Đô đốc Tuyết tên Nguyễn Văn Tuyết (?-1789) là danh tướng nhà Tây Sơn, Việt Nam. Ông được người cùng thời liệt trong "Tây Sơn thất hổ tướng"[1].
Theo gia phả [2], ông tên thật là Nguyễn Minh Mẫn; người làng Ôn Tuyền, huyện Đăng Xương, Thuận Hóa (nay là làng Lệ Xuyên, xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, Quảng Trị). Còn các sử liệu khác thì đều cho rằng ông là người An Nhơn, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định).
Tương truyền, ông là người có sức mạnh, đánh lộn giỏi, từng tụ tập kẻ vô lại ở chợ Gò Chàm, phía Bắc thành Quy Nhơn, nên được tôn làm đầu nậu (đầu đảng). Và Tuyết đã đặt ra lệ rằng bất kỳ ai đến chợ mãi võ, đều phải đến ra mắt ông rồi mới được hành nghề.
Một hôm, Văn Tuyết bắt gặp Trần lão (Trần Kim Hùng, người thôn Trường Định, huyện Tuy Viễn) cùng hai cháu gái trẻ [3], đến chợ mãi võ, mà không xin phép. Cho nên ông liền kéo mươi thủ hạ đến hỏi tội ông già. Sau khi thử tài, biết Trần lão giỏi võ hơn mình, ông xin đi theo làm môn đồ. Kể từ đó, nghe lời dạy thầy, ông lo rèn võ luyện văn, để chờ cơ hội ra giúp nước. Năm năm sau, Văn Tuyết trở về, những thuộc hạ cũ đến mừng, ông đều lựa lời khuyên nên bỏ nghề cướp bóc.
Kịp nghe Nguyễn Nhạc ở Tây Sơn (Bình Định) chiêu mộ hào kiệt, ông liền lên sơn trại đầu quân. Tại đây, ông Tuyết gặp lại một trong hai người cháu gái của Trần sư phụ là Trần Thị Lan, và ông đã cưới cô này làm vợ Là người giỏi võ nghệ, có chí khí, nhiều mưu lược nên ông Tuyết nhanh chóng được anh em nhà Tây Sơn trọng dụng, phong làm Tả hữu Đô đốc, chuyên lo việc huấn luyện quân sĩ.
Năm Quý Tỵ (1773), Tây Sơn Vương (Nguyễn Nhạc) đánh chiếm xong huyện lỵ Tuy Viễn, giao cho ông và Huyền Khê đóng giữ.
Tháng 5 năm 1788, sau khi Vũ Văn Nhậm bị giết tại Thăng Long, binh quyền của Nhậm được Nguyễn Huệ giao lại cho Ngô Văn Sở. Đô đốc Tuyết là một trong số ít người được cử ở lại làm phụ tá.
Cuối năm Mậu Thân (1788), hai mươi chín vạn quân Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy tràn sang xâm lược nước Việt, ông được dự phần trong bộ chỉ huy Bắc Hà do Đại tư mã Ngô Văn Sở đứng đầu.
Được tin cậy, ông lãnh trọng trách gấp rút trở về Phú Xuân, cấp báo tình hình nguy cấp và phương lược phòng chống quân Thanh do bộ chỉ huy Bắc Hà đề xuất.
Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) xuất quân tiến ra Bắc Hà. Trong lệnh xuất quân của nhà vua vào ngày 30 tháng chạp Mậu Thân, thì: 'Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đốc xuất tả quân, trong đó gồm có thủy quân vượt biển vào sông Lục Đầu; rồi Tuyết vẫn kinh lý vùng Hải Dương để tiếp ứng với mặt Đông...[4]
Sách Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, ghi chi tiết:
...Đạo quân thứ hai đi đường thủy, do Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy,(từ Biện Sơn) tiến vào sông Lục Đầu, tiêu diệt quân cần vương của Lê Chiêu Thống ở Hải Dương, rồi tiến lên uy hiếp cạnh sườn phía đông của Tôn Sĩ Nghị đóng ở bờ sông Hồng, làm tiếp ứng cho đạo quân chủ lực và các đạo quân khác đánh vào Thăng Long...[5]
Sau trận đại phá quân Thanh, sử liệu không ghi rõ Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết làm gì và ở đâu, chỉ biết khoảng giữa năm 1802, khi vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) dẫn đại quân tiến ra Bắc Thành, thì vợ chồng ông đang coi việc binh ở nơi đó.
Trước sức mạnh của quân đội Nguyễn, liệu không thể chống giữ nổi, Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tuyết và vợ đã đưa vua Cảnh Thịnh cùng cung quyến sang sông Nhị Hà chạy lên vùng núi phía Bắc. Quân nhà Nguyễn do Lê Chất chỉ huy đuổi kịp. Ðô Ðốc Tuyết truyền cho vợ phò Ngự giá chạy trước, còn mình thì ở lại cản ngăn. Sau một hồi kịch chiến, ông bị súng bắn trúng té nhào, tử trận... Quân Nguyễn liền đuổi theo Ngự giá. Trần phu nhân hết sức chống cự, nhưng chỉ ít lâu thì cả đoàn đều bị bắt. Không thể để đối phương làm nhục, phu nhân liền tự sát cùng với Thái Hậu Bùi Thị Nhạn. Đó là ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802)…
Đề cập đến ngày tàn của nhà Tây Sơn, sách Nhà Tây Sơn có câu chép về vợ chồng Đô đốc Tuyết như sau: Nguyễn Văn Tuyết đã cùng vợ con tuẫn nghĩa sau khi thất thủ Bắc Thành.[6]
Nghi vấn
Hiện nay nơi sinh, nguyên nhân mất và năm mất của ông có hai ý kiến khác nhau. Nhiều sử liệu ghi ông là người ở huyện An Nhơn (Bình Định) và đã chết như trên.
Tuy nhiên, trong gia phả thì chép rằng: Nguyễn Minh Mẫn (tự Tuyết), Đô đốc hải quân, tướng lĩnh Tây Sơn, tiền trào vi huấn đạo Tuyết quang tử, thất tích tại Hải Dương năm Kỷ Dậu (1789)...
Cũng theo gia phả, Đô đốc Tuyết có một người con trai duy nhất tên là Nguyễn Minh Tuế, cũng là tướng giỏi của nhà Tây Sơn. Năm Canh Tuất (1790), Minh Tuế được phong làm "Bắc Triều Hữu Quân Tham Luận Tuế Thành Hầu", đến năm 1792 vào Gia Định rồi thất tích.
**
Bàn về nhà Tây sơn, có người đã bàn rằng: trong lịch sử Việt Nam, có lẽ không mấy ai phải chịu nhiều thiệt thòi như các danh tướng nhà Tây Sơn. Họ có một đời xông pha với hàng loạt những võ công kiệt xuất…để cứu dân, cứu nước.
Nhưng ngay sau đó, rất nhiều người trong số ấy, thân thể họ bị triều đại mới hành hình một cách dã man, sách vở biên chép về họ bị đốt sạch, sự nghiệp của họ bị quá nhiều những sử quan thù nghịch tìm mọi cách xuyên tạc và dòng tộc họ bị giết chết hoặc phải phiêu dạt; nên giờ đây ta thấy, năm sanh của họ thường là dấu hỏi và cuộc đời họ thường có những dấu hỏi để nói lên sự mơ hồ…
Và khi tôi chép lại truyện Đô đốc Tuyết, một câu hỏi bất chợt lóe trong đầu rằng: Vì sao, là đầu đảng ở chợ Gò Chàm, lại trở thành công thần của triều Tây Sơn? Vì sao có người lập được nhiều đại công, lãnh ấn công hầu, sau lại biến thành “kẻ cướp”, đến nỗi trong dân gian nước Việt cứ lưu truyền mãi câu: Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan?
Đến khi tôi bắt gặp câu nói của Đô đốc Tuyết, được chép lại trong Tây Sơn lương tướng ngoại truyện, thì thấy ngay lời giải đáp đã hàm chứa ở trong đó. Câu nói ấy như sau:
“Ra sức trừ khử sự đau khổ cho dân, vì cả cõi đời này mà tiêu diệt hết mọi bất bình, đó là sở nguyện của ta.”
Sở nguyện & công trạng của ông thật đẹp đẽ và lớn lao quá!
Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
Chú thích
(1) Tây Sơn thất hổ tướng gồm có: Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Tuyết, Lê Văn Hưng, Lý Văn Bưu và Nguyễn Văn Lộc.
(2) Gia phả của chi 2 phái 4 họ Nguyễn ở làng Lệ Xuyên, xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị
(3) Trần Thị Huệ và Trần Thị Lan, đều là con của Trần Kim Báu, cháu nội Trần Kim Hùng. Cả hai đều giỏi võ nghệ, kiếm thuật. Riêng Thị Huệ có khả năng đi nhẹ như chim én nên có tên hiệu là Ngọc Yến. Khi trở thành một nữ tướng dưới quyền của Bùi Thị Xuân, cô được liệt trong Tây Sơn ngũ phụng thư. Bởi mẹ mất sớm, nên hai cô về ở với ông bà nội. Sau, Nguyễn Nhạc cưới cô Huệ làm vợ (vợ đầu), còn cô Lan trở thành vợ của Đô đốc Tuyết.
(4) Hoàng Lê nhất thống chí, tr. 182.
(5) Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, tr. 230.
(6) Nhà Tây Sơn, tr. 204.
(7) Trích trong Tây Sơn lương tướng ngoại truyện do danh sĩ Nguyễn Trọng Trì soạn. Nguyễn Khắc Thuần dẫn lại trong Danh tướng Việt Nam (tập 3), tr. 287
Tài liệu tham khảo:
* Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb Văn Học, 1984,
*Quách Tấn & Quách Giao, Nhà Tây Sơn. Bảo tàng Quang Trung xuất bản, 2002
*Nguyễn Lương Bích & Phạm Ngọc Phụng, Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ. Nxb QĐND, 1977.
*Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam (tập 3). Nxb Giáo dục, 2005.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét