TÔN THẤT THỌ
Lịch
sử dân tộc Việt Nam thường có những bước ngoặt tạo nên những trang sử
mới. 450 năm trước, câu nói đầy ẩn dụ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491-1585) nói với chúa Nguyễn Hoàng (1542-1613) sau khi người anh ruột
của ông là Nguyễn Uông đã bị anh rể Trịnh Kiểm giết chết:
Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân
Câu
nói như là một dẫn dắt, liên quan đến cả vận mệnh dân tộc. Sự tranh
giành quyền lực của họ Trịnh đã tạo nên một biến động lớn để đưa Nguyễn
Hoàng vào đất Thuận Hóa (1558), đến nơi “ô châu ác địa”, Đoan Quốc Công
Nguyễn Hoàng đã thực sự tự nguyện đi đày. “Ở nơi ấy, Nguyễn Hoàng không thể tranh chấp quyền hành với mình”,
nghĩ như thế nên Trịnh Kiểm đã đồng ý để vua Lê cử ông đi ngay. Và cũng
nhờ thế, từ thời điểm đó, lịch sử Việt Nam đã mở ra một trang sử mới
cho sự phát triển Tổ quốc: đất nước đã được mở rộng vầ tận phương Nam!
Được
lệnh vào Nam năm Mậu Ngọ (1558), bất chấp cả thời tiết mùa đông giá
rét, ông giong buồm đi ngay. Hàng ngàn đồng hương và nghĩa dũng ở Tống
Sơn – Thanh Hóa theo ông rất đông. Khi đoàn thuyền đi qua Thanh Nghệ
Tĩnh, nhiều người hưởng ứng đem cả vợ con theo ông. Các danh thần cùng
đi có Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống…
Nguyễn
Hoàng thực sự là người có tài đức, chỉ với tư cách là người trấn thủ,
nhưng ông còn là một vị tướng mưu lược, đồng thời cũng là một vị lãnh
đạo khôn ngoan, lại có lòng nhân đức, thu phục hào kiệt, vỗ về dân chúng
và chăm lo phát triển kinh tế trong vùng mình trấn nhậm, nên dân chúng
Thuận Hóa rất cảm mến ông, họ đã gọi ông là Chúa Tiên, mặc dù đương thời
ông chỉ có chức Đoan Quốc Công. Ông đã nhẫn nhịn để chờ thời cơ, không
manh động với địch thủ đã giết người thân của mình, lập chí lớn, gây
dựng cơ nghiệp lâu dài để lại cho con cháu mai sau. Lịch sử đã có lần
coi ông như một Nỗ Nhĩ Cáp Xích, người sáng lập ra nhà Hậu Kim, tiền
thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc sống cùng thời với ông.
Cũng
nhờ tài năng đặc biệt, năm 1569, khi ra chầu vua Lê, ông được giao trấn
thủ luôn đất Quảng Nam. Ảnh hưởng chính trị của ông lan rộng đến tận
Đồng Xuân, Tuy Hòa.
Năm Quý Tỵ (1593), Nguyễn Hoàng đem quân ra Đông Đô yết kiến vua Lê. Vua an ủi rằng: “Ông trấn thủ hai xứ, dân nhờ được yên, công ấy rất lớn”
(Đại Nam thực lục, tr.33). Lần ra Bắc này, ông đã giúp Trịnh Tùng đánh
dẹp dư đảng họ Mạc. Trong suốt 8 năm, vì lập được nhiều chiến công nên
ông lại bị Trịnh Tùng lo ngại, nảy ý hãm hại. Nên năm Canh Tý (1600),
một lần nữa, ông đã giong buồm chạy thẳng ra khơi, để con trai thứ năm
là Hải và cháu là Hắc ở lại làm con tin, còn ông một mình trốn vào Thuận
Hóa tìm đường sống. Từ đó, ông vượt đèo Hải Vân vào Quảng Nam, xây Trấn
Dinh ở Cần Húc (Duy Xuyên), cử con trai thứ sáu vào trấn nhậm. Quảng
Nam là nơi đất tốt, dân đông, sản vật giàu có.
Thế
lực của Nguyễn Hoàng ở phía Nam được xác lập khi Khám lý phủ Hoài Nhơn
(Bình Định) Trần Đức Hòa (thuộc một gia đình có thế lực lớn nhiều đời,
ông nội, cha, và bản thân vốn là bề tôi của nhà Lê) đến yết kiến.
Trong Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn (1726-1784), đã viết về xứ Thuận Quảng dưới sự cai quản của ông (trong năm 1572) như sau:
“Đoan
Quận Công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai
trị hơn 10 năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân,
dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quan dân hai
xứ thân yên tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán
hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền
buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm
trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp. Hàng năm nộp
thuế mà giúp việc quân, việc nước, triều đình cũng được nhờ…” (Phủ Biên tạp lục, Nxb Khoa học, 1964, tr.42).
Năm
Giáp Thìn (1604), ông chia đặt lại các đơn vị hành chính thuộc xứ Thuận
Hóa, đổi phủ Tiên Bình làm phủ Quảng Bình (ngày nay là nửa phía bắc
tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình); lấy huyện Điện Bàn phủ Triệu Phong (phần
còn lại ngày nay là nửa phía nam tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế) đổi
làm phủ Điện Bàn, Quảng Nam; đổi phủ Tư Ngãi làm phủ Quảng Ngãi; đổi phủ
Thăng Hoa làm phủ Thăng Bình, trong phủ này, huyện Lê Giang đổi làm
huyện Lễ Dương, Hy Giang làm huyện Duy Xuyên; phủ Hoài Nhơn như cũ.
Thuận
Quảng vốn là đất cũ của Chiêm Thành, vùng đất này chịu nhiều ảnh hưởng
của văn hóa Champa, ông đã lấy giáo lý Phật giáo để thuần hóa, thuần
tính nhân dân dưới quyền ông. Ông cho sửa sang và xây dựng nhiều ngôi
chùa: năm 1602, cho sửa chùa Thuần Hóa ở xã Triêm Ân (huyện Phú Vang);
dựng chùa Long Hưng (phía đông Trấn Dinh huyện Duy Xuyên). Năm 1607,
dựng chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu. Năm 1609, dựng chùa Kính Thiên ở Quảng
Bình.
Nhưng
công việc có giá trị nhất là ông đã cho xây dựng chùa Thiên Mụ (1601)
tại Thuận Hóa. Ngôi chùa lịch sử đã có mối quan hệ rất mật thiết với quá
trình phát triển đất Thuận Hóa và triều Nguyễn của nước ta.
Sách Đại Nam thực lục chép: “Năm
Tân Sửu 1601, bắt đầu dựng chùa Thiên Mụ. Bấy giờ chúa dạo xem hình thể
núi sông, thấy trên cánh đồng bằng ở xã Hà Khê (thuộc huyện Hương Trà)
giữa đồng bằng nổi lên một gò cao, như hình đầu rồng quay lại, phía
trước thì nhìn ra sông lớn, phía sau thì có hồ rộng, cảnh trí rất đẹp.
Nhân thể hỏi chuyện người địa phương, họ đều nói rằng gò này rất thiêng.
Tục truyền rằng, xưa có người đêm thấy bà già áo đỏ quần xanh ngồi trên
đỉnh gò nói rằng: “sẽ có vị chân chúa đến xây chùa ở đây, để tụ khí
thiêng, cho bền long mạch”; nói xong bà già biến mất. Bấy giờ nhân đấy
mới gọi là núi Thiên Mụ. Chúa cho là núi ấy có linh khí, mới dựng chùa
gọi là chùa Thiên Mụ”.
Ngoài
việc chăm lo cho đời sống nhân dân trong xứ, Nguyễn Hoàng đã tổ chức
được một đội quân hùng mạnh, đủ sức bảo vệ vùng đất mới, nhất là đội
thủy binh, như vào năm Kỷ Mùi (1559), khi mới “định cư” chưa tròn 1 năm,
tàu Tây Ban Nha đã đến gây rối vùng biển nước ta, chúng đã bị lực lượng
phòng thủ vùng biển của ta cảnh cáo. Theo tài liệu Thủy quân Việt Nam
ngày xưa của Lê Tiến Công (đăng trên website Viethoc) ghi lại:
“…
Mờ sáng ngày 3-9-1559, quân Tây Ban Nha thấy cả một rừng lưỡi giáo tua
tủa quanh các núi dọc nơi đậu thuyền, đồng thời có nhiều chiếc thuyền
mang chất cháy đi hàng ba nhằm thẳng tàu Tây Ban Nha tiến tới; cùng lúc
đó, pháo từ các đồn lũy trên bờ phát hỏa. Cảm thấy bị phục kích và tấn
công, hạm thuyền Tây Ban Nha vội bỏ chạy và nhờ trận gió Tây, quân Tây
Ban Nha mới thoát nạn…”
Vào năm Ất Dậu (1585), thuyền Tây phương lại đến quấy nhiễu, sách Đại Nam thực lục chép: “Năm
Ất Dậu (1585), bấy giờ có giặc nước Tây dương hiệu là Hiển Quý đi 5
chiếc thuyền lớn đến đậu ở Cửa Việt để cướp bóc ven biển. Chúa sai hoàng
tử thứ sáu lĩnh hơn 19 chiếc thuyền, tiến thẳng đến cửa biển, Hiển Quý
sợ chạy. Chúa cả mừng nói rằng: “Con ta thực là anh kiệt” và thưởng cho
rất hậu. Từ đó, giặc biến im hơi…”
Năm
Tân Hợi (1611), quân Chiêm Thành vượt đèo Cù Mông xâm chiếm biên giới,
ông sai người đem quân đánh đuổi và lấy đất đặt thêm phủ Phú Yên, mở
rộng xứ Quảng Nam đến đèo Cả.
Nông dân miền Nam đập lúa
Một
trong những lĩnh vực được chúa quan tâm đó là thương mại, chỉ trong
vòng mấy thập niên, ông đã biến đổi Đàng Trong trở nên một xứ giàu có và
đủ mạnh để có thể duy trì được nền độc lập của mình đối với phía Bắc và
mở rộng về phía Nam. Ngoại thương là một yếu tố quyết định cho sự phồn
vinh đó. Trước khi Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa, ở Đàng Trong việc
buôn bán phần lớn nằm trong tay người dân, phủ chúa ít khi can thiệp.
Có
thể nói rằng, vùng Thuận Hóa sau khi được Nguyễn Hoàng an định, đã trở
thành vùng đất sống cho hàng ngàn người dân trải dài từ Thăng Long đến
Thanh Hóa, họ là nạn nhân của những năm mất mùa đói kém và chiến tranh
thảm khốc giữa nhà Lê và nhà Mạc. Trong tác phẩm Xứ Đàng Trong, tác giả
Li Tana đã cho biết:
“Việc
người Việt Nam di dân xuống phía Nam thường vẫn được giải thích là do
áp lực dân số trên một vùng đất nông nghiệp có giới hạn. Và những nguyên
nhân trực tiếp đẩy một số đông dân đi về phía Nam lại là đói kém và
chiến tranh…”.
“…
Hai thời kỳ thảm khóc diễn ra vào giữa thế kỷ XVI (và XVIII) là nguyên
nhân chính của việc gia tăng số người tỵ nạn. Thời kỳ thứ nhất xảy ra
vào nửa sau thế kỷ XVI. Trong Toàn Thư, các năm 1561, 1570, 1671, 1572,
1586, 1588, 1569, 1592, 1594, 1595, 1596, 1597 và 1608 đều nhấn mạnh đến
số người tỵ nạn. Chẳng hạn vào năm 1572, chúng ta thấy ghi: “Nghệ An
năm đó không thu được hạt thóc nào… lại bị dịch bệnh, chết đến quá nửa.
Nhân dân nhiều người xiêu dạt hoặc tản đi miền Nam hoặc dạt về đông bắc.
Vào năm 1594; Bấy giờ các huyện ở Hải Dương nhân dân mất mùa to, đói
kém đến ăn thịt lẫn nhau, chết đói đến một phần ba…”.
Đây
có lẽ là thời kỳ thảm họa dài nhất trong lịch sử Việt Nam với một cuộc
nội chiến dữ dội kéo dài mấy thập niên. Với 14 năm mất mùa trong vòng 48
năm. Trong lịch sử Việt Nam trước đó không hề thấy nhắc đến một cách
liên tục con số đông đảo dân tỵ nạn trong một thời gian ngắn như vậy.
Trong thực tế, chữ phiêu tán rất ít dùng trong chính sử Việt Nam…”.
“…
Ngược lại, vùng Thuận Hóa được xem là tương đối yên tĩnh. Nhà Mạc tuy
có tìm cách tấn công Thuận Hóa vào năm 1571, nhưng họ đã bị Nguyễn Hoàng
đánh bại. Cả Toàn Thư và Tiền biên đều nói rằng vùng đất này “dân không
trộm cắp, cổng ngoài không phải đóng, thuyền buôn nước ngoài đều đến
buôn bán”.
Thuận
Hóa dĩ nhiên trở thành nơi trú ẩn của dân tỵ nạn từ phía Bắc. Tiền biên
ghi nhận có hai làn sóng tỵ nạn đổ về Thuận Hóa vào các năm 1559 và
1608. Toàn thư cũng thường nói đến việc người dân trốn khỏi quê vào thời
kỳ này để “hoặc đi vào Nam hoặc đi về phía đông bắc”. Cả hai vùng này
đều là những vùng thưa dân.
Một
làn sóng di dân vĩ đại của người Việt Nam đã diễn ra vào cuối thế kỷ
XVI. Về phương diện lịch sử, nó có thể sánh với cuộc di dân của người
Trung Hoa, tuy với tỷ lệ nhỏ hơn, từ phía Bắc tới đồng bằng sông Dương
Tử dưới thời Đông Tấn (thế kỷ thứ IV sau CN). Trước thời kỳ này, số
người Việt Nam di dân xuống phía Nam không nhiều, có vẻ lác đác. Nhưng
bây giờ động cơ thúc đẩy họ di dân trở nên mạnh hơn và mục đích của họ
cũng rõ ràng hơn. Nếu Thuận Hóa trước đây xem ra còn là một vùng đất đầy
bất trắc, bấp bênh về một số lĩnh vực thì việc Nguyễn Hoàng thiết lập
chính quyền ở đây được coi như là việc tái khẳng định quyền của người
Việt Nam được định cư ở vùng đất này và vì thế là một khuyến khích lớn
đối với việc di dân…” (Trong Xứ Đàng Trong, Li Tana, tr.37, 38).
Với
sự mở đầu ra đi của Nguyễn Hoàng, và kế tục là các đời chúa con cháu
của ông, đất nước đã tiếp thu một nguồn của cải mới, đó là cả một vùng
đất phía Nam giàu có, là các cuộc giao thương cường thịnh với các trung
tâm thương mại mới: Hội An; Nông Nại Đại Phố, Gia Định, Bến Nghé, Hà
Tiên…; là các tri thức mới khi tiếp cận ở nhiều dân tộc phương Nam hay
đến từ phương Nam. Nhờ vào luồng của cải mới được tìm thấy ấy, nước ta
đã trở nên cường thịnh nhất sau mấy trăm năm suy sụp. Ở đây, một lần
nữa, cần khẳng định lại vai trò của Nguyễn Hoàng – người đã dấn thân
khởi nghiệp để từ đó, tìm ra những luồng của cải mới cho đất nước.
Tất
cả cuộc đời của ông đã hy sinh cho sự nghiệp xứ Đàng Trong, gia đình
của ông đã gặp nhiều cảnh phân ly, hai người con thứ 7 và thứ 8 can tội
loạn quốc chánh, bị tước tông tịch, con cháu của họ phải đổi ra họ
Nguyễn Thuận. Để lấy lòng tin của chúa Trịnh, ông đã phải để người con
thứ 5 và các cháu nội ở lại trên đất Bắc, con cháu của họ lại phải đổi
tên thành họ Nguyễn Hựu.
Năm
1613, biết mình không thể sống lâu hơn, ông cho triệu công tử thứ 6 là
Nguyễn Phúc Nguyên đang làm trấn thủ Quảng Nam ra. Ông bảo các cận thần
rằng: “Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng nên nghiệp
lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ,
cho thành công nghiệp”.
Cầm tay hoàng tử thứ 6, ông dặn bảo rằng:
“Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; anh em trước hết phải thân yêu nhau. Con phải giữ được lời dặn đó thì ta không ân hận gì”. Lại nói: “Đất
Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) và sông Gianh (Linh
Giang) hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn)
vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của
người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh chống chọi với Trịnh thỉ đủ
xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không định được, thì cố giữ
vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”. (Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb. Thuận Hóa, 2007, tr.37).
Một Quận công, lãnh Tổng trấn khi phát hiện ra cơ hội đã nuôi chí tổ chức để mở rộng lãnh thổ đến thế là cùng.
Phần
cuối, xin được trích đăng những ý kiến tâm sự của những chính khách và
những nhà văn hóa đương về lịch sử các chúa Nguyễn. GS. Phan Huy Lê đã
thuật lại những băn khoăn của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi ông còn tại
thế:
“Nói
đến lịch sử Việt Nam và nhất là Nam bộ, anh (tức Thủ tướng Võ Văn Kiệt –
TTT ghi chú) rất băn khoăn, thậm chí bất bình đối với cách đánh giá
trước đây về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn. Anh tâm sự, nhiều
lúc suy ngẫm nếu không có công lao mở cõi của các chúa Nguyễn thì làm
sao chúng ta có được vùng đất Nam bộ như hiện nay, mà không có được quy
mô lãnh thổ, dân số và tiềm năng các mặt của một đất nước như thế thì
làm sao thắng nổi những đế quốc lớn mạnh của thời đại, mà hay hơn nữa là
phương thức mở cõi của các chúa Nguyễn chủ yếu là di dân khẩn hoang, tổ
chức khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long giàu có nhưng lúc đó còn
hoang vu…”.(Theo Phan Huy Lê, Dấu ấn Võ Văn Kiệt, tr.13).
Nhà
văn Hoàng Lại Giang trong bài viết Bi kịch của người anh hùng đi mở
cõi, đăng trên tạp chí Xưa & Nay số 294 khi nhắc đến vị anh hùng dân
tộc này đã viết:
“Tôi
nghĩ, chúng tôi tôn kính các vua Hùng đã có công dựng nước và dựng đền
thờ ở TP.HCM là phải đạo. Nhưng ai dám chắc đây là những vị vua huyền
thoại hay sự thực? Trong khi đó, các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi gấp đôi
như ngày nay là một sự thực lịch sử thì chúng ta lại… quên một cách có ý
thức…”.
“Hôm
nay mỗi lần nhắc đến vựa lúa lớn nhất nước đồng bằng sông Cửu Long đã
có bao nhiêu người Việt hôm nay nhớ đến vị chúa Nguyễn Hoàng? Hôm nay
chúng ta hướng tầm nhìn chiến lược ra biển Đông! Thật tự hào! Nhưng đã
có bao người Việt hôm nay nhớ đến công ơn của chúa Nguyễn Hoàng! Một nửa
dân số Việt Nam đứng trên đất các chúa Nguyễn, người đứng đầu là chúa
Nguyễn Hoàng, một vùng đất trù phú, một vùng đất có khí hậu lý tưởng!
Mọi việc không bao giờ tự trên trời rơi xuống! Cũng không phải đi xin mà
có! Tất cả từ cái tầm, từ cái tâm, từ bao nhiêu công sức của tiền nhân
hôm qua để hôm nay chúng ta có hoa và trái…”
Dựng tượng ghi công những người anh hùng mở cõi là đạo nghĩa của nền văn hóa người Việt…”.
Và
cuối cùng là những “ray rứt” của nhà thơ Nguyễn Duy trong bài Rơm rạ ơi
ta trở về đây, trên báo Sài Gòn Tiếp Thị số Xuân 2008, ông viết trong
dịp về thăm đền thờ các chúa Nguyễn ở xã Hà Long, Hà Trung, Thanh Hóa:
“Nhà
Nguyễn đã có công lao rất lớn đối với nước Việt Nam, đó là một sự thật
hiển nhiên, vậy mà, không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị bóp méo đến
biến dạng, bị sai lệch đi trong cái nhìn chính thống, bị hạ thấp một
cách oan ức về thang bậc giá trị lịch sử và văn hóa, bị ruồng bỏ nhiều
bài vị tôn kính, bị xóa tên đường phố nhiều vua chúa kiệt xuất? Tại sao?
Tại sao?...
Nhiều
ý nghĩ vu vơ, mơ hồ trong đầu tôi cứ loằng ngoằng, mông lung như khói
hương. Tôi mường tượng thấy những việc mới sắp tới, như là đúc chuông,
phục tượng… Còn phải làm thêm rất nhiều việc nữa, nếu nhà nước chưa làm
được thì xin hãy để cho dân làm, sẽ đâu vào đó cả.
Phục
hồi nhân tâm là việc quan trọng nhất. Những gì thất nhân tâm thì thành
tâm sửa lại. Có công tâm với lịch sử mới thực thi được công bằng xã hội.
Tôi
cứ nghĩ lan man như thế… Như thế… Thu phục nhân tâm ư? Thì hãy chọn
những gì tốt đẹp của cha ông mà tôn vinh. Hòa hợp dân tộc ư? Thì hãy lấy
nhân tâm của cha ông mà truyền bá. Đối xử tệ với tổ tiên là phẩm chất
tối thiểu của đạo lý ấy…
Thắp
nén nhang cúi lạy tiền nhân, tôi không khỏi rưng rưng nước mắt khi hình
dung những sai lầm trầm trọng của hậu thế đang được chỉnh sửa dần dần.
Có được ngày nay, dẫu đã muộn cũng còn may mắn lắm, còn có dịp cho người
nay tạ lỗi với người xưa.
Rơm rạ ơi ta trở về đây
Ngôi chùa cũ mái đình xưa hiện bóng
Cỏ áy vàng bãi tha ma vắng
Lòng ngổn ngang gò đống tổ tiên nhà…”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét