Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng được hình thành với một quá trình gần giống nhau. Bắt đầu là những bộ lạc nhỏ ở kề cận nhau, vì nhu cầu nào đó mà hợp lại với nhau hoặc thôn tính lẫn nhau. Dần dần các bộ lạc nhỏ yếu biến mất và các bộ lạc mạnh trở thành những tập thể xã hội lớn hơn gọi là “nước”. Các xã hội ngày xưa cứ thế mà diễn tiến như là một việc tất nhiên. Điển hình như nước Trung Hoa ngày nay là một tập hợp của hàng vạn nước nhỏ tạo nên!
Xã
hội Việt Nam cũng là một quần thể gồm nhiều dân tộc có tiếng nói, phong
tục tập quán khác nhau hợp lại. Trong đó Việt tộc (người Kinh) chiếm đa
số. Về lãnh thổ, Việt Nam là một dải đất hình chữ S nằm ven Biển Đông,
chạy dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Để tạo dựng được một giang sơn
như thế, Việt Nam không thể tránh khỏi việc phải thôn tính hoặc xâm lấn
đất cát của một số nước láng giềng! Đó là công việc của người xưa đã
phải làm để tồn tại.
Trên dải đất hình chữ S Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều chùa miếu, lăng mộ, đền tháp lâu đời của các dân tộc thiểu số nằm rải rác khắp nơi. Nổi bật là những dấu tích thành trì, những ngôi tháp cổ biểu tượng cho nền văn minh cổ của dân tộc Chiêm Thành ở miền Trung. Đặc biệt là khu Thánh địa Mỹ Sơn ở Quảng Nam đã được tổ chức quốc tế UNESCO chọn là một trong các di sản văn hóa thế giới.
Khu Thánh địa Mỹ Sơn đã ghi lại dấu tích một thời vàng son của dân tộc Chiêm Thành. Thời Việt Nam còn nằm dưới ách Bắc thuộc, Chiêm Thành – tên cũ là Lâm Ấp rồi Hoàn Vương – đã nhiều phen gây bối rối cho Trung Hoa qua những vụ tranh chấp lãnh thổ, ngăn cản bước bành trướng của đế quốc to lớn này. Rất nhiều viên thứ sử, thái thú, huyện lệnh tàn ác của Trung Hoa đã mất đầu dưới tay người Chiêm. Người Chiêm cũng từng đánh vào các nước Mã Lai, Java, Chân Lạp, có lần còn đột kích luôn vào cả đảo Hải Nam để cướp ngựa nữa. Nói chung dân tộc Chiêm Thành đã có một quá khứ oanh liệt chẳng kém ai!
Ngày nay thì người Chiêm đã trở thành thiểu số trong cộng đồng Việt Nam. Trong bài “Tìm Hiểu Cộng Đồng Người Chăm Tại Việt Nam”, Tiến sĩ Dân tộc học Nguyễn Văn Huy có đoạn viết:
“Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu? Không lẽ họ đã bị tiêu diệt hết sao? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật không?
Câu trả lời là dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thời gian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào sống lâu đời tại miền Trung mà không mang ít nhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về hình dáng: da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắt bầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa. Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên để chứng minh một điều: dân cư vương quốc Champa cũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung.”
Lời nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy chắc không xa thực tế mấy. Những cuốn Việt sử xưa nhất đều có chép vụ tháng giêng năm Ất Tị (1365) quân Chiêm đã bắt hàng trăm thanh thiếu niên nam nữ của Đại Việt đang vui chơi Hội Xuân ở đất Bà Dương (Hóa Châu) đem về nước! Bắt về để làm gì? Nếu muốn giết đám trẻ đó, người Chiêm đủ khả năng để giết tại chỗ mà! Tiếp theo, mỗi lần Chế Bồng Nga sang đánh Đại Việt thắng trận lại bắt về không biết bao nhiêu thiếu nữ và đàn bà trẻ để làm gì nếu không phải là làm quà ban thưởng cho các quan quyền làm thê thiếp hay nô lệ? Tới năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ chiếm được xứ Động Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành, đưa lính tráng vào trước để khai khẩn đất đai tính chuyện ăn ở lâu dài. Thế nhưng năm sau, khi đưa vợ con những người này vào để đoàn tụ gia đình bằng thủy lộ, không may lại gặp bão đánh chìm thuyền bè, hầu hết số người này đều bị chết đuối. Vậy, những người lính làm di dân không may ấy sẽ tìm vợ ở đâu nếu không phải là những đàn bà Chiêm Thành? Tới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, các chúa Nguyễn còn đưa bao nhiêu đợt tù binh bắt được của họ Trịnh vào khai khẩn đất Chiêm Thành nữa, họ cũng phải lập gia đình chứ? Nhưng họ dễ gì kiếm được đàn bà Đại Việt khi đang ở trên đất Chiêm!
Thực tế như ở Thừa Thiên – Huế, chỉ điểm sơ ở các làng Vân Thê (xã Thủy Thanh), La Vân (La Chữ), An Mỹ (Thế Lại Thượng) đã có nhiều cư dân mang họ Chế. Hỏi dân địa phương họ ước tính người họ Chế trong ba làng đó đã lên tới vài ngàn người. Đó là chưa nói đến các họ khác mà vua Minh Mạng đã ban cho những người Chiêm trên toàn quốc: Bá, Đàng, Hứa, Lưu, Hán, Lộ, Mã, Châu, Ngụy, Từ, Tạ, Thiên, Ức v.v…
Đến đây thiết tưởng cũng nên nói sơ về vấn đề “Họ” của người Chiêm một chút:
Ngày xưa người Chiêm chưa có họ. Những người đã đạt được một địa vị quan trọng trong xã hội thường tự chọn tên một vị thần, một vị thánh, một vị vua danh tiếng, một đấng anh hùng mình tôn sùng ghép vào tên mình để tăng thêm vẻ tôn quí. Như chữ “Chế”, chữ “Trà” đứng trước tên người mang ý nghĩa như một biểu tượng về một tước vị, một giai cấp cao sang hoặc để “thiên mệnh hóa” cái địa vị đương thời của người ấy. Sau này một số người Chiêm đầu hàng các vua Việt mới được các vị vua ấy ban “họ chính thức” theo ý nghĩa Việt Nam.
Đến đời vua Minh Mạng thì nước Chiêm bị sát nhập hẳn vào Việt Nam. Vua Minh Mạng đã bắt buộc những người Chiêm chưa có họ đều phải nhận cho mình một họ trong danh sách các họ do vua chỉ định để triều đình tiện việc thống kê hộ tịch.
Ngày nay dân tộc Chiêm đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng Việt Nam, lãnh thổ cũ của Chiêm Thành cũng đã trở thành một phần lãnh thổ Việt Nam. Vậy ta có thể coi lịch sử Chiêm Thành như một phần của lịch sử Việt Nam không? Sao lại không được nhỉ? Làm sao phủ nhận được sự liên can lịch sử của triều đại Chế Bồng Nga nước Chiêm Thành với lịch sử thời Trần mạt của Đại Việt? Người viết nghĩ cộng đồng Việt Nam cũng có thể hãnh diện với lòng chung thủy, dám hi sinh mạng sống của mình để giữ tròn trinh tiết với chồng của một vương phi Mỵ Ê, hãnh diện với những công trình văn hóa mà dân tộc Chiêm đã để lại cho đất nước Việt Nam lắm chứ!
Còn nữa, nói tới dân tộc Chiêm mà quên nói tới vị vua anh hùng Chế Bồng Nga là một điều thiếu sót! Đó là một vị anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu!
Sở dĩ người viết phải nhấn mạnh điểm anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu vì ngày nay người ta hay lạm dụng danh hiệu anh hùng quá đáng như anh hùng diệt tăng, anh hùng sản xuất phân xanh, anh hùng lao động v.v…! Danh hiệu này được dùng như một phần thưởng để ban phát một cách vô tội vạ! Điều mỉa mai là vẫn có lắm kẻ mê say nó đến quên mạng! Người viết còn nhớ hồi ở tù cải tạo, có một số bạn tù đói thắt ruột nhưng khi ra lao động vẫn cố gắng cuốc đất tối đa để cuối tuần được bầu làm “anh hùng lao động”! Lạm dụng đến nỗi có người phải than ngày nay là thời đại “ra ngõ gặp anh hùng”!
Vậy, phải như thế nào mới xứng đáng là anh hùng chính hiệu?
Theo nghĩa nguyên gốc thì anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú. Ngay chữ “anh” đã tự nó xác định cái ý nghĩa đẹp đẽ, thơm tho, tinh khiết của chính nó! Chữ “hùng” thì mang ý nghĩa sức mạnh, khả năng, lòng quả cảm, sự khôn khéo, sự chiến thắng…
Hai chữ này đi chung với nhau nó trở thành tiếng kép để chỉ hạng người vượt trội những người khác về mặt tài năng hay đức độ, tạo nên được những thành tích phi thường có lợi cho nhân quần xã hội, ít nhất họ cũng để lại được một tấm gương sáng đẹp cho người đời soi chung.
Từ ngữ anh hùng thường chỉ dùng giới hạn trong phạm vi một dân tộc, một đất nước, một liên bang thôi. Không nghe ai nói tới anh hùng quốc tế bao giờ! Để được gọi là anh hùng chính hiệu, nhân vật đó phải được dư luận quốc dân gạn lọc qua một thời gian dài mới định được!
Trong bộ sách “Tam Quốc Chí” của văn hào La Quán Trung, ở hồi thứ 21, có đoạn Tào Tháo uống rượu luận anh hùng với Lưu Bị nghe rất lý thú, xin lược lại như sau:
Trong khi uống rượu, Tào Tháo hỏi Lưu Bị có biết anh hùng trong thiên hạ đời nay là ai không? Lưu Bị đã nêu lên một số người đang có danh vọng, đang cát cứ một phần lãnh thổ của nước Trung Hoa đương thời, nhưng tất cả đều bị Tào Tháo bác đi. Tào Tháo cho Viên Thuật là nắm xương khô trong mả, Viên Thiệu thì mặt bạo mà gan non, thấy của thì quên mệnh, Lưu Biểu chỉ có hư danh mà không có thực tài, Tôn Sách thì dựa vào uy danh của cha, Lưu Chương là chó giữ nhà, Trương Tú, Trương Lỗ, Hàn Toại… là đám tiểu nhân lúc nhúc không đáng đếm xỉa. Tiếp đó Tào Tháo dõng dạc nói: “Người anh hùng ấy à? Anh hùng phải là người nuôi chí lớn trong tim óc, lại phải có mưu cao kế giỏi, có tài bao tàng cả máy Vũ Trụ trong lòng, có chí nuốt Trời mửa Đất, ấy mới đáng mặt anh hùng chứ!”. Lưu Bị hỏi lại: “Ai là người đáng mặt như thế?”. Tào Tháo không còn úp mở nữa, chỉ thẳng vào Lưu Bị rồi lại chỉ vào mình mà nói: “Anh hùng trong thiên hạ đời nay chỉ có sứ quân và Tháo!”. Lưu Bị nghe rụng rời cả chân tay, đôi đũa ông đang cầm cũng rơi xuống đất…
Theo cách luận này thì muốn làm anh hùng quả thật là khó!
Mạc Đăng Dung là một tướng có tài, khi triều Lê suy yếu, loạn lạc khắp nơi, ông ra công đánh Nam dẹp Bắc rồi cướp ngôi nhà Lê dựng nên triều nhà Mạc. Công nghiệp như thế nhưng chưa thấy sử sách nào khen ông ta là anh hùng cả! Vì sao? Vì Mạc Đăng Dung chỉ có “hùng” mà không có “anh”! Vì ông đã cam tâm dâng hiến một phần lãnh thổ của Đại Việt cho Trung Hoa để cầu chước bảo vệ ngai vàng, phản lại quyền lợi của dân tộc!
Nguyễn Thân, một đại thần triều Nguyễn thời Pháp thuộc là người nhiều mưu lắm kế, giúp Pháp dẹp được rất nhiều cuộc khởi nghĩa, nhất là diệt được phong trào Văn Thân của Phan Đình Phùng. Ông là một vị tướng bách chiến bách thắng, đã được chính phủ Pháp tặng Bắc Đẩu bội tinh đệ ngũ hạng rồi Bắc Đẩu bội tinh đệ tứ hạng. Với triều Nguyễn, ông được phong Cần chính điện Đại học sĩ, Túc liệt tướng Diên Lộc quận công. Bước đường công danh như vậy là đã tột đỉnh. Thế nhưng cuối cùng ông chỉ để lại trong lòng người dân Việt vỏn vẹn cái danh hiệu “Việt gian”! Vì ông cũng chỉ có “hùng” mà không hề có “anh”, cam tâm làm tay sai cho ngoại bang, giết hại những người dân tranh đấu cho quyền lợi dân tộc!
Ngược lại, các nhân vật như Triệu Thị Trinh, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Đề Thám, Trương Định, Nguyễn Thái Học v.v… là những người không chịu khuất phục trước bọn giặc cướp nước, quyết kháng chiến tới cùng, dù thất bại họ vẫn được quốc dân nhớ ơn thờ kính, xưng tụng là những bậc anh hùng. Tên tuổi họ ngàn năm vẫn sáng ngời trong sử sách!
Trở lại chuyện vua Chế Bồng Nga: Khi ông lên ngôi vua thì nước Chiêm vừa trải qua một trận dịch hạch khủng khiếp. Ông vừa lo việc hàn gắn vết thương cũ vừa lo việc phát triển quân đội để tái chiếm những vùng đất cũ của Chiêm Thành đã bị Đại Việt xâm chiếm. Trong bước đầu ông đã thành công rất vẻ vang. Nhờ mưu trí tuyệt vời, quân đội hùng mạnh, ông đã chiến thắng Đại Việt nhiều trận oanh liệt. Nhưng ông không hề nuôi ý định thôn tính Đại Việt. Ông đã sáng suốt nhận ra được những mối nguy sẽ xảy đến nếu Chiêm Thành thôn tính Đại Việt: Thứ nhất, dân Đại Việt sẽ quật cường vùng dậy như nhiều lần trước họ đã làm với người Trung Hoa. Thứ hai, nếu Đại Việt không vùng dậy nổi thì Chiêm Thành sẽ thành ở sát cạnh Trung Hoa, chẳng khác chi con dê phải ở sát cạnh một con báo! Ông đã cố thực hiện một giải pháp khác giữ được an toàn cho nước Chiêm hơn. Ông chủ trương duy trì sự tồn tại của một nước Đại Việt để làm bình phong che chắn thế lực Trung Hoa! Dùng Trần Húc con vua Nghệ Tôn không thành, ông lại định dùng Trần Nguyên Diệu, con thứ vua Duệ Tôn làm con bài chủ cho giải pháp này! Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên! Không ngờ cuộc đời của một vị vua anh hùng ngang dọc một thời lại bị kết thúc đau đớn chỉ vì một sơ suất nhỏ! Ông đã không thực hiện được ước nguyện. Nếu Chế Bồng Nga cẩn thận hơn một chút, không biết cục diện khu vực Đông Nam Á ngày nay sẽ ra thế nào! Phải chăng đó là sự dàn xếp của định mệnh?
Người viết vốn thích đọc lịch sử nước nhà, đã từng gặp nhiều đoạn sử oái oăm. Đôi khi chỉ cần một sự rủi may nhỏ nhoi cũng đủ làm thay đổi cả một cục diện lớn. Khi đọc qua đoạn sử này người viết không thể không suy nghĩ băn khoăn. Rõ ràng nhân vật Chế Bồng Nga, về nhiều mặt không thể tách rời dòng sử Việt được. Vì thế nên người viết mạo muội gom góp một ít tài liệu viết nên thiên tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga: Anh hùng Chiêm quốc.
Có một điều người viết xin thưa trước với quí độc giả: Tuy viết tiểu thuyết lịch sử chứ không phải khảo cứu lịch sử, nhưng người viết luôn chủ trương xây dựng tác phẩm của mình không đi quá xa nguồn chính sử! Tiếc rằng tài liệu về nhân vật Chế Bồng Nga trong chính sử quá hiếm và quá ngắn gọn. Về dã sử tuy có nhiều hơn nhưng thường rất mơ hồ, hoang đường nên sự gạn lọc khá khó khăn. Vì vậy, thiên tiểu thuyết lịch sử này có thể vấp nhiều lầm lỗi dễ gây sự hiểu biết sai lạc cho độc giả như nhà văn tiền bối Lan Khai từng vấp phải. Theo chính sử, nhân vật Đỗ Tử Bình là một viên quan tham lam, gian dối, sự gian dối của y đã tạo thành ngòi nổ cho trận chiến Việt – Chiêm năm 1377 mà kết quả là quân Việt đại bại, vua Trần Duệ Tôn bị giết. Thế mà trong tập tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga của nhà văn Lan Khai, nhân vật Đỗ Tử Bình lại được biến thành người giết được Chế Bồng Nga, là vị cứu tinh của nhà Trần! Thật sự người bắn hạ được Chế Bồng Nga chính là Đô tướng Trần Khát Chân, lúc đó Đỗ Tử Bình qua đời đã lâu.
Hi vọng với sự tiến triển của ngành nghiên cứu sử học, trong tương lai người ta sẽ tìm thêm được những tài liệu lịch sử về nước Chiêm chính xác hơn. Mong quý độc giả ai thấy những thiếu sót trong tập sách này xin chỉ giáo cho. Người viết lúc nào cũng sẵn sàng lắng nghe và xét lại để bổ chính khi sách được tái bản.
Sacramento, tháng 3 năm 2011
Trân trọng kính chào quý độc giả!
Trên dải đất hình chữ S Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều chùa miếu, lăng mộ, đền tháp lâu đời của các dân tộc thiểu số nằm rải rác khắp nơi. Nổi bật là những dấu tích thành trì, những ngôi tháp cổ biểu tượng cho nền văn minh cổ của dân tộc Chiêm Thành ở miền Trung. Đặc biệt là khu Thánh địa Mỹ Sơn ở Quảng Nam đã được tổ chức quốc tế UNESCO chọn là một trong các di sản văn hóa thế giới.
Khu Thánh địa Mỹ Sơn đã ghi lại dấu tích một thời vàng son của dân tộc Chiêm Thành. Thời Việt Nam còn nằm dưới ách Bắc thuộc, Chiêm Thành – tên cũ là Lâm Ấp rồi Hoàn Vương – đã nhiều phen gây bối rối cho Trung Hoa qua những vụ tranh chấp lãnh thổ, ngăn cản bước bành trướng của đế quốc to lớn này. Rất nhiều viên thứ sử, thái thú, huyện lệnh tàn ác của Trung Hoa đã mất đầu dưới tay người Chiêm. Người Chiêm cũng từng đánh vào các nước Mã Lai, Java, Chân Lạp, có lần còn đột kích luôn vào cả đảo Hải Nam để cướp ngựa nữa. Nói chung dân tộc Chiêm Thành đã có một quá khứ oanh liệt chẳng kém ai!
Ngày nay thì người Chiêm đã trở thành thiểu số trong cộng đồng Việt Nam. Trong bài “Tìm Hiểu Cộng Đồng Người Chăm Tại Việt Nam”, Tiến sĩ Dân tộc học Nguyễn Văn Huy có đoạn viết:
“Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu? Không lẽ họ đã bị tiêu diệt hết sao? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật không?
Câu trả lời là dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thời gian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào sống lâu đời tại miền Trung mà không mang ít nhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về hình dáng: da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắt bầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa. Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên để chứng minh một điều: dân cư vương quốc Champa cũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung.”
Lời nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy chắc không xa thực tế mấy. Những cuốn Việt sử xưa nhất đều có chép vụ tháng giêng năm Ất Tị (1365) quân Chiêm đã bắt hàng trăm thanh thiếu niên nam nữ của Đại Việt đang vui chơi Hội Xuân ở đất Bà Dương (Hóa Châu) đem về nước! Bắt về để làm gì? Nếu muốn giết đám trẻ đó, người Chiêm đủ khả năng để giết tại chỗ mà! Tiếp theo, mỗi lần Chế Bồng Nga sang đánh Đại Việt thắng trận lại bắt về không biết bao nhiêu thiếu nữ và đàn bà trẻ để làm gì nếu không phải là làm quà ban thưởng cho các quan quyền làm thê thiếp hay nô lệ? Tới năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ chiếm được xứ Động Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành, đưa lính tráng vào trước để khai khẩn đất đai tính chuyện ăn ở lâu dài. Thế nhưng năm sau, khi đưa vợ con những người này vào để đoàn tụ gia đình bằng thủy lộ, không may lại gặp bão đánh chìm thuyền bè, hầu hết số người này đều bị chết đuối. Vậy, những người lính làm di dân không may ấy sẽ tìm vợ ở đâu nếu không phải là những đàn bà Chiêm Thành? Tới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, các chúa Nguyễn còn đưa bao nhiêu đợt tù binh bắt được của họ Trịnh vào khai khẩn đất Chiêm Thành nữa, họ cũng phải lập gia đình chứ? Nhưng họ dễ gì kiếm được đàn bà Đại Việt khi đang ở trên đất Chiêm!
Thực tế như ở Thừa Thiên – Huế, chỉ điểm sơ ở các làng Vân Thê (xã Thủy Thanh), La Vân (La Chữ), An Mỹ (Thế Lại Thượng) đã có nhiều cư dân mang họ Chế. Hỏi dân địa phương họ ước tính người họ Chế trong ba làng đó đã lên tới vài ngàn người. Đó là chưa nói đến các họ khác mà vua Minh Mạng đã ban cho những người Chiêm trên toàn quốc: Bá, Đàng, Hứa, Lưu, Hán, Lộ, Mã, Châu, Ngụy, Từ, Tạ, Thiên, Ức v.v…
Đến đây thiết tưởng cũng nên nói sơ về vấn đề “Họ” của người Chiêm một chút:
Ngày xưa người Chiêm chưa có họ. Những người đã đạt được một địa vị quan trọng trong xã hội thường tự chọn tên một vị thần, một vị thánh, một vị vua danh tiếng, một đấng anh hùng mình tôn sùng ghép vào tên mình để tăng thêm vẻ tôn quí. Như chữ “Chế”, chữ “Trà” đứng trước tên người mang ý nghĩa như một biểu tượng về một tước vị, một giai cấp cao sang hoặc để “thiên mệnh hóa” cái địa vị đương thời của người ấy. Sau này một số người Chiêm đầu hàng các vua Việt mới được các vị vua ấy ban “họ chính thức” theo ý nghĩa Việt Nam.
Đến đời vua Minh Mạng thì nước Chiêm bị sát nhập hẳn vào Việt Nam. Vua Minh Mạng đã bắt buộc những người Chiêm chưa có họ đều phải nhận cho mình một họ trong danh sách các họ do vua chỉ định để triều đình tiện việc thống kê hộ tịch.
Ngày nay dân tộc Chiêm đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng Việt Nam, lãnh thổ cũ của Chiêm Thành cũng đã trở thành một phần lãnh thổ Việt Nam. Vậy ta có thể coi lịch sử Chiêm Thành như một phần của lịch sử Việt Nam không? Sao lại không được nhỉ? Làm sao phủ nhận được sự liên can lịch sử của triều đại Chế Bồng Nga nước Chiêm Thành với lịch sử thời Trần mạt của Đại Việt? Người viết nghĩ cộng đồng Việt Nam cũng có thể hãnh diện với lòng chung thủy, dám hi sinh mạng sống của mình để giữ tròn trinh tiết với chồng của một vương phi Mỵ Ê, hãnh diện với những công trình văn hóa mà dân tộc Chiêm đã để lại cho đất nước Việt Nam lắm chứ!
Còn nữa, nói tới dân tộc Chiêm mà quên nói tới vị vua anh hùng Chế Bồng Nga là một điều thiếu sót! Đó là một vị anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu!
Sở dĩ người viết phải nhấn mạnh điểm anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu vì ngày nay người ta hay lạm dụng danh hiệu anh hùng quá đáng như anh hùng diệt tăng, anh hùng sản xuất phân xanh, anh hùng lao động v.v…! Danh hiệu này được dùng như một phần thưởng để ban phát một cách vô tội vạ! Điều mỉa mai là vẫn có lắm kẻ mê say nó đến quên mạng! Người viết còn nhớ hồi ở tù cải tạo, có một số bạn tù đói thắt ruột nhưng khi ra lao động vẫn cố gắng cuốc đất tối đa để cuối tuần được bầu làm “anh hùng lao động”! Lạm dụng đến nỗi có người phải than ngày nay là thời đại “ra ngõ gặp anh hùng”!
Vậy, phải như thế nào mới xứng đáng là anh hùng chính hiệu?
Theo nghĩa nguyên gốc thì anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú. Ngay chữ “anh” đã tự nó xác định cái ý nghĩa đẹp đẽ, thơm tho, tinh khiết của chính nó! Chữ “hùng” thì mang ý nghĩa sức mạnh, khả năng, lòng quả cảm, sự khôn khéo, sự chiến thắng…
Hai chữ này đi chung với nhau nó trở thành tiếng kép để chỉ hạng người vượt trội những người khác về mặt tài năng hay đức độ, tạo nên được những thành tích phi thường có lợi cho nhân quần xã hội, ít nhất họ cũng để lại được một tấm gương sáng đẹp cho người đời soi chung.
Từ ngữ anh hùng thường chỉ dùng giới hạn trong phạm vi một dân tộc, một đất nước, một liên bang thôi. Không nghe ai nói tới anh hùng quốc tế bao giờ! Để được gọi là anh hùng chính hiệu, nhân vật đó phải được dư luận quốc dân gạn lọc qua một thời gian dài mới định được!
Trong bộ sách “Tam Quốc Chí” của văn hào La Quán Trung, ở hồi thứ 21, có đoạn Tào Tháo uống rượu luận anh hùng với Lưu Bị nghe rất lý thú, xin lược lại như sau:
Trong khi uống rượu, Tào Tháo hỏi Lưu Bị có biết anh hùng trong thiên hạ đời nay là ai không? Lưu Bị đã nêu lên một số người đang có danh vọng, đang cát cứ một phần lãnh thổ của nước Trung Hoa đương thời, nhưng tất cả đều bị Tào Tháo bác đi. Tào Tháo cho Viên Thuật là nắm xương khô trong mả, Viên Thiệu thì mặt bạo mà gan non, thấy của thì quên mệnh, Lưu Biểu chỉ có hư danh mà không có thực tài, Tôn Sách thì dựa vào uy danh của cha, Lưu Chương là chó giữ nhà, Trương Tú, Trương Lỗ, Hàn Toại… là đám tiểu nhân lúc nhúc không đáng đếm xỉa. Tiếp đó Tào Tháo dõng dạc nói: “Người anh hùng ấy à? Anh hùng phải là người nuôi chí lớn trong tim óc, lại phải có mưu cao kế giỏi, có tài bao tàng cả máy Vũ Trụ trong lòng, có chí nuốt Trời mửa Đất, ấy mới đáng mặt anh hùng chứ!”. Lưu Bị hỏi lại: “Ai là người đáng mặt như thế?”. Tào Tháo không còn úp mở nữa, chỉ thẳng vào Lưu Bị rồi lại chỉ vào mình mà nói: “Anh hùng trong thiên hạ đời nay chỉ có sứ quân và Tháo!”. Lưu Bị nghe rụng rời cả chân tay, đôi đũa ông đang cầm cũng rơi xuống đất…
Theo cách luận này thì muốn làm anh hùng quả thật là khó!
Mạc Đăng Dung là một tướng có tài, khi triều Lê suy yếu, loạn lạc khắp nơi, ông ra công đánh Nam dẹp Bắc rồi cướp ngôi nhà Lê dựng nên triều nhà Mạc. Công nghiệp như thế nhưng chưa thấy sử sách nào khen ông ta là anh hùng cả! Vì sao? Vì Mạc Đăng Dung chỉ có “hùng” mà không có “anh”! Vì ông đã cam tâm dâng hiến một phần lãnh thổ của Đại Việt cho Trung Hoa để cầu chước bảo vệ ngai vàng, phản lại quyền lợi của dân tộc!
Nguyễn Thân, một đại thần triều Nguyễn thời Pháp thuộc là người nhiều mưu lắm kế, giúp Pháp dẹp được rất nhiều cuộc khởi nghĩa, nhất là diệt được phong trào Văn Thân của Phan Đình Phùng. Ông là một vị tướng bách chiến bách thắng, đã được chính phủ Pháp tặng Bắc Đẩu bội tinh đệ ngũ hạng rồi Bắc Đẩu bội tinh đệ tứ hạng. Với triều Nguyễn, ông được phong Cần chính điện Đại học sĩ, Túc liệt tướng Diên Lộc quận công. Bước đường công danh như vậy là đã tột đỉnh. Thế nhưng cuối cùng ông chỉ để lại trong lòng người dân Việt vỏn vẹn cái danh hiệu “Việt gian”! Vì ông cũng chỉ có “hùng” mà không hề có “anh”, cam tâm làm tay sai cho ngoại bang, giết hại những người dân tranh đấu cho quyền lợi dân tộc!
Ngược lại, các nhân vật như Triệu Thị Trinh, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Đề Thám, Trương Định, Nguyễn Thái Học v.v… là những người không chịu khuất phục trước bọn giặc cướp nước, quyết kháng chiến tới cùng, dù thất bại họ vẫn được quốc dân nhớ ơn thờ kính, xưng tụng là những bậc anh hùng. Tên tuổi họ ngàn năm vẫn sáng ngời trong sử sách!
Trở lại chuyện vua Chế Bồng Nga: Khi ông lên ngôi vua thì nước Chiêm vừa trải qua một trận dịch hạch khủng khiếp. Ông vừa lo việc hàn gắn vết thương cũ vừa lo việc phát triển quân đội để tái chiếm những vùng đất cũ của Chiêm Thành đã bị Đại Việt xâm chiếm. Trong bước đầu ông đã thành công rất vẻ vang. Nhờ mưu trí tuyệt vời, quân đội hùng mạnh, ông đã chiến thắng Đại Việt nhiều trận oanh liệt. Nhưng ông không hề nuôi ý định thôn tính Đại Việt. Ông đã sáng suốt nhận ra được những mối nguy sẽ xảy đến nếu Chiêm Thành thôn tính Đại Việt: Thứ nhất, dân Đại Việt sẽ quật cường vùng dậy như nhiều lần trước họ đã làm với người Trung Hoa. Thứ hai, nếu Đại Việt không vùng dậy nổi thì Chiêm Thành sẽ thành ở sát cạnh Trung Hoa, chẳng khác chi con dê phải ở sát cạnh một con báo! Ông đã cố thực hiện một giải pháp khác giữ được an toàn cho nước Chiêm hơn. Ông chủ trương duy trì sự tồn tại của một nước Đại Việt để làm bình phong che chắn thế lực Trung Hoa! Dùng Trần Húc con vua Nghệ Tôn không thành, ông lại định dùng Trần Nguyên Diệu, con thứ vua Duệ Tôn làm con bài chủ cho giải pháp này! Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên! Không ngờ cuộc đời của một vị vua anh hùng ngang dọc một thời lại bị kết thúc đau đớn chỉ vì một sơ suất nhỏ! Ông đã không thực hiện được ước nguyện. Nếu Chế Bồng Nga cẩn thận hơn một chút, không biết cục diện khu vực Đông Nam Á ngày nay sẽ ra thế nào! Phải chăng đó là sự dàn xếp của định mệnh?
Người viết vốn thích đọc lịch sử nước nhà, đã từng gặp nhiều đoạn sử oái oăm. Đôi khi chỉ cần một sự rủi may nhỏ nhoi cũng đủ làm thay đổi cả một cục diện lớn. Khi đọc qua đoạn sử này người viết không thể không suy nghĩ băn khoăn. Rõ ràng nhân vật Chế Bồng Nga, về nhiều mặt không thể tách rời dòng sử Việt được. Vì thế nên người viết mạo muội gom góp một ít tài liệu viết nên thiên tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga: Anh hùng Chiêm quốc.
Có một điều người viết xin thưa trước với quí độc giả: Tuy viết tiểu thuyết lịch sử chứ không phải khảo cứu lịch sử, nhưng người viết luôn chủ trương xây dựng tác phẩm của mình không đi quá xa nguồn chính sử! Tiếc rằng tài liệu về nhân vật Chế Bồng Nga trong chính sử quá hiếm và quá ngắn gọn. Về dã sử tuy có nhiều hơn nhưng thường rất mơ hồ, hoang đường nên sự gạn lọc khá khó khăn. Vì vậy, thiên tiểu thuyết lịch sử này có thể vấp nhiều lầm lỗi dễ gây sự hiểu biết sai lạc cho độc giả như nhà văn tiền bối Lan Khai từng vấp phải. Theo chính sử, nhân vật Đỗ Tử Bình là một viên quan tham lam, gian dối, sự gian dối của y đã tạo thành ngòi nổ cho trận chiến Việt – Chiêm năm 1377 mà kết quả là quân Việt đại bại, vua Trần Duệ Tôn bị giết. Thế mà trong tập tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga của nhà văn Lan Khai, nhân vật Đỗ Tử Bình lại được biến thành người giết được Chế Bồng Nga, là vị cứu tinh của nhà Trần! Thật sự người bắn hạ được Chế Bồng Nga chính là Đô tướng Trần Khát Chân, lúc đó Đỗ Tử Bình qua đời đã lâu.
Hi vọng với sự tiến triển của ngành nghiên cứu sử học, trong tương lai người ta sẽ tìm thêm được những tài liệu lịch sử về nước Chiêm chính xác hơn. Mong quý độc giả ai thấy những thiếu sót trong tập sách này xin chỉ giáo cho. Người viết lúc nào cũng sẵn sàng lắng nghe và xét lại để bổ chính khi sách được tái bản.
Sacramento, tháng 3 năm 2011
Trân trọng kính chào quý độc giả!
Sau
khi quân Mông Cổ bị thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược hai nước
Đại Việt và Chiêm Thành, hai dân tộc này đã trải qua một thời gian sống
hòa bình, thân thiện bên nhau ngót hai mươi năm. Vua Đại Việt Trần Nhân
Tôn cũng như vua Chiêm Chế Mân đều rất cảm kích lòng dũng cảm, ý chí bất
khuất của nhau trước lũ giặc lớn Mông Cổ. Khi vua Nhân Tôn đã xuất gia,
trong một lần vân du sang Chiêm Thành, ngài đã hứa gả người con gái út
của ngài là Huyền Trân công chúa cho vua Chế Mân. Thế nhưng khi vua Chế
Mân xin thực hiện lời hứa đó, triều đình Đại Việt lúc bấy giờ đã do vua
Anh Tôn lãnh đạo lại dùng dằng không muốn chịu. Bất đắc dĩ vua Chế Mân
phải dâng hai châu Ô và Rí cho Đại Việt để làm sính lễ. Việc này đã làm
cả triều đình lẫn dân chúng nước Chiêm bất mãn.
Năm Bính Ngọ*, Huyền Trân công chúa được vua Chế Mân phong làm hoàng hậu. Nhưng cuộc tình duyên này không được lâu dài. Vua Chế Mân sống với Huyền Trân công chúa chưa được một năm thì mất. Hoàng tộc Chiêm Thành tôn hoàng tử trưởng Chế Chí lên kế vị vua cha.
Vua Anh Tôn thương em, sợ Huyền Trân sẽ bị hỏa thiêu với chồng theo tục lệ Chiêm Thành – vua mất thì các hậu, phi của vua cũng phải hỏa thiêu theo vua(?) nên sai Đại hành khiển Trần Khắc Chung lập mưu cướp bà đem về Đại Việt.
Vụ cướp lại công chúa đã làm người Chiêm càng thêm bất bình. Vua Chế Chí quá tức giận, đã tìm cách chiếm lại hai châu đất cũ. Thế là tình hình giao thiệp giữa hai nước bấy giờ càng ngày càng trở nên căng thẳng. Năm Nhâm Tý*, vua Anh Tôn thân hành đem quân đánh Chiêm Thành. Vua Chế Chí thấy quân Trần quá mạnh, có ý muốn đầu hàng. Ngặt nỗi quân dân Chiêm vì quá phẫn uất, thúc ép ông phải kháng cự. Kết quả vua Chế Chí đã bị bắt sống. Vua Anh Tôn bèn hội các quan ở Đồ Bàn để bàn định việc cai trị nước Chiêm. Vua hỏi:
-Nay vua Chiêm đã bị bắt, quân Chiêm đã tan rã, ta có nên nhân dịp này đặt quan lại để cai trị nước Chiêm không?
Thiên tử chiêu dụ sứ Đoàn Nhữ Hài thưa:
-Đánh bại quân đội một nước có thể dễ nhưng cai trị một nước thì rất khó! Muốn cai trị nước Chiêm không phải bệ hạ chỉ để lại một số quan lại là đủ! Tuy rằng có thể tuyển mộ những binh lính tại địa phương nhưng làm sao tin tưởng chúng được? Còn nếu để lại nhiều binh lính của ta thì rất bất tiện: nào giải quyết vấn đề lương thực, vấn đề tình cảm gia đình, làm sao cho lớp binh lính xa nhà ấy được yên tâm để phục vụ? Chưa hết, nếu lỡ quân Bắc lại sang xâm lấn, lực lượng ta đã bị xé mỏng, bấy giờ tính sao? Theo thiển ý của thần, bệ hạ nên lựa chọn một người nào đó trong hoàng tộc nước Chiêm, phong cho y làm chúa rồi bắt y triều cống hàng năm thì vẫn lợi hơn là cai trị nước Chiêm để rồi gánh thêm bao nhiêu mối lo âu, xin bệ hạ xét định!
Các quan đều tán thành ý kiến ấy. Vua Anh Tôn nghe lời, phong cho người em Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu để cai quản nước Chiêm, lấy hiệu là Chế Năng. Ổn định tình hình nước Chiêm xong, vua Anh Tôn cho rút quân về nước.
Nhưng Chiêm Thành thần phục Đại Việt chưa bao lâu lại trở chứng. Do tinh thần phẫn nộ của dân Chiêm về mối hận Ô Rí thúc đẩy, Chế Năng lại bước theo con đường Chế Chí đã đi. Năm Mậu Ngọ* Chế Năng kéo quân xâm phạm hai châu Ô và Rí. Lúc bấy giờ ở Đại Việt vua Trần Minh Tôn đã lên thay vua Anh Tôn, ông cử Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Trước khi xuất quân, vua Minh Tôn nói với Huệ Vũ:
-Với uy vũ của thúc phụ, chuyến đi này nhất định phải thành công. Tuy thế, trẫm chưa biết phải xử trí thế nào khi đã chiến thắng. Thúc phụ có cao kiến gì không?
Huệ Vũ đáp:
-Trước đây Thượng hoàng đã chinh phạt Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm. Thượng hoàng có hỏi ý các quan có nên chiếm đất Chiêm không, các quan đều bàn chưa nên. Lý do là sợ phải xé mỏng lực lượng của ta trong khi mối đe dọa của phương Bắc vẫn còn đó. Thượng hoàng bèn lựa một người trong hoàng tộc Chiêm phong làm chúa để y cai quản lấy nước Chiêm, buộc hàng năm triều cống Đại Việt. Lần phạt Chiêm này cũng chẳng xa cách lần trước mấy, tình hình cũng chẳng khác nhau, tôi nghĩ ta cũng nên bắt chước kế hoạch của Thượng hoàng là hơn!
Vua Minh Tôn nói:
-Nếu thúc phụ cũng có ý ấy, xin thúc phụ cứ tùy tiện!
Huệ Vũ bèn cử Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến đi tiên phong. Trong trận đụng độ đầu tiên, quân Chiêm đã kháng cự rất mãnh liệt. Quân Đại Việt thua lớn, Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến bị tử trận. May có Điện súy Phạm Ngũ Lão tiếp ứng kịp thời quân Đại Việt mới chuyển bại thành thắng. Quân Chiêm lại tan tác chạy. Huệ Vũ thừa thế tiến thẳng vào tới Đồ Bàn. Chế Năng hoảng sợ phải dẫn cả hoàng gia chạy sang nương náu ở Java là quê mẹ của ông ta. Triều đình Chiêm Thành như rắn mất đầu, các quan lại, các lãnh chúa người đầu hàng, kẻ chạy trốn hết.
Chiếm xong Đồ Bàn, Huệ Vũ bèn cho yết bảng phủ dụ chiêu an dân Chiêm. Ông kêu gọi ai làm công việc gì nay trở về với công việc nấy. Ông cũng ra lệnh cấm tuyệt quan quân Đại Việt quấy nhiễu dân Chiêm. Ai phạm tội nặng như giết người, hiếp dâm đều bị xử chém. Tội vừa như cướp bóc, trộm cắp thì phải chịu đánh đòn, trường hợp nghiêm trọng có thể bị tước quân tịch và bắt làm nô lệ. Nhờ lệnh đó, dân Chiêm có phần yên lòng, dần trở lại làm ăn như cũ.
Một hôm Huệ Vũ cho đòi tất cả các quan chức lớn nhỏ cũ của nước Chiêm đã đầu hàng tập trung tại nhà hội Vĩnh Xương trong thành Đồ Bàn rồi tuyên bố:
-Trước đây Trần đế đã đánh bại Chế Chí, đáng lẽ ngài đã sát nhập nước Chiêm vào lãnh thổ Đại Việt! Thế nhưng vì lòng nhân ái, ngài đã phong Chế Năng làm Á hầu để cùng các ngươi cai quản nước Chiêm! Không hiểu sao Chế Năng và các ngươi lại ôm lòng phản trắc, gây hấn tạo tình trạng bất an cho dân cả hai nước. Trần triều bất đắc dĩ lại phải ra tay trừng phạt. Nay nước Chiêm thêm một lần nữa coi như đã mất! Với quyền lực trong tay, ta sẽ đặt các quan Đại Việt cai trị dân Chiêm! Còn các ngươi, ta có thể giam vào ngục thất hoặc đày ải làm nô lệ suốt đời cho biết thân, các ngươi nghĩ thế nào?
Nghe Huệ Vũ hỏi thế, các quan chức Chiêm Thành đều lộ rõ nét mặt buồn bã lo âu nhưng chẳng ai dám hé môi. Huệ Vũ nhìn khắp bọn họ một lượt rồi nói tiếp:
-Ta nói như thế có phải không? Tại sao triều đình Đại Việt đã dung dưỡng các ngươi, trả quyền chức cho các ngươi, cho các ngươi tự cai trị lấy nhau, thế mà các ngươi lại a tòng với kẻ phản bội chống lại Trần triều như các ngươi đã hành động vừa rồi? Tại sao các ngươi không biết khuyên Chế Năng bỏ cái thói ăn cháo đá bát ấy? Một người khuyên y có thể không nghe nhưng nhiều người khuyên lẽ nào y lại chẳng nghe? Cũng bởi các ngươi không tốt nên y mới dễ dàng thuyết phục cùng nhau làm cái việc vong ân bội nghĩa ấy! Kinh nghiệm xương máu đã rành rành trước mắt, Đại Việt ta đâu còn dám để các ngươi tự trị? Chính các ngươi đã tự đưa dân tộc các ngươi đến chỗ diệt vong! Các ngươi còn có lời gì để nói nữa không?
Không khí im lặng ngột ngạt bao trùm cả sân hội. Đám cựu quan chức Chiêm Thành hầu hết gục mặt âu sầu tuyệt vọng. Bỗng một cụ già khoảng ngoài bảy mươi lấy can đảm đứng dậy tiến lên quì lạy Huệ Vũ rồi nói với giọng tha thiết:
-Bẩm Đại vương, chúng tôi đã lỡ dại phạm tội với thiên triều! Cúi xin thượng quốc mở lượng hải hà bỏ qua lỗi lầm cho lũ mán mọi lạc hậu này! Nếu Đại vương cho nước Chiêm chúng tôi được tự trị một lần nữa, dân Chiêm chúng tôi xin thề chẳng bao giờ còn dám phản bội! Nếu chúng tôi còn phạm lời thề xin trời tru đất diệt!
Nghe vị cựu quan già làm thế, nhiều người khác cũng bắt chước nhau cúi lạy Huệ Vũ:
-Cúi xin Đại vương mở lượng hải hà tha thứ cho dân Chiêm chúng tôi một lần nữa! Chúng tôi sẽ tuân phục thờ kính thiên triều như thờ cha mẹ, chẳng bao giờ còn dám ăn ở hai lòng!
Huệ Vũ đợi đám cựu quan chức Chiêm Thành van lạy một hồi rồi mới hỏi:
-Có chắc các ngươi thề không bao giờ còn phản bội thiên triều nữa không?
Một thoáng hi vọng lóe lên, đám cựu quan chức Chiêm Thành đồng loạt hô lớn:
-Chúng tôi xin thề! Chúng tôi xin thề! Kẻ nào sai lời xin trời tru đất diệt!
Huệ Vũ lại nhìn khắp đám người Chiêm sa cơ thất thế một lượt rồi tiếp:
-Thề với trời đất không phải là chuyện chơi đâu! Khi được phong tước Á hầu để cai quản dân Chiêm, Chế Năng đã long trọng thề sẽ tuyệt đối trung thành với thiên triều, thế nhưng rồi y lại phản bội lời thề! Kết quả y đã làm được cái gì? Chỉ thấy cảnh xương tan máu đổ giáng lên đầu dân Chiêm! Chính bản thân Chế Năng đã trở thành kẻ vong gia thất thổ khốn đốn ở quê người! Các ngươi phải nhớ bài học đó! May là thiên tử lòng nhân bao la nên cử ta đánh dẹp! Nếu việc này giao cho một tướng khác, chưa chắc các ngươi còn được yên lành như hôm nay! Thấy các nguơi đã biết hối hận về sự phản bội của mình ta cũng động lòng. Ta biết các ngươi chỉ vì ngây ngô dại dột nên bị Chế Năng dụ dỗ hoặc ép buộc phải làm việc quấy thôi! Vốn tình thiên tử thương dân Chiêm chẳng khác gì dân Đại Việt! Ngài đâu muốn để dân Chiêm phải buồn khổ, đau lòng! Khi ta xuất chinh, ngài đã cho phép ta được quyền tùy tình hình mà giải quyết. Để thể hiện lượng khoan hồng của thiên tử, ta sẽ cho nước Chiêm được tự trị một lần nữa, các ngươi nghĩ thế nào?
Đám dân Chiêm đang âu sầu ủ rũ như vừa chợt tỉnh ngủ, họ ngơ ngác nhìn nhau như dò hỏi. Nhưng cũng chẳng có một ai lên tiếng. Huệ Vũ lại tiếp:
-Quân bất hí ngôn, ta thay mặt thiên tử cho dựng lại nước Chiêm thật đấy! Triều đình Đại Việt muốn có một nước Chiêm mới mẻ biết sống thuận hòa với Đại Việt để dân chúng hai nước cùng được yên ổn làm ăn. Một nước Chiêm mới cần phải có một triều đình mới để cai trị muôn dân. Nhưng muốn có một triều đình vững mạnh phải kết hợp được thật nhiều nhân tài. Các ngươi tất biết rõ những ai hiện ở trong nước đáng mặt nhân tài. Các ngươi hãy thăm dò, vận động, tiến cử những người có tài có đức ấy đứng ra giúp nước. Nước Chiêm có lập lại được hay không là do chính các ngươi! Ta hứa khi nước Chiêm đã được tái lập quân Đại Việt sẽ rút về nước!
Nghe đến đây quan dân Chiêm đồng loạt reo vui:
-Đội ơn Thánh hoàng! Đội ơn Đại vương! Thánh hoàng vạn tuế, vạn vạn tuế!
Huệ Vũ nở một nụ cười tươi tắn:
-Đã đồng lòng như vậy, các ngươi phải gắng làm tròn bổn phận của mình! Ta sẽ tiếp tay cho các ngươi!
Lúc bấy giờ có viên tù trưởng tên Hiệu cai quản vùng Nghĩa Sơn nổi tiếng là một tay anh kiệt ít người sánh kịp. Trước đây Hiệu đã cùng con là Thủ (Patalsor) từng làm tướng chỉ huy quân Chiêm đánh nhau với quân Đại Việt nhiều trận. Khi Chế Năng chạy trốn sang Java thì cha con Hiệu dẫn một số thuộc hạ ẩn thân vào chốn rừng núi để mưu đồ việc phục quốc. Nay nghe tin vua Trần cho tái lập nước Chiêm, Thủ bàn với cha:
-Thưa cha, nay có tin Đại Việt cho gây dựng lại nước Chiêm, không biết có đúng không? Nghe nói họ đang kêu gọi nhân tài nước Chiêm ra lập triều đình mới, cha nghĩ mình có nên tham gia không?
Tù trưởng Hiệu nói:
-Tin ấy đã được thông báo nhiều nơi, tức là có thật. Chắc là họ sợ người Trung Hoa đánh vào phía Bắc nên muốn rút quân về giữ nước đấy! Ta đang mưu việc phục quốc nay nhà Trần lại cho phục quốc lẽ nào ta không tham gia? Tuy thế, phải đề phòng cạm bẫy! Cha bây giờ cũng già rồi, có chết cũng không tiếc. Riêng con là một nhân tài đất nước đang cần, nếu bị gài bẫy thì uổng lắm! Chi bằng con cứ tiếp tục công việc đã dự tính, để một mình cha thử ra yết kiến Huệ Vũ vương xem sao! Nếu Huệ Vũ vương đặt cạm bẫy thì cũng chỉ hại được một mình cha. Còn nếu Huệ Vũ vương thật tình có thiện chí cho gây dựng lại nước Chiêm, cha sẽ gọi con ra cũng không muộn!
Thế rồi tù trưởng Hiệu về Đồ Bàn xin yết kiến Huệ Vũ vương Quốc Chẩn. Huệ Vũ vốn đã nghe tiếng tù trưởng Hiệu, nay thấy ông ta xin yết kiến thì mừng lắm. Vương ân cần hỏi han Hiệu về tình hình nước Chiêm, về cách cai trị dân. Tù trưởng Hiệu thấy thái độ mềm mỏng nhiệt thành của Huệ Vũ cũng trả lời rất thành thật. Huệ Vũ có vẻ hài lòng lắm. Sau một hồi nói chuyện, Huệ Vũ kết luận:
-Ông quả là bậc nhân tài. Thay mặt đấng thiên tử, ta quyết định chọn ông làm chúa nước Chiêm Thành kể từ hôm nay. Ta hi vọng ông sẽ đem hết tài năng để phụng sự đất nước ông. Ta tin tưởng ông sẽ làm mọi cách để hàn gắn tình hữu nghị giữa hai nước Việt Chiêm và dân hai nước sẽ sống yên ổn bên nhau mãi mãi. Ông thấy thế nào?
-Đa tạ Đại vương đã tin yêu kẻ hèn này mà phó thác việc lớn. Tuy thế, kẻ hèn này chỉ có thể làm bề tôi mà không dám nhận ngôi vị chúa tể nước Chiêm Thành!
Huệ Vũ ngạc nhiên hỏi:
-Ông chớ khiêm nhường! Ta đã tiếp xúc với nhiều nhân vật có tiếng của nước Chiêm nhưng chẳng ai có kiến thức bao quát như ông cả. Chẳng lẽ ông còn nghi ngại điều gì?
-Bẩm, tôi không nghi ngại gì nhưng dân Chiêm Thành sẽ không chịu để tôi làm chúa đâu!
-Tại sao vậy? Ta cho ông cầm quyền sinh sát trong tay sao lại sợ điều đó?
-Bẩm, Đại vương chưa rõ tập quán của dân Chiêm. Dân Chiêm tuy trông yếu hèn vậy nhưng tập quán và niềm tin của họ khó lay chuyển lắm. Xưa nay họ vẫn chỉ ủng hộ những người có gốc gác liên hệ đến hai bộ tộc Cau* và bộ tộc Dừa* – tức là dòng dõi quí tộc – lên làm chúa. Người Chiêm tin hai bộ tộc ấy do nữ thần Bà Mẹ Đất Nước (Pô Inư Nưgar) trao nhiệm vụ cai trị quốc dân. Tôi cũng dân Chiêm nhưng bất quá là một tù trưởng nhỏ, một tướng lãnh, thuộc giai cấp thấp mới vươn lên, dẫu làm chúa được cũng chỉ bị coi là tiếm vị, không sớm thì muộn cũng sẽ bị dân lật đổ.
-À, hóa ra là vậy! Nhưng ông đừng lo! Sau lưng ông còn có Đại Việt mà! Chẳng lẽ dân Chiêm dám coi thường Đại Việt? Ông cứ giúp ta đi!
Tù trưởng Hiệu có vẻ suy nghĩ một hồi rồi thưa:
-Bẩm Đại vương, là kẻ bại trận đã được Đại vương tha chết lại còn giao phó trọng trách làm chúa Chiêm Thành, lẽ ra tôi phải gắng sức để báo đáp ơn sâu! Ngặt nỗi, nay tôi đã hơn năm mươi, sức mòn trí nhụt khó gánh vác nổi trọng trách ấy. Tôi hiện có đứa con tên là Thủ đang độ trai tráng, cũng có chút hiểu biết về việc trị dân. Nếu Đại vương không chê, xin cho nó gánh vác việc đó thay tôi, tôi sẽ đứng sau lưng giúp đỡ nó, dám mong Đại vương chuẩn thuận cho!
Huệ Vũ ngạc nhiên hỏi:
-Ông còn có đứa con giỏi như vậy sao nãy giờ ông chẳng nhắc tới? Thủ so với ông thế nào?
-Thưa, theo tôi nghĩ, Thủ hơn tôi mười phần!
-Vậy bây giờ Thủ đang ở đâu? Ông gọi ra gặp ta gấp để ta xem thế nào!
-Thưa, xin Đại vương thư thả cho. Vì Thủ hiện đang ở chốn rừng sâu.
-Thì ra ông vẫn còn nghi ngờ thiện chí của ta?
-Xin Đại vương thông cảm. Binh pháp có nói “binh là trá”, thú thật tôi cũng phải đề phòng, nếu phải chết cũng chỉ chết một mình tôi. Nay thấy Đại vương quả thật lòng muốn cho dựng lại nước Chiêm, tôi sẽ gọi Thủ về ra mắt Đại vương!
Quốc Chẩn cười mà khen:
-Cha con ông quả thật giỏi lắm! Ta đã chọn đúng người rồi!
Không lâu sau đó, tù trưởng Hiệu dẫn Thủ vào yết kiến Huệ Vũ vương. Sau khi phỏng vấn Thủ một hồi, Huệ Vũ càng tỏ vẻ vui mừng:
-Cha con ông đã chịu nhập cuộc thì thật đáng mừng cho cả hai nước! Ta sẽ phong Thủ làm chúa nước Chiêm.
Cha con tù trưởng Hiệu liền quì xuống bái tạ Huệ Vũ.
Hôm sau Huệ Vũ cho tổ chức lễ tấn phong Thủ làm Hiệu Thánh Á vương. Thủ lấy hiệu là Chế A Nan và tôn phong thân phụ ông làm Thái thượng vương. Thế là Chế A Nan trở thành vị vua đầu tiên của vương triều thứ 12 nước Chiêm Thành.
Tổ chức triều đình nước Chiêm xong, Huệ Vũ vương Quốc Chẩn giữ đúng lời hứa, cho rút quân về Đại Việt. Nước Chiêm Thành cứ theo lệ mỗi năm lại cử sứ giả sang triều cống Đại Việt một lần.
Từ khi Chế A Nan lên cầm quyền nước Chiêm, nhờ sự cố vấn, trợ lực tận tình của Thái thượng vương Hiệu và hai người bạn chí thiết là Du Đà và Bố Tân, ông đã mở đầu một triều đại khá hùng mạnh. Bên trong, ông đã xây dựng lại quân đội, bên ngoài, ông đã khéo léo ngoại giao không làm mất lòng các nước láng giềng. Từ biên giới Đại Việt ở phía Bắc đến biên giới các nước Lào, Chân Lạp phía Tây, phía Nam, đến cả mặt giáp biển phía Đông đều trở nên yên ổn. Dân Chiêm Thành đã được sống trong cảnh ấm no, thanh bình một thời gian.
Trong khi Chiêm Thành đang dần hồi sức thì ở Đại Việt, Thượng hoàng Anh Tôn rồi Điện súy Phạm Ngũ Lão lần lượt qua đời. Sự tranh chấp quyền hành, địa vị giữa các đại thần trụ cột của triều đình Đại Việt cũng bắt đầu chớm dậy.
Nhắm vào hiện tượng đó, các vương tử vương tôn của hai bộ tộc Cau và Dừa đua nhau thúc đẩy vua Chế A Nan dấy quân đánh Đại Việt để thu hồi phần lãnh thổ đã mất. Nhưng Chế A Nan không chịu nghe họ. Những người này bực mình liền sách động dân chúng công kích vào nhược điểm Chế A Nan không thuộc dòng vua chính thống và cho ông chỉ là tên tay sai của Đại Việt. Trong triều lẫn ngoài dân chúng có nhiều người nghe theo, gây thành một phong trào chống đối Chế A Nan. Chế A Nan lo sợ phải sai sứ sang Trung Hoa cầu phong với nhà Nguyên(Quí Hợi). Vua Nguyên bèn cử sứ sang phong tước vương cho nhà vua. Nhờ vụ phong tước này mà phong trào chống đối vua Chế A Nan bị khựng lại.
Nhà Trần biết được việc Chiêm Thành giao thiệp với nhà Nguyên thì nổi giận. Vua Minh Tôn bèn sai Huệ Túc vương đem quân phạt Chiêm. Nhưng Huệ Túc vương đánh không thắng được, phải rút quân về (Bính Dần).
Cuộc chiến thắng quân Đại Việt của vua Chế A Nan đã làm dân Chiêm mát mặt. Uy tín nhà vua tự nhiên vọt tăng cao. Phong trào chống đối vua Chế A Nan bị xẹp hẳn. Quân đội Chiêm Thành càng ngày càng hùng mạnh thêm.
Ở Đại Việt, cuộc tranh giành quyền lực giữa các trọng thần trong triều càng ngày càng trở nên trầm trọng. Kết quả tệ hại nhất là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn, một vị hoàng thân và cũng là một võ tướng có nhiều chiến công hiển hách đã bị gièm pha rồi bị giết vào năm Mậu Thìn. Quân đội Đại Việt càng ngày càng suy yếu.
Vua Chế A Nan chỉ có hai người con: công chúa Đa Lợi và hoàng tử Chế Mỗ. Khi công chúa Đa Lợi đến tuổi trưởng thành, vua Chế A Nan cho kết hôn với một viên quan trẻ trong triều là Trà Hòa Bố Để. Cha của Bố Để vốn là một cận vệ của vua Chế Năng. Khi quân Đại Việt tiến vào Đồ Bàn đánh đuổi Chế Năng, cả gia đình Bố Để đều chết thảm giữa đám loạn quân, chỉ một mình Bố Để may mắn thoát được. Vì thế, Bố Để rất căm hận người Việt. Ý chí phục thù Đại Việt đã thúc đẩy Bố Để khổ công chăm lo tập luyện, học hỏi để trở thành một nhân tài. Vua Chế A Nan thấy Bố Để có nhiều tài lạ nên thương yêu, tin cậy lắm.
Khác hẳn với Trà Hòa Bồ Để, hoàng tử Chế Mỗ không được thông minh, lại lười biếng học hành, ưa chơi bời lêu lổng. Có khi Chế Mỗ còn giao du với cả những kẻ không ra gì. Vua Chế A Nan rất lo buồn về sự hư hỏng của hoàng tử. Vua đã tìm những thầy giỏi để lo việc giáo huấn cho Chế Mỗ nhưng vẫn không thấy kết quả gì. Chính Thái thượng vương Hiệu cũng tham gia trong việc uốn nắn đứa cháu khó dạy này nhưng rồi ông cũng chán nản lắc đầu. Thế rồi vua phải giao phó việc giáo dục hoàng tử cho người bạn tin cậy là Du Đà. Vua nghĩ Du Đà là người thân thiết, chắc chắn ông ta sẽ gắng dạy dỗ hoàng tử và hoàng tử cũng sẽ nể nang ông ta mà chịu vâng lời hơn.
Dù tánh khí hoàng tử có vẻ bất thường nhưng đã vào tuổi trưởng thành nên được vua cha cấp cho một ngôi biệt điện rộng rãi để tập sự cuộc sống tự lập. Trong biệt điện có cả một số tôi tớ lo việc hầu hạ phục dịch. Lại có cả một đội lính đóng gần điện lo việc bảo vệ cho hoàng tử. Ông đã dành riêng một phòng trong điện để làm nơi đọc sách và học hành. Giảng quan Du Đà cũng được dành riêng một phòng làm nơi ăn ở.
Từ khi nhận nhiệm vụ, Giảng quan Du Đà đã hết lòng chăm lo công việc được giao phó. Một mặt ông tận tình dạy dỗ Chế Mỗ, bắt Chế Mỗ giới hạn các vụ rượu chè hát xướng, một mặt ông dặn đội bảo vệ an ninh tìm cách ngăn chận bớt những vụ giao du của Chế Mỗ với bên ngoài. Sự kiểm soát ráo riết này đã làm Chế Mỗ dần sinh ra bất mãn. Một lần không kiềm chế nổi cơn tức giận, hoàng tử đã hung hăng mắng nhiếc Du Đà. Thấy Du Đà nhẫn nhịn, Chế Mỗ được thế càng coi thường ông hơn. Vua Chế A Nan hay được việc đó chỉ biết lắc đầu đau khổ. Ông cố răn đe Chế Mỗ mãi nhưng vẫn không kết quả. Cuối cùng Du Đà phải xin từ chức.
Thái thượng vương Hiệu cũng lo rầu khôn xiết. Ông than thở với vua A Nan:
-Nhà ta vốn chẳng thuộc giai cấp cao sang, mấy đời hao tổn biết bao nhiêu tâm lực mới vươn lên được địa vị hôm nay. Con cháu đã mọn mảy lại sinh phải thằng Chế Mỗ ngu đần ngỗ nghịch này ta e rồi con cháu ta thứ dân lại hoàn thứ dân thôi!
Vua Chế A Nan an ủi:
-Xin cha bớt ưu phiền. Con sẽ nhờ Bố Tân thay Du Đà dạy dỗ nó một thời gian xem sao!
Khi vua Chế A Nan ngỏ ý nhờ Bố Tân dạy dỗ Chế Mỗ, Bố Tân đáp:
-Tánh khí hoàng tử thất thường như vậy kiềm hãm cho được không dễ! Tuy thế, tôi cũng xin thử sức sáu tháng xem sao! Thành công được thì tốt, nếu thất bại, xin bệ hạ thông cảm tìm người khác thay thế cho!
Vua Chế A Nan nói:
-Mong ông vì gia đình ta mà gắng sức! Ta sẽ không quên ơn ông!
-Tâu vâng! Tôi sẽ làm hết sức mình!
Hằng ngày Thái thượng vương Hiệu vẫn theo dõi việc học hành của Chế Mỗ. Ông đã tìm mọi cách để hỗ trợ, an ủi, khuyến khích Bố Tân kiên nhẫn làm nhiệm vụ. Ông sợ nếu Bố Tân cũng nản lòng thì thật khó tìm ai thay thế. Nhưng nhận nhiệm vụ chưa được bao lâu Bố Tân đã bắt đầu lộ vẻ chán nản. Thấy tình trạng như vậy, phò mã Bố Để tâu với vua A Nan:
-Hay bệ hạ thử cho hoàng tử theo hạ thần tập làm quen với công việc một thời gian xem sao? Hạ thần có thể dẫn dụ làm cho hoàng tử vui mà quên bớt thói ăn chơi lêu lổng!
Vua A Nan nghe lời Bố Để vui mừng nói:
-Ý kiến của con hay đấy. Nếu con làm được việc đó ta sẽ trọng thưởng!
Thế rồi vua vẫn để Bố Tân tiếp tục dạy dỗ Chế Mỗ, nhưng mặt khác, vua buộc hoàng tử phải bỏ một số thì giờ nhất định, hằng ngày phải theo chân Trà Hòa Bố Để để học việc. Ban đầu Chế Mỗ vùng vằng không muốn vâng lệnh. Vua Chế A Nan dọa:
-Ngươi muốn sau này lên làm vua thì cũng phải biết sơ qua về công việc triều đình ra sao để điều khiển các quan chứ! Ngươi không biết gì hết thì ai phục tùng ngươi? Người ta làm sai hay đúng ngươi làm sao phân biệt được để thưởng phạt? Nếu ngươi không chịu học việc ta sẽ truyền ngôi cho người khác!
Chế Mỗ bất đắc dĩ phải nghe theo. Từ đó hàng ngày ông phải bỏ một ít thời gian để học việc. Không ngờ chẳng bao lâu sau Chế Mỗ lại trở nên thích thú với sự học việc này. Từ đó Chế Mỗ với Bố Để gần gũi nhau như hình với bóng. Gánh nặng của Bố Tân cũng tự nhiên được trút bỏ. Ông không còn kêu ca gì với vua Chế A Nan nữa.
Mỗi khi Thái thượng vương Hiệu hoặc vua A Nan hỏi đến, bao giờ Bố Để cũng có những lời tốt lành để nói về hoàng tử. Sự thay đổi của Chế Mỗ đã làm Thái thượng vương Hiệu và vua A Nan giảm bớt phần nào nỗi ưu phiền.
Thấy Thái thượng vương Hiệu đã già yếu, vua Chế A Nan cho dựng một biệt thự ở một nơi yên tĩnh ngoài hoàng thành để ông an dưỡng. Biệt thự được xây bên sườn một đồi thông mát mẻ, dưới chân đồi có một dòng suối nước chảy quanh năm. Đó là một khu vực cảnh trí thật tuyệt vời do chính Thái thượng vương Hiệu chọn. Nhưng ông chưa kịp dời đến ở thì Chế Mỗ, trong một lần theo Bố Để học việc, đã dẫn một thiếu nữ vào biệt thự để làm chuyện dâm ô. Một người lính gác biệt thự phát giác được, liền trình với Bố Để. Nào ngờ Bố Để sợ việc tiết lộ ra ngoài bèn đem người lính ấy kết tội phạm kỷ luật mà giết mất! Nhưng chuyện ấy cũng không giấu được thiên hạ. Vua A Nan tức giận đòi Chế Mỗ đến hỏi tội, Chế Mỗ sợ nên chối phăng. Vua lại hỏi Bố Để nhưng Bố Để cũng chối. Vua A Nan tuy bực mình nhưng thấy chàng rể luôn che chở con mình cũng tạm yên tâm. Ông chỉ quở trách Chế Mỗ sơ sài chiếu lệ. Từ đó Chế Mỗ càng thêm tin cậy, càng ỷ lại vào Bố Để.
Thái thượng vương Hiệu biết được việc Bố Để cố tình bao che Chế Mỗ ông càng bực bội thêm. Ông càng thất vọng về đứa cháu duy nhất của mình. Một người tư cách như thế làm sao cai trị muôn dân? Làm sao có thể giữ gìn cơ nghiệp do cha ông gây dựng? Ông than trách số phận của mình. Cha con ông mọn mảy quá, không có thêm được một mống con cháu khá hơn Chế Mỗ để yên lòng phó thác việc mai sau! Ông thường nói với vua A Nan:
-Cha không tin Chế Mỗ có thể giữ được cơ đồ nhà ta! Ước sao ơn trên cho con sinh thêm được một hoàng tử nữa! Khi đó dẫu nhắm mắt cha cũng yên lòng!
Chính câu nói này đã ám ảnh vua A Nan một thời gian khá dài.
Không biết có phải do lòng khấn nguyện của Thái thượng vương Hiệu đã được đấng thiêng liêng nào cảm ứng không mà khi ông đã vào tuổi 65, bỗng nhiên người thiếp* của ông là A Lý báo cho ông biết bà đã có thai. Ông vui mừng hết sức. Hằng ngày ông chỉ còn biết lo việc đốc thúc chăm sóc sức khỏe cho A Lý và nôn nóng mong đợi ngày bà khai hoa nở nhụy.
Nhưng Thái thượng vương Hiệu đã không được may mắn thấy mặt đứa bé ra đời. Ông đã đột ngột lâm bệnh nặng đúng vào thời điểm người thiếp chuyển bụng lâm sàng. Khi ông tắt thở cũng chính là lúc đứa bé cất tiếng khóc chào đời. Sự trùng hợp lạ lùng đó đã khiến nhiều người lấy làm kinh dị, phỏng đoán lung tung.
Hài nhi là một đứa bé trai trông khôi ngô sáng sủa lắm. Vua Chế A Nan đặt tên cho cậu là Bà Bỉ Na Tác Nhĩ (Po Binasor). Vị hoàng tử này xếp theo hệ thống gia đình là vai chú của hoàng tử Chế Mỗ. Hoàng tử Na Tác Nhĩ càng lớn càng thông minh, tướng mạo lại khôi ngô chững chạc lạ thường nên vua Chế A Nan thương quí lắm. Na Tác Nhĩ mới lên ba vua Chế A Nan đã cho tìm thầy để dạy cậu học hành. Các thầy học đều phải khen cậu là một bậc thần đồng.
Khi so sánh cậu em trai Na Tác Nhĩ với đứa con ruột Chế Mỗ, vua A Nan cảm thấy rõ sự cách biệt nhau một trời một vực. Đã bao lần ông phân vân nghĩ đến việc mai sau. Về căn bản thì Chế Mỗ không thể nào trở thành một ông vua trị nước giỏi được! Nhưng truyền ngôi cho Chế Mỗ hợp lý hơn, sẽ không mấy ai có lý do để chống đối. Chế Mỗ ngang bướng kém cỏi nhưng đã trưởng thành, lại đang được phò mã Trà Hòa Bố Để là một trọng thần có tài ủng hộ. Còn Na Tác Nhĩ tuy thông minh, nổi tiếng thần đồng, nhưng còn nhỏ quá. Cậu ta có thể trở thành một vị minh quân, nhưng truyền ngôi cho Na Tác Nhĩ chắc chắn sẽ gặp sự chống đối, ít nhất là sự chống đối từ Chế Mỗ và những người bảo thủ trong triều.
Sở dĩ vua Chế A Nan phải phân vân về chuyện đó vì ông luôn bị ám ảnh bởi lời nhận xét của thân phụ ông “Cha không tin Chế Mỗ có thể giữ được cơ đồ nhà ta!”. Hơn nữa, lúc bấy giờ ông cũng đã lớn tuổi, sức khỏe ông đã xuống dốc. Nhiều triệu chứng bệnh hoạn trong ông dần nẩy sinh. Cứ suy nghĩ về vấn đề này ông lại thấy đầu óc rối tung lên. Nếu không truyền ngôi cho Chế Mỗ thì chuyện nồi da xáo thịt có thể xảy ra. Nhưng nếu truyền ngôi cho Chế Mỗ thì cơ đồ do cha con ông gây dựng có thể tan tành! Ông rất chán nản khi nghĩ tới thực tế: Chế Mỗ chưa bao giờ hé lộ được chút dấu hiệu tài năng nào cả! Một hôm vua Chế A Nan thăm dò Bố Để:
-Ta thấy hoàng tử Chế Mỗ tài năng kém cỏi lại ham chơi quá, không biết sau này có gánh vác nổi việc nước không? Em ta là Na Tác Nhĩ thông minh lanh lợi hơn nhiều nhưng còn quá nhỏ, ngươi nghĩ ta nên làm thế nào?
Trà Hòa Bố Để ngẫm nghĩ một lát rồi thưa:
Năm Bính Ngọ*, Huyền Trân công chúa được vua Chế Mân phong làm hoàng hậu. Nhưng cuộc tình duyên này không được lâu dài. Vua Chế Mân sống với Huyền Trân công chúa chưa được một năm thì mất. Hoàng tộc Chiêm Thành tôn hoàng tử trưởng Chế Chí lên kế vị vua cha.
Vua Anh Tôn thương em, sợ Huyền Trân sẽ bị hỏa thiêu với chồng theo tục lệ Chiêm Thành – vua mất thì các hậu, phi của vua cũng phải hỏa thiêu theo vua(?) nên sai Đại hành khiển Trần Khắc Chung lập mưu cướp bà đem về Đại Việt.
Vụ cướp lại công chúa đã làm người Chiêm càng thêm bất bình. Vua Chế Chí quá tức giận, đã tìm cách chiếm lại hai châu đất cũ. Thế là tình hình giao thiệp giữa hai nước bấy giờ càng ngày càng trở nên căng thẳng. Năm Nhâm Tý*, vua Anh Tôn thân hành đem quân đánh Chiêm Thành. Vua Chế Chí thấy quân Trần quá mạnh, có ý muốn đầu hàng. Ngặt nỗi quân dân Chiêm vì quá phẫn uất, thúc ép ông phải kháng cự. Kết quả vua Chế Chí đã bị bắt sống. Vua Anh Tôn bèn hội các quan ở Đồ Bàn để bàn định việc cai trị nước Chiêm. Vua hỏi:
-Nay vua Chiêm đã bị bắt, quân Chiêm đã tan rã, ta có nên nhân dịp này đặt quan lại để cai trị nước Chiêm không?
Thiên tử chiêu dụ sứ Đoàn Nhữ Hài thưa:
-Đánh bại quân đội một nước có thể dễ nhưng cai trị một nước thì rất khó! Muốn cai trị nước Chiêm không phải bệ hạ chỉ để lại một số quan lại là đủ! Tuy rằng có thể tuyển mộ những binh lính tại địa phương nhưng làm sao tin tưởng chúng được? Còn nếu để lại nhiều binh lính của ta thì rất bất tiện: nào giải quyết vấn đề lương thực, vấn đề tình cảm gia đình, làm sao cho lớp binh lính xa nhà ấy được yên tâm để phục vụ? Chưa hết, nếu lỡ quân Bắc lại sang xâm lấn, lực lượng ta đã bị xé mỏng, bấy giờ tính sao? Theo thiển ý của thần, bệ hạ nên lựa chọn một người nào đó trong hoàng tộc nước Chiêm, phong cho y làm chúa rồi bắt y triều cống hàng năm thì vẫn lợi hơn là cai trị nước Chiêm để rồi gánh thêm bao nhiêu mối lo âu, xin bệ hạ xét định!
Các quan đều tán thành ý kiến ấy. Vua Anh Tôn nghe lời, phong cho người em Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu để cai quản nước Chiêm, lấy hiệu là Chế Năng. Ổn định tình hình nước Chiêm xong, vua Anh Tôn cho rút quân về nước.
Nhưng Chiêm Thành thần phục Đại Việt chưa bao lâu lại trở chứng. Do tinh thần phẫn nộ của dân Chiêm về mối hận Ô Rí thúc đẩy, Chế Năng lại bước theo con đường Chế Chí đã đi. Năm Mậu Ngọ* Chế Năng kéo quân xâm phạm hai châu Ô và Rí. Lúc bấy giờ ở Đại Việt vua Trần Minh Tôn đã lên thay vua Anh Tôn, ông cử Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Trước khi xuất quân, vua Minh Tôn nói với Huệ Vũ:
-Với uy vũ của thúc phụ, chuyến đi này nhất định phải thành công. Tuy thế, trẫm chưa biết phải xử trí thế nào khi đã chiến thắng. Thúc phụ có cao kiến gì không?
Huệ Vũ đáp:
-Trước đây Thượng hoàng đã chinh phạt Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm. Thượng hoàng có hỏi ý các quan có nên chiếm đất Chiêm không, các quan đều bàn chưa nên. Lý do là sợ phải xé mỏng lực lượng của ta trong khi mối đe dọa của phương Bắc vẫn còn đó. Thượng hoàng bèn lựa một người trong hoàng tộc Chiêm phong làm chúa để y cai quản lấy nước Chiêm, buộc hàng năm triều cống Đại Việt. Lần phạt Chiêm này cũng chẳng xa cách lần trước mấy, tình hình cũng chẳng khác nhau, tôi nghĩ ta cũng nên bắt chước kế hoạch của Thượng hoàng là hơn!
Vua Minh Tôn nói:
-Nếu thúc phụ cũng có ý ấy, xin thúc phụ cứ tùy tiện!
Huệ Vũ bèn cử Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến đi tiên phong. Trong trận đụng độ đầu tiên, quân Chiêm đã kháng cự rất mãnh liệt. Quân Đại Việt thua lớn, Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến bị tử trận. May có Điện súy Phạm Ngũ Lão tiếp ứng kịp thời quân Đại Việt mới chuyển bại thành thắng. Quân Chiêm lại tan tác chạy. Huệ Vũ thừa thế tiến thẳng vào tới Đồ Bàn. Chế Năng hoảng sợ phải dẫn cả hoàng gia chạy sang nương náu ở Java là quê mẹ của ông ta. Triều đình Chiêm Thành như rắn mất đầu, các quan lại, các lãnh chúa người đầu hàng, kẻ chạy trốn hết.
Chiếm xong Đồ Bàn, Huệ Vũ bèn cho yết bảng phủ dụ chiêu an dân Chiêm. Ông kêu gọi ai làm công việc gì nay trở về với công việc nấy. Ông cũng ra lệnh cấm tuyệt quan quân Đại Việt quấy nhiễu dân Chiêm. Ai phạm tội nặng như giết người, hiếp dâm đều bị xử chém. Tội vừa như cướp bóc, trộm cắp thì phải chịu đánh đòn, trường hợp nghiêm trọng có thể bị tước quân tịch và bắt làm nô lệ. Nhờ lệnh đó, dân Chiêm có phần yên lòng, dần trở lại làm ăn như cũ.
Một hôm Huệ Vũ cho đòi tất cả các quan chức lớn nhỏ cũ của nước Chiêm đã đầu hàng tập trung tại nhà hội Vĩnh Xương trong thành Đồ Bàn rồi tuyên bố:
-Trước đây Trần đế đã đánh bại Chế Chí, đáng lẽ ngài đã sát nhập nước Chiêm vào lãnh thổ Đại Việt! Thế nhưng vì lòng nhân ái, ngài đã phong Chế Năng làm Á hầu để cùng các ngươi cai quản nước Chiêm! Không hiểu sao Chế Năng và các ngươi lại ôm lòng phản trắc, gây hấn tạo tình trạng bất an cho dân cả hai nước. Trần triều bất đắc dĩ lại phải ra tay trừng phạt. Nay nước Chiêm thêm một lần nữa coi như đã mất! Với quyền lực trong tay, ta sẽ đặt các quan Đại Việt cai trị dân Chiêm! Còn các ngươi, ta có thể giam vào ngục thất hoặc đày ải làm nô lệ suốt đời cho biết thân, các ngươi nghĩ thế nào?
Nghe Huệ Vũ hỏi thế, các quan chức Chiêm Thành đều lộ rõ nét mặt buồn bã lo âu nhưng chẳng ai dám hé môi. Huệ Vũ nhìn khắp bọn họ một lượt rồi nói tiếp:
-Ta nói như thế có phải không? Tại sao triều đình Đại Việt đã dung dưỡng các ngươi, trả quyền chức cho các ngươi, cho các ngươi tự cai trị lấy nhau, thế mà các ngươi lại a tòng với kẻ phản bội chống lại Trần triều như các ngươi đã hành động vừa rồi? Tại sao các ngươi không biết khuyên Chế Năng bỏ cái thói ăn cháo đá bát ấy? Một người khuyên y có thể không nghe nhưng nhiều người khuyên lẽ nào y lại chẳng nghe? Cũng bởi các ngươi không tốt nên y mới dễ dàng thuyết phục cùng nhau làm cái việc vong ân bội nghĩa ấy! Kinh nghiệm xương máu đã rành rành trước mắt, Đại Việt ta đâu còn dám để các ngươi tự trị? Chính các ngươi đã tự đưa dân tộc các ngươi đến chỗ diệt vong! Các ngươi còn có lời gì để nói nữa không?
Không khí im lặng ngột ngạt bao trùm cả sân hội. Đám cựu quan chức Chiêm Thành hầu hết gục mặt âu sầu tuyệt vọng. Bỗng một cụ già khoảng ngoài bảy mươi lấy can đảm đứng dậy tiến lên quì lạy Huệ Vũ rồi nói với giọng tha thiết:
-Bẩm Đại vương, chúng tôi đã lỡ dại phạm tội với thiên triều! Cúi xin thượng quốc mở lượng hải hà bỏ qua lỗi lầm cho lũ mán mọi lạc hậu này! Nếu Đại vương cho nước Chiêm chúng tôi được tự trị một lần nữa, dân Chiêm chúng tôi xin thề chẳng bao giờ còn dám phản bội! Nếu chúng tôi còn phạm lời thề xin trời tru đất diệt!
Nghe vị cựu quan già làm thế, nhiều người khác cũng bắt chước nhau cúi lạy Huệ Vũ:
-Cúi xin Đại vương mở lượng hải hà tha thứ cho dân Chiêm chúng tôi một lần nữa! Chúng tôi sẽ tuân phục thờ kính thiên triều như thờ cha mẹ, chẳng bao giờ còn dám ăn ở hai lòng!
Huệ Vũ đợi đám cựu quan chức Chiêm Thành van lạy một hồi rồi mới hỏi:
-Có chắc các ngươi thề không bao giờ còn phản bội thiên triều nữa không?
Một thoáng hi vọng lóe lên, đám cựu quan chức Chiêm Thành đồng loạt hô lớn:
-Chúng tôi xin thề! Chúng tôi xin thề! Kẻ nào sai lời xin trời tru đất diệt!
Huệ Vũ lại nhìn khắp đám người Chiêm sa cơ thất thế một lượt rồi tiếp:
-Thề với trời đất không phải là chuyện chơi đâu! Khi được phong tước Á hầu để cai quản dân Chiêm, Chế Năng đã long trọng thề sẽ tuyệt đối trung thành với thiên triều, thế nhưng rồi y lại phản bội lời thề! Kết quả y đã làm được cái gì? Chỉ thấy cảnh xương tan máu đổ giáng lên đầu dân Chiêm! Chính bản thân Chế Năng đã trở thành kẻ vong gia thất thổ khốn đốn ở quê người! Các ngươi phải nhớ bài học đó! May là thiên tử lòng nhân bao la nên cử ta đánh dẹp! Nếu việc này giao cho một tướng khác, chưa chắc các ngươi còn được yên lành như hôm nay! Thấy các nguơi đã biết hối hận về sự phản bội của mình ta cũng động lòng. Ta biết các ngươi chỉ vì ngây ngô dại dột nên bị Chế Năng dụ dỗ hoặc ép buộc phải làm việc quấy thôi! Vốn tình thiên tử thương dân Chiêm chẳng khác gì dân Đại Việt! Ngài đâu muốn để dân Chiêm phải buồn khổ, đau lòng! Khi ta xuất chinh, ngài đã cho phép ta được quyền tùy tình hình mà giải quyết. Để thể hiện lượng khoan hồng của thiên tử, ta sẽ cho nước Chiêm được tự trị một lần nữa, các ngươi nghĩ thế nào?
Đám dân Chiêm đang âu sầu ủ rũ như vừa chợt tỉnh ngủ, họ ngơ ngác nhìn nhau như dò hỏi. Nhưng cũng chẳng có một ai lên tiếng. Huệ Vũ lại tiếp:
-Quân bất hí ngôn, ta thay mặt thiên tử cho dựng lại nước Chiêm thật đấy! Triều đình Đại Việt muốn có một nước Chiêm mới mẻ biết sống thuận hòa với Đại Việt để dân chúng hai nước cùng được yên ổn làm ăn. Một nước Chiêm mới cần phải có một triều đình mới để cai trị muôn dân. Nhưng muốn có một triều đình vững mạnh phải kết hợp được thật nhiều nhân tài. Các ngươi tất biết rõ những ai hiện ở trong nước đáng mặt nhân tài. Các ngươi hãy thăm dò, vận động, tiến cử những người có tài có đức ấy đứng ra giúp nước. Nước Chiêm có lập lại được hay không là do chính các ngươi! Ta hứa khi nước Chiêm đã được tái lập quân Đại Việt sẽ rút về nước!
Nghe đến đây quan dân Chiêm đồng loạt reo vui:
-Đội ơn Thánh hoàng! Đội ơn Đại vương! Thánh hoàng vạn tuế, vạn vạn tuế!
Huệ Vũ nở một nụ cười tươi tắn:
-Đã đồng lòng như vậy, các ngươi phải gắng làm tròn bổn phận của mình! Ta sẽ tiếp tay cho các ngươi!
Lúc bấy giờ có viên tù trưởng tên Hiệu cai quản vùng Nghĩa Sơn nổi tiếng là một tay anh kiệt ít người sánh kịp. Trước đây Hiệu đã cùng con là Thủ (Patalsor) từng làm tướng chỉ huy quân Chiêm đánh nhau với quân Đại Việt nhiều trận. Khi Chế Năng chạy trốn sang Java thì cha con Hiệu dẫn một số thuộc hạ ẩn thân vào chốn rừng núi để mưu đồ việc phục quốc. Nay nghe tin vua Trần cho tái lập nước Chiêm, Thủ bàn với cha:
-Thưa cha, nay có tin Đại Việt cho gây dựng lại nước Chiêm, không biết có đúng không? Nghe nói họ đang kêu gọi nhân tài nước Chiêm ra lập triều đình mới, cha nghĩ mình có nên tham gia không?
Tù trưởng Hiệu nói:
-Tin ấy đã được thông báo nhiều nơi, tức là có thật. Chắc là họ sợ người Trung Hoa đánh vào phía Bắc nên muốn rút quân về giữ nước đấy! Ta đang mưu việc phục quốc nay nhà Trần lại cho phục quốc lẽ nào ta không tham gia? Tuy thế, phải đề phòng cạm bẫy! Cha bây giờ cũng già rồi, có chết cũng không tiếc. Riêng con là một nhân tài đất nước đang cần, nếu bị gài bẫy thì uổng lắm! Chi bằng con cứ tiếp tục công việc đã dự tính, để một mình cha thử ra yết kiến Huệ Vũ vương xem sao! Nếu Huệ Vũ vương đặt cạm bẫy thì cũng chỉ hại được một mình cha. Còn nếu Huệ Vũ vương thật tình có thiện chí cho gây dựng lại nước Chiêm, cha sẽ gọi con ra cũng không muộn!
Thế rồi tù trưởng Hiệu về Đồ Bàn xin yết kiến Huệ Vũ vương Quốc Chẩn. Huệ Vũ vốn đã nghe tiếng tù trưởng Hiệu, nay thấy ông ta xin yết kiến thì mừng lắm. Vương ân cần hỏi han Hiệu về tình hình nước Chiêm, về cách cai trị dân. Tù trưởng Hiệu thấy thái độ mềm mỏng nhiệt thành của Huệ Vũ cũng trả lời rất thành thật. Huệ Vũ có vẻ hài lòng lắm. Sau một hồi nói chuyện, Huệ Vũ kết luận:
-Ông quả là bậc nhân tài. Thay mặt đấng thiên tử, ta quyết định chọn ông làm chúa nước Chiêm Thành kể từ hôm nay. Ta hi vọng ông sẽ đem hết tài năng để phụng sự đất nước ông. Ta tin tưởng ông sẽ làm mọi cách để hàn gắn tình hữu nghị giữa hai nước Việt Chiêm và dân hai nước sẽ sống yên ổn bên nhau mãi mãi. Ông thấy thế nào?
-Đa tạ Đại vương đã tin yêu kẻ hèn này mà phó thác việc lớn. Tuy thế, kẻ hèn này chỉ có thể làm bề tôi mà không dám nhận ngôi vị chúa tể nước Chiêm Thành!
Huệ Vũ ngạc nhiên hỏi:
-Ông chớ khiêm nhường! Ta đã tiếp xúc với nhiều nhân vật có tiếng của nước Chiêm nhưng chẳng ai có kiến thức bao quát như ông cả. Chẳng lẽ ông còn nghi ngại điều gì?
-Bẩm, tôi không nghi ngại gì nhưng dân Chiêm Thành sẽ không chịu để tôi làm chúa đâu!
-Tại sao vậy? Ta cho ông cầm quyền sinh sát trong tay sao lại sợ điều đó?
-Bẩm, Đại vương chưa rõ tập quán của dân Chiêm. Dân Chiêm tuy trông yếu hèn vậy nhưng tập quán và niềm tin của họ khó lay chuyển lắm. Xưa nay họ vẫn chỉ ủng hộ những người có gốc gác liên hệ đến hai bộ tộc Cau* và bộ tộc Dừa* – tức là dòng dõi quí tộc – lên làm chúa. Người Chiêm tin hai bộ tộc ấy do nữ thần Bà Mẹ Đất Nước (Pô Inư Nưgar) trao nhiệm vụ cai trị quốc dân. Tôi cũng dân Chiêm nhưng bất quá là một tù trưởng nhỏ, một tướng lãnh, thuộc giai cấp thấp mới vươn lên, dẫu làm chúa được cũng chỉ bị coi là tiếm vị, không sớm thì muộn cũng sẽ bị dân lật đổ.
-À, hóa ra là vậy! Nhưng ông đừng lo! Sau lưng ông còn có Đại Việt mà! Chẳng lẽ dân Chiêm dám coi thường Đại Việt? Ông cứ giúp ta đi!
Tù trưởng Hiệu có vẻ suy nghĩ một hồi rồi thưa:
-Bẩm Đại vương, là kẻ bại trận đã được Đại vương tha chết lại còn giao phó trọng trách làm chúa Chiêm Thành, lẽ ra tôi phải gắng sức để báo đáp ơn sâu! Ngặt nỗi, nay tôi đã hơn năm mươi, sức mòn trí nhụt khó gánh vác nổi trọng trách ấy. Tôi hiện có đứa con tên là Thủ đang độ trai tráng, cũng có chút hiểu biết về việc trị dân. Nếu Đại vương không chê, xin cho nó gánh vác việc đó thay tôi, tôi sẽ đứng sau lưng giúp đỡ nó, dám mong Đại vương chuẩn thuận cho!
Huệ Vũ ngạc nhiên hỏi:
-Ông còn có đứa con giỏi như vậy sao nãy giờ ông chẳng nhắc tới? Thủ so với ông thế nào?
-Thưa, theo tôi nghĩ, Thủ hơn tôi mười phần!
-Vậy bây giờ Thủ đang ở đâu? Ông gọi ra gặp ta gấp để ta xem thế nào!
-Thưa, xin Đại vương thư thả cho. Vì Thủ hiện đang ở chốn rừng sâu.
-Thì ra ông vẫn còn nghi ngờ thiện chí của ta?
-Xin Đại vương thông cảm. Binh pháp có nói “binh là trá”, thú thật tôi cũng phải đề phòng, nếu phải chết cũng chỉ chết một mình tôi. Nay thấy Đại vương quả thật lòng muốn cho dựng lại nước Chiêm, tôi sẽ gọi Thủ về ra mắt Đại vương!
Quốc Chẩn cười mà khen:
-Cha con ông quả thật giỏi lắm! Ta đã chọn đúng người rồi!
Không lâu sau đó, tù trưởng Hiệu dẫn Thủ vào yết kiến Huệ Vũ vương. Sau khi phỏng vấn Thủ một hồi, Huệ Vũ càng tỏ vẻ vui mừng:
-Cha con ông đã chịu nhập cuộc thì thật đáng mừng cho cả hai nước! Ta sẽ phong Thủ làm chúa nước Chiêm.
Cha con tù trưởng Hiệu liền quì xuống bái tạ Huệ Vũ.
Hôm sau Huệ Vũ cho tổ chức lễ tấn phong Thủ làm Hiệu Thánh Á vương. Thủ lấy hiệu là Chế A Nan và tôn phong thân phụ ông làm Thái thượng vương. Thế là Chế A Nan trở thành vị vua đầu tiên của vương triều thứ 12 nước Chiêm Thành.
Tổ chức triều đình nước Chiêm xong, Huệ Vũ vương Quốc Chẩn giữ đúng lời hứa, cho rút quân về Đại Việt. Nước Chiêm Thành cứ theo lệ mỗi năm lại cử sứ giả sang triều cống Đại Việt một lần.
Từ khi Chế A Nan lên cầm quyền nước Chiêm, nhờ sự cố vấn, trợ lực tận tình của Thái thượng vương Hiệu và hai người bạn chí thiết là Du Đà và Bố Tân, ông đã mở đầu một triều đại khá hùng mạnh. Bên trong, ông đã xây dựng lại quân đội, bên ngoài, ông đã khéo léo ngoại giao không làm mất lòng các nước láng giềng. Từ biên giới Đại Việt ở phía Bắc đến biên giới các nước Lào, Chân Lạp phía Tây, phía Nam, đến cả mặt giáp biển phía Đông đều trở nên yên ổn. Dân Chiêm Thành đã được sống trong cảnh ấm no, thanh bình một thời gian.
Trong khi Chiêm Thành đang dần hồi sức thì ở Đại Việt, Thượng hoàng Anh Tôn rồi Điện súy Phạm Ngũ Lão lần lượt qua đời. Sự tranh chấp quyền hành, địa vị giữa các đại thần trụ cột của triều đình Đại Việt cũng bắt đầu chớm dậy.
Nhắm vào hiện tượng đó, các vương tử vương tôn của hai bộ tộc Cau và Dừa đua nhau thúc đẩy vua Chế A Nan dấy quân đánh Đại Việt để thu hồi phần lãnh thổ đã mất. Nhưng Chế A Nan không chịu nghe họ. Những người này bực mình liền sách động dân chúng công kích vào nhược điểm Chế A Nan không thuộc dòng vua chính thống và cho ông chỉ là tên tay sai của Đại Việt. Trong triều lẫn ngoài dân chúng có nhiều người nghe theo, gây thành một phong trào chống đối Chế A Nan. Chế A Nan lo sợ phải sai sứ sang Trung Hoa cầu phong với nhà Nguyên(Quí Hợi). Vua Nguyên bèn cử sứ sang phong tước vương cho nhà vua. Nhờ vụ phong tước này mà phong trào chống đối vua Chế A Nan bị khựng lại.
Nhà Trần biết được việc Chiêm Thành giao thiệp với nhà Nguyên thì nổi giận. Vua Minh Tôn bèn sai Huệ Túc vương đem quân phạt Chiêm. Nhưng Huệ Túc vương đánh không thắng được, phải rút quân về (Bính Dần).
Cuộc chiến thắng quân Đại Việt của vua Chế A Nan đã làm dân Chiêm mát mặt. Uy tín nhà vua tự nhiên vọt tăng cao. Phong trào chống đối vua Chế A Nan bị xẹp hẳn. Quân đội Chiêm Thành càng ngày càng hùng mạnh thêm.
Ở Đại Việt, cuộc tranh giành quyền lực giữa các trọng thần trong triều càng ngày càng trở nên trầm trọng. Kết quả tệ hại nhất là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn, một vị hoàng thân và cũng là một võ tướng có nhiều chiến công hiển hách đã bị gièm pha rồi bị giết vào năm Mậu Thìn. Quân đội Đại Việt càng ngày càng suy yếu.
Vua Chế A Nan chỉ có hai người con: công chúa Đa Lợi và hoàng tử Chế Mỗ. Khi công chúa Đa Lợi đến tuổi trưởng thành, vua Chế A Nan cho kết hôn với một viên quan trẻ trong triều là Trà Hòa Bố Để. Cha của Bố Để vốn là một cận vệ của vua Chế Năng. Khi quân Đại Việt tiến vào Đồ Bàn đánh đuổi Chế Năng, cả gia đình Bố Để đều chết thảm giữa đám loạn quân, chỉ một mình Bố Để may mắn thoát được. Vì thế, Bố Để rất căm hận người Việt. Ý chí phục thù Đại Việt đã thúc đẩy Bố Để khổ công chăm lo tập luyện, học hỏi để trở thành một nhân tài. Vua Chế A Nan thấy Bố Để có nhiều tài lạ nên thương yêu, tin cậy lắm.
Khác hẳn với Trà Hòa Bồ Để, hoàng tử Chế Mỗ không được thông minh, lại lười biếng học hành, ưa chơi bời lêu lổng. Có khi Chế Mỗ còn giao du với cả những kẻ không ra gì. Vua Chế A Nan rất lo buồn về sự hư hỏng của hoàng tử. Vua đã tìm những thầy giỏi để lo việc giáo huấn cho Chế Mỗ nhưng vẫn không thấy kết quả gì. Chính Thái thượng vương Hiệu cũng tham gia trong việc uốn nắn đứa cháu khó dạy này nhưng rồi ông cũng chán nản lắc đầu. Thế rồi vua phải giao phó việc giáo dục hoàng tử cho người bạn tin cậy là Du Đà. Vua nghĩ Du Đà là người thân thiết, chắc chắn ông ta sẽ gắng dạy dỗ hoàng tử và hoàng tử cũng sẽ nể nang ông ta mà chịu vâng lời hơn.
Dù tánh khí hoàng tử có vẻ bất thường nhưng đã vào tuổi trưởng thành nên được vua cha cấp cho một ngôi biệt điện rộng rãi để tập sự cuộc sống tự lập. Trong biệt điện có cả một số tôi tớ lo việc hầu hạ phục dịch. Lại có cả một đội lính đóng gần điện lo việc bảo vệ cho hoàng tử. Ông đã dành riêng một phòng trong điện để làm nơi đọc sách và học hành. Giảng quan Du Đà cũng được dành riêng một phòng làm nơi ăn ở.
Từ khi nhận nhiệm vụ, Giảng quan Du Đà đã hết lòng chăm lo công việc được giao phó. Một mặt ông tận tình dạy dỗ Chế Mỗ, bắt Chế Mỗ giới hạn các vụ rượu chè hát xướng, một mặt ông dặn đội bảo vệ an ninh tìm cách ngăn chận bớt những vụ giao du của Chế Mỗ với bên ngoài. Sự kiểm soát ráo riết này đã làm Chế Mỗ dần sinh ra bất mãn. Một lần không kiềm chế nổi cơn tức giận, hoàng tử đã hung hăng mắng nhiếc Du Đà. Thấy Du Đà nhẫn nhịn, Chế Mỗ được thế càng coi thường ông hơn. Vua Chế A Nan hay được việc đó chỉ biết lắc đầu đau khổ. Ông cố răn đe Chế Mỗ mãi nhưng vẫn không kết quả. Cuối cùng Du Đà phải xin từ chức.
Thái thượng vương Hiệu cũng lo rầu khôn xiết. Ông than thở với vua A Nan:
-Nhà ta vốn chẳng thuộc giai cấp cao sang, mấy đời hao tổn biết bao nhiêu tâm lực mới vươn lên được địa vị hôm nay. Con cháu đã mọn mảy lại sinh phải thằng Chế Mỗ ngu đần ngỗ nghịch này ta e rồi con cháu ta thứ dân lại hoàn thứ dân thôi!
Vua Chế A Nan an ủi:
-Xin cha bớt ưu phiền. Con sẽ nhờ Bố Tân thay Du Đà dạy dỗ nó một thời gian xem sao!
Khi vua Chế A Nan ngỏ ý nhờ Bố Tân dạy dỗ Chế Mỗ, Bố Tân đáp:
-Tánh khí hoàng tử thất thường như vậy kiềm hãm cho được không dễ! Tuy thế, tôi cũng xin thử sức sáu tháng xem sao! Thành công được thì tốt, nếu thất bại, xin bệ hạ thông cảm tìm người khác thay thế cho!
Vua Chế A Nan nói:
-Mong ông vì gia đình ta mà gắng sức! Ta sẽ không quên ơn ông!
-Tâu vâng! Tôi sẽ làm hết sức mình!
Hằng ngày Thái thượng vương Hiệu vẫn theo dõi việc học hành của Chế Mỗ. Ông đã tìm mọi cách để hỗ trợ, an ủi, khuyến khích Bố Tân kiên nhẫn làm nhiệm vụ. Ông sợ nếu Bố Tân cũng nản lòng thì thật khó tìm ai thay thế. Nhưng nhận nhiệm vụ chưa được bao lâu Bố Tân đã bắt đầu lộ vẻ chán nản. Thấy tình trạng như vậy, phò mã Bố Để tâu với vua A Nan:
-Hay bệ hạ thử cho hoàng tử theo hạ thần tập làm quen với công việc một thời gian xem sao? Hạ thần có thể dẫn dụ làm cho hoàng tử vui mà quên bớt thói ăn chơi lêu lổng!
Vua A Nan nghe lời Bố Để vui mừng nói:
-Ý kiến của con hay đấy. Nếu con làm được việc đó ta sẽ trọng thưởng!
Thế rồi vua vẫn để Bố Tân tiếp tục dạy dỗ Chế Mỗ, nhưng mặt khác, vua buộc hoàng tử phải bỏ một số thì giờ nhất định, hằng ngày phải theo chân Trà Hòa Bố Để để học việc. Ban đầu Chế Mỗ vùng vằng không muốn vâng lệnh. Vua Chế A Nan dọa:
-Ngươi muốn sau này lên làm vua thì cũng phải biết sơ qua về công việc triều đình ra sao để điều khiển các quan chứ! Ngươi không biết gì hết thì ai phục tùng ngươi? Người ta làm sai hay đúng ngươi làm sao phân biệt được để thưởng phạt? Nếu ngươi không chịu học việc ta sẽ truyền ngôi cho người khác!
Chế Mỗ bất đắc dĩ phải nghe theo. Từ đó hàng ngày ông phải bỏ một ít thời gian để học việc. Không ngờ chẳng bao lâu sau Chế Mỗ lại trở nên thích thú với sự học việc này. Từ đó Chế Mỗ với Bố Để gần gũi nhau như hình với bóng. Gánh nặng của Bố Tân cũng tự nhiên được trút bỏ. Ông không còn kêu ca gì với vua Chế A Nan nữa.
Mỗi khi Thái thượng vương Hiệu hoặc vua A Nan hỏi đến, bao giờ Bố Để cũng có những lời tốt lành để nói về hoàng tử. Sự thay đổi của Chế Mỗ đã làm Thái thượng vương Hiệu và vua A Nan giảm bớt phần nào nỗi ưu phiền.
Thấy Thái thượng vương Hiệu đã già yếu, vua Chế A Nan cho dựng một biệt thự ở một nơi yên tĩnh ngoài hoàng thành để ông an dưỡng. Biệt thự được xây bên sườn một đồi thông mát mẻ, dưới chân đồi có một dòng suối nước chảy quanh năm. Đó là một khu vực cảnh trí thật tuyệt vời do chính Thái thượng vương Hiệu chọn. Nhưng ông chưa kịp dời đến ở thì Chế Mỗ, trong một lần theo Bố Để học việc, đã dẫn một thiếu nữ vào biệt thự để làm chuyện dâm ô. Một người lính gác biệt thự phát giác được, liền trình với Bố Để. Nào ngờ Bố Để sợ việc tiết lộ ra ngoài bèn đem người lính ấy kết tội phạm kỷ luật mà giết mất! Nhưng chuyện ấy cũng không giấu được thiên hạ. Vua A Nan tức giận đòi Chế Mỗ đến hỏi tội, Chế Mỗ sợ nên chối phăng. Vua lại hỏi Bố Để nhưng Bố Để cũng chối. Vua A Nan tuy bực mình nhưng thấy chàng rể luôn che chở con mình cũng tạm yên tâm. Ông chỉ quở trách Chế Mỗ sơ sài chiếu lệ. Từ đó Chế Mỗ càng thêm tin cậy, càng ỷ lại vào Bố Để.
Thái thượng vương Hiệu biết được việc Bố Để cố tình bao che Chế Mỗ ông càng bực bội thêm. Ông càng thất vọng về đứa cháu duy nhất của mình. Một người tư cách như thế làm sao cai trị muôn dân? Làm sao có thể giữ gìn cơ nghiệp do cha ông gây dựng? Ông than trách số phận của mình. Cha con ông mọn mảy quá, không có thêm được một mống con cháu khá hơn Chế Mỗ để yên lòng phó thác việc mai sau! Ông thường nói với vua A Nan:
-Cha không tin Chế Mỗ có thể giữ được cơ đồ nhà ta! Ước sao ơn trên cho con sinh thêm được một hoàng tử nữa! Khi đó dẫu nhắm mắt cha cũng yên lòng!
Chính câu nói này đã ám ảnh vua A Nan một thời gian khá dài.
Không biết có phải do lòng khấn nguyện của Thái thượng vương Hiệu đã được đấng thiêng liêng nào cảm ứng không mà khi ông đã vào tuổi 65, bỗng nhiên người thiếp* của ông là A Lý báo cho ông biết bà đã có thai. Ông vui mừng hết sức. Hằng ngày ông chỉ còn biết lo việc đốc thúc chăm sóc sức khỏe cho A Lý và nôn nóng mong đợi ngày bà khai hoa nở nhụy.
Nhưng Thái thượng vương Hiệu đã không được may mắn thấy mặt đứa bé ra đời. Ông đã đột ngột lâm bệnh nặng đúng vào thời điểm người thiếp chuyển bụng lâm sàng. Khi ông tắt thở cũng chính là lúc đứa bé cất tiếng khóc chào đời. Sự trùng hợp lạ lùng đó đã khiến nhiều người lấy làm kinh dị, phỏng đoán lung tung.
Hài nhi là một đứa bé trai trông khôi ngô sáng sủa lắm. Vua Chế A Nan đặt tên cho cậu là Bà Bỉ Na Tác Nhĩ (Po Binasor). Vị hoàng tử này xếp theo hệ thống gia đình là vai chú của hoàng tử Chế Mỗ. Hoàng tử Na Tác Nhĩ càng lớn càng thông minh, tướng mạo lại khôi ngô chững chạc lạ thường nên vua Chế A Nan thương quí lắm. Na Tác Nhĩ mới lên ba vua Chế A Nan đã cho tìm thầy để dạy cậu học hành. Các thầy học đều phải khen cậu là một bậc thần đồng.
Khi so sánh cậu em trai Na Tác Nhĩ với đứa con ruột Chế Mỗ, vua A Nan cảm thấy rõ sự cách biệt nhau một trời một vực. Đã bao lần ông phân vân nghĩ đến việc mai sau. Về căn bản thì Chế Mỗ không thể nào trở thành một ông vua trị nước giỏi được! Nhưng truyền ngôi cho Chế Mỗ hợp lý hơn, sẽ không mấy ai có lý do để chống đối. Chế Mỗ ngang bướng kém cỏi nhưng đã trưởng thành, lại đang được phò mã Trà Hòa Bố Để là một trọng thần có tài ủng hộ. Còn Na Tác Nhĩ tuy thông minh, nổi tiếng thần đồng, nhưng còn nhỏ quá. Cậu ta có thể trở thành một vị minh quân, nhưng truyền ngôi cho Na Tác Nhĩ chắc chắn sẽ gặp sự chống đối, ít nhất là sự chống đối từ Chế Mỗ và những người bảo thủ trong triều.
Sở dĩ vua Chế A Nan phải phân vân về chuyện đó vì ông luôn bị ám ảnh bởi lời nhận xét của thân phụ ông “Cha không tin Chế Mỗ có thể giữ được cơ đồ nhà ta!”. Hơn nữa, lúc bấy giờ ông cũng đã lớn tuổi, sức khỏe ông đã xuống dốc. Nhiều triệu chứng bệnh hoạn trong ông dần nẩy sinh. Cứ suy nghĩ về vấn đề này ông lại thấy đầu óc rối tung lên. Nếu không truyền ngôi cho Chế Mỗ thì chuyện nồi da xáo thịt có thể xảy ra. Nhưng nếu truyền ngôi cho Chế Mỗ thì cơ đồ do cha con ông gây dựng có thể tan tành! Ông rất chán nản khi nghĩ tới thực tế: Chế Mỗ chưa bao giờ hé lộ được chút dấu hiệu tài năng nào cả! Một hôm vua Chế A Nan thăm dò Bố Để:
-Ta thấy hoàng tử Chế Mỗ tài năng kém cỏi lại ham chơi quá, không biết sau này có gánh vác nổi việc nước không? Em ta là Na Tác Nhĩ thông minh lanh lợi hơn nhiều nhưng còn quá nhỏ, ngươi nghĩ ta nên làm thế nào?
Trà Hòa Bố Để ngẫm nghĩ một lát rồi thưa:
-Bẩm
Phụ vương, con nghĩ hoàng tử Chế Mỗ không phải tầm thường đâu! Chỉ vì
Phụ vương còn tại vị nên hoàng tử chưa phát lộ tài năng đấy thôi.
Vua A Nan lộ vẻ ngạc nhiên hỏi:
-Làm sao ngươi biết được điều đó?
Trà Hòa Bố Để thưa:
-Bẩm Phụ vương, một lần hoàng tử rủ con đi săn trong rừng, buổi trưa gặp một giòng suối mát nên chúng con cùng xuống tắm. Tắm xong con lên trước, hoàng tử vẫn còn mê mải ngâm mình dưới nước. Khi đang mặc y phục lại, con ngạc nhiên thấy một ông già tiên phong đạo cốt xuất hiện. Ông chăm chú nhìn xuống suối mà lẩm bẩm: “Quý quá, quý quá, đất nước này từ nay sẽ hưng thịnh mãi!”. Con nghe mà không hiểu gì cả nên hỏi ông lão: “Cụ khen cái gì vậy?”. Ông lão nói: “Tôi nói chàng thanh niên đang tắm kia! Gần vú trái của chàng có cái bớt đỏ chính là dấu hiệu đại quý đấy. Sau này chàng sẽ trở thành một vị vua hiển hách!”. Con lại hỏi: “Cụ ở đâu đến và nhờ đâu mà đoán được vận mạng con người như thế?”. Ông lão nói: “Ta là đệ tử chân truyền của Quỷ Cốc Tử từ Trung Hoa vân du sang đây. Ta rất mừng biết được nước Chiêm từ nay sẽ hưng vượng trở lại!”. Nói xong, ông lão cười ha hả rồi đi vùn vụt như bay, trong giây lát đã mất dạng. Việc xảy ra khác thường quá, con nghĩ dẫu có nói ra cũng chẳng ai tin. Vả lại, nói ra có thể làm cho hoàng tử sinh lòng kiêu hãnh sợ tổn đức đi nên con cũng im luôn! Nhưng từ đó con hết lòng nể phục và luôn lo giúp đỡ, bảo vệ hoàng tử. Con tin tưởng thế nào cũng có ngày hoàng tử phát lộ tài ba một cách phi thường!
Vua Chế A Nan kinh ngạc suy nghĩ một hồi rồi nói:
-Hèn gì! Hoàng tử quả có cái bớt đỏ lớn ở gần vú trái, không ngờ đó là cái tướng đại quí! Phải rồi, chính năm hoàng tử ra đời ta được Huệ Vũ vương phong làm Hiệu Thánh Á vương! Đã vậy ta còn lo lắng gì nữa? Nếu ta có mệnh hệ nào, ngươi gắng phò tá hoàng tử để giữ nước nhé!
-Phụ vương cứ yên chí. Lẽ nào con lại dám quên ơn tri ngộ của Phụ vương và hoàng tử. Việc giúp hoàng tử gây dựng lại một nước Chiêm hưng thịnh cũng là ước nguyện của con. Con sẽ hết lòng làm tròn chức phận của mình!
Từ đó vua Chế A Nan chuyển giao dần các công việc trong triều cho hoàng tử Chế Mỗ lo. Tất nhiên đầu óc mẫn tiệp và bàn tay khéo léo của Trà Hòa Bố Để đã tỏ ra rất đắc lực trong vai trò phụ tá hoàng tử. Công việc nào cũng được giải quyết suôn sẻ, tốt đẹp khiến vua Chế A Nan rất hài lòng. Khi việc thành, dù lớn hay nhỏ, bao giờ Bố Để cũng nhường công đầu cho hoàng tử. Điều đó làm vua Chế A Nan càng mừng, càng tin yêu lòng trung hậu của Bố Để. Chế Mỗ cũng càng ỷ lại vào Bố Để thêm. Mọi việc vua cha giao phó Chế Mỗ đều để mặc Bố Để tùy tiện giải quyết, miễn sao công việc chạy là được.
Một thời gian sau vua Chế A Nan phong Bố Để làm Tể tướng. Với cương vị này Bố Để đã lần lượt thay thế những người thân tín của mình vào các chức vụ quan trọng trong triều. Một số quan lại để ý thấy tình trạng đó đâm ra lo ngại. Có người đã kín đáo báo cho Chế Mỗ biết để đề phòng nhưng Chế Mỗ nói:
-Những việc đó đều do ý ta cả. Từ nay Tể tướng ra lệnh gì các ngươi phải coi đó như là lệnh của ta và phải triệt để thi hành. Nếu không nghe lời, ta sẽ thẳng tay trừng trị chớ có trách.
Thấy không trông cậy gì ở Chế Mỗ được, các quan chán nản dần xa rời ông ta.
Vua Chế A Nan thì bệnh hoạn ngày càng tăng, đầu óc ông cũng dần kém minh mẫn. Một hôm Du Đà đem việc các quan xầm xì về thái độ có vẻ chuyên quyền của Bố Để tâu với ông, ông gạt đi:
-Bố Để là hạng người trung hậu, không nên nghi ngờ.
Thấy vua A Nan quá tin tưởng Bố Để, sợ nói nhiều sẽ rước vạ vào thân, mọi người cũng lơ dần. Chẳng bao lâu sau, Chế A Nan giao hết quyền hành cho Chế Mỗ để nghỉ ngơi an dưỡng. Đương nhiên Trà Hòa Bố Để trở thành người trực tiếp điều hành guồng máy triều đình bên cạnh vị hoàng tử bù nhìn. Mọi việc trong triều vẫn tiếp tục được giải quyết êm xuôi. Dần dần, các quan và ngay cả Du Đà đều cảm thấy phục tài Bố Để và tin tưởng Bố Để sẽ làm cho nước Chiêm trở nên hùng mạnh!
Giữa năm Nhâm Ngọ thì vua Chế A Nan qua đời.
Vua A Nan lộ vẻ ngạc nhiên hỏi:
-Làm sao ngươi biết được điều đó?
Trà Hòa Bố Để thưa:
-Bẩm Phụ vương, một lần hoàng tử rủ con đi săn trong rừng, buổi trưa gặp một giòng suối mát nên chúng con cùng xuống tắm. Tắm xong con lên trước, hoàng tử vẫn còn mê mải ngâm mình dưới nước. Khi đang mặc y phục lại, con ngạc nhiên thấy một ông già tiên phong đạo cốt xuất hiện. Ông chăm chú nhìn xuống suối mà lẩm bẩm: “Quý quá, quý quá, đất nước này từ nay sẽ hưng thịnh mãi!”. Con nghe mà không hiểu gì cả nên hỏi ông lão: “Cụ khen cái gì vậy?”. Ông lão nói: “Tôi nói chàng thanh niên đang tắm kia! Gần vú trái của chàng có cái bớt đỏ chính là dấu hiệu đại quý đấy. Sau này chàng sẽ trở thành một vị vua hiển hách!”. Con lại hỏi: “Cụ ở đâu đến và nhờ đâu mà đoán được vận mạng con người như thế?”. Ông lão nói: “Ta là đệ tử chân truyền của Quỷ Cốc Tử từ Trung Hoa vân du sang đây. Ta rất mừng biết được nước Chiêm từ nay sẽ hưng vượng trở lại!”. Nói xong, ông lão cười ha hả rồi đi vùn vụt như bay, trong giây lát đã mất dạng. Việc xảy ra khác thường quá, con nghĩ dẫu có nói ra cũng chẳng ai tin. Vả lại, nói ra có thể làm cho hoàng tử sinh lòng kiêu hãnh sợ tổn đức đi nên con cũng im luôn! Nhưng từ đó con hết lòng nể phục và luôn lo giúp đỡ, bảo vệ hoàng tử. Con tin tưởng thế nào cũng có ngày hoàng tử phát lộ tài ba một cách phi thường!
Vua Chế A Nan kinh ngạc suy nghĩ một hồi rồi nói:
-Hèn gì! Hoàng tử quả có cái bớt đỏ lớn ở gần vú trái, không ngờ đó là cái tướng đại quí! Phải rồi, chính năm hoàng tử ra đời ta được Huệ Vũ vương phong làm Hiệu Thánh Á vương! Đã vậy ta còn lo lắng gì nữa? Nếu ta có mệnh hệ nào, ngươi gắng phò tá hoàng tử để giữ nước nhé!
-Phụ vương cứ yên chí. Lẽ nào con lại dám quên ơn tri ngộ của Phụ vương và hoàng tử. Việc giúp hoàng tử gây dựng lại một nước Chiêm hưng thịnh cũng là ước nguyện của con. Con sẽ hết lòng làm tròn chức phận của mình!
Từ đó vua Chế A Nan chuyển giao dần các công việc trong triều cho hoàng tử Chế Mỗ lo. Tất nhiên đầu óc mẫn tiệp và bàn tay khéo léo của Trà Hòa Bố Để đã tỏ ra rất đắc lực trong vai trò phụ tá hoàng tử. Công việc nào cũng được giải quyết suôn sẻ, tốt đẹp khiến vua Chế A Nan rất hài lòng. Khi việc thành, dù lớn hay nhỏ, bao giờ Bố Để cũng nhường công đầu cho hoàng tử. Điều đó làm vua Chế A Nan càng mừng, càng tin yêu lòng trung hậu của Bố Để. Chế Mỗ cũng càng ỷ lại vào Bố Để thêm. Mọi việc vua cha giao phó Chế Mỗ đều để mặc Bố Để tùy tiện giải quyết, miễn sao công việc chạy là được.
Một thời gian sau vua Chế A Nan phong Bố Để làm Tể tướng. Với cương vị này Bố Để đã lần lượt thay thế những người thân tín của mình vào các chức vụ quan trọng trong triều. Một số quan lại để ý thấy tình trạng đó đâm ra lo ngại. Có người đã kín đáo báo cho Chế Mỗ biết để đề phòng nhưng Chế Mỗ nói:
-Những việc đó đều do ý ta cả. Từ nay Tể tướng ra lệnh gì các ngươi phải coi đó như là lệnh của ta và phải triệt để thi hành. Nếu không nghe lời, ta sẽ thẳng tay trừng trị chớ có trách.
Thấy không trông cậy gì ở Chế Mỗ được, các quan chán nản dần xa rời ông ta.
Vua Chế A Nan thì bệnh hoạn ngày càng tăng, đầu óc ông cũng dần kém minh mẫn. Một hôm Du Đà đem việc các quan xầm xì về thái độ có vẻ chuyên quyền của Bố Để tâu với ông, ông gạt đi:
-Bố Để là hạng người trung hậu, không nên nghi ngờ.
Thấy vua A Nan quá tin tưởng Bố Để, sợ nói nhiều sẽ rước vạ vào thân, mọi người cũng lơ dần. Chẳng bao lâu sau, Chế A Nan giao hết quyền hành cho Chế Mỗ để nghỉ ngơi an dưỡng. Đương nhiên Trà Hòa Bố Để trở thành người trực tiếp điều hành guồng máy triều đình bên cạnh vị hoàng tử bù nhìn. Mọi việc trong triều vẫn tiếp tục được giải quyết êm xuôi. Dần dần, các quan và ngay cả Du Đà đều cảm thấy phục tài Bố Để và tin tưởng Bố Để sẽ làm cho nước Chiêm trở nên hùng mạnh!
Giữa năm Nhâm Ngọ thì vua Chế A Nan qua đời.
Thời
bấy giờ ở nước Chiêm, mỗi lần một vị vua qua đời, người kế vị sẽ được
triều đình tôn lên ngôi, vị vua mới sẽ đứng ra chủ trì lễ hỏa táng* cho
vị vua cũ. Lễ hỏa táng là ngày lễ quan trọng bậc nhất trong đời người
quá vãng. Làm lễ ấy thường phải lựa một ngày thật tốt. Nếu lễ hỏa táng
không được thực hiện chu đáo, người sống có thể phải gánh chịu cái hậu
quả âm oán, tai họa không biết đâu mà lường. Nếu chưa tìm ra ngày tốt
gần thì phải chờ đợi ngày tốt kế tiếp, có khi lâu đến cả tháng. Vua Chế A
Nan qua đời vào lúc rạng sáng. Vị Sư Cả, người có trách nhiệm coi ngày
tốt để hỏa táng cho biết trong thời gian gần đó chỉ có một ngày tốt duy
nhất lại đúng vào ngày thứ năm tính từ ngày nhà vua mất. Kế tiếp hơn một
tháng sau đó không chọn được một ngày nào thích hợp với việc hỏa táng
nữa. Nếu phải đợi chờ hàng tháng như thế, không những phải tốn kém nặng
mà còn gây nhiều phiền phức khác nữa. Bất đắc dĩ triều đình Chiêm Thành
phải chọn ngày vị Sư Cả cho là tốt gần nhất để làm lễ hỏa táng. Vì thế,
đành phải lấy ngày kế tiếp sau ngày nhà vua mất làm ngày “lễ cho ăn” cho
khớp với quá trình lễ hỏa táng! Lễ hỏa táng chính thức gồm bốn ngày
liên tiếp: ngày thứ nhất làm “lễ cho ăn”, ngày thứ hai “lễ hát tang ca”,
ngày thứ ba “lễ chém cây” và ngày thứ tư chính là “lễ hỏa táng”. Vì
công việc cấp bách, Tể tướng Trà Hòa Bố Để đề nghị với hoàng tử Chế Mỗ:
-Bây giờ phải lo việc tang chế cho vương thượng cấp bách quá, nếu tổ chức lễ đăng quang nữa thì công việc lập chập, vất vả không bên nào chu đáo được. Vậy ta nên tập trung tổ chức lễ hỏa táng cho tốt đẹp đã. Sau đó thong thả sẽ tổ chức lễ đăng quang cho điện hạ tiện hơn!
Hoàng tử Chế Mỗ nói:
-Tể tướng xếp đặt sao cho tiện thì thôi!
Các quan hết thảy đều đồng ý như vậy. Sau khi cùng với Trà Hòa Bố Để lo lễ hỏa táng cho vua cha xong, hoàng tử Chế Mỗ hân hoan chờ ngày chính thức bước lên ngôi vị chủ tể nước Chiêm Thành. Ông nói với Trà Hòa Bố Để:
-Tể tướng phải tổ chức buổi lễ đăng quang cho ta thật long trọng, vượt hẳn các cuộc đăng quang của các vị tiên vương đấy nhé. Ta sẽ không quên công lao khó nhọc của ông đâu!
Bố Để mỉm cười thưa:
-Điện hạ đã dạy, tôi sẽ cố gắng làm theo ý của điện hạ. Điện hạ sẽ là một vị chúa hiển hách nhất của nước Chiêm từ xưa tới nay. Nhưng muốn việc tổ chức lễ đăng quang được hoàn hảo, phải có một thời gian ít nhất là năm bảy ngày để chuẩn bị mọi thứ. Bây giờ điện hạ cứ yên chí về nghỉ ngơi. Tôi sẽ tự tay soạn thảo chương trình buổi lễ và cho mọi phần hành tập dượt thuần thục xong sẽ mời điện hạ duyệt lãm trước khi chính thức đăng quang.
Chế Mỗ vui vẻ đồng ý ngay:
-Được, ông gắng lo cho xong sớm. Đừng để ta phải nóng lòng trông đợi!
-Xin tuân lệnh điện hạ. Tôi cũng mong cho việc lớn chóng thành. Điện hạ được vinh hiển tôi cũng được nở mày nở mặt lây vậy!
Quan tham mưu Chế Hồng Phúc thưa:
-Tể tướng trù liệu như vậy phải lắm. Phải có thì giờ chuẩn bị công việc mới hoàn hảo. Hơn nữa, điện hạ mới tuyển được quí nhân, cũng nên nhân dịp chờ đợi này để vui vẻ lo việc nhà. Khi đăng quang rồi điện hạ đâu còn được rảnh rỗi như bây giờ!
Nghe Hồng Phúc nói, Chế Mỗ nhớ ngay đến hai nàng kỹ nữ Mỵ Hương, Mỵ U mà ông mới tuyển được chưa bao lâu. Trong thời gian vừa qua, vì bận rộn việc tang chế phụ vương, Chế Mỗ không thể chuyên tâm vui vẻ với các giai nhân, nay có người nhắc, ông bỗng cao hứng cười mà nói đùa:
-Phải rồi! Lâu lâu các quan lại được nghỉ phép một thời gian để lo việc nhà, tại sao ta lại không có? Trước khi đăng quang ta cũng cần nghỉ phép một thời gian để lo việc nhà như các quan mới công bằng chứ!
Bố Tân nghe Chế Mỗ nói có vẻ chói tai, bèn thưa:
-Tiên vương đã qua đời, ngôi vua không thể để trống lâu ngày. Điện hạ nên tiến hành việc đăng quang sớm chứ sao lại bày chuyện nghỉ phép làm gì cho trở ngại việc công?
Chế Mỗ lộ vẻ giận nói bướng:
-Dù ta đã đăng quang hay chưa đăng quang thì ai cũng biết ngôi vua đó là của riêng ta! Về công việc trong triều trước sau vẫn do một tay Tể tướng Trà Hòa Bố Để giải quyết, có gì là trở ngại đâu? Ta không muốn nghe ông nói những lời dư thừa như thế!
Bố Tân bị Chế Mỗ mắng quê mặt bèn im tiếng. Trước đây, Bố Để vẫn luôn sát cánh với Chế Mỗ để cùng lo công việc triều đình. Thật ra Chế Mỗ chẳng hề biết gì về chính sự. Mọi việc ông đều làm theo sự sắp xếp, hướng dẫn của Bố Để cả. Tham dự vào các công việc này chẳng qua là do vua cha bắt buộc chứ thật sự Chế Mỗ chẳng có chút hứng thú nào. Bây giờ vua cha đã qua đời, ông muốn giao trọn việc triều chính cho Tể tướng Bố Để để ông được rảnh rang, tự do hưởng lạc. Nay nghe Bố Để hứa như vậy, Chế Mỗ rất yên tâm. Ông hớn hở trở về biệt điện tiếp tục việc vui chơi.
Vốn tính lười biếng, lại quá tin tưởng vào Bố Để, đã bốn ngày trôi qua mà Chế Mỗ vẫn chẳng thèm bước ra điện Thiết Triều – nơi triều đình làm việc – để xem thử Bố Để tiến hành công việc ra thế nào. Bố Tân thấy Chế Mỗ vô tâm như vậy bất đắc dĩ phải nhắc nhở:
-Tể tướng Bố Để đã hứa sẽ tổ chức cuộc lễ đăng quang cho điện hạ thật long trọng, không biết bây giờ ông ta đã lo tới đâu rồi?
Chế Mỗ đáp không do dự:
-Tể tướng đã hứa ta đâu cần lo lắng nữa!
Bình thường Bố Để lúc nào cũng tỏ ra hết lòng với Chế Mỗ, làm việc gì cho Chế Mỗ cũng tới nơi tới chốn. Thấy Bố Tân là vị thầy gần gũi với Chế Mỗ nên Bố Để cũng đối xử với ông rất thân tình. Ngược lại, Bố Tân thấy Bố Để lúc nào cũng khiêm nhường, mềm mỏng, đầy vẻ trung hậu nên cũng không nghi ngờ gì. Nay nghe Chế Mỗ nói như vậy Bố Tân cũng yên chí không nói gì thêm.
Nhưng đến ngày thứ bảy vẫn chẳng thấy Bố Để bẩm báo gì với Chế Mỗ, Bố Tân không sao khỏi sốt ruột. Ông nói với Chế Mỗ:
-Không hiểu sao lần này Tể tướng lo công việc lại chậm đến thế? Bảy ngày rồi chứ ít sao! Điện hạ nên ra triều xem xét ông ta chuẩn bị công việc thế nào, phải thúc đẩy ông ta vẫn hơn!
Chế Mỗ khen phải rồi cùng Bố Tân dẫn một toán thị vệ ra triều. Khi tới gần điện Thiết Triều, thấy quân lính canh gác nghiêm nhặt, ông rất mừng. Nhưng liền đó ông xiết bao kinh ngạc khi nghe tiếng loa cảnh báo vang lên:
-Lệnh của tân vương, những ai không có phận sự không được xâm nhập điện Thiết Triều. Ai bất tuân, sẽ bị nghiêm trị!
“Lệnh của tân vương tức là lệnh của ta, nhưng ta đâu có ra lệnh ấy? Đây chắc là Bố Để nhân danh ta mà truyền lệnh. Khá khen cho cái tính nghiêm chỉnh và cẩn thận của y!”. Chế Mỗ khen chưa hết lời thì một toán quân sĩ hùng dũng tuốt vũ khí xông ra chận ông lại. Người chỉ huy toán quân ấy chính là La Bút, một tên cận vệ của Bố Để. Chế Mỗ nổi giận nạt:
-Hỗn láo, bộ ngươi không có mắt hay sao?
La Bút lạnh lùng nói:
-Chúng tôi không cần biết ông là ai cả. Chúng tôi chỉ biết thi hành lệnh của tân vương. Nếu ông không chịu lui, chúng tôi sẽ áp dụng biện pháp cần thiết!
Chế Mỗ xám mặt hỏi lại:
-Ta đây là hoàng tử Chế Mỗ, nay Tiên vương đã qua đời, nếu ta không là tân vương thì còn ai đây nữa chứ? Chẳng lẽ ngươi không biết điều đó?
La Bút vung gươm trắng trợn nói:
-Tiên vương đã có lệnh truyền ngôi cho phò mã Trà Hòa Bố Để. Ông không còn can dự gì tới triều đình này nữa. Tân vương tha mạng cho ông là may lắm rồi! Yêu cầu ông rút lui ngay! Quân sĩ, hãy thi hành nhiệm vụ!
Toán quân ấy bỗng đồng loạt tiến tới một bước. Những ngọn đao sắc trong tay họ cũng đồng loạt vung lên. Đám vệ sĩ của Chế Mỗ hoảng sợ vội bao quanh bảo vệ chủ. Bố Tân nhảy ra đứng chặn trước mặt toán quân của La Bút, thét lớn:
-Chúng bây không được làm hỗn với đức điện hạ!
Thấy Bố Tân xuất hiện, bọn lính ấy hơi khựng lại. Chế Mỗ nói:
-Hãy kêu Trà Hòa Bố Để ra đây cho ta nói chuyện!
Nhưng La Bút trợn mắt quát:
-Biết điều hãy lui ngay! Nếu không, ta chẳng vị tình đâu!
Bố Tân thấy tình hình bất lợi, quay lại nói với Chế Mỗ:
-Chúng nó phản rồi. Xin điện hạ hãy tạm lui rồi tìm cách đối phó sau.
Chế Mỗ phẫn uất lắm nhưng chẳng biết làm sao hơn, đành quay trở về điện của mình. Ông hậm hực nói:
-Ta có bạc đãi Bố Để bao giờ đâu! Không ngờ nó phản ta như thế! Biết làm sao bây giờ?
Bố Tân ngẫm nghĩ một lát rồi thưa:
-Thú thật, tôi cũng không hiểu ra sao cả! Lâu nay tôi cứ tưởng Bố Để là người trung thành với điện hạ nhất. Nhưng nay rõ ràng Bố Để đã phản điện hạ, đâu còn nghi ngờ gì nữa! Càng khó hiểu là tại sao y vẫn để yên cho chúng ta thế này? Y toan tính gì nữa đây? Quyền hành y nắm hết trong tay, nếu y muốn hại ta đâu có khó! Chắc là y vị nể công chúa Đa Lợi nên nương tay! Nếu ta quyết liệt chống lại, y có thể tiêu diệt ta mất! Chi bằng cứ tạm thuận theo y để giữ thân cái đã rồi tính sau.
Chế Mỗ ứa nước mắt mếu máo:
-Chính ông cũng nói thế ta còn biết nhờ cậy ai?
Thế rồi Chế Mỗ vào phòng riêng đóng cửa lại. Một lát sau Bố Tân xin vào gặp Chế Mỗ. Chế Mỗ lại mếu máo hỏi:
-Ông cũng muốn bỏ ta rồi, còn vào đây làm gì nữa?
Bố Tân nói:
-Xin điện hạ bình tĩnh, hồi nãy điện hạ hỏi phải làm sao trong tình trạng này, tôi không dám nói thật vì sợ trong đám vệ sĩ của ta có thể đã có người của Bố Để gài vào, nói ý của mình ra nó sẽ báo lại với Bố Để. Giờ đây không có ai, tôi xin trình một ý kiến: Bố Để tuy đã đoạt được quyền hành nhưng không phải ai cũng phục tùng y đâu! Ta phải ngầm cho người dò ý những bề tôi cũ của Tiên vương, ai có bụng trung thành hãy liên kết với họ để gây dựng lại thế lực. Khi đã đủ sức, ta sẽ tìm cách giành lại ngôi báu.
Chế Mỗ nghe hơi mừng, ông nói:
-Kế ấy nghe được lắm! Ông đứng ra lo giúp ta việc đó được không?
-Điện hạ đã tin tôi mà giao việc, tôi đâu dám chối từ!
Lúc bấy giờ người của Bố Để đã nắm hết mọi then chốt của bộ máy triều đình. Vốn biết rõ Chế Mỗ hơn ai hết, Bố Để chẳng coi ông ta ra gì cả. Đến nỗi Bố Để chẳng thèm cho người theo dõi xem Chế Mỗ có hành động nào chống lại mình không! Toàn bộ nhân sự của hoàng gia vẫn sinh hoạt đều đặn như cũ, chẳng thay đổi mảy may. Nói chung là cả triều đình gần như đều dửng dưng trước sự tiếm quyền của Tể tướng Trà Hòa Bố Để.
Bố Tân tuy hơi lười biếng nhưng bản chất vốn rất thuần hậu, trung thành. Sau khi được Chế Mỗ giao phó sứ mạng, ông đã hăng hái lao vào công việc. Ông lần lượt bí mật tiếp xúc với một số quan lại trong triều. Nhưng ông đã gặp nhiều khó khăn trong việc thuyết phục họ. Tài năng của Trà Hòa Bố Để đã chinh phục được lòng người. Ai cũng tin Bố Để sẽ làm cho nước Chiêm trở nên hùng mạnh. Hoàng tử Chế Mỗ kém cỏi quá, làm sao tin được ông ta có thể trở thành một vị vua hiền? Chỉ có lác đác vài người hứa ủng hộ nhưng đều xin giấu mặt. Điều mâu thuẫn là nhiều người còn nặng lòng sùng kính, nhớ ơn vị Tiên vương Chế A Nan nên không ai nỡ lòng hại Chế Mỗ. Chính Tể tướng Bố Để cũng biết điều đó nên vẫn để Chế Mỗ sống yên ổn.
Khi Bố Tân đến tiếp xúc với Du Đà, Du Đà khuyến cáo:
-Tôi biết ông vì hoàng tử mà làm việc này nhưng coi chừng nó có thể tác dụng ngược, trở lại làm hại hoàng tử đó!
-Xin ông cho biết rõ lý do?
-Ông gần gũi hoàng tử Chế Mỗ lẽ nào không biết điều ấy? Hoàng tử bản chất tầm thường, dù chiếm lại được ngôi báu chưa chắc hoàng tử sẽ làm được gì cho đất nước! Còn Bố Để là người có tài, có quyết tâm rửa hận cho dân tộc. Tuy hơi tham lam, nhưng Bố Để vẫn còn đủ tình người, vẫn biết trọng điều nhân nghĩa. Ông ta có thể trở thành một minh quân lắm chứ! Dù đang nắm trọn quyền hành trong tay, ông ta vẫn không nỡ làm hại hoàng tử chứng tỏ ông ta không phải là kẻ bạc tình. Hoàn cảnh đã đưa đến như thế, biết đâu đó chẳng là một vận hội mới cho nước Chiêm vươn lên? Nay ông giúp hoàng tử mong lật lại thế cờ, Bố Để và hoàng tử Chế Mỗ tất phải đối đầu nhau, thế là ông ép họ vào con đường phải giết nhau! Nếu trường hợp ấy xảy ra, tôi tin chắc hoàng tử phải thất bại, sẽ di hại đến cả hoàng gia nữa. Mà dù hoàng tử có thành công, nước Chiêm cũng sẽ đi đến chỗ suy yếu. Mấy lời chân thành, xin ông xét kỹ cho!
-Ông là người thân tín của Tiên vương mà nói thế tôi thất vọng hết sức. Tiên vương đã giao việc giáo dục và bảo vệ hoàng tử cho tôi, giờ đây tôi chỉ biết có hoàng tử Chế Mỗ. Để đáp ơn tri ngộ của Tiên vương, dù phải chết tôi vẫn phải thực hiện việc này.
-Tôi với ông đều chịu ơn Tiên vương như nhau. Nhưng ông phải hiểu là Tiên vương bao giờ cũng muốn gây dựng một nước Chiêm hùng mạnh không lệ thuộc Chân Lạp hay Đại Việt chứ! Giữa Bố Để và hoàng tử xem ai có thể làm cho nước Chiêm trở nên hùng mạnh theo ý nguyện của Tiên vương? Ông thấy rõ vấn đề đó chứ? Tôi không muốn để xảy ra cảnh huynh đệ tương tàn làm quốc gia phải suy yếu! Sự thể đã đến nước này hoàng tử làm sao lật lại thế cờ được? Một lần nữa xin ông suy nghĩ lại!
-Tôi đã nhất quyết. Nếu ông phá vỡ kế hoạch này, tôi đành chịu chết thôi!
-Tôi có lời khuyên ông là vì nghĩa vụ đối với nước Chiêm và cũng vì tình bằng hữu đối với ông nữa. Nếu ông không nghe tôi cũng chịu thôi. Nhưng xin hứa tôi không phá kế hoạch của ông đâu! Ông cứ yên tâm theo đuổi mục đích của mình. Tôi coi như không biết gì đến việc ông đang làm!
Khi Bố Tân đã đi khỏi, Du Đà than thở:
-Thật khó mà ngăn chận được cảnh huynh đệ tương tàn! Đáng tiếc là cái ông hoàng ngu tối khùng điên này đã tự tìm cái chết! Không chỉ hại thân mà còn làm liên lụy đến cả hoàng gia nữa chứ! Ai có thể che chở họ đây? Đáng thương cho hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ, khôi ngô tuấn vỹ như vậy mà không được hưởng phước đời!
Đêm hôm đó Du Đà không thể nào ngủ được. Hễ nhắm mắt ông lại thấy những cảnh đâm chém nhau diễn ra. Chỉ toàn là cảnh người Chiêm chém giết người Chiêm! Nhiều lần ông thấy cảnh Chế Mỗ bị chém đầu! Mỗi lần như vậy ông lại phải mở bừng mắt ra. Thao thức một hồi ông lại cố nhắm mắt ngủ tiếp. Nhưng những cuộc đâm chém nhau vẫn không rời khỏi đầu óc ông. Tới khi thấy cảnh một tên lính đưa cao ngọn đao và một cậu bé khôi ngô tuấn tú hiên ngang ngẩng đầu chờ chết, ông đã hét lớn: “Không thể được!Ta phải cứu cậu bé này!”
Cậu bé trong giấc mộng mà Du Đà nói đó chính là Na Tác Nhĩ, em cùng cha khác mẹ với vua Chế A Nan. Du Đà là người thân cận với vua Chế A Nan nên biết khá rõ về cậu bé. Na Tác Nhĩ ra đời đúng vào lúc thân phụ cậu là Thái thượng vương Hiệu mất. Một năm sau mẹ cậu cũng qua đời. Chế A Nan thương em nên cho người hết lòng chăm sóc, dạy dỗ cậu. Năm ấy Na Tác Nhĩ mới lên bảy tuổi nhưng to xác, khỏe mạnh trông như một trẻ lên mười. Cậu lại thông minh, siêng năng học hành, chịu khó tập luyện võ nghệ. Mới ngần ấy tuổi nhưng cậu đã rành việc cỡi ngựa bắn cung. Chế A Nan vẫn hay hãnh diện nói với mọi người: “Na Tác Nhĩ là con voi thần của nhà ta! Sau này cậu ấy sẽ là rường cột của đất nước Chiêm Thành đấy”.
Nếu cuộc tranh giành ngôi báu giữa ông anh rể và cậu em vợ không thể tránh được, Na Tác Nhĩ chắc sẽ trở thành mục tiêu thứ hai mà Trà Hòa Bố Để phải nhắm đến. Kế sách nhổ cỏ phải nhổ tận gốc vẫn là kế sách mà hầu hết những kẻ soán vị xưa nay đều áp dụng. Na Tác Nhĩ tuy còn bé, nhưng chắc hẳn Bố Để không thể bỏ quên cậu. Suy nghĩ như thế nên ngay hôm sau, Du Đà đã bí mật tìm cách đưa Na Tác Nhĩ trốn khỏi Đồ Bàn.
Từ ngày vua Chế A Nan trao quyền điều khiển việc nước cho hoàng tử Chế Mỗ, Tể tướng Bố Để vẫn thường thay mặt hoàng tử để sắp đặt mọi việc. Hôm ấy, Bố Để đã cho mời các chức sắc tôn giáo quan trọng, đồng thời chỉ thị các quan lớn nhỏ trong triều tề tựu tại sân trước nhà hội Vĩnh Xương để nghị sự. Quân sĩ được điều động bố trí canh giữ nghiêm ngặt tất cả các địa điểm trọng yếu tại kinh thành. Mọi việc chuẩn bị xong xuôi, Tể tướng Trà Hòa Bố Để xuất hiện bước lên diễn đàn tuyên bố:
-Nước Chiêm Thành ta được gây dựng từ xưa, vẫn nổi tiếng là một nước anh hùng. Nhưng thời gian gần đây Chiêm Thành hay bị các nước láng giềng xa gần thay nhau đe dọa, lấn áp. Hết Chân Lạp tới Mông Cổ, hết Mông Cổ tới Đại Việt, dân ta phải luôn trực tiếp hoặc gián tiếp làm tôi mọi cho người ngoại chủng, cực nhục trăm bề. Chúng ta không thể sống trong tình trạng đen tối đó mãi. Khi còn sống, Tiên vương ta từng nuôi mộng phải làm sao để nước Chiêm mãi mãi về sau không còn lệ thuộc ai nữa! Nước Chiêm nhất định phải vùng lên, phải hùng mạnh, phải đủ sức chống trả mọi cuộc xâm lăng. Nhất là phải lấy lại cho được những phần đất cát mà Đại Việt đã lừa dối tiền nhân chúng ta để tước đoạt! Tiếc thay, Tiên vương chưa thực hiện được ý nguyện thì ngài đã qua đời! Trong thời gian trị vì, Tiên vương đã đem lại cảnh sống ấm no, thanh bình cho dân Chiêm ta. Bây giờ ngài mất rồi, liệu dân Chiêm ta còn được hưởng tiếp cảnh sống an lạc đó không? Khó lắm, nếu vị vua kế nghiệp không có đủ tài đức để trị dân, giữ nước như Tiên vương! Làm sao thực hiện cái ý nguyện mà Tiên vương là lấy lại phần đất Đại Việt đã cướp của nước ta? Các ngươi có muốn chúng ta phải tiếp tục thực hiện ý nguyện của Tiên vương không?
Hàng trăm cái miệng cùng hô vang:
-Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương! Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương!
Trà Hòa Bố Để dõng dạc hỏi tiếp:
-Tất cả mọi người đều muốn thực hiện ý nguyện của Tiên vương phải không?
Cử tọa lại đồng loạt hô vang:
-Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương! Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương!
Trà Hòa Bố Để lại tiếp tục:
-Muốn thực hiện ý nguyện của Tiên vương, nước Chiêm bắt buộc phải có một đấng chủ tể bản lãnh vượt người, đủ khả năng dẫn dắt toàn dân, làm sao cho người người đoàn kết một lòng, đi theo một đường, cùng hướng tới một mục đích, mới mong thành công được! Các ngươi đồng ý như thế không?
-Đồng ý! Đồng ý! Đồng ý!
Trong lúc mọi người đang hăng say hướng tâm trí tìm một nhân vật thượng đẳng có khả năng xoay chuyển thời thế thì Trà Hòa Bố Để đổi sang một giọng đầy xúc động:
-Đau đớn thay, trời không thương dân Chiêm! Tiên vương anh hùng như thế, ý chí siêu việt như thế mà trời không cho thọ để dẫn dắt dân tộc Chiêm tới nơi tới chốn như ý nguyện của ngài! Trời cũng chẳng cho ngài được một người con xứng đáng như ngài mong ước! Hoàng tử Chế Mỗ sinh ra chỉ biết ham chơi, không có một chút tài đức nào cả làm sao có thể nối chí Tiên vương? Khi còn sống, Tiên vương đã từng khổ sở than thở việc đó. Như thế có phải là lòng trời không thương nước Chiêm ta không? Trời hỡi trời! Sao trời nỡ làm thế? Bây giờ dân Chiêm chúng tôi phải làm sao để thực hiện ý nguyện của Tiên vương, để tự cứu lấy mình?
Thế rồi Bố Để ôm mặt khóc nức nở. Tiếng khóc của Bố Để như truyền cả nỗi uất hận, tủi nhục của những kẻ bị ức hiếp, chà đạp vào lòng mọi người. Chỉ một lát sau tiếng sụt sịt đã lan ra khắp nơi. Đột nhiên có ba vị quan cùng tiến lại gần Bố Để rồi sụp quì xuống. Một vị có vẻ lớn tuổi nhất trong số đó hướng về Bố Để nói với giọng nghẹn ngào:
-Tôi là Chế Hồng Phúc xin có một lời thưa với Tể tướng: Nay Tiên vương đã khuất núi, vận nước có thể đổi thay. Hoàng tử Chế Mỗ là người ít tài, khó giữ được kỷ cương như trước. Chiêm Thành đang cần có một đấng minh quân để đưa đất nước tiến lên. Trong triều hiện nay chỉ có Tể tướng là người có khả năng tạm quyền việc ấy! Tể tướng là rể của Tiên vương thì cũng như con Tiên vương thôi. Vì đại sự quốc gia, chúng tôi thỉnh cầu Tể tướng hãy lên ngôi chủ tể nước Chiêm để giữ cho nước Chiêm khỏi bị suy yếu, khỏi sa vào cảnh lệ thuộc nước ngoài. Được như vậy thì may phước cho dân Chiêm lắm!
Hai vị quan kia cũng nói:
-Chúng tôi cũng một ý như lão tham mưu Chế Hồng Phúc! Xin Tể tướng nhận lời cho!
Rồi không đợi Trà Hòa Bố Để trả lời, lão quan Chế Hồng Phúc quay lại phía cử tọa hỏi lớn:
-Quý vị có đồng ý tôn phò mã Trà Hòa Bố Để lên ngôi vua không?
Mọi người đều quỳ xuống một lượt chắp tay hướng về Trà Hòa Bố Để vừa xá vừa tung hô:
-Trà Hòa đại vương vạn tuế! Trà Hòa đại vương vạn tuế!
Tể tướng Trà Hòa Bố Để hơi mất tự nhiên giây lát rồi với nụ cười rạng rỡ, ông khoát tay ra hiệu cho mọi người:
-Thôi, các ngươi bình thân đi! Ta thật lòng chẳng ham địa vị chủ tể nước Chiêm, nhưng các ngươi đã thương quý ta, tin tưởng ta, ủng hộ ta ngồi vào địa vị ấy, ta phải gắng nghe theo chứ biết làm sao bây giờ! Trước các chức sắc tôn giáo, các quan lại của triều đình đại diện cho quốc dân Chiêm Thành, ta trân trọng tuyên thệ: kể từ giờ phút này phải tìm mọi cách để đưa nước Chiêm tới chỗ hùng cường, giàu có, thoát khỏi mọi sự chèn ép của các lân bang, sau đó sẽ tiến tới việc thu hồi lại những phần đất cát của tổ tiên đã bị các lân bang chiếm đoạt! Ta kêu gọi các chức sắc tôn giáo, các quan lại và toàn dân Chiêm phải triệt để kề vai sát cánh ủng hộ ta, giúp đỡ ta, như vậy ta mới có thể sớm thực hiện được những nguyện vọng ấy!
Đến đây lão quan Chế Hồng Phúc lại hô lớn:
-Tân vương vạn tuế! Chúng tôi nguyện một lòng ủng hộ ngài. Trời đất thánh thần cũng sẽ phò trợ, giúp đỡ ngài chu toàn sứ mệnh!
Toàn thể cử tọa đồng loạt hô theo:
-Tân vương vạn tuế! Chúng tôi nguyện một lòng ủng hộ ngài. Trời đất thánh thần cũng sẽ phò trợ, giúp đỡ ngài chu toàn sứ mệnh!
Thế rồi hôm sau Tể tướng Trà Hòa Bố Để chính thức làm lễ lên ngôi vua Chiêm Thành.Vụ cướp ngôi của Trà Hòa Bố Để đã diễn ra thật êm ả. Hoàng tử Chế Mỗ thấy mình cô thế quá, không dám có một phản ứng nào. Ông chỉ biết khóc lóc, ôm mối phẫn hận nằm miết trong điện, phó mặc cho số mệnh đẩy đưa…
Sau khi đăng quang, vua Bố Để hội triều thần để bàn định kế hoạch trị quốc. Trên thực tế vua Bố Để đã cầm quyền từ lâu nhưng đây là lần đầu tiên ông chính thức ngự trên ngai vàng để ban hiệu lệnh cho quần thần. Nhà vua mở đầu:
-Từ đây ta là chủ tể của nước Chiêm, ta sẽ dốc hết sức hết lòng để gây dựng một nước Chiêm thật hùng mạnh. Châm ngôn có câu “dại hai người hơn khôn một mình”, nếu không có các ông hợp sức, ta sẽ không làm gì được! Ta rất cần sự hợp sức, góp ý của các ông! Vậy, ngay từ giờ phút này, ai có kế hoạch gì hay cứ trình bày ta nghe thử. Nếu dùng được, ta sẽ thưởng, nếu dùng không được, ta cũng chẳng quở trách đâu!
Vua Bố Để nói xong thì một viên quan tâu:
-Thần là La Khâm xin thưa: Tiên vương vốn là người do Đại Việt lập nên, lâu nay hằng năm nước ta vẫn triều cống Đại Việt. Nay Tiên vương đã qua đời, bệ hạ lên kế nghiệp, tưởng ta cũng nên cử sứ sang Đại Việt báo tang cho phải phép và xin phong vương cho bệ hạ luôn thể. Nếu không làm việc đó, thần sợ sẽ bị Đại Việt bắt bẻ làm khó cho ta.
La Khâm nói xong thì tướng quân Lạc Thích tiếp lời:
-Việc báo tang và xin phong vương là việc rất cần thiết, không thể bỏ lơ được. Tuy thế, sự tồn tại của hoàng tử Chế Mỗ cũng là một trở ngại lớn. Nếu Đại Việt hỏi tại sao không lập con mà lại lập rể vua cũ lên kế vị, ta biết trả lời sao? Theo thần nghĩ, ta nên giải quyết vấn đề Chế Mỗ cho êm ấm trước đã!
Vua Bố Để hỏi:
-Theo ông, ta nên giải quyết như thế nào?
Lạc Thích nói không ngần ngại:
-Chắc bệ hạ đã từng nghe câu ngạn ngữ “trảm thảo trừ căn” của người Trung Hoa? Vì việc lớn của quốc gia, đâu cần câu nệ một điều nghĩa nhỏ! Thần nghĩ ta cứ đặt Đại Việt trước một sự đã rồi vẫn là thượng sách!
Lão tham mưu Chế Hồng Phúc vội ngăn:
-Bệ hạ không nên nghe lời ấy! Dân Chiêm vẫn còn nhiều thiện cảm với Tiên vương. Hoàng tử Chế Mỗ chưa làm gì nguy hiểm đến nỗi bệ hạ phải xử sự như thế! Ngoài ra hoàng tử lại là em của hoàng hậu, chẳng lẽ bệ hạ không sợ hoàng hậu đau lòng? Nếu có chuyện không hay xảy đến cho hoàng tử thần sợ dân chúng sẽ bất mãn, sẽ nghi ngờ đến đức lớn của bệ hạ. Bệ hạ nên cho người bảo vệ an ninh, khuyên lơn, an ủi hoàng tử chắc hẳn mọi việc sẽ tốt hơn! Còn với Đại Việt, ta chỉ cần báo với họ hoàng tử trí óc không được bình thường không coi việc nước được cũng xong! Theo thần biết, sau khi Huệ Vũ vương Quốc Chẩn bị giết, quân đội Đại Việt đang ở trên đà suy yếu. Hiện nay họ không muốn gây hấn với ai đâu. Thần nghĩ dù biết ta báo cáo không thành thật, họ cũng sẽ lờ đi cho yên chuyện.
Mọi người đều khen Hồng Phúc nói có lý. Vua Bố Để phán:
-Ý kiến của Chế Hồng Phúc hay lắm! Cứ như vậy mà thi hành!
Vua lại nói với La Khâm:
-Ông giúp ta việc đi sứ Đại Việt nhé! Ta sẽ chỉ thị lo mọi chuyện cần thiết giúp ông. Ông chuẩn bị để lên đường càng sớm càng hay!
Giao việc cho La Khâm xong, vua Bố Để hỏi Chế Hồng Phúc:
-Ông lo việc thuyết phục hoàng tử Chế Mỗ được không?
Chế Hồng Phúc thưa:
-Thần sẽ cố gắng. Nhưng xin bệ hạ cho một chỉ thị thật rõ ràng để thần dễ ăn nói với ông ta!
-Được. Ông hãy yêu cầu hoàng tử thực hiện các điểm sau đây: Thứ nhất, không được rời khỏi kinh thành nếu không có sự đồng ý của ta. Thứ hai, không được tự ý gặp gỡ các quan chức lớn nhỏ trong triều một cách riêng tư, lén lút. Thứ ba, tuyệt đối không được tiếp xúc với bất cứ sứ đoàn ngoại quốc nào khi họ đến Đồ Bàn. Nếu hoàng tử giữ được ba điều kiện ấy thì bỗng lộc của hoàng tử vẫn được giữ nguyên như cũ. Sẽ không có một ai được xâm phạm đến một cọng lông chân của hoàng tử và những người trong gia đình ông ta.
Chế Hồng Phúc lộ vẻ vui mừng:
-Bệ hạ đã cư xử độ lượng như thế thần tin mọi việc sẽ êm đẹp cả!
Việc thương thuyết với Chế Mỗ không gặp khó khăn gì. Vừa nghe Chế Hồng Phúc phân tích sự lợi hại giữa hai con đường hòa hay chiến, Chế Mỗ liền đồng ý tuân thủ những điều mà Bố Để đã đưa ra. Khi Chế Hồng Phúc báo lại tin này, vua Bố Để khen:
-Ông quả là tay nhìn xa thấy rộng! Ta hi vọng vụ đi sứ Đại Việt của La Khâm cũng sẽ thành công như ông tiên liệu!
Vấn đề nhân sự đã tạm ổn, Trà Hòa Bố Để bắt đầu lo việc chấn chỉnh guồng máy cai trị mới.
Ba tháng sau La Khâm trở về Đồ Bàn cùng với một sứ đoàn của Đại Việt. Không ngờ cuộc đi sứ này đã mang lại kết quả vượt ngoài sự mong muốn của Trà Hòa Bố Để: Nhà Trần chẳng hề cật vấn La Khâm về việc chàng rể nối ngôi bố vợ mà lại còn ân cần cử sứ giả theo La Khâm sang Chiêm viếng tang và phong vương cho Bố Để nữa.
Thế là vấn đề Đại Việt coi như yên, Bố Để nói với Chế Hồng Phúc:
-Những điều ông tiên liệu quả không sai. Nếu Đại Việt không gặp chuyện bất thường, chẳng đời nào họ dễ dàng phong vương cho ta như thế!
Ông lại quay sang hỏi La Khâm:
-Ông được yết kiến thiên tử mấy lần? Ta nghe nói ngài còn trẻ lắm, trông diện mạo ngài như thế nào?
-Thưa, hai lần. Thiên tử còn rất bé, theo thần biết ngài chỉ mới lên bảy, vui vẻ hồn nhiên lắm. Khi thần dâng biểu, viên thị thần tiếp nhận biểu chưa kịp dâng lên, ngài đã khoát tay tươi cười nói “cho sứ giả bình thân”.
-Thế Thượng hoàng có được khỏe không?
-Thưa, mấy lần thần vào chầu đều chẳng gặp được ngài mà chỉ gặp ấu vương và các quan đại diện, có thể ngài đang se mình.
Trà Hòa Bố Để hớn hở nói:
-Nhà Trần suy rồi! Thượng hoàng thì già yếu bệnh hoạn, ấu vương thì chưa biết việc nên chẳng ai quan tâm đến việc thay ngôi đổi chủ ở Chiêm Thành cả. Đây chính là cơ hội tốt cho nước Chiêm lo việc chấn chỉnh nội bộ, phục hồi sức mạnh để chờ ngày rửa hận! Các khanh phải gắng giúp ta, chớ bỏ lỡ cơ hội quí báu này!
Chế Hồng Phúc thưa:
-Tâu vâng, chúng thần sẽ ra sức giúp bệ hạ phục hồi sức mạnh của nước Chiêm, chờ ngày rửa hận!
Các quan đồng loạt nói:
-Chúng ta phải ra sức phục hồi sức mạnh nước Chiêm, chờ ngày rửa hận!
Lúc bấy giờ hoàng tử Đạt Vân mới mười ba tuổi cũng theo cha ra triều lên tiếng:
-Con cũng xin ra sức giúp cha rửa hận cho dân tộc!
Bố Để mừng rỡ nói với mọi người:
-Con ta còn nhỏ mà cũng có ý chí như thế thì quả thật lòng trời cũng muốn giúp ta!
Thế rồi Bố Để ráo riết đốc thúc việc tập luyện quân đội. Hàng trăm con voi cũng được ra công dạy dỗ thuần thục sẵn để sử dụng trong trận mạc. Ông còn chỉ thị cho thợ đóng hàng trăm chiến thuyền để tăng cường cho thủy quân. Mặt khác, ông cho đốc thúc dân chúng chăm lo việc chăn nuôi, trồng trọt, dự trữ lương thực để chờ lúc dùng tới. Thế lực nước Chiêm càng ngày càng vững mạnh. Các nước lân cận như Chân Lạp, Lào, Java thấy thế đều nể nang, không còn dám gây hấn, quấy nhiễu như trước.
Trà Hòa Bố Để thấy công việc mình làm đã có nhiều kết quả, ông vui mừng lắm. Trong một buổi chầu, ông nói với các quan:
-Lâu nay chúng ta ngày đêm vất vả luyện tập quân đội, thúc đẩy toàn dân ra sức làm việc, sản xuất lúa gạo, chăn nuôi dê gà, tất cả chỉ nhắm mục đích làm cho nước Chiêm mạnh lên. Nay mọi mặt đã có vẻ khả quan, các khanh liệu bao lâu nữa chúng ta đủ sức đánh Đại Việt?
Chế Hồng Phúc thưa:
-Theo nhận xét của thần, nước ta nay quả thật đã mạnh lên nhiều. Tuy thế, việc đánh Đại Việt, thần nghĩ chớ nên tính vội! Vua Đại Việt tuy thơ ấu thật, nhưng nay vẫn còn có Trần Mạnh (Thượng hoàng) còn được dân Việt qui phục đang nắm giữ quyền hành. Chúng ta cứ tiếp tục làm sao cho nước Chiêm mạnh thêm, năm ba năm nữa khi Trần Mạnh qua đời, chúng ta lo gì không quật ngã được Đại Việt!
Vua Bố Để chưa kịp nói gì thì hoàng tử Đạt Vân hăng hái nói:
-Thấy đủ sức thì cứ làm chứ biết bao giờ ông ấy qua đời?
Vua Bố Để lộ vẻ mừng nói với hoàng tử:
-Con cũng biết nóng ruột vì chuyện này ư? Anh dũng như thế mới xứng đáng con ta chứ!
La Khâm thưa:
-Đây là việc lớn của quốc gia, phải đắn đo thật kỹ! Khi thần đi sứ sang Đại Việt thì Trần Mạnh đang bệnh. Tuy vậy, ông ta mới ngoài bốn mươi, việc sống chết cũng khó mà liệu được. Thần nghĩ, bây giờ chúng ta thử thăm dò sức mạnh của họ trước xem sao rồi hãy tính!
Một vị quan hỏi lại:
-Thăm dò sức mạnh của Đại Việt bằng cách nào?
-Dễ lắm! Cứ việc bỏ lơ việc triều cống một thời gian xem họ phản ứng như thế nào. Nếu họ cho người sang khiển trách ngay tức là họ còn mạnh, còn quan tâm tới việc ngoài cõi. Ta chỉ việc xin lỗi vì lý do mất mùa túng thiếu nên triều cống trễ là xong. Nếu họ lờ đi hoặc chậm trách hỏi, rõ ràng đó là một thái độ dè dặt, lúng túng. Qua các thái độ ấy, ta có thể phỏng đoán sức mạnh của họ. Khi đó chúng ta quyết định cũng kịp!
Trà Hòa Bố Để khen:
-Ý kiến của La Khâm hay lắm! Ta cứ thử ngưng việc triều cống xem Đại Việt phản ứng thế nào rồi tính!
Trước đây Chế Mỗ nghe theo lời Bố Tân nên đã qui hàng Bố Để. Lúc bấy giờ Chế Mỗ chưa có thế lực nào hậu thuẫn, nếu không qui hàng làm sao tồn tại được! Hơn nữa, ông vẫn tin Đại Việt không bao giờ chấp thuận Bố Để làm vua nước Chiêm vì Bố Để không phải là con vua Chế A Nan do Đại Việt lập nên. Tới khi thấy Trà Hòa Bố Để được vua Đại Việt cử sứ sang phong vương, Chế Mỗ mới hỡi ôi! Quá phẫn uất về việc này, ông liền gọi Bố Tân đến trách:
-Ông khuyên ta tạm hòa với Bố Để để chờ thời, bây giờ Đại Việt đã phong Bố Để làm chúa Chiêm Thành, ta biết làm sao đây?
Bố Tân nói:
-Thật khó hiểu tại sao Đại Việt lại xử sự nông nổi như vậy? Điện hạ có lỗi gì với họ đâu mà họ nỡ bỏ rơi để phong vương cho Bố Để? Tôi nghĩ chắc hẳn Bố Để báo cáo gian với Đại Việt!
Chế Mỗ bực bội nói:
-Đại Việt đã bỏ rơi ta, ta chỉ còn biết nổi loạn thôi!
-Xin Điện hạ phải cẩn thận, không nên nóng nảy! Bố Để đã có âm mưu đoạt ngôi từ trước nên hắn đã mua chuộc và cấy người của hắn khắp nơi. Mình rục rịch là hắn biết ngay. Tốt hơn hết phải tìm cách cho người sang Đại Việt tìm hiểu nguyên do. Nếu quả Bố Để đã khai gian về vấn đề người kế tự của Tiên vương để đoạt ngôi, ta phải khiếu nại. Như vậy mới mong Đại Việt buộc Bố Để trả ngôi cho Điện hạ. Nếu không có Đại Việt hỗ trợ, sợ trong nước không ai dám theo ta đâu! Đã không có người theo ta làm gì được?
Chế Mỗ khẩn khoản nói:
-Theo ông nghĩ ta nên sai ai đi Đại Việt bây giờ?
-Trước hết ta phải lựa người khéo léo mới gánh vác nổi việc này. Và cũng phải đợi lúc Bố Để với Đại Việt có sự xục xịch nào đó đã mới dễ ăn nói. Một điều cần thiết nữa là ta phải sắm lễ vật thật nhiều. Chứ Bố Để mới cho người sang xin phong, đương nhiên nó phải đút lót hậu hĩ những kẻ có quyền thế trong triều đình Đại Việt. Họ mới ăn của Bố Để đó, giờ ta đòi truất phế Bố Để dễ gì họ nghe?
-Đã tới nước này trăm sự nhờ ông liệu giúp ta vậy!
-Điện hạ đã muốn thế, tôi nào dám từ nan! Tuy nhiên, xin Điện hạ kiên nhẫn, thư thả cho một thời gian. Ta cũng cần chuẩn bị trước phần nào về mặt nhân sự. Nếu không, giả như Bố Để trả lại ngôi, không lẽ Điện hạ dùng lại toàn bộ người của Bố Để? Hoặc giả nếu quân Đại Việt sang hỗ trợ cho Điện hạ, thấy ta không có người để sai khiến họ cũng sẽ coi thường!
Chế Mỗ hỏi lại:
-Theo ông, bây giờ ta phải làm gì trước?
-Tôi sẽ tiếp tục công việc trước kia, tìm những người còn trung thành với Tiên vương để thuyết phục họ sẵn sàng ra phò tá Điện hạ khi Điện hạ cần đến.
-Ông nghĩ thời gian làm công việc đó khoảng bao lâu?
-Thưa, không thể đoán trước! Chúng ta đâu có hoạt động công khai được mà dễ tính toán? Xin Điện hạ ráng chờ đi! Người có lòng chờ đợi thì cơ hội sẽ đến!
Chế Mỗ thở dài:
-Ông gắng giúp ta nhé! Ta sốt ruột lắm rồi!
-Thưa vâng, tôi sẽ vì Điện hạ mà gắng sức!
Tuy đã ước hẹn vậy, nhưng cứ vì lẽ này lẽ nọ cản trở, Bố Tân vẫn chưa thực hiện được gì. Lòng hi vọng vào một ngày phục quốc của Chế Mỗ cũng héo mòn dần theo năm tháng.
Trong khi ở Chiêm Thành Trà Hòa Bố Để cướp ngôi của em vợ thì ở Đại Việt tình hình cũng chẳng mấy sáng sủa. Những viên quan có tài chính trị nổi bật như Trần Nhật Duật, Trần Khắc Chung, Đoàn Nhữ Hài đều không còn nữa. Thượng hoàng Minh Tôn tuy chưa già lắm nhưng hay bệnh hoạn, nhất là chứng đau mắt luôn hành hạ ngài. Vua Dụ Tôn thì còn quá nhỏ. Vì thế, khi thấy Chiêm Thành bỏ cống ngang xương, Thượng hoàng chỉ nói:
-Có thể năm nay nước Chiêm mất mùa. Nó mới phạm một lần cứ tạm bỏ qua đi. Nếu sang năm nó không triều cống nữa sẽ trách luôn cũng không muộn!
Nhưng năm sau Chiêm Thành vẫn tiếp tục bỏ triều cống. Lại nhằm lúc Đại Việt mất mùa, đói kém, trộm cướp xảy ra khắp nơi. Vài nơi đã có những đám giặc lớn nổi lên. Phần lớn những phần tử gây biến loạn này lại là những gia nô của các vương hầu. Vì thế Thượng hoàng luôn bận rộn việc đánh dẹp để chỉnh đốn vấn đề trị an. Những năm kế tiếp tình hình trong nước cũng chẳng khá hơn. Cứ vất vả với việc nội trị như thế thì giờ đâu mà lo việc bên ngoài! Thế là Chiêm Thành cứ tiếp tục bỏ việc triều cống.
Mãi đến năm Bính Tuất* Trần triều mới sai Phạm Nguyên Hằng sang Chiêm trách hỏi. Bố Để viện lẽ mấy năm nước Chiêm mất mùa liên tiếp nên không đủ sức triều cống. Phạm Nguyên Hằng biết Bố Để nói dối nhưng phải giả làm ngơ, chỉ dùng lời lẽ phải trái để khuyên Bố Để nên tránh chuyện tranh chấp giữa hai nước. Cuối cùng Bố Để xin hứa sẽ cho sứ sang cống như trước.
Tin này lọt đến tai Bố Tân, ông mừng rỡ thưa với Chế Mỗ:
-Cơ hội tốt của Điện hạ đã đến rồi đó! Nghe Bố Để đã tự ý bỏ triều cống Đại Việt bốn năm năm nay. Có lẽ trong thời gian này Đại Việt cũng không được yên nên họ cũng phải giả lơ. Nay họ đã cho người sang trách hỏi việc ấy. Rõ ràng là hai bên không còn mặn nồng với nhau nữa! Điện hạ phải nhân cơ hội này cho người sang Đại Việt tố cáo sự dối trá của Trà Hòa Bố Để thế nào cũng được việc!
Chế Mỗ nghe nói rất mừng, nhưng rồi ông lại lo lắng:
-Người để sai đi thì có rồi, nhưng lễ vật tính làm sao đây? Ta chỉ còn giữ được một ít vàng, chuyến này chắc sạch kho quá!
Bố Tân rất hiểu nỗi khó khăn của Chế Mỗ. Trước kia ngoài phần bổng lộc, ông còn được các quan lớn nhỏ nay biếu mai tặng để lấy lòng nên chuyện vàng bạc đối với ông không thành vấn đề. Nhưng nay những vụ biếu tặng lễ lạt đó hoàn toàn không còn nữa. Trong thời gian gần đây Chế Mỗ lại phải chi ra quá nhiều để ông lo việc vận động nhân sự. Lần này nhất định phải hao tốn gấp bội những lần trước. Nhưng lẽ đời “tiếc tiền mua cá không tươi”, không chịu chi ra làm sao mong nên việc? Bố Tân vừa an ủi vừa thúc đẩy Chế Mỗ:
-Thưa, lúc cần hao tốn thì phải hao tốn. Đây là lúc Điện hạ cần chi tiêu nhất. Việc nên hay hư có thể được quyết định trong lần này đấy!
Nghe Bố Tân nói thế, Chế Mỗ phải quyết định sai Lan Đồ Thu đi sứ Đại Việt. Nhưng khi Lan Đồ Thu đến Thăng Long thì sứ giả của Trà Hòa Bố Để là A Thích đã có mặt ở đó rồi. Lan Đồ Thu sợ đụng đầu với A Thích, buộc lòng phải tạm trú ở ngoại ô Thăng Long để đợi, chưa dám vào thành chầu thiên tử. May lúc đó A Thích cũng đã xong việc, sắp về nước nên Lan Đồ Thu khỏi mất công lẩn tránh lâu.
Số là cuối năm ấy sứ đoàn Chiêm do A Thích dẫn đầu sang triều cống Đại Việt. Vì biết lúc này Đại Việt đang suy yếu, không muốn gây hấn với ai, nên Trà Hòa Bố Để chỉ cống lấy lệ, lễ vật rất đơn bạc. Các quan nhà Trần thấy thế đều giận, họ nói:
-Chiêm Thành lúc này lên mặt quá đáng! Mấy năm đã bỏ cống, bây giờ bất đắc dĩ phải cống lại thì chỉ cống qua loa chiếu lệ, quả là nó muốn thách thức triều đình ta!
Lúc bấy giờ Thượng hoàng vẫn là người quyết định mọi việc trong nước. Trước khi quyết định các vấn đề, Thượng hoàng vẫn hay hỏi ý Cung Tĩnh vương Nguyên Trác. Có nhiều việc ngài còn giao hẳn cho Nguyên Trác quyết định luôn. Nay nghe các quan bàn tán như vậy, Nguyên Trác nói với Thượng hoàng:
-Mặc nó, mình cứ lún cho nó kiêu rồi sẽ có cách trị nó.
Thượng hoàng nghe lời, cho nhận lễ vật và tiếp đãi sứ đoàn A Thích tử tế. Sau đó lại hậu thưởng để ủy lạo sứ giả rồi cho về. A Thích vừa rời khỏi Thăng Long thì Lan Đồ Thu xin vào yết kiến vua Minh Tôn. Nguyên Trác cười hớn hở tâu:
-Phụ hoàng thấy chưa? Đây chính là lúc ta trừng phạt Trà Hòa Bố Để đấy!
Thượng hoàng hiểu ý Nguyên Trác, ngài nói:
-Con nói có lý lắm. Việc đó trẫm giao cho con giải quyết.
Nguyên Trác cho tiếp đãi sứ đoàn Lan Đồ Thu rất chu đáo. Ông lại còn mở tiệc riêng đãi Lan Đồ Thu. Trong bữa tiệc này, Nguyên Trác đã dò hỏi rất kỹ về tình hình nước Chiêm. Lan Đồ Thu cũng trình bày nỗi uất hận của hoàng tử Chế Mỗ và những người còn trung thành với Tiên vương Chế A Nan đối với sự tiếm đoạt ngôi vua của Trà Hòa Bố Để. Lan Đồ Thu kết luận:
-Hiện nay dân Chiêm đang trông đợi thượng quốc cho quân sang giết Bố Để để trả lại ngôi vua cho hoàng tử Chế Mỗ. Nếu thượng quốc vì nghĩa lớn mà làm việc đó, dân Chiêm chúng tôi sẽ chẳng bao giờ dám quên ơn.
Cung Tĩnh vương Nguyên Trác nói:
-Cổ nhân có câu “mình giúp mình trước trời sẽ giúp mình sau”. Sứ giả của Bố Để vừa sang triều cống, nếu Đại Việt tiến quân đánh Bố Để liền thì hóa ra Đại Việt lật lọng quá, làm sao giữ trọn được chữ tín với thiên hạ? Ông nên khuyên hoàng tử vận động dân chúng nổi lên chống Bố Để trước đi. Khi đó Đại Việt sẽ có cớ để đưa quân vào đất Chiêm hòa giải cho hai bên. Trong dịp này, Đại Việt sẽ tùy cơ ứng biến tìm cách trả lại ngôi vua cho hoàng tử. Ông thấy hợp lý không?
Lan Đồ Thu thưa:
-Thượng quốc đã dạy bảo như thế, tôi sẽ trình lại với hoàng tử để người quyết định!
Cung Tĩnh vương tiếp lời:
-Ông cứ yên chí. Hễ ở Chiêm Thành có biến động thì quân Đại Việt sẵn sàng làm hậu thuẫn bảo vệ hoàng tử ngay.
Vì quá nóng lòng đoạt lại ngôi vua nên khi nghe Lan Đồ Thu thuật lại lời Cung Tĩnh vương Nguyên Trác, Chế Mỗ mừng rỡ lập tức ra lệnh khởi nghĩa bất chấp sự can gián của Bố Tân. Nhưng Trà Hòa Bố Để đề phòng cẩn thận quá nên phe Chế Mỗ nổi lên chỗ nào bị dập tắt ngay chỗ đó. Chế Mỗ cùng Bố Tân, Lan Đồ Thu phải bỏ cung điện kéo tàn quân chạy ra biên giới Đại Việt. Nhà Trần được tin liền cử Bảo Uy vương Trần Hiến xuất quân tiếp cứu Chế Mỗ. Biết tin Đại Việt đã ra quân, Trà Hòa Bố Để liền ra lệnh ngừng truy sát phe Chế Mỗ. Ông không muốn Đại Việt lấy cớ này để can thiệp vào đất Chiêm. Chế Mỗ nhân cơ hội đó, chấn chỉnh lại hàng ngũ, chiếm giữ một vùng đất giáp biên giới Đại Việt để làm căn cứ. Quân Đại Việt thấy Trà Hòa Bố Để không tiến nữa cũng án binh bất động. Khi tình hình đã tạm lắng dịu, quân Đại Việt rút lui dần. Chế Mỗ thấy mình sức yếu mà việc cầu viện Đại Việt lại không ra gì, bèn xin hòa với Trà Hòa Bố Để. Bố Để nể tình nhạc gia và vợ nên cũng chấp thuận.
Tuy đã được Bố Để cho ở yên, nhưng mối hận mất ngôi trong lòng Chế Mỗ chẳng bao gìờ nguôi được. Ông vẫn luôn cho người đi lại với trấn thủ Hóa Châu là Hưng Hiếu vương, đút lót vàng bạc để gây cảm tình, mong một ngày nào đó Hưng Hiếu vương sẽ khuyên vua Trần cử binh đánh Bố Để. Những việc làm thầm lén này đã không qua mắt được Bố Để. Thấy dung dưỡng Chế Mỗ mãi sẽ có ngày mang họa nên đầu năm Nhâm Thìn, Bố Để bất ngờ đem quân tấn công vào sào huyệt của Chế Mỗ. Lần này cả Lan Đồ Thu lẫn Bố Tân đều tử trận. Chế Mỗ cùng một nhóm thuộc hạ chạy thoát được, mang theo một con voi trắng, một con ngựa trắng và một số phẩm vật khác sang Hóa Châu xin cứu viện.
Hưng Hiếu vương bèn cho người đưa Chế Mỗ về Thăng Long trình bày sự tình với Thượng hoàng. Trong dịp này Chế Mỗ than phiền việc Cung Tĩnh vương Nguyên Trác đã hứa sẽ giúp ông lấy lại ngôi vua nhưng rồi không thực hiện. Thượng hoàng bèn cho một người hầu thân tín là Tước Tê năng lui tới với Chế Mỗ để an ủi ông ta. Một hôm Chế Mỗ kể với Tước Tê một chuyện cổ tích như sau:
“Ngày xưa có một ông vua nuôi một con khỉ lớn, rất yêu quí nó, muốn cho nó biết nói. Ông ta cho rao nếu người nào nuôi dạy con khỉ nói được sẽ thưởng một vạn lạng vàng. Có một người hứa sẽ dạy được. Vua mừng lắm, sai hắn nuôi con khỉ. Người ấy nói hàng tháng dùng thuốc phí tổn đến trăm lạng vàng, sau ba năm mới có kết quả. Vua nghe theo. Ý hắn nghĩ rằng vua, hắn và con khỉ trong ba năm sẽ có một kẻ chết, cứ lấy vàng của vua đã mà chẳng cần phải có kết quả. Chế Mỗ tôi tin tưởng lời hứa của triều đình mà theo về với chúa thượng. Thế mà trải bao năm tháng vẫn chưa nghe ngày được trở về nước. Sự thể của tôi cũng giống chuyện đó”.
Khi nghe Tước Tê thuật lại lời Chế Mỗ, Thượng hoàng thương tình bèn xuống chiếu chuẩn bị binh lương để đánh Chiêm Thành.
Năm Quí Tỵ*, đại quân của Đại Việt hộ tống Chế Mỗ theo đường bộ tiến vào đất Chiêm. Quân Chiêm giữ biên giới không dám chống cự, tránh lui hết. Tuy thế, quân Đại Việt tiến đến Cổ Lũy thì phải ngưng lại để đợi lương thực. Trong khi đó, đội thuyền chở lương đi đường thủy vừa gặp sóng bão dữ quá vừa bị thủy quân Chiêm Thành ra sức ngăn chận, quấy rối, không sao tiến lên nổi. Đại quân đi theo đường bộ đợi mãi không thấy đội thuyền chở lương thực đến, đành phải rút quân về. Chế Mỗ thấy việc không thành, quá thất vọng, buồn rầu mà sinh bệnh. Chẳng bao lâu sau thì Chế Mỗ mất.
Được tin Chế Mỗ mất, Trà Hòa Bố Để thở phào nhẹ nhõm nói với các quan:
-Thế là từ nay ta khỏi lo gì về mặt biên giới phía bắc nữa!
Các quan ngạc nhiên hỏi lại:
-Bệ hạ dựa vào đâu để tin chắc như vậy?
Trà Hòa Bố Để cười:
-Có chứ! Quân do thám đã cho ta biết rõ điều ấy. Thượng hoàng Đại Việt nay đã quá già, Trần Hạo (Dụ Tôn) thì còn trẻ con, nhân tài thì thưa thớt. Trong tình trạng đó Đại Việt giữ mình còn khó khăn, sức đâu để đe dọa nước khác?
La Khâm hào hứng thưa:
-Gặp cơ hội tốt này Chiêm Thành ta nên chuẩn bị đánh Đại Việt để lấy lại phần lãnh thổ đã mất là vừa! Nếu chậm trễ, lỡ Đại Việt có vua giỏi lên cầm quyền ta hối hận cũng không kịp!
Trà Hòa Bố Để khen:
-Ông nói rất phải. Thật tình ta cũng đã nghĩ đến điều đó. Song lo tính việc lớn quốc gia không thể cẩu thả. Trước đây ta từng muốn đánh Đại Việt nhưng lão quan Chế Hồng Phúc đã cản trở vì lý do chưa phải thời cơ. Trần Mạnh tuy đã già yếu nhưng uy đức vẫn còn vang vọng trong lòng thần dân của ông ta. Lòng dân Đại Việt chưa ly tán, ta chưa chắc làm gì nổi. Nhưng khỏi phải lo, ta nghĩ ông ấy chẳng còn sống bao lâu nữa đâu! Giờ chúng ta cứ việc huấn luyện binh sĩ thật tinh nhuệ, tích trữ lương thực thật dồi dào để chờ sẵn. Còn Trần Hạo chỉ là một đứa con nít ham chơi, khi y lên cầm quyền ta sẽ ra tay cũng chưa muộn.
Các quan đều nói:
-Bệ hạ liệu tính như thần! Lo gì việc lớn không thành!
Mùa xuân năm Đinh Dậu* Thượng hoàng Đại Việt lâm bệnh mà qua đời. Vua Dụ Tôn lúc bấy giờ đã hăm hai tuổi nhưng quá ham chơi, chẳng biết chăm lo chính sự nên kỷ cương triều đình trở nên hết sức lơi lỏng. Các nịnh thần bắt đầu tác oai tác quái, các vị trung thần chán nản rút lui dần. Một nhà đại nho nổi tiếng trung trực, đức độ là Chu An (Văn Trinh) dâng sớ xin chém đầu bảy nịnh thần nhưng vua Dụ Tôn không nghe. Chu An lấy làm buồn bèn xin cáo quan về ở ẩn. Trà Hòa Bố Để nghe được tin này mừng lắm. Ông nói với các quan:
-Thời cơ đã đến! Đây chính là lúc nước Chiêm ta thu hồi những phần lãnh thổ đã mất!
Trong mấy năm qua quân đội đã được huấn luyện thuần thục, lương thực đã được chuẩn bị đầy đủ, Chiêm Thành thừa sức để mở một cuộc Bắc chinh. Điều làm nhà vua phấn khởi nhất là hoàng tử Đạt Vân tuy còn trẻ đã trở thành một viên dũng tướng khó ai địch nổi.
Trước khi ra quân, vua Trà Hòa Bố Để cho tổ chức một cuộc duyệt binh lớn ở gần cửa Thị Nại. Trong dịp này dân Chiêm đã tận mắt chứng kiến sức mạnh của họ qua một cảnh tượng hết sức hùng tráng: Vua Bố Để và hoàng tử Đạt Vân trông lẫm liệt như hai vị thiên thần, ngự trên lưng hai thớt voi to lớn nổi bật giữa hàng trăm viên dũng tướng. Quân sĩ thì lớp lớp đông như kiến, cơ nào đội nấy, gươm đao sáng lòa. Hàng trăm con voi trận nhịp nhàng tiến thối theo hiệu lệnh, dũng mãnh, hùng hổ tưởng như phút chốc dẫm nát cả rừng già. Về mặt thủy, hàng ngàn chiến thuyền lớn nhỏ đội ngũ lớp lang, cờ xí nườm nượp rỡ ràng như uy hiếp cả sóng biển. Trước khí thế ấy, toàn dân Chiêm đều vui mừng tin tưởng chỉ một thời gian ngắn nước Chiêm sẽ rửa sạch mối thù hận cũ…
Nhưng người tính không bằng trời tính, ý chí quật cường của vua tôi nước Chiêm đã không được lòng trời tán trợ. Một trận dịch hạch đã bất ngờ đổ ập xuống nước Chiêm. Trọng tâm của trận dịch hạch lại chính là thành Đồ Bàn! Nhiều tướng lãnh và hàng ngàn quân sĩ đang chuẩn bị lên đường tòng chinh bỗng lần lượt ngã bệnh. Chính vua Bố Để, hoàng tử Đạt Vân, lão tham mưu Chế Hồng Phúc đều bị thần dịch hạch mó tay tới. Sau một thời gian vật lộn với cơn bệnh, vua Bố Để may mắn qua khỏi được. Nhưng hoàng tử Đạt Vân và lão quan tham mưu Chế Hồng Phúc đã phải lìa đời cùng với ngót một phần ba cư dân của kinh đô. Sự thiệt hại to lớn của lực lượng quân sự do chính ông đã dày công gây dựng và nhất là cái chết của hoàng tử Đạt Vân, đứa con thân yêu và là nguồn hi vọng tương lai của ông đã làm ông vô cùng đau đớn. Từ đó vua Bố Để không thể nào phục hồi tinh thần để chăm lo việc nước như trước.Sau khi trận dịch hạch quái ác đã vô tình bẻ gẫy ý đồ Bắc tiến của vua Trà Hòa Bố Để, vị vua đầy ý chí và năng nỗ này đã trải qua một thời gian đau khổ cùng cực. Mọi việc triều chính ông đều phó mặc cho các quan giải quyết. Một hôm ông nói với triều đình với vẻ thống thiết:
-Người xưa nói “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên” quả không sai! Ta đã khổ công nhiều năm nay mới chuẩn bị được một đạo quân hùng mạnh, quân khí đầy đủ, lương thực dồi dào như vừa rồi. Không bao lâu nữa ta sẽ xua đạo quân hùng mạnh đó nghiến nát nước Đại Việt đang hồi suy yếu để rửa hận! Ngờ đâu cái trận dịch hạch quái ác kia đã hại ta, đã cứu chúng nó! Nay quân đội ta bị sứt mẻ quá lớn biết bao giờ phục hồi được? Đau khổ nhất là trời lại cướp mất đứa con yêu quí của ta, một vị thiếu niên anh hùng mà ta rất kỳ vọng! Trước đây ta vẫn tin nếu ta chưa hoàn thành được ý nguyện chắc chắn Đạt Vân sẽ đủ sức thực hiện tiếp công nghiệp đó! Nhưng bây giờ thì hết cả rồi! Ta lại còn thành kẻ tuyệt tự nữa chứ! Phải chăng ta có lỗi với trời nên trời phạt? Sao trời nỡ ác với ta như thế? Ý nguyện tiêu diệt nước Đại Việt để trả thù cho các đấng tiên nhân ta đã tan nát thật rồi ư? Ta già rồi, ta kiệt sức rồi, làm sao thực hiện ý nguyện nữa? Chư khanh ai đủ tài năng thực hiện tiếp ý nguyện của ta không? Ta xin phát nguyện, nếu có ai làm được việc đó, ta sẽ nhường ngôi cho kẻ ấy!
Cả triều đình đều cảm thông nỗi bức xúc của vua nhưng chưa ai có ý kiến gì. Vua Bố Để càng lộ vẻ âu sầu hơn. Mấy hôm sau vua lại hỏi:
-Không lẽ cả nước Chiêm đã hết anh hùng? Không lẽ nước Chiêm không còn ai muốn đánh Đại Việt để trả thù? Các khanh gắng tìm nhân tài, ta sẽ thưởng công xứng đáng. Anh hùng có thể ẩn trên rừng, nương thân dưới biển. Thậm chí, anh hùng có thể đang làm cường khấu hoặc đang ở trong ngục tối. Dù là kẻ đã phạm tội mà có chí khí, có tài năng, có thể giúp nước, ta cũng sẵn sàng xá tội để trọng dụng. Mong các khanh hiểu tấm lòng tha thiết của ta mà gắng tìm người giúp nước! Nếu không, nước Chiêm ta sẽ có ngày bị Đại Việt thôn tính!
Tể tướng La Khâm tâu:
-Xin bệ hạ bớt sầu não để tiếp tục lo việc nước. Tấm lòng tha thiết của bệ hạ đối với đất nước như vậy trời cũng cảm động chứ đừng nói là người! Xưa nay những anh hùng hào kiệt vẫn nhạy cảm hơn người. Họ nể trọng người có đức, yêu chuyện nhân nghĩa, lại dám chết vì tri kỷ. Hay bệ hạ thử xuống chiếu đại xá tội phạm một phen? Thấy bệ hạ mở rộng lòng như vậy ắt những anh tài còn ẩn trú đâu đó sẽ không còn lo ngại, họ sẽ lộ diện để giúp nước? Nhất là những kẻ bất đắc dĩ đã phạm lỗi lầm, nay có cơ hội này chắc hẳn sẽ vui lòng nghe theo để lập công chuộc tội, để phụng sự tổ quốc. Bệ hạ còn giữ được lòng tin yêu của thiên hạ thì lo gì việc lớn không thành?
Vua Trà Hòa Bố Để lắc đầu:
-Khanh thương ta mà nói vậy chứ thật ra ta tự biết sức ta lắm. Công sức và ý chí của ta nuôi dưỡng bao nhiêu năm đã bị trời hủy hoại, ta đuối sức rồi. Không trả thù Đại Việt được ta cũng hết lẽ sống. Ngay cả cái ngai vàng ta đang ngồi ta cũng chẳng còn tha thiết nữa. Khanh là kẻ có tài, nếu khanh liệu còn đủ trí lực có thể làm cho nước Chiêm mạnh lên để đánh bại Đại Việt, ta sẵn sàng trao ngai vàng này lại cho khanh. Khanh nghĩ thế nào?
La Khâm giật mình quì xuống nói:
-Tâu bệ hạ, chuyện đó không bao giờ có được! Tài đức và ý chí của bệ hạ ở đây không ai sánh nổi đâu! Thần chỉ là một kẻ hèn may nương nhờ uy đức của bệ hạ mới lập được vài chút công nhỏ thôi. Với lại, chính thần cũng già rồi đâu có thể nói chuyện cao xa được!
Vua Bố Để thấy thái độ hoảng hốt của La Khâm liền giải thích:
-Ta nói thành thật đó, khanh chớ áy náy! Thật lòng ta chẳng còn tham luyến cái ngai vàng này đâu! Khi Tiên vương qua đời, ta bất đắc dĩ phải cướp quyền của Chế Mỗ chẳng qua chỉ vì thấy Chế Mỗ quá bất tài không thể đối đầu với Đại Việt được! Nếu Chế Mỗ khá hơn một chút ta đâu có loại trừ y! Chính vì ta sợ nước Chiêm sẽ bị Đại Việt gặm nhấm dần nên phải tòng quyền vậy thôi! Đau thay! Cái lúc Đại Việt đang suy yếu thế này mà nước Chiêm ta chỉ biết ngồi trơ mắt mà ngó! Cái thế hai nước Việt Chiêm không thể lưỡng lập lâu dài được! Nước Chiêm không tiêu diệt được Đại Việt ắt sẽ chờ ngày bị Đại Việt tiêu diệt thôi! Vì thế, ta nguyện sẽ nhường ngôi cho bất cứ ai có thể làm cho nước Chiêm trở thành hùng mạnh lúc này!
Sự quan tâm lo lắng cho tiền đồ đất nước của vua Bố Để đã làm các quan văn võ đều xúc động. Lão tướng Lạc Thích tâu:
-Bệ hạ đã giãi bày cạn lẽ như thế, thần lẽ nào còn dám nghi ngại mà phụ tấm lòng của bệ hạ. Thần vốn biết Tiên vương có người em út tên Bà Bỉ Na Tác Nhĩ là một cậu bé thần đồng. Khi bệ hạ truất quyền Chế Mỗ thì Du Đà vì quí trọng hoàng tử Na Tác Nhĩ, sợ hoàng tử bị hại nên đã đem hoàng tử ẩn trốn nơi nào đó. Nay nếu bệ hạ xuống chiếu đại xá và triệu dụng hai người ấy chắc họ sẽ trở về. Du Đà là kẻ mưu trí, hoàng tử Na Tác Nhĩ cũng có tiếng thần đồng, chắc hẳn hai người ấy sẽ giúp ích bệ hạ được. Ngày xưa Trùng Nhĩ nước Tấn nhờ tha thứ và trọng dụng Đấu Tu* mà thiên hạ yên, nay sao bệ hạ không thử triệu dụng Du Đà?
Vua Bố Để lộ vẻ mừng:
-Ta nhớ ra vụ ấy rồi. Hoàng tử Na Tác Nhĩ là thúc phụ của vợ ta cũng như là thúc phụ của ta. Lúc này thúc phụ cũng khoảng hai mươi tuổi rồi. Khi Du Đà đưa thúc phụ Na Tác Nhĩ trốn khỏi kinh thành ta cũng có bực mình đôi chút. Nhưng vì ta chẳng có lòng hại đến người thân của Tiên vương nên cũng làm ngơ luôn. Phải tìm mời họ về giúp triều đình mới được. Khanh có biết bây giờ thúc phụ Na Tác Nhĩ và Du Đà đang ở đâu không?
Lạc Thích tâu:
-Thần thật sự không biết Du Đà đang ở đâu. Nhưng thần nghĩ trong triều thế nào cũng có người biết. Tuy vậy, nếu chỉ để các quan nói lại, hai người ấy chưa chắc đã tin. Tốt hơn hết là bệ hạ nên giáng chiếu công khai triệu dụng họ để quốc dân cùng biết thì nhất định họ sẽ yên lòng mà trở về.
Vua Bố Để nói:
-Ý kiến của khanh hay lắm. Ta sẽ triệu dụng hai người ấy!
Trong thời gian vụ tranh chấp ngai vàng giữa vua Bố Để và hoàng tử Chế Mỗ xảy ra tại Đồ Bàn, bộ tộc Churu, một bộ tộc tự trị đã ở trong hệ thống ảnh hưởng của vương quốc Chiêm Thành lâu đời dường như chẳng quan tâm gì tới biến cố đó cả. Họ chỉ lặng lẽ làm nghĩa vụ của một chư hầu đối với triều đình chứ không tham gia bênh ai chống ai. Nhờ thế nên trong khi nhiều bộ tộc khác bị ảnh hưởng bởi cảnh loạn lạc thì ở lãnh địa thuộc bộ tộc Churu người dân vẫn được sống yên bình.
Lúc bấy giờ tại một thôn nọ, nơi người dân phần đông sống với nghề làm rẫy, một hôm bỗng có một người đàn ông xa lạ dắt một đứa trẻ đến xin kiếm việc làm ăn. Người đàn ông khoảng bốn mươi, người tầm thước, trông khoẻ mạnh và hoạt bát lắm. Ông ta xưng tên là Lộ Đà, cậu bé theo ông gọi ông bằng chú chừng bảy tám tuổi, tên là Mạn Thuyết, trông cũng khôi ngô sáng sủa. Ban đầu Lộ Đà chỉ xin dựng một cái chòi nhỏ để hai chú cháu tạm trú. Hàng ngày ông làm thuê làm mướn để nuôi hai miệng ăn. Chỉ qua một thời gian ngắn, cậu bé Mạn Thuyết đã quen biết gần hết bọn trẻ trong vùng. Cậu bắt đầu theo lũ trẻ bắt cá bẫy chim hay làm các việc vặt để giúp đỡ ông chú. Nhờ bản chất thông minh, lanh lẹ, lại hào hiệp hay giúp người nên bọn trẻ đều yêu mến cậu. Cha mẹ chúng cũng rất vui khi chúng chơi với người bạn mới này. Khi đã yên tâm có thể để Mạn Thuyết ở nhà chơi với lũ trẻ, Lộ Đà bắt đầu theo chân những người thợ săn vào rừng săn bắn. Chẳng bao lâu sau ông đã nổi tiếng là tay thiện xạ. Ông cũng là người có nhiều kiến thức trong việc tổ chức các cuộc săn bắn tập thể. Lần săn nào cũng mang lại kết quả tốt. Các tay thợ săn trong vùng thấy vậy rất nể phục ông. Dần dần họ coi ông như người đầu đàn. Nhờ có Lộ Đà, tầm hoạt động của những thợ săn này càng nới rộng.
Mạn Thuyết mỗi ngày mỗi lớn khác thường. Trên mười tuổi cậu đã bắt đầu theo ông chú tập sự đi săn. Khoảng mười ba mười bốn tuổi cậu đã trổ mã thành một thanh niên cường tráng. Dần dần tài săn bắn của Mạn Thuyết đã vượt cả ông chú khiến thiên hạ đều khiếp phục cậu. Những phát tên của cậu buông ra vừa mạnh vừa rất chính xác. Con thú nào không may gặp phải cậu coi như hết số. Một tay thiếu niên giang hồ tứ chiếng tên là La Ngai nghe tiếng đồn đã tìm đến xin thi bắn với cậu. Kết quả Mạn Thuyết đã thắng La Ngai. La Ngai phục tài, xin kết nghĩa anh em với Mạn Thuyết. Lộ Đà thấy La Ngai cũng là một nhân tài hiếm hoi đã khuyên Mạn Thuyết kết nghĩa với y. Ông lại còn mời La Ngai ở lại với chú cháu ông nữa. Ít lâu sau, Lộ Đà rời bỏ nơi ở cũ, đến dựng một ngôi nhà sàn ở ven rừng để sống thoải mái hơn. Cả ba thành viên trong nhà đều là tay thiện xạ nên chẳng ai ngạc nhiên hay ái ngại cho họ khi họ dựng nhà ở sát khu rừng có nhiều thú dữ này. Ngôi nhà sàn này đã trở thành nơi tạm nghỉ cho đám thợ săn và cũng là chỗ trú chân an toàn cho những khách tha phương lỡ đường.
Từ ngày đến chỗ ở mới, Lộ Đà ít đi săn hơn. Ông hay phó mặc việc nhà cho Mạn Thuyết và La Ngai để có thì giờ chu du đây đó. Lộ Đà nói là đi chơi, nhưng chẳng bao giờ cho ai cùng đi, cũng chẳng cho ai biết lộ trình. Thường thường ông đi từng chuyến khoảng một tháng, lâu hơn là hai tháng. Trong thời gian ấy, Mạn Thuyết và La Ngai vẫn tìm niềm vui trong những cuộc săn bắn với các đồng nghiệp.
Lần đó Lộ Đà đi đâu đến hơn ba tháng vẫn chưa thấy về khiến Mạn Thuyết và La Ngai hết sức lo lắng. Hằng ngày những thợ săn khác cũng không ngớt hỏi han làm hai chàng càng thêm nóng ruột. Ai cũng lo sợ một chuyện bất trắc nào đó đã đến với người đầu đàn của họ. Họ thúc giục anh em Mạn Thuyết phải dò tìm ông Lộ Đà đang ở đâu và đang gặp phải chuyện gì? Khổ nỗi từ trước tới giờ Lộ Đà vẫn đi đi về về một mình, nào ai biết ông đi đâu, dễ gì tìm được?
May sao, anh em Mạn Thuyết bàn tính phương cách tìm kiếm chưa xong thì Lộ Đà lù lù hiện về! Đám thợ săn mừng rỡ kéo nhau đến vấn an. Ông vui vẻ báo cho họ biết một tin nóng hổi:
-Thầy trò tôi sắp về Đồ Bàn!
Ai nấy ngạc nhiên hỏi lý do, ông cười:
-Thủng thẳng sẽ biết!
Ba ngày sau Lộ Đà cho tổ chức một bữa tiệc rượu tại tư gia. Khách được mời dự gồm các vị chức sắc, các vị trưởng lão quanh vùng và đám thợ săn quen biết. Sau lời chào mừng quan khách, Lộ Đà bắt đầu đi vào vấn đề:
-Thưa quý vị, hôm nay chúng tôi trân trọng mời quý vị đến cùng chúng tôi uống chén rượu thân mật này, thật ra cũng có một số mục đích. Trước hết là để cảm tạ tấm lòng của quý vị – những người tiêu biểu cho dân tộc Churu – đã bao dung che chở chúng tôi trong hơn mười năm qua. Kế đến là để trình bày với quý vị một sự thật mà chúng tôi bất đắc dĩ đã phải giấu kín bao lâu nay như sau: Chúng tôi vốn gốc người Đồ Bàn, khi đương kim quốc vương lên ngôi, chúng tôi thuộc phe đối nghịch với ngài nên sợ ngài không dung thứ, buộc lòng chúng tôi phải tìm nơi trú ẩn. Đó là việc chúng tôi phải tự biết, vì xưa nay, bất cứ ai khi đã bị vua nghi ngờ thì chắc chắn khó mà sống yên. Chúng tôi đã phải cải trang, lẫn lút qua nhiều nơi mà vẫn chưa tìm được chỗ thích hợp để nương thân. Khi đến địa bàn sinh hoạt của dân tộc Churu, chúng tôi mới cảm thấy đã gặp được đất lành. Và chúng tôi đã sống gắn bó với dân tộc Churu nhiều năm qua như quý vị đã thấy! Nhưng nếu chỉ có vậy cũng chỉ là một việc nhỏ, chúng tôi đâu cần trình bày với quý vị làm gì? Đây là một tiết lộ rất quan trọng mà khi nghe được, chắc hẳn sẽ làm tất cả quý vị sẽ kinh ngạc cùng độ: Người thợ săn trẻ tuổi ưu tú nhất của chúng ta – Mạn Thuyết – chính là hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ, em cùng cha khác mẹ của đấng Tiên vương Chế A Nan!
Toàn thể thực khách nghe qua đều sững sờ! Thật quá bất ngờ! Ai nấy đều hướng mắt về Mạn Thuyết. Phần đông, nhất là trong số thợ săn, vẻ hưng phấn, tươi vui lộ hẳn trên nét mặt họ. Ngược lại, số còn lại lộ vẻ hoang mang, lúng túng, thậm chí có phần hốt hoảng, lo ngại…
Có lẽ hiểu được tâm trạng của mọi người. Lộ Đà nói tiếp:
-Xin quý vị cứ yên lòng! Chúng tôi tiết lộ sự việc này không phải để lôi kéo, để áp lực hay để đùn đẩy quý vị vướng vào chuyện quốc sự phiền toái đâu! Xin báo với quý vị, quốc vương đã hạ chiếu cho tất cả con dân nước Chiêm, dù trước đây đã phạm bất cứ tội gì nay đều được phép ra giúp nước để lập công chuộc tội. Chính quốc vương cũng kêu gọi đích danh hoàng tử Na Tác Nhĩ và chính tôi – Du Đà chứ không phải Lộ Đà chỉ là cái tên mượn tạm – về triều sẽ được tha thứ lỗi cũ và trọng dụng. Vì vấn đề an ninh bản thân của chính mình, chúng tôi đã phải dò xét thật kỹ tính chân xác của bức chiếu chỉ. Chuyến này tôi đã đi xa nhà hơi lâu là vì thế. Nay chúng tôi đã biết được Chiêm vương hạ chiếu chỉ ấy với tất cả tấm lòng tha thiết của ngài. Ngài đã vì đại cuộc quốc gia mà khoan hồng với con dân như thế, chúng tôi đâu có thể khư khư ôm lòng nghi kỵ, tị hiềm đối với ngài? Bởi thế, chúng tôi đã quyết định trở về Đồ Bàn để giúp triều đình. Một lần nữa, chúng tôi xin cám ơn dân tộc Churu đã đùm bọc chúng tôi trong thời gian vừa qua. Chúng tôi sẽ không quên những ngày vui sống bên những người bạn Churu rất chân chất nhưng cũng rất quả cảm. Hôm nay chúng tôi xin tạm mượn chén rượu này để giã từ quý vị. Hi vọng sau này, nếu chúng tôi được quốc vương ủy thác một trọng trách nào đó, chính quý vị và con em của quý vị sẽ sẵn sàng tiếp tay với chúng tôi. Chúng ta sẽ cùng nhau chung sức xây dựng một nước Chiêm hùng mạnh không còn bị cường bang lấn áp nữa! Chúc quý vị được trọn vui hôm nay và hứa hẹn một ngày tái ngộ rất gần!
Lộ Đà vừa dứt lời thì tiếng vỗ tay của thực khách vang lên. Vẻ lo âu, sợ hãi trên một số gương mặt lúc này đã bay biến sạch. Nhiều người cao hứng hô lớn:
-Hoan hô hoàng tử Na Tác Nhĩ! Hoan hô hoàng tử Na Tác Nhĩ!
La Ngai cũng ngẩn ngơ giây lát rồi xốc tới ôm choàng lấy Mạn Thuyết tức Na Tác Nhĩ mà nói:
-Lâu nay tôi ở cạnh một bậc đại quí mà nào có biết gì! Từ nay xin nguyện làm tay chân của hoàng tử mãi mãi!
Na Tác Nhĩ cũng vui vẻ nắm tay La Ngai nói:
-Ta cũng sung sướng có được một người bạn như La Ngai! Chúng ta sẽ ở bên cạnh nhau, vui buồn có nhau, giúp đỡ nhau suốt đời!
Tiếp đó Du Đà, Na Tác Nhĩ lẫn La Ngai lần lượt đi mời rượu và nói chuyện với từng người. Buổi tiệc đã kéo dài từ buổi trưa tới mặt trời gần lặn mới tàn. Khách chủ đều trọn vui. Một số khách, cũng phần đông là đám thợ săn đã ngủ lại để sáng hôm sau đưa tiễn ba thầy trò Du Đà lên đường.
Sau khi hạ chiếu đại xá tội phạm toàn quốc và kêu gọi nhân tài ra giúp nước, vua Trà Hòa Bố Để gắng gượng làm việc trở lại. Nhưng chiếu chỉ phổ biến cả tháng mà vẫn chưa thấy ai ứng mộ, vua Bố Để lộ vẻ nôn nóng, than với quần thần:
-Cứ như tình trạng này thì bao giờ nước Chiêm mới mạnh lên được?
Tể tướng La Khâm tâu:
-Những người tài trí thường chẳng khinh xuất trước những việc lớn. Chắc hẳn họ phải thăm dò kỹ trước khi ứng mộ! Xin bệ hạ cứ kiên nhẫn chờ đợi!
Vua Bố Để trầm giọng:
-Đời người như bóng ngựa tơ qua cửa sổ. Nói thật với các khanh, đã nhiều đêm ta ngủ không được. Ta cứ sợ tìm chưa được người xứng đáng để ký thác hoài bão ta đã xuôi tay rồi!
Lời than thở của vị quốc vương như len sâu vào lòng đám quần thần. Hình như nó đã báo hiệu một điềm chẳng lành. Họ chỉ biết nhìn nhau ái ngại.
Một tháng nữa lại trôi qua, chỉ có mấy người ra ứng mộ nhưng đều là hạng tầm thường, vua Bố Để càng thất vọng. Thế rồi ngài phát bệnh, mấy ngày liền không thể lâm triều được.
Một hôm Tể tướng La Khâm vào thăm vua tại giường bệnh. Ngài chỉ nằm để nghe tâu bày chứ không ngồi dậy được. La Khâm lần lượt thưa lại những việc ông đã giải quyết. Nhà vua nằm nghe đến đâu gật gật đến đấy, tỏ dấu hài lòng…
-Tâu bệ hạ, còn tin này nữa, chắc bệ hạ nghe được sẽ vui lòng lắm… Viên Phụ giáo Du Đà đã cho người báo tin ông ta cùng hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ sắp về Đồ Bàn!
Vua Bố Để sáng mắt lên, ngài nhướng người muốn ngồi dậy, thều thào:
-Thật không? Khi nào thì họ về tới đây?
Người hầu vội vàng chạy đến. Nhà vua ra hiệu người hầu đỡ ngài ngồi dậy. Ngài nở một nụ cười nói với quan Tể tướng:
-Khanh nói đi! Khi nào họ về tới kinh thành?
-Tâu, theo thư hẹn họ sẽ về bằng đường thủy, nội ngày mốt sẽ vào cửa biển Thị Nại.
-Khanh hãy chuẩn bị mười thớt voi ra đón họ. Ta sẽ cùng đi với khanh!
Tể tướng La Khâm hoảng hốt nói:
-Không được đâu bệ hạ! Bệ hạ đang bệnh nặng không nên đi!
-Khanh cứ chuẩn bị đi! Ta đi được mà!
-Xin bệ hạ hiểu cho. Bệ hạ đi lỡ xảy ra chuyện không hay thần sẽ mắc tội với thiên hạ!
Vua Bố Để giải thích:
-Ta lâm bệnh chẳng qua vì sợ hoàng tử Na Tác Nhĩ không chịu về. Nay được tin hoàng tử sắp về bệnh ta ắt giảm. Mà dù bệnh ta chưa kịp giảm, ta cũng cần ra đón hoàng tử để hoàng tử thấy rõ tấm lòng của ta thế nào! Khanh cứ nghe lời ta đi!
Tể tướng La Khâm như đã thấy được tim gan của quốc vương. Biết không thể nào ngăn được ý định của ngài, ông tâu:
-Bệ hạ đã quyết, thần xin tuân mệnh. Bây giờ xin bệ hạ nằm nghỉ cho khỏe người!
Hai hôm sau, mặc dầu bệnh chưa thuyên giảm và quần thần hết sức can gián, vua Bố Để cũng nhất quyết ngự ra tận cửa biển Thị Nại để đón hoàng tử Na Tác Nhĩ. Khi thầy trò Du Đà rời thuyền bước lên dịch đình thì đoàn voi vua ngự cũng vừa đến. Thấy có lọng vua trên voi, họ ngạc nhiên lắm. Khi biết vua đang bệnh mà vẫn gắng đi đón hoàng tử Na Tác Nhĩ, họ cảm động vô cùng. Thật sự sau khi nghe được tin hoàng tử Na Tác Nhĩ sẽ trở về, vua Bố Để đã lên tinh thần nên cơn bệnh cũng đã suy giảm. Cả bọn Du Đà, Na Tác Nhĩ đều rơi lệ sụp quỳ trước con voi ngự mà nói:
-Quốc vương vạn tuế! Chúng thần là những kẻ có tội, sao bệ hạ lại nhọc công ra đón rước thế này làm chúng thần càng nặng tội thêm!
Vua Bố Để cũng lộ vẻ xúc động nói:
-Quí vị hãy bình thân! Chúng ta đều có lỗi cả, đừng nhắc chuyện cũ nữa! Ta rất vui mừng được gặp lại hoàng tử và quan Phụ giáo. Từ nay chúng ta sẽ sát cánh bên nhau để cùng lo việc nước! Mong quí vị sẽ vì triều đình, vì sự tồn tại của dân tộc Chiêm Thành mà ra sức!
Thế rồi nhà vua cho mời hoàng tử Na Tác Nhĩ và quan Phụ giáo Du Đà lên voi. Khi về tới Đồ Bàn, Tể tướng La Khâm mời hoàng tử Na Tác Nhĩ cùng quan Phụ giáo Du Đà và La Ngai tạm ở điện cũ của Chế Mỗ vừa được sửa sang lại.
Hôm sau, dù không được khỏe người, vua Bố Để vẫn sai bày tiệc để thết đãi hoàng tử Na Tác Nhĩ và quan Phụ giáo Du Đà. Trong tiệc, vua Bố Để đã nói chuyện khá nhiều với hoàng tử Na Tác Nhĩ. Qua cuộc tiếp xúc này, nhà vua rất mừng thấy hoàng tử quả là một nhân vật phi thường như ngài mong đợi. Ngài nói với quần thần:
-Ta đã tìm được người có thể thực hiện ý chí của ta! Ta tin thế nào hoàng tử cũng thành công! Bây giờ dẫu nhắm mắt ta cũng vui lòng!
Từ đó, hoàng tử Na Tác Nhĩ, Du Đà, La Ngai đều được giao phó một số công việc của triều đình. Hoàng tử Na Tác Nhĩ đã tỏ ra là một người có thực tài, đầu óc ngài hết sức linh mẫn, nhạy bén, giải quyết vấn đề nào cũng hợp tình hợp lý. Các quan trong triều ai cũng nể phục. Vua Bố Để cũng như Tể tướng La Khâm đều rất hài lòng và càng tin tưởng vào hoàng tử.
Một hôm vua Bố Để hỏi Tể tướng La Khâm:
-Khanh thấy hoàng tử Na Tác Nhĩ làm việc được không?
-Thưa, thần chưa thấy hoàng tử có khuyết điểm nào!
-Liệu hoàng tử có đủ khả năng thực hiện ý nguyện của ta không?
-Theo ý thần, có thể!
-Ta cũng có nhận xét như khanh. Nay ta có một chuyện muốn hỏi ý khanh!
-Bệ hạ cứ hỏi!
-Ta có một đứa cháu gái là Mỵ Thâm, con của chị ta. Hoàng tử Na Tác Nhĩ hiện vẫn chưa có vợ, ta muốn tác hợp cho hai trẻ, có nên chăng?
-Bệ hạ tính như vậy thì tốt lắm! Hai bên tình vốn đã thân sẽ càng thân hơn!
-Ta nhờ khanh và Du Đà đứng ra làm mai mối được không?
-Nếu bệ hạ quyết ý, thần sẽ nói chuyện với Du Đà!
Thế là một tháng sau hoàng tử Na Tác Nhĩ đã kết duyên cùng nàng Mỵ Thâm.
Ít lâu sau, Tể tướng La Khâm nại cớ già yếu, xin nghỉ việc. Vua Bố Để nói:
-Thời gian này ta cứ nay đau mai ốm mãi. Vì việc quốc gia không thể buông được nên ta phải gắng sức vậy thôi. Khanh tuy già yếu nhưng đầu óc vẫn còn minh mẫn, vẫn có thể giúp ta được. Hoàng tử Na Tác Nhĩ quả là tay anh tuấn nhưng còn non trẻ quá, ta chưa dám giao việc lớn. Khanh gắng ở lại một thời gian nữa đi!
La Khâm thưa:
-Thần vì chịu ơn tri ngộ của bệ hạ nên còn ở tới ngày nay chứ thật sự thần cũng mệt mỏi lắm rồi. Vả lại, muốn canh tân triều đình phải có người trẻ mới được! Thần nghĩ hoàng tử Na Tác Nhĩ xứng đáng giữ chức Tể tướng lắm! Người không phải chỉ có tài, có chí mà còn đắc nhân tâm nữa. Đã có ý trông cậy hoàng tử thực hiện ý nguyện, bệ hạ còn ngần ngại gì nữa mà không chuyển giao quyền hành cho hoàng tử?
Vua Bố Để thấy La Khâm đã cạn lời như vậy bèn chấp thuận. Hoàng tử Na Tác Nhĩ được vua cử tạm quyền Tể tướng. Việc thay thế này làm tinh thần các quan trong triều phấn khởi lắm! Ai cũng tin tưởng, hi vọng một vận hội tốt lành sẽ đến với nước Chiêm Thành!
Vua Trà Hòa Bố Để đã già, lại hay đau yếu nên các việc lớn nhỏ trong triều ông đều giao cho hoàng tử Na Tác Nhĩ giải quyết. Đến giữa năm Canh Tý* vua Bố Để lâm bệnh nặng mà qua đời.
Sau khi triều đình tổ chức lễ hỏa táng cho vua Bố Để xong, hội đồng hoàng tộc Chiêm Thành bèn họp lại để bầu người kế vị. Trước uy đức rực rỡ của hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ, các hoàng thân, quí tộc đương thời đều trở thành lu mờ. Thế là hội đồng hoàng tộc Chiêm Thành quyết định tôn Na Tác Nhĩ lên làm vua. Nhà vua lấy hiệu là Chế Bồng Nga, mở đầu một trang sử oai hùng, oanh liệt cho dân tộc Chiêm.
-Bây giờ phải lo việc tang chế cho vương thượng cấp bách quá, nếu tổ chức lễ đăng quang nữa thì công việc lập chập, vất vả không bên nào chu đáo được. Vậy ta nên tập trung tổ chức lễ hỏa táng cho tốt đẹp đã. Sau đó thong thả sẽ tổ chức lễ đăng quang cho điện hạ tiện hơn!
Hoàng tử Chế Mỗ nói:
-Tể tướng xếp đặt sao cho tiện thì thôi!
Các quan hết thảy đều đồng ý như vậy. Sau khi cùng với Trà Hòa Bố Để lo lễ hỏa táng cho vua cha xong, hoàng tử Chế Mỗ hân hoan chờ ngày chính thức bước lên ngôi vị chủ tể nước Chiêm Thành. Ông nói với Trà Hòa Bố Để:
-Tể tướng phải tổ chức buổi lễ đăng quang cho ta thật long trọng, vượt hẳn các cuộc đăng quang của các vị tiên vương đấy nhé. Ta sẽ không quên công lao khó nhọc của ông đâu!
Bố Để mỉm cười thưa:
-Điện hạ đã dạy, tôi sẽ cố gắng làm theo ý của điện hạ. Điện hạ sẽ là một vị chúa hiển hách nhất của nước Chiêm từ xưa tới nay. Nhưng muốn việc tổ chức lễ đăng quang được hoàn hảo, phải có một thời gian ít nhất là năm bảy ngày để chuẩn bị mọi thứ. Bây giờ điện hạ cứ yên chí về nghỉ ngơi. Tôi sẽ tự tay soạn thảo chương trình buổi lễ và cho mọi phần hành tập dượt thuần thục xong sẽ mời điện hạ duyệt lãm trước khi chính thức đăng quang.
Chế Mỗ vui vẻ đồng ý ngay:
-Được, ông gắng lo cho xong sớm. Đừng để ta phải nóng lòng trông đợi!
-Xin tuân lệnh điện hạ. Tôi cũng mong cho việc lớn chóng thành. Điện hạ được vinh hiển tôi cũng được nở mày nở mặt lây vậy!
Quan tham mưu Chế Hồng Phúc thưa:
-Tể tướng trù liệu như vậy phải lắm. Phải có thì giờ chuẩn bị công việc mới hoàn hảo. Hơn nữa, điện hạ mới tuyển được quí nhân, cũng nên nhân dịp chờ đợi này để vui vẻ lo việc nhà. Khi đăng quang rồi điện hạ đâu còn được rảnh rỗi như bây giờ!
Nghe Hồng Phúc nói, Chế Mỗ nhớ ngay đến hai nàng kỹ nữ Mỵ Hương, Mỵ U mà ông mới tuyển được chưa bao lâu. Trong thời gian vừa qua, vì bận rộn việc tang chế phụ vương, Chế Mỗ không thể chuyên tâm vui vẻ với các giai nhân, nay có người nhắc, ông bỗng cao hứng cười mà nói đùa:
-Phải rồi! Lâu lâu các quan lại được nghỉ phép một thời gian để lo việc nhà, tại sao ta lại không có? Trước khi đăng quang ta cũng cần nghỉ phép một thời gian để lo việc nhà như các quan mới công bằng chứ!
Bố Tân nghe Chế Mỗ nói có vẻ chói tai, bèn thưa:
-Tiên vương đã qua đời, ngôi vua không thể để trống lâu ngày. Điện hạ nên tiến hành việc đăng quang sớm chứ sao lại bày chuyện nghỉ phép làm gì cho trở ngại việc công?
Chế Mỗ lộ vẻ giận nói bướng:
-Dù ta đã đăng quang hay chưa đăng quang thì ai cũng biết ngôi vua đó là của riêng ta! Về công việc trong triều trước sau vẫn do một tay Tể tướng Trà Hòa Bố Để giải quyết, có gì là trở ngại đâu? Ta không muốn nghe ông nói những lời dư thừa như thế!
Bố Tân bị Chế Mỗ mắng quê mặt bèn im tiếng. Trước đây, Bố Để vẫn luôn sát cánh với Chế Mỗ để cùng lo công việc triều đình. Thật ra Chế Mỗ chẳng hề biết gì về chính sự. Mọi việc ông đều làm theo sự sắp xếp, hướng dẫn của Bố Để cả. Tham dự vào các công việc này chẳng qua là do vua cha bắt buộc chứ thật sự Chế Mỗ chẳng có chút hứng thú nào. Bây giờ vua cha đã qua đời, ông muốn giao trọn việc triều chính cho Tể tướng Bố Để để ông được rảnh rang, tự do hưởng lạc. Nay nghe Bố Để hứa như vậy, Chế Mỗ rất yên tâm. Ông hớn hở trở về biệt điện tiếp tục việc vui chơi.
Vốn tính lười biếng, lại quá tin tưởng vào Bố Để, đã bốn ngày trôi qua mà Chế Mỗ vẫn chẳng thèm bước ra điện Thiết Triều – nơi triều đình làm việc – để xem thử Bố Để tiến hành công việc ra thế nào. Bố Tân thấy Chế Mỗ vô tâm như vậy bất đắc dĩ phải nhắc nhở:
-Tể tướng Bố Để đã hứa sẽ tổ chức cuộc lễ đăng quang cho điện hạ thật long trọng, không biết bây giờ ông ta đã lo tới đâu rồi?
Chế Mỗ đáp không do dự:
-Tể tướng đã hứa ta đâu cần lo lắng nữa!
Bình thường Bố Để lúc nào cũng tỏ ra hết lòng với Chế Mỗ, làm việc gì cho Chế Mỗ cũng tới nơi tới chốn. Thấy Bố Tân là vị thầy gần gũi với Chế Mỗ nên Bố Để cũng đối xử với ông rất thân tình. Ngược lại, Bố Tân thấy Bố Để lúc nào cũng khiêm nhường, mềm mỏng, đầy vẻ trung hậu nên cũng không nghi ngờ gì. Nay nghe Chế Mỗ nói như vậy Bố Tân cũng yên chí không nói gì thêm.
Nhưng đến ngày thứ bảy vẫn chẳng thấy Bố Để bẩm báo gì với Chế Mỗ, Bố Tân không sao khỏi sốt ruột. Ông nói với Chế Mỗ:
-Không hiểu sao lần này Tể tướng lo công việc lại chậm đến thế? Bảy ngày rồi chứ ít sao! Điện hạ nên ra triều xem xét ông ta chuẩn bị công việc thế nào, phải thúc đẩy ông ta vẫn hơn!
Chế Mỗ khen phải rồi cùng Bố Tân dẫn một toán thị vệ ra triều. Khi tới gần điện Thiết Triều, thấy quân lính canh gác nghiêm nhặt, ông rất mừng. Nhưng liền đó ông xiết bao kinh ngạc khi nghe tiếng loa cảnh báo vang lên:
-Lệnh của tân vương, những ai không có phận sự không được xâm nhập điện Thiết Triều. Ai bất tuân, sẽ bị nghiêm trị!
“Lệnh của tân vương tức là lệnh của ta, nhưng ta đâu có ra lệnh ấy? Đây chắc là Bố Để nhân danh ta mà truyền lệnh. Khá khen cho cái tính nghiêm chỉnh và cẩn thận của y!”. Chế Mỗ khen chưa hết lời thì một toán quân sĩ hùng dũng tuốt vũ khí xông ra chận ông lại. Người chỉ huy toán quân ấy chính là La Bút, một tên cận vệ của Bố Để. Chế Mỗ nổi giận nạt:
-Hỗn láo, bộ ngươi không có mắt hay sao?
La Bút lạnh lùng nói:
-Chúng tôi không cần biết ông là ai cả. Chúng tôi chỉ biết thi hành lệnh của tân vương. Nếu ông không chịu lui, chúng tôi sẽ áp dụng biện pháp cần thiết!
Chế Mỗ xám mặt hỏi lại:
-Ta đây là hoàng tử Chế Mỗ, nay Tiên vương đã qua đời, nếu ta không là tân vương thì còn ai đây nữa chứ? Chẳng lẽ ngươi không biết điều đó?
La Bút vung gươm trắng trợn nói:
-Tiên vương đã có lệnh truyền ngôi cho phò mã Trà Hòa Bố Để. Ông không còn can dự gì tới triều đình này nữa. Tân vương tha mạng cho ông là may lắm rồi! Yêu cầu ông rút lui ngay! Quân sĩ, hãy thi hành nhiệm vụ!
Toán quân ấy bỗng đồng loạt tiến tới một bước. Những ngọn đao sắc trong tay họ cũng đồng loạt vung lên. Đám vệ sĩ của Chế Mỗ hoảng sợ vội bao quanh bảo vệ chủ. Bố Tân nhảy ra đứng chặn trước mặt toán quân của La Bút, thét lớn:
-Chúng bây không được làm hỗn với đức điện hạ!
Thấy Bố Tân xuất hiện, bọn lính ấy hơi khựng lại. Chế Mỗ nói:
-Hãy kêu Trà Hòa Bố Để ra đây cho ta nói chuyện!
Nhưng La Bút trợn mắt quát:
-Biết điều hãy lui ngay! Nếu không, ta chẳng vị tình đâu!
Bố Tân thấy tình hình bất lợi, quay lại nói với Chế Mỗ:
-Chúng nó phản rồi. Xin điện hạ hãy tạm lui rồi tìm cách đối phó sau.
Chế Mỗ phẫn uất lắm nhưng chẳng biết làm sao hơn, đành quay trở về điện của mình. Ông hậm hực nói:
-Ta có bạc đãi Bố Để bao giờ đâu! Không ngờ nó phản ta như thế! Biết làm sao bây giờ?
Bố Tân ngẫm nghĩ một lát rồi thưa:
-Thú thật, tôi cũng không hiểu ra sao cả! Lâu nay tôi cứ tưởng Bố Để là người trung thành với điện hạ nhất. Nhưng nay rõ ràng Bố Để đã phản điện hạ, đâu còn nghi ngờ gì nữa! Càng khó hiểu là tại sao y vẫn để yên cho chúng ta thế này? Y toan tính gì nữa đây? Quyền hành y nắm hết trong tay, nếu y muốn hại ta đâu có khó! Chắc là y vị nể công chúa Đa Lợi nên nương tay! Nếu ta quyết liệt chống lại, y có thể tiêu diệt ta mất! Chi bằng cứ tạm thuận theo y để giữ thân cái đã rồi tính sau.
Chế Mỗ ứa nước mắt mếu máo:
-Chính ông cũng nói thế ta còn biết nhờ cậy ai?
Thế rồi Chế Mỗ vào phòng riêng đóng cửa lại. Một lát sau Bố Tân xin vào gặp Chế Mỗ. Chế Mỗ lại mếu máo hỏi:
-Ông cũng muốn bỏ ta rồi, còn vào đây làm gì nữa?
Bố Tân nói:
-Xin điện hạ bình tĩnh, hồi nãy điện hạ hỏi phải làm sao trong tình trạng này, tôi không dám nói thật vì sợ trong đám vệ sĩ của ta có thể đã có người của Bố Để gài vào, nói ý của mình ra nó sẽ báo lại với Bố Để. Giờ đây không có ai, tôi xin trình một ý kiến: Bố Để tuy đã đoạt được quyền hành nhưng không phải ai cũng phục tùng y đâu! Ta phải ngầm cho người dò ý những bề tôi cũ của Tiên vương, ai có bụng trung thành hãy liên kết với họ để gây dựng lại thế lực. Khi đã đủ sức, ta sẽ tìm cách giành lại ngôi báu.
Chế Mỗ nghe hơi mừng, ông nói:
-Kế ấy nghe được lắm! Ông đứng ra lo giúp ta việc đó được không?
-Điện hạ đã tin tôi mà giao việc, tôi đâu dám chối từ!
Lúc bấy giờ người của Bố Để đã nắm hết mọi then chốt của bộ máy triều đình. Vốn biết rõ Chế Mỗ hơn ai hết, Bố Để chẳng coi ông ta ra gì cả. Đến nỗi Bố Để chẳng thèm cho người theo dõi xem Chế Mỗ có hành động nào chống lại mình không! Toàn bộ nhân sự của hoàng gia vẫn sinh hoạt đều đặn như cũ, chẳng thay đổi mảy may. Nói chung là cả triều đình gần như đều dửng dưng trước sự tiếm quyền của Tể tướng Trà Hòa Bố Để.
Bố Tân tuy hơi lười biếng nhưng bản chất vốn rất thuần hậu, trung thành. Sau khi được Chế Mỗ giao phó sứ mạng, ông đã hăng hái lao vào công việc. Ông lần lượt bí mật tiếp xúc với một số quan lại trong triều. Nhưng ông đã gặp nhiều khó khăn trong việc thuyết phục họ. Tài năng của Trà Hòa Bố Để đã chinh phục được lòng người. Ai cũng tin Bố Để sẽ làm cho nước Chiêm trở nên hùng mạnh. Hoàng tử Chế Mỗ kém cỏi quá, làm sao tin được ông ta có thể trở thành một vị vua hiền? Chỉ có lác đác vài người hứa ủng hộ nhưng đều xin giấu mặt. Điều mâu thuẫn là nhiều người còn nặng lòng sùng kính, nhớ ơn vị Tiên vương Chế A Nan nên không ai nỡ lòng hại Chế Mỗ. Chính Tể tướng Bố Để cũng biết điều đó nên vẫn để Chế Mỗ sống yên ổn.
Khi Bố Tân đến tiếp xúc với Du Đà, Du Đà khuyến cáo:
-Tôi biết ông vì hoàng tử mà làm việc này nhưng coi chừng nó có thể tác dụng ngược, trở lại làm hại hoàng tử đó!
-Xin ông cho biết rõ lý do?
-Ông gần gũi hoàng tử Chế Mỗ lẽ nào không biết điều ấy? Hoàng tử bản chất tầm thường, dù chiếm lại được ngôi báu chưa chắc hoàng tử sẽ làm được gì cho đất nước! Còn Bố Để là người có tài, có quyết tâm rửa hận cho dân tộc. Tuy hơi tham lam, nhưng Bố Để vẫn còn đủ tình người, vẫn biết trọng điều nhân nghĩa. Ông ta có thể trở thành một minh quân lắm chứ! Dù đang nắm trọn quyền hành trong tay, ông ta vẫn không nỡ làm hại hoàng tử chứng tỏ ông ta không phải là kẻ bạc tình. Hoàn cảnh đã đưa đến như thế, biết đâu đó chẳng là một vận hội mới cho nước Chiêm vươn lên? Nay ông giúp hoàng tử mong lật lại thế cờ, Bố Để và hoàng tử Chế Mỗ tất phải đối đầu nhau, thế là ông ép họ vào con đường phải giết nhau! Nếu trường hợp ấy xảy ra, tôi tin chắc hoàng tử phải thất bại, sẽ di hại đến cả hoàng gia nữa. Mà dù hoàng tử có thành công, nước Chiêm cũng sẽ đi đến chỗ suy yếu. Mấy lời chân thành, xin ông xét kỹ cho!
-Ông là người thân tín của Tiên vương mà nói thế tôi thất vọng hết sức. Tiên vương đã giao việc giáo dục và bảo vệ hoàng tử cho tôi, giờ đây tôi chỉ biết có hoàng tử Chế Mỗ. Để đáp ơn tri ngộ của Tiên vương, dù phải chết tôi vẫn phải thực hiện việc này.
-Tôi với ông đều chịu ơn Tiên vương như nhau. Nhưng ông phải hiểu là Tiên vương bao giờ cũng muốn gây dựng một nước Chiêm hùng mạnh không lệ thuộc Chân Lạp hay Đại Việt chứ! Giữa Bố Để và hoàng tử xem ai có thể làm cho nước Chiêm trở nên hùng mạnh theo ý nguyện của Tiên vương? Ông thấy rõ vấn đề đó chứ? Tôi không muốn để xảy ra cảnh huynh đệ tương tàn làm quốc gia phải suy yếu! Sự thể đã đến nước này hoàng tử làm sao lật lại thế cờ được? Một lần nữa xin ông suy nghĩ lại!
-Tôi đã nhất quyết. Nếu ông phá vỡ kế hoạch này, tôi đành chịu chết thôi!
-Tôi có lời khuyên ông là vì nghĩa vụ đối với nước Chiêm và cũng vì tình bằng hữu đối với ông nữa. Nếu ông không nghe tôi cũng chịu thôi. Nhưng xin hứa tôi không phá kế hoạch của ông đâu! Ông cứ yên tâm theo đuổi mục đích của mình. Tôi coi như không biết gì đến việc ông đang làm!
Khi Bố Tân đã đi khỏi, Du Đà than thở:
-Thật khó mà ngăn chận được cảnh huynh đệ tương tàn! Đáng tiếc là cái ông hoàng ngu tối khùng điên này đã tự tìm cái chết! Không chỉ hại thân mà còn làm liên lụy đến cả hoàng gia nữa chứ! Ai có thể che chở họ đây? Đáng thương cho hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ, khôi ngô tuấn vỹ như vậy mà không được hưởng phước đời!
Đêm hôm đó Du Đà không thể nào ngủ được. Hễ nhắm mắt ông lại thấy những cảnh đâm chém nhau diễn ra. Chỉ toàn là cảnh người Chiêm chém giết người Chiêm! Nhiều lần ông thấy cảnh Chế Mỗ bị chém đầu! Mỗi lần như vậy ông lại phải mở bừng mắt ra. Thao thức một hồi ông lại cố nhắm mắt ngủ tiếp. Nhưng những cuộc đâm chém nhau vẫn không rời khỏi đầu óc ông. Tới khi thấy cảnh một tên lính đưa cao ngọn đao và một cậu bé khôi ngô tuấn tú hiên ngang ngẩng đầu chờ chết, ông đã hét lớn: “Không thể được!Ta phải cứu cậu bé này!”
Cậu bé trong giấc mộng mà Du Đà nói đó chính là Na Tác Nhĩ, em cùng cha khác mẹ với vua Chế A Nan. Du Đà là người thân cận với vua Chế A Nan nên biết khá rõ về cậu bé. Na Tác Nhĩ ra đời đúng vào lúc thân phụ cậu là Thái thượng vương Hiệu mất. Một năm sau mẹ cậu cũng qua đời. Chế A Nan thương em nên cho người hết lòng chăm sóc, dạy dỗ cậu. Năm ấy Na Tác Nhĩ mới lên bảy tuổi nhưng to xác, khỏe mạnh trông như một trẻ lên mười. Cậu lại thông minh, siêng năng học hành, chịu khó tập luyện võ nghệ. Mới ngần ấy tuổi nhưng cậu đã rành việc cỡi ngựa bắn cung. Chế A Nan vẫn hay hãnh diện nói với mọi người: “Na Tác Nhĩ là con voi thần của nhà ta! Sau này cậu ấy sẽ là rường cột của đất nước Chiêm Thành đấy”.
Nếu cuộc tranh giành ngôi báu giữa ông anh rể và cậu em vợ không thể tránh được, Na Tác Nhĩ chắc sẽ trở thành mục tiêu thứ hai mà Trà Hòa Bố Để phải nhắm đến. Kế sách nhổ cỏ phải nhổ tận gốc vẫn là kế sách mà hầu hết những kẻ soán vị xưa nay đều áp dụng. Na Tác Nhĩ tuy còn bé, nhưng chắc hẳn Bố Để không thể bỏ quên cậu. Suy nghĩ như thế nên ngay hôm sau, Du Đà đã bí mật tìm cách đưa Na Tác Nhĩ trốn khỏi Đồ Bàn.
Từ ngày vua Chế A Nan trao quyền điều khiển việc nước cho hoàng tử Chế Mỗ, Tể tướng Bố Để vẫn thường thay mặt hoàng tử để sắp đặt mọi việc. Hôm ấy, Bố Để đã cho mời các chức sắc tôn giáo quan trọng, đồng thời chỉ thị các quan lớn nhỏ trong triều tề tựu tại sân trước nhà hội Vĩnh Xương để nghị sự. Quân sĩ được điều động bố trí canh giữ nghiêm ngặt tất cả các địa điểm trọng yếu tại kinh thành. Mọi việc chuẩn bị xong xuôi, Tể tướng Trà Hòa Bố Để xuất hiện bước lên diễn đàn tuyên bố:
-Nước Chiêm Thành ta được gây dựng từ xưa, vẫn nổi tiếng là một nước anh hùng. Nhưng thời gian gần đây Chiêm Thành hay bị các nước láng giềng xa gần thay nhau đe dọa, lấn áp. Hết Chân Lạp tới Mông Cổ, hết Mông Cổ tới Đại Việt, dân ta phải luôn trực tiếp hoặc gián tiếp làm tôi mọi cho người ngoại chủng, cực nhục trăm bề. Chúng ta không thể sống trong tình trạng đen tối đó mãi. Khi còn sống, Tiên vương ta từng nuôi mộng phải làm sao để nước Chiêm mãi mãi về sau không còn lệ thuộc ai nữa! Nước Chiêm nhất định phải vùng lên, phải hùng mạnh, phải đủ sức chống trả mọi cuộc xâm lăng. Nhất là phải lấy lại cho được những phần đất cát mà Đại Việt đã lừa dối tiền nhân chúng ta để tước đoạt! Tiếc thay, Tiên vương chưa thực hiện được ý nguyện thì ngài đã qua đời! Trong thời gian trị vì, Tiên vương đã đem lại cảnh sống ấm no, thanh bình cho dân Chiêm ta. Bây giờ ngài mất rồi, liệu dân Chiêm ta còn được hưởng tiếp cảnh sống an lạc đó không? Khó lắm, nếu vị vua kế nghiệp không có đủ tài đức để trị dân, giữ nước như Tiên vương! Làm sao thực hiện cái ý nguyện mà Tiên vương là lấy lại phần đất Đại Việt đã cướp của nước ta? Các ngươi có muốn chúng ta phải tiếp tục thực hiện ý nguyện của Tiên vương không?
Hàng trăm cái miệng cùng hô vang:
-Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương! Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương!
Trà Hòa Bố Để dõng dạc hỏi tiếp:
-Tất cả mọi người đều muốn thực hiện ý nguyện của Tiên vương phải không?
Cử tọa lại đồng loạt hô vang:
-Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương! Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương!
Trà Hòa Bố Để lại tiếp tục:
-Muốn thực hiện ý nguyện của Tiên vương, nước Chiêm bắt buộc phải có một đấng chủ tể bản lãnh vượt người, đủ khả năng dẫn dắt toàn dân, làm sao cho người người đoàn kết một lòng, đi theo một đường, cùng hướng tới một mục đích, mới mong thành công được! Các ngươi đồng ý như thế không?
-Đồng ý! Đồng ý! Đồng ý!
Trong lúc mọi người đang hăng say hướng tâm trí tìm một nhân vật thượng đẳng có khả năng xoay chuyển thời thế thì Trà Hòa Bố Để đổi sang một giọng đầy xúc động:
-Đau đớn thay, trời không thương dân Chiêm! Tiên vương anh hùng như thế, ý chí siêu việt như thế mà trời không cho thọ để dẫn dắt dân tộc Chiêm tới nơi tới chốn như ý nguyện của ngài! Trời cũng chẳng cho ngài được một người con xứng đáng như ngài mong ước! Hoàng tử Chế Mỗ sinh ra chỉ biết ham chơi, không có một chút tài đức nào cả làm sao có thể nối chí Tiên vương? Khi còn sống, Tiên vương đã từng khổ sở than thở việc đó. Như thế có phải là lòng trời không thương nước Chiêm ta không? Trời hỡi trời! Sao trời nỡ làm thế? Bây giờ dân Chiêm chúng tôi phải làm sao để thực hiện ý nguyện của Tiên vương, để tự cứu lấy mình?
Thế rồi Bố Để ôm mặt khóc nức nở. Tiếng khóc của Bố Để như truyền cả nỗi uất hận, tủi nhục của những kẻ bị ức hiếp, chà đạp vào lòng mọi người. Chỉ một lát sau tiếng sụt sịt đã lan ra khắp nơi. Đột nhiên có ba vị quan cùng tiến lại gần Bố Để rồi sụp quì xuống. Một vị có vẻ lớn tuổi nhất trong số đó hướng về Bố Để nói với giọng nghẹn ngào:
-Tôi là Chế Hồng Phúc xin có một lời thưa với Tể tướng: Nay Tiên vương đã khuất núi, vận nước có thể đổi thay. Hoàng tử Chế Mỗ là người ít tài, khó giữ được kỷ cương như trước. Chiêm Thành đang cần có một đấng minh quân để đưa đất nước tiến lên. Trong triều hiện nay chỉ có Tể tướng là người có khả năng tạm quyền việc ấy! Tể tướng là rể của Tiên vương thì cũng như con Tiên vương thôi. Vì đại sự quốc gia, chúng tôi thỉnh cầu Tể tướng hãy lên ngôi chủ tể nước Chiêm để giữ cho nước Chiêm khỏi bị suy yếu, khỏi sa vào cảnh lệ thuộc nước ngoài. Được như vậy thì may phước cho dân Chiêm lắm!
Hai vị quan kia cũng nói:
-Chúng tôi cũng một ý như lão tham mưu Chế Hồng Phúc! Xin Tể tướng nhận lời cho!
Rồi không đợi Trà Hòa Bố Để trả lời, lão quan Chế Hồng Phúc quay lại phía cử tọa hỏi lớn:
-Quý vị có đồng ý tôn phò mã Trà Hòa Bố Để lên ngôi vua không?
Mọi người đều quỳ xuống một lượt chắp tay hướng về Trà Hòa Bố Để vừa xá vừa tung hô:
-Trà Hòa đại vương vạn tuế! Trà Hòa đại vương vạn tuế!
Tể tướng Trà Hòa Bố Để hơi mất tự nhiên giây lát rồi với nụ cười rạng rỡ, ông khoát tay ra hiệu cho mọi người:
-Thôi, các ngươi bình thân đi! Ta thật lòng chẳng ham địa vị chủ tể nước Chiêm, nhưng các ngươi đã thương quý ta, tin tưởng ta, ủng hộ ta ngồi vào địa vị ấy, ta phải gắng nghe theo chứ biết làm sao bây giờ! Trước các chức sắc tôn giáo, các quan lại của triều đình đại diện cho quốc dân Chiêm Thành, ta trân trọng tuyên thệ: kể từ giờ phút này phải tìm mọi cách để đưa nước Chiêm tới chỗ hùng cường, giàu có, thoát khỏi mọi sự chèn ép của các lân bang, sau đó sẽ tiến tới việc thu hồi lại những phần đất cát của tổ tiên đã bị các lân bang chiếm đoạt! Ta kêu gọi các chức sắc tôn giáo, các quan lại và toàn dân Chiêm phải triệt để kề vai sát cánh ủng hộ ta, giúp đỡ ta, như vậy ta mới có thể sớm thực hiện được những nguyện vọng ấy!
Đến đây lão quan Chế Hồng Phúc lại hô lớn:
-Tân vương vạn tuế! Chúng tôi nguyện một lòng ủng hộ ngài. Trời đất thánh thần cũng sẽ phò trợ, giúp đỡ ngài chu toàn sứ mệnh!
Toàn thể cử tọa đồng loạt hô theo:
-Tân vương vạn tuế! Chúng tôi nguyện một lòng ủng hộ ngài. Trời đất thánh thần cũng sẽ phò trợ, giúp đỡ ngài chu toàn sứ mệnh!
Thế rồi hôm sau Tể tướng Trà Hòa Bố Để chính thức làm lễ lên ngôi vua Chiêm Thành.Vụ cướp ngôi của Trà Hòa Bố Để đã diễn ra thật êm ả. Hoàng tử Chế Mỗ thấy mình cô thế quá, không dám có một phản ứng nào. Ông chỉ biết khóc lóc, ôm mối phẫn hận nằm miết trong điện, phó mặc cho số mệnh đẩy đưa…
Sau khi đăng quang, vua Bố Để hội triều thần để bàn định kế hoạch trị quốc. Trên thực tế vua Bố Để đã cầm quyền từ lâu nhưng đây là lần đầu tiên ông chính thức ngự trên ngai vàng để ban hiệu lệnh cho quần thần. Nhà vua mở đầu:
-Từ đây ta là chủ tể của nước Chiêm, ta sẽ dốc hết sức hết lòng để gây dựng một nước Chiêm thật hùng mạnh. Châm ngôn có câu “dại hai người hơn khôn một mình”, nếu không có các ông hợp sức, ta sẽ không làm gì được! Ta rất cần sự hợp sức, góp ý của các ông! Vậy, ngay từ giờ phút này, ai có kế hoạch gì hay cứ trình bày ta nghe thử. Nếu dùng được, ta sẽ thưởng, nếu dùng không được, ta cũng chẳng quở trách đâu!
Vua Bố Để nói xong thì một viên quan tâu:
-Thần là La Khâm xin thưa: Tiên vương vốn là người do Đại Việt lập nên, lâu nay hằng năm nước ta vẫn triều cống Đại Việt. Nay Tiên vương đã qua đời, bệ hạ lên kế nghiệp, tưởng ta cũng nên cử sứ sang Đại Việt báo tang cho phải phép và xin phong vương cho bệ hạ luôn thể. Nếu không làm việc đó, thần sợ sẽ bị Đại Việt bắt bẻ làm khó cho ta.
La Khâm nói xong thì tướng quân Lạc Thích tiếp lời:
-Việc báo tang và xin phong vương là việc rất cần thiết, không thể bỏ lơ được. Tuy thế, sự tồn tại của hoàng tử Chế Mỗ cũng là một trở ngại lớn. Nếu Đại Việt hỏi tại sao không lập con mà lại lập rể vua cũ lên kế vị, ta biết trả lời sao? Theo thần nghĩ, ta nên giải quyết vấn đề Chế Mỗ cho êm ấm trước đã!
Vua Bố Để hỏi:
-Theo ông, ta nên giải quyết như thế nào?
Lạc Thích nói không ngần ngại:
-Chắc bệ hạ đã từng nghe câu ngạn ngữ “trảm thảo trừ căn” của người Trung Hoa? Vì việc lớn của quốc gia, đâu cần câu nệ một điều nghĩa nhỏ! Thần nghĩ ta cứ đặt Đại Việt trước một sự đã rồi vẫn là thượng sách!
Lão tham mưu Chế Hồng Phúc vội ngăn:
-Bệ hạ không nên nghe lời ấy! Dân Chiêm vẫn còn nhiều thiện cảm với Tiên vương. Hoàng tử Chế Mỗ chưa làm gì nguy hiểm đến nỗi bệ hạ phải xử sự như thế! Ngoài ra hoàng tử lại là em của hoàng hậu, chẳng lẽ bệ hạ không sợ hoàng hậu đau lòng? Nếu có chuyện không hay xảy đến cho hoàng tử thần sợ dân chúng sẽ bất mãn, sẽ nghi ngờ đến đức lớn của bệ hạ. Bệ hạ nên cho người bảo vệ an ninh, khuyên lơn, an ủi hoàng tử chắc hẳn mọi việc sẽ tốt hơn! Còn với Đại Việt, ta chỉ cần báo với họ hoàng tử trí óc không được bình thường không coi việc nước được cũng xong! Theo thần biết, sau khi Huệ Vũ vương Quốc Chẩn bị giết, quân đội Đại Việt đang ở trên đà suy yếu. Hiện nay họ không muốn gây hấn với ai đâu. Thần nghĩ dù biết ta báo cáo không thành thật, họ cũng sẽ lờ đi cho yên chuyện.
Mọi người đều khen Hồng Phúc nói có lý. Vua Bố Để phán:
-Ý kiến của Chế Hồng Phúc hay lắm! Cứ như vậy mà thi hành!
Vua lại nói với La Khâm:
-Ông giúp ta việc đi sứ Đại Việt nhé! Ta sẽ chỉ thị lo mọi chuyện cần thiết giúp ông. Ông chuẩn bị để lên đường càng sớm càng hay!
Giao việc cho La Khâm xong, vua Bố Để hỏi Chế Hồng Phúc:
-Ông lo việc thuyết phục hoàng tử Chế Mỗ được không?
Chế Hồng Phúc thưa:
-Thần sẽ cố gắng. Nhưng xin bệ hạ cho một chỉ thị thật rõ ràng để thần dễ ăn nói với ông ta!
-Được. Ông hãy yêu cầu hoàng tử thực hiện các điểm sau đây: Thứ nhất, không được rời khỏi kinh thành nếu không có sự đồng ý của ta. Thứ hai, không được tự ý gặp gỡ các quan chức lớn nhỏ trong triều một cách riêng tư, lén lút. Thứ ba, tuyệt đối không được tiếp xúc với bất cứ sứ đoàn ngoại quốc nào khi họ đến Đồ Bàn. Nếu hoàng tử giữ được ba điều kiện ấy thì bỗng lộc của hoàng tử vẫn được giữ nguyên như cũ. Sẽ không có một ai được xâm phạm đến một cọng lông chân của hoàng tử và những người trong gia đình ông ta.
Chế Hồng Phúc lộ vẻ vui mừng:
-Bệ hạ đã cư xử độ lượng như thế thần tin mọi việc sẽ êm đẹp cả!
Việc thương thuyết với Chế Mỗ không gặp khó khăn gì. Vừa nghe Chế Hồng Phúc phân tích sự lợi hại giữa hai con đường hòa hay chiến, Chế Mỗ liền đồng ý tuân thủ những điều mà Bố Để đã đưa ra. Khi Chế Hồng Phúc báo lại tin này, vua Bố Để khen:
-Ông quả là tay nhìn xa thấy rộng! Ta hi vọng vụ đi sứ Đại Việt của La Khâm cũng sẽ thành công như ông tiên liệu!
Vấn đề nhân sự đã tạm ổn, Trà Hòa Bố Để bắt đầu lo việc chấn chỉnh guồng máy cai trị mới.
Ba tháng sau La Khâm trở về Đồ Bàn cùng với một sứ đoàn của Đại Việt. Không ngờ cuộc đi sứ này đã mang lại kết quả vượt ngoài sự mong muốn của Trà Hòa Bố Để: Nhà Trần chẳng hề cật vấn La Khâm về việc chàng rể nối ngôi bố vợ mà lại còn ân cần cử sứ giả theo La Khâm sang Chiêm viếng tang và phong vương cho Bố Để nữa.
Thế là vấn đề Đại Việt coi như yên, Bố Để nói với Chế Hồng Phúc:
-Những điều ông tiên liệu quả không sai. Nếu Đại Việt không gặp chuyện bất thường, chẳng đời nào họ dễ dàng phong vương cho ta như thế!
Ông lại quay sang hỏi La Khâm:
-Ông được yết kiến thiên tử mấy lần? Ta nghe nói ngài còn trẻ lắm, trông diện mạo ngài như thế nào?
-Thưa, hai lần. Thiên tử còn rất bé, theo thần biết ngài chỉ mới lên bảy, vui vẻ hồn nhiên lắm. Khi thần dâng biểu, viên thị thần tiếp nhận biểu chưa kịp dâng lên, ngài đã khoát tay tươi cười nói “cho sứ giả bình thân”.
-Thế Thượng hoàng có được khỏe không?
-Thưa, mấy lần thần vào chầu đều chẳng gặp được ngài mà chỉ gặp ấu vương và các quan đại diện, có thể ngài đang se mình.
Trà Hòa Bố Để hớn hở nói:
-Nhà Trần suy rồi! Thượng hoàng thì già yếu bệnh hoạn, ấu vương thì chưa biết việc nên chẳng ai quan tâm đến việc thay ngôi đổi chủ ở Chiêm Thành cả. Đây chính là cơ hội tốt cho nước Chiêm lo việc chấn chỉnh nội bộ, phục hồi sức mạnh để chờ ngày rửa hận! Các khanh phải gắng giúp ta, chớ bỏ lỡ cơ hội quí báu này!
Chế Hồng Phúc thưa:
-Tâu vâng, chúng thần sẽ ra sức giúp bệ hạ phục hồi sức mạnh của nước Chiêm, chờ ngày rửa hận!
Các quan đồng loạt nói:
-Chúng ta phải ra sức phục hồi sức mạnh nước Chiêm, chờ ngày rửa hận!
Lúc bấy giờ hoàng tử Đạt Vân mới mười ba tuổi cũng theo cha ra triều lên tiếng:
-Con cũng xin ra sức giúp cha rửa hận cho dân tộc!
Bố Để mừng rỡ nói với mọi người:
-Con ta còn nhỏ mà cũng có ý chí như thế thì quả thật lòng trời cũng muốn giúp ta!
Thế rồi Bố Để ráo riết đốc thúc việc tập luyện quân đội. Hàng trăm con voi cũng được ra công dạy dỗ thuần thục sẵn để sử dụng trong trận mạc. Ông còn chỉ thị cho thợ đóng hàng trăm chiến thuyền để tăng cường cho thủy quân. Mặt khác, ông cho đốc thúc dân chúng chăm lo việc chăn nuôi, trồng trọt, dự trữ lương thực để chờ lúc dùng tới. Thế lực nước Chiêm càng ngày càng vững mạnh. Các nước lân cận như Chân Lạp, Lào, Java thấy thế đều nể nang, không còn dám gây hấn, quấy nhiễu như trước.
Trà Hòa Bố Để thấy công việc mình làm đã có nhiều kết quả, ông vui mừng lắm. Trong một buổi chầu, ông nói với các quan:
-Lâu nay chúng ta ngày đêm vất vả luyện tập quân đội, thúc đẩy toàn dân ra sức làm việc, sản xuất lúa gạo, chăn nuôi dê gà, tất cả chỉ nhắm mục đích làm cho nước Chiêm mạnh lên. Nay mọi mặt đã có vẻ khả quan, các khanh liệu bao lâu nữa chúng ta đủ sức đánh Đại Việt?
Chế Hồng Phúc thưa:
-Theo nhận xét của thần, nước ta nay quả thật đã mạnh lên nhiều. Tuy thế, việc đánh Đại Việt, thần nghĩ chớ nên tính vội! Vua Đại Việt tuy thơ ấu thật, nhưng nay vẫn còn có Trần Mạnh (Thượng hoàng) còn được dân Việt qui phục đang nắm giữ quyền hành. Chúng ta cứ tiếp tục làm sao cho nước Chiêm mạnh thêm, năm ba năm nữa khi Trần Mạnh qua đời, chúng ta lo gì không quật ngã được Đại Việt!
Vua Bố Để chưa kịp nói gì thì hoàng tử Đạt Vân hăng hái nói:
-Thấy đủ sức thì cứ làm chứ biết bao giờ ông ấy qua đời?
Vua Bố Để lộ vẻ mừng nói với hoàng tử:
-Con cũng biết nóng ruột vì chuyện này ư? Anh dũng như thế mới xứng đáng con ta chứ!
La Khâm thưa:
-Đây là việc lớn của quốc gia, phải đắn đo thật kỹ! Khi thần đi sứ sang Đại Việt thì Trần Mạnh đang bệnh. Tuy vậy, ông ta mới ngoài bốn mươi, việc sống chết cũng khó mà liệu được. Thần nghĩ, bây giờ chúng ta thử thăm dò sức mạnh của họ trước xem sao rồi hãy tính!
Một vị quan hỏi lại:
-Thăm dò sức mạnh của Đại Việt bằng cách nào?
-Dễ lắm! Cứ việc bỏ lơ việc triều cống một thời gian xem họ phản ứng như thế nào. Nếu họ cho người sang khiển trách ngay tức là họ còn mạnh, còn quan tâm tới việc ngoài cõi. Ta chỉ việc xin lỗi vì lý do mất mùa túng thiếu nên triều cống trễ là xong. Nếu họ lờ đi hoặc chậm trách hỏi, rõ ràng đó là một thái độ dè dặt, lúng túng. Qua các thái độ ấy, ta có thể phỏng đoán sức mạnh của họ. Khi đó chúng ta quyết định cũng kịp!
Trà Hòa Bố Để khen:
-Ý kiến của La Khâm hay lắm! Ta cứ thử ngưng việc triều cống xem Đại Việt phản ứng thế nào rồi tính!
Trước đây Chế Mỗ nghe theo lời Bố Tân nên đã qui hàng Bố Để. Lúc bấy giờ Chế Mỗ chưa có thế lực nào hậu thuẫn, nếu không qui hàng làm sao tồn tại được! Hơn nữa, ông vẫn tin Đại Việt không bao giờ chấp thuận Bố Để làm vua nước Chiêm vì Bố Để không phải là con vua Chế A Nan do Đại Việt lập nên. Tới khi thấy Trà Hòa Bố Để được vua Đại Việt cử sứ sang phong vương, Chế Mỗ mới hỡi ôi! Quá phẫn uất về việc này, ông liền gọi Bố Tân đến trách:
-Ông khuyên ta tạm hòa với Bố Để để chờ thời, bây giờ Đại Việt đã phong Bố Để làm chúa Chiêm Thành, ta biết làm sao đây?
Bố Tân nói:
-Thật khó hiểu tại sao Đại Việt lại xử sự nông nổi như vậy? Điện hạ có lỗi gì với họ đâu mà họ nỡ bỏ rơi để phong vương cho Bố Để? Tôi nghĩ chắc hẳn Bố Để báo cáo gian với Đại Việt!
Chế Mỗ bực bội nói:
-Đại Việt đã bỏ rơi ta, ta chỉ còn biết nổi loạn thôi!
-Xin Điện hạ phải cẩn thận, không nên nóng nảy! Bố Để đã có âm mưu đoạt ngôi từ trước nên hắn đã mua chuộc và cấy người của hắn khắp nơi. Mình rục rịch là hắn biết ngay. Tốt hơn hết phải tìm cách cho người sang Đại Việt tìm hiểu nguyên do. Nếu quả Bố Để đã khai gian về vấn đề người kế tự của Tiên vương để đoạt ngôi, ta phải khiếu nại. Như vậy mới mong Đại Việt buộc Bố Để trả ngôi cho Điện hạ. Nếu không có Đại Việt hỗ trợ, sợ trong nước không ai dám theo ta đâu! Đã không có người theo ta làm gì được?
Chế Mỗ khẩn khoản nói:
-Theo ông nghĩ ta nên sai ai đi Đại Việt bây giờ?
-Trước hết ta phải lựa người khéo léo mới gánh vác nổi việc này. Và cũng phải đợi lúc Bố Để với Đại Việt có sự xục xịch nào đó đã mới dễ ăn nói. Một điều cần thiết nữa là ta phải sắm lễ vật thật nhiều. Chứ Bố Để mới cho người sang xin phong, đương nhiên nó phải đút lót hậu hĩ những kẻ có quyền thế trong triều đình Đại Việt. Họ mới ăn của Bố Để đó, giờ ta đòi truất phế Bố Để dễ gì họ nghe?
-Đã tới nước này trăm sự nhờ ông liệu giúp ta vậy!
-Điện hạ đã muốn thế, tôi nào dám từ nan! Tuy nhiên, xin Điện hạ kiên nhẫn, thư thả cho một thời gian. Ta cũng cần chuẩn bị trước phần nào về mặt nhân sự. Nếu không, giả như Bố Để trả lại ngôi, không lẽ Điện hạ dùng lại toàn bộ người của Bố Để? Hoặc giả nếu quân Đại Việt sang hỗ trợ cho Điện hạ, thấy ta không có người để sai khiến họ cũng sẽ coi thường!
Chế Mỗ hỏi lại:
-Theo ông, bây giờ ta phải làm gì trước?
-Tôi sẽ tiếp tục công việc trước kia, tìm những người còn trung thành với Tiên vương để thuyết phục họ sẵn sàng ra phò tá Điện hạ khi Điện hạ cần đến.
-Ông nghĩ thời gian làm công việc đó khoảng bao lâu?
-Thưa, không thể đoán trước! Chúng ta đâu có hoạt động công khai được mà dễ tính toán? Xin Điện hạ ráng chờ đi! Người có lòng chờ đợi thì cơ hội sẽ đến!
Chế Mỗ thở dài:
-Ông gắng giúp ta nhé! Ta sốt ruột lắm rồi!
-Thưa vâng, tôi sẽ vì Điện hạ mà gắng sức!
Tuy đã ước hẹn vậy, nhưng cứ vì lẽ này lẽ nọ cản trở, Bố Tân vẫn chưa thực hiện được gì. Lòng hi vọng vào một ngày phục quốc của Chế Mỗ cũng héo mòn dần theo năm tháng.
Trong khi ở Chiêm Thành Trà Hòa Bố Để cướp ngôi của em vợ thì ở Đại Việt tình hình cũng chẳng mấy sáng sủa. Những viên quan có tài chính trị nổi bật như Trần Nhật Duật, Trần Khắc Chung, Đoàn Nhữ Hài đều không còn nữa. Thượng hoàng Minh Tôn tuy chưa già lắm nhưng hay bệnh hoạn, nhất là chứng đau mắt luôn hành hạ ngài. Vua Dụ Tôn thì còn quá nhỏ. Vì thế, khi thấy Chiêm Thành bỏ cống ngang xương, Thượng hoàng chỉ nói:
-Có thể năm nay nước Chiêm mất mùa. Nó mới phạm một lần cứ tạm bỏ qua đi. Nếu sang năm nó không triều cống nữa sẽ trách luôn cũng không muộn!
Nhưng năm sau Chiêm Thành vẫn tiếp tục bỏ triều cống. Lại nhằm lúc Đại Việt mất mùa, đói kém, trộm cướp xảy ra khắp nơi. Vài nơi đã có những đám giặc lớn nổi lên. Phần lớn những phần tử gây biến loạn này lại là những gia nô của các vương hầu. Vì thế Thượng hoàng luôn bận rộn việc đánh dẹp để chỉnh đốn vấn đề trị an. Những năm kế tiếp tình hình trong nước cũng chẳng khá hơn. Cứ vất vả với việc nội trị như thế thì giờ đâu mà lo việc bên ngoài! Thế là Chiêm Thành cứ tiếp tục bỏ việc triều cống.
Mãi đến năm Bính Tuất* Trần triều mới sai Phạm Nguyên Hằng sang Chiêm trách hỏi. Bố Để viện lẽ mấy năm nước Chiêm mất mùa liên tiếp nên không đủ sức triều cống. Phạm Nguyên Hằng biết Bố Để nói dối nhưng phải giả làm ngơ, chỉ dùng lời lẽ phải trái để khuyên Bố Để nên tránh chuyện tranh chấp giữa hai nước. Cuối cùng Bố Để xin hứa sẽ cho sứ sang cống như trước.
Tin này lọt đến tai Bố Tân, ông mừng rỡ thưa với Chế Mỗ:
-Cơ hội tốt của Điện hạ đã đến rồi đó! Nghe Bố Để đã tự ý bỏ triều cống Đại Việt bốn năm năm nay. Có lẽ trong thời gian này Đại Việt cũng không được yên nên họ cũng phải giả lơ. Nay họ đã cho người sang trách hỏi việc ấy. Rõ ràng là hai bên không còn mặn nồng với nhau nữa! Điện hạ phải nhân cơ hội này cho người sang Đại Việt tố cáo sự dối trá của Trà Hòa Bố Để thế nào cũng được việc!
Chế Mỗ nghe nói rất mừng, nhưng rồi ông lại lo lắng:
-Người để sai đi thì có rồi, nhưng lễ vật tính làm sao đây? Ta chỉ còn giữ được một ít vàng, chuyến này chắc sạch kho quá!
Bố Tân rất hiểu nỗi khó khăn của Chế Mỗ. Trước kia ngoài phần bổng lộc, ông còn được các quan lớn nhỏ nay biếu mai tặng để lấy lòng nên chuyện vàng bạc đối với ông không thành vấn đề. Nhưng nay những vụ biếu tặng lễ lạt đó hoàn toàn không còn nữa. Trong thời gian gần đây Chế Mỗ lại phải chi ra quá nhiều để ông lo việc vận động nhân sự. Lần này nhất định phải hao tốn gấp bội những lần trước. Nhưng lẽ đời “tiếc tiền mua cá không tươi”, không chịu chi ra làm sao mong nên việc? Bố Tân vừa an ủi vừa thúc đẩy Chế Mỗ:
-Thưa, lúc cần hao tốn thì phải hao tốn. Đây là lúc Điện hạ cần chi tiêu nhất. Việc nên hay hư có thể được quyết định trong lần này đấy!
Nghe Bố Tân nói thế, Chế Mỗ phải quyết định sai Lan Đồ Thu đi sứ Đại Việt. Nhưng khi Lan Đồ Thu đến Thăng Long thì sứ giả của Trà Hòa Bố Để là A Thích đã có mặt ở đó rồi. Lan Đồ Thu sợ đụng đầu với A Thích, buộc lòng phải tạm trú ở ngoại ô Thăng Long để đợi, chưa dám vào thành chầu thiên tử. May lúc đó A Thích cũng đã xong việc, sắp về nước nên Lan Đồ Thu khỏi mất công lẩn tránh lâu.
Số là cuối năm ấy sứ đoàn Chiêm do A Thích dẫn đầu sang triều cống Đại Việt. Vì biết lúc này Đại Việt đang suy yếu, không muốn gây hấn với ai, nên Trà Hòa Bố Để chỉ cống lấy lệ, lễ vật rất đơn bạc. Các quan nhà Trần thấy thế đều giận, họ nói:
-Chiêm Thành lúc này lên mặt quá đáng! Mấy năm đã bỏ cống, bây giờ bất đắc dĩ phải cống lại thì chỉ cống qua loa chiếu lệ, quả là nó muốn thách thức triều đình ta!
Lúc bấy giờ Thượng hoàng vẫn là người quyết định mọi việc trong nước. Trước khi quyết định các vấn đề, Thượng hoàng vẫn hay hỏi ý Cung Tĩnh vương Nguyên Trác. Có nhiều việc ngài còn giao hẳn cho Nguyên Trác quyết định luôn. Nay nghe các quan bàn tán như vậy, Nguyên Trác nói với Thượng hoàng:
-Mặc nó, mình cứ lún cho nó kiêu rồi sẽ có cách trị nó.
Thượng hoàng nghe lời, cho nhận lễ vật và tiếp đãi sứ đoàn A Thích tử tế. Sau đó lại hậu thưởng để ủy lạo sứ giả rồi cho về. A Thích vừa rời khỏi Thăng Long thì Lan Đồ Thu xin vào yết kiến vua Minh Tôn. Nguyên Trác cười hớn hở tâu:
-Phụ hoàng thấy chưa? Đây chính là lúc ta trừng phạt Trà Hòa Bố Để đấy!
Thượng hoàng hiểu ý Nguyên Trác, ngài nói:
-Con nói có lý lắm. Việc đó trẫm giao cho con giải quyết.
Nguyên Trác cho tiếp đãi sứ đoàn Lan Đồ Thu rất chu đáo. Ông lại còn mở tiệc riêng đãi Lan Đồ Thu. Trong bữa tiệc này, Nguyên Trác đã dò hỏi rất kỹ về tình hình nước Chiêm. Lan Đồ Thu cũng trình bày nỗi uất hận của hoàng tử Chế Mỗ và những người còn trung thành với Tiên vương Chế A Nan đối với sự tiếm đoạt ngôi vua của Trà Hòa Bố Để. Lan Đồ Thu kết luận:
-Hiện nay dân Chiêm đang trông đợi thượng quốc cho quân sang giết Bố Để để trả lại ngôi vua cho hoàng tử Chế Mỗ. Nếu thượng quốc vì nghĩa lớn mà làm việc đó, dân Chiêm chúng tôi sẽ chẳng bao giờ dám quên ơn.
Cung Tĩnh vương Nguyên Trác nói:
-Cổ nhân có câu “mình giúp mình trước trời sẽ giúp mình sau”. Sứ giả của Bố Để vừa sang triều cống, nếu Đại Việt tiến quân đánh Bố Để liền thì hóa ra Đại Việt lật lọng quá, làm sao giữ trọn được chữ tín với thiên hạ? Ông nên khuyên hoàng tử vận động dân chúng nổi lên chống Bố Để trước đi. Khi đó Đại Việt sẽ có cớ để đưa quân vào đất Chiêm hòa giải cho hai bên. Trong dịp này, Đại Việt sẽ tùy cơ ứng biến tìm cách trả lại ngôi vua cho hoàng tử. Ông thấy hợp lý không?
Lan Đồ Thu thưa:
-Thượng quốc đã dạy bảo như thế, tôi sẽ trình lại với hoàng tử để người quyết định!
Cung Tĩnh vương tiếp lời:
-Ông cứ yên chí. Hễ ở Chiêm Thành có biến động thì quân Đại Việt sẵn sàng làm hậu thuẫn bảo vệ hoàng tử ngay.
Vì quá nóng lòng đoạt lại ngôi vua nên khi nghe Lan Đồ Thu thuật lại lời Cung Tĩnh vương Nguyên Trác, Chế Mỗ mừng rỡ lập tức ra lệnh khởi nghĩa bất chấp sự can gián của Bố Tân. Nhưng Trà Hòa Bố Để đề phòng cẩn thận quá nên phe Chế Mỗ nổi lên chỗ nào bị dập tắt ngay chỗ đó. Chế Mỗ cùng Bố Tân, Lan Đồ Thu phải bỏ cung điện kéo tàn quân chạy ra biên giới Đại Việt. Nhà Trần được tin liền cử Bảo Uy vương Trần Hiến xuất quân tiếp cứu Chế Mỗ. Biết tin Đại Việt đã ra quân, Trà Hòa Bố Để liền ra lệnh ngừng truy sát phe Chế Mỗ. Ông không muốn Đại Việt lấy cớ này để can thiệp vào đất Chiêm. Chế Mỗ nhân cơ hội đó, chấn chỉnh lại hàng ngũ, chiếm giữ một vùng đất giáp biên giới Đại Việt để làm căn cứ. Quân Đại Việt thấy Trà Hòa Bố Để không tiến nữa cũng án binh bất động. Khi tình hình đã tạm lắng dịu, quân Đại Việt rút lui dần. Chế Mỗ thấy mình sức yếu mà việc cầu viện Đại Việt lại không ra gì, bèn xin hòa với Trà Hòa Bố Để. Bố Để nể tình nhạc gia và vợ nên cũng chấp thuận.
Tuy đã được Bố Để cho ở yên, nhưng mối hận mất ngôi trong lòng Chế Mỗ chẳng bao gìờ nguôi được. Ông vẫn luôn cho người đi lại với trấn thủ Hóa Châu là Hưng Hiếu vương, đút lót vàng bạc để gây cảm tình, mong một ngày nào đó Hưng Hiếu vương sẽ khuyên vua Trần cử binh đánh Bố Để. Những việc làm thầm lén này đã không qua mắt được Bố Để. Thấy dung dưỡng Chế Mỗ mãi sẽ có ngày mang họa nên đầu năm Nhâm Thìn, Bố Để bất ngờ đem quân tấn công vào sào huyệt của Chế Mỗ. Lần này cả Lan Đồ Thu lẫn Bố Tân đều tử trận. Chế Mỗ cùng một nhóm thuộc hạ chạy thoát được, mang theo một con voi trắng, một con ngựa trắng và một số phẩm vật khác sang Hóa Châu xin cứu viện.
Hưng Hiếu vương bèn cho người đưa Chế Mỗ về Thăng Long trình bày sự tình với Thượng hoàng. Trong dịp này Chế Mỗ than phiền việc Cung Tĩnh vương Nguyên Trác đã hứa sẽ giúp ông lấy lại ngôi vua nhưng rồi không thực hiện. Thượng hoàng bèn cho một người hầu thân tín là Tước Tê năng lui tới với Chế Mỗ để an ủi ông ta. Một hôm Chế Mỗ kể với Tước Tê một chuyện cổ tích như sau:
“Ngày xưa có một ông vua nuôi một con khỉ lớn, rất yêu quí nó, muốn cho nó biết nói. Ông ta cho rao nếu người nào nuôi dạy con khỉ nói được sẽ thưởng một vạn lạng vàng. Có một người hứa sẽ dạy được. Vua mừng lắm, sai hắn nuôi con khỉ. Người ấy nói hàng tháng dùng thuốc phí tổn đến trăm lạng vàng, sau ba năm mới có kết quả. Vua nghe theo. Ý hắn nghĩ rằng vua, hắn và con khỉ trong ba năm sẽ có một kẻ chết, cứ lấy vàng của vua đã mà chẳng cần phải có kết quả. Chế Mỗ tôi tin tưởng lời hứa của triều đình mà theo về với chúa thượng. Thế mà trải bao năm tháng vẫn chưa nghe ngày được trở về nước. Sự thể của tôi cũng giống chuyện đó”.
Khi nghe Tước Tê thuật lại lời Chế Mỗ, Thượng hoàng thương tình bèn xuống chiếu chuẩn bị binh lương để đánh Chiêm Thành.
Năm Quí Tỵ*, đại quân của Đại Việt hộ tống Chế Mỗ theo đường bộ tiến vào đất Chiêm. Quân Chiêm giữ biên giới không dám chống cự, tránh lui hết. Tuy thế, quân Đại Việt tiến đến Cổ Lũy thì phải ngưng lại để đợi lương thực. Trong khi đó, đội thuyền chở lương đi đường thủy vừa gặp sóng bão dữ quá vừa bị thủy quân Chiêm Thành ra sức ngăn chận, quấy rối, không sao tiến lên nổi. Đại quân đi theo đường bộ đợi mãi không thấy đội thuyền chở lương thực đến, đành phải rút quân về. Chế Mỗ thấy việc không thành, quá thất vọng, buồn rầu mà sinh bệnh. Chẳng bao lâu sau thì Chế Mỗ mất.
Được tin Chế Mỗ mất, Trà Hòa Bố Để thở phào nhẹ nhõm nói với các quan:
-Thế là từ nay ta khỏi lo gì về mặt biên giới phía bắc nữa!
Các quan ngạc nhiên hỏi lại:
-Bệ hạ dựa vào đâu để tin chắc như vậy?
Trà Hòa Bố Để cười:
-Có chứ! Quân do thám đã cho ta biết rõ điều ấy. Thượng hoàng Đại Việt nay đã quá già, Trần Hạo (Dụ Tôn) thì còn trẻ con, nhân tài thì thưa thớt. Trong tình trạng đó Đại Việt giữ mình còn khó khăn, sức đâu để đe dọa nước khác?
La Khâm hào hứng thưa:
-Gặp cơ hội tốt này Chiêm Thành ta nên chuẩn bị đánh Đại Việt để lấy lại phần lãnh thổ đã mất là vừa! Nếu chậm trễ, lỡ Đại Việt có vua giỏi lên cầm quyền ta hối hận cũng không kịp!
Trà Hòa Bố Để khen:
-Ông nói rất phải. Thật tình ta cũng đã nghĩ đến điều đó. Song lo tính việc lớn quốc gia không thể cẩu thả. Trước đây ta từng muốn đánh Đại Việt nhưng lão quan Chế Hồng Phúc đã cản trở vì lý do chưa phải thời cơ. Trần Mạnh tuy đã già yếu nhưng uy đức vẫn còn vang vọng trong lòng thần dân của ông ta. Lòng dân Đại Việt chưa ly tán, ta chưa chắc làm gì nổi. Nhưng khỏi phải lo, ta nghĩ ông ấy chẳng còn sống bao lâu nữa đâu! Giờ chúng ta cứ việc huấn luyện binh sĩ thật tinh nhuệ, tích trữ lương thực thật dồi dào để chờ sẵn. Còn Trần Hạo chỉ là một đứa con nít ham chơi, khi y lên cầm quyền ta sẽ ra tay cũng chưa muộn.
Các quan đều nói:
-Bệ hạ liệu tính như thần! Lo gì việc lớn không thành!
Mùa xuân năm Đinh Dậu* Thượng hoàng Đại Việt lâm bệnh mà qua đời. Vua Dụ Tôn lúc bấy giờ đã hăm hai tuổi nhưng quá ham chơi, chẳng biết chăm lo chính sự nên kỷ cương triều đình trở nên hết sức lơi lỏng. Các nịnh thần bắt đầu tác oai tác quái, các vị trung thần chán nản rút lui dần. Một nhà đại nho nổi tiếng trung trực, đức độ là Chu An (Văn Trinh) dâng sớ xin chém đầu bảy nịnh thần nhưng vua Dụ Tôn không nghe. Chu An lấy làm buồn bèn xin cáo quan về ở ẩn. Trà Hòa Bố Để nghe được tin này mừng lắm. Ông nói với các quan:
-Thời cơ đã đến! Đây chính là lúc nước Chiêm ta thu hồi những phần lãnh thổ đã mất!
Trong mấy năm qua quân đội đã được huấn luyện thuần thục, lương thực đã được chuẩn bị đầy đủ, Chiêm Thành thừa sức để mở một cuộc Bắc chinh. Điều làm nhà vua phấn khởi nhất là hoàng tử Đạt Vân tuy còn trẻ đã trở thành một viên dũng tướng khó ai địch nổi.
Trước khi ra quân, vua Trà Hòa Bố Để cho tổ chức một cuộc duyệt binh lớn ở gần cửa Thị Nại. Trong dịp này dân Chiêm đã tận mắt chứng kiến sức mạnh của họ qua một cảnh tượng hết sức hùng tráng: Vua Bố Để và hoàng tử Đạt Vân trông lẫm liệt như hai vị thiên thần, ngự trên lưng hai thớt voi to lớn nổi bật giữa hàng trăm viên dũng tướng. Quân sĩ thì lớp lớp đông như kiến, cơ nào đội nấy, gươm đao sáng lòa. Hàng trăm con voi trận nhịp nhàng tiến thối theo hiệu lệnh, dũng mãnh, hùng hổ tưởng như phút chốc dẫm nát cả rừng già. Về mặt thủy, hàng ngàn chiến thuyền lớn nhỏ đội ngũ lớp lang, cờ xí nườm nượp rỡ ràng như uy hiếp cả sóng biển. Trước khí thế ấy, toàn dân Chiêm đều vui mừng tin tưởng chỉ một thời gian ngắn nước Chiêm sẽ rửa sạch mối thù hận cũ…
Nhưng người tính không bằng trời tính, ý chí quật cường của vua tôi nước Chiêm đã không được lòng trời tán trợ. Một trận dịch hạch đã bất ngờ đổ ập xuống nước Chiêm. Trọng tâm của trận dịch hạch lại chính là thành Đồ Bàn! Nhiều tướng lãnh và hàng ngàn quân sĩ đang chuẩn bị lên đường tòng chinh bỗng lần lượt ngã bệnh. Chính vua Bố Để, hoàng tử Đạt Vân, lão tham mưu Chế Hồng Phúc đều bị thần dịch hạch mó tay tới. Sau một thời gian vật lộn với cơn bệnh, vua Bố Để may mắn qua khỏi được. Nhưng hoàng tử Đạt Vân và lão quan tham mưu Chế Hồng Phúc đã phải lìa đời cùng với ngót một phần ba cư dân của kinh đô. Sự thiệt hại to lớn của lực lượng quân sự do chính ông đã dày công gây dựng và nhất là cái chết của hoàng tử Đạt Vân, đứa con thân yêu và là nguồn hi vọng tương lai của ông đã làm ông vô cùng đau đớn. Từ đó vua Bố Để không thể nào phục hồi tinh thần để chăm lo việc nước như trước.Sau khi trận dịch hạch quái ác đã vô tình bẻ gẫy ý đồ Bắc tiến của vua Trà Hòa Bố Để, vị vua đầy ý chí và năng nỗ này đã trải qua một thời gian đau khổ cùng cực. Mọi việc triều chính ông đều phó mặc cho các quan giải quyết. Một hôm ông nói với triều đình với vẻ thống thiết:
-Người xưa nói “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên” quả không sai! Ta đã khổ công nhiều năm nay mới chuẩn bị được một đạo quân hùng mạnh, quân khí đầy đủ, lương thực dồi dào như vừa rồi. Không bao lâu nữa ta sẽ xua đạo quân hùng mạnh đó nghiến nát nước Đại Việt đang hồi suy yếu để rửa hận! Ngờ đâu cái trận dịch hạch quái ác kia đã hại ta, đã cứu chúng nó! Nay quân đội ta bị sứt mẻ quá lớn biết bao giờ phục hồi được? Đau khổ nhất là trời lại cướp mất đứa con yêu quí của ta, một vị thiếu niên anh hùng mà ta rất kỳ vọng! Trước đây ta vẫn tin nếu ta chưa hoàn thành được ý nguyện chắc chắn Đạt Vân sẽ đủ sức thực hiện tiếp công nghiệp đó! Nhưng bây giờ thì hết cả rồi! Ta lại còn thành kẻ tuyệt tự nữa chứ! Phải chăng ta có lỗi với trời nên trời phạt? Sao trời nỡ ác với ta như thế? Ý nguyện tiêu diệt nước Đại Việt để trả thù cho các đấng tiên nhân ta đã tan nát thật rồi ư? Ta già rồi, ta kiệt sức rồi, làm sao thực hiện ý nguyện nữa? Chư khanh ai đủ tài năng thực hiện tiếp ý nguyện của ta không? Ta xin phát nguyện, nếu có ai làm được việc đó, ta sẽ nhường ngôi cho kẻ ấy!
Cả triều đình đều cảm thông nỗi bức xúc của vua nhưng chưa ai có ý kiến gì. Vua Bố Để càng lộ vẻ âu sầu hơn. Mấy hôm sau vua lại hỏi:
-Không lẽ cả nước Chiêm đã hết anh hùng? Không lẽ nước Chiêm không còn ai muốn đánh Đại Việt để trả thù? Các khanh gắng tìm nhân tài, ta sẽ thưởng công xứng đáng. Anh hùng có thể ẩn trên rừng, nương thân dưới biển. Thậm chí, anh hùng có thể đang làm cường khấu hoặc đang ở trong ngục tối. Dù là kẻ đã phạm tội mà có chí khí, có tài năng, có thể giúp nước, ta cũng sẵn sàng xá tội để trọng dụng. Mong các khanh hiểu tấm lòng tha thiết của ta mà gắng tìm người giúp nước! Nếu không, nước Chiêm ta sẽ có ngày bị Đại Việt thôn tính!
Tể tướng La Khâm tâu:
-Xin bệ hạ bớt sầu não để tiếp tục lo việc nước. Tấm lòng tha thiết của bệ hạ đối với đất nước như vậy trời cũng cảm động chứ đừng nói là người! Xưa nay những anh hùng hào kiệt vẫn nhạy cảm hơn người. Họ nể trọng người có đức, yêu chuyện nhân nghĩa, lại dám chết vì tri kỷ. Hay bệ hạ thử xuống chiếu đại xá tội phạm một phen? Thấy bệ hạ mở rộng lòng như vậy ắt những anh tài còn ẩn trú đâu đó sẽ không còn lo ngại, họ sẽ lộ diện để giúp nước? Nhất là những kẻ bất đắc dĩ đã phạm lỗi lầm, nay có cơ hội này chắc hẳn sẽ vui lòng nghe theo để lập công chuộc tội, để phụng sự tổ quốc. Bệ hạ còn giữ được lòng tin yêu của thiên hạ thì lo gì việc lớn không thành?
Vua Trà Hòa Bố Để lắc đầu:
-Khanh thương ta mà nói vậy chứ thật ra ta tự biết sức ta lắm. Công sức và ý chí của ta nuôi dưỡng bao nhiêu năm đã bị trời hủy hoại, ta đuối sức rồi. Không trả thù Đại Việt được ta cũng hết lẽ sống. Ngay cả cái ngai vàng ta đang ngồi ta cũng chẳng còn tha thiết nữa. Khanh là kẻ có tài, nếu khanh liệu còn đủ trí lực có thể làm cho nước Chiêm mạnh lên để đánh bại Đại Việt, ta sẵn sàng trao ngai vàng này lại cho khanh. Khanh nghĩ thế nào?
La Khâm giật mình quì xuống nói:
-Tâu bệ hạ, chuyện đó không bao giờ có được! Tài đức và ý chí của bệ hạ ở đây không ai sánh nổi đâu! Thần chỉ là một kẻ hèn may nương nhờ uy đức của bệ hạ mới lập được vài chút công nhỏ thôi. Với lại, chính thần cũng già rồi đâu có thể nói chuyện cao xa được!
Vua Bố Để thấy thái độ hoảng hốt của La Khâm liền giải thích:
-Ta nói thành thật đó, khanh chớ áy náy! Thật lòng ta chẳng còn tham luyến cái ngai vàng này đâu! Khi Tiên vương qua đời, ta bất đắc dĩ phải cướp quyền của Chế Mỗ chẳng qua chỉ vì thấy Chế Mỗ quá bất tài không thể đối đầu với Đại Việt được! Nếu Chế Mỗ khá hơn một chút ta đâu có loại trừ y! Chính vì ta sợ nước Chiêm sẽ bị Đại Việt gặm nhấm dần nên phải tòng quyền vậy thôi! Đau thay! Cái lúc Đại Việt đang suy yếu thế này mà nước Chiêm ta chỉ biết ngồi trơ mắt mà ngó! Cái thế hai nước Việt Chiêm không thể lưỡng lập lâu dài được! Nước Chiêm không tiêu diệt được Đại Việt ắt sẽ chờ ngày bị Đại Việt tiêu diệt thôi! Vì thế, ta nguyện sẽ nhường ngôi cho bất cứ ai có thể làm cho nước Chiêm trở thành hùng mạnh lúc này!
Sự quan tâm lo lắng cho tiền đồ đất nước của vua Bố Để đã làm các quan văn võ đều xúc động. Lão tướng Lạc Thích tâu:
-Bệ hạ đã giãi bày cạn lẽ như thế, thần lẽ nào còn dám nghi ngại mà phụ tấm lòng của bệ hạ. Thần vốn biết Tiên vương có người em út tên Bà Bỉ Na Tác Nhĩ là một cậu bé thần đồng. Khi bệ hạ truất quyền Chế Mỗ thì Du Đà vì quí trọng hoàng tử Na Tác Nhĩ, sợ hoàng tử bị hại nên đã đem hoàng tử ẩn trốn nơi nào đó. Nay nếu bệ hạ xuống chiếu đại xá và triệu dụng hai người ấy chắc họ sẽ trở về. Du Đà là kẻ mưu trí, hoàng tử Na Tác Nhĩ cũng có tiếng thần đồng, chắc hẳn hai người ấy sẽ giúp ích bệ hạ được. Ngày xưa Trùng Nhĩ nước Tấn nhờ tha thứ và trọng dụng Đấu Tu* mà thiên hạ yên, nay sao bệ hạ không thử triệu dụng Du Đà?
Vua Bố Để lộ vẻ mừng:
-Ta nhớ ra vụ ấy rồi. Hoàng tử Na Tác Nhĩ là thúc phụ của vợ ta cũng như là thúc phụ của ta. Lúc này thúc phụ cũng khoảng hai mươi tuổi rồi. Khi Du Đà đưa thúc phụ Na Tác Nhĩ trốn khỏi kinh thành ta cũng có bực mình đôi chút. Nhưng vì ta chẳng có lòng hại đến người thân của Tiên vương nên cũng làm ngơ luôn. Phải tìm mời họ về giúp triều đình mới được. Khanh có biết bây giờ thúc phụ Na Tác Nhĩ và Du Đà đang ở đâu không?
Lạc Thích tâu:
-Thần thật sự không biết Du Đà đang ở đâu. Nhưng thần nghĩ trong triều thế nào cũng có người biết. Tuy vậy, nếu chỉ để các quan nói lại, hai người ấy chưa chắc đã tin. Tốt hơn hết là bệ hạ nên giáng chiếu công khai triệu dụng họ để quốc dân cùng biết thì nhất định họ sẽ yên lòng mà trở về.
Vua Bố Để nói:
-Ý kiến của khanh hay lắm. Ta sẽ triệu dụng hai người ấy!
Trong thời gian vụ tranh chấp ngai vàng giữa vua Bố Để và hoàng tử Chế Mỗ xảy ra tại Đồ Bàn, bộ tộc Churu, một bộ tộc tự trị đã ở trong hệ thống ảnh hưởng của vương quốc Chiêm Thành lâu đời dường như chẳng quan tâm gì tới biến cố đó cả. Họ chỉ lặng lẽ làm nghĩa vụ của một chư hầu đối với triều đình chứ không tham gia bênh ai chống ai. Nhờ thế nên trong khi nhiều bộ tộc khác bị ảnh hưởng bởi cảnh loạn lạc thì ở lãnh địa thuộc bộ tộc Churu người dân vẫn được sống yên bình.
Lúc bấy giờ tại một thôn nọ, nơi người dân phần đông sống với nghề làm rẫy, một hôm bỗng có một người đàn ông xa lạ dắt một đứa trẻ đến xin kiếm việc làm ăn. Người đàn ông khoảng bốn mươi, người tầm thước, trông khoẻ mạnh và hoạt bát lắm. Ông ta xưng tên là Lộ Đà, cậu bé theo ông gọi ông bằng chú chừng bảy tám tuổi, tên là Mạn Thuyết, trông cũng khôi ngô sáng sủa. Ban đầu Lộ Đà chỉ xin dựng một cái chòi nhỏ để hai chú cháu tạm trú. Hàng ngày ông làm thuê làm mướn để nuôi hai miệng ăn. Chỉ qua một thời gian ngắn, cậu bé Mạn Thuyết đã quen biết gần hết bọn trẻ trong vùng. Cậu bắt đầu theo lũ trẻ bắt cá bẫy chim hay làm các việc vặt để giúp đỡ ông chú. Nhờ bản chất thông minh, lanh lẹ, lại hào hiệp hay giúp người nên bọn trẻ đều yêu mến cậu. Cha mẹ chúng cũng rất vui khi chúng chơi với người bạn mới này. Khi đã yên tâm có thể để Mạn Thuyết ở nhà chơi với lũ trẻ, Lộ Đà bắt đầu theo chân những người thợ săn vào rừng săn bắn. Chẳng bao lâu sau ông đã nổi tiếng là tay thiện xạ. Ông cũng là người có nhiều kiến thức trong việc tổ chức các cuộc săn bắn tập thể. Lần săn nào cũng mang lại kết quả tốt. Các tay thợ săn trong vùng thấy vậy rất nể phục ông. Dần dần họ coi ông như người đầu đàn. Nhờ có Lộ Đà, tầm hoạt động của những thợ săn này càng nới rộng.
Mạn Thuyết mỗi ngày mỗi lớn khác thường. Trên mười tuổi cậu đã bắt đầu theo ông chú tập sự đi săn. Khoảng mười ba mười bốn tuổi cậu đã trổ mã thành một thanh niên cường tráng. Dần dần tài săn bắn của Mạn Thuyết đã vượt cả ông chú khiến thiên hạ đều khiếp phục cậu. Những phát tên của cậu buông ra vừa mạnh vừa rất chính xác. Con thú nào không may gặp phải cậu coi như hết số. Một tay thiếu niên giang hồ tứ chiếng tên là La Ngai nghe tiếng đồn đã tìm đến xin thi bắn với cậu. Kết quả Mạn Thuyết đã thắng La Ngai. La Ngai phục tài, xin kết nghĩa anh em với Mạn Thuyết. Lộ Đà thấy La Ngai cũng là một nhân tài hiếm hoi đã khuyên Mạn Thuyết kết nghĩa với y. Ông lại còn mời La Ngai ở lại với chú cháu ông nữa. Ít lâu sau, Lộ Đà rời bỏ nơi ở cũ, đến dựng một ngôi nhà sàn ở ven rừng để sống thoải mái hơn. Cả ba thành viên trong nhà đều là tay thiện xạ nên chẳng ai ngạc nhiên hay ái ngại cho họ khi họ dựng nhà ở sát khu rừng có nhiều thú dữ này. Ngôi nhà sàn này đã trở thành nơi tạm nghỉ cho đám thợ săn và cũng là chỗ trú chân an toàn cho những khách tha phương lỡ đường.
Từ ngày đến chỗ ở mới, Lộ Đà ít đi săn hơn. Ông hay phó mặc việc nhà cho Mạn Thuyết và La Ngai để có thì giờ chu du đây đó. Lộ Đà nói là đi chơi, nhưng chẳng bao giờ cho ai cùng đi, cũng chẳng cho ai biết lộ trình. Thường thường ông đi từng chuyến khoảng một tháng, lâu hơn là hai tháng. Trong thời gian ấy, Mạn Thuyết và La Ngai vẫn tìm niềm vui trong những cuộc săn bắn với các đồng nghiệp.
Lần đó Lộ Đà đi đâu đến hơn ba tháng vẫn chưa thấy về khiến Mạn Thuyết và La Ngai hết sức lo lắng. Hằng ngày những thợ săn khác cũng không ngớt hỏi han làm hai chàng càng thêm nóng ruột. Ai cũng lo sợ một chuyện bất trắc nào đó đã đến với người đầu đàn của họ. Họ thúc giục anh em Mạn Thuyết phải dò tìm ông Lộ Đà đang ở đâu và đang gặp phải chuyện gì? Khổ nỗi từ trước tới giờ Lộ Đà vẫn đi đi về về một mình, nào ai biết ông đi đâu, dễ gì tìm được?
May sao, anh em Mạn Thuyết bàn tính phương cách tìm kiếm chưa xong thì Lộ Đà lù lù hiện về! Đám thợ săn mừng rỡ kéo nhau đến vấn an. Ông vui vẻ báo cho họ biết một tin nóng hổi:
-Thầy trò tôi sắp về Đồ Bàn!
Ai nấy ngạc nhiên hỏi lý do, ông cười:
-Thủng thẳng sẽ biết!
Ba ngày sau Lộ Đà cho tổ chức một bữa tiệc rượu tại tư gia. Khách được mời dự gồm các vị chức sắc, các vị trưởng lão quanh vùng và đám thợ săn quen biết. Sau lời chào mừng quan khách, Lộ Đà bắt đầu đi vào vấn đề:
-Thưa quý vị, hôm nay chúng tôi trân trọng mời quý vị đến cùng chúng tôi uống chén rượu thân mật này, thật ra cũng có một số mục đích. Trước hết là để cảm tạ tấm lòng của quý vị – những người tiêu biểu cho dân tộc Churu – đã bao dung che chở chúng tôi trong hơn mười năm qua. Kế đến là để trình bày với quý vị một sự thật mà chúng tôi bất đắc dĩ đã phải giấu kín bao lâu nay như sau: Chúng tôi vốn gốc người Đồ Bàn, khi đương kim quốc vương lên ngôi, chúng tôi thuộc phe đối nghịch với ngài nên sợ ngài không dung thứ, buộc lòng chúng tôi phải tìm nơi trú ẩn. Đó là việc chúng tôi phải tự biết, vì xưa nay, bất cứ ai khi đã bị vua nghi ngờ thì chắc chắn khó mà sống yên. Chúng tôi đã phải cải trang, lẫn lút qua nhiều nơi mà vẫn chưa tìm được chỗ thích hợp để nương thân. Khi đến địa bàn sinh hoạt của dân tộc Churu, chúng tôi mới cảm thấy đã gặp được đất lành. Và chúng tôi đã sống gắn bó với dân tộc Churu nhiều năm qua như quý vị đã thấy! Nhưng nếu chỉ có vậy cũng chỉ là một việc nhỏ, chúng tôi đâu cần trình bày với quý vị làm gì? Đây là một tiết lộ rất quan trọng mà khi nghe được, chắc hẳn sẽ làm tất cả quý vị sẽ kinh ngạc cùng độ: Người thợ săn trẻ tuổi ưu tú nhất của chúng ta – Mạn Thuyết – chính là hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ, em cùng cha khác mẹ của đấng Tiên vương Chế A Nan!
Toàn thể thực khách nghe qua đều sững sờ! Thật quá bất ngờ! Ai nấy đều hướng mắt về Mạn Thuyết. Phần đông, nhất là trong số thợ săn, vẻ hưng phấn, tươi vui lộ hẳn trên nét mặt họ. Ngược lại, số còn lại lộ vẻ hoang mang, lúng túng, thậm chí có phần hốt hoảng, lo ngại…
Có lẽ hiểu được tâm trạng của mọi người. Lộ Đà nói tiếp:
-Xin quý vị cứ yên lòng! Chúng tôi tiết lộ sự việc này không phải để lôi kéo, để áp lực hay để đùn đẩy quý vị vướng vào chuyện quốc sự phiền toái đâu! Xin báo với quý vị, quốc vương đã hạ chiếu cho tất cả con dân nước Chiêm, dù trước đây đã phạm bất cứ tội gì nay đều được phép ra giúp nước để lập công chuộc tội. Chính quốc vương cũng kêu gọi đích danh hoàng tử Na Tác Nhĩ và chính tôi – Du Đà chứ không phải Lộ Đà chỉ là cái tên mượn tạm – về triều sẽ được tha thứ lỗi cũ và trọng dụng. Vì vấn đề an ninh bản thân của chính mình, chúng tôi đã phải dò xét thật kỹ tính chân xác của bức chiếu chỉ. Chuyến này tôi đã đi xa nhà hơi lâu là vì thế. Nay chúng tôi đã biết được Chiêm vương hạ chiếu chỉ ấy với tất cả tấm lòng tha thiết của ngài. Ngài đã vì đại cuộc quốc gia mà khoan hồng với con dân như thế, chúng tôi đâu có thể khư khư ôm lòng nghi kỵ, tị hiềm đối với ngài? Bởi thế, chúng tôi đã quyết định trở về Đồ Bàn để giúp triều đình. Một lần nữa, chúng tôi xin cám ơn dân tộc Churu đã đùm bọc chúng tôi trong thời gian vừa qua. Chúng tôi sẽ không quên những ngày vui sống bên những người bạn Churu rất chân chất nhưng cũng rất quả cảm. Hôm nay chúng tôi xin tạm mượn chén rượu này để giã từ quý vị. Hi vọng sau này, nếu chúng tôi được quốc vương ủy thác một trọng trách nào đó, chính quý vị và con em của quý vị sẽ sẵn sàng tiếp tay với chúng tôi. Chúng ta sẽ cùng nhau chung sức xây dựng một nước Chiêm hùng mạnh không còn bị cường bang lấn áp nữa! Chúc quý vị được trọn vui hôm nay và hứa hẹn một ngày tái ngộ rất gần!
Lộ Đà vừa dứt lời thì tiếng vỗ tay của thực khách vang lên. Vẻ lo âu, sợ hãi trên một số gương mặt lúc này đã bay biến sạch. Nhiều người cao hứng hô lớn:
-Hoan hô hoàng tử Na Tác Nhĩ! Hoan hô hoàng tử Na Tác Nhĩ!
La Ngai cũng ngẩn ngơ giây lát rồi xốc tới ôm choàng lấy Mạn Thuyết tức Na Tác Nhĩ mà nói:
-Lâu nay tôi ở cạnh một bậc đại quí mà nào có biết gì! Từ nay xin nguyện làm tay chân của hoàng tử mãi mãi!
Na Tác Nhĩ cũng vui vẻ nắm tay La Ngai nói:
-Ta cũng sung sướng có được một người bạn như La Ngai! Chúng ta sẽ ở bên cạnh nhau, vui buồn có nhau, giúp đỡ nhau suốt đời!
Tiếp đó Du Đà, Na Tác Nhĩ lẫn La Ngai lần lượt đi mời rượu và nói chuyện với từng người. Buổi tiệc đã kéo dài từ buổi trưa tới mặt trời gần lặn mới tàn. Khách chủ đều trọn vui. Một số khách, cũng phần đông là đám thợ săn đã ngủ lại để sáng hôm sau đưa tiễn ba thầy trò Du Đà lên đường.
Sau khi hạ chiếu đại xá tội phạm toàn quốc và kêu gọi nhân tài ra giúp nước, vua Trà Hòa Bố Để gắng gượng làm việc trở lại. Nhưng chiếu chỉ phổ biến cả tháng mà vẫn chưa thấy ai ứng mộ, vua Bố Để lộ vẻ nôn nóng, than với quần thần:
-Cứ như tình trạng này thì bao giờ nước Chiêm mới mạnh lên được?
Tể tướng La Khâm tâu:
-Những người tài trí thường chẳng khinh xuất trước những việc lớn. Chắc hẳn họ phải thăm dò kỹ trước khi ứng mộ! Xin bệ hạ cứ kiên nhẫn chờ đợi!
Vua Bố Để trầm giọng:
-Đời người như bóng ngựa tơ qua cửa sổ. Nói thật với các khanh, đã nhiều đêm ta ngủ không được. Ta cứ sợ tìm chưa được người xứng đáng để ký thác hoài bão ta đã xuôi tay rồi!
Lời than thở của vị quốc vương như len sâu vào lòng đám quần thần. Hình như nó đã báo hiệu một điềm chẳng lành. Họ chỉ biết nhìn nhau ái ngại.
Một tháng nữa lại trôi qua, chỉ có mấy người ra ứng mộ nhưng đều là hạng tầm thường, vua Bố Để càng thất vọng. Thế rồi ngài phát bệnh, mấy ngày liền không thể lâm triều được.
Một hôm Tể tướng La Khâm vào thăm vua tại giường bệnh. Ngài chỉ nằm để nghe tâu bày chứ không ngồi dậy được. La Khâm lần lượt thưa lại những việc ông đã giải quyết. Nhà vua nằm nghe đến đâu gật gật đến đấy, tỏ dấu hài lòng…
-Tâu bệ hạ, còn tin này nữa, chắc bệ hạ nghe được sẽ vui lòng lắm… Viên Phụ giáo Du Đà đã cho người báo tin ông ta cùng hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ sắp về Đồ Bàn!
Vua Bố Để sáng mắt lên, ngài nhướng người muốn ngồi dậy, thều thào:
-Thật không? Khi nào thì họ về tới đây?
Người hầu vội vàng chạy đến. Nhà vua ra hiệu người hầu đỡ ngài ngồi dậy. Ngài nở một nụ cười nói với quan Tể tướng:
-Khanh nói đi! Khi nào họ về tới kinh thành?
-Tâu, theo thư hẹn họ sẽ về bằng đường thủy, nội ngày mốt sẽ vào cửa biển Thị Nại.
-Khanh hãy chuẩn bị mười thớt voi ra đón họ. Ta sẽ cùng đi với khanh!
Tể tướng La Khâm hoảng hốt nói:
-Không được đâu bệ hạ! Bệ hạ đang bệnh nặng không nên đi!
-Khanh cứ chuẩn bị đi! Ta đi được mà!
-Xin bệ hạ hiểu cho. Bệ hạ đi lỡ xảy ra chuyện không hay thần sẽ mắc tội với thiên hạ!
Vua Bố Để giải thích:
-Ta lâm bệnh chẳng qua vì sợ hoàng tử Na Tác Nhĩ không chịu về. Nay được tin hoàng tử sắp về bệnh ta ắt giảm. Mà dù bệnh ta chưa kịp giảm, ta cũng cần ra đón hoàng tử để hoàng tử thấy rõ tấm lòng của ta thế nào! Khanh cứ nghe lời ta đi!
Tể tướng La Khâm như đã thấy được tim gan của quốc vương. Biết không thể nào ngăn được ý định của ngài, ông tâu:
-Bệ hạ đã quyết, thần xin tuân mệnh. Bây giờ xin bệ hạ nằm nghỉ cho khỏe người!
Hai hôm sau, mặc dầu bệnh chưa thuyên giảm và quần thần hết sức can gián, vua Bố Để cũng nhất quyết ngự ra tận cửa biển Thị Nại để đón hoàng tử Na Tác Nhĩ. Khi thầy trò Du Đà rời thuyền bước lên dịch đình thì đoàn voi vua ngự cũng vừa đến. Thấy có lọng vua trên voi, họ ngạc nhiên lắm. Khi biết vua đang bệnh mà vẫn gắng đi đón hoàng tử Na Tác Nhĩ, họ cảm động vô cùng. Thật sự sau khi nghe được tin hoàng tử Na Tác Nhĩ sẽ trở về, vua Bố Để đã lên tinh thần nên cơn bệnh cũng đã suy giảm. Cả bọn Du Đà, Na Tác Nhĩ đều rơi lệ sụp quỳ trước con voi ngự mà nói:
-Quốc vương vạn tuế! Chúng thần là những kẻ có tội, sao bệ hạ lại nhọc công ra đón rước thế này làm chúng thần càng nặng tội thêm!
Vua Bố Để cũng lộ vẻ xúc động nói:
-Quí vị hãy bình thân! Chúng ta đều có lỗi cả, đừng nhắc chuyện cũ nữa! Ta rất vui mừng được gặp lại hoàng tử và quan Phụ giáo. Từ nay chúng ta sẽ sát cánh bên nhau để cùng lo việc nước! Mong quí vị sẽ vì triều đình, vì sự tồn tại của dân tộc Chiêm Thành mà ra sức!
Thế rồi nhà vua cho mời hoàng tử Na Tác Nhĩ và quan Phụ giáo Du Đà lên voi. Khi về tới Đồ Bàn, Tể tướng La Khâm mời hoàng tử Na Tác Nhĩ cùng quan Phụ giáo Du Đà và La Ngai tạm ở điện cũ của Chế Mỗ vừa được sửa sang lại.
Hôm sau, dù không được khỏe người, vua Bố Để vẫn sai bày tiệc để thết đãi hoàng tử Na Tác Nhĩ và quan Phụ giáo Du Đà. Trong tiệc, vua Bố Để đã nói chuyện khá nhiều với hoàng tử Na Tác Nhĩ. Qua cuộc tiếp xúc này, nhà vua rất mừng thấy hoàng tử quả là một nhân vật phi thường như ngài mong đợi. Ngài nói với quần thần:
-Ta đã tìm được người có thể thực hiện ý chí của ta! Ta tin thế nào hoàng tử cũng thành công! Bây giờ dẫu nhắm mắt ta cũng vui lòng!
Từ đó, hoàng tử Na Tác Nhĩ, Du Đà, La Ngai đều được giao phó một số công việc của triều đình. Hoàng tử Na Tác Nhĩ đã tỏ ra là một người có thực tài, đầu óc ngài hết sức linh mẫn, nhạy bén, giải quyết vấn đề nào cũng hợp tình hợp lý. Các quan trong triều ai cũng nể phục. Vua Bố Để cũng như Tể tướng La Khâm đều rất hài lòng và càng tin tưởng vào hoàng tử.
Một hôm vua Bố Để hỏi Tể tướng La Khâm:
-Khanh thấy hoàng tử Na Tác Nhĩ làm việc được không?
-Thưa, thần chưa thấy hoàng tử có khuyết điểm nào!
-Liệu hoàng tử có đủ khả năng thực hiện ý nguyện của ta không?
-Theo ý thần, có thể!
-Ta cũng có nhận xét như khanh. Nay ta có một chuyện muốn hỏi ý khanh!
-Bệ hạ cứ hỏi!
-Ta có một đứa cháu gái là Mỵ Thâm, con của chị ta. Hoàng tử Na Tác Nhĩ hiện vẫn chưa có vợ, ta muốn tác hợp cho hai trẻ, có nên chăng?
-Bệ hạ tính như vậy thì tốt lắm! Hai bên tình vốn đã thân sẽ càng thân hơn!
-Ta nhờ khanh và Du Đà đứng ra làm mai mối được không?
-Nếu bệ hạ quyết ý, thần sẽ nói chuyện với Du Đà!
Thế là một tháng sau hoàng tử Na Tác Nhĩ đã kết duyên cùng nàng Mỵ Thâm.
Ít lâu sau, Tể tướng La Khâm nại cớ già yếu, xin nghỉ việc. Vua Bố Để nói:
-Thời gian này ta cứ nay đau mai ốm mãi. Vì việc quốc gia không thể buông được nên ta phải gắng sức vậy thôi. Khanh tuy già yếu nhưng đầu óc vẫn còn minh mẫn, vẫn có thể giúp ta được. Hoàng tử Na Tác Nhĩ quả là tay anh tuấn nhưng còn non trẻ quá, ta chưa dám giao việc lớn. Khanh gắng ở lại một thời gian nữa đi!
La Khâm thưa:
-Thần vì chịu ơn tri ngộ của bệ hạ nên còn ở tới ngày nay chứ thật sự thần cũng mệt mỏi lắm rồi. Vả lại, muốn canh tân triều đình phải có người trẻ mới được! Thần nghĩ hoàng tử Na Tác Nhĩ xứng đáng giữ chức Tể tướng lắm! Người không phải chỉ có tài, có chí mà còn đắc nhân tâm nữa. Đã có ý trông cậy hoàng tử thực hiện ý nguyện, bệ hạ còn ngần ngại gì nữa mà không chuyển giao quyền hành cho hoàng tử?
Vua Bố Để thấy La Khâm đã cạn lời như vậy bèn chấp thuận. Hoàng tử Na Tác Nhĩ được vua cử tạm quyền Tể tướng. Việc thay thế này làm tinh thần các quan trong triều phấn khởi lắm! Ai cũng tin tưởng, hi vọng một vận hội tốt lành sẽ đến với nước Chiêm Thành!
Vua Trà Hòa Bố Để đã già, lại hay đau yếu nên các việc lớn nhỏ trong triều ông đều giao cho hoàng tử Na Tác Nhĩ giải quyết. Đến giữa năm Canh Tý* vua Bố Để lâm bệnh nặng mà qua đời.
Sau khi triều đình tổ chức lễ hỏa táng cho vua Bố Để xong, hội đồng hoàng tộc Chiêm Thành bèn họp lại để bầu người kế vị. Trước uy đức rực rỡ của hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ, các hoàng thân, quí tộc đương thời đều trở thành lu mờ. Thế là hội đồng hoàng tộc Chiêm Thành quyết định tôn Na Tác Nhĩ lên làm vua. Nhà vua lấy hiệu là Chế Bồng Nga, mở đầu một trang sử oai hùng, oanh liệt cho dân tộc Chiêm.
Sau
khi cướp ngôi nhà Lý, nhà Trần đã dựng nên một triều đại cực thịnh với
những vị anh quân nối tiếp nhau cầm quyền, tạo được những chiến công
chống ngoại xâm lừng lẫy và những cuộc cải cách xã hội rất tốt đẹp khiến
các lân bang đều phải kính nể. Đến đời thứ 5 tức là vua Minh Tôn, ngài
hiền lành, đức độ nhưng lại thiếu sáng suốt nên đã gây ra những lỗi lầm
đáng tiếc, di hại đến cơ nghiệp nhà Trần không ít. Xin nêu ra hai lỗi
lầm rõ rệt nhất:
Thứ nhất, ngài đã nghe lời gièm của Trần Khắc Chung mà giết oan vị đại tướng quân có tài đánh dẹp là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn – cũng là nhạc gia của ngài – khiến quân đội Đại Việt trở nên suy yếu.
Thứ hai, ngài quá câu nệ phân biệt dòng đích, dòng thứ mà ít chú ý đến mặt đức độ, tài năng của các con để cất nhắc vào địa vị quốc chủ. Ngài đã tư vị, cưng chiều hoàng tử Hạo quá đáng mà không giáo dục kỹ càng khiến sau này khi lên cầm quyền, hoàng tử Hạo đã đẩy nhà Trần tới chỗ suy vong.
Từ khi khởi nghiệp, nhà Trần đã có tục vua cha nhường ngôi cho vua con khi ông còn sống để vua con tập sự trị vì thiên hạ và cũng để tránh nạn tranh ngôi của các hoàng tử khi vua cha qua đời bất ngờ. Năm Kỷ Tị*, vua Minh Tôn đã lớn tuổi mà con dòng đích vẫn chưa sinh, ngài rất lo buồn. Theo lời khuyên của một số đại thần, ngài đã nhường ngôi cho hoàng tử Vượng con dòng thứ, tức vua Hiến Tôn, để lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó hai người con dòng đích của Thượng hoàng là Nguyên Dục và Hạo mới lần lượt ra đời. Hoàng tử Nguyên Dục tánh khí hỗn láo, ngang ngược, rất khó dạy đã làm Thượng hoàng thất vọng. Hoàng tử Hạo thì ngược lại, ngoan ngoãn, thông minh hơn nên Thượng hoàng hài lòng lắm.
Đêm trung thu năm Kỷ Mão*, hoàng tử Hạo mới lên bốn, được đưa đi chơi thuyền trên Hồ Tây. Vì ham nghịch nước, bất ngờ hoàng tử Hạo bị rơi tỏm xuống hồ chìm nghỉm. Khi thợ lặn xuống nước tìm kiếm thì bắt gặp hoàng tử ở lỗ cống đơm cá đã uống nước đầy bụng và hết thở. Có người đã làm cho nước trong bụng hoàng tử ói ra nhưng hoàng tử vẫn không tỉnh. Thượng hoàng hoảng sợ sai ngự y sư Trâu Canh tìm cách cứu chữa. Trâu Canh nói: “Dùng kim châm sẽ sống lại nhưng chỉ sợ sẽ bị liệt dương”. Khi Trâu Canh dùng kim để châm thì quả thật hoàng tử Hạo sống lại được.
Năm Tân Tị* vua Hiến Tôn qua đời. Dù Thượng hoàng có nhiều người con thứ đã trưởng thành ngài vẫn chọn hoàng tử Hạo mới sáu tuổi lên kế vị. Hoàng tử Hạo đăng quang tự xưng là Dụ hoàng, đổi niên hiệu là Thiệu Phong. (Sau này khi mất Dụ hoàng sẽ được tôn miếu hiệu là Dụ Tôn, vậy cứ xin gọi là Dụ Tôn cho tiện). Thượng hoàng vẫn một mình quyết định mọi việc, đất nước vẫn chưa có gì đổi thay đáng kể.
Dụ Tôn càng lớn lên chứng bệnh liệt dương càng lộ rõ. Cả hoàng gia đều rất lo ngại. Tuy thế, vì thể diện của hoàng gia, vào năm Mậu Tý*, Dụ Tôn lập công chúa Ý Từ là con gái thứ 4 của Bình chương Huệ Túc vương Trần Đại Niên làm hoàng hậu. Việc lập hoàng hậu này không thể nào khỏi bị dư luận đàm tiếu. Thấy tình cảnh éo le ấy, thái y sư Trâu Canh tâu với vua Dụ Tôn:
-Căn bệnh của bệ hạ tuy ngặt nghèo nhưng vẫn có cách chữa được. Thần chỉ ngại Thượng hoàng cản trở thôi!
Dụ Tôn sáng mắt lên:
-Sao? Sao? Ngươi nói bệnh ta vẫn có cách chữa ư? Tốn kém bao nhiêu ta cũng chịu hết! Sao lại sợ Thượng hoàng cản trở chứ?
-Dạ, vì cách chữa này rùng rợn lắm, lại trái luân thường đạo lý nữa!
-Miễn sao ta lành bệnh là được! Đừng cố chấp, cứ nói cách chữa đi! Bất cứ giá nào ta cũng làm cho được! Thượng hoàng không cản trở ta đâu!
-Bệ hạ đã quyết như vậy thì thần xin nói. Trước hết là phải giết cho được trên mười đứa bé trai khỏe mạnh, lấy mật hòa với dương khởi thạch (?) mà uống rồi thông dâm với chị hoặc em ruột mình sẽ chữa được bệnh. Bệ hạ liệu có làm nổi không?
Dụ hoàng giật mình:
-Chữa như vậy thì ghê quá! Phụ hoàng là người nhân đức chắc ngài không chịu đâu! Ngươi có cách nào nói thật khéo để ngài chịu nghe không? Được việc ta sẽ trọng thưởng!
-Thần cũng biết phải giết trẻ con hàng loạt như vậy thì Thượng hoàng chẳng đời nào chịu. Hay bệ hạ trình với Thượng hoàng xin giết một hai đứa thôi. Xin cho người vào ngục hỏi trong đám tử tội, người nào đem con nít chết thay cho mình được, người đó sẽ được xá tội. Có thể có nhiều gia đình cần người lớn hơn trẻ con. Như vậy là một đổi một chứ bệ hạ không xử ép ai cả, chắc Thượng hoàng chịu nghe! Giải quyết được việc đó xong sẽ tính tới việc thông dâm với chị hay em ruột!
-Sao ban đầu ngươi nói phải giết hàng chục đứa bây giờ lại nói chỉ một hai?
-Dạ, đây là chữa bệnh cho chính bản thân bệ hạ, bệ hạ phải tự quyết định! Nếu xin giết nhiều quá Thượng hoàng không chịu thì lỡ việc mất. Bệ hạ chỉ cần được Thượng hoàng cho phép giết một hai đứa đã, số còn lại bệ hạ nên cho người ngầm lo lấy không tiện sao?
-Việc ghê gớm như vậy cần phải giữ bí mật mới được. Sai người khác làm e khi lộ chuyện mất. Ngươi là người chế thuốc có thể lo luôn giúp ta được không? Ngươi cần bao nhiêu tiền ta cũng cho hết!
-Dạ, thần làm việc này không phải vì tiền đâu! Nhưng muốn cho bệ hạ được lành bệnh, thần sẽ gắng sức. Sau này đắc chí xin bệ hạ đừng quên thần!
Dụ Tôn mừng rỡ đem việc ấy trình với Thượng hoàng Minh Tôn. Thượng hoàng lập tức cho đòi Trâu Canh đến, ngài hỏi:
-Ông nói đã có phương thuốc chữa trị bệnh liệt dương cho quan-gia phải không?
-Dạ đúng!
-Ông phải biết rằng việc giết một mạng người rất quan trọng, nhất là đối với trẻ con vô tội! Ông có chắc chắn làm đúng như vậy bệnh của quan-gia sẽ lành không? Nếu quan-gia lành bệnh, ông sẽ được trọng thưởng. Nếu không đúng, ông sẽ phải thế mạng, chịu không?
-Bẩm Thượng hoàng, nếu chữa theo phương thuốc của thần mà bệnh quan-gia không lành, thần xin chịu tội chết!
Thứ nhất, ngài đã nghe lời gièm của Trần Khắc Chung mà giết oan vị đại tướng quân có tài đánh dẹp là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn – cũng là nhạc gia của ngài – khiến quân đội Đại Việt trở nên suy yếu.
Thứ hai, ngài quá câu nệ phân biệt dòng đích, dòng thứ mà ít chú ý đến mặt đức độ, tài năng của các con để cất nhắc vào địa vị quốc chủ. Ngài đã tư vị, cưng chiều hoàng tử Hạo quá đáng mà không giáo dục kỹ càng khiến sau này khi lên cầm quyền, hoàng tử Hạo đã đẩy nhà Trần tới chỗ suy vong.
Từ khi khởi nghiệp, nhà Trần đã có tục vua cha nhường ngôi cho vua con khi ông còn sống để vua con tập sự trị vì thiên hạ và cũng để tránh nạn tranh ngôi của các hoàng tử khi vua cha qua đời bất ngờ. Năm Kỷ Tị*, vua Minh Tôn đã lớn tuổi mà con dòng đích vẫn chưa sinh, ngài rất lo buồn. Theo lời khuyên của một số đại thần, ngài đã nhường ngôi cho hoàng tử Vượng con dòng thứ, tức vua Hiến Tôn, để lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó hai người con dòng đích của Thượng hoàng là Nguyên Dục và Hạo mới lần lượt ra đời. Hoàng tử Nguyên Dục tánh khí hỗn láo, ngang ngược, rất khó dạy đã làm Thượng hoàng thất vọng. Hoàng tử Hạo thì ngược lại, ngoan ngoãn, thông minh hơn nên Thượng hoàng hài lòng lắm.
Đêm trung thu năm Kỷ Mão*, hoàng tử Hạo mới lên bốn, được đưa đi chơi thuyền trên Hồ Tây. Vì ham nghịch nước, bất ngờ hoàng tử Hạo bị rơi tỏm xuống hồ chìm nghỉm. Khi thợ lặn xuống nước tìm kiếm thì bắt gặp hoàng tử ở lỗ cống đơm cá đã uống nước đầy bụng và hết thở. Có người đã làm cho nước trong bụng hoàng tử ói ra nhưng hoàng tử vẫn không tỉnh. Thượng hoàng hoảng sợ sai ngự y sư Trâu Canh tìm cách cứu chữa. Trâu Canh nói: “Dùng kim châm sẽ sống lại nhưng chỉ sợ sẽ bị liệt dương”. Khi Trâu Canh dùng kim để châm thì quả thật hoàng tử Hạo sống lại được.
Năm Tân Tị* vua Hiến Tôn qua đời. Dù Thượng hoàng có nhiều người con thứ đã trưởng thành ngài vẫn chọn hoàng tử Hạo mới sáu tuổi lên kế vị. Hoàng tử Hạo đăng quang tự xưng là Dụ hoàng, đổi niên hiệu là Thiệu Phong. (Sau này khi mất Dụ hoàng sẽ được tôn miếu hiệu là Dụ Tôn, vậy cứ xin gọi là Dụ Tôn cho tiện). Thượng hoàng vẫn một mình quyết định mọi việc, đất nước vẫn chưa có gì đổi thay đáng kể.
Dụ Tôn càng lớn lên chứng bệnh liệt dương càng lộ rõ. Cả hoàng gia đều rất lo ngại. Tuy thế, vì thể diện của hoàng gia, vào năm Mậu Tý*, Dụ Tôn lập công chúa Ý Từ là con gái thứ 4 của Bình chương Huệ Túc vương Trần Đại Niên làm hoàng hậu. Việc lập hoàng hậu này không thể nào khỏi bị dư luận đàm tiếu. Thấy tình cảnh éo le ấy, thái y sư Trâu Canh tâu với vua Dụ Tôn:
-Căn bệnh của bệ hạ tuy ngặt nghèo nhưng vẫn có cách chữa được. Thần chỉ ngại Thượng hoàng cản trở thôi!
Dụ Tôn sáng mắt lên:
-Sao? Sao? Ngươi nói bệnh ta vẫn có cách chữa ư? Tốn kém bao nhiêu ta cũng chịu hết! Sao lại sợ Thượng hoàng cản trở chứ?
-Dạ, vì cách chữa này rùng rợn lắm, lại trái luân thường đạo lý nữa!
-Miễn sao ta lành bệnh là được! Đừng cố chấp, cứ nói cách chữa đi! Bất cứ giá nào ta cũng làm cho được! Thượng hoàng không cản trở ta đâu!
-Bệ hạ đã quyết như vậy thì thần xin nói. Trước hết là phải giết cho được trên mười đứa bé trai khỏe mạnh, lấy mật hòa với dương khởi thạch (?) mà uống rồi thông dâm với chị hoặc em ruột mình sẽ chữa được bệnh. Bệ hạ liệu có làm nổi không?
Dụ hoàng giật mình:
-Chữa như vậy thì ghê quá! Phụ hoàng là người nhân đức chắc ngài không chịu đâu! Ngươi có cách nào nói thật khéo để ngài chịu nghe không? Được việc ta sẽ trọng thưởng!
-Thần cũng biết phải giết trẻ con hàng loạt như vậy thì Thượng hoàng chẳng đời nào chịu. Hay bệ hạ trình với Thượng hoàng xin giết một hai đứa thôi. Xin cho người vào ngục hỏi trong đám tử tội, người nào đem con nít chết thay cho mình được, người đó sẽ được xá tội. Có thể có nhiều gia đình cần người lớn hơn trẻ con. Như vậy là một đổi một chứ bệ hạ không xử ép ai cả, chắc Thượng hoàng chịu nghe! Giải quyết được việc đó xong sẽ tính tới việc thông dâm với chị hay em ruột!
-Sao ban đầu ngươi nói phải giết hàng chục đứa bây giờ lại nói chỉ một hai?
-Dạ, đây là chữa bệnh cho chính bản thân bệ hạ, bệ hạ phải tự quyết định! Nếu xin giết nhiều quá Thượng hoàng không chịu thì lỡ việc mất. Bệ hạ chỉ cần được Thượng hoàng cho phép giết một hai đứa đã, số còn lại bệ hạ nên cho người ngầm lo lấy không tiện sao?
-Việc ghê gớm như vậy cần phải giữ bí mật mới được. Sai người khác làm e khi lộ chuyện mất. Ngươi là người chế thuốc có thể lo luôn giúp ta được không? Ngươi cần bao nhiêu tiền ta cũng cho hết!
-Dạ, thần làm việc này không phải vì tiền đâu! Nhưng muốn cho bệ hạ được lành bệnh, thần sẽ gắng sức. Sau này đắc chí xin bệ hạ đừng quên thần!
Dụ Tôn mừng rỡ đem việc ấy trình với Thượng hoàng Minh Tôn. Thượng hoàng lập tức cho đòi Trâu Canh đến, ngài hỏi:
-Ông nói đã có phương thuốc chữa trị bệnh liệt dương cho quan-gia phải không?
-Dạ đúng!
-Ông phải biết rằng việc giết một mạng người rất quan trọng, nhất là đối với trẻ con vô tội! Ông có chắc chắn làm đúng như vậy bệnh của quan-gia sẽ lành không? Nếu quan-gia lành bệnh, ông sẽ được trọng thưởng. Nếu không đúng, ông sẽ phải thế mạng, chịu không?
-Bẩm Thượng hoàng, nếu chữa theo phương thuốc của thần mà bệnh quan-gia không lành, thần xin chịu tội chết!
Thượng
hoàng nghe Trâu Canh đoan chắc như thế liền sai viên quản ngục tìm hỏi
đám tử tội về việc kiếm trẻ con chịu chết thay cho người lớn. Cũng kiếm
được một số nhưng Thượng hoàng chỉ cho lấy hai người: Một là em chết
thay cho anh và một con chết thay cho cha!
Trong vòng ba tháng, Trâu Canh đã chế đủ thuốc cho vua Dụ Tôn uống. Sau đó công chúa Thiên Ninh là chị ruột của vua Dụ Tôn lại tình nguyện thông dâm với vua. Kết quả không những vua lành bệnh mà ông còn trở thành vị vua dâm dật ngoại hạng!
Cũng vì cái ơn nghĩa ấy mà sau này Trâu Canh bị bắt quả tang thông dâm với cung nữ mà vua Dụ Tôn vẫn tha chết cho y!
Năm Đinh Dậu*, Thượng hoàng Minh Tôn băng ở cung Bảo Nguyên, vua Dụ Tôn chính thức nắm quyền cai trị quốc dân. Năm sau vua Dụ Tôn đổi niên hiệu là Đại Trị. Khi Thượng hoàng còn sống, vua Dụ Tôn còn kiềm hãm thói ăn chơi buông thả của mình, nay nắm quyền bính rồi, ông mặc sức thao túng, không ai có thể can ngăn được nữa.
Vua Dụ Tôn rất tin dùng viên Hành khiển tả ty lang trung Nguyễn Thanh Lương và viên Hành khiển hữu ty, hữu bộc xạ Tâm Đức Ngưu. Hai viên Hành khiển này luôn toa rập với nhau chuyên xúi giục vua ăn chơi xa xỉ thái quá, không thèm đoái đến nỗi thống khổ của muôn dân.
Tháng 10 năm Quí Mão*, vua Dụ Tôn cho đào hồ trong vườn ngự ở hậu cung đặt tên là Lạc Thanh Trì. Trong hồ xếp đá làm núi, bốn mặt đều khai ngòi cho nước chảy thông nhau. Trên bờ hồ trồng thông, trúc và các thứ hoa thơm cỏ lạ. Vua cho tìm những chim quí, thú lạ về nuôi trong đó. Phía tây hồ trồng hai cây quế, dựng điện Song Quế (còn gọi là điện Lạc Thanh). Lại cho đào một hồ nhỏ khác. Sai người Hải Đông chở nước mặn chứa vào đó, đem các thứ hải vật như đồi mồi, cua, cá nước mặn về nuôi. Lại sai người Hóa Châu chở cá sấu thả vào đấy nữa. Ngoài ra, vua Dụ Tôn còn cho đào một hồ khác để nuôi cá diếc (thanh phụ) gọi là hồ Thanh Ngư. Vua đặt ra chức khách đô để coi giữ những hồ đó.
Về tửu lượng, vua Dụ Tôn cũng tỏ ra là một tay uống có hạng. Ngài hay cho tổ chức các cuộc thi uống rượu có thưởng mời các quan đến dự tranh tài. Tháng 4 năm Giáp Thìn* Chánh chưởng phụng ngự cung Vĩnh An là Bùi Khoan đã lập mẹo uống một mạch hết 100 thăng rượu. Vua Dụ Tôn tưởng thật, thưởng cho Khoan tước 2 tư. Tháng 5 cùng năm, vua Dụ Tôn đi hóng gió thưởng trăng lại uống một trận say khước nữa. Trong lúc say, ngài lội xuống sông tắm, bị cảm lạnh, phải nằm liệt giường hơn hai tháng.
Ngoài việc đam mê tửu sắc, ngài còn đam mê cờ bạc nữa. Trước kia các vị Tiên vương xử trị nghiêm khắc đối với dân cờ bạc bao nhiêu thì bây giờ vua Dụ Tôn lại dung dưỡng hạng người này bấy nhiêu. Nhiều lúc nhà vua đã chiêu tập những nhà giàu trong nước, như người làng Đình Bảng ở Bắc Giang, người Nga Đình ở Quốc Oai, vào cung đánh bạc. Có tiếng bạc ăn thua đến 300 quan tiền.
Vua Dụ Tôn cũng ra lệnh cho các vương hầu, các công chúa thay nhau tổ chức những cuộc vui chơi hát xướng. Ai sáng tác được những trò tạp hí vừa ý ngài sẽ được trọng thưởng. Nguyên trong hồi chiến tranh chống Mông Cổ, quân ta bắt được một tên phường hát của giặc tên Lý Nguyên Cát. Nguyên Cát rất giỏi hát, trẻ con các nhà quyền quí đều ưa tập hát theo điệu phương Bắc của y. Nguyên Cát lại sáng tác các vở tuồng cổ và tập cho các vai đào, kép trình diễn rất sống động. Người xem khó mà tránh được sự lôi cuốn bởi những niềm vui nỗi buồn tùy thuộc từng tuồng tích. Nước ta có hát tuồng cũng bắt đầu từ đấy!
Thấy quốc khố có hạn mà việc tiêu xài của mình vô độ như thế, vua Dụ Tôn đã tìm đủ cách để xoay ra tiền. Ngoài việc cho gia tăng các loại thuế má, vua Dụ Tôn còn sai các tư nô khai khẩn bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành, tỏi và các thứ rau. Người ta gọi chỗ phường ấy là “Toán viên” (vườn tỏi). Nhà vua cũng cho đày tớ và cung nhân làm quạt để bán cho dân.
Quan Ngự sử Bùi Thế Hiếu thấy việc chiếm đất của dân để canh tác sinh lợi cho nhà vua như vậy không được chính đáng, bèn dâng sớ xin can. Bọn Nguyễn Thanh Lương, Tâm Đức Ngưu và Bùi Khoan lấy làm bực mình nên xin vua khép Bùi Thế Hiếu vào tội khi quân. Bùi Thế Hiếu bị giam vào ngục, bọn chúng bèn cho người đầu độc chết. Từ đó ai cũng ngán sợ bọn nịnh thần này.
Nạn đói kém đã xảy ra nhiều nơi. Tháng 8 năm Mậu Tuất*, vua Dụ Tôn xuống chiếu khuyến khích các nhà giàu ở các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân nghèo. Các quan ở địa phương tính số xem số thóc bỏ ra bao nhiêu rồi trả lại bằng tiền. Đó là một việc làm để chứng tỏ đấng thiên tử vẫn quan tâm đến cuộc sống của muôn dân. Nhưng nạn đói cứ mỗi ngày một lan rộng mà quốc khố thì cạn kiệt, biết làm sao? Thế là thay vào cách trả tiền lại cho các nhà giàu, vua lại ban chức tước lớn hay nhỏ cho những người dâng thóc tùy số lượng họ dâng nhiều hay ít. Dĩ nhiên số thóc này đến tay dân đói thì ít mà vào túi riêng bọn nịnh thần thì nhiều. Một số nhà giàu lớn trong nước đã nhờ những dịp này để trở thành quan quyền.
Một hôm quan Đại hành khiển Nguyễn Trung Ngạn đến thăm quan Tư nghiệp Quốc tử giám là Chu An. Chu An nổi tiếng cương nghị, thẳng thắn, không ham công danh, không sợ quyền thế. Học trò của ông rất đông, có nhiều người xuất chính đã làm tới chức Hành khiển như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát. Ông cũng là thầy học của vua Dụ Tôn, là một trong những người mà vua Dụ Tôn rất tôn kính và vẫn nghe lời. Khi Chu An hỏi về việc nước, Nguyễn Trung Ngạn than thở:
-Như tiên sinh vẫn thấy đó, hiện nay bọn nịnh thần dối trá lộng hành lắm mà hoàng thượng đâu có biết! Như chuyện Bùi Khoan uống dối 100 thăng rượu trong một cuộc tiệc được thưởng hai tư, chuyện Trâu Canh gian dâm với cung nữ vẫn không bị xử tội, ngược lại viên thái giám tố cáo lại bị giết… Chuyện ngang ngược đến thế mà nào ai dám nói. Ai làm gì trái ý bọn nịnh thần là bị gièm pha hãm hại. Lớn nhỏ chi đều phải nín thở để giữ mình. Tôi chưa thấy thời nào chính sự lại suy bại đến thế này.
Chu An nói:
-Tôi có nghe tin đồn thời gian gần đây trong dân chúng thỉnh thoảng lại xảy ra các vụ trẻ em bị mất tích, chẳng rõ chuyện đó hư hay thật?
-Các vụ đó có xảy ra thật. Có người nghĩ là do đám tay chân của Trâu Canh bí mật bắt cóc về giết để chế thuốc. Thằng Tàu ấy dã man gian trá lắm. Nó chế thuốc để chữa bệnh cho hoàng thượng thì tội dã man cũng còn biện minh được đi, đằng này nó lại phỉnh hoàng thượng phải thông dâm với chị ruột mình, thật là vô đạo! Tiên sinh nghĩ có phải nó dối trá không? Thuốc đã hiệu nghiệm rồi mới thông dâm được chứ! Nếu thuốc chưa hiệu nghiệm thì dương vật nó mềm xèo làm sao thông dâm được? Thế mà nó biểu hoàng thượng phải thông dâm với chị ruột mình thuốc mới hiệu nghiệm mà hoàng thượng cũng thực hành! Cũng vì cái ơn đó mà sau này mấy lần các thái giám báo việc Trâu Canh dan díu với các cung nữ hoàng thượng đều làm ngơ. Lần mới nhất viên thái giám Phạm Thịnh đã bắt gặp quả tang Trâu Canh làm chuyện tồi bại ấy, ban đầu vua định đem giết nhưng rồi cũng tha. Chỉ khổ cho anh thái giám Phạm Thịnh không bao lâu sau đó phạm lỗi bị bắt giam rồi chết bất đắc kỳ tử trong ngục!
Chu An thở dài:
-Tôi cũng có nghe qua những chuyện đó. Không ngờ Trần triều nay gặp phải cái nạn này! Thưa thật với tiên sinh, tôi đã viết xong một tờ “Thất Trảm Sớ”, nay mai sẽ dâng lên hoàng thượng. Nếu ngài nghe theo mà thực hiện thì đó là vạn phúc cho nước, cho dân! Nếu ngài không nghe mà bắt tội tôi cũng chịu thôi.
Nguyễn Trung Ngạn hỏi lại:
-Tiên sinh là người mà Thượng hoàng rất kính trọng và lại là thầy của hoàng thượng nữa, lẽ nào hoàng thượng bắt tội? Chắc hẳn nội dung cái sớ mà Tiên sinh viết nghiêm trọng lắm?
-Tôi xin chém đầu bảy tên nịnh thần. Quan Đại hành khiển muốn coi thử không?
Nguyễn Trung Ngạn nói:
-Thôi, khỏi coi! Mới nghe qua tôi cũng biết ngay bảy tên nịnh thần tiên sinh nói là ai rồi! Chỉ sợ vua không chịu nghe thôi!
Khi Chu An dâng “Thất Trảm Sớ” lên vua Dụ Tôn, ngài xem rồi nói:
-Những người này là những bề tôi giỏi, làm việc đã quen. Nếu thay người khác thì công việc triều đình làm sao chạy được? Xin thầy bỏ qua những lỗi lầm nhỏ nhặt của họ đi!
Chu An thưa:
-Nếu bệ hạ không lo tính trước, những tên nịnh thần này sẽ làm hại nhà Trần đấy!
Vua Dụ Tôn nhíu mày nói:
-Việc này trẫm đã suy nghĩ kỹ. Xin thầy về nghỉ kẻo hại sức!
Biết không xoay chuyển được lòng vua, Chu An rất thất vọng. Sau đó ông nại cớ già yếu, dâng sớ xin nghỉ việc. Tuy vua Dụ Tôn tỏ vẻ lưu luyến, không thuận, ông vẫn cởi mũ áo đai ấn gởi lại nhà Quốc tử giám rồi về quê ở ẩn.
Cũng bởi kỷ cương triều đình quá suy bại nên giặc giã trong nước ngày càng nổi dậy như ong. Nhiều gia nô của các vương hầu và các công chúa cũng nhân dịp này trốn chủ bỏ đi làm giặc cướp. Vì thế, vua Dụ Tôn phải hạ chiếu buộc các gia nô của tầng lớp quyền quí này phải khắc chữ vào trán và khai tên tuổi vào sổ hộ tịch để dễ kiểm soát. Ai không chịu khắc chữ lên trán và không khai hộ tịch sẽ bị coi như giặc cướp. Hoạt động bền bỉ nhất là đám giặc Ngô Bệ trải qua một thời gian hơn 15 năm. Từ năm Giáp Thân*, Ngô Bệ đã tụ họp bọn vô lại ở núi Yên Phụ để ăn cướp. Quan quân phải vất vả hơn một năm sau mới đánh tan được chúng. Nhưng Ngô Bệ đã trốn được. Không cướp lớn được chúng trở thành cướp nhỏ lưu động bất định để tránh quan quân tìm theo dấu vết. Đến năm Mậu Tuất*, Ngô Bệ lại tập trung đồ đảng ở núi Yên Phụ, dựng đại kỳ trên núi, tiếm xưng vị hiệu, yết bảng nói cứu giúp dân nghèo. Y chiếm cả một vùng từ xã Thiên Liêu đến huyện Chí Linh. Quan quân các lộ lại phải vất vả mãi tới năm Canh Tí* mới bắt được Ngô Bệ cùng với 30 thuộc hạ ở Yên Phụ, đóng cũi đưa về kinh xử chém.
Lúc bấy giờ ở Trung Hoa cũng loạn lạc như rươi. Nhiều đám giặc đã đua nhau nổi lên chống nhà Nguyên. Mạnh nhất là ba thế lực Chu Nguyên Chương, Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành. Nhà Nguyên yếu thế phải lùi dần về phương Bắc. Về sau Chu Nguyên Chương đã đuổi được nhà Nguyên ra khỏi cõi và lần lượt đánh bại các đám giặc khác. Trần Hữu Lượng tự xưng là Hán vương là đối thủ lớn cuối cùng của Chu Nguyên Chương. Khi thấy mình yếu thế, Trần Hữu Lượng đã cử sứ giả sang Đại Việt cầu cứu. Sứ giả cho triều đình Đại Việt biết Hán vương Trần Hữu Lượng chính là con út của Trần Ích Tắc. Nhưng vua Dụ Tôn sợ mang vạ lây nên đã từ chối việc giao thiệp với Hán vương. Không lâu sau đó thì Trần Hữu Lượng bị Chu Nguyên Chương tiêu diệt
Trong vòng ba tháng, Trâu Canh đã chế đủ thuốc cho vua Dụ Tôn uống. Sau đó công chúa Thiên Ninh là chị ruột của vua Dụ Tôn lại tình nguyện thông dâm với vua. Kết quả không những vua lành bệnh mà ông còn trở thành vị vua dâm dật ngoại hạng!
Cũng vì cái ơn nghĩa ấy mà sau này Trâu Canh bị bắt quả tang thông dâm với cung nữ mà vua Dụ Tôn vẫn tha chết cho y!
Năm Đinh Dậu*, Thượng hoàng Minh Tôn băng ở cung Bảo Nguyên, vua Dụ Tôn chính thức nắm quyền cai trị quốc dân. Năm sau vua Dụ Tôn đổi niên hiệu là Đại Trị. Khi Thượng hoàng còn sống, vua Dụ Tôn còn kiềm hãm thói ăn chơi buông thả của mình, nay nắm quyền bính rồi, ông mặc sức thao túng, không ai có thể can ngăn được nữa.
Vua Dụ Tôn rất tin dùng viên Hành khiển tả ty lang trung Nguyễn Thanh Lương và viên Hành khiển hữu ty, hữu bộc xạ Tâm Đức Ngưu. Hai viên Hành khiển này luôn toa rập với nhau chuyên xúi giục vua ăn chơi xa xỉ thái quá, không thèm đoái đến nỗi thống khổ của muôn dân.
Tháng 10 năm Quí Mão*, vua Dụ Tôn cho đào hồ trong vườn ngự ở hậu cung đặt tên là Lạc Thanh Trì. Trong hồ xếp đá làm núi, bốn mặt đều khai ngòi cho nước chảy thông nhau. Trên bờ hồ trồng thông, trúc và các thứ hoa thơm cỏ lạ. Vua cho tìm những chim quí, thú lạ về nuôi trong đó. Phía tây hồ trồng hai cây quế, dựng điện Song Quế (còn gọi là điện Lạc Thanh). Lại cho đào một hồ nhỏ khác. Sai người Hải Đông chở nước mặn chứa vào đó, đem các thứ hải vật như đồi mồi, cua, cá nước mặn về nuôi. Lại sai người Hóa Châu chở cá sấu thả vào đấy nữa. Ngoài ra, vua Dụ Tôn còn cho đào một hồ khác để nuôi cá diếc (thanh phụ) gọi là hồ Thanh Ngư. Vua đặt ra chức khách đô để coi giữ những hồ đó.
Về tửu lượng, vua Dụ Tôn cũng tỏ ra là một tay uống có hạng. Ngài hay cho tổ chức các cuộc thi uống rượu có thưởng mời các quan đến dự tranh tài. Tháng 4 năm Giáp Thìn* Chánh chưởng phụng ngự cung Vĩnh An là Bùi Khoan đã lập mẹo uống một mạch hết 100 thăng rượu. Vua Dụ Tôn tưởng thật, thưởng cho Khoan tước 2 tư. Tháng 5 cùng năm, vua Dụ Tôn đi hóng gió thưởng trăng lại uống một trận say khước nữa. Trong lúc say, ngài lội xuống sông tắm, bị cảm lạnh, phải nằm liệt giường hơn hai tháng.
Ngoài việc đam mê tửu sắc, ngài còn đam mê cờ bạc nữa. Trước kia các vị Tiên vương xử trị nghiêm khắc đối với dân cờ bạc bao nhiêu thì bây giờ vua Dụ Tôn lại dung dưỡng hạng người này bấy nhiêu. Nhiều lúc nhà vua đã chiêu tập những nhà giàu trong nước, như người làng Đình Bảng ở Bắc Giang, người Nga Đình ở Quốc Oai, vào cung đánh bạc. Có tiếng bạc ăn thua đến 300 quan tiền.
Vua Dụ Tôn cũng ra lệnh cho các vương hầu, các công chúa thay nhau tổ chức những cuộc vui chơi hát xướng. Ai sáng tác được những trò tạp hí vừa ý ngài sẽ được trọng thưởng. Nguyên trong hồi chiến tranh chống Mông Cổ, quân ta bắt được một tên phường hát của giặc tên Lý Nguyên Cát. Nguyên Cát rất giỏi hát, trẻ con các nhà quyền quí đều ưa tập hát theo điệu phương Bắc của y. Nguyên Cát lại sáng tác các vở tuồng cổ và tập cho các vai đào, kép trình diễn rất sống động. Người xem khó mà tránh được sự lôi cuốn bởi những niềm vui nỗi buồn tùy thuộc từng tuồng tích. Nước ta có hát tuồng cũng bắt đầu từ đấy!
Thấy quốc khố có hạn mà việc tiêu xài của mình vô độ như thế, vua Dụ Tôn đã tìm đủ cách để xoay ra tiền. Ngoài việc cho gia tăng các loại thuế má, vua Dụ Tôn còn sai các tư nô khai khẩn bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành, tỏi và các thứ rau. Người ta gọi chỗ phường ấy là “Toán viên” (vườn tỏi). Nhà vua cũng cho đày tớ và cung nhân làm quạt để bán cho dân.
Quan Ngự sử Bùi Thế Hiếu thấy việc chiếm đất của dân để canh tác sinh lợi cho nhà vua như vậy không được chính đáng, bèn dâng sớ xin can. Bọn Nguyễn Thanh Lương, Tâm Đức Ngưu và Bùi Khoan lấy làm bực mình nên xin vua khép Bùi Thế Hiếu vào tội khi quân. Bùi Thế Hiếu bị giam vào ngục, bọn chúng bèn cho người đầu độc chết. Từ đó ai cũng ngán sợ bọn nịnh thần này.
Nạn đói kém đã xảy ra nhiều nơi. Tháng 8 năm Mậu Tuất*, vua Dụ Tôn xuống chiếu khuyến khích các nhà giàu ở các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân nghèo. Các quan ở địa phương tính số xem số thóc bỏ ra bao nhiêu rồi trả lại bằng tiền. Đó là một việc làm để chứng tỏ đấng thiên tử vẫn quan tâm đến cuộc sống của muôn dân. Nhưng nạn đói cứ mỗi ngày một lan rộng mà quốc khố thì cạn kiệt, biết làm sao? Thế là thay vào cách trả tiền lại cho các nhà giàu, vua lại ban chức tước lớn hay nhỏ cho những người dâng thóc tùy số lượng họ dâng nhiều hay ít. Dĩ nhiên số thóc này đến tay dân đói thì ít mà vào túi riêng bọn nịnh thần thì nhiều. Một số nhà giàu lớn trong nước đã nhờ những dịp này để trở thành quan quyền.
Một hôm quan Đại hành khiển Nguyễn Trung Ngạn đến thăm quan Tư nghiệp Quốc tử giám là Chu An. Chu An nổi tiếng cương nghị, thẳng thắn, không ham công danh, không sợ quyền thế. Học trò của ông rất đông, có nhiều người xuất chính đã làm tới chức Hành khiển như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát. Ông cũng là thầy học của vua Dụ Tôn, là một trong những người mà vua Dụ Tôn rất tôn kính và vẫn nghe lời. Khi Chu An hỏi về việc nước, Nguyễn Trung Ngạn than thở:
-Như tiên sinh vẫn thấy đó, hiện nay bọn nịnh thần dối trá lộng hành lắm mà hoàng thượng đâu có biết! Như chuyện Bùi Khoan uống dối 100 thăng rượu trong một cuộc tiệc được thưởng hai tư, chuyện Trâu Canh gian dâm với cung nữ vẫn không bị xử tội, ngược lại viên thái giám tố cáo lại bị giết… Chuyện ngang ngược đến thế mà nào ai dám nói. Ai làm gì trái ý bọn nịnh thần là bị gièm pha hãm hại. Lớn nhỏ chi đều phải nín thở để giữ mình. Tôi chưa thấy thời nào chính sự lại suy bại đến thế này.
Chu An nói:
-Tôi có nghe tin đồn thời gian gần đây trong dân chúng thỉnh thoảng lại xảy ra các vụ trẻ em bị mất tích, chẳng rõ chuyện đó hư hay thật?
-Các vụ đó có xảy ra thật. Có người nghĩ là do đám tay chân của Trâu Canh bí mật bắt cóc về giết để chế thuốc. Thằng Tàu ấy dã man gian trá lắm. Nó chế thuốc để chữa bệnh cho hoàng thượng thì tội dã man cũng còn biện minh được đi, đằng này nó lại phỉnh hoàng thượng phải thông dâm với chị ruột mình, thật là vô đạo! Tiên sinh nghĩ có phải nó dối trá không? Thuốc đã hiệu nghiệm rồi mới thông dâm được chứ! Nếu thuốc chưa hiệu nghiệm thì dương vật nó mềm xèo làm sao thông dâm được? Thế mà nó biểu hoàng thượng phải thông dâm với chị ruột mình thuốc mới hiệu nghiệm mà hoàng thượng cũng thực hành! Cũng vì cái ơn đó mà sau này mấy lần các thái giám báo việc Trâu Canh dan díu với các cung nữ hoàng thượng đều làm ngơ. Lần mới nhất viên thái giám Phạm Thịnh đã bắt gặp quả tang Trâu Canh làm chuyện tồi bại ấy, ban đầu vua định đem giết nhưng rồi cũng tha. Chỉ khổ cho anh thái giám Phạm Thịnh không bao lâu sau đó phạm lỗi bị bắt giam rồi chết bất đắc kỳ tử trong ngục!
Chu An thở dài:
-Tôi cũng có nghe qua những chuyện đó. Không ngờ Trần triều nay gặp phải cái nạn này! Thưa thật với tiên sinh, tôi đã viết xong một tờ “Thất Trảm Sớ”, nay mai sẽ dâng lên hoàng thượng. Nếu ngài nghe theo mà thực hiện thì đó là vạn phúc cho nước, cho dân! Nếu ngài không nghe mà bắt tội tôi cũng chịu thôi.
Nguyễn Trung Ngạn hỏi lại:
-Tiên sinh là người mà Thượng hoàng rất kính trọng và lại là thầy của hoàng thượng nữa, lẽ nào hoàng thượng bắt tội? Chắc hẳn nội dung cái sớ mà Tiên sinh viết nghiêm trọng lắm?
-Tôi xin chém đầu bảy tên nịnh thần. Quan Đại hành khiển muốn coi thử không?
Nguyễn Trung Ngạn nói:
-Thôi, khỏi coi! Mới nghe qua tôi cũng biết ngay bảy tên nịnh thần tiên sinh nói là ai rồi! Chỉ sợ vua không chịu nghe thôi!
Khi Chu An dâng “Thất Trảm Sớ” lên vua Dụ Tôn, ngài xem rồi nói:
-Những người này là những bề tôi giỏi, làm việc đã quen. Nếu thay người khác thì công việc triều đình làm sao chạy được? Xin thầy bỏ qua những lỗi lầm nhỏ nhặt của họ đi!
Chu An thưa:
-Nếu bệ hạ không lo tính trước, những tên nịnh thần này sẽ làm hại nhà Trần đấy!
Vua Dụ Tôn nhíu mày nói:
-Việc này trẫm đã suy nghĩ kỹ. Xin thầy về nghỉ kẻo hại sức!
Biết không xoay chuyển được lòng vua, Chu An rất thất vọng. Sau đó ông nại cớ già yếu, dâng sớ xin nghỉ việc. Tuy vua Dụ Tôn tỏ vẻ lưu luyến, không thuận, ông vẫn cởi mũ áo đai ấn gởi lại nhà Quốc tử giám rồi về quê ở ẩn.
Cũng bởi kỷ cương triều đình quá suy bại nên giặc giã trong nước ngày càng nổi dậy như ong. Nhiều gia nô của các vương hầu và các công chúa cũng nhân dịp này trốn chủ bỏ đi làm giặc cướp. Vì thế, vua Dụ Tôn phải hạ chiếu buộc các gia nô của tầng lớp quyền quí này phải khắc chữ vào trán và khai tên tuổi vào sổ hộ tịch để dễ kiểm soát. Ai không chịu khắc chữ lên trán và không khai hộ tịch sẽ bị coi như giặc cướp. Hoạt động bền bỉ nhất là đám giặc Ngô Bệ trải qua một thời gian hơn 15 năm. Từ năm Giáp Thân*, Ngô Bệ đã tụ họp bọn vô lại ở núi Yên Phụ để ăn cướp. Quan quân phải vất vả hơn một năm sau mới đánh tan được chúng. Nhưng Ngô Bệ đã trốn được. Không cướp lớn được chúng trở thành cướp nhỏ lưu động bất định để tránh quan quân tìm theo dấu vết. Đến năm Mậu Tuất*, Ngô Bệ lại tập trung đồ đảng ở núi Yên Phụ, dựng đại kỳ trên núi, tiếm xưng vị hiệu, yết bảng nói cứu giúp dân nghèo. Y chiếm cả một vùng từ xã Thiên Liêu đến huyện Chí Linh. Quan quân các lộ lại phải vất vả mãi tới năm Canh Tí* mới bắt được Ngô Bệ cùng với 30 thuộc hạ ở Yên Phụ, đóng cũi đưa về kinh xử chém.
Lúc bấy giờ ở Trung Hoa cũng loạn lạc như rươi. Nhiều đám giặc đã đua nhau nổi lên chống nhà Nguyên. Mạnh nhất là ba thế lực Chu Nguyên Chương, Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành. Nhà Nguyên yếu thế phải lùi dần về phương Bắc. Về sau Chu Nguyên Chương đã đuổi được nhà Nguyên ra khỏi cõi và lần lượt đánh bại các đám giặc khác. Trần Hữu Lượng tự xưng là Hán vương là đối thủ lớn cuối cùng của Chu Nguyên Chương. Khi thấy mình yếu thế, Trần Hữu Lượng đã cử sứ giả sang Đại Việt cầu cứu. Sứ giả cho triều đình Đại Việt biết Hán vương Trần Hữu Lượng chính là con út của Trần Ích Tắc. Nhưng vua Dụ Tôn sợ mang vạ lây nên đã từ chối việc giao thiệp với Hán vương. Không lâu sau đó thì Trần Hữu Lượng bị Chu Nguyên Chương tiêu diệt
Từ
khi vua Chế Bồng Nga lên ngôi, một mặt ông lo cải tổ việc nội trị, mặt
khác, ông ráo riết tăng cường huấn luyện quân đội thật tinh nhuệ để chờ
dịp thuận lợi sẽ mở cuộc Bắc chinh.
Để thăm dò sự phòng vệ và tinh thần chiến đấu của quân Đại Việt, ông sai một đội quân nhỏ giả làm cướp biển, thình lình đổ bộ lên cửa Dĩ Lý, phủ Lâm Bình đánh cướp. Nhưng quân phòng vệ địa phương đã chống trả dữ dội buộc đội quân giả cướp biển kia phải rút chạy.
Năm sau quân Chiêm Thành lại xâm phạm Hóa Châu nhưng thấy quân Đại Việt phòng bị quá kỹ, lại phải rút lui.
Sau những vụ thăm dò trên, trong một phiên chầu, Chế Bồng Nga nói với quần thần:
-Hiện nay Đại Việt do Trần Hạo cầm quyền, mà Hạo là một kẻ ăn chơi hoang dâm vô độ, không biết lo đến việc nước, lẽ ra đây là cơ hội tốt nhất để ta ra quân. Thế nhưng sau khi mở những cuộc thăm dò, ta biết được quân Đại Việt khắp nơi vẫn phòng thủ kỹ lắm. Muốn thắng họ, ta phải có một lực lượng mạnh gấp bội! Tạm thời ta hãy tiếp tục tuyển mộ thêm quân, rèn luyện cho tinh nhuệ thêm, đồng thời phải nghĩ ra một mưu kế nào thật hay mới xong!
Tướng La Ngai nói:
-Thần sợ cơ hội này ta không ra quân, nếu lỡ Đại Việt thay đổi chủ, có minh quân lên cầm quyền rồi thì ý chí nuôi dưỡng lâu nay của mình cũng thành công uổng!
Chế Bồng Nga cười:
-Ta chẳng quên điều đó đâu! Nhưng Đại Việt muốn có minh quân cũng phải đợi hàng chục năm nữa! Hiện giờ ở Trần triều có gương mặt nào đáng giá đâu mà ngại? Chắc khanh cũng rõ, trong phép đánh trận, muốn chắc ăn, ít nhất lực lượng tấn công cũng phải mạnh gấp năm gấp bảy lực lượng phòng thủ! Chứ không, dù thắng được họ, ta cũng phải chịu tổn thất không ít. Phải gắng tìm kỳ mưu, ít nhất là làm sao dụ chúng ra ngoài cõi mới hòng thắng được!
La Ngai lại nói:
-Quân Đại Việt lúc này không dám ra khỏi cõi đâu! Ta đã mấy lần khiêu khích mà chúng cũng chỉ thủ chứ không chịu truy kích, biết làm sao đây?
Bỗng tướng Mục Bà Ma lên tiếng:
-Tâu bệ hạ, thần có một mưu này có thể dụ quân Đại Việt ra khỏi cõi được!
Chế Bồng Nga tươi nét mặt nói:
-Khanh hãy nói ta nghe thử!
Mục Bà Ma nói:
-Thần biết, theo tục Hóa Châu trước đây, tháng giêng hàng năm, trai gái Đại Việt vẫn họp nhau ở đất Bà Dương để chơi trò đánh đu. Chúng ta nên cho người núp sẵn đầu nguồn, đợi họ bắt đầu cuộc chơi thì ập đến bắt hết đem về bắt làm nô lệ, tì thiếp chơi. Như vậy vua quan Đại Việt sẽ tức lộn ruột lên, chắc chắn họ phải xuất quân ra khỏi cõi để trả đũa! Bên ta đã chuẩn bị sẵn, họ làm sao khỏi lọt vào tròng của ta?
Chế Bồng Nga khen:
-Kế ấy hay lắm! Hãy cho thực hiện đi!
Thế là từ tháng 12 Giáp Thìn, một toán quân Chiêm đã đến đầu nguồn Bà Dương phục sẵn. Đầu xuân năm Ất Tỵ* hàng trăm con trai con gái Đại Việt mới lớn kéo nhau ra Bà Dương chơi trò đánh đu như các năm trước. Trong khi cuộc vui đang tiến hành thì quân Chiêm Thành đột ngột xuất hiện. Đám trẻ hoảng hốt chạy tán loạn. Nhưng quân Chiêm đã núp sẵn nhiều nơi nên đã bắt được gần hết. Chỉ có một số nhỏ chạy thoát được!
Hành động gây hấn này đã làm cả triều đình Đại Việt nổi giận. Vua Dụ Tôn muốn cử binh đi đánh trả đũa ngay. Ngài kêu gọi các tướng tình nguyện cầm quân chinh phạt nhưng ai cũng tìm cách thoái thác. Cuối cùng, mọi người đều đề cử Đồng tri môn hạ Đỗ Tử Bình lúc ấy đang đóng quân yểm trợ việc xây thành Hóa Châu làm tướng kéo quân đánh Chiêm Thành. Đỗ Tử Bình nhận được lệnh sợ quá bèn nại cớ lương thực chưa đủ, binh sĩ mệt mỏi vì suốt thời gian qua đã phục dịch trong việc xây đắp thành Hóa Châu mà xin tạm hoãn.
Thấy khiêu khích đến thế mà quân Việt vẫn chưa chịu ra khỏi cõi đánh trả thù, Chế Bồng Nga lại cho một đội quân đi đường biển thình lình đổ bộ tấn công phủ Lâm Bình. Không may quân Chiêm lại gặp phải quan phủ Lâm Bình là Phạm A Song phòng bị quá kỹ nên cũng không làm gì được, phải rút lui. Tuy vậy, quân Việt cũng chẳng thèm truy kích.
Cái tin ấy báo về triều đình Chiêm, Chế Bồng Nga lộ vẻ bực mình nói:
-Người Đại Việt lúc này nhát như con thỏ, cứ ẩn trong hang làm ta khó xử quá.
La Ngai nói:
-Đại Việt suy yếu quá rồi nên chỉ biết lo thế thủ. Quân ta lúc này tinh nhuệ lắm, sao bệ hạ không thử xua thẳng vào Thăng Long một phen, lẽ nào không thắng?
Chế Bồng Nga lắc đầu:
-Tướng giỏi cầm quân phải biết làm sao đánh thắng được giặc mà mình thiệt hại rất ít. Nay quân giặc tuy yếu thật nhưng chúng thủ kỹ như vậy, mình đánh bừa vào, dẫu thắng, giặc chết mười mình cũng chết tám, phỏng được lợi ích gì? Lỡ Chân Lạp hay Xiêm lại thừa cơ hội này đánh sau lưng ta trở tay sao kịp? Nhất định phải dùng kế “điệu hổ ly sơn”, dụ chúng ra khỏi hang ổ mới đánh chúng được! Nếu chúng đã ra ngoài, ta chỉ cần thắng một trận thật oanh liệt, thật tàn nhẫn là cướp được tinh thần chúng. Chúng đã rúng lòng rồi, ta làm mưa làm gió gì mà chẳng được! Rất tiếc là ta chưa tìm ra mưu kế gì để dụ chúng!
Tướng Mục Bà Ma thưa:
-Lần trước thần đã dâng một kế để dụ giặc nhưng không kết quả. Nay thần muốn dâng một kế khác không biết có thể dùng được không?
-Khanh cứ nói ta nghe thử!
-Thưa, bệ hạ thử cử sứ giả mang thư đến Thăng Long, đòi Trần Hạo trả lại đất Hóa Châu. Viện lẽ đất ấy vốn là của Chiêm quốc mà vua Chiêm đã dùng làm sính lễ để cưới công chúa Huyền Trân. Nhưng công chúa Huyền Trân đã tự ý trở về Đại Việt tại sao Đại Việt vẫn giữ lấy đất ấy? Nay xin trả lại Hóa Châu cho Chiêm Thành mới đúng lẽ! Nếu Trần Hạo sợ thế lực của ta mà trả đất lại thì tốt. Ta cũng sẽ nhân đó trả lại họ những người Đại Việt bị ta bắt vừa qua. Hai bên sẽ định lại ranh giới và chấm dứt chuyện thù hằn! Nếu Trần Hạo không chịu, ta dọa sẽ dùng võ lực để lấy lại! Như vậy Đại Việt còn nhịn sao được? Chắc hẳn họ sẽ xuất quân đánh ta!
Chế Bồng Nga mừng rỡ nhìn Mục Bà Ma nói:
-Hay lắm! Khanh đã nghĩ ra cái kế độc này Đại Việt làm sao nhịn nổi nữa? Khanh có thể đi sứ Đại Việt giúp ta luôn không?
-Bệ hạ đã sai khiến, thần xin tuân mệnh!
Thế là tướng Mục Bà Ma vâng mạng vua Chiêm sang Thăng Long đòi lại đất Hóa Châu.
Từ khi Thượng hoàng Minh Tôn mất, Chiêm Thành bỏ hẳn việc triều cống Đại Việt. Vua Dụ Tôn quá ham chơi, đâu nghĩ gì đến việc đó! Những vị trung thần nhìn xa biết rộng hầu hết đã tìm phương ở ẩn cả. Những kẻ còn ở lại, một số thì nín thở đợi thời, một số mặc cho thời thế xoay chuyển, gắng ôm lấy chút tước lộc tới đâu hay tới đó. Vua Dụ Tôn lại quá tin bọn nịnh thần, ai dám bày tỏ lời ngay nữa? Tháng 6 năm Bính Ngọ*, vua ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thiếu úy Trần Ngô Lang ở hương Mễ Sơ đến khuya mới về. Đêm đó vua uống quá say. Đến sông Chữ Gia, thuyền vua bị một bọn côn đồ chận lại cướp mất cả ấn tín lẫn kiếm báu truyền quốc. Vua lấy làm xấu hổ và tin sự việc này là một điềm chẳng lành. Nghĩ mình không còn sống bao lâu nữa, vua càng lao mình vào những cuộc chơi bời trác táng. Vì vậy, mặc cho Chiêm Thành khiêu khích, vua quan không hẹn nhưng đều đồng lòng làm ngơ, cố nhịn nhục.
Cho tới lúc Chiêm Thành ngạo nghễ cử sứ giả đến tận Thăng Long đòi lại đất cũ họ mới giật mình! Lòng tự ái cả vua lẫn quan đều bị đánh động! Vua Dụ Tôn nổi trận lôi đình, truyền đem Mục Bà Ma giam lại. Hoàng thân Nguyên Trác tâu:
-Chiêm Thành lờn mặt quá rồi! Không thể nhịn được nữa! Bệ hạ phải cử binh chinh phạt cho nó chừa cái thói hung hăng đi!
Vua Dụ Tôn nói:
-Quả thật Chiêm Thành đã coi trời đất không ra gì nữa! Trước đây ta đã cử Đỗ Tử Bình đi chinh phạt nhưng Đỗ Tử Bình xem bộ nhát quá, đã tìm cách thoái thác. Nay ta muốn giao ấn nguyên nhung cho Minh tự Trần Thế Hưng lo việc ấy được không?
Hoàng thân Nguyên Trác nhìn Trần Thế Hưng hỏi lại:
-Hoàng thượng tin tài lược của ông, muốn trao ấn nguyên soái cho ông đi trừng phạt Chiêm Thành, ông bằng lòng chứ?
Trần Thế Hưng tâu:
-Thần xin tuân mệnh!
Vua Dụ Tôn bèn cử Trần Thế Hưng làm thống quân , Đỗ Tử Bình làm phó, tiến binh đánh Chiêm Thành. Trần Thế Hưng chỉ huy đại quân đi trước, Đỗ Tử Bình dẫn hậu quân tiếp ứng. Tháng 4 năm Mậu Thân*, quân Trần kéo đến Chiêm Động. Lúc bấy giờ Chế Bồng Nga đã chuẩn bị trước, chọn địa điểm thuận lợi để phục kích sẵn. Sau đó Chế Bồng Nga cho một đạo quân nhỏ ra nghinh quân Trần. Đánh nhau một hồi quân Chiêm thua chạy. Quân Trần hăng hái đuổi theo, thế là lọt vào giữa ổ phục kích. Quân Chiêm liền đổ ra đánh một trận rất ác liệt khiến quân Trần phải tan rã. Trần Thế Hưng bị bắt sống. Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân thấy thế nguy không dám tiếp cứu, vội vã đem quân trở về. Khi về tới Thăng Long, sợ bị vua bắt tội, Đỗ Tử Bình lập tức cho người nhà đem vàng bạc đút lót hai viên Hành khiển là Tâm Đức Ngưu và Nguyễn Thanh Lương. Nhờ vậy, Đỗ Tử Bình chỉ bị vua khiển trách sơ rồi bỏ qua.
Sau khi thắng trận, Chế Bồng Nga cho người sang Đại Việt đề nghị trao đổi tướng Trần Thế Hưng với sứ giả Mục Bà Ma. Vua Dụ Tôn đành phải chấp thuận.
Chế Bồng Nga rút quân về tới Đồ Bàn thì nhận được tin nhà Minh đã đánh đuổi nhà Nguyên ra khỏi Trung Hoa và đóng đô ở Kim Lăng. Ông lo ngại nói:
-Trung Hoa đã đổi chủ, thế nào nhà Minh cũng thị uy với các nước láng giềng! Nếu ta không khéo léo là sinh kẹt ngay!
Thế rồi ông lập tức sai Hổ Đô Man đem hai con voi, hai con hổ và một số sản vật địa phương sang Kim Lăng triều cống để xưng thần. Việc này đã làm vua Minh hài lòng lắm. Vua Minh sai Ngô Dụng sang Chiêm đáp lễ ban cho Chiêm vương một bức thư có đóng dấu ngọc tỉ như sau:
“Ngày mồng 4 tháng 2 năm nay, Hổ Đô Man đến dâng cọp, voi; lòng thành của Vương trẫm đã hiểu rõ. Tuy nhiên khi Hổ Đô Man chưa tới, sứ giả của trẫm cũng đã sẵn sàng đi đến nước Quốc vương. Sứ giả của trẫm đến báo cho Quốc vương biết rằng trước đây nước Trung Hoa bị rợ Hồ (Mông Cổ) trộm chiếm hàng trăm năm, khiến tập tục man di đầy rẫy, phế bỏ phong hóa Trung Hoa. Trẫm khởi binh trong vòng 20 năm, dẹp sạch bọn chúng, làm chủ Trung Hoa, thiên hạ bình an. Sợ các Di trong bốn phương chưa biết nên sai sứ giả báo tin cho các nước. Không ngờ sứ giả của vương tới trước, lòng thành thể hiện vững vàng, khiến trẫm rất vui. Nay ban một bản lịch Đại Thống, 40 bộ y phục lụa là, lụa ỷ dệt kim tuyến, sai người đưa sứ giả về nước. Lại dụ Vương về đạo thờ nước lớn, Vương nên phụng thừa coi như đạo trời, khiến dân Chiêm Thành yên với nghề nghiệp, Vương giữ được lộc vị truyền đến con cháu, trời đất soi xét sự cố gắng, Vương chớ xem thường”.
Được thiên triều ân cần phủ dụ, Chế Bồng Nga rất mừng. Thế là ông vững tâm theo đuổi ý định chinh phạt Đại Việt. Để giành lấy lẽ phải về mình, Chế Bồng Nga đã sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô sang Kim Lăng tạ ơn đồng thời tố cáo vụ Đại Việt đã đem quân đánh Chiêm Thành năm trước trong đó có đoạn như sau: “… Vua An Nam đã sai Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình đem đại quân xâm lấn nước thần. Nhưng nhờ hồng phúc của bệ hạ, nước thần đã đánh tan quân xâm lược, bắt sống được thống quân của giặc là Trần Thế Hưng. Tuy vậy, thần vẫn sợ An Nam sẽ tìm cách trả thù. Vì vậy, cúi xin bệ hạ thể hiện đức hiếu sinh, trừng phạt nặng nước An Nam để răn đe những kẻ vô đạo hiếu chiến tàn hại dân lành…”.
Cử sứ giả đi xong, Chế Bồng Nga tiếp tục chuẩn bị việc Bắc chinh. Lúc bấy giờ Đại Việt cũng đã cử sứ giả sang cống Minh triều nên vua Minh cố làm ra vẻ công bằng, cho Hàn lâm viện biên tu La Phục Nhân, Chủ sự bộ binh Trương Phúc mang thư đến cả hai nước Đại Việt lẫn Chiêm Thành để dàn hòa như sau:
“Trẫm vốn xuất thân từ giới bình dân, nhân thiên hạ loạn bèn khởi binh để bảo vệ làng xóm, không ngờ hào kiệt theo rất đông. Trẫm cầm binh vài năm, đất đai mở rộng, quân lính cường thịnh, được toàn dân tôn lên làm vua trị thiên hạ, nối dòng chính thống, đến nay đã được 3 năm. Các nước ngoài đến triều cống thì An Nam là nước đầu tiên, thứ đến Cao Ly rồi Chiêm Thành. Tất cả đều dâng biểu xưng thần, hợp với chế độ xưa, khiến trẫm rất vui lòng.
Mới đây Chiêm Thành sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô đến cống, tâu rằng An Nam mang binh đến xâm nhiễu, trẫm xem tờ trình lòng không được yên. Nghĩ rằng hai nước các ngươi từ xưa đến nay, cương vực đã định sẵn, đó là ý trời, không thể cậy mạnh mà làm càn. Huống đất đai các ngươi, cách Trung Hoa hết núi đến biển, lời nói về sự xâm nhiễu nhất thời khó mà biết được để trình bày rõ ràng cho trẫm hay. Các người được truyền đời nối đời đã lâu, việc giữ đất an dân, trên phụng đạo trời, tôn kính Trung Hoa, những việc này Vương trước của các ngươi chắc đã để lại lời dạy bảo, không đợi trẫm dụ mới biết. Trẫm làm chủ thiên hạ, việc đáng làm là trị loạn dẹp nguy, nay sai sứ đi quan sát sự việc, hiểu dụ các ngươi phải sợ trời, thủ phận. Nếu như cả hai dùng binh, năm này qua năm khác không ngừng, làm độc hại sinh linh, thượng đế hiếu sinh sẽ không bằng lòng, e rằng trên thì trời ghét, dưới thì lòng dân oán hận, mối họa sẽ không tránh được! Vương hai nước hãy nghe lời trẫm, tuân theo đạo lý, yên phận mình, để con cháu các ngươi được hưởng phúc lâu bền, há lại không tốt đẹp hơn ư? Khi chiếu thư tới, hai nước hãy tuân lệnh bãi binh!”
Khi sứ giả Trung Hoa đã về nước, La Ngai hỏi Chế Bồng Nga:
-Bây giờ vua Minh hạ chiếu dàn hòa như vậy bệ hạ tính sao?
Chế Bồng Nga cười mà nói:
-Vua Minh hạ chiếu cứ hạ chiếu, việc mình đã định mình cứ làm!
La Ngai hỏi lại:
Để thăm dò sự phòng vệ và tinh thần chiến đấu của quân Đại Việt, ông sai một đội quân nhỏ giả làm cướp biển, thình lình đổ bộ lên cửa Dĩ Lý, phủ Lâm Bình đánh cướp. Nhưng quân phòng vệ địa phương đã chống trả dữ dội buộc đội quân giả cướp biển kia phải rút chạy.
Năm sau quân Chiêm Thành lại xâm phạm Hóa Châu nhưng thấy quân Đại Việt phòng bị quá kỹ, lại phải rút lui.
Sau những vụ thăm dò trên, trong một phiên chầu, Chế Bồng Nga nói với quần thần:
-Hiện nay Đại Việt do Trần Hạo cầm quyền, mà Hạo là một kẻ ăn chơi hoang dâm vô độ, không biết lo đến việc nước, lẽ ra đây là cơ hội tốt nhất để ta ra quân. Thế nhưng sau khi mở những cuộc thăm dò, ta biết được quân Đại Việt khắp nơi vẫn phòng thủ kỹ lắm. Muốn thắng họ, ta phải có một lực lượng mạnh gấp bội! Tạm thời ta hãy tiếp tục tuyển mộ thêm quân, rèn luyện cho tinh nhuệ thêm, đồng thời phải nghĩ ra một mưu kế nào thật hay mới xong!
Tướng La Ngai nói:
-Thần sợ cơ hội này ta không ra quân, nếu lỡ Đại Việt thay đổi chủ, có minh quân lên cầm quyền rồi thì ý chí nuôi dưỡng lâu nay của mình cũng thành công uổng!
Chế Bồng Nga cười:
-Ta chẳng quên điều đó đâu! Nhưng Đại Việt muốn có minh quân cũng phải đợi hàng chục năm nữa! Hiện giờ ở Trần triều có gương mặt nào đáng giá đâu mà ngại? Chắc khanh cũng rõ, trong phép đánh trận, muốn chắc ăn, ít nhất lực lượng tấn công cũng phải mạnh gấp năm gấp bảy lực lượng phòng thủ! Chứ không, dù thắng được họ, ta cũng phải chịu tổn thất không ít. Phải gắng tìm kỳ mưu, ít nhất là làm sao dụ chúng ra ngoài cõi mới hòng thắng được!
La Ngai lại nói:
-Quân Đại Việt lúc này không dám ra khỏi cõi đâu! Ta đã mấy lần khiêu khích mà chúng cũng chỉ thủ chứ không chịu truy kích, biết làm sao đây?
Bỗng tướng Mục Bà Ma lên tiếng:
-Tâu bệ hạ, thần có một mưu này có thể dụ quân Đại Việt ra khỏi cõi được!
Chế Bồng Nga tươi nét mặt nói:
-Khanh hãy nói ta nghe thử!
Mục Bà Ma nói:
-Thần biết, theo tục Hóa Châu trước đây, tháng giêng hàng năm, trai gái Đại Việt vẫn họp nhau ở đất Bà Dương để chơi trò đánh đu. Chúng ta nên cho người núp sẵn đầu nguồn, đợi họ bắt đầu cuộc chơi thì ập đến bắt hết đem về bắt làm nô lệ, tì thiếp chơi. Như vậy vua quan Đại Việt sẽ tức lộn ruột lên, chắc chắn họ phải xuất quân ra khỏi cõi để trả đũa! Bên ta đã chuẩn bị sẵn, họ làm sao khỏi lọt vào tròng của ta?
Chế Bồng Nga khen:
-Kế ấy hay lắm! Hãy cho thực hiện đi!
Thế là từ tháng 12 Giáp Thìn, một toán quân Chiêm đã đến đầu nguồn Bà Dương phục sẵn. Đầu xuân năm Ất Tỵ* hàng trăm con trai con gái Đại Việt mới lớn kéo nhau ra Bà Dương chơi trò đánh đu như các năm trước. Trong khi cuộc vui đang tiến hành thì quân Chiêm Thành đột ngột xuất hiện. Đám trẻ hoảng hốt chạy tán loạn. Nhưng quân Chiêm đã núp sẵn nhiều nơi nên đã bắt được gần hết. Chỉ có một số nhỏ chạy thoát được!
Hành động gây hấn này đã làm cả triều đình Đại Việt nổi giận. Vua Dụ Tôn muốn cử binh đi đánh trả đũa ngay. Ngài kêu gọi các tướng tình nguyện cầm quân chinh phạt nhưng ai cũng tìm cách thoái thác. Cuối cùng, mọi người đều đề cử Đồng tri môn hạ Đỗ Tử Bình lúc ấy đang đóng quân yểm trợ việc xây thành Hóa Châu làm tướng kéo quân đánh Chiêm Thành. Đỗ Tử Bình nhận được lệnh sợ quá bèn nại cớ lương thực chưa đủ, binh sĩ mệt mỏi vì suốt thời gian qua đã phục dịch trong việc xây đắp thành Hóa Châu mà xin tạm hoãn.
Thấy khiêu khích đến thế mà quân Việt vẫn chưa chịu ra khỏi cõi đánh trả thù, Chế Bồng Nga lại cho một đội quân đi đường biển thình lình đổ bộ tấn công phủ Lâm Bình. Không may quân Chiêm lại gặp phải quan phủ Lâm Bình là Phạm A Song phòng bị quá kỹ nên cũng không làm gì được, phải rút lui. Tuy vậy, quân Việt cũng chẳng thèm truy kích.
Cái tin ấy báo về triều đình Chiêm, Chế Bồng Nga lộ vẻ bực mình nói:
-Người Đại Việt lúc này nhát như con thỏ, cứ ẩn trong hang làm ta khó xử quá.
La Ngai nói:
-Đại Việt suy yếu quá rồi nên chỉ biết lo thế thủ. Quân ta lúc này tinh nhuệ lắm, sao bệ hạ không thử xua thẳng vào Thăng Long một phen, lẽ nào không thắng?
Chế Bồng Nga lắc đầu:
-Tướng giỏi cầm quân phải biết làm sao đánh thắng được giặc mà mình thiệt hại rất ít. Nay quân giặc tuy yếu thật nhưng chúng thủ kỹ như vậy, mình đánh bừa vào, dẫu thắng, giặc chết mười mình cũng chết tám, phỏng được lợi ích gì? Lỡ Chân Lạp hay Xiêm lại thừa cơ hội này đánh sau lưng ta trở tay sao kịp? Nhất định phải dùng kế “điệu hổ ly sơn”, dụ chúng ra khỏi hang ổ mới đánh chúng được! Nếu chúng đã ra ngoài, ta chỉ cần thắng một trận thật oanh liệt, thật tàn nhẫn là cướp được tinh thần chúng. Chúng đã rúng lòng rồi, ta làm mưa làm gió gì mà chẳng được! Rất tiếc là ta chưa tìm ra mưu kế gì để dụ chúng!
Tướng Mục Bà Ma thưa:
-Lần trước thần đã dâng một kế để dụ giặc nhưng không kết quả. Nay thần muốn dâng một kế khác không biết có thể dùng được không?
-Khanh cứ nói ta nghe thử!
-Thưa, bệ hạ thử cử sứ giả mang thư đến Thăng Long, đòi Trần Hạo trả lại đất Hóa Châu. Viện lẽ đất ấy vốn là của Chiêm quốc mà vua Chiêm đã dùng làm sính lễ để cưới công chúa Huyền Trân. Nhưng công chúa Huyền Trân đã tự ý trở về Đại Việt tại sao Đại Việt vẫn giữ lấy đất ấy? Nay xin trả lại Hóa Châu cho Chiêm Thành mới đúng lẽ! Nếu Trần Hạo sợ thế lực của ta mà trả đất lại thì tốt. Ta cũng sẽ nhân đó trả lại họ những người Đại Việt bị ta bắt vừa qua. Hai bên sẽ định lại ranh giới và chấm dứt chuyện thù hằn! Nếu Trần Hạo không chịu, ta dọa sẽ dùng võ lực để lấy lại! Như vậy Đại Việt còn nhịn sao được? Chắc hẳn họ sẽ xuất quân đánh ta!
Chế Bồng Nga mừng rỡ nhìn Mục Bà Ma nói:
-Hay lắm! Khanh đã nghĩ ra cái kế độc này Đại Việt làm sao nhịn nổi nữa? Khanh có thể đi sứ Đại Việt giúp ta luôn không?
-Bệ hạ đã sai khiến, thần xin tuân mệnh!
Thế là tướng Mục Bà Ma vâng mạng vua Chiêm sang Thăng Long đòi lại đất Hóa Châu.
Từ khi Thượng hoàng Minh Tôn mất, Chiêm Thành bỏ hẳn việc triều cống Đại Việt. Vua Dụ Tôn quá ham chơi, đâu nghĩ gì đến việc đó! Những vị trung thần nhìn xa biết rộng hầu hết đã tìm phương ở ẩn cả. Những kẻ còn ở lại, một số thì nín thở đợi thời, một số mặc cho thời thế xoay chuyển, gắng ôm lấy chút tước lộc tới đâu hay tới đó. Vua Dụ Tôn lại quá tin bọn nịnh thần, ai dám bày tỏ lời ngay nữa? Tháng 6 năm Bính Ngọ*, vua ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thiếu úy Trần Ngô Lang ở hương Mễ Sơ đến khuya mới về. Đêm đó vua uống quá say. Đến sông Chữ Gia, thuyền vua bị một bọn côn đồ chận lại cướp mất cả ấn tín lẫn kiếm báu truyền quốc. Vua lấy làm xấu hổ và tin sự việc này là một điềm chẳng lành. Nghĩ mình không còn sống bao lâu nữa, vua càng lao mình vào những cuộc chơi bời trác táng. Vì vậy, mặc cho Chiêm Thành khiêu khích, vua quan không hẹn nhưng đều đồng lòng làm ngơ, cố nhịn nhục.
Cho tới lúc Chiêm Thành ngạo nghễ cử sứ giả đến tận Thăng Long đòi lại đất cũ họ mới giật mình! Lòng tự ái cả vua lẫn quan đều bị đánh động! Vua Dụ Tôn nổi trận lôi đình, truyền đem Mục Bà Ma giam lại. Hoàng thân Nguyên Trác tâu:
-Chiêm Thành lờn mặt quá rồi! Không thể nhịn được nữa! Bệ hạ phải cử binh chinh phạt cho nó chừa cái thói hung hăng đi!
Vua Dụ Tôn nói:
-Quả thật Chiêm Thành đã coi trời đất không ra gì nữa! Trước đây ta đã cử Đỗ Tử Bình đi chinh phạt nhưng Đỗ Tử Bình xem bộ nhát quá, đã tìm cách thoái thác. Nay ta muốn giao ấn nguyên nhung cho Minh tự Trần Thế Hưng lo việc ấy được không?
Hoàng thân Nguyên Trác nhìn Trần Thế Hưng hỏi lại:
-Hoàng thượng tin tài lược của ông, muốn trao ấn nguyên soái cho ông đi trừng phạt Chiêm Thành, ông bằng lòng chứ?
Trần Thế Hưng tâu:
-Thần xin tuân mệnh!
Vua Dụ Tôn bèn cử Trần Thế Hưng làm thống quân , Đỗ Tử Bình làm phó, tiến binh đánh Chiêm Thành. Trần Thế Hưng chỉ huy đại quân đi trước, Đỗ Tử Bình dẫn hậu quân tiếp ứng. Tháng 4 năm Mậu Thân*, quân Trần kéo đến Chiêm Động. Lúc bấy giờ Chế Bồng Nga đã chuẩn bị trước, chọn địa điểm thuận lợi để phục kích sẵn. Sau đó Chế Bồng Nga cho một đạo quân nhỏ ra nghinh quân Trần. Đánh nhau một hồi quân Chiêm thua chạy. Quân Trần hăng hái đuổi theo, thế là lọt vào giữa ổ phục kích. Quân Chiêm liền đổ ra đánh một trận rất ác liệt khiến quân Trần phải tan rã. Trần Thế Hưng bị bắt sống. Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân thấy thế nguy không dám tiếp cứu, vội vã đem quân trở về. Khi về tới Thăng Long, sợ bị vua bắt tội, Đỗ Tử Bình lập tức cho người nhà đem vàng bạc đút lót hai viên Hành khiển là Tâm Đức Ngưu và Nguyễn Thanh Lương. Nhờ vậy, Đỗ Tử Bình chỉ bị vua khiển trách sơ rồi bỏ qua.
Sau khi thắng trận, Chế Bồng Nga cho người sang Đại Việt đề nghị trao đổi tướng Trần Thế Hưng với sứ giả Mục Bà Ma. Vua Dụ Tôn đành phải chấp thuận.
Chế Bồng Nga rút quân về tới Đồ Bàn thì nhận được tin nhà Minh đã đánh đuổi nhà Nguyên ra khỏi Trung Hoa và đóng đô ở Kim Lăng. Ông lo ngại nói:
-Trung Hoa đã đổi chủ, thế nào nhà Minh cũng thị uy với các nước láng giềng! Nếu ta không khéo léo là sinh kẹt ngay!
Thế rồi ông lập tức sai Hổ Đô Man đem hai con voi, hai con hổ và một số sản vật địa phương sang Kim Lăng triều cống để xưng thần. Việc này đã làm vua Minh hài lòng lắm. Vua Minh sai Ngô Dụng sang Chiêm đáp lễ ban cho Chiêm vương một bức thư có đóng dấu ngọc tỉ như sau:
“Ngày mồng 4 tháng 2 năm nay, Hổ Đô Man đến dâng cọp, voi; lòng thành của Vương trẫm đã hiểu rõ. Tuy nhiên khi Hổ Đô Man chưa tới, sứ giả của trẫm cũng đã sẵn sàng đi đến nước Quốc vương. Sứ giả của trẫm đến báo cho Quốc vương biết rằng trước đây nước Trung Hoa bị rợ Hồ (Mông Cổ) trộm chiếm hàng trăm năm, khiến tập tục man di đầy rẫy, phế bỏ phong hóa Trung Hoa. Trẫm khởi binh trong vòng 20 năm, dẹp sạch bọn chúng, làm chủ Trung Hoa, thiên hạ bình an. Sợ các Di trong bốn phương chưa biết nên sai sứ giả báo tin cho các nước. Không ngờ sứ giả của vương tới trước, lòng thành thể hiện vững vàng, khiến trẫm rất vui. Nay ban một bản lịch Đại Thống, 40 bộ y phục lụa là, lụa ỷ dệt kim tuyến, sai người đưa sứ giả về nước. Lại dụ Vương về đạo thờ nước lớn, Vương nên phụng thừa coi như đạo trời, khiến dân Chiêm Thành yên với nghề nghiệp, Vương giữ được lộc vị truyền đến con cháu, trời đất soi xét sự cố gắng, Vương chớ xem thường”.
Được thiên triều ân cần phủ dụ, Chế Bồng Nga rất mừng. Thế là ông vững tâm theo đuổi ý định chinh phạt Đại Việt. Để giành lấy lẽ phải về mình, Chế Bồng Nga đã sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô sang Kim Lăng tạ ơn đồng thời tố cáo vụ Đại Việt đã đem quân đánh Chiêm Thành năm trước trong đó có đoạn như sau: “… Vua An Nam đã sai Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình đem đại quân xâm lấn nước thần. Nhưng nhờ hồng phúc của bệ hạ, nước thần đã đánh tan quân xâm lược, bắt sống được thống quân của giặc là Trần Thế Hưng. Tuy vậy, thần vẫn sợ An Nam sẽ tìm cách trả thù. Vì vậy, cúi xin bệ hạ thể hiện đức hiếu sinh, trừng phạt nặng nước An Nam để răn đe những kẻ vô đạo hiếu chiến tàn hại dân lành…”.
Cử sứ giả đi xong, Chế Bồng Nga tiếp tục chuẩn bị việc Bắc chinh. Lúc bấy giờ Đại Việt cũng đã cử sứ giả sang cống Minh triều nên vua Minh cố làm ra vẻ công bằng, cho Hàn lâm viện biên tu La Phục Nhân, Chủ sự bộ binh Trương Phúc mang thư đến cả hai nước Đại Việt lẫn Chiêm Thành để dàn hòa như sau:
“Trẫm vốn xuất thân từ giới bình dân, nhân thiên hạ loạn bèn khởi binh để bảo vệ làng xóm, không ngờ hào kiệt theo rất đông. Trẫm cầm binh vài năm, đất đai mở rộng, quân lính cường thịnh, được toàn dân tôn lên làm vua trị thiên hạ, nối dòng chính thống, đến nay đã được 3 năm. Các nước ngoài đến triều cống thì An Nam là nước đầu tiên, thứ đến Cao Ly rồi Chiêm Thành. Tất cả đều dâng biểu xưng thần, hợp với chế độ xưa, khiến trẫm rất vui lòng.
Mới đây Chiêm Thành sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô đến cống, tâu rằng An Nam mang binh đến xâm nhiễu, trẫm xem tờ trình lòng không được yên. Nghĩ rằng hai nước các ngươi từ xưa đến nay, cương vực đã định sẵn, đó là ý trời, không thể cậy mạnh mà làm càn. Huống đất đai các ngươi, cách Trung Hoa hết núi đến biển, lời nói về sự xâm nhiễu nhất thời khó mà biết được để trình bày rõ ràng cho trẫm hay. Các người được truyền đời nối đời đã lâu, việc giữ đất an dân, trên phụng đạo trời, tôn kính Trung Hoa, những việc này Vương trước của các ngươi chắc đã để lại lời dạy bảo, không đợi trẫm dụ mới biết. Trẫm làm chủ thiên hạ, việc đáng làm là trị loạn dẹp nguy, nay sai sứ đi quan sát sự việc, hiểu dụ các ngươi phải sợ trời, thủ phận. Nếu như cả hai dùng binh, năm này qua năm khác không ngừng, làm độc hại sinh linh, thượng đế hiếu sinh sẽ không bằng lòng, e rằng trên thì trời ghét, dưới thì lòng dân oán hận, mối họa sẽ không tránh được! Vương hai nước hãy nghe lời trẫm, tuân theo đạo lý, yên phận mình, để con cháu các ngươi được hưởng phúc lâu bền, há lại không tốt đẹp hơn ư? Khi chiếu thư tới, hai nước hãy tuân lệnh bãi binh!”
Khi sứ giả Trung Hoa đã về nước, La Ngai hỏi Chế Bồng Nga:
-Bây giờ vua Minh hạ chiếu dàn hòa như vậy bệ hạ tính sao?
Chế Bồng Nga cười mà nói:
-Vua Minh hạ chiếu cứ hạ chiếu, việc mình đã định mình cứ làm!
La Ngai hỏi lại:
-Như vậy là mình vẫn chuẩn bị đánh Đại Việt? Làm trái ý vua Minh như vậy lỡ vua Minh nổi giận giúp Đại Việt đánh ta thì sao?
Chế Bồng Nga lại cười:
-Khanh chớ ngại chuyện đó! Vua Minh hạ chiếu thư dàn hòa chiếu lệ để làm vừa lòng cả đôi bên thôi! Thực chất lão lại muốn cho đôi bên xung đột để lão thủ lợi đấy chứ! Ta còn lạ gì cái thói đểu giả của bọn vua quan Trung Hoa? Bên ngoài họ luôn lấy lễ giáo để ru ngủ thiên hạ nhưng chính họ làm chuyện gian tà độc ác hơn ai hết! Xưa nay không biết đã bao nhiêu nước vì tin vào những lời đạo đức của bọn vua quan Trung Hoa mà bị diệt vong đấy! Nếu Minh triều thấy ta suy yếu, họ sẽ tìm cách nuốt lốn nước ta ngay! Vì vậy, ta đánh Đại Việt cũng là một cách biểu dương lực lượng cho người Minh gờm mà đừng nghĩ đến chuyện thôn tính nước ta! Ta tin chắc khi chiến tranh giữa hai nước Chiêm Việt xảy ra, vua Minh cũng chỉ đứng ngoài can gián suông mà thôi! Đợi đến khi nào cả hai bên suy kiệt hết họ mới nhúng tay vào. Nhưng với ta họ chớ hòng!
La Ngai lại nói:
-Với ta thì khỏi lo, nhưng lần này Đại Việt sẽ đi về đâu?
Chế Bồng Nga nói:
-Đại Việt sẽ đi về đâu? Khanh nghĩ Đại Việt sẽ bị Trung Hoa nuốt ư? Khó lắm! Đại Việt đã từng là một cục xương mà Trung Hoa nuốt mãi không trôi! Ta mắc gì mà lo!
Nói xong Chế Bồng Nga cười một tràng dài sảng khoái.
Vua Dụ Tôn tuy có nhiều thê thiếp nhưng khi đã ngoài 30 tuổi ngài vẫn chưa có một mụn con nào. Hiến Từ thái hậu đã cho cầu đảo nhiều nơi nhưng vẫn không kết quả. Người anh cùng cha cùng mẹ của ngài là Cung Túc vương Nguyên Dục (đã mất) cũng không con. Hiến Từ thái hậu thất vọng hết sức: Dòng con đích của vua Minh Tôn có nguy cơ bị tuyệt tự! Thái hậu rất hoang mang trong việc lựa chọn người kế nghiệp sau này. Cuối cùng Thái hậu nghĩ đến người con nuôi của Cung Túc vương Nguyên Dục là Nhật Lễ. Vua Dụ Tôn thấy mẹ chăm sóc Nhật Lễ thì biết ý nên cũng chiếu cố đến Nhật Lễ nhiều hơn. Nhưng ngài vẫn còn do dự chưa quyết định lập tự. Sau vụ thua trận của Minh tự Trần Thế Hưng, vua Dụ Tôn buồn rầu mà sinh bệnh. Các ngự y đã hết lòng chạy chữa nhưng bệnh vẫn mỗi ngày mỗi tăng. Giữa năm Kỷ Dậu*, thấy bệnh đã ngặt, biết mình không thể sống nổi, Dụ Tôn cho mời các quan đến giường bệnh ngỏ ý truyền ngôi cho Trần Nhật Lễ rồi qua đời. Vua ở ngôi được 28 năm, thọ 34 tuổi.
Trần Nhật Lễ vốn gốc họ Dương. Hồi còn sống, vua Dụ Tôn vẫn truyền các vương hầu, công chúa lần lượt thay nhau tổ chức những cuộc hát chèo, diễn các tuồng tích xưa tại gia để ngài và các quan đến thưởng thức. Lúc bấy giờ các bộ môn này mới được du nhập từ Trung Hoa vào, rất mới mẻ, hấp dẫn nên vua quan Đại Việt đều ưa thích. Cung Túc vương Nguyên Dục tuy là con dòng đích, lại là anh của vua Dụ Tôn, nhưng vì tính khí Nguyên Dục thất thường nên vua Minh Tôn bỏ đi mà chọn vua Dụ Tôn kế vị. Nguyên Dục rất say mê xem hát tuồng. Hôm xem tuồng “Vương Mẫu Hiến Bàn Đào”, vương thấy vợ con hát Dương Khuông là Đào thị đóng vai Tây Vương Mẫu đẹp lộng lẫy quá đâm ra si mê. Thế rồi vương ép Dương Khuông nhường Đào thị cho mình. Lúc ấy Đào thị đã mang thai với Dương Khuông hơn ba tháng. Vương vì quá si tình, bất chấp việc đó. Nửa năm sau Đào thị sinh được một bé trai. Vương nhận đứa bé làm con, đặt tên Trần Nhật Lễ. Khi vua Dụ Tôn gần mất, ông ngỏ ý với quần thần truyền ngôi cho Nhật Lễ. Các tôn thất nhà Trần và bá quan biết Nhật Lễ không phải gốc họ Trần nên không muốn tôn lập. Hiến Từ hoàng thái hậu bênh Nhật Lễ bèn nói:
-Cung Túc vương là con trưởng dòng đích đã không được làm vua lại mất sớm, thiệt thòi nhiều rồi. Nhật Lễ không phải là con của Cung Túc vương sao?
Mọi người kính sợ hoàng thái hậu mới tôn Nhật Lễ lên ngôi. Nhật Lễ bèn đổi niên hiệu là Đại Định, tôn Hiến Từ hoàng thái hậu làm Hiến Từ Tuyên Thánh thái hoàng thái hậu, truy tôn cha là Nguyên Dục làm hoàng thái bá, tôn mẹ Đào thị làm hoàng thái phi, lập con gái của Cung Định vương Trần Phủ làm hoàng hậu.
Chế Bồng Nga lại cười:
-Khanh chớ ngại chuyện đó! Vua Minh hạ chiếu thư dàn hòa chiếu lệ để làm vừa lòng cả đôi bên thôi! Thực chất lão lại muốn cho đôi bên xung đột để lão thủ lợi đấy chứ! Ta còn lạ gì cái thói đểu giả của bọn vua quan Trung Hoa? Bên ngoài họ luôn lấy lễ giáo để ru ngủ thiên hạ nhưng chính họ làm chuyện gian tà độc ác hơn ai hết! Xưa nay không biết đã bao nhiêu nước vì tin vào những lời đạo đức của bọn vua quan Trung Hoa mà bị diệt vong đấy! Nếu Minh triều thấy ta suy yếu, họ sẽ tìm cách nuốt lốn nước ta ngay! Vì vậy, ta đánh Đại Việt cũng là một cách biểu dương lực lượng cho người Minh gờm mà đừng nghĩ đến chuyện thôn tính nước ta! Ta tin chắc khi chiến tranh giữa hai nước Chiêm Việt xảy ra, vua Minh cũng chỉ đứng ngoài can gián suông mà thôi! Đợi đến khi nào cả hai bên suy kiệt hết họ mới nhúng tay vào. Nhưng với ta họ chớ hòng!
La Ngai lại nói:
-Với ta thì khỏi lo, nhưng lần này Đại Việt sẽ đi về đâu?
Chế Bồng Nga nói:
-Đại Việt sẽ đi về đâu? Khanh nghĩ Đại Việt sẽ bị Trung Hoa nuốt ư? Khó lắm! Đại Việt đã từng là một cục xương mà Trung Hoa nuốt mãi không trôi! Ta mắc gì mà lo!
Nói xong Chế Bồng Nga cười một tràng dài sảng khoái.
Vua Dụ Tôn tuy có nhiều thê thiếp nhưng khi đã ngoài 30 tuổi ngài vẫn chưa có một mụn con nào. Hiến Từ thái hậu đã cho cầu đảo nhiều nơi nhưng vẫn không kết quả. Người anh cùng cha cùng mẹ của ngài là Cung Túc vương Nguyên Dục (đã mất) cũng không con. Hiến Từ thái hậu thất vọng hết sức: Dòng con đích của vua Minh Tôn có nguy cơ bị tuyệt tự! Thái hậu rất hoang mang trong việc lựa chọn người kế nghiệp sau này. Cuối cùng Thái hậu nghĩ đến người con nuôi của Cung Túc vương Nguyên Dục là Nhật Lễ. Vua Dụ Tôn thấy mẹ chăm sóc Nhật Lễ thì biết ý nên cũng chiếu cố đến Nhật Lễ nhiều hơn. Nhưng ngài vẫn còn do dự chưa quyết định lập tự. Sau vụ thua trận của Minh tự Trần Thế Hưng, vua Dụ Tôn buồn rầu mà sinh bệnh. Các ngự y đã hết lòng chạy chữa nhưng bệnh vẫn mỗi ngày mỗi tăng. Giữa năm Kỷ Dậu*, thấy bệnh đã ngặt, biết mình không thể sống nổi, Dụ Tôn cho mời các quan đến giường bệnh ngỏ ý truyền ngôi cho Trần Nhật Lễ rồi qua đời. Vua ở ngôi được 28 năm, thọ 34 tuổi.
Trần Nhật Lễ vốn gốc họ Dương. Hồi còn sống, vua Dụ Tôn vẫn truyền các vương hầu, công chúa lần lượt thay nhau tổ chức những cuộc hát chèo, diễn các tuồng tích xưa tại gia để ngài và các quan đến thưởng thức. Lúc bấy giờ các bộ môn này mới được du nhập từ Trung Hoa vào, rất mới mẻ, hấp dẫn nên vua quan Đại Việt đều ưa thích. Cung Túc vương Nguyên Dục tuy là con dòng đích, lại là anh của vua Dụ Tôn, nhưng vì tính khí Nguyên Dục thất thường nên vua Minh Tôn bỏ đi mà chọn vua Dụ Tôn kế vị. Nguyên Dục rất say mê xem hát tuồng. Hôm xem tuồng “Vương Mẫu Hiến Bàn Đào”, vương thấy vợ con hát Dương Khuông là Đào thị đóng vai Tây Vương Mẫu đẹp lộng lẫy quá đâm ra si mê. Thế rồi vương ép Dương Khuông nhường Đào thị cho mình. Lúc ấy Đào thị đã mang thai với Dương Khuông hơn ba tháng. Vương vì quá si tình, bất chấp việc đó. Nửa năm sau Đào thị sinh được một bé trai. Vương nhận đứa bé làm con, đặt tên Trần Nhật Lễ. Khi vua Dụ Tôn gần mất, ông ngỏ ý với quần thần truyền ngôi cho Nhật Lễ. Các tôn thất nhà Trần và bá quan biết Nhật Lễ không phải gốc họ Trần nên không muốn tôn lập. Hiến Từ hoàng thái hậu bênh Nhật Lễ bèn nói:
-Cung Túc vương là con trưởng dòng đích đã không được làm vua lại mất sớm, thiệt thòi nhiều rồi. Nhật Lễ không phải là con của Cung Túc vương sao?
Mọi người kính sợ hoàng thái hậu mới tôn Nhật Lễ lên ngôi. Nhật Lễ bèn đổi niên hiệu là Đại Định, tôn Hiến Từ hoàng thái hậu làm Hiến Từ Tuyên Thánh thái hoàng thái hậu, truy tôn cha là Nguyên Dục làm hoàng thái bá, tôn mẹ Đào thị làm hoàng thái phi, lập con gái của Cung Định vương Trần Phủ làm hoàng hậu.
Từ
khi lên làm vua, Nhật Lễ ít khi ngó ngàng đến việc triều chính mà bắt
đầu rượu chè bê bết, dâm dật hoang đàng còn hơn cả vua Dụ Tôn trước đó.
Đào hoàng thái phi cũng kiêu lộng khác thường. Hồi còn là con hát, đóng
các vai Tây Vương Mẫu, Võ Tắc Thiên, Lã Hậu là những người đàn bà có đủ
quyền sinh sát thiên hạ, bà cũng từng mơ ước làm sao những tuồng tích
mình đóng bỗng nhiên biến thành sự thật. Nào ngờ con tạo trớ trêu lại
khiến bà trở thành vị hoàng thái phi thật! Khi đã được thỏa chí bình
sinh, bà chẳng coi ai ra gì nữa. Thấy các hoàng thân quốc thích vẫn còn
dựa vào nề nếp cũ, can ngăn, phê phán những hành vi của Nhật Lễ, bà rất
bất bình. Một hôm, khi Nhật Lễ đến viếng mẹ, Đào thị nói:
-Hoàng nhi phải biết, làm vua phải có cái quyền của ông vua. Mẹ đã đóng nhiều tuống tích xưa, mẹ biết hết. Các ông vua xưa như Tần Thủy Hoàng, Hạng Vũ, Tào Phi đều muốn làm gì thì làm, muốn cho ai sống thì sống, muốn cho ai chết thì chết. Đâu như hoàng nhi uống một chung rượu cũng có người can, muốn coi một tuồng hát cũng có người gián. Nhất là mấy cái ông hoàng thân cứ ỷ thân tộc, vai trên, luôn ngăn cản những cuộc vui của hoàng nhi, như vậy làm vua đâu có sung sướng gì? Hoàng nhi phải làm sao cho họ khiếp sợ, không dám can gián gì nữa, đó mới thật là oai quyền của một ông vua!
Nhật Lễ nói:
-Thuở xưa con không biết sao chứ mới đây các thầy học đều dạy con, dù mình làm vua, vẫn phải nghe lời chú bác khuyên răn. Vì chú bác là những người cùng dòng họ với mình, trung thành với mình, sẽ cùng sống chết với mình khi nguy biến hơn người ngoài. Những khi họ ngăn cản những cuộc vui của con, con cũng bực mình lắm, nhưng biết làm sao?
Đào thị nói:
-Hoàng nhi tưởng mấy lão hoàng thân ấy cùng dòng họ với hoàng nhi sao? Mẹ nói cho hoàng nhi biết, hoàng nhi không phải họ Trần đâu! Họ gốc của hoàng nhi là họ Dương đấy!
Nhật Lễ ngạc nhiên hỏi:
-Mẹ nói thật ư? Sao lại có sự việc như thế?
Đào thị bèn kể ngọn ngành gốc gác thật của Nhật Lễ ra. Nhật Lễ nghe xong than:
-Trời đất ơi! Hóa ra con là người họ Dương! Bây giờ mình quyền quí cao sang thế này mà phải mang họ người khác thì đâu còn vinh dự gì?
-Hoàng nhi cũng nghĩ đến điều đó hở? Muốn cho họ Dương được vinh dự thì cứ việc đổi lại họ cũ thôi! Hoàng nhi gốc họ Dương đổi lại họ Dương đâu ai trách!
-Con chỉ sợ thiên hạ không phục thôi!
-Ai dám không phục chứ? Làm vua là do mạng trời chứ đâu phải tự con người làm nên? Nay trời đã trao thiên hạ cho hoàng nhi ai dám phản đối? Nếu hoàng nhi còn ngại ngùng thì cứ tạo vây cánh cho thật vững và kiếm cách tỉa dần đám thân vương có uy tín đi là xong.
Nhật Lễ nghe lời mẹ, cấu kết với bọn tiểu nhân để tạo thế lực mưu đồ thực hiện việc đổi lại họ Dương. Người triệt để hưởng ứng mưu đồ đó nhất lại chính là một người trong tôn thất nhà Trần: Trần Nhật Hạch. Hạch là cháu nội của Văn Hiến hầu ngày trước. Sau khi vụ án giết hại Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn được phanh phui minh bạch, vua Minh Tôn đã giáng Văn Hiến hầu làm thứ dân, xóa tên trong sổ hoàng tộc. Đến đời Dụ Tôn, Nhật Hạch nhờ dâng nhiều thóc trong vụ chẩn cứu dân đói nên được cho phục hồi họ cũ và được triệu dụng. Tuy thế, các tôn thất nhà Trần đa số vẫn có thái độ lạt lẽo, coi thường Nhật Hạch. Vì vậy, Nhật Hạch đâm ra căm hận họ. Tới khi Nhật Lễ lên làm vua, Nhật Hạch liền ra mặt ôm chân Nhật Lễ. Gặp cơ hội vừa được rửa hận, vừa được thăng tiến, lẽ nào Nhật Hạch lại bỏ qua? Được sự hậu thuẫn của Nhật Hạch, Nhật Lễ càng nghênh ngang không còn biết nể sợ ai nữa. Hiến Từ thái hoàng thái hậu thấy mối nguy cơ ấy đâm ra hối hận, bà than:
-Nó hư hỏng quá rồi! Nó phản rồi! Nếu biết trước vậy, ta đâu có giành ngôi báu cho nó!
Không ngờ lời than thở đó lọt đến tai Nhật Lễ. Nhật Lễ bí mật cho người bỏ thuốc độc vào thức ăn của Thái hoàng thái hậu. Một hôm Thái hoàng thái hậu dùng cơm nửa chừng thì ói máu ra mà mất.
Thấy Nhật Lễ hành động tàn bạo như vậy, Thái tể Nguyên Trác cùng con là Nguyên Tiết với hai người con trai của công chúa Thiên Ninh và một số tôn thất bèn họp nhau để tìm cách đối phó. Một đêm kia, họ bất ngờ xông vào thành định giết Nhật Lễ. Nhật Lễ trèo qua tường, trốn dưới một gầm cầu. Mọi người lùng sục một hồi không thấy, bèn bỏ ra về. Khi trời sắp sáng, Nhật Lễ vào cung, chia người đi bắt cả thảy 18 người đã dự mưu ám hại mình. Cả bọn Nguyên Trác đều bị giết cả.
Nhật Lễ cũng muốn giết luôn cha vợ là Cung Định vương Trần Phủ lúc ấy đang giữ chức Thái sư Tả tướng quốc. Chi hậu nội nhân phó chưởng Nguyễn Nhiên biết được liền cấp tốc tìm gặp Cung Định vương báo tin:
-Ông phải lánh đi nơi khác ngay! Hoàng thượng sắp cho người đến bắt ông đấy!
Cung Định vương hoảng sợ nửa đêm tìm đến nhà quan Thiếu úy Trần Ngô Lang lánh nạn. Trần Ngô Lang ngạc nhiên hỏi:
-Thái sư Tả tướng quốc có việc gì mà nửa đêm phải đến đây vậy?
Cung Định vương đáp:
-Hoàng thượng đang muốn giết ta! Ông có cách gì cứu ta không?
Trần Ngô Lang nói:
-Hoàng thượng vô đạo, trước sau cũng gây họa cho nhà Trần. Thái sư là người mà hoàng tộc và cả thiên hạ đang trông cậy, sao không nhân dịp này xướng nghĩa để lấy lại cơ đồ?
Cung Định vương lắc đầu chán nản:
-Ta chẳng có ý muốn làm vua. Điều cần thiết bây giờ là làm sao để thoát nạn đã!
-Nếu Thái sư ở đây thì trước sau hoàng thượng cũng biết, tai họa sẽ lây đến cả tôi nữa. Chi bằng cứ lên Đà Giang tạm lánh rồi tính sau. Tôi sẽ ngầm thông báo việc này cho các vương thân, họ sẽ lên gặp Thái sư ở đó.
-Không được đâu! Nếu biết ta ở đó, thế nào hoàng thượng cũng cho quân lên bắt thôi!
-Thái sư khỏi lo! Tôi đang được hoàng thượng tin tưởng, nếu hoàng thượng phái quân đi, tôi sẽ có cách giúp Thái sư an toàn.
Cung Định vương nghe Trần Ngô Lang nói không tin tưởng lắm. Nhưng chẳng biết tính sao nữa, đành lặn lội lên trấn Đà Giang. Quả đúng như Trần Ngô Lang hứa, mấy ngày sau Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán và Thiên Ninh công chúa cũng đến hội ở đấy.
Nhật Lễ được tin Cung Định vương Trần Phủ đã đến Đà Giang, liền sai tướng Đinh Thịnh đem một đội quân đi bắt. Trần Ngô Lang dặn nhỏ với Đinh Thịnh:
-Kim thượng vô đạo không giữ mình được lâu đâu! Ông đi chuyến này đừng đánh đấm gì cả mà nên ở lại giúp Cung Định vương. Ngài sẽ trở về làm vua đó!
Đinh Thịnh vốn chẳng ưa gì Nhật Lễ nên vâng chịu ngay. Thấy sai đội quân của Đinh Thịnh đi bắt Cung Định vương không kết quả, Nhật Lễ lại lần lượt sai hai đội quân khác đi bắt tiếp. Nhưng cũng như đội quân của Đinh Thịnh, họ đều nghe lời dặn ngầm của Trần Ngô Lang, ở lại với Cung Định vương cả. Nhật Lễ lo sợ hỏi Trần Ngô Lang:
-Sao ta sai tướng nào đi bắt Trần Phủ họ cũng không về thế nhỉ? Quân giữ kinh đô hao hụt quá làm sao bây giờ?
Trần Ngô Lang nói:
-Có lẽ họ là những tướng nhẹ dạ nên bị Trần Phủ dụ dỗ chăng? Bệ hạ tuyển một đội quân khác cho thần đi một chuyến chắc bắt được Trần Phủ thôi!
Nhật Lễ khoát tay:
-Thôi thôi! Đi ba đội hao hụt quân số bảo vệ kinh thành lắm rồi. Lúc này nếu đưa thêm quân ngoài về đây làm sao ta tin tưởng được? Ông là người ta trông cậy, ông đi nữa ta biết bàn việc với ai?
Khoảng giữa tháng 11 năm Nhâm Tuất*, thấy lực lượng theo Cung Định vương đã đủ mạnh, các tôn thất bèn khuyên vương dựng cờ xướng nghĩa. Vương dùng dằng không chịu. Thiên Ninh công chúa nói:
-Thiên hạ này là của ông cha chúng ta, lẽ nào lại vứt bỏ cho người khác? Anh cứ mạnh dạn lên, chúng em sẽ tận lực phò tá anh!
Lúc ấy Cung Định vương mới quyết định khởi binh. Các vương thân bèn tôn Cung Định vương lên ngôi vua ở phủ Kiến Hưng, đổi niên hiệu là Thiệu Khanh, giáng Nhật Lễ xuống làm Hôn Đức công. Vua tự xưng là Nghĩa hoàng (khi Nghĩa hoàng mất được tôn miếu hiệu là Nghệ Tôn, vậy từ đây xin gọi là vua Nghệ Tôn cho tiện) rồi ngự giá về đóng ở Đông Bộ Đầu.
Tin này lan tới kinh đô, Nhật Lễ lo sợ hội triều thần lại bàn cách đối phó. Nhật Lễ nói:
-Nghe tin Trần Phủ đã làm phản xưng vua ở Kiến Hưng, bây giờ ta nên làm thế nào?
Đào hoàng thái phi nói:
-Hoàng nhi chớ hoảng hốt! Trước kia mẹ đóng tuồng thấy khi Ngũ Tử Tư nước Ngô đánh bại nước Sở, tướng Sở là Thân Bao Tư liền chạy sang nước Tần cầu cứu. Sau đó nước Tần đem quân giúp nước Sở, nước Ngô sợ phải rút quân về. Hoàng nhi cứ bình tĩnh lo công việc. Nếu có chuyện gì mẹ sẽ sang cầu cứu nước Chiêm Thành cho!
Nhật Lễ biết lỗi mình bỏ bê việc triều chính, giết hại tôn thất nhà Trần, lại mưu đổi lại họ Dương nên mới xảy ra sự việc này thì hối hận lắm. Ông ta lo sợ hỏi lại:
-Nếu sang cầu cứu Chiêm Thành, ta nói thế nào để họ chịu giúp ta?
Trần Nhật Hạch nói:
-Việc này không khó lắm đâu! Cứ nói với vua Chiêm là bệ hạ có ý muốn trả lại hai châu Ô và Rí cho Chiêm Thành để hai nước sống hòa bình với nhau nhưng bọn Trần Phủ không chịu nên làm phản! Thế nào vua Chiêm cũng kéo quân sang giúp ta thôi!
Trần Ngô Lang nói:
-Không nên làm thế! Nếu quả thật Trần Phủ đã làm phản thì thật khó chống! Ông ta nổi tiếng là người có đức lớn, đang được thiên hạ ngưỡng vọng. Quân ta ba lần được sai đi bắt Trần Phủ mà chúng lại đều theo Trần Phủ cả thì đủ biết. Bây giờ quân trấn giữ kinh đô đâu còn bao nhiêu làm sao chống lại nổi? Theo thần nghĩ, bệ hạ nên thoái vị đi, viết một bức thư tạ tội, mặc đồ thường ra đón tận ngoài thành. Trần Phủ là người nhân hậu, bệ hạ lại là con rể, chắc ông ta sẽ tha lỗi cho bệ hạ.
Trần Nhật Hạch giận dữ nói:
-Trần Ngô Lang muốn theo Trần Phủ làm phản rồi! Bệ hạ nên chém đầu hắn ngay!
Trần Ngô Lang cãi lại:
-Ta trình bày lẽ lợi hại cho hoàng thượng nghe sao ngươi dám nói là ta phản? Ngươi phải biết hoàng hậu chính là con ruột của Trần Phủ, Trần Phủ là người có đức lẽ nào lại muốn con gái mình trở thành kẻ góa bụa? Bộ ngươi muốn bệ hạ phải đem thân đi nhờ vã Chiêm Thành sao?
Nhật Lễ suy nghĩ một hồi rồi thuận nghe theo Trần Ngô Lang. Khi đón vua Nghệ Tôn trước cổng thành, Nhật Lễ phủ phục xuống đất xin tạ tội. Vua ôm Nhật Lễ rơi lệ mà nói:
-Không ngờ hôm nay sự thể lại đến thế này!
Cung Tuyên vương Trần Kính tuốt gươm ra quát:
-Nay vâng mệnh trời, đánh kẻ có tội. Tên tội nhân kia sao còn dám nói lôi thôi! Bệ hạ há vì lòng nhân từ bịn rịn mà bỏ mất nghĩa lớn sao?
Thế rồi Cung Tuyên vương bảo kẻ tả hữu lôi Nhật Lễ ra giữ lại. Các quan trong triều đều ra lạy mừng vua Nghệ Tôn. Vua nói với Chi hậu nội nhân phó chưởng Nguyễn Nhiên và Thiếu úy Trần Ngô Lang:
-Nếu không có hai ông tận tình che chở, giúp đỡ ta làm sao có ngày nay được? Ta sẽ trả ơn hai ông thật xứng đáng!
Nhật Lễ nghe được lời ấy mới biết mình đã nuôi ong tay áo, căm giận Trần Ngô Lang lắm. Sau đó vua Nghệ Tôn truyền giam Nhật Lễ ở phường Giang Khẩu. Trần Ngô Lang thấy Nhật Lễ đã ra thân như thế cũng thương hại, bịn rịn đi theo an ủi. Nhật Lễ bèn gọi Trần Ngô Lang vào trong màn, nói dối rằng:
-Ta còn một hũ vàng để trong cung, ngươi hãy đi lấy về đây!
Trần Ngô Lang quì xuống vâng lệnh. Nhật Lễ thừa dịp bóp cổ Trần Ngô Lang đến chết.
Vua Nghệ Tôn biết được nổi giận sai giết Nhật Lễ cùng với con trai của y là Liễu rồi truy tặng Trần Ngô Lang làm Nhập nội tư mã, ban tên thụy là Trung Mẫn Á vương.
Giết xong Nhật Lễ, vua Nghệ Tôn lại cho giết luôn Trần Nhật Hạch vì y là người trong hoàng tộc nhưng lại xúi giục Nhật Lễ giết hại các tôn thất.
Khi thấy con mình là Nhật Lễ bị giam rồi bị giết, Đào thị hoảng sợ dẫn mấy tên đày tớ trung thành chạy trốn. Thầy trò Đào thị cải trang làm dân hàng chợ, đi lần tới biên giới Chiêm Thành. Sau khi đã tìm cách vượt qua được biên giới, thầy trò Đào thị bị một toán quân Chiêm chận bắt. Toán quân Chiêm này sống ở biên giới Chiêm Việt nên cũng có nhiều tên biết tiếng Đại Việt, một tên hỏi:
-Các người là dân ở đâu đến? Định làm gì ở đây?
Đào thị nói:
-Tôi chính là hoàng thái phi Đào thị từ Đại Việt đến đây. Chúng tôi muốn xin diện kiến Chiêm vương để báo việc khẩn. Các người mau đưa chúng tôi đến gặp ngài chắc chắn các người sẽ được thưởng!
Đám lính Chiêm ngỡ vớ được vị quốc mẫu của Đại Việt, mừng rỡ đưa trình ngay với vị chủ tướng đóng ở biên giới. Sau khi hỏi sơ lược cớ sự, vị chủ tướng này thân hành đưa Đào thị thẳng về Đồ Bàn tâu trình với vua Chiêm Chế Bồng Nga.
Vua Chế Bồng Nga đã nuôi sẵn mộng Bắc chinh, chỉ vì qua mấy lần đánh thăm dò, thấy quân Đại Việt các nơi vẫn phòng thủ khá kỹ nên dật dờ chưa khởi sự. Nay nhận được tin Đại Việt có nội biến ông mừng lắm, cho đòi Đào thị vào chầu ngay. Đào thị vừa lạy khóc vừa bẩm:
-Bệ hạ anh minh và nhân hậu, con trai thiếp là vua Đại Định nước Đại Việt đã bị chết thảm dưới tay bọn phản loạn Trần Phủ. Xin bệ hạ minh xét, đem quân đánh Đại Việt để mở rộng đất Chiêm và cũng để trả thù cho con trai thiếp, thiếp xin đội ơn bệ hạ muôn đời!
Vua Chế Bồng Nga lớn giọng:
-Mụ này nói lạ chưa? Ta đánh Đại Việt để mở rộng đất Chiêm thì còn có lý! Tại sao ta phải đánh Đại Việt để trả thù cho con mụ?
Đào thị dập đầu thưa:
-Như vậy là bệ hạ chưa thấu rõ sự tình. Con trai thiếp là vua Đại Định vốn rất nể trọng bệ hạ, muốn hai nước Đại Việt và Chiêm Thành được sống hòa bình bên nhau. Vì thế, con trai thiếp định đem đất châu Ô và châu Rí trả lại cho bệ hạ. Không ngờ bọn Trần Phủ lại có ý muốn ngược lại, đã không chịu trả đất lại còn muốn đánh Chiêm Thành để chiếm thêm đất nữa! Do đó hai bên sinh hiềm khích nhau. Cuối cùng thì bọn Trần Phủ mưu phản giết hại con trai thiếp. Vì thế thiếp mới dám xin bệ hạ đánh Đại Việt để trả thù cho con trai thiếp.
Chế Bồng Nga cười:
-Mụ đàn bà này cũng giỏi khoa khích tướng đấy chứ! Mụ biết tình hình quan quân và dân chúng Đại Việt hiện nay ra sao hãy nói ta nghe thử?
-Tâu bệ hạ, mấy năm nay Đại Việt mất mùa liên tiếp, dân chúng thiếu đói, giặc giã nổi lên khắp nơi. Quan quân phải luôn đi đánh dẹp rất mệt mỏi, chán ngán. Tiếp đó lại trải qua mấy trận đánh nhau giữa con trai thiếp với Trần Phủ quân sĩ lại thêm một phen hao hụt đáng kể. Vả lại, Trần Phủ mới cướp ngôi, quan quân và dân chúng vẫn còn rất nhiều người không phục. Thiếp nghĩ, nếu đem quân đánh Đại Việt lúc này sẽ có nhiều người Việt làm nội ứng cho bệ hạ. Thiếp tin chắc bệ hạ tiến tới đâu sẽ thắng tới đấy. Xin bệ hạ đừng bỏ qua cơ hội này!
Chế Bồng Nga hơi ngạc nhiên vì lý lẽ rành rọt của người đàn bà Đại Việt. Phải chăng ý trời đã gởi vào miệng người đàn bà này? Ông hỏi thêm một số chi tiết về vụ biến động ở Đại Việt. Dĩ nhiên là người đàn bà gốc con hát này cũng khéo léo thêm thắt về sự kém cỏi của nhóm Trần Phủ và tình hình rối loạn của Đại Việt để vua Chiêm phấn khởi và quyết tâm ra quân hơn. “Đúng lắm, ta không thể bỏ qua cơ hội này”. Vua Chiêm nói với Đào thị:
-Được! Ta sẽ đánh Đại Việt để trả thù cho con trai mụ. Cho mụ lui.
-Đa tạ bệ hạ! Đa tạ bệ hạ! – Đào thị dập đầu lạy năm lạy rồi lui ra.
(còn nữa)-Hoàng nhi phải biết, làm vua phải có cái quyền của ông vua. Mẹ đã đóng nhiều tuống tích xưa, mẹ biết hết. Các ông vua xưa như Tần Thủy Hoàng, Hạng Vũ, Tào Phi đều muốn làm gì thì làm, muốn cho ai sống thì sống, muốn cho ai chết thì chết. Đâu như hoàng nhi uống một chung rượu cũng có người can, muốn coi một tuồng hát cũng có người gián. Nhất là mấy cái ông hoàng thân cứ ỷ thân tộc, vai trên, luôn ngăn cản những cuộc vui của hoàng nhi, như vậy làm vua đâu có sung sướng gì? Hoàng nhi phải làm sao cho họ khiếp sợ, không dám can gián gì nữa, đó mới thật là oai quyền của một ông vua!
Nhật Lễ nói:
-Thuở xưa con không biết sao chứ mới đây các thầy học đều dạy con, dù mình làm vua, vẫn phải nghe lời chú bác khuyên răn. Vì chú bác là những người cùng dòng họ với mình, trung thành với mình, sẽ cùng sống chết với mình khi nguy biến hơn người ngoài. Những khi họ ngăn cản những cuộc vui của con, con cũng bực mình lắm, nhưng biết làm sao?
Đào thị nói:
-Hoàng nhi tưởng mấy lão hoàng thân ấy cùng dòng họ với hoàng nhi sao? Mẹ nói cho hoàng nhi biết, hoàng nhi không phải họ Trần đâu! Họ gốc của hoàng nhi là họ Dương đấy!
Nhật Lễ ngạc nhiên hỏi:
-Mẹ nói thật ư? Sao lại có sự việc như thế?
Đào thị bèn kể ngọn ngành gốc gác thật của Nhật Lễ ra. Nhật Lễ nghe xong than:
-Trời đất ơi! Hóa ra con là người họ Dương! Bây giờ mình quyền quí cao sang thế này mà phải mang họ người khác thì đâu còn vinh dự gì?
-Hoàng nhi cũng nghĩ đến điều đó hở? Muốn cho họ Dương được vinh dự thì cứ việc đổi lại họ cũ thôi! Hoàng nhi gốc họ Dương đổi lại họ Dương đâu ai trách!
-Con chỉ sợ thiên hạ không phục thôi!
-Ai dám không phục chứ? Làm vua là do mạng trời chứ đâu phải tự con người làm nên? Nay trời đã trao thiên hạ cho hoàng nhi ai dám phản đối? Nếu hoàng nhi còn ngại ngùng thì cứ tạo vây cánh cho thật vững và kiếm cách tỉa dần đám thân vương có uy tín đi là xong.
Nhật Lễ nghe lời mẹ, cấu kết với bọn tiểu nhân để tạo thế lực mưu đồ thực hiện việc đổi lại họ Dương. Người triệt để hưởng ứng mưu đồ đó nhất lại chính là một người trong tôn thất nhà Trần: Trần Nhật Hạch. Hạch là cháu nội của Văn Hiến hầu ngày trước. Sau khi vụ án giết hại Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn được phanh phui minh bạch, vua Minh Tôn đã giáng Văn Hiến hầu làm thứ dân, xóa tên trong sổ hoàng tộc. Đến đời Dụ Tôn, Nhật Hạch nhờ dâng nhiều thóc trong vụ chẩn cứu dân đói nên được cho phục hồi họ cũ và được triệu dụng. Tuy thế, các tôn thất nhà Trần đa số vẫn có thái độ lạt lẽo, coi thường Nhật Hạch. Vì vậy, Nhật Hạch đâm ra căm hận họ. Tới khi Nhật Lễ lên làm vua, Nhật Hạch liền ra mặt ôm chân Nhật Lễ. Gặp cơ hội vừa được rửa hận, vừa được thăng tiến, lẽ nào Nhật Hạch lại bỏ qua? Được sự hậu thuẫn của Nhật Hạch, Nhật Lễ càng nghênh ngang không còn biết nể sợ ai nữa. Hiến Từ thái hoàng thái hậu thấy mối nguy cơ ấy đâm ra hối hận, bà than:
-Nó hư hỏng quá rồi! Nó phản rồi! Nếu biết trước vậy, ta đâu có giành ngôi báu cho nó!
Không ngờ lời than thở đó lọt đến tai Nhật Lễ. Nhật Lễ bí mật cho người bỏ thuốc độc vào thức ăn của Thái hoàng thái hậu. Một hôm Thái hoàng thái hậu dùng cơm nửa chừng thì ói máu ra mà mất.
Thấy Nhật Lễ hành động tàn bạo như vậy, Thái tể Nguyên Trác cùng con là Nguyên Tiết với hai người con trai của công chúa Thiên Ninh và một số tôn thất bèn họp nhau để tìm cách đối phó. Một đêm kia, họ bất ngờ xông vào thành định giết Nhật Lễ. Nhật Lễ trèo qua tường, trốn dưới một gầm cầu. Mọi người lùng sục một hồi không thấy, bèn bỏ ra về. Khi trời sắp sáng, Nhật Lễ vào cung, chia người đi bắt cả thảy 18 người đã dự mưu ám hại mình. Cả bọn Nguyên Trác đều bị giết cả.
Nhật Lễ cũng muốn giết luôn cha vợ là Cung Định vương Trần Phủ lúc ấy đang giữ chức Thái sư Tả tướng quốc. Chi hậu nội nhân phó chưởng Nguyễn Nhiên biết được liền cấp tốc tìm gặp Cung Định vương báo tin:
-Ông phải lánh đi nơi khác ngay! Hoàng thượng sắp cho người đến bắt ông đấy!
Cung Định vương hoảng sợ nửa đêm tìm đến nhà quan Thiếu úy Trần Ngô Lang lánh nạn. Trần Ngô Lang ngạc nhiên hỏi:
-Thái sư Tả tướng quốc có việc gì mà nửa đêm phải đến đây vậy?
Cung Định vương đáp:
-Hoàng thượng đang muốn giết ta! Ông có cách gì cứu ta không?
Trần Ngô Lang nói:
-Hoàng thượng vô đạo, trước sau cũng gây họa cho nhà Trần. Thái sư là người mà hoàng tộc và cả thiên hạ đang trông cậy, sao không nhân dịp này xướng nghĩa để lấy lại cơ đồ?
Cung Định vương lắc đầu chán nản:
-Ta chẳng có ý muốn làm vua. Điều cần thiết bây giờ là làm sao để thoát nạn đã!
-Nếu Thái sư ở đây thì trước sau hoàng thượng cũng biết, tai họa sẽ lây đến cả tôi nữa. Chi bằng cứ lên Đà Giang tạm lánh rồi tính sau. Tôi sẽ ngầm thông báo việc này cho các vương thân, họ sẽ lên gặp Thái sư ở đó.
-Không được đâu! Nếu biết ta ở đó, thế nào hoàng thượng cũng cho quân lên bắt thôi!
-Thái sư khỏi lo! Tôi đang được hoàng thượng tin tưởng, nếu hoàng thượng phái quân đi, tôi sẽ có cách giúp Thái sư an toàn.
Cung Định vương nghe Trần Ngô Lang nói không tin tưởng lắm. Nhưng chẳng biết tính sao nữa, đành lặn lội lên trấn Đà Giang. Quả đúng như Trần Ngô Lang hứa, mấy ngày sau Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán và Thiên Ninh công chúa cũng đến hội ở đấy.
Nhật Lễ được tin Cung Định vương Trần Phủ đã đến Đà Giang, liền sai tướng Đinh Thịnh đem một đội quân đi bắt. Trần Ngô Lang dặn nhỏ với Đinh Thịnh:
-Kim thượng vô đạo không giữ mình được lâu đâu! Ông đi chuyến này đừng đánh đấm gì cả mà nên ở lại giúp Cung Định vương. Ngài sẽ trở về làm vua đó!
Đinh Thịnh vốn chẳng ưa gì Nhật Lễ nên vâng chịu ngay. Thấy sai đội quân của Đinh Thịnh đi bắt Cung Định vương không kết quả, Nhật Lễ lại lần lượt sai hai đội quân khác đi bắt tiếp. Nhưng cũng như đội quân của Đinh Thịnh, họ đều nghe lời dặn ngầm của Trần Ngô Lang, ở lại với Cung Định vương cả. Nhật Lễ lo sợ hỏi Trần Ngô Lang:
-Sao ta sai tướng nào đi bắt Trần Phủ họ cũng không về thế nhỉ? Quân giữ kinh đô hao hụt quá làm sao bây giờ?
Trần Ngô Lang nói:
-Có lẽ họ là những tướng nhẹ dạ nên bị Trần Phủ dụ dỗ chăng? Bệ hạ tuyển một đội quân khác cho thần đi một chuyến chắc bắt được Trần Phủ thôi!
Nhật Lễ khoát tay:
-Thôi thôi! Đi ba đội hao hụt quân số bảo vệ kinh thành lắm rồi. Lúc này nếu đưa thêm quân ngoài về đây làm sao ta tin tưởng được? Ông là người ta trông cậy, ông đi nữa ta biết bàn việc với ai?
Khoảng giữa tháng 11 năm Nhâm Tuất*, thấy lực lượng theo Cung Định vương đã đủ mạnh, các tôn thất bèn khuyên vương dựng cờ xướng nghĩa. Vương dùng dằng không chịu. Thiên Ninh công chúa nói:
-Thiên hạ này là của ông cha chúng ta, lẽ nào lại vứt bỏ cho người khác? Anh cứ mạnh dạn lên, chúng em sẽ tận lực phò tá anh!
Lúc ấy Cung Định vương mới quyết định khởi binh. Các vương thân bèn tôn Cung Định vương lên ngôi vua ở phủ Kiến Hưng, đổi niên hiệu là Thiệu Khanh, giáng Nhật Lễ xuống làm Hôn Đức công. Vua tự xưng là Nghĩa hoàng (khi Nghĩa hoàng mất được tôn miếu hiệu là Nghệ Tôn, vậy từ đây xin gọi là vua Nghệ Tôn cho tiện) rồi ngự giá về đóng ở Đông Bộ Đầu.
Tin này lan tới kinh đô, Nhật Lễ lo sợ hội triều thần lại bàn cách đối phó. Nhật Lễ nói:
-Nghe tin Trần Phủ đã làm phản xưng vua ở Kiến Hưng, bây giờ ta nên làm thế nào?
Đào hoàng thái phi nói:
-Hoàng nhi chớ hoảng hốt! Trước kia mẹ đóng tuồng thấy khi Ngũ Tử Tư nước Ngô đánh bại nước Sở, tướng Sở là Thân Bao Tư liền chạy sang nước Tần cầu cứu. Sau đó nước Tần đem quân giúp nước Sở, nước Ngô sợ phải rút quân về. Hoàng nhi cứ bình tĩnh lo công việc. Nếu có chuyện gì mẹ sẽ sang cầu cứu nước Chiêm Thành cho!
Nhật Lễ biết lỗi mình bỏ bê việc triều chính, giết hại tôn thất nhà Trần, lại mưu đổi lại họ Dương nên mới xảy ra sự việc này thì hối hận lắm. Ông ta lo sợ hỏi lại:
-Nếu sang cầu cứu Chiêm Thành, ta nói thế nào để họ chịu giúp ta?
Trần Nhật Hạch nói:
-Việc này không khó lắm đâu! Cứ nói với vua Chiêm là bệ hạ có ý muốn trả lại hai châu Ô và Rí cho Chiêm Thành để hai nước sống hòa bình với nhau nhưng bọn Trần Phủ không chịu nên làm phản! Thế nào vua Chiêm cũng kéo quân sang giúp ta thôi!
Trần Ngô Lang nói:
-Không nên làm thế! Nếu quả thật Trần Phủ đã làm phản thì thật khó chống! Ông ta nổi tiếng là người có đức lớn, đang được thiên hạ ngưỡng vọng. Quân ta ba lần được sai đi bắt Trần Phủ mà chúng lại đều theo Trần Phủ cả thì đủ biết. Bây giờ quân trấn giữ kinh đô đâu còn bao nhiêu làm sao chống lại nổi? Theo thần nghĩ, bệ hạ nên thoái vị đi, viết một bức thư tạ tội, mặc đồ thường ra đón tận ngoài thành. Trần Phủ là người nhân hậu, bệ hạ lại là con rể, chắc ông ta sẽ tha lỗi cho bệ hạ.
Trần Nhật Hạch giận dữ nói:
-Trần Ngô Lang muốn theo Trần Phủ làm phản rồi! Bệ hạ nên chém đầu hắn ngay!
Trần Ngô Lang cãi lại:
-Ta trình bày lẽ lợi hại cho hoàng thượng nghe sao ngươi dám nói là ta phản? Ngươi phải biết hoàng hậu chính là con ruột của Trần Phủ, Trần Phủ là người có đức lẽ nào lại muốn con gái mình trở thành kẻ góa bụa? Bộ ngươi muốn bệ hạ phải đem thân đi nhờ vã Chiêm Thành sao?
Nhật Lễ suy nghĩ một hồi rồi thuận nghe theo Trần Ngô Lang. Khi đón vua Nghệ Tôn trước cổng thành, Nhật Lễ phủ phục xuống đất xin tạ tội. Vua ôm Nhật Lễ rơi lệ mà nói:
-Không ngờ hôm nay sự thể lại đến thế này!
Cung Tuyên vương Trần Kính tuốt gươm ra quát:
-Nay vâng mệnh trời, đánh kẻ có tội. Tên tội nhân kia sao còn dám nói lôi thôi! Bệ hạ há vì lòng nhân từ bịn rịn mà bỏ mất nghĩa lớn sao?
Thế rồi Cung Tuyên vương bảo kẻ tả hữu lôi Nhật Lễ ra giữ lại. Các quan trong triều đều ra lạy mừng vua Nghệ Tôn. Vua nói với Chi hậu nội nhân phó chưởng Nguyễn Nhiên và Thiếu úy Trần Ngô Lang:
-Nếu không có hai ông tận tình che chở, giúp đỡ ta làm sao có ngày nay được? Ta sẽ trả ơn hai ông thật xứng đáng!
Nhật Lễ nghe được lời ấy mới biết mình đã nuôi ong tay áo, căm giận Trần Ngô Lang lắm. Sau đó vua Nghệ Tôn truyền giam Nhật Lễ ở phường Giang Khẩu. Trần Ngô Lang thấy Nhật Lễ đã ra thân như thế cũng thương hại, bịn rịn đi theo an ủi. Nhật Lễ bèn gọi Trần Ngô Lang vào trong màn, nói dối rằng:
-Ta còn một hũ vàng để trong cung, ngươi hãy đi lấy về đây!
Trần Ngô Lang quì xuống vâng lệnh. Nhật Lễ thừa dịp bóp cổ Trần Ngô Lang đến chết.
Vua Nghệ Tôn biết được nổi giận sai giết Nhật Lễ cùng với con trai của y là Liễu rồi truy tặng Trần Ngô Lang làm Nhập nội tư mã, ban tên thụy là Trung Mẫn Á vương.
Giết xong Nhật Lễ, vua Nghệ Tôn lại cho giết luôn Trần Nhật Hạch vì y là người trong hoàng tộc nhưng lại xúi giục Nhật Lễ giết hại các tôn thất.
Khi thấy con mình là Nhật Lễ bị giam rồi bị giết, Đào thị hoảng sợ dẫn mấy tên đày tớ trung thành chạy trốn. Thầy trò Đào thị cải trang làm dân hàng chợ, đi lần tới biên giới Chiêm Thành. Sau khi đã tìm cách vượt qua được biên giới, thầy trò Đào thị bị một toán quân Chiêm chận bắt. Toán quân Chiêm này sống ở biên giới Chiêm Việt nên cũng có nhiều tên biết tiếng Đại Việt, một tên hỏi:
-Các người là dân ở đâu đến? Định làm gì ở đây?
Đào thị nói:
-Tôi chính là hoàng thái phi Đào thị từ Đại Việt đến đây. Chúng tôi muốn xin diện kiến Chiêm vương để báo việc khẩn. Các người mau đưa chúng tôi đến gặp ngài chắc chắn các người sẽ được thưởng!
Đám lính Chiêm ngỡ vớ được vị quốc mẫu của Đại Việt, mừng rỡ đưa trình ngay với vị chủ tướng đóng ở biên giới. Sau khi hỏi sơ lược cớ sự, vị chủ tướng này thân hành đưa Đào thị thẳng về Đồ Bàn tâu trình với vua Chiêm Chế Bồng Nga.
Vua Chế Bồng Nga đã nuôi sẵn mộng Bắc chinh, chỉ vì qua mấy lần đánh thăm dò, thấy quân Đại Việt các nơi vẫn phòng thủ khá kỹ nên dật dờ chưa khởi sự. Nay nhận được tin Đại Việt có nội biến ông mừng lắm, cho đòi Đào thị vào chầu ngay. Đào thị vừa lạy khóc vừa bẩm:
-Bệ hạ anh minh và nhân hậu, con trai thiếp là vua Đại Định nước Đại Việt đã bị chết thảm dưới tay bọn phản loạn Trần Phủ. Xin bệ hạ minh xét, đem quân đánh Đại Việt để mở rộng đất Chiêm và cũng để trả thù cho con trai thiếp, thiếp xin đội ơn bệ hạ muôn đời!
Vua Chế Bồng Nga lớn giọng:
-Mụ này nói lạ chưa? Ta đánh Đại Việt để mở rộng đất Chiêm thì còn có lý! Tại sao ta phải đánh Đại Việt để trả thù cho con mụ?
Đào thị dập đầu thưa:
-Như vậy là bệ hạ chưa thấu rõ sự tình. Con trai thiếp là vua Đại Định vốn rất nể trọng bệ hạ, muốn hai nước Đại Việt và Chiêm Thành được sống hòa bình bên nhau. Vì thế, con trai thiếp định đem đất châu Ô và châu Rí trả lại cho bệ hạ. Không ngờ bọn Trần Phủ lại có ý muốn ngược lại, đã không chịu trả đất lại còn muốn đánh Chiêm Thành để chiếm thêm đất nữa! Do đó hai bên sinh hiềm khích nhau. Cuối cùng thì bọn Trần Phủ mưu phản giết hại con trai thiếp. Vì thế thiếp mới dám xin bệ hạ đánh Đại Việt để trả thù cho con trai thiếp.
Chế Bồng Nga cười:
-Mụ đàn bà này cũng giỏi khoa khích tướng đấy chứ! Mụ biết tình hình quan quân và dân chúng Đại Việt hiện nay ra sao hãy nói ta nghe thử?
-Tâu bệ hạ, mấy năm nay Đại Việt mất mùa liên tiếp, dân chúng thiếu đói, giặc giã nổi lên khắp nơi. Quan quân phải luôn đi đánh dẹp rất mệt mỏi, chán ngán. Tiếp đó lại trải qua mấy trận đánh nhau giữa con trai thiếp với Trần Phủ quân sĩ lại thêm một phen hao hụt đáng kể. Vả lại, Trần Phủ mới cướp ngôi, quan quân và dân chúng vẫn còn rất nhiều người không phục. Thiếp nghĩ, nếu đem quân đánh Đại Việt lúc này sẽ có nhiều người Việt làm nội ứng cho bệ hạ. Thiếp tin chắc bệ hạ tiến tới đâu sẽ thắng tới đấy. Xin bệ hạ đừng bỏ qua cơ hội này!
Chế Bồng Nga hơi ngạc nhiên vì lý lẽ rành rọt của người đàn bà Đại Việt. Phải chăng ý trời đã gởi vào miệng người đàn bà này? Ông hỏi thêm một số chi tiết về vụ biến động ở Đại Việt. Dĩ nhiên là người đàn bà gốc con hát này cũng khéo léo thêm thắt về sự kém cỏi của nhóm Trần Phủ và tình hình rối loạn của Đại Việt để vua Chiêm phấn khởi và quyết tâm ra quân hơn. “Đúng lắm, ta không thể bỏ qua cơ hội này”. Vua Chiêm nói với Đào thị:
-Được! Ta sẽ đánh Đại Việt để trả thù cho con trai mụ. Cho mụ lui.
-Đa tạ bệ hạ! Đa tạ bệ hạ! – Đào thị dập đầu lạy năm lạy rồi lui ra.
Thanh trà st
theo
champatra.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét