chỉnh thì hẳn tài liệu giáo sĩ cải chính lời truyền
Chỉnh bị “tứ mã phân thây” như người ta vẫn tin Chỉnh đã tiên cảm trong bài thơ
“Cái pháo”.
7. Cương mục q47, 28ab, 29ab; Thực lục
q3, 10b. Sử ta nói Nhậm bị bắt giết trong lúc đang ngủ. Có lẽ vì khiếp tài hành
quân thần tốc của Huệ mà người ta đã hạ giá Nhậm quá đáng. Quân trẩy ra rầm rộ
sao Nhậm không hay biết, nhất là khi Nhậm vẫn có tâm lo đối phó phương Nam? Tài
liệu giáo sĩ có nhiều sự kiện có công chúng dự khán (Nhậm bị trói dẫn ra pháp
trường phơi nắng một ngày) và lại có chi tiết ngày tháng đích xác nên được
chúng tôi theo ở đây.
8. Ta cố lựa lấy chứng cứ đích xác nhất
từ các nguồn tài liệu khác nhau. Về danh tính quan binh Trung Hoa, ta theo sử
Thanh vì chắc họ biết rõ về người của họ hơn (tuy nhiên có lúc họ viết Hứa Thế
Hanh rồi Hứa Việt Hanh chẳng hạn). Về quân số chắc sử Thanh đã rút bớt số quân
chính qui đi hoặc vì Tôn Sĩ Nghị sợ tội đã báo cáo ít, hoặc mặc cảm thua trận
khiến người ta phải giấu bớt quân. Còn về số ước tính của giáo sĩ, ta nghĩ rằng
họ thấy thanh thế quân Thanh to quá so với cá nhân con người thời loạn trốn
chui trốn nhủi như họ và người đương thời, nên đã phóng đại ra. Tạm thời ta
dùng con số 20 vạn của sử Việt kể luôn quân chính qui và phụ lực của Thanh,
quân nghĩa dũng của nhà Lê, chắc không sai bao nhiêu.
Lực lượng đó đủ làm rung động Bắc Hà. Ở
Lạng Sơn, thấy quân lính dưới quyền trốn mất, Phan Khải Đức ra hàng còn Nguyễn
Văn Diễm rút vội về Kinh Bắc hợp với Trấn thủ Nguyễn Văn Hoà chống giữ và đưa
thư cáo cấp về Thăng Long. Một cuộc hội nghị cao cấp giữa những người giữ thành
được tổ chức. Ngô Thì Nhậm trình bày lợi hại, tính chuyện vét quân lương khỏi
thành Thăng Long để tránh mũi nhọn công kích của địch, bảo toàn thực lực mà còn
nuôi lòng kiêu căng của đối phương nữa. Kế hoạch thực là sáng suốt nhưng tự ái
nhà tướng còn khiến Tây Sơn thử một lần cho biết sức địch. Phan Văn Lân hăm hở
tấn công bị hai toán quân của Thượng Duy Thanh, Trương Triều Long đánh tan ở 2
sông Nhật Đức, Nguyệt Đức phải bỏ lính chạy thoát thân.
Đường lối rút quân không còn ai phản
kháng nữa. Thuỷ quân do Thống lĩnh Đặng Văn Chân mang đi trước đóng ở đảo Biện
Sơn. Bộ binh do Ngô Văn Sở lui về giữ chặt núi Ba Dội chờ tiếp ứng ở phương
Nam. Ngày 21 tháng 11 Mậu Thân (18-12-1788)1, Tôn Sĩ Nghị chiếm thành Thăng
Long một cách dễ dàng.
Tôn Sĩ Nghị đóng quân hai bên bờ sông,
cất phù kiều để dễ qua lại. Hứa Thế Hanh chia quân đóng ở Hạ Hồi và Ngọc Hồi để
làm thế che chở phía nam. Phụ giúp vào đám quân này có các đạo nghĩa quân của
cựu thần nhà Lê. Nguyễn Đạo Lĩnh trấn Hải Dương, Hoàng Đạo Nghĩa giữ Sơn Nam
hợp với toán du binh Thanh trông chừng phương Nam. Nhưng đó không phải là những
lực lượng đáng kể. Quân Thanh vào xứ không trông cậy mấy vào bọn thân binh bản
xứ nhưng tựa vào đám kiều dân để làm tai mắt. Trước khi vào xứ họ đã được những
người Trung Hoa đào mỏ, đúc quặng ở Thái Nguyên xin phụ giúp làm tiên phong.
Những người này ở đây đã lâu, tụ tập hơn vạn người, nhân có loạn trong nước
phải võ trang để tự vệ, đã từng có lần xung đột chiến thắng toán du binh Tây
Sơn. Đám Hoa kiều thứ hai gồm những thương nhân ngụ ở phường Hà Khẩu trong Kinh
thành (phố Hàng Buồm), phố Cơ Xá ở Kinh Bắc, phố Hiến ở Sơn Nam. Họ được thế
Tôn Sĩ Nghị tụ tập hơn vạn người thành trại, tha hồ vu hãm người lành, ức chế
nhà giàu có, cướp giật tiền bạc, bắt hiếp đàn bà con gái ngay giữa chợ, hoành
hành không kiêng sợ gì cả.
Thực ra việc bức bách này, lúc đầu ra
quân Nghị cũng có bố cáo quân lệnh ngăn cấm, nhưng một mặt thắng lợi quá dễ
dàng làm quân sinh kiêu, một mặt binh lính quá phức tạp nên không ngăn cấm
được. Cũng qua 8 điều quân lệnh ta thấy được Nghị tiên liệu lề lối hành quân
chống giữ kể cũng chu đáo lắm. Mỗi tên lính của Nghị được cấp cho một tên phu
đeo thẻ riêng để sai bảo. Quân đến xứ lạ, Nghị cũng lo đề phòng bị phục kích
nên bảo phát đường cho quang đãng mà đi, đề phòng cạm bẫy trên đường, cho tuần
hành nghiêm ngặt lúc đêm hôm. Để chống voi Tây Sơn, Nghị bảo quân dùng súng bắn
lúc ở xa, dùng cung và đao lúc ở gần, đuổi chúng quay lại xéo quân địch. Về
phần súng hoả hổ của Tây Sơn, Nghị sắp sẵn vài trăm tấm khiên bằng da trâu sống
để chắn lửa mà tiến lên chém giết.
Nhưng dự tính trong kiêu căng khiến cho
Nghị không nhìn thấy thực lực của địch, không nghe được lời nhận xét của Trần
Công Xán. “Họ đi lại chỉ vù một cái... đánh không thể được, đuổi không thể kịp,
xưa nay chưa từng có toán giặc nào như toán giặc ấy”. Đám quân Tây Sơn còn có
kinh nghiệm chiến trận trên 15 năm qua ở khắp chiến trường, giao tranh với đủ
kẻ địch các xứ từ Trịnh, Nguyễn trong nước tới Hoà Nghĩa quân, Xiêm binh, tàu
Tây.
Cho nên, ngày 24 tháng 11 (21-12-1788)
tin về đến Phú Xuân, ngày hôm sau Nguyễn Huệ tức tốc lên ngôi tôn2, kéo quân
đến Nghệ An. Ở đây ngày 29, ông đòi Nguyễn Thiếp đến hành tại hỏi mưu rồi sai
Hô Hổ hầu tuyển binh Nghệ An, cứ 3 người lấy 1. Chỉ trong chốc lát được hơn một
vạn. “Sự tra xét gay gắt đến nỗi người ta không biết trốn vào đâu để tránh quân
dịch. Các kẻ sai nha đem chó theo để tìm người trong khu rừng bên cạnh như
người ta tìm thú: người ta lấy dao xỉa vào các đống rơm dùng để đun nấu”. Đám
người mới này được dùng làm Trung quân theo với cựu quân Thuận Quảng chia xẻ
chiến trận.
Trước khi đi ba quân còn được nghe chính
chủ tướng họ ban lời huấn dụ để kích thích tinh thần chiến đấu:
“Quân Thanh sang lấn nước ta, hiện chúng
đã đóng ở thành Thăng Long các người có biết hay không? Trong khoảng trời đất
phận sao đã được định rõ phương Nam phương Bắc, nước nào cai trị nước ấy. Người
Trung Hoa không phải nòi giống nước ta, bụng họ ắt là khác hẳn. Từ đời nhà Hán
đến nay họ đã mấy phen chiếm cướp đất cát, giết hại nhân dân, vơ vét của cải.
Người nước ta không thể chịu nổi , ai cũng muốn đuổi chúng đi (...) . Ngày nay
quân Thanh lại sang, định lấy nước ta đặt làm đất quận huyện của chúng, không
biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân
ra đuổi. Các người đều đủ lương tri, lương năng nên phải dốc lòng hết sức với
ta để dựng công lớn, chớ quen thói cũ mang lòng nhị tâm. Nếu như phát giác, ta
sẽ tức khắc giết chết, không tha một người nào. Đừng trách ta không bảo trước”.
Giá trị lời dụ bảo đảm giá trị chủ tướng.
Để xoá nhoà tâm lý vọng Lê, chống Tây Sơn của binh lính, Quang Trung chuyển đối
tượng thù hận vào người Hán, khêu gợi lòng ái quốc, nhắc nhở dĩ vãng oai hùng
của dân tộc để lấy chính nghĩa về mình. Thế rồi không lẩn tránh, ông vạch rõ để
rửa sạch tâm lý hai lòng trong quân ngũ, đem uy chen vào ân để chấm dứt bằng
một câu đanh thép: “Đừng trách ta không bảo trước”. Với tướng quen thuộc, ông
làm ngược lại. Khi Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở vác gươm ra chịu tội ở Ba Dội,
ông đòi “chém chết một vạn lần” rồi nói rõ cớ tha tội, bàn phương lược tiến
quân, tính đường lui tới khi thái bình trở lại. Chiến tranh nhiều lúc cũng là
sự rủi may nhưng ở đây, quân có lý tưởng, tướng có quyền hành, phương lược, tất
cả chăm chú vào viễn ảnh “năm mới vào thành Thăng Long ăn mừng”, sự thắng trận
thật kề bên như ngày Tết vậy.
Công cuộc chuẩn bị kéo dài đến một tháng
trời. Màng lưới an ninh của Tây Sơn kéo dài từ Ba Dội đến Biện Sơn đã ngăn cách
với Bắc Hà những biến chuyển bên trong khiến cho một viên cung nữ lọt lưới trốn
về Thăng Long bày tỏ mối lo lắng về hoạ Tây Sơn càng làm cho Tôn Sĩ Nghị dè dặt
hơn không dám cất quân đi.
Ngày 30 tháng chạp (25-1-1789), hơn 10
vạn quân4 chia nhau tấn phát: Đại Tư mã Sở và Nội hầu Lân đem Tiền quân đi
trước, Hô Hổ hầu xuất Hậu quân đốc chiến, Đại Đô đốc Lộc và Đô đốc Nguyễn Văn
Tuyết cầm Tả quân và Thuỷ sư vào cửa sông Lục Đầu, để Tuyết ở lại kinh lược
vùng Hải Dương còn Lộc lên Lạng Sơn, Phượng Nhỡn, Yên Thế chặn đường về của
quân Thanh, Đô đốc Long đem Hữu quân và Tượng mã quân theo huyện Chương Đức (Hà
Đông) ra làng Nhân Mục (huyện Thanh Trì, Hà Đông) đánh vào quân Điền Châu, Thái
sư Bảo5 lại lấy quân tượng mã theo đường Sơn Minh ra làng Đại Áng (Thanh Trì)
tiếp ứng cánh hữu.
Nghe tin Tây Sơn, quân Thanh dán cáo thị
thách chiến nhưng Tôn Sĩ Nghị không ngờ Quang Trung đã nhanh hơn ông tưởng.
Chiến trận xảy ra dồn dập như người ta lo Tết. Chưa hết ngày cuối năm Mậu Thân,
quân Lê ở Sơn Nam đã tan vỡ, du binh Thanh ở sông Thanh Quyết, sông Giản chạy
tán loạn đến huyện Phú Xuyên thì bị bắt trọn không ai về báo. Nửa đêm mùng 3
Tết quân Thanh ở làng Hạ Hồi nghe tiếng loa gọi quân dạ như vỡ trời, hoảng hốt
ra hàng. Mờ mờ sáng mùng 5 (30-1-1789) trận đánh quyết định xảy ra ở làng Ngọc
Hồi. Cũng đồng thời Đô đốc Long đánh quân Điền Châu ở Khương Thượng bức viên
Thái thú Sầm Nghi Đống chết ở gò Đống Đa mà oan hồn hẳn còn hận nghe lời mai
mỉa của phụ nhân: “Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!”
Nghe bại binh, Tôn Sĩ Nghị “ngựa không
kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp” cắm đầu chạy qua cầu phao về Bắc, bỏ
lại quân sĩ bộ tướng chen chúc gãy phù kiều, “hàng vạn người lăn cả xuống nước,
sông không chảy được”. Chiêu Thống ở Kinh Bắc từ trước lật đật chạy theo để
không bao giờ thấy quê cha đất tổ nữa.
Trận chiến thắng trọn vẹn một cách bất
ngờ khủng khiếp này gieo một ảnh hưởng rất lớn, thuận lợi cho Tây Sơn. Tôn Sĩ
Nghị ném cả ấn tín, mật chỉ, chạy cốt thoát lấy thân thôi. Toán quân chận đường
đã làm cho cả một vùng biên giới, dân Trung Hoa dắt nhau chạy loạn đến vắng
ngắt. Tình trạng đó tạo một không khí thuận lợi cho việc giảng hoà giữa Thanh
và Tây Sơn gây sự nể vì Quang Trung của Càn Long.
Nhưng quan trọng hơn chính là sự đảo lộn
tâm lý dân chúng trong nước. Đám di thần nhà Lê ươn ngạnh thấy tận mắt chiến
bại thảm thương phải lo lẩn tránh, nín hơi lặng tiếng. Những kẻ chần chờ, lưỡng
lự trước tín điều trung trinh (với Lê) và tuỳ thời, thấy thay đổi rõ rệt như
mệnh Trời ném xuống, quả quyết bước vào con đường mới. Nguyễn Thiếp là một.
Trước đó, khi Nguyễn Huệ kéo quân ra bắt Vũ Văn Nhậm, Thiếp ra chầu ở hành tại
đã nói rõ là vì trung với Lê nên không thể theo triều mới được. Thế mà năm sau
(1789) ông đã sẵn sàng để làm đề điệu coi thi ở trường Nghệ, biên thư cho
“Thượng Đức” bày tỏ tình hình dân chúng, lề lối cai trị, đề nghị sủa đổi chính
trị, học vấn, tuyển chọn nhân tài... Theo với ông, ta thấy có đám danh sĩ Nghệ
An cũng ra phò tá Tây Sơn: Nguyễn Huy Tự của làng Trường Lưu, Nguyễn Công (con
trai Nguyễn Khản), Nguyễn Thiện (con Nguyễn Điều) của làng Tiên Điền, hai họ
danh gia vọng tộc của Hà Tĩnh. Kế tới Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, Tiến sĩ Phan
Tố Định. Quan hệ hơn một bực nữa là sự đổi thay tâm lý của dân chúng vốn cũng
chia xẻ những lý luận của nho sĩ, tuy là phán đoán giản dị, thêm tình cảm nhiều
hơn: “Ách Tây Sơn còn được thích hơn ách quân Trung Hoa hay nói cho đúng thì sự
thống trị của họ dễ chịu hơn dưới các triều vua trước... thành thử nếu họ bớt
bắt tàn nhẫn trong vài trường hợp có lẽ chúng tôi không mong đổi họ với vị vua
nào khác...”. Nhưng chiến tranh còn tiếp diễn thì thuế mà khó ngừng thu, binh
dịch khó ngừng bắt. Cho nên, “thuế má quá đáng đến nỗi nhiều làng xiêu đi” và
“nhà nào có mấy người thì bắt đi lính cả, nhà có 5 người thì đi cả 5 (không kỳ
già nua trẻ yếu)”.
Oai danh Tây Sơn, trong cũng như ngoài,
làm khiếp đảrn một vùng Bắc Hà. Duy trong cái không khí say sưa chiến thắng đó
có lẽ có một người là thấy một sự kiện xảy ra ở vùng lầy lội xa tít tận Gia
Định có thể đe doạ cơ nghiệp anh em mình đã tạo nên bằng mồ hôi nước mắt. Phạm
Văn Sâm ở Ba Thắc đã tự đeo gông cùm ra hàng Nguyễn Ánh, chấm dứt quyền cai trị
Tây Sơn nơi này, báo hiệu sự thịnh vượng ở đây sẽ từ từ nhưng chắc chắn tràn
ngập phía Bắc không giải quyết được nghèo đói, mâu thuẫn.
1. Về ngày tháng, chứng cớ của Lê Quýnh
(Bắc hành tùng ký) chắc đáng tin hơn miễn là với một vài xác định nhỏ thêm. Các
giáo sĩ cho ta biết ngày quân Thanh vào Thăng Long là 17-11 thật quá cách biệt
với ngày do Lê Quýnh đưa ra (18-12-1788). Ta đoán chừng họ ghi lộ ngày âm lịch
vì các giáo sĩ cũng có dùng ngày âm lịch (sau này, ta thấy L. Barizy cũng có
một lần lầm như vậy). Ngoài ra, các ngày đánh nhau Tết Kỷ Dậu so ra đều sít
sao, không có sai biệt nào giữa các tài liệu hết.
Lê Quýnh cho quân Thanh chiếm Kinh thành
ngày 22 tháng 11 âl (19-12-1788). Nguỵ Nguyên (Sử Địa, số 9-10, t. 251) ghi tụt
lại 2 ngày. Khác biệt có lẽ vì sự lựa chọn sự kiện khác nhau: Lê Quýnh đợi vua
về vào đền Kính Thiên trong thành mới coi là đã chiếm được Thăng Long; Nguỵ
Nguyên phía quân Thanh tính từ lúc quân Nghị thấy Thăng Long bỏ trống. Như sự
khác biệt ngày tháng đó cũng chứng tỏ cuộc hành quân tiến triển rất chậm.
Ta thấy sách Hoàng Lê, t. 245, 246 thuật
chuyện trước đó đến bờ bắc sông Nhị, chuyện sửa đền Kính Thiên rước Nghị, và
ghi thêm: “Hôm ấy ngày 11 tháng 11 năm Mậu Thân”. Hôm sau có lễ thụ phong cho
Chiêu Thống ở điện Kính Thiên. Nếu nghĩ rằng thời điểm quân Thanh vào thành
Thăng Long là quan trọng không nhân chứng đương thời nào có thể quên được, thì
ta đoán rằng ngày của Hoàng Lê ghi chắc là ngày “21 tháng 11” Mậu Thân mà vì
sao qua chép lại đã lọt mất một chữ thôi.
2. Các giáo sĩ còn cho ta biết Quang
Trung lên ngôi từ tháng 10 âl tức là ngày 8-11-1788 chớ không phải ngày
22-12-1788 như sử ta chép. Chắc ý định lên ngôi vốn có sẵn mà ngày làm lễ thì
phải dời lại vì tin tức can thiệp của quân Thanh đưa về khiến Huệ phải dời tới
ngày xuất quân mới làm cho long trọng một thể.
3. Thư giáo sĩ Longer gởi cho Julliard
(A. Launay, III. t. 238.
4. Liệt truyện q30, 32b.
5. Bản Hoàng Lê của Ngô Tất Tố. Ông Hoa
Bằng (Quang Trung, t. 189, chú số 4) cho là Đại Đô đốc Bảo, Đô đốc Long làm
tướng Hữu quân, ghi của An Nam nhất thống chí (tên khác của Hoàng Lê), cho biết
Long là tên khác của Liệt truyện (q30, 33b) gọi Đô đốc Mưu. Không biết bản An
Nam của ông Hoa Bằng gọi Bảo với chức gì.
6. Tài liệu giáo sĩ cho ta biết quân địch
chết 50.000 người, tù binh độ 3.000, 3.400 người. Hoàng Lê nói bắt đến hơn một
vạn. Nguỵ Nguyên: hơn vạn người chết đuối, với Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long,
quân ngựa của Tôn Sĩ Nghị trở về không đầy một nửa. Thanh sử cho biết thêm
người chết là Tổng binh Lý Hoá Long, Thượng Duy Thanh và 13 tướng khác. Tù binh
theo lời Nguyễn Huệ nói với Thanh là hơn 700 người.
Về phía thiệt hại Tây Sơn, sử ta im lặng.
Các giáo sĩ cho biết nội trong trận Ngọc Hồi có đến 8.000 người bị giết trong
đó có một sĩ quan cao cấp. Trong khi đuổi theo quân địch ở sông Thương, Ngô Văn
Sở cũng bị thiệt.
7. Liệt truyện q30, 35a. Cả chuyện đánh
Thanh là từ 32b-35b.
8. Ngay đến Hoàng đế Trung Hoa cũng có vẻ
nể vì tân Attila này vì ngài mới phong ông làm vua Bắc kỳ qua trung gian một vị
Đại sứ, quên cả việc 50 000 binh lính Trung Hoa đã chết vì tay Tiếm vương năm
ngoái chỉ trong một cuộc giao chiến... Tiếm vương không thèm rời Nam kỳ để nhận
sắc phong tại thủ đô chúng tôi và chỉ chịu phái một vị quan thường nhân danh
ông. Ông này mặc áo Chúa ông làm vị đại sứ Trung Hoa phải kính nể”. (Thư ông La
Mothe gởi ông Blandin, 20-1-1790, Sử Địa, số 9-10, t. 227.
9. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, sđd. t.
109-147.
10. Thư ông La Mothe gởi ông Blandin đã
dẫn.
11. Thư ông Eyot gởi ông Blandin,
5-7-1789 (Sử Địa, số 13, t. 146, 148). In nghiêng là nguyên văn chữ quốc ngữ.
Chương 4
HỌ NGUYỄN TRUNG HƯNG
Tiết 10
NGUYỄN PHÚC ÁNH CẦU VIỆN TÂY PHƯƠNG
Nguyễn Ánh, Tây Sơn và giáo sĩ * Nguyễn
Ánh và Bồ Đào Nha * Cuộc vận động của Bá-đa-lộc.
“Tháng 7... nghe Bá-đa-lộc ở Chân Bôn,
vua sai người đi triệu về, bàn bạc việc cầu cứu nước Pháp…”. Sử quan nhà Nguyễn
chăm chú ghi chép việc xảy ra (năm 1783) theo ngày tháng, hẳn không lưu ý lắm
rằng họ vừa đề cập đến một trong những sự kiện sẽ quyết định vận mạng chiến
tranh.
Thực vậy, lúc bấy giờ trong ba phe đang
chia nhau phần đông bán đảo Đông Dương, trừ Trịnh đang nghiêng đổ tuy vẫn còn
chút bề ngoài huy hoàng, 2 phe còn lại, Nguyễn và Tây Sơn đều biết rằng nếu lôi
kéo được về phía mình đám người mắt xanh da trắng đi trên những chiếc tàu đồng
vững vàng ngoài đại dương kia, thì họ có cơ hội kết thúc chiến tranh mau chóng
hơn. Nếu chiến tranh có làm các tay buôn xa lánh, không chịu chở tới đồng, sắt,
lưu hoàng hay súng đạn, tàu bè thì Nguyễn, Tây Sơn cũng biết phải tìm nơi đâu:
nhóm giáo sĩ Tây phương lẩn lút hay công khai dạy đạo Hoà Lan trong vùng họ cai
trị.
Tây Sơn đã từng ve vãn giáo sĩ ở Quảng
Nam (1774), ở Gia Định (1783), nhưng vì sự cần thiết của chiến tranh, chiến
tranh nổi loạn từ chỗ không có gì khiến họ không những phải lấy nhà thờ làm nơi
đóng quân, bắt tín đồ đi lính, còn phá chuông, tượng chùa để đúc binh khí tiền
bạc, lôi sư sãi đi tòng quân. Cho nên từ chỗ nghĩ rằng Tây Sơn nổi loạn để khỏi
bị bắt giẫm lên thập ác, eắt cỏ cho voi ăn, vì chúa Tây Sơn là một người đi đạo
- ý nghĩ thật là ngây thơ giản dị - một người dân đã đi đến chỗ tưởng rằng “hắn
ta mất đức tin, là kẻ thù của đạo Thiên Chúa lẫn đạo Thần tượng”1.
Thực ra Tây Sơn cũng đã thu dụng được
giáo sĩ: có 2 linh mục thuộc dòng Phăng-xi-cô, một người làm thầy thuốc, một người
chỉ dẫn về toán học cho Nguyễn Nhạc đến gần giữa năm 17862. Nhưng Manille không
phải là nơi đúng chiều hướng phát triển buôn bán, họ không thể có ích hơn 2
viên sứ giả của Nguyễn Ánh ở Gia Định năm 1783.
Trong trận chiến giành giựt giáo sĩ này,
các L.M được thổi phồng khả năng và hoạt động thái quá đến có khi đem lại tai
hại cho họ. Trường hợp của L.M Ferdinand là nhột chứng cớ. Nguyên L.M d’Arcet ở
Quy Nhơn được Nhạc cấp một giấy phép cho tự do truyền giáo ở xứ này và để đổi
lại ông đã hứa cuội với Nhạc là sẽ vận động giúp chiến cụ. Thế rồi L.M
Ferdinand bị bắt ở Gia Định đưa về Quy Nhơn, không hiểu sao Nhạc lại nhận diện
là d’Arcet - chắc là da trắng mắt xanh, râu ria xồm xoàm như nhau! Nhạc quát
mắng rầm rĩ: “Kìa tên L.M phản bội... sau khi hứa đem đồng lại cho Ta, lại đi
về nước rồi mang cho ông Chung đồng và các chiến cụ để phá xứ Ta. Hãy đóng gông
nó lại cho Ta!”.
Thực là oan cho viên L.M này đã gánh chịu
tức giận của Nhạc thấy binh sĩ mình chết vì lựu đạn, súng điểu thương gây ra,
vì các giáo sĩ khác đã giúp Gia Định tích cực hơn. Sử quan ghi vắn tắt hai
người: Gia-cô-vi và Ma-nộ-ê là dân Hi-ba-nho được lệnh sai đi Lữ tống xin binh
giúp vào năm Quý Mùi (1783). Chỉ sai có một chi tiết: Gia-cô-vi (tên thường
dùng chỉ Jacques Liot) không có can dự vào vụ này. Hai người sứ của Nguyễn Ánh
là L.M Ginestar và thầy giảng Emmanuel thuộc dòng Phăng-xi-cô.
Việc xảy ra ở Phú Quốc vào khoảng đầu
tháng 7-1783. Nguyễn Ánh đến hỏi Bá-đa-lộc tìm cách giúp đỡ lấy lại nước. Giám
mục quay lại hỏi các L.M Phăng-xi-cô ở đó xem thử Manille có thể giúp được gì
không. Họ đều trả lời “không” vì Manille không có quân lính. Nhưng Ánh nói mãi,
G.M mới quyết định gởi một người trong bọn đi Manille với một viên sứ giả để
cầu viện hay ít ra cũng tìm được chỗ trú cho vua. Vừa lúc ấy L.M Ginestar và
Thầy giảng Emmanuel muốn thừa dịp trở về Dòng nên nhận lời. Sứ bộ đi trên một
chiếc ghe bầu chở đầy Calaim (cá lầm?) định để bán hay đổi lấy gạo.
Nhưng họ không thoát lưới Tây Sơn giăng.
Họ bị bắt dẫn tới Phạm Công Trị (12-7-1783). Câu chuyện của P. Ginestar thuật
lại cuộc gặp gỡ tra xét làm chúng ta chứng kiến được một cuộc đấu trí giữa
những viên sứ giả sa cơ mà vẫn còn đủ khôn ngoan đối đáp vừa để tránh thoát tội
mình, vừa trấn an kẻ địch khỏi hư việc vua và một bên những viên loạn tướng
cũng đủ tư cách tướng soái để nhẹ nhàng khéo léo cật vấn kẻ thù cho biết tình
hình đối phương.
Sau khi biết được mục đích đi sứ bại lộ
nhờ tìm ra thư của Bá-đa-lộc giấu trong thuyền mà không bắt tội các L.M đã nói
dối “chỉ trông thấy mặt vua đàng xa”, Phạm Công Trị đem họ về Sài Gòn dùng làm
đầu đề khuyến dụ giáo dân: “Ta không đòi hỏi các người đổi lại bằng tiền bạc gì
hết mà chỉ để các người biết ơn Ta và giúp Ta lập lại bình yên trong xứ. Các
người đã biết tại ai mà xứ sở lộn xộn rồi, nếu trong các làng các người có ai
làm loạn, hãy chạy báo cho Ta biết...”.
Tuy nhiên như Phạm Công Trị đã tiếc, vụ
bắt này làm thoát mất hai người quan trọng: ông Chủng và ông Cả. Ông Chủng thì
đang do dự hết tính chuyện theo sứ bộ đi Manille lại toan chạy trở ra Phú Xuân
nhưng sợ Trịnh không dung6. Ông Cả thì đang tìm chỗ đặt để đám tuỳ thuộc trong
cơn biến loạn, nhưng Chantaboun rồi Bangkok vẫn không được lại phải lênh đênh
trên các hải đảo.
Nhân vật này thực khá đặc biệt. Đức ông
Pigneau (x), Pierre-Joseph-Georges Pigneau de Béhaine trong hiệp ước 1787,
trong giấy chứng nhận là đại diện toàn quyền cho vua Pháp ở Cochinchine, Giám
mục d’Adran, Bá-đa-lộc, Bi-nhu Quận công, đó là những tên được người ta gọi một
giáo sĩ của hội Truyền giáo Ba-lê ở cái xứ xa xôi này, vị giáo sĩ muốn đóng vai
một “Giám mục trong triều” của Nguyễn Ánh, người đã cố lẩn tránh khi người ta
gán cho danh hiệu ấy và thực ra cũng không bao giờ có thể trở thành một
Richelieu Đại Việt.
Cứ theo lời ông thì khoảng giữa tháng
12-1784, ông gặp Nguyễn Ánh trên hòn Thổ Châu và Ánh đã quyết định theo tàu Hoà
Lan đi Batavia nếu không có ông cản kịp. Và trong khi trận Rạch Gầm chưa xảy ra
thì ông đã ôm Hoàng từ Cảnh để cùng Phó Vệ uý Phạm Văn Nhân, Cai cơ Nguyễn Văn
Liêm, Trần Văn Học với đám tuỳ tùng lênh đênh trên Ấn Độ Dương hướng về
Pondichéry.
Đến bây giờ ông mới tỏ bày lập trường của
ông. Ông muốn việc cứu viện Nam Hà phải về tay một cường quốc Công giáo, gạt ra
ngoài bọn Thệ phản Hoà Lan, Anh. Ông muốn huấn luyện đứa bé ba tuổi trở thành
một giáo dân kiểu mẫu để cho thần dân nó sau này sẽ bắt chước noi theo.
Tuy nhiên dù trước kia cố tình chối cãi,
người ta đã đồn ầm lên từ cuối 1778 là Nguyễn Ánh sẽ đi Tây cầu viện với L.M Hồ
Văn Nghị, một người thân tín của Giám mục, và khi qua Pháp vận động, Bá-đa-lộc
đã đưa ra một tờ giấy uỷ nhiệm của Nội các Gia Định cho ông quyền hành vô hạn,
lãnh ấn, hộ vệ Cảnh để xin viện binh Pháp; tờ giấy này làm ngày 10-7 Cảnh Hưng
thứ 43 (18-8-1782) tức là khi Châu Văn Tiếp chưa lấy lại Gia Định trong tay Đỗ
Nhàn Trập, Hộ bộ Bá. Ý định cầu viện Pháp quả đã định từ lâu.
Mất công trông coi một đứa bé lên ba,
Bá-đa-lộc được giữ trong tay một món hàng quý giá mà các nước Tây phương đều
thèm muốn. Anh quốc sai người đến tận Pondichéry năn nỉ ông nhường lại Hoàng tử
cho họ. Tiếng tăm về việc cầu viện cũng lan tận Goa. Sự thật từ tháng 4-1780,
viên Toàn quyền Bồ ở Macao, O Fran Savier de Castro, đã gởi thư xin Bá-đa-lộc
bảo Nguyễn Ánh gởi thư cho thành Goa chịu thông thương với điều kiện thuận lợi.
Đổi lại Macao sẽ đảm đương lấy việc cung cấp cho Nguyễn Ánh những sự trợ giúp
cần thiết. Việc không đi tới đâu nhưng khi Bá-đa-lộc ở Pondichéry cũng thấy rõ
Goa thèm muốn Hoàng từ Cảnh nên vội viết bức thư ngày 8-7-1785 cho Nghị viện
Macao để “dân Bồ khỏi làm rối các Phái đoàn”.
1. Thư Pigneau. Pondichéry. 20-3-1785 (A.
Launay III: t. 85.
2. Thư Longer gởi cho Dufresne, 1-5-1786
(A. Launay III, t. 121).
3. Thư P.Ginestar. 1784, BSEI. XV. t. 90,
91. Thư Pigneau, Bangkok. 5-12-1783 bổ túc tên Ferdinand bằng Olmédilla. Theo
ông, P. Ferdinand chết vì một vụ mê tín đàm tàu. Người giết ông là “Ông Doc lanh”(?)
vốn tàn ác, đã từng cướp bóc các người Trung Hoa nên bị “Ông Long nhuong” kêu
về Gia Định chém đầu. Chúng tôi phối hợp theo tin của Ginestar, tuy viết thư
sau nhưng ở Sài Gòn vùng Tây Sơn, tất rõ chuyện hơn Pigneau ở Bangkok. Ông
Chung: Ông Chủng. Nguyễn Ánh.
4. Liệt truyện q28, 8b, 9a. chuyện
Bá-đa-lộc.
5. Thư Pigneau 20-3-1785 dẫn trước; thư
L.M Ginestar 1784. L.M Castuera gởi cho L.M Trưởng tỉnh 11-7-1784 (BSEI, XV, t.
92-96). Lưu ý rằng theo Pigneau thì việc đi sứ là do 2 L.M chứ không phải ông
đề xướng. Thái độ thật là dễ hiểu: Pigneau vẫn còn muốn tránh tiếng mình đã can
thiệp vào chính trị. Chúng ta theo tài liệu của người trong cuộc để thấy phần
do dự, phần chủ xướng của Pigneau. Hai người sứ còn sống chứ không phải bị giết
như tin của Liệt truyện.
6. Thư Langenois gởi cho Descourvières
14-11-1783: Pigneau gởi cho Descourvières. Bangkok, 5-12-1783, thư Castuera nói
trên.
7. .Thư Pigneau ở Pondichéry 30-3-1785
(A. Launay, III, t. 92). Thực lục q2, 4b. Liệt truyện q15, 17a .
8. Thư Pigneau kể trên và thư ở
Pondichéry 6-7-1785 (A. Launay, III, t. 154). Liệt truyện q15, 17b.
9. Thư Mgr Le Bon cho hội Truyền giáo
21-12-1778 (A. Launay, III. t. 94).
10. A. Launay. III, t. 158, 159, 160.
11. A. Launay, III. t. 154.
Trong lúc Bá-đa-lộc ở Pondichéry thì một
viên cai tàu Macao, Albert de Souza, đi Manille đòi tiền vua Xiêm trở lại
Bangkok và gặp Nguyễn Ánh ở đấy. Ánh trao cho người này thư gởi cho Toàn quyền
Goa. Không biết nội dung thư nói gì nhưng Bá-đa-lộc cũng gượng nói rằng nếu
người Bồ giúp binh thì công việc truyền giáo của ông vẫn thuận lợi như thường1
(vì ông tin rằng đã nắm được Hoàng tử Cảnh).
Việc cầu Bồ không phải chỉ vắn tắt giữa
chừng như Thực lục đã ghi. Antonio Vicenti Rossa ngày 2 tháng 9 Bính Ngọ
(23-10-1786) đến Vọng Các dâng thư của Toàn quyền Goa báo cho Ánh biết đã có
sẵn 56 tàu chiến (?!) chờ ở đấy. Biết Ánh trong tay Rama I, Antonio đút lót cho
vua Xiêm 28 khẩu súng điểu thương, 100 thước vải Tây để xin rước Ánh đi Goa2.
Tuy rằng Ánh có nói rõ với Bá-đa-lộc, cũng như với De Richery rằng ông không
“nỡ lòng nào theo đó bỏ đây nên phải uyển ngôn từ tạ”, nhưng tại sao ta lại
thấy Antonio đi về mang theo hai viên quan, trong đó có một người tôn thất với
15 lính hầu?3 Nguyễn Ánh không theo Antonio được không phải vì không nỡ lòng bỏ
Bá-đa-lộc, nhưng vì “Xiêm vương hằng ngày cho người do thám” khiến ông “khó nỗi
liệu toan” vậy. Vậy tất Ánh không đi được đã sai người đi thay.
Ở Macao, người ta cũng hay biết nhưng
điều kiện của một thoả ước giữa đại diện Ánh và Toàn quyền Goa. Bồ Đào Nha sẽ
giúp Ánh khôi phục ngôi báu. Mỗi năm Ánh sẽ trả lại “vua xứ Goa” 10.000 đồng
bạc và cũng chừng ấy cho “Hoàng thượng” (Bồ). Thiên Chúa giáo được tự do truyền
bá và được nhà cầm quyền giúp cất nhà thờ bất cứ ở đâu cần tới. Tàu thuyền,
tiền bạc ở Cochinchine một mặt in phù hiệu Nam Hà, một mặt in phù hiệu Bồ. Ánh
sẽ nhường các cửa biển, cho đặt đại sứ... Chi tiết về điều khoản “cho người Bồ
lấy người Việt” và về việc phân biệt “vua xứ Goa” và Hoàng đế Bồ làm cho thoả
ước có vẻ như thực, nhưng những đòi hỏi đền bù quá quắt như “trả lại mãi mãi”,
“cất nhà thờ bất cứ ở đâu” làm ta thấy tiếng đồn đã quá sự thực. Việc không đi
đến đâu vì như Pigneau đã nói một cách khinh bỉ: “Tôi biết Macao không có một
tên quân” và các sứ giả Nguyễn Ánh hẳn thấy tận mắt thực lực của Macao.
Ở Pondichéry, Bá-đa-lộc không nghe lời
Phạm Văn Nhân vì cho rằng “Hồng-mao nhỏ nhen, không như Bút-tu-kê nhu thuận,
chẳng nên cầu”4. Quả thực ông là người Pháp! Nhưng nước Pháp với ảnh hưởng của
Voltaire, của nhóm Bách khoa, “quốc gia lạc đường”, nước Pháp đó không làm ông
tin cậy bao nhiêu5. Cuối cùng, tuy vậy ông vẫn chọn nước Pháp, nước Pháp còn
vua, và trước nhất ông vận động ở Pondichéry.
Toàn quyền Charpentier de Cossigny thế
Coutenceau des Algrains tỏ ra muốn giúp hơn6, nên gởi chiếc tàu Marquys de
Castries do Riehery điều khiển đi Poulo Panjang (hòn Thổ Châu) để tìm thư
Nguyễn Ánh, nhân tiện thả ở đây 34 người đi theo Bá-đa-lộc trước kia, trong đó
các Hồ Văn Nghị và Trần Văn Học. Nghị báo tin cho Nguyễn Ánh hay và tàu hứa chở
Nguyễn Ánh đi Pondichéry vào tháng 12-1786. Ánh rối rít viết thư cảm ơn De
Richery, De Cossigny, từ tạ không đi được vì Xiêm vương canh gác gắt gao. Nhưng
chẳng may cho Ánh, tàu De Castries có nhiệm vụ khác là dò xét bờ biển Nam Hà từ
vĩ tuyến 11-18, coi dân tình có theo Nguyễn Ánh hay không, tìm cách hoạ đồ bờ
bể, vũng tàu, xem xét Ánh có khả năng gì, tướng tá theo có đông không; nếu Ánh
vô tài yếu ớt, thuộc hạ ít, thờ ơ thì về báo cáo mà không hứa gì hết7. Sức mạnh
Tây Sơn lúc này đang nổi lên như sóng cồn ở miền Bắc trách gì khi De Richery
trở lại Thổ Châu trong tháng 2-1787 khăng khăng không chịu chở Nguyễn Ánh!
Tàu De Castries qua Đông thì Bá-đa-lộc
cũng đáp tàu Malabar qua Pháp để vận động trực tiếp với Triều đình (7-1786).
Theo ông vẫn là Hoàng tử Cảnh, Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm với 40 người hầu
khác.
Thực là một dịp để cho đám thượng lưu
Versailles có đề tài ăn chơi: họ tung ra một kiểu tóc, bài thơ phổ nhạc tặng
ông hoàng Đông phương bé tí xíu mà phải sớm lao đao.
Rốt lại ngày 28-11-1787, thoả ước
Versailles ký kết, một bên là hầu tước Montmorin đại diện Louis XVI và một bên
là Pigneau de Béhaine thay mặt Nguyễn Ánh. Các điều khoản phần lớn đã được vạch
rõ trong tờ tuyên bố uỷ quyền của Nội các Gia Định ngày 18-8-1782, đại lược có
những khoản như sau: Pháp hứa giúp Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu, 1.200 bộ binh, 200
pháo binh, 250 mọi Cafres (điều 2). Đổi lại, Nguyễn Ánh nhường luôn hòn đảo
Hoi-nan đứng trấn đường vào cửa Touron (cù lao Chàm?), nhường cửa Touron để cho
Pháp vương tuỳ ý xây dựng và cuối cùng thêm hòn Poulo Condore (điều 3, 4, 5).
Pháp được quyền tự do thương mại và hơn nữa, độc quyền thương mại ở Nam Hà.
Những chiếc tàu buôn ngoại quốc nào vào Nam Hà phải có giấy thông hành của Pháp
và mang cờ Pháp (điều 6).
Đính theo thoả ước, Bá-đa-lộc còn được
Louis XVI uỷ nhiệm làm đại diện toàn quyền bên cạnh Nguyễn Ánh9. Mọi việc liệu
định xuất quân, viên Tổng trưởng Bộ Hải quân, tướng De Castries, trao toàn
quyền cho De Conway ở Pondichéry lúc bấy giờ đang trông coi quân lực ở Ấn Độ.
Mọi việc thu xếp xong, Pigneau xuống tàu
Dryade về nước, rời Lorient ngày 27-12-1787. Viên chỉ huy tàu De Kersaint được
lời dặn bảo Louis XVI “gởi gấm Giám mục và cậu bé Hoàng tử”, cho họ “những
phương tiện thuận lợi và thoải mái trong quyền hạn chủ tàu”, cho những người
hầu Hoàng tử ăn cùng mâm với sĩ quan. Cách đãi khách thật là lịch sự và chu đáo
như trong hơn thế kỷ ăn chơi vừa qua của giới thượng lưu Versailles, nhưng
Bá-đa-lộc có bớt tin tưởng không khi cố nhìn vào tình hình Pháp lúc bấy giờ,
khi nhớ rằng quyền điều động đang trong tay một người bướng bỉnh, ương ngạnh
như truyền thống Ái Nhĩ Lan của ông ấy đã chứng tỏ?
Tuy nhiên tình hình Nam Hà được thông báo
cho Pigneau biết thực đáng khuyến khích: anh em Tây Sơn bất hoà. Nhưng Pigneau
tin tưởng chừng nào thì De Conway dè dặt chừng nấy. Ông bảo đợi chiếc tàu của
De Richery về báo lại. Ông gởi thêm hai chiếc tàu La Dryade và Le Pandour để dò
xét tình hình, tìm hiểu các cửa biển, các đảo nhượng địa...
Thế rồi từ việc quốc gia đại sự, người ta
đi đến những công kích riêng tư. Bá-đa-lộc nóng nảy, ngọt ngạo khuyên nhủ De
Conway “phải biết coi thường những lời bàn tán giấu dưới cái gọi là thận trọng,
kỳ thực chỉ che đậy yếu hèn” để De Conway nổi cáu trả miếng rằng ông “lấy làm
kinh ngạc thấy một giáo sĩ đáng kính lại chê là yếu hèn những người mà ông
không bổ nhiệm và ông cần phải tìm hiểu nữa”. Bá-đa-lộc lại viết thư cho De
Montmorin báo cáo về thái độ của De Conway “yếu kém sức lực và tinh thần, không
phải chỉ không sửa soạn gì hết mà còn tìm đủ cách cho cuộc xuất quân thêm khó
khăn”. Mới có một tháng sau ngày Bá-đa-lộc đến Pondichéry mà xảy từng ấy
chuyện, tình trạng đổ vỡ thấy rõ ràng.
Việc Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định,
sai Hồ Văn Nghị đem tin báo xin viện binh cấp tốc tới cũng không làm cho De
Conway thay đổi ý kiến: thoả ước Versailles chỉ là nhột trò đùa.
Việc không thi hành thoả ước làm cho các
sử gia Pháp yêu nước sau này thấy mất một cơ hội chiếm thuộc địa Đông Dương sớm
hơn gần một thế kỷ, nên nổi nóng gọi nhà cầm quyền lúc bấy giờ là “phản bội,
lừa dối, phỉnh gạt”. John Barrow vài năm sau cũng tìm cách giải thích sự thất
bại này của Pigneau và tìm ra nguyên nhân ở câu chuyện một người đàn bà. Viên
tu sĩ Pigneau nhận quả có ghét một người đàn bà vợ viên phụ tá của De Conway đã
lang chạ với chủ tướng, nhưng bà ta cũng mang tinh thần chống đối 1789 để nhạo
báng De Conway phải chịu quyền chỉ huy của một Giám mục trong “đạo quân của
Giáo hoàng”15.
Nhưng duyên cớ chính phải tìm trong tình
hình lụn bại của Pháp lúc bấy giờ. Thời gian Pigneau qua Pháp là lúc nội tình
Pháp rối ren16. Một mặt chính quyền thấy cần phải cải cách, một mặt phải chịu
đựng phản ứng của những kẻ vẫn được hưởng đặc quyền nay bị truất đi: cuộc nổi
loạn của đám quý tộc dòng dõi nổ tung ngày 20-8-1786, cuộc hội họp của Hội nghị
quý tộc (tháng 3, 4-1787). Tài chính kiệt quệ tới nỗi mười ngày trước khi ký
thoả ước Versailles Triều đình trù liệu vay 420 triệu đồng livres. Thêm nữa,
trước đó hơn một tháng (tháng 9, 10-1787) một đạo quân Phổ đã tràn vào chiếm
đóng Cộng hoà Batave đánh đổ đảng thân Pháp làm cho Pháp mất đồng minh trên mặt
biển là yếu tố cần để giữ thuộc địa.
Cho nên, để Bá-đa-lộc đi rồi, viên Trưởng
văn phòng bộ Thuộc địa mới bảo “do lệnh Vua”, cho De Conway hay rằng “không
tính tới chuyện viễn chinh Đông Dương”17. Việc đó đến báo chí đồng thời ở
Pondichéry cũng biết18. Bá-đa-lộc có biết không? Không rõ điều đó, chỉ thấy lúc
về ông nói lại với Nguyễn Ánh là “Quốc vương Đại Tây có tình thực giúp đỡ trong
khi trấn quan hồ nghi chẳng quyết”19.
Nhưng như nhận xét của tờ Gazette
nationale “không bao giờ tình hình dễ dàng cho việc lập lại quyền bính cho ông
vua mất ngôi đã trở về chiếm năm tỉnh phía nam như bây giờ”. Thực vậy, tuy
Nguyễn Ánh còn phập phồng lo sợ, nhưng cũng đã có thể để lấy danh nghĩa “An Nam
Quốc vương” nói với Đại Tây quốc bằng một chút kiêu hãnh ngầm về cái ý tưởng
thăng trầm quen thuộc của Đông phương: “Nghe rằng đạo trời bỉ rồi lại thái, vận
nước tán rồi lại hưng, lý đã có thực vậy, thời nào lại không...!”
1. Thư từ Ariancoupam, 12-3-1786 (A.
Launaỵ. III, t. 161, 162)
2. Thư Ánh viết cho Bá-đa-lộc, cho Toàn
quyền Pondichéry, cho De Richery (xem Phụ lục). Thực lục q3, 1ab, ghi việc vào
tháng giêng Đinh Mùi (1787) so với tài liệu trên rõ là sai với ngày tháng của
các tài liệu đích xác khác kể trên. Hoặc có thể sử quan ghi ngày Antonio lui
tàu chăng?
3. Nhật ký của ông Letondal ở Macao 1786
(A. Launay, III, t. 156). Thoả ước ở Macao kế tiếp sau cũng ở sách này, các
trang 157, 158. Bức thư chữ Nôm thứ 8 có câu: “Vả việc Cô-á Quốc sai tàu sang
cùng việc Ta sai phục sứ thì đã sai Khiêm Hoà hầu, Thiệm Mẫn hầu dụ tường để
sự” (chúng tôi nhấn mạnh)
4. Liệt truyện q15, 17ab.
5. Thư Pigneau từ Pondichéry 6-7-1785 đã
dẫn.
6. Correspondance générale, vol VII, t.
571 dẫn bởi Maybon (Histoire moderne. sđd, t. 213).
7. Correspondance générale. vol VII. t.
567, dẫn bởi Maybon, sđd, 1. 216.
8. A. Launay III, t. 174. 175.
9. A. Launay, III: t. 168. 169, 170...
10. A. Launay, III. t. 197. 198, thư của
bộ Hải quân gởi cho De Conway - 12-1787.
11. A. Launay. III. t. 177-. Sự thực
Nguyễn Văn Liêm, Phạm Văn Nhân. hoàng tộc và võ tướng đâu phải là tôi tớ thông
thường!
12. A. Launay, III, t. 183.
13. A. Launay, III. t. 184, 185, 187.
14. Trích dẫn bởi bài bình luận sách Mgr
D’ Adran của L.C. Louvet trong BEFEO, 1901, t.261. Ví dụ như tiếc rẻ của Luro
de Cultru trong Histoire de la Cochinchine française des origines à nos jours,
1910, t.22.
15. G. Taboulet, “Le traité de Versailles
et les causes de sa non-exécution”, BSEI, XIII. t. 105.
16. Histoire de France, II, Larousse.
1954, t. 72.
17. A Launay, III, t. 198.
18. Tờ Gazette nationale ở Pondichéry,
ngày 14-6-1789 (A. Launay, III, t. 1999).
19. Bản chụp ảnh bức thư chữ Hán của
Nguyễn Ánh gởi Louis XVI chữ được chữ mất (A. Launay, III, t. 204). Nguyên bản
dịch do G. Taboulet đăng trong La geste française, I , sđd, t. 214, 215.
Tiết 11
NGUYỄN ÁNH VÀ TÂY SƠN CỦA GIA ĐỊNH
Tổ chức giữ Gia Định của Tây Sơn * Nguyễn
Ánh và Phạm Văn Sâm * Tiếp viện của Nguyễn Huệ * Gia Định thoát khỏi tay Tây
Sơn * Tổ chức cai trị, phát triển buổi đầu ở Gia Định.
Phê bình cuộc tranh chiếm ở Quy Nhơn của
Nhạc và Huệ, sử quan nhà Nguyễn rút ra một kết luận chỉ rõ sự quan trọng của sự
việc này như là nguyên nhân mở đầu cho thời trung hưng của Chúa họ: “Từ đấy
giặc lo gườm nhau, thế giặc tan rã không rảnh để dòm ngó phương Nam nữa”. Chúng
ta đã phân tích tình thế đó rồi. Tuy nhiên chúng ta phải xét xem Tây Sơn trong
hai năm rưỡi chiếm đóng Gia Định đã làm gì để củng cố thế lực họ ở đây, để xoá
nhoà dấu vết ông chúa cũ, để lôi kéo dân chúng về phía họ.
Dấu vết công việc còn lại thật là ít ỏi,
nhưng cũng cho thấy tình trạng lúng túng, thụ động của họ. Chúng ta đã biết
người giữ Gia Định sau trận Mang Thít là Đặng Văn Chân. Ông lo đề phòng biến cố
có thể xảy ra do bọn di thần nhà Nguyễn lẩn lút trong dân gian, nên dời dinh
trại lên trên vùng đất cao ở Cầu Sơn cách phía bắc trấn 7 dặm để dễ bề chống
giữ. Trong năm 1786, ông đắp dinh trại trên gò cao, còn dưới thấp thì xây cất
phố xá, lùa các nhà buôn Sài Gòn vào ở đó. Nhưng công việc cưỡng ép này không
đi đến kết quả nào như ta đoán biết, một phần vì nơi mới xa chỗ buôn bán quen
thuộc cũ, một phần vì đầu năm sau (1787), Đặng Văn Chân đã phải ra cứu Nguyễn
Nhạc, bỏ dở công việc.
Ở Gia Định bấy giờ còn lại Tham đốc Trần
Tú coi sóc công việc. Oai võ đã hạ, binh thế đã yếu thì loạn lạc nổi lên: Lê
Công Trấn, Phạm Điền mưu đánh úp Bến Nghé bị lộ phải chết, trong khi xa hơn, ở
Biên Hoà quân khởi nghĩa của Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Nghĩa kéo dài tới
ngày Nguyễn Ánh về. Ngoài ra còn phải kể tới Võ Tánh ở Gò Công mà lực lượng lan
đến tận Kiến Hoà nhưng không hẳn với danh nghĩa phò Nguyễn.
Xung quanh trấn mà Tây Sơn không giữ được
nói gì ở những nơi xa trong một xứ còn đầy rừng rậm, hoang vu với kênh rạch bùn
lầy. Đám người Miên trong thời kỳ này tất được hưởng sự tự trị rộng rãi để sau
này, trước sự đe doạ của quân Nguyễn Ánh, họ sẽ quay lại giúp Phạm Văn Sâm,
người phụ tá cho Đông Định vương Nguyễn Lữ khi anh em chia đất. Nguy hơn cho
Tây Sơn chính là sự trở lòng của binh tướng dưới quyền.
Tình hình đó được Giám quân Tống Phúc
Đạm, Thị giảng Nguyễn Đô, Cai cơ Tống Phúc Ngọc, Cai bạ Nguyễn Thiệm tới Long
Khâu (Vọng Các, địa điểm của làng Gia Long) trình bày cho Nguyễn Ánh rõ và xin
Ánh trở về. Việc ra đi không dễ dàng gì vì như ta biết, Xiêm vương sai canh gác
gắt gao. Ánh ở Xiêm, thuộc hạ có một số quân tướng theo hồi đầu 1785 và 600
người của Lê Văn Quân sau đó chia nhau lập đồn điền để tự cung cấp, đóng thuyền
bè ở Giang Khảm để chờ cơ hội. Tất cả kéo nhau đi không thể làm lặng lẽ được.
Cho nên, lén về nửa đêm, để lại một số
lớn quân sĩ ở Xiêm Nguyễn Ánh tất đã nhìn vào tình hình chín muồi ở Gia Định,
được khuyến khích bằng sự bội phản của Nguyễn Đăng Vân. Người này biết đâu
không làm môi giới cho Nguyễn Văn Trương quay về hợp tác? Nếu không có thông
đồng sẵn thì sao Trương lại sai bộ tướng Hoàng Văn Điểm đi đón từ ngoài biển
rồi tự mình dem hơn 300 binh và hơn 15 chiến thuyền ra hàng? Như vậy là với 300
khẩu súng điểu thương do Mạc Tử Sanh đưa về đến Hòn Tre, tiếp thu bọn cướp biển
Hà Hỉ Văn cùng bộ tướng Thiên Địa hội của ông ta6, Nguyễn Ánh tiếp thu được
vùng Hậu Giang chỉ tốn có trận đánh luỹ Trà Ôn do viên Tiên phong Chưởng cơ mới
là Nguyễn Văn Trương điều khiển thôi.
Được chiến thắng dễ dàng khuyến khích,
Ánh đưa binh vào cửa Cần Giờ trong tháng 9 âm lịch (1787) gây khích động dân
tâm. Nguyễn Lữ lật đật bỏ chạy về gò Mụ Lượng (hay gò Vãi Lượng)7 xây thành đất
trú ẩn để Phạm Văn Sâm chống giữ Sài Gòn. Viên Thái bảo này kháng cự mạnh tới
nỗi Nguyễn Ánh phải dụng mưu phản gián.
Nguyên quân Nguyễn có bắt được một chiến
thuyền Tây Sơn chở viên Hộ đốc tên Lý và người thiếp tên Thị Lộc. Ánh không giết
lại hậu đãi rồi giả mật thư của Nguyễn Nhạc nói Sâm kiêu hoành, sai Lữ dùng mưu
giết đi. Thị Lộc được lệnh cầm thư đưa Sâm. Sâm tưởng thật vội kéo cờ trắng lên
gò Lượng định phân trần. Không ngờ Lữ lại tưởng Sâm đã hàng Nguyễn Ánh bèn vội
vã bỏ đồn chạy về Quy Nhơn chết ở đấy, chấm dứt cuộc đời đáng thương, lạc loài,
bất đắc dĩ của con người dung thường giữa đám anh em vượt chúng, quấy đảo thời
thế.
Phạm Văn Sâm từ nay đơn độc ở Sài Gòn lo
việc chống cự. Quân Nguyễn tưởng có thể lấn bước không ngờ bị đánh mạnh phải mở
vây. Sử quan nhà Nguyễn ghi trận thua này như là tự ý phe họ rút đi nhưng rõ
ràng là Phạm Văn Sâm đã thắng thế.
Trên đường rút về phía cồn Hổ8 quân
Nguyễn đã thanh toán những chướng ngại dọc đường. Ở sông Ba Vác, Điều phát
Nguyễn Kế Nhuận của Tây Sơn phải ra hàng. Ở Ba Lai, Ngự uý Tây Sơn là Nguyễn
Văn Đồn dàn thuyền trên mặt sông cản lại, Lê Văn Quân lẻn vào bên trong đốt lửa
làm hiệu cho Hồ Văn Lân, Nguyễn Văn Trị, Trương Phúc Giáo, Nguyễn Văn Tồn phục
bên ngoài biết mà ập vào hai mặt giáp công đánh phá9. Tưởng có thể chuyển bại
thành thắng, quân Ánh lại tiến đánh Mỹ Tho, gặp phải Phạm Văn Sâm đuổi vừa đến.
Hai bên đánh nhau thật dữ dội vì đối thủ của Sâm là một kiện tướng cũ của Tây
Sơn: Nguyễn Đăng Vân, con nuôi Nguyễn Huệ. Vân bị bắt, không hàng, mắng chửi
rồi chịu chết. Nguyễn Ánh phải bỏ chạy ra cù lao Hổ, còn có 300 người và hơn 20
thuyền, còn Hà Hỉ Văn và bộ tướng thì lanh chân chạy tuốt ra Côn Lôn ở lì đó.
Tuy nhiên mặt trận mở rộng, Phạm Văn Sâm
phải đương đầu với một tình thế nguy nan. Thuộc tướng Nguyễn bây giờ có mặt
khắp nơi. Tháng 10, Hồ Văn Lân đánh ở sông Lương Phú đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Mân
về giữ Thang Trông 10 bỏ lại Chưởng cơ Chân, Tả hiệu Huấn trở thành Tiền phong
cho quân Nguyễn. Nguyễn Văn Trương, Đỗ Văn Hựu ghi thêm một chiến công bằng
cách đánh tập hậu ở sông Mỹ Lung đuổi Chưởng cơ Từ, thu thêm bộ tốt của Từ cùng
vài mươi thuyền. Phạm Văn Sâm, Nguyễn Ánh bây giờ lại đối đầu, kẻ ở Ba Lai,
người ở Mỹ Lung.
1. Thực lục q2, 22a, Liệt truyện q30, 14b.
2. Vùng Cầu Sơn còn tên ở Thị Nghè phía
đường Hàng Xanh xa lộ bây giờ. Lưu … Sài Gòn thời bấy giờ ở quanh vùng Chợ Quán.
3. Trịnh Hoài Đức, “Thành trì chí”, Trần
Kinh Hoà dịch, Đại học số 6 tháng 12-1961, t. 52.
4. Thực lục q2, 22ab cho việc Tây Sơn bất
hoà xảy ra vào tháng 7 âl (1786) và việc loạn ở Gia Định vào tháng 9 nhuận năm
đó (sao không là nhuận tháng 7?). Chiến tranh bất hoà thực sự xảy ra vào mùa
xuân 1787 (xem chương trước). Trịnh Hoài Đức cũng đồng ý như vậy. Biến loạn ở
Gia Định có thể âm thầm nhen nhúm từ năm trước.
5. H. Cordier, Correspondance générale de
la Cochinchine, t. 209.
6. Liệt truyện q6, 12b.
7. Lượng Phụ của Thực lục, Liệt truyện.
8. Hổ Châu của Thực lục, ở cửa sông Hàm
Luông. Xét theo đường lui quân, có lẽ không phải là địa điểm ở Sa Đéc như tin tưởng
thông thường. Địa điểm Hổ Châu của Phạm Văn Sâm sau này cũng chứng tỏ như vậy:
không lẽ Sâm ở Ba Thắc muốn về Bắc lại ngược dòng Tiền Giang?
9. Ngoài Thực lục, xem truyện Lê Văn
Quân, Liệt truyện q27, 2b, 3a.
10. Thán Lung của Thực lục. Đó là tên đất
Nôm theo âm đọc miền Nam: Than(g) Trông, địa điểm ở làng Phú Kiết, Bến Tranh,
Định Tường. Gọi như thế là vì ở đó, theo truyền thuyết, quân Nguyễn có làm một
vọng gác dò chừng Tây Sơn. Cũng vì xuất xứ địa danh như vậy nên ở Hậu Giang
cũng có Thang Trông, Vọng Thê (quận Huệ Đức, An Giang). Ta dò theo tình hình
chiến sự ở đây mà nhận địa điểm ở Định Tường, loại bỏ địa điểm An Giang.
Quân Nguyễn phát triển lần lần. Sâm về
sông Mỹ Tho rồi lại về Sài Gòn trong khi Tôn Thất Hội chiếm Ba Giồng, Hoàng Văn
Khánh, Trương Phú Ngan, Nguyễn Văn Trương, Tô Văn Đoái đắp luỹ ở Nước Xoáy dùng
trái cau khô làm đạn bắn qua luỹ Tây Sơn bắt họ phải lui. Cho đến đầu năm Mậu
Thân (1788), trừ việc Cai cơ Hà Văn Lục giữ giồng Sao bị Tây Sơn giết ở giồng
Gầm, quân Nguyễn chia nhau chiếm giữ vùng Trà Lọt, giồng Triệu, giồng Sao, thu
hẹp phạm vi hoạt động của Tây Sơn trong vùng Sài Gòn, Mỹ Tho. Dinh Trấn Biên
cũng lọt vào tay Lưu thủ Khoa khiến cho Phạm Văn Sâm chỉ còn dựa vào thuỷ quân
bảo vệ cho một số địa điểm bám víu trong đồng. Nguyễn Ánh có thể tự phụ để viết
thư khoe với J. Liot rằng: “Từ Ta đề binh phá Tây đồ, thì bộ binh thâu phục Gia
Định phủ các xứ, còn thuỷ binh nó thì trụ tại Mỹ Tho cùng Bến Nghé, thắng phụ
vị phân, thuỷ binh Ta thì ắt còn trụ tại Trà Lọt...”.
Tình cảnh nguy ngập cho Sâm như vậy mà
tin tức Quy Nhơn vẫn im lìm. Nguyễn Nhạc không có phản ứng gì hết từ khi Nguyễn
Lữ bỏ chạy về. Các giáo sĩ đương thời giải thích thái độ ấy, cho rằng: “Nhạc
không dám đến đánh Nguyễn Ánh là vì sợ lúc vắng mặt, em ông có thể đến chiếm
lấy kho tàng mà ông giấu ở ngôi thành độc nhất này”. Sự thực cả hai Nhạc và
Huệ đều gườm nhau, giữ thế từng tí một, Huệ muốn đánh Nguyễn Hữu Chỉnh cũng
không dám rời Phú Xuân, lại trao quyền cho Vũ Văn Nhậm mà bụng cứ phập phồng sợ
viên Tiết chế này làm phản.
Tuy nhiên cả vùng Thuận, Quảng, Bố Chính,
dân chúng đã lao xao về việc Nguyễn Ánh quay về Gia Định. Nguyễn Huệ tất phải
lo ngại. Theo lời Nguyễn Ánh thì khoảng đầu năm Mậu Thân (1788), Tây Sơn - ta
biết là Nguyễn Huệ đã gởi “Thằng Hưng” đem đại binh vào cứu “Thằng Sâm” ở Sài
Gòn khoảng tháng 3 âm lịch trước khi họ ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm. Số lượng quân
đội này, Thực lục ghi 30 thuyền, Letondal tăng đến 3-400 thuyền và cho rằng mục
đích chỉ đi lấy lương Gia Định cho mau rồi về thôi. Nguyễn Ánh cũng đề quyết
với quân sĩ của mình như vậy và cho rằng Phạm Văn Hưng chỉ vào vận lương, cứ cố
thủ đi vài tháng hắn ta sẽ lui về.
Nhưng lẽ nào quân Hưng vượt biển vào chỉ
độc có việc lấy lương ở một nơi nguy nan như vậy khi Nguyễn Lữ đã chạy về từ
tháng 9 năm ngoái? Có thể Ánh chỉ nói để trấn an quân sĩ. Việc Nguyễn Huệ giết
Nhậm rồi vội vã về Thuận Hoá đợi tin Hưng chứng tỏ nhiệm vụ dò xét, giúp đỡ nếu
có thể - của toán thuỷ binh này ở Gia Định.
Dù thế nào đi nữa, quân Thái uý Phạm Văn
Hưng cũng đã hợp với Phạm Văn Sâm đánh nhau kịch liệt với quân Nguyễn dằng dai
hàng nhiều tháng để ở Phú Xuân Nguyễn Huệ phải bồn chồn lo ngại. Nguyễn Ánh
lúc đó cũng vừa thâu phục một tướng tài: Võ Tánh từ Gò Công, làm tăng quân số
Nguyễn lên hàng vạn người. Điều đó cho Ánh tin tưởng để nói với J. Liot rằng:
“Nội tháng sáu Ta cũng đánh được Sài Gòn mà chớ!”
Thực vậy, trong tháng tư, Nguyễn Ánh từ
Sa Đéc sai Tôn Thất Huy, Lê Văn Quân đánh luỹ Trấn Định, dụ Cai cơ Tây Sơn là
Viên mở cửa đầu hàng, bắt được Chưởng cơ Diệu. Thừa thắng họ tiến đến Thang
Trông đánh bắt Đô đốc Nguyễn Văn Mân. Như vậy Tây Sơn đã mất căn cứ Mỹ Tho.
Quân sĩ của họ chạy tán loạn vào trong dân gian gây ra một mối đe doạ an ninh
cho thôn xóm, cho tất cả đất Gia Định một khi Nguyễn Ánh lấy được. Cho nên một
mặt ông lấy lòng dân chúng bằng cách ra quân lệnh cấm binh sĩ sách nhiễu tiền
bạc, vợ con dân gian, để từ đó dùng lợi lộc dụ họ đối đãi tốt với quân sĩ Tây
Sơn, lôi kéo đám binh này về phe mình: ai mà nuôi một binh lính Tây Sơn bỏ chạy
về làng thì được miễn binh dịch một nửa, hai người thì được miễn hết, ba người
trở lên thì được thưởng. Mặt khác, ông dụ binh Thuận Hoá bằng cách kêu gọi tinh
thần địa phương của họ, nhắc nhở đến mối liên lạc xứ sở của họ với dòng cựu
Nguyễn xưa kia để họ an tâm phò tá, gợi lòng nhớ quê, xa xứ của họ để họ ra
hàng tòng quân theo về đất cũ.
Tây Sơn càng bị siết chặt: ở Đồng Nai, họ
bị Nguyễn Văn Nghĩa phá tan. Ở luỹ Ngũ Kiều, Đốc chiến Tây Sơn Lê Văn Minh bị
Tôn Thất Hội vây chặt rồi lại phải thua trận hoả công do thuỷ binh Nguyễn Ánh
từ Ba Giồng tiến lên. Thế là trận vây Sài Gòn bắt đầu.
Nguyễn Ánh đóng binh ở rạch Thị Nghè
trong khi Phạm Văn Sâm dàn binh từ chợ Điều Khiển đến chợ Khung Dung chống cự.
Ánh sai Võ Tánh đi vòng phía nam đồng Tập Trận thẳng tới Bến Nghé để chận đường
lui quân. Hai bên giáp công, Sâm không địch nổi phải bỏ chạy. Quân Ánh ca khúc
khải hoàn vào Sài Gòn ngày Đinh Dậu tháng 8 Mậu Thân (7-9-1788).
Phạm Văn Sâm ra cửa Cần Giờ không được vì
Lê Văn Quân đã chận ở đó rồi bèn về Hàm Luông rồi về Ba Thắc binh hai bên bờ
sông đắp luỹ cự chiến. Ông còn dựa vào đám binh Miên nổi loạn ở Trà Vinh, Mang
Thít để làm thế nương tựa chống đánh. Nhưng Nguyễn Ánh đến, Miên binh hàng
phục. Việc binh ở đây giao cho Tôn Thất Hội quản lãnh Vĩnh Trấn trông chừng Sâm
không cho thoát ra các cửa biển về được Quy Nhơn. Sâm ở đây cố thủ từ tháng 9
đến tháng giêng năm sau (Kỷ Dậu 1789) không hi vọng gì ở cứu binh cả vì Nguyễn
Nhạc thì lặng yên còn Nguyễn Huệ thì bận chiến tranh với quân Thanh. Ẩn hết mùa
gió bấc, đầu năm Kỷ Hợi, Sâm muốn đem quân ra biển chạy thì bị phá ở cù lao Hổ.
Đến lúc này Ánh cũng muốn thanh toán xong Ba Thắc, “Nhứt chiến cho tuyệt hậu
ưu”9. Các danh tướng của Ánh đều có mặt nơi đây: Lê Văn Quân, Võ Tánh, Tôn Thất
Hội, Nguyễn Văn Trương. Ở cù lao Hổ họ giết được Đô đốc Nguyễn Hùng, nhưng đổi
lại Cai cơ Nguyễn Văn Mai và Đỗ Văn Hựu bị súng bắn chết. Ở Ba Thắc Nguyễn Ánh
nhờ một viên tướng cũ tên Thanh Hàm hàng Tây Sơn nay phản lại nên đuổi được Sâm
chạy về sông Cổ Cò. Còn một toán binh cuối cùng ở cửa Mỹ Thanh lên tiếp cứu
dưới quyền Tham đốc Trần Hiếu Liêm, Chỉ huy Nguyễn Chuẩn thì bị phá tan. Chuẩn
chết, Liêm hàng, Sâm thế cùng lực kiệt cùng với bộ tướng đem thuyền bè khí giới
mang gông ra phủ phục hàng kẻ chiến thắng.
1. Hồi Oa của Thực lục. Đó là địa điểm
Vàm Nao ở Tân Châu.
2. Giồng Phú Triệu ở Cái Bè?
3. Thư chữ Nôm đánh số 9, đề ngày 6-1
Cảnh Hưng 49 (1788).
4. Thư số 10 đề ngày 15-1 Cảnh Hưng 49
(1788).
5. Thư Lavoué gởi cho Boiret.
Descourvières ở Paris từ Tân Triệu 13-5-1795 (BEFEO, 1912, t. 32).
6. Thư số 11, 20-5 Cảnh Hưng thứ 49
(1788). Thực lục q3, 7b đặt chuyện vào tháng 10 âm lịch Đinh Mùi (1787), thật
quá sớm. Ông Letondal (RI, XIV, 1910, t. 53) viết thư ngày 7-11-1788 bắt đầu
chuyện này bằng câu: “Vào tháng 7-1788 viên bạo chúa ấy rất lo lắng về 3 hay
400 ghe mà ông gởi vào Đồng Nai”. Ông viết theo thư Labartette cho biết, như
vậy việc Nguyễn Huệ gởi quân đi vào Nam xảy ra trước tháng 7 dương lịch nhiều
tháng đúng như xác nhận của Nguyễn Ánh trong thư gởi cho J. Liot kể trên.
Thực lục
cho rằng quân cứu từ Qui Nhơn vào, nhưng Hưng là tướng của Huệ vì ta thấy sau
này (1793), ông cầm quân Phú Xuân vào cứu Qui Nhơn. Nguyễn Ánh chỉ viết “Tây
Sơn là thằng Hưng”, Letondal không biết tên Hưng, nhưng Olivier viết cho
Letondal (thư ngày 15-7-1789, BAVH, Oct- Déc 1926. t. 362) có nói Nguyễn Ánh
bắt một tướng “do loạn tướng Huệ gởi đến, tha tội rồi nghi ngờ gì đó, ông dem
chặt đầu”. Olivier lầm Hưng với Phạm Văn Sâm, nhưng lời đó thêm chứng cớ rằng
Hưng đã được Huệ gởi đến. Có lẽ thấy cứu không được, Hưng đã bỏ về trước khi
Sài Gòn bị vây (tháng 6 âl) nên mới thoát được.
7. Vùng Tân Hiệp bây giờ.
8. Nghi Giang của Thực lụcTên các chợ
thấy ở ĐNNTC, Lục tỉnh Nam kỳ cũng như ở Thành trì chí của Trịnh Hoài Đức.
9. Thư Nôm số 12.
10. Cảnh Lộ giang của Thực lục.
11. Thư Castuera từ Chợ Quán 11-6-1789
(BSEI, XV, La révolte, bđd. t. 100, 101).
Thế là sau hơn một năm trời lao khổ,
Nguyễn Ánh đã quét sạch Tây Sơn để làm chủ Gia Định. Trong khi hiệp ước
Versailles chỉ còn có giá trị của một tờ giấy lộn thì Nguyễn Ánh vẫn nghĩ rằng
viện binh sắp về để tăng tiến thực lực của ông. Kinh nghiệm những ngày chiến
bại cũ làm ông quá lo lắng. Nhưng bọn tuỳ tướng của ông như Nguyễn Văn Thành
thấy cái hại của việc cầu viện người ngoại quốc nên từ độ còn ở Xiêm đã khuyên
ông không nên trông chờ gì ở ngoài.
Việc Nguyễn Ánh về Gia Định thắng ở đây
trong khi nước Pháp không đủ sức gởi viện binh đã là một sự kiện quan trọng.
Như nhận xét của L.M Castuera “dù là
người Pháp không tới nữa thì cũng gần như chắc chắn là trên bộ hay dưới nước gì
người Tây Sơn cũng không thắng được Vua, vì hai anh em họ bất hoà nhau và vì
cuộc chiến mà một người em phải chống với Tàu”. Quyền đã về tay Nguyễn Ánh ông
phải tổ chức Gia Định như một người chủ, biến đám đánh mướn dưới quyền
Bá-đa-lộc thành bộ hạ tay chân, đưa kỹ thuật mới vào trong nước cần thiết cho
chiến thắng mà không có địa vị uy danh gì để làm đảo lộn trật tự trong nước. Ý
thức hệ cũ vẫn làm nền tảng cho tổ chức xã hội đương thời. Dù Nguyễn Huệ, dù
Nguyễn Ánh không ai có thể làm khác hơn được.
Từ khi về, mỗi lần lấy một nơi chắc chắn
là Nguyễn Ánh lo tổ chức cai trị. Đất Hà Tiên bị tàn phá vì vốn là một đầu mối
gây bất hoà với Xiêm nên Nguyễn Ánh phó cho Mạc Tử Sanh, người vẫn tỏ lòng
trung thành với vị chúa của cha mình nhưng lại được Phật vương nuôi dưỡng, kẻ
trung gian rất tốt trong tình giao hảo Xiêm - Việt. Sanh chết, Ánh dùng một
người Xiêm là Ngô-ma cho làm Cai cơ trông coi trấn đó (hay là chấp nhận trấn
thủ của vua Xiêm đề cử?) Vĩnh Trấn dinh yên ổn hơn nên được đặt công đường cho
Phạm Văn Thận làm Ký lục giữ.
Nhưng chiến tranh tiếp diễn thì ta thấy
các tướng quân lãnh trông coi luôn việc hành chính. Cho nên vừa đánh được Mỹ
Tho lập công đường dinh Trấn Định thì giữ việc dân, binh là các tướng Tôn Thất
Huy, Tống Phúc Đạm, Phạm Văn Sĩ. Việc đó chỉ là tạm bợ. Ở Sài Gòn, Nguyễn Ánh
lựa các viên Tham mưu quân đội chuyển qua các bộ Lại, Hộ, Hình để lập một triều
đình. Việc khá quan trọng là ông đã thu phục đám nhân sĩ do Võ Trường Toàn đào
tạo hay ảnh hưởng gồm cả người Việt, người Minh Hương, để giúp việc từ lệnh
buổi đầu: Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Chu, Hoàng Minh Khánh... Noi
theo tiết tháo của thầy, hành đạo ẩn dật trong thời loạn, nay ra giúp việc,
giúp đời, họ sẽ có đủ khả năng và cứng rắn, tự tin để bênh vực đạo Thánh. Họ sẽ
họp thành một khối vững vàng để bảo vệ ý thức hệ Khổng giáo chống mọi xâm nhập
khác.
Về việc cai trị ở đây, Nguyễn Ánh cũng
gặp khó khăn gây ra vì nhóm người Miên. Thực ra Miên binh dưới quyềncủa Nguyễn
Văn Tồn ở Trà Vinh1 cũng giúp Nguyễn Ánh rất nhiều trong việc đánh Phạm Văn
Sâm. Nhưng họ bất thường nay đầu mai đánh thật khó mà liệu định. Tướng Ốc nha
Ốc theo Phạm Văn Sâm bị đánh đuổi chạy về Cần Thơ gặp Nguyễn Văn Phong bắt
giết. Lê Văn Quân và Võ Tánh giữ Ba Thắc cũng không yên. Nguyễn Ánh đành phải
đặt kế hoạch cho tự trị: ông đòi hai tướng về rồi cho viên quan Miên về đầu là
Gia-tri-giáp trông coi xứ ấy, phủ Trà Vinh thì giao cho Ốc-nha Chích cai trị.
Tính cách phức tạp về chủng tộc, về quê
quán làm cho việc kiểm tra dân số cũng thêm phần phiền nhiễu. Việc kiểm tra lại
cần có để giữ an ninh, để định binh số mà bắt lính, thu thuế. Trước nhứt người
ta kiểm điểm lập danh tính những người tòng quân: quan quân các chi, hiệu, đội,
thuyền cứ bằng vào tên tuổi, chức sắc mà đưa về quê quán làm sổ sách. Về phía
các tổng xã thôn phường đều phải ghi vào sổ những người ở ngụ, ẩn lậu cùng với
lính Tây Sơn trốn về. Đám người không tư sản thì được ghép vào hạng cùng cố,
miễn nạp các thức cần cho binh vụ nhưng vẫn phải làm xâu như mọi người. Để đẩy
mạnh việc kiểm tra dân lậu, từ tháng 5 nhuần Kỷ Dậu (1789), Nguyễn Ánh lại cho
phép thưởng người tố cáo: dân tố cáo thì được miễn một năm xâu, lính thì được
thâu nơi ấp trưởng, người chứa chấp 40 quan tiền. Về mặt xã hội, các loại phù
thuỷ, đổ bác, đồng bóng, hát xướng đều bị cấm chỉ.
Tất cả những biện pháp khắc khổ đó đều để
nhằm vào việc tổ chức một quân đội mạnh đủ để giữ vững Gia Định. Việc tuyển
binh cho ta thấy rõ sự cần kíp đó. Từ tháng 10 Mậu Thân (1788), sau khi vào Sài
Gòn, Nguyễn Ánh buộc dinh Phiên Trấn tiên khởi trong việc bắt tráng đinh, cứ
hai người lấy một lập thành phủ binh, chia đội ngũ ra chỉnh bị đánh giữ. Quân
được hưởng ưu đãi nhất là quân bảo vệ Nguyễn Ánh. Theo lệ mỗi tháng họ được cấp
một vuông gạo, 1 quan tiền, áo quần hai thứ, lại được cấp riêng cho một người
dân có tên trong sổ bộ để sử dụng. Nhưng rõ ràng là không phải ai cũng được
hưởng ưu đãi đó nên lính trốn thật nhiều đến nỗi quan phải ra lệnh cho dân,
quân ai bắt được thì thưởng tiền, miễn xâu.
Những hoạt động binh vụ phải tựa trên một
nền kinh tế dồi dào mới có cơ trường cửu được. Ánh lại có kinh nghiệm cũ về
những chuyến thương thuyền Trung Hoa đem lái thịnh vượng cho đất này nên mở
mang ngay một chính sách mời mọc và kiểm soát các thuyền buôn. Theo bảng thuế
lệ liệt kê ra, ta thấy đến cập bến có các tàu Hải Nam (chịu thuế nhẹ nhất: 600
quan, ngoài lễ lạc khá nhiều), Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Thượng Hải
(cả hai chịu thuế nặng nhất: 3.300 quan). Quan quân chú ý những vật có liên quan
đến binh dụng như đồ đồng, chì, diêm tiêu, lưu hoàng, không cho buôn bán riêng
tư các loại này. Các sản vật trong nước cũng không được trộm chở đi. Ai thông
đồng mua bán riêng tư với nhau thì bị đánh 100 roi cấp làm dịch phu 3 năm, tịch
thu tài sản. Nói tóm lại đó là một chính sách kiểm soát khắt khe làm sao quân
đội được sử dụng tài lực trong nước đến mức tối đa.
Không ngồi đó để trông chờ tàu buôn đến
bán binh khí, Nguyễn Ánh sai các người trong nội viện đi Châu Thái2 mua súng
lớn, đạn dược, lưu hoàng, diêm tiêu... Ông viết thư cho J. Liot bảo ông này mời
gọi tàu Tây tới bán binh khí khỏi chịu thuế.
Việc phòng thủ cũng được tổ chức chu đáo,
nhất là về phía biển, nơi đột nhập của địch quân: các phong hoả đài được dựng
lên ở Cần Giờ, Đồng Tranh, Vũng Tàu. Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành lo đi
tuần tiễu các cửa biển. Thành Cá Trê, Vàm Cỏ được xây lại. Lê Văn Quân được
phái đi đóng giữ Bà Rịa. Cuộc tổ chức mới ở năm đầu mà cũng có vẻ vững chắc lắm.
1. Truyện Nguyễn Văn Tồn, Liệt truyện
q28, 3a-4b.
2. Không biết ở đâu. Theo nghĩa duy danh
của chữ Châu Thái 珠 揉 có phải là một nơi khai mỏ ngọc,
châu báu ở bờ biển Xiêm, Mã Lai, Miến Điện?
3. Thư số 11 ở Phụ lục.
4. Những sử sự kể trong tiết, trừ các
xuất xứ khác có ghi, đều lấy từ Thực lục q2, 18b đến hết, q3, q4, 1a-15a.
Tiết 12
TIẾP VIỆN CỦA BÁ-ĐA-LỘC
“Je ferai seul la révolution” * Các tay
phiêu lưu Tây phương ở Việt Nam: vai trò, địa vị và ảnh hưởng của họ.
Phút đâu tàu đã chạy lên,
Buồm trương gió du [?] hai bên kéo lèo.
Tới nơi Bến Nghé gieo neo,
Dưới trên buồm cuốn xả lèo răng răng.
Đùng đùng súng bắn liên thanh
Chiêng cồng mừng rỡ vang râng dầy dầy.
Hai bên tứ diện đông tây,
Dưới trên thiên hạ dầy dầy đều coi.
Mừng tàu rày đã tới nơi,
Mừng Thầy lại với Con người đã sang.
Đó là những lời thuật chuyện đón rước
Bá-đa-lộc và Hoàng tử Cảnh của một tác giả vô danh nào đó. Cả hai cùng đoàn tuỳ
tùng và 4 giáo sĩ bước lên chiếc tàu La Méduse quá giang về. Ngày 28-7-1789 họ
cập bến Vũng Tàu, ở đó đã có Tôn Thất Hội đón rước. viên thuyền trưởng, Hầu
tước De Rosily Meros cho bắn 15 phát súng, cho De Béhin và vài sĩ quan đưa lên.
Luôn thể ông cũng tỏ một cử chỉ bặt thiệp: “Tôi tưởng có bổn phận phải thêrn
vào cho sứ bộ nhỏ bé này 2.000 cân thuốc súng để cho cậu Hoàng tử không có dáng
trở về với hai bàn tay không và để làm vui lòng Giám mục đã tỏ vẻ ước muốn
chúng lắm”.
Hai chứng nhân ở hai địa vị có hai lối
nhìn riêng về cuộc đón rước. Nhưng tất cả đều là sự thực bởi vì chúng lộ cho ta
thấy nhưng khía cạnh khác nhau của sự thực. Sự thực là một bên ở phía Gia Định,
ngoài tấm lòng của một người cha “quan sơn vạn lý hoài niệm”, nay hân hoan thấy
mặt con, còn có những người dân lính, quan vua mừng rỡ được thấy bạn bè tiếp
sức, đem từ phương xa lại sự tin tưởng thắng lợi ở ngày mai. Sự thực là đám
người trở về đó có lúc cũng đã tin tưởng như đám người đón rước họ bây giờ, mà
rốt lại lúc này chỉ là “một sứ bộ nhỏ bé”, đi không lại trở về không.
Nhưng sự việc đã ném tung ra rồi thì nó
sẽ mắc nối để lôi cuốn các sự việc khác xảy ra tiếp. Cảnh đi cầu viện, các nước
Tây phương đều biết. Duy họ không can thiệp được vì chính họ đang phải lo gỡ
rối cho họ, gỡ mối bòng bong mà chính nền văn minh họ đã tạo ra.
Chính phủ đã không giúp ích gì được thì
các tư nhân phân tích tình hình theo lối nhìn riêng của họ đã bày tỏ sự tán
đồng can thiệp. “Người Pháp không can thiệp vào Nanh Hà thì thiếu dịp khác để
thành lập một cơ sở vững chắc và quý giá trên một xứ sở sẽ đem lại cho quốc gia
một nền thương mại độc quyền hơn 20 triệu đồng và đặc biệt là việc giao thương
với Trung Hoa mà khỏi cần qua Quảng Châu”4. Chính khi những dư luận đó trở
thành những đề nghị cụ thể thì Bá-đa-lộc mới có thể giận dỗi De Conway để nói
thẳng vào mặt ông này là “Một mình tôi cũng đủ làm nên việc đảo lộn”.
Trong chuyến từ Pháp về, Bá-đa-lộc ghé
Ile de France viết thư cho De Montmorin: “Ở đảo này, tôi đã thấy các nhà cầm
quyền sẵn sàng nhận lãnh quan điểm của Triều đình. Tất cả những gì có liên quan
đến cuộc viễn chinh ở Cochinchine đều phải tiên liệu từ chỗ này và đã xong
rồi”5. Thực vậy, Bá-đa-lộc tiếp tục đường về thì trong cuộc hội nghị ở Port
Louis ngày 3-9-1788, các nhà cầm quyền ở các đảo Ile de France, Bourbon đã ra
tuyên ngôn xin tự do giao thương với Cochinchine. Thế rồi trong một tờ trình
gởi cho Quốc hội Pháp ngày 2-12-1790, dân chúng (?) các đảo đã nói: “Ở đây có
những tay tình nguyện, những bọn Cafres, tàu bè khí giới cho cuộc viễn chinh
đó. Nhiều nhà buôn yêu nước của thuộc địa này đã dâng cho Giám mục d’Adran tài
nguyên của họ để giúp ông thi hành một dự tính thật có lợi cho quốc gia Pháp”6.
Quần đảo Côn Lôn nằm ngoài biển là nơi
thuận tiện nhất để đón chào các tàu thuyền Tây phương. Từ năm 1779, Nguyễn Ánh
đã đặt ở đây những viên quan mang chứng minh thư của “P.J.G. Giám mục d’Adran”
giới thiệu với các thuyền trưởng Tây phương, mời họ vào bến, cho tin tức. Chủ
đích của Pigneau là đón tàu Pháp nhưng Gia Định không cần phân biệt điều đó mà
chỉ cần tàu Tây để giao thương thôi. Chính ở Côn Lôn là nơi vào tháng 9-1788
chiếc tàu La Dryade trong sứ mệnh dò tình hình Nam Hà đã thả lại Hồ Văn Nghị và
1.000 khẩu súng mua cho Nguyễn Ánh. Lính thuỷ tàu Tây trốn xuống ở đây. Cũng ở
đây vào cuối năm 1790 Nguyễn Ánh dùng làm nơi nuôi ngựa cho quân đội dùng.
Nhưng khi Gia Định đã bình yên thì Vũng
Tàu hay chính Bến Nghé sẽ là nơi đón các tàu, thuyền tiếp viện. Bá-đa-lộc gom
góp tiền bạc, khí giới lương thực chất lên các tàu ông thuê ở Ile de France và
cả ở Pondichéry nữa nhờ sự giúp đỡ của các nhà buôn như đã biết. Nguyễn Ánh làm
chủ Gia Định rồi sẽ có đủ tiền bạc mà đeo đuổi chiến tranh. Qua lời thư của De
Guignes, Viên Lãnh sự Pháp ở Macao, ta thấy ông đã làm trung gian mua cho
Nguyễn Ánh nhiều chiếc tàu. Và cũng từ Macao trong những tháng cuối năm 1789,
8, 9 chiếc tàu đi buôn ở Cochinchine đã mang theo nhiều thứ khí giới quân dụng.
Một trong những chiếc tàu đó là chiếc la Garonne đã bán cho sứ giả Nguyễn ở
Xiêm hai khẩu đại bác. Tất cả những chuyến mua bán đó làm cho Nguyễn Ánh có
dưới quyền một số tàu chiến Tây Phương quan trọng. L.M Jean de Jesus Maria viết
thư từ Chợ Quán ngày 4-3-1790 ghi nhận Ánh có “khoảng 10 chiếc tàu Bồ và 1
chiếc tàu Pháp tất cả đều là tàu buôn nhưng võ trang với đầy đủ khí giới quân
dụng”. Nhưng quan trọng hơn cả là việc có đám người Tây phương giúp. Ở Gia Định
có đến 140 sĩ quan và 80 lính Pháp. Một bức thư của Bá-đa-lộc ngày 18-7-1794
nói đến 40 người Âu trong bộ binh, thêm vào chừng ấy nữa trên các tàu đồng. Và
không phải chỉ có người Pháp mà thôi. Crawfurd vào Huế tháng 10-1822 thấy ở đó
một bài vị người Irlandais. M. Đức Chaigneau ghi nhận có cả người Anh,
Irlandais.
1. Trích lại của Thanh Lãng. Biểu nhất
lãm Văn học Cận đại, Tự Do xb, 1958, bài văn “Nhựt trình Đông cung ký vãng Tây
bang, tái hồi bổn quốc”, trang 51.
2. Thực lục, q4, 15b.
3. Trích lại của G. Taboulet, “Le traité
de Versailles”, BSEI. XIII. hđd, t. 103.
4. Tờ Gazette nationale đã dẫn.
5. Thư ngày 14-4-1788 (A. Launay, III, t.
178).
6. Văn khố Ngoại giao Á châu, trích bởi
Ch. Maybon, Histoire moderne, sđd, t. 268.
7. L. Gaide. “Notes historiques sur Poulo
Condore”, BAVH, Avr. 1925 t. 88. Chứng minh thư ghi Sài Gòn ngày 10-8-1779.
8. V. Imbert. Le séjour en Indochine de
l’ambassade de L. Macarney. sđd, t. 2.
9. Thực lục q5, 7b.
10. Thư ngày 16-12-1789 (A. Launay, III,
t. 158, chú số l) Ch. Maybon, Histoire moderne, sđd, t. 270. H. Cordier,
Correspondance générale, sđd, t. 209.
11. “La révolte...” bđd, BSEI, 1940, t.
101, 102.
12. Dẫn bởi G. Taboulet. La geste
française... sđd, t. 204.
13. Chuyện. J. Crawfurd do Ch. Maybon dẫn.
14. Souvenirs de Huế, t. 18.
Binh lính Pháp phần nhiều là thuộc các
đội thuỷ quân tình nguyện, thu nhặt ở những gia đình trung lưu đã được hưởng
một nền giáo dục tự do nên chịu sự quyến rũ của khung cảnh xa xứ lạ để lăn mình
vào những chiếc tàu đi đây đi đó1. Số đông này kẻ trước người sau, có khi kẻ
tới chán bỏ đi, người mới lại lăn vào, tựu trung có một số hoạt động hơn cả mà
sử quan Nguyễn còn ghi lại là Đa-đột (Jean Marie Dayot), Ô-li-vi hay ông Tín
(Alexis Olivier de Puynamel), Ba-nê-ô hay Nguyễn Văn Thắng (J.B.Chaigneau), Lê
Văn Lăng (De Forçan), Ba-la-di (Laurent Barizy), Nguyễn Văn Chấn (Philippe
Vannier), tất cả đều được chức Cai đội.
Dayot được phong làm Trí Lược hầu tháng
6-1790. trông coi chiếc tàu “Đồng Nai” và có dự trận thuỷ chiến Thi Nại 1792,
là “linh hồn và chủ tướng của thuỷ quân Nguyễn” như Giáo sĩ La Bissachère đã
nói. Có thể tin được điều này vì chính ông đã từng là chủ tàu Adélaid năm 1786.
Nhân dịp theo thuỷ quân Gia Định đánh Tây Sơn, ông đã đi dò xét các hải cảng
xem nông sâu, trong khi Olivier cũng làm việc tương tự định vị trí trên đất
liền.
Với chức Vệ uý Thần sách Vệ ban và sau
đó, Thuộc nội Vệ uý, làm Cai đội trong quân Thần sách, một thứ chủ lực quân,
Olivier đã có mặt nhiều nhất trong sử sách nhà Nguyễn4. Chỉ là một binh nhì
trên tàu La Dryade, ông trốn ở Poulo Condore ngày 19-9-1788 rồi theo Hồ Văn
Nghị phục vụ Nguyễn Ánh khi mới 20 tuổi dư hơn tháng. Ông dùng hoạ đồ của Le
Brun - Khâm sai Cai đội Thạch Oai hầu - và cùng ông này xây thành Gia Định theo
kiểu Vauban. Ông tổ chức quân đội - có lẽ trước hết là quân dưới quyền ông -
theo lối Tây phương.
Chaigneau, Thắng Toàn hầu, đến chậm nhất
(1794) và lại ở Việt Nam sau rốt, đã thay J.M. Dayot vào cuối năm 1796 trông
coi tàu Phi Long, có dự vào trận Thi Nại 1801, hoạt động ở Quảng Nam, Huế sau
đó và trông coi việc tiếp tế cho quân đội ở Phú Xuân (sắc ngày 16-3-1802)5. De
Forçan coi chiếc Phi Bằng trong chuyến tấn công Quảng Nam, Huế (1801). Barizy,
con người sôi nổi, càu nhàu bất mãn nhất trong đám, đến Gia Định năm 1793. Ông
đã từng được phong Thành Trí hầu, giữ việc tiếp tế cho quân đội bằng cách liên
lạc mua bán với Ấn Độ Manille, Malacca. Ông sẽ giữ chiếc Thoại Phụng trong
chuyến chiếm cửa Thuận An (1801). Vannier tới năm 1789 cùng với Felix Dayot -
em J.M. Dayot, chỉ coi việc tiếp tế - ông coi chiếc tàu Phi Phụng với chức Cai
cơ (1801) cho đến cuối năm 1802 thì được phong Chưởng cơ Chấn Võ hầu.
Những người khác ít được biết hơn là J.M.
Despiau, thầy thuốc trong quân đội (sắc ngày 21-4-1799), người đã săn sóc cho Pigneau
lúc cuối cùng, và Desperles, viên thầy thuốc giải phẫu của tàu Le Pandour.
Tất nhiên ta không quên vai trò của
Bá-đa-lộc và những vị linh mục khác. Đám quan binh Tây phương hoạt động cho đến
khoảng 1793-1794 thì rút đi gần hết. Có nhiều lý do, trong đó có lý do tin Cách
mạng Pháp chuyển sang giai đoạn phản đế gây xáo trộn tư tưởng của họ và gây
nghi ngờ cho Nguyễn Ánh. Nhưng chính yếu là lý do họ thất vọng khi phục vụ ở
Gia Định.
Chúng ta đã phân tích tâm lý đám người
phiêu lưu Tây phương mong mỏi nối bước Dupleix, Clive tới địa vị sang giàu của
Đông phương thần tiên. Họ cũng có thể thoả mãn chút ít nếu họ chịu phục vụ tới
sau khi thắng trận như Chaigneau, Vannier, De Forçan được thăng chức, cấp lính
tráng hầu hạ... Nhưng họ đến trong thời chiến tranh và phải phục vụ trong một
xứ nghèo nàn, ở đó, chưa kể tới đâu, người lính vừa đem thân đánh giặc vừa phải
nộp thuế, rút lương riêng để cung cấp quân nhu. Họ thất vọng là phải như
Olivier đã nói năm 1793: “Chúng tôi đã phục vụ vô ích cho Chúa xứ Nam Hà”. Ông
than phiền rằng làm việc cần mẫn, chiến thắng nhiều trận mà không giàu có được
chút nào6.
Đằng khác, chúng ta cũng nên lưu ý đến tư
cách của bọn này. Thực lục kể đến trận đánh Quy Nhơn 1793, khi binh ra tới Bình
Khang, có nói đến đám Tây-dương-nhân chung với lính Miên, lính Tàu đều tính “dữ
tợn, hay rượu, khó cầm”7. Các L.M đương thời chỉ khen có Chaigneau còn thì chỉ
trích lối sống sa đoạ của Olivier và của những người khác, sống “vô đạo như đồ
đệ của Voltaire”. Không nên lấy làm lạ, đó là đặc điểm của lính đánh giặc mướn.
Tuy nhiên, Nguyễn Ánh còn cần tới họ nên
đã cho phép họ được buôn bán riêng lấy lợi khỏi thuế má. Olivier được buôn bán
dọc bờ biển vùng Nguyễn; năm 1799 ông đi Malacca bán một thuyền cau được 3000
đồng. Despiau năm 1800 đã mua được của ông Chưởng dinh Hữu quân (?) một chiếc
ghe chiến và xin phép Nguyễn Ánh mua muối, các vật dụng khác và 30 vuông gạo để
đi Ấn buôn mang cờ hiệu Gia Định8. Chính đó là một quyết định khôn ngoan của
Ánh: làm việc cho họ mà đám phiêu lưu này vẫn có ích cho Ánh vì chính họ đã
đóng vai trung gian cung cấp vũ khí cho Ánh, tuyên dương uy thế của Ánh ở nước
ngoài, nhất là các nước lân cận9. Cũng ở nhiệm vụ giao dịch đó, chúng ta thấy
họ cùng các linh mục là những kẻ dò la tin tức Tây Sơn rất đắc lực vì họ có mặt
khắp nơi trong, ngoài nước, hiểu rõ tình hình vì ở lâu, biết đích xác sự việc,
nhờ thói quen chuyên tâm chú ý quan sát của người Tây phương. Hãy nghe Olivier
trong một bức thư, nhờ Letondal ở Macao dò la tin tức xung đột giữa quân Thanh
và Tây Sơn (15-7-1789): “Chính vì muốn biết trong chi tiết mới nhất về trận
đánh ấy mà Hoàng thượng hôm qua đã bảo tôi viết thư cho Cha, nhờ viên thuyền
trưởng Antonio Vincenti. Ý định của Hoàng thượng là muốn biết có gì đã xảy ra
trong trận đánh ấy, ý định người Tàu ra sao, lực lượng của họ thế nào. Ngài cho
rằng nhờ nơi hiểu biết về người Trung Hoa của Cha mà Cha có thể cho biết những
tin tức chắc chắn hơn từ nơi nào khác...”10. Cũng vậy, tin từ vùng Tây Sơn có
thể vô tình tới Gia Định bằng những cánh thư của các giáo sĩ Labartette,
Longer, Doussain ở Bố Chính, Thuận Hoá gởi cho Letondal ở Macao, Le Blandin ở
Paris chẳng hạn.
Nhưng quan trọng hơn nữa là việc quân
nhân, giáo sĩ Tây phương có mặt ở Gia Định cũng tức là đã mở cửa cho văn minh
Tây phương tràn vào. Những điều nói trên đã dẫn chứng một ít rồi. Chúng ta có
thể nói thêm. Giáo sĩ De Labissachère cho biết Pigneau đã dịch từ chữ Pháp ra
nhiều quyển sách nói về chiến thuật và cách phòng thủ cho Nguyễn Ánh đọc. Năm
1819, Chaigneau và Vannier cho một du khách Anh tới Huế biết là Bá-đa-lộc đã
dịch ra tiếng Việt nhiều đoạn có ích nhất của tập Bách khoa và nhiều quyển sách
khác dùng cho việc cai trị quốc gia. Chưa hết, Giáo sĩ Cadière còn tìm thấy một
tấm bản đồ ở Nội các ghi tất cả những phần chính của một vị trí phòng thủ với
một loại súng pháo binh, vẽ từ một quyển sách nói về Vauban, xuất bản năm 1773.
Ảnh hưởng sự du nhập kỹ thuật, tư tưởng
này thật là quan trọng trong những ngày sắp tới, khi Nguyễn Huệ còn bận bịu
củng cố phía bắc, bỏ lơ cho Nguyễn Ánh có thì giờ khai thác Gia Định để lớn
mạnh lên.
1. L. Malleret trích lại của A. Faure.
BSEI. X. chú số 1. t. 37.
2. Liệt truyện q28, 8b, 9ab. Thực lục q6,
35a. Liệt truyện đã lầm gọi Dayot là Nguyễn Văn Chấn. Thực lục có ghi Chấn coi
tàu Phi Phụng mà theo Barizy người coi đó là Vannier. Vậy Vannier là Nguyễn Văn
Chấn. Dayot có tước là Trí Lược hầu có tên Việt thì phải là Nguyễn Văn Trí.
Thực lục q9, 3a có 2 tên Ba-lang-hi, Ba-la-di, Cai đội. người Hồng mao (?),
chắc cũng chỉ là Barizy.
3. G. Taboulet. La geste française...,
sđd. t. 250.
4. Thực lục q6, 35a, q7, 26a, q10, 18a.
5. BAVH, Avr-Juin, 1922, t. 139 trở đi;
Janv-Mars 1923, t. 43 trở đi.
6. G. Taboulet. Le geste française...
Sđd, t. 248.
7. Thực lục q6, 19a.
8. G. Taboulet, sđd. A. Cadière, “Les
Français au service de Gia long: Despiau”. BAVH, Juil-Sept 1925, t. 185.
9. Thực lục có nói đến việc cổng của các
xứ Tà-nê ngoài các xứ Xiêm, Miên, Vạn Tượng. Thư Olivier 10-4-1798: “Vua phải
liệu có vài người Âu bên cạnh để cho các nước tin cậy”. (BAVH Janv-Mars 1923,
về Chaigneau).
10. L. Cadière, “Les Français au service
de Gia Long: leur correspondance”, BAVH, Oct-Déc 1926, t. 363, 364.
PHẦN THỨ BA
GIAI ĐOẠN THANH TOÁN NGUYỄN - TÂY SƠN
(1789-1802)
Chương 5.
SỰ CỦNG CỐ ĐÔI BÊN Ở THẾ GIẰNG CO
Tiết 13
NHỮNG LỰC LƯỢNG CHIẾN ĐẤU
Tính cách chung của đôi bên * Tổ chức
quân chính của Tây Sơn * Vai trò bổ khuyết của những chiếc thuyền cướp biển Tề
Ngôi * Tổ chức khai thác Gia Định * Ưu thế vũ khí, công sự phòng thủ và thuỷ
quân Nguyễn Ánh.
Trong 10 năm sau cùng của thế kỷ XVIII,
ta thấy tình thế cát cứ có vẻ đơn giản dần. Tuy vào năm 1789 chẳng hạn, nước
còn chia ba với Nguyễn Huệ ở Phú Xuân, Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn, Nguyễn Ánh ở Gia
Định, nhưng thực ra chỉ có Tây Sơn và Nguyễn đối đầu thôi. Những lực lượng gài
nên thế phân tranh cũ tàn lụi dần: Cựu Nguyễn biến mất với cái chết của Duệ
Tông, Tân Chính vương, Di thần Trịnh Lê thì tan rã sau trận Đống Đa, tản nát
sống nhờ sự cô lập địa phương hay chạy vào Gia Định đầu quân. Quy Nhơn sống
lây lất, chỉ còn Phú Xuân và Gia Định có động lực biến thành hai đầu nam châm
thu hút các tay muốn tận dụng khả năng mình trong chiều hướng thực tế.
Các đối phương đều tìm hết thế cách để
lật nhau và trong tiến trình đó càng đi đến gần nhau về lề lối tổ chức chính
trị, quân đội, nội dung kỹ thuật tranh chiến. Điều kiện chung của ý thức hướng
dẫn tổ chức xã hội đương thời bắt buộc như vậy, nhưng ban đầu họ cũng phải theo
những quy định của hoàn cảnh địa phương, của tình thế mà phát triển khả năng,
vun bồi thực lực riêng.
Phía Tây Sơn chẳng hạn. Họ đi từ vùng núi
phía tây, lấy sức mạnh cường bạo nơi đám người Thượng, Trung Hoa khách thương
liều lĩnh, nông dân Việt đi khai phá đất hoang tâm tính trở thành hung dữ rồi
truyền tấm lòng hăng hái, nhiệt thành, tính chất vong mạng đó cho dân đồng bằng
hiền lành chân chất gây nên một cuộc đảo lộn dữ dội nhất trong nước. Nguyễn Huệ
phải thú nhận tính cách quân phiệt đó với Nguyễn Thiếp. Ngô Văn Sở ở Thăng Long
nghe Tôn Sĩ Nghị sang, lấy đó làm một dịp để diễu cợt quan Thị lang Ngô Thì
Nhậm:
“Phải phiền ông làm một bài thơ để đuổi
quân giặc. Nếu không thì túi đao bao kiếm vẫn là phận sự của kẻ võ thần”.
Không phải chỉ với đám nho thần của triều
đại cũ mà thôi, võ tướng còn coi thường một số tin tưởng cũ nửa. Nghe ở kinh
Đôi Ma có hai con ma hiện về, họ đốt quan tài, đem súng đại bác bắn nát lùm bụi
bên sông. Ở miền Bắc, viên trấn tướng Nghệ An ngạo mạn trong lễ tế thần: “Chó
còn có ích hơn thần Xã tắc”.
Họ tự phụ cũng phải vì sự nghiệp này do
công lao hãn mã của họ tạo nên. Nhưng khi trút cái lớp cường đạo để trở thành
kẻ điều khiển quốc gia thì người ta phải thấy vấn đề phức tạp hơn nhiều để chịu
đựng dung hợp với truyền thống cũ. Mặt khác việc Tây Sơn bị đưa đẩy di chuyển
trọng tâm tập họp tinh hoa từ Quy Nhơn ra Phú Xuân rồi mong ngóng ngày về
Phượng Hoàng Trung đô, đi ngược con đường ly khai về nam cũ, chứng tỏ cái thế
bắt buộc và ý muốn tự khuôn nắn của họ.
Vị trí Nghệ An với hình ảnh công cuộc hợp
tác giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp nói lên tất cả những đặc sắc của triều đại
Tây Sơn trong thời gian xây dựng, phát triển tột cùng của họ. Quy Nhơn mới Việt
hoá chỉ mang lại sức mạnh cường bạo, Phú Xuân, Thăng Long thì đầy dấu vết các
cựu triều, lại tàn tạ với đám nông dân mệt mỏi trong loạn lạc hàng mấy trăm
năm, với đám sĩ phu điều khiển quốc gia ngắc ngoải trong cái học từ chương
thiếu sinh khí. Nghệ An, ngoài ý nghĩa là quê hương của chúa Tây Sơn, còn là vị
trí ở giữa những ảnh hưởng đối kháng, muốn giữ vai trò dung hoà mà không muốn
bị lệ thuộc.
Cho nên khi Tây Sơn thấy cần thiết phải
thuần hoá triều đại, thì đến với họ không phải là Nguyễn Đăng Trường, Lý Trần
Quán, Trần Công Xán... mê đắm với triều đại cũ mà là Ngô Thì Nhậm lẩn trốn
Trịnh chúa sau vụ án Canh Tý 1780, Phan Huy Ích nhục nhã vì cái tiếng “nhà nho
nói khoác” của Nguyễn Hữu Chỉnh gán cho. Nguyễn Huệ “tái tạo” Nhậm6, đem “cơ
duyên” độc nhất đến cho Ích, gây dựng cho những sĩ phu ít hay nhiều đã không
gặp may mắn dưới triều trước. Cũng nên kể vào hàng bất mãn với thời đại - bất
mãn mới đi ở ẩn - đó là xử sĩ Nguyễn Thiếp, ông già “vai cày, tay câu”.
Tất cả được khuôn nắn thâm hậu trong Nho
giáo rồi tuỳ phản ứng cá nhân mà lục tục phụng sự Tây Sơn. Đặc biệt là họ đã
từng đứng ngoài triều chính cũ, có dịp để phán xét, ít nhiều cũng không bằng
lòng, nên làm quan với Tây Sơn, họ đưa ra những ý niệm tổ chức xã hội, tuy vẫn
là của Nho giáo, nhưng dưới những khía cạnh lãng quên hay không biết đến ở các
triều trước. Nguyễn Thiếp, trong một bài biểu gởi Quang Trung công kích mạnh mẽ
lối học từ chương, xa rời thực tế, thấy lối thoát là trở về với tinh tuý Kinh
Sách: “Ban đầu giảng Đại học, rồi Luận ngữ, đến Mạnh tử, đến Trung dung, sau
lại đến Ngũ kinh, Chư sử, tuần tự mà tiến, đọc cho kỹ mà ngẫm nghĩ cho tinh”.
Đi vào thực hành, ông chịu vâng mệnh Quang Trung giúp việc dịch Kinh Sách ra
chữ Nôm trong Sùng Chính thư viện ở Vĩnh Kinh để phổ biến đạo học sâu rộng
trong dân gian.
Cùng một chiều hướng hồi cố để thích hợp
đó, Ngô Thì Nhậm dâng sớ (1788) cho Quang Trung định cách cai trị, phủ nhận thể
chế tập trung của Trịnh Lê mà tuyên dương cái thế phân phong cho con em đồng
tính cai trị các nơi theo lối giữ nước của nhà Hán, nhà Chu. Con đường giáo
huấn mà Nguyễn Thiếp đề cao “theo Chu tử” rồi Nguyễn Huệ cũng thuận “nhất định
theo phép học Chu tử” và lề lối tổ chức xã hội phong kiến của Ngô Thì Nhậm thể
hiện giao điểm ý thức của đám sĩ phu cũ tự cải tạo, thức tỉnh trước tiếng dội
từ miền Nam ra và đám quân tướng Quy Nhơn bơ vơ đi tìm ý thức hệ.
Triều chính Tây Sơn là cả một tính cách
dung hoà đó mà yếu tố quân sự lúc nào cũng giữ ưu thế. Thực là dễ hiểu khi nhớ
lại quá khứ của họ và tình hình sôi sục lúc bấy giờ.
Phải bắt đầu chấn chỉnh lại thì họ nhìn
vào đám nông dân điêu linh trong loạn lạc để sắp xếp việc làm ăn, kiểm soát dân
số. Tờ chiếu “khuyến nông” mà Ngô Thì Nhậm cho biết chính sách lúc bấy giờ, ra
lệnh bắt về bản quán những người ngụ cư chưa được ba đời, nhắm vào đám lưu dân
vì loạn lạc, vì trốn tránh giao dịch, để làng cũ có đủ tay sản xuất. Các sắc
mục, xã trưởng, thôn trưởng phải làm việc kiểm tra số ruộng cày cấy, số ruộng
bỏ hoang, số đinh thực tại, làm sổ bộ dâng lên triều đình, “nếu gian lận: coi
người ở nhà như đi vắng, coi người còn sống như chết, làm sót sổ dân, làm thiếu
thuế đều phải chịu trọng tội”
1. Thực lục q5, 2a, q7, 13a, 14b, q9,
16b... Đó là trường hợp của Vũ Bá Diên, Đặng Trần Thường, Nguyễn Bá Xuyến và
những người do Nguyễn Đinh Đắc chiêu mộ ở Bắc Hà.
2. V. Imbert. Le séjour..., sđd, t. 26.
3. Hoàng Lê, t. 240.
4. Do Trịnh Hoài Đức kể (Aubaret, t.
189). Kinh Đôi Ma chảy từ chợ Rạch Kiếng (Long An) vào sông Vàm Cỏ Đông.
5. Việt điện u linh tập, Lê Hữu Mục sao,
dịch, Khai Trí, truyện Thiên cổ Địa chủ Xã tắc Đế quân, t. 218; bản dịch trang
57.
6. Hoàng Lê, t. 208.
7. Chữ trong thơ cảm hoài của Phan Huy
Ích, trích nơi Hoa Bằng, Quang Trung, sđd, t. 275.
8. La Sơn phu tử, sđd, t. 144-146.
9. Sớ bằng chữ Nho, lược dẫn bởi Hoa
Bằng, sđd, t. 277.
10. Chiếu theo Sùng Chính Thư viện, La
Sơn phu tử, t. 147. Chu tử là Chu Hy, một Tống Nho có danh trong phong trào Tân
Khổng giáo. Thuyết cách vật trí tri của ông lấy trong sách Đại học, không phải
hiểu theo nghĩa thực nghiệm mà là nghĩa trong kinh sách xưa, nhưng cũng tỏ rõ
được ý thức phục cổ, ý thức đẩy mạnh sự xuất hiện của Vương học, vừa là phản
ứng vừa là tiếp nối của Chu học.
11. Dẫn lại của Hoa Bằng (Quang Trung,
sđd, t. 283-285) lấy ở “Hàn các anh hoa” của Ngô Thì Nhậm. Người ta cũng tìm
được tờ chiếu khuyến nông của Quang Trung và Cảnh Thịnh sức dân trung châu Bắc
Hà canh tác (Tự Do, 1-11-62).
12. Lời nhắc việc làm sổ đinh trong tờ
sức về việc thâu thuế làm sản của dân tổng Hữu Đạo, huyện Thượng Du, Nghệ An.
Quang Trung thứ ba, 25-3 (9-4-1790). Cũng tìm được ở Nghệ An sổ khai ruộng đất
công tư của xã Võ Liệt (Thái Đức tháng 7 năm thứ 11 (1788) và sổ nhân số của xã
Võ Liệt (1792). (Tin đặc biệt miền Bắc của nhật báo Tự do, 19-1-1963).
Có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử dân
ta mới gặp một chính quyền cố thi hành hiệu nghiệm chính sách đến mức tối đa
bằng cách bắt dân mang thẻ “tín bài”. Đó là một tấm thẻ giữa in 4 chữ triện
“Thiên hạ đại tín” chung quanh viết tên họ quê quán của người có thẻ và có đánh
dấu một ngón tay bên trái làm bằng. Thẻ phải đeo luôn trong mình phòng khi xét
hỏi. Không có là dân lậu phải sung quân và xã trưởng, tổng trưởng của họ phải
phạt tội. Để coi sóc công việc, bộ máy hành chánh trong nước phần lớn nằm trong
tay các võ tướng. Tự trên triều đình, những chức Tam không, Tam thiếu, Đại
chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư mã, Đại tư không, Đại tư cối... mang vết tích của
tổ chức Trung Hoa thời xưa đầy hùng khí rất thích hợp cho tính cách quân chính
triều Tây Sơn. Ở các trấn, trấn thủ là quan võ và quan văn chỉ là “hiệp” trấn.
Mỗi huyện có Võ phân suất và Văn phân tri hợp với Tả Hữu quản lý coi sóc. Cách
tổ chức cho ưu thế về võ quan này có thể coi như lấy ý của Nguyễn Thiếp, nhưng
chính Thiếp cũng căn cứ trên thực tế để khuyên Quang Trung “chọn trong các bầy
tôi lấy một viên thanh, cần, nhân, dũng để làm chánh trấn, một viên sẵn có văn
học để làm hiệp tá”. Đặc điểm này được phái đoàn Macartney (1793) ghi nhận
đúng: “Giai cấp quân sự đứng đầu hết trong xứ rồi sau đó là các quan toà”.
Vì lẽ đó ta không lấy làm lạ khi thấy
chánh sách chung là nhằm vào việc thành lập một đạo quân hùng mạnh. Tuy không
nhận Lưỡng Quảng thuộc vào địa bàn cũ của người Việt trung châu Nhị Hà, ta cũng
không thể phủ nhận ý định chiếm đất này của Quang Trung, ý định mở mang bằng
việc dâng sớ đòi lại 6 châu ở Hưng Hoá và 3 động ở Tuyên Quang6, xúi giục các
thuyền Tề Ngôi cướp phá ven biển Trung Hoa, rồi tiếp đến việc sứ bộ cầu hôn,
xin đất do Vũ Văn Dũng lãnh đạo (1792).
Xét nguyên nhân hiếu chiến, có người đã
thấy tính chất Napoléon của chế độ Quang Trung: dùng chiến thắng quân sự bên
ngoài để đánh bạt sức phản động của cựu chế, để bịt miệng những phản kháng bên
trong do sự thoả hiệp của chính quyền với một phần các lực lượng cũ khiến quần
chúng cách mạng không bằng lòng. Sự so sánh đó quá thô sơ đã quên mất những
thực tế sống động, dồi dào, riêng biệt của một trường hợp cụ thể. Chúng ta có
thể tìm ra những nguyên nhân chính yếu, xác đáng hơn, tương hợp hơn với hoàn
cảnh đương thời.
Chiến thắng tương đối dễ dàng với quân
Thanh sau những chiến thắng liên tiếp ở các chiến trường khác là nguyên nhân
tâm lý khiến Tây Sơn hướng về Lưỡng Quảng. Trận Đống Đa làm e dè bọn biên thần
nhà Thanh, mở đường cho những văn thư ngoại giao trao đổi, đưa đến việc Thanh
đế nhận Quang Trung làm An Nam Quốc vương, quên mất tham vọng thừa nước đục thả
câu chiếm lĩnh phương Nam. Một bên là Phúc Khang An và Hoà Khôn, một bên là Ngô
Thì Nhậm có Nguyễn Quang Hiển, cháu Quang Trung, đến “gõ cửa thành”, việc hoà
hiếu được mau lẹ tiến hành đầy vinh quang cho Tây Sơn. Tiếp theo việc phong
vương và việc ban nhân sâm cho mẹ Quang Trung là việc sứ bộ Giả vương sang chầu
lễ thọ bát tuần của Càn Long (tháng 8 Canh Tuất 1790). Sứ bộ gồm Nguyễn Quang
Thuỳ, Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phạm Công Trị và các văn quan Phan Huy Ích, Vũ
Huy Tấn... với hai thớt voi tiến cống tượng trưng “cái đinh” của quân lực Tây
Sơn. Cuối năm 1790 sứ bộ về nước sau khi hưởng được những ưu đãi đặc biệt hơn
những sứ bộ trước. Thái độ đó làm khoái trá, khiếp phục được các văn quan như
Phan Huy Ích, nhưng tất đã làm tăng uy thế của Tây Sơn và thêm phần kiêu hãnh
cho đám võ tướng.
Trong nước lại bất an do các di thần cố
Lê gây ra: Lê Duy Chỉ ở Cao Bằng, Trần Quang Châu ở Bắc Ninh, Trần Phương Bỉnh
ở Nghệ An... Nguyễn Ánh lại là mối lo lớn nhất của Quang Trung cho đến khi nhắm
mắt, tuy rằng ông chưa phải thử sức trực tiếp với Gia Định trung hưng. Tất cả
buộc Tây Sơn phải lo củng cố quân lực và theo biến chuyển tự nhiên, họ bành trướng
thế lực để bảo vệ thế lực sẵn có.
Lực lượng họ như thế nào? Sử quan ghi vào
khoảng tháng 3 Nhâm Tý (1792), Quang Trung tính đem 2-30 vạn quân đánh Gia Định
(nghĩa là quân số còn có thể hơn thế nữa). Theo lối kiểm soát dân số đã nói và
việc lấy 3 suất đinh một lính, một khách ngoại quốc thấy là “số người trong
quân ngũ rất đông”. Riêng ở Huế đã có 30.000 người luyện tập hàng ngày. Họ võ
trang bằng dao găm, giáo mác, súng điểu thương, rất nhiều súng ngắn có miệng
loe ra kiểu thế kỷ XVI của Tây phương (có lẽ mua lại) và súng bắn phải mồi lửa
do họ tự chế (hoả hổ?). Người Anh đi lạc trong thành Quảng Nam không thấy có
một khẩu đại bác nào, nhưng chúng ta biết họ cũng có súng lớn - và có nhiều là
khác khi chiếm được của Nguyễn, Trịnh, của quân Thanh - hàng 2-3.000 khẩu.
Lực lượng chủ chốt của bộ binh là đám
chiến tượng tập luyện hàng ngày mà các võ tướng rất tin cậy ở khả năng chiến
thắng và Tôn Sĩ Nghị phải lo đề phòng trước. Gia Định cũng e dè số lượng 300
con voi ồ ạt dày xéo trên đường tấn công. Tượng quân quý báu ở tính chất đa
hiệu của nó: voi là lực lượng vận tải không những quân lương, binh sĩ mà còn là
vũ khí nặng nữa; voi là lực lượng tấn công kiến hiệu - như một thứ thiết giáp
binh có đại bác hỗ trợ.
Mọi chi phí gìn giữ quân lực này rõ ra là
rất lớn. Thế mà như ta đã biết, vùng Tây Sơn trong cấp thời lại với lề lối khai
thác nông nghiệp cổ điển trên đất đai đã tận dụng, không thể nào sản xuất đủ để
cung cấp như Nguyễn Thiếp đã trần tình: “Nghệ An đất xấu, dân nghèo. Về trước
chỉ chịu xuất binh chứ không phải chịu tiền gạo, nay thì binh, lương đều phải
xuất. Số lính ngày một tăng bội. Kẻ cày cấy thì ít mà kẻ đợi ăn thì nhiều...”.
Trong ý nghĩa đất đai kiệt lực đó, ta hiểu được danh từ phong thuỷ ngày xưa chỉ
về một vùng đất “mất hết vượng khí” như chữ dùng trong văn thư ngoại giao Tây
Sơn - Thanh để chỉ đất Thăng Long15. Đòi đất Lưỡng Quảng là tìm đất mới thay
đất cũ đã kiệt lực, là tìm cách giải quyết những khó khăn gặp phải trong thời
kỳ xây dựng vậy. Cho nên, việc đánh chiếm kinh đô Vạn Tượng vào năm 1791 của
bọn Trần Quang Diệu, ngoài ý nghĩa phá mối lo bị đánh tập hậu, quân Tây Sơn còn
tìm của cải ngựa voi, nghĩa là những thứ nuôi dưỡng, tăng gia binh lực mà Ai
Lao đáng lẽ hàng kỳ hạn phải nạp với thể lệ triều cống.
1. Hoàng Lê, t. 270.
2. Liệt truyện q30, 40b.
3. La Sơn phu tử, sđd. t. 141, 142.
4. V. Imbert, Le séjour... sđd, t. 28.
5. Quang Trung... sđd, t. 310-315, t.
320-329 trích thư đòi 6 châu, biểu cầu hôn, chiếu sai Vũ Văn Dũng đi sứ. Sứ bộ
Macartney cũng nói Nguyên Huệ “có nhiều mộng lớn mà một là chiếm lấy một phần
nước Trung Hoa và ông không ngần ngại tìm đủ mọi cách để thành công” (sđd, t.
17). Hoàng Lê, t. 271.
6. Hoa Bằng nói đòi 6 châu nhưng tờ sớ
dâng Càn Long có trích trong sách Quang Trung... lại kể đến 7 châu. Ông Lý Vân
Hùng lại nói đến 16 châu (Sử Địa, số 13, t. 135-142) và cho rằng sở dĩ nhà
Thanh trả đất là vì Quang Trung chịu lập đền thờ Sầm Nghi Đống (nhưng ông không
cho biết ở đâu nói như vậy).
7. Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử,
Liên hiệp, 1950. t.102-105.
8. Hoàng Lê, t. 256.
9. Việc Giả vương là ai thì còn mù mờ.
Tây Sơn thuật lược (bản dịch ở Sử Địa số 7-8, t. 161) cho là Đô đốc Nguyễn Hữu
Chẩn, một tên hết sức xa lạ. Hoàng Lê cho biết Ngô Thì Nhậm chọn được Nguyễn
Quang Trị làm quần hiệu (?), người làng Mộ Điền, huyện Nam Đàng, Nghệ An. Liệt
truyện q30, 39a chỉ đích xác Phạm Công Trị người có mặt ở Gia Định năm 1783.
Rắc rối là trong sứ bộ qua Thanh năm 1790 lại có tên Phạm Công Trị đã đến Quảng
Tây mà vì Nguyễn Quang Thuỳ bị bệnh phải theo hộ tống trở về. Càn Long cũng
được thông báo việc này (Đại Việt quốc thư, Bộ QGGD, t. 270).
10. Hoàng Lê, t. 262-265. Liệt truyện
q30, 35b-39a.
11. Liệt truyện q30, 42b. Hoàng Lê, t.
267-271.
12. Thực lục q6, 3a.
13. V. Imbert. Le séjour de
l’ambassade... sđd, t. 23-25, t. 40. Hoàng Lê, t. 270. Trước đó, khi ra Bắc
chuyến đầu, Nguyễn Huệ đã biết tìm cách thu dụng giới tiểu công nghệ để góp sức
vào việc chế tạo vũ khí, gia tăng tiềm năng quân sự. Hoàng Lê, t. 100, nói việc
Huệ “sai tìm thợ sắt”. Xem thêm Sử Địa số 9-10, t. 225.
14. Thư Lelabousse ở Gia Định, 13-12-1970
(A. Launay, III, t. 278).
15. Hoa Bằng, Quang Trung... sđd, t. 222,
224, 226.
16. Liệt truyện q33, 27a, 28b. Hoàng Lê,
t. 269.
Một con đường khác có thể mở ra cho họ là
giao thương với bên ngoài. Thế mà tình trạng giao thương ở miền Bắc Đại Việt
lúc bấy giờ như thế nào? Chúng ta đã thấy nơi khác những biến cố khiến thương
nhân Trung Hoa và Tây phương xa lánh Tây Sơn. Tình trạng đó vẫn chưa kịp xoá
bỏ. Tuy Quang Trung đã mở được các chợ ở ải Bình Thuỷ (Cao Bằng), Du Thôn (Lạng
Sơn) và nhà hàng ở Nam Ninh (Quảng Tây) để buôn bán với Trung Hoa “khiến hàng
hoá không ngưng đọng, lợi cho dân dùng”1, nhưng vấn đề không phải chỉ là giao
thương với Trung Hoa trong lục địa mà là sử dụng các hải cảng trong nước, gần
từng địa phương một hơn để mong thừa hưởng chút tiến bộ kỹ thuật Tây phương.
Phái đoàn Macartney tới nhận thấy ở
Tourane có những ghe thuyền Trung Hoa, những thuyền đi dọc biển của Macao theo
kiểu Tây phương nhưng nhỏ bé và không võ trang. Ở đây người Bồ nắm hết việc
buôn bán còn sót lại, mà cũng chỉ mua vét các chợ ở Quảng Châu đem bán lại
thôi. Cho nên khi Macartney tới, viên trấn thủ ở Quảng Nam nài nỉ người Anh bán
khí giới và đạn dược, lộ cho họ thấy rằng Tây Sơn cần được giúp với bất cứ giá
nào!.
Quang Trung trước khi chết cũng tính gởi
giáo sĩ Labartette đi Macao mời gọi người Tây phương tới buôn bán. Giữa khi
người Âu còn e ngại với Tây Sơn thì Gia Định mở rộng cửa buôn bán, lôi cuốn các
tàu tấp nập ghé bến Đồng Nai, chỉ còn sót những chiếc tàu bất mãn với Nguyễn
Ánh mới quay ra giao thiệp với Phú Xuân thôi: cũng Labartette cho biết có một
tàu Macao, một tàu Manille đem bán cho Quang Trung 100.000 cân lưu hoàng. Vì
vậy cho nên đường cát rất nhiều và rất rẻ ở Quảng Nam mà không trở thành một
món hàng xuất cảng như ở Biên Hoà trong khi trước nội chiến, Tourane nườm nượp
những ghe trọng tải từ 40-150 tô-nô đến chở cau, đường mà riêng thứ sau mỗi
chuyến đem đi hàng 40 ngàn tô-nô.
Kết quả là hiệu năng vũ khí kém đi với
những khẩu súng nhồi bằng thuốc đạn Trung Hoa không bắn xa bằng thứ cùng loại ở
Gia Định nhồi bằng thuốc đạn Tây phương. Lực lượng quân sự phía mặt biển yếu
thấy rõ. Tây Sơn phải tìm cách bù đắp. Bọn cướp biển Tề Ngôi bổ túc vào sự
thiếu sót đó.
Thực ra sau khi làm chìm chiếc tàu Macao
tịch thu được của người Bồ bị bão dạt vào Quy Nhơn, Tây Sơn cũng cố gắng phát
triển thuỷ quân. Nguyễn Huệ đã cho đóng những chiếc “đại-hiệu-thuyền” có thể
chở nổi con voi. Có lẽ đó là những chiếc tàu mà người Anh đi lạc vào thành
Quảng Nam chuyến tháp tùng phái bộ Macartney đã nhìn thấy và ước lượng đến 150
tấn trọng tải và chắc cũng là loại tàu Định quốc mà Vũ Văn đem án ngữ ở cửa Thi
Nại trong trận thuỷ chiến 1801. Nhưng chúng ta hãy nghĩ tới những chiếc tàu bọc
vỏ đồng của Nguyễn Ánh rõ là có sức chịu đựng hơn nhiều. Cho nên các thuyền Tề
Ngôi vừa giữ nhiệm vụ tiếp tế cho nội địa vừa chính là một bộ phận của thuỷ
quân Tây Sơn để quân bình yếu kém vậy.
Tề Ngôi hải phỉ là gì? Có khi gọi là Ô
Tàu hải phỉ, danh từ được thấy ở Thực lục chỉ rõ đám cướp biển Đông gồm có hai
nhóm: giặc Tàu Ô ở vùng Lưỡng Quảng và Thiên Địa hội ở Tứ Xuyên (nên nhớ Hà Hỉ
Văn thuộc Thiên Địa hội đã hoạt động ở vịnh Xiêm). Các đầu mục được Quang Trung
phong chức Tổng binh (hay Thống binh) cho đi cướp phá khắp nơi. Thực lục và
Liệt truyện cho ta biết một số tên các người này như: Dương Thất Nguyên, Ngô
Tam Đồng, Phiền Văn Tài... Và đặc biệt là người cầm đầu xưng Đông hải vương Mạc
Quần Phù.
Là quan Tây Sơn nên sào huyệt họ ở ngay
trên đất liền, khi Nguyễn Ánh tiến đánh thì họ bỏ thuyền chạy bộ để bị bắt
sống. Phạm vi hoạt động của họ lan xa đến nỗi Nguyễn Ánh lần đầu bắt được
thuyền Tề Ngôi vội vã sai sứ đem cho Xiêm để tuyên dương uy thế của mình. Kỹ
thuật thuỷ chiến tinh vi nên Tây Sơn dùng họ chống đánh thuỷ quân Nguyễn Ánh.
Ngay từ trước khi Nguyễn Huệ chết, hơn 40 thuyền Tề Ngôi men theo ven biển Bình
Khang, Bình Thuận vào khuấy rối. Trận đánh cuối cùng dữ dội nhất ở Trấn Ninh
(1802), thuỷ quân Tây Sơn gồm toàn các thuyền Tề Ngôi. Đó chỉ vì chiến tranh
càng kéo dài ra, thuỷ quân Tây Sơn hoặc phải đồng hoá các đơn vị Tề Ngôi, hoặc
phải tổ chức như họ. Cho nên, trong trận Đà Nẵng, Võ Tánh bắt được hơn 20 Tàu Ô
và tướng của họ không phải Tổng binh mà là Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ.
Vai trò bổ túc của họ quan trọng như thế
nên không phải chỉ vùng Nguyễn Huệ mới có Tề Ngôi thuyền. Nguyễn Nhạc cũng phải
cho phụ trách kiểm soát vùng biển Quy Nhơn: thuyền Tề Ngôi Nguyễn Ánh bắt được
đem khoe với Rama I là ngoài khơi Thi Nại của Nguyễn Nhạc.
Giữa lúc Tây Sơn miền Bắc dựa vào trung
châu Nhĩ Hà cùng vài khu vực cằn cỗi khác để nỗ lực phát triển trong những điều
kiện khó khăn thì Nguyễn Ánh cũng vội vã lo củng cố thế lực ở vùng đất chưa
được tận dụng hết khả năng: đồng bằng miền Nam.
Trong khoảng 1789-1792, gặp lúc Tây Sơn
không đủ sức nhìn về phương Nam nữa, ông có được thời cơ để lo tổ chức Gia
Định. Thêm nữa, ông còn có sẵn sự ủng hộ bền dai của các cựu thần, sự đóng góp
kỹ thuật của đám phiêu lưu thương nhân và giáo sĩ Tây phương, cùng một lề lối ý
thức tổ chức xưa cũ có thể không thành công với những vùng thâu nhận ảnh hưởng
Việt lâu đời, nhưng lại rất có hiệu lực ở những vùng mới mẻ.
Chế độ đồn điền đã từng được áp dụng từ
đầu Lê để khai thác lãnh thổ theo tính cách tập thể, quân sự hoá, bây giờ được
Nguyễn Ánh tiếp tục với sự đóng góp của đám trí thức Gia Định mới về đầu. Là sĩ
phu cố giữ tiết tháo trong thời loạn, noi gương theo xử sĩ Võ Trường Toản, thấm
nhuần Khổng giáo trong cả những ý nghĩa tích cực nhất, một khi ra làm việc, họ
là những tay hăng hái nhiệt thành nhất. Ý thức hệ Khổng giáo gắn liền với một
lề lối tổ chức kinh tế nông nghiệp, một khuôn mẫu tổ chức binh đội lấy sức mạnh
ở nông dân nên mỗi lần bàn đến việc khai đất tuyển binh là Nguyễn Ánh viện đến
“Chu Đường cố sự”, đến quan niệm “tứ dân chi trung duy nông vi bản”.
Hành động đầu tiên là vào tháng 6 Kỷ Dậu
(1789) - thángHoàng tử Cảnh về - Nguyễn Ánh bổ nhiệm Điền tuấn quan. Mười hai
người trong số có Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Châu, Lê Quang Định, Hoàng Minh
Khánh, chia nhau đi 4 doanh Phiên Trấn, Trấn Biên, Vĩnh Trấn, Trấn Định khuyến
dụ dân chúng từ phủ binh tới dân cùng cố cứ theo sổ bạ mà bắt làm ruộng, dân
không có nghề nông thì bắt phủ binh thế. Đến mùa lúa chín, đạp ra, quan khám
thu mỗi người, ruộng đồng lấy 100 cơ lúa (một cơ bằng 40 bát), ruộng núi lấy 70
cơ. Phủ binh nạp trên số đó được miễn một năm tòng chinh, dân trơn được miễn
một năm lao dịch làm xâu. Nếu không đủ số không được chuẩn miễn.
Ai mộ được dân ngoài sổ bộ lập thành các
đội điền tốt, Điền tuấn quan sẽ cấp ruộng hoang cho. Nếu trâu cày điền khí
không đủ, quan cho mượn, đến mùa nạp lúa thế. Tiếp tục thúc đẩy chính sách,
tháng 8 năm sau (1790), lại có lời dụ khuyến nông, cũng bấy nhiêu nội dung tổ
chức ấy. Việc nông trang được chăm sóc kỹ vì một lẽ nữa là năm này lúa cao, dân
đói. Ánh bắt các nha văn võ phải đi mộ các đội đồn điền, mỗi năm mỗi người phải
nộp 6 đấu lúa. Dân gian, ai mộ được 10 người trở lên thì được làm Cai trại, rút
khỏi sổ thôn.
1. Hoa Bằng, Quang Trung... sđd, 308, dẫn
lời Ngô Thì Nhậm ghi trong Bang giao hảo thoại của ông.
2. V. Imbert. Le séjour de l’ambassade...
sđd, i. 15, 16, 17.
3. Thư gởi cho Letondal 6-10-1797 (A.
Launay. III, t. 244).
4. V. Imbert. Le séjour de l’mbassade...
sđd, t. 22, 23, 27.
5. Hoàng Lê. sđd, t. 269. Thực lục q4,
14b.
6. Ông Hoàng Xuân Hãn (Sử Địa, số 9-10,
t. 3-8, t. 245-263) dịch Càn Long chinh vũ An Nam ký của Nguỵ Nguyên và phụ
thêm Gia Khánh Đông Nam Tĩnh Hải ký, xác nhận cho những ý kiến chúng tôi vừa
nói trên năm 1968:
“Cha con
Nguyễn Quang Bình dùng binh cướp nước. Của trong nước hư hao. Thuyền buôn không
đến. Bèn sai hơn 100 chiếc Tàu ô, 12 viên Tổng binh lấy tiếng là tìm mua quân
lương, đi chiêu tập nhiều tụi vong mạng dọc bờ biển Trung Quốc. Lấy quan tước
làm mồi nhử, cấp cho thuyền và khí giới, sai đưa đường cướp Mân, Việt, Giang,
Chiết” (Càn Long...)
“Đến đầu
đời Gia Khánh (1796) mới có cướp thuyền quấy rối. Cướp thuyền này bắt đầu từ
khi cha con Nguyễn Quang Bình ở An Nam, quân mỏi, lương hết bèn vời bọn vong
mạng dọc bể cấp cho binh thuyền, nhử bằng quan tước, sai cướp các thuyền buôn ở
bể gần để biện lương thực (Gia Khánh...).
Chính chúng tôi nhấn mạnh.
7. Thực lục q6, 7b, 9a; q10, 3a, 6ab,
38b... Ô Tàu hải phỉ là tên gọi từ Liệt truyện q30, 41b. Ngoài ra ở q7, 13b,
q11, 4b... vẫn gọi là Tề Ngôi hai phỉ.
8. Nguỵ Nguyên gọi là Mạc Phù Quan. Sách
Tĩnh hải ký kể trên cũng gọi Mạc Phù Quan, còn cho biết thêm tên Trần Thiên Bảo
có sắc ấn Tổng binh An Nam và thêm Báu Ngọc hầu, Luân Quý Lợi với 4 Tổng binh
khác.
9. Lời dụ khuyến nông khai khẩn đất: “Gia
Định phì nhiêu mà lương chưa chứa đủ” (Thực lục q6, 4ab).
10. Thực lục q4, 16ab, 17b, 23a; q5, 18a:
“Cho dân các doanh trưng đất ruộng hoang”.
Lính ở các nơi trấn đóng cũng không được
ở không. Nơi luỹ Vàm Cỏ ở Gia Định, các quan văn bắt lính ra làm ruộng lấy tên
Đồn điền trại. Lúa giống, trâu cày, dụng cụ làm ruộng đều được quan cấp. Lúa
thu thành đem bỏ vào kho (tên là kho Tích Trữ sau cải là kho Đồn Điền). Biện
pháp này đến tháng tư Tân Hợi (1891) thì được áp dụng lan đến vùng Bà Rịa, Đồng
Môn. Lính ở đó phải tìm đất làm đồn điền để “tự thực kỳ lực”.
Chính sách lan cả đến dân thiểu số. Dân
Hoa ngụ cư - Đường nhân - ở Long Xuyên nếu tự nguyện làm đồn điền mà thiếu dụng
cụ sẽ được cho mượn. Mỗi người mỗi năm nộp 8 hộc lúa thì được miễn giao dịch.
Ai không làm ruộng sẽ phải sung quân. Dân Miên ở Ba Thắc, Trà Vinh cũng không
thoát: họ bị buộc khẩn đất, nộp mỗi người 15 đấu lúa (sau giảm còn 5).
Nói tóm lại, chính sách đồn điền nhắm vào
việc khai phá đất đai làm ruộng bằng cách bắt mọi người không đừng được, phải
tham gia với sự đôn đốc, kiểm soát, trợ giúp của chính phủ. Đó là một chính
sách nông nghiệp cưỡng ép, tận dụng nhân công, có từ xưa nhưng bây giờ lại được
áp dụng trên một quy mô rộng lớn, khiến vùng Gia Định trở nên phồn thịnh, sản
xuất dồi dào quyến rũ được đám dân nghèo đói Bình Thuận, Phú Yên... bỏ xứ chạy
vào làm tăng dân số, uy tín nội bộ cho Nguyễn Ánh, để dư gạo giúp Xiêm đói,
giúp Thanh đánh Tây Sơn và cuối cùng, để đủ binh lương cho quân lính dùng những
khi tràn ra phía bắc đánh đám người kiệt thiệt đã làm ông khốn đốn khi xưa.
Công cuộc khai thác ruộng lúa, đối với
thương nhân Tây Phương không quan trọng mấy cho việc buôn bán của họ. De
Guignes, viên lãnh sự Pháp ở Quảng Châu có tiếc rằng Vua đã không làm chủ được
“những tỉnh giàu có hơn ở miền Bắc” mà chỉ chiếm một vùng “không tốt” vì “sản
xuất có lúa mà thôi”. Nhưng nếu ta lưu ý đến công việc buôn bán với người Xiêm,
Chà-và, Trung Hoa... và các thương nhân Tây phương thực hiện các chuyến tải hàng
trong địa phương - le commerce d’Inde en Inde của họ - thì rõ ràng lúa gạo cũng
còn là một sản phẩm trao đổi được để từ đó làm giàu cho quốc khố. Vả lại, tuy
sử quan nói toàn chuyện cày ruộng, thu lúa, nhưng ta vẫn thoáng thấy có những
canh tác khác. Các vườn cau mọc lên nhiều để cung cấp một sản phẩm cần thiết
cho phong tục địa phương. Sản phẩm quan hệ nhất là đường cát. Nguyễn Ánh đã
nhắc đi nhắc lại cho dinh Trấn Biên biết rằng đường cát cần thiết dùng để đổi
binh khí Tây phương nên phải có chính sách riêng. Một mặt nhà nước ép dân sản
xuất, hạn định mỗi năm phải nạp 100.000 cân (6.000KG), một mặt phát tiền cho
dân có vốn làm ăn, đến mùa tính theo giá chợ mà nhà nước mua lại. Chính sách có
vẻ có hiệu quả vì số lượng sản xuất tăng lên, giá thị trường hạ xuống trong mấy
năm thi hành: cuối năm 1789, nhà nước phát trước 10 quan cho mỗi 100 cân còn
hẹn đến mùa theo giá chợ phát thêm mà đến gần cuối năm 1796, nhà nước chỉ phát
9 quan cho 100 cân thôi.
Nguyễn Ánh cũng chú ý đến việc tìm các
lâm sản. Người trong các đội Hoàng Lạp mỗi năm nếu nạp 10 cân sáp vàng thì được
miễn giao dịch, thuế má, tòng quân. Trầm hương, kỳ nam lấy ở dân Chàm Bình
Thuận, đậu khấu, sa nhân cùng với các sản phẩm Cao Miên thì theo đường nước của
sông Tiền, sông Hậu chuyển xuống. Nhưng khi chế độ sản xuất được đôn đốc kỹ
lưỡng thì chế độ thương mại cũng phải theo một sự kiểm soát gắt gao. Những
thương thuyền ngoại quốc đến buôn bán không được lén chở lúa gạo, kỳ nam, trầm
hương, ngà voi, sừng tê. Ai thông đồng buôn bán riêng tư thì phải tội 100 roi,
làm phu 3 năm, tài sản bị tịch thu. Người kiểm soát cũng không được lơ là nhiệm
vụ: thất thoát, tội cũng như vậy, ai tố cáo được thưởng 300 quan tiền!10. Sở dĩ
có sự kiểm soát gắt gao như vậy vì chính quyền muốn giữ các quý vật ấy làm món
hàng trao đổi binh khí, đạn dược cần thiết cho binh dụng. Việc mua bán với bên
ngoài thực hiện do các tư nhân hoặc chính tay chân Nguyễn Ánh.. Từ trước khi
Cảnh về đã có một chính sách mời gọi các thuyền Thanh đến buôn bán. Nếu họ chở
tới sắt, gang, chì đen (?), lưu hoàng thì phải bán cho quan để quan tuỳ theo ít
nhiều cho miễn thuế bến đổi gạo mang về nước. Cứ thuyền có các thứ ấy trên 10
vạn cân thì miễn thuế cho chở 30 vạn cân gạo đi, thuyền có 6 vạn cân, chở 22
vạn cân gạo, 4 vạn cân chở 15 vạn cân gạo, đều miễn thuế. Những thuyền ít hơn
thì cứ mỗi 100 cân đổi 300 cân gạo về, nộp thuế y lệ định12. Sau đó vào khoảng
năm 1791 (tháng hai Tân Hợi), có người Bồ tên là Chu-di-nô-di (?) đến buôn bán,
Ánh mới đưa thư cho quốc trưởng (chắc toàn quyền Goa hay Macao) để mua một số
lớn binh khí: súng điểu thương 1 vạn cây, súng gang lớn 2.000 cỗ (mỗi cỗ 100
cân), hoả tâm đạn 2.000 viên.
Về việc người đi buôn thì tay chân Ánh
phái đi tuy chắc mang tính cách bầy tôi ăn lương chúa nhưng hẳn cũng có thể
kiếm ăn riêng được. Các quan lớn cũng có phương tiện chuyên chở riêng: năm 1800
một ông Chưởng dinh Hữu quân (Nguyễn Huỳnh Đức?) đã bán cho Despiau một chiếc
thuyền lớn để ông này đi buôn. Despiau cũng nằm trong sự đãi ngộ chung của
Nguyễn Ánh đối với người Tây phương dưới quyền: họ vừa làm cho Ánh vừa kiếm lợi
riêng. Những khu vực họ thường lui tới nhất là ở phía Tây: để mua binh khí, Nội
viện Trần Vũ Khách đã đi Giang-lưu-ba (Batavia), Cai đội Ô-li-vi, Đội trưởng
Ba-la-di đi Goa, Mã-la-kha (Malacca). Tài liệu Tây phương cho biết L. Barizy
còn trương hiệu kỳ của chúa Nguyễn buôn bán với thương nhân Đan Mạch, Hanop và
Stevenson, trung lập trong chiến tranh Anh - Pháp, làm đại lý cho Ánh ở
Tranquebar (Ấn Độ). Có lẽ chính vì việc buôn bán hướng về phía Ấn Độ, Mã Lai,
nơi người Anh đang phát triển thế lực, danh tiếng vang dội trên mặt biển lúc
bấy giờ, nên có việc sử quan ghi rằng Ô-li-vi đi Hồng-mao mua binh khí, có
thuyền Hồng-mao đến buôn bán và L. Barizy là dân Hồng-mao.
Tất cả những hoạt động nông nghiệp,
thương mại đó có chủ đích tạo lập một lực lượng khả dĩ chống đối được Tây Sơn,
tràn ra Bắc chiếm lại cố đô. Ta đã kiểm xét đám người Tây phương trợ giúp Gia
Định. Nhưng điều quan trọng vẫn là việc kết hợp được một lực lượng quân sự gồm
những người trong nước, điều hoà được việc binh với sự cần thiết sản xuất.
1. Thực lục q5, 6b, 7a, 21b. Về việc cấp
lúa giống, Thực lục q5, 22a ghi đã phát đến 1 vạn đấu cho nông dân.
2. Thực lục q5, 15a.
3. Thực lụcq4, 12a: “Sai 4 doanh công
đường quan nhóm lưu dân gốc từ Bình Thuận trở ra, biên danh tánh, niên quán để
miễn thuế”. Cùng quyển, 17ab ở Ba Thắc: “Bọn phiên dân mới về, vận gạo 500
vuông cho vay để canh tác”. Quyển 6, 2a: “Dân Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận
khổ vì giặc tàn bạo, dắt díu vợ con vào Bà Rịa. Sài Gòn, vua khiến cấp đất làm
ăn” (Xuân 1792).
4. Thực lục q4, 10b: “Xiêm hạn hán, (Vua)
cho 8.800 vuông gạo”. Xem thêm q6, 37b; q5, 2a: “Từ mùa hạ 1789, nghe quân
Thanh đánh Tây Sơn, (Vua) sai Phạm Văn Trọng đem thư đi Quảng Đông và lấy 50
vạn cân gạo giúp. Ghe bị chìm”.
5. Thư ngày 29-12-1791. G. Taboulet, La
geste française, sđd, t. 242, 243.
6. Thực lục q4, 24b: “Nước Tà-nê (Chà-và)
sai sứ hiến phương vật”. Cùng quyển, 28b: “Nước Tam-hoạt sai sứ thần
Giáp-tất-đơn, Điền-hoà tới cho binh khí (Vua) tặng lại quốc trưởng họ một chiếc
lọng vàng và một vạn cân gạo”. Lưu ý rằng tuế cống, triều cống theo kiểu tương
tự là một hình thức buôn bán chính thức ở Đông phương (Jacques Lacour Gayet.
Histoire du commerce, t. II, phần về thương mại Trung Hoa: phát triển thương
mại và chính sách triều cống, t. 358, 359. Sách Thực lục cũng đầy rẫy các
chuyện ta cho Xiêm gạo, kỳ nam, sáp, đường, Xiêm cho lại diêm tiêu, súng ống,
voi. Ý nghĩa buôn bán thực quá rõ ràng.
7. Barrow (BSEI, 1926, t. 208) có ghi
chuyện Gia Long để phát triển các vườn trầu lấy phẩm vật xuất cảng. Đây chắc là
Thập bát Phù Viên, 18 thôn Vườn Trầu ở Hốc Môn mà Trịnh Hoài Đức cũng có nhắc
tới.
8. Thực lục q4, 25b; q8, 29a. Xin xem lại
tình hình thị trường đường cát ở Quảng Nam đã nói về vùng Tây Sơn để so sánh.
9. Thực lục q4, 18a, 19a; q5, 6a, 17b.
10. Thực lục q4, 11a.
11. “Nội viên Thuyền chủ Huấn Đức hầu là
tôi tâm trường. Vả lại gia tư ấy lai khứ tiện thông...” (Phụ lục, thư chữ Nôm
số 11).
12. Thực lục q4, 12b. Tỷ lệ đổi chác 3/1
là ở hai đầu tối đa và tối thiểu, còn các mốc ở giữa thì tỷ lệ cao hơn: 3, 6/1
(22/6. 3, 7/1 (15/4). Chắc người ta cũng sợ hết gạo!
13. Thực lục q5, 18a. Điểu thương chắc là
loại arquebuse, súng lớn 60kg chắc là loại đại bác di động mà L. Barizy có nói
tới trong trận Đông Cây Cầy 1801 sau này. Hoả tâm đạn chắc là đạn nổ mảnh.
14. Suzanne Kapelès. “Un cas de droit
maritime international en 1797”. BSEI, XXIII, t 126-131.
15. Thực lục q7, 26a, q9, 3a, 8a.
16. Thực lục q4, 36a.
Những kỳ kiểm tra liên tiếp vào sổ bộ đám
dân Việt gồm dân sở tại, dân đói rách lưu vong từ ngoài vào, tăng ni, đạo đồng,
lính Tây Sơn tan rã trốn nấp vào đám người thiểu số người Tàu, Miên, Chàm,
Thượng, khiến chính quyền biết rõ được dân số để tận dụng họ.
số Gia Định bao nhiêu, sử quan không đếm
được, John Barrow người đi theo sứ bộ Macartney, lấy tài liệu của L. Barizy để
ghi quân số Gia Định vào đầu thế kỷ XIX như sau:
Bộ binh:
24 đội kỵ binh
6.000 người
16 đại đội tượng quân (200 voi) 8.000 người
30 đại đội pháo binh
15.000 người
25 liên đội (mỗi đơn vị 1.200 người)
võ trang súng tay
30.000 người
Khinh binh võ trang gươm giáo và súng mồi 42.000 người
Cận vệ tập luyện chiến thuật Tây phương
12.000 người
Cộng:
113.000 người
Thuỷ binh:
Lính làm thuốc đạn của xưởng đóng tàu 8.000 người
Thuỷ binh trên các tàu trong cửa biển
8.000 người
Thuỷ binh trên các tàu đóng kiểu Âu
1.200 người
Thuỷ binh trên các ghe bầu
1.600 người
Thuỷ binh trên các thuyền chiến có chèo
8.000 người
Cộng:
26.800 người
Tổng số quân lực là 139.800
người2.
Danh xưng chỉ các ngành quân đội và các
thuật ngữ về chiến cụ của John Barrow dùng tuy có khác với sử quan nhưng so
sánh để soát xét lại ta vẫn thấy dấu vết của sự thực, tuy phức tạp hơn nhiều.
Nên nhớ thêm rằng bảng tổng kết này làm bằng những tài liệu có lẽ thu lượm 1, 2
năm cuối thế kỷ XVIII, nghĩa là trong lúc binh Gia Định đã phát triển mạnh, thu
thêm vào hàng ngũ của mình đám hàng binh Tây Sơn cùng chiến cụ, chiến tượng của
họ.
Xét sách Thực lục, ta thấy có các danh
từ: lạc tòng quân, chiến tâm quân, hương binh, phủ binh, tinh binh, thần sách
quân, cấm vệ binh; Không có xác nhận rõ rệt, ta chỉ căn cứ vào ý nghĩa danh
xưng cùng hoạt động của các đội đó mà giải thích tổ chức thôi. Lạc Tòng quân rõ
là đám dân tình nguyện, nhưng vì việc lập ra đạo quân này sau thời kỳ vây đánh
Quy Nhơn (1793), nên phải hiểu dè dạt chữ “tình nguyện” vì đó chính là binh
tướng Tây Sơn đầu hàng vậy. Chiến Tâm quân là các binh cảm tử. Nguyễn Ánh sai
các dinh tuyển chọn, lọc lừa trong các binh đội lấy người để lập thành đội ngũ
nhập vào ước thúc của dinh Trung quân. Xung trận, họ phải liều mình tiến trước,
nếu lùi lại phải chịu quân pháp, trốn đi cha mẹ, anh em họ phải chịu tội thay.
Hương binh, Phủ binh là lính làng, lính địa phương, trong khi Tinh binh là lính
túc trực, lính chính quy: ta thấy khi dẹp xong Phạm Văn Sâm, Nguyễn Ánh cho phủ
binh về làm ruộng, chỉ giữ lại tinh binh. Chuyện xảy ra ở Phiên Trấn nên có thể
là tinh binh chỉ ở Gia Định, còn các dinh khác (Vĩnh Trấn, Trấn Định) thì phải
tuyển phủ binh để dùng. Cấm vệ binh, đã nói rồi, được hưởng quyền lợi rất lớn,
nhưng quân số chắc ít ỏi. Thần Sách quân - quân ở Kinh - được nhắc tới nhiều
chính là đám cận vệ 12 ngàn người tập luyện theo chiến thuật Tây phương mà
Barrow đã ghi nhận vì có Olivier là một kẻ điều khiển với chức Vệ uý. Sau này,
trùng hợp với lúc Olivier đi, danh từ Thần Sách quân ít được sử quan nói tới và
thay bằng đội Ngự Lâm quân tuyển toàn dân Quy Nhơn, giao cho các hàng tướng Tây
Sơn trông coi vì sự hăng hái, gan dạ của họ, tướng cũng như quân.
Đáng lưu ý là sự đổi thay kỹ thuật chiến
đấu do người Âu đem lại hay gián tiếp qua các sách dịch của Pigneau: J. Barrow
có nói đến pháo binh, đến các đội kỵ binh di chuyển bằng trâu. Nếu ta nhớ rằng
Pigneau khi bàn bạc việc viện trợ cho Nguyễn Ánh với các tướng lãnh Pháp có
nghĩ cách dùng trâu kéo súng lớn và ta ghép lời xưng tụng công đức Bá-đa-lộc:
“chế hoả xa, bầy trái phá...” thì ta thấy quân đội Nguyễn Ánh có súng nặng lưu
động dễ dàng trên bộ như chứng tỏ trong trận Đập Đá tháng 7 âm lịch (1793) với
“hoả xa đại bác”.
Khí giới ngoài các thứ mua cũng được chế
tạo tại chỗ. Qua lời xưng tụng quá đáng của J. Barrow, ta cũng lược qua được sự
thực. Ông nói Nguyễn Ánh đã làm một nhà máy chế diêm tiêu ở Phiên Trấn, khai
một mỏ sắt, xây các lò đúc chế hàng ngàn súng mồi lửa, các súng đại bác đủ cỡ.
Sử quan xác nhận điều này khi cho biết việc phân phiên làm việc của các Cục
tượng: thợ đúc, thợ rèn, thợ súng, thợ bạc. Trịnh Hoài Đức cũng nói về chế tạo
cục trong thành Gia Định, ghi rõ “có 3 gian nhà ngói đối mặt nhau”, dãy trại
đặt súng bên tả phía trước. Chế tạo cục có 15 gian lợp ngói, lát ván, đặt đồ
phụ tùng súng, bên trong sắp các khẩu đại bác đồng, sắt, hoả xa, trụ súng, đều
có xe chở. Bên hữu là một dãy trại lá vừa là nơi trú ngụ cho các thợ tạo tác,
vừa là nơi thu chứa thổ sản hoá vật. Ngoài ra, còn có 12 gian mái ngói, tường
gạch chứa thuốc súng dồn trong những thùng gỗ đặt trên sàn. Bên ngoài cửa Khôn
Minh 2 dặm là nơi chế tạo thuốc súng, 4 phía rào gai, có đủ khí cụ cối chày để
nghiền thuốc.
Việc tổ chức phòng thủ cũng được thực
hiện đồng thời với việc huấn luyện binh sĩ. Nguyễn Ánh đã lo củng cố công sự
phòng thủ nhiều đến nỗi các giáo sĩ phải lên tiếng công kích thái độ mà họ gọi
là “lẩn tránh chiến tranh”. Phần lớn các luỹ đắp bằng đất. Một số luỹ là để
ngăn chặn đề phòng những nhóm Miên nổi dậy như luỹ Trấn Di (cái tên tỏ rõ được
công dụng) ở sông Ba Thắc, luỹ Thanh Sơn ở Ba Lai. Cũng có những luỹ như các
tiền đồn hướng về phía Tây Sơn: luỹ Đồng Chàm ở Trấn Biên, luỹ Bà Rịa.
1. Thực lục q4, 11a, 29b; q5, 4a, 18b;
q8, 7b.
2. G. Taboulet, La geste française, sđđ,
t. 256.
3. Thực lục q4. 8b, 9b, 17b; q6, 32b, 33b.
4. Phủ binh là chế độ binh vụ có từ đời
Bắc Chu sang Tuỳ, Đường, bắt dân trong sổ bộ làm lính, miễn cho các thứ thuế
tô, dung, điệu, phải chịu huấn luyện trong những khi rảnh việc nông, phải tự
lực sản xuất. Gia Định tổ chức theo chế độ Hán, Đường chắc cũng đã sử dụng phủ
binh theo ý nghĩa này.
5. BAVH, 1936. t. 111, 112. Xem thêm
Trịnh Hoài Đức tả trại súng kể sau.
6. Thực lục q6. 25a.
7. G. Taboulet trích lại trong La geste
française, sđd t. 270. “Quelques notes sur Gia Long par un contemporain”, BSEI
1926. t. 208. Chữ dùng của Barrow: Fentan.
8. Thực lục q4, 5a.
9. Trịnh Hoài Đức, Thành trì chí đã dẫn,
Đại học, 12-1961. t. 30-40.
10. Thực lục q4, 17a chuyện tháng 6 Kỷ
Dậu (1789); 22a, chuyện tháng 9, 26a chuyện tháng 12 cùng năm; q5, 10b, chuyện
tháng 12 Canh Tuất (1790).
Nhưng công sự làm cho Ánh hãnh diện nhất
và công trình xây cất cũng trải qua nhiều khốn đốn nhất là thành Gia Định. Thực
lục chép rằng ngày Kỷ Sửu tháng 3 Canh Tuất (1790) bắt đầu xây thành bằng đá
Biên Hoà vì luỹ ở làng Tân Khai không đủ dùng cho binh vụ1. Trịnh Hoài Đức ghi
ngày 4 tháng 2 và tả thành theo khuôn mẫu Á đông: thành có hình bát quái, các
cửa chính theo phương vị càn tốn, cấn đoài... Thành giống hình hoa sen nở, 8
cửa, ngang dọc có 8 đường, từ Đông qua Tây rộng 131 trượng 2 thước, từ Nam qua
Bắc cũng vậy cao 13 thước, chân thành dày 7 trượng 5 thước day mặt ra hướng tốn
(Đông Nam).
Việc xây thành này, các tài liệu Tây
phương cho biết là do Le Brun và Olivier de Puynamel theo lời yêu cầu của
Nguyễn Ánh. Hoạ đồ phố xá hình như của Le Brun gồm có 40 con đường rộng từ 15
đến 20 thước cắt nhau theo hình thước thợ và dự án này không được thực hiện.
Nhưng Le Brun còn ở đến đầu năm 1792 và rõ ràng việc thiết kế đô thị chịu ảnh
hưởng hoạ đồ ông rất nhiều. Ta hãy nghe Trịnh Hoài Đức so sánh nơi đó trước kia
“nhà ở lộn xộn, đường lối cong quẹo, để dân tuỳ tiện, chưa rảnh sắp đặt (!)”
với quang cảnh sau khi xây thành “phố xá chợ búa, hàng lối dọc ngang đều có thứ
tự”... “quan lộ... gặp những khúc quanh co đều chăng dây sửa lại cho thẳng,
rộng 6 tầm... bằng phẳng như đá mài” thì đủ công nhận xác quyết trên. Thư của
giáo sĩ Boisserand (2-1792) cho biết có pháo đài, hào, điếu kiều, đường mở ra
đất trống trước thành và luỹ vòng cung... Nguyễn Ánh muốn làm tức khắc tuy cần
phải đợi thời cơ thuận tiện hơn. Người ta phải phá nhà cửa, bắt đến 30 ngàn dân
làm việc. Loạn nổi lên, dân chúng và quan binh đổ riết cho Olivier và Le Brun
gây nên tội muốn bắt giết làm hai ông này phải chạy trốn, nhờ Bá-đa-lộc che
chở. Bình yên trở lại, Nguyễn Ánh cho lính về và dân rảnh rang cày cấy2. Chi
tiết sau phù hợp với việc sử quan ghi tới hai lần xây cất thành mà không nói lý
do ngưng nghỉ: một lần vào tháng 3 Canh Tuất như đã nói và lần “sửa sang lại”
vào tháng chạp năm đó.
Qua những chứng dẫn trên ta biết thành
xây theo kiểu phòng thủ Tây phương nhưng cố uốn nắn theo quan niệm phong thuỷ
Đông phương (bát quái). Tuy nhiên hiệu quả phòng thủ của nó vẫn không thay đổi.
Từ đấy Tây Sơn không vào Gia Định lần nào để nó được thử thách nhưng đứa em
sinh sau nó, thành Diên Khánh, đã chứng tỏ hiệu lực trước đám quân Trần Quang
Diệu thiếu vũ khí công phá tương xứng.
Nhưng người ta còn phải nghĩ tới việc tấn
công nữa. Ta đã nói tới nỗi lo âu của Gia Định về sức mạnh của đám tượng quân
Tây Sơn, sức mạnh chứng tỏ trong cuộc tấn công Vạn Tượng “làm rung động Miến
Điện, Xiêm La và khiến cho Đồng Nai sửa soạn chạy trốn”. Tự nhiên, với phản ứng
bắt chước, Nguyễn Ánh cũng phải lo củng cố tượng quân. Từ sau vụ phá thuỷ quân
Tây Sơn ở cửa Thi Nại, Nguyễn Ánh sai người đến các vùng Đồng Nai, Bà Rịa bắt
voi về nạp. Số voi tăng cường nhờ trao đổi với các nước Chân Lạp, Xiêm, nhờ
cống phẩm của dân thiểu số Chàm, nhờ bắt được của Tây Sơn. Theo với tiến triển
của tình thế chiến tranh và với sự rút lui của người Tây phương, lực lượng
tượng quản sẽ tăng mạnh hợp sát với thực tế địa phương và để cố gắng quân bình
với thuỷ quân.
Bởi vì Nguyễn Ánh đã có một đội thuỷ quân
hùng mạnh. Bầy tôi của Ánh và chính Ánh cũng thấy rõ điều đó. “Thuỷ chiến là sở
trường của ta”, Đặng Đức Siêu thực đã tri bỉ, tri kỷ vậy. Nhờ ưu thế đó mà
Nguyễn Ánh thắng trận thuỷ chiến Thi Nại 1792 làm ưu uất Quang Trung. Trong
cuộc tiến quân ra, thuỷ quân bao giờ cũng đi mau và đi xa vào đất địch hơn bộ
binh. J.M. Dayot phục vụ Nguyễn Ánh trong những năm 1790-1795 đã nhân dịp điều
khiển các tàu Tây trong chuyến xuất quân vào khoảng tháng 5 đến tháng 10 dương
lịch để mà lập cả một chương trình vẽ các hải cảng, đi dò đáy nông sâu. Chính
đội này dắt theo sau cả hàng ngàn thuyền mang lương thực cho binh lính - cả
lính bộ - có khi phải ghé lại một bến đến vài ngày để chờ bộ binh tới lãnh
lương5. Nhận biết thuỷ binh là quan trọng ở một xứ đầy sông rạch như Gia Định
này, nên từ tháng 5 Kỷ Dậu (1789) ta thấy giá bắt lính đào ngũ có cách biệt rõ
rệt: quân bắt được lính bộ thưởng 30 quan, còn được thuỷ binh thì được hưởng
tới 40 quan!
Cấu tạo lực lượng đó như thế nào thì tài
liệu để lại của sử quan cũng còn lờ mờ. Họ cùng với Trịnh Hoài Đức có nói đến
Chu Sư xưởng lập tháng 12 Canh Tuất (đầu 1791), dọc từ bờ sông Tân Bình đến
sông Bình Trị, chứa những dụng cụ thuỷ chiến và các loại ghe tàu. Lelabousse
vừa tả các xưởng này vừa tâng bốc: “Các xưởng thuỷ quân và quân cảng của ông
làm người ngoại quốc ngạc nhiên và chắc sẽ khiến cả Âu châu thán phục nếu Âu
châu có thể chứng giám. Một bên người ta thấy các thứ súng tay, súng lớn đủ mọi
cỡ, dụng cụ, giá súng, đạn... phần lớn đẹp đẽ chỉ nhường kiểu mới nhất thôi.
Một bên, vô số các thuyền chiến (galère), các chiến hạm đủ mọi cỡ, mọi hình
thức, rất chắc chắn. Tất cả những cái đó là công trình của ông hoàng ưa hoạt
động cũng như chăm chỉ này, được các sĩ quan người Pháp luôn luôn giúp đỡ vì
nghệ thuật và công nghệ đó ở xứ này còn xa mới đuổi kịp Âu châu”. Ở mục nói về
Chu Sư xưởng, sử quan cũng như Trịnh Hoài Đức có tả rõ các thứ thuyền. Theo họ,
thuyền Hải đạo là tàu thuỷ chiến hay nhất, chiến hạm là thuyền buôn không buồm
mà nhỏ (chú này sử quan ghi cho thuyền Hải đạo), ghe Ô, ghe Chu là các ghe đánh
giặc thân lớn, dài, ghe Lê có chạm vẽ ở mũi thuyền và lái. Ngoài ra, ở những
chỗ khác, sử quan ghi thêm các thuyền hiệu (5 thuyền hiệu tạo tháng giêng năm
Nhâm Tý 1792: Hoàng Long, Xích Nhạn, Thanh Tước, Bạch Yến, Huề Hạc), các Ô sai
thuyền (chắc là ghe Ô), Đại hiệu thuyền và Tây dương dạng thuyền.
Tài liệu của người Pháp giúp việc Nguyễn
Ánh để lại hay nói đến các chiến ghe rõ là các thứ ghe Ô, Chu, Lê. Có lẽ từ ngữ
này cũng chỉ các thứ ghe mà L. Barizy gọi bằng các tên galère, chaloupe
canonière, demi canonière... khác nhau từ lớn tới nhỏ. Còn Tây dương dạng
thuyền hẳn là các “vaisseaux construits à l’européenne” mà Barrow nói tới, J.
Liot tả rõ, một loạt frégate có phía sau và buồm dạng của Trung Hoa trong khi
phần còn lại mang dạng Tây, có 6 đại bác mỗi bên, mỗi cái mỗi đầu. Đó là các
Thao (tàu) Thoại Phụng của Barizy điều khiển, Loan Phi của Chaigneau, Bằng Phi
của De Forçan, Phượng Phi của Vannier...
Tuy nhiên, trước đó khi chưa lập Chu Sư
xưởng, Nguyễn Ánh cũng thuê được các tàu Bồ đi buôn (10 chiếc) võ trang thành
chiến hạm. Chiếc “tàu đồng” do Dayot chỉ huy tiến vào cửa Thi Nại (1792) là một
kinh ngạc lớn cho Tây Sơn.. Rồi sau đó Nguyễn Ánh mới bắt chước theo các tàu
Tây mà đóng tàu vỏ đồng nhờ số kim loại dồi dào trong các cuộc trao đổi thương
mại. Còn các ghe thì đóng toàn bằng gỗ ván lấy trên các vùng nguồn Băng Bót,
Quang Hoá trên đất ta, Sơn Phụ, Sơn Bốc, Sơn Trung trên đất Miên.
Tóm lại, đặc sắc của thuỷ quân Gia Định
là sự dồi dào vũ khí, hiệu suất cao của chúng, là các tàu bọc vỏ đồng chắc chắn
cùng chiến thuật mới của các sĩ quan Tây Phương đưa vào. Lực lượng này là kết
quả của công cuộc khai thác đất Gia Định mở rộng trao đổi với bên ngoài. Nó trở
thành nòng cốt của lực lượng thống nhất một khi Tây Sơn trên bộ chưa tìm được
cách phát triển hơn thì lại phải đối phó với sự tan rã nội bộ ở trung tâm Phú
Xuân nữa. Biển cả thênh thang ở phía đông với đội hải thuyền lớn mạnh của Gia
Định biết uốn nắn theo quy luật gió mùa sẽ mang đầy đủ ý nghĩa của một yếu tố
kết liền hơn là một yếu tố ngăn cách vậy.
1. L. Malleret. “Eléments d’une
monographie des anciennes fortifications et citadelles de Saigon”. BSEI, 1935,
t. 5-108. Thực lục q4. 31a; q5, 10b. Bản hoạ đồ thâu hẹp thành phố Sài Gòn xây
năm 1790 do Cai đội V. Olivier, trong Iconographie historique de l’Indochine
française, fig. 40, pl. XXI.
2. G. Taboulet dẫn trong La geste
française... sđd, t. 242.
3. Thực lục q6, 9b.
4. Liệt truyện q10, 6b.
5. G. Taboulet, La geste française, sđd,
t. 250. Thư Dayot đã dẫn.
6. Thực lục q4, 12a.
7. Theo thứ tự, Thực lục q4, 21a, tháng 8
âl. 1789; q6, 1a, 6a, 12a, tháng 1 âl. 1793; q10, 2b, tháng 2 âl. 1798.
8. Thư của J.Liot ở Tân Triệu, 18-7-1792,
BEFEO. 1912, t. 28.
9. Thư của L.M.J. de Jésus Maria cho L.M
Trưởng tỉnh. Chợ Quán, 4-3-1790, BSEI, 1940, t. 101, 102.
10. Thực lục q4, 30b, tháng 3 âl. 1790;
q5, 21b, tháng 3 âl. 1791.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét