Tuy nhiên, đã có hai quan niệm và cách giải thích nguồn gốc của vị Thánh này:
- Các học giả thời phong kiến (các sử gia, các nhà trước tác) cho Tản Viên là "hạo khí anh linh của trời đất sinh ra" (Kiều Phú, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc cho "Tản Viên là một trong 50 người con theo cha xuống biển của Lạc Long Quân, Âu Cơ" (Đúng ra thì phải là chắt khoảng đời thứ 19). chàng "từ biển đi vào, qua cửa Thần phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô, đến Phúc Lộc giang". Từ đấy, " nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình", nên chàng "đã làm một con đường thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía nam núi Tản Viên, tới động An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi" (Trấn Thế Pháp, cũng trong "Lĩnh Nam chích quái", nhưng là một di bản). Các tác giả "Lịch triều hiến chương" (Phan Huy Chú) và "Việt sử thông giám cương mục" ... cũng đều có những quan niệm tương tự.
- Trong khi đó theo quan niệm của mọi người, được thể hiện qua các bản thần thích thần phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Tây, Hà Nội, Vĩnh Phú) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực, xuất thân từ tần lớp nghèo khổ trong dân chúng.
Chúng tôi nhận thấy, quan niệm này phù hợp với những quan niệm chung đã có về các Thánh bất tử trong tâm thức dân gian, bởi vì chính quan niệm ấy đã tạo nên một hình tượng "Thánh Tản Viên" có tính nhất quán và hoàn chỉnh mà nếu so sánh thì cách quan niệm của các học giả thời phong kiến chỉ là rất phiến diện.
Dưới đời Hùng Vương thứ mười tám, ở động Lăng Xương bên bờ sông Đà có
vợ chồng ông Nguyễn Cao Hạnh, bà Đinh Thị Điên làm nghề đốt than. Đã
đứng tuổi rồi mà ông bà vẫn chưa có con, nên đêm ngày mong ước, cầu
nguyện có một đứa con trai nối dõi …
Một
hôm bà vào rừng kiếm củi, đến trưa thấy nóng bức bèn tìm đến một hồ
nước nhỏ ở cạnh để tắm. Nào ngờ đang tắm, bà bỗng thấy một con rồng từ
trên cao cũng xà xuống đấy. Thế là bà mang thai, nhưng đến 14 tháng sau,
mới sinh ra một đứa con trai trên tảng đá Thạch Bàn (Nay thuộc xã La
Phù, Vĩnh Phú). Ông bà vô cùng sung sướng, đặt tên là Tuấn, vì thấy nó
mặt mũi trông cũng khôi ngô, sáng sủa.
Khi
Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi thì ông bố già yếu rồi mất. Còn lại hai mẹ con,
bà Đinh Thị Điên thấy cảnh làm ăn cơ cực bèn dắt con sang mé chân núi
Ngọc Tản (Ba Vì) nương nhờ trong nhà bà họ Ma.
Bà
họ Ma này vốn là một tù trưởng giàu có. Chồng chết, không có con, nhưng
cơ ngơi nhà bà rất lớn, gồm tất cả sông núi, ruộng đất, khe lạch ở vùng
Ngọc Tản. Nhà bà lại có rất nhiều gia nhân, đầy tớ và bà cũng là người
có sẵn tấm lòng từ bi, đại lượng, nên được mọi người hết sức quý trọng.
Lúc
đầu, hai mẹ con bà Đinh Thị Điên ở trong nhà bà họ Ma làm gia nhân. Vì
bà là người hiền lành, chất phác, lại chăm chỉ công việc, nên được bà họ
Ma mến mộ và hay trò chuyện. Chú bé Nguyễn Tuấn, vừa khôi ngô lanh lợi,
lại vừa lễ phép, siêng năng, nên cũng được bà hết sức quý mến. Dần dà
bà họ Ma nhận Nguyễn Tuấn làm con nuôi, và đối xử với chú hệt như con
đẻ.
Khi
Nguyễn Tuấn đến tuổi trưởng thành thì bà Đinh Thị Điên già yếu rồi qua
đời. Chàng ở hẳn với mẹ nuôi, và chăm nom, phụng dưỡng bà chẳng khác nào
mẹ đẻ. Lúc ấy, chàng là một chàng trai sức vóc, lại đảm đang, tài tuấn
hơn người, nên được bà họ Ma quý mến, tin tưởng, và giao cho cai quản
tất cả công việc, từ trong nhà đến ngoài đồng bãi. Ít lâu sau, bà họ Ma
già yếu rồi cũng qua đời. Trong lúc lâm chung, trước mặt đông đủ gia
nhân, đầy tớ, bà trối trăng lại: giao tất cả sản nghiệp cho con nuôi là
Nguyễn Tuấn cai quản. Sau khi làm ma và chôn cất cho bà mẹ nuôi xong,
Nguyễn Tuấn nghiễm nhiên trở thành một vị tù trưởng. Tuy nhiên, địa vị
này đã không làm cho bản chất của chàng thay đổi.
Không
như nhiều kẻ nghèo khó sau này, khi được giàu sang thì lập tức quên
ngay nguồn gốc xuất xứ, mặt mày vênh vênh váo váo và đối xử tàn nhẫn với
đồng loại cứ y như một sự trả thù, trái lại, Nguyễn Tuấn lại là một
chàng trai cực kỳ tốt bụng và hay thương người. Trong trang trại, chàng
bãi bỏ hẳn chế độ gia nhân, đầy tớ: Từ đây mọi người sẽ cùng ăn cùng
làm, còn chàng chỉ là người đứng mũi chịu sào, vừa làm lụng vừa lo toan
quán xuyến công việc, mà thôi. Ai siêng năng chăm chỉ được chàng khuyến
khích, động viên. Ai khó khăn, cơ nhỡ được chàng chăm sóc, giúp đỡ. Ai
chây lười hoặc làm điều gì sai trái thì chàng khuyên nhủ, bảo ban. bản
thân chàng là một tấm gương sáng, ai nhìn vào cũng thấy. Do vậy, trong
khắp trang trại rộng lớn mà chàng cai quản, mọi người coi nhau như ruột
thịt, nhường cơm sẻ áo cho nhau, và tuyệt nhiên không có những chuyện
như chây lười, trộm cắp, hoặc chửi bới, gây gổ đánh nhau.
Đối
với những việc hiếu nghĩa, chàng lại càng đặc biệt coi trọng. Mộ phần
của cả ba bố mẹ được chàng thường xuyên chăm sóc gọn gàng, sạch sẽ. Ngày
tuần ngày tiếp, ngày kỵ ngày giỗ … chàng đều đến thắp đèn nhang và dâng
lễ vật chu đáo. Trước vong linh của người quá cố, bao giờ chàng cũng
đều tóc để xõa, chắp hai tay, khấn vái thật là trang trọng, thành kính.
Vào
đầu năm mới, hay sau các kỳ thu hoạch lúa, hoa màu và đi săn về, chàng
đều cùng mọi người làm lễ tạ trời đất, thổ thần, thổ địa, và cầu mong
cho sự yên ấm thịnh vượng đời đời.
Lòng
thương người của chàng đã làm cho mọi người thật sự cảm phục, kính nể.
Còn lòng hiếu nghĩa của chàng thì được mọi người hết sức ca ngợi, noi
gương. Tiếng lành đồn xa: những đức tính của chàng được nhiều nơi đến,
và đã cảm ứng tới cả đất trời.
Một
lần, vào đầu năm mới, Ngọc Hoàng Thượng Đế đang cùng triều thần ngồi
bàn soạn công việc trần gian ở nơi thượng giới. Chợt thấy mùi khói nhang
bay lên từ phía núi Tản. Ngài cho gọi hai vị Nam Tàu Bắc Đẩu lại để hỏi
han cho rõ sự tình. Khi được tâu bày, Ngài cảm động, phái thần Thái
Bạch Kim Tinh xuống núi Tản để dạy cho chàng chủ trại võ nghệ và các
phép thuật thần tiên.Thần Thái Bạch y lệnh, ngay ngày hôm đó xuống trần
và ở lại trong thời hạn một năm. Nhờ có thầy dạy võ, Nguyễn Tuấn đã trở
thành một người chẳng những võ nghệ cao cường, mà các thuật pháp cũng
thực cao siêu chưa từng thấy.
Trước
khi bay về trời, thần Thái Bạch còn ban cho chàng một chiếc gậy thần có
đầu sinh và đầu tử. Một khi đầu sinh chỉ vào người hay vật đang ốm thì
lập tức khỏi bệnh, chỉ vào người hay vật đã chết cũng lập tức sống lại.
Còn đầu tử thì ngược với đầu sinh, chẳng những người hay vật đang sống
phải chết, mà ngay cả núi non cũng phải lở, thành quách cũng phải đổ.
Khi
đã có thuật pháp và gậy thần trong tay, Nguyễn Tuấn giao nhà cửa, ruộng
nương lại cho mọi người, còn mình thì chu du thiên hạ, cứu nhân đôï
thế. Bàn chân chàng đặt lên khắp mọi miền quê hương đất nước, chẳng
thiếu một nơi nào. Theo địa giới ngày nay, từ Nghệ An, Thanh Hóa trở ra,
đến Nam Hà, Hà Tây, rồi Hà Nội, Hà Bắc, Vĩnh Phú … chỗ nào chàng cũng
có mặt . Chàng cứu chữa được rất nhều người, lại bảo ban khuyên nhủ đưọc
nhiều kẻ xấu, kẻ ác quay về con đường lương thiện.
Vốn
tính tình hào hiệp, độ lượng, nên đi đến đâu chàng cũng đều có bạn thân
hoặc anh em kết nghĩa. Cao Sơn, Quí Minh ở Tam Nông, Vĩnh Phú, Bảo Công
ở núi Sài (Quốc Oai, Sơn Tây), Trần Khánh ở An Duyên (Thường Tín, Hà
Tây), Bảo Ngà ở Vụ Bản (Nam Hà), Tuấn Cương, Quế Hoa ở Bạch Hạt (Vĩnh
Phú) … sau này đều là những tướng lĩnh tài ba của Nguyễn Tuấn cả. Còn
những người được chàng cứu sống và thân nhân của họ thì nguyện sẵn sàng
đi theo chàng để làm bộ hạ thân tín, đã kể như rất đông và nơi nào cũng
có.
Một
ngày kia, trên đường về nhà, chàng đi ngang qua làng Ma Xá, ven sông
Tích (huyện Ba Vì), gặp một đám trẻ chăn trâu đánh chết con rắn nước lớn
rồi bỏ đi. Chàng lại gần chợt nghĩ rắn nước chỉ quen mò tép thì làm gì
nên tội, nên thương tình, cầm đầu gậy sinh chỉ vào cho rắn sống lại.
Chẳng ngờ rắn lại là rắn thần, là con cả của Long Vương đội lốt đi chơi
xa, nên trong đêm ấy chàng được một vị sứ giả của Long Vương mặc quần
trắng áo trắng, lại đội mũ đi giày cũng trắng, đến trao cho một quyển
sách ước, để tạ ơn. Chàng vô cùng vui sướng. Nhân dịp trở về nhà sau mấy
năm xa cách, chàng đi thắp hương ba cha mẹ, rồi đến thăm hỏi chữa trị
cho mọi người trong trang trại, xong, chàng liền mở sách ước, xin một
bữa tiệc thật thịnh soạn để tiếp đãi mọi người. Trong bữa tiệc, ai nấy
dều vui vẻ, lại được thưởng thức những thứ của ngon vật lạ xưa kia chưa
từng có bao giờ, nên chuyện trò cứ vui như mở hội. Cuối buổi tiệc, chàng
dứng dậy, nói với mọi người rằng từ nay chàng sẽ đổi tên là Nguyễn
Tùng. “Tùng” là cây tùng, chàng giải thích, là bao giờ cũng ngay thẳng
quyết chẳng có sự thiên vị nào. Tùng cũng còn có nghĩa là “tòng”, là từ
nay làm điều gì cũng đều nhất nhất tuân theo lẽ phải và sự công bằng,
bởi vì không lẽ, khi đã có gậy thần và sách ước trong tay, lại có thể
tùy tiện muốn làm gì cũng được hay sao?
Sau
bữa tiệc, chàng hỏi han mọi người cách thức làm ăn sinh sống bấy lâu
này, rồi mọi người bàn định công việc và giảng giải những cách làm ăn
mới mà do đi ra ngoài, chàng đã học được. Từ đấy, chàng ở lại trang
trại, cùng làm ăn sinh sống với mọi người. Tuy nhiên, thỉnh thoảng chàng
cũng đi thăm thú và cứu chữa cho dân chúng ở các vùng lân cận. Mọi
người do được chứng kiến những gì xảy ra từ các năm trước và gần đây,
trong bữa tiệc nên đều một mực còn gọi chàng là “Đức Thánh Tản”, là
“Thánh Tản Viên”, hay còn gọi là”Sơn Tinh” nữa. Và cái tên ấy cứ truyền
ra xa, đến tận mọi miền đất nước, và còn mãi, cho đến ngày này …
Chính
vào thời gian Sơn Tinh ở chân núi Ngọc Tản cùng mọi người làm ăn sinh
sống ấy, thì ở Kinh đô Phong Châu, tại ngã ba Hạc Trì, công chúa Mỵ
Nương, con gái yêu của vua Hùng thứ 18, đang cùng nhà vua và các vị đại
thần đứng trên lầu cao tuyển kén phò mã …
Vua
Hùng thứ 18, hiệu Hùng Duệ Vương, vốn là người thuần phát nhân hậu,
nhưng Ngài hiếm hoi chỉ sinh mỗi một cô con gái. Nàng tên là Mỵ Nương,
càng lớn lên, nhan sắc lại càng lộng lẫy xinh đẹp.
Vua
Thục nước láng giếng bấy giờ là Thục Phán, vốn nuôi tham vọng thôn tính
nước Văn Lang từ lâu, nay thấy Mỵ Nương đã lớn, bèn sai sứ giả đến cầu
hôn. Thục Phán tính rằng: nếu lấy được Mỵ Nương thì sau này khi Hùng Duệ
Vương già yếu tất sẽ phải nhường ngôi lại cho con rể, và như vậy thật
là một công đôi việc!”
Khi
sứ giả đến, Hùng Vương có ý phân vân. Mặc dù biết rõ ý định của Thục
Phán nhưng nhà vua vẫn muốn gả Mỵ Nương cho, vì nghĩ rằng Thục Phán vốn
cùng gốc gác Lạc Long Quân, Âu Cơ, hơn nữa, gả bán như thế cũng là môn
đăng hộ đối: Chẳng gì con gái cũng là hoàng hậu của một nước kia mà!
Tuy
nhiên, đến khi đưa ra để các triều thần tham nghị, thì lại có mấy vị
Lạc hầu không đồng tình, cho rằng như thế là mất nước. Một vị đứng lên:
-
Muôn tâu bệ hạ. Xưa kia ta và Thục tuy cùng chung một gốc, nhưng từ mấy
đời nay, biên giới cương vực thật đã rõ ràng. Bệ hạ gả công chúa như
thế, chẳng khác nào ta dâng nước không cho Thục. Bệ hạ bao nhiêu năm trị
vì đất nước, há không cho rằng tất cả thần dân đều là con cái trong nhà
cả hay sao? Vả lại nước ta, đất rộng người đông, hẳn chẳng thể thiếu
nhân tài? Nay theo thiển ý của hạ thần, bệ hạ nên kén lấy một người
trong nước tài cao đức trọng để làm phò mã cho công chúa. Rồi ra, sẽ
tuyển mộ binh mã, củng cố lực lượng. Như thế, cương vực lãnh thổ của ta
sẽ được lưu truyền, mà dân chúng đời đời cũng chẳng bao giờ quên ơn Bệ
hạ …
Vua
Hùng im lặng lắng nghe, rồi gật đầu tỏ ý tán thưởng, và Ngài quyết dịnh
thôi không gả Mỵ Nương cho Thục Phán nữa. Theo lệnh Ngài, mấy ngày sau,
nội cung và quân lính phải dựng một lầu cao ở ngã ba Hạc Trì, để công
chúa kén chồng. Ngài lại cho sứ giả đi khắp trong nước truyền lệnh rằng:
Tất cả trai tráng chưa thành gia thất, hễ ai có tài cán gì, hãy cứ đến
Hạc Trì để thi thố.
Thế
là, hầu như tất cả anh tài trong nước đều đã có mặt ở Hạc Trì sau đó.
Thật lắm người có tài! Tuy nhiên, đã gần hết một tuần mà chưa có ai lọt
vào mắt xanh của nhà vua và công chúa cả. Nhưng đến sáng ngày thứ mười,
ngay từ buổi sáng sớm, lại bỗng một lúc, có đến hai chàng trai vào xin
ứng tuyển. Một chàng xưng tên là Sơn Tinh, quê ở chân núi Ngọc Tản, còn
một chàng xưng tên là Thủy Tinh, quê ở miền biển. Nhà vua nhìn cả hai
chàng, thấy đều lực lưỡng, khỏe mạnh và mặt mũi cũng đều khôi ngô tuấn
tú. Tuy nhiên, chàng Sơn Tinh thì hiền lành, còn chàng Thủy Tinh lại có
vẻ dữ tợn. Nhà vua trong bụng ưng chàng Sơn Tinh hơn, nhưng vẫn bảo cả
hai chàng sẽ lần lượt trổ tài của mình.
Chàng
Sơn Tinh trổ tài trước. Chàng làm lễ bái kiến rồi đi một bài quyền,
trông thật đường đường là một võ tướng, một trang phong lưu tuấn kiệt.
Xong bài quyền, chàng cầm lấy gậy thần, múa tít, trông bên ngoài chỉ
thấy loang loáng như ánh chớp, còn người thì chẳng thấy đâu. Chắc là
chàng vừa múa gậy vừa nhẩm sách ước, nên tự nhiên có trái núi hiện ra.
Rồi trái núi biến mất, để thay vào đó, lần lượt là đồi đất, rừng cây,
khúc sông, cánh đồng … cho đến cả lâu đài, thành quách. Tất cả vừa thoắt
hiện rồi lại thoắt biến, như có phép lạ thần thông vậy …
Nhà
vua, các đại thần và công chúa đều vui mừng ra mặt. Còn dân chúng đứng
xem thì sung sướng nhảy lên reo hò như sấm dậy, khiến cho chàng Thủy
Tinh chân tay bồn chồn, và thái độ giận dữ hiện cả ra bên ngoài. Biết ý,
nhà vua phẩy tay cho chàng Sơn Tinh lui ra, thế là ngay lập tức, chàng
Thủy Tinh nhảy tới.
Chàng
vừa nóng vội vừa tức giận đến nỗi quên cả làm lễ bái kiến, mà cứ thế,
tay cầm một dãi lụa trắng, múa đi loang loáng. Tài nghệ của chàng quả
thực cũng chẳng kém gì Sơn Tinh: Người ta chỉ thấy một vầng hào quang
màu trắng, còn người thì dường như đã biến đi mất tăm. Xong bài múa,
chàng Thủy Tinh đứng nguyên, tay phất dãi lụa. Thế là, mây đen ở đâu ùn
ùn kéo đến, rồi sấm chớp đùng đùng, và mưa đổ nước xuống như trút. Tất
cả mọi người đều bị ướt sũng, và tiếng ta thán nổi lên như ong, thế
nhưng chàng Thủy Tinh mặt vẫn lạnh băng, lại còn khái chí cười lên khanh
khách, như thể vừa trả xong một món nợ thù.
Trên
lễ đài, nhà vua đứng bật dậy toan nói điều gì. Biết ý, chàng Thủy Tinh
lập tức phất mạnh dãi lụa, thế là tự nhiên mưa dứt, bầu trời mặt đất
quang đãng như thường.
Chẳng biết nhà vua nghĩ gì, nhưng có thể đoán được ý của Ngài định gả công chúa cho ai, qua lời nghiêm phán sau đây:
-
Ta xe tài năng của hai chàng, thấy đều xứng đáng là rể ta cả. Thế
nhưng, ta chỉ có một con gái nên chẳng biết sẽ gả cho ai là hay hơn bây
giơ… Thôi hai chàng hãy trở về nhà chuẩn bị đồ sính lễ, nếu ngày mai ai
đến trước, ta sẽ gả công chúa cho. Đồ sính lễ quý thế nào ta chẳng biết,
nhưng nhất thiết phải có “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng
mao”. Đấy là cái lệ mà các bậc tiên vương từ ngày trước đã định ra, ta
đâu dám trái!
Nghe thấy thế, cả hai chàng vội hướng lên lễ đài làm lễ cáo biệt, rồi lập tức về nhà chuẩn bị …
Chàng
Thủy Tinh tuy pháp thuật cao cường, nhưng vốn xuất thân từ miền biển,
nên chỉ có thể kiếm được rất nhiều ngọc trai, đồi mồi, rồi đến tổ yến
sào và vàng bạc, chứ voi, ngựa, gà thì chàng bị chậm.
Trong
khi đó, chàng Sơn Tinh pháp thuật cao cường cũng chẳng kém, lại ở miền
rừng núi và có sách ước, nên chỉ trong đêm ấy, mọi thứ chàng đều chuẩn
bị xong. Vàng, bạc, ngọc đá các màu tha hồ. Mật gấu, gan tê rồi chim
muông lạ và hoa quả quý có đủ. Mọi người trong trại và bạn bè xung quanh
kéo đến chỉ việc đóng các thứ vào rương hòm, rồi cho lên xe và lùa voi,
ngựa đi cho đúng hướng mà thôi.
Mờ
sáng hôm sau, đoàn rước dâu của Sơn Tinh đã có mặt tại Kinh đô Phong
Châu. Chàng vào làm lễ ra mắt, được vua Hùng đón tiếp nồng hậu và nhận
làm con rể. Ngay sáng hôm đó, sau khi tiến hành xong các nghi lễ, chàng
Sơn Tinh đưa công chúa Mỵ Nương trở về núi Tản.
Đoàn
rước dâu của Thủy Tinh, từ cửa sông Hồng đi ngược lên, rồi vào sông Đà
đến miền Phong Châu. Các rương hòm đựng đồ sính lễ nổi bập bềnh trên mặt
nước do bọn ba ba, thuồng luồng vừa đội vừa bơi. Sóng lớn đập vào hai
bên bờ, như đang xảy ra bão lớn. Chàng Thủy Tinh định bụng, sau khi lên
bờ sẽ đi tìm bắt voi ngựa, gà …
Nào
ngờ, khi chàng cùng đoàn bọn họ ngược lên vùng núi Tản, đã thấy đoàn
rước dâu của Sơn Tinh trở về. Chàng điên tiết thét toáng lên một hồi,
làm cho đám thuộc hạ sợ quá lặn sâu xuống nước, các rương hòm vì thế
liền bị chìm nghỉm. Vô cùng tức giận, chàng giật phắt dãi lụa vẫn quấn
tròn trong túi áo, rồi vung lên, vừa múa vừa phẩy xuống liên hồi, làm
cho sấm chớp nổi lên đùng đùng và mưa đổ nước xuống như trút. Nước sông
Đà dâng cao, rồi dâng cao mãi. Chẳng mấy chốc, cả một vùng quanh núi Tản
, chỉ thấy mênh mông những nước …
Chàng
Sơn Tinh rước dâu về đến nhà, định dựng rạp mở tiệc ăn mừng thì bỗng
đâu cơn mưa ập tới. Rồi mưa mỗi lúc một to và nước dâng lên cao, khiến
chàng phải đưa Mỵ Nương và mọi người trèo ngược lên các đỉnh núi. Từ
đỉnh núi, chàng thấy cơ man nào là giải, mập, ba ba, thuồng luồng, đang
lũ lượt bò lên. Lại nghe thấy cả tiếng của Thủy Tinh vang rền lên như
sấm, hò hét bôï hạ xông vào. “À, hóa ra Thủy Tinh đánh đòn ghen định
cướp Mỵ Nương đây. Được! Ta sẽ cho chúng biết thế nào là nghĩa lý”.
Chàng
liền mở sách ước, đọc đến đâu thì thấy từng dãy đồi núi hiện ra, làm
cho mức nước bị chặn ngay lại. Rồi chàng múa gậy thần, nhảy từ đỉnh núi
này sang đỉnh núi khác, lại quay đầu gậy chỉ vào đám giải, mập, ba ba,
thuồng luồng, làm cho chúng quay ra chết, xác chồng lên xác, rơi trở
lại, và trôi lềnh bềnh trên mặt nước sông Đà, do nhiều quá, đã làm một
khúc sông bị tắc nghẽn lại.
Vừa
đau đớn, vừa căm giận đến tím ruột, bầm gan, chàng Thủy Tinh vừa liên
hồi quát lên những tiếng sấm hối thúc quân lính, vừa hóa phép, dùng lưỡi
tầm sét và những luồng chớp nhằm vào Sơn Tinh mà đánh. Nhưng làm sao
đánh trúng được Sơn Tinh! Gậy thần của chàng làm cho lưỡi tầm sét của
Thủy Tinh bị bật văng ra xa, chỉ thấy vô số cây cối bị đổ, đất đá sụt
lở, rơi xuống nước ầm ầm, còn chàng thì vẫn bình an vô sự.
Quân
lính của Thủy Tinh càng xông lên bao nhiêu lại càng bị chết bấy nhiêu.
Nước mưa của Thủy Tinh càng làm dâng lên thì càng bị đồi núi của Sơn
Tinh chặn lại và đồi núi cứ vươn lên, cao hơn mực nước. Rồi chàng vừa
hóa phép, vừa cùng mọi người xây đắp cho đồi núi kết thành một dải, hiên
ngang và vững chãi như lũy như thành, bủa vây luồng nước và quân lính
của Thủy Tinh, chỉ còn để cho một đường rút lui duy nhất là lui ra biển.
Cả một vùng rộng lớn, còn lại đến bây giờ, nào núi Chẹ, núi Đùng, rồi
núi Mom, gò Cháy, … đều là những đồi núi do Sơn Tinh và mọi người xây
đắp, để chặn luồng nước của Thủy Tinh!
Nhưng
chàng Thủy Tinh đâu có dễ dàng cam chịu thất bại như vậy. Chàng vừa
tung những lưỡi tầm sét cá hiểm, vừa cất giọng ồm ồm tập dợt quân sĩ ở
Đầm Đượng (Ba Vì) để củng cố lực lượng. Chàng Sơn Tinh cùng mọi người
lập tức tiến đến, dùng chông đá, lưỡi sắt vừa chặn lối, vừa bủa vây. Một
trận đánh kinh hàng diễn ra ở đây. Cuối cùng quan của Thủy Tinh thất
bại, phải chia ra làm 16 ngã để rút chạy.
Khi
tàn quân chạy về đến xã Minh Quang, chàng Thủy Tinh cho quân lính đào
Ngòi Lạt, dẫn nước từ sông Đà vào để đánh úp Sơn Tinh ở phía sau núi
Tản. Lập tức Sơn Tinh cho mỗi người một cái lạt, rồi cùng ném xuống đấy.
Thế là trong chớp mắt, lạt đã biến thành tre, rồi tre liên kết với nhau
thành từng lũy dày đặc, ngăn dòng nước của Thủy Tinh.
Quân
lính sống sót của Thủy Tinh chạy đến xã Tản Lĩnh, ở đó có một hồ nước
lớn. Thủy Tinh cho hội quân, gọi là ao Vua. Nhưng ngay sau đó, Sơn Tinh
cùng mọi người đã có mặt. Mỗi người cầm một nắm hạt mây rắc xuống xung
quanh hồ, và cũng chỉ trong chớp mắt, một rừng mây hiện ra, trùng trùng
lớp lớp, vây chặt quân lính của Thủy Tinh vào giữa.
Những
tên lính gan góc, liều lĩnh nhất của Thủy Tinh, mặc dầu sầy vẩy, bầm
da, hay toạc đầu, gãy vây, vẫn liều chết chui qua đám gai mây nhọn sắc,
vượt ra đến ngoài sông Đà. Khi đến Đầm Gà ở huyện Kỳ Sơn (Hòa Bình),
đang trong đêm tối, Thủy Tinh định củng cố lực lượng phản công thêm một
lần nữa, nhưng lại nghe thấy tiếng vỗ tay rồi tiếng gà gáy của Sơn Tinh,
chàng ta tưởng là trời sáng, nên hoảng sợ, bèn vội vàng cho quan lính
giải tán, mỗi tên mỗi ngã, cùng bơi đi thục mạng. Tàn binh cuối cùng của
Thủy Tinh xuôi theo sông Đà, ra sông Hồng, tản đi các ngã, hoặc đi mãi
ra biển … và thế là chấm dứt trận đầu giao phong giữa hai chàng Sơn Tinh
và Thủy Tinh.
Mặc
dù Thủy Tinh biết rằng yêu thuật và bộ hạ của mình chẳng những không hạ
thủ được Sơn Tinh, cướp được Mỵ Nương, mà trái lại, còn phải chuốc lấy
thất bại thảm hại. Nhưng chàng ta vẫn nuôi mối ghen tức và lòng thù hận
đến mãi muôn đời.
Năm
nào cũng vậy, cứ vào khoảng tháng sáu, tháng bảy và tháng tám âm lịch
khi có khi muộn hơn hoặc sớm hơn một tháng, chàng lại nổi cơn thịnh nộ,
gào thét vang trời rồi làm mưa làm bão xuống địa bàn mà chàng Sơn Tinh
cùng đồng bào của chàng đang sinh sống. Vì vâïy, năm nào cũng như năm
nào, các con cháu chút chít, hậu duệ của chàng Sơn Tinh, đều phải cùng
nhau tập hợp lại, xây đắp và củng cố những con đê cao ngăn chặn dòng
nước lụt mà chàng Thủy Tinh cố tình gây hại. Chẳng có năm nào Sơn Tinh
thất bại, cũng như chẳng có năm nàoThủy Tinh thất bại hoàn toàn. Chính
vì vậy mà các hậu duệ của chàng Sơn Tinh sinh sôi phát triển đông đàn
dài lũ, có rất nhiều cánh đồng phì nhiêu, làm ra những nguồn của cải vô
cùng vô tận, để duy trì nòi giống của mình.
Thế
nhưng, cũng có năm, do chểnh mảng không đề phòng kỹ lũ mối cánh, tay
sai tận tụy của Thủy Tinh, nên đã có một hoặc vài đoạn đê bị vỡ, để cho
nước lũ của Thủy Tinh tràn vào đồng ruộng, gây ra thiêït hại. Tuy nhiên,
đấy chỉ là những thất bại nội bộ. Tựu trung, con cái cháu chắt của Sơn
Tinh, vẫn đời đời chiến thắng Thủy Tinh.
Sơn
Tinh cùng Mỵ Nương tuy phải hàng năm chống đỡ với Thủy Tinh, nhưng họ
vẫn sống yên ổn và hạnh phúc ở núi Tản. Con cái cháu chắt của họ rất
đông, tỏa ra các miền xung quanh, và đến sinh sống cả ở nhiều miền xa
xôi khác nữa. Người con gái đầu tên gọi La Bình, lúc nhỏ thường được bố
cho đi thăm thú các nơi. Đến tuổi trưởng thành, La Bình trở thành một
phụ nữ tài giỏi và thông tuệ khác thường. Khi Sơn Tinh, Mỵ Nương về già,
được Ngọc Hoàng thượng đế triệu về Thiên đình, trao cho phép trường
sinh bất tử, trông nom nhiều công việc giúp Ngài, thì La Bình ở lại,
cũng được ban phép trường sinh, trở thành bà Chúa Thượng ngàn, trông nom
tất cả 81 cửa rừng của nước Nam ta …
Còn lúc bấy giờ, khi vừa chiến thắng xong Thủy Tinh hiệp đầu thì
cũng vừa lúc hay tin Thục Phán điểm binh mã sang đánh Văn Lang. Thục
phán hiện đang là vị vua trẻ tuổi, dũng mảnh can trường và đầy duệ khí.
Khi quân của Thục Phán rầm rầm tiến đến Phong Châu, vua Hùng phải tức
tốc triệu hội Sơn Tinh về Kinh, giao cho cầm quân chống Thục. Mặt khác,
nhà vua cũng cho sứ giả đi khắp nước, truyền lệnh tòng quân. Chỉ trong
vòng một tuần, số quân lính đã đông tới hàng vạn. Các bè bạn cũ và anh
em kết nghĩa của Sơn Tinh cũng có mặt. Sơn Tinh giao cho Cao Sơn, Quí
Minh hai người anh em kết nghĩa tài ba nhất, chỉ huy đạo quân tiên
phong, còn tự mình đi thống lĩnh trung quân. Các tướng: Bảo Công chỉ huy
tả quân, Trần Khánh chỉ huy hữu quân, tỏa ra hai gọng kiềm, còn các
tướng khác, vốn là họ hàng con cháu vua Hùng, như Lang Bút, Lang Mao,
Lang Lôi … được giao cài chông, đặt bẫy phục kích quân Thục.
Khi
quân của Thục Phán tiến vào Phong Châu thì thế trận của Sơn Tinh cũng
bày đặt xong. Ý định của Sơn Tinh là đánh cho Thục Phán một trận thua
nhớ đời, không còn bao giờ dám đem quân tới xâm lấn nữa. Vì vậy, chàng
đã không mở sách ước và gậy thần ra, bởi vì nếu không, Thục Phán và quan
quân đã bị tiêu diệt hoàn toàn rồi.
Tuy
vậy, trận chiến đấu giữa hai bên vẫn cứ diễn ra vô cùng dữ dội. Lúc
đầu, quân Thục chạm trán với đạo quân tiên phong của Cao Sơn , Quí Minh
đã bị tổn thất khá lớn. Về sau, khi gặp trung quân của Sơn Tinh thì hoàn
toàn bị núng thế, Thục Phán phải vừa đánh vừa rút lui. Sau một hồi, các
cánh quân khác của Sơn Tinh cũng đồng thời ập tới bao vây.Thế là quân
Thục Phán đại bại, Thục Phán phải mở đường máu mới khỏi bị bắt làm tù
binh. Quân Sơn Tinh tiếp tục truy đuổi. Tuy không bắt được Thục Phán
nhưng cũng bắt được hai tướng là Hùng Nỗ và Đà Gia, sau khi đuổi vào đến
tận làng Hội Thống (thuộc Nghi Xuân Hà Tĩnh ngày nay).
Cuộc
chiến tranh Hùng Thục chấm dứt, Thục Phán phải cầu hòa, từ đấy vĩnh
viễn từ bỏ ý đồ xâm lược. Sơn Tinh được vua Hùng hết sức quý mến, rồi
nhà vua quyết định nhường ngôi cho chàng, vì cảm thấy mình đã già yếu.
Từ chối mãi không được, cuối cùng Sơn Tinh đành phải nhận lời …
Sau
khi lên ngôi trị vì đất nước, Sơn Tinh hết lòng chăm lo đến đời sống
của dân chúng. Tuy nhiên, do bận nhiều công việc triều đình, nên chàng
cũng không trực tiếp đến được nhiều nơi. Rồi lại còn phải lo chống những
toán giặc nhỏ hay sách nhiễu ở các vùng biên giới, như giặc Hồ Xương,
giặc Hồ Tôn, giặc Man và giặc mũi đỏ. Dưới thời chàng trị vì, đất nước
luôn được thái bình và như thế, kéo dài suốt ba năm …
Vốn
bản tính không thích làm vua mà chỉ muốn sống cuộc đời dân giã, nên khi
nghe trong đám Lạc hầu LaÏc tướng dòng dõi các vua Hùng, có người dị
nghị, cho rằng chàng không phải Hoàng tộc mà cũng được làm vua, thì
chàng hoàn toàn tự ái, một mực đòi trả lại ngôi báu cho vua Hùng thứ
mười tám.
Không
thuyết phục được Sơn Tinh nên nhà vua lại đành phải vời các triều thần
đến để thương nghị. Sau khi bàn soạn kỹ lưỡng, mọi người cho rằng nên
nhường ngôi cho Thục Phán là hơn. Thục Phán tuy có ngông ngạo gây chiến,
nhưng dù sao cũng là cháu chắt của các vua Hùng và nay cũng đã biết hối
lỗi rồi.
Sau
khi nhường ngôi báu cho Thục Phán, Sơn Tinh cùng Mỵ Nương lại trở về
vùng núi Ngọc Tản. Vua Hùng thỉnh thoảng cũng về đấy ở với con rể và con
gái. Còn Thục Phán sát nhập hai nước Thục và Văn Lang thành nước Âu
Lạc, rồi xưng An Dương Vương. An Dương Vương lúc đầu xây dựng cung miếu ở
vùng núi Nghĩa Lĩnh (Vĩnh Phú), sau đó một thời gian mới chuyển xuống
Loa Thành (Đông Anh, Hà Nội). Để ghi nhớ sự kiện Sơn Tinh nhường ngôi
cho mình, và cũng để tỏ lòng biết ơn, An Dương Vương cho lập ở Nghĩa
Lĩnh một cột đá thờ rất lớn, rồi tới các ngày tuần tiết, đều tự đến đây
thắp đèn hương dâng lễ vật và đọc lời thề nguyện.
Sau
khi nhường ngôi, Sơn Tinh cùng Mỵ Nương trở lại vùng núi Tản, lúc ấy họ
còn rất trẻ. Vừa lo xây dựng kinh tế và chăm sóc đời sống của các thành
viên trong trang trại, Sơn Tinh vẫn còn nhiều thời gian để đi thăm thú
các vùng xung quanh. Đi đến đâu chàng cũng mang những điều hiểu biết của
mình, do thu thập được ngay từ hồi trai trẻ chưa lấy vợ, để chỉ bảo cho
dân chúng.
Đến
vùng Cẩm Đái (huyện Ba Vì) chàng rất ngạc nhiên thấy mọi người ở đây
vẫn còn chưa biết cách lấy lửa, do vậy vẫn đang phải sống trong cảnh tối
tăm. Sơn Tinh cho gọi tất cả các cụ già thổ dân lại, rồi bày cho họ
cách lấy lửa như thế nào.
Trước
các cặp mắt sững sờ và đầy thán phục của các cụ, chàng làm các động tác
thật chuẩn xác và điêu luyện, khiến cho từ đấy mọi người cứ một mực gọi
chàng là thần và thưa bẩm thật là cung kính. Sự thực thì những động tác
này cũng khá đơn giản và ai học xong cũng đều có thể làm ngay được.
Trước
hết, cần có một đống bùi nhùi khô và hai ống nứa hay hai ống giang già
cũng thực khô. Đặt hai ống vào giữa đống bùi nhùi rồi kéo nhanh chúng cọ
xát vào nhau vài lần, thế là thành lửa!
Đến
vùng rừng Mãng (nay là xã Sơn Đông, Ba Vì) Sơn Tinh thấy đám đông thợ
săn đang chạy theo một con thú. Người ném đá người phóng lao, rồi reo hò
vây đuổi mà cũng không bắt được nó. Con thú chạy nhanh quá. Chàng gọi
mọi người lại, bày cho họ cách làm hầm đặt chông rồi ngụy trang ở trên
hoặc gài bẫy để bắt các loại thú lớn. Đối với thú nhỏ hoặc gà rừng, công
phượng … thì cũng gài bẫy đặt mồi hoặc căng lưới để bủa vây mà bắt khi
chúng bị sa lưới.
Khi
qua vùng sông Tích. Thấy cả một vùng rộng lớn đất đai phì nhiêu (nay là
xã Liệp Tuyết, Quốc Oai) mà tịnh không có cây lúa nào, chỉ thấy lau
lách mọc đầy. Sơn Tinh cho gọi dân làng lại, bày cho họ cách đắp bờ giữ
nước rồi phát hoang cỏ dại. Tiếp đến, chàng lại cho họ một ít hạt giống
dao mang theo sẵn bên mình, và bày cho họ cách gieo mạ. Đến khi mạ lên
xanh, chàng lại cho họ làm theo mình: nhổ mạ rồi chia ra từng vài dảnh
một, cấy xuống các thửa ruộng đã be bờ, vơ cỏ, cày cuốc trước kia.
Đến
mùa thu hoạch, dân làng cho người đi mời chàng đến để dự tiệc mừng.
Thấy mọi người chỉ biết ăn uống và chuyện trò, cười đùa không có trò vui
nào cả, Sơn Tinh gọi trai gái làng lại, bày cho họ cách múa hát. Trước
khi về nhà, chàng lại dặn hàng năm cứ đến sau kỳ thu hoạch thì lại mở
hội và múa hát mừng mùa như thế này. Lâu dần rồi thành lệ, bây giờ ở đấy
gọi là hội múa Rô.
Cũng
ở vùng sông tích, nơi mà Sơn Tinh vẫn thường hay qua lại, tôm cá có rất
nhiều, nhất là vào những tháng lũ lụt, nước sông dâng lên cao. Bấy lâu,
dân chúng trong vùng này mới chỉ biết mò cá bằng tay hoặc cùng lắm dùng
nom để úp. Sơn Tinh, cho biết cách kiếm cá bằng lưới đan của người vùng
biển, nên đã bày lại cho dân ở đây. Trước hết chàng bảo mọi người đi
tìm cây gai là loại cây có ỏ mềm và dai về trồng. Đến kỳ cây lớn, chàng
bảo họ tước lấy vỏ cây và xé nhỏ ra thành những sợi nhỏ và bền. Đem đan
các sợi này vào nhau tạo thành các loại vó và lưới, sẽ đánh bắt được
nhiều cá.
Nhờ
các loại lưới và vó ấy của Sơn Tinh mà dân ở vùng sông Tích đánh bắt
được rất nhiều cá các loại. Sau này, để tưởng nhớ công ơn của chàng, ở
vùng này có tục đánh cá thờ hàng năm để cúng. Tất nhiên, đấy phải là các
loại cá quý hiếm và thật lớn, bởi vì lòng thành kính đòi hỏi phải được
biểu lộ ra như vậy.
Công
ơn dạy dân biết thêm nhiều nghề mới để sinh sôi phát triển của Sơn Tinh
kể ra còn thêm nhiều nữa, mà trên đây là một ví dụ.
Ở khắp vùng truyền thuyết Sơn Tinh, chỗ nào cũng thấy ghi công đức của chàng, và lưu truyền đến tận ngày nay.
Lại
kể về nàng Mỵ Nương, vợ của chàng Sơn Tinh khả kính, cũng là người đã
để lại nhiều công đức với dân chúng và được lưu truyền.
Ấy
là việc nàng dạy cho các bà các cô trong vùng núi Tản quê chồng biết
nghề chăn tằm và ươm tơ dệt lụa, để may quần áo. Trước đó, nghề này mới
chỉ lưu truyền ở vùng Phong Châu, vốn là Kinh đô của nước Văn Lang cũ.
Đây là nghề tuy rất thiết yếu, nhưng chỉ các bà Hoàng hậu, công chúa và
cung tần thân tín mới được chỉ dẫn cách thức và các bí quyết hành nghề.
Lụa là, do vậy, mới chỉ được dùng trong hoàng tộc và nhà các đại thần
(Lạc hầu, Lạc tướng), còn dân chúng và quân lính chỉ mới biết dùng các
loại vải bằng xô gai lấy từ vỏ cây mà thôi.
Mỵ
Nương vốn là nàng công chúa của vua cha và hoàng hậu, nên ngay từ bé đã
rất thành thạo nghề chăn tằm và ươm tơ dệt lụa. Nàng dạy lại cho các bà
các cô ở vùng này biết được ghề đó. Những nương dâu bạt ngàn mọc lên ở
ven sông. Nhà nào cũng có người chăn tằm, dệt lụa. Lụa ở vùng này, ngay
từ thời đó, đã nổi tiếng khắp cả nước. “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, hàng
năm Mỵ Nương đều cho chọn một vài xúc lụa đẹp nhất, để đưa về Kinh, cung
tiến vua cha và hoàng hậu.
Dân
chúng trong vùng vốn chăm chỉ, lại thấm nhuần sâu sắc ý thức ơn nghĩa,
nên vẫn duy trì đến mãi sau này hội tiến lụa có từ thời Mỵ Nương vậy.
Đám rước diễu hành theo thứ tự: Một người đầu mang nong ké, vừa đi vừa
múa hát. Theo sau là những cô gái óng ả mặc toàn đồ tơ lụa, tay cắp rổ
lá dâu, cũng vừa đi vừa múa hát. Thứ đến là một chiếc kiệu chất đầy lụa
quý, do16 chàng trai lực lưỡng ăn mặc đẹp đẽ, khiêng. Dân chúng theo
sau, vừa đi vừa reo hò để hôï tống.
Sự
tích, và nhất là công đức của Sơn Tinh Mỵ Nương đến nay vẫn còn được
lưu truyền và in rất đậm trong tâm thức dân gian của người Việt. Cả một
vùng truyền thuyết rộng lớn với nhiều nghi lẽ hội hè đã nhắc lại quá khứ
vinh quang của hai ông bà. Ngoài danh vị ” Thánh bất tử”, hai ông bà
còn được tôn xưng là “Đệ nhất danh sư” trong “Bách nghệ tổ sư” của nước
Nam ta.
Cao
Biền là viên quan cai trị gian ngoa xảo quyệt, biết thiên văn địa lý
lại tinh thông tướng số. Khi vua Đường sai sang dẹp quân Nam chiếu rồi ở
lại làm Tiết độ sứ (866 – 874), y đã từng đi khắp nơi trong nước ta,
thấy chỗ nào “địa linh” là tìm cách yểm bùa để diệt “nhan kiệt”. Pháp
thuật của y là bắt một người con gái mười bảy tuổi chưa chồng, đem mổ
bụng vứt ruột đi, rồi lấy cỏ bấc nhồi vào, đoạn, mặc quần áo cho tử thi,
đặt ngồi trên ngai. Y đem các thứ đó đến huyệt định yểm, rồi tế bằng
trâu bò và đọc thần chú. Hễ khi thấy tử thi động đậy, tức là thần linh ở
đấy đã nhập vào tử thi, là y dùng kiếm chém đầu để diệt, tức là đã trừ
yểm xong.
Khi
đến chân núi Đức Thánh Tản Viên – Đức Thánh Gióng cũng làm như thế, vì
biết ở đây có vị thánh bất tử linh thiêng vào bậc nhất của nước Nam.
Nhưng khi tế lễ, đọc thần chú, bắt quyết … Biền thấy tử thi cứ trơ trơ
ra chẳng cử động gì.
Đấy
chính lúc Thanh Tản Viên cưỡi ngựa trắng ngồi trên mây bay ngang qua,
nhìn thấy. Để tỏ ý khinh bỉ trò khôi hài của Biền, Ngài bèn nhổ xuống
một bãi nước bọt, rồi bỏ đi, không thèm nói năng.
Cao
Biền thấy vậy cả sợ, bèn dẹp ngay trò quỷ thuật lại, rồi than rằng:
“Linh khí phương Nam không thể lường được. Vượng khí ở đây không bao giờ
dứt. Ta phải về thôi”. Về sau, quả nhiên Cao Biền được lệnh phải triệu
hồi về nước, rồi chết sau đó mấy tháng. (Nguồn Tâm học)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét