XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2016

Chế Bồng Nga: Anh Hùng Chiêm Quốc (2) end

Sau một đêm suy nghĩ kế hoạch, sáng hôm sau vua Chế Bồng Nga truyền lệnh quan quân chuẩn bị Bắc phạt. Nhà vua thân hành chỉ huy đại đội thủy binh đi đường biển tiến về Đại Việt.
Tháng ba nhuận năm Tân Hợi* quân Chiêm Thành bất thần đánh vào cửa biển Đại An rồi tiến thẳng lên Thăng Long. Quân Đại Việt lâu nay chỉ quen đối phó với những đám giặc nhỏ không đáng kể nên rất chủ quan trong việc phòng bị. Bởi thế, khi quân Chiêm Thành đưa một lực lượng lớn tấn công bất ngờ, các lực lượng trú phòng ở quanh Thăng Long đều bị tan rã nhanh chóng. Vua Nghệ Tôn và toàn bộ hoàng gia phải lên thuyền lánh sang Đông Ngàn. Quân Chiêm Thành tràn vào thành Thăng Long đập phá kho tàng, vơ vét hết mọi thứ tài sản rồi đốt rụi cung điện, nhà cửa. Quân Chiêm cũng lùng sục bắt hết những đàn bà trẻ và con gái chúng gặp. Vua quan Đại Việt bàng hoàng chưa định tĩnh để lập kế hoạch kháng chiến thì quân Chiêm lại đột ngột rút về.
Sau trận thắng oanh liệt ấy, Chế Bồng Nga cho mở tiệc liên hoan tại Đồ Bàn. Trong dịp này, ông cũng cho đem số chiến lợi phẩm đàn bà con gái ban phát cho những chiến sĩ có công làm thê thiếp hoặc nô lệ. Trước hàng trăm quan chức, chiến sĩ và các vị mệnh phụ, phu nhân, vua Chiêm hãnh diện tuyên bố:
-Hôm nay là ngày vui lớn, ngày vinh quang nhất của dân tộc Chiêm Thành! Quân ta đã chiến thắng, đã làm cho người Đại Việt run sợ, không còn dám khinh thường người Chiêm ta nữa! Ta tin chắc từ nay dân tộc Chiêm sẽ thẳng đà tiến lên mãi! Nhân cuộc vui này, ta cũng mong được nghe những ý kiến có tính cách xây dựng trong việc trị nước, trong việc đối phó với các lân bang. Đặc biệt nhất là đối với hai nước Chân Lạp và Đại Việt, ta phải rửa sạch các mối tủi nhục mà tổ tiên ta đã phải gánh chịu với họ! Nào, ta sẵn sàng nghe ý kiến của các khanh đây!
Tể tướng Nhã Đam là người lên tiếng đầu tiên:
-Trước kia vua Trà Hòa Bố Để đã dụng biết bao nhiêu tâm lực để chấn chỉnh quân đội với ước vọng tiêu diệt Đại Việt để giải trừ hậu hoạn cho Chiêm Quốc. Nhưng ước vọng ấy không thành, khiến vua Trà Hòa Bố Để buồn rầu sinh bệnh mà qua đời. Nay bệ hạ đánh một trận đã làm quân Đại Việt tan tác, chiếm được Thăng Long, vua quan Đại Việt đều mất vía kinh hồn, vua Trà Hòa Bố Để ở cõi âm chắc cũng toại nguyện lắm! Tuy nhiên, thần không hiểu tại sao trong khi quân Đại Việt đã thua tan tác, mất hết tinh thần, bệ hạ không thừa cái thế chẻ tre ấy tiến quân tiêu diệt chúng luôn mà lại vội rút về?
Vua Chế Bồng Nga cười ha hả:
-Hốt chiến lợi phẩm nhiều quá, phải đem về cất đã chứ! Nếu không chịu rút sớm, lỡ bị giặc cướp lại có uổng công không?
Tể tướng Nhã Đam vui vẻ cười theo:
-Vậy là bệ hạ đã thực hành chính sách bắt cá bỏ giỏ: Một con trong tay chắc hơn mười con dưới nước!
Vua Chế Bồng Nga cười nói tiếp:
-Thực tế là vậy đó! Hơn nữa, việc chiếm đất, tiêu diệt Đại Việt không phải là nguyện vọng chính yếu của ta! Thật tình ta cũng chỉ muốn lấy lại phần đất họ đã chiếm của ta thôi!
Mọi người đều ngạc nhiên khi nghe vua Chiêm bày tỏ ý kiến ấy. Một vị quan khác nói:
-Trước đây vua Trà Hòa Bố Để nhất quyết tìm mọi cách tiêu diệt Đại Việt để trừ hậu hoạn cho Chiêm Thành, nay bệ hạ lại nói không có nguyện vọng chiếm đất hay tiêu diệt Đại Việt nghĩa là sao? Chúng thần đầu óc u tối chưa thể nào hiểu được thánh ý, xin bệ hạ dạy bảo cho!
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Chư khanh không chịu đọc sử sách làm sao hiểu nổi vấn đề! Trước đây quân Mông Cổ đông gấp bội quân Đại Việt đã chiếm Thăng Long mấy lần mà rốt cuộc đều bị đánh tan tành, mười phần chỉ còn một, chạy trốn như chuột! Quân ta làm sao sánh nổi với quân Mông Cổ hồi ấy? Trong trận chiến vừa qua, ta chiếm được Thăng Long mau chóng không phải hoàn toàn nhờ quân sĩ thiện chiến mà còn nhờ ở yếu tố bất ngờ nữa. Suốt mấy trăm năm nay Chiêm Thành có bao giờ đánh Thăng Long đâu mà ngờ? Thật sự quân ta cũng chỉ phá vỡ được mấy tuyến phòng thủ của giặc ở gần Thăng Long thôi. Sớm muộn gì lực lượng giặc cũng sẽ tập trung lại để phản công! Nếu còn dây dưa ở thêm, không những cái gì ta đã chiếm được có thể vuột mất mà còn mệt sức, hao quân nữa! Ta rút quân sớm cũng nhằm mục đích làm cho giặc không kịp truy cản. Còn vấn đề tiêu diệt Đại Việt, ta được lợi cái gì? Hay chỉ rước lấy tai họa đến gần thêm? Làm khổ cho dân ta thêm? Theo ý ta, nước Đại Việt tồn tại vẫn có lợi cho nước Chiêm ta hơn là nó bị tiêu diệt!
Các quan lại một lần nữa trố mắt nhìn nhau. Tể tướng Nhã Đam lại tâu:
-Chúng thần tin tưởng bệ hạ nhìn xa biết rộng, nhưng những lời bệ hạ nói ra, thú thật chúng thần chưa thấu hiểu. Tại sao Đại Việt tồn tại lại có lợi cho nước Chiêm ta hơn? Xin bệ hạ dạy bảo cho chúng thần được rõ!
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ta đã suy nghĩ nhiều rồi, các khanh đừng bao giờ nuôi mộng sát nhập Đại Việt vào Chiêm Thành! Thứ nhất, dân tộc Đại Việt là một dân tộc quật cường rất khó chinh phục! Nước Trung Hoa lớn mạnh thế kia, họ đã từng chiếm Đại Việt làm quận huyện trải ngót nghìn năm mà chúng còn vùng dậy được, nay nước ta làm sao cai trị chúng nổi? Thứ hai, nếu ta tiêu diệt được Đại Việt tức là ta tự đem cái biên giới nước ta lại gần nước Trung Hoa, như thế có phải là ta tự đem cái khổ, cái lo thường trực đến bên lưng mình không? Những nhà lãnh đạo biết xa thấy rộng đều thấy rõ cái họa đó nên đã cố tránh! Vua Chế Mân trước kia không chịu giúp Mông Cổ đánh bọc hậu Đại Việt cũng chỉ vì ngài thấy rõ chuyện đó! Ta cứ để Đại Việt làm cái hàng rào ngăn cách giữa nước ta và nước Trung Hoa các khanh thấy có phải hay hơn không? Ngoài ra còn khỏi gặp rắc rối với vấn đề tâm linh nữa. Chắc các khanh đều biết đối với dân Chiêm ta, muốn đưa muốn đưa họ đến cư ngụ ở một vùng đất mới rất khó. Hầu hết người Chiêm ta vẫn quan niệm đất đai của tổ tiên là vật thể thiêng liêng không được sang nhượng hay chối bỏ. Người ta tin rằng đất đai ấy đã được thần linh trấn giữ, che chở. Ai tự ý rời bỏ quê cha đất tổ mà đi định cư nơi khác là từ bỏ dòng tộc, từ bỏ thần linh, là kẻ phản bội. Vì thế, dù chiếm được đất giặc ta vẫn khó mà di dân ta đến trám vào những chỗ ấy. Phải có thời gian để cải hóa cái quan niệm cổ hủ đó ta mới tính chuyện mở mang lãnh thổ được!
Nhiều người bấy giờ mới vỡ lẽ, nhưng cũng có một vị hỏi:
-Thần chẳng hiểu tại sao bệ hạ lại kỵ nước Trung Hoa như thế?
Vua Chế Bồng Nga giải thích:
-Người Đại Việt tuy cũng hung tợn nhưng không thâm độc đểu giả bằng người Trung Hoa! Này nhé, Khổng Minh thời Tam Quốc mà nay cả nước Trung Hoa đều ca ngợi là nhà chính trị, quân sự đại tài và có đức lớn, các khanh biết không? Khi chọc giận Chu Du nước Đông Ngô hộc máu mà chết xong, y giả vờ sang Ngô điếu tang khóc lóc thảm thiết đến nỗi nhiều người tưởng y thương tiếc Chu Du thiệt tình. Khi đi đánh phương Nam, Khổng Minh lại tiêu diệt sạch dân tộc Ô Qua, sau đó y giả vờ tổ chức một cuộc lễ tế các vong linh trên sông Lô thủy, đốt trầm hương khóc lóc một hồi là xong nợ! Khi tướng Bạch Khởi nước Tần đánh quân Triệu ở trận Trường Bình, quân Triệu bị vây ngặt phải đầu hàng. Chỉ một đêm Bạch Khởi cho lừa chôn sống hết 30 vạn quân Triệu làm cho nước này suy kiệt hơn mười năm sau chưa phục hồi được! Trong trận đánh tiêu diệt dân tộc Dao ở Vân Nam, người Trung Hoa đã đốt sạch nhà cửa, giết sạch người Dao kể cả trẻ con, bỏ thuốc độc vào tất cả đầu nguồn các dòng suối, báo hại bao nhiêu thú rừng chim chóc phải mang họa lây! Người Trung Hoa đểu giả độc ác như vậy ta làm sao tin họ được?
Vị quan kia lại nói:
-Ấy là họ đối xử với những kẻ thù của họ, còn ta không thù oán gì với họ thì đâu đến nỗi?
Vua Chế Bồng Nga cười mà giải thích:
-Với người Trung Hoa ai là ân ai là thù làm sao phân biệt được? Hôm nay nhân vui miệng, ta kể các khanh nghe vụ này. Vào thời Xuân Thu, Trịnh Vũ Công muốn mở rộng lãnh thổ. Nhìn quanh các nước nhỏ kế cận thấy vua nước Hồ là kẻ ham nữ sắc, ông đem con gái gả cho. Ông còn cho đem nhiều vàng bạc tặng vua Hồ nữa. Vua nước Hồ tin tình cha vợ thương yêu chàng rể nên mất cảnh giác quốc phòng. Một hôm Trịnh Vũ Công lại hỏi quần thần: “Bây giờ ta muốn nới rộng lãnh thổ, nên đánh nước nào?”. Quan Tư Kỳ thành thực tâu: “Nên đánh nước Hồ! Vua nước Hồ bất tài dễ đánh nhất”. Trịnh Vũ Công giận dữ quát: “Ngươi xúi ta làm việc bất nghĩa ư? Vua Hồ là con rể của ta ngươi không biết sao?”. Thế rồi ông sai người đem Quan Tư Kỳ ra chém. Vua nước Hồ nghe được tin này càng ỷ lại vào Trịnh Vũ Công. Thế rồi bất ngờ Trịnh Vũ Công ra tay chiếm nước Hồ không tốn một giọt máu! Đó, nghĩa với tình của người Trung Hoa là thế đấy! Khi ta ở cạnh họ rồi, nay họ yêu sách ta việc này, mai họ yêu sách ta điều khác, nếu ta làm theo ý họ, họ sẽ yêu sách mãi ta làm sao chịu thấu? Còn nếu từ chối yêu sách của họ một hai lần ta sẽ trở thành kẻ thù của họ ngay! Lúc nào họ cũng đề cao lễ giáo nhưng các khanh có biết lúc nào họ cũng sẵn sàng ăn thịt đồng đồng loại không? Như chuyện anh chàng Lưu Bị vua nước Thục, nổi tiếng là một vị vua đạo đức thời Tam Quốc chẳng hạn. Khi chưa thành sự nghiệp, một hôm Lưu Bị bị Lã Bố đánh thua, phải chạy trốn vào nhà một người dân tên Lưu An. Lưu An biết Lưu Bị sẽ làm nên, muốn cầu công, bèn giết người vợ mình để lấy thịt đãi Lưu Bị ăn. Khi Lưu Bị biết được việc đó cứ nức nở khen Lưu An là trung nghĩa. Một chuyện nữa thời Đông Chu, một hôm vua Tề Hoàn Công nói với thuộc hạ: “Trên đời này bất cứ món ngon vật lạ nào ta cũng từng nếm, chỉ có thịt người ta chưa biết mùi vị ra sao?”. Mấy hôm sau có tên Dịch Nha đem dâng Tề Hoàn Công một món thịt hầm rất ngon. Hoàn Công ăn xong khen đáo để, hỏi Dịch Nha “Thịt gì mà ngon thế?”. Dịch Nha thưa: “Nghe chúa công nói trên đời này bất cứ món ngon vật lạ nào chúa công cũng đã từng nếm, chỉ có thịt người là chúa công chưa biết ra sao nên thần mạo muội giết đứa con ba tuổi của thần làm thịt dâng cho chúa công ăn thử!”. Tề Hoàn Công cũng khen nức nở: “Chỉ vì thương vua mà hi sinh cả đứa con nhỏ của mình!”. Với cái giống nham hiểm và dã man khó lường đối với cả người thân họ như vậy, ta xích lại gần họ sớm muộn cũng mang họa thôi!
Các quan đã hoàn toàn vỡ lẽ, họ đồng loạt nói:
-Bệ hạ thông suốt việc cổ kim, cư xử cẩn trọng như vậy thật là phước đức cho dân tộc Chiêm Thành!
Tể tướng Nhã Đam lại nói tiếp:
-Bệ hạ muốn dùng Đại Việt làm cái mộc đỡ đòn cho Chiêm Thành! Thật thánh ý cao vợi khó có người biết được! Nhưng hiện nay ta vẫn chưa thu hồi những phần đất Đại Việt đã cướp, xin bệ hạ sớm tính việc đó cho quân dân thỏa lòng.
Vua Chế Bồng Nga lại cười:
 -Chuyện đó đâu cần phải vội! Với quân đội thiện chiến của ta hiện nay, ta cứ đánh thêm vài trận như trận vừa rồi ắt Đại Việt phải tự động dâng trả những phần đất ấy lại thôi! Ta nghĩ chúng còn phải bỏ ngõ luôn cả đồng bằng sông Hồng nữa chứ đừng nói chỉ những vùng đất ấy!
Tướng La Ngai bưng một chung rượu đến quì dâng lên Chiêm vương:
-Bệ hạ tính liệu như thần không ai lường được! Xin dâng chung rượu này chúc mừng bệ hạ trường thọ để đưa dân tộc Chiêm Thành tiến lên mãi mãi!
Liền đó cả hội trường như muốn bung vỡ bởi tiếng chúc mừng của cử tọa:
-Chiêm vương Chế Bồng Nga vạn tuế!
-Chiêm vương Chế Bồng Nga vạn tuế!
-Chiêm vương Chế Bồng Nga vạn vạn tuế!
Khi quân Chiêm đã rút khỏi Thăng Long, vua Nghệ Tôn mới cùng triều thần hồi kinh. Nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát của kinh thành, nhà vua rơi nước mắt than thở với quần thần:
-Ta làm thiên tử mà để giang sơn bị giặc tàn phá như vậy, không những đắc tội với tiên tổ mà còn có lỗi lớn với muôn dân nữa. Đền miếu bị phá phách, cung thất bị đốt rụi, kho tàng bị hốt sạch, lấy gì để kiến thiết lại? Mấy năm qua sưu cao thuế nặng, giặc giã liên miên, dân chúng cùng khổ lắm rồi! Cung thất giờ đây chỉ nên xây dựng lại đơn sơ mộc mạc ở được thì thôi. Phải lấy các tản quan,* tôn thất phục dịch chứ đừng phiền nhiễu đến dân chúng tội nghiệp!
Các quan nghe vua nói đều ngậm ngùi. Từ đó vua Nghệ Tôn đã tự ép mình vào cuộc sống kiệm ước. Chỗ ở không chưng diện vàng ngọc châu báu, xe cộ không trang trí lộng lẫy, ăn uống không đòi cao lương mỹ vị. Ngài cũng tự giới hạn hết thảy các cuộc vui chơi giải trí như các vị vua khác. Mặc dù già yếu, chỉ trừ khi bệnh nằm liệt giường, ngài không bỏ qua một phiên chầu nào. Ngài luôn nhắc nhở các quan tại triều phải chăm lo công việc, ở nhà phải lo giáo dục con cái hoặc đọc sách để mở rộng kiến thức, để học theo đức độ của thánh hiền.
Thấy các con mình không đủ khả năng trị vì thiên hạ trong hoàn cảnh đất nước nhiễu nhương này, vua Nghệ Tôn phong người em cùng cha khác mẹ là Cung Tuyên vương Trần Kính làm hoàng thái tử. Trần Kính chính là người đã dày công giúp ngài truất phế Dương Nhật Lễ giành lại thiên hạ cho nhà Trần và cũng là người sát cánh bảo vệ vua Nghệ Tôn trong những ngày nguy biến vừa qua.
Sau đó, vua Nghệ Tôn lấy người em cô cậu là Lê Quý Ly làm Khu mật viện đại sứ rồi gả cô em gái mới góa chồng là công chúa Huy Ninh cho. Sang tháng 8 vua sai Quí Ly đi Nghệ An để chiêu tập dân chúng, vỗ yên nơi biên giới.
Tháng 11 năm Nhâm Tý*, vua Nghệ Tôn nhường ngôi cho hoàng thái tử Trần Kính để lên làm Thái thượng hoàng. Hoàng thái tử Trần Kính lên ngôi tự xưng là Khâm hoàng, đổi niên hiệu là Long Khánh. (Khi mất Khâm hoàng được tôn miếu hiệu là Duệ Tôn, vậy từ đây xin gọi là vua Duệ Tôn cho tiện).
Vua Duệ Tôn tánh khí cương quyết, dũng cảm và rất tự tin. Vừa lên cầm quyền, ngài liền cử Hành khiển tham mưu quân sự Đỗ Tử Bình ra trấn giữ Hóa Châu là nơi người Chiêm hay quấy phá. Đỗ Tử Bình cũng được giao thêm nhiệm vụ tổ chức một đội do thám len lỏi vào đất Chiêm để theo dõi tình hình. Khi nước Chiêm xảy ra vấn đề gì quan trọng, Tử Bình phải cấp tốc báo về cho triều đình biết.
Vua Duệ Tôn là một vị vua năng động ít ai sánh kịp. Ngài lo cải cách việc nội trị, chấn chỉnh lại xã hội, mở khoa thi cử để chọn nhân tài ra giúp nước. Việc được ngài quan tâm cải tổ nhiều nhất chính là vấn đề quân sự. Ngài cho tuyển mộ trai tráng để bổ sung vào quân đội, tu sửa và đóng thêm chiến thuyền, hạ chiếu cho dân quyên thóc cho nhà nước để nuôi quân, ban thưởng tước phẩm cho những người đã quyên tặng theo thứ bậc khác nhau tùy theo số lượng thóc quyên tặng. Ngài cũng cho chọn các quan viên có tài năng, biết luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược, bất luận ở giai cấp nào cũng được bổ làm tướng chỉ huy. Nhờ thế, quân đội nhà Trần đã dần phục hồi sức mạnh. Bên ngoài, ngài cho sứ sang thông hiếu với nước Chân Lạp và nước Xiêm để tạo thế liên kết khi cần.
Khi thấy quân đội đã đủ mạnh, vua Duệ Tôn có ý định thân hành đem quân chinh phạt Chiêm Thành để rửa cái hận đốt phá Thăng Long năm Tân Hợi. Thấy vua chuẩn bị đánh Chiêm Thành, Ngự sử đại phu Trương Đỗ dâng sớ can: “Chiêm Thành chống lệnh, tội tuy đáng phải giết, song nó ở tận cõi tây xa xôi, núi sông hiểm trở. Nay bệ hạ vừa mới lên ngôi, đức chính giáo hóa chưa thấm nhuần được tới phương xa, nên sửa sang văn đức khiến nó sẽ tự đến thần phục. Nếu nó không theo, sẽ sai tướng đánh cũng chưa muộn”.
Vua Duệ Tôn bác bỏ không nghe. Trương Đỗ lại dâng sớ can thêm hai lần nữa nhưng vua vẫn tiếp tục bác bỏ. Trương Đỗ bèn treo mũ bỏ quan về ở ẩn.
Tiếp đó Ngự sử trung tán Lê Tích cũng dâng sớ can rằng: “Binh đao là đồ hung khí, không nên tự mình gây ra. Huống chi ngày nay vừa mới dẹp được giặc trong nước, thế như cái nhọt lâu năm chưa khỏi, chúa không nên vì mối tức giận riêng mà dấy quân, tướng không thể cầu công mà đánh liều. Dù Chiêm Thành không có lòng thần phục cũng chỉ nên sai tướng đi đánh để chờ trời diệt chúng. Còn xa giá thân chinh thì thần trộm nghĩ không nên”.
Thế nhưng vua Duệ Tôn vẫn không nghe. Hành khiển Phạm Huyền Linh tâu:
-Từ thời Đại Trị (Dụ Tôn) qua thời Đại Định (Nhật Lễ), dân ta đã phải gánh chịu bao nhiêu thứ thuế không chính thức, đói rách tả tơi. Vừa qua lại bị giặc Chiêm cướp phá điêu tàn, kho tàng quốc gia trống rỗng. Nay đất nước mới bắt đầu hồi sinh, quân đội tuy đã được chỉnh đốn vững mạnh, thiết tưởng chưa nên đi đánh phương xa, lấy gì để đắp vào chỗ tiêu phí nếu không trông cậy vào sức dân? Việc này sợ không hợp với ý muốn của Thượng hoàng! Thần xin thảo một tờ chiếu gởi cho Chiêm vương, phân tích lẽ lợi hại và kêu gọi Chiêm vương thần phục trở lại. Nếu Chiêm vương không chịu nghe, bấy giờ ta hãy ra quân!
Vua Duệ Tôn nghe lời, sai Phạm Huyền Linh thảo một chiếu thư gởi Chiêm vương Chế Bồng Nga như sau:
“Vâng mệnh trời hoàng đế chiếu rằng: Từ các năm Đại Trị, việc chính trị suy đồi. Tiếp đến ngụy Nhật Lễ lại tiếm vị, càng làm thiên hạ đổ nát. Tới khi Thượng hoàng chấp chính, ngươi chỉ là một phiên vương đã thừa lúc quốc gia thiếu ổn định, dám đem quân xâm phạm kinh đô. Đó là một tội lớn đáng chết! Nay trẫm đã nối đại thống, đang chỉnh đốn lại trật tự quốc gia. Trẫm hiện có hàng vạn binh hùng tướng mạnh trong tay, nhưng trẫm nghĩ việc trị dân phải lấy đức làm căn bản. Trẫm không muốn thấy người dân vô tội phải đổ máu. Vì thế, trẫm sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm cũ của các phiên thần khi họ biết hối cải. Trường hợp ngươi cũng vậy! Nếu biết tội mình đã gây ra mà hối cải hãy cho sứ giả sang cống thiên triều như lệ cũ, mọi việc sẽ êm thấm. Đó là phước lớn cho binh dân cả hai nước. Nếu ngươi cứ chấp nê, tiếp tục giữ thói ngông cuồng không chịu khuất phục, trẫm buộc lòng phải cử binh chinh phạt! Trẫm đã liên kết với nước Chân Lạp và nước Xiêm, họ cũng sẵn sàng hội binh với thiên triều để diệt lũ nghịch tặc! Ngươi liệu sức mình có chống lại nổi thiên triều hay không? Ngươi đang cầm vận mạng toàn dân nước Chiêm, cứ tùy ý tính toán hơn thiệt mà hành động!”.
Chiếu thư thảo xong, vua Duệ Tôn chưa tìm ra người đi sứ thì có người của Hành khiển tham mưu quân sự Đỗ Tử Bình từ Hóa Châu về báo tin biên giới! Vua Duệ Tôn liền đòi người đưa tin vào để hỏi tình hình. Khi biết được tướng Chiêm là Bố Đông đang tập trung quân cách biên giới Đại Việt chừng một trăm dặm vua Duệ Tôn nói với các quan:
-Đấy, quân Chiêm lại có ý đồ sang cướp nữa không sai! Thế mà chư khanh cứ khuyên ta đừng đi đánh là sao? Giờ ta đã nhất định đánh Chiêm, chẳng cần mang chiếu thư đi nữa!
Hành khiển Phạm Huyền Linh nghe vua nói thế mới thưa:
-Người có tài ăn nói và biết rõ tình hình Chiêm Thành hơn ai hết chính là quan Hành khiển tham mưu quân sự Đỗ Tử Bình, nay nhân có người của ông ấy về báo việc biên giới, bệ hạ thử giao việc này cho ông Đỗ tính liệu xem sao! Nếu ông Đỗ có cách thuyết phục được Chế Bồng Nga chịu qui phục thì cũng tốt! Nếu ông Đỗ không làm được ta sẽ ra quân cũng không muộn!
Vua Duệ Tôn nghe lời, giao chiếu thư cho người báo việc biên giới mang về cho Đỗ Tử Bình thi hành.
Đỗ Tử Bình từ ngày được vua Duệ Tôn cử đem binh trấn giữ thành Hóa Châu, ông lo lắng lắm. Ngoài việc giữ gìn an ninh cho vùng đất này, ông còn có nhiệm vụ theo dõi tình hình hoạt động của người Chiêm bên kia biên giới. Trên thực tế, biết được quân Chiêm quá thiện chiến, ông chỉ tập trung mọi nỗ lực vào việc phòng thủ. Số người ông bung ra hoạt động do thám bên kia biên giới chẳng bao lăm làm sao nắm vững được tình hình địch? Lâu nay không có gì để báo về triều, Tử Bình rất sợ bị vua khiển trách. Nay thấy quân của tướng Bố Đông tuần tiễu biên giới chăm hơn, ông liền cho người báo ngay về triều. Vua Duệ Tôn mới nhân dịp ấy trao chiếu thư để ông đưa sang Chiêm.
Thấy nội dung tờ chiếu thư lời lẽ cứng rắn quá, Tử Bình đâm ra sợ hãi. Chế Bồng Nga có thể nổi giận giết sứ giả lắm chứ! Nghĩ thế nên ông phải vất vả liên lạc với tướng Bố Đông để trao chiếu thư qua tay ông này dâng lại vua Chiêm.
Nói về vua Chiêm Chế Bồng Nga sau khi ăn mừng thắng trận, ban thưởng cho ba quân xong, ông cho chia số quân chủ lực làm hai đạo. Một đạo ứng trực phục vụ việc công đồng thời tập dượt ôn luyện hằng ngày, một đạo cho về nhà lo công việc riêng. Hai đạo tuần tự thay nhau như thế, đợi gặp lúc thuận lợi lại tập trung đi đánh Đại Việt.
Để đề phòng phía Đại Việt tố cáo vụ quân Chiêm đánh phá Thăng Long có thể gây ra phiền phức, Chế Bồng Nga sai Qua Bốc Nông sang Kim Lăng – kinh đô Trung Hoa – dâng biểu tố cáo Đại Việt xâm lấn đất Chiêm trước. Biểu viết trên tấm vàng lá dài hơn một thước* 5 tấc, nội dung như sau: “Hoàng đế Đại Minh lên ngôi cao quí, chức vị coi sóc bốn biển như trời đất che chở, mặt trời mặt trăng soi sáng. Chế Bồng Nga chỉ đáng là một cây cỏ thôi, được ơn Hoàng đế ban cho ấn vàng, phong làm Quốc vương, lòng trung thành hân hoan đội ơn vạn bội. Duy việc An Nam dùng binh xâm nhiễu bờ cõi, giết bắt quan lại, nhân dân, nguyện được bệ hạ nghĩ đến ban cho binh khí, nhạc khí, chuyên viên về âm nhạc, khiến An Nam biết Chiêm Thành được trang bị thanh giáo, là nước triều cống Trung Hoa thì An Nam không dám khinh thường”.
Nhưng vua Minh không chịu đáp ứng những yêu cầu ấy mà sai Trung thư tỉnh chuyển cho Qua Bốc Nông một văn thư như sau:
“Lân quốc giao thiệp, đạo lý là phương sách hay để giữ đức, thờ nước lớn tận lòng thành để làm trọn lễ của bề tôi. Vả lại Chiêm Thành và An Nam đã là bề tôi của triều đình, cùng phụng thừa lịch Chính Sóc, lại gây việc binh khiến độc hại sinh linh, đã trái lẽ phụng sự bề trên, lại sai đường giao hảo giữa lân bang. Đã báo cho Quốc vương An Nam bãi binh ngay, bản quốc cũng nên để hai bên tôn trọng giữ gìn cương thổ. Việc xin thiên tử binh khí thì nào có tiếc gì, nhưng Chiêm Thành và An Nam đang tranh chấp mà triều đình lại cho riêng Chiêm Thành, là giúp ngươi đánh nhau, rất trái với đạo chiêu an. Việc xin nhạc khí và chuyên viên âm nhạc, thì về thanh luật, Trung Hoa và nước ngoài không khác, nhưng về ngữ âm thì có sự sai biệt giữa Hoa và Di, như vậy khó có thể điều khiển. Nếu ngươi có kẻ tập nói được tiếng Hoa, có thể dạy cho âm luật, hãy tuyển chọn một số người đến kinh đô học tập”.
Lần này vua Minh chỉ ban cho Chiêm Thành một đặc ân là thuyền bè của nước này ghé tỉnh Phúc Kiến đều được miễn thuế.
Cách xử sự dè dặt của vua Minh đã làm Chế Bồng Nga không yên lòng. Ông muốn được vua Minh tin tưởng để dễ bề đối phó với Đại Việt. Sau nhiều lần suy nghĩ, ông đã nghĩ đến một việc làm táo bạo để vừa đem lại lợi ích cho nước Chiêm vừa làm hài lòng vua Minh.
Số là người Chiêm rất giỏi về các nghề trên biển: đánh cá, buôn bán, chuyên chở hàng mướn, ngoài ra còn có một số sống bằng nghề cướp biển nữa! Dân Chiêm quen với nghề biển như thế nên nước Chiêm luôn có những đội quân thủy rất hùng mạnh.
Lúc bấy giờ Minh triều đang bối rối vì cái nạn cướp biển. Chúng cứ đột hiện đột biến bất ngờ cướp bóc dân chúng sống dọc theo duyên hải Trung Hoa. Những thuyền hàng hải của nhiều nước khác đi lại trên biển cũng bị chúng cướp. Quân Minh không thể nào theo dõi để diệt trừ tận gốc được. Hầu hết những tên giặc này là người Nhật. Dân Trung Hoa vẫn quen gọi chúng là giặc Nụy (giặc lùn). Sau khi thực hiện những vụ cướp, bọn giặc thường trở về các sào huyệt kín đáo, hiểm nghèo trên vùng duyên hải, hải đảo nhiều nước. Nhờ những thần dân của mình rành rõi nghề biển, Chế Bồng Nga cũng dần biết được một số sào huyệt của của bọn cướp này. Thế rồi ông mở những cuộc tập kích vào bọn chúng. Kết quả ông đã giết được hai tên tướng cướp đầu sỏ là Trương Nhữ Hậu và Lâm Phúc. Bắt được 20 chiếc thuyền biển, 7 vạn cân tô mộc* cùng tên giặc Ngô Đệ Tứ. Chế Bồng Nga sai Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán đem những chiến lợi phẩm này dâng vua Minh. Vua Minh mừng lắm, hai lần ban thưởng cho vua Chiêm. Từ đó vua Minh đặc biệt o bế Chiêm Thành. Hai nước Trung Hoa – Chiêm Thành đã hợp tác chặt chẽ với nhau trong việc tiểu trừ bọn cướp biển…
Thấy đã đến lúc thuận lợi, tướng La Ngai nói với vua Chiêm:
-Lúc này ta không còn lo ngại về nhà Minh, binh lính nghỉ dưỡng sức như vậy cũng đã đủ. Hiện tại tinh thần quân dân đang lên, ai cũng mong bệ hạ tái chiếm những vùng đất vua Chế Củ và vua Chế Mân đã nhường cho Đại Việt! Bệ hạ định khi nào xuất quân?
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ta cũng đang tính tới việc đó. Binh lương coi như đã sẵn sàng. Ta cũng đã cho người đi thám thính xem Đại Việt động tĩnh thế nào rồi. Đợi có tin tức đích xác sẽ liệu cách để hành động.
Khi triều đình Chiêm Thành biết được tin ở Đại Việt Cung Tuyên vương Trần Kính đã lên ngôi thay vua Nghệ Tôn, Tể tướng Nhã Đam lo ngại nói:
-Bây giờ Đại Việt đã có vua mới, bệ hạ có ý định thay đổi kế hoạch hành động không?
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Tùy cơ ứng biến! Nhưng đằng nào cũng phải đánh Đại Việt! Ông cứ việc chuẩn bị sẵn mọi thứ giúp ta!
Truyền lệnh cho Tể tướng Nhã Đam xong, vua Chiêm liền cho triệu cựu hoàng thái phi Đại Việt là Đào thị vào hầu. Khi Đào thị đến, vua Chiêm hỏi:
-Mụ có biết Cung Tuyên vương Trần Kính là người thế nào không?
Như vớ được của báu, Đào thị trả lời không ngập ngừng:
-Tâu bệ hạ, nó chính là tên đại gian đại ác đã chủ động trong việc giúp Trần Phủ cướp ngôi của con trai thiếp! Muốn đánh Đại Việt chóng thắng, bệ hạ phải diệt trừ tên đó trước!
-Như vậy tên Trần Kính này nguy hiểm lắm sao?
-Tâu bệ hạ, chính vậy! Nếu không có nó Trần Phủ đâu làm nên trò trống gì?
Vua Chế Bồng Nga nghe Đào thị nói chưa hẳn tin. Tới khi cho phối kiểm các nguồn tin từ những người lính do thám, biết được vua Duệ Tôn đang chăm lo sửa sang việc nội trị và ráo riết luyện tập quân đội, ông mới cảm thấy lo ngại.
Lúc bấy giờ trên đất Chân Lạp gần biên giới phía tây Chiêm Thành không hiểu đã xảy ra việc gì, cũng có dấu hiệu động binh. Các quan thấy thế khuyên vua Chiêm phải đề phòng. Vua Chiêm nghe lời, bèn tạm ngưng kế hoạch đánh Đại Việt để lo việc phòng thủ. Tướng La Ngai được giao nhiệm vụ chuyên lo tuần thám, kiểm soát việc phòng thủ biên giới phía tây và phía nam. Tướng Bố Đông chuyên lo tuần thám, kiểm soát việc phòng thủ biên giới phía bắc.
Khi nhận được chiếu thư của vua Duệ Tôn, Chế Bồng Nga không hề nổi giận như nhiều người vẫn nghĩ. Ông cho người đọc lại để các quan cùng nghe rồi nói:
-Thật đáng tiếc, chỉ vì ta cẩn thận quá nên đã bỏ lỡ dịp may. Thời Trần Hạo, Nhật Lễ rồi Trần Phủ cầm quyền, Đại Việt đang suy yếu hỗn loạn, ta lại dè dặt không ra quân sớm để diệt trừ chúng. Nay Đại Việt đã có vua mới là Trần Kính, nghe đâu y cũng là tay anh kiệt, hơi khó đấy. Lão ta gởi chiếu thư này đòi nước Chiêm ta phải triều cống trở lại. Chư khanh nghĩ sao về việc này nói thử xem?
Tướng La Ngai tâu:
-Hiện nay quân Chiêm ta rất hùng mạnh, ta lại chuẩn bị đánh Đại Việt sẵn. Cho dù Đại Việt đã có vua mới, Trần Kính có giỏi mấy đi nữa cũng chưa thể nào kiện toàn kịp một quân đội suy yếu hỗn tạp vừa mới bại trận. Thần tin chắc đạo quân thiện chiến của ta với tinh thần đang hăng, sẽ đánh gục bất cứ đối thủ nào! Xin bệ hạ cứ xuất quân đập tan ý đồ của Trần Kính!
Tể tướng Nhã Đam nói:
- Tôi nghe Trần Kính trí dũng kiêm toàn, ngày đêm chỉnh đốn triều đình, luyện tập quân sĩ, dồn lương chứa cỏ, tình thế Đại Việt nay đã khác trước nhiều lắm, ta không nên khinh địch.
Tướng La Ngai cãi lại:
-Tể tướng nói sai rồi! Quân ta đã được huấn luyện thuần thục từ lâu, trận đánh vào Thăng Long năm kia đã làm tinh thần quân sĩ lên rất cao. Đại Việt mới bại trận, tinh thần quan quân chúng tới nay chưa hết kinh hoàng. Trong nước lại xảy ra giặc giã liên miên, quân sĩ phải luôn mệt mỏi vì những cuộc đánh dẹp. Tôi nghĩ đạo quân của Trần Kính hiện tại bất quá là một đạo quân ô hợp thôi! Nếu không đánh ngay lúc này để mai đây nó lớn mạnh thật sự ta làm sao chế ngự được?
Quan Bình chương Hùng Vân nói:
-Trong chiếu thư, Trần Kính nói Đại Việt đã liên minh với Chân Lạp và Xiêm, tuy hư thực chưa rõ nhưng ta không thể không đề phòng! Ngày xưa vua nước Ngô là Phù Sai có một quân đội hùng mạnh vô địch đương thời, khi các nước chư hầu của nhà Chu hội nhau ở Hoàng Trì để bầu ngôi bá chủ, nước Ngô cũng kéo quân đi dự tranh. Nước Tấn là đương kim bá chủ sợ sức mạnh của nước Ngô phải chịu nhượng bộ. Nước Ngô đã được bầu làm bá chủ mới. Nhưng oái oăm thay, trong lúc quân Ngô đi quá xa, vua Câu Tiễn nước Việt là một nước nhỏ ở cạnh nước Ngô đã bất ngờ kéo quân tập kích vào nước Ngô. Thế tử Hữu, người lo việc phòng thủ nước Ngô bị tử trận. Đạo quân hùng mạnh vô địch của Phù Sai trên đường về nước đang mệt mỏi, nghe tin chính quốc bị tấn công, mất hết tinh thần nên tan rã dần. Kết cục nước Ngô đã bị nước Việt đánh bại toàn bộ, Ngô Phù Sai phải tự tử. Trong tình thế hiện nay, tôi nghĩ chưa nên đem quân vào sâu trong đất giặc. Tôi nghe Chân Lạp cũng đang động binh ở biên giới, biết đâu Chân Lạp cũng đang rình nước ta như nước Việt rình nước Ngô? Ta phải đề phòng cái họa của Ngô Phù Sai mới được!
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Các khanh ai nói cũng có lý cả. Ta cũng có cái suy nghĩ riêng của ta. Thôi thì ta dung hòa các ý kiến để đi đến một quyết định chung vậy. Đối với Chiêm quốc thì Chân Lạp hay Đại Việt cũng đều là kẻ thù và đều nguy hiểm cả. Họ có thể hại ta bất cứ lúc nào. Nhưng về thế lực thì Đại Việt mạnh hơn Chân Lạp, khó đánh hơn. Vả lại, nếu ta diệt được Đại Việt để sát nhập vào Chiêm quốc, nước ta thành giáp giới với nước Trung Hoa là một nước quá mạnh, lại tham lam vô độ, cực kỳ gian hiểm, ta thật lòng chẳng ham! Trường hợp với Chân Lạp thì có phần dễ đánh hơn Đại Việt. Đánh chiếm Chân Lạp tốt hơn vì ít gặp trở ngại từ bên ngoài. Ý ta muốn tạm thời hòa hoãn với Đại Việt để rảnh tay chinh phạt Chân Lạp trước. Thắng được Chân Lạp rồi sức mạnh của ta sẽ gia tăng gấp bội. Bấy giờ ta sẽ tính chuyện khác. Ý chư khanh thế nào?
Quan Bình chương Hùng Vân nói:
-Bệ hạ tính như vậy thật hợp lý. Thần chỉ ngại ta vẫn chưa thu hồi được những vùng đất mà Đại Việt đã chiếm của ta làm quân dân ta chưa thỏa mãn thôi!
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Muốn mưu việc lớn phải coi nhẹ việc nhỏ mới được! Đánh được Chân Lạp ta muốn thêm bao nhiêu đất cát mà chẳng được? Đáng gì mấy miếng đất khô cằn sỏi đá ấy? Cứ gởi cho chúng tạm giữ, khi ta mạnh hẳn lên sẽ lấy lui mấy hồi!
Tể tướng Nhã Đam nói:
-Như vậy là bệ hạ chấp thuận triều cống Đại Việt trở lại như yêu sách của Trần Kính?
Vua Chế Bồng Nga cười nói:
-Đúng vậy! Khi đột kích vào Thăng Long ta đã lấy được của họ quá nhiều vàng ngọc lụa là, bây giờ trả lại cho họ một ít cũng không sao! Ông hãy sửa soạn sẵn cho ta 10 mâm vàng để dùng vào việc đó.
Thế rồi vua Chế Bồng Nga cho thảo tờ thư tạ tội với vua Duệ Tôn, chịu tiếp tục triều cống hàng năm như trước. Ông cho triệu tướng Bố Đông làm sứ giả mang quốc thư và 10 mâm vàng sang cống Đại Việt.

Khi tướng Bố Đông được cử sang Đại Việt triều cống lại nhằm mùa gió chướng nên sứ đoàn phải đi bằng đường bộ qua ngả Hóa Châu. Quan Hành khiển Đỗ Tử Bình đang trấn thủ Hoá Châu nhận được thư báo trước ông vui mừng hết sức. Từ nay ông có thể ăn ngon ngủ yên rồi!
Tới đây thiết tưởng cũng nên lược sơ về nhân vật Đỗ Tử Bình này một chút: xuất thân với chức ngự tiền học sinh. Ông là người có học nhưng không có thực tài. Được trời ban cho cái khiếu ăn nói hay, biện bác giỏi, ông chuyên dùng sở trường này để tiến thân. Tuy ít thành công trong việc làm nhưng đường danh lợi cứ lên như diều gặp gió. Năm Mậu Tý* ông được thăng làm Thị giảng. Tháng 7 năm Kỷ Hợi* ông được thăng Tri Khu mật viện sự. Năm Nhâm Dần*, biên giới phía nam bắt đầu căng thẳng, ông được lệnh của vua Dụ Tôn đi bổ duyệt quân ở Lâm Bình, Thuận Hóa và đắp thành Hóa Châu. Năm Đinh Mùi, ông được cử làm phó Thống quân cho Minh tự Trần Thế Hưng đem quân đi đánh Chiêm Thành. Tháng 4 năm Mậu Thân* quân Việt tiến vào tới Chiêm Động thì bị quân Chiêm phục kích đánh một trận tan tác. Trần Thế Hưng bị bắt, Đỗ Tử Bình chạy thoát được. Từ khi ra làm quan, Đỗ Tử Bình không bỏ lỡ một cơ hội nào có thể vơ vét để làm giàu. Chẳng bao lâu ông đã thu gom được một số vốn liếng đáng kể. Mới ngoài bốn mươi ông đã xây dựng được cơ sở ăn ở vững vàng. Không ngờ trong trận đánh Thăng Long năm Tân Hợi, số của cải ông gom nhặt được lại bị quân Chiêm vét sạch. Mấy nàng hầu trẻ của ông cũng bị chúng bắt mất. Cái dinh thự ông tạo lập ở chưa được bao lâu cũng biến thành đống tro. Những việc đó đã khiến ông đau khổ vô cùng…
Khi sứ đoàn Chiêm Thành tới Hóa Châu, Hành khiển Đỗ Tử Bình đã thân ra đón tiếp, mời vào trú ngụ trong thành. Ông đã cùng tướng Bố Đông gặp nhau đàm đạo rất thân mật. Sau đó, ông lại ân cần mời tướng Bố Đông sáng mai đến tư dinh ông uống trà trước khi lên đường. Tướng Bố Đông nhận lời, Đỗ Tử Bình lại hỏi:
-Sứ đoàn có cần bản chức giúp đỡ gì không?
Tướng Bố Đông nói:
-Cám ơn quan Hành khiển đã có nhã ý giúp đỡ chúng tôi. Thú thật đường sá ở thượng quốc chúng tôi không được rành mấy. Chúng tôi lại còn mang theo một số cống phẩm để dâng triều đình. Nếu quan Hành khiển giúp cho một đội lính vừa làm hướng dẫn viên vừa tăng cường bảo vệ thì tiện cho sứ đoàn chúng tôi lắm!
-Cống phẩm kỳ này có gì đặc biệt không?
-Thưa, cũng khá quan trọng! Ngoài những cống phẩm thông thường còn có 10 mâm vàng!
-Mười mâm vàng? Nhiều đấy! Phải bảo vệ cẩn thận mới được! Để tôi tính giúp ông!
Thế rồi Đỗ Tử Bình trở về công đường cho đòi viên thuộc tướng Nguyễn Long đến dặn:
-Ngươi hãy chọn chừng năm mươi tên lính khỏe mạnh chuẩn bị sẵn để sáng mai theo hộ tống sứ đoàn Chiêm Thành về kinh.
Nguyễn Long vâng dạ. Tử Bình dặn thêm:
-Dẫn đường và bảo vệ sứ đoàn Chiêm Thành, là việc rất quan trọng. Mười mâm vàng cống phẩm mà thất thoát là ngươi hết đường về đấy! Phải cẩn thận lắm mới được!
-Dạ, thuộc hạ biết. Xin thượng quan yên tâm.
Viên thuộc tướng đi rồi, Tử Bình ngồi một mình suy nghĩ mung lung. Mười mâm vàng? Một tài sản mà ông hằng mơ ước! Bao năm làm quan ông đã vất vả thực hiện được một phần mơ ước đó nhưng bây giờ đã tan thành mây khói hết! Ông chợt nhớ lại nỗi đau khổ của mình khi quân Chiêm đánh phá Thăng Long năm xưa. Nào những người ngọc, nào châu báu, nào dinh cơ, tất cả vì một tay Chế Bồng Nga mà ông mất sạch. Nghĩ tới mười mâm vàng mà sứ đoàn mang sang cống Đại Việt ông càng đau lòng. Có thể trong đó có một số vàng do chính ông gom nhặt chắt chiu trước đây…
Tối hôm đó Tử Bình có vẻ trầm ngâm, nghĩ ngợi, chốc chốc lại thở dài. Đỗ phu nhân thấy thái độ lạ lùng của chồng bèn hỏi:
-Hôm nay sứ Chiêm đã chịu sang cống triều đình là một việc hết sức tốt lành cho quốc gia và cho cả gia đình ta nữa, thế mà tướng công chẳng có vẻ phấn chấn gì cả nghĩa là sao?
Đỗ Tử Bình cười nửa miệng đáp:
-Ta làm quan gần hai chục năm, gắng lắm mới gom nhặt được một số vàng bạc trù để lại cho con cháu đỡ vất vả. Không ngờ chỉ một ngày quân Chiêm vào cướp sạch! Lại đốt phá hết nhà cửa của ta nữa! Lúc này khó khăn, biết bao giờ ta kiếm lại được số của cải như trước? Nghĩ đến điều đó nên ta không được vui thôi!
Đỗ phu nhân hơi tức cười:
-Tướng công là kẻ ra trấn cõi ngoài, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ giặc tới bất ngờ, nay giặc đã chịu khuất phục, tướng công đã trút bớt được gánh lo, phải vui mừng mới được chứ! Còn chuyện tạo lại của cải, tướng công còn làm quan, còn chán gì cơ hội?
Đỗ Tử Bình cau mặt nói:
-Phu nhân tưởng cứ làm quan là lúc nào cũng có thể kiếm ra tiền của sao? Chán chi kẻ làm quan mà suốt đời vẫn thiếu thốn, khi chết vẫn không có chút của để lo lễ tang cho chính mình? Từ vua Dụ Tôn đến ngụy Nhật Lễ chẳng ai quan tâm đến chính sự nên các quan cứ mạnh ai nấy thao túng, kiếm tiền không khó. Đến thời vua Nghệ Tôn tuy ngài có chăm lo việc nước, nhưng tánh ngài nhân hậu, dễ thông cảm, ta vẫn có thể xoay xở được. Nay đức Duệ Tôn đã chấp chánh, ngài quá nghiêm minh, cương trực, lại siêng lo công việc, ta còn đâu cơ hội để khá lên như xưa?
Đỗ phu nhân càng tức cười hơn:
-Nhưng đó là chuyện riêng của nhà mình, mà chuyện của cải mất cũng đã mất rồi! Bộ hết lúc lo rồi sao mà tướng công lại nhằm lúc sứ giả Chiêm Thành ghé qua nhà mình mà lo? Thấy gương mặt đăm chiêu nghĩ ngợi của tướng công người ta sẽ e dè mất vui, điều đó đâu hợp với phép giao tế!
Bị vợ chỉ trích, Đỗ Tử Bình tâm sự:
-Lần này cống phẩm sứ Chiêm mang theo có đến 10 mâm vàng. Ta nghĩ lại số tài sản của ta bị giặc Chiêm cướp mà đau lòng. Nếu không, ít nhất ta cũng có gần một nửa số vàng như thế. Bây giờ thì không còn hi vọng gì nữa! Càng nghĩ càng thấy hận bọn giặc Chiêm!
Đỗ phu nhân nghe chồng nói lên sự việc như vậy cũng thấy động lòng, bà thở dài:
-À, hóa ra là vậy! Nếu nhà mình có được một số vàng như thế cũng đỡ lo cho đám con cháu! Nhưng đây là vàng của vua, tướng công suy nghĩ làm gì cho mệt? Trời khuya rồi, mời tướng công đi nghỉ!
Đỗ Tử Bình lặng thinh. Sáng hôm sau, khi phu nhân thức dậy, bà thấy đám gia nhân đang lăng xăng lo công việc bếp núc. Quá ngạc nhiên, phu nhân hỏi:
-Ai bảo các ngươi làm gì sớm thế?
Bà quản gia thưa:
-Thưa phu nhân, tướng công sai chuẩn bị tiệc để thết đãi sứ giả Chiêm Thành!
“Hôm nay tướng công ta định mời sứ giả uống trà rồi tiễn đưa lên đường, sao lại còn bày tiệc tùng gì khác nữa?” – Đỗ phu nhân ngạc nhiên đi vào phòng của chồng định hỏi lý do thì thấy ông đang ngồi viết thư từ gì đó. Nghe tiếng động, ông ngước mặt lên nhìn vợ tươi cười nói:
-Ta đã nghĩ ra một mưu kế thần diệu! Hôm nay ta tạm giữ sứ giả ở lại. Phen này ta sẽ làm cho Chế Bồng Nga dở sống dở chết! Phu nhân cứ yên chí đợi xem!
Đỗ phu nhân ái ngại nhìn chồng nói:
-Tướng công muốn làm gì xin phải suy tính cẩn thận! Để phạm vào phép vua luật nước là khổ đó!
Đỗ Tử Bình cười có vẻ đắc chí:
-Phu nhân chớ lo! Chỉ cần bà im lặng giùm ta!
Đỗ phu nhân nghe chồng nói thế bèn im lặng đi ra. Một lát sau gia nhân dọn trà ra. Đỗ Tử Bình cho người mời tướng Bố Đông vào cùng uống. Trong cuộc trà này, Đỗ Tử Bình đã sử dụng rặt tiếng Chiêm khiến tướng Bố Đông vô cùng ngạc nhiên. Ông lại ăn nói khéo léo nên tướng Bố Đông thích lắm. Uống trà nửa chừng Đỗ Tử Bình nói với Bố Đông:
-Tuyệt diệu thật, ai ngờ chúng ta mới đối đầu nhau đó mà bây giờ lại được ngồi uống trà với nhau trong tình thân ái! Từ nay chúng ta là bạn của nhau. Thỉnh thoảng tướng quân sang đây hoặc bản chức sang dinh tướng quân đối ẩm thế này thì vui biết mấy!
Bố Đông cũng vui vẻ nói:
-Cám ơn quan Hành khiển, được như thế này mãi thì còn gì hơn?
Đỗ Tử Bình lại nói:
-Hôm nay coi như ngày hòa bình, ngày hội ngộ của chúng ta, bản chức đã cho làm tiệc rượu, chúng ta sẽ có một ngày rất vui vẻ mừng hai dân tộc Việt Chiêm từ nay hết nạn binh đao!
Bố Đông ngạc nhiên:
-Ngài nói làm tiệc rượu đãi chúng tôi ư? Xin ngài miễn cho, tôi còn có sứ mạng đi Thăng Long dâng cống phẩm, không thể trễ nãi được. Hẹn ngày trở về sẽ xin uống rượu với ngài vậy!
Đỗ Tử Bình nói:
-Lo gì việc đó! Bản chức là người đại diện cho thiên tử ở đây, vì vấn đề an ninh, bản chức có thể nhận quốc thư và cống phẩm rồi chuyển về triều cũng xong! Tướng quân cứ giao hết cho bản chức, bản chức sẽ viết biên lai đàng hoàng để tướng quân mang về dâng Chiêm vương.
Ngưng giây lát, Đỗ Tử Bình lại giở giọng đùa:
-Tướng quân không tin bản chức ư? Nếu bản chức ăn bớt cống phẩm ắt hẳn sẽ bị thiên tử trừng phạt! Khi đó bản chức chỉ còn nước chạy sang nhờ tướng quân che chở thôi!
Lúc ấy gia nhân bắt đầu bày tiệc rượu ra. Bố Đông lúng túng chốc lát rồi đành nhập cuộc. Đỗ Tử Bình và Bố Đông như hai người bạn tri kỷ lâu ngày xa cách nhau nay được tái hợp, cùng nhau uống đến say mèm. Sứ đoàn Chiêm ở lại Hóa Châu thêm một đêm nữa!
Hôm sau Đỗ Tử Bình lấy tư cách đại diện cho hoàng đế Đại Việt, nhận quốc thư cùng 10 mâm vàng và các cống phẩm khác của sứ đoàn Chiêm Thành. Ông tự tay viết tờ phúc đáp rõ ràng trao cho tướng Bố Đông về trình với Chiêm vương. Xong việc Đỗ Tử Bình lại đãi Bố Đông thêm một tiệc nữa rồi tiễn đưa ông ta trở về Chiêm Thành.
Khi tướng Chiêm Bố Đông về nước xong, việc đầu tiên của Đỗ Tử Bình là cho người thân tín đem cất giấu hết 10 mâm vàng nước Chiêm dâng. Tiếp đó, ông cho đòi viên thuộc tướng Nguyễn Long đến sai chạy thư khẩn cấp về Thăng Long. Nguyễn Long ngạc nhiên hỏi:
-Bẩm, thượng quan có dặn thuộc hạ chọn năm mươi tên lính để hộ tống sứ đoàn Chiêm Thành về kinh. Chúng đợi mấy hôm nay rồi, bây giờ tính sao?
Lúc đó Tử Bình mới sực nhớ mình đã truyền cái lệnh đó, liền bảo:
-Bây giờ sứ đoàn Chiêm Thành không chịu đi nữa, hãy cho chúng trở về với công việc cũ. Ngươi đi một mình đủ rồi! Nhớ phải cẩn thận cái miệng đấy. Việc của ngươi bây giờ chỉ là mang thư khẩn của ta về triều. Những việc khác ngươi không biết rõ ai hỏi chớ có nói ẩu có khi mang họa đó!
Nguyễn Long vâng dạ. Sau khi truyền lệnh cho đám lính của mình trở về công việc cũ, Nguyễn Long vội vã lên đường ngay.
Bức thư khẩn của Tử Bình viết đại lược như sau: “Thần đã trao quốc thư cho viên tướng Chiêm trấn giữ biên giới là Bố Đông nhờ y chuyển cho Chiêm vương Chế Bồng Nga. Chế Bồng Nga xem quốc thư của ta xong đùng đùng nổi giận. Y đã dùng những lời lẽ rất xấc xược để thóa mạ vua quan Đại Việt. Hiện giờ y đã cho động binh khắp nơi, quân Chiêm có thể vượt biên giới Đại Việt bất cứ lúc nào. Vậy, thần kính khẩn báo để bệ hạ đề phòng”.
Vua Duệ Tôn đọc thư xong ngài nổi giận nói lớn:
-Tên Man vương ngang ngược này coi trời đất không ra gì nữa! Ta phải cho nó biết tay!
Ngài lại nói với các quan:
-Thế mà lâu nay các khanh cứ khuyên trẫm dùng văn đức để cải hóa Chiêm Thành! Các khanh đã thấy nó vẫn giữ thái độ ngang ngược, hỗn láo như cũ chưa? Phen này trẫm nhất quyết phải cầm quân đi đánh nó.
Thế rồi ngài ra lệnh cho Lê Quí Ly đốc sức dân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Châu và Hóa Châu vận tải lương thực để cung cấp cho quân sĩ. Ra lệnh cho các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa phải điều động quân các nơi tập trung theo những địa điểm ấn định để sẵn sàng xuất chinh.
Mùa đông năm Bính Thìn, vua Duệ Tôn đã huy động được một lực lượng 12 vạn quân. Ngài sai các đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa chỉ huy tiền quân. Chính ngài và Ngự Câu vương Trần Húc là con trưởng của Thượng hoàng chỉ huy trung quân. Sai Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân, Lê Quí Ly làm vận lương sứ có nhiệm vụ tải lương thực đi sau.

Trước khi ra trận, vua Duệ Tôn vào bái yết Thượng hoàng và nói:
-Xin hoàng huynh coi việc nước thay trẫm một thời gian. Trẫm đi chuyến này nhất định sẽ làm người Chiêm khiếp phục không bao giờ còn dám hung hăng xâm phạm Đại Việt nữa. Hoàng huynh cứ yên lòng chờ tin thắng trận!
Thượng hoàng nói:
-Quan-gia đi lần này ta cũng yên lòng và tin tưởng tất thắng. Nhưng ta cũng ngại một điều là quan-gia hay nóng nảy và cương quyết quá có khi làm cho quân dân hai nước chết oan nhiều cũng tội. Hành khiển Phạm Huyền Linh vừa cho ta biết Chế Bồng Nga đã chịu khuất phục nạp cống rồi sao nay sự thể lại đổi thay như thế nhỉ?
Vua Duệ Tôn bực mình nói:
-Cái lão ấy đặt chuyện vu vơ đó! Xin hoàng huynh chớ nghe!
-Phạm Huyền Linh nói có chứng cớ hẳn hoi chứ không nói càn đâu! Nội thị đâu? Đi mời quanh Hành khiển Phạm Huyền Linh tới quan-gia gặp ngay!
Vua Duệ Tôn không kịp cản lại. Ngài nói:
-Mấy cái anh hủ nho nhát như cáy mà cứ lắm chuyện!
Lát sau thì quan Hành khiển Phạm Huyền Linh đến. Vua Duệ Tôn hỏi:
-Ngươi nghe ai nói Chế Bồng Nga đã chịu khuất phục ta?
Phạm Huyền Linh bất đắc dĩ phải đem việc Nguyễn Long nhận lệnh chuyển bức thư khẩn của Đỗ Tử Bình về triều ra sao thuật lại hết đầu đuôi. Thì ra Nguyễn Long là cháu gọi Huyền Linh bằng cậu. Vì trước đó Đỗ Tử Bình có ra lệnh cho Nguyễn Long đi hộ tống sứ đoàn Chiêm Thành về Thăng Long dâng quốc thư và cống phẩm. Tử Bình cũng có cho Nguyễn Long biết là số cống phẩm có 10 mâm vàng. Sau đó Tử Bình lại thuyết phục được sứ Chiêm trao cống phẩm và quốc thư để ông dâng về triều. Nhưng thay vì chuyển quốc thư và cống phẩm của nước Chiêm về triều, Tử Bình lại gởi về triều bức thư báo khẩn Chiêm Thành hỗn xược và đang chuẩn bị tấn công Đại Việt. Sự thay đổi về chuyến đi cũng như sự trái nghịch giữa việc dâng cống phẩm với bức thư báo khẩn đã làm Nguyễn Long ngạc nhiên. Nhưng Nguyễn Long không dám nói với ai mà chỉ tiết lộ việc ấy với ông cậu mình. Phạm Huyền Linh thẳng ruột lại đem việc đó báo với Thượng hoàng xin bí mật điều tra. Nghe chuyện xong, vua Duệ Tôn nói:
-Chuyện có thể xảy ra lắm. Nhưng khui ra bây giờ là gây trở ngại công việc ngay! Ta đã chuẩn bị ra quân không lẽ đình lại nữa? Mọi việc đâu vẫn còn đó, cứ đợi trẫm bình Chiêm xong rồi tính! Bây giờ ta muốn quan Hành khiển theo ta ra mặt trận một chuyến chịu đi không?
Hành khiển Phạm Huyền Linh bất đắc dĩ phải xin đi.
Mấy hôm sau vua Duệ Tôn chia quân hai mặt thủy bộ cùng tiến về đất Chiêm. Đến cửa sông Nhật Lệ, vua Duệ Tôn cho tạm dừng để quân sĩ tổng tập dượt lại và cũng để biểu dương khí thế hơn một tháng. Sau đó đại quân tiến về cửa Thị Nại. Quân Đại Việt tiến đến đâu quân Chiêm Thành né tránh đến đó. Thừa thế quân Đại Việt tiến lên Thạch Kiều, đóng đại bản doanh ở động Ỷ Mang.
Trước đó Chế Bồng Nga đã cho dựng lũy bằng tre gỗ ở ngoài thành Đồ Bàn để chống cự. Thấy đoạn đường từ động Ỷ Mang đến thành Đồ Bàn lối đi chật hẹp khúc khuỷu, hai bên cây cối rậm rạp rất tiện cho việc phục binh, Chế Bồng Nga đã nghĩ ra được một diệu kế. Ông bí mật cho quân ra phục sẵn hai bên rừng rồi sai tướng Mục Bà Ma đi trá hàng. Mục Bà Ma đến doanh trại Đại Việt, xin vào ra mắt vua Duệ Tôn. Vua Duệ Tôn hỏi:
-Ngươi đến đây làm gì?
Mục Bà Ma nói:
-Muôn tâu bệ hạ, hạ thần vốn là thuộc tướng của Chế Bồng Nga đến đây xin hàng. Mong được bệ hạ thương tình nạp dụng!
-Vì lý do gì ngươi đầu hàng?
-Vì hạ thần thấy Chế Bồng Nga không biết tự lượng sức, ngang ngạnh chống lại thiên triều, hạ thần biết trước sau ông ta cũng bị bệ hạ bắt nên đến xin hàng trước để tội khỏi nặng thêm.
-Ngươi biết Chế Bồng Nga bố trí phòng thủ thế nào hãy nói ta nghe thử?
-Muôn tâu bệ hạ, trước đây Chế Bồng Nga định dựa vào thành lũy dựng bằng tre gỗ ấy để chống cự nhưng sau thấy quân Đại Việt mạnh quá, ông ta khiếp sợ nên đã kéo quân chạy trốn cả. Nay bên trong chỉ còn một cái thành không. Bệ hạ nên tiến quân gấp thì có thể bắt được Chế Bồng Nga, không nên bỏ lỡ cơ hội!
Vua Duệ Tôn tin lời Mục Bà Ma, ra lệnh tiến quân gấp. Đại tướng Đỗ Lễ liền can:
-Theo binh pháp, đánh lấy thành là sự bất đắc dĩ. Kẻ kia đã nói xin hàng thì ta nên lấy việc cho nước nó được an toàn là hay hơn cả. Vậy, ta hãy cho một tay thuyết khách cầm thư đi hỏi tội để dò hư thực, theo như mưu chước Hàn Tín đánh nước Yên ngày trước, chẳng phải khó nhọc lắm mà được nên công. Vả lại, tình ý của kẻ địch khó suy lường được. Xin bệ hạ hãy xét kỹ.
Vua Duệ Tôn nói:
-Ta mặc áo giáp bền, cầm vũ khí sắc, gội gió, tắm mưa, trèo non, lội suối, len lỏi đi sâu vào đất giặc, không ai dám đương đầu với ta. Thế là cái cơ trời giúp ta đó. Huống chi bây giờ, vua nước nó đã sợ bóng sợ gió, chạy trốn xa, không có tinh thần chiến đấu. Việc binh quí hồ nhanh chóng. Nếu để chậm trễ không tiến quân coi như trời cho mà mình không nhận. Sau này nó lại trở mặt, dù ăn năn thì sự đã rồi! Nhà ngươi thực là kiến thức đàn bà!
Vua Duệ Tôn nói xong liền sai lấy áo đàn bà mặc cho Đỗ Lễ. Thế rồi ngài ra lệnh quan quân nối đuôi nhau như xâu cá mà tiến. Vua đi đoạn giữa đoàn quân. Đường quá chật, khúc khuỷu khó đi nên đoàn quân phải trải dài hàng mấy dặm. Thình lình quân Chiêm Thành đã bố trí sẵn đổ ra đánh cắt quân Trần làm nhiều đoạn không cho ứng cứu nhau. Quân Đại Việt tan rã cả, bị giết và bị bắt rất nhiều. Vua Duệ Tôn bị hãm giữa trận rồi mất tích luôn. Các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa và quan hành khiển Phạm Huyền Linh đều tử trận. Riêng Ngự Câu vương Trần Húc bị quân Chiêm bắt sống.
Hành kiển tham mưu quân sự Đỗ Tử Bình chỉ huy đạo hậu quân thấy hai đạo tiền quân và trung quân bị phục kích liền hoảng sợ vội vã rút lui. Vận lương sứ Lê Quí Ly nghe tin quân Việt bại trận cũng vội bỏ trốn về triều.
Thượng hoàng nghe tin giận quá sai đem một chiếc xe tù đi bắt Đỗ Tử Bình. Khi Đỗ Tử Bình về qua phủ Thiên Trường, dân chúng đua nhau đón đường chửi mắng, lấy gạch ngói ném vào xe tù chở y. Quân về tới Thăng Long, Thượng hoàng liền sai đem Đỗ Tử Bình ra xử tội. Nhưng ai nấy đều ngạc nhiên y không bị tội chết mà chỉ bị đày đi làm lính. Riêng Lê Quí Ly dù bỏ lương mà chạy làm thiệt hại của quốc gia rất nhiều nhưng Thượng hoàng nể tình hai bà mẹ và em gái của ngài nên làm lơ không hỏi tội.

Sau khi đại phá mười hai vạn quân Đại Việt, giết được vua Duệ Tôn cùng nhiều tướng lãnh, vua Chiêm Chế Bồng Nga ban lệnh cho dân Chiêm được tổ chức ăn mừng trên cả nước. Ở Đồ Bàn, ông cũng cho tổ chức một buổi đại yến để vui vẻ cùng quan quân. Các tướng lãnh, chiến sĩ có công đều được tuyên dương, ban thưởng xứng đáng với công trạng trong dịp này. Tướng Mục Bà Ma, người đã dụ vua Đại Việt lọt vào tuyến phục kích để tiêu diệt được tuyên dương công đầu. Trong lúc uống rượu, vua Chế Bồng Nga cao hứng hỏi các quan:
-Ta vẫn nghe nói các danh tướng đời xưa như Tôn Tẩn, Bạch Khởi, Hàn Tín, Triệu Tử Long từng đánh những trận đánh ác liệt khiến sau đó quân địch cứ nghe danh là chạy dài. Nay chỉ trong vài ngày ta cũng phá được mười hai vạn quân Đại Việt, các ngươi thấy ta so sánh với các danh tướng ấy được không?
Mọi người đồng thanh nói:
-Bệ hạ giỏi hơn các danh tướng đời xưa nhiều lắm!
Vua Chế Bồng Nga hân hoan nói tiếp:
-Chắc hẳn từ nay quân Đại Việt sẽ không bao giờ dám mon men đến đất Chiêm ta nữa! Sắp tới ta sẽ thu hồi lại những phần đất mà Đại Việt đã chiếm của ta trước đây! Nhưng điều ta mừng nhất là trong trận đánh vừa qua, ngoài việc đánh tan hơn mười vạn quân giặc, ta còn đoạt được một bửu bối vô giá. Các khanh thử đoán xem ta đoạt được bửu bối gì nào?
Không có ai trả lời được. Cuối cùng Chế Bồng Nga nói:
-Bửu bối vô giá đó chính là Ngự Câu vương Trần Húc, con trưởng của Trần Phủ (tức Thái thượng hoàng Đại Việt)!
Tể tướng Nhã Đam hỏi:
-Trần Húc tuy là một văn nhân quí tộc của Đại Việt, nhưng đối với nước Chiêm ta, hắn cũng chỉ là một kẻ bại trận, một tên tù, xin bệ hạ cho chúng thần biết hắn quí báu ở chỗ nào?
Vua Chế Bồng Nga giải thích:
-Như ta đã nói với các khanh lần trước, ta vốn rất kỵ người Trung Hoa vì họ là một dân tộc gian trá, tham lam vô độ. Lịch sử của họ đã cho ta thấy rõ điều đó. Bây giờ Minh triều mới thống nhất thiên hạ nên họ còn o bế, hòa dịu với các nước nhỏ chung quanh để rảnh tay củng cố nội bộ. Nhưng khi Minh triều vững mạnh rồi thì sẽ biết! Trung Hoa sẽ tìm cách gây mâu thuẫn giữa các nước nhược tiểu để các nước này làm suy yếu lẫn nhau, cuối cùng tất cả đều trở thành miếng mồi ngon cho họ. Bài học nước Tấn đã nuốt gọn nước Ngu và nước Quắc như thế nào ta đã thuộc lòng! Nay ta còn xa cách Trung Hoa mà họ đã nay yêu sách này mai đòi hỏi nọ, khi Đại Việt không còn, nước Chiêm ta sẽ tiếp giáp với Trung Hoa, liệu ta chịu nổi những sách nhiễu của họ không? Bởi thế, ta không chủ trương tiêu diệt nước Đại Việt đâu! Ta cũng không chủ trương trực tiếp cai trị nước Đại Việt! Tinh thần dân Đại Việt quật cường, dũng mãnh lắm, thật khó mà cai trị họ! Trung Hoa lớn mạnh thế kia, từng cai trị Đại Việt cả ngàn năm mà cuối cùng cũng phải buông ra! Ôm tham vọng cai trị Đại Việt là tự rước lấy sự khốn đốn cho mình mà thôi! Nhưng ta sẽ dùng Đại Việt như một tấm bình phong ngăn cách giữa ta với Trung Hoa. Sau khi đánh gục Đại Việt, trước tiên ta sẽ lấy lại những phần đất cát mà Đại Việt đã chiếm của tổ tiên ta. Sau đó ta sẽ đưa Trần Húc trở về làm vua phần đất cũ của Đại Việt. Như thế là vừa được việc cho nước Chiêm vừa thuận lòng dân Đại Việt. Trần Húc là người do nước Chiêm gây dựng lại tất nhiên y không dám đi ngược lại quyền lợi của nước Chiêm. Đó là kế sách ta đã vạch ra để tìm một con đường sống hòa bình, an lạc cho dân Chiêm! Như vậy Trần Húc không phải là bửu bối vô giá hay sao?
Tể tướng Nhã Đam tâu:
-Bệ hạ nhìn xa thấy rộng, chủ trương hướng đi cho nước Chiêm ta như vậy thì thật tuyệt diệu! Nhưng có một điều thần chưa hiểu là vì sao bệ hạ lại chịu hợp tác với Trung Hoa trong việc tiễu trừ bọn cướp biển?
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ta đã nói với các khanh, nay nước Chiêm còn xa cách Trung Hoa mà họ đã yêu sách ta điều này điều nọ nhớ không? Vụ hợp tác với nhà Minh để tiễu trừ giặc biển cũng là một trong những yêu sách của họ đấy! Việc tiễu trừ bọn giặc biển tuy khó khăn, nguy hiểm nhưng nó không đi quá xa khả năng của ta! Được cái lợi là ta có thể mượn danh Trung Hoa để diệt bọn cướp Java, Mã Lai mà không sợ mất lòng ai hết. Nếu từ chối không làm việc này, nước ta sẽ phải cống cho Trung Hoa những nhà sư, những đạo sĩ, những chiêm tinh gia, những đàn ông thiến, thợ giỏi… như các nước Đại Việt, Java, Chân Lạp… đã bị buộc phải làm!
Tể tướng Nhã Đam thốt lên:
-Bệ hạ quả là một đấng thánh sống che chở dân Chiêm! Thật là đại phúc cho nước Chiêm!
Quan quân nghe Tể tướng Nhã Đam nói xong đồng loạt quì xuống hô lớn:
-Quốc vương Chế Bồng Nga anh minh vạn tuế!
-Quốc vương Chế Bồng Nga anh minh vạn tuế!
Sau hôm ăn mừng chiến thắng, Chiêm vương cho dẫn Trần Húc đến gặp mình. Ông hỏi:
-Tại sao ngươi dám đem quân xâm lấn nước Chiêm ta?
Trần Húc ngang nhiên hỏi lại:
-Mấy năm trước Đại vương đem quân cướp phá Thăng Long giờ Đại vương đã quên sao?
Chiêm vương cười:
-Thôi, được rồi, bỏ qua chuyện đó! Giờ ta hỏi điều này: Trong trận vừa qua nếu ngươi bắt được ta ngươi sẽ đối xử với ta như thế nào?
Trần Húc cau mặt nói:
-Ta chẳng phải là kẻ sợ chết đâu! Đại vương đã bắt được ta muốn giết cứ giết chứ hỏi khó nhau làm gì?
Chiêm vương lại cười:
-Tới lúc này ngươi vẫn chưa tỉnh ngộ sao? Vua tôi nhà ngươi đem mười hai vạn quân xâm lăng nước ta, chỉ một trận ta đã đánh tan tành không còn manh giáp chưa tởn ư? Ta đã cho Trần Kính của ngươi đi chầu Diêm chúa, người Đại Việt còn dám chống ta nữa sao? Nếu ta thừa dịp này kéo quân sang Đại Việt với cái thế chẻ tre, đố ai chống nổi? Nhưng ta không muốn thấy cảnh đổ máu xảy ra nữa! Bây giờ ngươi chịu hàng hay muốn ta tiến quân đánh Đại Việt?
Trần Húc không trả lời. Chiêm vương lại dỗ dành:
-Đừng tuyệt vọng! Nếu chịu đầu hàng, một thời gian nữa ta sẽ đưa ngươi về làm vua Đại Việt. Ngươi bằng lòng chứ?
Trần Húc lắc đầu nói:
-Đại vương lầm rồi, ta không còn ham muốn chuyện đó! Ai sẽ làm vua Đại Việt là do Thượng hoàng ta quyết định! Đại vương đâu có quyền cho ta làm vua?
Chiêm vương nghiêm mặt:
-Sao lại không? Ngươi không thấy mấy trận đánh nhau với quân Đại Việt ta đều thắng dễ dàng như quét lá khô sao? Ta sẽ tiếp tục tiến quân đánh Đại Việt. Sớm muộn ta cũng sẽ bắt sống thân phụ của ngươi cho coi! Nếu chịu hàng, ngươi sẽ được làm vua và sẽ là người cứu mạng thân phụ ngươi! Bằng không chịu, ngươi sẽ thành một kẻ bất hiếu! Vừa giữ được nước, vừa cứu được mạng cha già há không hơn làm một kẻ vong quốc bất hiếu sao?
Trần Húc nghe giọng ngạo mạn của vua Chiêm thì bĩu môi làm thinh. Vua Chiêm nổi giận quát:
-Tên tù này dám vô lễ với ta đến vậy sao? Hãy tống cổ nó vào nhà ông Hoàng cho nó biết thân!
Thế rồi Trần Húc bị dẫn vào một ngôi nhà đặc biệt. Đó là một ngôi nhà cũ kỹ tọa lạc giữa một khu vườn được xây bao bọc trong bốn bức tường thành cao quá đầu người, chỉ có một cửa ra vào. Trong khu vườn này có rất nhiều cây hoa sứ. Vì thế, vừa bước vào đây chàng đã nghe phảng phất mùi hương. Trong nhà có đủ cả phản nằm, kệ cất đồ đạc, kệ để chén bát, một cái lu đựng nước. Hình như ngôi nhà vừa mới được dọn dẹp lại, các dấu vết vẫn còn.
Bên cạnh ngôi nhà có một cái giếng. Ở góc vườn xa ngôi nhà nhất có một cái hố xí. Bọn lính dẫn Trần Húc đến đây rồi dặn chàng:
-Lát nữa sẽ có người mang thức ăn lại cho ông. Ngôi nhà này là chỗ ở của ông. Từ nay ông chỉ được đi lại trong phạm vi khu vườn này. Nếu tìm cách trốn thoát, ông sẽ bị trừng phạt!
Nói xong bọn lính bỏ mặc chàng ở lại đó, khóa cửa vườn rồi ra về. Trần Húc cảm thấy hơi buồn nhưng cũng thầm hi vọng ở đây chàng sẽ ít bị ai quấy rầy.
Mà đúng vậy, những ngày sau đó không có ai ra vào ngoại trừ một người lính hai lần sáng chiều mở cửa mang cơm nước vào cho Trần Húc rồi lạnh lùng khóa cửa ra về.
Mấy ngày sau vua Chế Bồng Nga lại cho dẫn Trần Húc đến gặp một lần nữa. Ông lại hỏi:
-Ngươi đã suy nghĩ lại chưa? Hợp tác với ta để rồi trở về làm vua Đại Việt hay chịu làm một tên vong quốc, một kẻ bất hiếu?
Trần Húc trả lời:
-Xin đừng hỏi lôi thôi nữa! Đại vương muốn giết ta cứ việc giết đi!
Vua Chế Bồng Nga lại cho đem Trần Húc giam giữ riêng như cũ. Ông nói với quan Bình chương Hùng Vân:
-Thằng bé này khí huyết còn hăng chưa dễ cải hóa được! Khanh cứ tiếp tục tiến hành kế hoạch đã bàn định. Ta mới giết được Duệ Tôn, quân dân Đại Việt nay vẫn chưa hoàn hồn. Phải nhân cơ hội này đánh tiếp chúng một trận nữa! Đợi ta đi đánh Đại Việt về hãy tính tiếp.
Sau khi bị đưa trở lại ngôi nhà cũ, ngày nào Trần Húc cũng nằm co hoặc ngồi ủ rũ âu sầu. Tuyệt nhiên không một bóng người nào khác lui tới đây ngoài người lính mang cơm nước cho chàng. Người lính này lại gần như câm, y thường lặng lẽ để cơm nước đó rồi vội vã bỏ đi. Phần cơm cũng có thịt cá đàng hoàng nhưng chàng nào có ăn uống được gì đâu! Mỗi bữa chàng chỉ nhai qua loa vài miếng cầm xác rồi cũng để đó mặc cho người lính Chiêm dọn dẹp.
Nhưng rồi một hôm, người lính Chiêm ấy bỗng mở miệng nói Trần Húc:
-Hôm nay Quốc vương đưa đại quân đi đánh nước ông rồi đấy!
Trần Húc nghe y nói mà kinh hoảng. Chàng liền hỏi người lính cho biết rõ sự việc nhưng y không trả lời. Cả đêm đó chàng không thể nào chợp mắt được. Trận phục kích của quân Chiêm tới bây giờ nhớ lại chàng vẫn còn sởn gáy. Hôm sau, khi người lính Chiêm đến, chàng đã cố sức năn nỉ để biết thêm tin tức nhưng y vẫn một mực lặng thinh. Biết không thể cậy răng hắn ta được Trần Húc đành bỏ cuộc. Tinh thần chàng lại càng xuống dốc thậm tệ. Không bi quan sao được khi vua Duệ Tôn – người chú anh hùng của chàng – cũng phải chết dưới tay Chế Bồng Nga thì còn mong ai trong nước chống nổi ông ta? Chàng không sợ chết, không lo sợ cho bản thân chàng nhưng lại rất lo sợ cho vua cha. Thượng hoàng cũng sẽ phải gánh chịu số phận như chàng ư? Đã nhiều lần trong đầu óc chàng dậy lên ý nghĩ phải tự vẫn đi cho xong nợ, nhưng nghĩ đến vua cha chàng lại thôi! Chưa biết số phận của vua cha ra sao chàng không thể nào yên tâm để chết được!
Trong lúc chàng đang đau khổ, hoang mang đến cực độ thì bất ngờ xảy ra một sự thay đổi: Hôm ấy người mang cơm vào cho chàng không phải là người lính Chiêm như thường lệ mà là một thị nữ người Việt. Cô ta lễ phép nói với Trần Húc:
-Bẩm vương gia, con tên là Ấu Hương, đang giúp việc trong phủ quan Bình chương Hùng Vân. Con mới được giao công việc hàng ngày mang cơm nước lại cho vương gia.
Trần Húc lộ vẻ vui mừng, ngạc nhiên hỏi:
-Cô là người Đại Việt? Vì sao cô lại sang Chiêm và hầu hạ trong phủ quan Bình chương?
Thị nữ Ấu Hương rưng rưng lệ thưa:
-Dạ đúng, con là người Việt. Vào tháng giêng năm Ất Tỵ*, con cùng bạn bè đang chơi hội xuân ở Hóa Châu thì bị người Chiêm bắt. Vua Chiêm đã cho phân phối con làm nô lệ trong phủ quan Bình chương. Cũng may quan Bình chương là người tốt nên con cũng không đến nỗi bị đọa đày. Nay con được giao công việc hàng ngày mang cơm nước đến đây cho vương gia. Quan Bình chương có dặn nếu vương gia cần gì cứ giúp đỡ vương gia. Thấy vương gia xơ xác tiều tụy thế này con đau lòng lắm. Xin vương gia gắng ăn uống cho lại sức chứ tự hành hạ bản thân cũng không được việc gì, chỉ thêm khổ thôi!
-Cám ơn cô đã có ý tốt với ta. Nhưng đời ta coi như bỏ rồi, ta đâu còn thiết tha chi nữa mà gắng với không gắng! Giờ ta chỉ còn biết chờ ngày về với tiên tổ thôi!
Ấu Hương lại thưa:
-Xin vương gia chớ tuyệt vọng! Nếu vương gia cần gì cứ bảo, con sẽ cố gắng giúp đỡ vương gia trong khả năng của mình. Bây giờ con xin tạm lui.
-Khoan đã, cô có biết tin tức gì về vụ Quốc vương Chế Bồng Nga đem quân đánh nước ta vừa qua không?
-Thưa vương gia, con không được biết!
Hôm sau thị nữ Ấu Hương lại mang đồ ăn tới. Thấy đồ ăn hôm trước còn nhiều quá Ấu Hương than:
-Vương gia không chịu ăn uống gì hết vậy làm sao mà giữ được sức khỏe? Hay ngôi nhà này có điều gì làm vương gia sợ? Những đồ dơ của vương gia đâu đưa con giặt giúp cho! Con nói hơi đường đột xin vương gia chớ giận. Con hiểu vương gia không quen làm công việc này. Xin vương gia đừng ngại gì cả!
Lời nói đầy chân tình của nàng thị nữ đồng hương đã khiến vị hoàng tử sa cơ thất thế vừa cảm động vừa ngượng ngùng. Thật tình từ ngày bị bắt đến giờ chàng chưa giặt áo quần lần nào cả. Đúng ra chàng cũng chẳng hề biết giặt áo quần là làm thế nào. Khi bị bắt chàng đang mặc sẵn trong người hai bộ quần áo và một chiếc áo giáp. Suốt thời gian vừa qua chàng chỉ dùng hai bộ quần áo đó để thay đổi nhau. Nay nghe Ấu Hương đề nghị giặt giúp, tuy ngượng nhưng chàng rất mừng. Chàng lấy bộ áo quần đang rảnh trao cho Ấu Hương và nói:
-Thú thật ta chưa biết làm công việc này! Xin cô vui lòng giặt giúp bộ này trước. Mai mốt sẽ đổi bộ khác! Ta sẽ học cô để tự làm lấy chứ không làm phiền cô lâu đâu!
Ấu Hương vui vẻ nói:
-Đây chỉ là việc nhỏ mọn, xin vương gia đừng áy náy! Được giúp đỡ vương gia là con vui mừng rồi!
Thế rồi nàng ra giếng lấy nước lên giặt trên một phiến đá nằm gần giếng. Trần Húc cũng theo Ấu Hương ra giếng xem cô ta làm thế nào để bắt chước.
Những ngày kế tiếp Ấu Hương càng quan tâm đến việc ăn uống của Trần Húc hơn. Nhưng Trần Húc gần như chẳng để ý chi đến vụ đó. Lần nào đồ ăn thừa bỏ lại cũng tám chín phần mười. Hình hài Trần Húc vẫn tiếp tục teo tóp, khô héo…
Hôm kia, khi Ấu Hương mang cơm đến, Trần Húc ngạc nhiên thấy có một thiếu nữ người Chiêm cùng đi theo. Trông thiếu nữ Chiêm có dáng dấp quí phái, xinh xắn khác thường. Nàng tươi cười nói với Trần Húc:
-Kính chào vương gia! Vương gia an lành chứ!
Ấu Hương không giới thiệu thiếu nữ Chiêm ấy là ai. Thấy thái độ và ánh mắt của thiếu nữ đầy vẻ thiện cảm với mình, Trần Húc hơi ngạc nhiên:
-Chào cô! Xin cho biết cô là ai và đến đây có việc gì?
-Tôi là ai từ từ vương gia sẽ biết. Hôm nay tôi đến đây để thăm viếng vương gia chứ không có mục đích gì khác. Nghe nói vương gia buồn rầu bỏ ăn bỏ uống, tự hành hạ thân xác một cách quá đáng, tôi thật không đành lòng! Tại sao vương gia không gắng vui vẻ mà sống? Biết đâu nay mai hai nước lại thông hòa với nhau, vương gia sẽ được trở về Đại Việt?
Trần Húc vẫn tỏ vẻ dửng dưng:
-Tôi là tướng bại trận, đã bị bắt, dẫu có được về nước cũng chẳng vinh quang gì. Tôi không đòi hỏi hay mong ước gì nữa. Xin cô để cho tôi yên!
Thiếu nữ vẫn tiếp tục nhỏ nhẹ khuyên nhủ, an ủi Trần Húc. Nhưng hình như thái độ lạnh nhạt, hờ hững của Trần Húc đã dần làm nàng mất hết kiên nhẫn. Cuối cùng nàng nói:
-Tôi đến thăm vương gia chỉ mong giúp vương gia khuây bớt nỗi sầu trong nghịch cảnh này. Vương gia vốn dòng dõi tôn quí, lại đang lúc đầu xanh tuổi trẻ, sao lại dễ đầu hàng số phận đến thế? Sao không gắng vượt qua hoàn cảnh này để xây dựng lại cuộc đời? Thái độ quá bi quan của vương gia đã khiến tôi thật thất vọng. Vương gia không chịu gắng ăn uống thì trước sau cũng suy kiệt thôi! Tôi có làm bạn với vương gia cũng chẳng giúp ích gì cho vương gia được. Coi như chúng ta không có duyên vậy. Thôi, xin từ giã vương gia!
Nói xong thiếu nữ Chiêm bỏ ra về. Trần Húc ngồi đờ đẫn một hồi rồi lắc đầu lẩm bẩm:
“Ta thật vụng về hết sức! Nàng Chiêm nữ này ở đâu mà lại đến thăm ta và có vẻ thiện cảm với ta đến thế? Những lời nàng có lý lắm chứ! Sao ta lại có thể dửng dưng với một người có lòng tốt với mình? Nàng chỉ an ủi chứ đâu có hạch sách thóa mạ gì ta mà phải tự ái? Thái độ ương ngạnh vô lối của ta thật đáng trách!”
Từ giờ phút ấy hình bóng nàng Chiêm nữ xinh đẹp cứ lảng vảng trong đầu óc chàng. Trần Húc đâm ra tiếc rẻ và cầu mong sẽ có lúc nàng sẽ trở lại. Hơn mười ngày sau vẫn không thấy bóng dáng Chiêm nữ đâu, Trần Húc càng cảm thấy xốn xang trong lòng. Một hôm chàng đánh liều hỏi thị nữ Ấu Hương:
-Nàng thiếu nữ cùng đến đây với cô hôm trước là ai vậy? Sao nay không thấy thấp thoáng?
Thị nữ Ấu Hương đáp:
-Đó là công chúa Hoa Lài, ái nữ của Quốc vương đấy!
Trần Húc giật mình:
-Đó là công chúa Hoa Lài ái nữ của Quốc vương ư? Ta đâu ngờ công chúa lại đến thăm ta! Mấy bữa rày công chúa có nhắc nhở gì đến ta không?
-Thưa có! Mấy lần công chúa hỏi con về việc ăn uống của vương gia, con cứ thật tình trả lời mỗi bữa vương gia vẫn chỉ ăn vài miếng cầm xác. Công chúa nghe con nói vậy có vẻ không vui. Công chúa nói vương gia không chịu ăn uống coi như sắp chết, có làm bạn cũng chỉ thêm sầu khổ khi biệt ly nên không muốn đến thăm vương gia nữa.
Trần Húc nghe Ấu Hương nói thế đâm ra hốt hoảng. Không ngờ công chúa nước Chiêm lại quan tâm tới chàng như thế! Chàng liền tìm lời cải chính:
-Tại cô không để ý đó chứ! Trước đây ta đau buồn quá nên cơm cháo nuốt không vô. Nay lòng hơi nguôi ngoai nên ta đã gắng ăn uống trở lại rồi.
Thị nữ Ấu Hương nói:
-Vương gia đã gắng ăn uống trở lại thật là điều đáng mừng! Thế mà con vô ý quá. Ngày mai con sẽ thưa lại với công chúa việc này cho công chúa vui!
Trần Húc nghe thị nữ Ấu Hương nói thế mừng lắm. Chàng nói:
-Phải, cô nên nói lại cho công chúa biết điều đó. Nhớ cho ta gởi lời kính thăm công chúa!
Thế rồi mấy hôm sau công chúa Hoa Lài lại đến thăm Trần Húc. Vừa thấy mặt Trần Húc công chúa Hoa Lài liền vui vẻ nói:
-Nghe nói vương gia đã ăn uống trở lại tôi rất mừng! Vương gia phải giữ gìn sức khỏe như vậy mới phải chứ!
Trần Húc cũng cười vui vẻ:
-Cám ơn công chúa đã chiếu cố đến thân phận kẻ tù tội này! Nhờ những lời khuyên bảo của công chúa, tôi đã gắng ăn uống trở lại và bây giờ thì đã khá nhiều.
Công chúa Hoa Lài nói:
-Bây giờ trông vương gia tuy tươi tỉnh hơn lúc trước nhưng thân thể vẫn còn gầy ốm lắm! Phải gắng ăn uống thêm nữa mới được! Những khi rảnh rỗi tôi sẽ lui tới đây để thăm vương gia, vương gia có bằng lòng không?
Trần Húc nói:
-Thế thì còn gì hơn nữa! Chỉ sợ phiền công chúa thôi!
Từ đó cách vài ba ngày công chúa Hoa Lài lại tới thăm Trần Húc một lần. Càng ngày hai người càng trở nên thân thiết với nhau. Hai người hay kể cho nhau nghe về phong tục, về chuyện cổ tích, chuyện lịch sử của nước mình. Có một điều mà thời gian gần đây Trần Húc cứ canh cánh lo ngại trong lòng là tình trạng của thân phụ chàng (Thượng hoàng Nghệ Tôn). Khi thấy tình thân đã đủ để tin cậy nhau, Trần Húc hỏi công chúa Hoa Lài:
-Cho tôi hỏi một câu, công chúa đừng chấp nhé: Cách đây không lâu, tôi nghe Quốc vương đem quân đánh Đại Việt, việc đó có thật không và kết quả như thế nào?
Công chúa sốt sắng trả lời:
-Vương gia hỏi như vậy có gì đáng trách đâu! Quả thật phụ vương có đem quân đánh Đại Việt đấy. Kết quả tuy thắng lợi vẻ vang nhưng cũng như thất bại. Phụ vương tôi cho biết trên đường rút quân về nước, đội binh thuyền của phụ vương đã không may gặp cơn bão lớn lật chìm nhiều thuyền làm quân sĩ chết đuối rất nhiều.
-Phía Đại Việt có quan văn tướng võ nào quan trọng bị bắt hay bị giết không?
-Phụ vương tôi nói họ tránh né cả nên chẳng bắt được ai đáng kể!
Trần Húc nghe công chúa nói vậy mừng lắm. Thế là vua cha đã không hề hấn gì sau cuộc chinh phạt của Chế Bồng Nga! Tới lúc này chàng mới thật sự được an tâm. Chàng thầm biết ơn công chúa Hoa Lài đã thành thật cho chàng biết cái tin quan trọng ấy. Nhưng rồi nghĩ lại Trần Húc lại đâm ra lo ngại vẩn vơ. Nếu Chiêm vương biết được công chúa đã đến thăm viếng chàng và cho chàng biết tin tức như thế ông ta sẽ nghĩ thế nào? Có thể ông ta sẽ cấm không cho nàng đến đây nữa lắm! Chàng ngập ngừng nói với công chúa:
-Xin đừng cho ai hay tôi đã hỏi thăm tin tức chiến trận nhé! Tôi sợ Quốc vương sẽ không bằng lòng việc đó. Công chúa hay đến thăm viếng tôi thế này nếu Quốc vương biết được ngài có bắt tội không?
Công chúa Hoa Lài tươi cười nói:
-Vương gia khỏi lo chuyện đó! Việc thăm viếng vương gia là tự ý tôi chứ có phải vương gia tìm đến quấy nhiễu gì tôi đâu mà ngại!
Qua thời gian giao tiếp với công chúa Hoa Lài, Trần Húc đã dần phục hồi phong độ. Cách đối xử thân mật, vui tươi của công chúa Hoa Lài đã giúp chàng giảm bớt mặc cảm thân phận tù tội. Trần Húc cảm thấy tinh thần cởi mở hơn trước nhiều, chàng tự nhủ: “Còn vui được ngày nào ta cứ vui cái đã”!
Rồi chẳng bao lâu sau chuyện sẽ đến phải đến: hai người đã phải lòng nhau!
Từ đó công chúa Hoa Lài lui tới với Trần Húc đều đặn hơn. Một hôm đến thăm Trần Húc, công chúa thấy chàng có vẻ xanh xao, mệt mỏi khác hơn mọi ngày. Đến nỗi khi đang nói chuyện chàng đã phải cáo lỗi xin đi nhà xí mấy lần. Công chúa hỏi vấn đề sức khỏe của chàng, Trần Húc bất đắc dĩ thú thật chàng đang bị kiết lỵ. Công chúa lo sợ hỏi thị nữ Ấu Hương. Ấu Hương nói:
-Tưởng bệnh gì chứ bệnh kiết lỵ thì dễ chữa lắm! Thuốc chữa cần ba món mà ở đây đã có tới hai rồi, món thứ ba cũng dễ tìm. Vương gia chỉ cần uống đúng ba ngày là lành đứt!
Ấu Hương vừa nói vừa chỉ vào cây lựu rồi chỉ vào mấy cây hoa sứ đang nở đầy bông trắng ở gần cái giếng nước. Công chúa nghe Ấu Hương nói thì lộ vẻ mừng:
-Còn thiếu món gì nữa? Em nói dễ kiếm thì hãy kiếm để chữa cho vương gia đi!
Ấu Hương nói:
-Thưa công chúa, thang thuốc chữa bệnh kiết lỵ gồm ba món là vỏ trái lựu, hoa sứ và lá vối phơi khô. Ở đây mình còn thiếu lá vối khô nhưng đó là thức uống thường ngày của dân gian nên kiếm không khó. Lấy đúng cân lượng như thầy thuốc dạy, sắc chung ba thứ ấy, uống mỗi ngày ba lần trong ba ngày liền…
-Vậy thì em đi kiếm ngay để sắc cho vương gia uống!
Ấu Hương đi rồi Trần Húc ái ngại nói với công chúa:
-Công chúa sai Ấu Hương làm như vậy tôi thấy bất tiện lắm! Ấu Hương là người nhà của quan Bình chương Hùng Vân, cô ấy còn có công việc của cô ấy nữa. Tôi sợ quan Bình chương không hiểu cớ sự lại khiến cô ấy bị quở trách oan!
Công chúa Hoa Lài nói:
-Vương gia yên tâm, Ấu Hương không còn là thị nữ của quan Bình chương nữa mà là người nhà của thiếp rồi! Chính phụ vương đã cho Ấu Hương về ở với thiếp. Chính phụ vương đã sai Ấu Hương mang cơm nước hàng ngày cho vương gia.
Câu nói của công chúa đã khiến Trần Húc hiểu rõ cuộc gặp gỡ giữa chàng và công chúa Hoa Lài là hoàn toàn do vua Chiêm xếp đặt. Chàng muốn hỏi công chúa vài điều nhưng vì người chàng đang mệt nên phải xin lỗi đi nghỉ.
Quả đúng như lời Ấu Hương đã nói, Trần Húc uống thuốc được ba ngày thì lành bệnh. Mấy ngày sau công chúa lại đến thăm. Nàng sai Ấu Hương bày một bữa tiệc nhẹ để mừng sức khỏe chàng hồi phục. Ấu Hương bày tiệc dưới tàn mấy cây hoa sứ cạnh cái giếng. Công chúa cùng Trần Húc ngồi đối ẩm. Không khí mát dịu, mùi hương hoa sứ thoang thoảng làm cho Trần Húc cảm thấy khoan khoái trong người, chàng buột miệng khen:
-Cái giống hoa sứ này thật tuyệt diệu! Không những sắc hương cao khiết mà còn là một vị thuốc quí của con người! Bệnh tôi sớm lành cũng là nhờ nó! Ngôi nhà này trước đây ai ở mà trồng lắm hoa sứ thế này nhỉ?
Công chúa Hoa Lài cười:
-Hoa này người Chiêm thiếp gọi là hoa champa. Người Chiêm thiếp vẫn coi hoa champa là biểu tượng cho dân tộc mình. Lâu nay thiếp cũng quên chưa kể chuyện này cho vương gia biết. Trước kia có một vị hoàng tử bị mắc bệnh phong cùi. Vì cần cách ly với mọi người để tránh tình trạng lây nhiễm, vua cha phải cho dựng ngôi nhà này để cho vị hoàng tử ấy ở. Vị hoàng tử ấy rất thích hoa champa. Vì ở một mình thấy buồn, ngài chỉ biết giải khuây bằng cách làm bầu bạn với loại hoa này. Ngài tự trồng cây champa khắp vườn. Vì thế, người đương thời vẫn gọi ngôi nhà này là “nhà ông Hoàng” hay là “nhà hoa champa”. Sau khi vị hoàng tử qua đời, ngôi nhà này được đóng cửa không ai dùng đến. Mãi tới gần đây phụ hoàng mới cho dọn dẹp lại để làm nơi giữ vương gia đấy!
Trần Húc nói đùa:
-Như vậy lâu nay tôi ăn ngủ ở chỗ cũ của vị hoàng tử phong cùi biết đâu tôi cũng bị lây bệnh của ông ta mất rồi?
Công chúa Hoa Lài cũng nói đùa:
-Đúng, chắc vương gia mắc bệnh phong cùi rồi đấy!
Trần Húc chợt thở dài:
-Cái bệnh này quái ác thật! Ai mắc phải nó là hết phước! Từ người thân cho đến xã hội ai cũng xa lánh hết! Nếu tôi chẳng may mắc phải chứng bệnh quái ác ấy chắc công chúa cũng chẳng bao giờ còn dám đến thăm tôi!
Công chúa Hoa Lài cãi lại:
-Cũng tùy người thôi vương gia! Thiếp biết ở đây đã có nhiều mắc bệnh phong cùi nhưng gia đình họ vẫn không ruồng bỏ họ!
Trần Húc cười hỏi:
-Nếu chúng ta thành vợ chồng rồi, rủi tôi mắc phải căn bệnh quái ác ấy, công chúa có bỏ tôi không?
Công chúa Hoa Lài không ngần ngại đáp:
-Không, nhất định là không!
Trần Húc lắc đầu mà cười:
-Bây giờ công chúa nói vậy thì hay vậy nhưng nếu sự việc xảy ra thật e nó lại khác. Tôi không có ý nghi ngờ ai nhưng thực tế cả luật pháp Đại Việt cũng cho phép người chồng có quyền bỏ vợ, trả vợ về gia đình cũ nếu người vợ mắc phải bệnh phong cùi. Nước Chiêm theo chế độ mẫu hệ chắc người vợ cũng có quyền trả chồng về gia đình cũ như thế chứ!
Công chúa chỉ vào cái giếng mà nói:
-Thiếp xin thề có thần giếng làm chứng, dù gặp phải hoàn cảnh nào, thiếp cũng không bao giờ bỏ vương gia! Nếu vương gia vì một lý do nào đó mà xa rời thiếp, thiếp nhất định sẽ nhờ cậy thần giếng giúp đỡ tìm kiếm vương gia cho được mới nghe!
Trần Húc nghe nói biết đây chính là lúc tình cảm của nàng Chiêm nữ đối với chàng đang dâng cao tột độ, chàng sung sướng ấp úng nói:
-Đa tạ công chúa, có lẽ trên đời này tôi là người tù hạnh phúc nhất! Công chúa không phải là người thường mà là một nàng tiên đã cứu vớt đời tôi!
Sau đó mấy hôm vua Chế Bồng Nga lại đòi Trần Húc đến gặp. Ông hỏi:
-Ta nghe nói ngươi và công chúa Hoa Lài đã thương mến nhau, điều đó có đúng không?
Trần Húc hơi bối rối, ngập ngừng… Vua Chế Bồng Nga nói tiếp:
-Nếu ngươi chịu đầu hàng, ta sẽ gả công chúa cho ngươi! Đây là cơ hội chót ta giúp ngươi một dịp may để trở về làm vua Đại Việt. Hãy liệu mà quyết định lấy!
Đây là một dịp may để ta có thể trở về làm vua Đại Việt ư? Thật tình chuyện này không phải là sở nguyện của ta! Nó là việc lâu dài, dễ gì một sớm một chiều mà xảy đến! Giờ trước mắt, nếu ta gật đầu, ta sẽ khỏi bị xa cách công chúa Hoa Lài, người ta đã thật sự thương mến! Ít nhất nàng cũng là một vị công chúa, lại có đức độ và tài sắc! Trần Húc suy nghĩ như vậy rồi nói:
-Tâu bệ hạ, người đời ai chẳng muốn được vinh sang phú quí! Nhất là gặp được một người bạn đời như công chúa Hoa Lài thì còn ân phước nào lớn hơn? Chỉ sợ tôi không đủ tài sức để làm tròn trách nhiệm khiến phụ lòng tin cậy của bệ hạ thôi. Hơn nữa, có một điều tôi không thể dối trá: tôi đã có vợ ở Đại Việt rồi. Vợ tôi chính là công chúa Tuyên Huy con của vua Duệ Tôn.
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Chuyện đó không quan trọng. Ta chỉ muốn kết hiếu với Đại Việt để hai dân tộc chúng ta được sống hòa bình bên nhau. Điều kiện cần thiết chính là thiện chí của ngươi! Ta muốn ngươi trở thành nhịp cầu kết nối lâu dài giữa hai dân tộc Việt Chiêm, ngươi hiểu ý ta chứ!
Trần Húc vui mừng nói:
-Đa tạ bệ hạ! Bệ hạ đã có ý tốt với tôi như vậy lẽ nào tôi dám phụ ơn!
Chế Bồng Nga cũng vui mừng nói:
-Thế thì tốt lắm! Ngươi sẽ trở thành con rể của ta! Ta tin ngươi sẽ đủ năng lực ngăn chận những cảnh chém giết nhau giữa hai dân tộc Việt Chiêm. Trong tương lai, dân chúng hai nước Việt Chiêm được sống yên ổn, hòa bình bên nhau hay không là do sự khéo hay vụng của ngươi đấy! Phải cố gắng, chớ làm ta thất vọng!
Thế rồi Chế Bồng Nga cho tổ chức lễ hợp hôn cho công chúa Hoa Lài với Trần Húc!

Trong trận đánh vào Đồ Bàn năm Đinh Tị*, vua Duệ Tôn đã bị mất tích trên chiến trường, không tìm xác về được. Thượng hoàng Nghệ Tôn phải cho đẽo cốt dâu để tượng trưng cho thể xác ngài, rồi làm lễ chiêu hồn nhập xác, đem an táng ở Hy Lăng. Thượng hoàng thương Duệ Tôn đã vì nước hi sinh nên lập con trưởng của vua là Kiến Đức vương Trần Hiện nối ngôi. Tháng 5 năm ấy, Kiến Đức vương Trần Hiện đăng quang tự xưng là Giản hoàng, đổi niên hiệu là Xương Phù. Giản hoàng tiếng là làm vua nhưng hầu hết mọi việc quan trọng trong triều vẫn do Thượng hoàng Nghệ Tôn chủ trương cả.
Thấy quân nhà Trần bị thảm bại dưới tay Chế Bồng Nga nhiều lần, vua nhà Minh nẩy sinh ý đồ thôn tính Đại Việt. Tuy bên ngoài nhà Minh vẫn đóng vai kẻ cả, dùng những lời đạo đức suông để hòa giải, can ngăn đôi bên nhưng bên trong lại ngầm khích lệ Chiêm Thành gây hấn với Đại Việt. Với lý do hợp tác bắt giặc biển, nhà Minh cử sứ đi lại với Chiêm Thành nhiều hơn và ban cho vua Chiêm nhiều ân sủng đặc biệt. Năm Kỷ Mùi*, vua Minh ban cho vua Chiêm một bộ y phục dát vàng với thư dụ như sau:
“Đạo của Đế Vương đối xử cùng chung một lòng nhân, nên cũng muốn nơi hải ngoại được yên ổn vô sự. Chiêm Thành vị trí tại phía tây nam, cách biển, cách núi, nhưng biết lấy lẽ bầy tôi phụng sự Trung Hoa, mấy lần cống phương vật. Mới đây sai sứ cống voi, lòng thành đáng khen. Trong tờ biểu tâu rằng vẫn còn giao tranh với An Nam, đến nay vẫn chưa chấm dứt. Tuy nhiên Chiêm Thành và An Nam cương giới đã định từ xưa, mỗi nước nên giữ đất an dân, chớ nên tranh giành, đạo trời vốn ghét, không thể không lấy làm răn. Nay ban cho khanh y phục thêu rồng vàng, ngựa tốt. Khi vật đưa đến, hãy nhận lấy.”
Trong khi đối với nhà Trần, vua Minh đã cố tình làm khó, gây sự. Như khi nhà Trần cho Lê Đình Thám sang cáo phó, nói vua Duệ Tôn đi tuần biên giới bị chết đuối và báo việc lập vua nối ngôi thì người Minh không chấp nhận. Sứ thần Lê Đình Thám phải ra sức biện bạch vua Minh mới sai người sang điếu tang. Khi vua Minh đem ý định thôn tính Đại Việt bàn với triều đình, Thái sư Lý Thiện Trường can:
-Em chết vì nạn nước mà anh lập con em lên, xem việc người như vậy thì có thể biết được mệnh trời. An Nam chưa thể tính được đâu!
Vua Minh nghe lời, bèn tạm dẹp ý định ấy.
Ở Đại Việt, Giản hoàng mới lên ngôi một tháng quân Chiêm Thành lại sang. Được tin giặc sắp đến, Thượng hoàng sai Cung Chính vương Trần Sư Hiền đem quân trấn giữ cửa biển Đại An. Chế Bồng Nga biết được cửa Đại An có binh chống giữ thì tránh đi mà tiến thẳng tới cửa biển Thần Phù rồi tiến ngược lên Thăng Long. Quân Đại Việt đã mất tinh thần không chống nổi, lại tan tác bỏ chạy. Thượng hoàng cùng Giản hoàng lại phải rời khỏi Thăng Long để lánh nạn. Quân Chiêm Thành lại một phen tha hồ cướp phá kinh thành. Hôm sau quân Chiêm ngang nhiên xuôi thuyền chở chiến lợi phẩm trở về Chiêm bằng chính cửa Đại An. Đạo quân của Cung Chính vương Trần Sư Hiền đóng giữ ở đây né tránh không dám truy cản. Nhưng lần này quân Chiêm đã gặp rủi ro. Đội quân chiến thắng mới về được nửa đường trời bỗng nổi bão tố rất lớn. Gần nửa phần số binh thuyền đi trận về bị lật chìm trên biển làm quân Chiêm chết đuối cả vạn người. Những chiến lợi phẩm mang từ Đại Việt về hầu hết phải vứt xuống biển cả. Thành ra quân Chiêm tuy đại thắng nhưng khi trở về lại tả tơi chẳng khác một đám bại binh. Rốt cuộc, thay vì tổ chức tiệc liên hoan khải hoàn, Chiêm vương lại phải cho tổ chức lễ chiêu hồn truy điệu tử sĩ.
Nhưng lần này quân Chiêm cũng để lại cho Đại Việt một kinh thành đổ nát hoang tàn như lần trước. Thượng hoàng cùng Giản hoàng đã hồi cung với bao nỗi nghẹn ngào, cay đắng trong lòng. Quốc khố đã rỗng tuếch, lấy gì để xây dựng lại? Dù có khả năng xây dựng lại đi nữa, liệu có giữ gìn được không? Nay mai quân Chiêm lại sang nữa biết làm sao? Muốn xây dựng lại phải làm sao nuôi quân, dưỡng tướng, luyện tập cho tinh thục, đủ khả năng chống giặc trước đã! Nghĩ vậy cho nên Thượng hoàng chỉ cho dựng những căn nhà dã chiến để trú ngụ tạm thời, vua quan đều phải sống như thế. Ngài cũng cho tuyển thêm quân và bổ nhiệm thay thế nhiều cấp chỉ huy trong quân đội.
Vì thiếu nhân lực để bổ sung cho quân đội, Thượng hoàng hạ lệnh cho thiền sư Đại Than lựa lấy những người tu hành đang trẻ khỏe và không có độ điệp* ở trong nước ra làm lính. Thật sự từ khi vua Duệ Tôn mất, không còn ai đủ sức ghìm được cái đà suy yếu của nhà Trần nữa. Bên ngoài Chiêm Thành cứ chực chờ xâm nhập quấy phá, bên trong loạn lạc cứ xảy ra liên miên. Trước tình trạng nhiễu nhương đó, rất nhiều trai tráng đã tìm vào các am, các chùa, mượn tiếng tu hành để cầu chước an thân. Biết được tệ nạn ấy nên Thượng hoàng phải ban lệnh này.
Ngoài ra, vì sợ người Chiêm cướp phá xúc phạm đến tổ tiên mình, Thượng hoàng cũng cho rước thần tượng các lăng ở Quắc Hương, ở Thái Đường, ở Long Hưng và ở Kiến Xương đưa về An Sinh cho dễ bảo vệ hơn.
Vấn đề lương thực, tiền bạc cũng trở thành một nỗi ưu tư to lớn của Thượng hoàng. Hiểu được tâm trạng ấy, Đỗ Tử Bình lúc bấy giờ đang bị đày làm lính xa xứ viết một bức thư nhờ một thuộc cấp cũ là Nguyễn Kim Ngao đang giữ chức quản lĩnh đội quân Thần Vũ dâng lên Thượng hoàng. Trong thư Tử Bình khiếu oan về việc cũ và hứa nếu Thượng hoàng xá tội và cho phục chức, y sẽ dâng một kế hoạch mới có thể tạo thêm một nguồn thu nhập tài chánh cho nhà nước. Thượng hoàng bèn cho đòi Tử Bình về yết kiến. Vụ 10 mâm vàng có lẽ không còn ai làm nhân chứng nênThượng hoàng không nhắc đến mà chỉ hỏi y về tội tự ý lui quân:
-Trước kia, khi vua Duệ Tôn bị hãm vào trận của giặc trăm phần nguy cấp, ngươi chỉ huy hậu quân lẽ ra phải tiến lên giải cứu cho người, tại sao ngươi lại rút lui?
-Bẩm Thượng hoàng, chỉ có những người trong cuộc, phải thấy được cái thực tế của trận địa mới biết việc làm của hạ thần lúc ấy gay go đến mức nào. Đức Duệ Tôn bị dụ vào một vùng đất hiểm nghèo, đường sá chật hẹp, khúc khuỷu, đá két gập ghềnh. Người ngựa đều phải len lỏi tiến hàng một rất khó khăn. Không những thế, hai bên đường đầy dẫy những hang hố thiên nhiên, giặc đã phục sẵn để bắn giết mà ta không thể nào đề phòng chống trả được! Địa thế vùng này có thể xếp vào loại đất hiểm “một người cố thủ có thể chống nổi trăm người”. Lực lượng Chiêm Thành lại hùng hậu và rành rõi địa thế. Cái thế phải thua của quân ta đã thấy rõ! Liều mạng tiến lên cứu đức vua chỉ là một hành động thiêu thân. Không những hạ thần phải chết mà tất cả đội quân do hạ thần chỉ huy cũng sẽ phải chết hết. Nhưng nếu không chịu tiến quân để cứu đức vua, thần cũng cầm chắc bị Thượng hoàng trị tội. Theo đúng quân pháp là xử tử. Đằng nào hạ thần cũng phải chết cả. Hạ thần đã đắn đo suy nghĩ vấn đề: Thà rút lui để chịu tội chết một mình còn lợi hơn tiến lên một cách liều lĩnh, vô vọng, để chết uổng cả một đạo quân! Phải để dành số nhân lực ấy cho triều đình sử dụng trong việc phục thù cho đức Duệ Tôn!
-Ngươi đã biết cái thế đất hiểm “một người giữ có thể chống nổi một trăm người” ấy sao không can ngăn đức vua để người phải lâm vào thảm họa đó?
-Bẩm, Đại tướng Đỗ Lễ đã can ngài, Hành khiển Phạm Huyền Linh cũng đã can ngài mà ngài đều chẳng nghe, hạ thần đâu dám can nữa!
-Ngươi biện bác cũng khéo đấy! Thế bây giờ hãy nói rõ kế hoạch mới tạo thêm nguồn tài chánh cho nhà nước của ngươi như thế nào ta nghe thử. Nếu nghe được, ta sẽ xá tội cho ngươi!
-Bẩm, theo phép cũ, lâu nay nước ta chỉ đánh thuế vào những người có ruộng lúa, bãi dâu, đầm cá còn những người làm thuê làm mướn thì không. Xin bệ hạ đặt ra ngạch “thuế đinh” để đánh vào những hạng người đã trưởng thành nhưng không ruộng đất mà cũng không ra lính ấy. Loại thuế này trước kia nhà Đường cũng đã áp dụng gọi là thuế “dung”. Cứ mỗi năm mỗi đinh nam phải thu ba quan, như vậy nhà nước sẽ thu thêm được một số tài chánh.
Thượng hoàng nghe xong nói:
-Đặt ra thứ thuế này kể ra cũng thiệt thòi cho dân đinh đấy. Nhưng ngộ biến đành phải tùng quyền thôi. Ta cứ tạm ban hành luật thu thuế đinh một thời gian. Sau này khi đất nước khá hơn ta sẽ cho bãi bỏ.
Thế rồi Thượng hoàng hạ chiếu xá tội Đỗ Tử Bình và cho y được phục chức.
Ngạch “thuế đinh” của nước Đại Việt bắt đầu được áp dụng từ đấy!
Nói về Trần Húc từ khi được Chế Bồng Nga gả công chúa Hoa Lài cho, vợ chồng chàng sống với nhau rất mực đầm ấm. Công chúa Hoa Lài ăn ở rất khéo léo, chẳng bao lâu nàng đã giúp chồng quên đi thân phận của một kẻ bại trận để thích hợp với hoàn cảnh mới: con rể của Quốc vương. Tuy chàng không được tham dự vào chính sự của triều đình, không có một chức quyền chính thức nhưng được hưởng cái thú nhàn hạ, vô ưu. Vợ chồng chàng có đủ vàng bạc, dư thì giờ để ngao du đây đó, để tham dự bao nhiêu cuộc vui không một chút lo nghĩ. Những buổi tiệc tùng lạ lẫm vui nhộn, những đêm ca vũ huyền ảo dị thường đã làm Trần Húc say mê. Quá hài lòng với hạnh phúc đang có, chàng không còn mong muốn xảy ra một sự đổi thay nào nữa…
Ngày kia công chúa Hoa Lài bỗng nhắc chồng:
-Trước khi tổ chức hợp hôn cho đôi ta, phụ vương có nói chàng sẽ có cơ may trở về làm vua nước Đại Việt chàng nhớ không?
Trần Húc thành thật nói:
-Được sống hạnh phúc bên nàng như hiện nay ta thật thỏa mãn lắm rồi. Ta chẳng mong ước gì hơn nữa. Ngôi cao quyền lớn chỉ làm khổ chứ có mấy khi thật sự mang lại hạnh phúc cho con người! Nàng hãy quên chuyện đó đi!
Công chúa Hoa Lài nói:
-Không phải thiếp có ý xúi giục chàng tìm công danh phú quí cao xa hơn nữa đâu! Thật sự phụ vương vừa cho thiếp biết ý định của người. Chắc hẳn nay mai chàng sẽ được cất nhắc vào ngôi vị ấy! Như vậy là phụ vương đã quyết. Chàng không nên cưỡng lại ý muốn của người! Giờ đây, ngày nào còn vui chơi được chàng cứ vui chơi cho thỏa, biết đâu rồi chẳng còn cơ hội nữa!
Trần Húc nghe vợ nói có vẻ lo lắng. Thế là chàng sắp phải giã từ cuộc sống vui vẻ hồn nhiên hiện tại. Ta sẽ về làm vua Đại Việt ư? Chàng liên tưởng ngay tới những bước đường chông gai mà mình sẽ phải dẫm lên! Chàng mơ hồ nhớ lại lời Chiêm vương đã nói với chàng trước kia: “Chiêm vương sẽ đánh bại và bắt giữ Thượng hoàng. Chính chàng sẽ đứng ra cứu mạng cha già! Và chàng sẽ trở thành vua nước Đại Việt!”. Nếu sự việc diễn ra như thế thì thật bẽ bàng! Chàng hỏi lại công chúa Hoa Lài:
-Tại sao phụ vương không trực tiếp cho ta hay kìa? Người nói bao giờ bắt đầu công việc?
Thấy Trần Húc đón nhận cái tin này với thái độ không mấy thoải mái, công chúa Hoa Lài cười chế giễu:
-Bộ chàng không mong cái ngày tươi sáng ấy sớm đến sao?
-Nhưng ta về Đại Việt bằng cách nào đây? Vả lại, Đại Việt đã lập vua mới, ta làm sao có thể làm vua Đại Việt được?
-Việc đó thiếp không hiểu, nhưng phụ vương đã nói chắc như vậy!
Vợ chàng cũng chẳng biết gì hơn nữa sao? Đành phải chờ đợi xem Chiêm vương tính liệu thế nào. Trần Húc tự nhủ: “Cũng không sao! Làm tù còn được huống là làm vua! Cứ mặc cho số phận đưa đẩy vậy. Giờ cứ vui chơi được ngày nào hay ngày ấy!”
Mùa hạ năm Mậu Ngọ*, vua Chế Bồng Nga cho gọi chàng đến gặp ông ta để bàn việc. Chế Bồng Nga nói:
-Ngươi sắp trở về làm vua Đại Việt đấy nhé! Hãy chuẩn bị đi là vừa! Còn thắc mắc điều gì nữa không?
Nhớ lời vợ đã dặn, Trần Húc từ tốn trả lời:
-Tâu bệ hạ, công danh phú quí dĩ nhiên ai cũng ham. Nhưng tiểu tử chỉ là một kẻ bất tài, may được bệ hạ rộng lượng đùm bọc mới còn được tấm thân. Việc này ngoài tầm tay tiểu tử không dám tự quyết định. Nay bệ hạ dạy bảo thế nào tiểu tử xin nghe theo thế ấy thôi!
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ngươi biết điều như vậy là tốt lắm. Khách quan mà nói, lẽ ra cái ngai vàng của Đại Việt hiện nay phải thuộc về ngươi. Ngươi là con trưởng của Thượng hoàng Đại Việt cơ mà! Nhưng bây giờ cái ngai vàng ấy đã thuộc về Trần Hiện (Giản hoàng)! Chính ta đã làm ngươi lỡ mất cơ hội. Bởi vậy, ta tự thấy có bổn phận phải giúp ngươi giành lại cái ngai vàng ấy. Nhưng giành lại ngai vàng bằng cách nào đây? Ta nghĩ, chỉ có cách dùng vũ lực để loại trừ Trần Hiện mà thôi! Vẫn biết rằng quân Chiêm ta hiện nay rất mạnh và quân Việt lại suy yếu thật đấy, nhưng ngươi còn thiếu một yếu tố cần thiết, đó là lòng dân! Nếu chỉ dùng quân Chiêm để đánh đổ Trần Hiện rồi đưa ngươi lên, ngươi sẽ bị coi như bù nhìn của ngoại bang, mất hết chính nghĩa! Muốn hóa giải nan đề đó, chính ngươi phải trực tiếp bắt tay vào công việc mới xong!
Trần Húc nghe Chiêm vương nói đâm ra lo lắng:
-Tâu bệ hạ, tiểu tử có thể làm được gì trong việc này?
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ta biết Đại Việt vẫn có tên cũ là An Nam, ngày nay người Trung Hoa vẫn gọi Đại Việt là An Nam! Vậy, ngươi phải lấy danh nghĩa là An Nam vương để tranh thủ lòng dân với Trần Hiện! Chuyến này ngươi hãy theo ta sang đánh Đại Việt. Quân ta chiếm được khu vực nào ngươi sẽ chiêu dụ dân bản xứ ở khu vực đó. Ta cho phép ngươi được tùy tiện đặt để các quan chức để trị dân theo nhu cầu. Nếu làm được như thế chắc không bao lâu cái ngai vàng của Đại Việt sẽ trở về tay ngươi!
-Tâu bệ hạ, dù Trần Hiện trên danh nghĩa là vua Đại Việt, nhưng trên thực tế Thượng hoàng vẫn nắm mọi quyền hành. Tiểu tử là con của Thượng hoàng mà lại hiệu triệu quân dân nổi lên đánh nhau với Thượng hoàng thì thật lỗi đạo! Không những tiểu tử phải xấu hổ mà thiên hạ chắc hẳn cũng không nghe theo đâu!
-Ngươi cứ làm theo lời ta! Mười người cũng có một hai người nghe. Con người mấy ai chẳng ham danh lợi? Dần dần chức tước, quyền lợi sẽ lôi kéo chúng sau. Nếu không chịu làm như thế bao giờ ngươi mới chiếm lại được ngôi báu?
Trần Húc bất đắc dĩ phải vâng lệnh. Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ta sẽ giao hết những người Đại Việt đã đầu hàng ta cho ngươi quản lãnh!
Đầu tháng sáu cùng năm, Chế Bồng Nga cùng Trần Húc kéo quân đánh Nghệ An. Quân Chiêm kéo đến đâu quân của Trần Húc theo đến đó. Đám thuộc hạ của Trần Húc đã huênh hoang lấy danh nghĩa An Nam vương để kêu gọi quan quân và dân chúng Đại Việt ra hợp tác với “tân vương”. Ban đầu có rất nhiều người hưởng ứng, phần đông là đám dân nghèo đói, bất mãn. Trong số đó có tên Hồ Thuật người Nghệ An là có vẻ sừng sỏ nhất. Trần Húc thấy Hồ Thuật mạnh mẽ, can đảm, ưa xông xáo bèn phong cho y chức Đô tướng.
Nhưng giữa bối cảnh xã hội loạn lạc ấy, đám quân tân tuyển thiếu huấn luyện đã dễ dàng trở thành bọn bất trị, thậm chí chúng còn ngang nhiên hùa theo quân Chiêm cướp bóc đồng bào ruột thịt của mình.
Trần Húc chỉ là một văn nhân hiền lành, không thể nào tiết chế nổi đội quân ô hợp ấy. Vì vậy, dần dần cái danh nghĩa An Nam vương trở nên dị ứng với dân chúng Đại Việt. Về sau, quân An Nam vương đến đâu dân chúng Đại Việt lẩn tránh đến đó. Vua Chế Bồng Nga thấy được tình trạng này đâm ra thất vọng. Ông nói với tướng La Ngai:
-Xem ra ta đã lầm khi nghĩ Trần Húc như là bửu bối kỳ diệu để chinh phục Đại Việt! Với tình hình như hiện tại Trần Húc thật khó mà làm nên trò trống gì. Hãy tính đường khác thôi. Vùng này bây giờ quân giặc đã co cụm lại trong các thành trì cả rồi, chẳng dám phản công đâu! Chỉ cần để Bố Đông cầm một ít quân ở lại đây hỗ trợ Trần Húc tiếp tục công việc cũng đủ. Ta với khanh đem đại binh tiến ra vùng châu thổ sông Hồng đánh bọn Trần Phủ một trận nữa!
La Ngai vâng lệnh, chia quân tràn ra vùng châu thổ sông Hồng.
Thượng hoàng ở Thăng Long nghe được tin dữ lập tức sai Hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân chống giữ. Nhưng Đỗ Tử Bình như con gà chọi đã bị bể, không sao chống nổi quân Chiêm, quân Đại Việt lại tan chạy. Thừa thắng, quân Chiêm tiến thẳng lên Thăng Long. Vua quan Đại Việt lại phải di tản sang Đông Ngàn lánh nạn. Chỉ có An phủ sứ Thăng Long là Lê Giốc đã anh dũng ở lại quyết chống cự tới cùng. Vì thế cô sức yếu, cuối cùng Lê Giốc bị quân Chiêm bắt. Tướng La Ngai bắt Lê Giốc phải quì lạy, Lê Giốc mắng:
-Ta là quan của nước lớn, sao phải lạy chúng mày?
La Ngai nổi giận sai lính đem chém. Lê Giốc tiếp tục mắng chửi cho đến khi rơi đầu. Sau khi thả quân cướp phá Thăng Long thỏa mãn, vua Chế Bồng Nga ra lệnh rút về.
Quân Chiêm rút khỏi Thăng Long thì triều đình Đại Việt lại hồi kinh. Khi được nghe việc Trần Húc đã theo quân Chiêm đánh Nghệ An, lại lấy danh nghĩa An Nam vương để chiêu dụ quốc dân, Thượng hoàng lặng người đi một hồi. Lát sau ngài ứa nước mắt than:
-Nhà ta hết phước rồi chăng? Sao lại sinh thằng con bất trung bất hiếu đến vậy?
Ngài lại quay sang dặn Giản hoàng và các quan:
-Sau này các khanh ai gặp tên nghịch tử ấy cứ việc xử trảm nó! Từ nay ta coi như không sinh ra nó vậy!
Mọi người đều đáp: xin tuân mệnh.
Tới khi nghe tâu việc Lê Giốc mắng giặc đến chết, Thượng hoàng cảm kích nói:
-Trung thần phải như An phủ sứ Lê Giốc vậy mới được! Nếu thằng nghịch tử Húc mà làm được như Lê Giốc, dẫu nó có chết ta cũng đỡ đau khổ nhục nhã như bây giờ!
Thế rồi ngài hạ chiếu truy phong cho Lê Giốc tước Mạ tặc trung vũ hầu.
Biết rõ trong triều không còn ai đủ sức chống cự Chế Bồng Nga, Thượng hoàng chỉ còn gượng trông cậy vào Lê Quí Ly và Đỗ Tử Bình. Ngài tìm cách mua chuộc cảm tình của hai nhân vật này để họ gắng sức hơn, can đảm hơn trong công cuộc giữ nước. Đầu năm Kỷ Mùi Lê Quí Ly được thăng chức Tư không kiêm Xu mật đại sứ. Tới tháng chín, sợ quân Chiêm sang cướp, Thượng hoàng sai gom những tiền đồng của nhà nước đem giấu vào hành cung ở núi Thiên Kiện*. Tới tháng mười Thượng hoàng lại cho chở một số khác giấu ở tầng dưới tháp chùa Khả Lãng tại Lạng Sơn.
Thấy Thượng hoàng bất lực quá, trong đầu óc Quí Ly bắt đầu chớm dậy tư tưởng bất chính: dòm ngó ngai vàng. Ông kết giao với viên Chủ thư thị ngự sử Phạm Cự Luận để làm vây cánh. Sau đó Quí Ly lại tiến cử Cự Luận làm Quyền đô sự. Cự Luận là người khôn ngoan, mưu lược, có tài ứng biến nên Quí Ly yêu lắm. Quí Ly cũng tiến cử Nguyễn Đa Phương lên vua để bổ làm tướng quân. Nguyễn Đa Phương là con của vị võ sư nổi tiếng Nguyễn Sư Tề, người đã dạy võ cho Quí Ly hồi còn nhỏ. Bản thân Đa Phương có sức khỏe khác người, lại nhiều mưu trí và rất gan dạ. Cả Cự Luận lẫn Đa Phương đều luôn bày cho Quí Ly nhiều mưu kế hay nên người đời vẫn bảo Quí Ly có “phương viên tá lự” tức là giúp mưu kế cho được vuông tròn. Phương (chỉ Nguyễn Đa Phương) là vuông, viên là tròn (chỉ Cự Luận) vì chữ luận đọc âm gần với chữ luân có nghĩa là tròn. Phương viên tá lự còn có nghĩa là Đa Phương và Cự Luận bày mưu giúp kế. Nhờ sự phụ trợ của hai người này, Quí Ly đã đạt được nhiều thành tựu trong công việc. Do vậy, Thượng hoàng lại càng tin yêu Quí Ly hơn.
Sau khi rút quân về Đồ Bàn, vua Chế Bồng Nga lại cho mở tiệc khải hoàn để khích lệ quan quân. Mấy hôm sau ông cho mời một số đại thần nòng cốt trong triều vào cung họp bàn quốc sự. Ông nói:
-Trước đây ta nghĩ có thể dùng Trần Húc để lôi kéo quan binh và dân chúng Đại Việt hầu tạo sự chia rẽ, làm suy yếu thế lực của giặc, tăng trưởng thế lực của ta. Nhưng trong chuyến ra quân vừa qua, ta thấy rõ Trần Húc rất yếu kém trong việc thu phục nhân tâm. Đội quân ô hợp của y chắc phải dày công huấn luyện mới có thể sử dụng được. Chư khanh có kế hoạch nào giúp Trần Húc không?
Quan Bình chương Hùng Vân thưa:
-Trần Húc chỉ là một hoàng tử, từ nhỏ y đã đắm mình vào bể văn chương thơ phú mà chưa hề tiếp xúc với thực tế. Thân phụ y dù làm vua cũng chỉ là một ông vua bất tài thiếu kinh nghiệm làm sao dạy dỗ con được! Vì vậy y không biết gì thuật thu phục nhân tâm là phải. Muốn cho thành việc, bệ hạ nên cho người huấn luyện, hướng dẫn y một thời gian mới xong! Nếu bệ hạ không chê, thần tuy bất tài cũng tình nguyện cáng đáng việc ấy!
Chế Bồng Nga nói:
-Ý kiến hay đấy! Đã vậy ta giao việc đó cho khanh! Việc làm này rất quan trọng. Sử dụng được Trần Húc coi như mặt bắc Chiêm Thành không cần lo lắng gì nữa!
Theo lệnh của vua Chế Bồng Nga, một mặt Hùng Vân thân hành hướng dẫn Trần Húc về kế sách chiêu dụ dân chúng, một mặt ông cho người luyện tập quân sự cho đội quân dưới quyền của Trần Húc do Đô tướng Hồ Thuật chỉ huy.
Đầu năm Canh Thân, vua Chế Bồng Nga lại chuẩn bị sang đánh Đại Việt. Ông cho gọi Trần Húc đến hỏi:
-Nay mai ta sẽ ra quân đánh Đại Việt. Đội quân của ngươi đã được huấn luyện khá thuần thục rồi phải không? Chính ngươi cũng đã được huấn luyện cách thu phục lòng người. Vậy, ta để cho ngươi tự lo việc chiêu dụ dân Đại Việt trọn các xứ Tân Bình, Thuận Hóa, Nghệ An, Diễn Châu, ngươi liệu làm nổi không?
Trần Húc lúng túng nói:
-Tâu bệ hạ, đại quân đến đâu thần sẽ đưa người theo làm nhiệm vụ chiêu dụ quân dân Đại Việt đến đó!
Chế Bồng Nga lắc đầu:
-Ngươi chưa hiểu ý ta sao? Ta muốn chính ngươi phải hành động độc lập cho quen! Ngươi chỉ cần hoạt động từ lãnh thổ Nghệ An trở vào thôi! Còn đại quân của ta sẽ đánh vào những nơi khác như Thanh Hóa, Thăng Long…
Trần Húc càng bối rối, thưa:
-Tâu bệ hạ, đội quân của thần vừa ô hợp, vừa ít oi, nếu đơn độc đến các khu vực ấy sẽ bị quân Đại Việt tiêu diệt ngay! Việc đó thần sợ không gánh vác nổi!
Chế Bồng Nga dịu giọng dỗ dành:
-Ta đã tính kỹ rồi, ngươi khỏi sợ! Mỗi lần sang Đại Việt, hễ quân ta đến đâu quân trấn giữ địa phương đó lại lo co cụm vào các hang ổ của chúng để giữ mình. Bên ngoài hang ổ của chúng, ngươi làm gì chẳng được? Chỉ có quan quân ở Thăng Long mới thỉnh thoảng dám chường mặt đương cự với ta thôi. Nhưng đương cự mười trận chúng đã thất bại tới chín. Vì thế, quân ta đến đâu cũng như vào chốn không người. Nay đại quân ta đã ra đánh mặt ngoài, quan quân Đại Việt nghe tin đã khiếp vía co vòi lại hết ngươi còn sợ nỗi gì?
Trần Húc vẫn chưa hết lo ngại, thưa:
-Nếu lỡ Đại Việt biết được đại quân của bệ hạ dồn cả ra mặt ngoài thì e thần khó mà sống! Xin bệ hạ xét kỹ cho!
Chế Bồng Nga nhíu mày giọng hơi gắt:
-Sao ngươi nhát gan đến thế? Trước nay ta vẫn cố giúp ngươi thật sự trở thành An Nam vương. Ta đã không ngần ngại gả con gái ta cho ngươi chắc ngươi đã rõ lòng ta! Nếu để quân ta đi cùng thì ngươi đâu còn cái chiêu bài chính nghĩa để dẫn dụ quân dân Đại Việt? Ta để ngươi đi một mình vì lẽ đó. Chuyến này nếu ngươi không thành công được ta cũng hết phương giúp đỡ!
Sợ phật lòng Chiêm vương, Trần Húc đành phải liều vâng lệnh.
Đầu tháng 3, trong lúc đại quân Chiêm tiến ra Thanh Hóa thì Trần Húc kéo quân ra Nghệ An. Quả đúng như lời Chế Bồng Nga đã nói, quan quân Đại Việt ở Nghệ An vừa nghe tin quân Chiêm đến liền co cụm vào các thành trì để cố thủ. Trần Húc được thế liền chia quân bủa ra các nơi để chiêu dụ dân chúng…
Khi tin chẳng lành bay đến Thăng Long, Thượng hoàng cũng triệu tập quần thần bàn việc đối phó. Sau khi nghe các quan tâu bày về tình hình, ngài quyết định:
-Thủy quân của Chế Bồng Nga thiện chiến lắm. Phải có người chỉ huy uy tín mới chống lại được. Việc này phải nhờ quan Thái sư Lê Quí Ly mới xong! Nguyễn Đa Phương phụ tá cho Thái sư. Lực lượng trên bộ, trẫm giao cho Hành khiển Đỗ Tử Bình chỉ huy. Các tì tướng do các khanh bàn bạc với nhau để lựa chọn, sắp xếp.
Giản hoàng nói:
-Trẫm có một viên cận vệ tên Đỗ Hoành xem ra rất vũ dũng, quan Hành khiển nên cho Đỗ Hoành theo ra trận để y lập công một phen xem sao!
Đỗ Tử Bình vâng lệnh, bổ sung Đỗ Hoành vào vệ quân Thiết Giáp do tướng Nguyễn Vân Nhi quản lãnh.
Hai đạo quân thủy, bộ hẹn nhau cùng tiến. Lần này bên cạnh Lê Quí Ly có tướng Nguyễn Đa Phương nên ông có vẻ vững tâm hơn những lần trước. Quân đến sông Ngu là một nhánh của sông Mã, Quí Ly cho đóng cọc giữa dòng để cầm cự với quân Chiêm. Không lâu sau đó thì đạo quân bộ cũng đã đến kịp. Khi thấy đạo quân thủy của Chế Bồng Nga xuất hiện, Quí Ly sai viên tướng chỉ huy vệ quân Thần Vũ là Đỗ Kim Ngao và tướng chỉ huy vệ quân Thị Vệ là Đỗ Dã Kha ra đánh. Đỗ Kim Ngao thấy quân giặc đánh hăng quá hoảng sợ vội quay thuyền trở lại để tránh. Quí Ly nổi giận thét:
-Đánh giặc mà nhát như vậy làm sao thắng được?
Quí Ly chưa nói dứt câu thì Nguyễn Đa Phương đã chém Kim Ngao rụng đầu. Nguyễn Đa Phương xách đầu Kim Ngao đưa lên cao cho mọi người thấy và hô lớn:
-Quân sĩ ai nghe lệnh mà không chịu tiến lên thì phải chịu như thế này!
Rồi chính Nguyễn Đa Phương vung gươm đi đầu thúc thuyền tiến lên. Quân sĩ thấy vậy cũng hăng máu theo, nổi trống reo hò liều chết xông tới. Quân Chiêm Thành lúc đó đang thắng thế sinh chủ quan khinh địch nên phản ứng không kịp, hàng ngũ đâm ra rối loạn. Tướng Đỗ Dã Kha cũng không bỏ lỡ cơ hội, thúc quân đánh mạnh. Cánh quân bộ thấy thế cũng reo hò để cổ võ. Không mấy chốc thế trận quân Chiêm Thành bị vỡ. Vua Chế Bồng Nga thấy tình thế bất lợi phải ra lệnh rút quân.
Thấy Lê Quí Ly đại thắng, tướng Hoàng Phụng Thế nói với Đỗ Tử Bình:
-Thế là đại công về tay ông Lê cả rồi! Quan Hành khiển cùng đi với ông Lê mà về tay không e khó ăn nói với thiên hạ lắm?
Đỗ Tử Bình hỏi lại các tướng:
-Thế bây giờ các ông muốn tính sao?
Các tướng Hoàng Phụng Thế, Nguyễn Vân Nhi đều nói:
-Trần Húc đang hoành hành ở Nghệ An, quan Hành khiển cho quân tiến thẳng vào đó biết đâu chẳng lập được công lớn?
Đỗ Tử Bình mừng rỡ khen:
-Phải lắm! Các ông hãy đem quân bản bộ đi trước. Ta sẽ theo sau tiếp ứng!
Hoàng Phụng Thế nói với Nguyễn Vân Nhi:
-Phen này không chịu truy sát giặc để lập công còn đợi khi nào nữa? Phải đi gấp mới được!
Thế là hai tướng tức tốc kéo quân bản bộ đi ngay. Giữa đường họ chẳng gặp một tên quân Chiêm nào. Vừa tiến vào địa phận Nghĩa Đường vài dặm thì trời tối, hai tướng cho quân dừng lại tạm nghỉ. Trong lúc quân sĩ đang nấu cơm, tướng Nguyễn Vân Nhi tình cờ thấy được hai kỵ sĩ lạ mặt vừa mới tới đó. Nguyễn Vân Nhi sinh nghi, lập tức hô lính vây bắt cả lại. Không ngờ đó chính là hai người đưa tin một Chiêm một Việt do Chế Bồng Nga sai đến truyền lệnh cho Trần Húc rút quân. Nguyễn Vân Nhi mừng lắm, bèn đích thân tra hỏi chúng. Chúng sợ hãi khai cho biết An Nam vương Trần Húc đang đóng bản doanh gần thị trấn Yên Thành. Nguyễn Vân Nhi liền báo cho Hoàng Phụng Thế biết tin ấy. Hoàng Phụng Thế nói:
-Theo tôi, ta phải thúc quân đi suốt đêm nay mới mong được việc!
Nguyễn Vân Nhi nói:
-Tướng quân nói đúng. Chỉ sợ quân sĩ đã đi suốt ngày quá mệt mỏi, tính thế nào cho tiện?
Hoàng Phụng Thế nói giọng cương quyết:
-Nếu đợi đến sáng mai thì mất tiêu yếu tố bất ngờ! Hiện thời Trần Húc chắc vẫn chưa biết tin Chế Bồng Nga đã rút quân. Chuyến này nếu nhanh tay ta có thể bắt Trần Húc được đấy! Trần Húc bị bắt là Chế Bồng Nga hết đường lợi dụng! Nhất định phải tiến quân ngay!
Thế là hai tướng thúc quân sĩ lo việc ăn uống gấp rồi suốt đêm tiến thẳng hướng về Yên Thành. Trời chưa rạng đông quân triều đình đã vây gọn đạo quân của An Nam vương. Hai tướng liền cho bắc loa kêu gọi quân của Trần Húc đầu hàng. Đô tướng Hồ Thuật nghe báo động liền xách đao lên ngựa xông ra kháng cự. Nhưng đánh nhau chưa bao lâu Hồ Thuật đã bị Hoàng Phụng Thế chém rơi đầu. Quân của Trần Húc quá khiếp hãi, hầu hết quăng khí giới đầu hàng. Trần Húc lúng túng chưa biết hành động như thế nào thì một tướng của quân triều đình đã hùng hổ tiến tới trước mặt. Trần Húc sợ tướng kia không biết mình là ai sẽ làm ẩu liền kêu lên:
-Ta là Ngự câu vương Trần Húc đây!
Viên tướng đó chính là Đỗ Hoành thét lớn:
-Lệnh của Thượng hoàng, bất cứ ai cũng có quyền xử tử tên phản quốc bất trung bất hiếu này!
Trần Húc khiếp hãi chưa biết phản ứng thế nào thì may sao Hoàng Phụng Thế vừa đến kịp ngăn Đỗ Hoành lại. Hoàng Phụng Thế nói với Trần Húc:
-Phép nước không ngoại trừ một ai. Đức ông là người có tội chúng tôi không thể làm gì khác được. Xin đức ông cảm phiền ngồi vào xe tù đợi về kinh đô Thượng hoàng sẽ định đoạt!
Trần Húc không một cử chỉ kháng cự, răm rắp bước vào ngồi trong xe tù. Đỗ Hoành hỏi Hoàng Phụng Thế:
-Thưa, Thượng hoàng đã từng ra lệnh cho các quan ai gặp được Trần Húc đều có quyền xử tử y sao nay tướng quân lại không thi hành lệnh ấy?
Hoàng Phụng Thế nói:
-Khi đang giận ngài nói vậy chứ tình nghĩa cha con làm sao ngài bỏ được! Nếu chúng ta thi hành lệnh đó không chừng sẽ chuốc oán về sau đấy!
Nguyễn Vân Nhi nói:
-Thôi, chúng ta bắt được Trần Húc là tốt rồi!
Vừa nhận được tin hai vị tướng quân Hoàng và Nguyễn thắng trận, Hành khiển Đỗ Tử Bình vui mừng lắm. Thế nhưng khi thấy cái cũi nhốt Trần Húc, Đỗ Tử Bình lộ rõ vẻ hoang mang, kinh sợ. Ông rất lo ngại Trần Húc có thể gieo tai họa cho ông. Trần Húc ở đất Chiêm đã gần ba năm nay và đã làm rể vua Chiêm, có thể chàng đã biết rõ về vụ 10 mâm vàng mà Chế Bồng Nga đã dâng cho Trần triều lắm! Nghĩ đến điều đó, Đỗ Tử Bình không còn bụng dạ nào để tranh giành công trạng với ai nữa. Ông đổi ra thái độ khiêm tốn nói với hai tướng Hoàng và Nguyễn:
-Chúc mừng hai ông! Ra trận lần này bởi ta không được khỏe thành ra chẳng làm nên trò trống gì cả. Nhờ sức hai ông triều đình mới trừ được Ngự câu vương. Công lớn ấy là hoàn toàn của hai ông, ta không muốn dự vào. Về triều ta sẽ trình rõ chiến công này để Thánh thượng xét định việc ban thưởng!
Nguyễn Vân Nhi biết ý nói với Hoàng Phụng Thế:
-Xưa nay Đỗ hành khiển vẫn nổi tiếng là người tham công, nay bỗng nhiên tự nói không lạm dự vào chiến công đánh bắt Ngự câu vương, ông thấy thế nào?
Hoàng Phụng Thế cười:
-Có thể ông ta sợ liên can đến việc Đỗ Hoành toan sát hại Ngự câu vương!
Nguyễn Vân Nhi cười khinh bạc:
-Nếu Đỗ Hoành giết Ngự câu vương đi nữa, anh ta cũng chỉ làm đúng lệnh trên, việc gì mà phải sợ? Không ngờ lão ấy lại nhát gan đến thế!
Hoàng Phụng Thế lắc đầu:
-Đầu óc lão ấy tinh ma lắm, mình khó mà biết được! Nay lão không làm gì thiệt hại đến mình thì thôi, tìm hiểu làm gì cho mất công!
Đuổi được Chế Bồng Nga xong, Lê Quí Ly và Đỗ Tử Bình đem quân đắc thắng trở về. Dọc đường quân Đại Việt đã được dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Thượng hoàng ban thưởng rất hậu cho các tướng có công, đặc biệt nhất là tướng Nguyễn Đa Phương.
Sau đó, ngài đòi Trần Húc đến mắng nhiếc một trận rồi cho đưa về an trí ở An Sinh. Hành khiển Đỗ Tử Bình thì dâng sớ cáo bệnh xin thôi giữ binh quyền. Thế là chỉ còn một mình Lê Quí Ly chuyên lãnh chức nguyên nhung, làm Hải Tây đô thống chế.Từ khi Chế Bồng Nga lên cầm quyền nước Chiêm, quân đội Chiêm Thành đã bao phen làm cho quân Việt khiếp đảm. Từ vua quan đến dân chúng Đại Việt lúc bấy giờ cứ nghe nói đến quân Chiêm Thành là giật mình. Nhà Trần không còn kiểm soát được những vùng đất mà Đại Việt đã chiếm của Chiêm Thành trước đây dù người Chiêm chưa thực sự chiếm lại. Ở những lộ có tính cách xôi đậu người Chiêm sống lẫn lộn với người Việt từ Nghệ An trở vào phía nam rất khó mà biết được ai trung ai phản. Quan quân triều đình mà đi lẻ tẻ trong các vùng ấy có thể mất mạng không chừng. Vì thế, có nhiều quan chức được triều đình đặt ra cho có vị nhưng chẳng bao giờ dám bước tới nhiệm sở. Điển hình như viên quan Lê Khả Chú được cử làm An phủ sứ hai lộ Tân Bình, Thuận Hóa mà chỉ ở Thăng Long để điều khiển công việc hai lộ ấy…
Uy thế quân Chiêm lừng lẫy như vậy, nhưng vừa rồi một tướng trẻ của Đại Việt là Nguyễn Đa Phương lại đánh thắng quân Chiêm một trận thủy chiến oanh liệt đã khiến vua Chế Bồng Nga phải suy nghĩ, lo lắng. Khi nghe tin Trần Húc đã bị quân Đại Việt bắt, ông thản nhiên nói:
-Thế cũng hay, ta đỡ mất công suy nghĩ! Chẳng qua như lá rụng về cội! Điều đáng nghĩ là cái viên tướng trẻ Nguyễn Đa Phương mới xuất hiện thôi!
Các quan nghe Chiêm vương nói đều ngạc nhiên. Một viên quan hỏi:
-Hạ thần không hiểu vì lẽ nào bệ hạ lại cho việc Trần Húc bị bắt là cũng hay, đỡ phải mất công suy nghĩ?
Vua Chế Bồng Nga cười:
-Có gì đâu! Trước đây ta vẫn tưởng hắn là một viên ngọc vô giá, có thể sử dụng hắn trong việc an định Đại Việt. Nhưng bây giờ xét lại, ta nhận ra hắn chỉ là một viên sỏi. Dùng hắn khó mà làm nên cơm cháo gì được! Mất hắn đi ta cũng chẳng thiệt chi! Thôi hãy đợi kiếm một tên khác vậy!
Tể tướng Nhã Đam nói:
-Về phương diện lợi ích quốc gia, bệ hạ nói vậy là đúng. Nhưng bệ hạ cũng phải nghĩ đến công chúa nữa chứ! Thấy mối tình giữa Trần Húc và công chúa có vẻ mặn nồng lắm! Sợ công chúa sẽ phải đau khổ đấy!
-Ta biết tánh tình công chúa rất cương cường, không ủy mị. Bất quá công chúa sẽ buồn rầu một thời gian rồi cũng quên đi thôi!
Tể tướng Nhã Đam lại nói:
-Bệ hạ nói vậy nhưng cũng nên cho người săn sóc, an ủi công chúa cẩn thận mới chắc. Theo thần biết, ở lớp tuổi mới lớn tình cảm yêu thương đôi lứa khi gặp trắc trở nó diễn biến phức tạp không lường được đâu!

-Khanh nói phải lắm! Ta đã cho người lo việc ấy rồi!
Quả thật hậu quả của việc Trần Húc bị bắt đối với công chúa Hoa Lài không đơn giản như Chiêm vương đã nghĩ. Vừa nghe tin chồng bị bắt đem về lại Đại Việt, công chúa Hoa Lài đã ngất xỉu. Những ngày kế tiếp nàng khóc hôm khóc sớm đến nỗi khản tắt cả tiếng, chảy cả máu mắt. Nàng bảo nếu Trần Húc lỡ có bề nào nàng sẽ không sống được. Hoàng hậu Mỵ Thâm vô cùng lo sợ. Những người chung quanh đã thay nhau cố khuyên giải, an ủi để giúp nàng khuây khoa.
Khoảng mươi hôm sau thì công chúa lâm bệnh nằm liệt giường. Chiêm vương phải cho mời nhiều danh y vào cung hốt thuốc, săn sóc cho nàng. Nhưng trải qua hơn một tháng bệnh công chúa vẫn không thấy mòi thuyên giảm. Thấy con gái mình mỗi ngày mỗi tiều tụy khô héo, Chiêm vương rất đau lòng. Lúc ấy ông mới thấy hối hận vô về sự suy nghĩ sai lầm của mình! Chính ông đã đưa con gái mình ra làm mồi nhử Trần Húc để lợi dụng. Cũng chính ông đã bỏ rơi Trần Húc sau khi thấy chàng quá bất lực trong việc thi hành kế hoạch chiêu dụ quân dân Đại Việt. Ông không ngờ đứa con gái của ông lại chung tình đến thế! Nếu Hoa Lài có mệnh hệ nào ông sẽ phải ôm hận suốt đời!
Hầu hết các thầy thuốc đều bảo công chúa mắc phải “tâm bệnh” nên khó mà chữa! Họ khuyên Chiêm vương dùng tâm lý để chữa may ra có tác dụng. Tể tướng Nhã Đam dâng kế:
-Bệ hạ nên cho sứ mang lễ vật sang Đại Việt để cầu hòa. Tiếp đó đề nghị Đại Việt cùng Chiêm Thành chính thức tác hợp hoàng tử Trần Húc với công chúa Hoa Lài. Hai nước sẽ kết tình hòa hiếu, không còn xâm lấn nhau nữa! Thần hi vọng lúc này Đại Việt đang suy yếu, chắc hẳn họ sẽ vui vẻ nghe theo đề nghị của ta! Như vậy bệnh công chúa chắc chắn sẽ khỏi mà dân hai nước Chiêm Việt cũng có thể được sống yên lành bên nhau!
Tướng La Ngai bác bỏ ý kiến đó:
-Theo tôi, Đại Việt lúc này rất suy yếu! Cứ mỗi lần thấy quân ta ra Trần Phủ lại bỏ Thăng Long mà chạy! Thực lực giặc như thế ta cần gì phải mang lễ vật sang cầu hòa với chúng chứ? Tôi xin dẫn đại binh sang đánh một trận cho chúng vỡ mật kinh hồn rồi sau đó buộc chúng đưa Trần Húc ra nói chuyện, nhân đó ta sẽ bắt Trần Húc đem trả lại cho công chúa đâu có khó gì?
Nhiều tướng sĩ hăng hái ủng hộ ý kiến của La Ngai. Chiêm vương thấy các tướng hăng hái như vậy thì rất mừng. Ông bèn cử La Ngai làm Đại tướng quân chỉ huy đại quân đi đánh Đại Việt. La Ngai sai hai tướng Khả Long và Lôi Đồ chia quân hai cánh thủy bộ cùng tiến ra Thanh Hóa trước. Chính La Ngai chỉ huy đội chiến thuyền thứ hai đi sau tiếp ứng.
Phía Đại Việt, Lê Quí Ly cũng kíp đem quân bộ đóng đến ở núi Long Đại (núi Hàm Rồng) để chống giữ. Mặt khác, ông sai tướng coi vệ quân Thần Khôi là Nguyễn Đa Phương đem thủy quân đóng hàng cọc đóng ở cửa biển Thần Đầu để ngăn giặc.
Đầu tiên, cánh quân bộ của Lôi Đồ đã nhanh chóng tiến chiếm bờ núi sát cửa biển Thần Đầu. Lợi dụng trên núi có nhiều đá vừa tay, quân Chiêm đã lượm ném tới tấp vào đội binh thuyền của Nguyễn Đa Phương gây khá nhiều thiệt hại. Trong khi đó, cánh thủy quân Chiêm Thành do Khả Long chỉ huy từ mặt biển tiến vào đã gần. Trước tình trạng mười phần nguy cấp ấy, Nguyễn Đa Phương nói với quân sĩ:
-Chúng ta đã lâm đường cùng rồi! Nếu không tự cứu còn ai cứu chúng ta? Không lẽ bó tay chịu chết ở đây sao? Lúc này không liều chết mà đánh còn đợi lúc nào nữa?
Rồi không đợi mệnh lệnh của Lê Quí Ly, ông truyền mở hàng cọc, tự làm tiên phong hô quân xông thẳng thuyền vào đội thủy quân Chiêm Thành. Quân Chiêm không lường được sự liều lĩnh của quân Việt, bị đánh dữ dội quá không sao chống cự nổi. Quân Việt dùng đồ hỏa khí ném vào thuyền quân Chiêm làm nhiều chiếc bốc cháy ngùn ngụt, trong số thuyền bị cháy này có cả thuyền chỉ huy của tướng Khả Long. Viên tướng này phải nhảy xuống nước rồi mất tích luôn. Quân Chiêm khiếp sợ tháo chạy, quân Việt thừa thắng đuổi theo đánh chìm thêm nhiều chiếc nữa. Thế là đội thủy quân của Chiêm Thành bị loại khỏi vòng chiến.
Khi ấy trên bộ Lê Quí Ly cũng điều quân xuất trận. Cánh quân bộ của Chiêm Thành ở trên núi tận mắt chứng kiến cánh quân thủy đã tan rã cũng mất hết tinh thần chiến đấu, hốt hoảng rút lui. Lê Quí Ly thừa thế xua quân truy đuổi rất gấp. Một số quân Chiêm chạy lạc vào rừng, bị quân Việt bủa vây không tìm được lối ra phải chịu chết đói hết.
Hai cánh quân tiên phong cả thủy lẫn bộ của Chiêm Thành đã tan rã quá sớm đến không ngờ! Khi đội chiến thuyền hậu ứng do Đại tướng quân La Ngai chỉ huy tới nơi thì đã quá trễ, không cứu vãn nổi tình thế! La Ngai chỉ cứu vớt, thu gom được một số tàn binh đang tản mác chạy trốn rồi rút lui.
Sau trận đại thắng này, danh tiếng Nguyễn Đa Phương nổi như cồn. Ông được Thượng hoàng phong làm Kim ngô vệ đại tướng quân.
Ban thưởng cho các tướng xong, Thượng hoàng nói với Lê Quí Ly:
-Ta vừa đại thắng Chiêm Thành, quân thế đang hăng, binh trượng cục lại mới chế tạo được ba chiến thuyền cỡ lớn là Diễm Trị, Ngọc Đột và Nha Tiệp, khanh hãy nhân dịp này tiến đánh Chiêm Thành một phen! Ta nghĩ thế nào khanh cũng lập được công lớn!
Lê Quí Ly vâng lệnh, sai Nguyễn Đa Phương làm tiên phong, đem quân theo đường thủy đi đánh Chiêm Thành. Nhưng quân Việt vừa đến vũng biển Lại Bộ Nương* và eo biển Ô Tôn* thì gặp sóng bão lớn gây trở ngại. Lê Quí Ly cho đó là một dấu hiệu bất lợi, ra lệnh rút quân trở về.
Cũng trong thời gian đó, tại Thăng Long đã xảy ra một sự việc không hay. Nguyên khi Trần Húc bị bắt đưa về Đại Việt, Thượng hoàng đã giận dữ tưởng chừng muốn điên lên. Ngài mắng nhiếc Trần Húc một một trận tơi bời rồi sai người đưa Húc an trí ở An Sinh. Ba tháng sau ngài cho đòi Húc về để hỏi chuyện. Lần này Thượng hoàng đã đổi thái độ, ngài dịu ngọt hỏi han an ủi Húc. Sau đó ngài cho Húc trở về lại phủ cũ tại Thăng Long, tái hợp với công chúa Tuyên Huy. Tình cha con giữa Thượng hoàng và Húc dần mặn nồng trở lại như trước. Ít lâu sau ngài cải phong cho Húc tước Quan Phục đại vương.
Thấy Thượng hoàng cải phong và thương yêu Trần Húc trở lại, các quan đâm ra ái ngại cho Giản hoàng, một ông vua có đức, hiếu hạnh nhưng không có thực quyền. Các quan cũng lo ngại cho các tướng đã tham gia trong việc bắt Quan Phục đại vương về nước, nhất là những người đã lỡ tỏ thái độ khinh thị hoặc sỉ nhục đối với vương. Nói trắng ra, các quan hầu hết rất có cảm tình với Giản hoàng và chẳng mấy ai trông chờ gì ở Quan Phục đại vương. Họ cũng rất chán nản vì sự bất lực, khiếp nhược của Thượng hoàng trước người Chiêm và sốt ruột mong ngày Giản hoàng được chính thức cầm quyền…
Một hôm Nguyễn Vân Nhi nói với Đỗ Hoành:
-Tôi thấy địa vị Giản hoàng sao bấp bênh quá! Sau này lỡ ngài có bề nào ắt Quan Phục đại vương sẽ lên thay, lúc ấy bọn ta chắc khó sống nổi!
Đỗ Hoành nói:
-Tướng quân nói có lý lắm! Chính tôi suýt giết ông ta, chắc hẳn ông ta khó quên việc đó được! Tướng quân nghĩ chúng ta nên làm sao?
Nguyễn Vân Nhi ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
-Tôi nghĩ, nếu cái họa này xảy ra thật, nó phải đến với Giản hoàng trước khi đến với chúng ta. Ông là người gần gũi Giản hoàng nên thẳng thắn trình bày với ngài điều ấy. Ngài lên ngôi đã lâu mà Thượng hoàng vẫn chẳng trao cho ngài chút thực quyền nào, nay Thượng hoàng trở lại o bế Quan Phục đại vương, mối nguy của ngài đã hiện rõ trước mắt! Nếu Giản hoàng ý thức được mối nguy hiểm đó, tôi nghĩ việc tránh họa Quan Phục đại vương không khó!
Đỗ Hoành nghe lời, trình bày thẳng sự việc đã bàn với với Giản hoàng. Giản hoàng nói:
-Các ông nhận xét đúng! Thượng hoàng đưa ta lên làm vua nhưng ngài lại chẳng muốn giao cho ta một chút thực quyền nào hết. Ta nghĩ chắc ngài đã có chủ định rồi. Nhưng cứ mặc ngài, ta tin con người có số. Ngài là anh cha ta, ta thờ ngài cũng như thờ cha ta vậy. Thật lòng ta không muốn làm điều gì trái ý ngài!
Đỗ Hoành thuật lại lời vua nói với Nguyễn Vân Nhi, Nhi nói:
-Vua đã nói như thế ta cũng hết đường trông cậy. Đành phải cẩn thận để đề phòng vậy!
Đỗ Hoành nói:
-Đáng tiếc nhà vua hiền lành đến độ nhu nhược, ngài thật đáng thương! Dù khó khăn nguy hiểm đến mức nào tôi cũng quyết bảo vệ ngài đến cùng!
Nguyễn Vân Nhi lộ vẻ cảm kích nói:
-Trời sẽ không phụ lòng trung nghĩa của ông!
Ngày kia, Giản hoàng cùng Quan Phục đại vương Trần Húc tổ chức một cuộc săn bắn để tiêu khiển. Quân sĩ được lệnh bao vây một khu rừng, dùng chó săn, phèng la và mõ đánh động để gom thú hoang lại một góc. Nhiều giống thú rừng và cả một đàn nai hàng chục con cũng bị gom gọn vào đó. Trong bước đường cùng, nhiều con thú đã phải liều mạng phóng chạy thoát thân. Quân sĩ sợ mất mồi cũng tranh nhau bắn. Trong lúc lộn xộn, Quan Phục đại vương đã bị một mũi tên lạc của ai đó trúng nhằm chỗ nghiệt, ngã ngựa chết tại chỗ. Giản hoàng kinh hoảng cho đình ngay cuộc săn bắn để đưa Quan Phục đại vương về.
Thượng hoàng giận lắm, ngài khiển trách Giản hoàng rất nặng nề. Giản hoàng chỉ biết lặng thinh chịu lỗi chứ không biện bạch gì hết.
Lúc bấy giờ trên đất Chiêm, vua Chế Bồng Nga cũng vô cùng bối rối vì căn bệnh của công chúa Hoa Lài. Khi cử La Ngai đi đánh Đại Việt, ông vào thăm công chúa và nói:
-Cha đã cho Đại tướng quân La Ngai đi đón Trần Húc về cho con rồi đấy! Con phải lo ăn uống thuốc thang cho sớm lành bệnh đi! Trần Húc trở về mà con thế này coi sao được?
Công chúa lộ vẻ vui mừng qua đôi mắt ướt:
-Thật vậy sao phụ vương? Liệu bao giờ chàng về tới?
-Đường sá xa xôi làm sao về sớm được nhưng chắc chắn là sẽ về!
-Con đã thề sống chết với chàng trước thần giếng ở nhà ông Hoàng. Nếu chàng có mệnh hệ nào con chắc con không sống nổi. Con mong chàng sẽ về sớm.
Vua Chế Bồng Nga dỗ dành:
-Con cứ lo tĩnh dưỡng đi! Trước sau Trần Húc cũng về với con!
Thế là công chúa lại gắng gượng ăn uống và hết lòng trông đợi!
Nhưng không may là La Ngai lại thất trận nên phải trở về quá sớm! Chiêm vương bất đắc dĩ bắt mọi người giấu biệt tin này không cho công chúa biết! Ông dặn mọi người khi công chúa hỏi La Ngai đã trở về chưa thì cứ lựa lời mà khất lần… Riêng công chúa Hoa Lài đợi chờ quá lâu mà vẫn chưa thấy chồng về nàng cũng dần hiểu ra. Nàng lại khóc đêm khóc ngày như hồi Trần Húc mới bị bắt. Cuối cùng công chúa lại bị biến chứng đau mắt rồi bị mù luôn. Vua Chế Bồng Nga đau đớn kêu lên:
-Không ngờ chính ta đã hại con ta!
Mùa hạ năm Quí Hợi, vua Chế Bồng Nga lại đem quân đánh Đại Việt. Lần này ông cùng tướng La Ngai dẫn quân đi bộ men theo chân núi, đến đóng đồn ở sách Khổng Mục thuộc phủ Quảng Oai. Cả kinh thành Thăng Long nghe tin đều rúng động. Thượng hoàng liền sai tướng chỉ huy vệ Hoa Ngạch là Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ. Lê Mật Ôn kéo quân đến bãi Tam Kỳ chưa kịp bày trận đã bị quân Chiêm mai phục sẵn, bộ binh lẫn tượng binh nổi dậy một loạt tấn công. Quân Việt hoảng kinh bỏ chạy tán loạn, số bị bắt bị giết rất nhiều. Chính tướng Lê Mật Ôn cũng bị quân Chiêm bắt sống.
Nhận được tin xấu này, Thượng hoàng lập tức hạ lệnh cho tướng Nguyễn Đa Phương tìm mọi cách để bảo vệ Thăng Long. Nguyễn Đa Phương vâng lệnh, đôn đốc quân lính dựng rào trại ở các vị trí trọng yếu quanh kinh thành, ngày đêm canh giữ rất cẩn thận.
Giữa lúc đó Chiêm vương lại cho tạm ngưng chiến rồi sai chính tướng La Ngai đến Thăng Long xin yết kiến Thượng hoàng để thương thuyết. Thượng hoàng hỏi:
-Ông đến đây có mục đích gì?
-Bẩm, tôi vâng lệnh Chiêm vương đến đây để đề nghị với quí quốc cùng thực hiện một giải pháp mang lại hòa bình cho hai nước Việt và Chiêm!
-Đề nghị của Chiêm vương như thế nào?
-Bẩm, Chiêm vương đề nghị đem tướng Lê Mật Ôn trả lại cho Đại Việt với điều kiện Đại Việt cùng Chiêm Thành sẽ chính thức tác hợp cho hoàng tử Trần Húc với công chúa Hoa Lài con Chiêm vương. Nếu Thượng hoàng đồng ý, quân Chiêm sẽ lập tức rút khỏi lãnh thổ Đại Việt. Từ nay hai nước sẽ thành thông gia trở lại, dân chúng hai nước sẽ được sống yên bình bên nhau!
Thượng hoàng Nghệ Tôn thở dài:
-Ta đâu có muốn đánh nhau với quí quốc! Nhưng tiếc rằng hoàng tử Trần Húc đã gặp tai nạn mà mất rồi! Chiêm vương đã có lòng muốn dân chúng hai nước sống yên bình bên nhau có thể đề nghị những điều kiện khác được không?
La Ngai vừa nghe nói hoàng tử Trần Húc đã mất thì biến sắc mặt mà nói:
-Nếu Đại Việt đã giết Trần Húc rồi thì không còn gì để nói nữa! Tôi xin trở về bẩm báo với Chiêm vương để người quyết định!
Nói xong La Ngai đứng dậy xá Thượng hoàng mà lui ra. Thượng hoàng thấy thế lo sợ lắm. Ngài giận dữ nói với quần thần:
-Nếu Quan Phục đại vương còn sống thì chuyến này người Chiêm đã chịu hòa rồi! Cũng chỉ tại cái bọn gian ác muốn phản ta đã gây nên trở ngại này! Sớm muộn ta cũng phải điều tra cho ra bọn mưu hại Quan Phục đại vương! Chúng sẽ phải đền tội xứng đáng!
Thượng hoàng nói không ra hơi nhưng vẫn ráng nói. Càng nói vẻ giận dữ trên nét mặt ngài càng tăng. Cuối cùng ngài vỗ án thét lên:
-Tại sao các ngươi lại ở ác với ta đến thế?
Thế rồi Thượng hoàng ngất xỉu tại chỗ. Giản hoàng vội thúc quan ngự y và bọn nội thị đưa Thượng hoàng vào cung để săn sóc. Tinh thần các quan đều chấn động, căng thẳng, họ bảo nhau: Không biết chuyện gì sẽ xảy ra nữa đây?
Chiều hôm ấy Lê Quí Ly vào cung để vấn an Thượng hoàng. Lúc đó sắc mặt ngài vẫn còn đầy vẻ mệt mỏi, ưu phiền. Sau khi bày tỏ lòng lo lắng cho sức khỏe của ngài, Quí Ly thở dài:
-Vừa rồi cái điều kiện mà La Ngai đưa ra để tiến tới giải pháp ngừng chiến giữa hai nước Việt Chiêm quả thật khó hiểu. Làm như vậy thì Đại Việt ta hoàn toàn có lợi chứ đâu có thiệt thòi gì? Tại sao vừa nghe nói Quan Phục đại vương đã chết La Ngai liền đổi thái độ ngay như thế? Rõ ràng là sau vụ Quan Phục đại vương lâm nạn còn có một điều gì bí ẩn! Suy nghĩ về vấn đề này thần không khỏi nhức đầu. Chắc cái chết của Quan Phục đại vương xảy ra do một âm mưu sắp đặt chứ không thể là một sự tình cờ!
Như được gãi trúng chỗ ngứa, Thượng hoàng nói:
-Khanh nghĩ như vậy hợp ý ta lắm! Ta rất ân hận vì trong một lúc nóng giận trước đây ta đã lỡ thốt một lời làm cho kẻ xấu lợi dụng để làm nhục, làm hại con ta!
Lê Quí Ly được đà nói tiếp:
-Thần nhớ lại hồi đi đánh Chiêm Thành, Đỗ Hoành chỉ là một tên đày tớ nhỏ nhoi làm sao dám sỉ nhục Quan Phục đại vương nếu không có ai xui khiến! Và nếu mũi tên ác nghiệt trong cuộc đi săn kia là vô tình thì tại sao không trúng một người nào khác mà lại trúng vào Quan Phục đại vương?
Thượng hoàng nói:
-Ta cũng có những thắc mắc giống khanh. Khanh có phỏng đoán ra ai là kẻ đứng đằng sau vụ giết người mờ ám này không?
Quí Ly bỗng đổi ra thái độ run sợ, quì xuống xá Thượng hoàng mà nói:
-Thần chỉ suy nghĩ trong trí óc thô thiển của thần thôi chứ chưa dám khẳng định. Những suy nghĩ này thần chưa bao giờ dám tiết lộ với ai. Không hiểu sao hôm nay thần lại buột miệng lỡ lời trước mặt Thượng hoàng như thế, tội của thần thật đáng chết…
Thượng hoàng ngắt lời Quí Ly:
-Khanh suy nghĩ thế nào cứ nói ta nghe thử! Đúng hay sai ta chẳng chấp đâu mà ngại!
Quí Ly vẫn tỏ vẻ dè dặt:
-Lượng thánh quang minh lỗi lạc thần đâu ngại gì! Thần ngại đây là ngại bọn tiểu nhân hầu hạ bên cạnh quan-gia thôi! Chúng ưa đặt điều lập công trong khi quan-gia còn quá non trẻ sợ ngài không thấu được gian ý của chúng làm thần có thể mắc nạn oan!
Thượng hoàng trấn an Quí Ly:
-Khanh chớ ngại gì cả. Ở đây chỉ có ta với khanh, khanh cứ việc trình bày những suy nghĩ của khanh cho ta nghe đi!
-Dạ, thần nghĩ có thể bọn hầu hạ quan-gia lo ngại Quan Phục đại vương sẽ trở thành nguy cơ cho quan-gia trong tương lai nên ra tự động ra tay. Cũng có thể chính quan-gia nghe chúng xúi giục mà gây nên lầm lỗi!
Thượng hoàng sa sầm nét mặt nói:
-Phải rồi! Sự suy nghĩ của khanh có lý lắm!
Không lâu sau đó dư luận trong triều đã biến vụ tai nạn của Quan Phục đại vương trở thành một vụ mưu sát. Cái hố ngăn cách giữa Thượng hoàng và quan-gia càng ngày càng được khơi rộng…
Hôm sau Thượng hoàng Nghệ Tôn ra lệnh chuẩn bị xa giá để ngự sang sông Đông Ngàn tránh giặc. Một người học trò là Nguyễn Mộng Hoa thấy thế liền mặc áo mũ chính tề tới bến sông níu thuyền ngự lại mà tâu:
-Tình hình hiện nay chưa đến nỗi nghiêm trọng lắm đâu! Thượng hoàng còn ở lại quan quân sẽ còn liều chết đánh giặc, nếu Thượng hoàng bỏ đi hạ thần e mọi người sẽ mất tinh thần, làm sao chiến đấu?
Thượng hoàng nổi giận nạt:
-Ngươi chỉ là một tên học trò mặt trắng biết gì mà nói! Nếu ta ở lại rủi bị quân Chiêm bắt thì ô nhục biết chừng nào?
Thế rồi Thượng hoàng sai người xô Nguyễn Mộng Hoa ra mà chèo thuyền đi!
Nhưng lần đó giặc không xâm phạm nổi kinh thành Thăng Long. Tướng Nguyễn Đa Phương đã bố trí phòng thủ quá chặt chẽ khiến quân Chiêm không làm gì được.
Vua Chế Bồng Nga phần nóng ruột về bệnh tình của con gái, phần biết ở lại dẫu có thắng Đại Việt cũng chẳng tìm ra được Trần Húc nữa, lại thấy mùa đông đã đến, khí tiết trở nên lạnh lẽo bất lợi cho quân mình, đành phải hạ lệnh ban sư.
Khi vừa về đến Đồ Bàn, vua Chiêm nhận được ngay một cái tin đau đớn: Công chúa Hoa Lài không còn nữa! Vừa thương con vừa hối hận, vị anh hùng Chiêm quốc không thể nào cầm được nước mắt. Ông kêu lên:
-Trời phạt ta rồi!
Ông đã khóc rống lên thảm thiết khiến mọi người chung quanh cũng xúc động khóc theo. Khi ông hỏi sự việc đã xảy ra như thế nào, hoàng hậu Mỵ Thâm nói:
-Thảm thiết lắm bệ hạ ơi! Công chúa đã bỏ mình tại cái giếng nhà ông Hoàng! Ba ngày sau mới tìm thấy được xác!
Chiêm vương kinh hãi tột cùng, ông hỏi:
-Làm sao công chúa lại có thể bỏ mình tại giếng nhà ông Hoàng được? Ai đã đem công chúa đến đó?
Hoàng hậu Mỵ Thâm nói:
-Thiếp nào có biết gì đâu! Khi bọn thị nữ báo công chúa tự nhiên mất tích, thiếp vội cho người bủa ra tìm kiếm mấy ngày liền nhưng vẫn không thấy đâu. Khi đó một thị nữ mới cho biết trong thời gian gần đây nó nghe công chúa hay khấn nguyện gì đó có nhắc đến “thần giếng”. Thiếp liền cho người dò tìm ở các giếng. Cuối cùng mới tìm ra thi thể công chúa ở giếng nhà ông Hoàng!
Vua Chế Bồng Nga lại kêu lên:
-Trời ơi, ta hiểu ra cả rồi!
Sau khi quân Chiêm đã rút, Thượng hoàng Nghệ Tôn về ở cung Bảo Hòa (núi Lạn Kha, xã Phật Tích, huyện Tiên Sơn), sai Thiêm tri nội mật viện Nguyễn Mậu Tiên, Lễ bộ lang trung Phan Nghĩa và gia thần Vũ Hiến hầu thay phiên nhau chầu chực hàng ngày. Ngài ban cho ăn uống và hỏi các việc cũ, ghi chép từng ngày, biên soạn thành 8 quyển lấy nhan đề là “Bảo Hòa dư bút”, sai Đào Sư Tích đề tựa ở đầu sách để dạy bảo quan-gia.
Tháng hai năm Giáp Tí*, Thượng hoàng cho mở khoa thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc núi Tiên Du lấy đỗ bọn Đoàn Xuân Lôi, Hoàng Hối Khanh… cả thảy 30 người.
Trong thời gian này nhà Minh đang đánh Vân Nam nên họ hay nhân tiện yêu sách Đại Việt nhiều điều. Khi họ đòi cung cấp lương thực cho quân lính nhà Minh đóng ở Lâm An, khi họ đòi đưa 20 vị sư giỏi sang Kim Lăng, khi họ đòi đưa các thứ cây ăn quả giống vùng nhiệt đới như vải, nhãn, mít sang để trồng ở đất Trung Hoa v.v… Trước những yêu sách đó, lúc nào Thượng hoàng cũng chỉ biết hỏi ý kiến Lê Quí Ly và cuối cùng bao giờ cũng tuân hành răm rắp cho yên chuyện. Rất nhiều lính tráng Đại Việt đã phải chết vì nhiễm sơn lam chướng khí trong những chuyến tải lương thực sang biên giới Trung Hoa.
Càng về già, Thượng hoàng càng tin cậy, càng dựa dẫm vào Lê Quí Ly, hầu hết những hành động của ngài đều thể theo ý kiến của Quí Ly cả. Vì thế, nhiều vị đại thần, một số tướng sĩ, các nhân sĩ, các tôn thân nhà Trần hết sức lo ngại. Lê Quí Ly cũng biết như thế nên ông ngầm tìm cách mua chuộc lôi kéo họ về cùng cánh với mình. Nếu kẻ nào cứng rắn liệu không mua chuộc được thì ông tìm cách trừ khử. Thế lực của Quí Ly ngày càng trùm khắp trong triều.
Thấy tình trạng tuột dốc của nhà Trần không còn cứu vãn được nữa, tháng bảy năm Ất Sửu, một vị tôn thất uy tín bậc nhất của nhà Trần là Chương Túc Quốc Thượng hầu Trần Nguyên Đán xin về trí sĩ ở Côn Sơn. Con trai thứ của Thượng hoàng là Trần Ngạc đang giữ chức Thái úy cũng hết sức bất an trước thế cuộc! Một hôm Giản hoàng bàn với Thái úy Ngạc:
-Thượng hoàng tin yêu ngoại thích Quí Ly quá! Người cứ để hắn mặc sức làm chi thì làm, nếu không lo trước đi sau này sẽ rất khó chế ngự!
Không ngờ tên Vương Nhữ Mai hầu vua học lại tiết lộ việc ấy ra ngoài làm Quí Ly biết được. Ông ta đem tin đã nghe bàn với các thuộc hạ thân tín. Nguyễn Đa Phương khuyên Quí Ly:
-Đại nhân nên nại lý do có việc riêng, tạm tránh ra núi Đại Lại để chờ nghe tình thế biến chuyển thế nào rồi hãy định liệu.
Phạm Cự Luận bác đi:
-Không được đâu! Một khi đã ra ngoài thì khó lo chuyện sống còn!
Lê Quí Ly nói:
-Nếu không còn phương sách gì thì ta đành tự tử chứ nhất định không để tay kẻ khác giết mình!
Phạm Cự Luận nói:
-Đại nhân biết Thượng hoàng trong lòng vẫn còn căm tức quan-gia về việc giết Quan Phục đại vương chứ? Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả mà quan-gia lại mưu hại đại nhân thì Thượng hoàng lại càng ngờ lắm. Đại nhân hãy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo. Như vậy là chuyển họa thành phúc dễ như trở bàn tay! Thượng hoàng có nhiều con đích, đại nhân cứ tâu rằng thần nghe ngạn ngữ nói “Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con”, may ra Thượng hoàng sẽ tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định vương lên ngôi thay Giản hoàng. Nếu Thượng hoàng không chịu nghe khi ấy chết cũng chưa muộn.
Quí Ly nghe theo, bí mật tâu với Thượng hoàng như lời Cự Luận. Thượng hoàng khen là phải, quyết định truất phế Giản hoàng:
-Khi bỏ Giản hoàng rồi ta nên lập ai lên ngôi?
Lê Quí Ly thưa:
-Theo thần nhận xét Chiêu Định vương Ngung tuy còn nhỏ nhưng đã lộ rõ là người đức lớn, được các quan nể phục, có thể nối đại thống.
Tháng 12 năm Mậu Thìn*, Thượng hoàng giả vờ ngự về Yên Sinh, sai điện hậu hộ vệ, rồi sai chi hậu nội nhân đi mời vua tới bàn việc nước. Giản hoàng chưa kịp ăn sáng, vội đi ngay, chỉ đem theo hai người hầu. Đến nơi, Thượng hoàng bảo vua: “Đại vương đã đến!”, rồi lập tức sai người đem vua ra giam ở chùa Tư Phúc. Thượng hoàng cho tuyên đọc nội chiếu rằng:
“Trước đây, Duệ Tôn đi tuần phương Nam không trở về, lấy con đích để nối ngôi, đó là đạo từ xưa. Nhưng từ khi quan-gia lên ngôi đến nay, lòng dạ trẻ con, giữ đức không thường, gần gũi bọn tiểu nhân, nghe lời Lê Á Phu, Lê Dữ Nghị, gièm pha vu hãm công thần, làm lung lay xã tắc, phải giáng xuống làm Linh Đức Đại vương. Song quốc gia không thể không có chủ, ngôi báu không thể bỏ trống lâu, nên hãy đón Chiêu Định vương Trần Ngung vào nối ngôi đại thống. Bá cáo trong ngoài để mọi người đều biết”.
Các tướng chỉ huy các phủ quân cũ như tướng chỉ huy quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân Thiết Giáp là Nguyễn Kha, Lê Lặc, tướng chỉ huy quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách đều định đem quân vào cứu vua ra. Nhưng vua viết hai chữ “giải giáp” đưa cho các tướng và răn bảo họ không được trái ý Thượng hoàng. Các tướng tuân lệnh không bạo động nữa.
Một lát sau Thượng hoàng sai người dìu vua xuống phủ Thái Dương thắt cổ cho chết. Sau đó các tướng muốn cứu vua nói trên đều bị đem giết cả. Tri thẩm hình viện Lê Á Phu vì trước đây có hành động nghịch ý với Quí Ly cũng bị đem giết. Riêng Lê Dữ Nghị vì chưa có bằng chứng buộc tội nên chỉ bị đày ra Trại Đầu, nhưng rồi sau đó cũng bị giết vì một cớ khác.
Giết Giản hoàng xong, Thượng hoàng lập Chiêu Định vương Trần Ngung là con út của ngài mới 11 tuổi lên ngôi, đổi niên hiệu là Quang Thái. Vua tự xưng là Nguyên hoàng (về sau khi mất Nguyên hoàng được đặt miếu hiệu là Thuận Tôn nên từ đây xin gọi là vua Thuận Tôn cho tiện).

Trong quá trình hợp tác với quân Minh để diệt trừ giặc biển, quân Chiêm Thành đã tỏ ra xuất sắc làm cho vua Minh hết sức ngạc nhiên. Phần lớn đội quân thủy ấy là những người đã được tuyển từ những gia đình quen sống với các nghề trên biển từ nhỏ nên họ vẫn coi cõi sóng nước như chốn đất bằng. Cấp chỉ huy thì có tài nhận xét bén nhạy, chỉ cần nhìn qua hình thế núi biển là có thể đoán được nơi nào bọn thủy khấu ẩn núp, nơi nào không. Lính tráng thảy đều có thể bơi lặn, len lách tài tình như những con rái cá. Khi chiến đấu trên mặt nước, họ vẫn thường trội hơn các địch thủ. Nhờ sức của đội quân này nên chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều vùng duyên hải của Trung Hoa đã vắng bóng giặc Nụy. Phần lớn bọn cướp biển phải tản về ẩn núp quanh các miền ven biển và các đảo thuộc các nước nhỏ vùng Đông Nam Á.
Muốn triệt trừ hậu hoạn, vào năm Đinh Mão*, vua Minh đã ra lệnh cho hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông tập trung trên 300 chiến thuyền với đầy đủ khí giới, lương thực tại Chiết Giang để sang Chiêm Thành mở cuộc hành quân phố hợp tiễu trừ bọn giặc này.
Những cuộc hành quân phối hợp Hoa – Chiêm đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp khiến vua Minh rất hài lòng. Vua Minh càng ngày càng tỏ ra ưu đãi Chiêm Thành như với đứa con cưng. Vì thế, vua Chế Bồng Nga càng sinh lòng kiêu căng, ỷ công. Những chiến lợi phẩm đoạt được trong những cuộc hành quân phối hợp đã nhiều lần bị quân Chiêm giấu bớt. Người Minh biết được nhưng vẫn làm ngơ. Tiến xa hơn nữa, một lần nghe được tin Chân Lạp đang đưa 52 con voi sang triều cống nhà Minh, Chế Bồng Nga đã bàn với tướng La Ngai ngầm ra lệnh cho một viên quan võ đem quân giả làm một đám giặc biển để bắt chặn bớt. La Ngai hơi lấy làm lo hỏi:
-Làm thế nếu vua Minh biết được thì rắc rối lắm!
Chế Bồng Nga nói:
-Không sao đâu! Cứ làm cho gọn, đừng để lại tang chứng thì vua Minh làm gì được? Nó bóc lột các nước nhỏ hàng năm không biết tới bao nhiêu mà kể, ta có công bắt giặc biển giúp nó, nay chia bớt của nó một phần cũng hợp lẽ lắm chứ!
Thế rồi La Ngai đã cướp được 15 con voi cùng nhiều tên quản tượng. Việc tuy có người cáo giác, nhưng vì không nắm được tang chứng, vua Minh chỉ gởi một sắc dụ để răn đe Chế Bồng Nga như sau:
“Ta biết rằng ngươi là Di phương Nam, nhưng không nghĩ rằng ngươi vừa tôn kính Trung Hoa, lại lấy việc cướp bóc làm nghề nghiệp. Dù rằng hàng ngày ngươi cướp bóc làm điều bất nghĩa thì cũng phải biết kẻ lớn người nhỏ, kẻ trên người dưới! Há là người đứng đầu một nước lại dám buông tuồng khinh lờn thiên tử. Như năm ngoái ngươi dâng voi và 2 người quản tượng, từ khi cho con ngươi trở về thì trốn tránh không dâng tiếp! Việc làm của ngươi cứ tiếp tục như vậy thì một đàng không có lòng thờ nước lớn, một đàng thì mất sự chính nghĩa để giao tiếp với lân quốc. Ngươi phải suy nghĩ, sửa đổi, chớ để hối về sau.”
Dĩ nhiên là vua Chế Bồng Nga thừa khôn ngoan để “suy nghĩ, sửa đổi”. Chiêm Thành vẫn tiếp tục hợp tác với Trung Hoa trong việc diệt trừ giặc biển…
Cuộc vận động để loại trừ Giản hoàng của Lê Quí Ly đã thành công mỹ mãn. Đó là một thắng lợi cực kỳ to lớn của ông ta, một cú đẩy cực mạnh vào cái đà đang tuột dốc của nhà Trần. Thượng hoàng Nghệ Tôn lúc bấy giờ đã ngoài 70, già nua lẩm cẩm, vị vua mới Trần Thuận Tôn còn quá nhỏ, chưa có mấy kinh nghiệm việc đời và cũng chẳng có quyền hành gì. Những quan văn tướng võ sáng giá liên can hoặc có thiện cảm với Giản hoàng hầu hết đã bị diệt trừ. Những trung thần, những tôn thất nhà Trần còn may mắn không dính líu đến cuộc thanh trừng nói trên đều phải lo tìm cách để giữ mình. Một số xin về vui thú điền viên, những người còn ở lại đều phải nhẫn nhục câm nín để chờ thời. Người em ruột của Giản hoàng là Trần Nguyên Diệu, lúc bấy giờ đang làm An phủ sứ và cũng có đất phong ở Thanh Hóa, trước vốn có hiềm khích với Quí Ly, nay lại thấy vua anh bị giết oan ức, vừa căm giận vừa sợ hãi bèn lấy cớ bệnh hoạn, cáo quan xin về ở ẩn.
Vua Thuận Tôn lên ngôi chưa bao lâu, Lê Quí Ly tâu với Thượng hoàng:
-Theo luật âm dương, có mặt trời phải có mặt trăng vũ trụ mới điều hòa. Nay đã lập vua mới, tưởng cũng nên lập hoàng hậu cho thuận lẽ, xin Thượng hoàng sớm định liệu.
Thượng hoàng nói:
-Khanh hãy dò tìm các quan trong triều từ tam phẩm trở lên, nhà nào có con gái nhan sắc coi được và đủ tài đức hãy lên danh sách cho ta xem để quyết định chọn lập.
Lê Quí Ly tâu:
-Ở gia đình các quan trong triều thì thần chưa rõ, riêng thần cũng có đứa con gái lớn là Thánh Ngâu, thông minh, có sắc, có tài văn chương, công dung ngôn hạnh gồm đủ. Nếu Thượng hoàng không chê, xin đưa về hầu hạ cho quan-gia thì thật là vinh hạnh cho gia đình thần!
Lập con gái Thái sư làm hoàng hậu cũng là một cách gắn bó thêm tình thân giữa Thái sư với vị ấu quân con ngài – Thượng hoàng nghĩ – đó cũng là điều tốt! Ngài nói:
-Ý, ta suýt quên mất! Ta từng nghe Thái sư có một ái nữ là Thánh Ngâu tài sắc vẹn toàn mà! Thế là được rồi! Thôi, chẳng cần dò tìm lựa chọn gì nữa! Giờ chỉ cần chọn ngày lành tháng tốt để lập ngôi hoàng hậu là đủ!
Đầu năm Kỷ Tị*, con gái Thái sư Lê Quí Ly là Thánh Ngâu được lập làm hoàng hậu, cho ở điện Hoàng Nguyên.
Đến tháng tư, Quí Ly lại tâu với Thượng hoàng thăng Phạm Cự Luận chức Thiêm thư khu mật viện sự. Phạm Cự Luận lại tiến cử một số nhân tài cùng cánh là Phạm Phiếm, Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây, Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Chân và Đỗ Tử Mãn ra nắm giữ các chức vụ khá quan trọng trong triều.
Lúc bấy giờ giặc giã trong nước càng ngày càng gia tăng. Tháng tám năm đó, có tên Nguyễn Thanh người Thanh Hóa tự xưng là Linh Đức đại vương lánh nạn, tụ tập khởi nghĩa ở sông Lương, dân chúng hưởng ứng khá mạnh. Tháng chín lại có Nguyễn Kỵ người Nông Cống tự xưng là Lỗ vương Điền Kỵ cũng tụ họp binh lính đi cướp bóc nhiều nơi. Quan quân nhà Trần phải luôn đánh dẹp rất vất vả.
Nhận được tin này, Chế Bồng Nga liền cử đại binh chia làm hai cánh thủy, bộ tiến ra Thanh Hóa. Đầu tháng mười, cánh quân bộ của Chiêm Thành chiếm lấy làng Cổ Vô làm nơi đóng đại bản doanh. Cánh quân thủy cũng cho thuyền chiến đậu một dãy dọc trên sông Lương gần đại bản doanh để phòng hờ cứu ứng nhau.
Về phía Đại Việt, được tin quân Chiêm sang, Thái sư Lê Quí Ly nhận lệnh Thượng hoàng, cũng chia đại quân làm hai cánh thủy, bộ cùng tiến vào Thanh Hóa để chống cự. Về mặt bộ, dưới quyền Quí Ly có hơn 70 vị tướng sĩ lớn nhỏ đã lập phòng tuyến đối đầu với đại bản doanh của quân Chiêm. Cánh quân thủy thì Quí Ly giao cho tướng Nguyễn Đa Phương chiếm phía hạ lưu sông Lương làm căn cứ. Nguyễn Đa Phương cho quân đóng cọc dày đặc giữa lòng sông để ngăn giặc. Ông có nhiệm vụ vừa đối đầu với cánh quân thủy của Chiêm Thành vừa chận đường tiếp tế lương thực của quân Chiêm từ đường biển lọt vào. Nguyễn Đa Phương từng đánh thắng quân Chiêm mấy trận lớn nên quan quân nước Chiêm đều cảnh giác cánh quân này.
Quân hai bên tuy có tấn công lẫn nhau nhưng những cuộc tấn công này đều chỉ có tính cách lẻ tẻ, thăm dò. Trải hơn nửa tháng vẫn chưa có một trận đụng độ nào đáng kể. Nhìn chung tình hình, Lê Quí Ly đã tỏ ra rất lạc quan, ông nói với các tướng:
-Lần này chắc chắn quân Chiêm sẽ thất bại nặng!
Các tướng hỏi:
-Dựa vào đâu mà Thái sư tin chắc như vậy?
Lê Quí Ly khinh khỉnh đáp:
-Người Chiêm vốn ở phương Nam đâu có quen chịu rét mướt như quân ta? Thế mà Chế Bồng Nga lại xuất quân vào mùa này, đó là điều bất lợi thứ nhất! Quân Chiêm ở xa đến, chủ yếu là phải đánh nhanh, nay Chế Bồng Nga lại lừng khừng không dám đánh! Ở lâu tất phải gặp khó khăn về lương thực, nếu ta chận mất đường tiếp viện lương thực, quân giặc làm sao khỏi sinh loạn? Đó là điều bất lợi thứ hai! Còn ta ở đất nhà, việc chuyển lương không khó mấy. Nay cứ việc thủ cho kỹ để câu thời gian. Khi cạn lương quân Chiêm sẽ phải rút về thôi! Lúc ấy ta cho quân truy kích lẽ nào không thắng?
Các tướng nghe Thái sư luận đều có vẻ tin tưởng.
Trong khi đó về phía Chiêm Thành, Chế Bồng Nga cũng triệu tập các tướng để bàn kế hoạch tấn công Đại Việt. Mở đầu, Chế Bồng Nga hỏi:
-Quân ta ra đây đã gần cả tháng rồi mà vẫn chưa có một cuộc hành quân lớn nào, các khanh nóng ruột không?
Tướng Bố Đông nói:
-Quả tình thần thấy nóng ruột lắm. Quân ta ở xa đến lợi ở chỗ đánh gấp. Trước đây mỗi lần sang Đại Việt là ta tìm mục tiêu tấn công ngay. Nay quân hai bên đã đối mặt nhau hơn nửa tháng mà chỉ có những trận đánh cầm chừng, thần chưa hiểu được chủ định của bệ hạ!
Chế Bồng Nga gật đầu cười:
-Các khanh nóng ruột là phải. Ta ở xa đến, vấn đề chuyển vận lương thực bao giờ cũng khó khăn. Chỉ có dùng đường thủy mới tiện, nhưng nay quân Trần lại cho Nguyễn Đa Phương án ngữ đường thủy mất rồi! Y lại là một tướng giỏi! Nếu cứ đánh cầm chân nhau ở đây thế này trước sau quân ta cũng sẽ cạn lương mà rút. Khi ấy giặc sẽ thừa cơ truy kích, ta làm sao được vẹn toàn? Nhưng các khanh chớ lo. Ta đã có sẵn một kỳ mưu sẽ làm cho quân Đại Việt tan tác hết trong vài ngày tới!
Thế rồi Chế Bồng Nga gọi Ma Đà Nô, viên phó tướng chỉ huy cánh quân thủy đến dặn:
-Ta biết tướng giặc Nguyễn Đa Phương là một tay kiệt hiệt, nếu khanh trực diện đánh nhau với y chưa biết ai ăn ai. Nhưng khỏi cần đánh nhau! Ta giao cho khanh nhiệm vụ vô hiệu hóa cánh quân của Đa Phương thôi! Chỉ cần thi hành đúng mệnh lệnh của ta thế nào cũng thắng!
Ma Đà Nô thưa:
-Làm thế nào xin bệ hạ chỉ dạy!
-Khanh hãy lặng lẽ cho người lên phía thượng nguồn, chọn nơi nào thuận tiện nhất cho đốn gỗ làm một con đập ngăn nước càng cao càng tốt. Sau đó chia lập mấy trạm canh chừng từ đập ngăn nước tới trạm gần nhất có thể thấy được động thái của đội chiến thuyền Đại Việt.

Các trạm phải liên tục liên lạc nhau bằng cờ hiệu. Bình thường cứ mỗi đầu giờ đồng hồ, trạm gần đội chiến thuyền Đại Việt nhất lại phất cờ trắng lên rồi các trạm kế tiếp sẽ lần lượt phất theo. Khi nào thấy chiến thuyền Đại Việt ồ ạt tiến lên hãy phất cờ đỏ để báo hiệu. Cứ thấy hiệu báo cờ đỏ này, khanh lập tức hạ lệnh phá đập cho nước chảy mạnh để ngăn chận thuyền chúng tiến lên! Đắp đập xong hãy báo cho ta biết để thực hiện mưu kế!
Tướng Ma Đà Nô vâng lệnh, bí mật cho quân đi đắp đập. Thực hiện xong công tác, Ma Đà Nô liền thân hành về báo cáo cho Chế Bồng Nga biết. Chế Bồng Nga vui mừng gọi tướng Bố Đông đến dặn:
-Sau khi ta đã bí mật đưa quân ra rừng phục kích quân Việt, khanh hãy đem quân bản bộ chạy vòng tới vòng lui giả vờ như rút quân khỏi doanh trại, mục đích để quân do thám Đại Việt lầm tưởng quân ta rút đi thật. Như vậy nhất định chúng sẽ cho tinh binh đuổi theo. Khi đó khanh cứ cho quân chạy thẳng vào rừng để dụ chúng theo càng xa càng tốt. Trong lúc giặc tưởng ta đã rút chạy và tinh binh của giặc đã xa rời trại chính, quân phục kích của ta sẽ bất ngờ nổi dậy đánh úp doanh trại của chúng. Nếu cánh quân Việt đuổi theo khanh phát giác được ta dùng kế điệu hổ ly sơn mà quay lui thì khanh cũng phải quay trở lại cố đánh để giữ chân không cho chúng rút lui ứng cứu nhau.
Truyền lệnh cho Bố Đông xong, Chế Bồng Nga lại sai tướng La Ngai bí mật chuyển quân và voi ra rừng phục kích sẵn đợi lệnh.
Thái sư Lê Quí Ly vẫn cho người theo dõi tình hình địch hằng ngày, thấy được dấu hiệu quân Chiêm sắp rút ông rất mừng. Ông nói với các tướng:
-Ta đã đoán biết mà! Từ đất Chiêm sang ta rừng núi chập chùng, việc vận chuyển lương thực không dùng đường thủy là gặp rắc rối ngay! Nay cửa sông Lương đã bị quân ta chặn mất, làm sao quân Chiêm không nguy khốn được! Các ông hãy chuẩn bị sẵn sàng, hễ thấy chúng rút là ta tung quân truy kích ngay!
Quí Ly lại dặn tướng Phạm Khả Vĩnh:
-Đây là cơ hội để cho ông lập công lớn! Ông hãy tuyển lựa sẵn một đội quân tinh nhuệ, dũng cảm làm mũi nhọn! Hễ thấy quân Chiêm rút lui ông khỏi cần đợi lệnh ta, cứ việc tùy tiện xuất quân truy kích không cho chúng kịp trở tay! Ta và các tướng khác sẽ điều động số quân còn lại tiếp ứng sau!
Phạm Khả Vĩnh vâng lệnh, tuyển hầu hết những lính trẻ thiện chiến vào đội quân của mình đồng thời cho người liên tục theo dõi sự động tĩnh ở đại bản doanh quân Chiêm.
Ngày kia, lúc vừa tờ mờ sáng, Phạm Khả Vĩnh nhận được báo cáo thấy nhiều toán quân Chiêm từ đại bản doanh Cổ Vô đang rút chạy. Sau khi kiểm chứng cẩn thận, thấy doanh trại quân Chiêm gần như bỏ trống, Khả Vĩnh lập tức nổi hiệu báo động rồi kéo hết đội quân tinh nhuệ của mình đuổi theo.
Lê Quí Ly nghe hiệu báo động liền hỏa tốc hạ lệnh cho toàn quân gắng sức đuổi diệt quân Chiêm Thành. Nhưng quân của Quí Ly tiến ra chưa được bao xa thì bất ngờ bị phục binh Chiêm nổi dậy vây đánh dữ dội. Đội quân tinh nhuệ của Phạm Khả Vĩnh đã đi quá xa không sao quay trở lại giải cứu quân nhà kịp. Tiếng quân reo, tiếng voi gầm khủng khiếp đã làm quân Việt mất hết tinh thần, không chống cự nổi, tan rã hết. Quân Việt bị giết vô số. Hơn 70 tướng lãnh Đại Việt bị tử trận, tướng Nguyễn Chí chỉ huy đội quân Hữu Thánh Dực bị quân Chiêm bắt sống. Lê Quí Ly nhờ một toán thuộc hạ trung thành liều chết cứu thoát được, ông liền bỏ quân mà trốn về Thăng Long…
Tướng Nguyễn Đa Phương chỉ huy cánh quân thủy Đại Việt đang đóng ở hạ lưu sông Lương khi nghe lệnh đuổi đánh quân Chiêm cũng lập tức thúc toàn bộ chiến thuyền của mình tiến lên. Nhưng đoàn chiến thuyền này chỉ mới tiến được một đoạn sông liền bị một dòng nước rất mạnh cùng với những cây gỗ trôi hỗn loạn đẩy ngược lui làm cho quân sĩ chới với không tiến được nữa. Có mấy chiếc đã bị gỗ đụng phải vỡ lật trôi luôn. Một số quân sĩ đã phải chết đuối. Khi dòng cuồng lưu đã giảm sức mạnh, Nguyễn Đa Phương mới chỉnh đốn lại được hàng ngũ. Lúc ấy đại quân của Lê Quí Ly đã tan rã hoàn toàn.
Tướng Phạm Khả Vĩnh đang chỉ huy đội quân tinh nhuệ đuổi theo đội quân Chiêm bỗng nghe voi rống quân reo ở phía sau biết ngay mình đã mắc kế “điệu hổ ly sơn”, ông vội ra lệnh ngừng đuổi để trở lại cứu trại nhà. Nhưng đội quân Chiêm vừa bị truy đuổi liền quay ngược trở lại đánh liều để cầm chân Phạm Khả Vĩnh. Hai bên còn đang dùng dằng thì cánh phục binh của Chế Bồng Nga đã loại trừ xong cánh quân của Lê Quí Ly. Quân Chiêm chia làm đôi, một phần tiếp tục truy đuổi tàn quân Đại Việt, phần còn lại tập trung tiếp tay tướng Bố Đông vây đánh Phạm Khả Vĩnh. Đội quân của Khả Vĩnh dần lâm vào thế “lưỡng đầu thọ địch”. Tuy thiện chiến nhưng đội quân này quân số kém hẳn quân Chiêm, lại đã quá mệt mỏi nên càng lúc càng bị dồn đến đường cùng. Giữa lúc mười phần nguy khốn ấy bất ngờ có một đội quân Việt khác từ phía sông Lương đánh vào vòng vây khiến quân Chiêm đâm ra rối loạn. Quân của Phạm Khả Vĩnh cũng thừa cơ hội phản công dữ dội phá trùng vây. Không mấy chốc hai đội quân Việt đã bắt tay được với nhau. Khi ấy Phạm Khả Vĩnh mới biết được đội quân cứu nguy mình chính là đội quân của tướng Nguyễn Đa Phương!
Vua Chế Bồng Nga thấy quân Chiêm cũng đã mệt mỏi nên ra lệnh rút về đại bản doanh để tạm nghỉ.
Nguyễn Đa Phương cùng Phạm Khả Vĩnh nhập quân làm một rồi rút về nơi đóng binh thuyền cố thủ. Khi ấy Phạm Khả Vĩnh mới hỏi Nguyễn Đa Phương:
-Tại sao hồi sáng ông không tiếp cứu Lê Thái sư để đến nỗi quân ta thua tan tác như vậy? Bây giờ Lê Thái sư ra sao ông có biết không?
Nguyễn Đa Phương nói:
-Tôi cũng chưa biết tin tức gì về Lê Thái sư cả. Chỉ nghe là các tướng lãnh của ta bị phục binh Chiêm giết gần hết. Khi ông đã xuất quân đuổi quân Chiêm, tôi vâng lệnh Thái sư mở hàng cọc cho các chiến thuyền tiến lên để tiếp sức cho ông và Thái sư. Nhưng không ngờ quân Chiêm đã ngầm đắp đập trên thượng nguồn ngăn nước lại, chờ lúc ấy chúng phá đập ra khiến nước chảy mạnh quá tạo một dòng cuồng lưu với những thớt gỗ trôi hỗn loạn, đẩy những chiến thuyền của tôi bị dội ngược hết, dồn cục xuống hạ lưu. Có mấy chiến thuyền bị gỗ đánh vỡ chìm trôi luôn! Quân sĩ cũng chết mất một số! Tới khi dòng cuồng lưu đã yếu, thuyền có thể tiến lên được thì cánh quân của Lê Thái sư đã tan rã rồi. Tôi chỉ còn biết chỉnh đốn lại hàng ngũ, phòng thủ ở đây để theo dõi tình hình diễn biến ra sao. May cũng cứu được một số tàn quân của ta chạy lạc. Vừa rồi đám quân do thám của tôi lại thấy được ông đang lâm nguy nên tôi kíp đến hỗ trợ cho ông đấy!
-Thật cũng may cho tôi. Nếu ông rút chạy rồi thì tôi cũng khó sống!
-Rút chạy làm sao được? Giặc sẽ đuổi theo ngay! Và như thế thì cánh quân thủy của tôi cũng tan rã mất!
Phạm Khả Vĩnh lo lắng hỏi:
-Thế bây giờ ông tính sao? Liệu chúng ta có cầm cự được với giặc để đợi viện binh của triều đình không?
Nguyễn Đa Phương tỏ vẻ chán nản:
-Lê Thái sư cầm quân dở quá nên đánh đâu bại đó! Giặc vừa đại thắng xong, thế quân quá mạnh, quân ta ít oi thế này làm sao cầm cự lâu dài được! Nhưng nếu quân ta rút giặc lại thừa cơ đuổi đánh càng thêm khốn! Tôi nghĩ bây giờ chỉ còn cách hư trương thanh thế, phóng cờ quạt ra thật nhiều, buộc các thuyền lớn vào cọc gỗ ở sông, canh phòng thật nghiêm mật, rồi nửa đêm dùng thuyền nhỏ lẻn trốn về là bảo toàn được lực lượng.
Phạm Khả Vĩnh khen:
-Ông tính kế ấy hay lắm! Cứ thế mà làm thôi!
Thế là trong đêm đó Nguyễn Đa Phương và Phạm Khả Vĩnh đã rút quân về không hao một người. Hai tướng cùng vào bái yết Thượng hoàng để xin chịu tội. Thượng hoàng an ủi:
-Hai khanh đem quân cô để chống với đại địch mà rút về được an toàn như vậy là giỏi lắm! Các tướng giỏi ngày xưa cũng không hơn được đâu! Ta lẽ nào lại bắt tội hai khanh!
Thấy vua khen hai tướng, các vị quan vốn ghét Lê Quí Ly cũng khen dồi thêm với mục đích làm cho Lê Quí Ly nhột nhạt. Lê Quí Ly xấu hổ bèn xin thôi nắm giữ binh quyền.
Nguyễn Đa Phương được nhiều người ca tụng quá đâm ra kiêu căng. Trước kia Đa Phương từng ủng hộ Quí Ly, từng bày mưu lập kế cho Quí Ly, nay thấy Quí Ly tỏ ra quá bất tài về mặt quân sự thì đâm ra khinh lờn. Nhân một lần say rượu Phương nói:
-Thái sư xin thôi nắm giữ binh quyền là phải. Ông ấy còn cầm quân ngày nào thì quân ta còn khó chống Chiêm Thành ngày ấy!
Quí Ly nghe được lời Nguyễn Đa Phương nói giận lắm. Dù sao thì Đa Phương cũng nhờ ông ta cất nhắc mà nên. Đối với Quí Ly, đây là một hành vi trở mặt cần phải trừng trị để răn kẻ khác. Một lần nhân bàn việc nước với Thượng hoàng, Quí Ly nói:
-Nguyễn Đa Phương giỏi thì thiệt giỏi, chỉ tiếc là hắn kiêu căng, cẩu thả quá nên dễ làm hư việc. Trong trận sông Lương vừa rồi hắn báo với thần là hắn dò biết quân Chiêm đã bỏ trại chạy trốn hết, thần tin lời hắn nên sai Phạm Khả Vĩnh đem hết quân tinh nhuệ đuổi theo. Không ngờ lại mắc mưu giặc nên quân ta mới đến nỗi thảm bại như thế!
Thượng hoàng nghe Quí Ly nói thì nổi giận:
-Thế mà ta lại tưởng nó có công khen nó chứ!
Quí Ly trình với Thượng hoàng nên tạm cắt quyền chỉ huy của Nguyễn Đa Phương một thời gian để răn đe. Thượng hoàng nghe theo. Mấy ngày sau Quí Ly lại tâu:
-Theo thần dò biết, sau khi bị cắt quyền chỉ huy, Đa Phương tỏ vẻ bất mãn oán hận lắm! Thần ngại hắn có thể làm phản!
Thượng hoàng lo lắng hỏi:
-Theo khanh nghĩ bây giờ ta nên làm sao?
Quí Ly tâu:
-Đa Phương rất gan góc, tráng kiện. Thần sợ hắn sẽ trốn sang nước Minh phương Bắc hay Chiêm Thành phương Nam, thả cọp để lại mối họa về sau, chi bằng giết đi là hơn!
Thượng hoàng lại nghe theo. Lê Quí Ly liền bắt ép Nguyễn Đa Phương phải tự tử. Nguyễn Đa Phương than:
-Ta vì có tài mà được giàu sang, rồi cũng vì tài mà đến nỗi chết! Chỉ hận là không được chết ở chiến trường!

Quân Chiêm đã toàn thắng trong trận đánh ở sông Lương đầu mùa đông năm Kỷ Tị*. Hơn một nửa cánh quân bộ, cánh quân chủ lực của Trần triều do Lê Quí Ly chỉ huy tham chiến đã bị tiêu diệt. Tất cả những thuyền chiến cỡ lớn do tướng Nguyễn Đa Phương chỉ huy đã phải bỏ lại cho quân Chiêm sử dụng. Thiệt hại phía quân Chiêm không có gì đáng kể. Chiến thắng này đã làm khí thế quân Chiêm lên cao chưa từng thấy. Chiêm vương muốn nhân cơ hội này kéo đại quân tiến đánh Thăng Long.
Khi Chế Bồng Nga đang hội với các tướng để bàn kế hoạch tiến quân bỗng quân hầu vào dâng một bức thư của một người lạ vừa mang tới. Người lạ vẫn còn ở lại để chờ thư phúc đáp. Chế Bồng Nga mở thư đọc ra đọc. Đọc xong, ông vui vẻ nói với các tướng:
-Phen này thì kế hoạch lớn của ta chắc chắn sẽ thành!
Các tướng đều ngạc nhiên hướng mắt về phía Chiêm vương. Ông nói tiếp:
-Trần Nguyên Diệu đã xin về hàng ta!
Một viên tướng nêu ý kiến:
-Nguyên Diệu là con của vua Đại Việt Trần Kính trước đây đã bị quân ta giết, xin bệ hạ phải đề phòng trường hợp y trá hàng để tìm cách trả thù!
Chiêm vuơng khẳng định:
-Không có chuyện đó đâu! Nguyên Diệu là em ruột của Trần Hiện, y rất căm thù Lê Quí Ly vì chính Quí Ly đã xúi giục Trần Phủ giết hại Trần Hiện. Khi Trần Hiện bị giết, Nguyên Diệu đã từ bỏ quan chức để về ở ẩn. Nay Lê Quí Ly càng chuyên quyền quá, thấy nhà Trần sắp mất về tay Quí Ly nên Nguyên Diệu mới đầu hàng để mượn tay ta diệt trừ Quí Ly! Vụ bàn kế hoạch tiến quân của ta hãy tạm hoãn. Ta cần bàn bạc với Nguyên Diệu để vạch một kế hoạch thích hợp hơn! Ai có thể thay mặt ta đi theo người nhà của Nguyên Diệu mời ông ta đến đây được?
Tướng Bố Đông thưa:
-Thần tình nguyện đi mời Nguyên Diệu!
Chế Bồng Nga vui vẻ nói:
-Tốt lắm! Khanh hãy gắng đi sớm về sớm!
Khi Bố Đông đi rồi, tướng La Ngai nói với Chế Bồng Nga:
-Chuyến này quân ta tuy có nhiều yếu tố tất thắng nhưng vấn đề lương thực cho quân sĩ vẫn chưa hoàn hảo. Thần ngại mùa đông rét mướt, quân ta lại không quen chịu lạnh, dễ sinh ốm đau. Xin bệ hạ phải lo tính kỹ vấn đề ấy!
Chế Bồng Nga cười:
-Khanh nói đúng lắm! Thật tình ta đã lo việc ấy rồi! Ta đã cho người mang lệnh hỏa tốc về đòi cung cấp áo chống lạnh và lương thực. Tể tướng Nhã Đam hứa sẽ cho Ba Lậu Kê tải đến chậm nhất là nửa tháng nữa. Bây giờ cho phép chư khanh ai về trại nấy nghỉ ngơi và đợi lệnh mới.
Hôm sau thì tướng Bố Đông dẫn Trần Nguyên Diệu về ra mắt. Chế Bồng Nga đón tiếp Nguyên Diệu rất nồng hậu. Ông hớn hở nói:
-Ông đã chịu về hợp tác với ta ư? Phải chăng đây là ý trời? Hi vọng việc lớn của ta sẽ sớm thành. Nếu gian đảng của Lê Quí Ly bị tiêu diệt ông sẽ chính thức trở thành vua Đại Việt. Nhà Trần sẽ vững như bàn thạch. Hai nước Chiêm Việt sẽ mãi mãi sống hòa bình bên nhau! Ông nghĩ thế nào về cái tương lai ấy?
Trần Nguyên Diệu lộ vẻ mừng thưa:
-Nếu Đại vương đã dự tính như vậy tôi chẳng còn mong gì hơn!
Chế Bồng Nga khẳng định:
-Nói thật với ông, ta chẳng có tham vọng chiếm đoạt đất đai của Đại Việt đâu! Ta chỉ muốn bảo toàn lãnh thổ Chiêm quốc. Đánh Đại Việt xong, ta chỉ thu hồi những phần đất vốn là của Chiêm Thành đã bị Đại Việt chiếm đoạt trước đây thôi! Những phần đất còn lại ta sẽ giao hoàn hết cho ông. Nhưng muốn được như vậy, trước hết ông phải giúp ta! Ta biết gian đảng của Quí Ly bây giờ đã được bố trí đầy dẫy trong triều đình Đại Việt. Ông phải tìm cách để lũng đoạn nội bộ của chúng, làm cho chúng chia rẽ, nghi kỵ lẫn nhau. Ông phải lôi kéo những viên quan trong triều còn trung thành với nhà Trần đứng về phía ta. Được như vậy thì việc lớn mới dễ thành. Ông thấy thế nào?
-Thưa Đại vương, trong những tên phe cánh của Quí Ly đáng sợ nhất là Phạm Cự Luận và Nguyễn Đa Phương. Cự Luận là người nhiều mưu trí, rất giỏi về việc vạch ra những kế hoạch hành động. Đa Phương là một tướng lãnh rất dũng cảm, có tài đánh trận. Đại vương nên quan tâm đến hai tên đó. Về phần tôi, tôi biết rõ trong triều còn có Thái úy Trần Ngạc, Tư đồ Trần Nguyên Đĩnh, Thiếu bảo Trần Tôn đều là những người có ít nhiều thế lực và cũng rất thù ghét Quí Ly, tôi sẽ viết thư riêng cho họ kêu gọi họ làm nội ứng khi quân ta đến…
-Ông nói đúng lắm! Tên Nguyễn Đa Phương quả là một tướng có tài. Nếu sau này hắn đắc chí thì nước Chiêm ta sẽ gặp rắc rối không ít đâu! Phải có cách nào nhổ cái gai đó đi mới được! Nay ta sắp tiến quân, ông cứ viết thư kêu gọi các quan trong triều làm nội ứng đi! Sớm được chừng nào hay chừng ấy!
-Vâng, thưa Đại vương, tôi sẽ lo việc ấy ngay!
Giữa tháng 11 thủy quân Chiêm tiến ra châu thổ sông Hồng. Quân Chiêm đi đến đâu Nguyên Diệu lại cho người thân tín rêu rao “Diệt Quí Ly phò Trần” đến đấy! Thấy quân Trần quá yếu thế, một số quan lại Đại Việt đã tìm cách liên lạc với Trần Nguyên Diệu để mưu tính chuyện an toàn cho bản thân và gia đình. Tiếp đó Trần Nguyên Diệu cũng báo cho Chế Bồng Nga được một số tin vui. Trong đó có một tin làm Chế Bồng Nga hài lòng nhất là vụ tướng Nguyễn Đa Phương vì quá ngạo mạn nên đã bị Lê Quí Ly khử mất! Chế Bồng Nga vui vẻ nói:
-Có thế chứ! Lê Quí Ly đã giúp ta được một việc đáng kể! Chuyến này ta ra Đại Việt như đi vào chốn không người rồi!
Thượng hoàng Đại Việt nghe quân Chiêm đã ra đến sông Hồng, lúng túng không biết cử tướng nào đi ngăn chống. Trong triều lúc bấy giờ không còn tướng nào đủ khả năng đối địch với Chế Bồng Nga nữa. Lê Quí Ly bất đắc dĩ phải tiến cử Đô tướng Trần Khát Chân, hâu duệ của Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng là một viên tướng trẻ chưa nổi danh làm chủ soái. Đây là việc bất đắc dĩ, chính Thượng hoàng cũng chưa tin tưởng gì viên tướng trẻ này. Khi trao gươm lệnh cho Trần Khát Chân, Thượng hoàng vừa dặn dò vừa khóc. Trần Khát Chân cũng xúc động rơi nước mắt theo.
Trần Khát Chân đem quân đến Hoàng Giang thì đã gặp giặc. Khi quan sát quan sát địa điểm thấy không thể bày trận được ở đây, Khát Chân mới lui bày trận ở sông Hải Triều.
Trong lúc quân Trần đang phải đối phó với đại quân của Chế Bồng Nga thì ở lộ Quốc Oai Thượng, nhà sư Phạm Sư Ôn cũng hô hào dân chúng nổi loạn. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, Phạm Sư Ôn đã qui tụ được trên ba vạn người. Phạm Sư Ôn lấy Nguyễn Tông Mại người Cổ Sở, Nguyễn Khả Hành người La Xã làm hành khiển, chiêu tập những bọn không quê quán, lập các quân hiệu Thần Kỳ, Dũng Đấu, Vô Hạn, chuẩn bị đánh kinh sư. Giữa tháng chạp, Phạm Sư Ôn cho quân rầm rộ tiến vào Thăng Long. Thượng hoàng cùng vua Thuận Tôn phải bỏ thành chạy sang Bắc Giang lánh nạn.
Nhưng Phạm Sư Ôn ở Thăng Long không lâu. Ba ngày sau ông kéo quân về đóng ở Nộn Châu. Thượng hoàng bèn sai tướng Hoàng Phụng Thế đem quân đánh dẹp. Phụng Thế lúc đó đang cầm cự với tướng La Ngai của Chiêm Thành ở Hoàng Giang. Ông lấy làm khó xử, bàn với tướng Phạm Nhữ Lặc:
-Nay Thượng hoàng sai chúng ta đi đánh Phạm Sư Ôn ở Nộn Châu, thật khó nghĩ hết sức. Nếu chúng ta đi tất quân Chiêm sẽ thừa cơ đuổi đánh tập hậu. Rút quân trong trường hợp này là điều tối kỵ trong phép dụng binh. Vậy, chúng ta phải rút bí mật mới được. Tôi sẽ chọn một nửa quân tinh nhuệ đêm nay lén đi đánh Phạm Sư Ôn, ông chỉ huy số quân còn lại gắng giữ nhà. Ban ngày ông phải cố hư trương thanh thế làm ra vẻ ta đang sửa soạn ra quân, như vậy quân Chiêm sẽ không dám tấn công ta trước. Tôi đi trong ba ngày sẽ trở về.
Phạm Nhữ Lặc lo lắng hỏi:
-Phạm Sư Ôn có cả ba vạn quân trong tay, tướng quân ít quân hơn y nhiều, đánh cách sao mà hẹn nội trong ba ngày trở về được?
Hoàng Phụng Thế cười:
-Ông cứ yên chí! Cái anh chàng “nhà sư” ấy đâu có biết gì phép dụng binh! Lão thấy quân ta hiện đang đổ hết ra chống giữ quân Chiêm nên đâu có cần đề phòng! Có lẽ bây giờ chúng đang nằm chỏng cẳng mà ngủ cả đấy! Đường đi nước bước ở Nộn Châu tôi lại rất thông thạo. Chính Thượng hoàng biết điều ấy nên mới sai tôi đánh Sư Ôn đấy chứ! Chuyến này tôi sẽ lập kỳ công cho ông xem!
Phạm Nhữ Lặc nói:
-Tôi hi vọng tướng quân sẽ giữ được đúng lời!
Đêm ấy Hoàng Phụng Thế bí mật dùng một số thuyền nhỏ đi theo đường sông Miệt Giang rồi đổ bộ lên Nộn Châu. Quả thật quân của Phạm Sư Ôn vì quá chủ quan, không đề phòng gì cả. Hoàng Phụng Thế dẫn quân vào tới tận bộ chỉ huy mà chúng vẫn không hay biết. Ông đã đánh một trận thật ngoạn mục, nhanh chóng bắt gọn bọn Phạm Sư Ôn, Nguyễn Tông Mại, Nguyễn Khả Hành và nhiều thuộc hạ thân tín. Loạn quân như rắn mất đầu, tan rã bỏ chạy. Hôm sau Phạm Sư Ôn cùng đồng bọn bị dẫn giải về Thăng Long xử trảm hết.
Chiến thắng này xảy ra quá nhanh quá bất ngờ đối với cả triều đình lẫn dân chúng Đại Việt. Chính tướng La Ngai cũng không hay biết khi đang bận cầm cự với mình mà Hoàng Phụng Thế lại có thể đột xuất rút quân lui để lập một chiến công vẻ vang với một đối thủ khác như thế.
Nhận được tin này, La Ngai chưng hửng thốt lên:
-Tức thật! Ta vẫn hi vọng Phạm Sư Ôn sẽ chạm trán với quân Trần ít nhất là vài trận nẩy lửa trước khi quân Chiêm ta ra tay! Ai ngờ quân Việt lại triệt hạ Phạm Sư Ôn dễ dàng đến thế! Bây giờ quân Việt đã tỉnh hồn, chắc ta khó đè bẹp chúng như trước!
Chế Bồng Nga chậm rãi trấn an:
-Chư khanh chớ ngại! Từ trước tới nay chưa lần nào nội bộ nhà Trần bị chia rẽ trầm trọng như lần này đâu! Lê Quí Ly càng lộng quyền các đại thần càng hướng ngoại, càng chống lại hắn! Bên ta lại còn có Trần Nguyên Diệu em Trần Hiện rất có uy tín đối với dân Đại Việt! Lần này ta phải bắt Trần Phủ quì gối xin hàng mới nghe!
La Ngai nói:
-Đành rằng nội bộ nhà Trần đang bị chia rẽ trầm trọng nhưng xin bệ hạ chớ chủ quan! Có nhiều chuyện xảy ra không ngờ được đâu! Như kết quả trận đánh diệt đám giặc Phạm Sư Ôn của Hoàng Phụng Thế thì đủ biết! Theo thư ước hẹn của Tể tướng thì đội thuyền lương do Ba Lậu Kê chỉ huy đã gần đến. Sao bệ hạ không cho một đội thuyền chiến ra đón và bảo vệ chúng về đây cho chắc? Biết đâu bọn Đại Việt chẳng dò biết và lại thực hiện một vụ tập kích bất ngờ!
Chế Bồng Nga như sực nhớ ra:
-Khanh nói phải lắm. Theo ước hẹn thì ngày mai đội thuyền lương có thể đến rồi! Hãy truyền cho tướng Lợi Châu dẫn một đội binh thuyền ra biển ngay. Cứ canh chừng thấy đội thuyền lương đến lập tức bảo vệ hướng dẫn chúng về đây cho an toàn!
Tướng Lợi Châu đã đi ba ngày nhưng vẫn chưa thấy bóng dáng đội thuyền lương của Ba Lậu Kê đâu cả. Ông bèn sai người về báo cho Chế Bồng Nga biết. Chế Bồng Nga nghe báo không sao khỏi nóng ruột. Mới mấy ngày trước ông đã nhận được sớ báo cáo công việc trong triều của Tể tướng Nhã Đam, trong đó cũng có lời xác nhận đội thuyền lương của Ba Lậu Kê đã lên đường từ lâu và sẽ đến nơi đúng hẹn. Lý do nào khiến đội thuyền lương phải đến trễ? Có chuyện gì xảy ra không? Tướng Lợi Châu phải cho thuyền chiến men theo bờ biển chờ tin!
Chế Bồng Nga nóng ruột hỏi quan giữ kho thì y cho biết lương thực chỉ còn dùng đủ khoảng mười ngày. Ông lập tức triệu các tướng lại để bàn cách đối phó nếu gặp tình trạng không ổn. Qua ý kiến của các tướng, Chế Bồng Nga dự định trong trường hợp thuyền lương đến trễ, nếu chưa tìm được kế hoạch cướp lương của Đại Việt thì phải tìm cách rút quân lui an toàn.
Mãi ba hôm sau tướng Lợi Châu mới hộ tống đội thuyền lương của Ba Lậu Kê đến đại bản doanh. Tính ra đã trễ hẹn mất đến mười ngày. Chế Bồng Nga nổi giận đòi Ba Lậu Kê hỏi:
-Chuyện lương thực là huyết mạch của toàn quân! Quân thiếu lương ăn rất dễ sinh loạn, điều đó chắc ngươi biết! Tại sao ngươi làm nhiệm vụ tải lương lại để trễ nãi lâu đến thế?
Ba Lậu Kê thưa:
-Bẩm, vì thuyền chở lương quá nặng, lại gặp mùa gió ngược nên phải đến chậm!
Chế Bồng Nga quát:
-Ngươi chớ lấy miệng lưỡi mà biện bác! Theo quân luật nước Chiêm, người trách nhiệm việc tải lương chỉ cần trễ hạn ba ngày đủ chém đầu rồi! Huống chi ngươi lại trễ đến mười ngày! Nếu trước đây không chiếm được một số lương thực của Đại Việt thì quân ta đã lâm khốn rồi!
Thế rồi ông thét bảo quân đao phủ kéo Ba Lậu Kê ra chém. Các tướng thấy vậy đều can:
-Đây y lại mới vi phạm lần đầu, xin bệ hạ giảm bớt hình phạt cho y!
Chế Bồng Nga giận dữ nói:
-Tha cho y vì y mới vi phạm lần đầu ư? Nếu để y vi phạm đến lần thứ hai chắc cái đầu ta không còn! Không thể tha được! Cứ kéo ra chém!
Các tướng lại năn nỉ:
-Trước khi ra quân mà chém người nhà là điềm bất lợi! Xin bệ hạ nghĩ lại!
Chế Bồng Nga chỉ mặt Ba Lậu Kê mà nói:
-Nể tình các tướng, ta tạm tha tội chết cho ngươi! Nhưng phải đánh 100 roi để ngươi nhớ mãi cái lỗi lầm đáng chết này! Nếu tái phạm, ta nhất quyết không bỏ qua!
Thế là Ba Lậu Kê bị lôi ra đánh 100 roi. Trận đòn đau này đã khiến Ba Lậu Kê căm giận Chế Bồng Nga lắm. Y quyết tìm cách để rửa thù. Lợi dụng một đêm trời tối, Ba Lậu Kê đã lẻn lấy một chiếc thuyền con trốn sang đầu hàng quân Đại Việt.
Lúc bấy giờ đội thuyền chiến của tướng Trần Khát Chân bố trí dọc một dãy trên sông Hải Triều liên lạc hỗ trợ nhau với cánh quân bộ đóng dựa bờ sông. Trần Khát Chân chủ trương trước hết phải gắng giữ thế thủ để bảo toàn chủ lực, đợi khi quân Chiêm mệt mỏi, biếng trễ mới phát động phản công. Ông cho quân sĩ đóng nhiều hàng cọc trên sông quanh đội chiến thuyền của mình để làm hàng rào cản giặc. Ông cũng hạ lệnh sẽ nghiêm trị bất cứ ai tự động gây chiến với giặc. Phải tuyệt đối nhẫn nhịn, né tránh mọi sự khiêu khích của quân Chiêm.
Sự nhẫn nhịn tối đa này đã làm quân Chiêm ngày càng khinh thị quân Việt. Chúng vẫn hay gọi quân Việt là bọn “rùa rụt cổ”. Nhiều toán lính Chiêm đi tuần thám đã ngang nhiên cho thuyền lướt qua lướt lại nhiều lần sát hàng cọc phòng thủ của quân Việt, bất chấp nó nằm trong tầm tên bắn của địch. Quân Việt giận sôi gan mà vẫn phải cố nhịn. Có vài tướng đem việc ấy trình lại với Trần Khát Chân, Khát Chân giải thích:
-Phải cố gắng nhẫn nhịn! Nếu ta bắn chúng, bất quá giết được vài tên thôi nhưng chắc chắn chúng sẽ trả đũa, lại sinh lôi thôi! Chúng cố tình khiêu khích để cho ta nổi giận mà xua quân truy đuổi chúng đấy! Ta nổi giận là mắc mưu chúng, là tự làm hỏng kế hoạch ta đã vạch ra! Quân Chiêm vốn không quen chịu lạnh, bây giờ đã sang mùa đông, ở đây lâu ngày chúng làm sao chịu nổi? Hơn nữa, vấn đề tiếp tế lương thực của chúng cũng rất khó khăn! Nay ta chỉ cần thủ cho kỹ, tự nhiên quân Chiêm sẽ phải mệt mỏi, chán nản mà rút lui thôi. Khi ấy các ông sẽ tha hồ đánh! Nhưng bây giờ thì chưa phải lúc! Chỉ khi nào quân Chiêm thật sự xâm phạm vào hàng cọc phòng thủ mới được phản ứng! Ai vi phạm lệnh ta nhất quyết không tha! Các ông có trách nhiệm phải nhắc lại lệnh này cho toàn quân biết!
Hôm Ba Lậu Kê đầu hàng quân Việt, Trần Khát Chân đã tự mình thẩm vấn y. Sau một hồi hỏi han chung chung về tình hình, Trần Khát Chân đi vào điểm chính:
-Ngươi biết tại sao Chế Bồng Nga ra đây đã lâu mà chưa chịu tấn công quân Đại Việt không?
Ba Lậu Kê thưa:
-Bẩm thượng quan, Chế Bồng Nga đã tính lầm. Lão ta nghĩ thế nào đám quân nổi loạn của Phạm Sư Ôn cũng sẽ giáng cho quân Trần một vố choáng váng! Tất nhiên quân hai bên đều sẽ bị sứt mẻ lớn! Lão ta muốn đợi tới lúc ấy sẽ thủ vai “ngư ông đắc lợi”! Chỉ cần đứng giữa dàn hòa, ép nhà Trần phải nhường ngôi cho Trần Nguyên Diệu là xong! Nhưng không ngờ đội quân của Phạm Sư Ôn tan rã quá sớm! Sự việc ấy đã làm cho lão hụt hẫng! Bây giờ thì lão sắp tấn công Đại Việt đấy!
Trần Khát Chân hỏi:
-Sao ngươi biết ông ta sắp tấn công?
-Bẩm biết, vì mấy ngày trước đây lão đã ra lệnh cho đội quân do thám chia người đi quan sát các mục tiêu cần tấn công! Đó là dấu hiệu lão sắp ra tay! Với những mục tiêu quan trọng, thế nào lão cũng sẽ đích thân tới quan sát. Nhờ sự quan sát, nghiên cứu trận địa kỹ càng như vậy nên lão ra trận rất ít khi thất bại!
Một ý nghĩ thoáng lên trong đầu óc Khát Chân:
-Ngươi nói Chế Bồng Nga vẫn luôn đích thân đi quan sát cẩn thận những mục tiêu quan trọng trước khi tấn công phải không?
-Bẩm thượng quan, đúng như vậy! Dù những mục tiêu ấy đã được quân do thám quan sát và báo cáo, lão vẫn đi quan sát lại để kiểm chứng cho chắc ăn!
-Như vậy là chắc chắn trước sau ông ta sẽ thân hành đến quan sát nơi đây?
-Bẩm, chắc chắn như vậy!
-Ông ta sử dụng phương tiện để đi quan sát trận địa như thế nào? Chẳng lẽ dùng thuyền soái với nghi trượng hộ tống rườm rà mà đi thì phiền phức và lộ liễu quá?
-Không có đâu! Khi đi quan sát trận địa, lão cũng dùng một chiếc thuyền trông chẳng khác những chiếc thuyền bình thường.
-Như vậy nếu thuyền của Chế Bồng Nga đến đây ta chẳng thể nhận ra được sao?
-Bẩm, nhận ra được chứ! Khó là khó với người ngoài thôi. Riêng những từng người gần gũi với lão ta như tiểu nhân sẽ nhận biết dễ dàng! Thật ra mui chiếc thuyền riêng của Chế Bồng Nga có một khoảnh sơn xanh chỉ có những người chú ý nhìn mới thấy!
-Nếu thuyền Chiêm vương đi lẫn lộn trong nhiều chiếc thuyền khác ngươi vẫn nhận ra được?
-Bẩm vâng! Chắc chắn như thế!
Trần Khát Chân mừng rỡ nói:
-Vậy, ngươi ở lại đây giúp ta. Nếu trận này bắt được Chế Bồng Nga, ta sẽ tâu với thiên tử phong cho ngươi tước hầu!
Ba Lậu Kê mừng rỡ xin vâng lệnh.
Quân Chiêm và quân Trần đã án binh bất động giữ miếng với nhau trên sông Hoàng Giang và sông Hải Triều trải ngót một tháng. Quân Việt đã được lệnh của chủ soái Trần Khát Chân phải nhịn nhục cố thủ, tuyệt đối không được gây chiến.
Cuối tháng giêng năm Canh Ngọ*, Chế Bồng Nga cùng Trần Nguyên Diệu đem hơn 100 chiến thuyền đi xem xét tuyến phòng thủ của Đại Việt trên sông Hải Triều. Đó là một việc làm quen thuộc của ông. Nhờ thói quen xông xáo quan sát trận địa, với bộ óc tinh diệu phân tích được thế lợi hại của địa hình, địa vực, ông đã tạo được nhiều chiến thắng vang dội. Để đề phòng sự chú ý theo dõi của địch quân, khi ra trận địa, Chế Bồng Nga không bao giờ dùng chiếc thuyền soái chính thức của mình. Ông chỉ dùng một chiếc thuyền không khác mấy với những chiếc thuyền khác. Khác nhau chăng chỉ có những người gần gũi ông mới phân biệt được.
Qua nhiều lần theo dõi những báo cáo của đội quân tuần thám, Chế Bồng Nga biết rất nhiều lần quân Chiêm cố khiêu khích đi vào trong tầm bắn của quân Việt mà quân Việt vẫn cố nhịn. Ông rất hài lòng khi thấy quân Việt tỏ ra lép vế đến thế. Ông muốn tận dụng ưu điểm này để đạt được một trận thắng thật hoàn hảo. Ông muốn chính mắt mình quan sát trận địa một lần chót trước khi ra quân. Thế là Chế Bồng Nga cho năm chiến thuyền, trong đó có cả chiếc chở ông và Trần Nguyên Diệu, tiến lại gần hàng cọc phòng thủ của quân Việt để quan sát được kỹ hơn. Ông nào biết việc viên tướng Ba Lậu Kê đã đầu hàng Đại Việt đang có mặt trong đội quân thủy nhà Trần? Những tay bắn giỏi của quân Trần cũng đã được tập trung: một cái bẫy lớn giương sẵn đang chờ con mồi đến! Thấy Chế Bồng Nga cho thuyền đi sát hàng cọc phòng thủ của quân Việt quá, Trần Nguyên Diệu chột dạ hỏi:
-Thuyền ta đi sát thuyền giặc thế này lỡ quân giặc bắn tên ra thì sao?
Chế Bồng Nga cười:
-Ông chớ sợ! Suốt cả tháng nay quân tuần thám của ta đã bao lần đi sát thuyền giặc thế này mà bọn “rùa rụt cổ” ấy nào có dám bắn…
Nhưng Chiêm vương chưa dứt lời tiếng pháo lệnh từ phía quân Việt đã nổ vang. Những chiến thuyền của Đại Việt nhất loạt hướng vào chiếc thuyền của Chiêm vương bắn tên như châu chấu! Vị anh hùng Chiêm quốc đã ngã xuống ngay trong loạt tên bắn đầu tiên. Mấy tay chèo cũng như lính hộ giá trên thuyền đều bị giết hoặc bị thương. Người duy nhất trên thuyền thoát nạn là Trần Nguyên Diệu! Bốn chiếc thuyền cùng đi xáp lại cố cứu Chiêm vương nhưng đã muộn! Quân Đại Việt đã tháo hàng cọc reo hò chèo thuyền xông ra vây trọn chúng lại!
Trần Nguyên Diệu biết tình thế không xong liền cắt lấy đầu Chế Bồng Nga xách trên tay, hướng về phía quân Đại Việt hô lớn:
-Ta đã giết được Chế Bồng Nga rồi đây!
Hai tướng Đại Việt là Dương Ngang và Phạm Nhữ Lặc liền cho thuyền tiến sát thuyền Trần Nguyên Diệu hỏi:
-Mày là ai?
Nguyên Diệu đáp:
-Ta là Trần Nguyên Diệu, con vua Duệ Tôn!
Phạm Nhữ Lặc thét:
-Đức Duệ Tôn là vị vua anh hùng không thể có đứa con hèn mạt như mày! Mày là tên phản quốc đáng tội chết!
Nhữ Lặc vừa nói vừa lia một nhát gươm. Cái đầu Trần Nguyên Diệu lập tức rụng xuống sàn thuyền. Khi ấy gần trăm chiến thuyền đi theo Chế Bồng Nga nghe tiếng la hò của quân Việt biết đã có chuyện cũng reo hò xông đến giáp chiến. Phạm Nhữ Lặc liền giơ cao cái đầu của Chế Bồng Nga cho chúng xem và nói lớn:
-Lũ giặc Chiêm hãy đầu hàng đi! Cái đầu của Chế Bồng Nga đây chúng mày chưa thấy sao?
Quân Chiêm thấy chiếc đầu của Quốc vương mình thì hoảng hồn, không còn lòng dạ nào để chiến đấu nữa, tháo chạy tán loạn! Quân Đại Việt đuổi theo chém giết rất nhiều.
Ngay đêm đó, Trần Khát Chân cho người hỏa tốc đem đầu Chế Bồng Nga về hành tại* ở Bình Than để báo tin thắng trận. Lúc ấy trống vừa điểm canh ba, thị vệ đánh thức Thượng hoàng dậy, Thượng hoàng hoảng hốt hỏi:
-Quân Chiêm Thành đã đến đây rồi sao?
Tới khi nghe báo cáo rõ, Thượng hoàng mừng rỡ cho triệu các quan đến xem mặt Chiêm vương. Các quan ai nấy hớn hở chúc mừng. Thượng hoàng hân hoan nói:
-Ta với Chế Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới thấy mặt nhau, không khác gì Hán Cao tổ thấy đầu Hạng Vũ. Từ nay trong nước sẽ bình định.
Sau khi quân Chiêm đại bại, tướng La Ngai đã cố gắng thu thập tàn quân và tìm lại được xác của Chế Bồng Nga. Ông dẫn quân về nước bằng đường bộ. Khi đến bờ sông Lô, ông dừng quân lại để thiêu xác Chế Bồng Nga rồi lại tiếp tục đi. Trên đường về, La Ngai đã gặp nhiều cuộc mai phục đón đánh của các thổ hào như Phan Mãnh, Phạm Thế Căng… Nhưng cứ mỗi lần gặp đối phương, quân Chiêm lại tung của cải ra làm mồi. Quân Việt ham nhặt của, nên không còn quyết tâm đuổi đánh tiêu diệt quân địch nữa. Do đó, cuộc rút quân của La Ngai không bị thiệt hại đáng kể.
Khi về đến đất Chiêm, tướng La Ngai bèn tự lập làm vua.
Hai người con của Chế Bồng Nga là Ma Nô Đà Nan và Sơn Nô sợ bị La Ngai giết nên phải chạy sang Đại Việt xin hàng. Thượng hoàng Nghệ Tôn bèn phong cho Ma Nô Đà Nan làm Hiệu chính hầu và Sơn Nô làm Á hầu. Hai anh em rơi nước mắt mà nói với nhau:
-Không ngờ con trai một vị vua anh hùng được toàn dân kính yêu như chúng ta cuối cùng lại trở thành những kẻ vong quốc!
Tới khi biết được cái chết của vua Chế Bồng Nga là do tên phản thần Ba Lậu Kê gây nên, Ma Nô Đà Nan lại rơi nước mắt than với Sơn Nô:
-Thật khó tưởng tượng nổi, một quân đội uy dũng vang danh một thời lại sụp đổ trong nháy mắt chỉ vì một tên tiểu nhân phản chủ!
Không bao lâu sau đó, những phần đất mà Chế Bồng Nga chiếm được đều bị Đại Việt bình định thu hồi lại hết.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét