Dân tộc Do Thái là một trong những dân tộc lâu đời trên thế giới. Dân số ở nước này chỉ chiếm khoảng 0.2% dân số thế giới nhưng lại nuôi dưỡng ra rất nhiều nhân tài kiệt xuất.
Trong thế kỷ 20, số người Do Thái đạt giải Nobel chiếm 1/5 số người
đạt giải này trên thế giới. Trong 200 người nổi tiếng ảnh hưởng nhất tại
Mỹ thì một nửa số người là người Do Thái. Trong số giáo sư đại học ở Mỹ
thì người Do Thái chiếm 1/3; trong số Luật sư ở Mỹ thì người Do Thái
chiếm 1/4; trong số nhà văn, nhà biên kịch, nhạc sĩ hàng đầu ở Mỹ có 60%
là người Do Thái, một nửa số doanh nhân giàu nhất thế giới là người Do
Thái, có 1/3 số triệu phú Mỹ là người Do Thái; trong 40 người giàu nhất
nước Mỹ theo xếp hạng của Forbes có 18 người Do Thái, có 10 Nghị sĩ
Thượng viện và 27 Nghị sĩ Hạ viện Mỹ là người Do Thái.
Ở dân tộc Do Thái, ngay từ khi con cái còn rất nhỏ tuổi, cha mẹ đã
bắt đầu truyền cảm hứng cho trẻ để giúp chúng theo đuổi tri thức, tôn
trọng trí tuệ, bồi dưỡng tính cách độc lập tự chủ, tinh thần tiên phong
và sáng tạo của trẻ. Họ cũng để trẻ nhận biết tiền của, kích thích dục
vọng truy đuổi tài phú của chúng, bồi dưỡng tác phong và cách sống cần
kiệm cũng như năng lực giao tiếp xã hội, xử thế. Giáo dục chúng đối xử
tốt với người khác, ứng xử hài hòa với người khác, tăng cường khả năng
tự kiểm soát và dũng khí đối mặt với nghịch cảnh.
Nghi thức hôn lên cuốn Thánh Kinh
Trong các gia đình người Do Thái, ngay từ khi con còn nhỏ, người mẹ
sẽ mở cuốn Thánh Kinh ra và nhỏ lên đó một những giọt mật (mật ong). Sau
đó người mẹ sẽ hướng dẫn con hôn lên chỗ mật được nhỏ trên cuốn Thánh
kinh ấy. Dụng ý của nghi thức này là muốn nói với con rằng “sách vốn là
mật ngọt”. Như thế sẽ giúp trẻ lưu lại một ấn tượng vô cùng tốt đẹp ngay
trong lần đầu tiên tiếp xúc với sách. Điều đó cũng giúp trẻ cả đời vui
vẻ với việc học và đọc sách.
Gia đình người Do Thái còn có một thói quen được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác, đó là đặt sách phải đặt ở phía đầu giường. Nếu đặt ở
phía cuối giường thì bị cho là bất kính. Những thói quen này đã khiến Do
Thái trở thành một dân tộc yêu sách nhất trên thế giới.
Câu hỏi truyền thống trong gia đình Do Thái
Trẻ em ở các gia đình Do Thái hầu như đều phải trả lời một câu hỏi:
“Nếu có một ngày nhà của con bị cháy, tài sản của con bị cướp sạch, con
sẽ mang thứ gì theo khi chạy trốn?”
Nếu trẻ trả lời là sẽ mang theo tiền bạc hay của cải thì người mẹ sẽ
tiến thêm một bước mà hỏi câu: “Có một thứ không có hình dạng, không có
màu sắc, không có mùi vị nhưng quan trọng hơn cả. Con có biết là thứ gì
không?”
Nếu trẻ không trả lời được, người mẹ sẽ nói: “Con à! Thứ mà con phải
mang theo không phải là tiền bạc cũng không phải là của cải, mà là trí
tuệ. Bởi vì, trí tuệ là thứ mà bất kể kẻ nào cướp cũng không được. Con
chỉ cần sống thì trí tuệ sẽ vĩnh viễn đi theo con.”
Người Do Thái rất coi trọng sự sáng tạo
Người Do Thái có một câu ngạn ngữ lưu truyền nhiều đời là: “Không là
con lừa cõng trên lưng nhiều sách”. Họ không chỉ phi thường coi trọng
tri thức mà càng coi trọng tài năng. Họ ví những người có chút tri thức
mà không có tài năng là “Con lừa cõng trên lưng nhiều sách”.
Họ cho rằng, học tập bình thường chỉ là một loại bắt chước mà không
có bất luận sự sáng tạo nào. Học tập phải lấy suy nghĩ, tự hỏi, suy xét
làm cơ sở. Suy nghĩ, tự hỏi là do hoài nghi và trả lời cấu thành.
Hoài nghi là cánh cửa lớn của trí tuệ. Hiểu biết càng nhiều thì sẽ
hoài nghi càng nhiều, mà câu hỏi cũng thuận theo đó mà gia tăng. Cho
nên, thường xuyên hỏi sẽ khiến con người tiến bước. Người Do Thái đặc
biệt chú trọng đến việc giao lưu chia sẻ suy nghĩ với trẻ trong gia
đình. Trẻ luôn luôn nhận được lời dạy bảo và chỉ dẫn của người lớn.
Trẻ cũng có thể cùng với người lớn trao đổi, đàm luận về các vấn đề.
Đôi khi người lớn sẽ hỏi vặn, tranh luận với trẻ mãi cũng là để giúp trẻ
đi sâu vào nghiên cứu và học tập. Chính vì thế, người Do Thái nổi tiếng
là có tài ăn nói, hùng biện và điểm số cao ở các cuộc thi.
Học thuộc lòng Thánh Kinh
Trong các gia đình Do Thái, trẻ ngay từ lúc còn nhỏ đã bắt đầu đọc
thuộc lòng Thánh Kinh, đây đã trở thành định luật không thể thay đổi.
Làm như vậy, mục đích của người lớn không phải là để trẻ lý giải được ý
nghĩa của Thánh Kinh, mà là để tạo cho trẻ thói quen học thuộc lòng.
Người Do Thái nhận ra rằng, học thuộc lòng là con đường tốt để bồi
dưỡng trí nhớ của trẻ. Nếu như không thể bồi dưỡng cho trẻ có một khả
năng nhớ tốt, thì sau này việc gia tăng học tập những thứ khác sẽ rất
khó.
Trẻ Do Thái sẽ đọc thuộc các cuốn “Ngũ kinh Moses”, “Kinh Thánh Cựu
Ước”, “Tháp mộc đức kinh”, đây là những cuốn bắt buộc người Do Thái phải
đọc trong đời.
Ghi nhớ lịch sử
Trẻ em ở dân tộc Do Thái lớn lên cùng với việc nghe các câu chuyện
trong Kinh Thánh và những câu chuyện lịch sử của dân tộc mình. Lịch sử
đối với người Do Thái mà nói, tuyệt không chỉ là mộn học lý thuyết hời
hợt bề ngoài mà nó đã thực sự thấm sâu vào trong mỗi gia đình, mỗi tâm
khảm con người, được lưu truyền giống như gia phả trong gia đình.
Trong mỗi người Do Thái, sự trưởng thành, thể nghiệm, gia đình, bạn
bè, quê hương… đều gắn kết với lịch sử. Chúng gắn kết với nhau, trở
thành một thể không phân cách. Chúng cũng sẽ dùng phương thức thể nghiệm
của mình đến học lịch sử. Các phương thức đó có thể là thảo luận, giả
thiết…Nói một cách chung nhất, chúng vừa ghi nhớ lịch sử vừa tự hỏi, suy
xét lịch sử.
Chú trọng ngày nghỉ ngơi
Thời cổ đại, chỉ có người Do Thái là dành ra một ngày trong tuần để
nghỉ ngơi. Đối với những quốc gia khác thì đây là một điều vô cùng kỳ
lạ. Hơn nữa, người Do Thái cũng không tận dụng ngày nghỉ để đi du ngoạn,
bởi vì khi trở về đã toàn thân mệt mỏi. Họ cho rằng ngày nghỉ ngơi phải
đạt được mục đích nghỉ ngơi, thư giãn tinh thần và thân thể, tẩy rửa
tâm linh, khôi phục lại trạng thái làm việc tốt nhất.
Trong ngày nghỉ, họ thậm chí còn đóng cửa hết thảy các hoạt động buôn
bán: 8 giờ sáng họ bắt đầu đi làm lễ, mãi cho đến giữa trưa họ dùng
tiếng Hebrew để đọc kinh cầu nguyện, lắng nghe những lời dạy trong
“Thánh kinh”, giúp cho tâm trí của mình được khai sáng hơn. Sau đó họ
trở về nhà và ăn nhanh bữa trưa rồi nghỉ ngơi. Đến khoảng 4 giờ chiều,
họ sẽ ở nhà hoặc đến giáo đường để giao lưu chia sẻ, học tập “Tháp Mộc
Đức Kinh” và “Thánh Kinh” cùng với bạn bè và giáo sĩ. Ngủ trưa và việc
học hỏi, trao đổi này không nhất thiết phải theo thứ tự như vậy, nhưng
việc học tâp và trao đổi này là quy định bắt buộc phải thực hiện.
Họ cho rằng, nếu như trong ngày nghỉ mà không điều chỉnh được trạng
thái của mình thì sẽ rất khó để cải thiện được những suy nghĩ trong tâm
linh. Họ muốn trong ngày nghỉ phải giải phóng bản thân khỏi công việc
trong thế tục, hoàn toàn đắm mình vào trong một thế giới khác. Ở trong
loại thế giới ấy, họ có thể đạt được cội nguồn của suy nghĩ và linh cảm.
Linh cảm và sáng tạo đều là sản vật của trí tuệ. Mà chúng được sinh
ra ở trong trạng thái đại não người được buông lỏng. Cho dù là người có
bộ não thông minh bao nhiêu đi nữa, nhưng căng thẳng, suy nghĩ liên tục
trong một thời gian dài thì đều sẽ bắt đầu bị tê liệt. Cho nên, não bộ
là cần phải được nghỉ ngơi đầy đủ thì mới sản sinh ra trí tuệ. Đây chính
là đạo lý đơn giản của người Do Thái nhưng lại thường bị mọi người
không chú ý.
Mai Trà biên dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét