Bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ
Bản
đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ là sự biến đổi không gian sinh tồn
của người Việt Nam, thể hiện bởi các triều đại chính thống đã được công
nhận trong lịch sử Việt Nam . Mang tính chất rất phức tạp, lúc thì bị mất lãnh thổ về các nước khác, lúc lại chinh phục được những vùng lãnh thổ mới.
Nhìn chung
lại vùng lãnh thổ cốt lõi nơi phát sinh ra người Việt hiện nay là vùng
châu thổ sông Hồng, sau nhiều thế kỷ đi chinh phục, đồng hóa, khai khẩn
mà lãnh thổ ngày nay đã trải dài đến tận đồng bằng sông Cửu Long.
Trong
bài viết này chúng tôi sẽ khái quát toàn bộ lãnh thổ Việt Nam từ thời
Hồng Bàng khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên cho đến ngày nay
Khoảng
thế kỷ thứ III trước công nguyên một số sử liệu và huyền thoại cho rằng
vào đầu thời Hồng Bàng, bộ tộc người Việt có lãnh thổ rộng lớn từ phía
nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến tận vùng Thanh Hóa. Thực chất các bộ
tộc Việt phía Nam sông Trường Giang không có cùng sắc tộc, chủng tộc và
ngôn ngữ. Cái tên Bách Việt là chỉ chung cho các bộ tộc các nhà nước
phía Nam của Trung Nguyên
Nước Văn Lang
Nước
Văn Lang thuộc bộ tộc Lạc Việt đã hình thành trên vùng bình nguyên bao
gồm đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng Sông Lam.
Nước Âu Lạc
Sau
khi chiếm được Văn Lang, Thục Phán đã sát nhập Văn Lang vào đất của
mình, nước Âu Lạc có lãnh thổ từ phía nam sông Tả Giang (Quảng Tây,Trung
Quốc) kéo xuống tận dãy Hoành Sơn thuộc Hà Tĩnh ngày nay
Thời Bắc Thuộc
Nếu
coi nhà Triệu (từ 207 đến năm 111 trước công nguyên) là một phần của
hệ thống phân chia lịch sử thời kỳ Bắc thuộc lần 1 thì lãnh thổ nước
Việt Nam thuộc nước Nam Việt của 5 đời vua nhà Triệu.
Nam Việt xâm lược và đô hộ 179 – 111 TCN
Năm
111 trước công nguyên, nhà Triệu để mất nước về tay nhà Hán. Sau đó
lãnh thổ nước Nam Việt cũ bị chia thành 6 quận, đồng thời xác lập thêm
phần đất ở 3 quận mới là Nhật Nam, Chu Nhai, Đạm Nhĩ
Lãnh thổ của
dân tộc Việt Nam thời kỳ này, trong sự cai quản của chính quyền trung
ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Hà Tĩnh hiện
nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc Giao Châu) tiến xuống
phía nam đánh Chiêm Thành và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải
Vân vào cai trị nhưng không giữ được lâu vì sau đó Chiêm Thành thường
lấy lại được.
Nhà Hán xâm lược và đô hộ 111 TCN – 34 SCN Lãnh thổ Giao Chỉ 40 TCN – 33 SCN
Nước Vạn Xuân
Vạn
Xuân là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi
thoát khỏi chính quyền trung ương Trung Hoa, dưới thời nhà Tiền Lý và
Triệu Việt Vương. Tháng 2 năm 544, sau khi đánh bại quân nhà Lương
(Trung Quốc), Lý Bí xưng là Hoàng đế và đặt tên nước là Vạn Xuân. Quốc
hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602, khi nhà Tùy đánh bại Lý Phật Tử
và đô hộ Việt Nam một lần nữa.
Nước Vạn Xuân 554 – 602
Lãnh thổ Việt Nam Thời phong kiến tự chủ
Sau
khi Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ của Tĩnh Hải quân năm 905, Việt
Nam bắt đầu thời kỳ độc lập tự chủ. lãnh thổ Tĩnh Hải quân gồm 12 châu
Tĩnh Hải Quân
Tĩnh Hải Quân 905 Tĩnh Hải Quân 930 Tĩnh Hải Quân 931 Tĩnh Hải Quân 937
Việt
Nam chính thức vào kỷ nguyên độc lập từ khi Ngô Quyền đánh bại nhà Nam
Hán vào năm 938. Tuy nhiên lãnh thổ bị co lại chỉ còn 8 châu: Giao, Lục,
Phúc Lộc, Phong, Trường, Ái, Hoan, Diễn. 4 châu bị nhà Nam Hán chiếm là
Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An.
Tĩnh Hải Quân 938 Tĩnh Hải Quân 944 Tĩnh Hải Quân 966 – 967 Tĩnh Hải Quân 967
Đại Cồ Việt
Năm 968, Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu trở lại sau hơn 400 năm, là Đại Cồ Việt
Đại Cồ Việt 968 Đại Cồ Việt 980 Đại Cồ Việt 1010
Năm
1014, tướng nước Đại Lý là Đoàn Kính Chí đem quân vào chiếm đóng châu
Vị Long và châu Đô Kim (nay thuộc Tuyên Quang), vua Lý Thái Tổ sai con
là Dực Thánh Vương đi đánh dẹp, quân Đại Lý đại bại, nhân cơ hội đó nhà
Lý sáp nhập luôn khu vực ngày nay là Hà Giang vào Đại Việt.
Lanh thổ Việt Nam thời Đại Cồ Việt 1014 Lãnh Thổ Đại Cồ Việt 1048
Đại Việt
Sau đó Lý Thái Tổ đổi tên nước là Đại Việt năm 1054
Vào Năm 1069, vua Lý Thánh Tông nam tiến đánh nước Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm lúc bấy giờ là Chế Củ (Jaya Rudravarman ),
đem về kinh đô Thăng Long. Để được tha mạng vua Chiêm đã phải cắt các
vùng đất phía bắc của Chiêm Thành gồm ba châu là: Bố Chính, Ma Linh, Địa
Lý cho nước Đại Việt. Những châu ấy ngày nay ở địa phận các huyện Quảng
Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và
huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị.
Lãnh thổ nước Đại Việt 1069
Năm
1159, nhân khi nước Đại Lý suy yếu, vua Lý Anh Tông và Tô Hiến Thành đã
tiến hành thu phục vùng đất của các tù trưởng dân tộc thiểu số người
Thái ở bắc Yên Bái, nam Lào Cai vào lãnh thổ Đại Việt.
Nước Đại Việt 1159 Nước Đại Việt 1225
Việt Nam thời nhà Trần năm 1306 vua nước Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Simhavarman )
đã cắt đất hai châu Ô và Rí cho vua Trần Anh Tông của Đại Việt để làm
sính lễ cưới Huyền Trân công chúa, vùng đất mà ngày nay là phía nam
Quảng Trị và Huế. Biên giới phía nam của Đại Việt lúc này tiến đến đèo
Hải Vân.
Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Trần 1306
Đại Ngu
Đại
Ngu là quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ (1400 – 1407). Quốc hiệu Đại Việt
được đổi thành Đại Ngu tháng 3 năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền
Lãnh thổ nước Đại Ngu 1400 Lãnh thổ nước Đại Ngu 1402 Bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ
Bắc thuộc lần 4
Vào
cuối thế kỉ 14 nhà Trần bấy giờ đã sa sút, Hồ Quý Ly dần dần nắm quyền
kiểm soát cả triều đình, dùng những biện pháp thanh trừng những đại
thần trung thành với triều Trần. Hồ Quý Ly lên ngôi vua vào năm 1400,
đặt quốc hiệu Việt Nam là Đại Ngu, ông thực hiện rất nhiều cải tổ trong
hệ thống chính trị và xã hội lúc bấy giờ. Nhưng do thực hiện quá nhiều
sự thay đổi trong thời gian ngắn, lại không được các cựu thần nhà Trần
và dân chúng ủng hộ, thêm tình hình kinh tế xã hội hoàn toàn suy yếu vì
nhiều nguyên nhân, nên đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
Nhân
cơ hội đó, năm 1406 nhà Minh ở Trung Quốc dùng chiêu bài phù Trần diệt
Hồ, nhà Minh mang quân sang xâm lược Đại Ngu. Nhà Hồ nhanh chóng tsụp
đổ hoàn toàn vào khoảng giữa năm 1407. Nước Đại Ngu lúc này bị tiêu diệt
hoàn toàn và bị sát nhập lãnh thổ vào Trung Quốc. Việt Nam bị Trung
Quốc đô hộ trở lại sau 500 năm độc lập tự chủ.
1407 nước Đại Ngu bị tiêu diệt và sát nhập vào lãnh thổ Đại Minh (Trung Quốc)
Khởi Nghĩa Lam Sơn
Vào
năm 1418 Lê Lợi và các hào kiệt phất cờ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tại
vùng miền núi Thanh Hóa, ông tự xưng là Bình Định Vương, kêu gọi người
dân Việt Nam đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh cứu
nước. Lúc này lãnh thổ đất Việt chỉ còn Lam Sơn nay thuộc huyện Thọ Xuân
tỉnh Thanh Hóa.
năm 1418 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dành lại được vùng lãnh thổ nay thuộc Huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa Vào
năm 1424 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu tiến vào phía Nam và dành được
những thắng lợi quan trọng. Đến cuối năm 1425, Lê Lợi đã làm chủ toàn
bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào
Năm 1425 Lê Lợi đã làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào
Nhà Hậu Lê
Cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn dành thắng lợi đã thống nhất được toàn bộ lãnh thổ
Việt Nam. Lê Lợi lên ngôi vào năm 1428, tức là vua Lê Thái Tổ, chính
thức dựng lên nhà Hậu Lê. Do chiến công hiển hách đánh bại quân Minh
dành lại quyền tử chủ cho người Việt, ông trở thành một vị anh hùng dân
tộc trong lịch sử Việt Nam, tên tuổi được lưu truyền đến ngàn đời sau
Nước Đại Việt dành lại quyền tử chủ năm 1428 Năm
1471 vua Lê Thánh Tông mang 20 vạn quân nam tiến đánh vào kinh đô
Vijaya ( đất Bình Định ngày nay) nước Chiêm Thành, kinh đô Vijaya của
Chiêm Thành thất thủ. Vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập vùng đất bắc Chiêm
Thành vào Đại Việt (ngày nay bao gồm ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định).
Năm 1471 vua Lê Thánh Tông sát nhập thêm vùng đất phía bắc của Chiêm Thành Năm
1478, sau khi thu phục tiểu vương quốc Bồn Man, vua Lê Thánh Tông đã
sát nhập vùng Sơn La, các huyện phía tây của Thanh Hóa, phía tây Nghệ An
và tỉnh Hủa Phăn của Lào ngày nay vào đất Đại Đại Việt
Lãnh thổ Việt Nam vào năm 1479
Giai đoạn Nam – Bắc triều
Khoảng
đầu kỷ 16, nhà Hậu Lê lúc này đã bắt đầu suy yếu. Một võ tướng nhà Lê
là Mạc Đăng Dung đứng ra trấn áp các cuộc nổi dậy, dần dần nắm lấy quyền
hành triều Lê. Mạc Đăng Dung đánh dẹp các lực lượng chống đối nhà hậu
Lê và đến 1527 thì phế truất Lê Cung Hoàng, lập ra nhà Mạc.
Lúc
này có một võ tướng cũ của nhà Lê, là Nguyễn Kim lập một người dòng dõi
nhà Lê là Lê Duy Ninh đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu (Lào ngày nay),
tức vua Lê Trang Tông. Sau nhiều lần tổ chức tấn công ngược về Đại Việt
không thành công, mãi tới năm 1539, Nguyễn Kim mới chiếm được huyện Lôi
Dương ở Thanh Hóa; sang năm sau tiến vào đất Nghệ An. Nhà Hậu Lê bắt đầu
xác lập chỗ đứng trở lại trên lãnh thổ Đại Việt.
Nguyễn Kim chiếm lại được huyện Lôi Dương ở Thanh Hóa Năm 1540 Nhà Hậu Lê xác lập chỗ đứng trở lại trên lãnh thổ Đại Việt Năm
1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng Dương Chấp Nhất đầu độc giết chết. Con
rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội.
Năm
1554, Trịnh Kiểm lập hành dinh tại quê hương Biện Thượng, sau đó điều
quân đánh Thuận Hóa. Khi quân Lê – Trịnh tiến vào phía nam, các quan lại
nhà Mạc và các hào trưởng địa phương phần lớn đi theo. Tướng Mạc ở
Thuận Hóa là Hoàng Bôi mang quân ra đánh bị tử trận. Quân Mạc bị đánh
tan, nhà Lê – Trịnh lấy lại được Thuận Hóa và Quảng Nam.
Toàn bộ
lãnh thổ Đại Việt chính thức chia làm 2 nửa: từ Ninh Bình trở ra trong
tay nhà Mạc, từ Thanh Hóa trở vào trong tay nhà Lê – Trịnh
Năm 1554 lãnh thổ Đại Việt bị chia làm 2 nửa nhà Mạc phía Bắc, nhà Lê – Trịnh phía Nam
Nguyễn Hoàng xây dựng cơ đồ mở mang bờ cõi Đại Việt
Năm
1569, Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim và là em vợ của Trịnh
Kiểm ra Thanh Hóa yết kiến vua Lê Anh Tông, nộp quân lương giúp Nam
triều đánh nhà Mạc, rồi đến phủ Thái sư lạy mừng Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm
rất hài lòng, phong cho ông trấn thủ luôn đất Quảng Nam. Nguyễn Hoàng
làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả Xứ Quảng Nam và Xứ Thuận Hóa. Lệ
mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Năm 1569 Nguyễn Hoàng làm Tổng Trấn Tướng Quân cai quản cả Xứ Quảng Nam và Xứ Thuận Hóa Năm
1611, do quân Chăm Pa tiếp tục quấy nhiễu vùng biên giới Hoa Anh,
Nguyễn Hoàng đã sai Văn Phong đi dẹp, quân Chăm Pa nhanh chóng bị đánh
bại trước lực lượng của chúa Nguyễn. Vua Po Nit của Chăm Pa phải rút
quân xuống phía Nam đèo Cả. Sau đó vùng đất Hoa Anh này được lập thành
phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa vàĐồng Xuân, giao cho Lương Văn Chánh
làm tham tướng, Văn Phong làm lưu thủ.
Cho tới khi ông mất, giang
sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh) qua đèo Hải
Vân tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, bây giờ là vùng cực nam
Phú Yên, giáp tỉnh Khánh Hòa. Diện tích 2 xứ Thuận Quảng rộng khoảng
45000 km²
Năm 1611 đất họ Nguyễn đã trải dài đến vùng cực nam Phú Yên
Trịnh – Nguyễn phân tranh
Năm
1653, chúa Nguyễn Phúc Tần tiến chiếm vùng Khánh Hòa của Chiêm Thành.
Lấy sông Phan Rang làm ranh giới. Vùng phía Đông sông đến địa đầu Phú
Yên (vùngKauthara) đặt dinh Thái Khang. Phần phía Tây sông (vùng
Panduranga) vẫn thuộc về Chăm Pa.
Năm 1653 chúa Nguyễn Phúc Tần chiếm được vùng Khánh Hòa của Chiêm Thành Năm
Mậu Tuất (1658) vua nước Chân Lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau ngôi vị,
sang cầu cứu bên chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan
đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi-xuy (nay thuộc tỉnh Đồng Nai) bắt được
vua nước ấy là Nặc-Ông-Chân đem về giam ở Quảng Bình một độ, rồi tha cho
về nước, bắt phải triều-cống và phải bênh vực người Việt sang làm ăn ở
bên ấy.
Năm 1658 người Việt đã xuất hiện ở vùng đất Đồng Nai ngày nay Năm
KỷTỵ (1679) có quan nhà Minh là tổng binh trấn thủ đất Long Môn (Quảng
Tây) Dương Ngạn Địch, phó tướng Hoàng Tiến, tổng binh châu Cao, châu
Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng Đông) là Trần Thượng Xuyên, phó-tướng
Trần An Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3.000 quân cùng 50 chiếc
thuyền sang xin ở làm dân Việt Nam. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất
Chân Lạp, bèn cho vào ở đất Đông Phố (tức là đất Gia Định). Bọn Ngạn
Địch chia nhau ở đất Lộc Đã (tức là đất Đồng Nai), ở Mỹ Tho (thuộc Tiền
Giang), ở Ban Lân (thuộc Đồng Nai) rồi cày ruộng làm nhà lập ra phường
phố
Lúc này nhà Mạc ở phía bắc đã bị tiêu diệt hoàn toàn
Lãnh thổ Đại Việt Năm 1679 Năm
1693, thời chúa Nguyễn Phúc Chu, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm và
chính thức sáp nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm Thành lập trấn
Thuận Thành nay là vùng đất Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay, tuy nhiên
chính quyền Đàng Trong vẫn dành cho người Chăm chế độ tự trị ở đây cho
đến năm 1832.
Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu chính thức sáp nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm Thành Năm
1698, Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất
Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là
thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn
(quận sở nay gần Tân Đồn). Chính thức đưa khu vực các tỉnh miền Đông Nam
Bộ của Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong.
Năm 1699, Vũ Công Tuấn
bị triều đình nhà Lê bắt và giết. Triều đình đặt chức Lưu thủ ở Tuyên
Quang, từ đó dòng dõi “Chúa Bầu” chấm dứt. Lãnh thổ chúa Bầu chính thức
sáp nhập vào đất nhà Lê-Trịnh
Năm 1708, Mạc Cửu (thương nhân người
Hoa) người khai phá vùng đất Hà Tiên, Kiên Giang (của Chân Lạp) xin nội
thuộc chúa Nguyễn, chúa Nguyễn phong chức Tổng binh cai quản
Cùng
với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, chính quyền Đàng Trong lần
lượt đưa người ra khai thác và kiểm soát các hòn đảo lớn và quần đảo
trên biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và
kiểm soát từ đầu thế kỷ 17, Côn Đảo từ năm 1704,Phú Quốc từ năm 1708 và
quần đảo Trường Sa từ năm 1711
Lãnh thổ Đại Việt năm 1708 khai phá đến vùng đất Hà Tiên – Kiên Giang ngày nay Vào
năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú (Chúa Ninh) nhận đất dâng từ vua nước
Chân Lạp là Satha (Nặc Tha), lãnh thổ Đại Việt được mở rộng thêm
hai vùng đất mới là Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long).
bản đồ lãnh thổ Việt Nam năm 1732 Từ
năm 1736-1739, Mạc Thiên Tứ (con trai của Mạc Cửu) khai phá thêm vùng
đất Cà Mau, Bạc Liêu, Cần Thơ (của Chân Lạp) sát nhập những khu vực
này vào lãnh thổ phía Đàng Trong.
Từ 1736 – 1739 Lãnh thổ Việt Nam mở rộng đến tận mũi Cà Mau như ngày nay Năm 1755, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong )
sau khi bị chúa Nguyễn Phúc Khoát tức Vũ Vương đánh bại đã dâng vùng
đất Tân An, Gò Công (Long An, Tiền Giang ngày nay) để cầu hòa
Năm 1755 sát nhập thêm Long An và Tiền Giang vào Lãnh thổ Đại Việt Năm
1757, vua Nặc Nguyên chết, chú là Nặc Nhuận dâng 2 xứ Preah Trapeang và
Basac (vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng) để được chúa Nguyễn Phúc Khoát
phong làm vua Chân Lạp. Sau khi Nặc Nhuận chết, chúa Nguyễn Phúc Khoát
đã hỗ trợ Nặc Tôn (Outey II ) lên ngôi và bảo vệ trước sự tấn công
của Xiêm La (Thái Lan), vua Nặc Tôn đã dâng vùng đất ngày nay là Châu
Đốc, Sa Đéc cho chúa Nguyễn.
Riêng Mạc Thiên Tứ, Nặc Tôn dâng năm
phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Lình Quỳnh để đền ơn giúp
đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho
sảt nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản.
bản đồ lãnh thổ Việt Nam vào năm 1757 Bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ
Khởi Nghĩa Tây Sơn
Sau
giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh đât nước bị chia làm 2 thì
vào năm 1771 cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng phát bắt đầu từ vùng
đất Tây Sơn thuộc tỉnh Bình Định ngày nay
Lãnh thổ Việt Nam vào năm 1771 Đến
năm 1773 khởi nghĩa Tây Sơn dành được nhiều thắng lợi quan
trọng kiểm soát vùng đất từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận. Lúc này đất
nước bị chia làm 3 những vẫn thuộc quyền quản lý của người
Việt
Lãnh thổ Việt Nam bị chia làm 3 vào năm 1773 Cuối
năm 1774 đầu năm 1775 quân Trịnh tiến vào Phú Xuân. Chúa Nguyễn lúc
này không chống nổi quân Trịnh phải bỏ chạy vào Quảng Nam. Quân Trịnh
chiếm toàn bộ Thuận Hóa.
Lãnh thổ Việt Nam vào năm 1774 Quân
Trịnh ở phía bắc đánh vào. Chúa Nguyễn không địch nổi hai kẻ địch phải
bỏ chạy vào Gia Định. Tây Sơn bèn đầu hàng Trịnh để đánh Nguyễn. Năm
1777, Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Định, quân Tây Sơn truy
lùng gắt gao, cả Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương cùng một số quan
lại đã bị bắt và bị giết. Vào năm này Chúa Nguyễn đã mất hoàn
toàn quyền kiểm soát ở Đại Việt
bản đồ lãnh thổ Việt Nam 1777 Vào
năm 1786 Do sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ quyết định
đem quân ra Bắc đánhThăng Long để diệt họ Trịnh dù chưa được lệnh của
vua anh Nguyễn Nhạc.
Với danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh”, Nguyễn
Huệ sai Chỉnh làm tiên phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng
thua trận, các danh tướng phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp
sợ, đến khi nghe quân Tây Sơn kéo ra, đa số đã bỏ trốn. Chúa Trịnh
không được lòng dân, bỏ thành Thăng Long chạy, bị dân bắt đem nộp Tây
Sơn. Trên đường áp giải,Trịnh Tông tự sát. Lúc này Tây Sơn đã kiếm
soát được gần như toàn bộ lãnh thổ Việt Nam
Trong lúc
Nguyễn Huệ bận đối phó với quân Thanh tại Bắc Hà (1788-1789), vùng Gia
Định dưới quyền Tây Sơn cũng không ổn định, quân Tây Sơn bị cô lập trước
dân chúng địa phương vốn có nhiều cảm tình với Chúa Nguyễn nói chung và
Nguyễn Ánh nói riêng, dần dần Nguyễn Ánh lấy lại được vùng đất
Nam Hà dẹp yên được vùng đất Gia Định
Lãnh thổ Việt Nam 1788
Nhà Nguyễn
Vào
năm 1802 sau khi tiêu diệt được nhà Tây Sơn Nguyễn Ánh lên ngôi
vua, để tượng trưng sự thống nhất Bắc Nam, lần đầu tiên sau nhiều năm,
Nguyễn Ánh chọn niên hiệu là Gia Long , Gia lấy từ Gia Định và Long lấy từ Thăng Long
1802 Lãnh thổ Đại Việt được thống nhất sau nhiều năm bị chia cắt Năm
1816, vua Gia Long chính thức cho cắm cờ, xác lập chủ quyền, giao đội
Hoàng Sa và đội Bắc Hải thay mặt quản lý hai quần đảoHoàng Sa và Trường
Sa. Trước đó khoảng 200 năm các chúa Nguyễn cũng đã lập đội Hoàng Sa
hằng năm đi ra các đảo tìm kiếm sản vật
Năm 1830, vua Minh Mạng
sáp nhập vùng Tây Nguyên vào lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên các bộ tộc
người Thượng vẫn được quyền tự trị của mình cho tới năm 1898 khi người
Pháp trực tiếp tổ chức cai trị ở đây
Năm 1832 nhà Nguyễn bỏ
chế độ tự trị của người Chăm ở trấn Thuận Thành (Bình Thuận, Ninh
Thuận ngày nay) chính thức sát nhập vùng đất này vào lãnh
thổ Việt Nam
bản đồ lãnh thổ Việt Nam 1832 Vào
năm 1835 Vua Minh Mạng cho thành lập Trấn Tây Thành (Campuchia
ngày nay) thời kỳ này lãnh Thổ Việt Nam vươn tới cực đại tới
tận Ai Lao, Chân Lạp
Vào năm 1835 Lãnh thổ Việt Nam vươn tới cực đại Việc
đặt Trấn Tây Thành cùng với chính sách cai trị mất lòng dân Chân Lạp
của Vua Minh Mạng và quan lại đã gây hao binh tổn lương, tướng sĩ mệt
nhọc.
Năm 1841, vua Minh Mạng mất, Vua Thiệu Trị vừa lên thay.
Thấy tình hình Chân Lạp bất ổn mãi, nên nhân có lời tâu của Tạ Quang Cự
xin bỏ đất Chân Lạp, vua Thiệu Trị thuận ý, truyền cho quan quân Đại Nam
rút quân về giữ An Giang.
Năm 1841 bỏ trấn Tây Thành
Thời kỳ bị Pháp xâm lăng và đô hộ
Năm 1859 thực dân Pháp đánh thành Gia Định
Lãnh thổ Việt Nam năm 1859 Hòa
ước Nhâm Tuất (1862) buộc triều đình nhà Nguyễn nhượng 3 tỉnh Nam Kỳ là
Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho cho Pháp. Tiếp sau đó tỉnh Hà Tiên, Châu
Đốc, Vĩnh Long cũng bị sát nhập nốt vào lãnh thổ bảo hộ của Pháp.
Lãnh thổ Việt Nam sau hòa ước Nhâm Tuất 1862 Lãnh thổ Việt Nam sau hòa ước Nhâm Tuất 1862 Lãnh thổ Việt Nam sau hòa ước Nhâm Tuất 1862 Năm 1870, Pháp ký với Campuchia hiệp định phân định biên giới.
Đại Nam 1870 Năm 1874, Pháp ký với Việt Nam Hòa ước Giáp Tuất (1874) công nhận sự thống trị của Pháp với toàn Nam Kỳ.
Hòa
ước Quý Mùi, 1883 được ký, Việt Nam mất một phần Trung Kỳ và toàn bộ
Bắc Kỳ vào tay Pháp. Việt Nam cũng mất quyền tự quyết về đối ngoại vào
tay Pháp
Lãnh thổ Việt Nam sau hòa ước Quý Mùi, 1883 1884 Hòa ước Giáp Thân được ký, Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa của Pháp
bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ 61 Năm
1887 người Pháp nhân danh nước Bảo hộ triều đình Huế ký Hiệp ước
Pháp-Thanh nhường một dải đất cho nhà Thanh. Sông Dương Hà (sông An Nam
Giang) trước kia là đường biên giới nay lùi biên giới xuống phía nam,
lấy cửa sông Bắc Luân ở Hải Ninh (Móng Cái) làm địa giới.
Việt Nam 1887
Liên Bang Đông Dương
Năm
1893, lúc này Pháp đã thành lập liên bang Đông Dương, dựa theo địa hình
đã cắt tỉnh Huaphanh (Hủa Phăn), Xiêng Khoảng giao về lãnh thổ Lào (Ai
Lao).
Lãnh thổ Việt Nam 1893 1895,
từ công ước Pháp-Thanh 1895đã đưa về phần lớn vùng đất Lai Châu, Điện
Biên và một phần Lào Cai ngày nay thuộc về xứ Bắc Kỳ còn một phần đất ở
bắc sông Bắc Luân thuộc về nhà Thanh. Sâm Châu và Xiêng Khoảng bị cắt
cho Lào.
Lãnh thổ Việt Nam 1895 Năm
1893, hiệp ước Pháp-Xiêm (1893) theo đó nhượng toàn bộ vùng lãnh thổ
phía Đông sông Mê Kông cho Pháp, gạt bỏ lực lượng quân sự và những ảnh
hưởng của Xiêm tại vùng cao nguyên thượng sông Sêrêpôk. Vùng đất nhượng
lại này bao gồm cả tỉnh Stung Treng, năm 1899 địa khu Đắc Lắc được thành
lập từ Stung Treng. Năm 1904, Đắc Lắc được sáp nhập vào Việt Nam.
Năm 1904 Pháp sát nhập Đak Lac vào lãnh thổ Việt Nam Đến 1905 thì sát nhập các tỉnh Tây Nguyên còn lại
Việt Nam 1905
Lãnh thổ Việt Nam sau năm 1945
Đế quốc Việt Nam là tên chính thức của một chính phủ tồn tại 5 tháng trong lịch sử Việt Nam
bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ 68 Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập vào ngày 2/9/1945
bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ 69 Từ 1954 đến 1975, Việt Nam bị chia đôi tại vĩ tuyến 17 sau hiệp định Giơ-ne-vơ
bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ 70 30/4/1975 Lãnh Thổ Việt Nam hoàn toàn thống nhất như ngày nay
Lãnh thổ Việt Nam ngày nay
Quần đảo Hoàng Sa
Việt
Nam tuyên bố chủ quyền đối với Quần đảo Hoàng Sa, nhưng Hoàng Sa nay
đang bị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm đóng từ sau Hải chiến Hoàng
Sa, 1974.
Quần Đảo Trường Sa
Hiện
Quần đảo Trường Sa đang bị nhiều quốc gia trong khu vực tranh chấp do
có tiềm năng lớn về dầu khí và nguồn cá dồi dào. Việt Nam là quốc gia
nắm giữ nhiều đảo nhất. Các quốc gia đang tranh chấp chủ quyền gồm: Việt
Nam, Trung Quốc, Đài Loan,Philippines, Malaysia, Brunei. Nguồn: http://lichsunuocvietnam.com/ban-do-lanh-tho-viet-nam-qua-cac-thoi-ky-phan1/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét