Bùi Thị Xuân (? - 1802) là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.
Cuộc đời
Bùi
Thị Xuân, người ở thôn Xuân Hòa, phía Nam sông Côn, thuộc tổng Phú
Phong, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình
Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định).
Bà là con gái của Bùi Đắc Chí, gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, gọi Bùi Thị Nhạn bằng cô.
Sinh
trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học
võ. Tương truyền, bà là người có nhan sắc, khéo tay và viết chữ đẹp.
Đến khi theo học võ với Đô thống Ngô Mạnh, bà cũng nhanh chóng thành
thạo, nhất là môn song kiếm. Nhờ vậy sau này, bà đã dùng kiếm để giải
nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công.
Và cũng từ lần gặp này này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu
đến ở nhà bà để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây
Sơn ở chiến khu Phú Lạc.
Theo Tây Sơn
Với
tài nghệ (ngoài tài kiếm, bà còn giỏi bắn cung, cưỡi ngựa và luyện voi)
cộng với lòng dũng cảm, Bùi Thị Xuân cùng chồng nhanh chóng trở thành
những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc đánh đuổi khoảng
20 vạn quân Xiêm trên đoạn sông Rạch Gầm- Xoài Mút (Tiền Giang) năm
1785, trận đại phá quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu 1789.
Trong
những năm tiếp theo, bà cùng chồng cầm quân đi đánh dẹp các phe chống
đối vương triều mới (nhà Tây Sơn), trong số đó có lực lượng của hoàng
thân nhà Lê là Lê Duy Chỉ cấu kết với Tù trưởng Bảo Lạc (Hà Tuyên)...
Giữa
lúc nhà Tây Sơn đang từng bước ổn định tình hình trong nước, thì đột
ngột vào ngày 29 tháng 7 năm 1792, vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) băng hà.
Kể từ đấy vương triều này bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh (Nguyễn
Quang Toản) còn nhỏ, lại bị người cậu ruột là Thái sư Bùi Đắc Tuyên
chuyên quyền.
Thời
gian này, Bùi Thị Xuân được cử vào trấn thủ Quảng Nam, còn chồng bà
(Trần Quang Diệu) thì được cử vào Diên Khánh chống ngăn quân Nguyễn. Đến
khi nghe tin cha con Bùi Đắc Tuyên bị tướng Võ Văn Dũng bắt giết, Trần
Quang Diệu cả sợ, phải kéo quân về kinh đô đóng ở bờ Nam sông An Cựu,
thì bà cũng nhận được lệnh hồi triều.
Nghe
mật thám báo tin nội bộ nhà Tây Sơn đang lục đục, Nguyễn Phúc Ánh liền
tổ chức ngay những cuộc tấn công. Nhưng quân Nguyễn vừa tiến vào thành
Quảng Nam, thì bị đánh một trận tơi bời. Tức tối vì thua mưu trí đàn bà,
chúa Nguyễn thề sẽ sớm rửa mối nhục. Thấy quân Nguyễn Phúc Ánh rút lui
hết, đến lúc ấy, Bùi Thị Xuân mới kéo quân về Phú Xuân để cùng chồng dàn
xếp việc triều chính...
Mùa
xuân năm 1802, vua Cảnh Thịnh sai em là Nguyễn Quang Thùy vào trấn giữ
Nghệ An, còn tự mình cầm quân đi đánh chiếm lại Phú Xuân. Trong chiến
dịch này, Bùi Thị Xuân được lệnh đem 5.000 quân đi hộ giá.
Thấy
thế trận ngày càng bất lợi, Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh riết
vào lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Phúc Ánh đang cố thủ, từ sáng đến chiều,
máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp. Rồi bà còn giành lấy dùi tự tay thúc
trống liên hồi. Lúc bấy giờ chúa Nguyễn cùng tướng tá đã hốt hoảng vội
chia quân vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát
thân. Nào ngờ vua Cảnh Thịnh thấy quân Nguyễn tràn qua nhiều, tưởng nguy
khốn liền cho lui binh. Bùi Thị xuân bèn nắm áo ngự bào của nhà vua để
khuyên cố đánh. Nhưng khi nghe tin tướng Nguyễn Văn Trương phá tan thủy
binh Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình), cướp được hầu hết tàu
thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng; thì đội quân
của bà hốt hoảng bỏ cả vũ khí, đạn dược để tháo chạy...
Đây
có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của bà để hòng cứu vãn
tình thế. Nhưng ngờ đâu nhà Tây Sơn, sau trận này thêm trượt dài trên
đà suy vong, không sao gượng lại được nữa...
Bị voi giày
Được
tin đại quân Tây Sơn thua to ở Trấn Ninh, Tư đồ Vũ Văn Dũng và chồng
Bùi Thị Xuân là Thái phó Trần Quang Diệu, dù biết không thể giữ được Quy
Nhơn, nhưng vẫn gắng gượng đến tháng 3 cùng năm trên mới rời bỏ thành,
đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, ý là để hội
quân với vua Cảnh Thịnh cùng lo sự chống giữ.
Sử gia C. B. Mabon kể:
Trần
Quang Diệu cùng vợ và con gái, dẫn theo một số tàn quân chạy ra Bắc
bằng đường thượng đạo Ai Lao. Đến châu Quy Hợp, Diệu xuống Hương Sơn thì
biết tin Nghệ An đã mất. Quân sĩ của Diệu bỏ cả rồi, mấy hôm sau vợ
chồng Quang Diệu đều bị bắt cả...Vua Cảnh Thịnh cùng hai em và vài tướng
tá vượt qua sông Nhị Hà, tính trốn lên vùng Thượng du cũng bị dân chúng
bắt và đóng cũi nộp cho quân Nguyễn...
Trước
khi trích dẫn tài liệu của một giáo sĩ phương Tây tên là De La
Bissachère (người có dịp chứng kiến buổi hành hình) được viết năm 1807,
mô tả lại cái chết của mẹ con bà Bùi Thị Xuân, sử gia Phạm Văn Sơn đã có
lời giới thiệu như sau:
Mẹ
con bà Bùi Thị Xuân, người ta (ý nói đến vua Gia Long) cũng rất căm
thù, nên cũng dùng hình phạt dã man nhất. Nguyên nhân là bà đã điều
khiển binh sĩ đánh vào lũy Trấn Ninh hết sức kịch liệt, đã làm cho chúa
Nguyễn và các tướng sĩ có phút phải thất thần, tưởng chừng nguy khốn đến
nơi.
Trích tài liệu của gíáo sĩ De La Bissachère :
Đứa
con gái trẻ của bà (Bùi Thị Xuân) bị lột hết y phục. Một thớt voi từ từ
tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng ngoảnh
nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách : Con phải chết anh
dũng để xứng đáng là con của ta!...Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong
quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước
lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại.
Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo, đâm cây nhọn sau đít con vật để nó
trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời...Nhưng
trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy
vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn
người xem hoảng hốt theo..
Có tấm lòng thương dân
Gặp
năm mất mùa, nhiều phủ huyện ở trấn Quảng Nam sinh loạn, quan quân địa
phương không kiềm chế nổi. Triều thần lập tức tiến cử Bùi Thị Xuân ra
nơi đó làm Trấn thủ. Đến nơi, bà tự mình đi thị sát khắp các hạt, rồi
cho mở kho phát chẩn. Thấy viên quan nào chiếm công vi tư, ăn của hội
lộ...bà đều thẳng tay cách chức, chọn người tài đức lên thay. Ngoài ra,
bà còn ra lệnh bãi bỏ các cuộc truy lùng những nhóm người nổi dậy, và
mạnh dạn ra tuyên cáo rằng: Ai vác cày bừa, nông cụ thì được coi là dân
lành...Vì thế nạn trộm cướp và chống đối ở Quảng Nam (nhất là ở huyện
Quế Sơn) nhanh chóng chấm dứt, dân chúng lại được yên ổn làm ăn...
Không vì tình riêng
Thái
sư Bùi Đắc Tuyên, người làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn, là cậu của vua
Cảnh Thịnh, và là chú của Đô đốc Bùi Thị Xuân. Năm 1795, vì ông bị Võ
Văn Dũng giết chết vì tội chuyên quyền. Bấy giờ, có nhiều người nghi
ngại Bùi Thị Xuân, vì bà là cháu ruột của Đắc Tuyên. Nhưng khác với
những gì xầm xì, bà đã không hề thù oán người giết chú ruột mình, cũng
như lợi dụng sự rối ren đó mà đi theo đối phương hay tìm nơi cát cứ...
Bại trận vẫn hiên ngang
Ngoài
thái độ hiên ngang khi bị hành hình, người ta còn truyền rằng khi nghe
Bùi Thị Xuân bị bắt, chúa Nguyễn bèn sai người áp giải đến trước mặt rồi
hỏi với giọng đắc chí:
Ta và Nguyễn Huệ ai hơn?
Bà trả lời:
Chúa
công ta, tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi
cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị
chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà
ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng.
Chúa Nguyễn gằn giọng:
Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh?
Bà đáp:
Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà...
Sử gia Phạm Văn Sơn, viết:
Người
ta cảm phục Bùi Thị Xuân chẳng riêng chỗ bà có nhan sắc hơn người, mà
còn ở chỗ có gan dạ và trí lược của một đại tướng. Người ấy đã có công
gây dựng một phần sự nghiệp của chồng và của ba anh em vua Tây Sơn, đã
bao phen xuất nhập chiến trường, vào sinh ra tử...
Cảm phục bà, một người (không rõ tên), đã làm bài thơ sau:
Vận nước đang xoay chuyển
Quần thoa cũng vẫy vùng
Liều thân lo cứu chúa
Công trận quyết thay chồng.
Khảng khái khi lâm nạn!
Kiên trinh lúc khốn cùng
Ngàn thu gương nữ liệt
Gương sáng hãy soi chung.
Và trong bài bút ký Còn mãi đến bây giờ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, có đoạn:
Các gia đình họ Bùi hiện còn ở làng này đều là phái nhánh, còn phái
chánh (tức phái của Bùi Thị Xuân) đã bị Gia Long giết sạch.
Bà sanh ở ấp Xuân hòa, nay gọi là Phú Xuân. Lớn lên, bà đi học võ nghệ
với một võ sư người việt ở Thuần Truyền. Lò võ đó nổi tiếng từ thời Lê
đến nay. Môn sinh rất đông, cả nam lẫn nữ và bà làm trưởng môn. Ít lâu
sau ngày Tây Sơn khởi nghĩa, bà dẫn cả đoàn võ sinh đến tòng quân, theo
Nguyễn Huệ đánh Đông dẹp Bắc, sự nghiệp lừng lẫy. Ở bên Phú An nay hãy
còn một đám đất gọi là Trường Võ, đó là nơi bà mở trường dạy võ nghệ cho
các nghĩa sĩ trong quân đội Tây Sơn.
Thuở ấy, bà Bùi Thị Xuân còn là một nữ tướng trẻ tuổi, xinh đẹp. Ngoài
tài năng võ nghệ, cầm binh, huấn luyện voi rừng (nghe đâu dãy gò Dinh,
sông Côn là bãi tập voi của bà)...bà còn giỏi cả việc đi buôn trầu ở An
Khê, có tài thuyết phục người ở miền Thượng hơn cả Nguyễn Nhạc, giỏi cả
việc khai hoang, làm thủy lợi như biến lòng một con suối khô, chỉ toàn
là cát đá thành vùng đất màu mỡ “nhất đẳng điền” tên là ruộng Trại, rộng
hơn hai chục hécta để lấy lúa nuôi quân...
Để đến nhà bà, chúng tôi đi thêm một quãng đường làng, rẽ vào một xóm
nhỏ gồm ba bốn túp nhà xúm xít trên một khu đất chật chội, dừng lại
trước một căn nhà hoang vắng. Đó chỉ là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến
không ngờ, nhà rường ba gian nhưng tất cả chỉ rộng độ 5 mét, nên 2 gian
bên bị ép lại thành hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc
chõng đơn cho một người nằm...Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc
tủ gỗ mộc, phía dưới có những ngăn kéo, hình như xưa dùng để đựng quần
áo. Tất cả chỉ có thế, từ thế kỷ 18 cho đến bây giờ!...
Những
câu văn giản dị này sao mà có sức gây nhói lòng người . Ngẫm chồng là
Thái phó, vợ là Đô đốc, quyền lực nằm trong tay một thời gian dài, ấy
vậy mà “nhà cửa, của cải đơn sơ đến không ngờ”, chẵng đáng cho những người hôm nay tìm đọc về bà rồi sống tốt hơn sao ?…
Sưu tầm
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét